BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HIỆP

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HIỆP

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Mã số : 60 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. BÙI QUANG TUẤN

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết

quả trong luận văn này là trung thực.

Tác giả Nguyễn Thị Hiệp

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự

giúp đỡ tận tình của các Thầy, Cô tại Học viện Hành chính Quốc gia và của

các đồng chí cán bộ Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung, Tổng cục Địa

chất và Khoáng sản Việt Nam nói riêng.

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy, cô, các đồng chí

lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp đã dành sự quan tâm giúp đỡ tận tình trong

suốt 02 năm qua.

Đặc biệt trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi

Quang Tuấn đã tận tình hình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn

thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2017

Tác giả

Nguyễn Thị Hiệp

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT KT TNKS : Khai thác tài nguyên khoáng sản

KT - XH : Kinh tế - xã hội

QLNN Quản lý nhà nước

QPPL : Quy phạm pháp luật

TNKS : Tài nguyên khoáng sản

UBND : Ủy ban nhân dân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .............................................1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .............................3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn...............6 6. Ý nghĩa của luận văn ...........................................................................7

7. Kết cấu của luận văn............................................................................7

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHAI

THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN .............................................8 1.1. Tài nguyên khoáng sản..........................................................................8 1.1.1. Các khái niệm ................................................................................8 1.1.2. Những đặc điểm của tài nguyên khoáng sản...................................9 1.1.3. Quyền sở hữu về tài nguyên khoáng sản ......................................12 1.1.4. Vai trò của khai thác tài nguyên khoáng sản đối với phát triển

kinh tế - xã hội ............................................................................14 1.2. Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản .....................16 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản .......16 1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản.................................................................................17

1.2.3. Yêu cầu và nguyên tắc quản lý nhà nước đối với khai thác tài

nguyên khoáng sản ....................................................................17

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản .....18 1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước đối với khai thác tài nguyên

khoáng sản.................................................................................21

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản ..............................................................................23

1.3.1. Các yếu tố khách quan................................................................24 1.3.2. Các yếu tố chủ quan ...................................................................26 1.4. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản .........27

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI

NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM.......................................38

2.1. Tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản .................38 2.2. Tình hình thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động khai

thác tài nguyên khoáng sản .................................................................42

2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với khai thác tài

nguyên khoáng sản ..............................................................................55

2.3.1. Những kết quả đạt được ...............................................................56 2.3.2. Những hạn chế trong quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản......................................................................58 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế..................................................65

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN VIỆT NAM .................................................................................73 3.1. Bối cảnh sắp tới....................................................................................73 3.2. Quan điểm, mục tiêu............................................................................74 3.2.1. Các quan điểm cơ bản..................................................................75 3.2.2. Các mục tiêu ................................................................................76 3.2.3. Mục tiêu cụ thể ............................................................................77 3.2.4. Yêu cầu công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực khai thác

khoáng sản trong điều kiện hiện nay ...........................................78

3.3. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản ..............................................................................78 3.3.1. Nhóm giải pháp về thể chế chính sách .........................................79 3.3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện...........................................81 3.3.3. Nhóm giải pháp về nguồn lực ......................................................83

3.3.4. Tham gia sáng kiến minh bạch công nghiệp khai thác khoáng

sản (gọi tắt là EITI) .....................................................................84 3.3.5. Giải pháp khác.............................................................................86 KẾT LUẬN.....................................................................................................88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................90

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Theo quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, tài nguyên khoáng sản là “tài sản công” thuộc sở

hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tài

nguyên khoáng sản là tài sản hữu hình và là một nguồn lực quan trọng để phát

triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu,

Nhà nước phải tổ chức quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng có hiệu quả khoáng

sản để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú, đa dạng với

trên 5.000 mỏ và điểm quặng của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Trong

đó có một số loại khoáng sản được dự báo có trữ lượng lớn như bôxít, titan,

đá nguyên liệu xi măng v.v... Tuy nhiên, khoáng sản là hữu hạn, hầu hết

không tái tạo, chính vì vậy việc khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản phải

tiết kiệm, có hiệu quả nhằm phát huy tối đa nguồn lực này cho mục tiêu phát

triển trước mắt cũng như lâu dài.

Công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoán sản đã đạt

được một số kết quả đáng kể trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế cho thấy

vẫn còn khá nhiều tồn tại hạn chế, bất cập trong công tác này. Hệ thống văn

bản quy phạm pháp luật về khoáng sản cơ bản đã khá đầy đủ nhưng còn nhiều

khó khăn, vướng mắc khi thực hiện; hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước

về khoáng sản từ Trung ương đến địa phương chưa hoàn thiện, hoạt động hiệu

quả chưa cao, lực lượng cán bộ làm công tác QLNN về khoáng sản chưa đáp

ứng được về số lượng và yêu cầu chuyên môn; thông tin, số liệu cơ bản về

nguồn lực khoáng sản chưa được quản lý tốt, chặt chẽ, nhất là đối với thông

tin, số liệu kiểm kê trữ lượng, sản lượng khai thác thực tế, tổn thất khoáng sản

2

thực tế..., các tổ chức, cá nhân tham gia khai thác khoáng sản chưa nhận thức

đầy đủ và chưa thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong hoạt động quản lý tài

nguyên khoáng sản.

Ngoài ra khai thác khoáng sản còn phải đối mặt với nhiều thách thức về

kinh tế xã hội của cộng đồng dân cư vùng khai khoáng, trong quá trình khai

thác vẫn còn tình trạng doanh nghiệp khai báo trữ lượng không trung thực;

khai thác tài nguyên khoáng sản một cách bừa bãi, thất thoát, gây ô nhiễm

môi trường, cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên khoáng sản, tình trạng khai thác

khoáng sản không có giấy phép gia tăng gây bức xúc trong dư luận xã hội...

Sản phẩm khai thác chế biến khoáng sản ở Việt Nam phần lớn mới

dừng lại ở sản phẩm thô chủ yếu để xuất khẩu, giá trị và hiệu quả sử dụng

thấp, chưa tương xứng với giá trị tài nguyên của khoáng sản khai thác nếu

được đầu tư chế biến sâu hơn. Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản luôn

đi liền với các tác nhân gây tác hại và ô nhiễm đến môi trường ở các mức độ

khác nhau như làm xuất hiện khối lượng chất thải lớn, trong đó có một số chất

thải nguy hiểm; gây ô nhiễm không khí và nguồn nước; phá vỡ chu kỳ thủy

văn; làm mất đa dạng sinh học; tàn phá rừng; làm sa mạc hóa và nghèo hóa

vùng đất, phá hoại cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa….nảy sinh

các mâu thuẫn và xung đột xã hội như: tranh chấp tài nguyên; tranh chấp về

đất đai, đền bù….

Để đảm bảo phát triển bền vững, Việt Nam cần có những chính sách

quản lý nhà nước để điều chỉnh hợp lý về khung pháp lý cũng như tổ chức

quản lý ngành khai khoáng theo hướng sử dụng tài nguyên khoáng sản hợp lý,

tiết kiệm, hiệu quả, hài hòa các lợi ích, vần đề môi trường, giải quyết mâu

thuẫn giữa nhu cầu phát triển và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy tác giả luận

văn đã lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản

ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.

3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Quản lý nhà nước nói chung và QLNN về khai thác tài nguyên khoáng

sản là một trong những vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả,

với nhiều công trình đề cập đến ở nhiều khía cạnh, nội dung khác nhau được

nghiên cứu dưới dạng chuyên đề, báo cáo được đăng tải trên các báo, tạp chí

và một số công trình nghiên cứu khác như luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ...

- Cuốn “Bàn về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong

thời kỳ mới” (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2007) với mục đích phát huy vai trò của

nhà nước trong việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế- xã hội. Trong

đó, các chuyên gia nhấn mạnh: nhà nước cần xây dựng được hệ thống pháp luật

rõ ràng, tạo môi trường pháp lý thuận lợi và bình đẳng cho các chủ thể, các thành

phần kinh tế hoạt động. Việc lựa chọn các chính sách khác nhau và mang đến

hiệu quả kinh tế-xã hội khác nhau là do năng lực của các thể chế chính trị quyết

định. Tuy nhiên, vai trò của nhà nước là phải tạo ra môi trường dân chủ trong

quá trình lựa chọn, hoạch định và thực hiện các chính sách.

- Luận án tiến sĩ kinh tế (của tác giả Trần Anh Tài, 1996) “Vai trò quản

lý của nhà nước trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt

Nam” tác giả đã phân tích tính đặc thù chuyển sang nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam. Luận án đã đi sâu nghiên cứu vai trò của nhà nước trong việc tạo

lập cơ chế quản lý, ổn định và tăng trưởng kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng

kỹ thuật và để xuất mộ số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước

trong qua trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.

- Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất cơ chế nâng

cao hiệu quả quản trị tài nguyên khoảng sản” (2014) của Tổng cục Địa chất

và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nhóm tác giả đã

tiến hành nghiên cứu, khảo sát thực tế đi sâu đánh giá tình hình thực hiện

công tác quản trị tài nguyên khoáng sản trong thời gian qua để làm rõ những

4

mặt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn

chế. Làm rõ các quy định của pháp luật về khoáng sản liên quan đến công tác

“quản trị TNKS”; phân tích những nội dung cần hoàn thiện nhằm nâng cao

hiệu quả “quản trị TNKS”. Từ đó đề xuất cơ chế hợp lý, hiệu quả hơn để quản

trị tốt hơn TNKS của Việt Nam trong thời gian tới.

- Báo cáo nghiên cứu “Thực trạng và cơ hội nâng cao hiệu quả quản lý nguồn thu từ khai thác khoáng sản tại Việt Nam (2015) của nhóm tác giả: TS. Lê Quang Thuận, PGS. TS. Lê Xuân Trường và Th.S Trần Thanh Thủ

thuộc Trung tâm Con người và Thiên Nhiên. Nghiên cứu được thực hiện dựa

trên việc rà soát các chính sách thu hiện hành, đánh giá công tác quản lý thu

liên quan đến lĩnh vực tài nguyên tại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm

quốc tế nhằm làm rõ những mặt tích cực và hạn chế trong việc quản lý thu ở

Việt Nam. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất, kiến nghị hoàn thiện chính sách

thu và công tác quản lý thu theo hướng khuyến khích khai thác tài nguyên tiết

kiệm, đồng thời đảm bảo huy động và sử dụng hiệu quả nguồn thu từ khai

thác tài nguyên, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Báo cáo

đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề về hệ thống chính sách thu đặc thù cho lĩnh

vực khai thác khoáng sản ở Việt Nam có những điểm gì khác biệt so với một

số quốc gia trong khu vực. Đánh giá sự phù hợp về mức thu các khoản đóng

góp trong lĩnh vực khai thác khoáng sản theo quy định chính sách của Việt

Nam và hiệu quả thu ngân sách từ khai thác khoáng sản ở Việt Nam. Các lỗ

hổng trong chính sách hoặc công tác quản lý thu. Ngân sách từ khai thác tài

nguyên đã được quản lý và sử dụng như thế nào và từ đó đề xuất các giải

pháp nhằm tăng hiệu quả thu và quản lý ngân sách từ khai thác tài nguyên.

- Báo cáo kết quả rà soát hành lang pháp lý về tính minh bạch trong

hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam (2013) của Tiến sĩ Lại Hồng

Thanh, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi

5

trường. Trên cơ sở rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt

Nam về khoáng sản (Luật Khoáng sản và các văn bản có liên quan) từ khâu

điều tra cơ bản đến thăm dò và đặc biệt là khai thác khoáng sản. Trên cơ sở

đó, đề xuất những nội dung cơ bản cần bổ sung, điều chỉnh, quy định mới

trong quá trình hoàn thiện pháp luật về khoáng sản trong thời gian tới.

Mặc dù, các công trình đã đề cập đến những khía cạnh nhất định của

quản lý nhà nước về lĩnh vực khoáng sản và khai thác tài nguyên khoáng sản.

Có thể khẳng định rằng, cho đến thời điểm này chưa có nhiều công trình đề

cập làm rõ đến vấn đề “Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản

ở Việt Nam” một cách hệ thống từ góc độ của quản lý công. Do đó, các đề

xuất giải pháp chưa giải quyết hết được các vấn đề hạn chế, tồn tại hiện nay.

Vì thế, tác giả luận văn chọn đề tài “Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản ở Việt Nam” với góc độ tiếp cận riêng và không bị trùng lặp với

các công trình đã công bố.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở xem xét thực trạng QLNN về tài nguyên khoáng sản trong

giai đoạn vừa qua, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác

quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài xác định các nhiệm

vụ nghiên cứu cần phải thực hiện là:

- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề chung về quản lý nhà nước đối

với khai thác tài nguyên khoáng sản.

- Làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng

sản ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2002-2016, chỉ ra những hạn chế và nguyên

nhân của hạn chế.

6

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về khai

thác tài nguyên khoáng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về khai thác

tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: trong phạm vi toàn quốc;

- Về thời gian: chủ yếu số liệu nghiên cứu giai đoạn từ năm 2002 đến

năm 2016

- Về nội dung: Luận văn tập trung phân tích việc tổ chức thực hiện các

nội dung QLNN thuộc chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể QLNN là các cơ

quan nhà nước (Chính phủ, các Bộ, UBND các cấp, các sở , phòng, ban) đối

với các đối tượng quản lý (người dân, doanh nghiệp, cộng đồng, các loại hình

tổ chức khác và cả xã hội) trong hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử để xem xét vấn đề quản lý nhà nước đối với tài

nguyên khoáng sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng.

5.2. Nguồn số liệu

Tác giả đã sử dụng nguồn số liệu thứ cấp, từ các kết quả khảo sát, báo cáo

của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

5.3. Phương pháp xử lý số liệu

Tác giả đã sử dụng các phương pháp xử lý số liệu cụ thể như sau:

- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Thông qua phân tích các tài liệu chính

thức và không chính thức, từ các tài liệu được công bố, các báo cáo, thống kê

7

của Tổng Cục Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và

Môi trường, các bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành và một số trang

Website... có liên quan tới vấn đề QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản;

- Phân tích, thống kê,: tác giả đã tiến hành thống kê số liệu, văn bản liên

quan về hoạt động khoáng sản và QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản của

Chính phủ, Bộ Tài nguyên Môi trường, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt

Nam và một số bài viết, báo cáo khoa học khác. Từ đó phân tích thực trạng

QLNN đối với lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản trong phạm vi toàn quốc.

- So sánh, tổng hợp: tác giả so sánh các thông tin, số liệu liên quan tới

vấn đề nghiên cứu để thấy được sự thay đổi trong công tác QLNN về khai

thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam trong thời gian qua.

6. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn này có ý nghĩa thực tiễn ở chỗ, luận văn đã đánh giá được

hiện trạng hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực khai thác tài nguyên

khoáng sản làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp để góp phần hoàn thiện

công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn được kết cầu thành 03 chương như sau:

Chương 1. Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với khai thác tài

nguyên khoáng sản.

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng

sản ở Việt Nam.

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản Việt Nam.

8

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHAI

THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN

1.1. Tài nguyên khoáng sản

1.1.1. Các khái niệm

* Khái niệm “Tài nguyên khoáng sản”

Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa “Tài nguyên là nguồn của cải thiên

nhiên chưa khai thác hoặc đang tiến hành khai thác”.

Tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn

chất trong vỏ trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra

các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày.

Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ

khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển

kinh tế của loài người và khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có tác động

mạnh mẽ đến môi trường sống. Một mặt, tài nguyên khoáng sản là nguồn vật

chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải của con người. Bên cạnh đó,

việc khai thác tài nguyên khoáng sản thường tạo ra các loại ô nhiễm như bụi,

kim loại nặng, các hóa chất độc và hơi khí độc (SO2, CO, CH4 v.v...).

Tài nguyên khoáng sản được phân loại theo nhiều cách:

- Theo dạng tồn tại: Rắn, khí (khí đốt, Acgon, He), lỏng (Hg, dầu,

nước khoáng).

- Theo nguồn gốc: Nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh

(sinh ra trên bề mặt trái đất).

- Theo thành phần hóa học: khoáng sản kim loại (kim loại đen, kim loại

màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng, đá quý, vật

liệu xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá cháy).

9

* Khái niệm “Khai thác tài nguyên khoáng sản”

Theo quy định tại khoản 7 Điều 2 Luật khoáng sản năm 2010, khái

niệm “Khai thác khoáng sản” là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm

xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có

liên quan.

Khai thác khoáng sản là hoạt động có sự tham gia của tất cả các chủ thể

liên quan đến khoáng sản gồm: Nhà nước - Người dân - Doanh nghiệp. Kết

quả của hoạt động này là chuyển hóa khoáng sản từ ở dạng “tiềm năng” thành

hàng hóa; là giai đoạn chuyển hóa giá trị “tiềm năng” của khoáng sản thành

giá trị hiện thực, đem lại nguồn lợi thực tế cho phát triển kinh tế - xã hội đất

nước cũng như doanh nghiệp và người dân. Do đó, hoạt động này cần có sự

quản lý, giám sát chặt chẽ để tài sản do thiên nhiên ban tặng được khai thác,

sử dụng một cách có hiệu quả nhất.

1.1.2. Những đặc điểm của tài nguyên khoáng sản

Để làm rõ vấn đề QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản cũng cần

đánh giá đầy đủ những đặc điểm chung cũng như đặc điểm riêng của tài sản

“khoáng sản”, các đặc điểm này đó là:

- Tính hữu hạn, không tái tạo: Khoáng sản được hình thành tích tụ

trong quá trình hoạt động địa chất rất lâu dài hàng triệu năm trước đó và

không phải là vô hạn. Hầu hết các loại khoáng sản (trừ một số loại khoáng sản

như nước khoáng, nước nóng thiên nhiên) khi đã được khai thác để sử dụng

đều “không thể tái tạo”. Chính vì vậy, khi khai thác, sử dụng khoáng sản

trong từng thời kỳ cần cân nhắc kỹ để tối đa hóa lợi ích phục vụ phát triển

kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Nói cách khác, khoáng sản phải

được khai thác, sử dụng triệt để, hợp lý, tiết kiệm có hiệu quả cao nhất.

- Tính rủi ro địa chất: Khi đầu tư kinh doanh vào bất kỳ lĩnh vực nào

cũng đều có những rủi ro ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, đầu tư vào lĩnh vực

10

khoáng sản có mức độ rủi ro cao hơn bởi có một rủi ro khác xuất phát từ đặc

điểm của loại tài sản này. Mỏ khoáng sản là thực tại khách quan, nằm ngoài ý

muốn của con người. Khi thực hiện các hoạt động như điều tra, đánh giá, thăm

dò khoáng sản là con người mong muốn có các thông tin đầy đủ hơn về mỏ

khoáng sản đó trước khi đầu tư khai thác. Tuy nhiên, trong thực tế, kể cả trong

trường hợp một mỏ khoáng sản đã được thăm dò tỉ mỉ thì vẫn có những khu

vực không có công trình thăm dò, khi khai thác sự thay đổi chiều dày, hàm

lượng v.v… và chất lượng, thậm chí không có quặng nằm ngay tại những khu

vực này. Đây chính là tính “rủi ro địa chất” của khoáng sản (nằm ngoài ý muốn

của con người). Tính rủi ro địa chất của các loại khoáng sản khác nhau cũng

khác nhau. Thường khoáng sản quý, hiếm có mức độ rủi ro cao hơn. Ngược lại,

những loại khoáng sản thông thường như khoáng sản làm vật liệu xây dựng có

độ rủi ro thấp hơn. Khoáng sản có độ rủi ro càng cao về địa chất thì mức độ

đầu tư cho hoạt động tìm kiếm, thăm dò cũng càng lớn và ngược lại. Đây là

đặc điểm cần quan tâm của khoáng sản không giống với các loại tài sản hữu

hình khác.

- Lợi thế so sánh (“địa tô chênh lệch”): Tương tự như đối với một số

loại tài nguyên thiên nhiên khác như tài nguyên đất, tài nguyên rừng, khi đầu

tư khai thác cùng loại khoáng sản nhưng mỏ có vị trí thuận lợi, có điều kiện

địa chất - mỏ thuận lợi hơn thì cũng có lợi thế hơn (chi phí sản xuất thấp hơn,

có lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình) so với các mỏ có điều kiện khó

khăn, phức tạp. Trường hợp này cũng tương tự như trong nông nghiệp khi sản

xuất trên mảnh đất có điều kiện tự nhiên khác nhau mà thường được gọi là

“địa tô chênh lệnh”. Lợi thế so sánh phụ thuộc vào đặc điểm mỏ khoáng sản,

thay đổi theo thời gian, không gian cũng như sự phát triển của trình độ khoa

học - công nghệ khai thác, chế biến loại khoáng sản đó. Cùng một loại khoáng

sản, cùng một điều kiện địa chất mỏ như nhau, nhưng mỏ có vị trí địa lý thuận

11

lợi (gần đường giao thông chính, gần các yêu cầu phải đáp ứng như: tài

nguyên nước, lao động v.v...) thì sẽ có chi phí thấp hơn, sinh ra lợi nhuận cao

hơn so với một mỏ khoáng sản cùng loại nhưng có vị trí không thuận lợi, nằm

ở vùng sâu, vùng xa, hạ tầng cơ sở vật chất, xã hội thấp kém v.v...

- Quan hệ hữu cơ với tài nguyên đất: Khoáng sản luôn gắn liền và có

quan hệ hữu cơ với tài nguyên đất. Khi khai thác khoáng sản luôn phải sử

dụng một diện tích đất mặt nhất định, kể cả khi khai thác khoáng sản bằng

phương pháp hầm lò. Do đó, khi giải quyết vấn đề sở hữu về khoáng sản,

cũng như khi đưa ra các giải pháp nhằm quản lý, bảo vệ tốt khoáng sản chưa

khai thác chúng ta cũng phải giải quyết cả vấn đề liên quan giữa quyền quản

lý, bảo vệ, khai thác khoáng sản với quyền sử dụng đất đai, những vấn đề về

lợi ích khác có liên quan.

- Quan hệ hữu cơ với tài nguyên nước: Tương tự như đối với tài

nguyên đất, khoáng sản cũng có mối quan hệ hữu cơ với tài nguyên nước. Khi

tiến hành khai thác một số loại khoáng sản, chúng ta phải sử dụng một lượng

nước mặt cũng như nước ngầm để phục vụ công tác khai thác (nước sinh hoạt,

nước phục vụ khai - tuyển v.v..). Trong nhiều trường hợp, thân khoáng sản

gắn liền với nguồn tài nguyên nước nên khi khai thác đã ảnh hưởng trực tiếp

tới nguồn tài nguyên nước nằm trong khu vực khai thác khoáng sản. Khi đó,

trong quá trình khai thác cũng phải giải quyết vấn đề pháp lý khi sử dụng, tác

động đến tài nguyên nước.

- Tính “đa dụng”, “đa mục đích”, “đa khoáng” và thay đổi giá trị

dụng theo thời gian, trình độ phát triển của khoa học công nghệ: Tùy theo

nhu cầu sử dụng của nền kinh tế quốc dân mà khoáng sản được sử dụng cho

các mục đích khác nhau. Đá vôi với chất lượng khác nhau có thể sử dụng để

rải đường, xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp hoặc dùng làm nguyên

liệu xi măng. Đá hoa trắng có chất lượng tốt, độ trắng cao được chế biến làm

12

đá vôi dạng bột, dạng hạt cung cấp làm phụ gia trong sản xuất giấy, cao su,

sơn v.v... Khoáng sản nói chung, nhất là khoáng sản kim loại thường là

khoáng sản đa khoáng nên cần sử dụng tổng hợp, hợp lý có hiệu quả các

khoáng vật, thành phần có ích đi kèm với khoáng sản chính. Mặt khác, một

loại khoáng sản khi nằm độc lập thì có thể được xem là khoáng sản chính nhưng

lại được coi là đất đá thải khi khai thác đồng thời với một loại khoáng sản khác.

Ví dụ: khi khai thác than lộ thiên, đá vôi hoặc đá vật liệu xây dựng thông thường

được coi là đất đá thải, nhưng nếu biết và sử dụng hợp lý thì nó lại là nguyên liệu

đầu vào cho mục đích khác như: rải đường, nguyên liệu sản xuất xi măng, v.v...

Hoặc, do trình độ công nghệ tuyển thấp, hàm lượng biên của quặng titan sa

khoáng (năm 1993) khoảng 10 -15 kg/m3, nhưng đến năm 2011, đã giảm xuống

còn khoảng 5 kg/m3 do trình độ tuyển khoáng đã phát triển.

- Tác động trực tiếp tới môi trường trong hoạt động khoáng sản: Hoạt

khai thác khoáng sản có tác động tiêu cực và trực tiếp tới môi trường, thậm

chí rất lớn (hủy hoại đất mặt, thủy sinh, môi trường nước, môi trường không

khí v.v...). Tác động này không chỉ ảnh hưởng trong phạm vi khu vực khai

thác khoáng sản mà còn ảnh hưởng tới phạm vi rộng lớn hơn ở xung quanh

hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản. Do đó, khi xây dựng các chế định

pháp lý quản lý khoáng sản cần phải giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan

đến môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.

1.1.3. Quyền sở hữu về tài nguyên khoáng sản

Xét về phương thức sản xuất, tài nguyên khoáng sản là tư liệu sản xuất,

một trong những yếu tố của lực lượng sản xuất, là một trong những nguồn lực

phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Với những cơ sở thực tiễn và pháp lý rõ

ràng, với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân có quyền làm chủ

đất nước, quyết định mọi vấn đề về phát triển đất nước, có quyền sở hữu đối

với những tài sản quốc gia. Để xây dựng và phát triển đất nước, nhân dân

13

không những có quyền mà cần phải nắm chắc các nguồn lực, các tài sản cơ

bản, quan trọng nhất của đất nước để việc sử dụng các nguồn lực, tài sản đó

một cách hiệu quả.

Như đã nêu trên, tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa

Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tài nguyên khoáng sản là “tài sản công” thuộc sở

hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Khi

nhân dân được là chủ sở hữu thực sự thì các nguồn lực, tài sản công mới có

khả năng phát huy cao độ sức mạnh của mình, mục tiêu xây dựng xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh mới có cơ hội thực hiện. Chính vì vậy, Điều 200 Bộ

luật Dân sự của Việt Nam cũng quy định các tài sản thuộc hình thức sở hữu

nhà nước, trong đó có “tài nguyên trong lòng đất”. Với tư cách là đại diện chủ

sở hữu toàn dân, Nhà nước thể chế hóa các quyền năng của chủ sở hữu trong

Luật khoáng sản (năm 1996, năm 2005 và mới đây nhất là Luật khoáng sản

năm 2010) và các văn bản dưới Luật được thể hiện trong những điều, khoản

quy định trong hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản.

Điều 1 Luật khoáng sản năm 2010 đã khẳng định “Luật này quy định

việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; bảo vệ khoáng sản chưa khai

thác; thăm dò, khai thác khoáng sản; quản lý nhà nước về khoáng sản trong

phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc

quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam”. Điều này chứng tỏ, chỉ có Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu về

TNKS mới có đủ quyền năng để quy định các quyền liên quan đến việc chiếm

dụng, sử dụng và định đoạt tài sản là khoáng sản như nội dung của Luật.

Xuất phát từ bản chất của khoáng sản mà các quyền năng của sở hữu

cũng khác nhau về hình thức và mức độ pháp lý khi nó chuyển hóa từ trạng

thái tự nhiên vốn có (chưa khai thác) sang giai đoạn đã được khai thác (được

đưa ra khỏi trạng thái tự nhiên). Cụ thể là:

14

- Khi khoáng sản chưa khai thác, chưa cấp phép thăm dò, khai thác cho

tổ chức, cá nhân: Tài nguyên khoáng sản hoàn toàn thuộc sở hữu toàn dân

(nói cách khác là thuộc sở hữu của Nhà nước). Theo đó, bất kỳ tổ chức, cá

nhân nào muốn thăm dò, khai thác khoáng sản phải được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền cho phép.

- Khi mỏ khoáng sản đã được cấp phép cho một tổ chức, cá nhân nào

đó để khai thác thì quyền sở hữu đối với khoáng sản phụ thuộc vào trạng thái

của loại khoáng sản đó. Theo đó, nếu khoáng sản nằm trong khu vực khai

thác của tổ chức, cá nhân nhưng chưa được khai thác, quyền định đoạt bị hạn

chế (không được tự quyết định việc chuyển nhượng, bán cho tổ chức cá nhân

khác mà phải được phép của cơ quan có thẩm quyền cấp phép); nếu đã khai

thác (khoáng sản không còn ở trạng thái tự nhiên - còn gọi là khoáng sản

nguyên khai) thì tổ chức, cá nhân đó có quyền tự quyết định bán cho tổ chức,

cá nhân theo thỏa thuận.

Như vậy, làm rõ bản chất về các quyền năng đối với tài sản là tài

nguyên khoáng sản có ý nghĩa quan trọng đối với việc đưa ra các chế định

pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên

khoáng sản.

1.1.4. Vai trò của khai thác tài nguyên khoáng sản đối với phát triển

kinh tế - xã hội

Khai thác tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội, thể hiện ở một số nội dung sau:

- Tài nguyên khoáng sản là một phần quan trọng trong các nguồn tài

nguyên thiên nhiên, sản phẩm của hoạt động khai thác khoáng sản là vật liệu

một nền tảng quan trọng cho sự phát triển của xã hội loài người. Vỏ trái đất

trữ lượng một khối lượng lớn tài nguyên khoáng sản và từ thời cổ đại đến nay,

nhân loại đã biết khai thác, chuyển đổi tài nguyên khoáng sản thành nguyên

15

liệu sản xuất ra các công cụ kim loại, máy móc và thiết bị, linh kiện, xe có

động cơ, các tế bào năng lượng mặt trời, tuabin gió, máy tính, internet, truyền

thông vệ tinh, và cả tên lửa; chúng xuất hiện trong thiết bị y tế và vô số các sản

phẩm khác cho phép loài người nâng cao chất lượng cuộc sống theo nhiều cách

khác nhau. Những sản phẩm được sản xuất từ tài nguyên khoáng sản đã trở nên

quen thuộc và trở thành một nhu cầu thiếu yếu đối với xã hội ngày nay.

- Bên cạnh việc trở thành những sản phẩm phục vụ cho cuộc sống, các

sản phẩm của tài nguyên khoáng sản thô là những thành phần cần thiết của

nền kinh tế toàn cầu của thế giới, nguyên liệu là cơ sở của tất cả các nền kinh

tế công nghiệp hiện đại. Tài nguyên khoáng sản là nguyên liệu để sản xuất các

sản phẩm giá trị gia tăng. Nếu một quốc gia không sở hữu hoặc không thể

nhập khẩu các tài nguyên khoáng sản làm nguyên liệu ban đầu thông qua con

đường thương mại quốc tế, quốc gia đó không thể sản xuất và xuất khẩu hàng

hóa hoặc sử dụng lực lượng lao động của mình một cách hiệu quả. Ví dụ:

phần lớn nền kinh tế Mỹ đã được xây dựng vào nguồn tài nguyên khoáng sản

trong nước, từ nguồn tài nguyên khoáng sản, người Mỹ xây dựng đường sắt,

tàu hỏa, máy bay, động cơ xe... Và từ các ngành công nghiệp, người Mỹ tạo

ra hàng triệu công ăn việc làm được trả lương cao và đào tạo cơ bản.

- Sự phát triển của nền kinh tế thế giới dẫn đến tăng trưởng tiêu thụ tài

nguyên khoáng sản trong suốt thế kỷ 20. Giữa năm 1960 và 1995, kinh tế thế

giới sử dụng tài nguyên khoáng sản gấp 2,5 lần. Tuy vậy tài nguyên khoáng

sản là nguồn tài nguyên hữu hạn, không tái tạo được vì vậy tất cả các nước

phát triển và đang phát triển trên thế giới phải đối mặt với những thách thức

từ thực tế là dân số và nền kinh tế tiếp tục phát triển nhưng nguồn tài nguyên

khoáng sản ngày càng cạn kiệt. Thách thức hiện nay đối với mỗi quốc gia và

toàn thế giới là để có được nguồn tài nguyên khoáng sản đủ cần thiết để duy

trì tăng trưởng kinh tế nhưng cũng cần phải đảm bảo phát triển bền vững và

bảo vệ môi trường.

16

1.2. Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản

Quản lý là một phạm trù xuất hiện trước khi có nhà nước với tính chất là

một loại lao động xã hội hay lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản

lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục tiêu đưa hệ thống đó đến trạng

thái cần đạt được. QLNN ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội, là

sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng

bị quản lý. Có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về quản lý nhưng

cách hiểu chung nhất là “quản lý là sự tác động có tổ chức, có đích hướng của

chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu dự kiến”.

Quản lý xã hội là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy

nhà nước cùng với sự tác động của các chủ thể xã hội khác lên xã hội nhằm duy

trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu đã lựa chọn.

Quản lý nhà nước là “một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính

quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành

vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ

quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự

ổn định và phát triển của xã hội”. Nội hàm QLNN xuất hiện cùng với sự ra

đời của Nhà nước, đó là quản lý toàn xã hội. QLNN thay đổi phụ thuộc vào

các chế độ chính trị, lịch sử và đặc điểm văn hóa, trình độ phát triển kinh

tế-xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Hay nói cách khác

QLNN là tất cả các hoạt động được thực hiện bởi cơ quan nhà nước bao

gồm hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản là sự tác động có

hướng đích, có tổ chức của hệ thống cơ quan QLNN về khoáng sản đến các cá

nhân, doanh nghiệp, tổ chức bằng các công cụ, nguyên tắc và phương pháp quản

lý, nhằm hướng hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản phù hợp với mục tiêu

phát triển bền vững.

17

1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản

Khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại, đến nay đã phát hiện,

điều tra, đánh giá trên 60 loại khoáng sản, trong đó có một số loại khoáng sản

có quy mô lớn, phân bố tập trung, nhưng công tác điều tra cơ bản, thăm dò,

khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản cho đến nay còn nhiều bất cập.

Để đảm bảo tính ổn định và bền vững cho sự nghiệp phát triển kinh tế

xã hội của đất nước, để việc thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản hợp lý,

tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

đảm bảo an ninh, quốc phòng việc quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản là rất cần thiết. Nhờ đó chúng ta mới đảm bảo việc khai thác và sử

dụng tài nguyên quốc gia hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan, tính kế thừa

cho tương lai và vì mục tiêu môi trường và xã hội.

1.2.3. Yêu cầu và nguyên tắc quản lý nhà nước đối với khai thác tài

nguyên khoáng sản

* Yêu cầu QLNN đối với khai thác tài nguyên khoáng sản

Yêu cầu của công tác QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản là

phải quy hoạch, thăm dò khoáng sản; bảo vệ khoáng sản chưa khai thác;

điều tra cơ bản, thăm dò về khoáng sản; phê duyệt trữ lượng khoáng sản;

cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản; thanh tra kiểm tra và giám sát đầy

đủ theo đúng quy định của pháp luật khoáng sản ở từng địa phương theo

các cấp hành chính. Bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với tài nguyên

khoáng sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân vùng có khai

thác khoáng sản; Đảm bảo sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản của quốc

gia; Tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên khoáng sản; Bảo vệ tài

nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường và phục hồi môi trường trong khai

thác sử dụng tài nguyên khoáng sản.

18

* Nguyên tắc QLNN đối với khai thác tài nguyên khoáng sản

- Hoạt động khai thác khoáng sản phải phù hợp với chiến lược, quy

hoạch khoáng sản, gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích

lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác;

bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

- Chỉ được tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản khi được cơ quan

quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép.

- Thăm dò khoáng sản phải đánh giá đầy đủ trữ lượng, chất lượng các

loại khoáng sản có trong khu vực thăm dò.

- Khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi

trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; áp dụng công nghệ khai

thác tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu

hồi tối đa khoáng sản.

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản

Nguồn tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác, chế biến, sử

dụng gắn với nhiều đối tượng và là nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành

công nghiệp. Vì vậy, việc quản lý nguồn tài nguyên khoáng sản được nhà

nước ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể về quản lý khai thác tài

nguyên khoáng sản để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.

- Điều tra nguồn khoáng sản tài nguyên quốc gia, xây dựng chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch về huy động các nguồn tài nguyên khai thác. Đây là nhiệm

vụ hàng đầu nhằm nắm được địa điểm, phân bố, trữ lượng, giá trị kinh tế, điều

kiện tàng trữ từ đó nhà nước hướng dẫn tổ chức nhân dân thăm dò, khai thác.

- Điều tra khoáng sản phải tuân thủ trình tự từ sơ bộ đến chi tiết, từ diện

đến điểm, từ trên mặt đến phần sâu; Điều tra, thăm dò khoáng sản đòi hỏi

kinh phí lớn nhưng có tính rủi ro cao. Do vậy, phải điều tra từng bước, lựa

chọn đúng đắn đối tượng, diện tích hợp lý và xác định hợp lý mức độ đầu tư.

19

- Điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản bao gồm: Lập bản

đồ địa chất các tỉ lệ khác nhau; Đánh giá tiềm năng khoáng sản tại các diện

tích cụ thể.

- Điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản nhằm mục đích:

nhận thức được cấu trúc địa chất của phần vỏ trái đất, nơi chúng ta đang sống

và phát triển lâu dài; đánh giá được tiềm năng khoáng sản trên một số diện

tích cụ thể, phát hiện các mỏ khoáng.

Sau khi điều tra cơ bản, nhà nước đặt hàng đối với các cơ quan chuyên

môn trong và ngoài nước để thăm dò, điều tra hoặc tổ chức lực lượng trực tiếp

thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản và nhà nước phải trực tiếp quản lý.

Hoạt động khoáng sản bao gồm các hoạt động: khảo sát, thăm dò, khai thác

và chế biến khoáng sản:

- Hoạt động khảo sát khoáng sản: Khảo sát khoáng sản là hoạt động

nghiên cứu tư liệu địa chất về tài nguyên khoáng sản, khảo sát thực địa

nhằm khoanh định khu vực có triển vọng để thăm dò khoáng sản. Như vậy,

khảo sát khoáng sản là hoạt động được tiến hành trước giai đoạn thăm dò

khoáng sản. Khi khảo sát không tiến hành thi công các công trình địa chất

như đào hào, giếng hoặc khoan thăm dò, mà chủ yếu là nghiên cứu tài liệu,

khảo sát thực địa hoặc thực hiện các công nghiệp vụ khác ngoài thực địa.

Kết quả có được khi kết thúc giai đoạn khảo sát là cơ sở cho giai đoạn thăm

dò khoáng sản.

- Hoạt động thăm dò khoáng sản: là hoạt động nhằm tìm kiếm, phát

hiện, xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản, điều kiện kỹ thuật khai thác,

kể cả việc lấy, thử nghiệm mẫu công nghệ và nghiên cứu khả thi về khai thác

khoáng sản.

Để xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản cũng như xác định

những yếu tố kỹ thuật - công nghệ khai thác, khi tiến hành thăm dò phải tiến

20

hành các công việc chính như: thi công các công trình địa chất (hào, giếng,

khoan thăm dò v.v..) và các công tác nghiệp vụ khác. Kết quả của hoạt động

thăm dò là cơ sở quan trọng để thực hiện các công việc tiếp theo cho giai

đoạn nghiên cứu khả thi, thiết kế khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, thăm dò

khoáng sản có các đặc điểm: mức đầu tư tương đối lớn, không thể thực hiện

trong thời gian ngắn; tính rủi ro cao, nhất là đối với khoáng sản kim loại phân

bố trong các cấu trúc địa chất phức tạp.

- Hoạt động khai thác khoáng sản: Khai thác khoáng sản là hoạt động

xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, sản xuất và các hoạt động có liên quan trực

tiếp nhằm thu hồi khoáng sản từ lòng đất. Đây là hoạt động được tiến hành

sau khi đã có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền và được tính từ khi mỏ bắt đầu xây dựng cơ bản (hay còn gọi là mở

mỏ), khai thác bình thường theo công suất thiết kế, cho đến khi mỏ kết thúc

khai thác (đóng cửa mỏ - phục hồi môi trường).

- Hoạt động chế biến khoáng sản: Chế biến khoáng sản là hoạt động

phân loại, làm giàu khoáng sản và các hoạt động khác nhằm làm tăng giá trị

khoáng sản đã khai thác. Thông thường, một doanh nghiệp tiến hành hoạt động

chế biến khoáng sản cùng với hoạt động khai thác khoáng sản (ví dụ: khai thác

đá nguyên khai sau đó thực hiện công tác nghiền sàng, phân loại đá).

- Hoạt động khai thác tận thu khoáng sản: Khai thác tận thu là hình

thức khai thác lại, khai thác tại bãi thải ở các mỏ đã có quyết định đóng cửa

để thanh lý (do khai thác hết trữ lượng khoáng sản).

- Trên cơ sở đó tập hợp, hệ thống hóa, lưu trữ tài liệu, thông tin về

nguồn tài nguyên khoáng sản quốc gia, cân đối giữa khai thác và chế biến,

giữa xuất và nhập khẩu đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và

tăng nguồn vốn cho kinh tế - xã hội bằng các tài nguyên khoáng sản có thế

mạnh trên thị trường quốc tế.

21

Từ các hoạt động nêu trên, QLNN về khai thác TNKS bao gồm các nội

dung cụ thể như sau:

Một là, Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật

về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản.

Hai là, Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách quản lý khai

thác tài nguyên khoáng sản.

Ba là, Điều tra, đánh giá nguồn khoáng sản tài nguyên quốc gia, làm rõ

tiềm năng tài nguyên khoáng sản để lập quy hoạch thăm dò, khai thác, chế

biến, sử dụng khoáng sản và dự trữ quốc gia.

Bốn là, Cấp, thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản.

Năm là, Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành Luật Khoáng sản;

giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về quản lý khoáng sản; xử lý các

vi phạm pháp luật trong hoạt động khoáng sản.

Sáu là, Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý khai thác tài nguyên

khoáng sản; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ

và quản lý tài nguyên khoáng sản.

Bảy là, Tổ chức nghiên cứu, áp dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh

vực điều tra và khai thác khoáng sản.

Tám là, Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực quản lý khai thác khoáng sản.

1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước đối với khai thác tài nguyên

khoáng sản

Quản lý là sự tác động đến nhận thức và hành vi của con người. Trên

thực tế, có hai khả năng tác động: Khả năng thứ nhất là sử dụng tổng hợp

những biện pháp và cách thức khác nhau để bắt buộc thực hiện hành vi xử sự

cần thiết một cách tự giác. Khả năng thứ hai là sử dụng tổng hợp những biện

pháp và cách thức khác nhau để bắt buộc thực hiện hành vi xử sự cần thiết.

Kết hợp những khả năng này dẫn đến hình thành những phương pháp quản lý

hành chính.

22

Quản lý nhà nước về khai thác TNKS là quản lý hành chính nhà nước.

Do vậy, các chủ thể hành chính nhà nước, trong quá trình tổ chức và hoạt

động của mình sử dụng rất nhiều phương pháp quản lý. Có những phương

pháp của các ngành khoa học khác mà khoa học quản lý vận dụng và có

những phương pháp đặc thù của hành chính nhà nước. Trong quá trình quản

lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản, các chủ thể quản lý hành

chính nhà nước sử dụng các phương pháp đặc thù sau đây:

- Phương pháp giáo dục: Phương pháp giáo dục là cách tác động vào

nhận thức của con người trong tổ chức, nhằm nâng cao tính tự giác và khả

năng lao động của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ.

Các phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật nhận

thức của con người. Đặc trưng của các phương pháp này là tính thuyết phục,

tức là giúp cho con người phân biệt được phải – trái, đúng – sai, lợi - hại, đẹp

- xấu, thiện – ác. Trên cơ sở nhận thức đúng, họ sẽ hành động đúng, có lương

tâm, có trách nhiệm.

- Phương pháp tổ chức: Phương pháp này là cách thức tác động lên con

người thông qua mối quan hệ tổ chức nhằm đưa con người vào khuôn khổ, kỷ

luật, kỷ cương.

Phương pháp này áp dụng thông qua 2 hướng. Một là, các cơ quan

hành chính nhà nước thành lập các tổ chức hoặc cho phép thành lập các tổ

chức và kiểm soát hoạt động của các tổ chức này. Hai là, trong từng cơ quan

hành chính nhà nước phải xây dựng quy chế, quy trình, nội dung hoạt động

của cơ quan, bộ phận, cá nhân và kiểm tra, xử lý kết quả thực hiện một cách

dân chủ, công bằng.

- Phương pháp kinh tế: Phương pháp kinh tế là cách thức tác động vào đối

tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế, để cho đối tượng bị quản lý tự lựa

chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.

23

Tác động thông qua lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lực thúc đẩy

con người tích cực hoạt động. Thực chất của các phương pháp kinh tế là đạt

mỗi người, mỗi bộ phận vào những điều kiện kinh tế để họ có khả năng kết

hợp đúng đắn lợi ích của mình với lợi ích của tổ chức, cho phép con người lựa

chọn con đường có hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ của mình.

Áp dụng phương pháp kinh tế thông qua sử dụng các đòn bẩy kinh tế

như: tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, giá cả, thuế, chính sách tiền tệ, tỷ giá

hối đoái,…

- Phương pháp hành chính: Phương pháp hành chính là cách thức tác

động trực tiếp của các chủ thể hành chính nhà nước lên đối tượng bằng các

quyết định hành chính mang tính bắt buộc

Vai trò của phương pháp hành chính trong quản lý rất to lớn, nó xác lập

trật tự kỷ cương làm việc trong hành chính nhà nước, khâu nối các phương

pháp quản lý khác và giải quyết các vấn đề đặt ra trong hành chính nhà nước

rất nhanh chóng. Không có phương pháp hành chính thì không thể quản lý hệ

thống có hiệu lực.

Phương pháp này dựa trên mối quan hệ quyền lực phục tùng - tức mối

quan hệ quyền hành trong tổ chức.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản

Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản là

tập hợp những yếu tố khách quan và chủ quan có tác động tích cực hoặc tiêu

cực đến hoạt động QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản.

Hoạt động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản chịu

sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm yếu tố khách quan và yếu tố

chủ quan. Các yếu tố khách quan là các điều kiện tự nhiên, kinh tế,văn hóa-xã

hội, trình độ dân trí, phong tục tập quán.., các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt

24

động khai thác khoáng sản, môi trường quốc tế, xu hướng quản lý khai thác

tài nguyên khoáng sản của các nước trên thế giới. Các yếu tố chủ quan là từ

phía các nhà quản lý, hoạch định chính sách có tác động trực tiếp đến hoạt

động của quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản.

1.3.1. Các yếu tố khách quan

- Điều kiện tự nhiên và môi trường, văn hóa-xã hội (trình độ dân trí,

phong tục tập quán...)

Điều kiện tự nhiên, môi trường văn hóa - xã hội là một trong những yếu tố

tác động quan trọng đến hoạt động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản, là tổng hợp các yếu tố, các điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp, gián

tiếp, có tác động tích cực hay tiêu cực đối với hoạt động khai thác tài nguyên

khoáng. Do đặc thù về vị trí địa lý, địa hình khí hậu mỗi vùng, miền khác nhau

có những loại tài nguyên khoáng sản không giống nhau. Do vậy, các nhà quản lý

khi xây dựng chính sách về khoáng sản cần phải nắm rõ được các đặc điểm này

để từ đó xây dựng được các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hoạt động khoáng

sản phù hợp.

Vị trí của những mỏ khoáng sản nằm ở những vùng thuận lợi giao thông,

cơ sở hạ tầng tốt, gần nguồn nước, điện.. thuận tiện phục vụ khai thác cũng mang

lại hiệu quả đối với hoạt động khai khoáng.

Môi trường văn hóa-xã hội, trình độ dân trí, ý thức của cộng đồng dân cư

có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tôn trọng, bảo tồn, phát huy tiềm năng tài

nguyên khoáng sản từ đó người dân biết cách bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết

kiệm nguồn “tài sản” đặc biệt này. Sự am hiểu pháp luật của người dân có vai trò

trong việc giữ gìn, quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, hạn chế

được tình trạng khai thác, tận thu một cách trái phép, bừa bãi làm ảnh hưởng đến

cơ sở hạn tầng kỹ thuật, hủy hoại môi trường sinh thái đồng thời có thái độ đấu

tranh chống lại đối với những hành vi vi phạm pháp luật khoáng sản đồng thời

việc quản lý của nhà nước trở nên có hiệu quả hơn.

25

- Các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khai thác khoáng sản: các

doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân là các chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động khai

thác đồng thời là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản. Đây là “Người” được Nhà nước giao trực tiếp quản lý, tổ chức thăm

dò, khai thác, sử dụng khoáng sản. Tiềm lực về tài chính, khoa học-công nghệ và

nguồn nhân lực chất lượng cao chuyên ngành mỏ, địa chất, trắc địa...của các tổ

chức, cá nhân này ảnh hưởng đến quy mô khai thác, sự chú trọng đầu tư công

nghệ, thiết bị để thu hồi tối đa, khai thác tận thu hạn chế tình trạng tổn thất tài

nguyên khoáng sản.

- Môi trường quốc tế, xu hướng quản lý tài nguyên khoáng sản của các

nước trên thế giới và Chính sách mở cửa hội nhập với thế giới bên ngoài: Toàn

cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế

chủ đạo của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Thế giới ngày nay đang sống

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện

không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch

vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tài nguyên môi

trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. Do vậy, chính sách

QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản của Việt Nam cũng phải được xây

dựng trên cơ sở hướng tới hợp tác, hội nhập chung của toàn thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng

sản là chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa.

Tham gia hội nhập, chính sách và pháp luật và khai thác, sử dụng tài nguyên

và bảo vệ môi trường của Việt Nam sẽ chịu tác động và ảnh hưởng của pháp

luật các nước thành viên khác. Những ràng buộc đó góp phần định hướng cho

chính sách điều tiết của Việt Nam ngày càng hài hòa với các quy tắc và tiêu

chuẩn được thừa nhận rộng rãi ở các nước khác. Cơ chế pháp lý phải thay đổi

và điều chỉnh sao cho phù hợp và hài hòa với yêu cầu của các hiệp định môi

26

trường đa phương của các khối kinh tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. Bên

cạnh đó, cần nỗ lực nghiên cứu kinh nghiệm để tìm hiểu về các rào cản thương

mại nảy sinh từ các tiêu chuẩn môi trường của nước ngoài. Việt Nam cần áp

dụng triệt để nguyên tắc phát triển bền vững thể hiện ở đường lối và chính

sách, pháp luật nói chung và về khai thác sử dụng bền vững tài nguyên thiên

nhiên, bảo vệ môi trường trong khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng.

Hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên khoáng sản nhằm tranh thủ

các cơ hội hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ các hoạt động hợp tác đa phương

và song phương nhằm góp phần giải quyết những thách thức về cạn kiệt tài

nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường; thực hiện có hiệu quả các điều ước,

thỏa thuận quốc tế liên quan đến lĩnh vực khoáng sản mà Việt Nam đã ký kết,

phê chuẩn và tham gia, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

1.3.2. Các yếu tố chủ quan

- Các quan điểm chủ trương đường lối của Đảng, Hệ thống chính sách,

pháp luật của Nhà nước về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản: là những

định hướng, giải pháp của Đảng, nhà nước về quản lý khai thác tài nguyên

khoáng sản nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Chính sách quản lý khai thác

tài nguyên khoáng sản thể hiện trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch phát triển ngành công nghiệp khai khoáng đồng thời kiểm soát những

tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực, thúc đẩy phát triển bền vững.

- Cán bộ công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản: Con người chính là chủ thể quản lý đồng thời cũng là đối

tượng chịu sự quản lý (các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động khai thác

khoáng sản), do vậy yêu cầu đối với chủ thể quản lý này càng phải cao hơn để

có thể tác động, định hướng, điều chỉnh được đối tượng quản lý có hành động

phù hợp với mục tiêu, yêu cầu. Chủ thể đó chính là cán bộ công chức trong

các cơ quan QLNN về khoáng sản phải đảm bảo về số lượng, chất lượng,

27

trình độ, năng lực để đáp ứng yêu cầu công việc; Đạo đức nghề nghiệp, tính

chuyên nghiệp, khả năng thích ứng với sự thay đổi, đáp ứng với yêu cầu thực

tiễn hội nhập quốc tế hiện nay...; Do vậy hệ thống các cơ quan QLNN về

khoáng sản cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hành chính đảm bảo

đồng bộ, triệt để, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

làm công tác quản lý về khai thác tài nguyên khoáng sản nhằm kịp thời tháo gỡ

các khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị và trình độ khoa học công nghệ:

yếu tố này là điều kiện quyết định đối với mọi sự thắng lợi không riêng lĩnh

vực khai thác khoáng sản mà tất cả các lĩnh vực. Hoạt động khai khoáng chỉ có

thể vận hành có hiệu quả trên nền tảng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trình độ khoa công

nghệ và trang thiết bị hiện đại và ngược lại các điều kiện này không đảm bảo thì

việc khai thác TNKS hay QLNN về hoạt động khai thác TNKS gặp rất nhiều

khó khăn hoặc kém hiệu quả.

1.4. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản

Để hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của tài nguyên khoáng sản và hoạt

động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản, tác giả đã tìm hiểu

kinh nghiệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản của một số

quốc gia trên thế giới để từ đó có thể rút kinh nghiệm và đề xuất giải pháp

hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam,

cụ thể một số quốc gia như sau:

* Trung Quốc: Trong những thập niên gần đây, Trung Quốc đã đạt

nhiều thành quả trong công tác khai thác tài nguyên khoáng sản và nhiều mỏ

khoáng sản quy mô lớn, có giá trị đã được xác định, hệ thống cung ứng

khoáng sản đã hình thành. Đến nay ngành công nghiệp khai thác khoáng sản

Trung Quốc đã tự đáp ứng được khoảng 92% về khoáng sản năng lượng, 80%

về khoáng sản cho công nghiệp và khoảng 70% khoáng sản cho sản xuất vật

tư nông nghiệp.

28

Trung Quốc chủ trương trong 20 năm đầu của thế kỷ 21 chủ yếu dựa

vào khai thác tài nguyên khoáng sản nội địa để đảm bảo cho nhu cầu hiện

đại hóa. Trung Quốc rất coi trọng phát triển bền vững và sử dụng hợp lý tài

nguyên khoáng sản và đã thực hiện phát triển bền vững một chiến lược

quốc gia và bảo vệ các nguồn tài nguyên một phần quan trọng của chiến

lược này. Để xây dựng một xã hội một cách toàn diện là mục tiêu của

Trung Quốc trong 20 năm đầu của thế kỷ mới. Trung Quốc sẽ phụ thuộc

chủ yếu vào khai thác tài nguyên khoáng sản riêng của mình để đảm bảo

các nhu cầu của chương trình hiện đại hóa của đất nước. Chính phủ Trung

Quốc khuyến khích việc thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản có

nhu cầu, đặc biệt là các nguồn tài nguyên chiếm ưu thế trong các vùng phía

tây, để tăng khả năng trong nước cung cấp tài nguyên khoáng sản. Đồng

thời, đây là một chính sách của chính phủ quan trọng nhập khẩu có vốn đầu

tư nước ngoài và công nghệ để khai thác tài nguyên khoáng sản của đất

nước, làm cho việc sử dụng của các thị trường nước ngoài và tài nguyên

khoáng sản nước ngoài, và giúp các doanh nghiệp khai thác mỏ và các sản

phẩm khoáng sản của Trung Quốc nhập vào thị trường quốc tế. Chính phủ

Trung Quốc cho rằng các công ty khai thác mỏ nước ngoài vào Trung Quốc

và các doanh nghiệp khai thác mỏ của Trung Quốc nhập vào các nước khác

để làm cho các quốc gia khác nhau cùng có bổ sung tài nguyên có ý nghĩa

lớn cho sự thịnh vượng chung và phát triển lành mạnh của tài nguyên

khoáng sản thế giới thăm dò và khai thác.

- Các mục tiêu và nguyên tắc bảo vệ tài nguyên khoáng sản và sử dụng

hợp lý: Mục tiêu chung của việc bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng

sản trong đầu thế kỷ 21 của Trung Quốc là:

+ Tăng cường khả năng của các nguồn tài nguyên khoáng sản để đảm

bảo xây dựng một xã hội một cách toàn diện. Nâng cao đầu vào hiệu quả

29

thăm dò và khai thác vào tài nguyên khoáng sản, tăng phạm vi và chiều sâu

thăm dò và khai thác, tăng cường bảo vệ tài nguyên khoáng sản, tăng nguồn

cung. Trung Quốc sẽ mở rộng hơn với thế giới bên ngoài và tham gia tích cực

trong hợp tác quốc tế. Trung Quốc cũng sẽ thành lập một hệ thống dự trữ đối

với các nguồn tài nguyên chiến lược, nhằm dự trữ cần thiết về tài nguyên

khoáng sản quan trọng cho nền kinh tế quốc gia và đời sống của nhân dân và

bảo đảm sự an toàn của nền kinh tế của đất nước cũng như cung cấp các mặt

hàng khoáng sản bền vững và an toàn.

+ Đẩy mạnh cải thiện môi trường sinh thái của các mỏ. Trung Quốc

sẽ làm giảm và kiểm soát ô nhiễm và thiệt hại cho môi trường của các tài

nguyên khoáng sản gây ra trong các liên kết sản xuất thay đồ, khai thác mỏ

và luyện kim hoặc tinh chế và mang lại một chu kỳ lành tính trong việc

khai thác tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao

pháp luật và các quy định bảo vệ môi trường tại các khu vực khai thác

khoáng sản, và thực hiện kiểm tra vẫn còn chặt chẽ và giám sát việc thực

thi pháp luật liên quan đến việc kiểm soát môi trường sinh thái của các mỏ

và tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của các doanh

nghiệp khai thác mỏ và toàn xã hội về tầm quan trọng của việc bảo vệ tài

nguyên môi trường.

Để tạo ra một môi trường phát triển cạnh tranh bình đẳng. Trung Quốc

thiết lập một hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và pháp luật về hoạt

động quản lý thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản, Trung Quốc sẽ tiếp

tục cải thiện các luật và quy định liên quan đến quản lý tài nguyên khoáng

sản, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách về tài nguyên khoáng sản, cải thiện

đầu tư môi trường; cung cấp dịch vụ thông tin tuyệt vời và tạo ra môi trường

thị trường mở, có trật tự và thống nhất, trong đó thị trường có thể cạnh tranh

một cách bình đẳng.

30

- Tăng cường năng lực cung cấp tài nguyên khoáng sản trong nước

Trung Quốc dựa chủ yếu vào sự phát triển của tài nguyên khoáng sản

và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác để phát triển kinh tế của đất nước.

Trong quá trình xây dựng một xã hội một cách toàn diện, Trung Quốc trước

hết sẽ làm tăng khả năng cung cấp tài nguyên khoáng sản trong nước. Trung

Quốc vẫn có tiềm năng rất lớn đối với các nguồn tài nguyên khoáng sản thăm

dò và khai thác.

Chính phủ Trung Quốc khuyến khích và hướng dẫn hoạt động cho khảo

sát thương mại đáp ứng hoạch định yêu cầu, bánh răng nhu cầu thị trường và

tập trung vào kết quả kinh tế. Trung Quốc khuyến khích thương mại khảo sát

tại các khu vực trung tâm và phía tây, vùng xa, biên giới và vùng nơi sinh

sống của đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như kinh tế kém phát triển hơn các

khu vực khác có tiềm năng tài nguyên. Trung Quốc khuyến khích các doanh

nghiệp khai thác mỏ để thực hiện khảo sát địa chất thương mại tại các khu

vực xa trung tâm hoặc sự hình thành sâu sắc hơn về các mỏ cũ với cả hai tiềm

năng thị trường và tài nguyên, và để tìm tài nguyên thay thế mới. Trung Quốc

khuyến khích các nhà đầu tư để có được quyền thăm dò và khai thác mỏ,

thông qua cạnh tranh lành mạnh, các trang web của các mỏ khoáng sản được

thành lập sau khi khảo sát có vốn đầu tư của chính phủ. Trung Quốc khuyến

khích thương mại thăm dò dầu, khí thiên nhiên, khí than, than với tro thấp và

nội dung lưu huỳnh thấp, và chất lượng tinh mangan, crôm, đồng, nhôm,

vàng, bạc, niken, coban, kim loại thuộc nhóm bạch kim,và xinvit. Trung Quốc

cũng khuyến khích sự phát triển của nước địa nhiệt khoáng sản, tài nguyên

nước ngầm, một cách khoa học, kinh tế và hợp lý, đồng thời khuyến khích

việc sử dụng nước chất lượng tốt cho các mục đích tốt hơn, và phòng ngừa và

kiểm soát ô nhiễm.

31

- Mở rộng hợp tác quốc tế trong Thăm dò và Khai thác Khoáng sản

Trung Quốc sẽ thực hiện chính sách mở cửa với thế giới. Trung Quốc

tích cực trong hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản để thúc

đẩy việc trao đổi các nguồn lực trong và ngoài nước, vốn, thông tin, công

nghệ và thị trường trên cơ sở có đi có lại và cùng có lợi.

Trung Quốc thực hiện chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nước

ngoài đầu tư vào tài nguyên khoáng sản thăm dò và khai thác trong nước.

Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trong nước

hợp tác với các công ty khai thác mỏ quốc tế, trên kinh nghiệm quốc tế tiên

tiến, nhập khẩu công nghệ tiên tiến và hoạt động phù hợp với thông lệ quốc

tế. Trung Quốc bắt đầu mở ngành công nghiệp dầu mỏ của thế giới bên ngoài

vào năm 1982 bằng cách sử dụng vốn và công nghệ nước ngoài để thăm dò và

khai thác tài nguyên dầu khí. Kết quả là, phạm vi khai thác đã được mở rộng

và sản lượng dầu thô đã tăng tỷ suất lợi nhuận lớn. Bây giờ, Trung Quốc đã

bắt đầu tham gia vào việc khai thác tài nguyên dầu khí ở nước ngoài. Chính

phủ Trung Quốc đã thực hiện hoặc sẽ mất một số các biện pháp mới để tiếp

tục cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, mở rộng sự mở cửa và tăng cường

hợp tác quốc tế.

- Cải thiện quản lý tài nguyên khoáng sản

Trung Quốc đã dần dần cải thiện việc quản lý tài nguyên khoáng sản

của chính phủ, đưa về quy định pháp luật, tiêu chuẩn hóa và khoa học.

Ban hành và dần dần cải thiện luật pháp và các quy định về quản lý tài

nguyên khoáng sản. Trung Quốc đã đưa ra một hệ thống pháp luật đối với các

nguồn tài nguyên khoáng sản, bao gồm Luật Tài nguyên Khoáng sản và pháp

luật có liên quan và các quy định khác với Hiến pháp như là nền tảng của

Luật. Kể từ năm 1982, Trung Quốc đã liên tục ban hành Luật Tài nguyên

Khoáng sản, Luật Quản lý Đất đai, Than Luật, Luật An toàn trong hầm mỏ,

32

Luật Bảo vệ môi trường và Luật về Sử dụng và quản lý vùng biển. Chính phủ

Trung Quốc cũng đã ban hành hơn 20 quy chế và các quy định bổ sung, bao

gồm Quy định chi tiết việc thực hiện Luật Tài nguyên khoáng sản, Quy định

về khai thác tài nguyên dầu ngoài khơi trong hợp tác với các doanh nghiệp

nước ngoài, Quy định về khai thác tài nguyên dầu trên đất liền bởi các doanh

nghiệp nước ngoài, các biện pháp điều chỉnh việc đăng ký và quản lý Khu vực

Khảo sát tài nguyên khoáng sản, Các biện pháp điều chỉnh việc đăng ký và

quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản, Các biện pháp quản trị hành chính

của chuyển giao khảo sát và quyền khai thác khoáng sản, Quy định về quản lý

hành chính của bộ sưu tập phí tài nguyên khoáng sản bồi thường. Các tỉnh

khác nhau, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài ra, xây dựng

các quy chế liên quan tại địa phương. Các luật và quy định này đã đưa ra hệ

thống pháp luật cơ bản của Trung Quốc cho việc quản lý tài nguyên khoáng

sản, và cung cấp sự bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quản lý, quản lý tài

nguyên khoáng sản và các mỏ hoạt động theo quy định của pháp luật.

* Úc

Úc có hệ thống liên bang, trong đó việc quản lý tài nguyên thiên nhiên

thuộc thẩm quyền cấp bang. Để đảm bảo phát triển bền vững trong ngành

khai khoáng, tại Úc đã triển khai Chương trình phát triển bền vững: Chương

trình này được một Ban chỉ đạo quản lý trực thuộc Bộ Công nghiệp, Du lịch

và Tài nguyên chính phủ Úc và do các nhóm công tác với đại diện từ khu vực

chính phủ, ngành, nghiên cứu, giáo dục đào tạo và cộng đồng xây dựng.

Chương trình phát triển bền vững trong khai thác mỏ đề cập tới các lĩnh vực

môi trường, kinh tế và xã hội trong mọi giai đoạn của cả quá trình khai thác

khoáng sản từ thăm dò tới xây dựng, vận hành và đóng cửa khu khai thác mỏ.

Trước hết, các công ty khai thác cần phải đảm bảo sự hỗ trợ và chấp

nhận rộng rãi của cộng đồng để bảo vệ “giấy phép xã hội để hoạt động” của

33

họ. Giấy phép xã hội để hoạt động là một khái niệm mới, qua đó khẳng định

sự hợp tác của danh nghiệp với cộng đồng và đóng góp vào sự phát triển của

cộng đồng không chỉ là điều nên làm đối với công ty mà còn tạo nên ý thực

kinh doanh đúng đắn.

Bên cạnh đó chương trình này cũng đề cập đến một vấn đề quan trọng

khác trong quản lý hiệu quả trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên.

Chương trình nhấn mạnh, phát triển kinh tế, tác động môi trường và trách

nhiệm xã hội phải được quản lý tốt và hiệu quả; phải được thiết lập và gắn kết

trách nhiệm giữa chính phủ, ngành và các bên liên quan. Hướng tới: tăng

cường tốt đa kết quả đạt được và hiệu suất hoạt động; quản lý tốt hơn các tác

động về môi trường và xã hội; quản lý tốt hơn các lợi ích tiềm tàng trong quá

trình sản xuất và sử dụng.

Những thành tựu nổi bật về xử lý môi trường trong khai thác và chế biến

khoáng sản ở Úc luôn luôn là nguyên nhân hàng đầu và sự đảm bảo chắc chắn

cho các bước phát triển bền vững của ngành công nghiệp quan trọng này ở Úc.

* Indonesia

Indonesia là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, có tài nguyên

khoáng sản khá phong phú, trong đó có một số loại khoáng sản có tiềm năng

lớn như dầu khí, than, đồng, vàng, thiếc.. hoạt động khoáng sản ở Indonesia

trước đây được quản lý và điều hành theo Luật Khoáng sản số 11 năm 1967.

Theo đó Bộ Tài nguyên khoáng sản và năng lượng là cơ quan quản lý và giám

sát mọi hoạt động liên quan đến tài nguyên khoáng sản của quốc gia.

Về quản lý tài nguyên khoáng sản, Indonesia chia tài nguyên khoáng

sản ra làm 3 khu vực: khu vực mỏ, khu vực mỏ nhỏ và khu vực dự trữ quốc

gia… (Khu vực mỏ nhỏ: do chính phủ xác định có sự tham vấn của chính

quyền khu vực và báo cáo bằng văn bản lên Quốc hội. Tiêu chí để xét cấp

giấy phép khai thác mỏ trong một vùng gồm vị trí địa lý, nguyên tắc bảo tồn

34

tài nguyên, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, hiệu quả khai thác và mật độ dân số

trong vùng; khu vực mỏ nhỏ do chủ tịch thành phố hoặc quận, huyện xác định

có thông qua hội đồng nhân dân cùng cấp; khu vực dự trữ quốc gia: chính phủ

xác định khu vực dự trữ quốc gia với các tài nguyên tin cậy và có tính thương

mại cao…

Về trách nhiệm quản lý nhà nước, Luật Khoáng sản và Than của

Indonesia phân cấp mạnh cho địa phương. Theo đó Bộ Năng lượng và Tài

nguyên khoáng sản được nhà nước ủy quyền thực hiện quản lý nhà nước về

khoáng sản. Khi diện tích khai thác nằm trên lãnh thổ của nhiều tỉnh thì do Bộ

trưởng cấp phép; khi diện tích khai thác nằm trên lãnh thổ nhiều huyện thì do

chủ tịch tỉnh cấp phép và cấp huyện cấp phép khi ranh giới khai thác chỉ nằm

trên một huyện. Đối với nhà đầu tư khai khoáng, luật quy định các nhà đầu tư

có trách nhiệm làm tăng giá trị sản phẩm khoáng sản trong quá trình khai

thác, chế biến và sử dụng. Nhà đầu tư phải tiến hành tuyển, chế biến và tinh

luyện trong nước, phải hợp tác với các chủ sở hữu khác có giấy phép để cùng

tiến hành tuyển và chế biến khoáng sản; xây dựng các nhà máy chế biến hoặc

có thể sử dụng các nhà máy chế biến sẵn có của các công ty khác ở Indonesia.

Quy định này của Indonesia nhằm hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô,.

Ngoài ra, Luật khoáng sản và than của Indonesia quy định trách nhiệm

hình sự trong hoạt động khoáng sản. Theo đó khung hình phạt tù cao nhất là

10 năm và phạt tiền lên đến 10 tỷ rupiah.

* Nhật Bản

Nhật Bản là một quốc gia nghèo về tài nguyên khoáng sản trong khi

nhu cầu sử dụng lại rất lớn, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chính sách hợp

lý để đảm bảo nhu cầu khoáng sản sử dụng trong nước cho mục tiêu phát triển

kinh tế. Nhật Bản tăng cường đầu tư hoặc liên doanh, liên kết với các Chính

phủ khác để có nguồn nguyên liệu. Chính phủ Nhật Bản cũng bắt đầu tiếp cận

35

với hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân để đầu tư vào các dự án tìm

kiếm quặng sắt ở Australia.

Sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản cho các công ty trong nước trong

các dự án khai thác tài nguyên tại nước ngoài diễn ra trong bối cảnh nhu cầu

khoáng sản ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng

nhanh, khiến các nước này đẩy mạnh khai thác tài nguyên tại nước ngoài.

Ngoài việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, để đối phó với các tập đoàn

lớn của Brazil, Anh và Australia đang khống chế thị trường quặng sắt thế

giới, các công ty Nhật Bản có xu hướng liên minh liên kết. Vào cuối năm

2008, năm công ty cán thép hàng đầu Nhật Bản đã liên kết với nhau để mua

lại quyền khai thác một mỏ quặng vào loại lớn nhất ở Brazil.

* Bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động QLNN về khai thác TNKS tại

một số nước trên thế giới

Từ những kinh nghiệm về quản lý và khai thác khoáng sản của một số

nước trên thế giới, có thể nhận thấy trước thách thức cạn kiệt tài nguyên và xu

thế cạnh tranh toàn cầu về tài nguyên khoáng sản, các nước rất chú ý đến việc

quản lý và khai thác khoáng sản. Các quốc gia đã và đang triển khai nhiều

biện pháp, điều chỉnh luật và các chính sách liên quan trong quản lý khai thác

TNKS như sau:

- Hạn chế khai thác khoáng sản trong nước, giữ nguyên hiện trạng,

đóng cửa các mỏ khi chưa đủ điều kiện khai thác hoặc gây ô nhiễm môi

trường, đồng thời cải tiến công nghệ chế biến nhằm tận thu tối đa các sản

phẩm khoáng sản có ích.

- Triển khai Chương trình phát triển bền vững, đề cập tới các lĩnh vực

môi trường, kinh tế và xã hội trong mọi giai đoạn của cả quá trình khai thác

khoáng sản từ thăm dò tới xây dựng, vận hành và đóng cửa khu khai thác mỏ.

Chương trình nhấn mạnh, phát triển kinh tế, tác động môi trường và trách

36

nhiệm xã hội phải được quản lý tốt và hiệu quả; phải được thiết lập và gắn kết

trách nhiệm giữa chính phủ, ngành và các bên liên quan. Hướng tới tăng

cường tối đa kết quả đạt được và hiệu suất hoạt động; quản lý tốt hơn các tác

động về môi trường và xã hội; quản lý tốt hơn các lợi ích tiềm tàng trong quá

trình sản xuất và sử dụng.

Quan tâm đặc biệt tới vấn đề xử lý môi trường trong khai thác và chế

biến khoáng sản và là cơ sở đảm bảo chắc chắn cho các bước phát triển bền

vững của ngành công nghiệp khai thác khoáng sản.

- Tạo ra một môi trường phát triển cạnh tranh bình đẳng, thiết lập một

hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và pháp luật về hoạt động quản lý

thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản, điều chỉnh và hoàn thiện chính

sách về tài nguyên khoáng sản, cải thiện đầu tư môi trường; cung cấp dịch vụ

thông tin tuyệt vời và tạo ra môi trường thị trường mở, có trật tự và thống

nhất, trong đó thị trường có thể cạnh tranh một cách bình đẳng. Đồng thời

tăng cường năng lực cung cấp tài nguyên khoáng sản trong nước khuyến

khích các nhà đầu tư cạnh tranh lành mạnh.

- Tăng cường nhập khẩu khoáng sản thô, các khoáng sản có nguy cơ

cạn kiệt, thực hiện dự trữ quốc gia về tài nguyên khoáng sản;

- Mở rộng hợp tác quốc tế, thực hiện các chính sách thúc đẩy hợp tác,

liên doanh khai thác khoáng sản. Tăng cường đầu tư, liên doanh liên kết với

các quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản, nguồn vốn, trình độ khoa học công

nghệ hiện đại. Tích cực trong hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên

khoáng sản để thúc đẩy việc trao đổi các nguồn lực trong và ngoài nước, vốn,

thông tin, công nghệ và thị trường trên cơ sở có đi có lại và cùng có lợi.

- Thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong việc cấp

phép. Xây dựng chính sách để các nhà đầu tư có trách nhiệm làm tăng giá trị

sản phẩm khoáng sản trong quá trình khai thác, chế biến và sử dụng. Nhà đầu

37

tư phải tiến hành tuyển, chế biến và tinh luyện trong nước, phải hợp tác với

các chủ sở hữu khác có giấy phép để cùng tiến hành tuyển và chế biến khoáng

sản; xây dựng các nhà máy chế biến hoặc có thể sử dụng các nhà máy chế

biến sẵn có nhằm hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô.

Bên cạnh đó việc tăng cường tiềm lực tài chính, khả năng đầu tư phát

triển công nghệ hiện đại và hợp lý, năng lực tổ chức quản lý trong thăm dò,

khai thác và chế biến; khả năng bảo hộ và bao tiêu sản phẩm sau khai thác là

những vấn đề được nhiều nước có nền công nghiệp phát triển quan tâm.

Tiểu kết Chương 1

Ở Chương 1, tác giả đã hệ thống hóa một số vấn đề chung, cơ bản về

QLNN và QLNN đối với khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam, bao

gồm: các Khái niệm về tài nguyên khoáng sản, khai thác TNKS, các đặc

điểm; quyền sở hữu về TNKS; vai trò của khai thác TNKS đối với sự phát

triển kinh tế-xã hội; Khái niệm về Quản lý nhà nước, QLNN về khai thác

TNKS; Sự cần thiết phải QLNN về khai thác TNKS; yêu cầu, nguyên tắc, nội

dung, phương thức QLNN đối với khai thác TNKS.

Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nghiên cứu tới các yếu tố khách quan, chủ

quan tác động tích cực, tiêu cực đến QLNN về khai thác TNKS. Tác giả đã

tìm hiểu kinh nghiệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản

của một số quốc gia trên thế giới để từ đó có thể nghiên cứu, rút kinh nghiệm

và đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản trong điều kiện của Việt Nam hiện nay.

38

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC

TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM

2.1. Tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản

* Về loại hình khoáng sản được khai thác: Tính riêng các mỏ khoáng

sản do cơ quan Trung ương cấp giấy phép, đến ngày 31 tháng 12 năm 2008

hiện có khoảng 350 mỏ/khu vực mỏ thuộc 10/12 nhóm khoáng sản và 68

điểm nước khoáng, nước nóng đang khai thác. Tính riêng cho khoáng sản rắn

thì nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng (sét xi măng, đá vôi xi măng, đá ốp lát

các loại, đá phiến lợp, cát silic phụ gia xi măng, nguyên liệu phụ gia xi măng

v.v…) chiếm tỷ lệ 36,96 %. Nhóm khoáng sản nhiên liệu (than mỡ, than

antraxit) chiếm tỷ lệ 22,11 %. Nhóm khoáng sản nguyên liệu sứ, gốm, thủy

tinh, chịu lửa, bảo ôn (kaolin, fenspat, sét gốm sứ, sét chịu lửa, đôlômit,

quăczit, cát thủy tinh) chiếm tỷ lệ 15,84 %. Nhóm khoáng sản kim loại cơ bản

thông thường (thiếc, anitmon, đồng, chì - kẽm và nikel) chiếm tỷ lệ 4,29 %.

Nhóm khoáng sản sắt và hợp kim của sắt (sắt, mangan, crômit và wonfram)

chiếm tỷ lệ 5,61 %. Nhóm khoáng sản kim loại nhẹ (bauxit, ilmenit) chiếm tỷ

lệ 7,59 %. Nhóm khoáng sản nguyên liệu kỹ thuật (tacl, đá vôi trắng, các

khuôn đúc, sét bentonit) chiếm tỷ lệ 4,29 %. Nhóm khoáng sản quý hiếm (đá

quý, saphia) chiếm tỷ lệ 0,66 %. Nhóm khoáng sản hóa chất và phân bón

(apatit, fluorit, secpentin) chiếm tỷ lệ 1,65 % và nhóm khoáng sản kim loại

quý (vàng) chiếm 0,99 %.

Theo thống kê, đến tháng 6 năm 2009 có 3.882 giấy phép khai thác do

ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép khai thác còn hiệu lực và đang thực hiện.

Trong đó có 82% là giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng

39

thông thường, than bùn; 16% là giấy phép khai thác loại khoáng sản khác,

giấy phép khai thác tận thu thuộc các nhóm khoáng sản nêu trên.

* Về loại hình doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản: Từ khi

Luật Khoáng sản ban hành đã có hầu hết các thành phần kinh tế như: doanh

nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty

cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã v.v… tham gia

khai thác khoáng sản. Theo thống kê, số doanh nghiệp tham gia hoạt động

trong công nghiệp khai thác mỏ tăng nhanh từ 427 doanh nghiệp (năm 2000)

lên đến hơn 1.400 doanh nghiệp vào thời điểm hiện tại. Trong đó, các doanh

nghiệp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường chiếm tới

gần 1.200 doanh nghiệp với quy mô nhỏ và vừa.

Chỉ tính riêng các doanh nghiệp khai thác theo giấy phép do cơ quan

Trung ương cấp đã có khoảng 150 doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn của

37 tỉnh, thành phố. Trong đó, số lượng các doanh nghiệp nhà nước có ưu thế

tuyệt đối, chiếm tỷ lệ 54,41 % (chưa kể công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà

nước một thành viên, công ty cổ phần chuyển hóa từ doanh nghiệp nhà nước

trước đây). Số lượng các doanh nghiệp còn lại là: công ty cổ phần chiếm

22,79 %; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ 8,82 %; công ty

trách nhiệm hữu hạn chiếm 5,88 %; công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước

một thành viên chiếm 3,68 %; doanh nghiệp tư nhân chiếm 2,94 %; hợp tác

xã và doanh nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn

1,47 % trong tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động.

Về số lượng các doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản rắn ở quy

mô công nghiệp do cơ quan Trung ương cấp phép chiếm tỷ lệ không lớn,

khoảng 10% tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực khai

thác khoáng sản. Tuy nhiên, phần lớn là các doanh nghiệp lớn của Nhà nước,

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số doanh nghiệp ngoài quốc

40

doanh quy mô lớn đầu tư thăm dò, khai thác loại khoáng sản cần vốn lớn,

thiết bị công nghệ hiện đại, có sự rủi ro cao hơn khi đầu tư cho loại hình

khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường.

Theo thống kê, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia

chủ yếu trong lĩnh vực khai thác khoáng sản phục vụ công nghiệp sản xuất

xi măng (Công ty Xi măng Nghi Sơn, Công ty Xi măng Chinfon, Công ty

Xi măng Lusk Việt Nam, Công ty Xi măng Holcim… ), đá ốp lát (Công ty

liên doanh Latina An Giang), đá vôi trắng (Công ty Yabashi, Công ty liên

doanh cacbonat canxi YBB), nước khoáng (Công ty Lavie), vàng (Công ty

trách nhiệm hữu hạn vàng Bồng Miêu, Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng

Phước Sơn), Niken (Công ty trách nhiệm hữu hạn Niken Bản Phúc), titan

sa khoáng (Công ty khoáng sản Bình Định Việt Nam - Malaysia), đá phiến

lợp (Công ty liên doanh đá phiến Lai Châu), quặng sắt (Công ty trách

nhiệm hữu hạn Khoáng sản và luyện kim Việt - Trung). Có một số doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do hoạt động không có hiệu quả phải giải

thể, ngừng hoạt động trước thời hạn từ những năm cuối thế kỷ 20 như: Xí

nghiệp liên doanh vàng Việt - Nga, Công ty liên doanh Đá quý Việt - Thái,

Công ty khai thác chế biến titan Austinh Hà Tĩnh, Công ty trách nhiệm hữu

hạn khai thác đá ốp lát Halim (100% vốn nước ngoài).

Về quy mô các mỏ khoáng sản được khai thác. Mặc dù phong phú về

chủng loại và nhiều về số lượng nhưng phần lớn các mỏ, điểm mỏ khoáng sản

đã được phát hiện ở Việt Nam chủ yếu là các mỏ nhỏ và vừa. Mặt khác, do

hạn chế về vốn đầu tư, công nghệ khai thác nên các mỏ đang khai thác chủ

yếu có quy mô mỏ nhỏ, hoặc một số mỏ lớn được chia thành nhiều khu vực

để khai thác với quy mô nhỏ hơn. Các mỏ khai thác có công suất lớn tập trung

vào một số loại khoáng sản như: than (có 05 mỏ lộ thiên công suất 2÷3 triệu

tấn than nguyên khai/năm, 08 mỏ than hầm lò công suất từ 0,9÷1,5 triệu tấn

41

than nguyên khai/năm); đá vôi nguyên liệu xi măng (có 15 mỏ khai thác với

công suất từ 1,5÷3,0 triệu tấn đá nguyên khai/năm); apatit (trên 500.000 tấn

quặng/năm); đồng (công suất trên 1 triệu tấn quặng nguyên khai/năm), số mỏ

công suất trung bình (> 400.000 tấn/năm đối với than, sét nguyên liệu xi

măng, ilmenit) chiếm tỷ lệ không lớn, còn lại là các mỏ khoáng sản khai thác

ở quy mô nhỏ.

Xét về giá trị tuyệt đối thì các mỏ khoáng sản rắn ở quy mô công

nghiệp có số lượng không nhiều so với các mỏ khoáng sản khác, nhất là

khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (đá, cát xây dựng, sét gạch

ngói v.v…) và chỉ chiếm trên 10% tổng số các mỏ khoáng sản đang hoạt động

trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, các mỏ khoáng sản rắn lại chiếm ưu thế về

giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp khai thác mỏ (trừ dầu khí), giải

quyết được số lượng lớn lao động (chỉ tính riêng ngành khai thác than thì giá

trị tổng sản lượng đã chiếm khoảng 60% tổng giá trị sản lượng toàn ngành

khai khoáng và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100.000 lao động

thường xuyên).

Trong những năm gần đây, sản lượng khai thác một số loại khoáng sản

có mức tăng trưởng nhanh như than, quặng sắt, titan sa khoáng, chì - kẽm,

apatit, nước khoáng, đá vôi, đá sét sản xuất xi măng và đá làm vật liệu xây

dựng thông thường. Sản phẩm của ngành khai khoáng đã đóng góp đáng kể

vào sự phát triển ngành công nghiệp trong thời gian qua. Trong nước đã hình

thành được một số Tập đoàn kinh tế mạnh, một số doanh nghiệp nhà nước có

vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn trong ngành khai thác khoáng sản như:

Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt

Nam, Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam. Một số doanh nghiệp

trong nước đã ổn định và phát triển trong lĩnh vực khai khoáng như: Tổng

42

công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh, Công ty cổ phần đá Hóa An,

Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên vật liệu xây dựng Biên Hòa, Công

ty cổ phần Khoáng sản Bình Định, v.v

2.2. Tình hình thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động khai

thác tài nguyên khoáng sản

a) Hệ thống thể chế, chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về

khai thác tài nguyên khoáng sản hiện nay

* Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật

Luật Khoáng sản năm 1996 được ban hành, lần đầu tiên chúng ta đã có

văn bản luật - văn bản pháp lý cao nhất để quản lý tài nguyên khoáng sản và

đã đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong quản lý nhà nước về

khoáng sản. Từ khi Luật khoáng sản năm 1996 có hiệu lực từ tháng 9 năm

1996 đến nay về cơ bản thể chế quản lý khoáng sản đã được hoàn thiện, tạo

hành lang pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý,

tiết kiệm nguồn lực này để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Theo đó, cùng

với Luật khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật khoáng sản năm 1996 và Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều Luật khoáng sản năm 2005); Thi hành Luật

khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường đến nay, Chính phủ và các Bộ liên

quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp luật, Thủ tướng Chính phủ đã

ban hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý, gồm: 02 Nghị quyết, 06 Nghị

định của Chính Phủ; 08 Chỉ thị, 05 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 120

văn bản Quyết định, Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ ngành; 32 văn

bản QPPL về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản (gồm: 01 Nghị

quyết, 10 Nghị định của Chính phủ; 02 Quyết định của Chính phủ, 19 Quyết

định, Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ, ngành liên quan).

Luật khoáng sản năm 2010 đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ

họp thứ tám vào ngày 17 tháng 11 năm 2010. Theo đó, hệ thống văn bản quản

43

lý đến nay cơ bản được hoàn thiện. Đến nay Chính phủ đã ban hành được 06

Nghị định hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản; 03 Quyết định của Thủ tướng

Chính phủ; 20 Thông tư, Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Luật khoáng

sản và các Nghị định của các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Công Thương,

Xây dựng, Tài chính... và gần 10 văn bản khác liên quan đến lĩnh vực khoáng

sản ban hành trước ngày 01 tháng 07 năm 2011 đang còn hiệu lực đã tại nên

hành lang pháp lý khá đầy đủ trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản

nói chung và khai khác tài nguyên khoáng sản.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì dự thảo trình Quốc hội, Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành, phối hợp ban hành theo

thẩm quyền 26 văn bản, trong đó có: 01 Luật của Quốc hội (Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Khoáng sản); 03 Nghị định của Chính phủ; 01

Quyết định và 03 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành theo thẩm

quyền 01 Thông tư, 11 Quyết định của Bộ trưởng và phối hợp ban hành 06

Thông tư liên tịch liên quan đến quản lý nhà nước về khoáng sản.

* Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên và

khoáng sản

Theo quy định của Luật Khoáng sản năm 2010: Hệ thống các cơ quan

chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản bao gồm: Chính phủ, Bộ

Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các

cấp, trách nhiệm của các cơ quan, cụ thể:

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoáng sản;

- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực

hiện quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm:

+ Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về khoáng

sản; ban hành quy chuẩn kỹ thuật, định mức, đơn giá trong điều tra cơ bản địa

chất về khoáng sản, thăm dò khoáng sản;

44

+ Lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược khoáng sản;

lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch khoáng sản theo phân

công của Chính phủ;

+ Khoanh định và công bố các khu vực khoáng sản theo thẩm quyền;

khoanh định và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định khu vực không đấu giá

quyền khai thác khoáng sản theo thẩm quyền;

+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; đào tạo,

bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng

sản và hoạt động khoáng sản;

+ Cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai

thác khoáng sản; chấp thuận trả lại Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép

khai thác khoáng sản, trả lại một phần diện tích khu vực thăm dò, khai thác

khoáng sản; tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền;

+ Hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc đăng ký hoạt động điều tra cơ bản

địa chất về khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản;

+ Tổng hợp kết quả điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, tình hình

hoạt động khoáng sản; quản lý thông tin, mẫu vật địa chất, khoáng sản;

+ Công bố, xuất bản các tài liệu, thông tin điều tra cơ bản địa chất về

khoáng sản;

+ Thường trực Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia;

+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo

thẩm quyền.

- Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng có trách nhiệm lập và trình phê duyệt

quy hoạch về khoáng sản theo phân công của Chính phủ (quy định tại Điều 8

Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ quy

định chi tiết một số điều của Luật Khoáng sản); đồng thời phối hợp với Bộ

Tài nguyên và Môi trường trong quản lý nhà nước về khoáng sản.

45

+ Trách nhiệm chính của Bộ Công thương trong quản lý khoáng sản là

việc lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch khoáng sản (trừ quy

hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền lập của Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh); tổ chức, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch khoáng sản và quy

định điều kiện xuất khẩu khoáng sản thuộc thẩm quyền; ban hành quy chuẩn

kỹ thuật trong khai thác, chế biến khoáng sản.

Khoản 2 Điều 15 Luật khoáng sản năm 2010 quy định, trong phạm vi

trách nhiệm của mình, sau khi quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền lập đã

được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong vòng 30 ngày Bộ Công thương

phải tổ chức công bố công khai quy hoạch khoáng sản.

+ Trách nhiệm của Bộ Xây dựng chủ trì lập, trình Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản làm

vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất xi măng; tổ chức thực hiện, kiểm tra

thực hiện quy hoạch sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; quy định

điều kiện xuất khẩu khoáng sản và ban hành quy chuẩn kỹ thuật trong khai

thác, chế biến khoáng sản thuộc thẩm quyền.

Tương tự như trên, trách nhiệm công bố công khai quy hoạch khoáng

sản thuộc thẩm quyền lập đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong

vòng 30 ngày của Bộ Xây dựng cũng được quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật

khoáng sản năm 2010.

- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình có trách nhiệm:

+ Ban hành theo thẩm quyền văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định

của Nhà nước về quản lý, bảo vệ khoáng sản và quản lý hoạt động khoáng sản

tại địa phương;

+ Khoanh định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khu vực cấm

hoạt động khoáng sản, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản; quyết

định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo thẩm quyền;

46

+ Lập, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch

thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản của địa phương theo quy định của

Chính phủ;

+ Công nhận chỉ tiêu tính trữ lượng khoáng sản; phê duyệt trữ lượng

khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp

giấy phép;

+ Cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai

thác khoáng sản, Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản; chấp thuận trả lại Giấy

phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản, Giấy phép khai thác

tận thu khoáng sản, trả lại một phần diện tích khu vực thăm dò, khai thác khoáng

sản; tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền;

+ Giải quyết theo thẩm quyền việc cho thuê đất hoạt động khoáng sản,

sử dụng hạ tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân

được phép hoạt động khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;

+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa khai

thác, tài nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an

ninh, trật tự an toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản;

+ Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản ở Trung ương về

tình hình hoạt động khoáng sản trên địa bàn;

+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản;

+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo

thẩm quyền.

- Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi

nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:

+ Giải quyết theo thẩm quyền cho thuê đất hoạt động khoáng sản, sử

dụng hạ tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân

được phép hoạt động khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;

47

+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa khai

thác, tài nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an

ninh, trật tự an toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản;

+ Báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp tình hình hoạt động

khoáng sản trên địa bàn;

+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản;

+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo

thẩm quyền.

Mô hình Quản lý nhà nước về khoáng sản

Chính phủ

Bộ TN&MT

Bộ Xây dựng

Bộ Công thương

UBND Tỉnh và TP

Vụ VLXD

Tổng cục ĐC&KS VVN

Sở Xây dựng

Sở Công thương

UBND huyện, xã

Sở TN&MT T

Vụ KS

Phòng TNKS

Phòng TNMT

Vụ Công nghiệp nặng

Cục KTĐCKS (Departme

Cục KS HĐ KS

Vụ Địa chất

48

b) Quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác tài nguyên khoáng

sản giai đoạn 2002-2016

* Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản và

khai thác tài nguyên khoáng sản

Việc xây dựng và ban hành thể chế về quản lý tài nguyên khoáng sản là

nhiệm vụ, công việc hết sức quan trọng, là trách nhiệm của các chủ thể quản

lý nhà nước để quản trị có hiệu quả nguồn tài nguyên đặc biệt này. Do đó,

công tác này luôn được Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo thực hiện để ngày càng

hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về khoáng sản.

Luật Khoáng sản năm 1996 được ban hành, lần đầu tiên chúng ta đã

có văn bản luật - văn bản pháp lý cao nhất để quản lý tài nguyên khoáng

sản và đã đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong quản lý nhà

nước về khoáng sản. Từ khi Luật khoáng sản năm 1996 có hiệu lực từ

tháng 9 năm 1996 đến nay về cơ bản thể chế quản lý khoáng sản đã được

hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ, khai thác,

sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn lực này để phát triển kinh tế - xã hội đất

nước. Theo đó, cùng với Luật khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật khoáng

sản năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật khoáng sản năm

2005); Thi hành Luật khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường đến nay,

Chính phủ và các Bộ liên quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp

luật, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý,

gồm: 02 Nghị quyết, 06 Nghị định của Chính Phủ; 08 Chỉ thị, 05 Quyết

định của Thủ tướng Chính phủ; 120 văn bản Quyết định, Thông tư, Thông

tư liên tịch của các Bộ ngành; 32 văn bản QPPL về bảo vệ môi trường

trong khai thác khoáng sản (gồm: 01 Nghị quyết, 10 Nghị định của Chính

phủ; 02 Quyết định của Chính phủ, 19 Quyết định, Thông tư, Thông tư liên

tịch của các Bộ, ngành liên quan).

49

Mới đây nhất, Luật khoáng sản năm 2010 đã được Quốc hội khóa XII

thông qua tại kỳ họp thứ tám vào ngày 17 tháng 11 năm 2010. Theo đó, hệ

thống văn bản quản lý đến nay cơ bản được hoàn thiện. Đến nay Chính phủ đã

ban hành được 05 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản; 03 Quyết

định của Thủ tướng Chính phủ; 20 Thông tư, Thông tư liên tịch hướng dẫn thi

hành Luật khoáng sản và các Nghị định của các Bộ Tài nguyên và Môi trường,

Công Thương, Xây dựng, Tài chính... và gần 10 văn bản khác liên quan đến

lĩnh vực khoáng sản ban hành trước ngày 01 tháng 07 năm 2011 đang còn hiệu

lực đã tại nên hành lang pháp lý khá đầy đủ trong công tác quản lý nhà nước về

khoáng sản nói chung và khai khác tài nguyên khoáng sản.

Riêng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì dự thảo trình Quốc hội,

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành, phối hợp ban hành

theo thẩm quyền 26 văn bản, trong đó có: 01 Luật của Quốc hội (Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản); 03 Nghị định của Chính phủ; 01

Quyết định và 03 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành theo thẩm

quyền 01 Thông tư, 11 Quyết định của Bộ trưởng và phối hợp ban hành 06

Thông tư liên tịch liên quan đến quản lý nhà nước về khoáng sản.

*Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản

Sau khi Luật Khoáng sản được ban hành, Bộ Công nghiệp trước đây,

Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện nay và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương đã thường xuyên phối hợp tiến hành tổ chức công

tác tuyên truyền, hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản trong phạm vi cả nước.

Các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương, địa phương đã

đăng tải nội dung Luật Khoáng sản; Các cuộc phỏng vấn, trao đổi, tọa đàm

được thực hiện nhằm tạo điều kiện phổ biến sâu rộng pháp luật về khoáng sản

trong quần chúng nhân dân. Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp

luật về khoáng sản cho các tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản còn được

50

thực hiện thông qua công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản. Riêng

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức được 08 Lớp bồi dưỡng kiến thức

quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường cho lãnh đạo, cán bộ Sở Tài

nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 03 lớp bồi

dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về khoáng sản cho phóng viên báo chí, 06

lớp cho cán bộ, chuyên viên Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố

trong cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp Chương trình

SEMLA (Thụy Điển) xây dựng bộ tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà

nước về tài nguyên và môi trường cấp huyện, trong đó có riêng một chuyên

đề quản lý nhà nước về khoáng sản và tổ chức 06 đợt tập huấn, bồi dưỡng cho

cán bộ tài nguyên và môi trường cấp huyện.

Thực hiện đa dạng hóa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

khoáng sản, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Bộ Tài nguyên và

Môi tường đã phối hợp với Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam

thực hiện nhiều chuyên đề về công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. Năm

2006 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức thí điểm "Tuần lễ giáo dục pháp

luật về tài nguyên và môi trường" trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước về

khoáng sản tại một số khu vực. Ngoài ra, từ năm 2006 đến nay, Bộ đã tiến hành

18 phiên giao lưu trực tuyến để giải đáp pháp luật về tài nguyên và môi trường

trên mạng Internet với Sở Tài nguyên và Môi trường, người dân và doanh

nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện trong các năm tiếp theo để giải đáp những vấn đề

vướng mắc của người dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực tài nguyên môi trường

nói chung và về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng.

* Công tác xây dựng, phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến

và sử dụng khoáng sản (quy hoạch khoáng sản)

Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về khoáng sản được phân công,

từ năm 2005 Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Bộ Xây dựng đã

51

triển khai công tác lập Quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Đến nay, các

Bộ đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hoặc Bộ trưởng Bộ

Công Thương phê duyệt theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ 13 Quy

hoạch đối với 39 loại khoáng sản, gồm: quặng sắt; quặng chì - kẽm; quặng

titan; quặng bauxit; quặng crômit, mangan; quặng thiếc, vonfram và antimon;

quặng vàng, đồng, niken, molipđen; đá quý, đất hiếm, urani; quặng apatit;

nhóm khoáng chất công nghiệp (serpentin, barit, grafit, fluorit, bentonit,

diatomit, talc); nhóm khoáng chất nguyên liệu (đá hoa trắng, felspat, cao lanh,

magnezit); nhóm khoáng sản làm xi măng (đá vôi xi măng, đá sét xi măng, cát

silic, puzơlan, laterit, đá bazan); nhóm khoáng sản làm vật liệu xây dựng (đất

sét trắng, sét chịu lửa, cát trắng, đôlômit, đá ốp lát).

Thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp, hầu hết UBND các tỉnh, thành

phố đã lập và phê duyệt quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Theo số

liệu tổng hợp từ 60/63 báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,

đến tháng 6 năm 2009 mới có 47/63 tỉnh, thành phố đã phê duyệt quy hoạch

khoáng sản trên địa bàn địa phương (đạt 74,6 %). Công tác khoanh định, phê

duyệt khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản đã được các địa phương triển

khai nhưng tiến độ phê duyệt còn rất chậm. Đến tháng 6 năm 2009 mới chỉ có

27/63 tỉnh, thành phố hoàn thành công tác (đạt 42,86 %); đến hết năm 2016 có

55/63 tỉnh, thành phố đã thực hiện công tác này.

Đến hết năm 2016, theo thống kê của 61/63 tỉnh, thành phố đã có 110 quy

hoạch các loại khoáng sản được UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt theo thẩm

quyền. Các địa phương đã rà soát, điều chỉnh 20 quy hoạch khoáng sản đã phê

duyệt trước đó để phù hợp với yêu cầu thực tế cũng như các quy hoạch có liên

quan của cả nước.

* Công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản

Theo thống kê, từ khi Luật Khoáng sản có hiệu lực vào tháng 9 năm

1996 đến hết năm 2008, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Bộ Tài

52

nguyên và Môi trường đã cấp, gia hạn, thu hồi, cho phép chuyển nhượng, thừa

kế, cho phép tiếp tục thực hiện quyền thăm dò, khai thác khoáng sản tổng cộng

1.031 giấy phép hoạt động khoáng sản. Trong đó, có 640 giấy phép thăm dò

khoáng sản, 387 giấy phép khai thác khoáng sản, 03 giấy phép khảo sát

khoáng sản và 01 giấy phép chế biến khoáng sản. Công tác cấp giấy phép hoạt

động khoáng sản được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về khoáng

sản, nhất là sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản

ban hành và có hiệu lực. Theo đó, khi cấp phép đều phải tuân thủ quy hoạch

đã phê duyệt, trường hợp chưa có quy hoạch phải có ý kiến chấp thuận bằng

văn bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ được Thủ tướng Chính phủ ủy

quyền. Mặt khác, trong quá trình thẩm định, cấp giấy phép đều phải rà soát kỹ

các vấn đề liên quan đến an ninh - quốc phòng, di tích lịch sử văn hóa, cảnh

quan, môi trường cũng như các vấn đề khác có liên quan. Riêng năm 2016,

Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp mới, gia hạn cho phép chuyển nhượng 78

giấy phép thăm dò/khai thác khoáng sản và ban hành 03 Quyết định đóng cửa

mỏ khoáng sản.

Về phía Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh; theo số liệu thống kê từ 60/63 báo

cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đến tháng 6 năm 2009 có

331 giấy phép thăm dò và 3.882 giấy phép khai thác do Ủy ban nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương cấp đang thực hiện. Trong đó có 82% là

giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn,

16% là giấy phép khai thác loại khoáng sản khác, còn lại là giấy phép khai

thác tận thu.

Các tỉnh cấp nhiều giấy phép khai thác là Bình Thuận (200 giấy phép),

Vĩnh Long (155 giấy phép), Yên Bái (152 giấy phép), Cao Bằng (142 giấy

phép), Lâm Đồng (136 giấy phép), Lai Châu (124 giấy phép), Nghệ An (126

giấy phép), Lào Cai (121 giấy phép), Thanh Hóa (101 giấy phép). Tuy nhiên

53

cũng có tỉnh chưa cấp giấy phép khai thác (Bạc Liêu, Cà Mau), hoặc chỉ cấp 1,

2 giấy phép (Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Hưng Yên).

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2016, UBND cấp

tỉnh đã cấp mới tổng số 1.083 giấy phép, trong đó: 395 Giấy phép thăm dò

khoáng sản và 688 Giấy phép khai thác khoáng sản; đã thu thu hồi 28 Giấy

phép, cho phép trả lại 18 giấy phép và quyết định đóng cửa 94 khu vực mỏ.

* Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản

Công tác kiểm tra được tăng cường đối với các nội dung liên quan đến

khai thác, chế biến và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản như: kiểm tra

công tác kiểm kê, quyết toán tài nguyên khoáng sản đã khai thác, chế biến hàng

năm; kiểm tra công tác khai thác, sử dụng khoáng sản đi kèm với khoáng sản

chính đang khai thác (nếu có); kiểm tra quy hoạch, kế hoạch xây dựng cơ bản

của các mỏ mới được cấp phép, kế hoạch khai thác 5 năm, hàng năm của doanh

nghiệp liên quan đến trình tự, công nghệ khai thác hợp lý nhằm thu hồi tối đa

tài nguyên khoáng sản đang khai thác; kiểm tra công tác đổ thải đất đá hợp lý

(không đổ thải đất đá mỏ lên các khu vực có khoáng sản) v.v...

Hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các đơn vị chức

năng của Bộ chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện

trung bình 30 - 40 lượt kiểm tra định kỳ khai thác khoáng sản tại các mỏ trên

địa bàn từ 8 - 10 tỉnh, thành phố. Trong các năm 2007, 2008, 2009 công tác

này đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực

hiện với 05 đợt kiểm tra quy mô lớn tại 42 tỉnh, thành phố trong cả nước,

trong đó có 12 tỉnh, thành phố có 02 lượt kiểm tra. Cụ thể: kiểm tra tình tình

thực hiện pháp luật về Khoáng sản tại 07 tỉnh: Thái Nguyên, Cao Bằng,

Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng và Đồng Nai; kiểm tra hoạt

động khai thác, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ và xuất khẩu khoáng sản tại 07

tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Ninh

54

Thuận và Bình Thuận (năm 2007); kiểm tra tình hình thực hiện thẩm quyền

cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tại 15 tỉnh:

Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình

Phước, Lâm Đồng và thành phố Hà Nội (năm 2008); tổng kiểm tra tình hình

quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản tại 16 tỉnh, thành

phố: Cao Bằng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải Dương, Tuyên Quang,

Phú Thọ, Bình Định, Phú Yên, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Tây Ninh, An

Giang, Đắk Lắc, Bình Thuận và TP Hải Phòng; kiểm tra tình hình khai thác, vận

chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu cát trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố: An Giang,

Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, Tiền Giang, Hậu

Giang, Kiên Giang và Cần Thơ (năm 2009). Năm 2016, Bộ Tài nguyên và

Môi trường thực hiện 21 cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và 08 cuộc

kiểm tra đột xuất với trên 260 tổ chức, cá nhân trên địa bàn 29 tỉnh, thành

phố, cụ thể: thực hiện 04 cuộc thanh tra chuyên đề về quản lý, thăm dò, khai

thác, sử dụng đá ốp lát tại 04 tỉnh tại 01 doanh nghiệp gồm: Yên Bái (20),

Ninh Bình (04), Phú Yên (04), Gia Lai (13); 01 cuộc thanh tra trách nhiệm

công tác QLNN về KS đối với UBND tỉnh Bình Định có lồng ghép thanh tra

chuyên đề hoạt động khai thác, sử dụng đá ốp lát tại 25 doanh nghiệp. Kiểm

tra theo kế hoạch việc chấp hành pháp luật khoáng sản tại 06 tỉnh đối với 62

tổ chức, cá nhân, gồm: Cao Bằng (12), Thái Nguyên (09), Bắc Kạn (12),

Đồng Tháp (04), Tây Ninh (10) và Lâm Đồng (15); kiểm tra việc thực hiện

các kết luận sau thanh tra, kiểm tra (hậu kiểm) tại 02 tỉnh đối với 23 doanh

nghiệp, gồm: Thừa Thiên Huế (03), Quảng Ninh (20).

Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng thường xuyên chỉ đạo

thực hiện nhiều cuộc kiểm tra đột xuất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ,

yêu cầu quản lý và phản ánh của báo chí điển hình như: kiểm tra việc thu hồi

55

cát từ dự án nạo vét Quân cảng Vùng 5 Hải quân tại Kiên Giang; kiểm tra

công tác quản lý cấp phép và hoạt động thăm dò, khai thác vàng tại tỉnh

Quảng Nam; kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt

động khai thác, nạo vét cát lòng sông tại các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên

Huế, Hưng Yên và thành phố Hà Nội, kiểm tra sự cố vỡ bờ trong khai thác

titan tại mỏ Nam Suối Nhum, hoạt động khai thác titan tại Bình Thuận, kiểm

tra hoạt động thăm dò, khai thác đá ốp lát tại tỉnh Đắk Lắk….

Kết quả đã phát hiện các hành vi vi phạm quy định về thông báo, bổ

nhiệm giám đốc điều hành mỏ; thống kê, kiểm kê trữ lượng, khai thác khi

giấy phép đã hết hạn; vượt công suất, thiết kế mỏ; cắm mốc khu vực khai

thác; bản đồ hiện trạng; hợp đồng thuê đất; quan trắc giám sát môi trường;

nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản….

2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với khai thác tài

nguyên khoáng sản

Hoạt động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản đã góp

phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn

vừa qua. Những kết quả về phát triển kinh tế và đổi mới quản lý nhà nước về tài

nguyên khoáng sản bắt nguồn từ sự quán triệt nghiêm túc và vận dụng sáng tạo

quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, xác định được tầm

quan trọng của tài nguyên khoáng sản, khai thác tài nguyên khoáng để tận dụng

nguồn “tài sản” đặc biệt này trong phát triển kinh tế xã hội mà vẫn đảm bảo mục

tiêu phát triển bền vững.

Qua thực trạng quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản giai

đoạn 2002-2015 cho thấy cần nhận định một cách nghiêm túc và khách quan

tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng

sản trong giai đoạn hiện nay và xác định phương hướng mục tiêu, cho giai đoạn

tiếp theo.

56

2.3.1. Những kết quả đạt được

- Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản ngày

càng được quan tâm, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành

Luật Khoáng sản, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản

đã được các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương ban hành

kịp thời và khá đồng bộ, phù hợp với quy định của pháp luật về khoáng sản

và quy định của pháp luật khác có liên quan; đã thể chế hóa được các chính

sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành công

nghiệp khai thoáng và tăng cường công tác quản lý nhà nước về khoáng

sản; Luật khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật khoáng sản năm 1996 và

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật khoáng sản năm 2005); Chính phủ

và các Bộ liên quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp luật, Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý, gồm: 02

Nghị quyết, 05 Nghị định của Chính Phủ; 08 Chỉ thị, 05 Quyết định của

Thủ tướng Chính phủ; 120 văn bản Quyết định, Thông tư, Thông tư liên

tịch của các Bộ ngành; 32 văn bản QPPL về bảo vệ môi trường trong khai

thác khoáng sản…

- Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động khoáng sản ngày càng

được tăng cường, thường xuyên, liên tục và có chất lượng hơn, nội dung

thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm: thông qua công tác kiểm tra,

thanh tra hoạt động khoáng sản, nhiều vi phạm của tổ chức, cá nhân hoạt

động khoáng sản đã bị xử lý; các sai sót trong công tác cấp phép hoạt động

khoáng sản tại một số địa phương đã được khắc phục đáng kể; hạn chế tình

trạng khai thác khoáng sản trái phép, ý thức tuân thủ pháp luật về khoáng sản

của các cơ quan tổ chức, cá nhân. Nhiều bất cập trong các quy định của hệ

thống văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản được phát hiện thông qua

công tác thanh tra, kiểm tra đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường kịp thời

57

sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung phù hợp với

thực tiễn. Hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các đơn vị

chức năng của Bộ chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường thực

hiện trung bình 30 - 40 lượt kiểm tra định kỳ khai thác khoáng sản tại các mỏ

trên địa bàn từ 8 - 10 tỉnh, thành phố. Kiểm tra tình tình thực hiện pháp luật

về Khoáng sản; kiểm tra tình hình thực hiện thẩm quyền cấp giấy phép hoạt

động khoáng sản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; năm 2009, tổng kiểm tra tình

hình quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản tại 16 tỉnh,

thành phố: Cao Bằng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải Dương, Tuyên

Quang, Phú Thọ, Bình Định, Phú Yên, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Tây Ninh,

An Giang, Đắk Lắc, Bình Thuận và TP Hải Phòng; kiểm tra tình hình khai thác,

vận chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu cát trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố: An Giang,

Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, Tiền Giang, Hậu

Giang, Kiên Giang và Cần Thơ.

- Công tác xây dựng, phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến

và sử dụng khoáng sản (quy hoạch khoáng sản) đã được các Bộ Công

Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh đã triển khai xây dựng kịp thời, tuy nhiên tiến độ phê duyệt còn chậm.

- Công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản: Hệ thống các văn bản

pháp luật về khoáng sản đã tăng cường phân cấp trong quản lý nhà nước về

khoáng sản và đặc biệt là việc cấp giấy phép thăm dò, khai thác, chế biến

khoáng sản đã có sự phân cấp theo thẩm quyền cho các địa phương. Nhằm

tăng tính chủ động, nâng cao vai trò trách nhiệm của chính quyền địa phương

trong quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản.

Có một số tỉnh đã thực hiện khá nghiêm túc việc cấp giấy phép hoạt

động khoáng sản, phê duyệt trữ lượng theo thẩm quyền như: thành phố Hải

Phòng, Bình Thuận, Bình Định, Đồng Nai, Tuyên Quang, Hòa Bình, Trà Vinh,

Tiền Giang, Tây Ninh.

58

- Công tác cán bộ và quản lý đội ngũ công chức thực hiện nhiệm vụ quản

lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản đã có nhiều cố gắng, dần đi

vào nề nếp, trình độ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước và các

kỹ năng khác bước đầu được nâng cao, đội ngũ cán bộ công chức dần được

chuẩn hóa. Công tác đánh giá, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm và luân chuyển cán

bộ được coi trọng và có nhiều chuyển biến mới; công tác đánh giá, phân loại

cán bộ được tiến hành nghiêm túc, đúng quy trình, quy định; công tác đào tạo

bồi dưỡng cán bộ, công chức trong ngành ngày càng được quan tâm nhằm nâng

cao chất lượng đội ngũ công chức; Việc thực hiện chế độ chính sách cho công

chức thực thi nhiệm vụ được đảm bảo, nhằm khuyến khích, động viên kịp thời

đội ngũ cán bộ công chức yên tâm cống hiến, phấn đấu hoàn thành tốt các

nhiệm vụ được giao.

- Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về Khoáng sản

được đẩy mạnh thông qua nhiều hình thức nên đã phần nào tác động tới cán

bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại các cơ quản

quản lý nhà nước về khoáng sản ở địa phương; ý thức tuân thủ pháp luật về

khoáng sản của người dân và doanh nghiệp đã được cải thiện một bước đáng

kể, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản, nâng cao

hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản.

2.3.2. Những hạn chế trong quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản

* Đối với hoạt động khai thác khoáng sản

Trong vài năm trở lại đây, hoạt động khoáng sản đã thực hiện theo quy

hoạch, kế hoạch của Nhà nước; một số doanh nghiệp đã chú ý đầu tư chiều

sâu vào công nghệ khai thác, chế biến và tạo thêm nhiều công ăn việc làm,

góp phần cải tạo từng bước cơ sở hạ tầng của các địa phương, nhất là ở những

vùng sâu, vùng xa. Hoạt động khoáng sản đã dần đi vào nền nếp, khai thác

59

khoáng sản trái phép ngày càng giảm; các tổ chức cá nhân tham gia hoạt động

khoáng sản nhìn chung đã có ý thức tuân thủ quy định của pháp luật, gắn mục

tiêu lợi ích sản xuất, kinh doanh khoáng sản với mục tiêu bảo vệ môi trường,

rừng các loại, an toàn lao động, đảm bảo an ninh quốc phòng và phát triển bền

vững kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, yếu kém cần được

khắc phục, cụ thể là:

- Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản còn ở mức độ thấp

Nhìn chung hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản của các doanh

nghiệp chưa khai thác triệt để được quặng nghèo, các thành phần có ích đi

kèm trong quặng; tài nguyên khoáng sản chưa được sử dụng hợp lý, tiết kiệm,

có hiệu quả. Tình trạng "dễ làm - khó bỏ" khai thác không theo quy hoạch,

không theo thiết kế vẫn còn diễn ra, nhất là đối với các mỏ khoáng sản kim

loại. Điều này dẫn tới việc tài nguyên khoáng sản nhanh chóng cạn kiệt, tổn

thất tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác và chế biến còn ở mức

cao, chưa kiểm soát được (quặng thiếc, quặng chì - kẽm, quặng crômit,

mangan v.v...).

- Đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản chưa được chú trọng

Thực hiện chủ trương hạn chất xuất khẩu khoáng sản thô, quặng tinh,

tăng cường chế biến sâu, thời gian gần đây đã có một số doanh nghiệp quan

tâm đầu tư cho hoạt động chế biến, nhất là chế biến sâu. Tuy nhiên, số lượng

các dự án chế biến sâu khoáng sản chưa nhiều, trình độ công nghệ chế biến

chưa cao; hệ thu hồi thấp, chưa có công nghệ thu hồi triệt để khoáng sản đi

kèm với khoáng sản chính; chưa thực sự quan tâm đến lựa chọn công nghệ

thân thiện với môi trường khi chế biến khoáng sản.

- Trữ lượng đã thăm dò của một số mỏ khoáng sản đang dần cạn kiệt

Một số loại khoáng sản như thiếc sa khoáng, chì - kẽm, mangan v.v... do

đã khai thác lâu năm, trữ lượng đã và đang dần cạn kiệt, hoặc còn lại không

60

nhiều, cần phải tiếp tục đầu tư thăm dò mở rộng trên mặt và bổ sung phần trữ

lượng dưới sâu nhằm gia tăng trữ lượng. Tuy nhiên điều này chưa được các

doanh nghiệp thực sự quan tâm đầu tư, một phần là do nguồn vốn đầu tư cho

hoạt động thăm dò của các doanh nghiệp còn hạn chế như đã nêu trên.

- Khoáng sản xuất khẩu vẫn còn ở dạng nguyên liệu thô, quặng tinh

Mặc dù Nhà nước có nhiều văn bản yêu cầu không xuất khẩu khoáng

sản thô, quặng tinh nhưng trong thực tế vẫn chưa hạn chế được tình trạng xuất

khẩu khoáng sản ở dạng nguyên liệu thô; tình trạng mua, bán, vận chuyển

quặng trái phép và xuất khẩu quặng (như quặng antimon, chì - kẽm, sắt,

crômit v.v… ) vẫn còn diễn ra tại một số địa phương, nhất là tại các tỉnh miền

núi phía Bắc.

- Hoạt động khai thác thủ công, nhỏ lẻ chưa được quản lý chặt chẽ

Hoạt động khai thác nhỏ lẻ, thủ công (cá thể, hộ gia đình) đối với khai

thác cát, sỏi lòng sông, khai thác sét làm gạch ngói thủ công v.v... mang tính

mưu sinh của người dân tại nhiều địa phương đến nay vẫn chưa được cấp

phép theo quy định để quản lý. Do phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ,

hạn chế về năng lực vốn đầu tư nên vẫn còn tình trạng chia các khu mỏ có quy

mô lớn thành các khu vực nhỏ để cấp cho nhiều doanh nghiệp. Điều này dẫn

tới tình trạng đầu tư dàn trải, không tập trung, tài nguyên khoáng sản khai thác,

sử dụng chưa triệt để, đặc biệt là đối với hoạt động khai thác đá vật liệu xây

dựng thông thường.

- Công tác giám sát tổn thất, làm nghèo khoáng sản; công tác kiểm kê

tài nguyên khoáng sản chưa được quan tâm đúng mức

Công tác theo dõi thông tin tổn thất, làm nghèo khoáng sản trong quá

trình khai thác; biến động chất lượng, trữ lượng mỏ khoáng sản được khai

thác, công tác lập bản đồ hiện trạng khai thác mỏ định kỳ theo quy định của

pháp luật về khoáng sản chưa được các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản

61

thực hiện tốt. Điều này gây khó khăn cho công tác quản lý kỹ thuật, nhất là

công tác kiểm kê trữ lượng khoáng sản phục vụ công tác quản lý nhà nước về

khoáng sản, nhất là công tác quy hoạch, định hướng phát triển công nghiệp

khai khoáng.

* Đối với công tác QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng kể nêu trên, nhưng công tác

quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản vẫn còn một số tồn tại,

bất cập cần khắc phục, đó là:

- Một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật chậm được ban hành hoặc

ban hành chưa đúng quy định

Một số nội dung đã được quy định trong Luật Khoáng sản nhưng chậm

được ban hành như: quy chế đấu thầu thăm dò, khai thác khoáng sản; quy

định thủ tục cấp vốn Nhà nước, thuế chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác

khoáng sản v.v … nên chưa được triển khai trong thực tế; quy định hoạt động

điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản chưa rõ nét, khó thực hiện

Hiện nay pháp luật về khoáng sản chưa quy định về phân cấp thẩm

quyền cấp giấy phép khai thác khoáng sản cho Ủy ban nhân dân cấp huyện

(hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường). Tuy nhiên, qua kiểm tra đã có một số

địa phương quy định phân cấp (hoặc ủy quyền nhưng thực chất là phân

cấp) cho Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện

cấp giấy phép hoạt động khoáng sản, phê duyệt trữ lượng một số loại

khoáng sản (có quy mô nhỏ, khai thác cá thể, hộ gia đình) thuộc thẩm

quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chưa phù hợp với quy định của

pháp luật về khoáng sản và pháp luật khác có liên quan.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản còn hạn chế

Mặc dù đã đạt được nhưng kết quả đáng kể, nhưng công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản thực hiện chưa thường xuyên, chưa

62

phổ biến sâu rộng tới mọi thành phần trong xã hội, nhất là người dân ở vùng

sâu, vùng xa, vùng miền núi khó khăn là những địa bàn chủ yếu có các hoạt

động khai thác khoáng sản, người dân ở những khu vực có khoáng sản chưa

khai thác, cũng như những nơi có hoạt động khoáng sản.

- Công tác lập, phê duyệt, thực hiện Quy hoạch khoáng sản còn bất cập

Một số địa phương cho phép đầu tư nhiều dự án chế biến hoặc chế biến

sâu khoáng sản chưa có trong quy hoạch Trung ương mà không có ý kiến của

Thủ tướng Chính phủ cũng như của các Bộ có liên quan (chế biến sâu quặng

sắt, quặng mangan tại Cao Bằng; chế biến sâu quặng sắt, chế biến quặng titan

tại Thái Nguyên, chế biến sâu quặng titan tại Bình Định, chế biến sét tại Hải

Dương v.v...). Điều này dẫn đến những bất cập sau:

+ Số lượng dự án chế biến sâu do địa phương quy hoạch hoặc đã cấp chứng

nhận đầu tư lớn hơn số lượng dự án trong Quy hoạch Trung ương đã phê duyệt;

+ Công suất thiết kế của các nhà máy chế biến sâu do Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh cho phép đầu tư lớn hơn công suất các nhà máy chế biến sâu trong quy

hoạch của Trung ương. Tuy nhiên do không cân đối được nguồn nguyên liệu

khoáng sản cung cấp cho các nhà máy dễ dẫn tới tình trạng tranh mua, tranh

bán, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.

+ Tiến độ lập, phê duyệt quy hoạch khoáng sản, nhất là tiến độ

khoanh định, phê duyệt khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản chậm.

Đến năm 2015 đã có 78,5 % tỉnh, thành phố trong cả nước phê duyệt quy

hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Tuy nhiên, còn nhiều quy hoạch ban

hành trước tháng 10 năm 2005 chưa được rà soát, điều chỉnh, nhất là điều

chỉnh sau khi quy hoạch khoáng sản của cả nước đã phê duyệt; chất lượng

các quy hoạch của các địa phương đã duyệt còn thấp; có sự chồng chéo

giữa quy hoạch khoáng sản của Trung ương và địa phương, nhất là các dự

án chế biến sâu như đã nêu trên.

63

- Việc thực hiện thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của

địa phương vẫn còn một số bất cập

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản đã tăng cường

phân cấp trong quản lý nhà nước cho các địa phương, nhất là thẩm quyền cấp

giấy phép thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản. Đây là một chủ trương

đúng đắn, góp phần tăng cường cải cách hành chính, tăng tính chủ động cho

địa phương trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. Tuy nhiên, qua

kiểm tra cho thấy công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của các địa

phương còn một số bất cập, đó là:

Còn nhiều giấy phép khai thác khoáng sản do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương cấp chưa đúng quy định (cấp trước khi quy hoạch

khoáng sản của Trung ương phê duyệt nhưng chưa có ý kiến của Thủ tướng

Chính phủ; khu vực cấp giấy phép thuộc quy hoạch khai thác do Trung ương

quản lý; cấp giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông

thường nhưng khi sử dụng lại làm cho mục đích khác như đá ốp lát, đá bột);

hồ sơ cấp giấy phép khai thác khoáng sản chưa chặt chẽ, sơ sài; trong quá trình

cấp phép chưa ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc

bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ môi trường, môi sinh, nhất là trách nhiệm khai

thác triệt để, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản v.v...

- Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép vẫn còn diễn ra

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác giải tỏa các tụ điểm khai thác

khoáng sản trái phép thời gian qua nhưng hoạt động khai thác khoáng sản trái

phép, nhất là đối với khai thác trái phép cát sỏi lòng sông, lòng hồ tại nhiều địa

phương vẫn còn diễn ra khá công khai, quy mô đáng kể như đã nêu trên. Hậu

quả của hoạt động khai thác khoáng sản trái phép là: gây mất trật tự an ninh, xã

hội; gây thất thoát tài nguyên khoáng sản của quốc gia; gây hậu quả khá nghiêm

trọng về môi trường mà không được xử lý như: thiếc sa khoáng (Quỳ Hợp -

64

Nghệ An), vàng sa khoáng (Cao Bằng), vàng sa khoáng Thần Sa - Khắc Kiệm

(Thái Nguyên), crômit sa khoáng Cổ Định (Thanh Hóa), vàng sa khoáng, vàng

gốc (Quảng Nam), vàng gốc (Lào Cai), vàng sa khoáng (Lai Châu), than (Hải

Dương, Quảng Ninh ) v.v...

- Công tác thanh tra, kiểm tra

Công tác này thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,

vẫn còn một số tồn tại hạn chế đó là: lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra ở

Trung ương cũng như địa phương còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu cả về số

lượng, chất lượng; phương tiện, thiết bị, kinh phí còn thiếu không đáp ứng yêu

cầu công tác thanh tra chuyên ngành. Do đó, kết luận thanh tra , kiểm tra thường

chung chung, chưa cụ thể. Nội dung thanh tra chủ yếu tập trung vào các vấn đề

về pháp lý, hồ sơ mà chưa quan tâm đến nội dung quản trị tài nguyên khoáng sản

của các chủ thể khai thác khoáng sản như: công tác quản lý ranh giới mỏ; công

tác lập bản đồ hiện trạng, mặt cắt hiện trạng; công tác thống kê, kiểm kê trữ

lượng khoáng sản đã khai thác; tổn thất khoáng sản đã khai thác; việc sử dụng

hợp lý, tiết kiệm, tối đa khoáng sản trong khai thác....

- Nguồn thu cho ngân sách Nhà nước trực tiếp từ hoạt động khoáng sản

còn hạn chế

Tài nguyên khoáng sản là một trong những nguồn lực để phát triển đất

nước, cần phải được khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả để phát huy sức

mạnh của nó. Tuy nhiên, nguồn thu của Nhà nước từ tài sản tài nguyên

khoáng sản chưa nhiều, ngoài các khoản thuế như thuế doanh thu, thuế thu

nhập doanh nghiệp thì Nhà nước chỉ có nguồn thu thông qua thuế tài nguyên.

Trong thực tế, khi có giấy phép khai thác khoáng sản, các doanh

nghiệp, nhất là Công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân...dễ dàng chuyển

nhượng quyền khai thác với nguồn thu đáng kể mà Nhà nước không thu được

khoản phí hoặc thuế nào. Trong khi đó, nguồn thu của Nhà nước thông qua

65

việc cấp giấy phép khai thác không đáng kể, chưa thực sự phát huy được giá

trị thực của nguồn tài sản này. Điều này gây khó khăn cho việc tăng thu ngân

sách Nhà nước từ hoạt động khai thác khoáng sản nhằm điều tiết lợi ích trở lại

cho người chủ thực sự của tài sản này là người dân.

Mặt khác, các Doanh nghiệp đứng ra khai thác khoáng sản và nộp ngân

sách nhà nước như thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, tiền cấp quyền

khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, hiện nay các nguồn thu ngân sách từ các

khoản này chủ yếu là do doanh nghiệp tự khai báo sản lượng, trữ lượng mà

nhà nước chưa có cơ chế để kiểm soát được việc kê khai này. Nguồn thu từ

khoáng sản chưa kiểm soát được dẫn đến thất thu.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

* Về thể chế, chính sách

- Một số văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản do yêu cầu về tiến

độ soạn thảo đã bỏ qua bước khảo sát thực tế đã làm giảm tính thực tiễn của

những văn bản quy phạm pháp luật này, gây khó khăn khi thi hành.

- Do trải qua nhiều giai đoạn, chuyển qua nhiều Bộ quản lý nên hệ

thống văn bản pháp luật về khoáng sản hiện hành bộc lộ nhiều tồn tại. Hoạt

động khoáng sản của các tổ chức, cá nhân còn bị điều chỉnh bởi một số văn

bản pháp luật khác như: Bảo vệ môi trường, Đất đai, Tài nguyên nước, Tài

nguyên rừng, v.v... Trong khi các văn bản luật nêu trên đều đã được sửa đổi

để ban hành mới hoặc đã được sửa đổi, bổ sung thì một số quy định của pháp

luật về khoáng sản chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp gây khó khăn

cho công tác quản lý, nhất là tại các địa phương.

- Xuất phát từ thực tiễn hoạt động khai thác khoáng sản (chủ yếu là cát,

sỏi, sét gạch ngói, đá chẻ v.v...) theo hình thức thủ công, nhỏ lẻ vì mục đích

mưu sinh của hộ gia đình, cá nhân diễn ra khá phổ biến, không thể ngăn cấm

nhưng không áp dụng quy định thủ tục hành chính hiện hành, chưa có quy

66

định quản lý hoạt động này trong pháp luật về khoáng sản nên một số địa

phương đã “linh hoạt” quy định phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp huyện,

cho Sở Tài nguyên và Môi trường như đã nêu trên.

- Cơ chế bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác, ngăn chặn hoạt

động khai thác khoáng sản trái phép chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính như

hiện nay kém hiệu quả, chưa phù hợp với đặc điểm và thực trạng công tác quản

lý nhà nước về khoáng sản. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép

chỉ được ngăn chặn mang tính tức thời, không giải quyết triệt để, nguy cơ tái

diễn cao như đã xảy ra trong thời gian qua. Trên thực tế, các địa phương vẫn

chưa nghiên cứu, đề xuất được cơ chế, chính sách, giải pháp bảo vệ tài nguyên

khoáng sản hữu hiệu theo hướng gắn trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp

huyện, xã và quyền lợi của người dân địa phương nơi có khoáng sản.

* Về công tác lập, phê duyệt, triển khai quy hoạch khoáng sản, khoanh

định và phê duyệt khu vực cấm, tạm thời cấm hoạt động khoáng sản

- Hầu hết các quy hoạch (trừ quy hoạch khoáng sản làm nguyên liệu xi

măng) chỉ nêu tên mỏ, khu vực mỏ hoặc địa danh có mỏ đưa vào quy hoạch mà

không có tọa độ, diện tích cụ thể, điều này gây khó khăn khi xem xét, cấp giấy

phép hoạt động khoáng sản, cũng như xác định các khu vực nằm ngoài quy

hoạch của Trung ương (để xác định thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh).

- Một số quy hoạch ngay thời điểm phê duyệt đã không cập nhật các

thông tin mới nhất về các dự án thăm dò, khai thác đã và đang triển khai

(không có phương án xử lý đối với các dự án đang triển khai trước thời điểm

phê duyệt quy hoạch); việc xác định sản lượng quặng tinh theo từng giai đoạn

nêu trong quy hoạch không có giai đoạn “quá độ” chuyển tiếp (titan), chưa phù

hợp với thực tế hoạt động khai thác của các doanh nghiệp (quy hoạch titan, chì

- kẽm v.v..). Một số quy hoạch chưa có sự thống nhất, đồng bộ về tiến độ thực

hiện dự án giữa giai đoạn thăm dò và khai thác (nêu trong quy hoạch dự án sẽ

67

khai thác giai đoạn 2008 – 2015 nhưng giai đoạn trước đó không có trong

danh mục thăm dò, hoặc ngược lại như quặng sắt, đá ốp lát v.v...). Dẫn đến

tình trạng, ngay sau khi phê duyệt đã có nhu cầu điều chỉnh quy hoạch.

- Phần lớn khoáng sản có tính đa công dụng, vừa sử dụng làm vật liệu

xây dựng, vừa sử dụng được để làm khoáng chất công nghiệp và các lĩnh vực

khác cùng tồn tại trong một mỏ khoáng sản (đá hoa trắng, caolin - fensat, đá

vôi, điatomit, bentonit v.v...). Nhưng nội dung quy hoạch thăm dò, khai thác

một mỏ khoáng sản lại được thể hiện trong 02 Quy hoạch nên khó có sự đồng

bộ và khó khăn khi thực hiện quy hoạch sau khi phê duyệt.

- Quy hoạch các khoáng sản nêu trên sau khi được Thủ tướng Chính

phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt, các địa phương cũng lập và phê

duyệt đối với các khu vực ngoài quy hoạch Trung ương. Tuy nhiên, phần lớn

trước khi phê duyệt Quy hoạch không có ý kiến của Bộ quản lý chuyên

ngành. Do đó, nhiều quy hoạch địa phương đã duyệt có bất cập (công suất

khai thác, chế biến như titan, quặng sắt, magan, chì - kẽm… lớn hơn nhiều so

với quy hoạch của Trung ương) như Cao Bằng, Bắc Kạn v.v...

- Sau khi quy hoạch khoáng sản của Trung ương phê duyệt, việc công bố

công khai nội dung quy hoạch cũng như hướng dẫn thực hiện quy hoạch gần

như chưa thực hiện. Dẫn tới tình trạng mỗi địa phương hiểu theo một cách khác

nhau và thực hiện cũng khác nhau, không đúng nội dung quy hoạch.

- Do phải chờ kết quả rà soát 3 loại rừng, khoanh định diện tích khu vực

cấm, tạm cấm về an ninh - quốc phòng nên công tác khoanh định, phê duyệt

khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản tại nhiều địa phương còn chậm.

Dễ dẫn tới việc sau khi cấp giấy phép hoạt động khoáng sản thì khu vực cấp

phép lại thuộc diện tích khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản;

* Về bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý

- Trước năm 1996, khi hoạt động khoáng sản chưa sôi động, hoạt động

khai thác khoáng sản trái phép còn ít, công tác quản lý nhà nước về khoáng sản

68

chưa phức tạp; Bộ Công nghiệp nặng có Cục Quản lý tài nguyên khoáng sản

Nhà nước và 02 Chi cục khu vực thuộc Cục thực hiện nhiệm vụ quản lý chuyên

ngành về khai thác khoáng sản. Hiện nay, hoạt động khoáng sản sôi động với

số lượng doanh nghiệp gấp hàng chục lần so với năm 1996; hoạt động khai

thác khoáng sản trái phép ngày một tinh vi và phức tạp; phạm vi quản lý nhà

nước về khoáng sản rộng (gồm cả hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác, chế

biến); yêu cầu công tác quản lý nhà nước về khoáng sản ngày càng cao nhưng

lực lượng làm công tác quản lý nhà nước ở Trung ương còn thiếu về số lượng,

chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý;

- Lực lượng cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường trực

tiếp là công tác quản lý nhà nước về khoáng sản của các tỉnh, thành phố còn

thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Theo số liệu thống kê của năm 2009 (số

liệu từ 40/63 tỉnh, thành phố) chỉ có khoảng 30% cán bộ đang làm công tác

quản lý nhà nước về khoáng sản có chuyên ngành về địa chất - mỏ. Cán bộ tại

phòng Tài nguyên và Môi trường cấp quận/huyện còn thiếu về số lượng, hầu

hết làm công tác kiêm nhiệm, gần như không có chuyên môn về địa chất - mỏ.

Thực trạng trên đã làm giảm hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về khoáng

sản tại địa phương và là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới công tác

quản lý nhà nước về khoáng sản tại các địa phương còn nhiều yếu kém, bất cập

nhất là trong thẩm định hồ sơ cấp giấy phép hoạt động khoáng sản.

* Về hệ thống cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản

Cho đến nay, mô hình tổ chức thanh tra chuyên ngành khoáng sản

chưa có một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Lực

lượng thanh tra chuyên ngành khoáng sản hiện còn quá mỏng, chưa đáp

ứng yêu cầu về chuyên môn cũng như nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành,

nhất là chuyên ngành khai thác khoáng sản, chức danh thanh tra viên

chuyên ngành khoáng sản chưa được xây dựng để bổ nhiệm đã làm giảm

hiệu lực, hiệu quả của công tác này.

69

Do hạn chế về lực lượng, thiết bị, kinh phí cũng như đặc thù của quản

lý khoáng sản với địa bàn quản lý rộng, phần lớn các mỏ nằm ở vùng sâu,

vùng xa, hạ tầng giao thông thấp kém nên công tác thanh tra, kiểm tra, giám

sát hoạt động khoáng sản đối với các doanh nghiệp khai thác khoáng sản của

các địa phương chưa được tiến hành thường xuyên; các biện pháp xử lý, chế

tài chưa đủ mạnh để buộc doanh nghiệp hoạt động khoáng sản phải thực hiện

đúng đề án, thiết kế khai thác mỏ; thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường,

sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản.

* Nguyên nhân về phía các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản

Mặc dù số lượng doanh nghiệp lên tới gần 2000 doanh nghiệp, nhưng

ngoài các doanh nghiệp lớn của Nhà nước như Tập đoàn Công nghiệp Than -

Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất,

Tổng công ty công nghiệp Xi măng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, một số doanh nghiệp lớn tại một số địa phương thì phần lớn các tổ chức,

cá nhân khai thác khoáng sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố có quy mô trung

bình và nhỏ, năng lực tài chính, kinh nghiệm còn hạn chế, chưa đầu tư thích

đáng để lựa chọn công nghệ, thiết bị hiện đại nhằm thu hồi triệt để, sử dụng

hợp lý tài nguyên khoáng sản trong khai thác, chế biến;

Nhiều doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nhất là trong

khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, khai thác khoáng

sản kim loại theo quy mô nhỏ có tâm lý đầu tư ngắn hạn, thu hồi vốn

nhanh, chỉ quan tâm đến lợi nhuận, không quan tâm nhiều đến thực hiện

nghĩa vụ bảo vệ môi trường, trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội trong

khai thác, chế biến khoáng sản;

Lãnh đạo doanh nghiệp, Giám đốc điều hành mỏ chưa chú trọng nghiên

cứu các quy định của pháp luật về khoáng sản; ý thức tuân thủ pháp luật của

một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân còn thấp nên tình trạng vi phạm pháp

70

luật nhất là về bảo vệ môi trường, tuân thủ quy trình, quy phạm kỹ thuật, an

toàn lao động trong khai thác, chế biến khoáng sản vẫn còn tồn tại.

* Về phân cấp quản lý, cấp giấy phép, bảo vệ tài nguyên khoáng sản và

sự phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản

- Chủ trương tăng cường phân cấp cho các địa phương là chủ trương

đúng đắn. Thực tế thời gian qua việc phân cấp thẩm quyền cấp giấy phép hoạt

động khoáng sản cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho

các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất, cái cách thủ tục hành chính.

Tuy nhiên, năng lực của cơ quan tham mưu thực hiện nhiệm vụ phân cấp tại

nhiều địa phương còn hạn chế nên nhiều giấy phép, hồ sơ giấy phép đã cấp

còn những tồn tại như đã nêu trên.

- Hệ thống quản lý nhà nước về khoáng sản được tổ chức vừa theo

ngành từ Trung ương xuống địa phương vừa theo quản lý hành chính các cấp.

Việc phân cấp này có thuận lợi cho việc thống nhất quản lý theo chức năng và

ngành kinh tế nhưng cũng gặp trở ngại nếu không có cơ chế điều hành phối

hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành và địa phương liên quan. Một số trở ngại

trong thực tế về vấn đề này gồm:

+ Chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản vừa bị chồng

chéo, vừa bị gián đoạn do có nhiều Bộ ngành cùng tham gia công tác quản lý;

một số quy định có mâu thuẫn và không rõ ràng với các luật liên quan và liên

bộ; có những quy định dẫn đến việc phê duyệt chồng chéo của các Bộ và

ngành khác nhau. Ví dụ trong quá trình xin giấy phép đầu tư (Luật đầu tư),

giấy phép hoạt động khoáng sản (Luật Khoáng sản), cấp phép xây dựng công

trình (Luật Xây dựng), đánh giá tác động môi trường (Luật Bảo vệ môi

trường) làm phức tạp và lâu dài quá trình cấp phép.

+ Việc phân cấp quản lý chưa khoa học, sự phối hợp quản lý, trao đổi

thông tin giữa các Bộ ngành chưa hiệu quả. Sự phối hợp rất hạn chế do sự

71

phân công trách nhiệm và phân công quyền hạn giữa các Bộ ngành không rõ

ràng, chặt chẽ;

+ Các cấp quản lý hành chính lồng ghép nhiều chức năng nhiệm vụ

vào một phòng chuyên môn, gây nhiều hạn chế cho công tác quản lý. Ví dụ

Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc UBND cấp huyện có chức năng

tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về tài nguyên và môi trường

gồm: đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường, biến đổi khí hậu,

biển và hải đảo. Do đó, mỗi cán bộ có thể kiêm nhiệm một số lĩnh vực, dẫn

đến tình trạng cán bộ quản lý không có chuyên môn sâu về lĩnh vực được

giao quản lý…

- Chưa có sự trao đổi thường xuyên về mặt chuyên môn, nghiệp vụ

trong quá trình thẩm định, cấp giấy phép hoạt động khoáng sản theo thẩm

quyền giữa cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với cơ quan

quản lý nhà nước ở Trung ương. Ngoài một số địa phương thực hiện khá

thường xuyên việc gửi giấy phép thăm dò, khai thác đã cấp cho Bộ Tài

nguyên và Môi trường (kèm theo bản đồ khu vực thăm dò, khai thác) như

Lạng Sơn, Hòa Bình, Đồng Nai, Sơn La, Hải Phòng, Đồng Tháp, An Giang

v.v... vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố không thực hiện. Đã gây khó khăn trong

việc phối hợp kiểm tra, giám sát công tác cấp phép và không xử lý kịp thời

những trường hợp cấp phép chưa đúng quy định của pháp luật.

- Sự phối hợp giữa các Sở, ngành có liên quan tại một số địa phương

với chính quyền địa phương trong quản lý tài nguyên khoáng sản chưa khai

thác còn chưa hiệu quả; chính quyền địa phương, nhất là cấp xã chưa thực sự

cương quyết xử lý lực lượng khai thác khoáng sản trái phép. Công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản còn hạn chế, chưa sâu rộng, nhất là

đối với nhân dân nơi có mỏ khoáng sản.

72

Tiểu kết Chương 2

Ở Chương 2, tác giả đã nêu tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên

khoán sản, về loại hình khoáng sản được khai thác, loại hình doanh nghiệp

tham gia khai thác khoáng sản; Hệ thống thể chế chính sách liên quan đến

quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản hiện nay: hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về khai

thác tài nguyên khoáng sản.Tác giả đã làm rõ được thực trạng QLNN đối với

khai thác tài nguyên khoáng sản giai đoạn 2002-2016 đồng thời đánh giá về

những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong QLNN về khai thác tài

nguyên khoáng sản đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó để từ

đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác

tài nguyên khoáng sản Việt Nam.

73

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC

TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN VIỆT NAM

3.1. Bối cảnh sắp tới

Việt Nam đang thay đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều

sâu, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh hội nhập, đa phương

hóa, đa dạng hóa các quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế-xã

hội. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ: "Mô hình tăng trưởng trong

thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú

trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh

trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công

nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi

thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững

(hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp

quốc); giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển

kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh giữa tăng trưởng kinh tế và phát

triển văn hóa thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.

Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập trên nhiều phương diện, coi hội

nhập như là một động lực quan trọng cho sự phát triển. Hội nhập kinh tế quốc

tế trong lĩnh vực khai thác sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường đang tạo

ra những ràng buộc cho Việt Nam và làm cho Việt Nam ngày càng phải hài

hòa với các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi. Điều đó

cũng góp phần thúc đẩy Việt Nam phải có một chiến lược quản lý và sử dụng

nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và hợp lý để đảm bảo nguồn

74

lực phát triển lâu dài. Do vậy, các chính sách pháp luật về tài nguyên khoáng

sản cũng như QLNN cần có những quy định cụ thể đối với các hoạt động kinh

tế trong nước nhằm đảm bảo và thúc đẩy việc sử dụng tối ưu, hiệu quả và

đồng thời bảo vệ được các nguồn tài nguyên.

Hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, khoáng sản nhằm tranh thủ

các cơ hội hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ các hoạt động hợp tác đa

phương và song phương nhằm góp phần giải quyết những thách thức về cạn

kiệt tài nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường; thực hiện có hiệu quả các

điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan đến lĩnh vực khoáng sản mà Việt

Nam đã ký kết, phê chuẩn và tham gia, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam

trên trường quốc tế.

3.2. Quan điểm, mục tiêu

Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản là trách nhiệm

không chỉ đối với nhà nước (đại diện chủ sở hữu) mà còn là trách nhiệm của

các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản (trực tiếp quản lý, khai thác) nhằm

đạt mục tiêu “Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên

khoáng sản”.

Nhằm phát huy nguồn lực tài nguyên khoáng sản trong thời kỳ đổi

mới, Ngày 25/4/2011, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TW về định

hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm

nhìn đến 2030.

Căn cứ Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội 2011 - 2020, Chính phủ đã ra Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22 tháng

12 năm 2011 về việc Phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030.

Căn cứ Luật Khoáng sản năm 2010 được thông qua tại Kỳ họp thứ 8,

Quốc hội khóa XII và Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011

75

của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai

khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ Tài nguyên và Môi trường

đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hoàn thành Chiến lược

khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

3.2.1. Các quan điểm cơ bản

Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng

sản ở các văn bản trên là đúng đắn và hợp lý. Tác giả luận văn đồng ý với các

quan điểm đó, mà các nội dung chính được thể hiện ở:

- Khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất

quản lý, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, phải

được điều tra, thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng và có chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch sử dụng hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng chung và bền vững của

nền kinh tế. Là đại diện chủ sở hữu về khoáng sản, Nhà nước phải thể hiện

đầy đủ quyền của chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt đối với khoáng sản khi

giao cho tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác.

- Tài nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về chủng loại; một số khoáng

sản có tài nguyên, trữ lượng lớn, do vậy cần phải hình thành một số ngành

công nghiệp khai thác chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài như:

dầu khí, bô-xit, titan - zircon, đất hiếm, a-pa-tit, đá nguyên liệu xi măng, đá

ốp lát v.v…Tuy nhiên, khoáng sản là tài nguyên không tái tạo nên phải được

quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng hết sức hợp lý, triệt để tiết kiệm, sự thật có

hiệu quả cao.

- Việc khai thác tài nguyên khoáng sản phải tính đến nhu cầu trước mắt

cũng như lâu dài của đất nước, có tính đến xu hướng tiến bộ của khoa học

công nghệ trong lĩnh vực sử dụng công nghệ mới và vật liệu thay thế.

- Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân

lành nghề, từng bước làm chủ việc thăm dò và khai thác, chế biến khoáng sản,

76

đầu tư thêm thiết bị và công nghệ tiến tiến cho công tác địa chất, khai khoáng

và chế biến khoáng sản.

- Phát triển công nghiệp khai khoáng phải đi đôi với đảm bảo an ninh,

quốc phòng, bảo vệ môi trường, bảo vệ cảnh quan, di tích lịch sử, văn hóa; bảo

đảm hài hòa lợi ích thu được từ khai thác và chế biến khoáng sản giữa Nhà

nước, doanh nghiệp và người dân nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến.

3.2.2. Các mục tiêu

Chính sách, văn bản pháp luật của nhà nước về quản lý sử dụng tài

nguyên khoáng sản đã được điều chỉnh, bổ sung theo từng giai đoạn phát triển

kinh tế xã hội của đất nước và bối cảnh quốc tế. Chính sách, các văn bản quy

phạm pháp luật về tài nguyên khoáng sản từng bước được điều chỉnh từ quan

điểm khai thác phục vụ phát triển kinh tế trước mắt (nhu cầu nguyên liệu,

nhiên liệu, chất đốt), chuyển sang quan điểm khai thác vì mục tiêu lâu dài,

bảo vệ môi trường và đảm bảo hài hòa vì lợi ích xã hội, quyền lợi người dân

vùng khai thác khoáng sản…

a) Phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất và

điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 và các diện tích biển ven bờ sâu đến 30m

nước. Xây dựng chuyên ngành điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản ở mức

hiện đại, đủ năng lực tìm kiếm, phát hiện mỏ mới với độ sâu đến 1.000m

nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện tiềm năng khoáng sản trên đất liền, ở đáy

biển và thềm lục địa của đất nước.

b) Nâng tỉ trọng ngành công nghiệp khai khoáng trong GDP từ khoảng

10% hiện nay lên 15-20% vào năm 2020 và tiếp tục tăng vào những năm tiếp

theo; tăng tỉ trọng công nghiệp khai khoáng trong sản xuất công nghiệp. Hình

thành và phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, chế biến sâu như lọc,

hóa dầu, sắt, thép, đồng, chì - kẽm, phân bón, hóa chất, chế biến kim loại quý

hiếm (titan, đất hiếm…), alumin – nhôm, điện (điện than, điện khí, điện nguyên

tử, điện địa nhiệt), xi măng, vật liệu xây dựng… có tầm cỡ trong khu vực.

c) Tăng dự trữ một số khoáng sản chiến lược vì lợi ích lâu dài của quốc gia.

77

3.2.3. Mục tiêu cụ thể

a) Đối với công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản

- Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 đạt 90% diện

tích phần đất liền, diện tích biển ven bờ sâu đến 30m nước, diện tích các đảo;

làm rõ hơn về cấu trúc địa chất, mức độ phân bố khoáng sản và phát hiện,

khoanh định các diện tích có triển vọng về khoáng sản.

- Điều tra, đánh giá ở độ sâu 500m để làm rõ tiềm năng một số loại

khoáng sản quan trọng, chiến lược, có quy mô lớn như: chì, kẽm, đồng, thiếc,

vàng, sắt, đất hiếm, urani và đầu tư điều tra, đánh giá tổng thể một số khoáng

sản có tiềm năng lớn chưa được đánh giá như: bo xit, than, nước khoáng-

nước nóng, đá hoa trắng, cát thủy tinh, đá ốp lát.

- Tăng cường năng lực và đổi mới thiết bị, công nghệ tiên tiến, có độ

chính xác cao, đáp ứng các yêu cầu về độ sâu điều tra, đánh giá và độ chính

xác trong phân tích mẫu địa chất, khoáng sản; xây dựng hệ thống thông tin dữ

liệu thống nhất về địa chất khoáng sản trên phạm vi cả nước.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ điều tra, thăm dò địa chất - khoáng sản có

năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới; xây dựng chính

sách thu hút cán bộ ngành địa chất; tăng cường hợp tác quốc tế về kỹ thuật

trong điều tra cơ bản địa chất - khoáng sản.

b) Đối với hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản

- Đầu tư cải tạo, mở rộng đối với các mỏ khoáng sản đang hoạt động

theo quy hoạch khoáng sản đã duyệt; đầu tư cải tạo công nghệ, thiết bị hoặc

thay thế các cơ sở chế biến khoáng sản đã lạc hậu, hệ số thu hồi khoáng sản

thấp, gây ô nhiễm lớn tới môi trường.

- Đầu tư bằng ngân sách Nhà nước để thăm dò một số loại khoáng sản

chiến lược như: urani, đất hiếm và một số mỏ khoáng sản để đấu giá quyền

khai thác khoáng sản.

78

- Hình thành một số cụm công nghiệp khai khoáng - chế biến khoáng

sản tập trung cho một số loại khoáng sản như than đá, đồng, thép, bô - xít -

nhôm, cromit, titan-zircon, đất hiếm, chì - kẽm, đá ốp lát, cát trắng; tăng

cường đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản.

3.2.4. Yêu cầu công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực khai thác khoáng

sản trong điều kiện hiện nay

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về khoáng sản. Rà soát các quy

hoạch đã được phê duyệt, xây dựng, phê duyệt quy hoạch khoáng sản để định

hướng phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, bảo đảm sử dụng hợp lý,

tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; sớm

hoàn thiện và công bố và công khai các quy hoạch khoáng sản theo quy định

của pháp luật.

Điều chỉnh việc phân công quản lý nhà nước về khoáng sản theo

nguyên tắc một việc chỉ phân công cho một cơ quan chủ trì thực hiện. Tiếp

tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về

khoáng sản từ Trung ương đến địa phương; nâng cao vị thế, năng lực cơ quan

quản lý Nhà nước về khoáng sản.

Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác

quản lý Nhà nước về khoáng sản các cấp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ

thống cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản. Nghiên cứu áp dụng mô

hình thanh tra khu vực nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả của thanh tra

chuyên ngành khoáng sản.

Kiểm tra và chấn chỉnh việc phân cấp cấp giấy phép khai thác khoáng

sản hiện nay, khắc phục tình trạng sơ hở, gây thất thoát tài nguyên, nhiều tiêu

cực trong lĩnh vực này…

3.3. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản

Căn cứ vào các kết quả phân tích về hạn chế và nguyên nhân của hạn

chế ở Chương 2, căn cứ trên các quan điểm và mục tiêu của cá́c văn bản đã

79

liệt kê ở trên, để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản trong thời gian tới luận văn đề ra một số giải pháp như sau:

3.3.1. Nhóm giải pháp về thể chế chính sách

Những tồn tại, bất cập trong quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên

khoáng sản, hoạt động khoáng sản nêu trên đã được sửa đổi, bổ sung trong

Luật khoáng sản năm 2010. Theo đó, đã làm rõ trách nhiệm bảo vệ khoáng

sản chưa khai thác của các cấp chính quyền địa phương, các Bộ liên quan;

quy định chặt chẽ việc phân cấp thẩm quyền cấp phép hoạt động khoáng sản

cũng như điều kiện cấp phép hoạt động khoáng sản v.v... Ngày 09 tháng 3

năm 2012 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2012/NĐ-CP quy định chi

tiết một số điều của Luật khoáng sản. Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện hệ

thống văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể như sau:

Để tăng cường quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản;

chúng ta cần nâng cao hiệu quả phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữa cơ

quan quản lý nhà nước về khoáng sản và các cơ quan lập quy hoạch khoáng

sản ở Trung ương: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương và Bộ Xây

dựng cần thống nhất nội dung phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về

khoáng sản. Các Bộ tăng cường phối hợp hành động, nhất là trong việc xây

dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực khoáng

sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng nhằm nâng cao

hiệu lực, hiệu quả quản lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Lãnh đạo các Bộ, các đơn vị trực thuộc Bộ quản lý về

lĩnh vực khoáng sản thường xuyên định kỳ trao đổi, phối hợp giải quyết các

vấn đề có liên quan.

- Nguyên tắc phối hợp:

+ Quan hệ phối hợp được dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo

hiệu quả của công tác; tránh hình thức, chồng chéo, cản trở hoạt động bình

thường giữa các bên.

80

+ Việc trao đổi thông tin công tác quản lý nhà nước phải được tiến

hành thường xuyên nhằm hỗ trợ việc thực hiện các nội dung về quản lý khai

thác tài nguyên khoáng sản theo đúng quy định của Pháp luật.

- Các Bộ thống nhất thành lập Tổ công tác liên Bộ thực hiện nhiệm vụ

rà soát, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch khoáng sản; đề xuất với Lãnh

đạo các Bộ nội dung cần bổ sung, điều chỉnh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ

hoặc các Bộ trưởng xem xét quyết định điều chỉnh theo ủy quyền của Thủ

tướng Chính phủ.

- Bộ Tài nguyên và Môi trường cung cấp những thông tin mới nhất liên

quan tới kết quả điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản để Bộ

Công Thương, Bộ xây dựng tham khảo, có cơ sở đẩy nhanh công tác lập, phê

duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản. Bộ

Công Thương và Bộ Xây dựng cần sớm hoàn chỉnh Quy hoạch phát triển các

ngành thăm dò khai thác, chế biến liên quan đến lĩnh vực mình quản lý.

- Các Bộ phối hợp cùng làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh liên

quan để kịp thời tìm giải pháp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về công tác cấp

phép cũng như quản lý khoáng sản tại các địa phương trong cả nước. Thành

lập Tổ công tác chung để kiểm tra, đôn đốc và xử lý các vấn đề liên quan

trong lĩnh vực khoáng sản còn tồn tại ở các địa phương.

- Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng của ba Bộ liên quan

đến việc giải quyết các kiến nghị của địa phương: Ba Bộ thống nhất cơ chế

phối hợp trong công tác xem xét, trả lời các địa phương liên quan đến việc

thăm dò, khai thác khoáng sản để tránh mâu thuẫn, chồng chéo nhằm quản lý

chặt chẽ tài nguyên khoáng sản theo đúng quy định của pháp luật. Khi nhận

được đề nghị của các địa phương thì các cơ quan chức năng của các Bộ được

giao trách nhiệm thụ lý văn bản cần trao đổi, thống nhất ý kiến để trả lời cho

các địa phương. Trường hợp không thống nhất sẽ báo cáo Lãnh đạo các Bộ

xem xét, giải quyết.

81

- Bộ Xây dựng, Bộ Công thương cần hoàn thành việc đánh giá tình

hình thực hiện và rà soát 14 quy hoạch khoáng sản đã phê duyệt theo quy

hoạch của Luật Khoáng sản.

- Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ

Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát quy hoạch đã phê duyệt, đánh

giá tình hình thực hiện quy hoạch làm cơ sở xây dựng quy hoạch khoáng sản.

3.3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện

- Nâng cao tính khả thi của quy hoạch khoáng sản: Khẩn trương rà soát

nội dung các quy hoạch đã phê duyệt theo quy định của Luật khoáng sản năm

2005 để bổ sung, điều chỉnh theo đúng nguyên tắc, căn cứ, nội dung quy định

trong Luật khoáng sản năm 2010, đồng thời tuân thủ định hướng trong Chiến

lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt; có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành liên

quan và với Ủy ban nhân dân các địa phương trong quá trình lập, phê duyệt

quy hoạch khoáng sản nhằm bảo đảm sự đồng bộ, tránh chồng chéo giữa quy

hoạch của cả nước và quy hoạch của các địa phương.

- Nâng cao chất lượng thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt động khoáng

sản: Luật khoáng sản năm 2010 đã đưa ra các quy định mới trong công tác

thẩm định, cấp phép hoạt động khoáng sản thông qua hình thức đấu giá

quyền khai thác khoáng sản; lựa chọn tổ chức, cá nhân cấp phép thăm dò

khoáng sản tại khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm

minh bạch hóa, công khai hóa và cải cách thủ tục hành chính trong cấp phép

hoạt động khoáng sản. Đây là các quy định hoàn toàn mới nên cần có sự

thống nhất trong tổ chức thực hiện. Theo đó, Bộ Tải nguyên và Môi trường

phải tổ chức thêm các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhà

nước về khoáng sản cho cán bộ làm công tác quản lý khoáng sản tại các địa

phương, đặc biệt là cán bộ làm công tác tiếp nhận, thẩm định hồ sơ cấp phép

hoạt động khoáng sản.

82

Tăng cường sự phối hợp trong công tác này giữa cơ quan trung ương và

địa phương. Trước mắt đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát các Giấy phép

khai thác đã cấp có thời hạn dưới 5 năm để điều chỉnh thời hạn khai thác phù

hợp trữ lượng khoáng sản đã phê duyệt để tổ chức, cá nhân khai thác có đủ cơ

sở pháp lý và yên tâm đầu tư lâu dài cho khai thác khoáng sản theo quy định.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác

khoáng sản; đổi mới cơ chế bảo vệ khoáng sản chưa khai thác: Bộ Tài nguyên

và Môi trường triển khai đề án tăng cường năng lực cơ quan thanh tra chuyên

ngành khoáng sản từ trung ương đến địa phương nhằm hoàn thiện hệ thống tổ

chức cũng như lực lượng của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên

ngành khoáng sản từ trung ương đến địa phương. Tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản, kiên quyết xử lý nghiêm theo quy định các

hành vi khai thác không có thiết kế mỏ; khai thác gây mất an toàn lao động,

gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; gây bức xúc đối với dư luận, xã hội.

Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến hành nghiên cứu, đề xuất cơ chế bảo

vệ khoáng sản chưa khai thác gắn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân,

địa phương nơi có mỏ khoáng sản. Theo đó có văn bản hướng dẫn việc thực

hiện quy định về bảo vệ khoáng sản chưa khai thác theo hướng làm rõ trách

nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ,

ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc bảo vệ khoáng sản

chưa khai thác; hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ động lập dự chi ngân

sách của địa phương cho công tác bảo vệ khoáng sản chưa khai thác làm cơ sở

thực hiện.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Các

Bộ ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tăng cường phối hợp thực hiện tốt và

thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng

sản cũng như bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản để

83

nâng cao nhận thức, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt

động khoáng sản cũng như nâng cao năng lực hệ thống quản lý nhà nước về

khoáng sản các cấp; nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa

phương và nhân dân, nhất là người dân nơi có mỏ khoáng sản.

Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về việc

sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên khoáng sản, đồng thời khuyến

khích cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ mỏ khoáng sản,

đặc biệt đối với các mỏ nhỏ, phân tán và các loại khoáng sản có độ nhạy cảm

cao về kinh tế, dễ gây ô nhiễm môi trường.

3.3.3. Nhóm giải pháp về nguồn lực

- Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng tham

gia phối hợp cùng các địa phương liên quan thực hiện tốt các nhiệm vụ đã xác

định trong quản lý nhà nước về khoáng sản. Tiếp tục, tập trung thực hiện tốt

nhiệm vụ kiện toàn tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản từ Trung

ương đến địa phương. Hằng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức các

lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về khoáng sản, nghiệp vụ thanh

tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản cho tất cả lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi

trường, cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa

phương trên phạm vi toàn quốc.

- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo rà

soát, có giải pháp để nâng cao năng lực cả về bộ máy, cán bộ quản lý và điều

kiện cơ sở vật chất cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về khoáng sản để

có đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ đã phân cấp trong Luật khoáng sản

năm 2010.

Trong khi chưa bổ sung, tăng cường lực lượng cán bộ trực tiếp làm

công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại Sở Tài nguyên và Môi trường,

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chủ động

84

phối hợp với cơ quan chuyên môn của Bộ Tài nguyên và Môi trường để trao

đổi kinh nghiệm và nghiệp vụ trong công tác thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt

động khoáng sản, công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản.

Tăng cường nhân lực của hệ thống quản lý nhà nước về khai thác tài

nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường, đặc biệt là cán bộ quản lý tài nguyên

và môi trường cấp huyện. Nghiên cứu, đề xuất biên chế cán bộ chuyên trách

về khoáng sản và môi trường cấp xã, phường nhằm tăng cường năng lực thực

thi của cấp huyện, xã.

3.3.4. Tham gia sáng kiến minh bạch công nghiệp khai thác khoáng

sản (gọi tắt là EITI)

Sáng kiến minh bạch trong ngành công nghiệp khai thác (EITI –

Extractive Industries Transparency Initiative) là tiêu chuẩn toàn cầu nhằm

thúc đẩy tính minh bạch nguồn thu và trách nhiệm trong ngành khai thác

khoáng sản. Sáng kiến này có phương pháp luận chặt chẽ nhưng linh hoạt

nhằm theo dõi và đối chiếu các khoản thanh toán của công ty và nguồn thu

chính phủ ở cấp quốc gia. Quá trình thực hiện EITI được giám sát bởi các

thành viên từ chính phủ, các công ty và xã hội dân sự trong nước. Ủy ban

EITI và Ban Thư ký quốc tế giám sát phương pháp EITI quốc tế.

Liên minh EITI được thiết lập vào tháng 10/2002, do cựu thủ tướng

Anh Tony Blair giới thiệu đề xuất tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát

triển bền vững tại Johanesburg, Nam Phi. Đến tháng 06//2003, Hội nghị toàn

thể lần 1 khởi động EITI tại Anh. Năm 2005, trong phiên họp toàn thể EITI

lần thứ hai tại Luân Đôn, Tập đoàn Tư vấn Quốc tế (IAG) đã đề xuất phương

hướng hoạt động và cơ chế quản lý EITI. Đến nay, thế giới có 51 quốc gia đã

thực thi EITI, gồm các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Nauy và quốc gia

đang phát triển như Indonesia, Phillipines, Nigieria. Hiệu quả của EITI cũng

đã được chứng minh ở nhiều quốc gia như Nigieria đã tránh thất thu 1 tỷ đô la

Mỹ hàng năm từ lĩnh vực khai khoáng nhờ thực thi sáng kiến này.

85

Tại Diễn đàn Doanh nghiệp vào tháng 12/2014, Thủ tướng Chính phủ

Việt Nam cũng đã cam kết sẽ minh bạch trong quản lý khoáng sản, tận dụng

các cơ hội từ hội nhập quốc tế. Việc tuyên bố tham gia EITI sẽ thể hiện cam

kết của Chính phủ đối với cộng đồng quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp về

nỗ lực tăng cường minh bạch và cải cách ngành khai khoáng. Việt Nam cần

sớm tham gia EITI để giảm thất thu ngân sách, hỗ trợ việc phối hợp giữa các

bộ ngành, tạo môi trường minh bạch để thu hút được các dự án khai có công

nghệ tốt và nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên.

Hiện nay, EITI phát triển ngày càng mạnh mẽ, trở thành tiêu chuẩn

quốc tế hàng đầu phản ánh hiệu quả nền quản trị và tính minh bạch trong

ngành công nghiệp khai thác tài nguyên. Đây là một giải pháp tốt nhằm nâng

cao hiệu quả ngành công nghiệp khai khoáng hiện nay đã được các quốc gia

trên thế giới tham gia, triển khai thực hiện.

Đối với các nước thành viên, EITI hứa hẹn cải thiện môi trường đầu tư,

tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và các tập đoàn tài chính. EITI

cũng hỗ trợ trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình và quản lý tài chính

trong khai thác khoáng sản. Đồng thời, giúp quốc gia đó củng cố sự ổn định

về kinh tế và chính trị, góp phần ngăn chặn các cuộc xung đột trong ngành

dầu khí và khai khoáng.

Đối với các công ty và nhà đầu tư, EITI góp phần giảm nhẹ những rủi

ro do yếu tố chính trị. Sự bất ổn về chính trị do sự quản lý yếu kém là một

mối đe dọa đối với các nhà đầu tư trong khi ngành công nghiệp khai khoáng

có đặc điểm đòi hỏi vốn đầu tư lớn và sự ổn định lâu dài. Khi có EITI, các

công ty và nhà đầu tư sẽ được đảm bảo hoạt động trong một môi trường kinh

doanh ổn định hơn.

Ngoài ra, EITI cũng đóng vai trò cung cấp thông tin cho cộng đồng về

tình trạng thu chi và sự quản lý của chính phủ trong sử dụng tài nguyên quốc

86

gia, giúp người dân đánh giá tính hợp lý của những hoạt động này. EITI cũng

góp phần nâng cao vị thế của xã hội dân sự. Quy định yêu cầu vai trò thiết kế,

giám sát và đánh giá quá trình báo cáo EITI tạo nên nền tảng đảm bảo sự

tham gia một cách công bằng, tự do và độc lập của xã hội dân sự đối với

chính phủ và các công ty khai thác. Thông qua quá trình này, các tổ chức xã

hội dân sự sẽ từng bước cải thiện sự hiểu biết về ngành công nghiệp khai

khoáng cũng như được trang bị kỹ năng tốt hơn để giám sát và đảm bảo rằng

nguồn thu từ khai thác và buôn bán tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hợp

lý cho lợi ích cộng đồng. EITI đồng thời cũng giúp tăng cường vị thế cho xã

hội dân sự bằng cách cho phép các cá nhân, tổ chức theo dõi, vận động chính

sách, tiếp cận và giám sát thông tin liên quan đến nguồn thu từ tài nguyên

thiên nhiên, một điều hầu như chưa từng có tiền lệ trước đó.

Thực hiện minh bạch hóa trong ngành công nghiệp khai khoáng ở Việt

Nam sẽ góp phần quan trọng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về

khoáng sản trong thời gian tới và cần tiếp tục triển khai theo một lộ trình hợp

lý, phù hợp với pháp luật và điều kiện cụ thể của Việt Nam.

3.3.5. Giải pháp khác

Ngoài các giải pháp nêu trên, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý

nhà nước về khoáng sản cũng như hoạt động khai thác khoáng sản, bảo đảm

khoáng sản được khai thác triệt để, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả phục vụ

nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện

một số giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy như sau:

a) Có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp có năng lực về

vốn, công nghệ, thiết bị đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến sâu khoáng sản tại

mỏ có điều kiện địa chất - khai thác mỏ khó khăn; khai thác các khu vực mỏ

quặng nghèo; áp dụng công nghệ tiên tiến để thu hồi tối đa khoáng sản chính,

khoáng sản đi kèm trong khai thác, chế biến;

87

b) Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất trao “Giải thưởng khoáng sản“

hàng năm để vinh danh các doanh nghiệp khai thác khoáng sản theo một số

tiêu chí: đầu tư có hiệu quả về vốn, công nghệ, thiết bị để khai thác, chế biến

khoáng sản nhằm thu hồi tối đa, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả khoáng sản;

chấp hành tốt quy định pháp luật về khoáng sản cũng như bảo vệ môi trường

trong khai thác khoáng sản; thực hiện tốt trách nhiệm hỗ trợ địa phương và

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân nơi có mỏ được khai thác; thực

hiện tốt các nghĩa vụ tài chính trong lĩnh vực khoáng sản.

88

KẾT LUẬN

Thực trạng ngành công nghiệp khai thác khoáng sản trong những năm

qua đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, tồn tại. Gây ra những tác động bất lợi cho

nền kinh tế, môi trường sinh thái và ổn định xã hội. Nguyên nhân chủ yếu của

các tồn tại này là do trong những năm qua chúng ta vẫn còn quá chú trọng vào

phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý tới môi trường thiên

nhiên nên tình trạng khai thác khoáng sản bừa bãi gây suy thoái môi trường

và mất cân bằng hệ sinh thái đang diễn ra ở nhiều nơi. Nghiêm trọng nhất là

hoạt động của các mỏ khai thác than, quặng kim loại và vật liệu xây dựng.

Các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du cùng với công

nghệ khai thác hiện nay chưa hợp lý, đặc biệt đối với các mỏ kim loại nên

mức độ gây ô nhiễm và suy thoái rừng: phá rừng, hủy hoại không khí, phá vỡ

các khu sinh thái, hệ thống thủy văn, ô nhiễm nguồn nước… ảnh hưởng đến

các ngành kinh tế khác như nông nghiệp, du lịch…

Nếu không có chiến lược và chính sách rõ ràng, trong khoảng thời

gian tương lại gần thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải nhập khẩu trở lại các

quặng thô, hoặc sản phẩm đã qua chế biến của các loại khoáng sản mà chúng

ta đã xuất đi với giá cao hơn… Để đảm bảo tính ổn định và bền vững cho sự

nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc quản lý nhà nước về khai

thác tài nguyên khoáng sản phải được nâng cao và chất cũng như về lượng;

trước mắt chúng ta phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về khai thác

tài nguyên khoáng sản. Có như vậy, chúng ta mới có thể đảm bảo hài hòa lợi

ích giữa các bên liên quan; sử dụng tài nguyên khoáng sản hợp lý, tiết kiệm,

hiệu quả về kinh tế và hài hòa về vấn đề môi trường, cũng như có khả năng

giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển và bảo vệ môi trường, công

bằng xã hội.

89

Trước những yêu cầu, thách thức đặt ra từ định hướng chuyển đổi mô

hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, trong giai đoạn phát triển mới

vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý tài nguyên. Đó là nhận

thức chưa đầy đủ; thu thập thông tin, dữ liệu phục vụ cho việc quản lý các

nguồn tài nguyên khoáng sản còn hạn chế, còn nhiều bất cập trong cơ chế

phân bổ nguồn lực, kém hiệu quả và thiếu bền vững trong việc khai thác, sử

dụng cùng việc chưa quan tâm đúng mức đến bảo vệ, phục hồi, tái tạo các

nguồn tài nguyên của đất nước.

Luận văn đã xem xét, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về khoáng

sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam nói riêng giai

đoạn vừa qua, khái quát bối cảnh sắp tới, đưa ra các quan điểm, mục tiêu và 5

nhóm giải pháp chính để nâng cao hiệu quả QLNN đối với khai thác TNKS.

Các giải pháp đó bao gồm: Nhóm giải pháp về thể chế chính sách; nhóm giải

pháp về tổ chức thực hiện; nhóm giải pháp về nguồn lực; nhóm giải pháp về

hỗ trợ thúc đẩy; giải pháp về tham gia sáng kiến minh bạch trong công nghiệp

khai thác khoáng sản (gọi tắt là EITI). Bên cạnh đó, cần phải nhấn mạnh rằng

yếu tố nhận thức đóng vai trò rất quan trọng, do vậy vấn đề nhận thức luôn

luôn cần được đặt ra và có các giải pháp phù hợp để nâng cao và điều chỉnh

nhận thức cho đúng... để hoạt động QLNN về khai thác TNKS được thực hiện

hiệu quả hơn.

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 về định hướng

chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020,

tầm nhìn đến 203, Hà Nội.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Tài nguyên Địa chất và Khoáng sản

Việt Nam, Hà Nội.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo số 110/BC-BTNMT ngày

15/6/2012 về việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, khai thác

khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, Hà Nội.

4. Chính phủ, Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 về

việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Bộ Công thương.

5. Chính phủ, Nghị định số 62/2013/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2013 về

việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Bộ Xây dựng;

6. Chính phủ, Nghị định số 21/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2013 về

việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Bộ Tài nguyên và Môi trường.

7. Chính phủ (2010), Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản.

8. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (2008), Địa chất và tài nguyên Việt

Nam, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ.

9. Các Quyết định phê duyệt Quy hoạch thăm dò khai thác, chế biến khoáng

sản của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công thương, Hà Nội.

10. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Hành chính công, Nxb Khoa học

và Kỹ thuật.

91

11. Học viện Hành chính Quốc gia (2012), Giáo trình quản lý nhà nước về khoa

học công nghệ và tài nguyên môi trường, Nxb Khoa học và Kỹ thuật.

12. Nguyễn Hữu Hải (chủ biên) (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà

nước, Học Viện Hành chính, Hà Nội.

13. Vũ Cao Đàm (2008), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học,

Nxb Giáo dục.

14. Nguyễn Thành Sơn (2009), Tổng quan về khoáng sản Việt Nam, Hà Nội.

15. Lại Hồng Thanh (2009), Quản lý nhà nước về khoáng sản, Hà Nội.

16. Luật Khoáng sản (2010).

17. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 16/2014/QĐ-TTg 19 tháng 02 năm

2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục Địa chất

và Khoáng sản Việt Nam.

18. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12

năm 2011 về việc phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

19. Tổng cục Địa chất Khoảng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết các năm, Lưu

trữ tại Tổng cục, Hà Nội.

20. Trần Xuân Hòa (2009), Cân đối cung cầu, triển vọng và thách thức phát

triển bền vững ngành than Việt Nam, Hà Nội.

21. Viện tư vấn và phát triển (2010), Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng

tài nguyên khoáng sản trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam,

Nxb Khoa học và Kỹ thuật.

22. Website của Chính phủ: chinhphu.vn.

23. Website của Bộ Tài nguyên và Môi trường: www.monre.gov.vn.

24. Website của Bộ Công thương: www.moit.gov.vn.

25. Website của Bộ Xây dựng: www.xaydung.gov.vn.

26. Website của Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam: www.dgmv.gov.vn.