BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HIỆP
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HIỆP
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số : 60 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. BÙI QUANG TUẤN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn này là trung thực.
Tác giả Nguyễn Thị Hiệp
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ tận tình của các Thầy, Cô tại Học viện Hành chính Quốc gia và của
các đồng chí cán bộ Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung, Tổng cục Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam nói riêng.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy, cô, các đồng chí
lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp đã dành sự quan tâm giúp đỡ tận tình trong
suốt 02 năm qua.
Đặc biệt trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi
Quang Tuấn đã tận tình hình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn
thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Hiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT KT TNKS : Khai thác tài nguyên khoáng sản
KT - XH : Kinh tế - xã hội
QLNN Quản lý nhà nước
QPPL : Quy phạm pháp luật
TNKS : Tài nguyên khoáng sản
UBND : Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .............................................1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .............................3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn...............6 6. Ý nghĩa của luận văn ...........................................................................7
7. Kết cấu của luận văn............................................................................7
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHAI
THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN .............................................8 1.1. Tài nguyên khoáng sản..........................................................................8 1.1.1. Các khái niệm ................................................................................8 1.1.2. Những đặc điểm của tài nguyên khoáng sản...................................9 1.1.3. Quyền sở hữu về tài nguyên khoáng sản ......................................12 1.1.4. Vai trò của khai thác tài nguyên khoáng sản đối với phát triển
kinh tế - xã hội ............................................................................14 1.2. Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản .....................16 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản .......16 1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản.................................................................................17
1.2.3. Yêu cầu và nguyên tắc quản lý nhà nước đối với khai thác tài
nguyên khoáng sản ....................................................................17
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản .....18 1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước đối với khai thác tài nguyên
khoáng sản.................................................................................21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản ..............................................................................23
1.3.1. Các yếu tố khách quan................................................................24 1.3.2. Các yếu tố chủ quan ...................................................................26 1.4. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản .........27
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI
NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM.......................................38
2.1. Tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản .................38 2.2. Tình hình thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động khai
thác tài nguyên khoáng sản .................................................................42
2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với khai thác tài
nguyên khoáng sản ..............................................................................55
2.3.1. Những kết quả đạt được ...............................................................56 2.3.2. Những hạn chế trong quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản......................................................................58 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế..................................................65
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN VIỆT NAM .................................................................................73 3.1. Bối cảnh sắp tới....................................................................................73 3.2. Quan điểm, mục tiêu............................................................................74 3.2.1. Các quan điểm cơ bản..................................................................75 3.2.2. Các mục tiêu ................................................................................76 3.2.3. Mục tiêu cụ thể ............................................................................77 3.2.4. Yêu cầu công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực khai thác
khoáng sản trong điều kiện hiện nay ...........................................78
3.3. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản ..............................................................................78 3.3.1. Nhóm giải pháp về thể chế chính sách .........................................79 3.3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện...........................................81 3.3.3. Nhóm giải pháp về nguồn lực ......................................................83
3.3.4. Tham gia sáng kiến minh bạch công nghiệp khai thác khoáng
sản (gọi tắt là EITI) .....................................................................84 3.3.5. Giải pháp khác.............................................................................86 KẾT LUẬN.....................................................................................................88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................90
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Theo quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, tài nguyên khoáng sản là “tài sản công” thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tài
nguyên khoáng sản là tài sản hữu hình và là một nguồn lực quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu,
Nhà nước phải tổ chức quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng có hiệu quả khoáng
sản để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú, đa dạng với
trên 5.000 mỏ và điểm quặng của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Trong
đó có một số loại khoáng sản được dự báo có trữ lượng lớn như bôxít, titan,
đá nguyên liệu xi măng v.v... Tuy nhiên, khoáng sản là hữu hạn, hầu hết
không tái tạo, chính vì vậy việc khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản phải
tiết kiệm, có hiệu quả nhằm phát huy tối đa nguồn lực này cho mục tiêu phát
triển trước mắt cũng như lâu dài.
Công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoán sản đã đạt
được một số kết quả đáng kể trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
vẫn còn khá nhiều tồn tại hạn chế, bất cập trong công tác này. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về khoáng sản cơ bản đã khá đầy đủ nhưng còn nhiều
khó khăn, vướng mắc khi thực hiện; hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước
về khoáng sản từ Trung ương đến địa phương chưa hoàn thiện, hoạt động hiệu
quả chưa cao, lực lượng cán bộ làm công tác QLNN về khoáng sản chưa đáp
ứng được về số lượng và yêu cầu chuyên môn; thông tin, số liệu cơ bản về
nguồn lực khoáng sản chưa được quản lý tốt, chặt chẽ, nhất là đối với thông
tin, số liệu kiểm kê trữ lượng, sản lượng khai thác thực tế, tổn thất khoáng sản
2
thực tế..., các tổ chức, cá nhân tham gia khai thác khoáng sản chưa nhận thức
đầy đủ và chưa thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong hoạt động quản lý tài
nguyên khoáng sản.
Ngoài ra khai thác khoáng sản còn phải đối mặt với nhiều thách thức về
kinh tế xã hội của cộng đồng dân cư vùng khai khoáng, trong quá trình khai
thác vẫn còn tình trạng doanh nghiệp khai báo trữ lượng không trung thực;
khai thác tài nguyên khoáng sản một cách bừa bãi, thất thoát, gây ô nhiễm
môi trường, cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên khoáng sản, tình trạng khai thác
khoáng sản không có giấy phép gia tăng gây bức xúc trong dư luận xã hội...
Sản phẩm khai thác chế biến khoáng sản ở Việt Nam phần lớn mới
dừng lại ở sản phẩm thô chủ yếu để xuất khẩu, giá trị và hiệu quả sử dụng
thấp, chưa tương xứng với giá trị tài nguyên của khoáng sản khai thác nếu
được đầu tư chế biến sâu hơn. Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản luôn
đi liền với các tác nhân gây tác hại và ô nhiễm đến môi trường ở các mức độ
khác nhau như làm xuất hiện khối lượng chất thải lớn, trong đó có một số chất
thải nguy hiểm; gây ô nhiễm không khí và nguồn nước; phá vỡ chu kỳ thủy
văn; làm mất đa dạng sinh học; tàn phá rừng; làm sa mạc hóa và nghèo hóa
vùng đất, phá hoại cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa….nảy sinh
các mâu thuẫn và xung đột xã hội như: tranh chấp tài nguyên; tranh chấp về
đất đai, đền bù….
Để đảm bảo phát triển bền vững, Việt Nam cần có những chính sách
quản lý nhà nước để điều chỉnh hợp lý về khung pháp lý cũng như tổ chức
quản lý ngành khai khoáng theo hướng sử dụng tài nguyên khoáng sản hợp lý,
tiết kiệm, hiệu quả, hài hòa các lợi ích, vần đề môi trường, giải quyết mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy tác giả luận
văn đã lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản
ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Quản lý nhà nước nói chung và QLNN về khai thác tài nguyên khoáng
sản là một trong những vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả,
với nhiều công trình đề cập đến ở nhiều khía cạnh, nội dung khác nhau được
nghiên cứu dưới dạng chuyên đề, báo cáo được đăng tải trên các báo, tạp chí
và một số công trình nghiên cứu khác như luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ...
- Cuốn “Bàn về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong
thời kỳ mới” (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2007) với mục đích phát huy vai trò của
nhà nước trong việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế- xã hội. Trong
đó, các chuyên gia nhấn mạnh: nhà nước cần xây dựng được hệ thống pháp luật
rõ ràng, tạo môi trường pháp lý thuận lợi và bình đẳng cho các chủ thể, các thành
phần kinh tế hoạt động. Việc lựa chọn các chính sách khác nhau và mang đến
hiệu quả kinh tế-xã hội khác nhau là do năng lực của các thể chế chính trị quyết
định. Tuy nhiên, vai trò của nhà nước là phải tạo ra môi trường dân chủ trong
quá trình lựa chọn, hoạch định và thực hiện các chính sách.
- Luận án tiến sĩ kinh tế (của tác giả Trần Anh Tài, 1996) “Vai trò quản
lý của nhà nước trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” tác giả đã phân tích tính đặc thù chuyển sang nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam. Luận án đã đi sâu nghiên cứu vai trò của nhà nước trong việc tạo
lập cơ chế quản lý, ổn định và tăng trưởng kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và để xuất mộ số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
trong qua trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất cơ chế nâng
cao hiệu quả quản trị tài nguyên khoảng sản” (2014) của Tổng cục Địa chất
và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nhóm tác giả đã
tiến hành nghiên cứu, khảo sát thực tế đi sâu đánh giá tình hình thực hiện
công tác quản trị tài nguyên khoáng sản trong thời gian qua để làm rõ những
4
mặt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn
chế. Làm rõ các quy định của pháp luật về khoáng sản liên quan đến công tác
“quản trị TNKS”; phân tích những nội dung cần hoàn thiện nhằm nâng cao
hiệu quả “quản trị TNKS”. Từ đó đề xuất cơ chế hợp lý, hiệu quả hơn để quản
trị tốt hơn TNKS của Việt Nam trong thời gian tới.
- Báo cáo nghiên cứu “Thực trạng và cơ hội nâng cao hiệu quả quản lý nguồn thu từ khai thác khoáng sản tại Việt Nam (2015) của nhóm tác giả: TS. Lê Quang Thuận, PGS. TS. Lê Xuân Trường và Th.S Trần Thanh Thủ
thuộc Trung tâm Con người và Thiên Nhiên. Nghiên cứu được thực hiện dựa
trên việc rà soát các chính sách thu hiện hành, đánh giá công tác quản lý thu
liên quan đến lĩnh vực tài nguyên tại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm
quốc tế nhằm làm rõ những mặt tích cực và hạn chế trong việc quản lý thu ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất, kiến nghị hoàn thiện chính sách
thu và công tác quản lý thu theo hướng khuyến khích khai thác tài nguyên tiết
kiệm, đồng thời đảm bảo huy động và sử dụng hiệu quả nguồn thu từ khai
thác tài nguyên, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Báo cáo
đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề về hệ thống chính sách thu đặc thù cho lĩnh
vực khai thác khoáng sản ở Việt Nam có những điểm gì khác biệt so với một
số quốc gia trong khu vực. Đánh giá sự phù hợp về mức thu các khoản đóng
góp trong lĩnh vực khai thác khoáng sản theo quy định chính sách của Việt
Nam và hiệu quả thu ngân sách từ khai thác khoáng sản ở Việt Nam. Các lỗ
hổng trong chính sách hoặc công tác quản lý thu. Ngân sách từ khai thác tài
nguyên đã được quản lý và sử dụng như thế nào và từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm tăng hiệu quả thu và quản lý ngân sách từ khai thác tài nguyên.
- Báo cáo kết quả rà soát hành lang pháp lý về tính minh bạch trong
hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam (2013) của Tiến sĩ Lại Hồng
Thanh, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi
5
trường. Trên cơ sở rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam về khoáng sản (Luật Khoáng sản và các văn bản có liên quan) từ khâu
điều tra cơ bản đến thăm dò và đặc biệt là khai thác khoáng sản. Trên cơ sở
đó, đề xuất những nội dung cơ bản cần bổ sung, điều chỉnh, quy định mới
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về khoáng sản trong thời gian tới.
Mặc dù, các công trình đã đề cập đến những khía cạnh nhất định của
quản lý nhà nước về lĩnh vực khoáng sản và khai thác tài nguyên khoáng sản.
Có thể khẳng định rằng, cho đến thời điểm này chưa có nhiều công trình đề
cập làm rõ đến vấn đề “Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản
ở Việt Nam” một cách hệ thống từ góc độ của quản lý công. Do đó, các đề
xuất giải pháp chưa giải quyết hết được các vấn đề hạn chế, tồn tại hiện nay.
Vì thế, tác giả luận văn chọn đề tài “Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản ở Việt Nam” với góc độ tiếp cận riêng và không bị trùng lặp với
các công trình đã công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở xem xét thực trạng QLNN về tài nguyên khoáng sản trong
giai đoạn vừa qua, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài xác định các nhiệm
vụ nghiên cứu cần phải thực hiện là:
- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề chung về quản lý nhà nước đối
với khai thác tài nguyên khoáng sản.
- Làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng
sản ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2002-2016, chỉ ra những hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế.
6
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về khai
thác tài nguyên khoáng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về khai thác
tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: trong phạm vi toàn quốc;
- Về thời gian: chủ yếu số liệu nghiên cứu giai đoạn từ năm 2002 đến
năm 2016
- Về nội dung: Luận văn tập trung phân tích việc tổ chức thực hiện các
nội dung QLNN thuộc chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể QLNN là các cơ
quan nhà nước (Chính phủ, các Bộ, UBND các cấp, các sở , phòng, ban) đối
với các đối tượng quản lý (người dân, doanh nghiệp, cộng đồng, các loại hình
tổ chức khác và cả xã hội) trong hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để xem xét vấn đề quản lý nhà nước đối với tài
nguyên khoáng sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng.
5.2. Nguồn số liệu
Tác giả đã sử dụng nguồn số liệu thứ cấp, từ các kết quả khảo sát, báo cáo
của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
5.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tác giả đã sử dụng các phương pháp xử lý số liệu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Thông qua phân tích các tài liệu chính
thức và không chính thức, từ các tài liệu được công bố, các báo cáo, thống kê
7
của Tổng Cục Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và
Môi trường, các bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành và một số trang
Website... có liên quan tới vấn đề QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản;
- Phân tích, thống kê,: tác giả đã tiến hành thống kê số liệu, văn bản liên
quan về hoạt động khoáng sản và QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản của
Chính phủ, Bộ Tài nguyên Môi trường, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt
Nam và một số bài viết, báo cáo khoa học khác. Từ đó phân tích thực trạng
QLNN đối với lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản trong phạm vi toàn quốc.
- So sánh, tổng hợp: tác giả so sánh các thông tin, số liệu liên quan tới
vấn đề nghiên cứu để thấy được sự thay đổi trong công tác QLNN về khai
thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam trong thời gian qua.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn này có ý nghĩa thực tiễn ở chỗ, luận văn đã đánh giá được
hiện trạng hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực khai thác tài nguyên
khoáng sản làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp để góp phần hoàn thiện
công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cầu thành 03 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với khai thác tài
nguyên khoáng sản.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng
sản ở Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản Việt Nam.
8
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHAI
THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN
1.1. Tài nguyên khoáng sản
1.1.1. Các khái niệm
* Khái niệm “Tài nguyên khoáng sản”
Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa “Tài nguyên là nguồn của cải thiên
nhiên chưa khai thác hoặc đang tiến hành khai thác”.
Tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn
chất trong vỏ trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra
các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày.
Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ
khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của loài người và khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có tác động
mạnh mẽ đến môi trường sống. Một mặt, tài nguyên khoáng sản là nguồn vật
chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải của con người. Bên cạnh đó,
việc khai thác tài nguyên khoáng sản thường tạo ra các loại ô nhiễm như bụi,
kim loại nặng, các hóa chất độc và hơi khí độc (SO2, CO, CH4 v.v...).
Tài nguyên khoáng sản được phân loại theo nhiều cách:
- Theo dạng tồn tại: Rắn, khí (khí đốt, Acgon, He), lỏng (Hg, dầu,
nước khoáng).
- Theo nguồn gốc: Nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh
(sinh ra trên bề mặt trái đất).
- Theo thành phần hóa học: khoáng sản kim loại (kim loại đen, kim loại
màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng, đá quý, vật
liệu xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá cháy).
9
* Khái niệm “Khai thác tài nguyên khoáng sản”
Theo quy định tại khoản 7 Điều 2 Luật khoáng sản năm 2010, khái
niệm “Khai thác khoáng sản” là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm
xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có
liên quan.
Khai thác khoáng sản là hoạt động có sự tham gia của tất cả các chủ thể
liên quan đến khoáng sản gồm: Nhà nước - Người dân - Doanh nghiệp. Kết
quả của hoạt động này là chuyển hóa khoáng sản từ ở dạng “tiềm năng” thành
hàng hóa; là giai đoạn chuyển hóa giá trị “tiềm năng” của khoáng sản thành
giá trị hiện thực, đem lại nguồn lợi thực tế cho phát triển kinh tế - xã hội đất
nước cũng như doanh nghiệp và người dân. Do đó, hoạt động này cần có sự
quản lý, giám sát chặt chẽ để tài sản do thiên nhiên ban tặng được khai thác,
sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
1.1.2. Những đặc điểm của tài nguyên khoáng sản
Để làm rõ vấn đề QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản cũng cần
đánh giá đầy đủ những đặc điểm chung cũng như đặc điểm riêng của tài sản
“khoáng sản”, các đặc điểm này đó là:
- Tính hữu hạn, không tái tạo: Khoáng sản được hình thành tích tụ
trong quá trình hoạt động địa chất rất lâu dài hàng triệu năm trước đó và
không phải là vô hạn. Hầu hết các loại khoáng sản (trừ một số loại khoáng sản
như nước khoáng, nước nóng thiên nhiên) khi đã được khai thác để sử dụng
đều “không thể tái tạo”. Chính vì vậy, khi khai thác, sử dụng khoáng sản
trong từng thời kỳ cần cân nhắc kỹ để tối đa hóa lợi ích phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Nói cách khác, khoáng sản phải
được khai thác, sử dụng triệt để, hợp lý, tiết kiệm có hiệu quả cao nhất.
- Tính rủi ro địa chất: Khi đầu tư kinh doanh vào bất kỳ lĩnh vực nào
cũng đều có những rủi ro ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, đầu tư vào lĩnh vực
10
khoáng sản có mức độ rủi ro cao hơn bởi có một rủi ro khác xuất phát từ đặc
điểm của loại tài sản này. Mỏ khoáng sản là thực tại khách quan, nằm ngoài ý
muốn của con người. Khi thực hiện các hoạt động như điều tra, đánh giá, thăm
dò khoáng sản là con người mong muốn có các thông tin đầy đủ hơn về mỏ
khoáng sản đó trước khi đầu tư khai thác. Tuy nhiên, trong thực tế, kể cả trong
trường hợp một mỏ khoáng sản đã được thăm dò tỉ mỉ thì vẫn có những khu
vực không có công trình thăm dò, khi khai thác sự thay đổi chiều dày, hàm
lượng v.v… và chất lượng, thậm chí không có quặng nằm ngay tại những khu
vực này. Đây chính là tính “rủi ro địa chất” của khoáng sản (nằm ngoài ý muốn
của con người). Tính rủi ro địa chất của các loại khoáng sản khác nhau cũng
khác nhau. Thường khoáng sản quý, hiếm có mức độ rủi ro cao hơn. Ngược lại,
những loại khoáng sản thông thường như khoáng sản làm vật liệu xây dựng có
độ rủi ro thấp hơn. Khoáng sản có độ rủi ro càng cao về địa chất thì mức độ
đầu tư cho hoạt động tìm kiếm, thăm dò cũng càng lớn và ngược lại. Đây là
đặc điểm cần quan tâm của khoáng sản không giống với các loại tài sản hữu
hình khác.
- Lợi thế so sánh (“địa tô chênh lệch”): Tương tự như đối với một số
loại tài nguyên thiên nhiên khác như tài nguyên đất, tài nguyên rừng, khi đầu
tư khai thác cùng loại khoáng sản nhưng mỏ có vị trí thuận lợi, có điều kiện
địa chất - mỏ thuận lợi hơn thì cũng có lợi thế hơn (chi phí sản xuất thấp hơn,
có lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình) so với các mỏ có điều kiện khó
khăn, phức tạp. Trường hợp này cũng tương tự như trong nông nghiệp khi sản
xuất trên mảnh đất có điều kiện tự nhiên khác nhau mà thường được gọi là
“địa tô chênh lệnh”. Lợi thế so sánh phụ thuộc vào đặc điểm mỏ khoáng sản,
thay đổi theo thời gian, không gian cũng như sự phát triển của trình độ khoa
học - công nghệ khai thác, chế biến loại khoáng sản đó. Cùng một loại khoáng
sản, cùng một điều kiện địa chất mỏ như nhau, nhưng mỏ có vị trí địa lý thuận
11
lợi (gần đường giao thông chính, gần các yêu cầu phải đáp ứng như: tài
nguyên nước, lao động v.v...) thì sẽ có chi phí thấp hơn, sinh ra lợi nhuận cao
hơn so với một mỏ khoáng sản cùng loại nhưng có vị trí không thuận lợi, nằm
ở vùng sâu, vùng xa, hạ tầng cơ sở vật chất, xã hội thấp kém v.v...
- Quan hệ hữu cơ với tài nguyên đất: Khoáng sản luôn gắn liền và có
quan hệ hữu cơ với tài nguyên đất. Khi khai thác khoáng sản luôn phải sử
dụng một diện tích đất mặt nhất định, kể cả khi khai thác khoáng sản bằng
phương pháp hầm lò. Do đó, khi giải quyết vấn đề sở hữu về khoáng sản,
cũng như khi đưa ra các giải pháp nhằm quản lý, bảo vệ tốt khoáng sản chưa
khai thác chúng ta cũng phải giải quyết cả vấn đề liên quan giữa quyền quản
lý, bảo vệ, khai thác khoáng sản với quyền sử dụng đất đai, những vấn đề về
lợi ích khác có liên quan.
- Quan hệ hữu cơ với tài nguyên nước: Tương tự như đối với tài
nguyên đất, khoáng sản cũng có mối quan hệ hữu cơ với tài nguyên nước. Khi
tiến hành khai thác một số loại khoáng sản, chúng ta phải sử dụng một lượng
nước mặt cũng như nước ngầm để phục vụ công tác khai thác (nước sinh hoạt,
nước phục vụ khai - tuyển v.v..). Trong nhiều trường hợp, thân khoáng sản
gắn liền với nguồn tài nguyên nước nên khi khai thác đã ảnh hưởng trực tiếp
tới nguồn tài nguyên nước nằm trong khu vực khai thác khoáng sản. Khi đó,
trong quá trình khai thác cũng phải giải quyết vấn đề pháp lý khi sử dụng, tác
động đến tài nguyên nước.
- Tính “đa dụng”, “đa mục đích”, “đa khoáng” và thay đổi giá trị
dụng theo thời gian, trình độ phát triển của khoa học công nghệ: Tùy theo
nhu cầu sử dụng của nền kinh tế quốc dân mà khoáng sản được sử dụng cho
các mục đích khác nhau. Đá vôi với chất lượng khác nhau có thể sử dụng để
rải đường, xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp hoặc dùng làm nguyên
liệu xi măng. Đá hoa trắng có chất lượng tốt, độ trắng cao được chế biến làm
12
đá vôi dạng bột, dạng hạt cung cấp làm phụ gia trong sản xuất giấy, cao su,
sơn v.v... Khoáng sản nói chung, nhất là khoáng sản kim loại thường là
khoáng sản đa khoáng nên cần sử dụng tổng hợp, hợp lý có hiệu quả các
khoáng vật, thành phần có ích đi kèm với khoáng sản chính. Mặt khác, một
loại khoáng sản khi nằm độc lập thì có thể được xem là khoáng sản chính nhưng
lại được coi là đất đá thải khi khai thác đồng thời với một loại khoáng sản khác.
Ví dụ: khi khai thác than lộ thiên, đá vôi hoặc đá vật liệu xây dựng thông thường
được coi là đất đá thải, nhưng nếu biết và sử dụng hợp lý thì nó lại là nguyên liệu
đầu vào cho mục đích khác như: rải đường, nguyên liệu sản xuất xi măng, v.v...
Hoặc, do trình độ công nghệ tuyển thấp, hàm lượng biên của quặng titan sa
khoáng (năm 1993) khoảng 10 -15 kg/m3, nhưng đến năm 2011, đã giảm xuống
còn khoảng 5 kg/m3 do trình độ tuyển khoáng đã phát triển.
- Tác động trực tiếp tới môi trường trong hoạt động khoáng sản: Hoạt
khai thác khoáng sản có tác động tiêu cực và trực tiếp tới môi trường, thậm
chí rất lớn (hủy hoại đất mặt, thủy sinh, môi trường nước, môi trường không
khí v.v...). Tác động này không chỉ ảnh hưởng trong phạm vi khu vực khai
thác khoáng sản mà còn ảnh hưởng tới phạm vi rộng lớn hơn ở xung quanh
hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản. Do đó, khi xây dựng các chế định
pháp lý quản lý khoáng sản cần phải giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan
đến môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.
1.1.3. Quyền sở hữu về tài nguyên khoáng sản
Xét về phương thức sản xuất, tài nguyên khoáng sản là tư liệu sản xuất,
một trong những yếu tố của lực lượng sản xuất, là một trong những nguồn lực
phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Với những cơ sở thực tiễn và pháp lý rõ
ràng, với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân có quyền làm chủ
đất nước, quyết định mọi vấn đề về phát triển đất nước, có quyền sở hữu đối
với những tài sản quốc gia. Để xây dựng và phát triển đất nước, nhân dân
13
không những có quyền mà cần phải nắm chắc các nguồn lực, các tài sản cơ
bản, quan trọng nhất của đất nước để việc sử dụng các nguồn lực, tài sản đó
một cách hiệu quả.
Như đã nêu trên, tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tài nguyên khoáng sản là “tài sản công” thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Khi
nhân dân được là chủ sở hữu thực sự thì các nguồn lực, tài sản công mới có
khả năng phát huy cao độ sức mạnh của mình, mục tiêu xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh mới có cơ hội thực hiện. Chính vì vậy, Điều 200 Bộ
luật Dân sự của Việt Nam cũng quy định các tài sản thuộc hình thức sở hữu
nhà nước, trong đó có “tài nguyên trong lòng đất”. Với tư cách là đại diện chủ
sở hữu toàn dân, Nhà nước thể chế hóa các quyền năng của chủ sở hữu trong
Luật khoáng sản (năm 1996, năm 2005 và mới đây nhất là Luật khoáng sản
năm 2010) và các văn bản dưới Luật được thể hiện trong những điều, khoản
quy định trong hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản.
Điều 1 Luật khoáng sản năm 2010 đã khẳng định “Luật này quy định
việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; bảo vệ khoáng sản chưa khai
thác; thăm dò, khai thác khoáng sản; quản lý nhà nước về khoáng sản trong
phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Điều này chứng tỏ, chỉ có Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu về
TNKS mới có đủ quyền năng để quy định các quyền liên quan đến việc chiếm
dụng, sử dụng và định đoạt tài sản là khoáng sản như nội dung của Luật.
Xuất phát từ bản chất của khoáng sản mà các quyền năng của sở hữu
cũng khác nhau về hình thức và mức độ pháp lý khi nó chuyển hóa từ trạng
thái tự nhiên vốn có (chưa khai thác) sang giai đoạn đã được khai thác (được
đưa ra khỏi trạng thái tự nhiên). Cụ thể là:
14
- Khi khoáng sản chưa khai thác, chưa cấp phép thăm dò, khai thác cho
tổ chức, cá nhân: Tài nguyên khoáng sản hoàn toàn thuộc sở hữu toàn dân
(nói cách khác là thuộc sở hữu của Nhà nước). Theo đó, bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào muốn thăm dò, khai thác khoáng sản phải được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép.
- Khi mỏ khoáng sản đã được cấp phép cho một tổ chức, cá nhân nào
đó để khai thác thì quyền sở hữu đối với khoáng sản phụ thuộc vào trạng thái
của loại khoáng sản đó. Theo đó, nếu khoáng sản nằm trong khu vực khai
thác của tổ chức, cá nhân nhưng chưa được khai thác, quyền định đoạt bị hạn
chế (không được tự quyết định việc chuyển nhượng, bán cho tổ chức cá nhân
khác mà phải được phép của cơ quan có thẩm quyền cấp phép); nếu đã khai
thác (khoáng sản không còn ở trạng thái tự nhiên - còn gọi là khoáng sản
nguyên khai) thì tổ chức, cá nhân đó có quyền tự quyết định bán cho tổ chức,
cá nhân theo thỏa thuận.
Như vậy, làm rõ bản chất về các quyền năng đối với tài sản là tài
nguyên khoáng sản có ý nghĩa quan trọng đối với việc đưa ra các chế định
pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên
khoáng sản.
1.1.4. Vai trò của khai thác tài nguyên khoáng sản đối với phát triển
kinh tế - xã hội
Khai thác tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, thể hiện ở một số nội dung sau:
- Tài nguyên khoáng sản là một phần quan trọng trong các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sản phẩm của hoạt động khai thác khoáng sản là vật liệu
một nền tảng quan trọng cho sự phát triển của xã hội loài người. Vỏ trái đất
trữ lượng một khối lượng lớn tài nguyên khoáng sản và từ thời cổ đại đến nay,
nhân loại đã biết khai thác, chuyển đổi tài nguyên khoáng sản thành nguyên
15
liệu sản xuất ra các công cụ kim loại, máy móc và thiết bị, linh kiện, xe có
động cơ, các tế bào năng lượng mặt trời, tuabin gió, máy tính, internet, truyền
thông vệ tinh, và cả tên lửa; chúng xuất hiện trong thiết bị y tế và vô số các sản
phẩm khác cho phép loài người nâng cao chất lượng cuộc sống theo nhiều cách
khác nhau. Những sản phẩm được sản xuất từ tài nguyên khoáng sản đã trở nên
quen thuộc và trở thành một nhu cầu thiếu yếu đối với xã hội ngày nay.
- Bên cạnh việc trở thành những sản phẩm phục vụ cho cuộc sống, các
sản phẩm của tài nguyên khoáng sản thô là những thành phần cần thiết của
nền kinh tế toàn cầu của thế giới, nguyên liệu là cơ sở của tất cả các nền kinh
tế công nghiệp hiện đại. Tài nguyên khoáng sản là nguyên liệu để sản xuất các
sản phẩm giá trị gia tăng. Nếu một quốc gia không sở hữu hoặc không thể
nhập khẩu các tài nguyên khoáng sản làm nguyên liệu ban đầu thông qua con
đường thương mại quốc tế, quốc gia đó không thể sản xuất và xuất khẩu hàng
hóa hoặc sử dụng lực lượng lao động của mình một cách hiệu quả. Ví dụ:
phần lớn nền kinh tế Mỹ đã được xây dựng vào nguồn tài nguyên khoáng sản
trong nước, từ nguồn tài nguyên khoáng sản, người Mỹ xây dựng đường sắt,
tàu hỏa, máy bay, động cơ xe... Và từ các ngành công nghiệp, người Mỹ tạo
ra hàng triệu công ăn việc làm được trả lương cao và đào tạo cơ bản.
- Sự phát triển của nền kinh tế thế giới dẫn đến tăng trưởng tiêu thụ tài
nguyên khoáng sản trong suốt thế kỷ 20. Giữa năm 1960 và 1995, kinh tế thế
giới sử dụng tài nguyên khoáng sản gấp 2,5 lần. Tuy vậy tài nguyên khoáng
sản là nguồn tài nguyên hữu hạn, không tái tạo được vì vậy tất cả các nước
phát triển và đang phát triển trên thế giới phải đối mặt với những thách thức
từ thực tế là dân số và nền kinh tế tiếp tục phát triển nhưng nguồn tài nguyên
khoáng sản ngày càng cạn kiệt. Thách thức hiện nay đối với mỗi quốc gia và
toàn thế giới là để có được nguồn tài nguyên khoáng sản đủ cần thiết để duy
trì tăng trưởng kinh tế nhưng cũng cần phải đảm bảo phát triển bền vững và
bảo vệ môi trường.
16
1.2. Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản
Quản lý là một phạm trù xuất hiện trước khi có nhà nước với tính chất là
một loại lao động xã hội hay lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản
lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục tiêu đưa hệ thống đó đến trạng
thái cần đạt được. QLNN ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội, là
sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng
bị quản lý. Có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về quản lý nhưng
cách hiểu chung nhất là “quản lý là sự tác động có tổ chức, có đích hướng của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu dự kiến”.
Quản lý xã hội là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy
nhà nước cùng với sự tác động của các chủ thể xã hội khác lên xã hội nhằm duy
trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu đã lựa chọn.
Quản lý nhà nước là “một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính
quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành
vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ
quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự
ổn định và phát triển của xã hội”. Nội hàm QLNN xuất hiện cùng với sự ra
đời của Nhà nước, đó là quản lý toàn xã hội. QLNN thay đổi phụ thuộc vào
các chế độ chính trị, lịch sử và đặc điểm văn hóa, trình độ phát triển kinh
tế-xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Hay nói cách khác
QLNN là tất cả các hoạt động được thực hiện bởi cơ quan nhà nước bao
gồm hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản là sự tác động có
hướng đích, có tổ chức của hệ thống cơ quan QLNN về khoáng sản đến các cá
nhân, doanh nghiệp, tổ chức bằng các công cụ, nguyên tắc và phương pháp quản
lý, nhằm hướng hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản phù hợp với mục tiêu
phát triển bền vững.
17
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản
Khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại, đến nay đã phát hiện,
điều tra, đánh giá trên 60 loại khoáng sản, trong đó có một số loại khoáng sản
có quy mô lớn, phân bố tập trung, nhưng công tác điều tra cơ bản, thăm dò,
khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản cho đến nay còn nhiều bất cập.
Để đảm bảo tính ổn định và bền vững cho sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội của đất nước, để việc thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản hợp lý,
tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đảm bảo an ninh, quốc phòng việc quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản là rất cần thiết. Nhờ đó chúng ta mới đảm bảo việc khai thác và sử
dụng tài nguyên quốc gia hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan, tính kế thừa
cho tương lai và vì mục tiêu môi trường và xã hội.
1.2.3. Yêu cầu và nguyên tắc quản lý nhà nước đối với khai thác tài
nguyên khoáng sản
* Yêu cầu QLNN đối với khai thác tài nguyên khoáng sản
Yêu cầu của công tác QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản là
phải quy hoạch, thăm dò khoáng sản; bảo vệ khoáng sản chưa khai thác;
điều tra cơ bản, thăm dò về khoáng sản; phê duyệt trữ lượng khoáng sản;
cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản; thanh tra kiểm tra và giám sát đầy
đủ theo đúng quy định của pháp luật khoáng sản ở từng địa phương theo
các cấp hành chính. Bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với tài nguyên
khoáng sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân vùng có khai
thác khoáng sản; Đảm bảo sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản của quốc
gia; Tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên khoáng sản; Bảo vệ tài
nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường và phục hồi môi trường trong khai
thác sử dụng tài nguyên khoáng sản.
18
* Nguyên tắc QLNN đối với khai thác tài nguyên khoáng sản
- Hoạt động khai thác khoáng sản phải phù hợp với chiến lược, quy
hoạch khoáng sản, gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác;
bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Chỉ được tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản khi được cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Thăm dò khoáng sản phải đánh giá đầy đủ trữ lượng, chất lượng các
loại khoáng sản có trong khu vực thăm dò.
- Khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi
trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; áp dụng công nghệ khai
thác tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu
hồi tối đa khoáng sản.
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản
Nguồn tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác, chế biến, sử
dụng gắn với nhiều đối tượng và là nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành
công nghiệp. Vì vậy, việc quản lý nguồn tài nguyên khoáng sản được nhà
nước ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể về quản lý khai thác tài
nguyên khoáng sản để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.
- Điều tra nguồn khoáng sản tài nguyên quốc gia, xây dựng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch về huy động các nguồn tài nguyên khai thác. Đây là nhiệm
vụ hàng đầu nhằm nắm được địa điểm, phân bố, trữ lượng, giá trị kinh tế, điều
kiện tàng trữ từ đó nhà nước hướng dẫn tổ chức nhân dân thăm dò, khai thác.
- Điều tra khoáng sản phải tuân thủ trình tự từ sơ bộ đến chi tiết, từ diện
đến điểm, từ trên mặt đến phần sâu; Điều tra, thăm dò khoáng sản đòi hỏi
kinh phí lớn nhưng có tính rủi ro cao. Do vậy, phải điều tra từng bước, lựa
chọn đúng đắn đối tượng, diện tích hợp lý và xác định hợp lý mức độ đầu tư.
19
- Điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản bao gồm: Lập bản
đồ địa chất các tỉ lệ khác nhau; Đánh giá tiềm năng khoáng sản tại các diện
tích cụ thể.
- Điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản nhằm mục đích:
nhận thức được cấu trúc địa chất của phần vỏ trái đất, nơi chúng ta đang sống
và phát triển lâu dài; đánh giá được tiềm năng khoáng sản trên một số diện
tích cụ thể, phát hiện các mỏ khoáng.
Sau khi điều tra cơ bản, nhà nước đặt hàng đối với các cơ quan chuyên
môn trong và ngoài nước để thăm dò, điều tra hoặc tổ chức lực lượng trực tiếp
thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản và nhà nước phải trực tiếp quản lý.
Hoạt động khoáng sản bao gồm các hoạt động: khảo sát, thăm dò, khai thác
và chế biến khoáng sản:
- Hoạt động khảo sát khoáng sản: Khảo sát khoáng sản là hoạt động
nghiên cứu tư liệu địa chất về tài nguyên khoáng sản, khảo sát thực địa
nhằm khoanh định khu vực có triển vọng để thăm dò khoáng sản. Như vậy,
khảo sát khoáng sản là hoạt động được tiến hành trước giai đoạn thăm dò
khoáng sản. Khi khảo sát không tiến hành thi công các công trình địa chất
như đào hào, giếng hoặc khoan thăm dò, mà chủ yếu là nghiên cứu tài liệu,
khảo sát thực địa hoặc thực hiện các công nghiệp vụ khác ngoài thực địa.
Kết quả có được khi kết thúc giai đoạn khảo sát là cơ sở cho giai đoạn thăm
dò khoáng sản.
- Hoạt động thăm dò khoáng sản: là hoạt động nhằm tìm kiếm, phát
hiện, xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản, điều kiện kỹ thuật khai thác,
kể cả việc lấy, thử nghiệm mẫu công nghệ và nghiên cứu khả thi về khai thác
khoáng sản.
Để xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản cũng như xác định
những yếu tố kỹ thuật - công nghệ khai thác, khi tiến hành thăm dò phải tiến
20
hành các công việc chính như: thi công các công trình địa chất (hào, giếng,
khoan thăm dò v.v..) và các công tác nghiệp vụ khác. Kết quả của hoạt động
thăm dò là cơ sở quan trọng để thực hiện các công việc tiếp theo cho giai
đoạn nghiên cứu khả thi, thiết kế khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, thăm dò
khoáng sản có các đặc điểm: mức đầu tư tương đối lớn, không thể thực hiện
trong thời gian ngắn; tính rủi ro cao, nhất là đối với khoáng sản kim loại phân
bố trong các cấu trúc địa chất phức tạp.
- Hoạt động khai thác khoáng sản: Khai thác khoáng sản là hoạt động
xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, sản xuất và các hoạt động có liên quan trực
tiếp nhằm thu hồi khoáng sản từ lòng đất. Đây là hoạt động được tiến hành
sau khi đã có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và được tính từ khi mỏ bắt đầu xây dựng cơ bản (hay còn gọi là mở
mỏ), khai thác bình thường theo công suất thiết kế, cho đến khi mỏ kết thúc
khai thác (đóng cửa mỏ - phục hồi môi trường).
- Hoạt động chế biến khoáng sản: Chế biến khoáng sản là hoạt động
phân loại, làm giàu khoáng sản và các hoạt động khác nhằm làm tăng giá trị
khoáng sản đã khai thác. Thông thường, một doanh nghiệp tiến hành hoạt động
chế biến khoáng sản cùng với hoạt động khai thác khoáng sản (ví dụ: khai thác
đá nguyên khai sau đó thực hiện công tác nghiền sàng, phân loại đá).
- Hoạt động khai thác tận thu khoáng sản: Khai thác tận thu là hình
thức khai thác lại, khai thác tại bãi thải ở các mỏ đã có quyết định đóng cửa
để thanh lý (do khai thác hết trữ lượng khoáng sản).
- Trên cơ sở đó tập hợp, hệ thống hóa, lưu trữ tài liệu, thông tin về
nguồn tài nguyên khoáng sản quốc gia, cân đối giữa khai thác và chế biến,
giữa xuất và nhập khẩu đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và
tăng nguồn vốn cho kinh tế - xã hội bằng các tài nguyên khoáng sản có thế
mạnh trên thị trường quốc tế.
21
Từ các hoạt động nêu trên, QLNN về khai thác TNKS bao gồm các nội
dung cụ thể như sau:
Một là, Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản.
Hai là, Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách quản lý khai
thác tài nguyên khoáng sản.
Ba là, Điều tra, đánh giá nguồn khoáng sản tài nguyên quốc gia, làm rõ
tiềm năng tài nguyên khoáng sản để lập quy hoạch thăm dò, khai thác, chế
biến, sử dụng khoáng sản và dự trữ quốc gia.
Bốn là, Cấp, thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản.
Năm là, Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành Luật Khoáng sản;
giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về quản lý khoáng sản; xử lý các
vi phạm pháp luật trong hoạt động khoáng sản.
Sáu là, Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý khai thác tài nguyên
khoáng sản; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ
và quản lý tài nguyên khoáng sản.
Bảy là, Tổ chức nghiên cứu, áp dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh
vực điều tra và khai thác khoáng sản.
Tám là, Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực quản lý khai thác khoáng sản.
1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước đối với khai thác tài nguyên
khoáng sản
Quản lý là sự tác động đến nhận thức và hành vi của con người. Trên
thực tế, có hai khả năng tác động: Khả năng thứ nhất là sử dụng tổng hợp
những biện pháp và cách thức khác nhau để bắt buộc thực hiện hành vi xử sự
cần thiết một cách tự giác. Khả năng thứ hai là sử dụng tổng hợp những biện
pháp và cách thức khác nhau để bắt buộc thực hiện hành vi xử sự cần thiết.
Kết hợp những khả năng này dẫn đến hình thành những phương pháp quản lý
hành chính.
22
Quản lý nhà nước về khai thác TNKS là quản lý hành chính nhà nước.
Do vậy, các chủ thể hành chính nhà nước, trong quá trình tổ chức và hoạt
động của mình sử dụng rất nhiều phương pháp quản lý. Có những phương
pháp của các ngành khoa học khác mà khoa học quản lý vận dụng và có
những phương pháp đặc thù của hành chính nhà nước. Trong quá trình quản
lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản, các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước sử dụng các phương pháp đặc thù sau đây:
- Phương pháp giáo dục: Phương pháp giáo dục là cách tác động vào
nhận thức của con người trong tổ chức, nhằm nâng cao tính tự giác và khả
năng lao động của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Các phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật nhận
thức của con người. Đặc trưng của các phương pháp này là tính thuyết phục,
tức là giúp cho con người phân biệt được phải – trái, đúng – sai, lợi - hại, đẹp
- xấu, thiện – ác. Trên cơ sở nhận thức đúng, họ sẽ hành động đúng, có lương
tâm, có trách nhiệm.
- Phương pháp tổ chức: Phương pháp này là cách thức tác động lên con
người thông qua mối quan hệ tổ chức nhằm đưa con người vào khuôn khổ, kỷ
luật, kỷ cương.
Phương pháp này áp dụng thông qua 2 hướng. Một là, các cơ quan
hành chính nhà nước thành lập các tổ chức hoặc cho phép thành lập các tổ
chức và kiểm soát hoạt động của các tổ chức này. Hai là, trong từng cơ quan
hành chính nhà nước phải xây dựng quy chế, quy trình, nội dung hoạt động
của cơ quan, bộ phận, cá nhân và kiểm tra, xử lý kết quả thực hiện một cách
dân chủ, công bằng.
- Phương pháp kinh tế: Phương pháp kinh tế là cách thức tác động vào đối
tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế, để cho đối tượng bị quản lý tự lựa
chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.
23
Tác động thông qua lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lực thúc đẩy
con người tích cực hoạt động. Thực chất của các phương pháp kinh tế là đạt
mỗi người, mỗi bộ phận vào những điều kiện kinh tế để họ có khả năng kết
hợp đúng đắn lợi ích của mình với lợi ích của tổ chức, cho phép con người lựa
chọn con đường có hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Áp dụng phương pháp kinh tế thông qua sử dụng các đòn bẩy kinh tế
như: tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, giá cả, thuế, chính sách tiền tệ, tỷ giá
hối đoái,…
- Phương pháp hành chính: Phương pháp hành chính là cách thức tác
động trực tiếp của các chủ thể hành chính nhà nước lên đối tượng bằng các
quyết định hành chính mang tính bắt buộc
Vai trò của phương pháp hành chính trong quản lý rất to lớn, nó xác lập
trật tự kỷ cương làm việc trong hành chính nhà nước, khâu nối các phương
pháp quản lý khác và giải quyết các vấn đề đặt ra trong hành chính nhà nước
rất nhanh chóng. Không có phương pháp hành chính thì không thể quản lý hệ
thống có hiệu lực.
Phương pháp này dựa trên mối quan hệ quyền lực phục tùng - tức mối
quan hệ quyền hành trong tổ chức.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản
Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản là
tập hợp những yếu tố khách quan và chủ quan có tác động tích cực hoặc tiêu
cực đến hoạt động QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản.
Hoạt động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản chịu
sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm yếu tố khách quan và yếu tố
chủ quan. Các yếu tố khách quan là các điều kiện tự nhiên, kinh tế,văn hóa-xã
hội, trình độ dân trí, phong tục tập quán.., các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
24
động khai thác khoáng sản, môi trường quốc tế, xu hướng quản lý khai thác
tài nguyên khoáng sản của các nước trên thế giới. Các yếu tố chủ quan là từ
phía các nhà quản lý, hoạch định chính sách có tác động trực tiếp đến hoạt
động của quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản.
1.3.1. Các yếu tố khách quan
- Điều kiện tự nhiên và môi trường, văn hóa-xã hội (trình độ dân trí,
phong tục tập quán...)
Điều kiện tự nhiên, môi trường văn hóa - xã hội là một trong những yếu tố
tác động quan trọng đến hoạt động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản, là tổng hợp các yếu tố, các điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp, gián
tiếp, có tác động tích cực hay tiêu cực đối với hoạt động khai thác tài nguyên
khoáng. Do đặc thù về vị trí địa lý, địa hình khí hậu mỗi vùng, miền khác nhau
có những loại tài nguyên khoáng sản không giống nhau. Do vậy, các nhà quản lý
khi xây dựng chính sách về khoáng sản cần phải nắm rõ được các đặc điểm này
để từ đó xây dựng được các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hoạt động khoáng
sản phù hợp.
Vị trí của những mỏ khoáng sản nằm ở những vùng thuận lợi giao thông,
cơ sở hạ tầng tốt, gần nguồn nước, điện.. thuận tiện phục vụ khai thác cũng mang
lại hiệu quả đối với hoạt động khai khoáng.
Môi trường văn hóa-xã hội, trình độ dân trí, ý thức của cộng đồng dân cư
có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tôn trọng, bảo tồn, phát huy tiềm năng tài
nguyên khoáng sản từ đó người dân biết cách bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết
kiệm nguồn “tài sản” đặc biệt này. Sự am hiểu pháp luật của người dân có vai trò
trong việc giữ gìn, quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, hạn chế
được tình trạng khai thác, tận thu một cách trái phép, bừa bãi làm ảnh hưởng đến
cơ sở hạn tầng kỹ thuật, hủy hoại môi trường sinh thái đồng thời có thái độ đấu
tranh chống lại đối với những hành vi vi phạm pháp luật khoáng sản đồng thời
việc quản lý của nhà nước trở nên có hiệu quả hơn.
25
- Các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khai thác khoáng sản: các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân là các chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động khai
thác đồng thời là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản. Đây là “Người” được Nhà nước giao trực tiếp quản lý, tổ chức thăm
dò, khai thác, sử dụng khoáng sản. Tiềm lực về tài chính, khoa học-công nghệ và
nguồn nhân lực chất lượng cao chuyên ngành mỏ, địa chất, trắc địa...của các tổ
chức, cá nhân này ảnh hưởng đến quy mô khai thác, sự chú trọng đầu tư công
nghệ, thiết bị để thu hồi tối đa, khai thác tận thu hạn chế tình trạng tổn thất tài
nguyên khoáng sản.
- Môi trường quốc tế, xu hướng quản lý tài nguyên khoáng sản của các
nước trên thế giới và Chính sách mở cửa hội nhập với thế giới bên ngoài: Toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế
chủ đạo của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Thế giới ngày nay đang sống
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện
không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch
vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tài nguyên môi
trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. Do vậy, chính sách
QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản của Việt Nam cũng phải được xây
dựng trên cơ sở hướng tới hợp tác, hội nhập chung của toàn thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng
sản là chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa.
Tham gia hội nhập, chính sách và pháp luật và khai thác, sử dụng tài nguyên
và bảo vệ môi trường của Việt Nam sẽ chịu tác động và ảnh hưởng của pháp
luật các nước thành viên khác. Những ràng buộc đó góp phần định hướng cho
chính sách điều tiết của Việt Nam ngày càng hài hòa với các quy tắc và tiêu
chuẩn được thừa nhận rộng rãi ở các nước khác. Cơ chế pháp lý phải thay đổi
và điều chỉnh sao cho phù hợp và hài hòa với yêu cầu của các hiệp định môi
26
trường đa phương của các khối kinh tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. Bên
cạnh đó, cần nỗ lực nghiên cứu kinh nghiệm để tìm hiểu về các rào cản thương
mại nảy sinh từ các tiêu chuẩn môi trường của nước ngoài. Việt Nam cần áp
dụng triệt để nguyên tắc phát triển bền vững thể hiện ở đường lối và chính
sách, pháp luật nói chung và về khai thác sử dụng bền vững tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường trong khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng.
Hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên khoáng sản nhằm tranh thủ
các cơ hội hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ các hoạt động hợp tác đa phương
và song phương nhằm góp phần giải quyết những thách thức về cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường; thực hiện có hiệu quả các điều ước,
thỏa thuận quốc tế liên quan đến lĩnh vực khoáng sản mà Việt Nam đã ký kết,
phê chuẩn và tham gia, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
1.3.2. Các yếu tố chủ quan
- Các quan điểm chủ trương đường lối của Đảng, Hệ thống chính sách,
pháp luật của Nhà nước về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản: là những
định hướng, giải pháp của Đảng, nhà nước về quản lý khai thác tài nguyên
khoáng sản nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Chính sách quản lý khai thác
tài nguyên khoáng sản thể hiện trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành công nghiệp khai khoáng đồng thời kiểm soát những
tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực, thúc đẩy phát triển bền vững.
- Cán bộ công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản: Con người chính là chủ thể quản lý đồng thời cũng là đối
tượng chịu sự quản lý (các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động khai thác
khoáng sản), do vậy yêu cầu đối với chủ thể quản lý này càng phải cao hơn để
có thể tác động, định hướng, điều chỉnh được đối tượng quản lý có hành động
phù hợp với mục tiêu, yêu cầu. Chủ thể đó chính là cán bộ công chức trong
các cơ quan QLNN về khoáng sản phải đảm bảo về số lượng, chất lượng,
27
trình độ, năng lực để đáp ứng yêu cầu công việc; Đạo đức nghề nghiệp, tính
chuyên nghiệp, khả năng thích ứng với sự thay đổi, đáp ứng với yêu cầu thực
tiễn hội nhập quốc tế hiện nay...; Do vậy hệ thống các cơ quan QLNN về
khoáng sản cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hành chính đảm bảo
đồng bộ, triệt để, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác quản lý về khai thác tài nguyên khoáng sản nhằm kịp thời tháo gỡ
các khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị và trình độ khoa học công nghệ:
yếu tố này là điều kiện quyết định đối với mọi sự thắng lợi không riêng lĩnh
vực khai thác khoáng sản mà tất cả các lĩnh vực. Hoạt động khai khoáng chỉ có
thể vận hành có hiệu quả trên nền tảng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trình độ khoa công
nghệ và trang thiết bị hiện đại và ngược lại các điều kiện này không đảm bảo thì
việc khai thác TNKS hay QLNN về hoạt động khai thác TNKS gặp rất nhiều
khó khăn hoặc kém hiệu quả.
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản
Để hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của tài nguyên khoáng sản và hoạt
động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản, tác giả đã tìm hiểu
kinh nghiệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản của một số
quốc gia trên thế giới để từ đó có thể rút kinh nghiệm và đề xuất giải pháp
hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam,
cụ thể một số quốc gia như sau:
* Trung Quốc: Trong những thập niên gần đây, Trung Quốc đã đạt
nhiều thành quả trong công tác khai thác tài nguyên khoáng sản và nhiều mỏ
khoáng sản quy mô lớn, có giá trị đã được xác định, hệ thống cung ứng
khoáng sản đã hình thành. Đến nay ngành công nghiệp khai thác khoáng sản
Trung Quốc đã tự đáp ứng được khoảng 92% về khoáng sản năng lượng, 80%
về khoáng sản cho công nghiệp và khoảng 70% khoáng sản cho sản xuất vật
tư nông nghiệp.
28
Trung Quốc chủ trương trong 20 năm đầu của thế kỷ 21 chủ yếu dựa
vào khai thác tài nguyên khoáng sản nội địa để đảm bảo cho nhu cầu hiện
đại hóa. Trung Quốc rất coi trọng phát triển bền vững và sử dụng hợp lý tài
nguyên khoáng sản và đã thực hiện phát triển bền vững một chiến lược
quốc gia và bảo vệ các nguồn tài nguyên một phần quan trọng của chiến
lược này. Để xây dựng một xã hội một cách toàn diện là mục tiêu của
Trung Quốc trong 20 năm đầu của thế kỷ mới. Trung Quốc sẽ phụ thuộc
chủ yếu vào khai thác tài nguyên khoáng sản riêng của mình để đảm bảo
các nhu cầu của chương trình hiện đại hóa của đất nước. Chính phủ Trung
Quốc khuyến khích việc thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản có
nhu cầu, đặc biệt là các nguồn tài nguyên chiếm ưu thế trong các vùng phía
tây, để tăng khả năng trong nước cung cấp tài nguyên khoáng sản. Đồng
thời, đây là một chính sách của chính phủ quan trọng nhập khẩu có vốn đầu
tư nước ngoài và công nghệ để khai thác tài nguyên khoáng sản của đất
nước, làm cho việc sử dụng của các thị trường nước ngoài và tài nguyên
khoáng sản nước ngoài, và giúp các doanh nghiệp khai thác mỏ và các sản
phẩm khoáng sản của Trung Quốc nhập vào thị trường quốc tế. Chính phủ
Trung Quốc cho rằng các công ty khai thác mỏ nước ngoài vào Trung Quốc
và các doanh nghiệp khai thác mỏ của Trung Quốc nhập vào các nước khác
để làm cho các quốc gia khác nhau cùng có bổ sung tài nguyên có ý nghĩa
lớn cho sự thịnh vượng chung và phát triển lành mạnh của tài nguyên
khoáng sản thế giới thăm dò và khai thác.
- Các mục tiêu và nguyên tắc bảo vệ tài nguyên khoáng sản và sử dụng
hợp lý: Mục tiêu chung của việc bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng
sản trong đầu thế kỷ 21 của Trung Quốc là:
+ Tăng cường khả năng của các nguồn tài nguyên khoáng sản để đảm
bảo xây dựng một xã hội một cách toàn diện. Nâng cao đầu vào hiệu quả
29
thăm dò và khai thác vào tài nguyên khoáng sản, tăng phạm vi và chiều sâu
thăm dò và khai thác, tăng cường bảo vệ tài nguyên khoáng sản, tăng nguồn
cung. Trung Quốc sẽ mở rộng hơn với thế giới bên ngoài và tham gia tích cực
trong hợp tác quốc tế. Trung Quốc cũng sẽ thành lập một hệ thống dự trữ đối
với các nguồn tài nguyên chiến lược, nhằm dự trữ cần thiết về tài nguyên
khoáng sản quan trọng cho nền kinh tế quốc gia và đời sống của nhân dân và
bảo đảm sự an toàn của nền kinh tế của đất nước cũng như cung cấp các mặt
hàng khoáng sản bền vững và an toàn.
+ Đẩy mạnh cải thiện môi trường sinh thái của các mỏ. Trung Quốc
sẽ làm giảm và kiểm soát ô nhiễm và thiệt hại cho môi trường của các tài
nguyên khoáng sản gây ra trong các liên kết sản xuất thay đồ, khai thác mỏ
và luyện kim hoặc tinh chế và mang lại một chu kỳ lành tính trong việc
khai thác tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao
pháp luật và các quy định bảo vệ môi trường tại các khu vực khai thác
khoáng sản, và thực hiện kiểm tra vẫn còn chặt chẽ và giám sát việc thực
thi pháp luật liên quan đến việc kiểm soát môi trường sinh thái của các mỏ
và tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của các doanh
nghiệp khai thác mỏ và toàn xã hội về tầm quan trọng của việc bảo vệ tài
nguyên môi trường.
Để tạo ra một môi trường phát triển cạnh tranh bình đẳng. Trung Quốc
thiết lập một hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và pháp luật về hoạt
động quản lý thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản, Trung Quốc sẽ tiếp
tục cải thiện các luật và quy định liên quan đến quản lý tài nguyên khoáng
sản, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách về tài nguyên khoáng sản, cải thiện
đầu tư môi trường; cung cấp dịch vụ thông tin tuyệt vời và tạo ra môi trường
thị trường mở, có trật tự và thống nhất, trong đó thị trường có thể cạnh tranh
một cách bình đẳng.
30
- Tăng cường năng lực cung cấp tài nguyên khoáng sản trong nước
Trung Quốc dựa chủ yếu vào sự phát triển của tài nguyên khoáng sản
và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác để phát triển kinh tế của đất nước.
Trong quá trình xây dựng một xã hội một cách toàn diện, Trung Quốc trước
hết sẽ làm tăng khả năng cung cấp tài nguyên khoáng sản trong nước. Trung
Quốc vẫn có tiềm năng rất lớn đối với các nguồn tài nguyên khoáng sản thăm
dò và khai thác.
Chính phủ Trung Quốc khuyến khích và hướng dẫn hoạt động cho khảo
sát thương mại đáp ứng hoạch định yêu cầu, bánh răng nhu cầu thị trường và
tập trung vào kết quả kinh tế. Trung Quốc khuyến khích thương mại khảo sát
tại các khu vực trung tâm và phía tây, vùng xa, biên giới và vùng nơi sinh
sống của đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như kinh tế kém phát triển hơn các
khu vực khác có tiềm năng tài nguyên. Trung Quốc khuyến khích các doanh
nghiệp khai thác mỏ để thực hiện khảo sát địa chất thương mại tại các khu
vực xa trung tâm hoặc sự hình thành sâu sắc hơn về các mỏ cũ với cả hai tiềm
năng thị trường và tài nguyên, và để tìm tài nguyên thay thế mới. Trung Quốc
khuyến khích các nhà đầu tư để có được quyền thăm dò và khai thác mỏ,
thông qua cạnh tranh lành mạnh, các trang web của các mỏ khoáng sản được
thành lập sau khi khảo sát có vốn đầu tư của chính phủ. Trung Quốc khuyến
khích thương mại thăm dò dầu, khí thiên nhiên, khí than, than với tro thấp và
nội dung lưu huỳnh thấp, và chất lượng tinh mangan, crôm, đồng, nhôm,
vàng, bạc, niken, coban, kim loại thuộc nhóm bạch kim,và xinvit. Trung Quốc
cũng khuyến khích sự phát triển của nước địa nhiệt khoáng sản, tài nguyên
nước ngầm, một cách khoa học, kinh tế và hợp lý, đồng thời khuyến khích
việc sử dụng nước chất lượng tốt cho các mục đích tốt hơn, và phòng ngừa và
kiểm soát ô nhiễm.
31
- Mở rộng hợp tác quốc tế trong Thăm dò và Khai thác Khoáng sản
Trung Quốc sẽ thực hiện chính sách mở cửa với thế giới. Trung Quốc
tích cực trong hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản để thúc
đẩy việc trao đổi các nguồn lực trong và ngoài nước, vốn, thông tin, công
nghệ và thị trường trên cơ sở có đi có lại và cùng có lợi.
Trung Quốc thực hiện chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư vào tài nguyên khoáng sản thăm dò và khai thác trong nước.
Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trong nước
hợp tác với các công ty khai thác mỏ quốc tế, trên kinh nghiệm quốc tế tiên
tiến, nhập khẩu công nghệ tiên tiến và hoạt động phù hợp với thông lệ quốc
tế. Trung Quốc bắt đầu mở ngành công nghiệp dầu mỏ của thế giới bên ngoài
vào năm 1982 bằng cách sử dụng vốn và công nghệ nước ngoài để thăm dò và
khai thác tài nguyên dầu khí. Kết quả là, phạm vi khai thác đã được mở rộng
và sản lượng dầu thô đã tăng tỷ suất lợi nhuận lớn. Bây giờ, Trung Quốc đã
bắt đầu tham gia vào việc khai thác tài nguyên dầu khí ở nước ngoài. Chính
phủ Trung Quốc đã thực hiện hoặc sẽ mất một số các biện pháp mới để tiếp
tục cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, mở rộng sự mở cửa và tăng cường
hợp tác quốc tế.
- Cải thiện quản lý tài nguyên khoáng sản
Trung Quốc đã dần dần cải thiện việc quản lý tài nguyên khoáng sản
của chính phủ, đưa về quy định pháp luật, tiêu chuẩn hóa và khoa học.
Ban hành và dần dần cải thiện luật pháp và các quy định về quản lý tài
nguyên khoáng sản. Trung Quốc đã đưa ra một hệ thống pháp luật đối với các
nguồn tài nguyên khoáng sản, bao gồm Luật Tài nguyên Khoáng sản và pháp
luật có liên quan và các quy định khác với Hiến pháp như là nền tảng của
Luật. Kể từ năm 1982, Trung Quốc đã liên tục ban hành Luật Tài nguyên
Khoáng sản, Luật Quản lý Đất đai, Than Luật, Luật An toàn trong hầm mỏ,
32
Luật Bảo vệ môi trường và Luật về Sử dụng và quản lý vùng biển. Chính phủ
Trung Quốc cũng đã ban hành hơn 20 quy chế và các quy định bổ sung, bao
gồm Quy định chi tiết việc thực hiện Luật Tài nguyên khoáng sản, Quy định
về khai thác tài nguyên dầu ngoài khơi trong hợp tác với các doanh nghiệp
nước ngoài, Quy định về khai thác tài nguyên dầu trên đất liền bởi các doanh
nghiệp nước ngoài, các biện pháp điều chỉnh việc đăng ký và quản lý Khu vực
Khảo sát tài nguyên khoáng sản, Các biện pháp điều chỉnh việc đăng ký và
quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản, Các biện pháp quản trị hành chính
của chuyển giao khảo sát và quyền khai thác khoáng sản, Quy định về quản lý
hành chính của bộ sưu tập phí tài nguyên khoáng sản bồi thường. Các tỉnh
khác nhau, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài ra, xây dựng
các quy chế liên quan tại địa phương. Các luật và quy định này đã đưa ra hệ
thống pháp luật cơ bản của Trung Quốc cho việc quản lý tài nguyên khoáng
sản, và cung cấp sự bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quản lý, quản lý tài
nguyên khoáng sản và các mỏ hoạt động theo quy định của pháp luật.
* Úc
Úc có hệ thống liên bang, trong đó việc quản lý tài nguyên thiên nhiên
thuộc thẩm quyền cấp bang. Để đảm bảo phát triển bền vững trong ngành
khai khoáng, tại Úc đã triển khai Chương trình phát triển bền vững: Chương
trình này được một Ban chỉ đạo quản lý trực thuộc Bộ Công nghiệp, Du lịch
và Tài nguyên chính phủ Úc và do các nhóm công tác với đại diện từ khu vực
chính phủ, ngành, nghiên cứu, giáo dục đào tạo và cộng đồng xây dựng.
Chương trình phát triển bền vững trong khai thác mỏ đề cập tới các lĩnh vực
môi trường, kinh tế và xã hội trong mọi giai đoạn của cả quá trình khai thác
khoáng sản từ thăm dò tới xây dựng, vận hành và đóng cửa khu khai thác mỏ.
Trước hết, các công ty khai thác cần phải đảm bảo sự hỗ trợ và chấp
nhận rộng rãi của cộng đồng để bảo vệ “giấy phép xã hội để hoạt động” của
33
họ. Giấy phép xã hội để hoạt động là một khái niệm mới, qua đó khẳng định
sự hợp tác của danh nghiệp với cộng đồng và đóng góp vào sự phát triển của
cộng đồng không chỉ là điều nên làm đối với công ty mà còn tạo nên ý thực
kinh doanh đúng đắn.
Bên cạnh đó chương trình này cũng đề cập đến một vấn đề quan trọng
khác trong quản lý hiệu quả trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên.
Chương trình nhấn mạnh, phát triển kinh tế, tác động môi trường và trách
nhiệm xã hội phải được quản lý tốt và hiệu quả; phải được thiết lập và gắn kết
trách nhiệm giữa chính phủ, ngành và các bên liên quan. Hướng tới: tăng
cường tốt đa kết quả đạt được và hiệu suất hoạt động; quản lý tốt hơn các tác
động về môi trường và xã hội; quản lý tốt hơn các lợi ích tiềm tàng trong quá
trình sản xuất và sử dụng.
Những thành tựu nổi bật về xử lý môi trường trong khai thác và chế biến
khoáng sản ở Úc luôn luôn là nguyên nhân hàng đầu và sự đảm bảo chắc chắn
cho các bước phát triển bền vững của ngành công nghiệp quan trọng này ở Úc.
* Indonesia
Indonesia là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, có tài nguyên
khoáng sản khá phong phú, trong đó có một số loại khoáng sản có tiềm năng
lớn như dầu khí, than, đồng, vàng, thiếc.. hoạt động khoáng sản ở Indonesia
trước đây được quản lý và điều hành theo Luật Khoáng sản số 11 năm 1967.
Theo đó Bộ Tài nguyên khoáng sản và năng lượng là cơ quan quản lý và giám
sát mọi hoạt động liên quan đến tài nguyên khoáng sản của quốc gia.
Về quản lý tài nguyên khoáng sản, Indonesia chia tài nguyên khoáng
sản ra làm 3 khu vực: khu vực mỏ, khu vực mỏ nhỏ và khu vực dự trữ quốc
gia… (Khu vực mỏ nhỏ: do chính phủ xác định có sự tham vấn của chính
quyền khu vực và báo cáo bằng văn bản lên Quốc hội. Tiêu chí để xét cấp
giấy phép khai thác mỏ trong một vùng gồm vị trí địa lý, nguyên tắc bảo tồn
34
tài nguyên, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, hiệu quả khai thác và mật độ dân số
trong vùng; khu vực mỏ nhỏ do chủ tịch thành phố hoặc quận, huyện xác định
có thông qua hội đồng nhân dân cùng cấp; khu vực dự trữ quốc gia: chính phủ
xác định khu vực dự trữ quốc gia với các tài nguyên tin cậy và có tính thương
mại cao…
Về trách nhiệm quản lý nhà nước, Luật Khoáng sản và Than của
Indonesia phân cấp mạnh cho địa phương. Theo đó Bộ Năng lượng và Tài
nguyên khoáng sản được nhà nước ủy quyền thực hiện quản lý nhà nước về
khoáng sản. Khi diện tích khai thác nằm trên lãnh thổ của nhiều tỉnh thì do Bộ
trưởng cấp phép; khi diện tích khai thác nằm trên lãnh thổ nhiều huyện thì do
chủ tịch tỉnh cấp phép và cấp huyện cấp phép khi ranh giới khai thác chỉ nằm
trên một huyện. Đối với nhà đầu tư khai khoáng, luật quy định các nhà đầu tư
có trách nhiệm làm tăng giá trị sản phẩm khoáng sản trong quá trình khai
thác, chế biến và sử dụng. Nhà đầu tư phải tiến hành tuyển, chế biến và tinh
luyện trong nước, phải hợp tác với các chủ sở hữu khác có giấy phép để cùng
tiến hành tuyển và chế biến khoáng sản; xây dựng các nhà máy chế biến hoặc
có thể sử dụng các nhà máy chế biến sẵn có của các công ty khác ở Indonesia.
Quy định này của Indonesia nhằm hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô,.
Ngoài ra, Luật khoáng sản và than của Indonesia quy định trách nhiệm
hình sự trong hoạt động khoáng sản. Theo đó khung hình phạt tù cao nhất là
10 năm và phạt tiền lên đến 10 tỷ rupiah.
* Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia nghèo về tài nguyên khoáng sản trong khi
nhu cầu sử dụng lại rất lớn, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chính sách hợp
lý để đảm bảo nhu cầu khoáng sản sử dụng trong nước cho mục tiêu phát triển
kinh tế. Nhật Bản tăng cường đầu tư hoặc liên doanh, liên kết với các Chính
phủ khác để có nguồn nguyên liệu. Chính phủ Nhật Bản cũng bắt đầu tiếp cận
35
với hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân để đầu tư vào các dự án tìm
kiếm quặng sắt ở Australia.
Sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản cho các công ty trong nước trong
các dự án khai thác tài nguyên tại nước ngoài diễn ra trong bối cảnh nhu cầu
khoáng sản ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng
nhanh, khiến các nước này đẩy mạnh khai thác tài nguyên tại nước ngoài.
Ngoài việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, để đối phó với các tập đoàn
lớn của Brazil, Anh và Australia đang khống chế thị trường quặng sắt thế
giới, các công ty Nhật Bản có xu hướng liên minh liên kết. Vào cuối năm
2008, năm công ty cán thép hàng đầu Nhật Bản đã liên kết với nhau để mua
lại quyền khai thác một mỏ quặng vào loại lớn nhất ở Brazil.
* Bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động QLNN về khai thác TNKS tại
một số nước trên thế giới
Từ những kinh nghiệm về quản lý và khai thác khoáng sản của một số
nước trên thế giới, có thể nhận thấy trước thách thức cạn kiệt tài nguyên và xu
thế cạnh tranh toàn cầu về tài nguyên khoáng sản, các nước rất chú ý đến việc
quản lý và khai thác khoáng sản. Các quốc gia đã và đang triển khai nhiều
biện pháp, điều chỉnh luật và các chính sách liên quan trong quản lý khai thác
TNKS như sau:
- Hạn chế khai thác khoáng sản trong nước, giữ nguyên hiện trạng,
đóng cửa các mỏ khi chưa đủ điều kiện khai thác hoặc gây ô nhiễm môi
trường, đồng thời cải tiến công nghệ chế biến nhằm tận thu tối đa các sản
phẩm khoáng sản có ích.
- Triển khai Chương trình phát triển bền vững, đề cập tới các lĩnh vực
môi trường, kinh tế và xã hội trong mọi giai đoạn của cả quá trình khai thác
khoáng sản từ thăm dò tới xây dựng, vận hành và đóng cửa khu khai thác mỏ.
Chương trình nhấn mạnh, phát triển kinh tế, tác động môi trường và trách
36
nhiệm xã hội phải được quản lý tốt và hiệu quả; phải được thiết lập và gắn kết
trách nhiệm giữa chính phủ, ngành và các bên liên quan. Hướng tới tăng
cường tối đa kết quả đạt được và hiệu suất hoạt động; quản lý tốt hơn các tác
động về môi trường và xã hội; quản lý tốt hơn các lợi ích tiềm tàng trong quá
trình sản xuất và sử dụng.
Quan tâm đặc biệt tới vấn đề xử lý môi trường trong khai thác và chế
biến khoáng sản và là cơ sở đảm bảo chắc chắn cho các bước phát triển bền
vững của ngành công nghiệp khai thác khoáng sản.
- Tạo ra một môi trường phát triển cạnh tranh bình đẳng, thiết lập một
hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và pháp luật về hoạt động quản lý
thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản, điều chỉnh và hoàn thiện chính
sách về tài nguyên khoáng sản, cải thiện đầu tư môi trường; cung cấp dịch vụ
thông tin tuyệt vời và tạo ra môi trường thị trường mở, có trật tự và thống
nhất, trong đó thị trường có thể cạnh tranh một cách bình đẳng. Đồng thời
tăng cường năng lực cung cấp tài nguyên khoáng sản trong nước khuyến
khích các nhà đầu tư cạnh tranh lành mạnh.
- Tăng cường nhập khẩu khoáng sản thô, các khoáng sản có nguy cơ
cạn kiệt, thực hiện dự trữ quốc gia về tài nguyên khoáng sản;
- Mở rộng hợp tác quốc tế, thực hiện các chính sách thúc đẩy hợp tác,
liên doanh khai thác khoáng sản. Tăng cường đầu tư, liên doanh liên kết với
các quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản, nguồn vốn, trình độ khoa học công
nghệ hiện đại. Tích cực trong hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên
khoáng sản để thúc đẩy việc trao đổi các nguồn lực trong và ngoài nước, vốn,
thông tin, công nghệ và thị trường trên cơ sở có đi có lại và cùng có lợi.
- Thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong việc cấp
phép. Xây dựng chính sách để các nhà đầu tư có trách nhiệm làm tăng giá trị
sản phẩm khoáng sản trong quá trình khai thác, chế biến và sử dụng. Nhà đầu
37
tư phải tiến hành tuyển, chế biến và tinh luyện trong nước, phải hợp tác với
các chủ sở hữu khác có giấy phép để cùng tiến hành tuyển và chế biến khoáng
sản; xây dựng các nhà máy chế biến hoặc có thể sử dụng các nhà máy chế
biến sẵn có nhằm hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô.
Bên cạnh đó việc tăng cường tiềm lực tài chính, khả năng đầu tư phát
triển công nghệ hiện đại và hợp lý, năng lực tổ chức quản lý trong thăm dò,
khai thác và chế biến; khả năng bảo hộ và bao tiêu sản phẩm sau khai thác là
những vấn đề được nhiều nước có nền công nghiệp phát triển quan tâm.
Tiểu kết Chương 1
Ở Chương 1, tác giả đã hệ thống hóa một số vấn đề chung, cơ bản về
QLNN và QLNN đối với khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam, bao
gồm: các Khái niệm về tài nguyên khoáng sản, khai thác TNKS, các đặc
điểm; quyền sở hữu về TNKS; vai trò của khai thác TNKS đối với sự phát
triển kinh tế-xã hội; Khái niệm về Quản lý nhà nước, QLNN về khai thác
TNKS; Sự cần thiết phải QLNN về khai thác TNKS; yêu cầu, nguyên tắc, nội
dung, phương thức QLNN đối với khai thác TNKS.
Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nghiên cứu tới các yếu tố khách quan, chủ
quan tác động tích cực, tiêu cực đến QLNN về khai thác TNKS. Tác giả đã
tìm hiểu kinh nghiệm quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản
của một số quốc gia trên thế giới để từ đó có thể nghiên cứu, rút kinh nghiệm
và đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản trong điều kiện của Việt Nam hiện nay.
38
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC
TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
2.1. Tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản
* Về loại hình khoáng sản được khai thác: Tính riêng các mỏ khoáng
sản do cơ quan Trung ương cấp giấy phép, đến ngày 31 tháng 12 năm 2008
hiện có khoảng 350 mỏ/khu vực mỏ thuộc 10/12 nhóm khoáng sản và 68
điểm nước khoáng, nước nóng đang khai thác. Tính riêng cho khoáng sản rắn
thì nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng (sét xi măng, đá vôi xi măng, đá ốp lát
các loại, đá phiến lợp, cát silic phụ gia xi măng, nguyên liệu phụ gia xi măng
v.v…) chiếm tỷ lệ 36,96 %. Nhóm khoáng sản nhiên liệu (than mỡ, than
antraxit) chiếm tỷ lệ 22,11 %. Nhóm khoáng sản nguyên liệu sứ, gốm, thủy
tinh, chịu lửa, bảo ôn (kaolin, fenspat, sét gốm sứ, sét chịu lửa, đôlômit,
quăczit, cát thủy tinh) chiếm tỷ lệ 15,84 %. Nhóm khoáng sản kim loại cơ bản
thông thường (thiếc, anitmon, đồng, chì - kẽm và nikel) chiếm tỷ lệ 4,29 %.
Nhóm khoáng sản sắt và hợp kim của sắt (sắt, mangan, crômit và wonfram)
chiếm tỷ lệ 5,61 %. Nhóm khoáng sản kim loại nhẹ (bauxit, ilmenit) chiếm tỷ
lệ 7,59 %. Nhóm khoáng sản nguyên liệu kỹ thuật (tacl, đá vôi trắng, các
khuôn đúc, sét bentonit) chiếm tỷ lệ 4,29 %. Nhóm khoáng sản quý hiếm (đá
quý, saphia) chiếm tỷ lệ 0,66 %. Nhóm khoáng sản hóa chất và phân bón
(apatit, fluorit, secpentin) chiếm tỷ lệ 1,65 % và nhóm khoáng sản kim loại
quý (vàng) chiếm 0,99 %.
Theo thống kê, đến tháng 6 năm 2009 có 3.882 giấy phép khai thác do
ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép khai thác còn hiệu lực và đang thực hiện.
Trong đó có 82% là giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng
39
thông thường, than bùn; 16% là giấy phép khai thác loại khoáng sản khác,
giấy phép khai thác tận thu thuộc các nhóm khoáng sản nêu trên.
* Về loại hình doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản: Từ khi
Luật Khoáng sản ban hành đã có hầu hết các thành phần kinh tế như: doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã v.v… tham gia
khai thác khoáng sản. Theo thống kê, số doanh nghiệp tham gia hoạt động
trong công nghiệp khai thác mỏ tăng nhanh từ 427 doanh nghiệp (năm 2000)
lên đến hơn 1.400 doanh nghiệp vào thời điểm hiện tại. Trong đó, các doanh
nghiệp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường chiếm tới
gần 1.200 doanh nghiệp với quy mô nhỏ và vừa.
Chỉ tính riêng các doanh nghiệp khai thác theo giấy phép do cơ quan
Trung ương cấp đã có khoảng 150 doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn của
37 tỉnh, thành phố. Trong đó, số lượng các doanh nghiệp nhà nước có ưu thế
tuyệt đối, chiếm tỷ lệ 54,41 % (chưa kể công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà
nước một thành viên, công ty cổ phần chuyển hóa từ doanh nghiệp nhà nước
trước đây). Số lượng các doanh nghiệp còn lại là: công ty cổ phần chiếm
22,79 %; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ 8,82 %; công ty
trách nhiệm hữu hạn chiếm 5,88 %; công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước
một thành viên chiếm 3,68 %; doanh nghiệp tư nhân chiếm 2,94 %; hợp tác
xã và doanh nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn
1,47 % trong tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động.
Về số lượng các doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản rắn ở quy
mô công nghiệp do cơ quan Trung ương cấp phép chiếm tỷ lệ không lớn,
khoảng 10% tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực khai
thác khoáng sản. Tuy nhiên, phần lớn là các doanh nghiệp lớn của Nhà nước,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số doanh nghiệp ngoài quốc
40
doanh quy mô lớn đầu tư thăm dò, khai thác loại khoáng sản cần vốn lớn,
thiết bị công nghệ hiện đại, có sự rủi ro cao hơn khi đầu tư cho loại hình
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường.
Theo thống kê, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia
chủ yếu trong lĩnh vực khai thác khoáng sản phục vụ công nghiệp sản xuất
xi măng (Công ty Xi măng Nghi Sơn, Công ty Xi măng Chinfon, Công ty
Xi măng Lusk Việt Nam, Công ty Xi măng Holcim… ), đá ốp lát (Công ty
liên doanh Latina An Giang), đá vôi trắng (Công ty Yabashi, Công ty liên
doanh cacbonat canxi YBB), nước khoáng (Công ty Lavie), vàng (Công ty
trách nhiệm hữu hạn vàng Bồng Miêu, Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng
Phước Sơn), Niken (Công ty trách nhiệm hữu hạn Niken Bản Phúc), titan
sa khoáng (Công ty khoáng sản Bình Định Việt Nam - Malaysia), đá phiến
lợp (Công ty liên doanh đá phiến Lai Châu), quặng sắt (Công ty trách
nhiệm hữu hạn Khoáng sản và luyện kim Việt - Trung). Có một số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do hoạt động không có hiệu quả phải giải
thể, ngừng hoạt động trước thời hạn từ những năm cuối thế kỷ 20 như: Xí
nghiệp liên doanh vàng Việt - Nga, Công ty liên doanh Đá quý Việt - Thái,
Công ty khai thác chế biến titan Austinh Hà Tĩnh, Công ty trách nhiệm hữu
hạn khai thác đá ốp lát Halim (100% vốn nước ngoài).
Về quy mô các mỏ khoáng sản được khai thác. Mặc dù phong phú về
chủng loại và nhiều về số lượng nhưng phần lớn các mỏ, điểm mỏ khoáng sản
đã được phát hiện ở Việt Nam chủ yếu là các mỏ nhỏ và vừa. Mặt khác, do
hạn chế về vốn đầu tư, công nghệ khai thác nên các mỏ đang khai thác chủ
yếu có quy mô mỏ nhỏ, hoặc một số mỏ lớn được chia thành nhiều khu vực
để khai thác với quy mô nhỏ hơn. Các mỏ khai thác có công suất lớn tập trung
vào một số loại khoáng sản như: than (có 05 mỏ lộ thiên công suất 2÷3 triệu
tấn than nguyên khai/năm, 08 mỏ than hầm lò công suất từ 0,9÷1,5 triệu tấn
41
than nguyên khai/năm); đá vôi nguyên liệu xi măng (có 15 mỏ khai thác với
công suất từ 1,5÷3,0 triệu tấn đá nguyên khai/năm); apatit (trên 500.000 tấn
quặng/năm); đồng (công suất trên 1 triệu tấn quặng nguyên khai/năm), số mỏ
công suất trung bình (> 400.000 tấn/năm đối với than, sét nguyên liệu xi
măng, ilmenit) chiếm tỷ lệ không lớn, còn lại là các mỏ khoáng sản khai thác
ở quy mô nhỏ.
Xét về giá trị tuyệt đối thì các mỏ khoáng sản rắn ở quy mô công
nghiệp có số lượng không nhiều so với các mỏ khoáng sản khác, nhất là
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (đá, cát xây dựng, sét gạch
ngói v.v…) và chỉ chiếm trên 10% tổng số các mỏ khoáng sản đang hoạt động
trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, các mỏ khoáng sản rắn lại chiếm ưu thế về
giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp khai thác mỏ (trừ dầu khí), giải
quyết được số lượng lớn lao động (chỉ tính riêng ngành khai thác than thì giá
trị tổng sản lượng đã chiếm khoảng 60% tổng giá trị sản lượng toàn ngành
khai khoáng và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100.000 lao động
thường xuyên).
Trong những năm gần đây, sản lượng khai thác một số loại khoáng sản
có mức tăng trưởng nhanh như than, quặng sắt, titan sa khoáng, chì - kẽm,
apatit, nước khoáng, đá vôi, đá sét sản xuất xi măng và đá làm vật liệu xây
dựng thông thường. Sản phẩm của ngành khai khoáng đã đóng góp đáng kể
vào sự phát triển ngành công nghiệp trong thời gian qua. Trong nước đã hình
thành được một số Tập đoàn kinh tế mạnh, một số doanh nghiệp nhà nước có
vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn trong ngành khai thác khoáng sản như:
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt
Nam, Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam. Một số doanh nghiệp
trong nước đã ổn định và phát triển trong lĩnh vực khai khoáng như: Tổng
42
công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh, Công ty cổ phần đá Hóa An,
Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên vật liệu xây dựng Biên Hòa, Công
ty cổ phần Khoáng sản Bình Định, v.v
2.2. Tình hình thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động khai
thác tài nguyên khoáng sản
a) Hệ thống thể chế, chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về
khai thác tài nguyên khoáng sản hiện nay
* Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
Luật Khoáng sản năm 1996 được ban hành, lần đầu tiên chúng ta đã có
văn bản luật - văn bản pháp lý cao nhất để quản lý tài nguyên khoáng sản và
đã đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong quản lý nhà nước về
khoáng sản. Từ khi Luật khoáng sản năm 1996 có hiệu lực từ tháng 9 năm
1996 đến nay về cơ bản thể chế quản lý khoáng sản đã được hoàn thiện, tạo
hành lang pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý,
tiết kiệm nguồn lực này để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Theo đó, cùng
với Luật khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật khoáng sản năm 1996 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều Luật khoáng sản năm 2005); Thi hành Luật
khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường đến nay, Chính phủ và các Bộ liên
quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp luật, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý, gồm: 02 Nghị quyết, 06 Nghị
định của Chính Phủ; 08 Chỉ thị, 05 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 120
văn bản Quyết định, Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ ngành; 32 văn
bản QPPL về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản (gồm: 01 Nghị
quyết, 10 Nghị định của Chính phủ; 02 Quyết định của Chính phủ, 19 Quyết
định, Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ, ngành liên quan).
Luật khoáng sản năm 2010 đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ
họp thứ tám vào ngày 17 tháng 11 năm 2010. Theo đó, hệ thống văn bản quản
43
lý đến nay cơ bản được hoàn thiện. Đến nay Chính phủ đã ban hành được 06
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản; 03 Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ; 20 Thông tư, Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Luật khoáng
sản và các Nghị định của các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Công Thương,
Xây dựng, Tài chính... và gần 10 văn bản khác liên quan đến lĩnh vực khoáng
sản ban hành trước ngày 01 tháng 07 năm 2011 đang còn hiệu lực đã tại nên
hành lang pháp lý khá đầy đủ trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
nói chung và khai khác tài nguyên khoáng sản.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì dự thảo trình Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành, phối hợp ban hành theo
thẩm quyền 26 văn bản, trong đó có: 01 Luật của Quốc hội (Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Khoáng sản); 03 Nghị định của Chính phủ; 01
Quyết định và 03 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành theo thẩm
quyền 01 Thông tư, 11 Quyết định của Bộ trưởng và phối hợp ban hành 06
Thông tư liên tịch liên quan đến quản lý nhà nước về khoáng sản.
* Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên và
khoáng sản
Theo quy định của Luật Khoáng sản năm 2010: Hệ thống các cơ quan
chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản bao gồm: Chính phủ, Bộ
Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các
cấp, trách nhiệm của các cơ quan, cụ thể:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoáng sản;
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm:
+ Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về khoáng
sản; ban hành quy chuẩn kỹ thuật, định mức, đơn giá trong điều tra cơ bản địa
chất về khoáng sản, thăm dò khoáng sản;
44
+ Lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược khoáng sản;
lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch khoáng sản theo phân
công của Chính phủ;
+ Khoanh định và công bố các khu vực khoáng sản theo thẩm quyền;
khoanh định và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định khu vực không đấu giá
quyền khai thác khoáng sản theo thẩm quyền;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng
sản và hoạt động khoáng sản;
+ Cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai
thác khoáng sản; chấp thuận trả lại Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép
khai thác khoáng sản, trả lại một phần diện tích khu vực thăm dò, khai thác
khoáng sản; tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền;
+ Hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc đăng ký hoạt động điều tra cơ bản
địa chất về khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản;
+ Tổng hợp kết quả điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, tình hình
hoạt động khoáng sản; quản lý thông tin, mẫu vật địa chất, khoáng sản;
+ Công bố, xuất bản các tài liệu, thông tin điều tra cơ bản địa chất về
khoáng sản;
+ Thường trực Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo
thẩm quyền.
- Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng có trách nhiệm lập và trình phê duyệt
quy hoạch về khoáng sản theo phân công của Chính phủ (quy định tại Điều 8
Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Khoáng sản); đồng thời phối hợp với Bộ
Tài nguyên và Môi trường trong quản lý nhà nước về khoáng sản.
45
+ Trách nhiệm chính của Bộ Công thương trong quản lý khoáng sản là
việc lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch khoáng sản (trừ quy
hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền lập của Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh); tổ chức, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch khoáng sản và quy
định điều kiện xuất khẩu khoáng sản thuộc thẩm quyền; ban hành quy chuẩn
kỹ thuật trong khai thác, chế biến khoáng sản.
Khoản 2 Điều 15 Luật khoáng sản năm 2010 quy định, trong phạm vi
trách nhiệm của mình, sau khi quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền lập đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong vòng 30 ngày Bộ Công thương
phải tổ chức công bố công khai quy hoạch khoáng sản.
+ Trách nhiệm của Bộ Xây dựng chủ trì lập, trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản làm
vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất xi măng; tổ chức thực hiện, kiểm tra
thực hiện quy hoạch sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; quy định
điều kiện xuất khẩu khoáng sản và ban hành quy chuẩn kỹ thuật trong khai
thác, chế biến khoáng sản thuộc thẩm quyền.
Tương tự như trên, trách nhiệm công bố công khai quy hoạch khoáng
sản thuộc thẩm quyền lập đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong
vòng 30 ngày của Bộ Xây dựng cũng được quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật
khoáng sản năm 2010.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm:
+ Ban hành theo thẩm quyền văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định
của Nhà nước về quản lý, bảo vệ khoáng sản và quản lý hoạt động khoáng sản
tại địa phương;
+ Khoanh định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khu vực cấm
hoạt động khoáng sản, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản; quyết
định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo thẩm quyền;
46
+ Lập, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch
thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản của địa phương theo quy định của
Chính phủ;
+ Công nhận chỉ tiêu tính trữ lượng khoáng sản; phê duyệt trữ lượng
khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp
giấy phép;
+ Cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai
thác khoáng sản, Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản; chấp thuận trả lại Giấy
phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản, Giấy phép khai thác
tận thu khoáng sản, trả lại một phần diện tích khu vực thăm dò, khai thác khoáng
sản; tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền;
+ Giải quyết theo thẩm quyền việc cho thuê đất hoạt động khoáng sản,
sử dụng hạ tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân
được phép hoạt động khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;
+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa khai
thác, tài nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an
ninh, trật tự an toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản;
+ Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản ở Trung ương về
tình hình hoạt động khoáng sản trên địa bàn;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo
thẩm quyền.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
+ Giải quyết theo thẩm quyền cho thuê đất hoạt động khoáng sản, sử
dụng hạ tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân
được phép hoạt động khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;
47
+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa khai
thác, tài nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an
ninh, trật tự an toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản;
+ Báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp tình hình hoạt động
khoáng sản trên địa bàn;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo
thẩm quyền.
Mô hình Quản lý nhà nước về khoáng sản
Chính phủ
Bộ TN&MT
Bộ Xây dựng
Bộ Công thương
UBND Tỉnh và TP
Vụ VLXD
Tổng cục ĐC&KS VVN
Sở Xây dựng
Sở Công thương
UBND huyện, xã
Sở TN&MT T
Vụ KS
Phòng TNKS
Phòng TNMT
Vụ Công nghiệp nặng
Cục KTĐCKS (Departme
Cục KS HĐ KS
Vụ Địa chất
48
b) Quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác tài nguyên khoáng
sản giai đoạn 2002-2016
* Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản và
khai thác tài nguyên khoáng sản
Việc xây dựng và ban hành thể chế về quản lý tài nguyên khoáng sản là
nhiệm vụ, công việc hết sức quan trọng, là trách nhiệm của các chủ thể quản
lý nhà nước để quản trị có hiệu quả nguồn tài nguyên đặc biệt này. Do đó,
công tác này luôn được Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo thực hiện để ngày càng
hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về khoáng sản.
Luật Khoáng sản năm 1996 được ban hành, lần đầu tiên chúng ta đã
có văn bản luật - văn bản pháp lý cao nhất để quản lý tài nguyên khoáng
sản và đã đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong quản lý nhà
nước về khoáng sản. Từ khi Luật khoáng sản năm 1996 có hiệu lực từ
tháng 9 năm 1996 đến nay về cơ bản thể chế quản lý khoáng sản đã được
hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ, khai thác,
sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn lực này để phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Theo đó, cùng với Luật khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật khoáng
sản năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật khoáng sản năm
2005); Thi hành Luật khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường đến nay,
Chính phủ và các Bộ liên quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp
luật, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý,
gồm: 02 Nghị quyết, 06 Nghị định của Chính Phủ; 08 Chỉ thị, 05 Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ; 120 văn bản Quyết định, Thông tư, Thông
tư liên tịch của các Bộ ngành; 32 văn bản QPPL về bảo vệ môi trường
trong khai thác khoáng sản (gồm: 01 Nghị quyết, 10 Nghị định của Chính
phủ; 02 Quyết định của Chính phủ, 19 Quyết định, Thông tư, Thông tư liên
tịch của các Bộ, ngành liên quan).
49
Mới đây nhất, Luật khoáng sản năm 2010 đã được Quốc hội khóa XII
thông qua tại kỳ họp thứ tám vào ngày 17 tháng 11 năm 2010. Theo đó, hệ
thống văn bản quản lý đến nay cơ bản được hoàn thiện. Đến nay Chính phủ đã
ban hành được 05 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản; 03 Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ; 20 Thông tư, Thông tư liên tịch hướng dẫn thi
hành Luật khoáng sản và các Nghị định của các Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Công Thương, Xây dựng, Tài chính... và gần 10 văn bản khác liên quan đến
lĩnh vực khoáng sản ban hành trước ngày 01 tháng 07 năm 2011 đang còn hiệu
lực đã tại nên hành lang pháp lý khá đầy đủ trong công tác quản lý nhà nước về
khoáng sản nói chung và khai khác tài nguyên khoáng sản.
Riêng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì dự thảo trình Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành, phối hợp ban hành
theo thẩm quyền 26 văn bản, trong đó có: 01 Luật của Quốc hội (Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản); 03 Nghị định của Chính phủ; 01
Quyết định và 03 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành theo thẩm
quyền 01 Thông tư, 11 Quyết định của Bộ trưởng và phối hợp ban hành 06
Thông tư liên tịch liên quan đến quản lý nhà nước về khoáng sản.
*Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản
Sau khi Luật Khoáng sản được ban hành, Bộ Công nghiệp trước đây,
Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện nay và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương đã thường xuyên phối hợp tiến hành tổ chức công
tác tuyên truyền, hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản trong phạm vi cả nước.
Các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương, địa phương đã
đăng tải nội dung Luật Khoáng sản; Các cuộc phỏng vấn, trao đổi, tọa đàm
được thực hiện nhằm tạo điều kiện phổ biến sâu rộng pháp luật về khoáng sản
trong quần chúng nhân dân. Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp
luật về khoáng sản cho các tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản còn được
50
thực hiện thông qua công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản. Riêng
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức được 08 Lớp bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường cho lãnh đạo, cán bộ Sở Tài
nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 03 lớp bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về khoáng sản cho phóng viên báo chí, 06
lớp cho cán bộ, chuyên viên Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố
trong cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp Chương trình
SEMLA (Thụy Điển) xây dựng bộ tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường cấp huyện, trong đó có riêng một chuyên
đề quản lý nhà nước về khoáng sản và tổ chức 06 đợt tập huấn, bồi dưỡng cho
cán bộ tài nguyên và môi trường cấp huyện.
Thực hiện đa dạng hóa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
khoáng sản, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Bộ Tài nguyên và
Môi tường đã phối hợp với Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam
thực hiện nhiều chuyên đề về công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. Năm
2006 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức thí điểm "Tuần lễ giáo dục pháp
luật về tài nguyên và môi trường" trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước về
khoáng sản tại một số khu vực. Ngoài ra, từ năm 2006 đến nay, Bộ đã tiến hành
18 phiên giao lưu trực tuyến để giải đáp pháp luật về tài nguyên và môi trường
trên mạng Internet với Sở Tài nguyên và Môi trường, người dân và doanh
nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện trong các năm tiếp theo để giải đáp những vấn đề
vướng mắc của người dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực tài nguyên môi trường
nói chung và về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng.
* Công tác xây dựng, phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến
và sử dụng khoáng sản (quy hoạch khoáng sản)
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về khoáng sản được phân công,
từ năm 2005 Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Bộ Xây dựng đã
51
triển khai công tác lập Quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Đến nay, các
Bộ đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hoặc Bộ trưởng Bộ
Công Thương phê duyệt theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ 13 Quy
hoạch đối với 39 loại khoáng sản, gồm: quặng sắt; quặng chì - kẽm; quặng
titan; quặng bauxit; quặng crômit, mangan; quặng thiếc, vonfram và antimon;
quặng vàng, đồng, niken, molipđen; đá quý, đất hiếm, urani; quặng apatit;
nhóm khoáng chất công nghiệp (serpentin, barit, grafit, fluorit, bentonit,
diatomit, talc); nhóm khoáng chất nguyên liệu (đá hoa trắng, felspat, cao lanh,
magnezit); nhóm khoáng sản làm xi măng (đá vôi xi măng, đá sét xi măng, cát
silic, puzơlan, laterit, đá bazan); nhóm khoáng sản làm vật liệu xây dựng (đất
sét trắng, sét chịu lửa, cát trắng, đôlômit, đá ốp lát).
Thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp, hầu hết UBND các tỉnh, thành
phố đã lập và phê duyệt quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Theo số
liệu tổng hợp từ 60/63 báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
đến tháng 6 năm 2009 mới có 47/63 tỉnh, thành phố đã phê duyệt quy hoạch
khoáng sản trên địa bàn địa phương (đạt 74,6 %). Công tác khoanh định, phê
duyệt khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản đã được các địa phương triển
khai nhưng tiến độ phê duyệt còn rất chậm. Đến tháng 6 năm 2009 mới chỉ có
27/63 tỉnh, thành phố hoàn thành công tác (đạt 42,86 %); đến hết năm 2016 có
55/63 tỉnh, thành phố đã thực hiện công tác này.
Đến hết năm 2016, theo thống kê của 61/63 tỉnh, thành phố đã có 110 quy
hoạch các loại khoáng sản được UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt theo thẩm
quyền. Các địa phương đã rà soát, điều chỉnh 20 quy hoạch khoáng sản đã phê
duyệt trước đó để phù hợp với yêu cầu thực tế cũng như các quy hoạch có liên
quan của cả nước.
* Công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản
Theo thống kê, từ khi Luật Khoáng sản có hiệu lực vào tháng 9 năm
1996 đến hết năm 2008, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Bộ Tài
52
nguyên và Môi trường đã cấp, gia hạn, thu hồi, cho phép chuyển nhượng, thừa
kế, cho phép tiếp tục thực hiện quyền thăm dò, khai thác khoáng sản tổng cộng
1.031 giấy phép hoạt động khoáng sản. Trong đó, có 640 giấy phép thăm dò
khoáng sản, 387 giấy phép khai thác khoáng sản, 03 giấy phép khảo sát
khoáng sản và 01 giấy phép chế biến khoáng sản. Công tác cấp giấy phép hoạt
động khoáng sản được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về khoáng
sản, nhất là sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản
ban hành và có hiệu lực. Theo đó, khi cấp phép đều phải tuân thủ quy hoạch
đã phê duyệt, trường hợp chưa có quy hoạch phải có ý kiến chấp thuận bằng
văn bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ được Thủ tướng Chính phủ ủy
quyền. Mặt khác, trong quá trình thẩm định, cấp giấy phép đều phải rà soát kỹ
các vấn đề liên quan đến an ninh - quốc phòng, di tích lịch sử văn hóa, cảnh
quan, môi trường cũng như các vấn đề khác có liên quan. Riêng năm 2016,
Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp mới, gia hạn cho phép chuyển nhượng 78
giấy phép thăm dò/khai thác khoáng sản và ban hành 03 Quyết định đóng cửa
mỏ khoáng sản.
Về phía Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh; theo số liệu thống kê từ 60/63 báo
cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đến tháng 6 năm 2009 có
331 giấy phép thăm dò và 3.882 giấy phép khai thác do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương cấp đang thực hiện. Trong đó có 82% là
giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn,
16% là giấy phép khai thác loại khoáng sản khác, còn lại là giấy phép khai
thác tận thu.
Các tỉnh cấp nhiều giấy phép khai thác là Bình Thuận (200 giấy phép),
Vĩnh Long (155 giấy phép), Yên Bái (152 giấy phép), Cao Bằng (142 giấy
phép), Lâm Đồng (136 giấy phép), Lai Châu (124 giấy phép), Nghệ An (126
giấy phép), Lào Cai (121 giấy phép), Thanh Hóa (101 giấy phép). Tuy nhiên
53
cũng có tỉnh chưa cấp giấy phép khai thác (Bạc Liêu, Cà Mau), hoặc chỉ cấp 1,
2 giấy phép (Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Hưng Yên).
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2016, UBND cấp
tỉnh đã cấp mới tổng số 1.083 giấy phép, trong đó: 395 Giấy phép thăm dò
khoáng sản và 688 Giấy phép khai thác khoáng sản; đã thu thu hồi 28 Giấy
phép, cho phép trả lại 18 giấy phép và quyết định đóng cửa 94 khu vực mỏ.
* Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản
Công tác kiểm tra được tăng cường đối với các nội dung liên quan đến
khai thác, chế biến và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản như: kiểm tra
công tác kiểm kê, quyết toán tài nguyên khoáng sản đã khai thác, chế biến hàng
năm; kiểm tra công tác khai thác, sử dụng khoáng sản đi kèm với khoáng sản
chính đang khai thác (nếu có); kiểm tra quy hoạch, kế hoạch xây dựng cơ bản
của các mỏ mới được cấp phép, kế hoạch khai thác 5 năm, hàng năm của doanh
nghiệp liên quan đến trình tự, công nghệ khai thác hợp lý nhằm thu hồi tối đa
tài nguyên khoáng sản đang khai thác; kiểm tra công tác đổ thải đất đá hợp lý
(không đổ thải đất đá mỏ lên các khu vực có khoáng sản) v.v...
Hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các đơn vị chức
năng của Bộ chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện
trung bình 30 - 40 lượt kiểm tra định kỳ khai thác khoáng sản tại các mỏ trên
địa bàn từ 8 - 10 tỉnh, thành phố. Trong các năm 2007, 2008, 2009 công tác
này đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực
hiện với 05 đợt kiểm tra quy mô lớn tại 42 tỉnh, thành phố trong cả nước,
trong đó có 12 tỉnh, thành phố có 02 lượt kiểm tra. Cụ thể: kiểm tra tình tình
thực hiện pháp luật về Khoáng sản tại 07 tỉnh: Thái Nguyên, Cao Bằng,
Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng và Đồng Nai; kiểm tra hoạt
động khai thác, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ và xuất khẩu khoáng sản tại 07
tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Ninh
54
Thuận và Bình Thuận (năm 2007); kiểm tra tình hình thực hiện thẩm quyền
cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tại 15 tỉnh:
Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình
Phước, Lâm Đồng và thành phố Hà Nội (năm 2008); tổng kiểm tra tình hình
quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản tại 16 tỉnh, thành
phố: Cao Bằng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải Dương, Tuyên Quang,
Phú Thọ, Bình Định, Phú Yên, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Tây Ninh, An
Giang, Đắk Lắc, Bình Thuận và TP Hải Phòng; kiểm tra tình hình khai thác, vận
chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu cát trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố: An Giang,
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, Tiền Giang, Hậu
Giang, Kiên Giang và Cần Thơ (năm 2009). Năm 2016, Bộ Tài nguyên và
Môi trường thực hiện 21 cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và 08 cuộc
kiểm tra đột xuất với trên 260 tổ chức, cá nhân trên địa bàn 29 tỉnh, thành
phố, cụ thể: thực hiện 04 cuộc thanh tra chuyên đề về quản lý, thăm dò, khai
thác, sử dụng đá ốp lát tại 04 tỉnh tại 01 doanh nghiệp gồm: Yên Bái (20),
Ninh Bình (04), Phú Yên (04), Gia Lai (13); 01 cuộc thanh tra trách nhiệm
công tác QLNN về KS đối với UBND tỉnh Bình Định có lồng ghép thanh tra
chuyên đề hoạt động khai thác, sử dụng đá ốp lát tại 25 doanh nghiệp. Kiểm
tra theo kế hoạch việc chấp hành pháp luật khoáng sản tại 06 tỉnh đối với 62
tổ chức, cá nhân, gồm: Cao Bằng (12), Thái Nguyên (09), Bắc Kạn (12),
Đồng Tháp (04), Tây Ninh (10) và Lâm Đồng (15); kiểm tra việc thực hiện
các kết luận sau thanh tra, kiểm tra (hậu kiểm) tại 02 tỉnh đối với 23 doanh
nghiệp, gồm: Thừa Thiên Huế (03), Quảng Ninh (20).
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng thường xuyên chỉ đạo
thực hiện nhiều cuộc kiểm tra đột xuất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ,
yêu cầu quản lý và phản ánh của báo chí điển hình như: kiểm tra việc thu hồi
55
cát từ dự án nạo vét Quân cảng Vùng 5 Hải quân tại Kiên Giang; kiểm tra
công tác quản lý cấp phép và hoạt động thăm dò, khai thác vàng tại tỉnh
Quảng Nam; kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt
động khai thác, nạo vét cát lòng sông tại các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên
Huế, Hưng Yên và thành phố Hà Nội, kiểm tra sự cố vỡ bờ trong khai thác
titan tại mỏ Nam Suối Nhum, hoạt động khai thác titan tại Bình Thuận, kiểm
tra hoạt động thăm dò, khai thác đá ốp lát tại tỉnh Đắk Lắk….
Kết quả đã phát hiện các hành vi vi phạm quy định về thông báo, bổ
nhiệm giám đốc điều hành mỏ; thống kê, kiểm kê trữ lượng, khai thác khi
giấy phép đã hết hạn; vượt công suất, thiết kế mỏ; cắm mốc khu vực khai
thác; bản đồ hiện trạng; hợp đồng thuê đất; quan trắc giám sát môi trường;
nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản….
2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với khai thác tài
nguyên khoáng sản
Hoạt động quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản đã góp
phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn
vừa qua. Những kết quả về phát triển kinh tế và đổi mới quản lý nhà nước về tài
nguyên khoáng sản bắt nguồn từ sự quán triệt nghiêm túc và vận dụng sáng tạo
quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, xác định được tầm
quan trọng của tài nguyên khoáng sản, khai thác tài nguyên khoáng để tận dụng
nguồn “tài sản” đặc biệt này trong phát triển kinh tế xã hội mà vẫn đảm bảo mục
tiêu phát triển bền vững.
Qua thực trạng quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản giai
đoạn 2002-2015 cho thấy cần nhận định một cách nghiêm túc và khách quan
tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng
sản trong giai đoạn hiện nay và xác định phương hướng mục tiêu, cho giai đoạn
tiếp theo.
56
2.3.1. Những kết quả đạt được
- Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản ngày
càng được quan tâm, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành
Luật Khoáng sản, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản
đã được các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương ban hành
kịp thời và khá đồng bộ, phù hợp với quy định của pháp luật về khoáng sản
và quy định của pháp luật khác có liên quan; đã thể chế hóa được các chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành công
nghiệp khai thoáng và tăng cường công tác quản lý nhà nước về khoáng
sản; Luật khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật khoáng sản năm 1996 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật khoáng sản năm 2005); Chính phủ
và các Bộ liên quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp luật, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý, gồm: 02
Nghị quyết, 05 Nghị định của Chính Phủ; 08 Chỉ thị, 05 Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ; 120 văn bản Quyết định, Thông tư, Thông tư liên
tịch của các Bộ ngành; 32 văn bản QPPL về bảo vệ môi trường trong khai
thác khoáng sản…
- Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động khoáng sản ngày càng
được tăng cường, thường xuyên, liên tục và có chất lượng hơn, nội dung
thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm: thông qua công tác kiểm tra,
thanh tra hoạt động khoáng sản, nhiều vi phạm của tổ chức, cá nhân hoạt
động khoáng sản đã bị xử lý; các sai sót trong công tác cấp phép hoạt động
khoáng sản tại một số địa phương đã được khắc phục đáng kể; hạn chế tình
trạng khai thác khoáng sản trái phép, ý thức tuân thủ pháp luật về khoáng sản
của các cơ quan tổ chức, cá nhân. Nhiều bất cập trong các quy định của hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản được phát hiện thông qua
công tác thanh tra, kiểm tra đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường kịp thời
57
sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung phù hợp với
thực tiễn. Hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các đơn vị
chức năng của Bộ chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường thực
hiện trung bình 30 - 40 lượt kiểm tra định kỳ khai thác khoáng sản tại các mỏ
trên địa bàn từ 8 - 10 tỉnh, thành phố. Kiểm tra tình tình thực hiện pháp luật
về Khoáng sản; kiểm tra tình hình thực hiện thẩm quyền cấp giấy phép hoạt
động khoáng sản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; năm 2009, tổng kiểm tra tình
hình quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản tại 16 tỉnh,
thành phố: Cao Bằng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải Dương, Tuyên
Quang, Phú Thọ, Bình Định, Phú Yên, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Tây Ninh,
An Giang, Đắk Lắc, Bình Thuận và TP Hải Phòng; kiểm tra tình hình khai thác,
vận chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu cát trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố: An Giang,
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, Tiền Giang, Hậu
Giang, Kiên Giang và Cần Thơ.
- Công tác xây dựng, phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến
và sử dụng khoáng sản (quy hoạch khoáng sản) đã được các Bộ Công
Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh đã triển khai xây dựng kịp thời, tuy nhiên tiến độ phê duyệt còn chậm.
- Công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản: Hệ thống các văn bản
pháp luật về khoáng sản đã tăng cường phân cấp trong quản lý nhà nước về
khoáng sản và đặc biệt là việc cấp giấy phép thăm dò, khai thác, chế biến
khoáng sản đã có sự phân cấp theo thẩm quyền cho các địa phương. Nhằm
tăng tính chủ động, nâng cao vai trò trách nhiệm của chính quyền địa phương
trong quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản.
Có một số tỉnh đã thực hiện khá nghiêm túc việc cấp giấy phép hoạt
động khoáng sản, phê duyệt trữ lượng theo thẩm quyền như: thành phố Hải
Phòng, Bình Thuận, Bình Định, Đồng Nai, Tuyên Quang, Hòa Bình, Trà Vinh,
Tiền Giang, Tây Ninh.
58
- Công tác cán bộ và quản lý đội ngũ công chức thực hiện nhiệm vụ quản
lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản đã có nhiều cố gắng, dần đi
vào nề nếp, trình độ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước và các
kỹ năng khác bước đầu được nâng cao, đội ngũ cán bộ công chức dần được
chuẩn hóa. Công tác đánh giá, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm và luân chuyển cán
bộ được coi trọng và có nhiều chuyển biến mới; công tác đánh giá, phân loại
cán bộ được tiến hành nghiêm túc, đúng quy trình, quy định; công tác đào tạo
bồi dưỡng cán bộ, công chức trong ngành ngày càng được quan tâm nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức; Việc thực hiện chế độ chính sách cho công
chức thực thi nhiệm vụ được đảm bảo, nhằm khuyến khích, động viên kịp thời
đội ngũ cán bộ công chức yên tâm cống hiến, phấn đấu hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao.
- Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về Khoáng sản
được đẩy mạnh thông qua nhiều hình thức nên đã phần nào tác động tới cán
bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại các cơ quản
quản lý nhà nước về khoáng sản ở địa phương; ý thức tuân thủ pháp luật về
khoáng sản của người dân và doanh nghiệp đã được cải thiện một bước đáng
kể, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản.
2.3.2. Những hạn chế trong quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản
* Đối với hoạt động khai thác khoáng sản
Trong vài năm trở lại đây, hoạt động khoáng sản đã thực hiện theo quy
hoạch, kế hoạch của Nhà nước; một số doanh nghiệp đã chú ý đầu tư chiều
sâu vào công nghệ khai thác, chế biến và tạo thêm nhiều công ăn việc làm,
góp phần cải tạo từng bước cơ sở hạ tầng của các địa phương, nhất là ở những
vùng sâu, vùng xa. Hoạt động khoáng sản đã dần đi vào nền nếp, khai thác
59
khoáng sản trái phép ngày càng giảm; các tổ chức cá nhân tham gia hoạt động
khoáng sản nhìn chung đã có ý thức tuân thủ quy định của pháp luật, gắn mục
tiêu lợi ích sản xuất, kinh doanh khoáng sản với mục tiêu bảo vệ môi trường,
rừng các loại, an toàn lao động, đảm bảo an ninh quốc phòng và phát triển bền
vững kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, yếu kém cần được
khắc phục, cụ thể là:
- Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản còn ở mức độ thấp
Nhìn chung hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản của các doanh
nghiệp chưa khai thác triệt để được quặng nghèo, các thành phần có ích đi
kèm trong quặng; tài nguyên khoáng sản chưa được sử dụng hợp lý, tiết kiệm,
có hiệu quả. Tình trạng "dễ làm - khó bỏ" khai thác không theo quy hoạch,
không theo thiết kế vẫn còn diễn ra, nhất là đối với các mỏ khoáng sản kim
loại. Điều này dẫn tới việc tài nguyên khoáng sản nhanh chóng cạn kiệt, tổn
thất tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác và chế biến còn ở mức
cao, chưa kiểm soát được (quặng thiếc, quặng chì - kẽm, quặng crômit,
mangan v.v...).
- Đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản chưa được chú trọng
Thực hiện chủ trương hạn chất xuất khẩu khoáng sản thô, quặng tinh,
tăng cường chế biến sâu, thời gian gần đây đã có một số doanh nghiệp quan
tâm đầu tư cho hoạt động chế biến, nhất là chế biến sâu. Tuy nhiên, số lượng
các dự án chế biến sâu khoáng sản chưa nhiều, trình độ công nghệ chế biến
chưa cao; hệ thu hồi thấp, chưa có công nghệ thu hồi triệt để khoáng sản đi
kèm với khoáng sản chính; chưa thực sự quan tâm đến lựa chọn công nghệ
thân thiện với môi trường khi chế biến khoáng sản.
- Trữ lượng đã thăm dò của một số mỏ khoáng sản đang dần cạn kiệt
Một số loại khoáng sản như thiếc sa khoáng, chì - kẽm, mangan v.v... do
đã khai thác lâu năm, trữ lượng đã và đang dần cạn kiệt, hoặc còn lại không
60
nhiều, cần phải tiếp tục đầu tư thăm dò mở rộng trên mặt và bổ sung phần trữ
lượng dưới sâu nhằm gia tăng trữ lượng. Tuy nhiên điều này chưa được các
doanh nghiệp thực sự quan tâm đầu tư, một phần là do nguồn vốn đầu tư cho
hoạt động thăm dò của các doanh nghiệp còn hạn chế như đã nêu trên.
- Khoáng sản xuất khẩu vẫn còn ở dạng nguyên liệu thô, quặng tinh
Mặc dù Nhà nước có nhiều văn bản yêu cầu không xuất khẩu khoáng
sản thô, quặng tinh nhưng trong thực tế vẫn chưa hạn chế được tình trạng xuất
khẩu khoáng sản ở dạng nguyên liệu thô; tình trạng mua, bán, vận chuyển
quặng trái phép và xuất khẩu quặng (như quặng antimon, chì - kẽm, sắt,
crômit v.v… ) vẫn còn diễn ra tại một số địa phương, nhất là tại các tỉnh miền
núi phía Bắc.
- Hoạt động khai thác thủ công, nhỏ lẻ chưa được quản lý chặt chẽ
Hoạt động khai thác nhỏ lẻ, thủ công (cá thể, hộ gia đình) đối với khai
thác cát, sỏi lòng sông, khai thác sét làm gạch ngói thủ công v.v... mang tính
mưu sinh của người dân tại nhiều địa phương đến nay vẫn chưa được cấp
phép theo quy định để quản lý. Do phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ,
hạn chế về năng lực vốn đầu tư nên vẫn còn tình trạng chia các khu mỏ có quy
mô lớn thành các khu vực nhỏ để cấp cho nhiều doanh nghiệp. Điều này dẫn
tới tình trạng đầu tư dàn trải, không tập trung, tài nguyên khoáng sản khai thác,
sử dụng chưa triệt để, đặc biệt là đối với hoạt động khai thác đá vật liệu xây
dựng thông thường.
- Công tác giám sát tổn thất, làm nghèo khoáng sản; công tác kiểm kê
tài nguyên khoáng sản chưa được quan tâm đúng mức
Công tác theo dõi thông tin tổn thất, làm nghèo khoáng sản trong quá
trình khai thác; biến động chất lượng, trữ lượng mỏ khoáng sản được khai
thác, công tác lập bản đồ hiện trạng khai thác mỏ định kỳ theo quy định của
pháp luật về khoáng sản chưa được các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản
61
thực hiện tốt. Điều này gây khó khăn cho công tác quản lý kỹ thuật, nhất là
công tác kiểm kê trữ lượng khoáng sản phục vụ công tác quản lý nhà nước về
khoáng sản, nhất là công tác quy hoạch, định hướng phát triển công nghiệp
khai khoáng.
* Đối với công tác QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng kể nêu trên, nhưng công tác
quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản vẫn còn một số tồn tại,
bất cập cần khắc phục, đó là:
- Một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật chậm được ban hành hoặc
ban hành chưa đúng quy định
Một số nội dung đã được quy định trong Luật Khoáng sản nhưng chậm
được ban hành như: quy chế đấu thầu thăm dò, khai thác khoáng sản; quy
định thủ tục cấp vốn Nhà nước, thuế chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác
khoáng sản v.v … nên chưa được triển khai trong thực tế; quy định hoạt động
điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản chưa rõ nét, khó thực hiện
Hiện nay pháp luật về khoáng sản chưa quy định về phân cấp thẩm
quyền cấp giấy phép khai thác khoáng sản cho Ủy ban nhân dân cấp huyện
(hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường). Tuy nhiên, qua kiểm tra đã có một số
địa phương quy định phân cấp (hoặc ủy quyền nhưng thực chất là phân
cấp) cho Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện
cấp giấy phép hoạt động khoáng sản, phê duyệt trữ lượng một số loại
khoáng sản (có quy mô nhỏ, khai thác cá thể, hộ gia đình) thuộc thẩm
quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chưa phù hợp với quy định của
pháp luật về khoáng sản và pháp luật khác có liên quan.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản còn hạn chế
Mặc dù đã đạt được nhưng kết quả đáng kể, nhưng công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản thực hiện chưa thường xuyên, chưa
62
phổ biến sâu rộng tới mọi thành phần trong xã hội, nhất là người dân ở vùng
sâu, vùng xa, vùng miền núi khó khăn là những địa bàn chủ yếu có các hoạt
động khai thác khoáng sản, người dân ở những khu vực có khoáng sản chưa
khai thác, cũng như những nơi có hoạt động khoáng sản.
- Công tác lập, phê duyệt, thực hiện Quy hoạch khoáng sản còn bất cập
Một số địa phương cho phép đầu tư nhiều dự án chế biến hoặc chế biến
sâu khoáng sản chưa có trong quy hoạch Trung ương mà không có ý kiến của
Thủ tướng Chính phủ cũng như của các Bộ có liên quan (chế biến sâu quặng
sắt, quặng mangan tại Cao Bằng; chế biến sâu quặng sắt, chế biến quặng titan
tại Thái Nguyên, chế biến sâu quặng titan tại Bình Định, chế biến sét tại Hải
Dương v.v...). Điều này dẫn đến những bất cập sau:
+ Số lượng dự án chế biến sâu do địa phương quy hoạch hoặc đã cấp chứng
nhận đầu tư lớn hơn số lượng dự án trong Quy hoạch Trung ương đã phê duyệt;
+ Công suất thiết kế của các nhà máy chế biến sâu do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh cho phép đầu tư lớn hơn công suất các nhà máy chế biến sâu trong quy
hoạch của Trung ương. Tuy nhiên do không cân đối được nguồn nguyên liệu
khoáng sản cung cấp cho các nhà máy dễ dẫn tới tình trạng tranh mua, tranh
bán, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
+ Tiến độ lập, phê duyệt quy hoạch khoáng sản, nhất là tiến độ
khoanh định, phê duyệt khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản chậm.
Đến năm 2015 đã có 78,5 % tỉnh, thành phố trong cả nước phê duyệt quy
hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Tuy nhiên, còn nhiều quy hoạch ban
hành trước tháng 10 năm 2005 chưa được rà soát, điều chỉnh, nhất là điều
chỉnh sau khi quy hoạch khoáng sản của cả nước đã phê duyệt; chất lượng
các quy hoạch của các địa phương đã duyệt còn thấp; có sự chồng chéo
giữa quy hoạch khoáng sản của Trung ương và địa phương, nhất là các dự
án chế biến sâu như đã nêu trên.
63
- Việc thực hiện thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của
địa phương vẫn còn một số bất cập
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản đã tăng cường
phân cấp trong quản lý nhà nước cho các địa phương, nhất là thẩm quyền cấp
giấy phép thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản. Đây là một chủ trương
đúng đắn, góp phần tăng cường cải cách hành chính, tăng tính chủ động cho
địa phương trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. Tuy nhiên, qua
kiểm tra cho thấy công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của các địa
phương còn một số bất cập, đó là:
Còn nhiều giấy phép khai thác khoáng sản do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cấp chưa đúng quy định (cấp trước khi quy hoạch
khoáng sản của Trung ương phê duyệt nhưng chưa có ý kiến của Thủ tướng
Chính phủ; khu vực cấp giấy phép thuộc quy hoạch khai thác do Trung ương
quản lý; cấp giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông
thường nhưng khi sử dụng lại làm cho mục đích khác như đá ốp lát, đá bột);
hồ sơ cấp giấy phép khai thác khoáng sản chưa chặt chẽ, sơ sài; trong quá trình
cấp phép chưa ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc
bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ môi trường, môi sinh, nhất là trách nhiệm khai
thác triệt để, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản v.v...
- Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép vẫn còn diễn ra
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác giải tỏa các tụ điểm khai thác
khoáng sản trái phép thời gian qua nhưng hoạt động khai thác khoáng sản trái
phép, nhất là đối với khai thác trái phép cát sỏi lòng sông, lòng hồ tại nhiều địa
phương vẫn còn diễn ra khá công khai, quy mô đáng kể như đã nêu trên. Hậu
quả của hoạt động khai thác khoáng sản trái phép là: gây mất trật tự an ninh, xã
hội; gây thất thoát tài nguyên khoáng sản của quốc gia; gây hậu quả khá nghiêm
trọng về môi trường mà không được xử lý như: thiếc sa khoáng (Quỳ Hợp -
64
Nghệ An), vàng sa khoáng (Cao Bằng), vàng sa khoáng Thần Sa - Khắc Kiệm
(Thái Nguyên), crômit sa khoáng Cổ Định (Thanh Hóa), vàng sa khoáng, vàng
gốc (Quảng Nam), vàng gốc (Lào Cai), vàng sa khoáng (Lai Châu), than (Hải
Dương, Quảng Ninh ) v.v...
- Công tác thanh tra, kiểm tra
Công tác này thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
vẫn còn một số tồn tại hạn chế đó là: lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra ở
Trung ương cũng như địa phương còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu cả về số
lượng, chất lượng; phương tiện, thiết bị, kinh phí còn thiếu không đáp ứng yêu
cầu công tác thanh tra chuyên ngành. Do đó, kết luận thanh tra , kiểm tra thường
chung chung, chưa cụ thể. Nội dung thanh tra chủ yếu tập trung vào các vấn đề
về pháp lý, hồ sơ mà chưa quan tâm đến nội dung quản trị tài nguyên khoáng sản
của các chủ thể khai thác khoáng sản như: công tác quản lý ranh giới mỏ; công
tác lập bản đồ hiện trạng, mặt cắt hiện trạng; công tác thống kê, kiểm kê trữ
lượng khoáng sản đã khai thác; tổn thất khoáng sản đã khai thác; việc sử dụng
hợp lý, tiết kiệm, tối đa khoáng sản trong khai thác....
- Nguồn thu cho ngân sách Nhà nước trực tiếp từ hoạt động khoáng sản
còn hạn chế
Tài nguyên khoáng sản là một trong những nguồn lực để phát triển đất
nước, cần phải được khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả để phát huy sức
mạnh của nó. Tuy nhiên, nguồn thu của Nhà nước từ tài sản tài nguyên
khoáng sản chưa nhiều, ngoài các khoản thuế như thuế doanh thu, thuế thu
nhập doanh nghiệp thì Nhà nước chỉ có nguồn thu thông qua thuế tài nguyên.
Trong thực tế, khi có giấy phép khai thác khoáng sản, các doanh
nghiệp, nhất là Công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân...dễ dàng chuyển
nhượng quyền khai thác với nguồn thu đáng kể mà Nhà nước không thu được
khoản phí hoặc thuế nào. Trong khi đó, nguồn thu của Nhà nước thông qua
65
việc cấp giấy phép khai thác không đáng kể, chưa thực sự phát huy được giá
trị thực của nguồn tài sản này. Điều này gây khó khăn cho việc tăng thu ngân
sách Nhà nước từ hoạt động khai thác khoáng sản nhằm điều tiết lợi ích trở lại
cho người chủ thực sự của tài sản này là người dân.
Mặt khác, các Doanh nghiệp đứng ra khai thác khoáng sản và nộp ngân
sách nhà nước như thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, tiền cấp quyền
khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, hiện nay các nguồn thu ngân sách từ các
khoản này chủ yếu là do doanh nghiệp tự khai báo sản lượng, trữ lượng mà
nhà nước chưa có cơ chế để kiểm soát được việc kê khai này. Nguồn thu từ
khoáng sản chưa kiểm soát được dẫn đến thất thu.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
* Về thể chế, chính sách
- Một số văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản do yêu cầu về tiến
độ soạn thảo đã bỏ qua bước khảo sát thực tế đã làm giảm tính thực tiễn của
những văn bản quy phạm pháp luật này, gây khó khăn khi thi hành.
- Do trải qua nhiều giai đoạn, chuyển qua nhiều Bộ quản lý nên hệ
thống văn bản pháp luật về khoáng sản hiện hành bộc lộ nhiều tồn tại. Hoạt
động khoáng sản của các tổ chức, cá nhân còn bị điều chỉnh bởi một số văn
bản pháp luật khác như: Bảo vệ môi trường, Đất đai, Tài nguyên nước, Tài
nguyên rừng, v.v... Trong khi các văn bản luật nêu trên đều đã được sửa đổi
để ban hành mới hoặc đã được sửa đổi, bổ sung thì một số quy định của pháp
luật về khoáng sản chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp gây khó khăn
cho công tác quản lý, nhất là tại các địa phương.
- Xuất phát từ thực tiễn hoạt động khai thác khoáng sản (chủ yếu là cát,
sỏi, sét gạch ngói, đá chẻ v.v...) theo hình thức thủ công, nhỏ lẻ vì mục đích
mưu sinh của hộ gia đình, cá nhân diễn ra khá phổ biến, không thể ngăn cấm
nhưng không áp dụng quy định thủ tục hành chính hiện hành, chưa có quy
66
định quản lý hoạt động này trong pháp luật về khoáng sản nên một số địa
phương đã “linh hoạt” quy định phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp huyện,
cho Sở Tài nguyên và Môi trường như đã nêu trên.
- Cơ chế bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác, ngăn chặn hoạt
động khai thác khoáng sản trái phép chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính như
hiện nay kém hiệu quả, chưa phù hợp với đặc điểm và thực trạng công tác quản
lý nhà nước về khoáng sản. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép
chỉ được ngăn chặn mang tính tức thời, không giải quyết triệt để, nguy cơ tái
diễn cao như đã xảy ra trong thời gian qua. Trên thực tế, các địa phương vẫn
chưa nghiên cứu, đề xuất được cơ chế, chính sách, giải pháp bảo vệ tài nguyên
khoáng sản hữu hiệu theo hướng gắn trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp
huyện, xã và quyền lợi của người dân địa phương nơi có khoáng sản.
* Về công tác lập, phê duyệt, triển khai quy hoạch khoáng sản, khoanh
định và phê duyệt khu vực cấm, tạm thời cấm hoạt động khoáng sản
- Hầu hết các quy hoạch (trừ quy hoạch khoáng sản làm nguyên liệu xi
măng) chỉ nêu tên mỏ, khu vực mỏ hoặc địa danh có mỏ đưa vào quy hoạch mà
không có tọa độ, diện tích cụ thể, điều này gây khó khăn khi xem xét, cấp giấy
phép hoạt động khoáng sản, cũng như xác định các khu vực nằm ngoài quy
hoạch của Trung ương (để xác định thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh).
- Một số quy hoạch ngay thời điểm phê duyệt đã không cập nhật các
thông tin mới nhất về các dự án thăm dò, khai thác đã và đang triển khai
(không có phương án xử lý đối với các dự án đang triển khai trước thời điểm
phê duyệt quy hoạch); việc xác định sản lượng quặng tinh theo từng giai đoạn
nêu trong quy hoạch không có giai đoạn “quá độ” chuyển tiếp (titan), chưa phù
hợp với thực tế hoạt động khai thác của các doanh nghiệp (quy hoạch titan, chì
- kẽm v.v..). Một số quy hoạch chưa có sự thống nhất, đồng bộ về tiến độ thực
hiện dự án giữa giai đoạn thăm dò và khai thác (nêu trong quy hoạch dự án sẽ
67
khai thác giai đoạn 2008 – 2015 nhưng giai đoạn trước đó không có trong
danh mục thăm dò, hoặc ngược lại như quặng sắt, đá ốp lát v.v...). Dẫn đến
tình trạng, ngay sau khi phê duyệt đã có nhu cầu điều chỉnh quy hoạch.
- Phần lớn khoáng sản có tính đa công dụng, vừa sử dụng làm vật liệu
xây dựng, vừa sử dụng được để làm khoáng chất công nghiệp và các lĩnh vực
khác cùng tồn tại trong một mỏ khoáng sản (đá hoa trắng, caolin - fensat, đá
vôi, điatomit, bentonit v.v...). Nhưng nội dung quy hoạch thăm dò, khai thác
một mỏ khoáng sản lại được thể hiện trong 02 Quy hoạch nên khó có sự đồng
bộ và khó khăn khi thực hiện quy hoạch sau khi phê duyệt.
- Quy hoạch các khoáng sản nêu trên sau khi được Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt, các địa phương cũng lập và phê
duyệt đối với các khu vực ngoài quy hoạch Trung ương. Tuy nhiên, phần lớn
trước khi phê duyệt Quy hoạch không có ý kiến của Bộ quản lý chuyên
ngành. Do đó, nhiều quy hoạch địa phương đã duyệt có bất cập (công suất
khai thác, chế biến như titan, quặng sắt, magan, chì - kẽm… lớn hơn nhiều so
với quy hoạch của Trung ương) như Cao Bằng, Bắc Kạn v.v...
- Sau khi quy hoạch khoáng sản của Trung ương phê duyệt, việc công bố
công khai nội dung quy hoạch cũng như hướng dẫn thực hiện quy hoạch gần
như chưa thực hiện. Dẫn tới tình trạng mỗi địa phương hiểu theo một cách khác
nhau và thực hiện cũng khác nhau, không đúng nội dung quy hoạch.
- Do phải chờ kết quả rà soát 3 loại rừng, khoanh định diện tích khu vực
cấm, tạm cấm về an ninh - quốc phòng nên công tác khoanh định, phê duyệt
khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản tại nhiều địa phương còn chậm.
Dễ dẫn tới việc sau khi cấp giấy phép hoạt động khoáng sản thì khu vực cấp
phép lại thuộc diện tích khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản;
* Về bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý
- Trước năm 1996, khi hoạt động khoáng sản chưa sôi động, hoạt động
khai thác khoáng sản trái phép còn ít, công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
68
chưa phức tạp; Bộ Công nghiệp nặng có Cục Quản lý tài nguyên khoáng sản
Nhà nước và 02 Chi cục khu vực thuộc Cục thực hiện nhiệm vụ quản lý chuyên
ngành về khai thác khoáng sản. Hiện nay, hoạt động khoáng sản sôi động với
số lượng doanh nghiệp gấp hàng chục lần so với năm 1996; hoạt động khai
thác khoáng sản trái phép ngày một tinh vi và phức tạp; phạm vi quản lý nhà
nước về khoáng sản rộng (gồm cả hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác, chế
biến); yêu cầu công tác quản lý nhà nước về khoáng sản ngày càng cao nhưng
lực lượng làm công tác quản lý nhà nước ở Trung ương còn thiếu về số lượng,
chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý;
- Lực lượng cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường trực
tiếp là công tác quản lý nhà nước về khoáng sản của các tỉnh, thành phố còn
thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Theo số liệu thống kê của năm 2009 (số
liệu từ 40/63 tỉnh, thành phố) chỉ có khoảng 30% cán bộ đang làm công tác
quản lý nhà nước về khoáng sản có chuyên ngành về địa chất - mỏ. Cán bộ tại
phòng Tài nguyên và Môi trường cấp quận/huyện còn thiếu về số lượng, hầu
hết làm công tác kiêm nhiệm, gần như không có chuyên môn về địa chất - mỏ.
Thực trạng trên đã làm giảm hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về khoáng
sản tại địa phương và là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới công tác
quản lý nhà nước về khoáng sản tại các địa phương còn nhiều yếu kém, bất cập
nhất là trong thẩm định hồ sơ cấp giấy phép hoạt động khoáng sản.
* Về hệ thống cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản
Cho đến nay, mô hình tổ chức thanh tra chuyên ngành khoáng sản
chưa có một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Lực
lượng thanh tra chuyên ngành khoáng sản hiện còn quá mỏng, chưa đáp
ứng yêu cầu về chuyên môn cũng như nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành,
nhất là chuyên ngành khai thác khoáng sản, chức danh thanh tra viên
chuyên ngành khoáng sản chưa được xây dựng để bổ nhiệm đã làm giảm
hiệu lực, hiệu quả của công tác này.
69
Do hạn chế về lực lượng, thiết bị, kinh phí cũng như đặc thù của quản
lý khoáng sản với địa bàn quản lý rộng, phần lớn các mỏ nằm ở vùng sâu,
vùng xa, hạ tầng giao thông thấp kém nên công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát hoạt động khoáng sản đối với các doanh nghiệp khai thác khoáng sản của
các địa phương chưa được tiến hành thường xuyên; các biện pháp xử lý, chế
tài chưa đủ mạnh để buộc doanh nghiệp hoạt động khoáng sản phải thực hiện
đúng đề án, thiết kế khai thác mỏ; thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường,
sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản.
* Nguyên nhân về phía các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản
Mặc dù số lượng doanh nghiệp lên tới gần 2000 doanh nghiệp, nhưng
ngoài các doanh nghiệp lớn của Nhà nước như Tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất,
Tổng công ty công nghiệp Xi măng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, một số doanh nghiệp lớn tại một số địa phương thì phần lớn các tổ chức,
cá nhân khai thác khoáng sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố có quy mô trung
bình và nhỏ, năng lực tài chính, kinh nghiệm còn hạn chế, chưa đầu tư thích
đáng để lựa chọn công nghệ, thiết bị hiện đại nhằm thu hồi triệt để, sử dụng
hợp lý tài nguyên khoáng sản trong khai thác, chế biến;
Nhiều doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nhất là trong
khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, khai thác khoáng
sản kim loại theo quy mô nhỏ có tâm lý đầu tư ngắn hạn, thu hồi vốn
nhanh, chỉ quan tâm đến lợi nhuận, không quan tâm nhiều đến thực hiện
nghĩa vụ bảo vệ môi trường, trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội trong
khai thác, chế biến khoáng sản;
Lãnh đạo doanh nghiệp, Giám đốc điều hành mỏ chưa chú trọng nghiên
cứu các quy định của pháp luật về khoáng sản; ý thức tuân thủ pháp luật của
một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân còn thấp nên tình trạng vi phạm pháp
70
luật nhất là về bảo vệ môi trường, tuân thủ quy trình, quy phạm kỹ thuật, an
toàn lao động trong khai thác, chế biến khoáng sản vẫn còn tồn tại.
* Về phân cấp quản lý, cấp giấy phép, bảo vệ tài nguyên khoáng sản và
sự phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
- Chủ trương tăng cường phân cấp cho các địa phương là chủ trương
đúng đắn. Thực tế thời gian qua việc phân cấp thẩm quyền cấp giấy phép hoạt
động khoáng sản cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất, cái cách thủ tục hành chính.
Tuy nhiên, năng lực của cơ quan tham mưu thực hiện nhiệm vụ phân cấp tại
nhiều địa phương còn hạn chế nên nhiều giấy phép, hồ sơ giấy phép đã cấp
còn những tồn tại như đã nêu trên.
- Hệ thống quản lý nhà nước về khoáng sản được tổ chức vừa theo
ngành từ Trung ương xuống địa phương vừa theo quản lý hành chính các cấp.
Việc phân cấp này có thuận lợi cho việc thống nhất quản lý theo chức năng và
ngành kinh tế nhưng cũng gặp trở ngại nếu không có cơ chế điều hành phối
hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành và địa phương liên quan. Một số trở ngại
trong thực tế về vấn đề này gồm:
+ Chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản vừa bị chồng
chéo, vừa bị gián đoạn do có nhiều Bộ ngành cùng tham gia công tác quản lý;
một số quy định có mâu thuẫn và không rõ ràng với các luật liên quan và liên
bộ; có những quy định dẫn đến việc phê duyệt chồng chéo của các Bộ và
ngành khác nhau. Ví dụ trong quá trình xin giấy phép đầu tư (Luật đầu tư),
giấy phép hoạt động khoáng sản (Luật Khoáng sản), cấp phép xây dựng công
trình (Luật Xây dựng), đánh giá tác động môi trường (Luật Bảo vệ môi
trường) làm phức tạp và lâu dài quá trình cấp phép.
+ Việc phân cấp quản lý chưa khoa học, sự phối hợp quản lý, trao đổi
thông tin giữa các Bộ ngành chưa hiệu quả. Sự phối hợp rất hạn chế do sự
71
phân công trách nhiệm và phân công quyền hạn giữa các Bộ ngành không rõ
ràng, chặt chẽ;
+ Các cấp quản lý hành chính lồng ghép nhiều chức năng nhiệm vụ
vào một phòng chuyên môn, gây nhiều hạn chế cho công tác quản lý. Ví dụ
Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc UBND cấp huyện có chức năng
tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về tài nguyên và môi trường
gồm: đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường, biến đổi khí hậu,
biển và hải đảo. Do đó, mỗi cán bộ có thể kiêm nhiệm một số lĩnh vực, dẫn
đến tình trạng cán bộ quản lý không có chuyên môn sâu về lĩnh vực được
giao quản lý…
- Chưa có sự trao đổi thường xuyên về mặt chuyên môn, nghiệp vụ
trong quá trình thẩm định, cấp giấy phép hoạt động khoáng sản theo thẩm
quyền giữa cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với cơ quan
quản lý nhà nước ở Trung ương. Ngoài một số địa phương thực hiện khá
thường xuyên việc gửi giấy phép thăm dò, khai thác đã cấp cho Bộ Tài
nguyên và Môi trường (kèm theo bản đồ khu vực thăm dò, khai thác) như
Lạng Sơn, Hòa Bình, Đồng Nai, Sơn La, Hải Phòng, Đồng Tháp, An Giang
v.v... vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố không thực hiện. Đã gây khó khăn trong
việc phối hợp kiểm tra, giám sát công tác cấp phép và không xử lý kịp thời
những trường hợp cấp phép chưa đúng quy định của pháp luật.
- Sự phối hợp giữa các Sở, ngành có liên quan tại một số địa phương
với chính quyền địa phương trong quản lý tài nguyên khoáng sản chưa khai
thác còn chưa hiệu quả; chính quyền địa phương, nhất là cấp xã chưa thực sự
cương quyết xử lý lực lượng khai thác khoáng sản trái phép. Công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản còn hạn chế, chưa sâu rộng, nhất là
đối với nhân dân nơi có mỏ khoáng sản.
72
Tiểu kết Chương 2
Ở Chương 2, tác giả đã nêu tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên
khoán sản, về loại hình khoáng sản được khai thác, loại hình doanh nghiệp
tham gia khai thác khoáng sản; Hệ thống thể chế chính sách liên quan đến
quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản hiện nay: hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về khai
thác tài nguyên khoáng sản.Tác giả đã làm rõ được thực trạng QLNN đối với
khai thác tài nguyên khoáng sản giai đoạn 2002-2016 đồng thời đánh giá về
những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong QLNN về khai thác tài
nguyên khoáng sản đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó để từ
đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác
tài nguyên khoáng sản Việt Nam.
73
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC
TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
3.1. Bối cảnh sắp tới
Việt Nam đang thay đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều
sâu, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh hội nhập, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế-xã
hội. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ: "Mô hình tăng trưởng trong
thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú
trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh
trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công
nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi
thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững
(hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp
quốc); giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển
kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập trên nhiều phương diện, coi hội
nhập như là một động lực quan trọng cho sự phát triển. Hội nhập kinh tế quốc
tế trong lĩnh vực khai thác sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường đang tạo
ra những ràng buộc cho Việt Nam và làm cho Việt Nam ngày càng phải hài
hòa với các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi. Điều đó
cũng góp phần thúc đẩy Việt Nam phải có một chiến lược quản lý và sử dụng
nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và hợp lý để đảm bảo nguồn
74
lực phát triển lâu dài. Do vậy, các chính sách pháp luật về tài nguyên khoáng
sản cũng như QLNN cần có những quy định cụ thể đối với các hoạt động kinh
tế trong nước nhằm đảm bảo và thúc đẩy việc sử dụng tối ưu, hiệu quả và
đồng thời bảo vệ được các nguồn tài nguyên.
Hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, khoáng sản nhằm tranh thủ
các cơ hội hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ các hoạt động hợp tác đa
phương và song phương nhằm góp phần giải quyết những thách thức về cạn
kiệt tài nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường; thực hiện có hiệu quả các
điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan đến lĩnh vực khoáng sản mà Việt
Nam đã ký kết, phê chuẩn và tham gia, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
3.2. Quan điểm, mục tiêu
Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản là trách nhiệm
không chỉ đối với nhà nước (đại diện chủ sở hữu) mà còn là trách nhiệm của
các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản (trực tiếp quản lý, khai thác) nhằm
đạt mục tiêu “Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên
khoáng sản”.
Nhằm phát huy nguồn lực tài nguyên khoáng sản trong thời kỳ đổi
mới, Ngày 25/4/2011, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TW về định
hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm
nhìn đến 2030.
Căn cứ Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020, Chính phủ đã ra Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22 tháng
12 năm 2011 về việc Phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
Căn cứ Luật Khoáng sản năm 2010 được thông qua tại Kỳ họp thứ 8,
Quốc hội khóa XII và Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011
75
của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai
khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hoàn thành Chiến lược
khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
3.2.1. Các quan điểm cơ bản
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng
sản ở các văn bản trên là đúng đắn và hợp lý. Tác giả luận văn đồng ý với các
quan điểm đó, mà các nội dung chính được thể hiện ở:
- Khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất
quản lý, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, phải
được điều tra, thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng và có chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch sử dụng hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng chung và bền vững của
nền kinh tế. Là đại diện chủ sở hữu về khoáng sản, Nhà nước phải thể hiện
đầy đủ quyền của chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt đối với khoáng sản khi
giao cho tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác.
- Tài nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về chủng loại; một số khoáng
sản có tài nguyên, trữ lượng lớn, do vậy cần phải hình thành một số ngành
công nghiệp khai thác chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài như:
dầu khí, bô-xit, titan - zircon, đất hiếm, a-pa-tit, đá nguyên liệu xi măng, đá
ốp lát v.v…Tuy nhiên, khoáng sản là tài nguyên không tái tạo nên phải được
quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng hết sức hợp lý, triệt để tiết kiệm, sự thật có
hiệu quả cao.
- Việc khai thác tài nguyên khoáng sản phải tính đến nhu cầu trước mắt
cũng như lâu dài của đất nước, có tính đến xu hướng tiến bộ của khoa học
công nghệ trong lĩnh vực sử dụng công nghệ mới và vật liệu thay thế.
- Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân
lành nghề, từng bước làm chủ việc thăm dò và khai thác, chế biến khoáng sản,
76
đầu tư thêm thiết bị và công nghệ tiến tiến cho công tác địa chất, khai khoáng
và chế biến khoáng sản.
- Phát triển công nghiệp khai khoáng phải đi đôi với đảm bảo an ninh,
quốc phòng, bảo vệ môi trường, bảo vệ cảnh quan, di tích lịch sử, văn hóa; bảo
đảm hài hòa lợi ích thu được từ khai thác và chế biến khoáng sản giữa Nhà
nước, doanh nghiệp và người dân nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến.
3.2.2. Các mục tiêu
Chính sách, văn bản pháp luật của nhà nước về quản lý sử dụng tài
nguyên khoáng sản đã được điều chỉnh, bổ sung theo từng giai đoạn phát triển
kinh tế xã hội của đất nước và bối cảnh quốc tế. Chính sách, các văn bản quy
phạm pháp luật về tài nguyên khoáng sản từng bước được điều chỉnh từ quan
điểm khai thác phục vụ phát triển kinh tế trước mắt (nhu cầu nguyên liệu,
nhiên liệu, chất đốt), chuyển sang quan điểm khai thác vì mục tiêu lâu dài,
bảo vệ môi trường và đảm bảo hài hòa vì lợi ích xã hội, quyền lợi người dân
vùng khai thác khoáng sản…
a) Phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất và
điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 và các diện tích biển ven bờ sâu đến 30m
nước. Xây dựng chuyên ngành điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản ở mức
hiện đại, đủ năng lực tìm kiếm, phát hiện mỏ mới với độ sâu đến 1.000m
nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện tiềm năng khoáng sản trên đất liền, ở đáy
biển và thềm lục địa của đất nước.
b) Nâng tỉ trọng ngành công nghiệp khai khoáng trong GDP từ khoảng
10% hiện nay lên 15-20% vào năm 2020 và tiếp tục tăng vào những năm tiếp
theo; tăng tỉ trọng công nghiệp khai khoáng trong sản xuất công nghiệp. Hình
thành và phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, chế biến sâu như lọc,
hóa dầu, sắt, thép, đồng, chì - kẽm, phân bón, hóa chất, chế biến kim loại quý
hiếm (titan, đất hiếm…), alumin – nhôm, điện (điện than, điện khí, điện nguyên
tử, điện địa nhiệt), xi măng, vật liệu xây dựng… có tầm cỡ trong khu vực.
c) Tăng dự trữ một số khoáng sản chiến lược vì lợi ích lâu dài của quốc gia.
77
3.2.3. Mục tiêu cụ thể
a) Đối với công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản
- Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 đạt 90% diện
tích phần đất liền, diện tích biển ven bờ sâu đến 30m nước, diện tích các đảo;
làm rõ hơn về cấu trúc địa chất, mức độ phân bố khoáng sản và phát hiện,
khoanh định các diện tích có triển vọng về khoáng sản.
- Điều tra, đánh giá ở độ sâu 500m để làm rõ tiềm năng một số loại
khoáng sản quan trọng, chiến lược, có quy mô lớn như: chì, kẽm, đồng, thiếc,
vàng, sắt, đất hiếm, urani và đầu tư điều tra, đánh giá tổng thể một số khoáng
sản có tiềm năng lớn chưa được đánh giá như: bo xit, than, nước khoáng-
nước nóng, đá hoa trắng, cát thủy tinh, đá ốp lát.
- Tăng cường năng lực và đổi mới thiết bị, công nghệ tiên tiến, có độ
chính xác cao, đáp ứng các yêu cầu về độ sâu điều tra, đánh giá và độ chính
xác trong phân tích mẫu địa chất, khoáng sản; xây dựng hệ thống thông tin dữ
liệu thống nhất về địa chất khoáng sản trên phạm vi cả nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ điều tra, thăm dò địa chất - khoáng sản có
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới; xây dựng chính
sách thu hút cán bộ ngành địa chất; tăng cường hợp tác quốc tế về kỹ thuật
trong điều tra cơ bản địa chất - khoáng sản.
b) Đối với hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản
- Đầu tư cải tạo, mở rộng đối với các mỏ khoáng sản đang hoạt động
theo quy hoạch khoáng sản đã duyệt; đầu tư cải tạo công nghệ, thiết bị hoặc
thay thế các cơ sở chế biến khoáng sản đã lạc hậu, hệ số thu hồi khoáng sản
thấp, gây ô nhiễm lớn tới môi trường.
- Đầu tư bằng ngân sách Nhà nước để thăm dò một số loại khoáng sản
chiến lược như: urani, đất hiếm và một số mỏ khoáng sản để đấu giá quyền
khai thác khoáng sản.
78
- Hình thành một số cụm công nghiệp khai khoáng - chế biến khoáng
sản tập trung cho một số loại khoáng sản như than đá, đồng, thép, bô - xít -
nhôm, cromit, titan-zircon, đất hiếm, chì - kẽm, đá ốp lát, cát trắng; tăng
cường đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản.
3.2.4. Yêu cầu công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực khai thác khoáng
sản trong điều kiện hiện nay
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về khoáng sản. Rà soát các quy
hoạch đã được phê duyệt, xây dựng, phê duyệt quy hoạch khoáng sản để định
hướng phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, bảo đảm sử dụng hợp lý,
tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; sớm
hoàn thiện và công bố và công khai các quy hoạch khoáng sản theo quy định
của pháp luật.
Điều chỉnh việc phân công quản lý nhà nước về khoáng sản theo
nguyên tắc một việc chỉ phân công cho một cơ quan chủ trì thực hiện. Tiếp
tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về
khoáng sản từ Trung ương đến địa phương; nâng cao vị thế, năng lực cơ quan
quản lý Nhà nước về khoáng sản.
Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
quản lý Nhà nước về khoáng sản các cấp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản. Nghiên cứu áp dụng mô
hình thanh tra khu vực nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả của thanh tra
chuyên ngành khoáng sản.
Kiểm tra và chấn chỉnh việc phân cấp cấp giấy phép khai thác khoáng
sản hiện nay, khắc phục tình trạng sơ hở, gây thất thoát tài nguyên, nhiều tiêu
cực trong lĩnh vực này…
3.3. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản
Căn cứ vào các kết quả phân tích về hạn chế và nguyên nhân của hạn
chế ở Chương 2, căn cứ trên các quan điểm và mục tiêu của cá́c văn bản đã
79
liệt kê ở trên, để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản trong thời gian tới luận văn đề ra một số giải pháp như sau:
3.3.1. Nhóm giải pháp về thể chế chính sách
Những tồn tại, bất cập trong quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên
khoáng sản, hoạt động khoáng sản nêu trên đã được sửa đổi, bổ sung trong
Luật khoáng sản năm 2010. Theo đó, đã làm rõ trách nhiệm bảo vệ khoáng
sản chưa khai thác của các cấp chính quyền địa phương, các Bộ liên quan;
quy định chặt chẽ việc phân cấp thẩm quyền cấp phép hoạt động khoáng sản
cũng như điều kiện cấp phép hoạt động khoáng sản v.v... Ngày 09 tháng 3
năm 2012 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2012/NĐ-CP quy định chi
tiết một số điều của Luật khoáng sản. Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện hệ
thống văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể như sau:
Để tăng cường quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản;
chúng ta cần nâng cao hiệu quả phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữa cơ
quan quản lý nhà nước về khoáng sản và các cơ quan lập quy hoạch khoáng
sản ở Trung ương: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương và Bộ Xây
dựng cần thống nhất nội dung phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về
khoáng sản. Các Bộ tăng cường phối hợp hành động, nhất là trong việc xây
dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực khoáng
sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Lãnh đạo các Bộ, các đơn vị trực thuộc Bộ quản lý về
lĩnh vực khoáng sản thường xuyên định kỳ trao đổi, phối hợp giải quyết các
vấn đề có liên quan.
- Nguyên tắc phối hợp:
+ Quan hệ phối hợp được dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo
hiệu quả của công tác; tránh hình thức, chồng chéo, cản trở hoạt động bình
thường giữa các bên.
80
+ Việc trao đổi thông tin công tác quản lý nhà nước phải được tiến
hành thường xuyên nhằm hỗ trợ việc thực hiện các nội dung về quản lý khai
thác tài nguyên khoáng sản theo đúng quy định của Pháp luật.
- Các Bộ thống nhất thành lập Tổ công tác liên Bộ thực hiện nhiệm vụ
rà soát, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch khoáng sản; đề xuất với Lãnh
đạo các Bộ nội dung cần bổ sung, điều chỉnh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ
hoặc các Bộ trưởng xem xét quyết định điều chỉnh theo ủy quyền của Thủ
tướng Chính phủ.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường cung cấp những thông tin mới nhất liên
quan tới kết quả điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản để Bộ
Công Thương, Bộ xây dựng tham khảo, có cơ sở đẩy nhanh công tác lập, phê
duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản. Bộ
Công Thương và Bộ Xây dựng cần sớm hoàn chỉnh Quy hoạch phát triển các
ngành thăm dò khai thác, chế biến liên quan đến lĩnh vực mình quản lý.
- Các Bộ phối hợp cùng làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh liên
quan để kịp thời tìm giải pháp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về công tác cấp
phép cũng như quản lý khoáng sản tại các địa phương trong cả nước. Thành
lập Tổ công tác chung để kiểm tra, đôn đốc và xử lý các vấn đề liên quan
trong lĩnh vực khoáng sản còn tồn tại ở các địa phương.
- Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng của ba Bộ liên quan
đến việc giải quyết các kiến nghị của địa phương: Ba Bộ thống nhất cơ chế
phối hợp trong công tác xem xét, trả lời các địa phương liên quan đến việc
thăm dò, khai thác khoáng sản để tránh mâu thuẫn, chồng chéo nhằm quản lý
chặt chẽ tài nguyên khoáng sản theo đúng quy định của pháp luật. Khi nhận
được đề nghị của các địa phương thì các cơ quan chức năng của các Bộ được
giao trách nhiệm thụ lý văn bản cần trao đổi, thống nhất ý kiến để trả lời cho
các địa phương. Trường hợp không thống nhất sẽ báo cáo Lãnh đạo các Bộ
xem xét, giải quyết.
81
- Bộ Xây dựng, Bộ Công thương cần hoàn thành việc đánh giá tình
hình thực hiện và rà soát 14 quy hoạch khoáng sản đã phê duyệt theo quy
hoạch của Luật Khoáng sản.
- Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ
Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát quy hoạch đã phê duyệt, đánh
giá tình hình thực hiện quy hoạch làm cơ sở xây dựng quy hoạch khoáng sản.
3.3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
- Nâng cao tính khả thi của quy hoạch khoáng sản: Khẩn trương rà soát
nội dung các quy hoạch đã phê duyệt theo quy định của Luật khoáng sản năm
2005 để bổ sung, điều chỉnh theo đúng nguyên tắc, căn cứ, nội dung quy định
trong Luật khoáng sản năm 2010, đồng thời tuân thủ định hướng trong Chiến
lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành liên
quan và với Ủy ban nhân dân các địa phương trong quá trình lập, phê duyệt
quy hoạch khoáng sản nhằm bảo đảm sự đồng bộ, tránh chồng chéo giữa quy
hoạch của cả nước và quy hoạch của các địa phương.
- Nâng cao chất lượng thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt động khoáng
sản: Luật khoáng sản năm 2010 đã đưa ra các quy định mới trong công tác
thẩm định, cấp phép hoạt động khoáng sản thông qua hình thức đấu giá
quyền khai thác khoáng sản; lựa chọn tổ chức, cá nhân cấp phép thăm dò
khoáng sản tại khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm
minh bạch hóa, công khai hóa và cải cách thủ tục hành chính trong cấp phép
hoạt động khoáng sản. Đây là các quy định hoàn toàn mới nên cần có sự
thống nhất trong tổ chức thực hiện. Theo đó, Bộ Tải nguyên và Môi trường
phải tổ chức thêm các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhà
nước về khoáng sản cho cán bộ làm công tác quản lý khoáng sản tại các địa
phương, đặc biệt là cán bộ làm công tác tiếp nhận, thẩm định hồ sơ cấp phép
hoạt động khoáng sản.
82
Tăng cường sự phối hợp trong công tác này giữa cơ quan trung ương và
địa phương. Trước mắt đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát các Giấy phép
khai thác đã cấp có thời hạn dưới 5 năm để điều chỉnh thời hạn khai thác phù
hợp trữ lượng khoáng sản đã phê duyệt để tổ chức, cá nhân khai thác có đủ cơ
sở pháp lý và yên tâm đầu tư lâu dài cho khai thác khoáng sản theo quy định.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác
khoáng sản; đổi mới cơ chế bảo vệ khoáng sản chưa khai thác: Bộ Tài nguyên
và Môi trường triển khai đề án tăng cường năng lực cơ quan thanh tra chuyên
ngành khoáng sản từ trung ương đến địa phương nhằm hoàn thiện hệ thống tổ
chức cũng như lực lượng của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành khoáng sản từ trung ương đến địa phương. Tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản, kiên quyết xử lý nghiêm theo quy định các
hành vi khai thác không có thiết kế mỏ; khai thác gây mất an toàn lao động,
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; gây bức xúc đối với dư luận, xã hội.
Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến hành nghiên cứu, đề xuất cơ chế bảo
vệ khoáng sản chưa khai thác gắn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân,
địa phương nơi có mỏ khoáng sản. Theo đó có văn bản hướng dẫn việc thực
hiện quy định về bảo vệ khoáng sản chưa khai thác theo hướng làm rõ trách
nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ,
ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc bảo vệ khoáng sản
chưa khai thác; hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ động lập dự chi ngân
sách của địa phương cho công tác bảo vệ khoáng sản chưa khai thác làm cơ sở
thực hiện.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Các
Bộ ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tăng cường phối hợp thực hiện tốt và
thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng
sản cũng như bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản để
83
nâng cao nhận thức, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt
động khoáng sản cũng như nâng cao năng lực hệ thống quản lý nhà nước về
khoáng sản các cấp; nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương và nhân dân, nhất là người dân nơi có mỏ khoáng sản.
Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về việc
sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên khoáng sản, đồng thời khuyến
khích cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ mỏ khoáng sản,
đặc biệt đối với các mỏ nhỏ, phân tán và các loại khoáng sản có độ nhạy cảm
cao về kinh tế, dễ gây ô nhiễm môi trường.
3.3.3. Nhóm giải pháp về nguồn lực
- Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng tham
gia phối hợp cùng các địa phương liên quan thực hiện tốt các nhiệm vụ đã xác
định trong quản lý nhà nước về khoáng sản. Tiếp tục, tập trung thực hiện tốt
nhiệm vụ kiện toàn tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản từ Trung
ương đến địa phương. Hằng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức các
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về khoáng sản, nghiệp vụ thanh
tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản cho tất cả lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi
trường, cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa
phương trên phạm vi toàn quốc.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo rà
soát, có giải pháp để nâng cao năng lực cả về bộ máy, cán bộ quản lý và điều
kiện cơ sở vật chất cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về khoáng sản để
có đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ đã phân cấp trong Luật khoáng sản
năm 2010.
Trong khi chưa bổ sung, tăng cường lực lượng cán bộ trực tiếp làm
công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại Sở Tài nguyên và Môi trường,
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chủ động
84
phối hợp với cơ quan chuyên môn của Bộ Tài nguyên và Môi trường để trao
đổi kinh nghiệm và nghiệp vụ trong công tác thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt
động khoáng sản, công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản.
Tăng cường nhân lực của hệ thống quản lý nhà nước về khai thác tài
nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường, đặc biệt là cán bộ quản lý tài nguyên
và môi trường cấp huyện. Nghiên cứu, đề xuất biên chế cán bộ chuyên trách
về khoáng sản và môi trường cấp xã, phường nhằm tăng cường năng lực thực
thi của cấp huyện, xã.
3.3.4. Tham gia sáng kiến minh bạch công nghiệp khai thác khoáng
sản (gọi tắt là EITI)
Sáng kiến minh bạch trong ngành công nghiệp khai thác (EITI –
Extractive Industries Transparency Initiative) là tiêu chuẩn toàn cầu nhằm
thúc đẩy tính minh bạch nguồn thu và trách nhiệm trong ngành khai thác
khoáng sản. Sáng kiến này có phương pháp luận chặt chẽ nhưng linh hoạt
nhằm theo dõi và đối chiếu các khoản thanh toán của công ty và nguồn thu
chính phủ ở cấp quốc gia. Quá trình thực hiện EITI được giám sát bởi các
thành viên từ chính phủ, các công ty và xã hội dân sự trong nước. Ủy ban
EITI và Ban Thư ký quốc tế giám sát phương pháp EITI quốc tế.
Liên minh EITI được thiết lập vào tháng 10/2002, do cựu thủ tướng
Anh Tony Blair giới thiệu đề xuất tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát
triển bền vững tại Johanesburg, Nam Phi. Đến tháng 06//2003, Hội nghị toàn
thể lần 1 khởi động EITI tại Anh. Năm 2005, trong phiên họp toàn thể EITI
lần thứ hai tại Luân Đôn, Tập đoàn Tư vấn Quốc tế (IAG) đã đề xuất phương
hướng hoạt động và cơ chế quản lý EITI. Đến nay, thế giới có 51 quốc gia đã
thực thi EITI, gồm các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Nauy và quốc gia
đang phát triển như Indonesia, Phillipines, Nigieria. Hiệu quả của EITI cũng
đã được chứng minh ở nhiều quốc gia như Nigieria đã tránh thất thu 1 tỷ đô la
Mỹ hàng năm từ lĩnh vực khai khoáng nhờ thực thi sáng kiến này.
85
Tại Diễn đàn Doanh nghiệp vào tháng 12/2014, Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam cũng đã cam kết sẽ minh bạch trong quản lý khoáng sản, tận dụng
các cơ hội từ hội nhập quốc tế. Việc tuyên bố tham gia EITI sẽ thể hiện cam
kết của Chính phủ đối với cộng đồng quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp về
nỗ lực tăng cường minh bạch và cải cách ngành khai khoáng. Việt Nam cần
sớm tham gia EITI để giảm thất thu ngân sách, hỗ trợ việc phối hợp giữa các
bộ ngành, tạo môi trường minh bạch để thu hút được các dự án khai có công
nghệ tốt và nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên.
Hiện nay, EITI phát triển ngày càng mạnh mẽ, trở thành tiêu chuẩn
quốc tế hàng đầu phản ánh hiệu quả nền quản trị và tính minh bạch trong
ngành công nghiệp khai thác tài nguyên. Đây là một giải pháp tốt nhằm nâng
cao hiệu quả ngành công nghiệp khai khoáng hiện nay đã được các quốc gia
trên thế giới tham gia, triển khai thực hiện.
Đối với các nước thành viên, EITI hứa hẹn cải thiện môi trường đầu tư,
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và các tập đoàn tài chính. EITI
cũng hỗ trợ trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình và quản lý tài chính
trong khai thác khoáng sản. Đồng thời, giúp quốc gia đó củng cố sự ổn định
về kinh tế và chính trị, góp phần ngăn chặn các cuộc xung đột trong ngành
dầu khí và khai khoáng.
Đối với các công ty và nhà đầu tư, EITI góp phần giảm nhẹ những rủi
ro do yếu tố chính trị. Sự bất ổn về chính trị do sự quản lý yếu kém là một
mối đe dọa đối với các nhà đầu tư trong khi ngành công nghiệp khai khoáng
có đặc điểm đòi hỏi vốn đầu tư lớn và sự ổn định lâu dài. Khi có EITI, các
công ty và nhà đầu tư sẽ được đảm bảo hoạt động trong một môi trường kinh
doanh ổn định hơn.
Ngoài ra, EITI cũng đóng vai trò cung cấp thông tin cho cộng đồng về
tình trạng thu chi và sự quản lý của chính phủ trong sử dụng tài nguyên quốc
86
gia, giúp người dân đánh giá tính hợp lý của những hoạt động này. EITI cũng
góp phần nâng cao vị thế của xã hội dân sự. Quy định yêu cầu vai trò thiết kế,
giám sát và đánh giá quá trình báo cáo EITI tạo nên nền tảng đảm bảo sự
tham gia một cách công bằng, tự do và độc lập của xã hội dân sự đối với
chính phủ và các công ty khai thác. Thông qua quá trình này, các tổ chức xã
hội dân sự sẽ từng bước cải thiện sự hiểu biết về ngành công nghiệp khai
khoáng cũng như được trang bị kỹ năng tốt hơn để giám sát và đảm bảo rằng
nguồn thu từ khai thác và buôn bán tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hợp
lý cho lợi ích cộng đồng. EITI đồng thời cũng giúp tăng cường vị thế cho xã
hội dân sự bằng cách cho phép các cá nhân, tổ chức theo dõi, vận động chính
sách, tiếp cận và giám sát thông tin liên quan đến nguồn thu từ tài nguyên
thiên nhiên, một điều hầu như chưa từng có tiền lệ trước đó.
Thực hiện minh bạch hóa trong ngành công nghiệp khai khoáng ở Việt
Nam sẽ góp phần quan trọng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về
khoáng sản trong thời gian tới và cần tiếp tục triển khai theo một lộ trình hợp
lý, phù hợp với pháp luật và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
3.3.5. Giải pháp khác
Ngoài các giải pháp nêu trên, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nước về khoáng sản cũng như hoạt động khai thác khoáng sản, bảo đảm
khoáng sản được khai thác triệt để, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả phục vụ
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện
một số giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy như sau:
a) Có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp có năng lực về
vốn, công nghệ, thiết bị đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến sâu khoáng sản tại
mỏ có điều kiện địa chất - khai thác mỏ khó khăn; khai thác các khu vực mỏ
quặng nghèo; áp dụng công nghệ tiên tiến để thu hồi tối đa khoáng sản chính,
khoáng sản đi kèm trong khai thác, chế biến;
87
b) Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất trao “Giải thưởng khoáng sản“
hàng năm để vinh danh các doanh nghiệp khai thác khoáng sản theo một số
tiêu chí: đầu tư có hiệu quả về vốn, công nghệ, thiết bị để khai thác, chế biến
khoáng sản nhằm thu hồi tối đa, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả khoáng sản;
chấp hành tốt quy định pháp luật về khoáng sản cũng như bảo vệ môi trường
trong khai thác khoáng sản; thực hiện tốt trách nhiệm hỗ trợ địa phương và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân nơi có mỏ được khai thác; thực
hiện tốt các nghĩa vụ tài chính trong lĩnh vực khoáng sản.
88
KẾT LUẬN
Thực trạng ngành công nghiệp khai thác khoáng sản trong những năm
qua đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, tồn tại. Gây ra những tác động bất lợi cho
nền kinh tế, môi trường sinh thái và ổn định xã hội. Nguyên nhân chủ yếu của
các tồn tại này là do trong những năm qua chúng ta vẫn còn quá chú trọng vào
phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý tới môi trường thiên
nhiên nên tình trạng khai thác khoáng sản bừa bãi gây suy thoái môi trường
và mất cân bằng hệ sinh thái đang diễn ra ở nhiều nơi. Nghiêm trọng nhất là
hoạt động của các mỏ khai thác than, quặng kim loại và vật liệu xây dựng.
Các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du cùng với công
nghệ khai thác hiện nay chưa hợp lý, đặc biệt đối với các mỏ kim loại nên
mức độ gây ô nhiễm và suy thoái rừng: phá rừng, hủy hoại không khí, phá vỡ
các khu sinh thái, hệ thống thủy văn, ô nhiễm nguồn nước… ảnh hưởng đến
các ngành kinh tế khác như nông nghiệp, du lịch…
Nếu không có chiến lược và chính sách rõ ràng, trong khoảng thời
gian tương lại gần thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải nhập khẩu trở lại các
quặng thô, hoặc sản phẩm đã qua chế biến của các loại khoáng sản mà chúng
ta đã xuất đi với giá cao hơn… Để đảm bảo tính ổn định và bền vững cho sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc quản lý nhà nước về khai
thác tài nguyên khoáng sản phải được nâng cao và chất cũng như về lượng;
trước mắt chúng ta phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về khai thác
tài nguyên khoáng sản. Có như vậy, chúng ta mới có thể đảm bảo hài hòa lợi
ích giữa các bên liên quan; sử dụng tài nguyên khoáng sản hợp lý, tiết kiệm,
hiệu quả về kinh tế và hài hòa về vấn đề môi trường, cũng như có khả năng
giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển và bảo vệ môi trường, công
bằng xã hội.
89
Trước những yêu cầu, thách thức đặt ra từ định hướng chuyển đổi mô
hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, trong giai đoạn phát triển mới
vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý tài nguyên. Đó là nhận
thức chưa đầy đủ; thu thập thông tin, dữ liệu phục vụ cho việc quản lý các
nguồn tài nguyên khoáng sản còn hạn chế, còn nhiều bất cập trong cơ chế
phân bổ nguồn lực, kém hiệu quả và thiếu bền vững trong việc khai thác, sử
dụng cùng việc chưa quan tâm đúng mức đến bảo vệ, phục hồi, tái tạo các
nguồn tài nguyên của đất nước.
Luận văn đã xem xét, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về khoáng
sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam nói riêng giai
đoạn vừa qua, khái quát bối cảnh sắp tới, đưa ra các quan điểm, mục tiêu và 5
nhóm giải pháp chính để nâng cao hiệu quả QLNN đối với khai thác TNKS.
Các giải pháp đó bao gồm: Nhóm giải pháp về thể chế chính sách; nhóm giải
pháp về tổ chức thực hiện; nhóm giải pháp về nguồn lực; nhóm giải pháp về
hỗ trợ thúc đẩy; giải pháp về tham gia sáng kiến minh bạch trong công nghiệp
khai thác khoáng sản (gọi tắt là EITI). Bên cạnh đó, cần phải nhấn mạnh rằng
yếu tố nhận thức đóng vai trò rất quan trọng, do vậy vấn đề nhận thức luôn
luôn cần được đặt ra và có các giải pháp phù hợp để nâng cao và điều chỉnh
nhận thức cho đúng... để hoạt động QLNN về khai thác TNKS được thực hiện
hiệu quả hơn.
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 về định hướng
chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020,
tầm nhìn đến 203, Hà Nội.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Tài nguyên Địa chất và Khoáng sản
Việt Nam, Hà Nội.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo số 110/BC-BTNMT ngày
15/6/2012 về việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, khai thác
khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, Hà Nội.
4. Chính phủ, Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 về
việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Công thương.
5. Chính phủ, Nghị định số 62/2013/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2013 về
việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Xây dựng;
6. Chính phủ, Nghị định số 21/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2013 về
việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Tài nguyên và Môi trường.
7. Chính phủ (2010), Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản.
8. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (2008), Địa chất và tài nguyên Việt
Nam, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ.
9. Các Quyết định phê duyệt Quy hoạch thăm dò khai thác, chế biến khoáng
sản của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công thương, Hà Nội.
10. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Hành chính công, Nxb Khoa học
và Kỹ thuật.
91
11. Học viện Hành chính Quốc gia (2012), Giáo trình quản lý nhà nước về khoa
học công nghệ và tài nguyên môi trường, Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
12. Nguyễn Hữu Hải (chủ biên) (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà
nước, Học Viện Hành chính, Hà Nội.
13. Vũ Cao Đàm (2008), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
Nxb Giáo dục.
14. Nguyễn Thành Sơn (2009), Tổng quan về khoáng sản Việt Nam, Hà Nội.
15. Lại Hồng Thanh (2009), Quản lý nhà nước về khoáng sản, Hà Nội.
16. Luật Khoáng sản (2010).
17. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 16/2014/QĐ-TTg 19 tháng 02 năm
2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục Địa chất
và Khoáng sản Việt Nam.
18. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12
năm 2011 về việc phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
19. Tổng cục Địa chất Khoảng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết các năm, Lưu
trữ tại Tổng cục, Hà Nội.
20. Trần Xuân Hòa (2009), Cân đối cung cầu, triển vọng và thách thức phát
triển bền vững ngành than Việt Nam, Hà Nội.
21. Viện tư vấn và phát triển (2010), Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng
tài nguyên khoáng sản trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
22. Website của Chính phủ: chinhphu.vn.
23. Website của Bộ Tài nguyên và Môi trường: www.monre.gov.vn.
24. Website của Bộ Công thương: www.moit.gov.vn.
25. Website của Bộ Xây dựng: www.xaydung.gov.vn.
26. Website của Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam: www.dgmv.gov.vn.