HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ KIM THÀNH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ
TRONG ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG
CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2021
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ KIM THÀNH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ
TRONG ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG
CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 934 04 10
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS. NGUYỄN NGỌC TOÀN
2. PGS, TS. ĐINH THỊ NGA
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phạm Thị Kim Thành
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG ....................... 13 1.1. Nghiên cứu các nội dung liên quan đến hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông ......................................................... 13 1.2. Nghiên cứu quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông .................................................................... 22 1.3. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................... 31
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CẤP TỈNH VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG .................................................................................................. 34 2.1. Hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông ................. 34 2.2. Quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông ...................................................................................... 43 2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về hợp tác công tư ở một số tỉnh, thành phố ở nước ta và bài học rút ra ........................................... 73
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ CÁC CÔNG TRÌNH KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................................................................. 80
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội ................................................................ 80 3.2. Khái quát về các dự án hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2008-2020 .............. 84 3.3. Thực trạng quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội ....................................... 95 3.4. Phân tích định lượng mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến thành công và tiêu chí đánh giá thành công của hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội ........ 112 3.5. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội ........................... 124
Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI..................................................... 132
4.1. Dự báo phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội tới năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ....................................................................... 132 4.2. Phương hướng quản lý nhà nước về hợp tác công tư để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ............................................................. 139 4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông Thành phố Hà Nội ........................ 140 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 155 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................... 158 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 159 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 1
Phụ lục 1. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HỢP TÁC CÔNG TƢ ........................................................................................................... 1
Phụ lục 2. CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN HỢP TÁC CÔNG TƢ CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................................................... 5 Phụ lục 3. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐỊNH LƢỢNG ............................................. 7 Phụ lục 4. PHIẾU KHẢO SÁT .................................................................... 33
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Từ tiếng Việt
Chữ viết tắt Nội dung viết tắt
BCNCKT Báo cáo nghiên cứu khả thi
CQNNCTQ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Chủ trương đầu tư CTĐT
Giải phóng mặt bằng GPMB
Nhà đầu tư NĐT
Ngân sách nhà nước NSNN
Quản lý nhà nước QLNN
Tổng mức đầu tư TMĐT
Ủy ban nhân dân UBND
2. Từ tiếng Anh
Nội dung viết tắt Chữ
Tiếng Anh Tiếng Việt viết tắt
BOT Build - Operation - Transfer Hợp đồng Xây dựng - Kinh
doanh - Chuyển giao
BT Build - Transfer Hợp đồng Xây dựng -
Chuyển giao
CFA Confirmatory factor analysis Phân tích nhân tố khẳng định
CSF Critical Success Factor Các nhân tố ảnh hưởng đến
thành công
EFA Exploratory factor analysis Phân tích nhân tố khám phá
ODA Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức
PPP Public Private Partnership Hợp tác công tư
SEM Structural Equation Model Mô hình cấu trúc tuyến tính
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Các tiêu chí đánh giá thành công của dự án hợp tác công tư ......... 61
Bảng 2.2: Các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án hợp tác công tư .. 65
Bảng 3.1: Thống kê các dự án hợp tác công tư của Thành phố Hà Nội (Số
liệu cập nhật ngày 01/8/2020). .......................................................... 85
Bảng 3.2: Thống kê các dự án giao thông của Thành phố Hà Nội giai đoạn
2016-2020 ......................................................................................... 86
Bảng 3.3: Danh mục các dự án đường sắt đô thị thực hiện theo hình thức
hợp đồng - chuyển giao ..................................................................... 87
Bảng 3.4: Thống kê thời gian thực hiện của các dự án PPP giao thông đã
đang tổ chức triển khai thực hiện ...................................................... 88
Bảng 3.5: Tỷ lệ diện tích đất dành cho giao thông qua các năm của Hà Nội . 97
Bảng 3.6: Quy định vể thẩm định năng lực tài chính các nhà đầu tư tham
gia dự án hợp tác công tư ................................................................ 108
Bảng 3.7: Giả thuyết nghiên cứu ................................................................... 114
Bảng 3.8: Kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha ......................... 116
Bảng 3.10: Ma trận đặc trưng của các nhân tố (Pattern Matrix) .................. 117
Bảng 3.11: Kết quả kiểm định quan hệ giữa các khái niệm trong phân
tích CFA ......................................................................................... 119
Bảng 3.12: Bảng kết quả kiểm định tính hội tụ, tính phân biệt và sự tin cậy
trong phân tích CFA........................................................................ 120
Bảng 3.13: Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm
trong mô hình SEM ......................................................................... 121
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1 : Quy trình nghiên cứu quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong
đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố
Hà Nội. ................................................................................................ 6
Hình 1.1: Khung phân tích quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong
đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội. ............... 33
Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa các nhân tố thành công
và thành công của dự án hợp tác công tư ........................................ 113
Hình 3.2: Kết quả phân tích mô hình SEM ................................................... 122
Hình 4.1. Bản đồ quy hoạch giao thông Thành phố Hà Nội ......................... 139
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ ở Việt Nam
nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng. Ở Hà Nội, những năm qua đã hình
thành nhiều khu đô thị mới hiện đại, tốc độ dân số cơ học tăng cao tạo áp lực
lớn về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Mặc dù đã được quan tâm đầu tư,
nhưng nguồn lực hạn chế nên việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ
tầng giao thông còn chưa đồng bộ và tương xứng với quá trình đô thị hóa. Hệ
thống đường giao thông đô thị ở Hà Nội trong những năm qua luôn trong tình
trạng quá tải, ách tắc, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và
đô thị của thành phố.
Theo Quy hoạch giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm
nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
519/QĐ-TTg ngày 31/3/2016, dự kiến nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện các dự án
giao thông giai đoạn 2016-2020 là 476.569 tỷ đồng, giai đoạn 2020-2030 là
554.709 tỷ đồng [28, tr.11]. Nhu cầu về vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông của Thành phố Hà Nội là rất lớn. Trong khi đó, nguồn vốn ngân sách
nhà nước (NSNN) cho các dự án kết cấu hạ tầng đô thị giai đoạn 2016-2020 của
Thành phố Hà Nội chỉ đạt 42.151 tỷ đồng [16, tr.2], phần còn lại là huy động từ
PPP, ODA... Bên cạnh đó, khả năng huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) và vốn vay ưu đãi đã giảm khi Việt Nam bước vào ngưỡng quốc gia có
mức thu nhập trung bình và trần nợ công bị khống chế. Việc tìm kiếm những
nguồn vốn khác để đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông là
nhiệm vụ cấp thiết của các cấp chính quyền hiện nay. Do vậy, Thành phố Hà
Nội đã có chủ trương huy động các nguồn lực xã hội trong đầu tư xây dựng và
phát triển hệ thống hạ tầng giao thông theo hình thức hợp tác công tư.
Hợp tác công tư (PPP) là một phương thức sử dụng phổ biến trên thế
giới để giúp nhà nước huy động sự tham gia của các nguồn vốn khu vực kinh tế
tư nhân vào việc đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng. Ở Việt Nam, từ những
2
năm 1990, chủ trương hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân vào việc tài trợ và
quản lý cơ sở hạ tầng đã được đề cập trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ năm 1991. Thông qua đầu tư theo hình
thức PPP, các địa phương đã thu hút được vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào
các dự án kết cấu hạ tầng giao thông trong bối cảnh nhu cầu đầu tư lớn, nguồn
vốn ngân sách và các nguồn có tính chất ngân sách chỉ đáp ứng một phần khá
khiêm tốn, đã đem lại hiệu quả tích cực về phát triển kinh tế - xã hội. Hình
thức đầu tư PPP cũng đã tận dụng được công nghệ, năng lực quản lý của các
nhà đầu tư (NĐT) tư nhân, không phải bố trí bộ máy trực tiếp quản lý điều
hành thực hiện dự án, rút ngắn được thời gian thực hiện một số công việc
trong quá trình triển khai đầu tư (lựa chọn nhà thầu thực hiện các gói thầu dự
án, giải phóng mặt bằng (GPMB), thanh toán chi phí…). Trong bối cảnh khả
năng cân đối ngân sách để đầu tư các công trình giao thông bị hạn hẹp, nguồn
vốn ODA và vốn vay bị thu hẹp, áp dụng hình thức PPP để phát triển hệ
thống hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội là một lựa chọn cần được
quan tâm thực hiện.
Là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của cả nước, Thành
phố Hà Nội đã sớm quan tâm và ứng dụng hình thức PPP để phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng, trong đó có kết cấu hạ tầng giao thông. Lãnh đạo
thành phố đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp quản ý nhà nước
(QLNN) nhằm thúc đẩy PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông trên địa
bàn. Cho đến nay, Hà Nội đã hoàn thành một số công trình kết cấu hạ tầng
giao thông, một số tuyến đường đô thị sử dụng PPP (Cầu Chui - Long Biên,
đường Tố Hữu, Vành đai 2 đoạn Vĩnh Tuy - Ngã Tư Sở…) bước đầu giúp
giảm tải áp lực giao thông, góp phần nâng cao năng lực kết cấu hạ tầng giao
thông của Thủ đô. Để đạt được những kết quả ban đầu như trên, công tác
QLNN của Thành phố Hà Nội đối với hình thức PPP trong đầu tư kết cấu hạ
tầng giao thông đã được quan tâm từng bước cập nhập theo hướng phù hợp
với nền kinh tế thị trường, chủ trương của Đảng và Chính phủ và tiếp thu
các kinh nghiệm trong và ngoài nước. Mặc dù vậy, hoạt động QLNN của
3
Thành phố Hà Nội đối với hình thức PPP trong đầu tư các công trình kết cấu
hạ tầng giao thông còn tồn tại nhiều bất cập, còn nhiều lúng túng; chưa phát
huy được tính ưu việt của hình thức đầu tư này cũng như chưa giải quyết hài
hòa được mối quan hệ lợi ích giữa khu vực công, khu vực tư nhân và người
thụ hưởng dịch vụ sau đầu tư. Từ đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết cần một nghiên
cứu phân tích thực trạng quản lý nhà nước về PPP trong đầu tư các công
trình giao thông của Thành phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp hoàn thiện
hoạt động quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy thực hiện thành công các dự án
PPP giao thông của thành phố.
Hiện nay, các công trình nghiên cứu về đầu tư theo hình thức PPP đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm, nội dung nghiên cứu tập trung phân tích
cơ chế chính sách, huy động và quản lý hiệu quả các dự án PPP, hoạt động
quản lý nhà nước về PPP ở cấp độ quốc gia. Mặc dù vậy, chưa có nghiên cứu
đánh giá khách quan và nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
QLNN về đầu tư các công trình kết cấu giao thông theo hình thức PPP ở một
địa phương cụ thể - Thành phố Hà Nội. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu của
luận án “Quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng
giao thông của Thành phố Hà Nội” là rất cấp thiết, cả về mặt lý thuyết lẫn
thực tiễn, nhất là trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội, đô thị hóa nhanh
đang diễn ra ở Việt Nam nói chung và ở Thành phố Hà Nội nói riêng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xây dựng khung lý thuyết về QLNN cấp chính quyền địa
phương về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, luận án tập trung
khảo sát đánh giá thực tiễn nội dung QLNN đối với hình thức PPP trong đầu
tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội. Kết hợp với kết quả
phân tích định lượng xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự
án PPP giao thông của Hà Nội, luận án đề xuất phương hướng và các giải
pháp hoàn thiện QLNN về PPP trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới.
4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên đây, luận án tập trung
thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây:
- Tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án để
khẳng định những vấn đề đã được giải quyết, những vấn đề còn chưa được
làm rõ. Dưới góc độ tiếp cận của QLNN về kinh tế, luận án chỉ ra những vấn
đề cần tập trung giải quyết.
- Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận QLNN đối với hình thức PPP
trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông và phân tích, rút ra bài học cho
Thành phố Hà Nội từ kinh nghiệm một số tỉnh thành phố trong thực hiện
PPP để đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông.
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với hình thức PPP trong
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, xác định các nhân tố ảnh hưởng
đến thành công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội, rút ra
những kết quả đạt được, những hạn chế và phân tích nguyên nhân của những
hạn chế trong QLNN đối với hình thức PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng
giao thông của Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hình thức PPP
trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội để đáp ứng
yêu cầu phát triển của thành phố.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về QLNN về hợp tác công tư trong đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao
thông của Thành phố Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận án nghiên cứu QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu
hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội bao gồm: xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển các dự án giao thông theo hình thức PPP, lựa chọn dự án
PPP giao thông phù hợp, tổ chức thẩm định dự án PPP, tổ chức lựa chọn
5
NĐT, và tổ chức quản lý và thực hiện hợp đồng dự án PPP. Các dự án PPP
giao thông của Thành phố Hà Nội là các dự án do UBND Thành phố Hà Nội
được phân cấp QLNN về đầu tư.
Đồng thời, luận án cũng tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
đến thành công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội.
- Về không gian: luận án nghiên cứu quản lý nhà nước về PPP đối với
đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội mà Thành
phố Hà Nội được phân cấp quản lý về đầu tư theo hình thức PPP.
- Về thời gian: luận án nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về PPP
đối với đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội từ khi điều
chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội năm 2008 đến năm 2020 và đề
xuất giải pháp đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp cả cách tiếp cận phân tích định tính và phân
tích định lượng thông qua điều tra, phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính
SEM (structural equation modelling).
Phân tích định tính được sử dụng để nghiên cứu nội dung QLNN về
PPP đối với các dự án kết cấu hạ tầng giao thông ở cấp chính quyền tỉnh,
thành phố. Trên cơ sở tổng quan các tài liệu nghiên cứu, luận án tổng hợp các
nhân tố ảnh hưởng đến thành công và các tiêu chí đánh giá thành công của dự
án PPP.
Nghiên cứu điều tra khảo sát hoạt động QLNN về PPP của Thành phố
Hà Nội, luận án tập trung phân tích định lượng mối quan hệ giữa tiêu chí
thành công và các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công của dự án PPP nhằm
xác định rõ các nhân tố chủ yếu cần quan tâm tập trung thực hiện để hoàn
thiện công tác QLNN về PPP. Mô hình SEM cho phép kiểm định một tập hợp
phương trình hồi quy cùng một lúc, qua đó kiểm tra mối quan hệ phức hợp
trong mô hình: các mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm tiềm ẩn, các mối
quan hệ ổn định và không ổn định. Phối hợp với kỹ thuật phân tích nhân tố
6
khẳng định CFA, mô hình SEM cho phép linh động tìm kiếm mô hình phù
hợp nhất trong các mô hình đề nghị.
Trên cơ sở cách tiếp cận nghiên cứu trên, luận án nghiên cứu đề xuất
các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với PPP trong đầu tư các dự án kết cấu hạ
tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, quy trình nghiên cứu của
- Nội dung QLNN đối với các dự án kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP
- Các tiêu chí đánh giá sự thành
công của các dự án PPP
Nghiên cứu tài liệu trong và ngoài nước
- Các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của các dự án PPP
Phỏng vấn các chuyên gia, cán bộ QLNN có kinh nghiệm về PPP giao thông
Đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác QLNN đối với các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội
- Phân tích thực trạng các dự án PPP giao thông của thành phố Hà Nội.
- Phân tích thực trạng QLNN về PPP các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
Điều tra bằng phiếu khảo sát đối với các cá nhân, tổ chức có kinh nghiệm về PPP giao thông
- Phân tích, kiểm định và xác định các nhân tố chính ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội
luận án được tiến hành theo các bước cụ thể như sau:
Hình 1 : Quy trình nghiên cứu quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ trong
Nguồn: Tác giả xây dựng và tổng hợp
đầu tƣ các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
7
4.2. Phương pháp thu thập dữ liệu * Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp Nghiên cứu được bắt đầu bằng việc hệ thống và tìm ra những khoảng trống lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa các nhân tố tác động và nội dung QLNN của chính quyền cấp tỉnh đối với PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông. Trong đó, các nhóm nhân tố được sắp xếp và lý giải một cách hợp lý và khoa học nhằm phù hợp với hoạt động QLNN về PPP giao thông. Các tài liệu thu thập chủ yếu là các tài liệu, công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã được công bố liên quan đến PPP và QLNN đối với PPP, bao gồm các bài báo khoa học, báo cáo hội thảo, các hội thảo khoa học, sách, luận án tiến sĩ, chính sách, quy định, văn bản pháp luật liên quan đến PPP của các quốc gia trên thế giới và của Việt Nam. Các từ khóa tìm kiếm chủ yếu là: PPP, PPP governance, PPP practice, PPP transportation, Critical Success Factors of PPP, PPP success criteria… Trên cơ sở đó, tác giả thống kê, so sánh, tổng hợp, xác định các nội dung đã được thống nhất, các nội dung chưa được thống nhất, khoảng trống nghiên cứu về PPP và QLNN về PPP để luận án có thể bổ sung, đóng góp.
Ngoài ra, dữ liệu thứ cấp từ niên giám thống kê, báo cáo và tổng hợp số liệu của các cơ quan QLNN và các tổ chức, báo cáo tiến độ của từng dự án PPP giao thông Hà Nội, kết quả nghiên cứu từ các nghiên cứu đi trước góp phần cung cấp thông tin để đánh giá thực trạng QLNN về PPP giao thông của Thành phố Hà Nội.
* Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp Dữ liệu sơ cấp của luận án được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn
chuyên gia và điều tra bằng phiếu khảo sát.
- Phỏng vấn chuyên gia Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phương pháp phỏng vấn sâu các chuyên gia (các cá nhân tổ chức tham gia trực tiếp hoặc đã nghiên cứu về PPP). Kết quả phỏng vấn sâu giúp điều chỉnh lại mô hình phân tích định lượng, thang đo và khám phá nhân tố mới.
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan, tác giả luận án xây dựng sơ bộ mô hình nghiên cứu lý thuyết, thang đo các tiêu chí đánh giá thành công của các dự án PPP, các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công của PPP. Để phù hợp hơn
8
với bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam cũng như phù hợp với môi trường đầu tư của các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội, tác giả thực hiện phỏng vấn 30 chuyên gia. Nội dung phỏng vấn là các tiêu chí đánh giá thành công của một dự án PPP giao thông đô thị và các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công của một dự án PPP giao thông, thực trạng QLNN về PPP và đề xuất hoàn thiện QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội. Kết quả phỏng vấn giúp tác giả hoàn thiện phiếu khảo sát và nhận thức rõ hơn về tình hình thực trạng các dự án và công tác QLNN đối với các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội.
Đối tượng phỏng vấn là 30 chuyên gia bao gồm 17 cán bộ QLNN về PPP thuộc cơ quan trung ương và các sở, ban, ngành Thành phố Hà Nội, 05 nhà nghiên cứu thuộc các trường đại học, 05 NĐT tham gia PPP, 03 tổ chức tín dụng cho PPP. Đối tượng phỏng vấn có kinh nghiệm tham gia vào các dự án PPP từ các góc nhìn và nội dung công việc khác nhau, giúp tác giả hoàn chỉnh phiếu khảo sát và hoàn thiện nội dung nghiên cứu của luận án.
- Điều tra bằng phiếu khảo sát Mục đích của điều tra, khảo sát nhằm thu thập, đánh giá, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công của PPP, qua đó đưa ra các đề xuất để hoàn thiện công tác QLNN về PPP giao thông của Thành phố Hà Nội.
Phiếu khảo sát gồm 3 phần. Phần A bao gồm 06 câu hỏi liên quan đến đánh giá mức độ quan trọng của các tiêu chí thành công của dự án, được xây dựng theo thang đo Likert 5 điểm từ 1= hoàn toàn không đồng ý đến 5= Hoàn toàn đồng ý. Phần B bao gồm 4 phần với 24 câu hỏi, đánh giá mức độ quan trọng của từng nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án (CSFs), được xây dựng theo thang đo Likert 5 điểm từ 1= hoàn toàn không quan trọng đến 5= cực kỳ quan trọng. Phần C là thông tin của người được khảo sát.
Đối tượng khảo sát: thực hiện theo phương pháp lấy mẫu có mục đích (Purposive Sampling Method), chỉ chọn ra những cá thể trong quần thể phù hợp nhất với mục đích nghiên cứu. Đối với nghiên cứu này, đối tượng khảo sát phải là người có am hiểu và kinh nghiệm về PPP, đáp ứng hai điều kiện:
+ Có hiểu biết và quan tâm đến hoạt động của các dự án thực hiện theo
phương thức PPP.
9
+ Đã từng tham gia trực tiếp ít nhất 01 dự án PPP hoặc có kinh nghiệm
nghiên cứu về PPP.
Do vậy, đối tượng khảo sát bao gồm các cá nhân làm việc tại Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông Thành phố Hà Nội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài chính, UBND các quận huyện, các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng và các nhà nghiên cứu về PPP.
Cách thức khảo sát: Phiếu khảo sát được gửi đến các đối tượng khảo sát bằng nhiều phương thức như: liên hệ trực tiếp, gửi email, google docs link https://docs.google.com/forms/d/1T1XuI0Cam5w5T68eYOMN5MkH5V0Aq rYzEblcDYemcCU/edit. Kết quả, số phiếu thu được là: 178 phiếu, trong đó có 38,20% (68/178) là cán bộ công chức của cơ quan nhà nước; 20,79% (37/178) là nhà đầu tư; 27,53% (49/178) là nhà nghiên cứu, và 13,48% (24/178) là tổ chức tín dụng.
4.3. Phương pháp phân tích số liệu * Phương pháp phân tích định tính - Phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu trong và ngoài nước như tạp chí, báo cáo khoa học, sách chuyên khảo, luận án, các thông tin trên internet về lý luận, thực tiễn về PPP và hoạt động QLNN về PPP đối với các dự án kết cấu hạ tầng giao thông. Trên cơ sở tổng hợp các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, tác giả đánh giá các nội dung đã thống nhất và chưa thống nhất, từ đó đưa ra định hướng nghiên cứu của luận án.
- Phương pháp phân tích thống kê: Tổng hợp các số liệu, thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu, từ đó nắm bắt được thực trạng QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội; những kết quả và những bất cập trong thu hút nguồn lực khu vực tư nhân làm cơ sở để đối chứng, phân tích và đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hình thức đối tác công-tư trong đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
- Phương pháp so sánh: So sánh chủ trương, phương thức tổ chức thực
hiện và thực trạng tổ chức QLNN của Thành phố Hà Nội với các địa phương
khác trong QLNN về PPP các công trình kết cấu hạ tầng giao thông. Từ đó
10
đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác QLNN về PPP trong đầu tư các
công trình giao thông của Thành phố Hà Nội.
* Phương pháp phân tích định lượng
Bên cạnh phân tích định tính, luận án sử dụng phân tích định lượng với
kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích nhân
tố khẳng định CFA và phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM nhằm phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP, để từ đó có giải
pháp quản lý, can thiệp đạt kết quả cao nhất.
Kích thước mẫu trong nghiên cứu định lượng được xác định theo Hair và
cộng sự (1998) [59]. Với phân tích nhân tố khám phá EFA, cỡ mẫu phải tối
thiểu gấp 5 lần tổng số biến quan sát, bảng hỏi trong nghiên cứu này gồm 30
biến quan sát dùng cho phân tích nhân tố, do đó, cỡ mẫu tối thiểu là 30 x 5 =
150. Với hồi quy bội, theo Tabachnick và Fidell (2013) [94], cỡ mẫu tối
thiểu phải là 50 + 8 x m (m là số biến độc lập), trong nghiên cứu này là 5
biến độc lập, do đó, cỡ mẫu tối thiểu là 90. Như vậy, cỡ mẫu nghiên cứu này
là 178 đảm bảo yêu cầu về kích thước tối thiểu.
Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được sử dụng rộng rãi trong nghiên
cứu và thực hành, giúp kiểm định cùng môt lúc một loạt các mối quan hệ lý
thuyết giữa các khái niệm, các biến có thể là tiềm ẩn hoặc biến quan sát, đồng
thời phân tích sai số đo lường trong cùng một mô hình. So với các phương
pháp truyền thống như hồi quy đa biến, việc sử dụng mô hình SEM là có lợi
thế hơn vì nó có thể tính được sai số đo lường. Trong nghiên cứu này, các biến
phụ thuộc là các tiêu chí đánh giá thành công của dự án PPP, các biến độc lập
là các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP. Các biến trong mô
hình nghiên cứu được xây dựng trên cơ sở kế thừa kết quả của các nghiên cứu
trước đây. Để tiến hành kiểm định mô hình SEM, các biến quan sát được đánh
giá theo thang đo Likert 5 mức độ, kiểm định độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s
Alpha, đánh giá giá trị hội tụ và giá trị phân biệt qua phân tích nhân tố khám
phá (exploratory factor analysis - EFA), kiểm định tính đại diện của các biến
quan sát đối với các nhân tố qua phân tích nhân tố khẳng định (confirmatory
factor analysis - CFA).
11
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận: Luận án đã hệ thống hóa và bổ sung cơ sở lý luận, từ đó đóng góp vào hệ thống các nghiên cứu về QLNN trong hợp tác công tư để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước, luận án đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, xây dựng khung phân tích quản lý nhà nước về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông ở cấp chính quyền địa phương.
Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về PPP các công trình giao thông của Thành phố Hà Nội, kết quả định lượng xác định các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP, cùng phân tích bối cảnh thực tế và các dự báo phát triển kinh tế xã hội, luận án đã cung cấp những luận cứ khoa học và thực tiễn để đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện công tác QLNN đối với PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội phù hợp với bối cảnh hiện nay và trong thời gian tiếp theo.
6. Những đóng góp mới của luận án Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa và bổ sung cơ sở lý luận, từ đó đóng góp vào hệ thống các nghiên cứu về QLNN về PPP trong đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông. Luận án đã xác định các tiêu chí đánh giá thành công của dự án PPP, các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP, và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đối với trường hợp các dự án giao thông của Thành phố Hà Nội.
Thứ hai, nghiên cứu áp dụng mô hình cấu trúc tuyến tính (structural equation modelling - SEM) như một cách tiếp cận mới để kiểm định sự phù hợp của mô hình nhằm đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP giao thông. Hiện nay, đã có một số nghiên cứu sử dụng mô hình SEM xác định các nhân tố thành công đối với dự án đầu tư công, tuy nhiên sử dụng mô hình SEM trong PPP là một nội dung mới. Trên cơ sở kế thừa các biến đã được khẳng định ở các nghiên cứu trước, nghiên cứu này đề xuất bổ sung các biến mới và các nhân tố mới nhằm tăng khả năng giải thích đối với đối tượng nghiên cứu. Do đó, nghiên cứu sẽ có những kết quả mới, đóng góp vào các lý luận nghiên cứu về PPP và QLNN về PPP.
12
Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng các dự án đầu tư PPP giao thông của Thành phố Hà Nội, đánh giá hoạt động QLNN về hợp tác công tư trong đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2008-2020, kết hợp với kết quả phân tích mô hình SEM, luận án xác định các thành tựu đạt được, các hạn chế, nguyên nhân. Qua đó đề xuất các nhóm giải pháp để hoàn thiện QLNN về hợp tác công tư trong đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội, đó là: hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển; hoàn thiện thể chế, chính sách QLNN về hợp tác công tư trong đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị; hoàn thiện bộ máy QLNN về hợp tác công tư trong đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về PPP trong xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội; quan tâm đẩy mạnh công khai các thông tin của dự án hợp tác công tư; xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra và thanh tra; nâng cao chất lượng lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ đề xuất và báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp tác công tư; và nâng cao chất lượng lựa chọn nhà đầu tư dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp tác công tư.
7. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 14 tiết.
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu quản lý nhà nước về hợp tác công tư
trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông.
Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quản lý nhà nước cấp tỉnh về
hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông.
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu
tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
13
Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG
GIAO THÔNG
1.1. NGHIÊN CỨU CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN HỢP TÁC CÔNG
TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG
Hợp tác công tư đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài trên thế
giới và trở nên phổ biến từ những năm 1990. Trong những năm qua, các
nghiên cứu liên quan đến PPP đã được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước nghiên cứu với nội dung phong phú, đa dạng, bao gồm cả các nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu đã được công bố dưới
nhiều hình thức khác nhau, có thể kể đến một số kết quả nghiên cứu như sau:
1.1.1. Các nghiên cứu chung về hợp tác công tƣ
Tổng quan kết quả các nghiên cứu chung về PPP cho thấy khái niệm về
PPP được định nghĩa dưới nhiều khía cạnh, có nhiều phiên bản khác nhau, tùy
theo bối cảnh của từng quốc gia. Hội đồng quốc gia về đối tác Công - Tư Hoa
Kỳ định nghĩa PPP là một thỏa thuận hợp đồng giữa một cơ quan nhà nước và
NĐT tư nhân, qua đó chia sẻ các nguồn lực và rủi ro, hướng đến mục tiêu phát
triển cơ sở hạ tầng công cộng và/hoặc cung cấp dịch vụ công. Theo Hội đồng
Quan hệ đối tác Công - Tư Canada (2004), PPP là một sự hợp tác giữa công
chúng và tư nhân, được tạo dựng trên cơ sở chuyên môn của mỗi đối tác thông
qua phân bổ nguồn lực, rủi ro và lợi nhuận, với mục tiêu đáp ứng tốt nhất nhu
cầu công cộng [49, tr.6]. Ngân hàng thế giới khẳng định PPP là việc chuyển
giao cho khu vực tư nhân các dự án đầu tư mà theo truyền thống do nhà nước
đầu tư và vận hành, bao gồm việc cùng hợp tác vận hành giữa nhà nước và khu
vực tư nhân. Theo đó, NĐT nhận trách nhiệm cung cấp dịch vụ thông qua đầu
tư dự án; rủi ro liên quan đến dự án sẽ được chuyển giao một phần từ khu vực
nhà nước sang khu vực tư nhân [12, tr.97]. Ngân hàng phát triển châu Á (2012)
định nghĩa: Quan hệ PPP được hiểu là một cơ chế hợp đồng giữa các đơn vị
14
công (cấp quốc gia, bang, tỉnh, hoặc địa phương) với các đơn vị thuộc khu vực
tư nhân, qua đó các kỹ năng, tài sản và/hoặc nguồn lực tài chính của mỗi bên
trong khu vực công và tư nhân được phân bổ theo cách bổ sung cho nhau, rủi
ro và lợi ích được chia sẻ, nhằm cung cấp dịch vụ công tối ưu và giá trị tốt đẹp
cho công dân [13, tr.2]. Theo Kappleler và Nemoz (2010), PPP bao gồm mối
quan hệ đối tác lâu dài giữa đối tác công và tư; các nội dung chính của dự án
PPP bao gồm “thiết kế, xây dựng, vận hành hoặc/và bảo trì”, gắn liền với
nguồn tài chính từ đối tác tư nhân; đối tác công trả công cho đối tác tư trong
suốt vòng đời của dự án PPP, căn cứ vào chất lượng dịch vụ cung cấp [66, tr.4].
Theo nhóm học giả Mai Thị Thu và cộng sự (2013) PPP là một hình thức hợp
tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, nhằm tích hợp được những điểm
mạnh/lợi thế nhất của cả hai khu vực này trong việc thực hiện một dự án nào
đó. Trong giai đoạn đầu mới xuất hiện, PPP chủ yếu hướng đến các dự án phát
triển cơ sở hạ tầng, hiện nay mở rộng hơn sang các lĩnh vực khác như y tế, giáo
dục… [29, tr.210]. Các nghiên cứu này, với cách diễn giải khác nhau, nhưng
đều tựu chung định nghĩa PPP là phương thức đầu tư trên cơ sở hợp tác giữa
nhà nước và nhà đầu tư tư nhân dưới hình thức hợp đồng để thực hiện đầu tư
xây dựng một dự án cơ sở hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công cho cộng đồng,
trong đó có sự chia sẻ trách nhiệm, lợi ích và rủi ro giữa các bên.
Nghiên cứu về PPP còn có những nghiên cứu về vai trò, lợi ích và ưu
điểm mà PPP mang lại để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Theo nhà nghiên
cứu của Delmon (2010), có ba tác động chính thúc đẩy khu vực công quan tâm
đến đầu tư theo hình thức PPP: (i) các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật kém
hiệu quả được đầu tư từ nguồn vốn NSNN thường liên quan đến việc xác định
cơ cấu vốn không rõ ràng hoặc phương thức mua sắm không minh bạch, (ii)
khu vực Nhà nước còn hạn chế về nguồn lực về kỹ thuật và khả năng quản lý,
và (iii) nhu cầu đầu tư vượt xa so với khả năng nguồn lực của Nhà nước, đặc
biệt là các chi phí đầu tư trực tiếp các công trình đầu tư cơ sở hạ tầng lớn, có
các yêu cầu về bảo trì định kỳ [55, tr.13]. Theo Ngân hàng phát triển châu Á
(2012), sự tham gia của khu vực tư nhân vào các dự án kết cấu hạ tầng đem lại
15
tiềm năng nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ sự đầu tư vào công nghệ mới, đem
lại các giải pháp sáng tạo, và được khuyến khích áp dụng các cơ cấu tổ chức
minh bạch hơn. Đầu tư theo hình thức PPP sẽ đem lại các lợi ích đáng kể trong
hình thành tài sản và cung cấp các dịch vụ công như: nâng cao hiệu suất sử
dụng nguồn lực, cải thiện chất lượng tài sản và dịch vụ, hoàn thiện năng lực
quản lý và quy trình đầu tư của khu vực công [13, tr.6-7]. Trong lĩnh vực phát
triển cơ sở hạ tầng, triển khai mô hình PPP sẽ giúp chính phủ thu hút vốn đầu
tư tư nhân, tăng năng suất và tính hiệu quả của các nguồn lực có sẵn, đồng thời
hài hòa trách nhiệm và lợi ích giữa các đối tác thông qua việc phân bổ vai trò,
động lực và trách nhiệm[14, tr.76]. Như vậy, bên cạnh huy động nguồn lực tài
chính, hợp tác công tư giúp thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân cùng với
thế mạnh về khoa học công nghệ tiên tiến và năng lực quản lý của mình cùng
khu vực nhà nước trong đầu tư hoàn thiện và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
và cung cấp dịch vụ công.
1.1.2. Các nghiên cứu về rủi ro của dự án hợp tác công tƣ
Các rủi ro của dự án PPP dẫn đến nguy cơ tăng chi phí, giảm doanh
thu, hoặc trì hoãn thanh toán. Những rủi ro phổ biến nhất khi xây dựng các dự
án PPP là rủi ro do nhu cầu biến động, rủi ro do tỷ giá và biến động giá, rủi ro
gắn với bản thân các chủ thể liên quan tới dự án, rủi ro gắn với việc chuẩn bị,
tiếp nhận và vận hành các công trình do dự án PPP tạo ra, rủi ro do chưa đồng
nhất về nhận thức, quan niệm và kinh nghiệm về các nội dung đề cập trong hồ
sơ dự án PPP [29, tr.122]. Nghiên cứu của Delmon (2011) cũng chỉ ra các loại
rủi ro chủ yếu bao gồm: rủi ro chính trị, rủi ro pháp lý, rủi ro hoàn thành, rủi
ro hoạt động, rủi ro tài chính, rủi ro tỷ giá, rủi ro bao tiêu và rủi ro ảnh hưởng
đến môi trường và xã hội [55, tr.98. Ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư năm 2017, một số rủi ro thường gặp trong dự án PPP bao
gồm: rủi ro về mặt bằng; rủi ro về thiết kế, xây dựng và cung cấp dịch vụ; rủi
ro vận hành; rủi ro về nhu cầu và rủi ro thương mại khác; rủi ro chính trị và
pháp lý; rủi ro về vi phạm; rủi ro kinh tế hoặc tài chính và sự kiện bất khả
kháng [2]. Đối với các dự án PPP giao thông, rủi ro thường đến từ các yếu tố:
16
các vấn đề về mặt bằng, tổ chức thẩm định và phê duyệt, năng lực của đối tác
tư nhân, nghiên cứu khả thi thiếu tổng thể, thị trường tài chính, khung pháp lý
và ý chí thực hiện dự án của nhà nước. Trong đó, các dự án PPP giao thông
đường bộ có 8 loại rủi ro với 51 yếu tố rủi ro bao gồm: rủi ro chính trị và
chính sách; rủi ro pháp lý; rủi ro tài chính; rủi ro phát triển dự án; rủi ro trong
hoàn thành dự án; rủi ro quản lý vận hành dự án; rủi ro điều phối [21, tr.5].
Phân bổ rủi ro là sự phân phối cân bằng về trách nhiệm và rủi ro giữa
đối tác nhà nước và đối tác tư nhân để giảm thời gian và chi phí thỏa thuận hợp
đồng [67, tr.491]. Do vậy, phân bổ rủi ro được coi là chìa khóa để quản lý rủi
ro đối với các dự án PPP. Tùy tính chất của từng loại rủi ro mà xây dựng các
phương án phân bổ và chia sẻ cho đối tác phù hợp để giảm thiểu chi phí. Đối
với các rủi ro gắn liền với trách nhiệm cố hữu của Nhà nước để duy trì dịch
vụ, thì nhà nước không thể chuyển cho đối tác tư nhân [79, tr.14]. Theo kết
quả nghiên cứu các dự án PPP ở Trung Quốc, trong 37 rủi ro phổ biến của dự
án PPP có 01 rủi ro mà đối tác Nhà nước không thể chuyển giao cho đối tác tư
nhân, đó là rủi ro “sung công và quốc hữu hóa”; 12 rủi ro liên quan đến cán bộ
công chức phân bổ chủ yếu cho đối tác Nhà nước; 14 rủi ro yêu cầu sự phối
hợp cao được phân bổ đều cho hai bên đối tác; 10 rủi ro liên quan đến cấp độ
dự án được phân bổ chủ yếu cho đối tác tư nhân, không có rủi ro nào chỉ phân
bổ cho đối tác tư nhân [67, tr.487-491].
Cơ cấu phân bổ rủi ro tối ưu giữa các bên tham gia PPP đóng vai trò
cốt lõi để vận hành thành công dự án PPP. Nghiên cứu các dự án PPP ở
Malaysia chỉ ra 03 rào cản lớn nhất trong việc phân bổ rủi ro của dự án PPP
là sự khác nhau giữa các hệ thống thông tin về rủi ro dự án, thiếu cơ chế
phân bổ rủi ro hiệu quả và thiếu nhận thức về lợi ích của sự phân bổ rủi ro
tối ưu. Để đánh giá sự phân bổ rủi ro tối ưu, cần dựa trên 03 tiêu chí là sự
chịu đựng rủi ro ở mức chi phí thấp nhất, sự kiểm soát các nguy cơ xảy ra
rủi ro và quan điểm về rủi ro [100, tr.2028-2029]. Thực tế, theo kết quả điều
tra các dự án PPP đường bộ ở Anh của Ahadzi và Bowles (2004), sự phân
chia rủi ro không hợp lý đã khiến cho thời gian chuẩn bị đầu tư của 98% các
17
dự án PPP dài hơn các dự án khác khoảng 11-66% và chi phí đàm phán cũng
lớn hơn từ 25-200% [40, tr.971].
Các rủi ro cần được chuyển giao ở mức tối ưu, không phải tối đa.
SMEC (2011) đã xây dựng các nguyên tắc phân bổ rủi ro cho các dự án PPP
giao thông đường bộ là: phân bổ trách nhiệm và rủi ro cho bên đối tác có khả
năng quản lý tốt nhất các nhiệm vụ và rủi ro này; duy trì tính đơn giản và
minh bạch để bảo đảm có thể quản lý được các rủi ro; đối tác tư nhân yêu cầu
bù đắp cho rủi ro chuyển giao, mức bù đắp phụ thuộc vào chi phí tài trợ; phân
bổ rủi ro cho đối tác tư nhân với mức giá phù hợp [92, tr.97-116]. Phân bổ rủi
ro cho các dự án PPP giao thông đường bộ phải đảm bảo tính minh bạch. Với
nhiều trường hợp, Nhà nước có trách nhiệm giải quyết những rủi ro liên quan
tới cộng đồng, môi trường hoặc bảo lãnh vay vốn, chịu trách nhiệm với các
rủi ro nằm ngoài khả năng kiểm soát của khu vực tư nhân. Ngược lại, khu vực
tư nhân ưu việt hơn trong việc xử lý những rủi ro liên quan đến quản lý, sử
dụng đồng vốn… do vậy thường đảm nhận các rủi ro về lạm phát và tỷ giá,
tiến độ dự án kéo dài, vượt chi phí xây dựng…
Nghiên cứu cụ thể về rủi ro trong QLNN các dự án BOT giao thông
đường bộ ở Việt Nam, tác giả Lê Hương Linh (2018) chỉ ra có 3 rủi ro chính,
bao gồm: rủi ro định hướng QLNN về BOT đường bộ chưa rõ ràng; rủi ro
công cụ QLNN thiếu/chưa hoàn thiện, việc sử dụng công cụ QLNN chưa tốt;
và rủi ro QLNN tập trung vào một số đối tượng mà ít tính đến các bên liên
quan khác [10, tr.49].
Rủi ro là yếu tố tất yếu trong quá trình thực hiện dự án PPP để phát triển
cơ sở hạ tầng, do vậy chính quyền địa phương trước tiên phải quan tâm đến
nhận dạng rủi ro và phân loại, xếp hạng và đánh giá mức độ ảnh hướng của nó
đến các dự án PPP. Nghiên cứu quản lý rủi ro các dự án PPP giao thông của
thành phố Đà Nẵng, các nhà nghiên cứu đã đề xuất 03 kiến nghị với chính quyền
thành phố, bao gồm: nâng cao nhận thức về PPP và nhận dạng được các yếu tố
rủi ro và đánh giá được mức độ ảnh hưởng của nó đến PPP; xây dựng hệ thống
cơ sở dữ liệu về các yếu tố rủi ro và chú trọng hoạt động thu thập số liệu liên
quan đến yếu tố rủi ro để đảm bảo quản lý rủi ro được hiệu quả [32, tr.119].
18
1.1.3. Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hƣởng đến thành công của dự
án hợp tác công tƣ trong đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thành công (CSFs: Critical
Success Factors) của PPP là một chủ đề thu hút nhiều các nghiên cứu trên thế
giới về PPP. Tổng hợp các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến thành
công của PPP từ năm 1990 đến năm 2013, Osei-Kyei và Chan đã chỉ ra các
nhân tố chủ yếu là: sự phân bổ và chia sẻ rủi ro, năng lực của các NĐT tư
nhân, sự ủng hộ của nhà nước, sự ủng hộ của cộng đồng và tổ chức đấu thầu
minh bạch [80, tr.1342-1343].
Nghiên cứu về CSFs được nhiều trích dẫn nhất với 864 trích dẫn theo
Google Scholar (tính đến tháng 12 năm 2020) là nghiên cứu của Bing Li và
cộng sự (2005) thực hiện năm 2001 về các nhân tố thành công chủ yếu của các
dự án PPP ở Vương quốc Anh. Tác giả đã xác định 18 nhân tố thành công chủ
yếu của các dự án PPP [68, tr.462-466], bao gồm: điều kiện kinh tế vĩ mô ổn
định, khung pháp lý thuận lợi, chính sách kinh tế phù hợp, sự ủng hộ của Nhà
nước, sự đồng thuận và ủng hộ của cộng đồng dân cư, năng lực và tổ chức của
bộ máy nhà nước, quy trình đấu thầu cạnh tranh, công khai quá trình thực hiện
dự án, sự bảo đảm của Nhà nước, xác định hài hòa lợi ích của các bên, sự chia
sẻ và phân bổ rủi ro hợp lý, tuân thủ trách nhiệm cam kết công - tư, sự liên kết
mạnh mẽ trong khu vực tư nhân, quản trị tốt, tính khả thi về kỹ thuật của dự án,
sự phân quyền rõ ràng giữa hai đối tác công - tư, phân tích chi phí - lợi ích toàn
diện và thực tế, khả năng huy động vốn của thị trường tài chính. Danh mục 18
nhân tố ảnh hưởng đến thành công của PPP này đã được nhiều nghiên cứu sử
dụng để thực hiện nghiên cứu các dự án PPP ở nhiều quốc gia khác, như
Trung Quốc [51], Malaysia [63], Hongkong với Úc [52].
Ngoài ra có một số nghiên cứu khác như: Nghiên cứu của Zhang (2005)
chỉ ra 47 nhân tố, nhóm thành 05 nhóm nhân tố: môi trường đầu tư thuận lợi,
phân bổ rủi ro hợp lý thông qua thỏa thuận hợp đồng, sự phát triển kinh tế bền
vững, đối tác tư nhân tin cậy có thế mạnh về kỹ thuật, và cơ cấu tài chính dự
án phù hợp [111, tr.4-8]. Đồng thời, để thực hiện thành công dự án PPP, cần
19
quan tâm đến các nội dung: lập kế hoạch kỹ càng; ước tính chặt chẽ các chi
phí và nguồn thu; khả năng sẵn sàng chi trả của người sử dụng và kế hoạch
truyền thông tốt; nghiên cứu khả thi được triển khai kỹ càng có sự tham vấn ý
kiến chuyên gia về PPP; tuân thủ các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng;
khung pháp lý và thể chế phù hợp; cấu trúc tổ chức chặt chẽ với đầy đủ các
nguồn lực; quá trình đấu thầu cạnh tranh và minh bạch; và sự tinh giản và linh
hoạt trong quản trị các rủi ro vĩ mô (môi trường vĩ mô ổn định) [47, tr.22].
Đối với các nhân tố ảnh hưởng đến thành công từ phía Nhà nước,
Wibowo (2015) đã tổng hợp được năm nhân tố bao gồm: cơ sở pháp lý thuận
lợi, đảm bảo hợp đồng dự án không hủy ngang, chia sẻ rủi ro phù hợp và dễ
quản lý, sử dụng phương pháp phù hợp để xác định chuẩn xác nhu cầu PPP,
và sự hỗ trợ lớn từ nhà nước. Trong quá trình dự án PPP, phải đảm bảo thực
thi nghiêm túc các quy định pháp luật về quy hoạch không gian, đảm bảo sự
tích hợp giữa quy hoạch địa phương và quốc gia, hướng đến tính bền vững
của dự án [106, tr.128-131]. Nghiên cứu của Koen Verhoest cùng cộng sự
(2015) chỉ ra 03 (ba) nhóm nhân tố quan trọng của Nhà nước tác động đến
thành công của PPP: (1) sự ủng hộ PPP thể hiện qua chính sách và các cam
kết chính trị, (2) khung pháp lý, (3) các hành động cụ thể hỗ trợ PPP (bao
gồm sự hình thành một cơ quan chuyên trách về PPP, quy trình thẩm định dự
án PPP, quản lý hợp đồng và triển khai PPP) [101, tr.122].
Đối với các dự án giao thông đô thị, có 05 nhóm nhân tố quyết định
thành công của dự án: vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, lựa chọn đối tác tư
nhân phù hợp, nhận dạng và phân bổ rủi ro tối ưu, cơ cấu tài chính cho PPP và
thực hiện phân tích chi phí - lợi ích [24, tr.62-64]. Nghiên cứu cụ thể các dự án
giao thông đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 4 nhóm nhân tố ảnh
hưởng đến thành công của dự án BT là cơ chế, chính sách của Nhà nước, năng
lực của NĐT, dự án thực hiện và dự án đối ứng, và thị trường [4, tr.220-221].
Để đảm bảo tính khả thi các dự án PPP giao thông ở Việt Nam, đối tác
nhà nước và đối tác tư nhân cần phải chú trọng các yếu tố: hoạt động tài chính
và môi trường kinh tế; trình độ kỹ thuật công nghệ và môi trường pháp luật
20
[62, tr.203]. Trong đó, yếu tố hoạt động tài chính và môi trường kinh tế bao
gồm: “lãi suất tài chính cho đối tác tư nhân”, “khả năng sinh lời của dự án”,
“chính sách kinh tế của nhà nước”, và “nhu cầu dài hạn của dịch vụ cung
ứng”. Yếu tố trình độ kỹ thuật công nghệ và môi trường pháp luật bao gồm:
“chất lượng dịch vụ”, “tính linh động của hợp đồng với sự thay đổi trong đầu
ra”, “phù hợp với pháp luật hiện hành” và “khuôn khổ pháp luật thuận lợi”
[61; tr.47].
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng phổ biến để xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến thành công (CSFs) của các dự án PPP là: nghiên cứu
tình huống, điều tra khảo sát, và sự kết hợp hai phương pháp này [80,
tr.1343-1344].
1.1.4. Nghiên cứu về tiêu chí đánh giá thành công của các dự án PPP
Tiêu chí đánh giá sự thành công của các dự án PPP là một nội dung
quan trọng nhưng thu hút rất ít các nghiên cứu. Dự án PPP là tổng hợp các
yếu tố: năng lực, kỹ thuật và nguồn lực từ nhiều tổ chức khác nhau tham gia
dự án, do vậy thành công của dự án PPP cần được nhìn nhận từ việc đánh giá
khả năng đạt được mục đích và kỳ vọng của các thành viên tham gia dự án
(bao gồm: nhà nước, NĐT, người sử dụng dịch vụ). Các đối tượng tham gia
dự án PPP có các tiêu chí đánh giá thành công khác nhau, nhưng tựu chung lại
bao gồm các tiêu chí: sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ, quy trình thực
hiện dự án đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả, đảm bảo tiến độ, dự toán dự án và
đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng công trình [54, tr.417-420].
Tiếp cận từ việc đánh giá mục tiêu, thành công của dự án PPP được
đánh giá trên cơ sở thực hiện ba mục tiêu: thứ nhất là hướng đến các mục đích
ngắn hạn là việc thực hiện dự án PPP bao gồm nội dung thiết kế và thi công,
thứ hai là hướng đến việc đạt được mục tiêu của các thành viên tham gia dự
án PPP khi thực hiện chuyển giao công trình và thứ ba là khả năng mang đến
lợi ích cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương [69, tr.7].
Tiếp cận từ việc đánh giá giá trị mang lại cho người sử dụng dịch vụ từ
21
dự án PPP, thành công của dự án được nhìn nhận ở 05 tiêu chí: động lực tài
chính của dự án, tối ưu hóa lợi ích của đối tác nhà nước, nâng cao năng lực kỹ
thuật và năng lực quản lý vận hành dự án, tận dụng công nghệ và năng lực
quản lý của các đối tác tư nhân, và mở rộng phạm vi tham gia của các NĐT tư
nhân vào các dự án ưu tiên của địa phương [110, tr.962].
Đối với cộng đồng xã hội, thành công của dự án PPP được nhìn trên
góc độ lợi ích cộng đồng dài hạn cùng với các tiêu chí đánh giá thành công về
kinh tế và môi trường, bao gồm 04 nhóm tiêu chí: nâng cao chất lượng cuộc
sống cùng với sự vào cuộc của cộng đồng; cung cấp dịch vụ chất lượng và tạo
điều kiện tiếp cận công bằng với hàng hóa công cộng; tạo sự bình yên, và đảm
bảo sự thuận lợi và tuân thủ các quy định [90, tr.39-41]. Dự án PPP chỉ thực
sự tạo ra các lợi ích xã hội cho cộng đồng khi nó giảm thiểu các bất đồng giữa
các thành viên tham gia PPP, tăng sự ủng hộ của cộng đồng với sự phát triển
của dự án và đảm bảo sự thành công của dự án trong suốt chiều dài dự án.
Tương tự, theo Osei-Kyei và Chan, thành công của dự án PPP được nhìn nhận
trên 05 tiêu chí: sự phát triển của địa phương, giảm các bức xúc dân sinh, đảm
bảo lợi nhuận cho khu vực tư nhân, hiệu quả chi phí cho nhà nước và đảm bảo
các yêu cầu kỹ thuật của dự án PPP [82, tr.8-9]. Hai tác giả này cũng đã chỉ ra
các góc nhìn khác nhau về tiêu chí đánh giá thành công của các dự án PPP
của các thành viên tham gia dự án PPP trong một nghiên cứu năm 2017
[83, tr.137]. Ví dụ, tiêu chí “dự án hoàn thành đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
cộng đồng dân cư, quá trình thực hiện dự án ít gây ra bức xúc trong nhân
dân” có sự khác nhau rõ rệt giữa khu vực công và khu vực tư nhân, giữa
các nhà nghiên cứu và các NĐT tư nhân. Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân là
do quy trình thực hiện dự án PPP, việc xác định sự cần thiết, địa điểm và
thời gian dự kiến thực hiện dự án PPP được thực hiện ở giai đoạn nghiên
cứu tiền khả thi. Do các nhà nghiên cứu/chuyên gia làm việc với các địa
phương có dự án PPP trong quá trình xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả
thi, có sự chia sẻ thảo luận ngay từ khi bắt đầu dự án. Trong khi đó, các
22
NĐT tư nhân có vai trò hạn chế khi xây dựng kế hoạch và chuẩn bị dự án
PPP, do đó, họ ít quan tâm hơn đến tiêu chí hướng đến sự phục vụ cộng
đồng dân cư.
Khi so sánh tiêu chí đánh giá sự thành công của PPP giữa quốc gia có
kinh nghiệm thành công về PPP như Hồng Kông và quốc gia đang phát triển
như Ghana, cho thấy có chung 03 tiêu chí là 03 tiêu chí của một dự án đầu tư
xây dựng thông thường, đó là: đảm bảo tiến độ dự án, đảm bảo dự toán dự án
và đảm bảo các tiêu chuẩn đầu ra [84, tr.88]. Đối với Hồng Kông thì cần thêm
4 tiêu chí: quản lý rủi ro hiệu quả, chất lượng và sự tin cậy trong vận hành
công trình, giảm chi phí vòng đời dự án, giảm chi phí quản lý dự án của khu
vực nhà nước. Đối với Ghana thì cần thêm 06 tiêu chí đánh giá sự thành công
của dự án PPP: Đảm bảo lợi nhuận, Chất lượng và sự tin cậy trong vận hành
công trình, quản lý rủi ro hiệu quả, môi trường sống, sự phát triển kinh tế địa
phương, và giảm khiếu nại tố cáo [84, tr.89].
Theo Ngân hàng phát triển châu Á, ba nguyên nhân chính khiến dự án
BOT không thành công là: (1) Chính phủ không xác định rõ ràng dự án mà để
cho tư nhân quyết định, (2) Nhiều doanh nghiệp tư nhân không nhận được sự
giúp đỡ từ Nhà nước, (3) Khó đưa ra ra mức thu phí và tăng phí đối với những
con đường thường được coi là miễn phí [37, tr.13].
1.2. NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ
TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG
1.2.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ trong
đầu tƣ kết cấu hạ tầng giao thông
Hợp tác công tư mặc dù đã được biết đến rộng rãi từ những năm 1990,
QLNN về PPP đến nay vẫn là một khái niệm mới. Theo Wilson và cộng sự
(2010), QLNN về PPP bên cạnh những đặc điểm tương tự như QLNN đối với
dự án đầu tư công truyền thống, nó có những đặc trưng riêng, nổi bật là giai
đoạn chuyển nhượng. Trong khi quản lý một dự án đầu tư công truyền thống
sẽ kết thúc khi dự án được nghiệm thu đưa vào hoạt động, thì đối với các dự
án PPP, hoạt động QLNN sẽ tiếp diễn cho đến khi kết thúc giai đoạn chuyển
23
nhượng [105, tr.211]. Hợp đồng PPP có thời gian thực hiện dài (trung bình
trên 20 năm), có sự tham gia của nhiều đơn vị, tổ chức, liên quan đến trách
nhiệm của nhà nước, xã hội và cộng đồng, do vậy đòi hỏi sự minh bạch đối
với từng quyết định và cơ chế thông tin đặc thù cho từng thành viên tham gia.
So với hoạt động đầu tư công truyền thống, hình thức PPP phức tạp hơn, đòi
hỏi nhà nước luôn phải chủ động dự báo và xây dựng kế hoạch dự phòng cho
các tình huống bất ngờ, đồng thời kiểm soát và thúc đẩy các thỏa thuận dài
hạn [95, tr.348].
Dự an PPP được xác lập trên nền tảng hai đối tác: đối tác nhà nước và
đối tác tư nhân, mặc dù vậy, hai đối tác này không ngang hàng nhau. Zhang
xác định nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng hơn để kiến tạo môi trường đầu
tư thuận lợi cho các đối tác tư nhân tham gia phát triển hệ thống hạ tầng công
cộng, trong khi các đối tác tư nhân đóng vai trò trọng yếu trong thực hiện
thành công các dự án PPP [111, tr.7]. Đối tác nhà nước luôn là đối tác chủ trì
vì họ có trách nhiệm cao nhất với các điều khoản cung ứng dịch vụ hạ tầng
cho nhân dân. Các công trình kết cấu hạ tầng giao thông có đặc tính độc
quyền, do vậy cần thiết phải có sự QLNN để đảm bảo sự tham gia của các
NĐT tư nhân vẫn đảm bảo được lợi ích cho cộng đồng dân cư. Theo đó, nhà
nước cần phải lựa chọn được NĐT tư nhân có năng lực, công khai các thông
tin liên quan đến dự án và giám sát thực hiện hợp đồng PPP.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy không tồn tại một mô hình PPP chuẩn
mực và mỗi quốc gia có chiến lược riêng tùy thuộc bối cảnh, thể chế, nguồn
tài trợ và tính chất dự án. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy, phát triển hình thức PPP, thể hiện vai trò là chủ thể thiết lập môi trường
đầu tư thuận lợi nhất để giải phóng nguồn lực và thu hút sự tham gia các
thành phần, lực lượng khác trong xã hội [31, tr.68]. Theo đó, nhà nước cần
phải quản lý tốt và xuyên suốt đối với các hợp đồng PPP đảm bảo mục tiêu
ban đầu là cung cấp dịch vụ công, tối đa hóa lợi ích cho cộng đồng, thu hút sự
tham gia và trách nhiệm thực hiện hợp đồng của khu vực tư nhân, và đảm bảo
tính công khai và minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện.
24
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra với quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ
Theo Skelcher (2010), thách thức lớn nhất của QLNN về PPP là đảm
bảo PPP được thực hiện đúng với bản chất của nó, không bị ảnh hưởng bởi các
lợi ích thương mại hóa hay một hình thức quản lý thay thế phát sinh từ thực
tiễn do các NĐT tham gia vào PPP [91, tr.300]. Với một dự án thông thường,
việc QLNN đối với dự án sẽ kết thúc cùng với thời điểm dự án kết thúc,
nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng. Đối với dự án PPP, việc QLNN đối
với dự án sẽ kết thúc khi thời hiệu của hợp đồng dự án kết thúc, thông thường,
hợp đồng của một dự án PPP khoảng trên 20 năm [105, tr.210-212]. Nhóm tác
giả Wei Xiong và cộng sự (2018) đã xác định 21 vấn đề đặt ra với QLNN về
PPP để thực hiện thành công các dự án PPP, trong đó có 08 nội dung quan
trọng theo thứ tự tần suất giảm dần bao gồm: sự hợp tác, niềm tin, thông tin,
năng lực, sự phân bổ và chia sẻ rủi ro, tính cạnh tranh và sự minh bạch. Trong
đó tam giác vàng các yếu tố: sự hợp tác, niềm tin và thông tin trong các vấn
đề tổ chức đóng vai trò quan trọng nhất trong tất cả các vấn đề quản lý của
PPP. Các vấn đề này được phân thành 04 nhóm vấn đề liên quan đến hoạt
động QLNN về PPP bao gồm: nhóm vấn đề về thể chế, nhóm vấn đề về tổ
chức, nhóm vấn đề về hợp đồng, và nhóm vấn đề về quản lý [107, tr.11-12].
Hệ thống kết cấu hạ tầng phần lớn được xem là hàng hóa dịch vụ công,
các công cụ QLNN và cách thức vận hành các dự án hạ tầng PPP cần được
nghiên cứu sâu hơn. Để giải quyết các vấn đề của QLNN đối với các dự án
PPP, hoàn thiện các chính sách và các quy định pháp luật của nhà nước là một
công cụ hữu hiệu để củng cố hiệu quả quản lý [89, tr.1-2].
Riêng đối với các dự án PPP giao thông, theo Diễn đàn quốc gia về lập
pháp nhà nước của Hoa Kỳ (2010), QLNN về PPP cần lưu ý các vấn đề sau: (i)
Khả năng dự báo không chính xác và không kiểm soát được nhu cầu và hành vi
của người dân; (ii) Nguy cơ mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp gây tổn hại
cho cộng đồng; (iii) Rủi ro phá sản hoặc nợ quá hạn của NĐT; (iv) Trách
25
nhiệm giải trình và công khai; (v) Tác động môi trường; (vi) Các vấn đề liên
quan đến NĐT nước ngoài; (vii) Các vấn đề liên quan đến lao động; (viii) Các
tranh cãi liên quan đến trạm thu phí; và (ix) Thỏa thuận và quản lý thực hiện
hợp đồng [87, tr.11-13]. Ở các quốc gia đang phát triển khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, việc thực hiện các dự án PPP phải đối mặt thêm với thách thức là
khu vực công chưa đủ năng lực thực thi dự án PPP, các công chức khó khăn
trong việc triển khai dự án do thiếu khung pháp lý và các kiến thức về PPP,
trong khi cộng đồng dân cư có nhiều hiểu lầm về PPP [96, tr. 2].
Thực tế triển khai các dự án PPP giao thông đường bộ ở Việt Nam những
năm qua đã cho thấy một số hạn chế trong QLNN đối với PPP trong đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, bao gồm: (i) chất lượng công
tác quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ chưa cao do
thiếu sự gắn kết đồng bộ giữa các loại quy hoạch, chưa có quy hoạch đối với
những dự án PPP trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ;
(ii) việc xây dựng và ban hành văn bản QLNN còn nhiều bất cập do chưa có
văn bản thống nhất về QLNN đối với PPP; (iii) tổ chức bộ máy QLNN còn
nhiều vướng mắc do chưa có quy chế phối hợp giữa các cơ quan QLNN và tổ
chức đầu mối quản lý đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng theo PPP;
chất lượng đội ngũ cán bộ QLNN chưa đáp ứng yêu cầu quản lý do hạn chế
về năng lực tham mưu và thực thi chính sách; quy trình, tài liệu đào tạo bài
bản ở Việt Nam chưa có; (iv) thu hút vốn đầu tư vào những công trình giao
thông đường bộ theo hình thức PPP còn chưa đạt hiệu quả cao do cơ chế hỗ
trợ về tài chính chưa khả thi, chưa rõ ràng, chưa tính đến tính đặc thù thị
trường PPP ở Việt Nam; (v) hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý
vi phạm trong QLNN chưa phát huy hiệu quả chủ yếu là do chưa có khung
pháp lý thống nhất và toàn diện cho hoạt động kiểm toán đối với các dự án
PPP giao thông; hoạt động giám sát thuộc các cơ quan dân cử còn mang tính
hình thức; việc giám sát của công dân chưa thực sự hiệu quả do thiếu điều
26
kiện thực hiện; (vi) cơ chế hợp tác quốc tế chưa thu hút nguồn vốn nước ngoài
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức PPP do
thiếu hành lang pháp lý [31, tr.119].
Các vấn đề chủ yếu của QLNN đối với PPP là sự hợp tác, trung thực,
thông tin, năng lực, phân bổ và chia sẻ rủi ro, cạnh tranh và công khai [107].
Do vậy, theo Ủy ban kinh tế châu Âu Liên hiệp quốc, QLNN đối với PPP cần
đảm bảo các nguyên tắc sau: (1) Mức độ tham gia của các bên liên quan, (2)
Tính đúng đắn, (3) Tính công khai rộng rãi với từng quyết định đưa ra, (4)
Trách nhiệm giải trình (5) Tính công bằng (6) Tính hiệu quả [97, tr.13-14].
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác công tƣ
Trong PPP, Nhà nước là đối tác chịu trách nhiệm sau cùng đối với dự
án, tiếp nhận tham vấn các ý kiến thẩm định, sự điều hành và tư vấn từ các bộ
phận chuyên môn. Đối tác nhà nước chịu trách nhiệm công tác chuẩn bị,
thương thảo và thực hiện hợp đồng; điều hành và đánh giá tình hình thực hiện
hợp đồng trong suốt quá trình thi công và các giai đoạn thực hiện dự án, đảm
bảo nguyên tắc giữ nguyên giá trị sử dụng của công trình trong suốt vòng đời
của hợp đồng [79, tr.9]. Trong khi đó, đối tác tư nhân chịu trách nhiệm về
công tác thiết kế thi công và phân phối các dự án hạ tầng. Đối tác nhà nước
luôn tìm cách tạo điều kiện khuyến khích các NĐT tham gia dự án PPP hướng
đến sự phát triển bền vững chung. Theo đó, nhà nước sử dụng các công cụ
điều hành của mình để gây ảnh hưởng đến hành vi của các thành viên từ phía
nhà nước và các tổ chức kinh tế tư nhân tham gia dự án PPP cùng hướng đến
mục tiêu phát triển bền vững [99, tr.201].
Trách nhiệm của nhà nước trong PPP là tạo một môi trường đầu tư đảm
bảo khoản lợi nhuận hấp dẫn thu hút các NĐT tư nhân, đồng thời đảm bảo dự
án sau khi hoàn thành sẽ vận hành hiệu quả, cung cấp các dịch vụ công cộng
chất lượng tốt. Do vậy, nhà nước cần phải tổ chức thẩm định chi tiết báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi, BCNCKT để đảm bảo từng dự án cụ thể phù hợp với
27
từng loại hình PPP. Quy trình đấu thầu cần được tổ chức hợp lý để lựa chọn
NĐT có năng lực tốt nhất và phù hợp nhất cho dự án. Nhà nước cũng cần theo
dõi toàn bộ quy trình dự án và đóng vai trò chủ động để đảm bảo mối quan hệ
PPP hài hòa (win-win). Điều này đòi hỏi sự tham gia của nhà nước ngay từ
đầu và liên tục cũng như cơ chế thông tin kịp thời và quản lý chất lượng phù
hợp [65, tr.204].
Tiếp cận theo quá trình quản lý, nội dung QLNN theo hình thức PPP
bao gồm: (i) hoạch định phát triển dự án PPP (xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch), (ii) xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, quy định
và pháp luật cho dự án PPP, (iii) xây dựng và tổ chức bộ máy QLNN đối với
dự án PPP, (iv) giám sát và đánh giá dự án PPP [9; tr.11]. Tiếp cận theo chu
trình dự án, nội dung QLNN về PPP theo quy định của Luật đầu tư theo
phương thức đối tác công tư 2020 bao gồm: (i) Ban hành, tuyên truyền, phổ
biến và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về PPP; (ii) Tổng kết,
đánh giá, báo cáo tình hình thực hiện hoạt động PPP; (iii) Kiểm tra, thanh tra
và giám sát việc thực hiện quy định của pháp luật về PPP; (iv) Giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm liên quan đến PPP; giải quyết kiến nghị trong
lựa chọn NĐT; (v) Tổ chức và thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác
quốc tế về PPP; (vi) Hướng dẫn, hỗ trợ, giải quyết vướng mắc về thủ tục theo
đề nghị của NĐT, doanh nghiệp dự án PPP khi thực hiện PPP [15, tr.5].
1.2.4. Quản lý nhà nƣớc ở cấp chính quyền địa phƣơng đối với hợp
tác công tƣ trong đầu tƣ các công trình kết cấu hạ tầng giao thông
Ở các quốc gia phát triển, hoạt động quản lý đầu tư các công trình
kết cấu hạ tầng giao thông được phân cấp mạnh cho chính quyền địa
phương. Ở Hoa Kỳ, các chính quyền tiểu bang sở hữu, vận hành và tài trợ
các công trình giao thông. Do vậy, các chính quyền địa phương có thể quy
định các chính sách đối với dự án PPP, có quyền quyết định áp dụng thực
hiện thu lệ phí giao thông hoặc phí tắc đường. Vai trò của chính quyền liên
28
bang ở Hoa Kỳ chỉ tác động đến việc thực hiện PPP ở các tiểu bang thông
qua các phương hướng về quỹ liên bang, các đường cao tốc do liên bang tài
trợ, các công cụ tài chính phức hợp, các chương trình thí điểm thực nghiệm
và cung cấp thông tin [87, tr.14]. Do vậy, Hoa Kỳ không có khung pháp lý
PPP cấp độ liên bang, khung pháp lý do các tiểu bang xây dựng. Tương tự
như vậy, ở Australia, hầu hết các dự án phát triển hạ tầng quy mô lớn là
trách nhiệm của chính quyền địa phương. Các bang New South Wales và
Victoria dẫn đầu lộ trình PPP, phát triển khung PPP cấp độ tiểu bang đầu
những năm 2000. Chính sách cấp quốc gia được chuẩn bị và chứng thực từ
chính quyền tất cả các tiểu bang, các vùng lãnh thổ và cộng đồng như một
khung thống nhất thực hiện các dự án PPP. Canada cũng trao trách nhiệm
phát triển hạ tầng cho các chính quyền địa phương, các tỉnh thành phố
thành lập cơ quan chuyên biệt có sự tham gia của các chuyên gia, người có
thẩm quyển của các cơ quan chịu trách nhiệm các dự án PPP, để đánh giá,
cơ cấu và thu mua các dự án PPP. Do vậy, khung pháp lý PPP được phát
triển từ cấp độ tỉnh thành, không có sự giám sát của liên bang. Mặc dù vậy,
chính quyền liên bang có thể gây ảnh hưởng đến sự phân phối các chương
trình PPP địa phương thông qua chính sách tài chính cho các dự án PPP đô
thị và địa phương qua Quỹ P3 Canada (P3 Canada Fund) [49, tr.8].
Trong khi đó, ở các quốc gia đang phát triển, các NĐT thường đặt
chính quyền địa phương ít tin cậy hơn chính quyền trung ương, cả vì mức độ
tin cậy thấp hơn và sự hạn chế các nguồn lực. Điều này đã đặt ra vai trò cho
chính quyền trung ương trong việc hỗ trợ về tài chính và chuyên môn cho
chính quyền địa phương. Khi thực hiện hỗ trợ chính quyền địa phương, sẽ
xuất hiện yêu cầu với chính quyền trung ương trong việc kiểm soát các hoạt
động của chính quyền địa phương.
Thách thức mà chính quyền địa phương ở các quốc gia phải đối mặt có
thể khác nhau. Nếu các khó khăn của các địa phương ở Anh là các chính sách
29
của chính quyền trung ương cùng với các chính sách thu hút doanh nghiệp thì
các khó khăn của các địa phương ở Hoa Kỳ lại là sự linh hoạt trong sắc thuế
nhưng lại giảm sự trợ cấp từ chính quyền trung ương [104, tr.9].
Nghiên cứu các thách thức QLNN về PPP ở cấp chính quyền địa
phương, Bloomfield (2006) đã đi sâu phân tích các trở ngại thực tiễn hướng
đến cạnh tranh theo quy luật thị trường, phân bổ rủi ro công bằng, vận hành
hiệu quả và minh bạch trong hợp đồng; đồng thời kiểm tra sự bất hợp lý của
mô hình PPP, các rủi ro trong các trường hợp không kiểm soát được, ảnh
hưởng của sự thiếu hụt nguồn lực địa phương và các rào cản hướng đến minh
bạch trong các hợp đồng dài hạn. Do đó tác giả đã đưa ra các giải pháp: thứ
nhất, các chính quyền địa phương nên chú trọng thuê các chuyên gia cao cấp
độc lập ngay từ khi khởi đầu dự án để phân tích các phương án và tư vấn đưa
ra các quyết định đúng đắn, đảm bảo các lợi ích công cộng một cách tỉ mỉ và
tích cực như cách mà đối tác tư nhân cố gắng bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp
khi thỏa thuận các hợp đồng dài hạn với chính quyền địa phương. Thứ hai,
các chính quyền địa phương cần có đủ các nguổn lực để quản lý, kiểm soát và
yêu cầu thực thi các hợp đồng. Thứ ba, các chính quyền địa phương cần có
cấu trúc minh bạch và trách nhiệm giải trình để bảo đảm những quyết định dài
hạn của họ là đúng đắn và sẽ mang lại lợi ích cộng đồng lâu dài kể cả khi
người ra quyết định không còn phụ trách công việc [45, tr.409].
Thực tiễn triển khai mô hình PPP tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy
các khó khăn trong công tác QLNN về PPP bao gồm: (i) hành lang pháp lý và
cơ chế áp dụng chưa đầy đủ, chưa minh bạch, tồn tại nhiều vướng mắc, các
điều khoản hướng dẫn không rõ ràng và không như thông lệ quốc tế; (ii) chưa
có bộ chỉ tiêu và phương pháp đánh giá khoa học để thẩm định dự án cơ sở hạ
tầng; (iii) sự thiếu nhất quán về chính sách của Chính phủ đối với đầu tư tư
nhân, kỳ vọng không thực tế vào hiệu quả mà khu vực này mang lại; (iv) cách
thức tiến hành PPP của Việt Nam không theo chuẩn mực và tập quán quốc tế,
30
không dựa trên cơ sở đấu thầu cạnh tranh, công khai và minh bạch nên không
thu hút được những NĐT tư nhân, đặc biệt là các NĐT tư nhân quốc tế. Từ
những khó khăn này, tác giả Phan Thị Bích Nguyệt (2013) đã đề xuất một số
giải pháp: (i) Hoàn thiện hành lang pháp lý theo hướng đầy đủ và minh bạch;
(ii) Phân bổ rủi ro hợp lý đảm bảo rủi ro sẽ được phân chia cho bên có khả
năng tài chính và kỹ thuật tốt nhất để xử lý chúng; (iii) Lựa chọn dự án để tiến
hành PPP; (iv) Tiến hành PPP theo chuẩn mực và tập quán quốc tế; (v) Phân
tích chi phí - lợi ích để thẩm định tính khả thi của dự án [14, tr.77]. Nghiên
cứu thực tế triển khai PPP ở Thành phố Hà Nội, tác giả Đoàn Minh Huấn
(2015) đã chỉ ra 05 đặc điểm cơ bản chi phối sự lựa chọn mô hình và cơ chế
hợp tác công - tư của Thành phố Hà Nội: quan hệ thị trường phát triển chưa
thành thục; khu vực doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hóa và tham gia
tích cực vào các dự án BT, BOT; khu vực tư nhân phát triển yếu ớt, quy mô
nhỏ và trình độ thấp, còn nhiều hạn chế khi tham gia đầu tư và quản lý các dự
án BT, BOT; Chính phủ và chính quyền Thành phố Hà Nội còn thiếu nhiều
khung khổ pháp lý để đảm bảo cho PPP không bị biến dạng [8, tr.327].
Luận án tiến sĩ của tác giả Ngô Thế Vinh (2015), đề tài “Nghiên cứu
ứng dụng hình thức đối tác công tư trong quản lý đầu tư xây dựng công trình
giao thông đô thị” đã đề xuất 03 nhóm giải pháp đồng bộ chính cho việc ứng
dụng hình thức PPP trong quản lý đầu tư xây dựng công trình giao thông đô
thị gắn liền với điều kiện thực tiễn của Thành phố Hà Nội, đó là (i) bộ máy
QLNN chuyên trách về đối tác công tư (kiến nghị thành lập Văn phòng đối
tác công tư trực thuộc UBND Thành phố Hà Nội), (ii) hoàn thiện cơ chế chính
sách trong đó tập trung vào bốn nội dung (quy trình đề xuất dự án; chính sách
ưu đãi đầu tư; hướng dẫn Hợp đồng đối tác công tư và phân bổ rủi ro), (iii)
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về đối tác công tư [36, tr.158].
Ở tầm quốc gia, Nguyễn Thu Thủy (2017) đề xuất hệ thống các giải
pháp bảo đảm tính toàn diện, khả thi và bền vững nhằm góp phần hoàn thiện
31
QLNN đối với hình thức PPP trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông ở Việt Nam bao gồm: (i) nâng cao chất lượng công tác lập và tổ chức
thực hiện quy hoạch, (ii) hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực thực hiện thể
chế QLNN, (iii) hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy QLNN
đối với hình thức đối tác công tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng
thành lập cơ quan đầu mối trung ương, (iv) nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, (v) hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, (vi) hoàn
thiện cơ chế hợp tác quốc tế để thu hút vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông theo hình thức PPP [31, tr.154].
1.3. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những nội dung đã đƣợc thống nhất
Các công trình nghiên cứu về PPP đã cung cấp cơ sở lý luận khá toàn
diện và sâu sắc về PPP và QLNN đối với PPP trong đầu tư xây dựng phát
triển hệ thống hạ tầng giao thông.
Các kết quả nghiên cứu về PPP đã làm rõ các khái niệm và đặc điểm
của dự án PPP, rủi ro và phân bổ rủi ro của dự án PPP, các nhân tố thành công
của dự án PPP, và tiêu chí đánh giá sự thành công của dự án PPP.
Các nghiên cứu về QLNN đối với PPP đã nêu rõ sự cần thiết và các
nguyên tắc QLNN đối với các dự án PPP, nội dung QLNN về PPP, các thách
thức và yêu cầu đặt ra với hoạt động QLNN về PPP và một số kinh nghiệm
thực tiễn về QLNN ở cấp chính quyền địa phương.
1.3.2. Những nội dung chƣa thống nhất hoặc chƣa đƣợc nghiên cứu
Các nghiên cứu trước đây về PPP và QLNN về PPP còn một số nội
dung chưa thống nhất và ít được quan tâm nghiên cứu, bao gồm:
Các nhà nghiên cứu còn ít quan tâm đến việc phân tích mối quan hệ
giữa các nhân tố ảnh hưởng thành công của dự án PPP và các tiêu chí đánh
giá thành công của dự án PPP [8, tr.327]. Nội dung này đã được đề xuất bởi
nhiều nhà nghiên cứu cho các nghiên cứu tương lai về PPP [69, tr.9]. Kiểm
32
định mối quan hệ này sẽ đóng góp khoa học vào các nghiên cứu về PPP [81,
tr.96-97] đồng thời góp phần chuẩn xác lại tác động của các nhân tố thành
công của dự án PPP giúp nhà quản lý định hướng được các nội dung cần tập
trung triển khai để thực hiện thành công các dự án PPP.
Các nghiên cứu về PPP ở Việt Nam trước đây chủ yếu dừng ở mô tả,
nêu thực trạng khó khăn, chủ yếu tập trung nghiên cứu QLNN về PPP đối với
các công trình hạ tầng kỹ thuật thuộc thẩm quyền của Bộ Giao thông vận tải,
đặc biệt chưa có nghiên cứu nào tổng thể về QLNN đối với PPP của cấp chính
quyền địa phương cấp tỉnh.
Các công trình nghiên cứu về QLNN về PPP đã được thực hiện chủ yếu
phân tích nội dung QLNN theo chức năng QLNN, do vậy chưa nhận định chi
tiết được các vấn đề thực tế triển khai của dự án PPP.
1.3.3. Định hƣớng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu các nội dung QLNN về PPP để phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội theo quy trình dự án đồng
thời phân tích đánh giá các nhân tố thành công của dự án PPP giao thông của
Thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các kiến nghị đề xuất để tăng cường hiệu quả
QLNN về PPP của Thành phố Hà Nội cùng các giải pháp để có được nhiều dự
án PPP thành công.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu có giá trị trước
đây trong và ngoài nước, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục nghiên cứu, làm rõ các
vấn đề liên quan chưa được các công trình đề cập tới, cụ thể như sau:
- Nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận về QLNN đối với hình thức
PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của cấp chính quyền địa phương.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về PPP trong đầu
tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội từ thời
điểm mở rộng địa giới hành chính.
- Nghiên cứu, phân tích và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thành
33
công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội, qua đó kiến nghị các
nội dung cần quan tâm hoàn thiện để nâng cao hiệu quả QLNN về PPP trong
đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
Kinh nghiệm QLNN về PPP ở một số địa phương
Dự báo phát triển kinh tế xã hội và Bối cảnh mới trong thời gian tới
Cơ sở lý luận về PPP và QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của chính quyền cấp tỉnh thành phố
Thực trạng các dự án PPP giao thông và hoạt động QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội
- Đề xuất đưa ra các quan điểm, giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hình thức PPP trong đấu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
QLNN VỀ PPP TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Các giải pháp hoàn thiện QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội
Phương hướng QLNN về PPP để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội
Kết quả phân tích mô hình định lượng
Các yếu tố tác động đến thành công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội
Hình 1.1: Khung phân tích quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ trong đầu tƣ kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội. Nguồn: Tác giả xây dựng và tổng hợp
34
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CẤP
TỈNH VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU
HẠ TẦNG GIAO THÔNG
2.1. HỢP TÁC CÔNG TƯ TRONG ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO
THÔNG
2.1.1. Khái niệm hợp tác công tƣ
Sau khi nghiên cứu tổng quan các khái niệm PPP của các nhà kinh tế từ
nhiều góc độ khác nhau, có thể định nghĩa PPP là một thỏa thuận mang tính
hợp đồng giữa đối tác nhà nước và đối tác tư nhân để thực hiện nâng cấp, xây
dựng, vận hành, bảo trì và/hoặc quản lý cơ sở hạ tầng, trong đó bảo lưu trách
nhiệm cuối cùng về cung cấp dịch vụ của đối tác nhà nước. Các hình thức
quan hệ PPP được quy định riêng theo hợp đồng, trong đó quy định rõ trách
nhiệm của mỗi bên, thời gian, điều kiện và phương thức khu vực tư nhân đủ
điều kiện nhận thanh toán.
Theo đó, chủ thể trong mối quan hệ PPP là đối tác nhà nước và đối tác
tư nhân. Đối tác nhà nước có thể là CQNNCTQ, bao gồm các bộ, ngành, địa
phương (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) hoặc đơn vị quản lý dự án (thuộc
CQNNCTQ). Các đối tác tư nhân có thể là các doanh nghiệp, NĐT trong
nước hoặc quốc tế có chuyên môn kỹ thuật hoặc tài chính liên quan đến dự
án. Trong mối quan hệ này, mặc dù đối tác tư nhân tham gia đầu tư vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, chia sẻ công tác điều hành; nhưng đối tác nhà
nước vừa giữ vai trò chủ đạo điều chỉnh các hoạt động thông qua các điều
khoản hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật; vừa tạo điều kiện hỗ trợ
cho tư nhân sử dụng kinh nghiệm, khả năng sáng tạo, tính linh hoạt để quản lý
và điều hành hiệu quả hoạt động kinh doanh; vừa gắn kết các đối tác liên quan
với nhau. Nhà nước giữ vai trò hoạch định chiến lược và mục tiêu đầu tư, lĩnh
35
vực đầu tư, lựa chọn danh mục dự án, xác định chất lượng và giá cả dịch vụ
cung cấp, và có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các mục tiêu.
Ngoài hai chủ thể chính, còn có các cá nhân tổ chức khác tham gia dự án PPP,
bao gồm: ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty tư nhân,
các cá nhân và tổ chức tham gia vào thiết kế, thi công, vận hành và bảo trì
công trình, các đơn vị tư vấn về công nghệ, pháp lý, tài chính…; người đóng
thuế, người tiêu dùng trả phí trực tiếp, và các cá nhân chịu ảnh hưởng khi dự
án được thực hiện.
Hợp tác công tư là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng. Hiện nay, trên thế giới có 07 hình thức hợp đồng PPP phổ biến được sử
dụng rộng rãi như sau:
+ Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (hợp đồng BOT) là
hợp đồng được ký giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án để xây dựng
công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, NĐT, doanh nghiệp dự án
được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn,
NĐT, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho CQNNCTQ.
Trong hợp đồng BOT, khu vực tư nhân chịu trách nhiệm thu xếp tài chính
để xây dựng công trình dự án. NĐT thu hồi khoản đầu tư ban đầu và thu lợi
nhuận thông qua kinh doanh công trình dự án và thu phí người sử dụng. Rủi ro
thiết kế, xây dựng, rủi ro kinh doanh được chuyển giao cho khu vực tư nhân
hoặc được chia sẻ. Vai trò của nhà nước được giới hạn trong công tác giám sát.
Đối tác công nắm giữ quyền sở hữu dự án trong suốt thời hạn hợp đồng. Thời
hạn của hợp đồng thông thường kéo dài từ 20 đến 35 năm. Hợp đồng BOT được
sử dụng phổ biến trong lĩnh vực xây dựng các công trình giao thông. Đối với các
dự án đường bộ, trách nhiệm về thiết kế được chia sẻ: khu vực nhà nước chịu
trách nhiệm thiết kế sơ bộ (bao gồm xác định hướng tuyến, số làn đường, các
đoạn giao cắt, và các thông số thiết kế sơ bộ) và khu vực tư nhân hoàn thiện thiết
kế chi tiết, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm phê duyệt thiết kế.
36
+ Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (hợp đồng BTO) là
hợp đồng được ký giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án để xây
dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, NĐT, doanh nghiệp
dự án chuyển giao cho CQNNCTQ và được quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời hạn nhất định.
Hợp đồng BTO cho phép chuyển giao công trình dự án cho khu vực
công sau khi xây dựng xong. NĐT thu hồi vốn và lợi nhuận thông qua khai
thác công trình dự án. Hợp đồng BTO được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực
xây dựng đường bộ, cầu và đường hầm.
+ Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (hợp đồng BT) là hợp đồng được
ký giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án (nếu có) để xây dựng công
trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, NĐT chuyển giao công trình đó
cho CQNNCTQ và được thanh toán bằng quỹ đất, trụ sở làm việc, tài sản kết
cấu hạ tầng hoặc quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ để thực hiện
Dự án khác.
+ Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (hợp đồng BOO) hợp đồng
được ký giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình
hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, NĐT, doanh nghiệp dự án sở hữu và
được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn,
NĐT, doanh nghiệp dự án chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư theo quy định
của pháp luật về đầu tư. Hợp đồng BOO được sử dụng nhiều trong lĩnh vực
năng lượng và ngành viễn thông, không phổ biến trong ngành giao thông.
+ Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (hợp đồng BTL)
là hợp đồng được ký giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án để xây
dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, NĐT, doanh nghiệp
dự án chuyển giao cho CQNNCTQ và được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ
sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định;
CQNNCTQ thuê dịch vụ và thanh toán cho NĐT, doanh nghiệp dự án.
37
Trong hợp đồng BTL, NĐT thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận qua các
khoản thanh toán cố định từ CQNNCTQ, do đó, Nhà nước chịu rủi ro về nhu
cầu sử dụng của dự án. Hợp đồng BTL phù hợp với các dự án đường sắt.
+ Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (hợp đồng BLT)
là hợp đồng được ký giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án để xây
dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, NĐT, doanh nghiệp
dự án được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình
đó trong một thời hạn nhất định; CQNNCTQ thuê dịch vụ và thanh toán cho
NĐT, doanh nghiệp dự án; hết thời hạn cung cấp dịch vụ, NĐT, doanh nghiệp
dự án chuyển giao công trình đó cho CQNNCTQ.
+ Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (hợp đồng O&M) là hợp đồng được
ký giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án để kinh doanh một phần
hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.
Mục đích của PPP là hướng đến cung cấp dịch vụ công hoặc đầu tư xây
dựng các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Hiệu quả
của dự án PPP được nhìn nhận về việc cung cấp dịch vụ sau khi hình thành tài
sản hơn là chính bản thân tài sản. Cơ chế của PPP là tận dụng những lợi thế tốt
nhất của các bên, trong đó là năng lực của khu vực tư nhân về các yếu tố kỹ
thuật như thiết kế, xây dựng, vận hành và quản lý. Chất lượng dịch vụ của các
dự án PPP sẽ gắn liền với các công trình hỗ trợ, nội dung này phụ thuộc vào
việc ứng dụng các công nghệ mới trong cung cấp dịch vụ hoặc các quy định
rõ ràng về thưởng/phạt dựa trên chất lượng cung cấp dịch vụ trong hợp đồng
PPP. Hơn nữa, hợp đồng PPP luôn yêu cầu xác định chi tiết các chuẩn mực về
hiệu quả hoạt động khi cung cấp dịch vụ. Hợp tác trên cơ sở hợp đồng PPP
hướng đến mục đích nâng cao các tiện ích công cộng, các bên đối tác tham
gia dự án có sự đóng góp về nguồn lực, chia sẻ về rủi ro và lợi ích. Trong mối
quan hệ hợp tác lâu dài như PPP, các thành phần tham gia PPP cần hiểu biết
và tôn trọng các mục tiêu tham gia dự án của nhau. Mục tiêu của đối tác nhà
38
nước là giảm gánh nặng về ngân sách, nhu cầu cung ứng các dịch vụ và hàng
hóa công cộng, sự chuyển giao rủi ro và hiệu quả đầu tư của dự án. Mục tiêu
của đối tác tư nhân thường là lợi nhuận và sự thâm nhập thị trường. Mục tiêu
của người dân thụ hưởng dự án là được sử dụng dịch vụ chất lượng tốt hơn và
môi trường sống chất lượng hơn.
Theo cơ chế hợp đồng PPP, rủi ro được phân bổ giữa các đối tác thuộc
khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, tuy nhiên, không có nghĩa là khu vực
tư nhân phải chịu toàn bộ rủi ro hoặc một tỷ trọng lớn các rủi ro liên quan đến
dự án. Nguyên tắc phân bổ rủi ro trong PPP là rủi ro được tách nhỏ, lượng
hóa, phân loại và phân bổ cho bên có khả năng quản lý rủi ro một cách tốt
nhất. Thông thường, Nhà nước sẽ là bên có trách nhiệm giải quyết những rủi
ro liên quan đến cộng đồng, môi trường hoặc bảo lãnh vay vốn, khu vực tư
nhân sẽ là bên xử lý những rủi ro liên quan tới quản lý, sử dụng đồng vốn…
Trong chia sẻ trách nhiệm giữa các đối tác, đối tác tư nhân chịu trách nhiệm
về việc vận hành dự án và cung cấp dịch vụ; đối tác nhà nước giám sát việc
thực hiện của tư nhân; nhà nước sở hữu các tài sản; đối tác tư nhân cung cấp
nhân lực và bảo trì tài sản; nhà nước trả cho đối tác tư nhân một khoản phí
thỏa thuận cho các dịch vụ (có thể dựa trên hiệu quả hoạt động). Kết thúc hợp
đồng PPP, quyền sở hữu tài sản được chuyển sang đối tác nhà nước.
Về các cơ hội thương mại liên quan, đơn vị chuyển nhượng và các đơn
vị có liên quan cần cho phép công ty dự án có sự linh hoạt trong hoạt động
kinh doanh. Trong hầu hết các dự án PPP khác, đơn vị chuyển nhượng và các
đơn vị tín dụng hạn chế phạm vi kinh doanh của công ty dự án. Đối với lĩnh
vực giao thông, đơn vị chuyển nhượng có thể tăng chất lượng dịch vụ bằng
cách mở rộng phạm vi công việc của công ty dự án để tăng doanh thu dự án
và giảm mức hỗ trợ của nhà nước. Ví dụ, các dự án đường cao tốc thường
phát sinh các hoạt động thương mại như: trạm dừng nghỉ, trạm xăng…
Thời gian thực hiện một dự án PPP dài hơn so với các phương thức đầu
39
tư công truyền thống, mang tính trung hoặc dài hạn, trung bình khoảng 25-30
năm [97, tr.65]. Các quốc gia có ít kinh nghiệm về PPP thì thời gian dự án PPP
sẽ kéo dài hơn với chi phí để thực hiện dự án tiêu tốn hơn rất nhiều. Do bản
chất phức tạp và thời gian dài hạn của hợp đồng giữa nhà nước và tư nhân,
các tranh chấp và thay đổi phát sinh cần nhiều thời gian để giải quyết và đàm
phán lại, vì vậy hợp đồng dự án PPP cần bao quát tổng thế các khía cạnh khác
nhau và có tính dự báo những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện.
Trong PPP, khu vực nhà nước có trách nhiệm xác định tiêu chuẩn đầu
ra về mặt lợi ích cộng đồng, chất lượng dịch vụ công, chính sách giá dịch vụ
phù hợp và đảm bảo khả năng sẵn sàng cung cấp dịch vụ. Hiệu quả hoạt động
được giám sát trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng để đảm bảo hiệu suất
của hoạt động quản lý tài sản của đối tác tư nhân. Việc xác định chi tiết các
tiêu chuẩn chất lượng đầu ra và chất lượng dịch vụ cũng là căn cứ để khu vực
nhà nước giám sát và quản lý quá trình thực hiện hợp đồng PPP.
Như vậy, để thực hiện thành công việc phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng giao thông theo hình thức PPP thì Nhà nước phải thể hiện được sự
quyết tâm, cam kết và ủng hộ rõ ràng, nhất quán từ trung ương đến địa
phương, giữa các bộ ban ngành đối với từng dự án đầu tư phát triển hệ thống
hạ tầng giao thông theo hình thức PPP.
2.1.2. Hợp tác công tư trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông
Theo từ điển Oxford, “kết cấu hạ tầng” (infrastructure) bao gồm hệ
thống các cấu trúc và các cơ sở vật chất cơ bản (ví dụ: các tòa nhà, đường sá,
nguồn điện) cần thiết cho sự phát triển toàn diện của một quốc gia. Cụ thể
hơn, hệ thống kết cấu hạ tầng thường được chia thành 2 loại: hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế (bao gồm: hệ thống giao thông vận tải, thủy lợi, cấp thoát
nước, điện, khí, viễn thông…) và hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội (bao gồm:
trường học, bệnh viện, cơ sở văn hóa, nghiên cứu khoa học, công trình công
cộng, nhà ở, công trình bảo vệ môi trường...).
40
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông là một bộ phận chủ yếu của hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế, là cơ sở quan trọng để phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông bao gồm toàn bộ các
công trình của đường bộ, đường thủy, đường sắt, hàng hải, hàng không, các
trung tâm logistics, như bến xe, bãi đỗ xe, hành lang an toàn, bến tàu, nhà ga,
cảng biển, sân bay, khu hậu cần sau cảng… Hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông phát triển sẽ là chất xúc tác giúp cho các hoạt động của nền kinh tế
quốc gia phát triển nhanh. Kết cấu hạ tầng giao thông có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, kết cấu hạ tầng giao thông là tài sản công cộng. Kết cấu hạ
tầng giao thông là sản phẩm chung của xã hội, được xây dựng để phục vụ lợi
ích của xã hội. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông bằng nguồn vốn NSNN. Các công trình kết cấu hạ tầng giao thông vì thế
thuộc sở hữu nhà nước và là tài sản chung của cộng đồng. Một số ít dự án kết
cấu hạ tầng giao thông được các NĐT bỏ vốn đầu tư cũng sẽ được bàn giao lại
cho nhà nước quản lý, vận hành, phục vụ lợi ích của cộng đồng.
Thứ hai, kết cấu hạ tầng giao thông có tính hệ thống. Các công trình kết
cấu hạ tầng giao thông không tồn tại và vận hành độc lập với nhau, mà bổ trợ và
gắn kết với nhau thành một hệ thống, gọi là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông.
Đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông bằng hình thức PPP,
ngoài các đặc điểm chung của các dự án PPP, cần lưu ý hai điều kiện ràng
buộc quan trọng là: dự báo nhu cầu và mặt bằng. Nhu cầu về các công trình
hạ tầng giao thông phụ thuộc vào các yếu tố: các loại hình vận tải cạnh tranh,
sự dịch chuyển dân cư, các điều kiện kinh tế, chi phí dịch vụ công cộng, sự
thuận tiện, thị hiếu cá nhân, tốc độ… Người sử dụng các dịch vụ cung ứng do
các dự án giao thông mang lại chủ yếu là các cá nhân. Do vậy Nhà nước cần
xác định nhu cầu của dự án phụ thuộc vào các giả định tin cậy về kinh tế, kỹ
thuật và tài chính. Hơn nữa, hoạt động GPMB ảnh hưởng nhiều đến việc an
cư và hoạt động kinh doanh của người dân thuộc diện phải di dời, do vậy
41
thường xuyên phải đối mặt với sự phản ứng tiêu cực của người dân. GPMB
để đầu tư xây dựng các công trình giao thông thường là nguyên nhân chính
tăng TMĐT dự án lên cao, kéo dài thời gian dự án và đôi khi gây phát sinh
các khiếu kiện kéo dài. Một số ví dụ thực tế về phản ứng của người dân khi
mở một tuyến đường như: Dự án BT đường 2,5 đoạn từ Đầm Hồng đến Quốc
lộ 1A (thời gian thực hiện: 15 năm, đến nay vẫn chưa hoàn thành công tác
GPMB,…). Có rất nhiều dự án, chi phí mặt bằng quá lớn vượt quá khả năng
chi trả và hạn mức chi ngân sách. Thời gian để có đủ mặt bằng sạch thi công
phụ thuộc nhiều vào hệ thống pháp lý địa bàn, năng lực của tư vấn và các rào
cản pháp lý hiện hành.
Giao thông là một trong những lĩnh vực có hệ thống các quy định chặt
chẽ, đòi hỏi tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn nghiêm ngặt do đó yêu cầu
công tác thẩm tra thẩm định chặt chẽ. Các quy định pháp lý này có tác động
đến tiến độ thực hiện dự án và NĐT có thể lên kế hoạch các công việc này
ngay từ khi bắt đầu thực hiện dự án. Các dự án giao thông luôn đòi hỏi các chi
phí vốn lớn, có thể vượt kỳ vọng của thị trường tài chính hoặc mức doanh thu
tiềm năng của dự án, do đó cần thiết có sự bảo đảm của nhà nước để đảm bảo
sự bền vững tài chính của dự án.
2.1.3. Lợi ích của hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng
giao thông
Hợp tác công tư trong đầu tư các dự án kết cấu hạ tầng giao thông mang
đến các lợi ích kinh tế xã hội và lợi ích kinh tế tài chính. Lợi ích kinh tế tài
chính là lợi ích của NĐT bao gồm các khoản lợi nhuận và cơ hội kinh doanh
của họ thu được khi tham gia vào các dự án PPP. Lợi ích kinh tế xã hội bao
gồm lợi ích cho cộng đồng, lợi ích về cơ sở hạ tầng, đóng góp vào nguồn thu
ngân sách, thu hút lao động, khai thác năng lực của toàn xã hội, góp phần phát
triển kinh tế, văn hóa, giáo dục do các dự án hạ tầng giao thông mang lại. PPP
giúp Nhà nước bớt các áp lực về ngân sách bố trí cho việc hoàn thiện và phát
42
triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Nhà nước chỉ cần tập trung vào công
tác quản lý dự án mà không cần phải dựa vào nguồn lực của mình để thực hiện
dự án. Bởi vậy, tài sản, nguồn lực của Nhà nước được sử dụng hiệu quả hơn,
nâng cao chất lượng của các cơ sở công cộng và dịch vụ công.
Hợp tác công tư trong đầu tư các công trình hạ tầng giao thông là một
hình thức huy động các nguồn lực cho đầu tư, bao gồm nguồn lực tài chính và
các nguồn lực khác. Cùng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, yêu cầu phát
triển kết cấu hạ tầng giao thông ngày càng tăng cao, đòi hỏi nguồn ngân sách
lớn vượt quá nhiều so với khả năng cấp vốn từ nhà nước. Sự tham gia của các
NĐT tư nhân vào các công trình kết cấu hạ tầng giao thông còn giúp thay đổi
cơ bản cơ cấu chi phí các dịch vụ cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, PPP cũng giúp
huy động các thế mạnh của khu vực tư nhân vào các công trình kết cấu hạ
tầng giao thông như nguồn lực về nhân lực, trình độ và kinh nghiệm quản lý
vận hành, khai thác các tiến bộ khoa học công nghệ. Việc sử dụng hợp lý các
kỹ năng, kinh nghiệm của khu vực tư nhân, kỹ thuật, sáng tạo và đổi mới sẽ
giúp các dịch vụ công được thực hiện nhiều hơn, phổ biến hơn đồng thời nâng
cao chất lượng công trình, dịch vụ công cung ứng cho cộng đồng.
Đầu tư các công trình giao thông theo hình thức PPP góp phần giúp
Nhà nước và các khu vực tư nhân có thể chia sẻ rủi ro ở các giai đoạn khác
nhau. Sự tham gia của khu vực tư nhân giúp san sẻ các rủi ro mà tư nhân có
khả năng quản lý tốt hơn như: quản lý tài chính dự án thiếu hiệu quả, lãng phí,
chậm giải ngân vốn đầu tư công, sự công khai minh bạch, tính cạnh tranh.
Mặt khác, sự tham gia của khu vực tư nhân từ khâu thiết kế, xây dựng và vận
hành trong dự án PPP có thể giúp thiết lập một mô hình cấu trúc dịch vụ công
với hệ thống phân cấp và phân quyền rõ ràng và hiệu quả hơn trách nhiệm của
các bên đối với việc khai thác dịch vụ; đảm bảo cung ứng giải pháp tài sản trọn
đời cùng với cam kết bảo trì tài sản của khu vực tư nhân. Đầu tư xây dựng phát
triển kết cấu hạ tầng giao thông nói chung và giao thông đường bộ chính là đầu
43
tư công, vốn thuộc về chức năng của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chung
của cộng đồng. NĐT tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực này nhằm thu được
lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận đạt mức kỳ vọng và tìm kiếm cơ hội kinh doanh
mới. Sự tham gia của nhiều đối tác vào PPP luôn đòi hỏi sự rõ ràng, minh bạch
thông tin, sự giám sát thường xuyên và cụ thể của các thành viên trong xã hội
và trách nhiệm giải trình thường xuyên của nhà nước.
Như vậy, đầu tư theo hình thức PPP mang lại các lợi ích sau đây: sự
tham gia của đối tác tư nhân sẽ mang đến tính hiệu quả cao hơn cho dự án;
giải pháp cung ứng tài sản trọn đời với các cam kết bảo trì tài sản của công ty
dự án; thực hành minh bạch và phòng chống tham nhũng; cơ hội tiếp cận và
ứng dụng các công nghệ tiên tiến hiện đại; và huy động các nguồn lực tài
chính mới hoặc sẵn có [48; tr.56-57].
2.2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ
KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG
2.2.1. Khái quát về quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ trong đầu
Hợp tác công tư là hoạt động đầu tư hướng tới mục đích giống như các
tƣ kết cấu hạ tầng giao thông
hoạt động đầu tư công khác là cung cấp kết cấu hạ tầng, dịch vụ công cho xã
hội. QLNN về đầu tư theo hình thức PPP vì vậy vừa mang đặc trưng chung
của QLNN về đầu tư, đầu tư công và vừa mang đặc trưng riêng của QLNN về
đầu tư theo hình thức PPP.
Trong khoa học quản lý, QLNN về kinh tế là sự tác động có tổ chức và
bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân, nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có
để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra, trong điều kiện hội
nhập và mở rộng giao lưu quốc tế [23, tr.21].
Theo Liên hiệp quốc, QLNN đối với PPP bao gồm thiết lập mối quan
hệ đối tác, quản lý mạng lưới các đối tác khác nhau, thực hiện thương thảo
hợp đồng, quản lý việc thực hiện hợp đồng và phân tích rủi ro; đồng thời yêu
44
cầu phía đối tác tư nhân thực hiện phân phối các dịch vụ công với trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước [97, tr.8-9]. Theo cách tiếp cận này, QLNN đối với
PPP yêu cầu sự vào cuộc chủ động và thường xuyên của chủ thể QLNN ngay
từ khi chuẩn bị đề xuất dự án PPP trong suốt quá trình hình thành và thực hiện
hợp đồng PPP cho đến khi cung ứng dịch vụ công hoặc cơ sở hạ tầng là sản
phẩm của PPP cho người dân. Đối với các dự án PPP giao thông, để thiết lập
được mối quan hệ đối tác, Nhà nước cần phải xác định dự án trên cơ sở chiến
lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
phát triển đô thị.
Do vậy, QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông là sự
tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước nhằm huy động và sử
dụng có hiệu quả nhất nguồn lực của khu vực tư nhân tham gia vào các dự án
PPP giao thông nhằm đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông. QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông bao gồm các
công việc quản lý của các CQNNCTQ từ khi chuẩn bị đề xuất CTĐT dự án
cho đến giai đoạn hoàn tất chuyển nhượng tài sản cho Nhà nước, đảm bảo
cung ứng các tuyến đường giao thông thuận lợi cho nhân dân và xã hội đồng
thời hài hòa lợi ích cho đối tác tư nhân tham gia dự án.
Mục tiêu QLNN đối với PPP trong đầu tư các công trình hạ tầng giao
thông là nhằm đạt mục tiêu chiến lược của Nhà nước về việc phát triển hệ
thống hạ tầng giao thông thông qua hình thức PPP, thu hút sự tham gia của
các NĐT tư nhân vào xây dựng các công trình giao thông, đảm bảo dự án PPP
giao thông được thực hiện đúng định hướng, đúng pháp luật, đạt mục tiêu đề
ra, đạt hiệu quả tài chính so với dự án đầu tư công và hài hòa lợi ích với đối
tác tư nhân.
Chủ thể QLNN là các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà nước được
trao quyền lực nhà nước bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp:
Quốc hội, Chính phủ, các bộ ban ngành và UBND cấp tỉnh. Chủ thể QLNN
45
thông qua quyền lực nhà nước điều chỉnh hoạt động đầu tư các công trình kết
cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP theo định hướng mục tiêu mà Nhà
nước đặt ra. Các công cụ quản lý là các chính sách, pháp luật, quy hoạch, chiến
lược, kế hoạch… Đối với PPP, Nhà nước vừa là chủ thể quản lý vừa là đối tác
tham gia hợp đồng PPP. Do vậy, Nhà nước vừa thực hiện vai trò là chủ thể chịu
trách nhiệm cuối cùng về việc cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng là sản phẩm của
PPP, vừa đảm bảo hài hòa lợi ích cho đối tác tư nhân tham gia hợp đồng PPP.
Dự án PPP có nhiều chủ thể liên quan: các CQNNCTQ, NĐT, các tổ chức tín
dụng, các đơn vị tư vấn, các đơn vị nhà thầu, tổ chức cá nhân sử dụng dịch vụ
sau đầu tư. QLNN về PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đòi hỏi một
chủ trương thể hiện sự quyết tâm lựa chọn PPP để hoàn thiện và phát triển hệ
thống hạ tầng giao thông của nhà nước, khung pháp lý đầy đủ để bảo đảm thực
hiện PPP và sự vào cuộc mang tính chủ động, liên tục và xuyên suốt của các
CQNNCTQ vào dự án PPP ở tất cả các giai đoạn kể từ khi đề xuất CTĐT dự
án cho đến khi quản lý vận hành công trình hạ tầng giao thông và bàn giao cho
Nhà nước.
Đối tượng của quản lý: Các hoạt động đầu tư của các dự án PPP công
trình kết cấu hạ tầng giao thông.
Theo Ủy ban Kinh tế Liên hiệp Quốc châu Âu, QLNN về PPP cần
tuân thủ các nguyên tắc: (i) Mức độ tham gia của các bên liên quan, (ii) Tính
đúng đắn, (iii) Tính công khai rộng rãi với từng quyết định đưa ra, (iv) Trách
nhiệm giải trình, (v) Tính công bằng, và (vi) Tính hiệu quả [97, tr.13-14].
Thứ nhất, QLNN về PPP phải đảm bảo mức độ tham gia của các bên liên
quan. Các đối tác tham gia dự án PPP thông qua các thỏa thuận hợp đồng,
trên cơ sở các đàm phán về sự chia sẻ trách nhiệm, rủi ro và lợi ích. Các đối
tác tham gia PPP cần được đảm bảo đủ các điều kiện pháp lý để tham gia
đúng trách nhiệm và quyền hạn của mình như trong thỏa thuận hợp đồng
PPP. Thứ hai, đảm bảo tính đúng đắn của dự án, không làm sai lệch bản chất
46
của PPP là huy động sự tham gia của các NĐT tư nhân để cung cấp dịch vụ
công hoặc cơ sở hạ tầng cho xã hội. Thứ ba, đảm bảo tính công khai rộng rãi
với từng quyết định đưa ra là yêu cầu quan trọng trong toàn bộ hoạt động
quản lý dự án PPP với tất cả các giai đoạn của dự án. Thứ tư, đảm bảo trách
nhiệm giải trình của nhà nước trước những thắc mắc của cộng đồng với từng
quyết định của đối tác nhà nước cho từng công việc chi tiết của dự án. Thứ
năm, đảm bảo tính công bằng trong việc lựa chọn NĐT và cung ứng dịch vụ
cho xã hội. Thứ sáu, đảm bảo tính hiệu quả của dự án PPP so với các dự án
đầu tư tương đương sử dụng nguồn vốn NSNN.
2.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ trong đầu tƣ
kết cấu hạ tầng giao thông cấp chính quyền địa phƣơng
Quản lý nhà nước về PPP trong đầu tư các công trình giao thông bao
gồm các công việc quản lý của các CQNNCTQ từ khi chuẩn bị đề xuất CTĐT
dự án cho đến giai đoạn hoàn tất chuyển nhượng tài sản cho Nhà nước, đảm
bảo cung ứng các tuyến đường giao thông thuận lợi cho nhân dân và xã hội
đồng thời hài hòa lợi ích cho đối tác tư nhân tham gia dự án. Theo đó, những
nội dung của QLNN đối với đầu tư theo hình thức này gắn với từng giai đoạn
của hoạt động đầu tư theo hình thức PPP như kế hoạch thực hiện đầu tư các dự
án giao thông theo hình thức PPP, lựa chọn dự án PPP, thẩm định, phê duyệt,
huy động vốn hỗ trợ chuẩn bị đầu tư, thẩm định và phê duyệt BCNCKT dự án,
lựa chọn NĐT, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chuẩn bị mặt bằng, giám
sát thiết kế, giám sát hoạt động dự án, phê duyệt quyết toán, giám định chất
lượng, tiếp nhận lại dự án.
Thẩm quyền của cấp chính quyền địa phương được xác định thông qua
phân cấp QLNN. Phân cấp QLNN là quá trình chuyển giao quyền hạn và
trách nhiệm từ chính quyền trung ương cho các chính quyền địa phương hay
cho khu vực kinh tế tư nhân. Phân cấp QLNN về đầu tư cần phải tuân thủ
nguyên tắc phù hợp với năng lực (con người, bộ máy, tài chính…), phù hợp
47
với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phân cấp tài khóa phải tương ứng với
nhiệm vụ chi… Phân cấp QLNN về PPP giúp phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ, nguồn lực thực hiện của các cấp chính quyền đối với các dự án PPP theo
tầm quan trọng, tính chất và/hoặc quy mô của dự án. Ở Việt Nam, trước khi
Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư có hiệu lực từ ngày 01/01/2021,
phân cấp QLNN về PPP thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư,
Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng… Căn cứ vào quy mô và
tính chất dự án, dự án PPP được phân loại theo thẩm quyền phê duyệt CTĐT.
Theo đó, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định CTĐT dự án
PPP thuộc phạm vi quản lý trừ các dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội và
Thủ tướng Chính phủ.
Đối với các dự án PPP của cấp chính quyền địa phương, chủ thể QLNN
được phân định làm hai loại: (i) chủ thể là các cơ quan nhà nước soạn thảo,
thẩm định và thông qua các quy định pháp lý về PPP bao gồm Quốc hội,
Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang Bộ và chính quyền địa phương. (ii) Chủ
thể là chính quyền địa phương được ủy quyền quản lý các dự án PPP theo
phân cấp, đảm bảo quản lý sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhà nước; thực hiện
đúng các cam kết hợp đồng PPP; dự án hoạt động tuân thủ quy định pháp luật
và mục tiêu đầu tư.
QLNN của các tỉnh thành phố đối với PPP trong đầu tư các công trình
kết cấu hạ tầng giao thông được thực hiện trên cơ sở các quy định phân cấp
QLNN về PPP, đầu tư công, và quản lý các công trình giao thông đường bộ,
các công trình giao thông đường sắt, các công trình giao thông đường thủy.
Theo đó, đối với các công trình giao thông đường bộ, Thành phố Hà Nội thực
hiện đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống đường bộ (bao
gồm: lòng đường, lề đường, hè, giải phân cách, cầu đường bộ, hầm đường bộ,
cầu đi bộ, bến phà đường bộ (nếu có) và các công trình đường bộ khác):
đường cao tốc, đường quốc lộ do Trung ương bàn giao về Thành phố quản lý;
đường tỉnh lộ; các đường vành đai, đường trên cao; đường đô thị từ cấp
48
đường khu vực (theo QCVN 07-4:2016/BXD) có bề rộng mặt cắt ngang
đường từ 16 m trở lên; các đường chính đi qua địa bàn từ 2 đơn vị hành chính
cấp huyện trở lên. Đối với các tuyến đường thủy nội địa, chính quyền địa
phương tổ chức xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông đường thủy nội địa của địa phương trên cơ sở quy hoạch vùng phát
triển kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa; tổ chức quản lý, bảo trì
đường thủy nội địa địa phương (theo Luật Giao thông đường thủy nội địa).
Đối với kết cấu hạ tầng đường sắt, chính quyền địa phương tổ chức xây dựng,
công bố dự án và thực hiện quản lý các tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt đô
thị (theo Luật đường sắt số 06/2017/QH14). Như vậy, ở cấp chính quyền địa
phương, các dự án giao thông thuộc thẩm quyền chủ yếu là các dự án giao
thông đô thị, phục vụ đầu tư các tuyến đường theo quy hoạch, giải quyết tình
trạng ùn tắc giao thông.
Do những đặc điểm của dự án đầu tư theo hình thức PPP, các quy định
về nhiệm vụ quyền hạn của chính quyền địa phương của Thành phố trực thuộc
Trung ương, luận án tiếp cận và giới hạn nội dung QLNN đối với PPP trong
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông bao gồm các nội dung sau:
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch thực hiện PPP để phát triển hệ thống
giao thông của địa phương
- Lựa chọn dự án PPP giao thông phù hợp
- Tổ chức thẩm định và phê duyệt dự án PPP
- Tổ chức đấu thầu lựa chọn NĐT
- Quản lý và tổ chức thực hiện hợp đồng PPP
2.2.2.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch thực hiện hợp tác công tư để
phát triển hệ thống giao thông cấp tỉnh
Trên giác độ QLNN về kinh tế, chức năng hoạch định phát triển kinh tế
là quyết định trước những nhiệm vụ, những mục tiêu và các giải pháp phát
triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian dài thường là 05 năm, 10 năm
hoặc lâu hơn thông qua hệ thống các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
49
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm và hàng năm, và các chương trình quốc gia [23, tr.202]. Hoạch định phát
triển kinh tế theo nghĩa rộng bao gồm cả xác định ra đường lối phát triển kinh
tế và thiết lập các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn cho sự phát triển;
bao quát được mọi quá trình phát triển kinh tế, mọi cấp quản lý và các giai
đoạn khác nhau của quá trình phát triển kinh tế.
Để thực hiện QLNN đối với hình thức PPP trong đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng giao thông có hiệu quả, Nhà nước cần xây dựng, ban hành chiến
lược, các quy hoạch, kế hoạch về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông tổng
thể và cụ thể cho từng tỉnh thành phố. Trên cơ sở đó, cùng với tình hình thực
tế của địa phương, UBND các tỉnh thành xây dựng các kế hoạch về đầu tư
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của địa phương, xác định rõ
nhu cầu vốn đầu tư, thứ tự ưu tiên thực hiện các dự án. Căn cứ vào nguồn lực
địa phương và nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, các địa phương xây
dựng chiến lược và kế hoạch phát triển phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông theo hình thức PPP, trong đó xác định những mục tiêu trước mắt,
lâu dài và triển khai các giải pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Chiến lược và kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức
PPP cần cụ thể thành các chương trình hành động chi tiết nhằm huy động, sử
dụng nguồn lực từ khu vực tư nhân để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông. Đây sẽ là một trong những cơ sở quan trọng giúp chính quyền các tỉnh
thành phố đưa ra các thứ tự ưu tiên các dự án đầu tư xây dựng trong điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể. Đồng thời là căn cứ pháp lý để hướng dẫn hoạt động
và đánh giá hoạt động của các chủ thể tham gia thực thi chiến lược và kế
hoạch đề ra. Công tác xây dựng kế hoạch đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và liên
tục giữa các bộ, ngành, địa phương cùng các chuyên gia và doanh nghiệp
quan tâm đồng thời cần đảm bảo tính linh hoạt để ứng phó kịp thời với những
thay đổi của môi trường kinh tế - xã hội.
50
Nội dung các kế hoạch thường bao gồm ba (03) nội dung cốt yếu: mục
tiêu, giải pháp và nguồn lực.
- Mục tiêu: Trước tiên, cần xác định, đánh giá đúng đắn thực trạng phát
triển kinh tế - xã hội, thực trạng hạ tầng giao thông; xác định các nguồn lực
hiện có về tài chính, nhân sự, đất đai, các địa phương cần xác định rõ mục tiêu
hợp tác PPP, bao gồm qui mô hợp tác, lĩnh vực hợp tác, các dự án cụ thể thực
hiện hợp tác, thời gian hợp tác...
- Các giải pháp: Để quản lý hợp tác PPP nhằm đạt được mục tiêu, chính
quyền các tỉnh thành phố cần đặt ra đồng bộ các giải pháp bao gồm: tổ chức
xúc tiến đầu tư, tổ chức lựa chọn dự án, tổ chức bộ máy, quy trình tổ chức
thẩm định các bước, tổ chức GPMB, tổ chức kiểm tra, theo dõi, giám sát…
- Nguồn lực: Xác định các nguồn lực thực hiện PPP, bao gồm nguồn
lực nhà nước, nguồn lực tư nhân và nguồn lực khác.
2.2.2.2. Lựa chọn dự án hợp tác công tư giao thông phù hợp
Theo kinh nghiệm của những quốc gia đã thực hiện thành công các dự
án PPP giao thông, việc lựa chọn dự án PPP chất lượng với sự chuẩn bị kỹ
lưỡng và bố trí đủ nguồn lực (tài chính và nhân sự) cùng quy trình thực hiện
cạnh tranh, minh bạch là điều kiện tiên quyết hàng đầu để thực hiện thành công
các dự án PPP. Theo Delmon (2011) lựa chọn dự án PPP để thực hiện nên căn
cứ trên kết quả đánh giá tỷ lệ hoàn vốn tài chính dự kiến (FIRR: financial
IRR), tỷ lệ hoàn vốn kinh tế dự kiến (EIRR: economic IRR) và đánh giá tác
động của dự án đến môi trường và xã hội [55, tr.44]. Theo Engel, lựa chọn dự
án PPP các công trình giao thông đô thị cần dựa trên 03 căn cứ: (i) dự án được
thực hiện theo hình thức PPP vì tính hiệu quả hơn là vì những khó khăn về tài
chính; (ii) các cơ sở pháp lý đảm bảo doanh thu cho NĐT và (iii) sự quản lý
hiệu quả của nhà nước ở các khâu lập kế hoạch, quản lý hợp đồng và sự phối
hợp giữa các cơ quan đơn vị [57, tr.19-20].
Như vậy, việc lựa chọn dự án PPP giao thông bao gồm việc xác định
dự án phát triển hạ tầng giao thông và xác định hình thức hợp đồng PPP để
triển khai dự án đó.
51
* Xác định dự án phát triển hạ tầng giao thông
Các dự án hạ tầng giao thông được lựa chọn đề xuất phải phù hợp với
quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương. Các chiến lược, kế hoạch thực hiện PPP để phát triển kết
cấu hạ tầng giao thông của tỉnh/thành phố sẽ bao gồm việc xác định nhu cầu
các công trình kết cấu hạ tầng giao thông, nguồn vốn dự kiến, phương thức tốt
nhất để giải quyết các vấn đề đặt ra và thứ tự ưu tiên thực hiện.
Dự án PPP có thể được đề xuất từ cơ quan nhà nước hoặc từ các NĐT.
Các dự án PPP được các cơ quan nhà nước đề xuất dựa trên quy hoạch, kế
hoạch phát triển hạ tầng giao thông của địa phương trên cơ sở cân đối nguồn
lực đầu tư. Các dự án do NĐT đề xuất thường đặt mục tiêu lợi nhuận của các
NĐT lên trên định hướng đầu tư của cơ quan nhà nước cũng như các lợi ích
xã hội của dự án. Do vậy các đề xuất PPP do NĐT đề xuất cần phải có quy
định cụ thể để ngăn ngừa các hành vi không minh bạch, đảm bảo các dự án
mang lại giá trị cho xã hội.
* Xác định lựa chọn hình thức đầu tư dự án PPP
Có 03 cơ chế chi trả phổ biến của dự án PPP hạ tầng giao thông, đó là
người sử dụng chi trả, nhà nước chi trả và nhà nước bù giá. Đối với các dự án
giao thông đô thị không bao gồm công tác vận hành, thì cấu trúc tài chính chủ
yếu là nhà nước chi trả, phù hợp với hình thức BT. Đối với các dự án giao
thông lớn có khả năng thu phí sử dụng thì phù hợp với hình thức BOT [102,
tr.19-23].
Trước khi tiến hành đấu thầu chính thức, các NĐT có khả năng dự thầu
có thể được mời để cho ý kiến về cấu trúc dự án đề xuất. Các thông tin sơ bộ
của dự án được công khai bằng nhiều hình thức: tổ chức triển lãm, tài liệu dự
án hoặc tổ chức hội thảo. Công khai các thông tin này một mặt cung cấp đầy
đủ thông tin cho các cá nhân tổ chức quan tâm, một mặt tạo ra sự quan tâm
của thị trường, giúp tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu giữa các NĐT. Phản
52
hồi từ các đối tác tư nhân tiềm năng trong giai đoạn thiết kế/chuẩn bị sẽ giúp
hoàn thiện khả năng thu hút sự quan tâm của các NĐT với dự án.
Việc xác định các dự án thực hiện theo hình thức PPP nhằm mục đích
đảm bảo các dự án này sau khi triển khai sẽ mang lại lợi ích tốt nhất cho xã
hội, và có sự tính toán cân đối tất cả các lợi ích, chi phí và rủi ro trong suốt
vòng đời của dự án. Việc xem xét áp dụng hình thức PPP cần cân nhắc các
nội dung sau:
- Tính khả thi: khả năng chi trả cho việc thi công, vận hành và duy tu
bảo trì dự án, khả năng chi trả của người sử dụng dịch vụ hoặc của chính
quyền địa phương cho suốt vòng đời của dự án. Nếu người sử dụng dịch vụ
trực tiếp chi trả dịch vụ, thì chính quyền địa phương và các chuyên gia tư
vấn cần đánh giá khả năng và sự sẵn sàng chi trả của người sử dụng, nhất là
khi mức chi phí tăng so với hiện tại. Ở nhiều dự án PPP, nhà nước sẽ cần
phải có chính sách trợ giá để đảm bảo nội dung này. Nếu chính quyền địa
phương chi trả, thì chính quyền địa phương sẽ phải có trách nhiệm chi trả
trong suốt vòng đời PPP. Dự án PPP được đánh giá là khả thi khi các chi phí
liên quan nằm trong khả năng chi trả.
- Xác định các rủi ro của dự án, chiến lược phân bổ và quản lý rủi ro:
Hoạt động quản lý rủi ro cần được thực hiện liên tục và xuyên suốt từng giai
đoạn của dự án PPP với đầy đủ 05 nội dung sau: xác định rủi ro ở từng giai
đoạn dự án; đánh giá khả năng xảy ra và phạm vi ảnh hưởng của từng rủi ro;
phân bổ rủi ro giữa các đối tác; hạn chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu
các tác động xấu của nó; theo dõi và kiểm soát rủi ro trong suốt vòng đời dự
án PPP. Từ đó, lựa chọn hình thức hợp đồng PPP phù hợp.
- Đánh giá phương án tài chính dự án về khả năng thanh toán và khả
năng huy động vốn của dự án: Đa số các dự án PPP huy động vốn từ các
khoản vay dài hạn, trung bình khoảng 70%-90% TMĐT dự án. Do vậy, nhà
nước cần phải thường xuyên đánh giá rủi ro tài chính dự án. Không triển khai
53
các dự án không có giá trị về kinh tế. Các dự án PPP chỉ được triển khai khi
xác định được doanh thu từ dự án có thể bù đắp đủ các chi phí hoặc đối tác
nhà nước có đủ các nguồn lực để chi trả hoặc trợ giá cho dịch vụ. Dự án PPP
được lựa chọn phải có khả năng tạo doanh thu để hoàn vốn cho NĐT.
- Đánh giá giá trị mang lại của dự án: Thông thường sử dụng phương
pháp phân tích chi phí - lợi ích để đánh giá sự tương xứng giữa chi phí dự án
và chất lượng dịch vụ mang lại cho người sử dụng.
Để thực hiện nội dung đánh giá này, cán bộ thẩm định cần có năng lực
chuyên môn phù hợp, trường hợp không đáp ứng được, cần thuê chuyên gia
tư vấn độc lập để có đánh giá khách quan và hiệu quả. Ngoài ra, có cơ chế hỗ
trợ CQNNCTQ sử dụng các công cụ phân tích như: phương pháp so sánh với
dự án tương tự do khu vực công thực hiện (Public Sector Comparator - PSC);
phương pháp phân tích hiệu quả đầu tư (Value for money - VFM); phương
pháp so sánh lợi ích - chi phí (Benefit - Cost Analysis - BCA) … để đánh giá
hiệu quả đầu tư của dự án PPP.
Ở giai đoạn xác định dự án PPP, cơ quan nhà nước đã có đánh giá sơ
bộ tính khả thi của cấu trúc tài chính của dự án đề xuất, khả năng chi trả của
chính quyền địa phương hoặc/và người sử dụng, phạm vi dự án và nội dung
dịch vụ cung ứng, và các rủi ro được chia sẻ với NĐT tư nhân. Đồng thời, qua
đây chính quyền địa phương cũng xác định được trách nhiệm tài khóa đối với
dự án PPP được lựa chọn. Giai đoạn này có vai trò quan trọng, là tiền đề
hướng tới một dự án PPP thành công.
2.2.2.3. Tổ chức thẩm định và phê duyệt dự án hợp tác công tư
* Công tác chuẩn bị thẩm định
Nghiên cứu khả thi dự án PPP là xác định những vấn đề có thể xảy ra
trong giai đoạn thực hiện, nghiên cứu chi tiết khả năng cân đối vốn và lợi
nhuận, đóng vai trò quan trọng và là một yếu tố đảm bảo thành công của dự
án PPP. Nghiên cứu khả thi được thực hiện chi tiết, cụ thể sẽ giúp tiết kiệm
chi phí và thời gian thực hiện dự án.
54
Để chuẩn bị đầy đủ phục vụ công tác thẩm định nghiên cứu khả thi dự
án PPP, chính quyền địa phương cần dự liệu và chuẩn bị các nội dung:
- Thực hiện bố trí ngân sách phục vụ công tác chuẩn bị đầu tư, chi phí
thuê các chuyên gia tư vấn, và các chi phi quản lý dự án.
- Thiết lập một ban quản lý dự án các công trình giao thông theo hình
thức PPP, trong đó các cán bộ được lựa chọn phải có kinh nghiệm và chuyên
môn phù hợp, sẵn sàng và nhiệt tình trong công tác tham mưu phát triển dự án
giao thông theo hình thức PPP.
- Các giai đoạn của dự án PPP luôn cần có sự tham gia ý kiến của các
chuyên gia giàu kinh nghiệm ở các lĩnh vực: tài chính, pháp lý, kỹ thuật, thuế,
bảo hiểm, chuyên gia đánh giá tác động môi trường, chuyên gia đánh giá tác
động xã hội… Việc lựa chọn được chuyên gia có giàu kinh nghiệm và uy tín
sẽ góp phần hình thành dự án PPP có cấu trúc tốt và phù hợp với thị trường,
qua đó đảm bảo sự thành công của PPP.
- Sự phối hợp làm việc giữa đội ngũ các cán bộ ban quản lý dự án PPP
cùng các chuyên gia tư vấn đóng vai trò quyết định chất lượng báo cáo đánh
giá nghiên cứu khả thi dự án PPP.
* Đánh giá báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT)
Đánh giá BCNCKT là nội dung quan trọng của giai đoạn chuẩn bị dự
án PPP, giúp xác định khả năng thực hiện dự án, và dự kiến các giá trị dự án
sẽ mang lại, bao gồm ba nội dung chính: các tiêu chuẩn kỹ thuật, cấu trúc sơ
bộ hợp đồng dự án và mô hình tài chính dự án. Ba đánh giá này có tác động
và phụ thuộc vào nhau.
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật: bao gồm các tiêu chuẩn thiết kế, tiêu chuẩn
xây dựng, tiêu chuẩn vận hành, tiêu chuẩn duy tu và bảo trì công trình giao
thông. Các tiêu chuẩn này là căn cứ để tính toán thiết kế sơ bộ và dự toán
công trình. Từ đó, đánh giá tính khả thi về môi trường, kinh tế, đánh giá giá
trị lợi ích mang lại và đánh giá tính hợp lý của dự án. Các tiêu chuẩn kỹ thuật
55
này cũng là nội dung cơ bản của hồ sơ mời thầu để đánh giá các rủi ro kỹ
thuật của đối tác tư nhân và giá cả dịch vụ.
- Thiết kế sơ bộ cấu trúc hợp đồng dự án: Cấu trúc hợp đồng dự án xác
định mức độ tham gia vốn đầu tư, tương ứng với phân bổ rủi ro; phân chia
công việc và trách nhiệm giữa đối tác nhà nước và đối tác tư nhân và xác định
dự án do người sử dụng chi trả hay do nhà nước chi trả hay cả người sử dụng
và nhà nước cùng chi trả; phương thức chi trả và thời điểm, thời gian thực
hiện chi trả.
- Cấu trúc tài chính của dự án: đánh giá đầy đủ các thông tin tài chính
của đối tác tư nhân tương lai trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng bao gồm:
các khoản đầu tư, doanh thu, chi phí, thuế, các khoản tín dụng, chi phí vốn, bảo
hiểm, lạm phát… Đồng thời, phân tích tình hình tài chính của dự án hạ tầng
giao thông bao gồm: các khoản chi phí dự kiến để đầu tư, vận hành và duy tu
công trình, các dữ liệu của các công trình tương tự về nhu cầu, chi phí, doanh
thu, các nghiên cứu liên quan, và ước lượng các tác động đến tài khóa ngân
sách. Cấu trúc tài chính dự án cũng giúp xác định rõ chức năng của chính
quyền địa phương với dự án và phương án phân phối khi dự án vận hành, trách
nhiệm và cách thức vận hành của đối tác tư nhân khi tham gia hợp đồng PPP.
Ngoài ra, khi xác định được các nội dung trên, có thể tiến hành khảo
sát sự quan tâm của các NĐT thông qua các phương tiện truyền thông, hoặc
tổ chức đối thoại giữa các đơn vị nhà nước và các NĐT tư nhân. Qua đó xác
định khả năng thực hiện của dự án và tiếp nhận các góp ý điều chỉnh quy mô
dự án và việc xây dựng hợp đồng để xây dựng chiến lược đầu tư hấp dẫn thu
hút các đối tác tư nhân tiềm năng và tạo sự cạnh tranh giữa họ để cung ứng
cho địa phương lựa chọn tốt nhất.
* Chuẩn bị tài liệu đầu thầu và dự thảo hợp đồng PPP
Ban quản lý dự án giao thông theo hình thức PPP kiện toàn một hội
đồng tư vấn đấu thầu bao gồm các chuyên gia đấu thầu có kinh nghiệm thực
56
hiện theo dõi quy trình đấu thầu, chuẩn bị hệ thống tiêu chí đánh giá và
phương thức lựa chọn NĐT, chuẩn bị hồ sơ mời thầu, và kiến nghị các quyết
định quan trọng. Quy trình đầu tư, các tài liệu đấu thầu và hợp đồng cần phải
đáp ứng mục tiêu của chính quyền địa phương.
Dự thảo hợp đồng PPP là một trong những tài liệu đính kèm với hồ sơ
mời thầu. Khi dự thảo hợp đồng PPP, bên cạnh các điều khoản pháp lý, cần
quan tâm đến phân tích dòng tiền, sự phân chia trách nhiệm, rủi ro giữa các
đối tác trong các diễn biến của thị trường và tham khảo ý kiến tham vấn của
các chuyên gia. Các tư vấn pháp lý phải tham gia vào quá trình xây dựng dự
thảo hợp đồng, đảm bảo dự thảo hợp đồng đã bao quát đầy đủ các nội dung và
dự kiến được các công việc tương lai, không cho phép các thương thảo sau
khi có kết quả đấu thầu.
2.2.2.4. Tổ chức lựa chọn nhà đầu tư
Tổ chức lựa chọn NĐT bao gồm các hoạt động quản lý liên quan đến
việc lập kế hoạch lựa chọn NĐT, xây dựng hồ sơ mời thầu; tổ chức lựa chọn
NĐT; đánh giá hồ sơ dự thầu và xếp hạng NĐT; đàm phán và ký kết hợp
đồng với NĐT.
Tổ chức lựa chọn nhà đầu tư cần tuân thủ nguyên tắc minh bạch và bảo
mật. Minh bạch các thông tin về dự án, tiến độ và quy trình tổ chức đấu thầu
và bảo mật các thông tin đảm bảo không làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế
của dự án. Các hồ sơ dự thầu thông thường được đánh giá dựa trên đánh giá
kỹ thuật và đánh giá tài chính. Quá trình lụa chọn NĐT cần đảm bảo sự cạnh
tranh để lựa chọn được NĐT có giá thầu cạnh tranh nhất và các giải pháp tối
ưu, đồng thời rủi ro được chuyển giao hiệu quả. Nếu không đảm bảo sự cạnh
tranh trong lựa chọn NĐT thì hình thức PPP có thể gây tốn kém hơn so với
phương thức đầu tư công truyền thống [98, tr.15].
Sau khi có kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu của các NĐT, hai bên cần
đàm phán rà soát lại những vấn đề cam kết và những nội dung cần làm rõ. Nội
dung đàm phán cần tập trung vào các vấn đề: chuyển giao rủi ro, cơ chế thanh
57
toán, điều khoản chuyển giao tài sản, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa hai
bên đối tác. Phía khu vực nhà nước thường là bên có ít kinh nghiệm nhất
trong bàn đàm phán và vì thế, Nhà nước nên thuê các cố vấn chuyên môn phù
hợp, xây dựng chiến lược đàm phán rõ ràng và kế hoạch dự phòng. Các cá
nhân chủ chốt tham dự đàm phán lập và lưu giữ biên bản thảo luận về những
vấn đề đàm phán. Đàm phán cần được tổ chức đảm bảo đủ thời gian và nếu
cần thiết có thể phải tiến hành nhiều vòng đàm phán.
2.2.2.5. Quản lý và tổ chức thực hiện hợp đồng hợp tác công tư
Quản lý và tổ chức thực hiện hợp đồng PPP là một nội dung quan trọng
trong QLNN đối với PPP. Quy trình quản lý và giám sát hợp đồng phải đảm
bảo tiến độ thi công và tổ chức vận hành dự án, do vậy các điều khoản của
hợp đồng cần yêu cầu hai đối tác không những đảm bảo thực thi đầy đủ trách
nhiệm mà còn phải có trách nhiệm phản hồi kịp thời với mọi thay đổi trong
thi công và vận hành dự án.
* Quản lý thực hiện hợp đồng
Chính quyền địa phương cần xác định rõ trách nhiệm các bên tham gia,
có sự phân biệt giữa đơn vị quản lý hợp đồng và ban quản lý dự án; các điều
khoản để ứng phó với những thay đổi của hợp đồng và kiểm soát các dấu hiệu
bất thường của doanh nghiệp PPP; thường xuyên rà soát công tác quản lý hợp
đồng; đảm bảo đủ ngân sách và nhân sự để thực hiện đầy đủ các trách nhiệm
quản lý hợp đồng. Chính quyền địa phương có trách nhiệm xây dựng quy chế
làm việc của đơn vị quản lý hợp đồng PPP, trong đó quy định rõ đơn vị quản
lý thực hiện hợp đồng có trách nhiệm giám sát và quản lý hiện trường, đối
chiếu thiết kế được phê duyệt, các tiêu chuẩn quy định, giám sát sự tuân thủ
của đối tác tư nhân trong suốt quá trình thi công, kiểm soát tiến độ, quản lý
truyền thông, quản lý sự thay đổi, điều chỉnh, các yêu sách và các tranh chấp;
kiểm soát các khoản thanh toán và các điều kiện chấp thuận vận hành.
* Quản lý vận hành, khai thác công trình
58
Quản lý vận hành, khai thác công trình là đảm bảo công trình giao
thông được bàn giao sử dụng theo các điều kiện quy định trong hợp đồng dự
án, tối ưu hóa nguồn lực và đảm bảo hiệu quả dự án để khẳng định công nghệ
và các yếu tố mới là phù hợp. Hợp đồng PPP cần nêu rõ các nghĩa vụ của
doanh nghiệp PPP và đặc trưng dự án cung ứng và các tiêu chuẩn chất lượng
đầu ra. Cần phải ban hành quy trình bảo đảm việc kiểm soát chặt chẽ hiệu quả
của doanh nghiệp dự án PPP và sự đồng thuận chung với hợp đồng đã được
ký kết. Để kiểm soát hiệu quả hoạt động của dự án, doanh nghiệp dự án PPP
có trách nhiệm cung cấp cho đơn vị quản lý dự án các dữ liệu cơ bản về vận
hành và tài chính. Hợp đồng PPP cần quy định chế độ và các mốc thời điểm
cung cấp thông tin, qua đó đơn vị quản lý hợp đồng xác định và kiểm soát
được hoạt động thi công và hiệu quả vận hành của công ty dự án PPP, từ đó
hỗ trợ chính quyền địa phương quản lý các rủi ro của dự án trong suốt vòng
đời của hợp đồng PPP.
Ngoài ra, tranh chấp có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của dự án
PPP bao gồm thi công, vận hành và chuyển giao công trình cho nhà nước.
Phương thức được chấp thuận để giải quyết tranh chấp giữa các bên được đề
cập trong hợp đồng đều phải tuân thủ khung pháp lý về giải quyết tranh chấp
của quốc gia.
* Chủ động chuẩn bị kịch bản nhận chuyển nhượng khi dự án kết thúc
Sau khi ký kết hợp đồng PPP, chính quyền địa phương cần xác định
đơn vị nhận chuyển giao trách nhiệm quản lý thực hiện hợp đồng. Đơn vị này
có trách nhiệm xây dựng quy chế và quy trình quản lý bao gồm quản lý sự
thay đổi, duy trì sự toàn vẹn của hợp đồng, và quản lý tài chính. Chính quyền
địa phương cần xác định rõ trách nhiệm quản lý của đơn vị, quy định cơ chế
báo cáo giám sát vận hành dự án, các điều khoản để quản lý sự thay đổi bao
gồm cả các trường hợp thất bại của doanh nghiệp dự án PPP, yêu cầu hệ
59
thống kiểm soát thực hiện hợp đồng và đảm bảo bố trí đầy đủ kinh phí và
nhân sự để thực hiện quản lý hợp đồng.
Một số nội dung công việc cần lưu ý trong quá trình nhận chuyển
nhượng, bao gồm: thủ tục liên quan đến việc chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ
theo hợp đồng dự án; thủ tục chấp thuận chủ trương chuyển nhượng quyền,
nghĩa vụ theo hợp đồng dự án; quy trình thẩm định, phê duyệt đầu tư bổ sung
khi việc đầu tư bổ sung làm thay đổi mục tiêu, quy mô, địa điểm xây dựng và
tiêu chuẩn kỹ thuật chủ yếu của công trình dự án theo quy định; các nội dung
liên quan đến điều chỉnh giá vé, đối tượng thu phí và các nội dung khác liên
quan đến thu phí; tiêu chí về chất lượng công trình dự án trong quá trình khai
thác và khi NĐT chuyển giao công trình dự án cho nhà nước.
Đơn vị được giao quyền nhận chuyển nhượng thực hiện tiếp nhận hồ
sơ, tài liệu công trình dự án theo quy định để tiếp tục thực hiện quản lý hợp
đồng dự án. Thỏa thuận quy trình bảo trì; chấp thuận kế hoạch và kinh phí
công tác bảo trì; theo dõi, kiểm tra công tác bảo trì của doanh nghiệp dự án;
thỏa thuận quyết toán công tác bảo trì. Theo dõi, kiểm tra công tác đảm bảo
giao thông; chấp thuận phương án án tổ chức giao thông cấp phép thi công
trong phạm vị bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông. Theo dõi, kiểm tra doanh thu
thu phí; công tác tổ chức thu phí, có biện pháp chống thất thoát doanh thu;
kiểm soát lãi suất vay trong thời gian kinh doanh, khai thác công trình dự án
và các thông số liên quan đến phương án tài chính và thu phí. Thực hiện thẩm
quyền đình chỉ, dừng thu phí khi NĐT, doanh nghiệp dự án vi phạm hợp đồng
dự án. Thực hiện các thủ tục liên quan đến việc chuyển nhượng và nghĩa vụ
theo hợp đồng dự án. Định kỳ 5 năm, tiến hành xác nhận với doanh nghiệp dự
án về các thông số tài chính dự án, các chi phí vận hành và xác định thời gian
còn lại của hợp đồng. Tổ chức tiếp nhận dự án.
Giai đoạn này cũng bao gồm hết hạn hợp đồng và bàn giao tài sản cho
cơ quan mua sắm. Hợp đồng nên bao gồm các quy định cụ thể về việc bàn
giao tài sản, các thông số kỹ thuật cho điều kiện bắt buộc của cơ sở hạ tầng tại
60
thời điểm này. Để đáp ứng điều kiện này, đối tác tư nhân có thể phải đầu tư
vật chất trước khi chuyển tài sản cho cơ quan có thẩm quyền.
* Đánh giá sau đầu tư
Xác định cơ quan thực hiện đánh giá từng dự án PPP, đảm bảo tính độc
lập với các đơn vị thực hiện và quản lý hợp đồng PPP; xác định nội dung
đánh giá; các bài học rút ra từ các dự án (cả các thành công và thất bại). Các
bài học này sẽ giúp cải thiện các quyết định đầu tư theo hình thức PPP,
phương thức thiết kế các hợp đồng PPP và cách thức chuẩn bị và thực hiện tối
ưu các dự án PPP.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến thành công của dự án hợp tác
công tƣ
Dự án đầu tư theo hình thức PPP là hình thức đầu tư được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng dự án giữa CQNNCTQ và NĐT, doanh nghiệp dự án để
xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng, cung cấp
dịch vụ công. Do nguồn ngân sách để phát triển hạ tầng của các tỉnh, thành
phố hiện nay hạn chế so với nhu cầu rất lớn về nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ
tầng, đầu tư theo hình thức PPP với sự tham gia của các nguồn lực của khu
vực tư nhân hiện nay là một lựa chọn tối ưu để nhà nước xem xét tổ chức thực
hiện. Tuy nhiên, nếu PPP không được quản lý chặt chẽ và tạo điều kiện thực
hiện thì các dự án PPP có thể kém hiệu quả hơn so với các dự án đầu tư công
truyền thống thậm chí gây nhiều hệ lụy cho xã hội. Nhà nước cần quan tâm
đến các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP để hoàn thiện hoạt
động QLNN phát huy tối đa các ưu điểm mà hình thức đầu tư này mang lại.
Là một thành viên tham gia vào dự án PPP, nhà nước đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển và quản lý dự án PPP. Nhiệm vụ của Nhà nước là
tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thành công các dự án PPP. Bên cạnh phân
tích nội dung QLNN về PPP, thông qua nghiên cứu mối quan hệ giữa các tiêu
chí thành công và các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP, luận
án xác định rõ các nội dung quan trọng kiến nghị cơ quan QLNN cần tập
trung để thực hiện thành công các dự án PPP.
61
2.2.3.1. Tiêu chí đánh giá thành công của dự án hợp tác công tư giao
thông
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu quốc tế, thành công của dự án kết
cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP được nhìn nhận trên 06 tiêu chí sau:
Bảng 2.1: Các tiêu chí đánh giá thành công của dự án hợp tác công tƣ
TT
Nội dung
Tác giả
Ký hiệu
Tiêu chí thành công
Thang đo
Dixon, T., G. Pottinger, and A.
Jordan(2005) [54] Liyanage, C. and F. Villalba-
Dự án khi đưa vào sử dụng đáp ứng
Romero (2015) [70] Lam, P.T.I. and A.A. Javed
1 HQ1
Chất lượng công trình
được các tiêu chuẩn và yêu cầu đặt ra và
Likert 1-5
(2015) [72] Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan
luôn được quan tâm bảo trì chất lượng
(2017) [82] Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan
(2017) [84] Osei-Kyei, R., et al. (2017) [81]
Liang, Y. and H. Jia (2018) [69]
Dixon, T., G. Pottinger, and A.
Dự án được thi công
Jordan(2005) [54]
Đảm bảo
và
hoàn
thành
Likert
Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan
2 HQ2
tiến độ dự
không muộn hơn
1-5
(2017) [84]
án
tiến độ yêu cầu.
Osei-Kyei, R., et al. (2017) [81]
Liang, Y. and H. Jia (2018) [69]
Dixon, T., G. Pottinger, and A. Jordan(2005) [54]
Dự án được thực
Liyanage, C. and F. Villalba- Romero (2015) [70]
hiện đảm bảo dự toán đã được phê
Hiệu quả chi
Likert
3 HQ3
phí đầu tư
1-5
Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan (2017) [82]
duyệt. Dự toán dự án không cao hơn so
với dự án đầu tư công tương đương.
Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan (2017) [84] Liang, Y. and H. Jia (2018) [69]
Dự án hoàn thành
đáp ứng nhu cầu của
Zhang, X. (2006) [110]
cộng đồng dân cư.
Yuan et al. (2009) [108]
Sự hài lòng
Quá trình thực hiện
Likert
Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan
4 HQ4
của nhân
dự án ít gây ra bức
1-5
(2017) [82]
dân
xúc trong nhân dân
Osei-Kyei, R., et al. (2017) [81]
hoặc các bức xúc
Liang, Y. and H. Jia (2018) [69]
được giải tỏa thỏa
đáng.
Mladenovic, G., et al. (2013) [73]
Đảm bảo lợi
Lợi nhuận được
Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan
nhuận cho
Likert
5 HQ5
đảm bảo cho đối tác
(2017) [82]
đối tác tư
1-5
tư nhân.
Osei-Kyei, R., et al. (2017) [81]
nhân
Liang, Y. and H. Jia (2018) [69]
Dự án góp phần
Zhang, X. (2006) [110]
Sự phát triển
thúc đẩy sự phát
Likert
Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan
6 HQ6
kinh tế địa
triển kinh
tế địa
1-5
(2017) [82]
phương
phương.
Liang, Y. and H. Jia (2018) [69]
Nguồn: Tác giả xây dựng và tổng hợp
62
HQ1: Chất lượng công trình: Dự án PPP tuân thủ nghiêm túc các tiêu
chuẩn và yêu cầu đầu ra kỳ vọng của dịch vụ/hạ tầng. PPP huy động sự sáng
tạo, đổi mới và khả năng tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật của đối tác tư
nhân. Trong PPP, các NĐT tư nhân được kỳ vọng là thi công và vận hành các
dự án PPP tuân thủ theo các yêu cầu đầu ra do các cơ quan nhà nước ban
hành. Tiêu chí này đòi hỏi chính quyền tỉnh thành phố có trách nhiệm đưa ra
bộ tiêu chuẩn đầu ra cụ thể và đầy đủ đối với từng dự án PPP cho các đối tác
tư nhân. Dự án khi đưa vào sử dụng đáp ứng được các tiêu chuẩn và yêu cầu
đặt ra và luôn được quan tâm bảo trì chất lượng.
HQ2: Đảm bảo tiến độ dự án: Khi dự án được hoàn thành đúng hoặc
trước tiến độ sẽ giúp các NĐT sớm hoàn vốn. Để đảm bảo tiến độ dự án, cần
63
phải lập kế hoạch dự án chi tiết, đơn giản hóa quy trình thẩm định, BCNCKT
chất lượng tốt, hỗ trợ của khu vực công, ủng hộ của cộng đồng, và mô tả dự
án rõ ràng. Tiến độ thời gian là khách quan và có thể đo lường được. Dự án
được thi công và hoàn thành không muộn hơn tiến độ yêu cầu.
HQ3: Hiệu quả chi phí đầu tư: Dự án được triển khai đảm bảo dự toán
đã được phê duyệt, ít phải điều chỉnh dự toán. Dự toán của công trình thực
hiện theo hình thức PPP không cao hơn so với dự toán của công trình tương
đương đầu tư bằng nguồn vốn NSNN.
HQ4: Sự hài lòng của nhân dân: Dự án PPP cung ứng dịch vụ công
cộng chất lượng, đảm bảo điều kiện tiếp cận công bằng và thuận lợi cho người
dân với dịch vụ công cộng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Dự án nhận được sự ủng hộ và vào cuộc thường xuyên của cộng đồng
dân cư trong suốt chiều dài dự án. Dự án hoàn thành đáp ứng đầy đủ nhu cầu
của cộng đồng dân cư, quá trình thực hiện dự án ít gây ra bức xúc trong nhân
dân và các bức xúc được giải tỏa thỏa đáng.
HQ5: Đảm bảo lợi nhuận cho đối tác tư nhân: Dự án PPP cần đảm bảo
dòng tiền cho các thành viên dự án trong suốt quá trình vận hành dự án. Tùy
từng dự án PPP, lợi nhuận thu được có thể đến với cả đối tác công và đối tác tư
hoặc chỉ đối tác tư nhân. Lợi nhuận cần được nhận diện vì nó là yêu cầu dài
hạn của dự án. Do vậy, ở giai đoạn lập và thẩm định BCNCKT, cần phải xác
định rõ điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định và mức phí sử dụng hạ tầng/dịch vụ
hợp lý.
HQ6: Sự phát triển kinh tế địa phương: Dự án PPP khi hoàn thành góp
phần và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch diễn ra trên địa
bàn. Đồng thời mở rộng phạm vi tham gia của các NĐT tư nhân vào các dự
án ưu tiên của địa phương.
64
2.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án hợp tác
công tư
Theo Google Scholar, đến ngày 31/12/2020, nghiên cứu của Bing Li và
cộng sự (2005) thực hiện năm 2001 về các nhân tố thành công chủ yếu (CSFs)
của các dự án PPP của Vương quốc Anh là nghiên cứu về CSFs được nhiều
trích dẫn nhất với 864 trích dẫn. Nghiên cứu này đã chỉ ra 18 nhân tố chính ảnh
hưởng đến thành công của dự án PPP bao gồm: điều kiện kinh tế vĩ mô ổn
định, khung pháp lý thuận lợi, chính sách kinh tế phù hợp, sự ủng hộ của Nhà
nước, sự đồng thuận và ủng hộ của cộng đồng dân cư, năng lực và tổ chức của
bộ máy nhà nước, quy trình đấu thầu cạnh tranh, công khai quá trình thực hiện
dự án, sự bảo đảm của Nhà nước, xác định hài hòa lợi ích của các bên, sự chia
sẻ và phân bổ rủi ro hợp lý, tuân thủ trách nhiệm cam kết công – tư, sự liên kết
mạnh mẽ trong khu vực tư nhân, quản trị tốt, tính khả thi về kỹ thuật của dự án,
sự phân quyền rõ ràng giữa hai đối tác công - tư, phân tích chi phí - lợi ích toàn
diện và thực tế, khả năng huy động vốn của thị trường tài chính. Danh mục 18
nhân tố này đã được nhiều nghiên cứu sử dụng để đánh giá các dự án PPP ở
nhiều quốc gia khác, như Trung Quốc [51], Malaysia [63], Hongkong với Úc
[52], Nigieria [46], đánh giá dự án BOT của Việt Nam [1].
Cũng nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án
PPP, một số nghiên cứu khác có mở rộng chi tiết các nhân tố, ví dụ như
nhân tố “Sự chia sẻ và phân bổ rủi ro hợp lý” thành “Rủi ro của dự án được
xác định chuẩn xác, đầy đủ và cụ thể” “Sự phân bổ rủi ro hợp lý của dự án
giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước”, “Sự phân bổ rủi ro của dự án
trên cơ sở đồng thuận giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước”. Nhân tố
“Cam kết và trách nhiệm của hai đối tác” thành “Sự cam kết tham gia bằng
nguồn lực tốt nhất của các tổ chức, cá nhân trong triển khai dự án PPP”;
“Tính trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân tham gia dự án PPP”; “Trách
65
nhiệm của mỗi bên tham gia được chia sẻ hợp lý”; “Trách nhiệm của mỗi
bên tham gia được xác định cụ thể”… Luận án kế thừa các nghiên cứu đi
trước, tổng hợp thành 24 nhân tố, nhóm thành 04 nhóm nhân tố ảnh hưởng
đến thành công dự án PPP giao thông, bao gồm: Môi trường đầu tư (mã
MT), Năng lực của khu vực tư nhân và xã hội (mã NL), Sự phối hợp và chia
sẻ giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân (mã CS), và Tổ chức thực hiện
dự án PPP (mã TH), cụ thể như sau:
Bảng 2.2: Các nhân tố ảnh hƣởng đến thành công của dự án
hợp tác công tƣ
Nhân tố
Nội dung
Tác giả
Ký hiệu
Thang đo
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
1-5
Mladenovic, G, et al (2013) [73],
Cheung, E. et al (2012) [52],
MT1 Điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định
Babatunde, S.O. et al (2012)[ 46],
Ismail, S. (2013) [63],
Siemiatycki,M. (2011) [93]
Chính sách đảm bảo môi trường
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
MT2
đầu tư bền vững, tạo điều kiện
1-5
Babatunde, S.O. et al (2012)[46]
Môi
lợi nhuận cho NĐT tư nhân
trƣờng
Likert
Mladenovic, G, et al (2013) [73],
đầu tƣ
1-5
Cheung, E. et al (2012) [51],
(MT)
Khung pháp lý đảm bảo các điều
Chan, P.C. et al (2010) [53],
MT3
kiện về xây dựng hợp đồng và
Li, B. et al (2005) [68],
bảo đảm thực hiện hợp đồng
Babatunde, S.O. et al (2012)[46],
Ismail, S. (2013) [63]
Likert
Chan, P.C. et al (2010) [51],
Sự quyết tâm của đối tác công
1-5
Li, B. et al (2005) [68],
MT4
(lãnh đạo Thành phố) trong thực
Osei-Kyei, R. et al (2015) [80],
hiện triển khai hình thức PPP
Babatunde, S.O. et al (2012)[46]
66
Nhân tố
Nội dung
Tác giả
Ký hiệu
Thang đo
Sự bảo lãnh và hỗ trợ của Nhà
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
nước bao gồm: trợ giá sử dụng
1-5
Qiao et al. (2001) [86],
MT5
dịch vụ sau đầu tư, ưu đãi thuế,
Zhang (2005) [111],
ưu đãi đầu tư...
Zhang et al. (1998) [112]
Các doanh nghiệp tư nhân tham
Likert
Cheung, E. et al (2012) [52],
gia dự án PPP có thế mạnh về
1-5
Ng, S. T. Et al (2012) [77],
NL1
năng lực kỹ thuật, tài chính và
Osei-Kyei, R. et al (2015) [80]
quản lý.
NĐT, các đơn vị tư vấn, các đơn
Likert
Cheung, E. et al (2012) [52],
vị nhà thầu, tổ chức tín dụng...
1-5
Jefferies et al. (2002) [64],
Năng lực
NL2
có sự liên kết chặt chẽ và tương
Chan et al. (2002) [50],
của khu
trợ nhau trong quá trình triển
Li, B. et al (2005) [68],
vực tƣ
khai dự án PPP
Zhang (2005) [111]
nhân và
Likert
Akintoye, A. et al (2001) [39],
xã hội
Khả năng huy động vốn của thị
1-5
Babatunde, S.O. et al (2012)[46],
(NL)
NL3
trường tài chính hỗ trợ khu vực
Li, B. et al (2005) [68],
tư nhân triển khai dự án PPP
Ismail, S. (2013) [63],
Zhang (2005) [111]
Likert
Chan, P.C. et al (2010) [51],
Sự đồng thuận và ủng hộ của
1-5
Li, B. et al (2005) [68],
NL4
nhân dân địa phương
Osei-Kyei, R. et al (2015) [80]
Rủi ro của dự án được xác định
Likert
Phạm Dương Phương Thảo (2013) [24]
CS1
chuẩn xác, đầy đủ và cụ thể.
1-5
Phạm Thị Trang (2018) [32]
Sự phối
Sự phân bổ hợp lý rủi ro của dự
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
hợp và
CS2
án giữa khu vực tư nhân và khu
1-5
Cheung, E. et al (2012) [52],
chia sẻ
vực nhà nước
Chan, A.P.C. et al (2010) [53]
giữa khu
Likert
Mladenovic, G, et al (2013) [73]
vực nhà
Sự phân bổ rủi ro của dự án trên
1-5
Cheung, E. et al (2012) [52]
nƣớc và
CS3
cơ sở đồng thuận giữa khu vực
Osei-Kyei, R. et al (2015) [80]
khu vực
tư nhân và khu vực nhà nước
Babatunde, S.O. et al (2012)[46]
tƣ nhân
(CS)
Sự cam kết tham gia bằng nguồn
Likert
Jefferies et al (2002) [64],
CS4
lực tốt nhất của các tổ chức, cá
1-5
Siemiatycki,M. (2011) [93]
67
Nhân tố
Nội dung
Tác giả
Ký hiệu
Thang đo
nhân trong triển khai dự án PPP
Tính trách nhiệm của các tổ
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
CS5
chức và cá nhân tham gia dự án
1-5
Cheung, E. et al (2012) [52],
PPP
Likert
Cheung, E. et al (2012) [52]
Trách nhiệm của mỗi bên tham
1-5
Li, B. et al (2005) [68]
CS6
gia được chia sẻ hợp lý
Ismail, S. (2013) [63]
Likert
Ng, S. T. Et al (2012) [77]
Trách nhiệm của mỗi bên tham
1-5
Chan, A.P.C. et al (2010) [53]
CS7
gia được xác định cụ thể
Lợi ích và chi phí được xem xét
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
và tính toán đầy đủ, đảm bảo lợi
1-5
Qiao et al. (2001) [86]
TH1
ích cho Nhà nước và người sử
dụng
Báo cáo nghiên cứu khả thi của
Likert
Mladenovic, G, et al (2013) [73],
TH2
dự án có phân tích chi tiết và cụ
1-5
Li, B. et al (2005) [68]
thể yếu tố kỹ thuật của dự án
Tính khả thi kỹ thuật của dự án
Likert
Qiao et al. (2001) [86]
Tổ chức
TH3
là tiêu chí đánh giá quan trọng
1-5
thực hiện
để lựa chọn thực hiện dự án PPP
dự án
Likert
Mladenovic, G, et al (2013) [73],
công
1-5
Chan, P.C. et al (2010)[51],
khai và
Tổ chức đấu thầu đảm bảo
Babatunde, S.O. et al (2012)[46],
hiệu quả
TH4
nguyên tắc cạnh tranh
Jefferies et al. (2002) [64],
(TH)
Li et al.(2005) [68],
Hall, J. (1998) [60]
Các thông tin về đấu thầu được
Likert
Chan, P.C. et al (2010) [51],
TH5
cung cấp công khai, đầy đủ và
1-5
Osei-Kyei, R. et al (2015) [80]
kịp thời
Các thông tin về quá trình tổ chức
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
TH6
thực hiện hợp đồng PPP được
1-5
Mladenovic, G, et al (2013) [73],
công khai rộng rãi và đầy đủ
NAO (2001) [76]
68
Nhân tố
Nội dung
Tác giả
Ký hiệu
Thang đo
Likert
Li, B. et al (2005) [68],
Dự án được theo dõi, giám sát
TH7
1-5
Ismail, S. (2013) [63],
và quản lý sát sao và hiệu quả
UNECE (2008) [97]
Likert 1-5
Li, B. et al (2005) [68], Chan, P.C. et al (2010) [51], Ismail, S. (2013) [63]
TH8
Năng lực quản lý và sự phối hợp của các đơn vị: Sở Giao thông Vận tải, Ban Quản lý dự án công trình giao thông Thành phố Hà Nội, UBND các quận huyện... trong tổ chức thực hiện các dự án PPP giao thông
Nguồn: Tác giả xây dựng và tổng hợp
1- Nhóm các nhân tố môi trường đầu tư (MT): bao gồm các nhân tố
liên quan đến chính sách, pháp lý, điều kiện kinh tế và sự ủng hộ và quyết tâm
của chính quyền địa phương: bao gồm 05 nhân tố.
+ MT1: Điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định: Thành công của các dự án
PPP có mối liên hệ chặt chẽ với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế.
Điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định sẽ duy trì mức lãi suất phù hợp, khả năng
thanh khoản, đảm bảo yếu tố rủi ro thị trường thấp, giảm thiểu các rủi ro cho
các chủ thể tham gia dự án PPP [68, tr.465]. Năm 2008, số dự án PPP giao
thông giảm đi một nửa so với năm 2006 do cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008 đã làm tăng gấp đôi lãi suất cho vay thực hiện dự án và thị
trường vốn mất thanh khoản [93, tr.1715].
+ MT2: Chính sách đảm bảo môi trường đầu tư bền vững sẽ đảm bảo
một môi trường kinh tế phát triển ổn định và thuận lợi, có ít rủi ro cho doanh
nghiệp tư nhân, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động tự tin hơn [68,
tr.465]. Để thực hiện thành công các dự án PPP, Nhà nước cần quan tâm đến
các điều kiện lợi nhuận của NĐT tư nhân để đảm bảo dự án PPP bền vững.
+ MT3: Khung pháp lý đầy đủ và thuận lợi đảm bảo các điều kiện về
69
xây dựng hợp đồng và bảo đảm thực hiện hợp đồng yêu cầu hệ thống các quy
định pháp lý đúng đắn, rõ ràng và năng động; đảm bảo sự ổn định cho các
thành viên tham gia các dự án PPP [63, tr.13].
+ MT4: Sự quyết tâm lãnh đạo tỉnh/thành phố trong thực hiện triển khai
hình thức PPP. Bản chất của PPP là một chính sách công, phụ thuộc vào ý chí
quyết tâm của các lãnh đạo nhà nước. Nếu quốc gia hay địa phương không có
chủ trương thực hiện PPP, thì sẽ không có sự bố trí kinh phí và nhân sự để
thực hiện triển khai dự án PPP. Mặt khác, chủ trương thực hiện PPP của các
lãnh đạo quốc gia và các tỉnh thành phố có sức thu hút tốt hơn sự quan tâm
của các NĐT tư nhân [77; tr.80].
+ MT5: Sự tham gia của Nhà nước thông qua các hình thức bảo đảm
bao gồm: trợ giá sử dụng dịch vụ sau đầu tư, ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư… Sự
tham gia này của Nhà nước làm giảm rủi ro doanh thu, hỗ trợ các dòng tiền ở
giai đoạn chuyển nhượng và giúp các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính
vững tin khi tham gia dự án [112, tr.403]. Đối với các dự án có nguồn doanh
thu chủ yếu từ việc chi trả phí trực tiếp của người tiêu dùng, rủi ro doanh thu
vượt khỏi khả năng kiểm soát của đối tác tư nhân đối với số lượng người sử
dụng dịch vụ và mức phí được phép thu. Trong trường hợp này, để đảm bảo
tính bền vững về kinh tế, Nhà nước có thể thực hiện các khoản bảo đảm của
Nhà nước, hoặc các khoản thu thêm, các khoản thanh toán định kỳ bổ sung để
đảm bảo chi phí dự án cũng như lợi nhuận đầu tư của NĐT.
2- Nhóm các nhân tố năng lực của khu vực tư nhân và xã hội (NL) bao
gồm 04 nhân tố:
+ NL1: Các doanh nghiệp tư nhân tham gia dự án PPP có thế mạnh về
năng lực kỹ thuật, tài chính và quản lý. Huy động được các lợi thế này của các
doanh nghiệp tham gia vào dự án PPP sẽ góp phần lớn vào thành công dự án
PPP. Khi nền kinh tế càng phát triển, khu vực kinh tế tư nhân sẽ phát triển cả
về số lượng và năng lực, nếu thu hút được sự tham gia của các NĐT tư nhân
70
lớn mạnh thì sẽ có nhiều dự án PPP thành công [77; tr.111].
+ NL2: NĐT, các đơn vị tư vấn, các đơn vị nhà thầu, tổ chức tín
dụng… có sự liên kết chặt chẽ và tương trợ nhau trong quá trình triển khai dự
án PPP. So với các dự án đầu tư công truyền thống, dự án PPP đòi hỏi sự liên
kết chặt chẽ nhiều hơn giữa các đơn vị doanh nghiệp khác nhau cùng tham gia
thiết lập lên một liên minh với đầy đủ thế mạnh về năng lực kỹ thuật, hoạt
động và quản lý để tiến hành dự án PPP [52; tr.109].
+ NL3: Khả năng huy động vốn của thị trường tài chính hỗ trợ khu vực
tư nhân triển khai các dự án PPP: Một trong các mục tiêu của PPP là giảm
thiểu các căng thẳng của NSNN trong đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật
thông qua huy động các nguồn lực kinh tế tư nhân thông qua các công cụ tài
chính phù hợp và thuận lợi [46, tr.220].
+ NL4: Sự đồng thuận và ủng hộ của nhân dân địa phương thể hiện qua
các phương tiện truyền thông, công đoàn, các tổ chức xã hội và các tổ chức
phi chính phủ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của dự án PPP. Sự
đồng thuận và ủng hộ của cộng đồng ở những giai đoạn đầu tiên của dự án sẽ
giúp giảm thiểu thời gian thực hiện, đặc biệt là giai đoạn GPMB tạo quỹ đất
cho dự án [68; tr.77].
3- Nhóm các nhân tố sự phối hợp và chia sẻ giữa khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân (CS): bao gồm các nhân tố liên quan đến sự chia sẻ rủi ro, lợi
ích và trách nhiệm giữa đối tác nhà nước và đối tác tư nhân bao gồm 07 nhân tố:
+ CS1: Rủi ro của dự án được xác định chuẩn xác, đầy đủ và cụ thể, là
cơ sở quan trọng để đưa ra các đánh giá khả thi của dự án PPP và sự phân bổ
rủi ro giữa các bên tham gia dự án PPP [24, tr.63].
+ CS2: Sự phân bổ hợp lý rủi ro của dự án giữa khu vực tư nhân và khu
vực nhà nước là một trong những nhân tố cơ bản của dự án PPP, do đó có
nhiều tác động đến sự thành công của dự án PPP. Thông qua đàm phán, trên cơ
sở các rủi ro đã được xác định, các bên đối tác thống nhất phân bổ từng loại rủi
71
ro cho bên đối tác có thế mạnh. Thông thường, nhà nước là bên có trách nhiệm
giải quyết những rủi ro liên quan tới cộng đồng, môi trường hoặc bảo lãnh vay
vốn, chịu trách nhiệm với các rủi ro nằm ngoài khả năng kiểm soát của khu vực
tư nhân. Ngược lại, khu vực tư nhân ưu việt hơn trong việc xử lý những rủi ro
liên quan đến quản lý, sử dụng đồng vốn… do vậy thường đảm nhận các rủi ro
về lạm phát và tỷ giá, tiến độ dự án kéo dài, vượt chi phí xây dựng… Nếu xác
định được đúng các rủi ro, phân bổ rủi ro hợp lý thì các rủi ro này sẽ trở thành
động lực để phát triển các dự án PPP thành công [51, tr.490].
+ CS3: Sự phân bổ rủi ro của dự án trên cơ sở đồng thuận giữa khu vực
tư nhân và khu vực nhà nước, đảm bảo sự vào cuộc đầy đủ và liên tục của các
đối tác tham gia dự án PPP [46, tr.222].
+ CS4: Sự cam kết tham gia bằng nguồn lực tốt nhất của các tổ chức,
cá nhân trong triển khai dự án PPP góp phần đảm bảo sự thành công của dự
án PPP [93, tr.1710]. Bên cạnh nguồn lực của nhà nước, dự án PPP luôn
hướng đến huy động các nguồn lực xã hội bao gồm nguồn vốn, khoa học
công nghệ, mô hình quản lý… để đầu tư thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng
hoặc cung cấp các dịch vụ công.
+ CS5: Tính trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân tham gia dự án
PPP: Cam kết và trách nhiệm thực hiện các cam kết của các tổ chức, cá nhân
tham gia dự án PPP là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hợp
tác, đảm bảo thực hiện thành công các dự án PPP [68, tr.464].
+ CS6: Trách nhiệm của mỗi bên tham gia được chia sẻ hợp lý: Sự
phân quyền và trách nhiệm rõ ràng giữa các đối tác sẽ giúp duy trì mối quan
hệ đối tác lâu dài theo tiến độ thực hiện dự án PPP, phát huy tốt nhất thế mạnh
của mỗi bên đối tác [63, tr.13-15].
+ CS7: Trách nhiệm của mỗi bên tham gia được xác định cụ thể. Qua
đó các thành viên tham gia dự án xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của mình
trong quá trình tổ chức thực hiện dự án PPP [80; tr.112].
72
4- Nhóm các nhân tố tổ chức thực hiện dự án công khai và hiệu quả
(TH): bao gồm 08 nhân tố liên quan đến chi phí giao dịch và thời gian để
thương thảo và hoàn thiện hợp đồng:
+ TH1: Lợi ích và chi phí được xem xét và tính toán đầy đủ, đảm bảo
lợi ích cho Nhà nước và người sử dụng. Lợi ích và chi phí cần được tính toán
và phân tích liên tục ở từng giai đoạn của dự án, nhằm kiểm định và xác nhận
tính khả thi và hiệu quả của dự án PPP [86, tr.59].
+ TH2: Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án có phân tích chi tiết và cụ
thể yếu tố kỹ thuật của dự án. Đây là căn cứ quan trọng để thực hiện dự án, là
cơ sở để đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật khi lựa chọn NĐT [77, tr.431].
+ TH3: Tính khả thi kỹ thuật của dự án là tiêu chí đánh giá quan trọng
để lựa chọn thực hiện dự án PPP. Để thực hiện thành công dự án PPP, việc
lựa chọn dự án thực hiện theo hình thức PPP cần coi trọng tính khả thi kỹ
thuật thay vì những lý do về khó khăn tài chính [86; tr.111].
+ TH4: Tổ chức đấu thầu đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh: Theo Hall
(1998), hiệu quả dự án (VFM: value for money) phụ thuộc vào sự đảm bảo
cạnh tranh trong tổ chức quy trình đấu thầu [60, tr. 128]. Theo Cơ quan kiểm
toán quốc gia, các cơ quan, đơn vị nhà nước cần thiết lập 3 điều kiện cốt lõi
đảm bảo đấu thầu cạnh tranh hiệu quả: danh sách các nhà thầu tham gia đấu
thầu, hệ thống các tiêu chuẩn tiêu chí lựa chọn cụ thể, và nguyên tắc cạnh
tranh phải được đảm bảo trong suốt quá trình tổ chức đấu thầu [75, tr.11-12].
+ TH5: Các thông tin về đấu thầu được cung cấp công khai, đầy đủ và kịp
thời giúp các NĐT có đầy đủ thông tin để tham gia đấu thầu, qua đó tăng cường
chất lượng lựa chọn NĐT đủ năng lực và kinh nghiệm tham gia dự án [80,
tr.1342-1343].
+ TH6: Các thông tin về quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng PPP
được công khai rộng rãi và đầy đủ. Để có được các dự án PPP thành công, sự
công khai phải được thực hiện ở giai đoạn đấu thầu, thỏa thuận hợp đồng
73
PPP, thực hiện dự án và quản lý vận hành dự án. NAO đưa ra 03 nội dung
quan trọng của công khai, đó là: sự trao đổi thông tin hiệu quả giữa các đối
tác và các đơn vị tư vấn, sự cởi mở trong thảo luận vấn đề trên nguyên tắc
đảm bảo trách nhiệm với từng quyết định đề ra, và việc thiết lập các căn cứ rõ
ràng để đưa ra quyết định của đối tác tư nhân [76, tr.18].
+ TH7: Dự án được theo dõi, giám sát và quản lý sát sao và hiệu quả là
nhân tố có vai trò quan trọng trong việc thu hút các doanh nghiệp tư nhân tham
gia dự án PPP. Nhà nước cần duy trì các biện pháp kiểm soát về chất lượng,
tiến độ và năng lực của NĐT, giữ quyền kiểm soát liên tục và sẵn sàng tham
gia và cung cấp lại dịch vụ nếu cần thiết. Nội dung nhân tố này bao gồm cả
hoạt động giám sát cộng đồng của người dân thụ hưởng dự án [97, tr.60-61].
+ TH8: Năng lực và sự phối hợp của các đơn vị: Sở Giao thông vận
tải, Ban quản lý dự án công trình giao thông thành phố, UBND các quận
huyện… trong tổ chức thực hiện các dự án PPP giao thông. Các đơn vị này
có chức năng hỗ trợ dự án PPP trong hoạt động tham mưu xây dựng chính
sách, các cơ quan tổ chức thực hiện chính sách, các đơn vị được giao nhiệm
vụ đại điện nhà nước để thỏa thuận hợp đồng PPP, do đó có tác động lớn đến
sự thành công của dự án PPP [51; 109]. Trong thực hiện các dự án PPP, nhà
nước có thể thuê các chuyên gia tư vấn độc lập có năng lực và kinh nghiệm
để thực hiện dự án.
2.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ Ở
MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ Ở NƢỚC TA VÀ BÀI HỌC RÚT RA
Theo tổng hợp của Bộ Giao thông vận tải, tính đến 31/12/2018, các
địa phương đã thực hiện 238 dự án PPP với tổng vốn đầu tư khoảng 538.546
tỷ đồng; trong đó có 172 dự án BT (chiếm 72,27%) với tổng vốn đầu tư là
444.965 tỷ đồng, 60 dự án BOT (chiếm 25,21%) với tổng vốn đầu tư là
91.877 tỷ đồng, 04 dự án BOO với tổng vốn đầu tư là 592 tỷ đồng, 01 dự án
BLT với tổng vốn đầu tư 423 tỷ đồng, 01 dự án BOT kết hợp BT với tổng
74
vốn đầu tư 689 tỷ đồng. Trong đó, có 152 dự án lĩnh vực giao thông [3, tr.5].
Qua thực hiện nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn của một số địa phương đã
thực hiện PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, có thể rút ra một số
bài học bổ ích cho Thành phố Hà Nội.
2.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ trong phát
triển kết cấu hạ tầng giao thông của một số tỉnh, thành phố ở nƣớc ta
* Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong việc thực hiện PPP,
với tốc độ tăng số lượng dự án cao nhất cả nước. Từ năm 2000 đến 2019, có
22 dự án PPP đã ký kết hợp đồng PPP với tổng vốn đầu tư khoảng 69.869 tỷ
đồng, trong đó có 16 dự án PPP giao thông, 3 dự án hạ tầng kỹ thuật, 2 dự án
môi trường, 1 dự án văn hóa với 08 dự án BOT, 12 dự án BT, 01 dự án BOO
và 01 dự án BOT kết hợp BT. Nếu tính lũy kế các dự án PPP được Thành phố
đang triển khai đến đầu năm 2019 là 130 dự án, với TMĐT khoảng 381 nghìn
tỷ đồng, trong đó có 95 dự án BT. Xét về số lượng, mặc dù chỉ chiếm 5%
tổng số dự án đầu tư công của Thành phố Hồ Chí Minh, nguồn lực xã hội đã
huy động gấp 3 lần nguồn lực đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 của
Thành phố. Trung bình một dự án PPP giúp Thành phố huy động khoảng
3.000 tỷ đồng từ xã hội, trong khi đó mỗi năm ngân sách thành phố cân đối
khoảng 30.000 tỷ đồng cho các dự án đầu tư trên địa bàn [19, tr.9].
Để đạt được những thành công nêu trên là do Thành phố Hồ Chí Minh
xác định PPP là một giải pháp hữu hiệu xây dựng và phát triển kết cấu hạ
tầng, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông, thông qua khai thác, tận dụng
nguồn vốn của khu vực tư nhân và sự hợp tác của Nhà nước. Trong quá trình
triển khai, Thành phố đã chủ động quan tâm đến việc hợp tác ba bên:
CQQLNN, NĐT và các ngân hàng, tổ chức tín dụng và thực hiện các giải
pháp để thực hiện thành công các dự án PPP, cụ thể như sau:
- Thành phố Hồ Chí Minh chủ trương nghiên cứu xem xét chuyển đổi
phương thức đầu tư các dự án đầu tư công sang hình thức PPP. Chủ trương
này đã được triển khai thực hiện tích cực đến cấp quận. Ví dụ, UBND Quận 3
75
đã chủ động điều chuyển những dự án thuần đầu tư công sang đầu tư theo
hình thức PPP, và đến nay đã triển khai nhiều dự án theo hình thức PPP với
tổng vốn đầu tư khoảng 10.000 tỷ đồng [19, tr.6].
- Thành phố Hồ Chí Minh đã tìm kiếm sự phân bổ rủi ro giữa khu vực
công và khu vực tư theo cách thức mà bên nào có khả năng quản lý rủi ro nào
tốt hơn sẽ được giao quản lý rủi ro đó.
- Là địa phương tiên phong thành lập Văn phòng PPP trực thuộc Sở
Kế hoạch và Đầu tư. Văn phòng PPP là đầu mối hướng dẫn các thủ tục, tiếp
nhận các thông tin của NĐT, nhà tài trợ, các tổ chức tư vấn.
- Cung cấp đầy đủ các thông tin cụ thể về dự án PPP đang kêu gọi đầu
tư để khu vực tư nhân có đầy đủ thông tin trước khi quyết định tham gia đầu tư.
- Thành phố Hồ Chí Minh sử dụng tiền ngân sách Thành phố để
nghiên cứu lập, thẩm định, trình duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi các dự
án, chấm dứt việc giao các NĐT tự bỏ chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả
thi các dự án. Quy định này nhằm đảm bảo tính công khai minh bạch trong
quá trình lựa chọn NĐT. Năm 2017, Thành phố Hồ Chí Minh thành lập Quỹ
phát triển dự án (Project Development Fund – PDF) để nghiên cứu, chuẩn bị
thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức PPP trên địa bàn. Theo đó, các NĐT
được lựa chọn thực hiện dự án PPP có trách nhiệm hoàn trả các chi phí chuẩn
bị đầu tư cho quỹ.
- Thỏa thuận hợp tác với Ngân hàng Vietcombank để hỗ trợ thẩm định
chuyên sâu về phương án tài chính đối với các dự án PPP, giúp Sở Kế hoạch
và Đầu tư có sự đánh giá chi tiết về tính khả thi của dự án.
- Ủy quyền cho các sở quản lý xây dựng chuyên ngành liên quan đến
thủ tục đầu tư PPP chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục thỏa thuận giao NĐT đã
lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi được cấp có thẩm quyền phê duyệt tiếp
tục lập BCNCKT dự án thuộc lĩnh vực các sở chuyên ngành quản lý.
- Đối với các đơn vị được giao chủ trì đàm phán hợp đồng dự án PPP
có trách nhiệm báo cáo UBND Thành phố thông qua kết quả đàm phán và
dự thảo hợp đồng dự án PPP. Nội dung ủy quyền như sau: Đối với dự án
76
nhóm A, ủy quyền cho các sở quản lý xây dựng chuyên ngành thực hiện
giám sát việc tuân thủ các nghĩa vụ của NĐT, doanh nghiệp dự án theo quy
định tại hợp đồng dự án. Đối với dự án nhóm B và nhóm C, ủy quyền cho
các sở quản lý xây dựng chuyên ngành ký kết và thực hiện giám sát việc
tuân thủ các nghĩa vụ của NĐT, doanh nghiệp dự án theo quy định tại hợp
đồng dự án [19, tr.9].
Lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định PPP là phương thức
thu hút đầu tư công hiệu quả. Do vậy đã quan tâm thành lập văn phòng PPP
và quỹ PDF; xây dựng cơ chế tài chính và cơ chế phối hợp, phân cấp phần
quyền rõ ràng để các cơ quan đơn vị thuộc thành phố thực hiện xây dựng báo
cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án PPP; phối hợp với tổ chức tín dụng để thẩm
định phương án tài chính của dự án; quan tâm đến việc công khai minh bạch
thông tin của dự án và luôn chủ động trong thiết lập và duy trì quan hệ đối tác
với NĐT tham gia dự án PPP.
* Tỉnh Quảng Ninh
Với quan điểm đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực để phát triển
trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp, từ năm 2013, trong điều kiện khung pháp
lý về PPP chưa đầy đủ, tỉnh Quảng Ninh đã mạnh dạn nghiên cứu một số mô
hình đầu tư mới, nhằm kết hợp và huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân.
Trong đó phải kể đến là thí điểm đầu tư theo các hình thức “lãnh đạo công –
quản trị tư”, “đầu tư công - quản lý tư”; “đầu tư tư - sử dụng công”. Để có căn
cứ triển khai, tỉnh Quảng Ninh đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép thí
điểm, trên cơ sở đó ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 05/12/2013 chỉ
đạo các địa phương áp dụng mô hình đầu tư mới này và thành lập Ban chỉ đạo
triển khai đầu tư và quản lý theo hình thức PPP.
Tỉnh Quảng Ninh là địa phương duy nhất được Chính phủ giao là
CQNNCTQ về đầu tư, quản lý đường cao tốc và hàng không theo hình thức
PPP. Các dự án PPP triển khai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đều là những dự
án trọng điểm, then chốt, có tính chất động lực, thúc đẩy phát triển kinh tế xã
77
hội như: Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn (TMĐT 7.500 tỷ đồng), cầu
Bạch Đằng (TMĐT 7.200 tỷ đồng), cao tốc Hạ Long - Vân Đồn và cải tạo
nâng cấp quốc lộ 18 đoạn Hạ Long - Mông Dương (TMĐT 12.000 tỷ đồng),
đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái (TMĐT 11.800 tỷ đồng), đường dẫn cầu
Bắc Luân II… Giai đoạn 2014-2019, tổng nguồn vốn đầu tư của các dự án đầu
tư theo hình thức PPP trên địa bàn khoảng 46.000 tỷ đồng với tổng số 29 dự án
(bao gồm 7 dự án lĩnh vực giao thông, 6 dự án lĩnh vực dân dụng, 11 dự án lĩnh
vực văn hóa giáo dục, 3 dự án hạ tầng kỹ thuật và 2 dự án lĩnh vực khác). Trong
đó vốn nhà nước tham gia khoảng 5.163 tỷ đồng (chủ yếu tập trung cho công tác
GPMB) chiếm 11%. Như vậy cứ 1 đồng ngân sách bỏ ra có thể huy động
khoảng 9 đồng từ khối tư nhân tham gia đầu tư vào tỉnh Quảng Ninh [20, tr.3].
Để thu hút được nguồn lực từ tư nhân lớn như vậy tham gia thúc đẩy
thực hiện thành công các dự án hạ tầng giao thông chiến lược, tỉnh Quảng
Ninh đã chủ động phối hợp, cùng đồng hành, bắt tay với NĐT nhằm san sẻ
gánh nặng tài chính cho cả hai bên, cụ thể:
- Tỉnh Quảng Ninh đặt PPP là một phương thức đầu tư quan trọng thu
hút các nguồn lực từ khu vực tư nhân để phát triển cơ sở hạ tầng thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội. Lãnh đạo tỉnh đã chủ động tham gia vào các dự án PPP
thông qua các chính sách đột phá, tăng cường phân cấp cho các cấp chính
quyền địa phương. Công tác lãnh đạo chỉ đạo luôn đặt người đứng đầu là vị trí
trung tâm, coi trọng sự chỉ đạo thống nhất và xuyên suốt. Cụ thể: đề xuất chủ
trương và mạnh dạn thí điểm áp dụng mô hình “Lãnh đạo công – Quản trị tư”,
“Đầu tư công – Quản lý tư” và “Đầu tư tư – Sử dụng công”; đồng thời giao
nhiệm vụ đầu mối thực hiện cho 14 huyện, thị xã, thành phố và 12 sở, ban,
ngành thuộc tỉnh. Ban Chỉ đạo triển khai đầu tư và quản lý theo hình thức
PPP do đồng chí Chủ tịch UBND Tỉnh làm Trưởng ban.
- Tập trung thực hiện GPMB: Trong các dự án PPP hạ tầng giao
thông, tỉnh Quảng Ninh đảm nhận phần GPMB, bởi đây là khâu khó khăn
nhất. Bí thư cấp ủy trực tiếp là Trưởng ban GPMB. Với những dự án lớn, tỉnh
78
ưu tiên dành nguồn vốn để GPMB, giúp các NĐT đẩy nhanh tiến độ thi công.
Dự án BOT cao tốc Hạ Long - Vân Đồn có TMĐT khoảng 14.000 tỷ đồng,
tỉnh Quảng Ninh đề xuất Chính phủ, các bộ, ngành cho phép ứng 14.000 tỷ để
GPMB. Dự án Cảng hàng không Vân Đồn, vốn đầu tư 7.500 tỷ đồng, tỉnh
Quảng Ninh cũng bố trí 700 tỷ đồng để làm công tác GPMB.
- Thực hiện thống nhất và tinh gọn thủ tục hành chính: Tỉnh Quảng
Ninh quan tâm đến thống nhất nhận thức và phương châm hành động, đảm
bảo được chủ trương thống nhất từ trên xuống dưới, trình tự đúng pháp luật từ
dưới lên trên, đồng thời luôn cầu thị và lắng nghe các ý tưởng của NĐT, tạo
niềm tin cho các NĐT. Việc đảm bảo thực hiện đúng các cam kết với NĐT,
chính sách ổn định ít thay đổi, và tính toán cân đối tài chính phù hợp là cơ sở
nền tảng tạo sự bền vững cho các dự án PPP.
- Chủ động bố trí một phần ngân sách, trái phiếu như một dạng “vốn
mồi” của Nhà nước để tham gia cùng NĐT tư nhân theo hình thức PPP. Vì
vậy, tỉnh Quảng Ninh rất thành công trong lập dự án và kêu gọi đầu tư. Để
đồng hành với NĐT, tỉnh Quảng Ninh còn cam kết với ngân hàng để hỗ trợ
cho NĐT với những hành động thực tiễn để các ngân hàng thấy rằng tài trợ
vốn cho địa phương là yên tâm. Cũng như Thành phố Hồ Chí Minh, việc triển
khai PPP được áp dựng ở cấp quận. Nhờ những chính sách linh hoạt, tư duy
dám nghĩ dám làm, Quảng Ninh đã thu hút rất nhiều NĐT, không chỉ NĐT
trong nước như Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn FLC, Tập đoàn Sun Group…
mà còn nhiều NĐT đến từ các nước trong khu vực và thế giới [20, tr.15].
Trong điều kiện Luật Đầu tư theo hình thức PPP mới được Quốc hội
thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, tỉnh Quảng Ninh đang
rà soát các dự án PPP giai đoạn 2021-2025, hiện đã có một số dự án, công
trình trên địa bàn tỉnh đã đăng ký đầu tư theo hình thức PPP giai đoạn 2021-
2025, với số vốn đăng ký khoảng 10.000 tỷ đồng, trong đó vốn NĐT bỏ ra
khoảng 9.000 tỷ đồng, còn lại vốn NSNN [20, tr.17].
Bài học từ sự phát triển các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của
79
tỉnh Quảng Ninh trong vài năm trở lại đây cho thấy chủ trương chính sách của
lãnh đạo tỉnh cùng với các chính sách hợp lý, sự đồng hành của lãnh đạo địa
phương cùng đối tác tư nhân, đặc biệt là công khai minh bạch trong triển khai
các dự án PPP chính là những điều kiện thuận lợi thu hút nguồn lực tư nhân
vững chắc và hiệu quả.
2.3.2. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, chủ trương phát triển dự án PPP của nhà nước là điều kiện
tiên quyết để dự án PPP thành công, trong đó quan trọng nhất là sự ủng hộ
và vào cuộc quyết liệt và xuyên suốt của các lãnh đạo địa phương. Sự chủ
động vào cuộc của các lãnh đạo tỉnh thành là sự đồng hành cùng các nhà
đầu tư, sẽ giúp tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc trong quá trình
chuẩn bị và thực hiện dự án như: thủ tục đầu tư, GPMB…
Thứ hai, quan tâm đẩy mạnh việc xây dựng cơ chế cung cấp các thông
tin của dự án kêu gọi đầu tư để các doanh nghiệp có đầy đủ thông tin trước
khi quyết định tham gia đầu tư.
Thứ ba, xác định việc lựa chọn dự án; báo cáo nghiên cứu tiền khả thi,
thu hút và lựa chọn NĐT. Theo đó, cần chủ động xây dựng các cấu trúc hỗ trợ
tài chính phù hợp để phát triển các dự án PPP giao thông như: ứng trước ngân
sách để thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư; thiết lập môi trường đầu tư thuận
lợi và đồng hành cùng NĐT trong suốt quá trình của dự án PPP.
Thứ tư, nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan đơn vị thuộc
tỉnh, thành phố trong quá trình tổ chức thẩm định, tổ chức triển khai và giám
sát dự án PPP. Có thể nghiên cứu liên kết với các tổ chức tín dụng để thực hiện
thẩm định năng lực tài chính thực tế của NĐT.
80
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ
TRONG ĐẦU TƢ CÁC CÔNG TRÌNH KẾT CẤU HẠ TẦNG
GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU HẠ TẦNG
GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội
Sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 ngày
29/5/2008 về điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội, với việc hợp
nhất toàn bộ diện tích tỉnh Hà Tây cũ, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã huyện Lương Sơn (Hòa Bình); Thủ đô Hà Nội có diện tích 3.324,92km2 với
dân số gần 6 triệu người, có 29 đơn vị hành chính quận, huyện, 575 đơn vị xã,
phường, thị trấn. Trong đó, diện tích đất giao thông là 22.895ha chiếm 6,88%
diện tích tự nhiên; gồm các tuyến đường Quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện lộ,
đường liên xã, đường trong đô thị, khu dân cư…
Theo Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô và Quy hoạch giao thông vận
tải Thủ đô Hà Nội đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các Quyết định
số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 và số 519/QĐ-TTg ngày 31/3/2016, đến năm
2030, đối với đô thị trung tâm, tỷ lệ diện tích đất giao thông trên diện tích đất
xây dựng đô thị đạt 20%÷26%; chỉ tiêu đất dành cho giao thông tăng trung
bình 0,3% đất đô thị/năm. Thực tế hiện nay, tỷ lệ này của Thành phố Hà Nội
còn tương đối thấp: năm 2015 đạt 8,65%, năm 2019 đạt 9,75%. Số điểm ùn tắc
giao thông năm 2015 là 41 điểm, đến năm 2018 còn 31 điểm [28, tr.6].
Về dân số: Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân
số Hà Nội là 8.053.663 người, trong đó dân số thành thị là 4.090.736 người
chiếm 50,79% dân số [22, tr.5]. Mật độ dân số trung bình là 2.398 người/km2,
dân cư phân bố không đều, tốc độ đô thị hóa phát triển nhanh, mật độ dân số
tập trung tại các quận khá cao (mật độ dân số trung bình của 12 quận là
81
11.220 người/km2, trong đó cao nhất là quận Đống Đa 42.171 người/km2,
thấp nhất là quận Long Biên 4.840 người/km2), cao gấp 4,9 lần so với mật độ
dân số trung bình toàn Thành phố. Ở những huyện ngoại thành như Sóc Sơn,
Ba Vì, Mỹ Đức, Ứng Hòa mật độ dưới 1.000 người/km2. Trong khi đó mật độ
bình quân của các nước trong khu vực ASEAN ở mức từ 100-200 người/km2
(Indonesia: 124 người/km2; Myanmar: 88 người/km2; Thái Lan: 130
người/km2; Philippines: 124 người/km2…). Theo dự báo của Viện dân số và
các vấn đề xã hội, đến năm 2050, dân số Hà Nội có thể tăng lên khoảng 14 triệu người [22, tr.6].
Với hệ số đi lại trung bình 2,3 chuyến đi/người/ngày, tổng số chuyến đi
của ở Hà Nội sẽ tăng nhanh, từ khoảng 20 triệu chuyến đi/ngày năm 2018 lên
30 triệu chuyến đi năm 2030 và khoảng 40 triệu chuyến đi năm 2050. Số lượng
phương tiện cá nhân tăng nhanh, gấp khoảng 3 lần trong vòng 10 năm. Từ năm
2008 đến 2017, số lượng xe máy đã tăng từ khoảng 2 triệu xe lên 5,4 triệu xe,
với tỷ lệ tăng 7-8%/năm; ô tô con tăng từ 200 ngàn xe lên 550 ngàn xe, tỷ lệ
tăng 10-12%/năm. Theo số liệu của Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội, mỗi
tháng, Hà Nội đăng kí mới khoảng 27 ngàn phương tiện, trong đó ô tô khoảng
5.000, xe máy khoảng 22.000. Ngoài ra, còn có khoảng 1,2 triệu phương tiện từ
ngoại tỉnh vào Hà Nội tham gia giao thông [18, tr.9].
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) Hà
Nội năm 2016 là 7,16%, năm 2017 là 7,39%, năm 2018 là 7,17%, năm 2019
là 7,62%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 là 120.1 triệu đồng. Năm
2020, quy mô GRDP ước đạt 1,06 triệu tỷ đồng, khoảng 45 tỷ USD; GRDP
bình quân đầu người ước đạt 5.420 USD, tăng 1,5 lần so với năm 2015, bằng
1,8 lần bình quân cả nước. Tổng đầu tư xã hội giai đoạn 2008 - 2017 đạt 2,03
triệu tỷ đồng, tăng trung bình hàng năm 15,2%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
thu hút được 3.237 dự án, vốn đăng ký đạt 19,1 tỷ USD. Chỉ số PCI xếp thứ
09/63 tỉnh, thành phố vào năm 2019. Phát triển kinh tế của Thủ đô cao hơn
82
trung bình của cả nước có những thuận lợi trong việc huy động nguồn vốn để
xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
giai đoạn 2016-2020 đạt 1,716 triệu tỷ đồng, gấp 1,63 lần giai đoạn 2011-
2015, bằng 38,92% GRDP, đạt mục tiêu đề ra. Hệ số ICOR trung bình (giá
hiện hành) đạt 5,03. Thu hút đầu tư vốn ngoài ngân sách trên 2.775 dự án, vốn
đăng ký trên 1,4 triệu tỷ đồng. Xã hội hóa đầu tư ở nhiều lĩnh vực: cấp nước,
bãi đỗ xe, xử lý chất thải, nước thải, hạ tầng công nghệ thông tin, giáo dục, y
tế...; cơ cấu đầu tư xã hội dịch chuyển rõ nét từ khu vực nhà nước (tỷ trọng
giảm từ 43,44% năm 2015 xuống khoảng 34,28% năm 2020) sang khu vực
ngoài nhà nước và đầu tư nước ngoài (lần lượt đóng góp 36,07% và 9,91%).
Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người ngày càng tăng lên cũng sẽ thúc đẩy sự
chuyển dịch về cơ cấu phương tiện từ xe máy sang ô-tô, tạo áp lực rất lớn lên
hệ thống hạ tầng giao thông và đòi hỏi giao thông trong đô thị phải phát triển
nhanh đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân [34, tr.12].
Từ những thực tiễn trên cho thấy nhu cầu đầu tư các công trình cơ sở hạ
tầng của Thành phố Hà Nội là rất bức thiết và ngày càng gia tăng. Trong khi
đó, nguồn chi cho đầu tư phát triển có giới hạn, do vậy, phương án thực hiện
đầu tư theo phương thức PPP trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông
của Hà Nội ngày càng trở nên cấp thiết.
3.1.2. Thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội
Sau khi được Thủ tướng phê duyệt đồ án quy hoạch phát triển giao
thông - vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà
Nội đã tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khung, từng bước kết nối
đồng bộ giữa các địa phương với nhau. Chỉ tiêu diện tích đất dành cho giao
thông tăng khoảng 0,28% diện tích đất đô thị/năm; đã hoàn thành được 223km
đường mới, xây dựng và hoàn thành 3 cầu lớn (cầu Nhật Tân, cầu Vĩnh Tuy,
cầu Vĩnh Thịnh)… Hiện nay đã hoàn thành các tuyến đường: vành đai 1
(đoạn Ô Chợ Dừa - Hoàng Cầu); vành đai 2 (đoạn Nhật Tân - Cầu Giấy);
83
một số đoạn tuyến của đường Vành đai 2,5 (Nguyễn Văn Huyên; Trung
Kính; Hoàng Đạo Thúy; Kim Đồng - Đền Lừ); vành đai 3,5 (đoạn Lê Trọng
Tấn - Hà Đông và đoạn Phúc La - Văn Phú); đường 5 kéo dài; vành đai 5
(cầu Vĩnh Thịnh và đường dẫn hai đầu cầu); vành đai 3 (tuyến trên cao đoạn
Mai Dịch - Pháp Vân; Cầu Thanh trì và đường hai đầu cầu); vành đai 2 (cầu
Nhật Tân và tuyến đường hai bên cầu); các tuyến chính đô thị như Quốc lộ
32 (đoạn Nam Thăng Long - Cầu Diễn - Nhổn - Sơn Tây); đường Nhật Tân -
Nội Bài; mở rộng cảng hàng không Quốc tế Nội Bài T2… Đồng thời, Hà
Nội tập trung các dự án chống ùn tắc giao thông, đã hoàn thành 12 công
trình cầu yếu; 33 cầu đi bộ, 37 hầm bộ hành, 8 hầm chui cơ giới; 68 hầm
chui dân sinh... [18, tr.20]. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố có 05 dự án giao
thông đã được đầu tư theo hình thức BOT do Bộ Giao thông vận tải là đại
diện cơ quan nhà nước ký kết hợp đồng: Dự án Đầu tư nâng cấp tuyến đường
Pháp Vân - Cầu Giẽ; Dự án Đầu tư xây dựng đường Hòa Lạc - Hòa Bình và
cải tạo, nâng cấp QL6 đoạn Xuân Mai - Hòa Bình; Dự án Đường cao tốc Hà
Nội - Hải Phòng; Dự án Đầu tư xây dựng công trình cải tạo, nâng cấp QL1
đoạn Hà Nội - Bắc Giang; Dự án Đầu tư xây dựng cầu Việt Trì - Ba Vì nối
QL32 với QL32C [18, tr.22].
Bên cạnh đó, các ứng dụng công nghệ thông tin cũng được quan tâm
đưa vào công tác quản lý điều hành giao thông (giao thông thông minh);
bao gồm: xây dựng cơ sở dữ liệu về hạ tầng giao thông và phương tiện giao
thông, các phần mềm phục vụ quản lý, điều hành hệ thống giao thông
thông minh, điều hành và tổ chức giao thông, xử lý vi phạm về giao thông,
quản lý, sử dụng điểm đỗ xe (IPARKING), lắp đặt hệ thống camera giám
sát theo dõi giao thông và xử lý vi phạm giao thông cho gần 200 nút giao
thông trọng điểm.
Kết quả trên đã góp phần giảm tải áp lực giao thông cho Thủ đô, từng
bước hạn chế ùn tắc, tai nạn giao thông, tăng cường kết nối giao thông giữa
84
Thủ đô với các tỉnh, thành phố trong khu vực. Số điểm ùn tắc giao thông trên địa
bàn cũng đã giảm từ 41 điểm năm 2015 còn 27 điểm vào năm 2019 [18, tr.11].
Mặc dù vậy, thực trạng hệ thống hạ tầng giao thông của Hà Nội mới chỉ
trong giai đoạn đang đầu tư phát triển hình thành theo quy hoạch; chưa đáp
ứng yêu cầu tốc độ phát triển quá nhanh của đô thị, vẫn xảy ra tình trạng ùn
tắc và tai nạn giao thông nhiều và phức tạp. Việc thực hiện chủ trương xã hội
hóa trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đã có chuyển biến,
nhưng còn chậm và chưa đồng bộ. Do đó, đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng
và triển khai chương trình tổng thể đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông khung trên địa bàn thành phố theo đồ án quy hoạch giao thông vận
tải đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hiện nay, Thành phố Hà Nội
đang tập trung triển khai chương trình tổng thể “Đầu tư xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông khung trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn
2017-2021, định hướng đến năm 2030”, trong đó ưu tiên các dự án khép nối
hệ thống đường vành đai, cầu vượt sông, đường trên cao, đường hướng tâm,
đường trục chính đô thị và hệ thống giao thông tĩnh…
3.2. KHÁI QUÁT VỀ CÁC DỰ ÁN HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ
KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN
2008-2020
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ khi Việt Nam thí điểm
đầu tư theo hình thức PPP (năm 1997) đến năm 2020, cả nước có 336 dự án
PPP do các bộ, ngành, địa phương ký kết đã ký kết hợp đồng (gồm 140 dự
án BOT, 188 dự án BT và 8 dự án áp dụng các loại hợp đồng khác), huy
động được khoảng 1.609.295 tỷ đồng vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
quốc gia; chủ yếu là các dự án thực hiện trong lĩnh vực giao thông với 220
dự án. Các địa phương đã thực hiện 238 dự án PPP với TMĐT (TMĐT)
khoảng 538.546 tỷ đồng, chủ yếu là hình thức BT (172 dự án), hình thức
BOT (60 dự án) và các hình thức hợp đồng khác. Trong đó, Thành phố Hà
85
Nội có tổng số 118 dự án PPP với TMĐT khoảng 487.125 tỷ đồng, bao
gồm 90 dự án trong lĩnh vực giao thông với TMĐT 423.673 tỷ đồng; 22 dự
án lĩnh vực môi trường với TMĐT 59.107 tỷ đồng; và 06 dự án thuộc các
lĩnh vực khác với TMĐT 4.345 tỷ đồng [17, tr.16].
Bảng 3.1: Thống kê các dự án hợp tác công tƣ của Thành phố Hà Nội
(Số liệu cập nhật ngày 01/8/2020).
Tổng số dự án PPP Số dự án PPP giao thông
Số dự án Số dự án TMĐT (tỷ đồng) TMĐT (tỷ đồng)
Tổng số DA PPP 118 487.125 90 423.673
Số DA PPP đã hoàn thành 10 15.811 5 5.843
Số DA PPP đã ký hợp đồng 9 25.704 7 24.155
Số DA PPP đã phê duyệt 5 15.005 5 15.005 BCNCKT
Số DA PPP đã phê duyệt CTĐT 12 30.652 7 20.003
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội [17].
Số DA PPP chưa phê duyệt 82 399.952 66 358.667 CTĐT
Về số lượng: số dự án PPP giao thông chiếm tỷ lệ 76,27% (90/118) tổng
số dự án PPP của Thành phố Hà Nội. Nếu tính trên số các dự án PPP đã được
phê duyệt CTĐT của Thành phố Hà Nội thì số các dự án PPP giao thông chiếm
tỷ lệ 66,67% (24/36), với tỷ trọng TMĐT là 74,57% (65.006 tỷ đồng /87.172 tỷ
đồng). Như vậy, so với các lĩnh vực khác như môi trường, các công trình hạ
tầng xã hội, lĩnh vực giao thông thu hút được nhiều dự án PPP nhất. Tuy nhiên,
so sánh với các dự án giao thông sử dụng nguồn vốn ngân sách thì số các dự án
PPP giao thông còn tương đối khiêm tốn. Trong giai đoạn 2016-2020, số dự án
86
giao thông theo hình thức PPP chỉ bằng 11,21% số dự án giao thông sử dụng
nguồn vốn ngân sách thành phố với TMĐT khoảng 65.006 tỷ đồng, bằng
48,37%. Các dự án này chủ yếu là dự án khép kín đường vành đai, cầu qua
sông Hồng, các đường trục hướng tâm.
Bảng 3.2: Thống kê các dự án giao thông của Thành phố Hà Nội
giai đoạn 2016-2020
Số dự án hoàn thành
Dự án giao thông của Thành phố Hà Nội Số DA Số DA TMĐT (tỷ đồng) Số dự án đã phê duyệt CTĐT, chƣa hoàn thành TMĐT (tỷ đồng)
Dự án PPP 5 5.843 19 59.163
Nguồn: Tổng hợp theo số liệu của Sở Giao thông Vận tải [18].
Vốn NSTP 148 54.367 66 80.017
Về quy mô dự án, so với các lĩnh vực khác thì dự án PPP giao thông có
quy mô trung bình lớn hơn. Dự án PPP giao thông đang thực hiện triển khai
thi công có quy mô lớn nhất là dự án “Vành đai 2: Đoạn Vĩnh Tuy - Ngã Tư
Sở (ghép với đoạn dưới thấp Vĩnh Tuy - Chợ Mơ - Ngã Tư Vọng)” có TMĐT
là 9.459 tỷ đồng, quy mô 5,1km gồm đường dưới thấp và trên cao và dự án
“Đường trục phía Nam tỉnh Hà Tây cũ” có TMĐT 6.076 tỷ đồng, quy mô
21,6km. Dự án PPP giao thông đã phê duyệt BCNCKT, chưa tổ chức lựa
chọn NĐT có quy mô lớn nhất là dự án “Cải tạo, nâng cấp quốc lộ 6: Ba La -
Xuân Mai” có TMĐT là 8.713 tỷ đồng, quy mô 23,1 km. Dự án đã phê duyệt
CTĐT, chưa phê duyệt BCNCKT có quy mô lớn nhất là dự án “Nâng cấp, mở
rộng quốc lộ đoạn từ Sơn Tây - Hòa Lạc - Xuân Mai” có TMĐT 7,570 tỷ
đồng, quy mô 29,3km.
Các dự án PPP giao thông chưa được phê duyệt CTĐT có quy mô lớn
nhất đều là các dự án trọng điểm của thành phố, trong đó quy mô lớn nhất là 05
dự án đường sắt đô thị, chi tiết theo bảng sau:
87
Bảng 3.3: Danh mục các dự án đƣờng sắt đô thị thực hiện
theo hình thức hợp đồng - chuyển giao
TT Tên dự án TMĐT
Tuyến đường sắt đô thị số 8: Mai Dịch - Vành đai 3 - 1 50.000 tỷ đồng Lĩnh Nam - Dương Xá
Tuyến đường sắt đô thị số 4 giai đoạn I (đoạn từ 2 40.000 tỷ đồng Thượng Đình - Hoàng Quốc Việt)
Tuyến đường sắt đô thị số 5 giai đoạn 1 (đoạn từ Văn 3 35.000 tỷ đồng Cao đến đường vành đai 4)
Tuyến đường sắt đô thị TPHN tuyến 2, đoạn Trần 4 28.917 tỷ đồng Hưng Đạo - Thượng Đình
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội [17].
Tuyến đường sắt đô thị TPHN đoạn Nam Thăng 5 25.000 tỷ đồng Long - Nội Bài
Ngoài ra, các dự án PPP giao thông đường bộ lớn nhất chưa phê duyệt
CTĐT có TMĐT lớn hơn các dự án trước đó, tiêu biểu là dự án “Cầu Tứ Liên
và đường từ cầu Tứ Liên đến cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên” có TMĐT
17.000 tỷ đồng với quy mô cầu 3,0kmx19,5m và đường 9kmx60m; dự án
“Vành đai 4: Đoạn từ cao tốc Hà Nội - Lào Cai (Km3+650) đến Quốc lộ 32
(Km19+500) quy mô 20kmx17m và Đoạn từ Quốc lộ 32 đến cao tốc Pháp
Vân - Cầu Giẽ quy mô 34kmx17m và 04 nút giao khác mức liên thông” có
TMĐT 16.277 tỷ đồng [17, tr.6].
88
Bảng 3.4: Thống kê thời gian thực hiện của các dự án PPP giao thông đã đang tổ chức triển khai thực hiện
TT
Tên dự án
Thời điểm ký kết hợp đồng
Ghi chú
Thời gian thực tế triển khai
Thời gian theo hợp đồng
Thời điểm phê duyệt CTĐT
2008
1
Phê duyệt quyết toán năm 2020
Khởi công: 11/4/2009 Đưa vào sử dụng: 08/10/2010
Hợp đồng BT số 06/HĐBT ngày 02/01/2009; Phụ lục số 01/2014/PLHĐ ngày 01/4/2019.
2007
2008-2010
2
Hợp đồng BT số 01/HĐBT ngày 09/01/2008
Phê duyệt quyết toán năm 2019
Tuyến đường Lê Văn Lương kéo dài đến hết địa phận Hà Nội cũ theo hình thức BT Đường trục phát triển phía Bắc Hà Đông theo hình thức BT
Khởi công: 20/01/2008 Đưa vào sử dụng: 27/9/2010
2010
3
Gia hạn đến 31/8/2017
Khởi công: 6/5/2014 Đưa vào sử dụng: 31/12/2018
Xây dựng nút giao thông trung tâm quận Long Biên (nút giao cầu Chui cũ) theo hình thức BT
Đã thẩm tra phê duyệt giá trị quyết toán dự án hoàn thành. Tuy nhiên QHCT 1/500 của dự án đối ứng chưa được phê duyệt và NĐT chưa được thanh toán giao đất để thực hiện dự án khác.
Hợp đồng BT số 01/2015/HĐBT ngày 08/3/2015; Phụ lục 01/2017/PLHĐ- 01/2015/HĐBT ngày 04/7/2017; Phụ lục 02/2018/PLHĐ- 01/2015/HĐBT ngày 03/8/2018. Hiện đang làm thủ tục gia hạn hợp đồng
2008
2009-2014
4
Khởi công: 7/2009 Hoàn thành: 12/2014
Hiện đang thực hiện thẩm tra quyết toán, và đang rà soát quỹ đất thanh toán cho NĐT.
Hợp đồng BT số 243/2009/HĐBT-UBND ngày 18/6/2009 Phụ lục hợp đồng BT số 01/2017/PLHĐBT ngày 17/7/2017
2008
5
Hợp đồng BT số 67/HĐBT ngày 05/12/2008
2009- 12/2018
Khởi công 12/9/2009 Hoàn thành 4/2017
Hiện đang rà soát quỹ đất thanh toán cho NĐT.
2008
6
Hợp đồng BT số 01/2015/HĐBT Phụ lục ngày 18/8/2017
NĐT đã được giao đất để triển khai dự án đối ứng.
Quý II/2016 đến Quý III/2019
Khởi công 13/1/2017 Thi công được khoảng 30% khối lượng Hiện còn vướng mắc GPMB
Đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên (từ cầu Thanh Trì đến hết địa phận Hà Nội) theo hình thức BT (chuyển từ đầu tư công sang) Tuyến đường từ Lê Đức Thọ đến Khu đô thị mới Xuân Phương (điểm cuối giao với đường 70) theo hình thức BT Xây dựng tuyến dường từ đê Ngọc Thụy đi Khu đô thị mới Thượng Thanh theo hình thức BT
2008
7
Đường trục phía Nam tỉnh Hà Tây (cũ) theo hình thức BT
60 tháng (hiện đã gia hạn đến 31/12/2018)
NĐT đã được giao đất để triển khai dự án khác từ năm 2008, đang triển khai dự án.
Khởi công: 26/4/2008 Hiện vẫn còn 1 phần dự án chưa triển khai do vướng mắc công tác GPMB
Hợp đồng BT số 02/HĐBT ngày 18/4/2008; Phụ lục số 01/2014/PLHĐ- 02/HĐBT ngày 24/7/2014; số 02/2016/PLHĐ-02/HĐBT ngày 30/12/2016,
89
8
2009
Tuyến đường 2,5: đoạn từ Đầm Hồng đến Quốc lộ 1A theo hình thức BT
36 tháng (đã được gia hạn đến 30/6/2018)
Khởi công: 19/3/2014 Hiện đang triển khai thi công, vướng mắc công tác GPMB
Dự án đối ứng đã được phê duyệt QHCT 1/500. NĐT chưa được thanh toán giao đất để thực hiện dự án đối ứng.
9
2010
54 tháng từ tháng 5/2014
Khởi công: 2014 Đưa vào sử dụng: 01/2020 Vướng mắc GPMB
10
2017
48 tháng
số 03/2018/PLHĐ-02/HĐBT ngày 26/4/2018. Hiện đang thực hiện thủ tục ký kết phụ lục gia hạn hợp đồng Hợp đồng BT số 01/2014/HĐBT ngày 02/01/2014; Phụ lục hợp đồng số 01/2017/PLHĐ- 01/2014/HĐBT ngày 15/6/2017 Hiện đang thực hiện thủ tục ký kết phụ lục gia hạn hợp đồng Hợp đồng BT số 02/2014/HĐBT ngày 10/4/2014 và Phụ lục hợp đồng số 06/2018/PLHĐBT ngày 25/12/2018 Hợp đồng BT số 01/2018/HĐBT ngày 21/4/2018
Xây dựng tuyến đường giao thông bao quanh Khu tưởng niệm Chu Văn An theo hình thức BT Vành đai 2: đoạn Vĩnh Tuy - Ngã Tư Sở (ghép với đoạn dưới thấp Vĩnh
Khởi công: 2018 Đang triển khai thi công, chậm tiến độ do tăng
Dự án khác đã được phê duyệt QHCT 1/500. NĐT đã được UBND TP giao thực hiện dự án đối ứng. UBND TP đã giao NĐT triển khai thực hiện dự án đối ứng.
90
chi phí GPMB
11
2016
24 tháng
Hợp đồng BT số 04/2018/HĐBT ngày 21/7/2018
Đang thực hiện thủ tục để thẩm định điều chỉnh QHCT 1/500 các quỹ đất dự kiến thanh toán
Tuy - Chợ Mơ -Ngã Tư Vọng) theo hình thức BT (gom 2 dự án đầu tư công chuyển sang PPP) Xây dựng tuyến đường Minh Khai - Vĩnh Tuy - Yên Duyên theo hình thức BT (gom 2 dự án ngoài ngân sách và 1 dự án NSTP chuyển sang PPP)
12
2017
NĐT chưa được giao đất để thực hiện dự án khác.
Chưa khởi công, hiện đang tạm dừng để rà soát về Nghị quyết số 160/NQ-CP ngày 28/12/2019 và Nghị định số 69/2019/NĐ- CP ngày 15/8/2019 về việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho NĐT thực hiện hợp đồng BT
Hợp đồng BT số 02/2018/HĐBT ngày 12/6/2018
Xây dựng các tuyến đường kết nối các khu đô thị, dân cư quận Hà Đông theo hình thức BT
Hoàn thành Quý IV/2019 Đang thực hiện thủ tục gia hạn hợp đồng
Nguồn:Tổng hợp từ hợp đồng và báo cáo tiến độ của các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội[17].
91
92
Về thời gian thực hiện dự án: căn cứ Nghị định số 63/2018/NĐ-CP và
các quy định hiện hành về quy hoạch và đấu thầu lựa chọn NĐT, tổng thời
gian giải quyết của cơ quan nhà nước là 794 - 1204 ngày (các dự án quan
trọng quốc gia: 1204 ngày; các dự án còn lại: 794-934 ngày), trong đó thời
gian lựa chọn NĐT là 497 - 587 ngày, chưa bao gồm thời gian chuẩn bị hồ sơ
báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và BCNCKT của đơn vị lập hồ sơ dự án và
thời gian hoàn thiện hồ sơ trong trường hợp không đáp ứng yêu cầu và một số
vấn đề phát sinh khác. Đối với các dự án đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử
dụng đều được tập trung triển khai GPMB và thi công, có thời gian thực hiện từ
khi ký kết hợp đồng đến khi bàn giao đưa vào sử dụng trung bình từ 2-6 năm.
Các dự án còn lại phần nhiều do vướng mắc về công tác GPMB và việc thực
hiện quy định về việc sử dụng tài sản công để thanh toán các hợp đồng BT.
Về cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý hợp đồng, Sở Giao thông Vận
tải được phân công ký kết thỏa thuận đầu tư, ký kết Hợp đồng PPP giao
thông. Ban quản lý dự án công trình giao thông thành phố được phân công
quản lý, theo dõi hợp đồng đã ký kết. Theo thống kê các dự án PPP thành
phố đang triển khai, trong số 12 dự án đã ký hợp đồng BT (bao gồm cả dự
án đã hoàn thành), có 10 dự án giao cho Ban quản lý công trình giao thông,
2 dự án giao cho UBND các quận huyện (UBND huyện Gia Lâm: Dự án
Đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên (từ cầu Thanh Trì đến hết địa phận Hà
Nội; UBND quận Long Biên: Dự án Xây dựng tuyến đường từ đê Ngọc
Thụy đi Khu đô thị mới Thượng Thanh).
Về hình thức hợp đồng: Mặc dù các quy định pháp lý được áp dụng
là Nghị định 108/2009/NĐ-CP, Nghị định số 24/2011/NĐ-CP, Quyết định
số 71/2010/QĐ-TTg và Nghị định số 63/2018/NĐ-CP đều xác định các
hình thức đầu tư BTO, BOT, BT, BLT, BTL, O&M, tuy nhiên hình thức
93
đầu tư phổ biến đối với các dự án PPP giao thông cả nước là BT và BOT,
riêng đối với các dự án PPP giao thông do UBND Thành phố Hà Nội là
CQNNCTQ thì đều được thực hiện theo hình thức BT. Có hai nguyên
nhân chủ yếu lý giải cho vấn đề này. Thứ nhất, việc lựa chọn hình thức
hợp đồng PPP thường được thực hiện theo hướng có lợi thu hút các NĐT.
Trong khi đó, các NĐT tham gia các dự án PPP chủ yếu hiện nay là các
NĐT bất động sản, hình thức BT sẽ giúp đem lại lợi nhuận cao cho NĐT
khi giá đất áp dụng cho NĐT thấp hơn nhiều so với giá thị trường. Thứ
hai, do phân cấp đầu tư, các dự án giao thông do chính quyền địa phương
cấp tỉnh là CQNNCTQ quyết định đầu tư chủ yếu là các dự án giao thông
đô thị, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân địa phương. Việc áp dụng các
hình thức PPP khác sẽ khó áp dụng chính sách thu phí đi lại của người
dân trong phạm vi nội đô. Mặt khác, theo Nghị quyết số 437/NQ-
UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: “đối với
các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT chỉ áp dụng đối
với các tuyến đường mới để đảm bảo quyền lựa chọn cho người dân,
không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện
hữu.” Do vậy, việc đầu tư dự án giao thông đô thị theo hình thức hợp
đồng BOT là không phù hợp.
Về NĐT: Mặc dù các quy định pháp luật đã thiết kế đầy đủ các
khung pháp lý để thực hiện và khuyến khích NĐT nước ngoài tham gia vào
các dự án PPP, tuy nhiên các dự án PPP giao thông do UBND Thành phố
Hà Nội là CQNNCTQ không có sự tham gia của NĐT nước ngoài. Các
NĐT tham gia đều là NĐT trong nước và chủ yếu là các NĐT có kinh
nghiệm về đầu tư và kinh doanh bất động sản hàng đầu cả nước. Thực tế,
sự tham gia của NĐT nước ngoài chỉ tập trung ở lĩnh vực năng lượng,
94
trong một số dự án BOT nhiệt điện quy mô lớn. Việc thiếu vắng các NĐT
nước ngoài vào các dự án PPP giao thông đã làm hạn chế sự tiếp cận nguồn
vốn nước ngoài cũng như những công nghệ tiên tiến và phương thức quản
lý hiện đại từ hình thức đầu tư này mang lại.
Các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội chủ yếu là các dự án
khép kín đường vành đai, cầu qua sông Hồng các đường trục hướng tâm.
Việc huy động vốn từ các các nguồn ngoài nhà nước trong dự án PPP đã
thực sự giúp cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, góp phần thúc đấy phát triển
kinh tế. Các dự án triển khai hoàn thành đưa vào sử dụng bước đầu đã đáp
ứng được nhu cầu giao thông của nhân dân. Tuy nhiên thời gian thực hiện
dự án còn kéo dài, chưa kịp thời đáp ứng được nhu cầu sử dụng của nhân
dân. Các dự án đối ứng lâu được triển khai gây mất mỹ quan đô thị và bị
chiếm dụng vào các mục đích khác.
Một số dự án đã ký hợp đồng nhưng dừng triển khai thực hiện: Dự
án đường từ Thành Cổ Sơn Tây tới phía Bắc Đền Và được thực hiện theo
Hợp đồng BT số 05/HĐBT ngày 31/7/2008; Dự án đường Đỗ Xá - Quan
Sơn được thực hiện theo Hợp đồng BT số 04/HĐBT ngày 25/7/2008; Dự
án đường trục phát triển kinh tế xã hội Bắc Nam tỉnh Hà Tây thực hiện theo
Hợp đồng BT số 03/HĐBT số 03/HĐBT ngày 01/7/2008. Các dự án này
được ký kết hợp đồng với Sở Giao thông vận tải Hà Tây, sau khi hợp nhất
tỉnh Hà Tây với Thành phố Hà Nội, các dự án này đều phải rà soát điều
chỉnh cho phù hợp với quy hoạch chung của Thủ đô, các chế độ chính sách
mới, do quá trình thực hiện có nhiều khó khăn, vướng mắc nên UBND
Thành phố đã có chủ trương và NĐT thống nhất dừng thực hiện dự án này
theo hình thức BT (Thông báo 166/TB-VP ngày 02/12/2013 của UBND
Thành phố Hà Nội).
95
3.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƯ TRONG
ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.3.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống hạ tầng
giao thông và chủ trƣơng thực hiện hình thức hợp tác công tƣ để phát
triển hệ thống hạ tầng giao thông của Thủ đô Hà Nội
* Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ
Sau khi điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính Thủ đô theo Nghị
quyết số 15/2008/NQ-QH12, Thành phố Hà Nội đã được Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 1081/QĐ-TTg ngày
06/7/2011); Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm
nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011); Điều
chỉnh Quy hoạch xây dựng Vùng thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn
đến năm 2050 (Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 06/5/2016); Quy hoạch giao
thông vận tải thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết
định số 519/QĐ-TTg ngày 31/3/2016).
Theo đó, tại Đại hội lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố, Thành ủy Hà
Nội đã quyết nghị Chương trình 06 -CTr/TU về “Phát triển đồng bộ, hiện
đại hóa từng bước kết cấu hạ tầng đô thị, tăng cường quản lý trật tự xây
dựng, đất đai, môi trường, xây dựng đô thị văn minh hiện đại giai đoạn
2016 - 2020” UBND Thành phố ban hành Kế hoạch số 162/KH-UBND
ngày 29/8/2016 triển khai Chương trình 06-CTr/TU của Thành ủy, Kế
hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chương trình phát triển đô thị
Thành phố Hà Nội đến năm 2030 và định hướng đến năm 2050; “Chương
trình tổng thể đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông khung
trên địa bàn TP Hà Nội giai đoạn 2017 - 2021, định hướng đến năm
96
2030”; xây dựng danh mục các dự án công trình trọng điểm và kế hoạch
tiến độ chi tiết các công trình trọng điểm [7; tr.12].
Nghị quyết số 15/NQ-HĐND ngày 04/12/2017, HĐND Thành phố đã
xác định danh mục 55 công trình trọng điểm 2016-2020 với TMĐT khoảng
486.991 tỷ đồng (gồm 27 dự án Ngân sách và ODA; 02 dự án đầu tư theo
hình thức PPP; 02 dự án xã hội hóa). Quá trình triển khai thực hiện, Thành
phố đã chuyển đồi hình thức đầu tư 4 dự án (trong đó có 3 dự án PPP giao
thông) từ PPP sang Ngân sách và ODA. Do vậy, cập nhật đến tháng 6/2020,
danh mục 55 công trình trọng điểm có TMĐT khoảng 532.877 tỷ đồng hiện
nay có 31 dự án Ngân sách và ODA; 22 dự án đầu tư theo hình thức PPP và
02 dự án XHH [7, tr.13].
Các nội dung chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển hạ tầng giao
thông thủ đô đều theo định hướng đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 là:
phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ với các quy hoạch
khác, đặc biệt là quy hoạch xây dựng đô thị để đảm bảo tỷ lệ diện tích đất giao
thông trên diện tích đất xây dựng đô thị đạt 20 - 26% cho đô thị trung tâm; đạt
18 - 23% cho các đô thị vệ tinh và đạt 16 - 20% cho các thị trấn [7, tr.13-14].
Căn cứ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống hạ tầng
giao thông vận tải Hà Nội được phê duyệt, trên cơ sở cân đối các nguồn lực,
Thành phố Hà Nội đã xây dựng danh mục công trình trọng điểm Thành phố
giai đoạn 2016-2020 và danh mục các dự án giải quyết ùn tắc giao thông và
môi trường bức xúc dân sinh Thành phố. Đồng thời, Thành phố đã chủ động
báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề xuất một số cơ chế đặc thù cho Thủ đô để
triển khai các dự án đầu tư theo hình thức PPP giải quyết ùn tắc giao thông và
môi trường bức xúc dân sinh.
Mặc dù Thành phố Hà Nội đã tập trung triển khai thực hiện đồng bộ,
các giải pháp về quy hoạch, xây dựng cơ chế chính sách, tập trung đầu tư xây
dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật khung, phát triển các đô thị mới ngoài
97
khu vực nội đô hiện có; tuy nhiên năm 2019, tỷ trọng đất giao thông khu vực
đô thị hiện có mới đạt 9,75% đất đô thị (Chỉ tiêu của Chương trình 06 -
CTr/TU tăng từ 0,3-0,5% đất đô thị/năm; tổng diện tích đất dành cho giao
thông đạt 10-13% đất đô thị vào năm 2020).
Bảng 3.5: Tỷ lệ diện tích đất dành cho giao thông qua các năm của Hà Nội
2015
2018
2019
2020
8,65% 9,38% 9,75% 10,05%
Tỷ lệ diện tích đất dành cho giao thông tính trên diện tích đất xây dựng đô thị
Nguồn: Sở Giao thông Vận tải Hà Nội [18].
* Về CTĐT các công trình kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP
Đối với mục tiêu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của đất nước, ngày
16/01/2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng có Nghị quyết số 13-NQ/TW về
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết đã xác định
một trong các giải pháp chủ yếu là “thu hút mạnh các thành phần kinh tế, kể cả
các NĐT nước ngoài tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, bảo đảm lợi ích
thỏa đáng của NĐT; mở rộng hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm…; có
cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng… ”.
Ngày 08/6/2012, Chính phủ có Nghị quyết số 16/NQ-CP ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW.
Trên cơ sở đó, Chính phủ đã tập trung hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách
để đẩy mạnh đầu tư theo hình thức PPP.
Dự án PPP có đặc thù phức tạp, với nhiều mối quan hệ ràng buộc giữa
nhà nước và NĐT. Việc chuẩn bị, quản lý dự án có nhiều rủi ro, đòi hỏi nguồn
nhân lực có kiến thức, chuyên môn sâu, cần được phát triển trong dài hạn.
Tuy nhiên, hiện nay Thành phố Hà Nội chưa có một kế hoạch, chiến lược
trung và dài hạn cho PPP. Do đó việc triển khai những dự án PPP chưa có
định hướng rõ ràng theo hướng tập trung nguồn lực cho các dự án lớn quan
trọng để tạo động lực phát triển kinh tế hay triển khai phân cấp, đại trà. Vì
98
chưa có định hướng, kế hoạch rõ ràng nên việc triển khai PPP vẫn còn tư duy
ngại khó, ngại thay đổi và vẫn theo cách làm “nóng vội” với tư duy nhiệm kỳ.
Những dự án tốt nhất vẫn chưa được ưu tiên lựa chọn, nguồn lực chưa được
quan tâm bố trí cho việc lập dự án, tham gia đầu tư, nhân sự chủ yếu là kiêm
nhiệm, chuyên môn, năng lực hạn chế, hình thức chỉ định NĐT vẫn phổ biến,
thiếu sự công khai, minh bạch dự án.
Thành phố Hà Nội chưa có một chương trình tổng thể về ứng dụng PPP
để đầu tư các công trình hạ tầng giao thông. Mặc dù vậy, Thành phố Hà Nội
đã đưa ra nhiều giải pháp để tạo thuận lợi cho việc đầu tư theo hình thức PPP,
bao gồm:
- Thành lập Tổ công tác liên ngành đối với các dự án PPP của Thành phố
do một đồng chí Phó Chủ tịch UBND Thành phố điều hành. Đây là đầu mối
tham mưu và đề xuất các chính sách để chỉ đạo, điều hành QLNN của UBND
Thành phố đối với các dự án PPP. Tổ công tác này liên tục được kiện toàn,
thực hiện rà soát tiến độ các dự án PPP của Thành phố Hà Nội. Tổ công tác đã
tham mưu UBND Thành phố ban hành Quyết định số 30/2015/QĐ-UBND
ngày 16/10/2015 ban hành Quy định một số nội dung thuộc thẩm quyền của
UBND Thành phố Hà Nội thực hiện Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14
tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức PPP; trong đó nêu
rõ nội dung công việc và trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan đơn vị
trong quá trình thực hiện.
- Chủ động phối hợp với các đối tác (Ngân hàng Thế giới) để tổ chức
nhiều khóa tập huấn về PPP bước đầu đã xây dựng nền tảng kiến thức để triển
khai các dự án PPP, tuy nhiên chưa đáp ứng được yêu cầu của các cơ quan, cán
bộ triển khai.
- Tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư, công khai các danh mục các dự
án đầu tư PPP, kêu gọi các NĐT trong và ngoài nước tham gia đăng ký thực
hiện các dự án đầu tư theo hình thức PPP. Trong hai năm 2016, 2017 nhận
được phản hồi tốt với 95 dự án được đề xuất.
99
- Xây dựng danh mục công trình trọng điểm giai đoạn 2016-2020 cùng
kế hoạch tiến độ chi tiết từng công trình, trong đó có 22 dự án đầu tư theo hình
thức PPP.
- Chủ động xây dựng các phương án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các
dự án PPP như: thành lập Ban chỉ đạo, Tổ công tác giúp việc Ban chỉ đạo; cân
đối bố trí vốn ở mức cao, đáp ứng nhu cầu; cho phép thực hiện cơ chế ứng vốn
linh hoạt để đẩy nhanh công tác chuẩn bị đầu tư và GPMB, thường xuyên đôn
đốc, giao ban kiểm điểm tiến độ ít nhất định kỳ 1 tháng 1 lần, tăng cường
công tác phối hợp để tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc, chủ động
tuyên truyền chính sách pháp luật và chủ trương của thành phố với người
dân. Để rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư các dự án PPP, từ năm 2008 đến
hết năm 2018, UBND TP Hà Nội đã đề xuất Chính phủ và được chấp thuận
thực hiện 22 dự án PPP theo cơ chế đặc thù. Với cơ chế này, quá trình lựa
chọn NĐT cho các dự án PPP hạ tầng giao thông - đô thị do UBND Thành
phố Hà Nội là CQNNCTQ có thể rút ngắn được khoảng 45 - 100 ngày.
Ngoài ra, Thành phố Hà Nội cũng thường xuyên rà soát, đôn đốc các đơn vị
thực hiện các dự án PPP.
Qua quá trình nghiên cứu tổng hợp, tác giả nhận thấy Thành phố Hà Nội
đã có những hành động cụ thể, thường xuyên rà soát tiến độ, đẩy mạnh công
tác đầu tư phát triển các công trình hạ tầng giao thông theo hình thức PPP. Các
giải pháp nêu trên mang tính chất giải quyết công việc, điều phối các công việc
giữa các cơ quan đơn vị thuộc Thành phố, thúc đẩy tiến độ dự án. Để thực hiện
đầu tư có chiến lược, Thành phố Hà Nội cần thiết quan tâm đến việc nghiên
cứu xây dựng quy hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển hệ thống hạ tầng giao
thông và chủ trương thực hiện hình thức PPP để phát triển hệ thống hạ tầng
giao thông của Thủ đô Hà Nội.
3.3.2. Lựa chọn dự án hợp tác công tƣ giao thông phù hợp
Cơ quan chủ trì thẩm định, phê duyệt đề xuất dự án và công bố dự án
PPP giao thông là Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố.
Về cơ sở pháp lý: Ngày 04/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số
100
63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, thay thế Nghị định số
15/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tính đến thời điểm hiện nay, số
lượng dự án thực hiện theo quy định tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP không
nhiều, hầu hết vẫn đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư; những dự án trong giai
đoạn xây dựng hoặc vận hành chủ yếu là các dự án chuyển tiếp từ khung pháp
lý cũ (Nghị định số 108/2009/NĐ-CP). Việc xác định dự án phát triển hạ tầng
giao thông của Thành phố Hà Nội được tổ chức triển khai trong những năm
qua được thực hiện theo quy định của Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày
27/11/2009 của Chính phủ, một số ít thực hiện theo Nghị định số 15/2015/NĐ-
CP của Chính phủ và Quyết định số 30/2015/QĐ-UBND ngày 16/10/2015 của
UBND Thành phố Hà Nội.
Về tiêu chí lựa chọn dự án PPP: Do dự án PPP có đặc thù phức tạp, với
nhiều mối quan hệ ràng buộc giữa Nhà nước và NĐT, việc lựa chọn dự án
PPP yêu cầu cân nhắc tổng thể các nhân tố vi mô và vĩ mô, đòi hỏi các phân
tích đánh giá chuyên sâu và mang tính thực tế. Theo quy định, các dự án PPP
giao thông được lựa chọn (kể cả các dự án do NĐT đề xuất) phải phù hợp với
quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Thành phố; thuộc lĩnh vực
kết cấu hạ tầng giao thông vận tải có mục tiêu phục vụ lợi ích công cộng; có
khả năng thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách và đã xác định quỹ đất dự kiến
thanh toán cho dự án. Nghiên cứu thực tế Thành phố Hà Nội chủ yếu áp dụng
hình thức BT đối với các công trình giao thông. Nguyên nhân là do các dự án
Thành phố Hà Nội đầu tư chủ yếu là các dự án giao thông đô thị không có khả
năng thu phí sử dụng, phù hợp với hình thức BT.
Theo thống kê năm 2017, kết quả rà soát danh mục 20 dự án PPP giao
thông của Thành phố Hà Nội cho thấy: có 15 dự án chỉ có 01 NĐT đăng ký, có
02 dự án không có NĐT đăng ký, có 03 dự án đã được Thủ tướng Chính phủ
chấp thuận cơ chế chỉ định NĐT đã chuyển sang đầu tư bằng ngân sách thành
phố do yêu cầu tạm dừng sử dụng tài sản công để thanh toán cho các hợp đồng
BT. Số lượng dự án đầu tư theo hình thức BT trong danh mục đề xuất tính đến
101
hết năm 2019 là khoảng 90 dự án, tuy nhiên tính khả thi chưa cao, quá trình
triển khai phải rà soát, điều chỉnh nhiều lần, cắt giảm, tạm dừng thực hiện nhiều
dự án (Cắt giảm 15 dự án, tạm dừng thực hiện 04 dự án). Việc chưa tập trung
chuẩn bị kĩ lưỡng để lựa chọn dự án dẫn đến tình trạng một số dự án được đề
xuất không thực sự cấp bách, không có tính khả thi, chưa thu hút được sự tham
gia của các NĐT tư nhân. Danh mục dự án PPP còn sơ sài, thiếu thông tin gây
khó khăn trong việc tham gia ý kiến và hạn chế khả năng tiếp cận đầy đủ thông
tin về dự án của NĐT, ảnh hưởng đến việc lựa chọn NĐT, giảm hiệu quả đầu
tư và tính minh bạch, cạnh tranh qua đấu thầu. Hầu hết các dự án PPP trên địa
bàn Thành phố Hà Nội là dự án do NĐT đề xuất cũng là một nguyên nhân
khiến danh mục dự án PPP của thành phố chưa thực sự thu hút NĐT có đủ
năng lực thực hiện dự án thành công.
Nếu không lựa chọn được các dự án PPP chất lượng thì việc huy động
được sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng sẽ khó tương xứng với
tiềm năng. Việc phân tích lựa chọn dự án hiện không có tiêu chí đo lường cụ
thể, các quy định còn mang nhiều tính định tính, phụ thuộc vào năng lực tham
mưu của cán bộ phụ trách và sự vào cuộc của lãnh đạo thành phố. Mặt khác, dữ
liệu đầu vào khi khảo sát để lập dự án thường không chính xác và khó thu
nhập, dẫn đến nhiều dự án phải điều chỉnh vốn đầu tư, ảnh hưởng đến phương
án tài chính và phải ký lại hợp đồng [98, tr.13].
Ngoài ra, việc tổ chức thẩm định và phê duyệt đề xuất dự án thực hiện
theo quy định của Luật Đầu tư công. Sở Tài chính có trách nhiệm thẩm định
nguồn vốn và khả năng cân đối vốn đầu tư của nhà nước tham gia thực hiện
dự án. Thực tế triển khai Luật Đầu tư công đối với các dự án sử dụng vốn
NSNN cho thấy sự thiếu đầu tư cho khâu lựa chọn dự án và nghiên cứu các
nội dung đề xuất dự án đầu tư. Các nội dung nghiên cứu khảo sát thường
được tập trung thực hiện chuyên sâu sau khi CTĐT được phê duyệt. Mặt
khác, nguồn vốn chuẩn bị đầu tư chỉ được bố trí khi được bổ sung kế hoạch
đầu tư công trung hạn và kế hoạch đầu tư công hàng năm. Nội dung kinh phí
102
chuẩn bị đầu tư mặc dù có nội dung kinh phí phục vụ công tác xây dựng và
thẩm định báo cáo đề xuất CTĐT nhưng thực tế không thực hiện được do
không có hướng dẫn cụ thể về nội dung kinh phí và định mức thực hiện.
Thực tế cả khu vực công và tư đã dành nhiều thời gian, công sức và
nguồn lực vào việc nghiên cứu tiền khả thi dự án. Khoản 7 Điều 8 Nghị định
63/2018/NĐ-CP quy định trong trường hợp cần thiết, CQNNCTQ lựa chọn tổ
chức tư vấn độc lập để hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị dự án bao gồm tổ
chức lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, BCNCKT, tổ chức lựa chọn NĐT và
tổ chức quản lý dự án. Tuy nhiên, việc thuê đơn vị tư vấn để thực hiện lập báo
cáo nghiên cứu tiền khả thi chưa phổ biến ở Việt Nam. Nguyên nhân là do việc
thiếu các hướng dẫn cụ thể về định mức và bố trí vốn phục vụ xây dựng đề xuất
CTĐT các dự án PPP. Để lựa chọn được đơn vị tư vấn có uy tín về tài chính,
pháp lý và có kinh nghiệm, cần phải có một cơ quan xây dựng dự án PPP
chuyên trách hoạt động theo cơ chế thị trường để phục vụ việc xây dựng dự án
khả thi chất lượng.
3.3.3. Tổ chức thẩm định dự án hợp tác công tƣ
* Về công tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi
Cơ quan được ủy quyền ký kết và thực hiện hợp đồng dự án tổ chức lập
BCNCKT của dự án. Theo phân công của UBND Thành phố, Giám đốc Sở
Giao thông vận tải thực hiện ký kết thỏa thuận đầu tư, ký kết Hợp đồng đối với
dự án PPP giao thông; Ban quản lý dự án đầu tư các công trình giao thông là cơ
quan quản lý, theo dõi Hợp đồng dự án đã được ký kết. Ban quản lý dự án đầu
tư xây dựng các công trình giao thông là cơ quan lập BCNCKT của dự án cho
các dự án thuộc danh mục. Chi phí thực hiện nội dung này được bố trí từ nguồn
ngân sách thành phố.
Đối với dự án được UBND Thành phố Hà Nội giao NĐT lập
BCNCKT, thành phố tổ chức thỏa thuận với NĐT về mục đích, yêu cầu, chi
phí lập BCNCKT, chi phí tư vấn độc lập thẩm định và nguyên tắc xử lý
trong trường hợp NĐT khác được lựa chọn. Các dự án BT giao thông của
103
Thành phố Hà Nội đều được chỉ định trực tiếp NĐT, do vậy BCNCKT chủ yếu
do NĐT lập.
Các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội đều là các dự án thực
hiện theo hình thức hợp đồng BT, việc lập BCNCKT dự án xây dựng công
trình BT thực hiện song song với việc chuẩn bị Quy hoạch xây dựng chi tiết tỉ
lệ 1/2000 của khu đất dự kiến giao cho NĐT để thực hiện dự án khác.
* Về công tác thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi
Công tác khảo sát, thiết kế đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
chất lượng, tiến độ công trình và hiệu quả đầu tư dự án. Sở Kế hoạch và Đầu tư
chủ trì tổ chức thẩm định, các sở ngành chuyên môn có trách nhiệm tham gia ý
kiến thẩm định BCNCKT dự án. Các dự án được phê duyệt đều phù hợp các
quy hoạch liên quan được duyệt và được nhận đầy đủ ý kiến thẩm định của các
cơ quan chuyên ngành và thẩm định của Viện kinh tế - Bộ Xây dựng.
Sở GTVT thẩm định về sự cần thiết đầu tư và hình thức hợp đồng, sự
phù hợp về quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành; tính hợp lý của các căn cứ
lựa chọn quy mô, công suất; thẩm định thiết kế cơ sở; góp ý kiến về sự phù hợp
của đơn giá, định mức được sử dụng để xác định TMĐT xây dựng của dự án;
tính khả thi về mặt kỹ thuật,…
Sở Xây dựng thẩm định về sự cần thiết đầu tư, sự phù hợp với quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, các quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng; chủ trì
thẩm định thiết kế cơ sở, sự phù hợp của đơn giá, định mức được sử dụng để
xác định TMĐT xây dựng của dự án, đánh giá giải pháp thiết kế về tiết kiệm
chi phí xây dựng công trình của dự án; tính khả thi về mặt kỹ thuật, để xác định
chi phí đầu tư xây dựng các hạng mục theo lĩnh vực được phân công quản lý;
các yêu cầu trong quá trình triển khai thực hiện, các yêu cầu về kết nối hạ tầng
theo quy định của pháp luật.
Sở Quy hoạch kiến trúc thẩm định về sự phù hợp của dự án với quy
hoạch vùng, quy hoạch chi tiết xây dựng được duyệt, tính khả thi về mặt mỹ
thuật, cảnh quan đô thị, các yêu cầu về kết nối hạ tầng; cung cấp thông tin quy
104
hoạch đối với quỹ đất dự kiến thanh toán cho dự án, phối hợp cung cấp hồ sơ
để Sở Tài nguyên môi trường tạm xác định giá trị quỹ đất.
Sở Tài nguyên môi trường thẩm định về sự phù hợp quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, đánh giá tác động môi trường dự án; thẩm định về nguồn gốc, hiện
trạng sử dụng đất, điều kiện thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử đụng đất theo quy định; tạm xác định giá trị sử dụng đất tại
quỹ đất thanh toán cho công trình BT gửi Sở Tài chính để tổng hợp thẩm định
phương án tài chính của dự án.
Sở Tài chính thẩm định về hiệu quả dự án, thời gian hợp đồng, phương
án tài chính của dự án.
Ủy ban nhân dân các quận huyện có dự án: thẩm định về sự phù hợp về
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, địa điểm đất
đai, ranh giới, diện tích, hiện trạng quản lý và sử dụng đất và đánh giá tính phù
hợp và khả thi theo quy định của luật đất dai về phương án bồi thường GPMB,
tái định cư.
Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông cho ý kiến về
các nội dung của BCNCKT dự án.
Về cơ chế tài chính, giá trị đất tạm tính để cân đối thanh toán cho các dự
án BT được xác định trên cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chỉ tiêu sử dụng đất, chỉ tiêu
quy hoạch kiến trúc theo quy hoạch chi tiết được phê duyệt (trường hợp chưa có
quy hoạch chi tiết thì xác định theo quy hoạch phân khu do Sở Quy hoạch Kiến
trúc đề xuất); giá đất được tạm xác định trên cơ sở so sánh giá của 4 loại hình
chuyển dịch quyền sử dụng đất tại khu vực: Giá chuyển nhượng thực tế trên thị
trường, giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi; kết quả đấu giá quyền sử dụng đất
và giá đất theo bảng giá nhân với hệ số điều chỉnh ở mức tối đa. Trường hợp cần
thiết thì thuê đơn vị tư vấn thẩm định giá đất để xác định theo nguyên tắc nêu
trên. Đối với khu đất chưa GPMB, chưa có hạ tầng kỹ thuật thì xác định trên
nguyên tắc đất đã GPMB và đã có hạ tầng kỹ thuật với các chỉ tiêu sử dụng đất,
chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc theo quy hoạch được phê duyệt. Giá trị đất còn thiếu
105
Thành phố bổ sung bằng diện tích đất khác hoặc bằng tiền; giá trị diện tích đất
lớn hơn phải bàn giao lại cho Thành phố.
Thực tế việc tính toán giá trị quyền sử dụng đất đối với dự án hoàn vốn,
thời điểm xác định giá trị quyền sử dụng đất, phương pháp tính toán chưa thích
hợp và chưa tuân thủ theo quy định, gây bất lợi cho NSNN. Theo quy định
pháp luật về đất đai, giá trị quyền sử dụng đất được xác định tại thời điểm ký
hợp đồng hoặc giao đất, trong khi đó, NĐT khó có thể đồng thời tiến hành cả
dự án BT giao thông và dự án hoàn vốn là kinh doanh bất động sản. Điều này
dẫn đến tình trạng rủi ro trong xác định giá trị đầu tư và hoàn trả tương đương
tại hai thời điểm khác nhau.
Gần đây, Nghị định 63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018 có quy định tại
Điều 35: “Quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/2.000 hoặc 1/500 (nếu có) của quỹ đất
dự kiến thanh toán cho NĐT phải được lập và phê duyệt theo quy định của
pháp luật trước khi BCNCKT được phê duyệt”. Thực tế, quy định về việc lập
quy hoạch chi tiết các khu đất đối ứng để phê duyệt BCNCKT dự án PPP còn
gặp khó khăn do còn chồng chéo với Luật Quy hoạch đô thị, trong đó quy
định NĐT chỉ được giao nhiệm vụ lập quy hoạch chi tiết quỹ đất sau khi được
lựa chọn là NĐT thực hiện dự án (sau khi BCNCKT, Thiết kế kỹ thuật - dự
toán được phê duyệt mới tổ chức đấu thầu lựa chọn NĐT).
Trong giai đoạn chuẩn bị dự án, việc thẩm định BCNCKT còn hạn chế
như việc xác định các chỉ tiêu hiệu suất đầu tư, hiệu quả kinh tế, hiệu quả tài
chính, TMĐT…Do vậy, trong quá trình tổ chức thẩm định, BCNCKT của các
dự án PPP giao thông của Việt Nam phải hoàn thiện và chỉnh sửa nhiều để đáp
ứng các yêu cầu về đồng bộ hạ tầng kỹ thuật cũng như các điều khoản hợp
đồng với NĐT. Quá trình thẩm định dự án PPP ở Việt Nam có nhiều tác động
như: các BCNCKT không đầy đủ, các thay đổi và thiếu thống nhất của các quy
định pháp luật, quá trình lựa chọn NĐT tư nhân thiếu cạnh tranh và thiếu kinh
nghiệm trong ký kết hợp đồng... [71, tr.1416-1417].
Thực tế hoạt động thẩm định và phê duyệt dự án còn chưa làm rõ được
lợi thế cụ thể của việc đầu tư theo hình thức hợp đồng BT so với các hình thức
106
khác; chưa xác định được điều kiện thanh toán khi thực hiện dự án BT; một số
nội dung thẩm định chưa được xem xét kỹ (phương án tài chính, tính toán xác
định giá trị quỹ đất..) dẫn đến đề xuất các dự án chưa dự kiến được sơ bộ rủi ro
trong quá trình thưc hiện, chưa phân chia được rủi ro giữa các bên tham gia
hợp đồng và hiệu quả kinh tế - xã hội của việc đầu tư tự án.
Hơn nữa, hoạt động thẩm định và phê duyệt BCNCKT và lựa chọn NĐT
chưa được thực hiện công khai đầy đủ, thiếu công cụ và các bộ tiêu chí cụ thể,
làm ảnh hưởng đến chất lượng lựa chọn và chất lượng phê duyệt dự án PPP
giao thông. Việc lập một số dự án chưa được nghiên cứu kỹ nên phải điều
chỉnh bổ sung, ảnh hưởng đến thời gian hoàn thành và việc xác định nguồn vốn
NSNN hỗ trợ dự án.
3.3.4. Tổ chức lựa chọn nhà đầu tƣ
Trong giai đoạn trước thời điểm ban hành Luật Đấu thầu 2014, pháp luật
về đấu thầu chưa có quy định cụ thể về lựa chọn NĐT dự án PPP. Kể từ năm
2009, việc lựa chọn NĐT dự án PPP thực hiện theo quy định của Nghị định số
108/1999/NĐ-CP và Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT của Bộ KH&ĐT. Vì
vậy, công tác thông tin, thống kê về tình hình lựa chọn NĐT chưa được thực
hiện bài bản. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay, hoạt động lựa chọn NĐT PPP
được thực hiện theo Luật Đấu thầu và Nghị định 30/NĐ-CP, yêu cầu công
khai, minh bạch hóa thông tin về lựa chọn NĐT, thực hiện bài bản hơn. Tuy
nhiên, số lượng các dự án PPP còn chưa nhiều, hầu hết đang trong giai đoạn
công bố danh mục dự án hoặc đang tổ chức lựa chọn NĐT.
Việc lựa chọn NĐT còn nhiều bất cập do nhiều dự án không đăng tải
thông tin đầy đủ làm giảm tính cạnh tranh, thiếu minh bạch. Năng lực NĐT còn
hạn chế cả về năng lực kinh nghiệm và năng lực tài chính (nguồn vốn đầu tư
chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng) dẫn đến một số dự án phải bổ sung, điều
chỉnh và chất lượng công trình không đảm bảo. Theo thống kê năm 2017, trong
14 dự án đầu tư theo hình thức BT thuộc lĩnh vực giao thông của Thành phố Hà
Nội, không có dự án nào được lựa chọn NĐT thông qua hình thức đấu thầu (sơ
107
tuyển), các NĐT chủ yếu được chỉ định thầu. Nhiều dự án PPP mặc dù đã tổ
chức sơ tuyển rộng rãi nhưng chỉ có một NĐT quan tâm và phải áp dụng hình
thức chỉ định. Việc chỉ định trực tiếp NĐT đều được UBND Thành phố Hà Nội
trình Thủ tướng xin ý kiến chấp thuận với lý do xuất phát từ yêu cầu cấp thiết
của phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu cấp bách của việc sử dụng công trình
giao thông. NĐT được chỉ định phải làm rõ năng lực tài chính, năng lực kinh
nghiệm quản trị, có cam kết ứng vốn thực hiện không tính lãi vay, có đề xuất
ký quỹ thực hiện dự án và đề xuất thời gian thực hiện ngắn nhất và cam kết
đảm bảo chất lượng công trình theo quy định. Tình trạng thực hiện lựa chọn
NĐT các dự án PPP theo hình thức chỉ định NĐT là khá phổ biến, theo tổng
kết của Bộ Kế hoạch và đầu tư thì tỷ lệ các dự án PPP chỉ định NĐT là 96%
tính đến ngày 31/12/2010, là 44% năm 2016, là 58,5% năm 2017, là 69%
năm 2018, là 50% năm 2019. Đặc biệt đối với các dự án BT, tỷ lệ chỉ định
trực tiếp của NĐT lên đến 94% (34/36 dự án BT chỉ định NĐT) [2, tr.5].
Các dự án BT giao thông Hà Nội thường có TMĐT lớn với đề xuất
thanh toán bằng việc giao đất cho NĐT thực hiện dự án khác. Tuy nhiên, việc
chỉ định NĐT chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu cấp bách của việc sử dụng
công trình kết cấu hạ tầng. Không có phân tích giải trình cụ thể làm rõ thực
trạng, mức độ chính xác của việc cấp bách, cấp thiết khi chỉ định NĐT thực
hiện các dự án này. Nhiều dự án có kế hoạch thực hiện chỉ định NĐT được 2-3
năm nhưng vẫn chưa triển khai và thực hiện các thủ tục cấp Giấy chứng nhận
đầu tư. Mặt khác, việc chỉ định NĐT thay vì tổ chức đấu thầu đã làm giảm cơ
hội cạnh tranh và lựa chọn được NĐT có năng lực tốt để thực hiện dự án.
Trong quá trình thực hiện lựa chọn NĐT, theo quy định, công tác thẩm định
năng lực tài chính NĐT chủ yếu dựa trên vốn chủ sở hữu của NĐT được kiểm
toán năm gần nhất. Theo thống kê tại bảng 3.6, vốn vay thương mại của dự án
có thể lên đến tối đa 90% tổng vốn đầu tư dự án. Với tỷ lệ như vậy, vốn chủ sở
hữu của NĐT cũng chỉ đủ để trả lãi vay trong thời gian thực hiện dự án
(khoảng 2 đến 3 năm). Thực tế cho thấy do khó khăn về thị trường bất động
108
sản, mặc dù được hoàn vốn bằng các khu đô thị, một số dự án BT phải chuyển
sang đầu tư bằng vốn nhà nước.
Bảng 3.6: Quy định vể thẩm định năng lực tài chính các nhà đầu tƣ tham
Tổng vốn đầu tư dự án
Dưới 75 tỷ đồng
Từ 1.500 tỷ đồng trở lên
Nghị định số 78/2007/NĐ-CP ngày 11/5/2007
Vốn chủ sở hữu tối thiểu
≥ 30% tổng vốn đầu tư của dự án
Từ 75 đến dưới 1.500 tỷ đồng ≥ 20% tổng vốn đầu tư của dự án
≥ 10% tổng vốn đầu tư của dự án
Đến 1.500 tỷ đồng
Tổng vốn đầu tư dự án
Đối với phần vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng
Vốn chủ sở hữu tối thiểu
≥ 15% tổng vốn đầu tư của dự án
≥ 10% tổng vốn đầu tư của dự án
Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 và Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015
Đến 1.500 tỷ đồng
Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018
Tổng vốn đầu tư dự án Vốn chủ sở hữu tối thiểu
≥ 20% tổng vốn đầu tư của dự án
Đối với phần vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng ≥ 10% tổng vốn đầu tư của dự án
Nguồn: Tác giả xây dựng và tổng hợp
gia dự án hợp tác công tƣ
Việc đánh giá chưa toàn diện năng lực của NĐT dẫn đến lựa chọn cả
NĐT hạn chế về khả năng huy động vốn đảm bảo tiến độ như cam kết, như:
CTCP Tasco đối với Dự án Đường Lê Đức Thọ - Xuân Phương, Công ty
Bitexco đối với Dự án đường bao quanh Khu tưởng niệm danh nhân Chu Văn
An. Điều này dẫn đến việc đàm phán ký kết nội dung hợp đồng, hình thức
hợp đồng, giám sát quản lý thực hiện hợp đồng, quản lý vốn đầu tư có nhiều
bất cập sai sót, làm hạn chế hiệu quả thực hiện các dự án cũng như CTĐT
chung. Nguyên nhân là do các văn bản quy phạm pháp luật quy định đối với
các dự án thực hiện theo hình thức BT chưa quy định chi tiết, đầy đủ và chặt
chẽ đối với yêu cầu về đánh giá năng lực NĐT thông qua các chỉ tiêu tài
chính trong báo cáo tài chính. Lựa chọn NĐT theo hình thức chỉ định thầu đã
làm giảm sự cạnh tranh, minh bạch trong công tác lựa chọn NĐT, tiềm ẩn rủi
ro lãng phí, thất thoát, lựa chọn NĐT không có đủ năng lực thực hiện dự án
và giảm khả năng thu hút các NĐT đối với các dự án tương lai.
109
Sau khi lựa chọn được NĐT, cơ quan được UBND Thành phố ủy
quyền ký kết hợp đồng PPP và NĐT tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng
PPP. Nội dung hợp đồng PPP bên cạnh các nội dung cơ bản của dự án, hai
bên đối tác đàm phán làm rõ về cơ chế thanh toán, phân bổ rủi ro, phương án
cân đối bố trí nguồn vốn chủ sở hữu, cơ chế và tiến độ chuyển giao, cơ chế
giải quyết tranh chấp. Sở Giao thông vận tải và Ban quản lý dự án đầu tư
xây dựng công trình giao thông Thành phố (hoặc UBND các quận huyện)
tiến hành chủ trì soạn thảo, đàm phán và hoàn thiện hợp đồng, báo cáo Tổ
công tác liên ngành trình UBND Thành phố xin ý kiến Thường trực Thành
ủy để quyết định. Phương thức tổ chức thực hiện trên cơ sở tổng hợp ý kiến
chuyên môn của các sở ngành thành phố. Việc xây dựng hợp đồng PPP thực
tế chưa căn cứ trên cơ sở phân tích các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình
triển khai dự án, để từ đó hình thành trách nhiệm của các bên đối với việc
giảm thiểu các rủi ro đó. Do vậy, khi phát sinh rủi ro thường xảy ra tranh chấp
và phải ký bổ sung phụ lục hợp đồng.
Sau khi ký kết hợp đồng PPP, NĐT lập thiết kế kỹ thuật lựa chọn các
nhà thầu phục vụ dự án, gửi UBND thành phố để giám sát và kiểm tra.
UBND Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm tổ chức GPMB và hoàn thành
các thủ tục giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án theo quy định của pháp
luật về đất đai, hợp đồng dự án và các hợp đồng liên quan.
3.3.5. Tổ chức quản lý và thực hiện hợp đồng dự án hợp tác công tƣ
Nội dung QLNN chủ yếu của tổ chức quản lý thực hiện dự án PPP bao
gồm nội dung hỗ trợ bồi thường GPMB và quản lý giám sát quá trình thực
hiện hợp đồng PPP.
+ Hỗ trợ bồi thường giải phóng mặt bằng và tái định cư:
Công tác GPMB đối diện với nhiều thách thức khó khăn. Bồi thường
GPMB thực hiện bởi các cơ quan nhà nước thường với giá thấp hơn giá thị
trường và những hộ gia đình bị thu hồi đất phải chấp thuận mà không được
thỏa thuận. Công tác GPMB, tái định cư mặc dù được Thành phố chỉ đạo
quyết liệt, kịp thời tháo gỡ nhưng còn nhiều vướng mắc về cơ chế, chính sách
110
xác định nguồn gốc đất, tái định cư; quy trình GPMB phức tạp, phải thực hiện
đầy đủ các bước theo quy định đối với từng phương án cụ thể… gây khó khăn
trong thực hiện, dẫn đến người dân không đồng thuận, khiếu kiện, làm chậm
quá trình thi công dự án và phải điều chỉnh tăng chi phí đầu tư. Nhiều dự án
BT kéo dài do tiến độ GPMB chậm như: dự án Xây dựng tuyến đường Minh
Khai - Vĩnh Tuy - Yên Duyên, đoạn nối từ đường Minh Khai đến đường
Vành đai 2,5; dự án Xây dựng tuyến đường từ đê Ngọc Thụy đến KĐT mới
Thượng Thanh quận Long Biên; dự án Xây dựng đường 2,5 (đoạn Đầm Hồng
- Quốc lộ 1A) quận Hoàng Mai….
+ Công tác giám sát và đánh giá đầu tư
Việc quản lý, thực hiện dự án được giao cho các NĐT, từ khâu lựa
chọn đơn vị tự vấn lập, thẩm tra và phê duyệt thiết kế, dự toán, tư vấn giám
sát, dẫn đến khó khăn cho CQQLNN trong việc kiểm soát chi phí đầu tư, tiềm
ẩn nguy cơ tăng chi phí, sai sót về khối lượng hoặc sử dụng định mức, đơn giá
chưa phù hợp đối với các công việc. Do đó, công tác giám sát và đánh giá các
dự án PPP là yêu cầu cần thiết của công tác QLNN.
Chủ thể giám sát và đánh giá: Các cơ quan QLNN của Thành phố Hà
Nội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Thanh tra Chính
phủ, Kiếm toán Nhà nước…
Trong những năm qua, công tác giám sát và đánh giá các dự án đầu tư
công trình kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP của Thành phố Hà
Nội thực hiện theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức
hợp đồng BOT, BTO, BT và Quyết định số 71/2010/NĐ-CP về ban hành quy
chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP. Từ năm 2015, khi Nghị định
15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP được ban hành và có hiệu lực,
hoạt động giám sát và đánh giá dự án PPP chịu sự điều tiết của Luật Ngân
sách nhà nước, Luật xây dựng, Luật đấu thầu, Nghị định 84/2015/NĐ-CP về
giám sát và đánh giá đầu tư và một số văn bản có liên quan khác.
Mặc dù quy định về đánh giá đầu tư được nêu ra từ năm 2009, đến
nay chưa có một dự án PPP nào của Thành phố Hà Nội được đánh giá một
111
cách đầy đủ về những kết quả, tác động của nó đến sự phát triển hệ thống
hạ tần giao thông, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố. Thực
tế, tổ công tác BT Thành phố Hà Nội đã xây dựng Kế hoạch số 99/KH-
TCTBT ngày 13/6/2013 về việc thực hiện công tác kiểm tra, rà soát các dự
án đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT) trên địa
bàn Thành phố Hà Nội. Nội dung của kế hoạch mang tính chất tổng hợp rà
soát, trách nhiệm giám sát và đánh giá của các đơn vị chưa được quy định
cụ thể, sự vào cuộc của các cơ quan QLNN còn khiêm tốn dẫn đến báo cáo
giám sát và đánh giá đầu tư của các NĐT và cơ quan quản lý hợp đồng PPP
còn hạn chế. Đánh giá dự án chỉ dừng lại ở việc tổng kết chung về tiến độ
thực hiện dự án, chất lượng xây dựng công trình, chưa đánh giá định kỳ
chất lượng công trình trong quá trình khai thác, tính bền vững của dự án,
tác động kinh tế xã hội. Việc giám sát thực hiện hợp đồng của các cơ quan
còn thiếu chặt chẽ. Hầu hết các dự án đều chậm tiến độ, kéo dài thời gian
thực hiện phải gia hạn hợp đồng làm phát sinh tăng chi phí đầu tư và không
hoàn thành đúng tiến độ để đảm bảo phục vụ các mục tiêu cấp bách, kịp
thời chủ trương đã ra ban đầu.
Hiện nay, hoạt động giám sát và đánh giá dự án chủ yếu được thực hiện
trên báo cáo giám sát và đánh giá dự án theo định kỳ và hợp đồng dự án. Tuy
nhiên, các cơ quan đơn vị còn chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, còn
thực hiện mang tính đối phó, chậm trễ, không đầy đủ. Hợp đồng dự án hiện nay
chỉ quy định nội dung và trách nhiệm giám sát của CQNNCTQ, chưa quy định
rõ trách nhiệm và nội dung giám sát và đánh giá của NĐT với CQNNCTQ với
tư cách là một bên đối tác trong dự án.
Các phân tích trên đã khắc họa rõ nét thực trạng QLNN về PPP trong đầu
tư kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội. Theo đó, Thành phố Hà
Nội chưa xây dựng quy hoạch, chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP; việc lựa chọn các dự án PPP giao
thông chất lượng chưa tốt do chưa dựa trên những phân tích đánh giá đầy đủ và
sâu sắc về các yếu tố kinh tế xã hội nên chưa thu hút được sự quan tâm của các
112
NĐT tư nhân; tổ chức thẩm định và phê duyệt BCNCKT còn chưa làm rõ được
lợi thế cụ thể của việc đầu tư theo hình thức PPP so với hình thức đầu tư công
truyền thống, thiếu cơ chế tham vấn ý kiến chuyên gia, năng lực và trách nhiệm
của cán bộ thẩm định còn thiếu chuyên nghiệp; tổ chức lựa chọn NĐT chủ yếu
theo hình thức chỉ định trực tiếp, chưa xác định được rõ các tiêu chí đầu ra của
dự án, năng lực và kinh nghiệm đàm phán thương thảo hợp đồng còn nhiều thiếu
sót; tổ chức quản lý và thực hiện hợp đồng PPP còn chưa chủ động và đối tác
nhà nước chưa thực sự đồng hành tháo gỡ các khó khăn chung cùng NĐT.
3.4. PHÂN TÍCH ĐỊNH LƢỢNG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƢỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ THÀNH CÔNG
CỦA HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG
CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.4.1. Mối quan hệ giữa tiêu chí thành công và các nhân tố thành
công của dự án hợp tác công tƣ
Hiệu quả của hoạt động QLNN đối với các dự án PPP được đánh giá
thông qua việc thực hiện thành công các dự án PPP. Các tiêu chí đánh giá thành
công dùng để đo lường sự thành công hay thất bại của một dự án, bao gồm
những thang đo không thay đổi theo thời gian. Trong khi đó, các nhân tố ảnh
hưởng đến thành công của dự án là đầu vào của quá trình quản lý có tác động
trực tiếp hay gián tiếp đến sự thành công của dự án. Nó phụ thuộc vào các tình
huống cụ thể, có sự khác biệt giữa các điều kiện kinh tế xã hội, sự kỳ vọng của
các NĐT, loại hình dự án… Các tiêu chí thành công và các nhân tố thành công
của dự án có mối quan hệ hữu cơ với nhau [109, tr.960].
Phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng thành công của dự
án PPP và các tiêu chí đánh giá thành công của dự án PPP là nội dung đã
được đề xuất bởi nhiều nhà nghiên cứu cho các nghiên cứu tương lai về PPP
[69, tr.9]. Kiểm định mối quan hệ này sẽ đóng góp khoa học vào các nghiên
cứu về PPP, đồng thời góp phần chuẩn xác lại tác động của các nhân tố thành
công của dự án PPP thông qua sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM),
mô hình hồi quy đa biến (MRA) hoặc phương pháp đánh giá tổng hợp mờ
113
(FSE) giúp nhà quản lý định hướng được các nội dung cần tập trung triển khai
để thực hiện thành công các dự án PPP [81, tr.96-97].
Kết quả phân tích tổng quan nghiên cứu cho thấy các nhân tố ảnh hưởng
đến thành công của dự án PPP có thể nhóm thành 04 nhóm nhân tố là: môi
trường đầu tư, năng lực của khu vực tư nhân và xã hội, sự phối hợp và chia sẻ
giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, tổ chức thực hiện dự án công khai
và hiệu quả. Có tổng cộng 28 biến quan sát được hình thành.
Để thực hiện nghiên cứu phân tích mối quan hệ này, trên cơ sở các
nghiên cứu về tiêu chí đánh giá thành công và các nhân tố thành công cùng với
mối quan hệ giữa hai nội dung này, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu và
Môi trường đầu tư
giả thuyết nghiên cứu như sau:
H1
Năng lực của khu vực tư nhân và xã hội H2
Thực hiện thành công dự án PPP H3
Sự phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân H4
Tổ chức thực hiện đầu tư dự án công khai và hiệu quả
Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa các nhân tố thành công
Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên tổng quan các nghiên cứu.
và thành công của dự án hợp tác công tƣ
114
Bảng 3.7: Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết Nội dung
Môi trường đầu tư bền vững và thuận lợi có tác động tích cực H1 đến thành công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội
Năng lực của khu vực tư nhân và xã hội có tác động tích cực đến H2 thành công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội
Sự phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa khu vực nhà nước và
H3 khu vực tư nhân có tác động tích cực đến thành công của dự án
PPP giao thông của Thành phố Hà Nội
H4
Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên tổng quan các nghiên cứu .
Tổ chức thực hiện đầu tư dự án công khai và hiệu quả có tác động tích cực đến thành công của dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội
3.4.2. Phân tích định lƣợng mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hƣởng
đến thành công và thành công của dự án hợp tác công tƣ giao thông của
Thành phố Hà Nội
Để chuẩn xác các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP,
luận án tiến hành phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố thành công và tiêu chí
đánh giá thành công của dự án PPP theo mô hình nghiên cứu và giả thuyết
nghiên cứu đã nêu ở Chương 2, tác giả thực hiện mô hình cấu trúc tuyến tính
SEM, các bước tiến hành bao gồm:
- Bước 1: Xây dựng thang đo với từng nhóm nhân tố và sự thành công
của dự án PPP theo thang điểm Likert căn cứ trên tổng quan các nghiên cứu
và/hoặc điều tra khảo sát.
- Bước 2: Đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s
Alpha. Hệ số Alpha được phát triển bởi Cronbach (1951) nhằm đo lường tính
nhất quán nội tại (internal consistency) của các biến trong cùng một nhóm.
Theo đó, hệ số Cronbach’s có thể được dùng để đánh giá độ tin cậy của thang
đo và loại các biến không phù hợp ra khỏi mô hình.
115
- Bước 3: Phân tích nhân tố khám phá (exploratory factor analysis -
EFA) nhằm đánh giá giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của từng biến trong các
nhóm nhân tố.
- Bước 4: Phân tích nhân tố khẳng định (confirmatory factor analysis -
CFA) nhằm kiểm định tính đại diện của các biến quan sát (measured variables)
đối với các nhân tố (constructs).
- Bước 4: Kiểm định giả thuyết và đo lường mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố đến sự thành công của mô hình PPP bằng mô hình cấu trúc
tuyến tính SEM.
3.4.3. Kết quả và thảo luận
- Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha
Để tiến hành phân tích nhân tố, trước tiên cần tiến hành phân tích độ tin
cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha. Một thang đo có hệ số
tương quan biến tổng ≥0,6 thì có thể chấp nhận về độ tin cậy. Các biến quan sát
có hệ số tương quan biến tổng ≤0,3 sẽ bị loại. Kết quả kiểm định Cronbach’s
Alpha cho các thang đo thành phần có hệ số Cronbach’s Alpha đảm bảo yêu
cầu để tiến hành phân tích nhân tố khám phá EFA.
Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha cho thang đo Sự phối hợp và chia
sẻ giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân (CS) có biến CS7 bị loại do hệ
số tương quan biến tổng của CS7 là 0.041<0.3. Hệ số Cronbach’s Alpha của
thang đo nếu loại biến CS7 (0.892) tăng lên so với hệ số Cronbach’s Apha
ban đầu (0,812). Như vậy, biến CS7 không có tương quan với các biến khác
trong thang đo CS, nên được loại ra và tiến hành đánh giá lại. Kết quả kiểm
định sau khi loại bỏ biến CS7 cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha tổng của từng
nhân tố lần lượt là: Môi trường đầu tư (0.855), Năng lực của khu vực tư nhân
và xã hội (0.836), Chia sẻ (0.892), Thực hiện (0.756), do đó thang đo đạt yêu
cầu về độ tin cậy.
116
Bảng 3.8: Kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha
STT Nhóm nhân tố
Nguồn: Kết quả phân tích
Cronbach’s Alpha lần 1 .895 .855 .836 .812 .756 Cronbach’s Alpha lần 2 .895 .855 .836 .892 .756 1 2 3 4 5 HQ MT NL CS TH
- Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA
Sau khi tiến hành đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số
Cronbach’s Alpha, tất cả các biến của nhóm nhân tố thành công (trừ biến CS7
đã bị loại) được đưa vào phân tích nhân tố khám phá (EFA) nhằm đánh giá giá
trị hội tụ và giá trị phân biệt của từng biến và hình thành nên các nhân tố.
Điều kiện để phân tích nhân tố khám phá EFA là phải thỏa mãn các yêu
cầu: (1) hệ số tải nhân tố (factor loading) ≥0,5; (2) 1≥ Hệ số KMO (Kaiser-
Meyer-Olkin) ≥0,5 và (3) Kiểm định Barlett có ý nghĩa thống kê (Sig. <0,05)
và (4) Phần trăm phương sai trích >50% (Hair và cộng sự, 1998).
Bảng 3.9: Kết quả kiểm định KMO và Barlett (EFA lần 2)
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .740
Bartlett's Test of Approx. Chi-Square 3612.904
Sphericity df 378
Nguồn: Kết quả phân tích
Sig. .000
Kết quả phân tích EFA lần 1 cho thấy biến CS3 có 2 hệ số tải nhân tố, và
chênh lệch hai hệ số tải nhân tố này <0.3, nên biến CS3 bị loại ra.
Kết quả phân tích EFA lần 2 đạt yêu cầu ở tất cả các tiêu chí, chỉ số
KMO là 0.740 >0.5, và kiểm định Barlett’s là 3612.904 với mức ý nghĩa
Sig.=0.000 <0.05.
117
Bảng 3.10: Ma trận đặc trƣng của các nhân tố (Pattern Matrix)
Pattern Matrixa Factor
1
2
3
4
5
6
.883
.839 .833 .804 .798 .527
TH7 TH5 TH4 TH6 TH8 CS4
.852
CS5
.756
CS1
.714
CS6
.705
CS2
.926
HQ3
.861
HQ2
.706
HQ4
.638
HQ1
.624
HQ6
.507
HQ5
.837
MT4
.810
MT2
.775
MT3
.695
MT5
.587
MT1
NL2
.906
NL1
.844
NL3
.598
NL4
.576
TH2
.931
TH1
.864
.843
TH3 Extraction Method: Principal Axis Factoring. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 6 iterations.
Nguồn: Kết quả phân tích
118
Kết quả phân tích EFA lần 2 hình thành nên 6 nhân tố, với hệ số tải nhân
tố đều lớn hơn 0.5, Eigenvalue của các nhân tố đều cao (>1), nhân tố thứ 6 có
Eigenvalues thấp nhất là 1,550 >1. Giá trị tổng phương sai trích = 64.025 > 50%:
đạt yêu cầu; điều đó có nghĩa là 6 nhân tố này giải thích 64.025% biến thiên của
dữ liệu.
Nhóm nhân tố Tổ chức thực hiện dự án được gom thành hai nhân tố
khác nhau, bao gồm nhóm các biến TH1, TH2, TH3 (được đặt tên là Tổ chức
đánh giá nghiên cứu khả thi TH-A) và nhóm các biến TH4, TH5, TH6, TH7 và
TH8 (được đặt tên là Tổ chức thực hiện công khai và quản lý giám sát hiệu quả
TH). Từ đây, có 5 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP bao
gồm: (1) Môi trường đầu tư (MT); (2) Năng lực của khu vực tư nhân và xã hội
(NL); (3) Sự phối hợp và chia sẻ giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân
(CS); (4) Tổ chức đánh giá nghiên cứu khả thi (TH-A); và (5) Tổ chức thực
hiện công khai và quản lý giám sát hiệu quả (TH).
- Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA:
Sau khi thang đo được kiểm định bằng phương pháp hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA, các biến quan sát đạt
yêu cầu sẽ tiếp tục đưa vào phân tích nhân tố khẳng định CFA để đánh giá các
biến quan sát (measured variables) đại diện cho các nhân tố (constructs) tốt đến
mức nào, qua đó thiết lập các mô hình đo lường phù hợp và được dùng như đầu
vào cho quá trình kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính ở bước kế tiếp.
Kết quả phân tích CFA lần 1 cho thấy biến TH8 có hệ số tải nhân tố
(factor loading) thấp (<0,5) nên bị loại ra.
Kết quả phân tích CFA lần 2 cho thấy trọng số các biến quan sát (chuẩn
hóa) đều đạt chuẩn cho phép (≥0,5) và có ý nghĩa thống kê (các giá trị p đều
bằng 0,000) nên đạt giá trị hội tụ và đạt tính đơn nguyên ở một số quan sát.
Ngoài ra, kết quả phù hợp với dữ liệu thực tế với pvalue = 0,000; chỉ số
CMIN/df=2.096; CFI = 0,906; TLI=0,886 và RMSEA = 0,079.
119
Bảng 3.11: Kết quả kiểm định quan hệ giữa các khái niệm
Chưa chuẩn hóa
Đã chuẩn hóa
Estimate
S.E.
C.R.
P
Estimate
1.000
TH7 <--- TH
.698
.115
1.416
12.338
***
TH5 <--- TH
.916
.115
1.386
12.024
***
TH4 <--- TH
.867
.113
1.294
11.476
***
TH6 <--- TH
.839
1.000
CS4 <--- CS
.929
.036
.719
19.874
***
CS5 <--- CS
.911
.055
.588
10.749
***
CS1 <--- CS
.665
.060
.762
12.618
***
CS6 <--- CS
.739
.065
.759
11.689
***
CS2 <--- CS
.662
1.000
HQ3 <--- HQ
.858
.072
1.160
16.077
***
HQ2 <--- HQ
.924
.084
.872
10.370
***
HQ4 <--- HQ
.679
.078
.936
11.930
***
HQ1 <--- HQ
.754
.088
.797
9.063
***
HQ6 <--- HQ
.617
.086
.664
7.730
***
HQ5 <--- HQ
.551
1.000
MT4 <--- MT
.686
.149
1.261
8.484
***
MT2 <--- MT
.919
.122
.925
7.555
***
MT3 <--- MT
.618
.117
1.163
9.934
***
MT5 <--- MT
.736
.102
.859
8.390
***
MT1 <--- MT
.656
1.000
NL2 <--- NL
.941
.063
.915
14.582
***
NL1 <--- NL
.855
.064
.534
8.307
***
NL3 <--- NL
.572
.082
.698
8.562
***
NL4 <--- NL
.574
TH2 <--- TH_A
1.000
.914
.057
.898
15.624
***
TH1 <--- TH_A
.870
.057
.854
15.002
***
TH3 <--- TH_A
.846
Nguồn: Kết quả phân tích
trong phân tích CFA
120
Bảng 3.12: Bảng kết quả kiểm định tính hội tụ, tính phân biệt và sự tin cậy
trong phân tích CFA
Model Validity Measures
CR AVE MSV MaxR(H)
TH
CS
HQ MT NL TH_A
0.920
TH 0.885 0.614 0.343
0.783
0.890 0.623 0.153
0.933
CS
0.392*** 0.789
0.902
0.585*** 0.203*
HQ 0.895 0.588 0.343
0.767
0.871
0.018
0.048
MT 0.858 0.550 0.050
0.223* 0.742
0.840 0.577 0.130
0.909
0.200*
NL
0.089 0.361*** 0.074 0.760
0.914
0.008
0.094
TH_A 0.909 0.769 0.009
-0.039 0.051 -0.036 0.877
Nguồn: Kết quả phân tích
Kết quả kiểm định CFA cho thấy các giá trị CR (composite reliability:
độ tin cậy tổng hợp) đều lớn hơn 0,7 cho thấy thang đo nghiên cứu đảm bảo
độ tin cậy. Các giá trị AVE (average variance extracted: trung bình của
phương sai trích) đều lớn hơn 0,5 cho thấy tính hội tụ của thang đo được đảm
bảo. Các giá trị MSV (maximum shared variance: phương sai riêng lớn nhất)
đều nhỏ hơn AVE cho thấy đảm bảo tính phân biệt giữa các nhóm nhân tố.
Như vậy, bảng hỏi đảm bảo độ tin cậy, các nhân tố thành phần hội tụ vào một
nhóm nhân tố, và giữa các nhóm nhân tố đảm bảo tính phân biệt.
- Kết quả kiểm định của mô hình SEM
Kết quả phân tích cấu trúc tuyến tính SEM cho thấy mô hình có 288 bậc
tự do với giá trị thống kê Chi-square (CMIN) là 593,217; pvalue=0.0000. Giá
trị CMIN/DF=2.060 (<3) cho thấy mô hình nghiên cứu đạt yêu cầu và tương
thích với dữ liệu thực tế. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ phù hợp khác đều đạt
yêu cầu như: CFI = 0.909, TLI=0,889 và RMSEA=0.077. Như vậy mô hình
nghiên cứu thích hợp với dữ liệu thực tế.
121
Kết quả kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến thành
công của dự án PPP và các tiêu chí đánh giá thành công của dự án đối với các
dự án PPP các công trình kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội cho
thấy các mối quan hệ đều có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 90% và 95%.
Bảng 3.13: Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm
trong mô hình SEM
Chưa chuẩn hóa Đã chuẩn hóa Mối quan hệ Estimate S.E. C.R. P Estimate
HQ <--- TH .452 4.342 *** .374 .104
HQ <--- CS .149 2.236 .025 .179 .067
HQ <--- MT .239 2.108 .035 .142 .113
HQ <--- NL .281 4.070 *** .285 .069
Nguồn: Kết quả phân tích
.046 HQ <--- TH_A -.034 -.745 .456 -.050
Trong mối quan hệ này, các nhân tố Tổ chức thực hiện công khai và
quản lý giám sát hiệu quả, Sự phối hợp và chia sẻ giữa khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân, Môi trường đầu tư, Năng lực của khu vực tư nhân và xã hội
có giá trị pvalue<0.05 nên có thể kết luận các nhân tố này thực sự ảnh hưởng
đến thành công của dự án PPP. Trong đó, Tổ chức thực hiện công khai và
quản lý giám sát hiệu quả có tác động lớn nhất lên sự thành công của dự án
PPP giao thông (đạt trọng số chuẩn hóa là 0,374), kế đến là Năng lực của
khu vực tư nhân và xã hội (0,285), Sự phối hợp và chia sẻ giữa khu vực nhà
nước và khu vực tư nhân (0,179), Môi trường đầu tư (0,142). Trong khi Tổ
chức thực hiện công khai và quản lý giám sát hiệu quả có tác động lớn nhất
lên sự thành công của dự án PPP giao thông, thì Tổ chức đánh giá nghiên
cứu khả thi không có ảnh hưởng đạt mức ý nghĩa thống kê (pvalue =
0,456>0,05).
122
Hình 3.2: Kết quả phân tích mô hình SEM
Kết quả này có sự thống nhất với các nghiên cứu quốc tế, việc tổ chức
thực hiện công khai và quản lý giám sát hiệu quả đòi hỏi sự quản lý, theo dõi
và vào cuộc đầy đủ và chủ động của các cơ quan QLNN trong các hoạt động:
cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời, tổ chức lựa chọn đầu tư đảm bảo tính cạnh
tranh và minh bạch, quản lý theo dõi và giám sát thực hiện hợp đồng PPP.
Các dự án PPP nếu thiếu vắng sự cạnh tranh sẽ gây ra những lãng phí hơn cả
các dự án đầu tư công với quy mô tương tự [98, tr.15].
Kết quả loại bỏ ý nghĩa thống kê của nhóm nhân tố tổ chức đánh giá
nghiên cứu khả thi cũng đã phản ánh thực tế chất lượng đánh giá nghiên cứu khả
thi các dự án PPP nói chung và các dự án BT giao thông của Thành phố Hà Nội
nói riêng như đã phân tích tại phần 3.3.3 ở trên. Báo cáo nghiên cứu khả thi là
một cơ sở quan trọng để lựa chọn dự án đầu tư theo hình thức PPP. Để thực hiện
thành công dự án PPP, nhà nước phải là người chịu trách nhiệm chuẩn bị dự án,
dành một khoản kinh phí hợp lý cho lập BCNCKT. Ngoài các nội dung mang
123
tính kỹ thuật được quy định như đối với các dự án đầu tư công, BCNCKT tập
trung chứng minh lợi thế của việc thực hiện dự án theo hình thức PPP so với các
hình thức đầu tư khác; khả năng có thể thực hiện được theo hình thức PPP. Nhà
nước chỉ quyết định lựa chọn PPP khi đánh giá, chứng minh được việc thực hiện
dự án PPP sẽ có hiệu quả cao hơn so với hình thức nhà nước tự đầu tư. Điều này
đã được thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh nhận định và đưa vào các
quyết sách của mình, tạo nên thành công cho các dự án PPP trên địa bàn.
Mặc dù theo thông lệ quốc tế và quy định pháp lý, để thực hiện thành
công dự án PPP, công tác chuẩn bị dự án phải tiến hành thẩm định và phê duyệt
BCNCKT với nhiều loại tài liệu (báo cáo đánh giá tác động môi trường theo
Luật bảo vệ môi trường, thiết kế cơ sở của dự án theo Luật Xây dựng, công
nghệ sử dụng trong dự án theo Luật Chuyển giao công nghệ). Tuy nhiên, ở giai
đoạn lập BCNCKT của dự án PPP, chưa lựa chọn được NĐT, do đó các nội
dung chi tiết của dự án chưa được làm rõ, không thể hoàn thành đánh giá tác
động môi trường do không có NĐT và nguồn tài trợ. CQNNCTQ gặp khó khăn
khi giải quyết các yêu cầu này theo quy định của pháp luật, dẫn đến những
chậm trễ trong quá trình chuẩn bị dự án.
Khảo sát thực tiễn cho thấy các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà
Nội hầu hết là các dự án do NĐT đề xuất và đều lựa chọn NĐT theo hình thức
chỉ định. BCNCKT do NĐT xây dựng. Thực tế hoạt động thẩm định và phê
duyệt dự án còn chưa làm rõ được lợi thế cụ thể của việc đầu tư theo hình thức
hợp đồng BT so với các hình thức khác; chưa xác định được điều kiện thanh
toán khi thực hiện dự án BT; một số nội dung thẩm định chưa được xem xét kỹ
(phương án tài chính, tính toán xác định giá trị quỹ đất..) dẫn đến đề xuất các
dự án chưa dự kiến được sơ bộ rủi ro trong quá trình thưc hiện, chưa phân chia
được rủi ro giữa các bên tham gia hợp đồng và hiệu quả kinh tế - xã hội của
việc đầu tư tự án. Quá trình thẩm định BCNCKT còn có sự tham gia hạn chế
của các phản biện độc lập từ các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước, tham vấn từ
124
các đối tượng ảnh hưởng (sử dụng) dự án để quyết định đầu tư. Việc lập một số
dự án chưa được nghiên cứu kỹ, phải bổ sung điều chỉnh làm ảnh hưởng đến
thời gian hoàn thành và việc xác định nguồn vốn NSNN hỗ trợ dự án.
3.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƯ
TRONG ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.5.1. Những kết quả đạt đƣợc
Mặc dù Luật về PPP mới được ban hành và có hiệu lực từ ngày
01/01/2021 nhưng khung pháp lý về PPP hiện nay của Việt Nam đã tương đối
đầy đủ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Quy định về PPP đã được đề cập tại
một số văn bản Luật, có các Nghị định riêng và các thông tư hướng dẫn cụ thể.
Đây là cơ sở quan trọng để thu hút đầu tư PPP và xây dựng Luật PPP. Thành
phố Hà Nội theo đó cũng đã chủ động thực hiện các biện pháp thúc đẩy thực
hiện các dự án PPP giao thông và đã đạt những kết quả sau:
- Đã tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng đô thị giao thông khung giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm
2030, đặt trong quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.
- Đã triển khai một số tuyến đường sắt đô thị. Hoàn thành một số công
trình giao thông trọng điểm, cấp bách như: Vành đai 1 đoạn Ô Đông Mác -
Nguyễn Khoái; Vành đai 2 đoạn Nhật Tân - Cầu Giấy và đoạn Ngã Tư Sở -
Ngã Tư Vọng phần mặt đất; Vành đai 3 phần mặt đất đoạn Mai Dịch - cầu
Thăng Long; Vành đai 3,5 đoạn Đại lộ Thăng Long - Quốc lộ 32; cải tạo, mở
rộng tuyến đường đê từ An Dương - Khách sạn Thắng Lợi; cải tạo nút giao
đường Chùa Bộc - Phạm Ngọc Thạch; đường trục phía Nam (tỉnh Hà Tây cũ)
đoạn Km0 - Km19+900; 5 công trình cầu vượt tại các nút giao thông trọng
điểm (Cổ Linh - đầu cầu Vĩnh Tuy; Ô Đông Mác - Nguyễn Khoái; nút giao
trung tâm quận Long Biên; Bắc Hồng; An Dương - Thanh Niên); kết nối một
số đoạn tuyến còn lại của đường vành đai 1, vành đai 2, vành đai 2,5 và vành
đai 3,… Diện tích đất dành cho giao thông tăng lên, năm 2019 đạt 9,75% và hết
125
năm 2020 ước đạt 10,05% đất đô thị (năm 2015 là 8,65%); tỷ lệ vận chuyển
hành khách công cộng được nâng lên, năm 2019 đạt 17,03%, năm 2020 ước đạt
20,05% (năm 2015 là 14,4%) [18, tr.7].
- Đã chủ động đưa ra các giải pháp tổng thể tạo thuận lợi cho việc đầu tư
theo hình thức PPP bao gồm: thành lập Tổ công tác liên ngành đối với các dự
án PPP của Thành phố, ban hành quy chế triển khai Nghị định 15/2015/NĐ-CP
theo thẩm quyền của UBND Thành phố cùng phân công phân nhiệm đối với
từng cơ quan đơn vị trong quá trình thực hiện các dự án PPP; đã quan tâm tổ
chức các chương trình tập huấn về PPP, tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư,
công khai các danh mục các dự án đầu tư PPP, và chủ động xây dựng các
phương án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dựa án PPP.
- Trong việc lựa chọn dự án PPP, UBND Thành phố đã xác định được
thứ tự ưu tiên: (1) Dự án công trình trọng điểm; (2) Dự án đối với các tuyến
đường vành đai; (3) Dự án các tuyến đường xuyên tâm; (4) Dự án các tuyến
khu vực, hạ tầng khung, công trình dân sinh bức xúc.
- Trong quản lý và giám sát quá trình thực hiện hợp đồng, UBND Thành
phố đã có sự phân công rõ ràng về cơ quan thỏa thuận và ký kết hợp đồng với
cơ quan quản lý thực hiện hợp đồng.
3.5.2. Những hạn chế chủ yếu
Bên cạnh những thành công nêu trên, công tác QLNN về PPP của Thành
phố Hà Nội còn tồn tại một số hạn chế như sau:
Việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải theo hình thức
PPP đã được Thành phố Hà Nội quan tâm, nhưng còn chưa thực sự quyết liệt.
Cơ chế bố trí vốn còn thiếu chủ động và linh hoạt, nhiều công trình có trong kế
hoạch không được bố trí vốn chuẩn bị dự án nên triển khai chậm. Mặc dù đã có
những nhận định về vai trò của mình trong xây dựng BCNCKT nhưng chưa có
các quyết sách quyết liệt về cơ chế tài chính như thành phố Hồ Chí Mính và
tỉnh Quảng Ninh. Do đó mạng lưới đường giao thông vẫn chưa hoàn thiện,
126
nhiều tuyến đường vành đai chưa hoàn chỉnh và khép kín. Một số tuyến đường
trong đô thị, các tuyến đường quốc lộ hướng tâm chưa hoàn thành, nên chưa
khai thác hết năng lực công trình. Mặt khác, việc GPMB có nhiều vướng mắc,
một số quận huyện chưa quyết liệt thực hiện dẫn đến tiến độ công trình bị chậm
trễ, hiệu quả đầu tư chưa cao.
Năng lực quản lý, chỉ đạo điều hành, thực hiện dự án của một số cơ
quan, NĐT, các tổ chức tín dụng còn hạn chế. Về phía nhà nước: mặc dù
Thành phố Hà Nội đã triển khai PPP khoảng 10 năm nay, đã có đơn vị đầu mối
về PPP, tuy nhiên do mô hình PPP tại Việt Nam còn mới mẻ nên kiến thức và
kinh nghiệm của các cán bộ, công chức trong việc quản lý, thực hiện dự án PPP
còn hạn chế. Về phía NĐT: NĐT vẫn chú trọng việc dành được hợp đồng để
tạo công ăn việc làm trước mắt mà chưa thực sự chuyển đổi sang tư duy đầu tư
dài hạn. Kinh nghiệm đầu tư, quản lý đầu tư, quản lý vận hành và năng lực tài
chính, kỹ thuật còn rất hạn chế. Có nhiều dự án dự kiến triển khai theo hình
thức PPP, nhưng chưa xác định được NĐT để giao lập đề xuất dự án. Một số
NĐT được chấp thuận giao lập đề xuất dự án PPP, nhưng không tích cực triển
khai dẫn đến không đảm bảo tiến độ theo kế hoạch. Về phía tổ chức tín dụng:
Các tổ chức tín dụng chủ yếu sử dụng nguồn vốn tín dụng ngắn hạn để cho vay
đầu tư dài hạn nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro an toàn hệ thống ngân hàng.
Bên cạnh đó, nhiều công cụ tài chính được quốc tế áp dụng nhưng chưa được
sử dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam như nợ thứ cấp, tài trợ cho
vay, bảo lãnh tín dụng… Điều này dẫn đến tiến độ thực hiện một số dự án còn
bị kéo dài.
Các dự án PPP giao thông của Thành phố Hà Nội hầu hết là các dự án do
NĐT đề xuất, NĐT được chỉ định trực tiếp và BCNCKT do NĐT xây dựng.
Chất lượng BCNCKT còn thiếu hàm lượng phân tích kinh tế xã hội và hiệu quả
tài chính. Đội ngũ công chức thực hiện thẩm định BCNCKT chưa được đào tạo
tập huấn bài bản kiến thức và kỹ thuật phân tích các dự án PPP, chưa sử dụng
127
các kỹ thuật phân tích tài chính dự án, còn ít đề cập đến sự so sánh hiệu quả
đầu tư theo hình thức PPP so với đầu tư công trong báo cáo thẩm định. Mặt
khác, Thành phố Hà Nội chưa quan tâm đến việc xin tham vấn phản biện của
các chuyên gia độc lập. Do vậy, chất lượng BCNCKT và chất lượng đánh giá
BCNCKT còn nhiều thiếu sót, ảnh hưởng đến tính khả thi và thành công của
dự án PPP.
Các dự án giao thông theo hình thức PPP của Thành phố Hà Nội chủ yếu
được triển khai theo hợp đồng BT. Kết luận của các cơ quan thanh tra, kiểm
toán cho thấy việc xác định TMĐT ban đầu còn thiếu chính xác; phê duyệt diện
tích và giá đất tạm tính vượt giá trị dự án BT. Thời gian qua việc xác định giá
trị quyết toán gặp khó khăn trong việc xác định thời điểm tính giá đất, giá trị dự
án BT và dự án đối ứng, xác định chi phí lãi vay... Thực tế triển khai hợp đồng
BT chưa cho thấy sự hợp tác giữa đối tác công và đối tác tư nhân trong việc
tiếp thu công nghệ, năng lực quản lý vận hành của khu vực tư nhân như mục
tiêu thực hiện hình thức PPP ban đầu. Sự tương xứng giữa giá trị dự án BT và
dự án đối ứng còn gây nhiều tranh cãi.
Hiện nay chưa có công cụ tài chính (như mô hình Quỹ đầu tư PPP mà
các nước áp dụng, quỹ PDF của thành phố Hồ Chí Minh) và các công cụ bảo
lãnh rủi ro cho dự án (bảo lãnh doanh thu, lưu lượng, chuyển đổi ngoại tệ, thay
đổi quy hoạch…) dẫn đến việc thực hiện các dự án PPP thực tế vẫn bế tắc nên
không hấp dẫn khu vực tư nhân.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành giao thông
còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết hiệu quả. Thông tin dự án, tình hình triển
khai các dự án PPP chưa được chủ động đăng tải thống nhất, khó tiếp cận,
thiếu cập nhật. Để một dự án PPP có thể được thực hiện thành công trong toàn
bộ chu kỳ dự án, cần thu hút sự tham gia thực sự của các chủ thể liên quan
ngay từ đầu và thực hành một chế độ chia sẻ thông tin đầy đủ và có hiệu quả
trong suốt chu kỳ dự án.
128
Sự bất cập còn thể hiện ở việc triển khai lập, thẩm định và phê duyệt đồ
án Quy hoạch Giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến
năm 2050, nhưng đến năm 2016 mới hoàn thành xong và được Thủ tướng phê
duyệt trong khi đó đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô lại được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt từ năm 2011.
3.5.3. Nguyên nhân
Thứ nhất, khung pháp lý còn cồng kềnh, dàn trải, chưa có một bộ luật
thống nhất điều chỉnh PPP. Các dự án PPP trong lĩnh vực giao thông hiện nay
chịu sự điều chỉnh của 15 bộ luật, 1 pháp lệnh, 1 nghị quyết của Quốc hội, 2
nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 11 nghị đinh, 3 quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, 38 thông tư có các quy định liên quan đến hình thức đầu
tư PPP. Một số nội dung thuộc các hợp đồng triển khai dự án PPP liên quan và
chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản khác nhau, trong đó có những quy định
không nhất quán khiến các chủ thể khó thực hiện. PPP được quy định trong
nhiều văn bản luật nhưng chưa thực sự bao quát, thiếu cơ chế cho việc vận
dụng các kiến thức chuyên môn trong công tác thẩm định. Cơ chế chính sách
liên tục thay đổi, các Bộ chậm ban hành Thông tư hướng dẫn sửa đổi, thay thế
các văn bản hiện hành. (Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, nhóm dự án CBĐT
phải tạm dừng triển khai thực hiện từ 01/01/2018 để chờ Nghị định hướng dẫn
việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho NĐT khi thực hiện dự án theo hình
thức hợp đồng BT; đến ngày 15/8/2019 Chính phủ mới ban hành Nghị định số
69/2019/NĐ-CP và có hiệu lực từ ngày 01/10/2019. Điều này dẫn đến thời gian
thẩm định và phê duyệt 2 dự án BT giao thông của Hà Nội kéo dài khoảng 2
năm do lúng túng trong việc thực hiện chuyển tiếp và hiện nay tiếp tục đối mặt
với những khó khăn trong công tác tổ chức triển khai). Quốc hội đã thông qua
Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư, có hiệu lực từ tháng 1/2021, mặc
dù vậy quy định của Luật không đề cập đến dự án đầu tư thực hiện theo hình
thức BT. Đây là nguyên nhân thuộc về trách nhiệm và thẩm quyền của quốc
129
hội, chính phủ và các bộ ngành trung ương, đặt ra yêu cầu một khung pháp lý
thống nhất, đồng bộ, hiệu quả và thuận lợi cho sự vận hành của hợp đồng PPP
và thu hút sự tham gia của các NĐT tư nhân và sự đồng thuận của người dân.
Thứ hai, Thành phố Hà Nội chưa xây dựng một chiến lược thực hiện
hình thức PPP để phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đô thị bao gồm các
định hướng mục tiêu cụ thể về hạ tầng giao thông tương lai cùng với các
phương án bố trí nguồn lực, cơ chế thực hiện làm cơ sở để tập trung các nguồn
lực thực hiện thành công việc huy động nguồn lực để phát triển PPP.
Thứ ba, công tác lựa chọn và thẩm định danh mục dự án PPP chưa được
thành phố quan tâm đầu tư đúng mức. Việc đề xuất dự án còn dàn trải, riêng rẽ,
thiếu kết nối giữa các quận huyện và các cơ quan chuyên môn. Các thông số dự
án còn chưa được nghiên cứu mô tả và phân tích chi tiết, công tác thẩm định
không được chú trọng đã làm kéo dài thời gian chuẩn bị dự án cũng như lựa
chọn các dự án không phù hợp, thiếu hấp dẫn các NĐT.
Thứ tư, bộ máy QlNN về PPP của Thành phố Hà Nội còn chưa chuyên
nghiệp, công tác phối hợp chưa hiệu quả. Việc phân định các nhiệm vụ của dự
án PPP cho nhiều cơ quan đơn vị đã giảm tính chủ động và tập trung trong
QLNN, giảm sự thu hút các NĐT tư nhân với dự án PPP giao thông. Vai trò,
trách nhiệm của CQNNCTQ còn chưa rõ ràng; còn thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro
giữa các bên tham gia thực hiện dự án; thiếu cơ chế giám sát và chế tài xử lý vi
phạm của NĐT và CQNNCTQ.
Thứ năm, năng lực trình độ cán bộ công chức tham mưu về PPP của
Thành phố Hà Nội còn hạn chế, chưa được quan tâm đào tạo chuyên sâu về
PPP. PPP là một hình thức đầu tư phức tạp yêu cầu người quản lý cần có kiến
thức tổng hợp về thủ tục đầu tư, cơ cấu tài chính, đất đai, quy hoạch đô thị, kỹ
năng thương thảo hợp đồng, phân tích đầu tư, quản lý rủi ro, năng lực phân tích
và đánh giá dự án giao thông. Do chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức và
130
kỹ năng này, các cán bộ tham mưu trực tiếp dễ bị NĐT dẫn dắt theo ý mình,
hoặc thậm chí dẫn đến tiêu cực, tham nhũng. Chất lượng thẩm định BCNCKT
dự án PPP còn hạn chế. Sự phối hợp của các Sở, ngành, các cơ quan chuyên
môn chưa tốt.
Thứ sáu, công tác GPMB, tái định cư mặc dù được lãnh đạo thành phố
chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ nhưng còn nhiều vướng mắc về cơ chế,
chính sách xác định nguồn gốc đất, tái định cư; quy trình GPMB phức tạp,
phải thực hiện đầy đủ các bước theo quy định đối với từng phương án cụ
thể… gây khó khăn trong thực hiện, dẫn đến người dân không đồng thuận,
khiếu kiện, làm chậm quá trình thi công dự án và phải điều chỉnh tăng chi
phí đầu tư. Dự án Xây dựng tuyến đường Minh Khai - Vĩnh Tuy - Yên
Duyên, đoạn nối từ đường Minh Khai đến đường Vành đai 2,5 chưa có mặt
bằng thi công; Dự án Xây dựng tuyến đường từ đê Ngọc Thụy đến KĐT mới
Thượng Thanh quận Long Biên; dự án Xây dựng đường 2,5 (đoạn Đầm
Hồng - Quốc lộ 1A) quận Hoàng Mai…
Thứ bảy, NĐT tham gia dự án PPP còn hạn chế về năng lực, chưa có
kinh nghiệm quản lý dự án, chưa nắm bắt kịp thời các quy định mới của Chính
phủ về quá trình quản lý dự án đầu tư xây dựng. Công tác chuẩn bị đầu tư của
Chủ đầu tư còn chưa đảm bảo chất lượng, do vậy cần phải chỉnh sửa nhiều lần,
ảnh hưởng đến tiến độ. Trình độ năng lực, kinh nghiệm của một số đơn vị tư
vấn thiết kế, tư vấn giám sát, nhà thầu thi công và chủ đầu tư còn hạn chế dẫn
đến quá trình thực hiện còn lúng túng, tiến độ chậm.
Thứ tám, các dự án PPP chưa nhận được sự ủng hộ và đồng thuận của
các cơ quan chuyên môn trong hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn trong quá trình triển
khai các dự án PPP (dự án Minh Khai Vĩnh Tuy Yên Duyên). Các sở ngành
của thành phố còn lúng túng trong triển khai thực hiện, các bộ ngành trung
ương khi hướng dẫn góp ý vẫn dựa vào quy định hiện hành và với tư duy, cách
131
làm cũ để chọn hướng trả lời “an toàn”, do vậy, các cơ chế mới, khó hay đột
phá của dự án PPP vẫn chỉ dừng lại ở bước tiếp tục nghiên cứu, làm rõ
Thứ chín, Thành phố Hà Nội chưa có sự quan tâm đầy đủ và quyết liệt
để xây dựng cơ chế bố trí vốn hoặc sử dụng các công cụ tài chín phục vụ công
tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án đầu tư và đảm bảo rủi ro cho NĐT. Công
tác chuẩn bị dự án chưa được thực hiện bài bản một phần do chưa có nguồn lực
bố trí để lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và BCNCKT. Các dự án PPP chưa
thu hút được nhiều các NĐT do thiếu cơ chế bố trí vốn đầu tư công tham gia
đầu tư trong dự án PPP cũng như thiếu công cụ chia sẻ rủi ro cho dự án (thay
đổi quy hoạch, bảo lãnh doanh thu, lưu lượng, chuyển đổi ngoại tệ,...). Mặt
khác, việc huy động nguồn tín dụng trong nước hiện nay cho các dự án PPP
giao thông rất khó khăn do năng lực tài chính của NĐT còn hạn chế, dự án PPP
thường có TMĐT lớn, thời gian vay vốn dài, các điều kiện tín dụng dài hạn khó
đáp ứng trong khi Ngân hàng nhà nước có chủ trương giảm dần tỷ lệ nguồn
vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn nhằm đảm bảo an toàn hệ thống và
phù hợp thông lệ quốc tế.
Thứ mười, cơ sở dữ liệu và công tác truyền thông, công khai thông tin
chưa được thành phố quan tâm đúng mức. Các thông tin dự án chưa được chủ
động đăng tải trên cùng một trang tin để thuận tiện trong việc quản lý và cung
cấp thông tin kịp thời. Công tác tuyên truyền, nhận thức và sự đồng thuận trong
xã hội về đầu tư theo hình thức PPP còn phân tán, thiếu sự thống nhất đã chưa
tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Trong quá trình thực hiện dự án, thiếu cơ
chế người sử dụng dịch vụ phản hồi việc cung cấp dịch vụ đối với các cơ quan
QLNN. Việc quản lý cơ sở dữ liệu thông tin về các dự án PPP còn hạn chế.
132
Chƣơng 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ
KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
4.1. DỰ BÁO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHU CẦU ĐẦU TƢ HỆ
THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI TỚI
NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Dự báo phát triển kinh tế xã hội tới năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2030 của Thành phố Hà Nội
Dự báo về tình hình tăng dân số: Theo số liệu dự báo phục vụ hoạt
động xúc tiến đầu tư của thành phố năm 2020, dân số toàn thành phố đến năm
2025 khoảng 8,3-8,6 triệu, năm 2030 khoảng 9,0-9,2 triệu người. Trong đó đến
năm 2025 dân số đô thị khoảng 5,0 triệu, năm 2030 khoảng 6,2 triệu. Dân số
nông thôn đến năm 2025 là khoảng 3,3 triệu người, năm 2030 là khoảng 2,9
triệu. Phân bố dân cư thực hiện theo cấu trúc đô thị bao gồm dân số đô thị trung
tâm năm 2030 khoảng 4,6 triệu người; các đô thị vệ tinh năm 2030 khoảng 1,3-
1,4 triệu người; các đô thị sinh thái, thị trấn huyện lỵ có dân số đến 2030 là
khoảng 0,2-0,3 triệu người và khu vực hành lang xanh (nông thôn) đến năm
2030 khoảng 2,9 triệu người [27, tr.5].
Dự báo về tình hình sử dụng đất đai: Đến năm 2025, tổng diện tích đất
xây dựng đô thị và nông thôn khoảng 138.900 ha. Trong đó đất xây dựng đô thị
khoảng 79.000ha (chiếm khoảng 21,8% diện tích tự nhiên), chỉ tiêu khoảng
160 m2/người, bao gồm: đất dân dụng khoảng 40.200 ha, chỉ tiêu khoảng 70-
75 m2/người và đất ngoài dân dụng khoảng 29.700 ha. Đến năm 2030, tổng
diện tích đất xây dựng đô thị và nông thôn khoảng 159.600 ha, trong đó đất xây
dựng dô thị khoảng 94.700 ha (chiếm khoảng 28,3% diện tích tự nhiên), chỉ
tiêu khoảng 150 m2/người, bao gồm đất dân dụng khoảng 48.100 ha, chỉ tiêu
khoảng 80 m2/người và đất ngoài dân dụng khoảng 46.600 ha [27,tr. 5-6].
133
Dự báo về tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người: Đến
năm 2025, dự báo tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình
quân giai đoạn 2021-2025: 7,5-8,0%; GRDP bình quân/người: 200-205 triệu
đồng (8.100-8.300 USD). Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội: 3,1 - 3,2 triệu tỷ
đồng (giá hiện hành, tăng 12,5-13,5%/năm). Thành phố Hà Nội đặt mục tiêu
phấn đấu thu nhập bình quân đầu người đến năm 2030 là 12.000-13.000
USD/người, đến năm 2045 là 36.000 USD/người [5, tr.3].
Dự báo về phát triển mạng lưới giao thông: Thành phố tập trung phát
triển dự án tuyến đường vành đai, đường hướng tâm, cầu qua sông Hồng; đẩy
nhanh tiến độ các dự án giao thông trên cao, đường sắt đô thị, các công trình
ngầm gắn với khả năng kết nối đồng bộ giữa các loại hình vận tải hành khách
công cộng; tập trung các tuyến giao thông kết nối với các đô thị vệ tinh và kết
nối vùng để phát huy lợi thế của Thủ đô và các tuyến liên khu vực. Thực hiện
đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, liên hoàn, hợp lý, hiện đại;
vận tải hành khách công cộng đa dạng, hiện đại, văn minh, tiện lợi và an toàn,
đạt tỷ lệ 50-55% vào năm 2030. Theo quy hoạch đến năm 2030, Hà Nội sẽ có 8
tuyến đường sắt đô thị với tổng chiều dài khoảng 318km để kết nối đến các đô
thị vệ tinh và vùng ven, dự kiến tăng tỷ lệ người dân sử dụng phương tiện hành
khách công cộng đến 35%-45%, giảm người sử dụng phương tiện cá nhân tham
gia giao thông xuống 30% [28, tr.3].
4.1.2. Bối cảnh thực hiện các dự án hợp tác công tư giao thông trong
thời gian tới
Nghiên cứu đánh giá năng lực và triển vọng cơ sở hạ tầng các quốc
gia cho thấy nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là rất lớn. Theo
công bố của Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu
2019, Việt Nam xếp thứ 77 trong số 141 quốc gia trên thế giới về chất lượng
cơ sở hạ tầng nói chung; chỉ có 20% đường bộ của Việt Nam được trải nhựa,
thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác như Ấn Độ, Indonesia và Malaysia.
134
Theo Báo cáo triển vọng cơ sở hạ tầng toàn cầu (Global Infrastructure
Outlook), để đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng đến năm 2040, Việt
Nam sẽ cần hơn 605 tỷ đô la Mỹ trong đó gần 169 tỷ đô la Mỹ để phát triển
các công trình kết cấu hạ tầng giao thông [6, tr.12]. Báo cáo Khảo sát nhà
đầu tư cơ sở hạ tầng toàn cầu năm 2019 của Viện nghiên cứu hạ tầng EDHEC
của Singapore cho thấy Việt Nam nằm trong Top 5 các quốc gia mới nổi có
tiềm năng nhất về thị trường cơ sở hạ tầng trong 5 năm tới, cùng với các quốc
gia khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Indonesia. Trong khi đó, chuyên
gia phát triển khu vực tư nhân và chuyên gia về PPP của Ngân hàng Phát
triển châu Á đã nhận định rằng chỉ có 10% cơ sở hạ tầng của Việt Nam là
được tài trợ bởi khu vực tư nhân, thấp hơn nhiều so với nhiều nước thu nhập
trung bình khác ở châu Á [98, tr.6]. Đối với Thành phố Hà Nội, theo Quy
hoạch giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm
2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 519/QĐ-TTg
ngày 31/3/2016, dự kiến nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện các dự án giao
thông giai đoạn 2016-2020 là 476.569 tỷ đồng, giai đoạn 2020-2030 là
554.709 tỷ đồng. Trong khi đó, nguồn vốn NSNN cho các dự án kết cấu hạ
tầng đô thị giai đoạn 2016-2020 của Thành phố Hà Nội chỉ đạt 42.151 tỷ đồng
[18, tr.14]. Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, việc đẩy mạnh huy động vốn
đầu tư ngoài ngân sách, xã hội hóa đầu tư vẫn cần tiếp tục thực hiện để có thể
đạt được các mục tiêu phát triển.
Về nguồn lực khu vực tư nhân, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
khoảng 42% vào GDP, 30% thu NSNN, 53% cơ cấu vốn của nền kinh tế, thu
hút khoảng 83% lực lượng lao động. Vốn đầu tư của khối tư nhân đã tăng
nhanh trong nền kinh tế, từ 36,1% năm 2010 tăng lên 43,27% năm 2018,
tương đương 803 ngàn tỷ đồng. Nguồn lực từ khu vực tư nhân đang được huy
động và ngày càng tăng cho đầu tư xã hội, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, đóng góp của khu vực tư nhân Việt Nam vào tổng vốn đầu tư toàn xã
135
hội đã tăng liên tục theo thời gian, đạt 39% năm 2015, 43,2% năm 2018, 46%
năm 2019. Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị Thủ tướng
với doanh nghiệp năm 2019, Việt Nam có khoảng 17.000 doanh nghiệp tư
nhân quy mô lớn và 21.000 doanh nghiệp quy mô vừa. Các doanh nghiệp tư
nhân lớn ở Việt Nam có quy mô vốn hóa trung bình 186 triệu USD năm 2019.
Nghị quyết số 10-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt mục tiêu phấn đấu có hơn 1,5 triệu
doanh nghiệp vào năm 2025 và có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030;
tốc độ tăng trưởng kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền
kinh tế; phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào
GDP đạt khoảng 55% GDP vào năm 2025 và 60 - 65% GDP vào năm 2030.
Với mục tiêu phát triển và đà tăng trưởng như vậy, khu vực kinh tế tư nhân
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Về bối cảnh pháp lý mới, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công
tư mới được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2021. Qua đó, các lãnh đạo Đảng và nhà Nước đã cho thấy quyết
tâm chính trị rõ ràng của Việt Nam trong việc thúc đẩy các dự án PPP với kỳ
vọng tạo ra chính sách mới huy động vốn ngoài xã hội, vốn quốc tế đầu tư sâu
hơn vào kết cấu hạ tầng, dịch vụ công của đất nước, đồng thời góp phần thực
hiện chủ trương của Ðảng về phát triển khu vực kinh tế tư nhân trở thành
động lực quan trọng của nền kinh tế. Luật đã thiết kế các điều khoản hướng
đến thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài. Bên cạnh kênh huy động
vốn truyền thống từ ngân hàng, Luật PPP cho phép doanh nghiệp được phát
hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn thực hiện dự án. Luật cũng quy
định Kiểm toán nhà nước chỉ kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công,
tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính
công, tài sản công tham gia dự án PPP; kiểm toán khi thực hiện cơ chế chia sẻ
136
phần tăng/giảm doanh thu; kiểm toán toàn bộ giá trị tài sản của dự án PPP khi
được chuyển giao cho nhà nước. Về cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu
của dự án PPP. Luật quy định khi doanh thu thực tế của dự án chỉ đạt 75% trở
xuống so với phương án tài chính ban đầu, nhà nước xem xét, tính toán việc
chia sẻ phần giảm doanh thu với NĐT. Ngược lại, khi doanh thu thực tế đạt từ
125% trở lên, nhà nước xem xét, yêu cầu NĐT chia sẻ phần tăng doanh thu.
Cơ chế chia sẻ này được xem xét trên cơ sở kiểm soát doanh thu hằng năm.
Ðối với hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT), Luật PPP quy định dừng triển
khai dự án mới áp dụng loại hợp đồng BT, yêu cầu phải dừng thực hiện ngay
kể từ ngày 15/8/2020 với các dự án áp dụng loại hợp đồng BT chưa được phê
duyệt CTĐT. Để tháo gỡ các khó khăn vướng mắc cho các dự án BT, chính
phủ đã ban hành Nghị định 35/2021/NĐ-CP trong đó có những điều khoản
giúp tháo gỡ khó khăn liên quan đến thanh toán cho các dự án này. Như đã
phân tích ở chương 3, các dự án PPP giao thông của các tỉnh thành phố chủ
yếu là các dự án BT, với bối cảnh pháp lý và tiến độ GPMB chậm như hiện
nay, mặc dù nhu cầu thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách cho phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội là rất lớn, việc thực
hiện đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP của
các địa phương sẽ đứng trước nhiều khó khăn và thách thức.
4.1.3. Mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông cho phát triển
kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội đến năm 2030
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, xác định tầm quan
trọng của việc đầu tư phát triển hạ tầng giao thông là nhiệm vụ trọng tâm chính
trong khâu đột phát thứ nhất. Các dự án đầu tư hạ tầng giao thông chiếm từ 60-
70% nguồn lực đầu tư công của thành phồ Hà Nội, đặc biệt đầu tư công giai
đoạn 2021-2025 trên 200.000 tỷ đồng, lớn gấp 2 lần giai đoạn 2016-2020.
Thành phố Hà Nội chủ trương cơ cấu lại đầu tư theo hướng giảm dần tỷ lệ chi
đầu tư phát triển từ khu vực nhà nước xuống dưới 30% tổng vốn đầu tư toàn xã
137
hội, tăng tỷ trọng đầu tư từ khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài tương ứng
(khoảng 53% và 17%) trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vào năm 2025.
Mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Hà Nội là Thủ đô - đầu não chính trị -
hành chính quốc gia; giàu, đẹp, xanh, văn minh, văn hiến, thanh lịch, hiện đại,
dân tộc, tiêu biểu cho cả nước; trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học,
giáo dục - đào tạo, y tế, du lịch, thể thao và giao dịch quốc tế của cả nước; đi
đầu trong nhiều lĩnh vực - là đầu tàu lôi kéo sự phát triển chung của cả nước,
người dân có điều kiện sống tốt (thu nhập cao hơn mức trung bình của cả nước,
được hưởng các dịch vụ chất lượng cao, môi trường làm việc và đầu tư đạt tiêu
chuẩn quốc tế, thân thiện, an toàn). Phát triển hệ thống hạ tầng giao thông; tập
trung đầu tư, nâng tỷ lệ quỹ đất cho giao thông đô thị khoảng 20-25% diện tích
đất đô thị (trong đó giao thông tĩnh 4-6%), riêng ở các quận nội đô lịch sử đạt
khoảng 10-12%. Chú trọng quy hoạch xây dựng công trình đỗ ôtô ngầm và nổi.
Sớm hoàn thành các dự án tuyến đường vành đai, đường hướng tâm, cầu qua
sông Hồng; đẩy nhanh tiến độ các dự án giao thông trên cao, đường sắt đô thị,
các công trình ngầm gắn với khả năng kết nối đồng bộ giữa các loại hình vận
tải hành khách công cộng; tập trung các tuyến giao thông kết nối với các đô thị
vệ tinh và kết nối vùng để phát huy lợi thế của Thủ đô và các tuyến liên khu
vực. Ưu tiên đầu tư đưa vào vận hành 2-3 tuyến đường sắt đô thị vận tải hành
khách khối lượng lớn, tốc độ cao.Thực hiện đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông đồng bộ, liên hoàn, hợp lý, hiện đại.
Thứ tự ưu tiên các dự án PPP giao thông trên cơ sở đánh giá danh mục
các công trình trọng điểm, danh mục các dự án giải quyết ùn tắc giao thông và
môi trường bức xúc dân sinh, các dự án đã cơ bản đủ quỹ đất thanh toán… các
dự án đang thực hiện CBĐT trong danh mục PPP, chỉ xem xét tổ chức triển
khai thực hiện các bước tiếp theo nếu có nhu cầu cần thiết và cân đối được
nguồn lực thanh toán cho dự án. Tập trung đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng
khung, hệ thống cầu bắc qua sông Hồng; những dự án trọng điểm có vai trò
138
liên kết các tỉnh vùng Thủ đô, liên kết các huyện: đầu tư kết cấu hạ tầng giao
thông kết nối khu vực phía Nam và Tây Nam của Thủ đô (quốc lộ 1A, quốc lộ
21B, nâng cấp quốc lộ 32). Ưu tiên đầu tư các dự án kết cấu hạ tầng giao thông
sau: Xây dựng và hoàn chỉnh các trục giao thông hướng tâm và vành đai: Nhật
Tân - Nội Bài, Tây Thăng Long, Hồ Tây - Ba Vì, Đỗ Xá - Quan Sơn…; Các
đường vành đai 1; 2; 2,5; 3; 3,5; 4 và các trục đường chính đô thị. Xây dựng hệ
thống đường bộ nhiều tầng, nút giao khác mức, hệ thống bến, bãi đỗ xe. Nâng
cấp giao thông nông thôn. Ưu tiên xây dựng hệ thống đường sắt đô thị, BRT,
xe buýt đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải công cộng của thủ đô.
Hiện nay, Thành phố Hà Nội xác định ưu tiên tổ chức triển khai 34 dự án
PPP trọng điểm: 15 dự án thuộc danh mục công trình trọng điểm có TMĐT
94.510 tỷ đồng và 19 dự án giải quyết ùn tắc giao thông và môi trường bức xúc
dân sinh 67.732 tỷ đồng. Qua rà soát tổng hợp sơ bộ quỹ đất đối ứng của 94 dự
án và tạm tính giá trị sử dụng đất theo mật độ đất thương phẩm khoảng 25% (do
đa số các khu đất chưa có chỉ tiêu quy hoạch cụ thể), bao gồm các khu đất ở khu
vực ngoại thành như Ba Vì, Chương Mỹ, Thanh Oai… Theo đó, tổng diện tích
đất đối ứng dự kiến là 8.858,5ha, tiền sử dụng đất tạm tính 118.889 tỷ đồng, mới
đáp ứng khoảng 43,7% tổng số dự án và chỉ đáp ứng được khoảng 73,2% đối với
nhóm 34 dự án ưu tiên (chưa bao gồm nhóm 05 dự án đường sắt) [17, tr.6].
Do đa số các dự án PPP trên địa bàn Thành phố thực hiện theo hình thức
hợp đồng BT, do đó việc quỹ đất thanh toán không đáp ứng đủ, đặc biệt đối với
nhóm các dự án ưu tiên triển khai, gây mất cân đối trong khả năng thanh toán
cho NĐT và kéo dài quá trình triển khai thủ tục đầu tư, không đảm bảo tiến độ
trong giai đoạn 2016-2020, không giải quyết kịp thời các vấn đề về ùn tắc giao
thông. Cùng với bối cảnh pháp lý mới không cho phép thực hiện dự án BT
mới, Thành phố Hà Nội xem xét chuyển đổi hình thức đầu tư PPP - loại hợp
đồng BT sang đầu tư công với 7 dự án khép kín đường vành đai 2,5 và đáp ứng
nhu cầu cấp bách chống ùn tắc giao thông.
139
Nguồn: Sở Giao thông vận tải Thành phố Hà Nội.
Hình 4.1. Bản đồ quy hoạch giao thông Thành phố Hà Nội
4.2. PHƢƠNG HƢỚNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC CÔNG TƢ
ĐỂ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
Một là, việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giao
thông đô thị theo hình thức PPP phải bám sát mục tiêu và định hướng theo quy
140
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô đến năm 2030, định
hướng đến năm 2050.
Hai là, củng cố bộ máy QLNN về PPP của Thành phố Hà Nội về cơ cấu
tổ chức và năng lực cán bộ, nâng cao chất lượng tham mưu, thẩm định và quản
lý theo dõi dự án.
Ba là, thực hiện cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về các dự án giao
thông dự kiến thực hiện theo hình thức PPP cho các NĐT. Hệ thống thông tin
được xuyên suốt và liên tục từ giai đoạn công bố dự án, tổ chức lựa chọn NĐT,
tổ chức thẩm định dự án, quá trình tiếp nhận và vận hành dự án. Phương thức
cung cấp thông tin đảm bảo dễ tiếp cận, nội dung đầy đủ và kịp thời.
Bốn là, nghiên cứu bổ sung các quy định về hình thức thu và mức thu phí
sử dụng, giá dịch vụ khai các loại hình hạ tầng giao thông Thành phố Hà Nội
Năm là, tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra, theo dõi hoạt động và
năng lực của các NĐT được lựa chọn thực hiện dự án.
4.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỢP TÁC
CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
4.3.1. Hoạch định chiến lƣợc và quy hoạch phát triển:
Thứ nhất, xác định rõ ràng định hướng chiến lược thực hiện PPP trong
đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông trong đó xác định nhu cầu, sự cần thiết và
tính khả thi của dự án giao thông, nhu cầu vốn, khả năng đáp ứng của NSNN,
khả năng thu hút đầu tư, và khả năng chi trả đối với dự án.
Chiến lược phát triển dự án kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức
PPP phải gắn với hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội và phát triển đô thị của quốc gia và của Thành phố nhằm đảm bảo sự
thống nhất chung về định hướng của Đảng, nhà nước.
Dự án PPP thông thường có thời gian thực hiện dài, quá trình thực hiện
cần có sự tham gia của nhiều tổ chức đơn vị và các cấp chính quyền địa
141
phương. Do vậy, để thực hiện hiệu quả các dự án PPP, cần phải xây dựng
định hướng phát triển dài hạn. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy không
nhất thiết phải xây dựng chiến lược riêng cho hình thức PPP trong phát triển
kết cấu hạ tầng giao thông. Do vậy, có thể xây dựng chiến lược thực hiện đầu
tư theo hình thức PPP lồng ghép trong các chiến lược, quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội, phát triển đô thị của cả nước và của Thủ đô Hà Nội. Định
hướng chiến lược phát triển dự án PPP giao thông cần được xác định rõ ràng
trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch giao thông của cả nước và của
thành phố. Mục tiêu cơ bản của chiến lược là huy động và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực của khu vực tư nhân; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước;
đảm bảo cân bằng lợi ích và trách nhiệm giữa khu vực nhà nước và khu vực
tư nhân; cơ chế thông tin được đảm bảo công khai minh bạch và kịp thời.
Thứ hai, là nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch phát
triển giao thông đô thị Hà Nội.
Quy hoạch giao thông đô thị Hà Nội là cơ sở để UBND Thành phố
Hà Nội điều hành sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông và NĐT
tư nhân nắm bắt được kế hoạch phát triển giao thông về mặt không gian và
thời gian, đánh giá khả năng thu hồi vốn, mức độ sinh lời của các dự án
giao thông.
Xây dựng quy hoạch phát triển giao thông đô thị cần bảo đảm tính
nhất quán và đồng bộ với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và
phát triển đô thị, quy hoạch sử dụng đất; có sự lồng ghép, tích hợp các thông
tin đầy đủ, chi tiết với hệ thống hạ tầng kỹ thuật như cấp nước, thoát nước,
và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Nâng cao chất lượng và thực hiện tuân thủ
nghiêm túc quy hoạch đầu tư phát triển của Thủ đô như một căn cứ chủ yếu
định hướng đầu tư công. Định kỳ rà soát điều chỉnh, bổ sung các chiến lược,
quy hoạch phát triển giao thông đô thị đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của cả nước, Thủ đô và loại bỏ các dự án treo. Sự điều chỉnh và hoàn
142
thiện các quy hoạch đầu tư chỉ thực hiện khi có căn cứ xác đáng, tinh giản
quy trình và thời gian thực hiện nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại cho các
bên có liên quan.
Tập trung xác định các biện pháp nâng cao mức độ tin cậy của số liệu
dự báo và trình độ cán bộ công chức viên chức lập quy hoạch và đội ngũ tư
vấn để giảm thiểu sự khác biệt giữa quy hoạch được lập và thực tế phát triển.
Quá trình nghiên cứu, lập quy hoạch cần lấy ý kiến của cộng đồng,
người dân, NĐT tư nhân nhằm nâng cao vai trò và sự tham gia của các bên
liên quan đến công tác lập quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch.
Công bố rộng rãi về quy hoạch phát triển giao thông đường bộ trong
những năm tới để các NĐT và nhân dân biết, từ đó sẽ có những định hướng
và chuẩn bị hợp lý cho việc đầu tư, có thể thu hút được nguồn vốn lớn và đa
dạng nhất.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch về đầu tư theo hình thức PPP trong xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông trên địa bàn Thành phố
Hà Nội.
Nội dung kế hoạch cần xác định chi tiết danh mục các dự án giao
thông đô thị dự kiến đầu tư theo hình thức PPP, TMĐT dự kiến, khả năng
đáp ứng của NSNN, khả năng và tiến độ GPMB dự kiến, hình thức hợp đồng
phù hợp và quá trình tổ chức xúc tiến kêu gọi đầu tư. Các dự án kết cấu hạ
tầng giao thông thuộc thẩm quyền cấp tỉnh hiện nay thường là các dự án
giao thông đô thị, có khả năng sinh lời thấp, do đó cần xác định chính sách
ưu đãi phù hợp cho các dự án này nhằm tăng sự hấp hẫn NĐT tư nhân.
Hiện nay, thứ tự ưu tiên các dự án PPP giao thông đang thực hiện trên
địa bàn Thành phố theo nguyên tắc: Tập trung đầu tư hoàn thiện khép kín
vành đai 3, vành đai 3,5, vành đai 4, vành đai 5; các trục hướng tâm: Quốc lộ
6, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 21, Đường 70, các trục chính đô thị kết nối các tuyến
đường vành đai,.. Triển khai đầu tư các cầu qua sông Hồng, sông Đuống theo
143
hệ thống đường vành đai như: cầu Hồng Hà, cầu Mễ Sở, cầu Tứ Liên, cầu
Thượng Cát, cầu Trần Hưng Đạo, cầu Đuống 2. Hiện nay, Thành phố Hà Nội
đang triển khai rà soát, xây dựng danh mục tổng thể nhu cầu đầu tư các dự án
kết cấu hạ tầng giao thông trên địa bàn, sắp xếp thứ tự ưu tiên và xác định
nguồn lực và hình thức đầu tư [35, tr.44].
Việc xác định quy hoạch, chiến lược và kế hoạch thực hiện đầu tư các
dự án kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP thể hiện sự quyết tâm
của lãnh đạo thành phố cùng sự vào cuộc của các sở ngành chuyên môn tạo
điều kiện cho sự thành công của các dự án giao thông thực hiện theo hình
thức PPP của Thành phố Hà Nội; giúp các NĐT tư nhân nhìn thấy tính khả thi
của các dự án cũng như sự cam kết của nhà nước để có thể yên tâm tập trung
nguồn lực, tăng khả năng hấp dẫn đầu tư.
4.3.2. Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý nhà nƣớc đối với hình
thức đối tác công tƣ trong đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu giao thông
đô thị
Với vai trò là cơ quan QLNN về PPP các dự án giao thông trên địa bàn,
Thành phố Hà Nội cần thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi và liêm chính, thu
hút sự tham gia các NĐT tư nhân chung tay cùng thành phố phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng giao thông.
- Xây dựng mô hình quản lý PPP giao thông của Thành phố theo
hướng chuyên nghiệp. Quy định từng chức năng của từng cơ quan, từng chủ
thể có liên quan đến toàn bộ quá trình chuẩn bị và triển khai dự án.
- Quan tâm, chú trọng đến công tác GPMB, nghiên cứu tổ chức thực
hiện GPMB sau khi BCNCKT được phê duyệt. Có thể nghiên cứu cơ chế ứng
vốn ngân sách như thành phố Hồ Chí Minh, theo đó dụng nguồn vốn ứng từ
ngân sách thành phố, NĐT ngay sau khi được lựa chọn thực hiện dự án có
trách nhiệm hoàn trả ngân sách thành phố đã ứng. Về việc tổ chức GPMB,
Thành phố Hà Nội có thể tham khảo kinh nghiệm yêu cầu Bí thư cấp ủy các
quận, huyện, thị xã là Trưởng ban GPMB của tỉnh Quảng Ninh.
144
- Xây dựng các tiêu chí về lựa chọn dự án đầu tư theo hình thức PPP
(bao gồm tiêu chí lựa chọn hình thức hợp đồng); các quy định về lựa chọn
NĐT, đàm phán hợp đồng dự án phù hợp với quy định hiện hành của Việt
Nam nhằm đảm bảo lựa chọn được NĐT có đủ năng lực, kinh nghiệm để
tham gia thực hiện dự án, đảm bảo tính công bằng cho các NĐT.
- Hoàn thiện cơ chế tài chính ngân sách cho PPP, có thể nghiên cứu
bố trí nguồn vốn ngân sách tập trung dành riêng cho các dự án PPP được lựa
chọn theo từng thời kỳ, phù hợp với kế hoạch đầu tư công và kế hoạch tài
chính trung và dài hạn.
- Xây dựng các quy định về phương thức, điều kiện thanh toán cho
NĐT và cơ chế quản lý, giám sát hoạt động xây dựng, chuyển giao công trình
dự án nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án.
- Có những chính sách hỗ trợ nhằm thu hút các NĐT tham gia vào các
dự án trên địa bàn như miễn giảm các loại thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp…
- Nghiên cứu bổ sung các quy định về hình thức thu và mức thu phí sử
dụng, giá dịch vụ khai các loại hình hạ tầng giao thông Thành phố Hà Nội
- Đối với các dự án BT - đổi đất lấy hạ tầng, UBND Thành phố Hà Nội
cần kịp thời ban hành, điều chỉnh giá bồi thường đất, giá trị tài sản sát với giá
thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bồi thường, GPMB. Đồng thời
xây dựng các quy định pháp lý để thuê ngoài các dịch vụ thẩm định giá qua
các tổ chức độc lập có tính cạnh tranh và/hoặc giao quyền cho một ủy ban độc
lập xét duyệt giá giao, cấp đất đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước và đối tác
tư nhân. Các hệ thống văn bản này sẽ hỗ trợ cho công tác quản lý và giúp
NĐT khi tham gia vào các dự án PPP tại địa phương.
4.3.3. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nƣớc về hợp tác công tƣ
trong đầu tƣ hệ thống hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội
Bộ máy QLNN đối với các dự án kết cấu hạ tầng giao thông theo
145
hình thức PPP cần hướng đến mục tiêu tổ chức quản lý một cách trực tiếp,
rõ trách nhiệm giữa các chủ thể quản lý có liên quan đến toàn bộ quá trình
dự án, khắc phục những chồng chéo về chức năng quản lý giữa các cơ quan
liên quan. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các nước
được đánh giá thực hiện thành công các dự án PPP đều thành lập cơ quan
hoặc đơn vị chuyên trách về PPP, vì bộ máy QLNN là một trong những
nhân tố thể hiện sự cam kết của nhà nước trong việc thúc đẩy ứng dụng
hình thức PPP. Tác giả kiến nghị giải pháp về việc thành lập Văn phòng
PPP phụ trách mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân như một cơ quan
điều phối, kiểm soát chất lượng, chịu trách nhiệm giải trình và các thông
tin liên quan đến các mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân trong đầu tư
phát triển giao thông nói riêng và trong đầu tư phát triển nói chung. PPP là
một cơ chế phức hợp cả về chính sách, pháp luật, tài chính và quản trị, một
dự án PPP bao gồm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực khác nhau
do cơ quan nhà nước quản lý (đất đai, đầu tư, xây dựng...); do vậy NĐT tư
nhân không thể giải quyết được hết những thủ tục pháp lý, xung đột, vướng
mắc với cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện dự án. Vì thế Văn
phòng PPP với vai trò như một đơn vị đầu mối quản lý từ phía nhà nước
giải quyết những bất cập trong quá trình ứng dụng hình thức PPP giúp đẩy
nhanh tiến trình thực hiện dự án. Chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng PPP
bao gồm: hỗ trợ thực hiện dự án; hướng dẫn thủ tục; tư vấn dự án; phân
tích, đánh giá hiệu quả của dự án; hỗ trợ tài chính; thẩm định dự án; đàm
phán hợp đồng dự án; phê duyệt hợp đồng dự án, cấp phép thực hiện dự án
PPP; giám sát quá trình thực hiện và bàn giao dự án cho nhà nước khi hợp
đồng dự án kết thúc.
Văn phòng PPP được thành lập trên cơ sở kiện toàn từ bộ máy Ban Chỉ
đạo về PPP của thành phố và bổ sung biên chế thêm các cán bộ có kinh
nghiệm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư (xây dựng, giao thông, tài chính, pháp
luật...) từ các sở ngành thuộc thành phố.
146
4.3.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà
nƣớc về hợp tác công tƣ trong xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông của
Thành phố Hà Nội
Hợp tác công tư là mô hình đầu tư đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ năng.
Để tăng cường hiệu quả QLNN về PPP, Thành phố Hà Nội cần quan tâm đào
tạo, tăng cường nhân sự đáp ứng công tác QLNN, giải quyết những vấn đề
phát sinh trong quá trình thực hiện; tập trung đào tạo nâng cao những kiến
thức, năng lực sau:
Năng lực tổng hợp và tham vấn ý kiến: Tham vấn ý kiến cần được
thực hiện ở tất cả các khâu và từng nội dung điều chỉnh của dự án. Việc lựa
chọn dự án PPP kết cấu hạ tầng cần phải xem xét đầy đủ ý kiến đóng góp
của các bên liên quan kể cả người sử dụng cuối cùng của dự án.
Năng lực thẩm định và quản lý tài chính: bao gồm xác định mức giá
dịch vụ, thẩm định các khoản góp vốn đầu tư, các khoản hỗ trợ tài chính, có
khả năng thực hiện các mô hình tài chính với các kịch bản khác nhau để cả
phía nhà nước và tư nhân có thể dự trù được những gì mình mất đi và những
gì thu được, nhằm đưa ra quyết định hợp lý.
Năng lực nghiên cứu chuyên sâu, phân tích đánh giá: Phân tích tác động
của hợp đồng PPP đến ngân sách, đến phát triển giao thông… nhằm đưa ra cái
nhìn tổng quát và sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa nhà nước và tư nhân. Nghiên
cứu chuyên sâu, phân tích, dự báo, lượng hóa các tác động khi thực hiện dự án
PPP, trên cơ sở đó quyết định cơ chế chia sẻ lợi ích/rủi ro, cơ chế xác định
giá/phí dịch vụ, phương án quản lý, cơ chế giám sát và cơ chế ưu đãi phù hợp
cho từng trường hợp để vừa bảo đảm yêu cầu của nhà nước vừa bảo đảm lợi ích
hợp pháp của NĐT. Các phân tích này cần phải thực hiện thường xuyên nhằm
ứng phó với những thay đổi thất thường của môi trường kinh tế vĩ mô.
Năng lực giám sát và quản lý hợp đồng PPP: Đối tác tư nhân nói chung
có ưu thế về nguồn nhân lực có năng lực về tài chính, thương mại và kỹ thuật.
147
Cơ quan nhà nước muốn giữ vai trò và quyền kiểm soát của mình, trong mọi
trường hợp, việc thương lượng giữa hai đối tác phải được thực hiện một cách
nghiêm túc và cụ thể, đảm bảo sự cân bằng cho quan hệ đối tác, qua đó xác
định các điều khoản của hợp đồng. Nội dung nào không được làm rõ trong
quá trình thương thượng này có thể sẽ dẫn dến những tình huống xấu do sự
vận hành không tốt của quan hệ đối tác. Mặt khác, các dự án hạ tầng giao
thông có thời gian thực hiện dài, các điều kiện thực hiện của dự án có nhiều
thay đổi, do vậy thường có đề xuất điều chỉnh hợp đồng dự án. Cơ quan quản
lý các dự án PPP giao thông cần phải có đủ năng lực quản lý các quá trình
thương mại có liên quan và có thể hợp tác bình đẳng với các đối tác khu vực
tư nhân. Mục đích tham gia của khu vực tư nhân vào kết cấu hạ tầng cần được
hiểu rõ, và phải được chia sẻ ở tất cả các cấp chính quyền và trong tất cả các
bộ phận liên quan của cơ quan nhà nước.
Hình thức PPP trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông ở
nước ta còn khá mới mẻ, đội ngũ cán bộ, công chức có chuyên môn sâu về
lĩnh vực này còn khá ít, để đảm bảo hiệu quả cho các dự án PPP thỏa mãn
được các mục tiêu của các bên tham gia dự án, đảm bảo quyền lợi cho người
thụ hưởng dịch vụ. Đồng thời, tiến tới mục tiêu dài hạn, là phải sử dụng hoàn
toàn đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy nhà nước, UBND Thành phố Hà
Nội có thể tiến hành một số biện pháp sau:
- Tổ chức thi tuyển công chức trên nguyên tắc cạnh tranh, công khai,
minh bạch để tuyển chọn được những người có đạo đức công vụ, đủ khả năng
về trình độ chuyên môn hiểu biết về PPP phù hợp với vị trí công việc đảm
nhiệm. Đồng thời cử cán bộ đi tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng thông qua các
khóa học về PPP do các chuyên gia ở Việt Nam và của nước ngoài có kinh
nghiệm về PPP … tham gia giảng dạy và tập huấn.
- Đối với các dự án có quy mô lớn, CQNNCTQ có thể xem xét sử
dụng phương án thuê các tư vấn giao dịch (TA: transaction advisor) hoặc cố
vấn chuyên môn là các luật sư, các nhà phân tích tài chính, các chuyên gia tài
148
chính, các nhà kinh tế, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà xã hội học trong nước
và quốc tế để hỗ trợ nhà nước trong việc phân tích các phương án, hỗ trợ việc
đấu thầu và đàm phán hợp đồng. Sự tham gia của các chuyên gia có thể theo
hình thức riêng lẻ hoặc theo nhóm, tham gia vào quy trình dự án từ khi có quy
hoạch các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức
PPP, phân tích các dự án để lựa chọn mô hình PPP phù hợp các bên tham gia,
hỗ trợ đấu thầu, đàm phán hợp đồng, có thể cả giám sát dự án khi thực hiện,
bàn giao dự án sau khi kết thúc hợp đồng. Đồng thời, CQNNCTQ đối với
hình thức PPP phân công đội ngũ cán bộ công chức tham gia làm việc với vai
trò phụ tá để học hỏi để học tập kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia,
tiến tới mục tiêu dài hạn sẽ sử dụng toàn bộ đội ngũ cán bộ công chức trong
những dự án PPP tương lai.
4.3.5. Quan tâm đẩy mạnh công khai các thông tin của dự án hợp
tác công tƣ
Đối với dự án PPP, minh bạch là một đòi hỏi hàng đầu nhằm đảm bảo
dự án được triển khai đúng hướng, tạo điều kiện cho các NĐT được tham gia
đấu thầu bình đẳng và công bằng, giúp người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch
vụ có đầy đủ thông tin để hợp tác và giám sát. Kết quả nghiên cứu mô hình
kinh tế lượng ở chương 3 cũng đã cho thấy đây là điều kiện quan trọng để
thực hiện thành công dự án PPP. Công khai, minh bạch hóa thông tin về các
dự án PPP giúp cho nhà nước vừa có thể đảm bảo lợi ích của NĐT, vừa tạo ra
những sản phẩm, dịch vụ công chất lượng cao phục vụ cho đời sống của
người dân.
Hợp tác công tư là một chủ trương lớn, đúng đắn của Đảng và nhà
nước, đặc biệt trong điều kiện phải huy động tối đa các nguồn lực cho phát
triển. Việc đẩy mạnh công khai thông tin cần phải thực hiện ở tất cả các bước
từ bước chuẩn bị, ký kết hợp đồng, thực hiện dự án cho đến khi kết thúc dự án
trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, cơ
quan chuẩn bị dự án phải tổng hợp tham vấn ý kiến tổ chức, cá nhân có liên
149
quan về tác động của dự án. Trước khi ký kết hợp đồng, nhà nước cần xác
định các thông tin cạnh tranh thương mại, bản quyền sở hữu trí tuệ ... của đối
tác tư nhân cần bảo mật và có giải pháp công khai phù hợp. Những thông tin
không có lý do bảo mật chính đáng cần phải được công bố rộng rãi và kịp
thời. Sau khi ký kết hợp đồng, cần có chế tài buộc các đối tác tư nhân có trách
nhiệm thường xuyên cung cấp thông tin tài chính, tiến độ thực hiện dự án và
chất lượng dịch vụ tới người dân. Để minh bạch hóa thông tin về PPP, Thành
phố Hà Nội cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
+ Thực hiện công khai thông tin hợp đồng dự án trên Hệ thống mạng
đấu thầu quốc gia.
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu về các dự án PPP để các đối tác có thể kết nối
và tự động cập nhật dữ liệu. Dự án Tiêu chuẩn dữ liệu hợp đồng mở rộng cho
PPP (OCDS PPP Extension) hiện đang được Ngân hàng Thế giới triển khai là
một công cụ kỹ thuật hữu ích mà Thành phố Hà Nội có thể tham khảo.
+ Khuyến khích sự tham gia đóng góp ý kiến của cộng đồng dân cư,
của doanh nghiệp trong việc lập quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thành
phố Hà Nội, xây dựng CTĐT dự án PPP và trước khi ký kết hợp đồng PPP.
+ Khuyến khích khả năng giám sát, phản hồi của người dân như một
nguồn lực hỗ trợ đắc lực giúp nhà nước chống tham nhũng và giảm thiểu rủi
ro. Hiện nay, người dân thường ở vào vị trí bị động phải tiếp nhận thông tin
khi dự án PPP đang triển khai hoặc đã hoàn thành và đi vào sử dụng. Nhà
nước nên công khai các tiêu chí lựa chọn dự án, tiêu chí lựa chọn NĐT và quy
trình đàm phán hợp đồng trên cơ sở dữ liệu quốc gia một khoảng thời gian
trước khi ký kết hợp đồng. Sự đánh giá của cộng đồng sẽ giúp sàng lọc ra
những dự án hợp lý, có hiệu quả đầu tư cao và được sự chấp thuận rộng rãi
trước khi dự án được tiến hành.
4.3.6. Xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra và thanh tra
Hoạt động giám sát và đánh giá các dự án PPP giao thông của Thành
phố Hà Nội cần hướng tới kết quả đầu ra của dự án, đảm bảo sự bình đẳng,
150
quy định rõ quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ giám sát và đánh giá giữa
CQNNCTQ với NĐT tư nhân, giảm chi phí, thời gian và tăng chất lượng cho
dự án. Để thực hiện được giải pháp này, trước hết cần tăng cường vai trò giám
sát của các cơ quan QLNN đối với CQNNCTQ nhằm đảm bảo trách nhiệm
giám sát của nhà nước đối với dự án PPP giao thông. Việc giám sát và đánh
giá dự án PPP cần được chuyên môn hóa, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan trung ương và địa phương theo quá trình thực hiện dự án PPP. Thứ hai,
cần tăng cường hiệu quả của công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán dự án
PPP nhằm thúc đẩy sự minh bạch, kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm
trong quá trình thực hiện dự án PPP, cụ thể: (i) Xây dựng kế hoạch kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán các dự án PPP một cách rõ ràng, khoa học, tránh nhiều cơ
quan thanh, kiểm tra tại cùng một dự án của một Bộ, ngành, địa phương với
cùng một nội dung; (ii) Kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán cần được công
khai nhằm tạo thông tin xuyên suốt, giúp các Bộ, ngành, địa phương khác
nghiên cứu, rút kinh nghiệm trong thực hiện các dự án PPP tương tự. Thứ ba,
cần đẩy mạnh việc công khai, minh bạch thông tin nhằm tăng cường hiệu quả
quản lý và thực hiện các dự án PPP trên phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện
thuận lợi cho các NĐT, tổ chức tài chính trong và ngoài nước tiếp cận thông
tin; đảm bảo minh bạch thông tin đầy đủ tới xã hội và người dân đồng thời
tăng tinh thần trách nhiệm, tính giải trình của các cơ quan nhà nước, đặc biệt
là của người đứng đầu. Việc truyền tải thông tin về các dự án PPP đảm bảo
nguyên tắc trung thực, khách quan, đầy đủ và kịp thời.
4.3.7. Nâng cao chất lƣợng lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ đề xuất
và báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng giao thông theo hình thức hợp tác công tƣ
Hồ sơ đề xuất dự án và BCNCKT là những tiền đề hết sức quan trọng
có vai trò cơ sở cho thực hiện thành công một dự án PPP. Mặc dù vậy kết quả
phân tích định lượng ở chương 3 đã cho thấy việc chuẩn bị thực hiện dự án
151
trên thực tế chưa đóng góp được vào sự thành công của các dự án PPP giao
thông của Thành phố Hà Nội. Trong giai đoạn vừa qua, đây là nội dung có thể
nói là yếu nhất dẫn đến việc các dự án PPP giao thông không triển khai được
hoặc triển khai nhưng không mang lại hiệu quả mong muốn hoặc phải chuyển
sang hình thức đầu tư công. Kể từ khi xây dựng và triển khai thực hiện Nghị
định 15/2015/NĐ-CP cho đến hiện nay là Nghị định 63/2018/NĐ-CP, đây là
nội dung được các cơ quan nghiên cứu xây dựng và ban hành cơ chế chính
sách đặc biệt quan tâm, giải quyết các vướng mắc xuất hiện trong thực tiễn
khi triển khai thực hiện các dự án. Tuy nhiên một số yếu tố vướng mắc cơ bản
vẫn cần phải được tiếp tục nghiên cứu để nội dung này có thể được triển khai
một cách hữu hiệu và phù hợp trong việc huy động và quản lý có hiệu quả các
dự án PPP giao thông. Hồ sơ đề xuất dự án PPP và BCNCKT có thể do
CQNNCTQ xây dựng hoặc dự án do NĐT tư nhân xây dựng. Mỗi nhóm dự
án đều có những đặc thù riêng được hướng dẫn cách thức, trình tự trong Nghị
định 63/2018/NĐ-CP. Hai vấn đề cốt lõi vướng mắc chung trong thực tiễn ở
giai đoạn này chưa giải quyết được đó là: chất lượng của hồ sơ đề xuất và vai
trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thẩm định, phê duyệt, chất lượng thẩm
định hồ sơ đề xuất.
- Về chất lượng của hồ sơ đề xuất và BCNCKT, để khắc phục các tồn
tại, hạn chế và nâng cao chất lượng của hồ sơ trong quá trình lập phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, từ việc công bố danh mục các dự án tiềm năng, công
khai quy hoạch, chiến lược PTĐT, các chính sách ưu đãi cũng như các đặc
điểm dự án, các yếu tố tác động đến đầu vào và đầu ra của các dự án, năng lực
của tổ chức nghiên cứu, xây dựng hồ sơ đề xuất và BCNCKT cũng như năng
lực của tổ chức thẩm định, trình duyệt các hồ sơ đề xuất dự án và BCNCKT
dự án PPP giao thông. Để Hồ sơ đề xuất dự án và/hoặc BCNCKT dự án PPP
đảm bảo chất lượng, kinh nghiệm quốc tế cho thấy cần thực hiện quy trình
chặt chẽ, phân tích tính toán với số liệu đúng đắn, đầy đủ và tin cậy cao, nhằm
152
thỏa mãn năm yêu cầu cơ bản của một dự án PPP giao thông (sự phù hợp với
chiến lược, quy hoạch - hiệu quả kinh tế xã hội - tính khả thi về thương mại
của sản phẩm dự án - bảo đảm các chỉ tiêu tài chính - tính khả thi về triển khai
thực hiện dự án), đồng thời các mục tiêu hướng đến của dự án phải hài hòa
mục tiêu của nhà nước, NĐT tư nhân và mục tiêu chung của phát triển hệ
thống giao thông đô thị. Do hồ sơ đề xuất và BCNCKT có vai trò quan trọng,
là cơ sở thực hiện dự án PPP, Thành phố Hà Nội có thể học hỏi kinh nghiệm
của thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ninh, nghiên cứu xem xét xây dựng cơ
chế tài chính linh hoạt bố trí kinh phí để cơ quan nhà nước chủ động xây dựng
hồ sơ đề xuất dự án PPP và BCNCKT đảm bảo dự án tuân thủ theo đúng định
hướng của chính phủ và thành phố đồng thời đảm bảo mục tiêu chính là
hướng đến cung cấp dịch vụ hợp lý và chất lượng cho người dân.
- Về chất lượng thẩm định các hồ sơ đề xuất bao gồm chất lượng công
tác thẩm định của các CQNNCTQ, công tác thẩm định của bản thân NĐT tư
nhân. Nội dung công tác thẩm định đã được quy định trong Nghị định
63/2018/NĐ-CP, hoạt động thẩm định của các CQNNCTQ chưa được quy
định một cách rõ ràng, phân công cụ thể giữa các sở, ngành địa phương.
Kinh nghiệm về triển khai các dự án PPP của một số nước cho thấy để quản
lý các dự án PPP giao thông nhằm đạt được hiệu quả và đạt được mục tiêu
huy động tối đa nguồn lực đầu tư tư nhân thì nhất thiết phải nghiên cứu
thành lập và tổ chức tốt bộ phận thẩm định hồ sơ đề xuất với đầy đủ chức
năng và năng lực tương ứng.
4.3.8. Nâng cao chất lƣợng lựa chọn nhà đầu tƣ dự án đầu tƣ phát
triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp tác công tƣ
Kết quả mô hình SEM cho thấy năng lực của các NĐT tư nhân đóng
vai trò quan trọng góp phần vào sự thành cong của dự án PPP giao thông của
Thành phố Hà Nội. Phân tích thực trạng công tác QLNN về PPP của Thành
phố Hà Nội cho thấy những dự án PPP không thành công do năng lực của
153
NĐT tư nhân không đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu trong quá trình chuẩn
bị và triển khai dự án, chiếm một tỷ trọng khá lớn trong hầu hết các dự án
PPP giao thông thời gian vừa qua. Nguyên nhân là do hoạt động kiểm soát
năng lực của NĐT tư nhân còn nhiều bất cập, thiếu thông tin cơ sở dữ liệu,
thiếu cơ chế cũng như quy trình kiểm soát. Một số nội dung cần quan tâm
nhằm nâng cao hiệu lực quản lý năng lực của NĐT tư nhân trong các dự án
PPP giao thông bao gồm:
Thứ nhất, cần phải có tiêu chí về năng lực của NĐT tư nhân. Các chính
sách về PPP thời gian qua mới đề ra một số tiêu chí cơ bản chung cho tất cả
các loại hình, lĩnh vực đầu tư mà thiếu cụ thể đối với các dự án PPP dẫn đến
NĐT không đủ năng lực khi xử lý các tình huống có liên quan đến một dự án
cụ thể. Một số tiêu chí cần quan tâm đó là: Năng lực về tài chính, nhân sự,
kinh nghiệm về thực hiện các dự án PPP, năng lực quản lý và thực hiện hợp
đồng, năng lực quản lý dự án, năng lực quản lý rủi ro, năng lực về khoa học
công nghệ. Vấn đề kiểm soát năng lực của NĐT tư nhân cần được nghiên cứu
điều chỉnh theo hướng vừa kiểm soát được chặt chẽ năng lực NĐT tư nhân,
vừa bảo đảm thông thoáng để các NĐT tư nhân có thể chủ động đóng góp
nguồn lực cho các dự án PPP giao thông.
Thứ hai, cần phải có mô hình kiểm soát hợp lý trong đó phân định rõ
trách nhiệm kiểm soát của các chủ thể có liên quan từ khu vực nhà nước.
Thứ ba, kiểm soát năng lực của NĐT tư nhân trong tất cả các giai đoạn
dự án, từ chuẩn bị, triển khai, quản lý khai thác,... đặc biệt nội dung kiểm soát
năng lực ngay từ trong quá trình lập hồ sơ đề xuất. Việc kiểm soát phải phân
định rõ cho các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm. Đây là một nội dung rất
khó đánh giá chính xác, nhất là đối với NĐT tư nhân do không có hệ thống cơ
sở dữ liệu chính thống về năng lực NĐT tư nhân. Thực tế, có nhiều NĐT kê
khai năng lực rất mạnh nhưng thực tế khi triển khai thực hiện lại rất yếu. Do
vậy, việc kiểm soát năng lực NĐT cần có sự kết hợp các nội dung: kiểm soát
154
năng lực tài chính, năng lực về trang thiết bị, khả năng liên doanh liên kết với
các NĐT hoặc nhà thầu đã thực hiện thi công các dự án tương tự; kiểm soát
sự phù hợp giữa mục tiêu các NĐT tư nhân với mục tiêu tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội hay không trong từng thời kỳ; kiểm soát nội dung đề xuất dự
án; phương án huy động nguồn lực; kiểm soát nguồn vốn vay, khả năng vay
vốn, các nội dung có liên quan đến bảo lãnh nguồn vốn vay cho dự án bao
gồm cả số lượng và lãi suất vay, quy trình và cách thức giải ngân... Sau khi
lựa chọn NĐT, việc kiểm soát năng lực NĐT cần tiếp tục thực hiện ở các giai
đoạn thẩm định dự án và giai đoạn triển khai dự án. Việc thực hiện tốt nội
dung kiểm soát năng lực của NĐT tư nhân sẽ giúp cho việc triển khai thực
hiện dự án đạt được mục tiêu, hạn chế tới mức tối đa các rủi ro có thể xảy ra.
155
KẾT LUẬN
Đầu tư theo hình thức PPP là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước
nhằm huy động tối đa nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là hệ thống kết cấu
hạ tầng giao thông ở các tỉnh thành phố trong giai đoạn hiện nay. Trong giai
đoạn vừa qua, chính sách đầu tư PPP đã góp phần làm giảm áp lực nhu cầu vốn
đầu tư công nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị,
tăng cường cơ sở vật chất cho nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm mới cho xã hội. Tuy nhiên, các dự án
PPP giao thông của Thành phố Hà Nội thời gian qua triển khai còn chậm, có
nhiều dự án PPP giao thông chưa đạt được hiệu quả và mục tiêu mong muốn,
nguyên nhân chủ yếu do hoạt động quản lý của nhà nước và NĐT tư nhân chưa
đáp ứng được yêu cầu và chưa phù hợp với thực tiễn. Trong thời gian tới, đầu
tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông tiếp tục là một nhu cầu cấp bách
đối với Thành phố Hà Nội, QLNN đối với PPP trong các các công trình kết cấu
hạ tầng giao thông của Thủ đô là một đòi hỏi không thể thiếu. Luận án “Quản
lý nhà nước về hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của
Thành phố Hà Nội” đã đáp ứng được phần nào nhu cầu về mặt lý thuyết và
thực tiễn trong QLNN đối với dự án PPP giao thông của cấp tỉnh, nghiên cứu
thực tiễn là Thành phố Hà Nội:
- Tổng quan và và hệ thống hóa các nghiên cứu đi trước về PPP trong
đầu tư các công trình giao thông, và QLNN đối với PPP trong đầu tư các công
trình giao thông.
- Hệ thống hóa và làm rõ khái niệm, sự cần thiết, đặc điểm đầu tư theo
hình thức PPP. Từ đó luận án đã phân tích các nội dung QLNN về PPP. Dựa
trên các số liệu thứ cấp và sơ cấp từ khảo sát của tác giả, luận án đã trình
bày thực trạng và đánh giá QLNN đối với dự án PPP giao thông của Thành
phố Hà Nội.
156
- Luận án đi sâu nghiên cứu các lý luận về các tiêu chí thành công của
dự án PPP, các nhân tố thành công của dự án và mối quan hệ giữa tiêu chí
thành công và các nhân tố thành công của dự án PPP. Thực hiện phân tích
định lượng với các mô hình phân tích nhân tố, SEM, trên cơ sở các số liệu thứ
cấp và sơ cấp, luận án làm rõ mối quan hệ này trên cơ sở thực tiễn các dự án
PPP giao thông đang triển khai của Thành phố Hà Nội.
- Luận án đã tổng kết được kinh nghiệm QLNN của các tỉnh thành phố
đã thực hiện thành công các dự án PPP của Việt Nam và kinh nghiệm của một
số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra kinh nghiệm cho công tác QLNN đối với
PPP giao thông của Thành phố Hà Nội.
- Luận án đã đánh giá sát thực trạng và những yếu tố chủ yếu ảnh
hưởng đến quá trình quản lý, rút ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân dẫn
đến các tồn tại hạn chế trong quá trình quản lý các dự án PPP giao thông của
Thành phố Hà Nội ở Việt Nam.
- Luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp để hoàn thiện công tác QLNN
về PPP đối với các dự án kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội.
Tổng quan về PPP cho thấy, hình thức đầu tư PPP là xu hướng của các
nước trong quá trình phát triển và có nhiều tiềm năng để khai thác. Thông qua
PPP, để huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân; sử dụng lợi thế của khu vực
tư nhân về công nghệ, kinh nghiệm..., để cải tiến khu vực công; minh bạch
hóa và tạo cạnh tranh trong đầu tư công; giảm tải cho khu vực công thông qua
xã hội hóa những việc tư nhân có thể đảm nhận... Với những giai đoạn phát
triển khác nhau của nền kinh tế, mục tiêu PPP là khác nhau. Hình thức PPP
liên quan trực tiếp đến nhiều chủ thể và mối quan hệ giữa các chủ thể là mối
quan hệ có mâu thuẫn và rất phức tạp, giằng chéo lẫn nhau. Với những mục
tiêu khác nhau của nhà nước trong từng giai đoạn, sẽ có cách thức thực hiện
PPP khác nhau. PPP là một trong những hình thức để thực hiện đầu tư công,
gắn với từng lĩnh vực đầu tư sẽ có những đặc điểm khác nhau, cần có những
157
cách tiếp cận khác nhau. Luận án này nghiên cứu QLNN về PPP đối với các
dự án kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội trên cơ sở nghiên cứu
nội dung quản lý, các nhân tố thành công và đánh giá thực trạng QLNN về
PPP giao thông của Thành phố Hà Nội. Do đó, hướng nghiên cứu tiếp theo về
hoạt động quản lý dự án PPP có thể tập trung vào một số nội dung chính sau:
- Nghiên cứu chiến lược phát triển PPP của các tỉnh thành phố
- Nghiên cứu nội dung chia sẻ rủi ro và lợi ích giữa khu vực nhà nước
và khu vực tư nhân trong mối quan hệ PPP.
- Nghiên cứu quản lý vận hành các dự án PPP sau đầu tư.
158
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Phạm Thị Kim Thành (2016), "Chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa: kết quả và những vấn đề đặt ra", Tạp chí Tài chính và doanh
nghiệp, (07), tr.22-23.
2. Phạm Thị Kim Thành (2016), “Thúc đẩy vai trò tài chính công trong nền
kinh tế thị trường”, Tạp chí Tài chính, kỳ 1, tháng 7, (636), tr.55-56.
3. Phạm Thị Kim Thành (2016), "Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam: Thực
trạng và giải pháp", Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 15, (623), tr.20-25.
4. Phạm Thị Kim Thành (2016), “Vài nét về chủ trương và quá trình thực
hiện đầu tư công”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (308), tr.79-82.
5. Phạm Thị Kim Thành (2019), “PPP trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao
thông: Nhìn từ thực tế tại TP. Hồ Chí Minh và Quảng Ninh”, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, (31), tr.68-71.
6. Phạm Thị Kim Thành (2020), “Các vấn đề chung của PPP trong đầu tư kết
cấu hạ tầng giao thông”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (06), tr.12-15.
7. Phạm Thị Kim Thành (2020), “Các nhân tố tác động đến thành công dự
án đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP giao thông của Thành
phố Hà Nội”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, (35), tr. 19-25.
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Tuấn Anh (2019), "Yếu tố tác động đến sự thành công của dự án
giao thông thực hiện theo phương thức BOT", Tạp chí Tài chính, (2), tr.
26-28.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Văn bản lấy ý kiến đối với Hồ sơ đề nghị
xây dựng Luật về PPP, in 10100/BKHĐT-QLĐT, Hà Nội.
3. Bộ Giao thông Vận tải (2018), Báo cáo tổng kết năm 2018, Hà Nội.
4. Nguyễn Duy Công, Phạm Hồng Luân (2019), "Phân tích yếu tố ảnh
hưởng đến thành công của dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng xây
dựng - chuyển giao (hợp đồng BT) tại thành phố Hồ Chí Minh", Tạp
chí xây dựng Việt Nam, (616), tr. 218-223.
5. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2020), Nghị quyết quyết đại hội đảng bộ
Thành phố Hà Nội lần thứ XVII, Hà Nội.
6. G20 Initiative (2020), Báo cáo triển vọng cơ sở hạ tầng toàn cầu tại trang
https://outlook.gihub.org/countries/Vietnam, [truy cập ngày 9/8/2020]
7. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Nghị quyết số 15/NQ-
HĐND ngày 04/12/2017 của HĐND Thành phố về xác định danh mục
công trình trọng điểm giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
8. Đoàn Minh Huấn, Ngô Ngọc Thắng (2015), “Một số đặc điểm cơ bản chi
phối sự lựa chọn mô hình và cơ chế hợp tác công tư trên địa bàn Thành phố
Hà Nội”, trong Hợp tác công -tư ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2013), Đầu tư theo hình thức PPP trong xây
dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ ở Việt Nam, Nxb Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
160
10. Lê Hương Linh (2018), Rủi ro trong quản lý nhà nước đối với đầu tư theo
hình thức đối tác công tư (PPP) lĩnh vực giao thông đường bộ: nhận
diện và giải pháp chính sách, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Hồng Minh (2016), Quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư
theo hình thức đối tác công tư trong xây dựng hạ tầng giao thông
đường bộ tại Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
12. Ngân hàng thế giới (2009), Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 - Huy động
và sử dụng vốn, World Bank: Việt Nam.
13. Ngân hàng Phát triển châu Á (2012), Kế hoạch hoạt động quan hệ đối tác
công tư (PPP) 2012-2020: Hiện thực hóa tầm nhìn Chiến lược 2020 -
vai trò chuyển đổi của quan hệ đối tác công tư trong các hoạt động của
Ngân hàng Phát triển châu Á, Hà Nội.
14. Phan Thị Bích Nguyệt (2013), "PPP - Lời giải cho bài toán vốn để phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị tại TP. Hồ Chí Minh", Tạp chí
Phát triển và Hội nhập, (20), tr. 25-28.
15. Quốc hội (2020), Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Hà Nội.
16. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo về kết quả
thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 của
Thành phố Hà Nội, Hà Nội.
17. Sở Giao thông Vận tải Thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo tình hình thực
hiện các dự án PPP của Thành phố Hà Nội đến tháng 8/2020, Hà Nội.
18. Sở Giao thông vận tải Thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo tổng kết 10 năm
mở rộng địa giới hành chính của Thủ đô về lĩnh vực giao thông vận tải,
Hà Nội.
19. Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh (2020), Báo cáo tổng kết
tình hình triển khai đầu tư theo hình thức PPP giai đoạn 2016 - 2020,
Thành phố Hồ Chí Minh.
161
20. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Ninh (2020), Báo cáo kết quả triển
khai đầu tư PPP tại Quảng Ninh giai đoạn 2015-2020, Quảng Ninh.
21. Đỗ Tiến Sỹ (2019), "Mô hình đánh giá sự sẵn sàng đầu tư của khu vực tư
nhân trong các dự án PPP giao thông ở Việt Nam", Tạp chí Xây dựng,
(5), tr. 150-155.
22. Tổng cục Thống kê (2019), Niên giám thống kê năm 2019, Hà Nội.
23. Đỗ Hoàng Toàn (2018), Quản lý nhà nước về kinh tế, Nxb Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội.
24. Phạm Dương Phương Thảo (2013), "Kinh nghiệm triển khai mô hình đầu
tư công – tư (PPP) trên thế giới để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
đô thị", Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (12), tr. 62-69.
25. Nguyễn Hồng Thái (2015), Nghiên cứu rủi ro và phân bổ rủi ro trong đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức hợp tác
công tư, Nxb Giao thông Vận tải, Hà Nội.
26. Nguyễn Đình Thọ (2013), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh
doanh, Nxb Tài chính, Hà Nội.
27. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày
22/02/2012 về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.
28. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 519/QĐ-TTg ngày 31/3/2016,
về phê duyệt quy hoạch giao thông vận tải thủ đô Hà Nội đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.
29. Mai Thị Thu (2013), Phương thức đối tác công - tư (PPP): Kinh nghiệm
quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), "Kinh nghiệm quốc tế về đối tác công - tư
và bài học ở Việt Nam", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (5), tr. 25-29.
31. Nguyễn Thu Thủy (2017), Quản lý nhà nước đối với hình thức đối tác công
- tư trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
162
32. Phạm Thị Trang (2018), "Nhận dạng và phân loại các rủi ro trong dự án
phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật theo hình thức đối tác công tư (PPP)
tại Đà Nẵng", Tạp chí xây dựng Việt Nam, (8), tr. 113-119.
33. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Quyết định số 2912/QĐ-
UBND ngày 22/5/2017 của UBND Thành phố Hà Nội phê duyệt Kế
hoạch tiến độ chi tiết các công trình trọng điểm, Hà Nội.
34. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo tình hình phát triển
kinh tế - xã hội năm 2019, phương hướng nhiệm vụ năm 2020, Hà Nội.
35. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2021), Thông báo chỉ đạo của đồng
chí PCT UBND Thành phố Hà Nội về tự ưu tiên, danh mục đầu tư các
dự án kết cấu hạ tầng giao thông có tính chất cấp bách sử dụng vốn
ngân sách, các dự án BT, các dự án PPP, Hà Nội.
36. Ngô Thế Vinh (2015), Nghiên cứu ứng dụng hình thức đối tác công tư
trong quản lý đầu tư xây dựng công trình giao thông đô thị, Nxb
Trường Đại học Kiến trúc, Hà Nội.
Tiếng Anh
37. ADB (2000), Developing best practices for promoting private sector
investment in infrastructure: Roads, Phi-líp-pin.
38. ADB (2008), Pubic private partnership handbook, Phi-líp-pin.
39. Akintoye, A., et al. (2001), The financial structure of Private Finance
Initiative projects, in 17th ARCOM Annual Conference, A. Akintoye,
Editor, Association of Researchers in Construction Management:
University of Salford.
40. Ahadzi, M. and G. Bowles (2004), "Public-private partnerships and
contract negotiations: An empirical study", Construction Management
and Economics, (9), p. 967-978.
41. Ahmabadi, A.A. and G. Herazi (2019), "The effect of critical success
factors on project success in Public-Private Partnership projects: A case
study of highway projects in Iran", Transport Policy, (73), p. 152-161.
163
42. Badshah, A. (1998), Good Governance for Environmental Sustainability,
UNDP.
43. Bennett, E. (1988), Public-Private Co-operation in the Delivery of Urban
Infrastructure Services (Water and Waste), UNDP/Yale Collaborative
Programme.
44. Bing Li and A. Akintoye (2003), An overview of Public-Private
Partnership, in Public-Private Partnerships: Managing Risks and
Opportunities, Blackwell Publishing Ltd.
45. Bloomfield, P. (2006), "The challenging business of Long-term Public-
Private Partnerships: Reflections on Local Experience", Pubic
Administration Review, (5), p. 400-411.
46. Babatunde, S.O., A. Opawole, and O.E. Akinsiku (2012), Critical success
factors in public-private partnership (PPP) on infrastructure delivery in
Nigieria, Journal of Facilities Management, 10 (3): p. 212-225.
47. Cuttaree, V. (2008), Success and Failures of PPP projects, in Seminar on
Legal, Economic and Implementation Issues in Public-Private
Partnership (PPP) projects, Warsaw.
48. Colverson, S. and O. Perera (2012), Harnessing the Power of Public Private
Partnerships: The Role of Hybrid Financing Strategies in Sustainable
Development, International Institute for Sustainable Development.
49. Canadian Council for Public Private Partnership. Available from:
www.pppcouncil.ca.
50. Chan, A.P.C., D. Scott, and E.W.M. Lam (2002), "Framework of Success
Criteria for Design/Build Projects", Journal of Mangement of
Engineering, 18(3), p. 120-128.
51. Chan, A.P.C., et al. (2010), "Critical Success Factors for PPPs in
Infrastructure Developments: Chinese Perspective", Journal of
Construction Engineering and Management, 136(5), tr. 78-80.
164
52. Cheung, E., A.P.C. Chan, and S. Kajewski (2012), "Factors contributing
to successful public private partnership projects - comparing Hongkong
with Australia and the United Kingdom", Journal of Facilities
Management, 10 (1), p. 45-58.
53. Chan, A.P.C., et al. (2010), Priviledges and attractions for private sector
involvement in PPP projects, in Challenges, Opportunities and
Solutions in Structural Engineering and Construction, Ghafoori,
Editor. 2010, Taylor & Francis Group: London.
54. Dixon, T., G. Pottinger, and A. Jordan (2005), "Lessons from the private
finance initiative in the UK: benefits, problems and critical success
factors", Journal of Property Investment & Finance, 23(5): p. 412-423.
55. Delmon, J (2011), Public Private Partnership Projects in Infrastructure:
An essential guide for policy makers, Cambridge University Press.
56. European Commission (2003), Guidelines for Successful Public Private
Partnerships, Brussels.
57. Engel, E. and A. Galetovic (2013), Urban Transportation: Can Public-
Private Partnership work?, Stanford Center of International
Development.
58. Gassner, K., A. Popov, and N. Pushak (2007), An Empirical Assessment
of Private Sector Participation in Electricity and Water Distribution in
Developing and Transition Countries, PPIAF, Washington, DC.
59. Hair J.F., et al. (1998), Multivariate Data Analysis, New Jersey: Prentice-
Hall, Inc.
60. Hall, J. (1998), "Private Opportunity, Public Benefit?", Fiscal Studies, 19
(2), p. 121-140.
61. Hang Dinh Thi Thuy (2016), "Evaluating the decision-making on a
Public-Private Partnership to finance a road project in Vietnam",
Journal of International Studies, (3), p. 124-137.
165
62. Hang Dinh Thi Thuy (2017), "Evaluation of qualitative value for money
of public-private partnership projects in Vietnam", Journal of
International Studies, (4): p. 192-206.
63. Ismail, S. (2013), "Critical success factors of public private partnership
(PPP) implementation in Malaysia", Asia Pacific Journal of Business
Administration, 5(1), p. 6-19.
64. Jefferie, M., Rod Gameson, and S. Rowlinson (2002), "Critical success
factors of the BOOT procurement system: Reflections from the
Stadium Australia case study", Engineering, Construction and
Architectural Management, 9 (4), p. 352-361.
65. Kumaraswamy, M.M. and X. Zhang (2001), "Governmental Role in BOT-
Led Infrastructure Development", International Journal of Project
Management, 19(4), p. 195-205.
66. Kappeler, A. and M. Nemoz (2010), Public - Private Partnerships in
Europe - before and during recent financial crisis, in Economics and
Financial Report, European Investment Bank. p. 1-30.
67. Ke, Y., et al (2010), Preferred risk allocation in China's public-private
partnership (PPP) projects. International Journal of Project
Management, (5), p. 482-492.
68. Li, B., et al. (2005), "Critical success factors for PPP/PFI projects in the
UK construction industry". Construction Management and Economics,
23(5), p. 459-471.
69. Liang, Y. and H. Jia (2018), Key Success Indicators for PPP projects:
Evidence from Hongkong, Advances in Civil Engineering.
70. Liyanage, C. and F. Villalba-Romero (2015), "Measuring Success of PPP
Transport Projects: a cross-case analysis of toll roads", Public Private
Partnerships on Transport, 35(2), p. 140-161.
71. Likhitruangsilp, V., et al. (2018), "Analyzing problems affecting the
performances of public-private partnership transportation projects - case
studies in Vietnam", Songklanakarin J. Sci. Technol., (6), p. 1405-1419.
166
72. Lam, P.T.I. and A.A. Javed (2015), "Comparative study on the use of
output specifications for Australian and U.K. PPP/PFI Projects",
Journal of Perfomance of Constructed Facilities, (6), tr. 25-31.
73. Mladenovic, G., et al. (2013), "Use of key performance indicators for PPP
transport projects to meet stakeholders' performance objectives", Built
Environment Project and Asset Management, 3(2), p. 228-249.
74. Namblard, C. (2000), "In favor of a pragmatic approach towards public-
private partnership", in Perrot, J-Y and Chatlus, G. (Eds), Financing of
major infrastructure and public service projects: Public-Private
Partnership, Presses ponts et chaussées Champs-sur-Marne, p. 17-30.
75. National Audit Office (1999), Examining the Value for Money of Deals
under the private finance initiative 1999, NAO: London.
76. National Audit Office (2001), Innovation on PFI Financing: The
Treasury Building Project, NAO: London.
77. Ng, S.T., Yoki M.W. Wong, and J.M.W. Wong. (2012), "Factors influencing
the success of PPP at feasibility stage - A tripartie comparison study in
Hongkong", Habitat International, (36), p. 423-432.
78. OECD (2008), Public-Private Partnerships: In Pursuit of Risk Sharing
and Value for Money. OECD Publishing.
79. OECD (2012), Recommendation of the Council on Principles for Public
Governance of Public-Private Partnerships, Geneva, Thụy Sĩ.
80. Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan (2015), "Review of studies on the Critical
Success Factors for Public-Private Partnership (PPP) projects from
1990 to 2013". International Journal of Project Management, 33(6), p.
1335-1346.
81. Osei-Kyei, R., et al. (2017), "Critical Success Criteria for Public Private
Partnership Projects: International Experts' opinion", International
Journal of Strategic Property Management, 21(1), p. 87-100.
82. Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan (2017), "Developing a Project Success
167
Index for Public - Private Partnership Projects in Developing
Countries", Journal of Infrastructure Systems, (9), p.1-12.
83. Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan (2017), "Stakeholders' perspectives on the
success criteria for public-private partnership projects", International
Journal of Strategic Property Management, 22(2), p. 131-142.
84. Osei-Kyei, R. and A.P.C. Chan (2017), "Comparative Anaysis of the
Success Criteria for Public - Private Partnership Projects in Ghana and
Hongkong", Project Management Journal, 48 (4), p. 80-92.
85. Queiroz, C., N. Vajdic, and G. Mladenovic (2013), "Public-private
partnerships in roads and government support: trends in transition and
devloping economies", Transportation Planning and Technology,
36(3), p. 231-243.
86. Qiao, L., et al. (2001), "Framework for Critical Success Factors of BOT
projects in China", The Journal of Structured Finance, 7(1), p. 53-61.
87. Rall, J., J.B. Reed, and N.J. Farber (2010), Public-Private Partnerships
for Transportation - A toolkit for legislators, National Conference of
State Legislatures.
88. Romancik, D.J. (1995), "Partnership toward improvement", Project
Management Journal, 26 (4), p. 14-20.
89. Rouhani, O.M., R.R. Geddes, and H.O. Gao (2015), Policy lessons for
regulating public-private partnership tolling schemes in urban
environments, Transport Policy, 41, p. 68-79.
90. Rohman, M.A., H. Doloi, and C.A. Heywood (2017), "Success criteria of
toll road projects from a community societal perspective", Built
Environment Project and Asset Management, 7(1), p. 32-44.
91. Skelcher, C. (2000), "Governing partnerships, in International Handbook on
Public-Private Partnerships", Edward Elgar: Cheltenham, (6) p. 292-304.
92. SMEC (2011), Study on Mobilizing Private International Financing for
Toll Road Projects in Vietnam Report, in SMEC.
168
93. Siemiatycki, M. (2011), "Urban tranportation public-private partnerships:
drivers of uneven development?", Environment and Planning A, (43),
p. 1707-1722.
94. Tabachnick BG and F. LS. (2013), Using Multivariate Statistics, , Boston:
Pearson Education.
95. Trebilcock, M. and M. Rosenstock (2015), "Infrastructure Public-Private
Partnerships in the Developing World: Lessons from recent
experience", The Journal of Development Studies, 51(4), p. 335-354.
96. UNESCAP (2011), A guidebook on PPP in infrastructure, Bangkok.
97. United Nations Economic Commission for Europe (2008), Guidebook on
Promoting Good Governance in Public - Private Partnerships, United
Nations Publications.
98. VCCI and USAID (2020), Private sector perspectives on Public-private
partnerships in Vietnam, ASIAN.
99. Verhoest, K., J. Voets, and K.V. Gestel (2012), "A theory-driven
approach to public-private partnerships: the dynamics of complexity
and control, in Rethinking public-private partnerships: Strategis for
Turburlent Times", Routledge, (9), p. 188-210.
100. Valipour, A., et al (2014), "Identification and Evaluation of Risk
Allocation criteria and barriers: A Malaysian public private partnership
project case study", Journal of Applied Sciences,(18), tr. 2023-2031.
101. Verhoest, K., et al. (2015), "How do government support the
development of Public Private Partnerships? Measuring and comparing
PPP governmental support in 20 European countries", Transport
Reviews, 35(2), p. 118-139.
102. World Bank, ADB and Inter-American Development Bank (2014),
Public-Private Partnerships Reference Guide, (2).
103. World Bank (2018), Procuring Infrastructure PPPs 2018. Bangkok.
104. Walzer, N. and B.D. Jacobs (1998), Public-private Partnerships for
Local Economic Development, Greenwood Publishing Group.
169
105. Wilson, D.I., Nick Pelham, and C.F. Duffield (2010), "A review of
Australian PPP govenance structures", Journal of Financial
Management of Property and Construction, 15(3), p. 198-215.
106. Wibowo, A. and H.W. Alfen. (2015), Government-led critical success
factors in PPP infrastructure development. Built Environment Project
and Asset Management, 5(1), p. 121-134.
107. Xiong, W., et al. (2018), "Governing public - private partnerships: A
systematic review of case study literature", Australian Journal of
Public Administration, (6), tr. 1-18.
108. Yuan, J., et al. (2009), "Selection of performance objectives and key
performance indicators in public-private partnership projects to achieve
value for money", Construction Management and Economics, 27(3), p.
253-270.
109. Yong, Y.C. and N.E. Mustaffa.(2013), "Critical success factors for
Malaysian construction projects: an empirical assessment".
Construction Management and Economics, 31(9), p. 959-978.
110. Zhang, X. (2006), "Factor analysis of public clients' best-value
objective in public-privately partnered infrastructure projects", Journal
of Construction Engineering and Management, 132 (9), p. 956-965.
111. Zhang, X. (2005), "Critical Success Factors for Public- Private
Partnerships in Infrastructure Development", Journal of Construction
Engineering and Management, 131(1), p. 3-14.
112. Zhang, W., et al. (1998), "Risk management of Shanghai's privately
financed Yan'an Donglu tunnels", Engineering, Construction and
Architectural Management, 5 (4), p. 399-409.
113. Zhang, X. (2005), "Financial viability analysis and capital structure
optimization in privatized public infrastructure projects", Journal of
Construction Engineering and Management, 131(6), p. 656-668.
PL 1
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PPP
Nghị định 87/CP ngày 23 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về việc ban
hành quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT áp dụng cho NĐT nước ngoài.
Nghị định 77/CP ngày 18 tháng 6 năm 1997 của Chính phủ về việc quy
định về hợp đồng BOT áp dụng cho đầu tư trong nước.
Nghị định 62/1998/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 của Chính phủ về
việc mở rộng hợp đồng BOT cho đầu tư tư nhân nước ngoài.
Nghị định số 02/1999/NĐ-CP ngày 25 tháng 1 năm 1999 của Chính phủ
về việc sửa đổi bổ xung một số điều của Nghị định 77/CP và 62/1998/NĐ-CP.
Nghị định số 78/2007/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ
về việc sửa đổi bổ xung một số điều của Nghị định 77/CP và 62/1998/NĐ-CP.
Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Chính
phủ về việc sửa đổi bổ xung Nghị định 77/CP và 62/1998/NĐ-CP quy định về
hợp đồng BOT, BTO, BT trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ,
đường sắt, đường hàng không, nước sạch và vệ sinh môi trường, thu gom, xử lý
chất thải và năng lượng.
Thông tư 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27 tháng 1 năm 2011 của Bộ Kế
hoạch và đầu tư về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định 108/2009/NĐ-CP
Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về việc mở rộng hình thức tham gia của khu vực tư nhân
ngoài hợp đồng BOT và các biến thể, ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo
hình thức đối tác công - tư.
Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 5 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ
về việc sửa đổi một số điều của Nghị định 108/2009/NĐ-CP, mở rộng lĩnh vực
có thể áp dụng hợp đồng BOT đối với các công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo
dục, văn hóa, thể thao.
PL 2
Quyết định số 1624/QĐ-TTg ngày 29 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo về đầu tư theo hình thức đối tác công
- tư (PPP)
Quyết định số 161/QĐ-BCĐPPP ngày 11 tháng 12 năm 2012 của Ban
chỉ đạo PPP về việc ban hành Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo về đầu tư
theo hình thức đối tác công tư (PPP)
Quyết định số 631/QĐ-TTg ngày 29 tháng 4 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước
ngoài tới năm 2020
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ
về việc đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ về
việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn NĐT
Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2015 của Thủ
tướng Chính phủ về Quy định cơ chế Nhà nước thanh toán bằng quỹ đất cho
NĐT khi thực hiện Dự án đầu tư xây dựng theo hình thức Xây dựng - Chuyển
giao;
Thông tư số 183/2015/TT-BTC ngày 17 tháng 11 năm 2015 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thực hiện thanh toán bằng quỹ đất cho NĐT thực hiện
Dự án đầu tư Xây dựng - Chuyển giao quy định tại Quyết định số
23/2015/QĐ-TTg;
Thông tư số 02/2016/TT-BKHĐT ngày 01 tháng 3 năm 2016 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn lựa chọn sơ bộ dự án, lập, thẩm định, phê
duyệt đề xuất dự án và BCNCKT dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư;
Thông tư số 55/2016/TT-BTC ngày 23 tháng 3 năm 2016 của Bộ Tài
chính quy định một số nội dung về quản lý tài chính đối với dự án đầu tư theo
hình thức đối tác công tư và chi phí lựa chọn NĐT
Thông tư số 06/2016/TT-BKHĐT ngày 28 tháng 6 năm 2016 của Bộ Kế
PL 3
hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối
tác công tư
Thông tư số 15/2016/TT-BKHĐT ngày 29 tháng 9 năm 2016 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn lập hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu lựa
chọn NĐT thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Quyết định số 2048/2016/QĐ-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo về đầu tư theo hình thức đối
tác công tư (PPP)
Quyết định số 369/QĐ-BCĐPPP ngày 23 tháng 11 năm 2016 của Ban
chỉ đạo PPP về việc ban hành quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo về đầu tư
theo hình thức đối tác công tư (PPP)
Nghị định 52/2017/NĐ-CP ngày 28 tháng 4 năm 2017 về cho vay lại
nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ đối với UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương do Chính phủ ban hành
Nghị định 63/2017/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2017 quy định cơ chế,
chính sách tài chính, ngân sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội
Thông tư 75/2017/TT-BTC ngày 21 tháng 7 năm 2017 sửa đổi Thông tư
55/2016/TT-BTC quy định nội dung về quản lí tài chính đối với dự án đầu tư
theo hình thức đối tác công tư và chi phí lựa chọn NĐT do Bộ trưởng Bộ tài
chính ban hành
Nghị định 63/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ về
đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Thông tư 88/2018/TT-BTC ngày 28 tháng 9 năm 2018 của Bộ Tài chính
quy định một số nội dung về quản lý tài chính đối với dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư và chi phí lựa chọn NĐT
Nghị quyết 160/NQ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ về
việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho NĐT thực hiện dự án đầu tư xây
PL 4
dựng công trình theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao
Thông tư 19/2019/TT-BGTVT ngày 23 tháng 5 năm 2019 của Bộ Giao
thông vận tải Hướng dẫn chi tiết về lĩnh vực đầu tư và nội dung BCNCKT dự
án đầu tư theo hình thức đối tác công tư thuộc lĩnh vực giao thông vận tải (thay
thế Thông tư số 86/2015/TT-BGTVT ngày 31 tháng 12 năm 2015)
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư số 64/2020/QH14 ngày
18/6/2020.
PL 5
Phụ lục 2
CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN PPP
CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐND ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Hội
đồng nhân dân Thành phố Hà Nội về “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Thành phố Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” và “Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030”
Quyết định 3278/QĐ-UBND ngày 23/5/2013 của UBND Thành phố về
việc thành lập Tổ công tác rà soát các dự án đầu tư theo hình thức Hợp đồng
Xây dựng - Chuyển giao (BT) trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Kế hoạch số 99/KH-TCTBT ngày 13/6/2013 của Tổ công tác BT về Kế
hoạch thực hiện công tác kiểm tra, rà soát các dự án đầu tư theo hình thức Hợp
đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT) trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Nghị quyết số 07/2013/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2013 của Hội
đồng nhân dân Thành phố Hà Nội về chính sách ưu tiên đầu tư và huy động các
nguồn lực đầu tư xây dựng các khu đô thị, nhà ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội đồng bộ, hiện đại, thuận tiện ở ngoại thành của Thành phố Hà Nội
Quyết định số 1703/QĐ-UBND ngày 28/3/2014 của UBND Thành phố
Hà Nội về việc thành lập Tổ công tác xử lý, giải quyết các khó khăn vướng
mắc đối với các dự án không tiếp tục triển khai theo hình thức hợp đồng BT,
đồng thời xem xét, chỉ đạo đối với một số dự án cụ thể.
Nghị quyết 08/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng
nhân dân Thành phố Hà Nội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm giai
đoạn 2016-2020 của Thành phố Hà Nội
Quyết định số 30/2015/QĐ-UBND ngày 16 tháng 10 năm 2015 của
PL 6
UBND Thành phố Hà Nội về việc ban hành quy định một số nội dung thuộc
thẩm quyền của UBND Thành phố Hà Nội thực hiện Nghị định số
15/2015/NĐ-CP
Quyết định số 24/2016/QĐ-UBND ngày 01 tháng 8 năm 2016 của
UBND Thành phố Hà Nội về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội
Kế hoạch số 162/KH-UBND ngày 29 tháng 8 năm 2016 của UBND
Thành phố Hà Nội về Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình số 06-
Ctr/TU của Thành ủy về “Phát triển đồng bộ, hiện đại hóa từng bước kết cấu hạ
tầng đô thị, tăng cường quản lý trật tự xây dựng, đất đai, môi trường, xây dựng
đô thiị văn minh và hiện đại” giai đoạn 2016-2020
Nghị quyết 18/NQ-HĐND ngày 06 tháng 12 năm 2016 của Hội đồng
nhân dân Thành phố Hà Nội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn, danh mục
công trình trọng điểm và lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ưu tiên
phát triển giai đoạn 2016-2020 của Thành phố Hà Nội
Quyết định số 2596/QĐ-UBND ngày 05 tháng 5 năm 2017 của UBND
Thành phố Hà Nội về việc quy định cơ cấu tổ chức bộ máy của Ban Quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình cấp nước, thoát nước và môi trường Thành phố
Hà Nội.
Quyết định số 3365/QĐ-UBND ngày 01/6/2017 của UBND Thành phố
về việc thành lập Tổ công tác liên ngành Thành phố giải quyết thủ tục chấp
thuận chủ trương cho nhà đẩu tư nghiên cứu lập dự án; quyết định CTĐT, phê
duyệt đề xuất dự án và giải quyết
Quyết định số 366/QĐ-TCTLN ngày 27/10/2017 của Tổ công tác liên
ngành Thành phố ban hành quy chế về chế độ làm việc và giải quyết công việc
của Tổ công tác liên ngành Thành phố theo Quyết định số 3365/QĐ-UBND
ngày 01/6/2017 của UBND Thành phố về việc thành lập Tổ công tác liên
ngành Thành phố.
PL 7
Phụ lục 3
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐỊNH LƢỢNG
1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha
+ Đánh giá Cronbach’s Alpha lần đầu với các thang đo cho thấy các biến
quan sát đều có hệ số tương quan tổng biến phù hợp (Corrected Item - Total
correlation ≥ 0.3), đạt yêu cầu về độ tin cậy. Riêng kết quả kiểm định của thang đo
CS cho thấy 6/7 biến quan sát (CS1-CS6) có hệ số tương quan tổng biến phù hợp,
biến CS7 bị loại bỏ do có hệ số tương quan tổng biến là 0.041 (<0,3).
Reliability Statistics
N of Items
Cronbach's Alpha .812
7
Item Statistics
Mean
Std. Deviation
N
CS1
4.24
.791
178
CS2
3.67
1.028
178
CS3
3.47
.903
178
CS4
3.63
.955
178
CS5
3.83
.704
178
CS6
3.80
.917
178
CS7
3.87
1.200
178
Item-Total Statistics
Scale Mean if
Scale Variance
Corrected Item-
Cronbach's Alpha
Item Deleted
if Item Deleted
Total Correlation
if Item Deleted
22.26
15.608
.656
.773
CS1
22.83
14.152
.662
.765
CS2
23.04
15.123
.625
.774
CS3
22.87
14.147
.734
.753
CS4
22.68
15.620
.758
.763
CS5
22.71
14.716
.679
.764
CS6
22.64
18.469
.041
.892
CS7
+ Đánh giá Cronbach’s Alpha lần hai với thang đo CS sau khi bỏ biến CS7:
PL 8
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha
N of Items
.892
6
Item Statistics
Mean
Std. Deviation
N
CS1
4.24
.791
178
CS2
3.67
1.028
178
CS3
3.47
.903
178
CS4
3.63
.955
178
CS5
3.83
.704
178
CS6
3.80
.917
178
Item-Total Statistics
Scale Mean if
Scale Variance
Corrected Item-
Cronbach's Alpha if
Item Deleted
if Item Deleted
Total Correlation
Item Deleted
18.40
13.631
.722
.872
CS1
18.97
12.338
.702
.877
CS2
19.17
13.376
.648
.883
CS3
19.01
12.243
.796
.859
CS4
18.81
13.824
.793
.866
CS5
18.84
13.207
.664
.881
CS6
Tổng hợp kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha các thang đo sau khi loại bỏ
biến CS6:
CRONBACH ALPHA – FACTOR LOADING
STT
FACTOR
CRONBACH ALPHA FACTOR LOADING
.895
1
HQ
.926
HQ3
.861
HQ2
.706
HQ4
.638
HQ1
.624
HQ6
HQ5
.507
.855
PL 9
2
MT
MT4
.837
MT2
.810
MT3
.775
MT5
.695
MT1
.587
.836
3
NL
NL2
.906
NL1
.844
NL3
.598
NL4
.576
.892
4
CS
CS4
.883
CS5
.852
CS1
.756
CS6
.714
CS2
.705
.883
5
TH
TH7
.839
TH5
.833
TH4
.804
TH6
.798
TH8
.527
.908
TH_A
TH2
.931
TH1
.864
TH3
.843
+ Extraction Method: Principal Axis Factoring.
+
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha sau khi loại bỏ biến CS7 cho thấy 6/6
biến quan sát đều có hệ số tương quan tổng biến phù hợp (Corrected Item – Total
correlation ≥0.3). Hệ số Cronbach’s Alpha = 0.892 (>0,6), thang đo đạt yêu cầu về
độ tin cậy.
PL 10
2. Phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis)
+ Phân tích EFA lần 1
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.
.749
Bartlett's Test of
Approx. Chi-Square
3774.584
Sphericity
df
406
Sig.
.000
Kết quả phân tích nhân tố: chỉ số KMO là 0.749 >0.5 cho thấy dữ liệu dùng để
phân tích nhân tố là hoàn toàn phù hợp. Kết quả kiểm định Barlett’s là 3774.584 với
mức ý nghĩa Sig.=0.000 <0.05, chứng tỏ các biến có tương quan với nhau và thỏa
điều kiện phân tích nhân tố.
Ma trận đặc trưng của các nhân tố (Pattern Matrix) cho biết mức đóng góp riêng
của mỗi biến lên nhân tố. Biến CS3 bị loại bỏ do có 2 hệ số tải nhân tố và chênh
lệch hệ số tải nhỏ hơn 0.3.
Pattern Matrixa
Factor
1
2
3
4
5
6
7
CS2
.877
CS4
.860
CS1
.844
CS5
.834
CS3
.813
-.544
CS6
.697
TH7
.870
TH5
.803
TH6
.787
TH4
.783
TH8
.574
HQ3
.927
HQ2
.864
HQ4
.719
HQ1
.644
.633
HQ6
.510
HQ5
MT4
.899
MT2
.776
MT3
.740
MT5
.714
MT1
.587
NL2
.897
NL1
.832
NL3
.635
NL4
.586
TH2
.940
TH1
.860
TH3
.841
Extraction Method: Principal Axis Factoring.
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 6 iterations.
+ Phân tích EFA lần 2
Kết quả phân tích EFA lần 2 đạt yêu cầu ở tất cả các tiêu chí: chỉ số KMO là 0.740
>0.5, Kết quả kiểm định Barlett’s là 3612.904 với mức ý nghĩa Sig.=0.000 <0.05.
PL 11
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.
.740
Bartlett's Test of
Approx. Chi-Square
3612.904
Sphericity
Df
378
Sig.
.000
Thực hiện phân tích thành phần chính Principal Components với phép quay
Varimax, kết quả cho thấy 28 biến quan sát được nhóm thành 6 nhóm. Giá trị tổng
phương sai trích là 64,025% >50%, đạt yêu cầu, cho thấy 6 nhóm nhân tố này giải
thích 64,025% biến thiên của dữ liệu. Giá trị hệ số Eigenvalue của các nhân tố đều
cao (>1), nhân tố thứ 6 có Eigenvalues thấp nhất là 1,550.
PL 12
Total Variance Explained
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared
Loadings
Rotation Sums of Squared Loadingsa
Total
% of
Cumulative % Total
% of
Cumulative %
Total
r o t c a F
Variance
Variance
23.416
6.556
23.416
5.041
1
24.650
6.902
24.650
11.306
3.166
34.722
3.783
2
12.506
3.502
37.156
10.308
2.886
45.030
5.158
3
11.616
3.252
48.771
7.548
2.113
52.578
3.127
4
8.494
2.378
57.266
7.057
1.976
59.635
2.958
5
8.262
2.313
65.528
4.390
1.229
64.025
2.413
6
5.536
1.550
71.064
7
3.326
.931
74.390
8
3.250
.910
77.640
9
2.824
.791
80.464
10
2.395
.671
82.860
11
2.242
.628
85.101
12
2.125
.595
87.226
13
1.727
.484
88.954
14
1.480
.414
90.434
15
1.355
.380
91.789
16
1.134
.318
92.923
17
.987
.276
93.910
18
.913
.256
94.823
19
.821
.230
95.644
20
.783
.219
96.428
21
.649
.182
97.077
22
.603
.169
97.680
23
.517
.145
98.197
24
.486
.136
98.683
25
.427
.120
99.111
26
.336
.094
99.446
27
.298
.083
99.745
28
.255
.072
100.000
Extraction Method: Principal Axis Factoring.
a. When factors are correlated, sums of squared loadings cannot be added to obtain a total variance.
PL 13
Pattern Matrixa
Factor
2
3
4
5
6
1
TH7
.839
TH5
.833
TH4
.804
TH6
.798
TH8
.527
CS4
.883
CS5
.852
CS1
.756
CS6
.714
CS2
.705
HQ3
.926
HQ2
.861
HQ4
.706
HQ1
.638
HQ6
.624
HQ5
.507
MT4
.837
MT2
.810
MT3
.775
MT5
.695
MT1
.587
NL2
.906
NL1
.844
NL3
.598
NL4
.576
TH2
.931
TH1
.864
TH3
.843
Extraction Method: Principal Axis Factoring.
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 6 iterations.
Factor Correlation Matrix
Factor 1 2 3 4 5 6
1 1.000 .288 .541 .054 .205 -.023
2 .288 1.000 .175 .068 .041 .117
4 .054 .068 .251 1.000 .084 .059
5 .205 .041 .297 .084 1.000 -.073
6 -.023 .117 -.036 .059 -.073 1.000
3 .541 .175 1.000 .251 .297 -.036 Extraction Method: Principal Axis Factoring. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
Nhân tố tổ chức thực hiện được gom thành hai nhân tố khác nhau, bao gồm
nhóm các biến TH1, TH2, TH3 (được đặt tên là Tổ chức đánh giá nghiên cứu khả
thi TH-A) và nhóm các biến TH4, TH5, TH6, TH7 và TH8 (được đặt tên là Tổ chức
thực hiện công khai và quản lý giám sát hiệu quả TH). Theo đó có 05 nhóm nhân tố
ảnh hưởng đến thành công của dự án PPP bao gồm: (1) Tổ chức thực hiện công khai
và quản lý giám sát hiệu quả; (2) Sự phối hợp và chia sẻ giữa khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân; (3) Môi trường đầu tư; (4) Năng lực của khu vực tư nhân và xã hội
và (5) Tổ chức đánh giá nghiên cứu khả thi.
PL 14
3. Phân tích nhân tố khẳng định CFA (Confirmatory Factor Analysis)
+ Phân tích CFA lần 1:
+
Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
Estimate
.717 .906 .870 .845 .483 .929 .913 .670 .736 .650 .692 .729 .862 .692 .752 .748 .633 .962 .719 .673 .622 .939 .853 .574 .592 .915 .869 .845
1 1 1 1 1 2 2 2 2 2 3 3 3 3 3 3 4 4 4 4 4 5 5 5 5 6 6 6
<--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <--- <---
TH7 TH5 TH4 TH6 TH8 CS4 CS5 CS1 CS6 CS2 HQ3 HQ2 HQ4 HQ1 HQ6 HQ5 MT5 MT2 MT3 MT6 MT1 NL2 NL1 NL3 NL4 TH2 TH1 TH3
Kết quả kiểm định CFA cho thấy trọng số các biến quan sát (chuẩn hóa) đều
đạt chuẩn cho phép (≥0,5) và có ý nghĩa thống kê (các giá trị p đều bằng 0,000) nên
đạt giá trị hội tụ và đạt tính đơn nguyên ở một số quan sát. Ngoài ra, kết quả phù
hợp với dữ liệu thực tế với pvalue = 0,000; CFI = 0,903; TLI=0,891 và RMSEA =
0,059. Tuy nhiên, biến TH8 có hệ tố tải nhân tố (factor loading) thấp nên bị loại ra.
PL 15
PL 16
+ Phân tích CFA lần 2:
- CMIN
Model
NPAR
CMIN
P
CMIN/DF
DF
Default model
90
603.762
.000
2.096
288
Saturated model
378
.000
0
Independence model
27 3719.557
351
.000
10.597
- RMR, GFI
Model
RMR
GFI
AGFI
PGFI
Default model
.054
.812
.754
.619
Saturated model
.000
1.000
Independence model
.201
.320
.268
.297
- Baseline Comparisons
NFI
RFI
IFI
TLI
Model
CFI
Delta1
rho1
Delta2
rho2
Default model
.838
.802
.908
.886
.906
Saturated model
1.000
1.000
1.000
Independence model
.000
.000
.000
.000
.000
- Parsimony-Adjusted Measures
Model
PRATIO
PNFI
PCFI
Default model
.821
.687
.744
Saturated model
.000
.000
.000
Independence model
1.000
.000
.000
- NCP
Model
NCP
LO 90
HI 90
Default model
315.762
249.068
390.213
Saturated model
.000
.000
.000
Independence model
3368.557
3176.313
3568.138
- FMIN
Model Fit Summary
Model
FMIN
F0
LO 90
HI 90
Default model
3.411
1.784
1.407
2.205
Saturated model
.000
.000
.000
.000
Independence model
21.014
19.031
17.945
20.159
- RMSEA
RMSEA
LO 90
HI 90
PCLOSE
Model
.079
.070
.087
.000
Default model
.233
.226
.240
.000
Independence model
- AIC
Model
AIC
BCC
BIC
CAIC
Default model
783.762
817.587
1070.122
1160.122
Saturated model
756.000
898.067
1958.714
2336.714
Independence model
3773.557
3783.705
3859.465
3886.465
- ECVI
Model
ECVI
LO 90
HI 90
MECVI
Default model
4.428
4.051
4.849
4.619
Saturated model
4.271
4.271
4.271
5.074
Independence model
21.320
20.233
22.447
21.377
- HOELTER
HOELTER
HOELTER
Model
.05
.01
Default model
97
102
Independence model
19
20
PL 17
Scalar Estimates (Group number 1 - Default model)
Maximum Likelihood Estimates
Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
Estimate
S.E.
C.R.
P
Standardized S.E.
TH7 <--- TH
1.000
.698
TH5 <--- TH
1.416
.115
12.338
***
.916
Estimates (Group number 1 - Default model)
Estimate
C.R.
P
Standardized S.E.
S.E.
.115
12.024
***
1.386
.867
TH4 <--- TH
.113
11.476
***
1.294
.839
TH6 <--- TH
1.000
.929
CS4 <--- CS
.036
19.874
***
.719
.911
CS5 <--- CS
.055
10.749
***
.588
.665
CS1 <--- CS
.060
12.618
***
.762
.739
CS6 <--- CS
.065
11.689
***
.759
.662
CS2 <--- CS
1.000
.858
HQ3 <--- HQ
.072
16.077
***
1.160
.924
HQ2 <--- HQ
.084
10.370
***
.872
.679
HQ4 <--- HQ
.078
11.930
***
.936
.754
HQ1 <--- HQ
.088
9.063
***
.797
.617
HQ6 <--- HQ
.086
7.730
***
.664
.551
HQ5 <--- HQ
1.000
.686
MT4 <--- MT
.149
8.484
***
1.261
.919
MT2 <--- MT
.122
7.555
***
.925
.618
MT3 <--- MT
.117
9.934
***
1.163
.736
MT5 <--- MT
.102
8.390
***
.859
.656
MT1 <--- MT
1.000
.941
NL2 <--- NL
.063
14.582
***
.915
.855
NL1 <--- NL
.064
8.307
***
.534
.572
NL3 <--- NL
.082
8.562
***
.698
.574
NL4 <--- NL
1.000
.914
TH2 <--- TH_A
.057
15.624
***
.898
.870
TH1 <--- TH_A
.057
15.002
***
.854
.846
TH3 <--- TH_A
- Covariances: (Group number 1 - Default model)
Estimate S.E.
C.R.
P Label
TH <--> CS
.207
.044
4.703
***
TH <--> HQ
.192
.037
5.147
***
PL 18
Estimate S.E.
C.R.
P Label
TH <--> MT
-.011
.025
-.445
.656
TH <--> NL
.085
.032
2.602
.009
TH <--> TH_A
.009
.044
.213
.831
CS <--> HQ
.142
.050
2.866
.004
CS <--> MT
-.009
.039
-.227
.820
CS <--> NL
.054
.049
1.106
.269
CS <--> TH_A
.058
.070
.826
.409
HQ <--> MT
.087
.032
2.710
.007
HQ <--> NL
.171
.040
4.247
***
HQ <--> TH_A
-.017
.053
-.326
.745
MT <--> NL
.001
.030
.046
.963
MT <--> TH_A
.019
.043
.444
.657
NL <--> TH_A
-.017
.054
-.309
.758
e15 <--> e16
.242
.041
5.975
***
e17 <--> e20
.170
.046
3.678
***
e18 <--> e20
-.172
.034
-5.131
***
e17 <--> e23
.067
.015
4.450
***
e18 <--> e19
.103
.041
2.537
.011
e13 <--> e16
.206
.038
5.473
***
e15 <--> e23
.050
.017
2.921
.003
e12 <--> e16
-.035
.018
-1.969
.049
e12 <--> e23
-.036
.013
-2.714
.007
e10 <--> e21
.135
.031
4.377
***
e8 <--> e10
.143
.034
4.197
***
e3 <--> e10
-.121
.028
-4.368
***
e1 <--> e6
-.101
.021
-4.845
***
e24 <--> e25
.123
.029
4.257
***
e17 <--> e19
.156
.031
4.966
***
e1 <--> e16
.110
.023
4.786
***
PL 19
Estimate S.E.
C.R.
P Label
e1 <--> e9
-.085
.027
-3.135
.002
e4 <--> e25
.106
.026
4.062
***
e2 <--> e22
-.044
.013
-3.401
***
e7 <--> e13
-.045
.014
-3.203
.001
e13 <--> e15
.175
.036
4.846
***
- Correlations: (Group number 1 - Default model)
Estimate
TH <--> CS
.414
TH <--> HQ
.514
TH <--> MT
-.034
TH <--> NL
.220
TH <--> TH_A
.017
CS <--> HQ
.240
CS <--> MT
-.017
CS <--> NL
.089
CS <--> TH_A
.067
HQ <--> MT
.228
HQ <--> NL
.375
HQ <--> TH_A
-.027
MT <--> NL
.004
MT <--> TH_A
.035
NL <--> TH_A
-.025
e15 <--> e16
.533
e17 <--> e20
.457
e18 <--> e20
-.909
e17 <--> e23
.291
e18 <--> e19
.495
e13 <--> e16
.488
e15 <--> e23
.192
PL 20
Estimate
e12 <--> e16
-.163
e12 <--> e23
-.296
e10 <--> e21
.312
e8 <--> e10
.318
e3 <--> e10
-.355
e1 <--> e6
-.493
e24 <--> e25
.345
e17 <--> e19
.382
e1 <--> e16
.286
e1 <--> e9
-.238
e4 <--> e25
.331
e2 <--> e22
-.513
e7 <--> e13
-.247
e13 <--> e15
.410
- Variances: (Group number 1 - Default model)
Estimate S.E.
C.R.
P Label
TH
.314
.056 5.572
***
CS
.794
.097 8.159
***
HQ
.445
.064 6.954
***
MT
.327
.068 4.835
***
NL
.468
.060 7.806
***
TH_A
.936
.123 7.608
***
e1
.331
.037 8.918
***
e2
.122
.022 5.516
***
e3
.199
.028 7.146
***
e4
.222
.029 7.676
***
e6
.125
.027 4.684
***
e7
.085
.015 5.755
***
e8
.347
.039 8.972
***
PL 21
Estimate S.E.
C.R.
P Label
e9
.383
.045 8.595
***
e10
.587
.063 9.292
***
e11
.160
.023 6.896
***
e12
.103
.023 4.414
***
e13
.395
.045 8.819
***
e14
.295
.035 8.337
***
e15
.459
.051 9.052
***
e16
.450
.050 8.990
***
e17
.368
.047 7.900
***
e18
.096
.047 2.021
.043
e19
.453
.061 7.410
***
e20
.375
.074 5.075
***
e21
.320
.039 8.096
***
e22
.060
.025 2.436
.015
e23
.144
.025 5.670
***
e24
.274
.030 9.030
***
e25
.465
.051 9.124
***
e26
.185
.041 4.455
***
e27
.243
.039 6.202
***
e28
.272
.039 6.916
***
- Squared Multiple Correlations: (Group number 1 - Default model)
Estimate
TH3
.715
TH1
.757
TH2
.835
NL4
.329
NL3
.327
NL1
.731
NL2
.886
PL 22
Estimate
MT1
.430
MT5
.542
MT3
.382
MT2
.844
MT4
.470
HQ5
.304
HQ6
.381
HQ1
.569
HQ4
.461
HQ2
.853
HQ3
.736
CS2
.438
CS6
.546
CS1
.442
CS5
.829
CS4
.863
TH6
.704
TH4
.752
TH5
.838
TH7
.487
Model Validity Measures
PL 23
CR AVE MSV MaxR(H)
TH
CS
HQ MT NL TH_A
0.885 0.614 0.343
0.920
TH
0.783
0.890 0.623 0.153
0.933
CS
0.392*** 0.789
0.902
0.585*** 0.203*
HQ 0.895 0.588 0.343
0.767
0.871
0.018
0.048
MT 0.858 0.550 0.050
0.223* 0.742
0.840 0.577 0.130
0.909
0.200*
NL
0.089 0.361*** 0.074 0.760
0.914
0.008
0.094
PL 24
TH_A 0.909 0.769 0.009
-0.039 0.051 -0.036 0.877
- CR: độ tin cậy tổng hợp (các thang đo có phù hợp ko) (>0,7)
- AVE: trung bình của phương sai trích: đánh giá độ hội tụ của các item
vào từng nhân tố (>0,5)
- MSV: phương sai riêng lớn nhất: độ phân biệt giữa các nhóm nhân tố
với nhau ( Bảng hỏi đảm bảo độ tin cậy, các nhân tố hội tụ vào một nhóm nhân tố, và giữa các nhóm nhân tố đảm bảo tính phân biệt. Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM: Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công của dự án PPP và tiêu chí đánh giá thành công của dự án PPP đối với các dự án PPP kết cấu hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội. PL 25 - CMIN Model NPAR CMIN P CMIN/DF DF Default model 90 593.217 288 .000 2.060 Saturated model 378 .000 0 Independence model 27 3698.191 351 .000 10.536 - RMR, GFI Model RMR GFI AGFI PGFI Default model .058 .895 .858 .621 Saturated model .000 1.000 Independence model .216 .299 .246 .278 - Baseline Comparisons Model CFI Default model NFI
Delta1
.840 RFI
rho1
.805 IFI
Delta2
.910 TLI
rho2
.889 .909 Saturated model 1.000 1.000 1.000 Independence model .000 .000 .000 .000 .000 Model Fit Summary - Parsimony-Adjusted Measures Model PRATIO PNFI PCFI Default model .821 .689 .746 Saturated model .000 .000 .000 Independence model 1.000 .000 .000 - NCP Model NCP LO 90 HI 90 Default model 305.217 239.341 378.860 Saturated model .000 .000 .000 Independence model 3347.191 3155.538 3546.182 - FMIN Model FMIN F0 LO 90 HI 90 Default model 3.352 1.724 1.352 2.140 Saturated model .000 .000 .000 .000 Independence model 20.894 18.911 17.828 20.035 - RMSEA Model RMSEA LO 90 HI 90 PCLOSE Default model .077 .069 .086 .000 Independence model .232 .225 .239 .000 - AIC Model AIC BCC BIC CAIC Default model 773.217 807.043 1059.578 1149.578 Saturated model 756.000 898.067 1958.714 2336.714 Independence model 3752.191 3762.339 3838.100 3865.100 - ECVI Model ECVI LO 90 HI 90 MECVI Default model 4.368 3.996 4.785 4.560 Saturated model 4.271 4.271 4.271 5.074 Independence model 21.199 20.116 22.323 21.256 - HOELTER PL 26 HOELTER HOELTER Model .05 .01 Default model 99 104 Independence model 19 20 PL 27 - Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Standardized Estimate S.E. C.R. P Label S.E. HQ <--- TH .452 .104 4.342 *** .374 HQ <--- CS .149 .067 2.236 .025 .179 HQ <--- MT .239 .113 2.108 .035 .142 HQ <--- NL .281 .069 4.070 *** .285 HQ <--- TH_A -.034 .046 -.745 .456 -.050 TH7 <--- TH 1.000 TH5 <--- TH 1.430 .119 12.055 *** .689
.915 TH4 <--- TH 1.431 .121 11.825 *** .875 TH6 <--- TH 1.304 .116 11.199 *** .835 CS4 <--- CS 1.000 CS5 <--- CS .903 .052 17.405 *** .876
.917 CS1 <--- CS .736 .069 10.605 *** .681 CS6 <--- CS .950 .071 13.345 *** .797 CS2 <--- CS .907 .081 11.144 *** .664 HQ3 <--- HQ 1.000 HQ2 <--- HQ 1.155 .071 16.174 *** .859
.924 HQ4 <--- HQ .862 .084 10.253 *** .675 HQ1 <--- HQ .929 .078 11.880 *** .751 HQ6 <--- HQ .790 .088 8.993 *** .615 HQ5 <--- HQ .673 .086 7.798 *** .555 MT5 <--- MT 1.000 MT2 <--- MT 1.973 .391 5.042 *** .439
.995 Estimates (Group number 1 - Default model) Standardized Estimate S.E. C.R. P Label S.E. MT3 <--- MT 1.626 .316 5.145 *** .752 MT4 <--- MT 1.477 .209 7.079 *** .725 MT1 <--- MT 1.143 .175 6.540 *** .609 NL2 <--- NL 1.000 NL1 <--- NL .892 .066 13.587 *** .946
.842 NL3 <--- NL .546 .065 8.352 *** .579 NL4 <--- NL .694 .083 8.346 *** .566 TH2 <--- TH_A 1.000 TH1 <--- TH_A .899 .057 15.634 *** .914
.870 TH3 <--- TH_A .854 .057 15.000 *** .846 - Covariances: (Group number 1 - Default model) Estimate P Label S.E. C.R. TH <--> CS .226 .042 5.399 *** TH <--> MT -.010 .017 -.568 .570 TH <--> NL .073 .031 2.324 .020 TH <--> TH_A .008 .044 .177 .860 CS <--> MT .019 .025 .745 .456 CS <--> NL .038 .044 .850 .396 CS <--> TH_A .058 .064 .907 .364 MT <--> NL -.008 .021 -.378 .705 MT <--> TH_A .028 .030 .927 .354 NL <--> TH_A -.010 .053 -.191 .849 e15 <--> e16 .245 .041 5.954 *** e17 <--> e20 .299 .044 6.759 *** e18 <--> e20 -.067 .036 -1.849 .064 e18 <--> e19 -.013 .056 -.229 .819 e13 <--> e16 .205 .038 5.403 *** e15 <--> e23 .036 .017 2.088 .037 PL 28 Estimate P Label S.E. C.R. e12 <--> e16 -.037 .018 .038 -2.072 e12 <--> e23 -.046 .014 .001 -3.199 e10 <--> e21 .137 .031 *** 4.478 e8 <--> e10 .229 .042 *** 5.456 e3 <--> e10 -.116 .028 *** -4.214 e1 <--> e6 -.108 .023 *** -4.785 e24 <--> e25 .123 .029 *** 4.225 e1 <--> e16 .112 .023 *** 4.769 e1 <--> e9 -.100 .026 *** -3.804 e4 <--> e25 .101 .026 *** 3.829 e2 <--> e22 -.030 .013 .021 -2.310 e7 <--> e13 -.044 .016 .007 -2.707 e13 <--> e15 .179 .037 *** 4.899 e17 <--> e21 .142 .032 *** 4.494 e10 <--> e22 .064 .020 .001 3.198 - Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate .507 TH <--> CS -.044 TH <--> MT .195 TH <--> NL .014 TH <--> TH_A .058 CS <--> MT .069 CS <--> NL .074 CS <--> TH_A -.029 MT <--> NL .073 MT <--> TH_A -.015 NL <--> TH_A .537 e15 <--> e16 .663 e17 <--> e20 PL 29 Estimate e18 <--> e20 -1.485 -.279 e18 <--> e19 e13 <--> e16 .484 e15 <--> e23 .139 e12 <--> e16 -.171 e12 <--> e23 -.367 e10 <--> e21 .281 e8 <--> e10 .437 e3 <--> e10 -.323 e1 <--> e6 -.421 e24 <--> e25 .344 e1 <--> e16 .286 e1 <--> e9 -.298 e4 <--> e25 .310 e2 <--> e22 -.366 e7 <--> e13 -.221 e13 <--> e15 .421 e17 <--> e21 .297 e10 <--> e22 .337 - Variances: (Group number 1 - Default model) Estimate S.E. C.R. P Label TH .305 .056 5.483 *** CS .649 .088 7.385 *** MT .157 .054 2.885 .004 NL .460 .058 7.870 *** TH_A .936 .123 7.603 *** e29 .274 .041 6.665 *** e1 .337 .038 8.952 *** e2 .122 .022 5.583 *** PL 30 Estimate S.E. C.R. P Label e3 .191 .028 6.913 *** e4 .226 .029 7.702 *** e6 .196 .030 6.586 *** e7 .100 .019 5.245 *** e8 .407 .046 8.831 *** e9 .338 .042 8.020 *** e10 .676 .071 9.462 *** e11 .158 .023 6.873 *** e12 .102 .023 4.385 *** e13 .395 .045 8.804 *** e14 .299 .036 8.381 *** e15 .458 .051 8.995 *** e16 .455 .051 8.971 *** e17 .657 .068 9.593 *** e18 .007 .080 .083 .934 e19 .319 .063 5.037 *** e20 .309 .054 5.776 *** e21 .349 .043 8.115 *** e22 .054 .026 2.078 .038 e23 .150 .026 5.861 *** e24 .271 .030 8.998 *** e25 .469 .051 9.122 *** e26 .186 .041 4.477 *** e27 .242 .039 6.191 *** e28 .272 .039 6.918 *** - Squared Multiple Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate HQ .386 TH3 .715 PL 31 Estimate TH1 .757 TH2 .834 NL4 .320 NL3 .336 NL1 .709 NL2 .895 MT1 .371 MT4 .526 MT3 .566 MT2 .989 MT5 .193 HQ5 .308 HQ6 .378 HQ1 .563 HQ4 .456 HQ2 .853 HQ3 .738 CS2 .441 CS6 .634 CS1 .463 CS5 .841 CS4 .768 TH6 .697 TH4 .766 TH5 .837 TH7 .475 PL 32 PL 33 Phụ lục 4 PHIẾU KHẢO SÁT Một số nhân tố ảnh hưởng đến thành công của các dự án kết cấu hạ tầng giao thông thực hiện theo hình thức hợp tác công tư (PPP) của Thành phố Hà Nội Kính thưa quý Ông/Bà! Chúng tôi là nhóm nghiên cứu thuộc Viện Kinh tế - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, hiện đang tiến hành nghiên cứu khoa học về đầu tư theo hình thức PPP (PPP) đối với các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do UBND Thành phố Hà Nội là CQNNCTQ ký kết và thực hiện. Chúng tôi cam kết những câu trả lời của Ông/Bà theo phiếu khảo sát này chỉ phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và không nhằm vào mục đích nào khác. Xin trân trọng cảm ơn sự cộng tác của Ông/Bà! A. Tiêu chí đánh giá hiệu quả các dự án kết cấu hạ tầng giao thông thực hiện theo hình thức PPP của Thành phố Hà Nội Với những đề xuất sau đây của nhóm nghiên cứu về tiêu chí đánh giá hiệu quả các dự án kết cấu hạ tầng giao thông thực hiện theo hình thức PPP của Thành phố Hà Nội, Ông/Bà vui lòng đánh dấu × vào phương án mà Ông/Bà lựa chọn. Dự án khi đưa vào sử dụng đáp ứng được các tiêu 1 HQ1 chuẩn kỹ thuật và mục tiêu đầu tư. 2 HQ2 Dự án thi công đảm bảo tiến độ. Dự án thực hiện đảm bảo dự toán đã phê duyệt và có 3 HQ3 dự toán không cao hơn so với dự án đầu tư công tương đương. Dự án hoàn thành đáp ứng nhu cầu của cộng đồng dân 4 HQ4 cư. Quá trình thực hiện dự án ít gây ra bức xúc trong nhân dân Lợi nhuận được đảm bảo 5 HQ5 cho đối tác tư nhân Dự án góp phần và thúc 6 HQ6 đẩy sự phát triển kinh tế địa phương. PL 34 B. Đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến thành công của dự án kết cấu hạ tầng giao thông thực hiện theo hình thức PPP của Thành phố Hà Nội Ông/Bà vui lòng cho biết quan điểm cá nhân về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố sau đến sự thành công của dự án kết cấu hạ tầng giao thông thực hiện theo hình thức PPP của Thành phố Hà Nội. Ông/Bà vui lòng đánh dấu × vào phương án mà Ông/Bà lựa chọn. PL 35 Điều kiện kinh tế vĩ mô 1 MT1 ổn định. Chính sách đảm bảo môi trường đầu tư bền vững, tạo 2 MT2 điều kiện lợi nhuận cho NĐT tư nhân. Khung pháp lý đảm bảo các điều kiện về xây dưng 3 MT3 hợp đồng và bảo đảm thực hiện hợp đồng. Sự quyết tâm của lãnh đạo 4 MT4 Thành phố trong thực hiện triển khai hình thức PPP. Sự tham gia của Nhà nước thông qua các hình thức bảo đảm của Nhà nước bao 5 MT5 gồm: trợ giá sử dụng dịch vụ sau đầu tư, ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư… Các doanh nghiệp tư nhân tham gia dự án PPP có thế 6 NL1 mạnh về năng lực kỹ thuật, tài chính, và quản lý. NĐT, các đơn vị tư vấn, các đơn vị nhà thầu, tổ chức tín 7 NL2 dụng… có sự liên kết chặt chẽ và tương trợ nhau trong PL 36 quá trình triển khai dự án PPP. Khả năng huy động vốn của thị trường tài chính hỗ trợ 8 NL3 khu vực tư nhân triển khai các dự án PPP. Sự đồng thuận và ủng hộ 9 NL4 của nhân dân địa phương. Rủi ro của dự án được xác 10 CS1 định chuẩn xác, đầy đủ và cụ thể. Sự phân bổ hợp lý rủi ro 11 CS2 của dự án giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước. Sự phân bổ rủi ro của dự án trên cơ sở đồng thuận giữa 12 CS3 khu vực tư nhân và khu vực nhà nước. Sự cam kết tham gia bằng nguồn lực tốt nhất của các 13 CS4 tổ chức, cá nhân trong triển khai dự án PPP. Tính trách nhiệm của các 14 CS5 tổ chức và cá nhân tham gia dự án PPP. PL 37 Trách nhiệm của mỗi bên 15 CS6 tham gia được chia sẻ hợp lý. Trách nhiệm của mỗi bên 16 CS7 tham gia được xác định cụ thể. Lợi ích và chi phí được xem xét và tính toán đầy đù, đảm 17 TH1 bảo lợi ích cho Nhà nước và người sử dụng dịch vụ. Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án có phân tích chi 18 TH2 tiết và cụ thể yếu tố kỹ thuật của dự án. Tính khả thi kỹ thuật của dự án là tiêu chí đánh giá quan 19 TH3 trọng để lựa chọn thực hiện dự án PPP. Tổ chức đấu thầu đảm bảo 20 TH4 nguyên tắc cạnh tranh. Các thông tin về đấu thầu 21 TH5 được cung cấp công khai, đầy đủ và kịp thời. Các thông tin về quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng 22 TH6 PPP được công khai rộng rãi và đầy đủ. PL 38 Dự án được theo dõi, giám 23 TH7 sát và quản lý sát sao và hiệu quả. Năng lực và sự phối hợp của các đơn vị: Sở Giao thông Vận tải, Ban Quản lý dự án công trình giao thông 24 TH8 Thành phố Hà Nội, UBND các quận huyện… trong tổ chức thực hiện các dự án PPP giao thông. C. Thông tin cơ bản của ngƣời đƣợc khảo sát Ông/Bà vui lòng cho biết các thông tin cá nhân bằng cách đánh dấu × vào phương án phù hợp: 1. Độ tuổi: 31-40 41-50□ 51-60□ Trên 61□ 2. Trình độ học vấn: Tốt nghiệp phổ thông □ Cử nhân □ Thạc sỹ □ Tiến sỹ □ 3. Ông/Bà tham gia vào quá trình dự án PPP với vai trò là: QLNN □ Nhà nghiên cứu □ NĐT □ Tổ chức tín dụng □ 4. Số dự án PPP mà Ông/Bà đã tham gia/nghiên cứu: Từ 1-3 □ 3-5 □ 5-10 □ Nhiều hơn 10 □ 5. Số năm kinh nghiệm nghiên cứu hoặc làm việc về PPP của Ông/Bà: Dưới 5 năm □ 6-10 năm □ 11-15 năm □ Trên 16 năm □ Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của Ông/Bà! PL 39 Phụ lục 5: Quy trình dự án hợp tác công tƣ Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà NộiTT Mã
Nội dung
Đồng ý
Rất
đồng ý
Phân
vân
Không
đồng ý
Rất
không
đồng ý
STT Mã
Nội dung
Ảnh
hƣởng
Rất
ảnh
hƣởng
Ít
ảnh
hƣởng
Không
ảnh
hƣởng
Rất
không
ảnh
hƣởng
STT Mã
Nội dung
Ảnh
hƣởng
Rất
ảnh
hƣởng
Ít
ảnh
hƣởng
Không
ảnh
hƣởng
Rất
không
ảnh
hƣởng
STT Mã
Nội dung
Ảnh
hƣởng
Rất
ảnh
hƣởng
Ít
ảnh
hƣởng
Không
ảnh
hƣởng
Rất
không
ảnh
hƣởng
STT Mã
Nội dung
Ảnh
hƣởng
Rất
ảnh
hƣởng
Ít
ảnh
hƣởng
Không
ảnh
hƣởng
Rất
không
ảnh
hƣởng
STT Mã
Nội dung
Ảnh
hƣởng
Rất
ảnh
hƣởng
Ít
ảnh
hƣởng
Không
ảnh
hƣởng
Rất
không
ảnh
hƣởng