BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ĐĂNG KIỂM

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ

LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ĐĂNG KIỂM

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ

LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRỊNH ĐỨC HƢNG

HÀ NỘI - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đăng Kiểm

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn Thạc sỹ tại

Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp

đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình, đã tạo điều kiện

về thời gian, hướng dẫn về nội dung, cung cấp tài liệu và những thông tin cần

thiết.

Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Hành chính Quốc gia,

Khoa Sau đại học Học viện Hành chính Quốc gia cùng tất cả các thầy, cô

giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình giảng dạy, truyền

đạt những kiến thức quý báu và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên

cứu.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến TS.Trịnh Đức Hưng - Giảng viên

của Học viện Hành chính Quốc gia, người đã tận tình hướng dẫn và có những

đóng góp quý báu để tôi hoàn thành Luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn UBND huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình và

các phòng, ban của huyện, UBND các xã, thị trấn của huyện Quỳnh Phụ đã hỗ

trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thu thập tài liệu điều

tra thông tin phục vụ nghiên cứu để hoàn thành đề tài này.

Mặc dù đã cố gắng để hoàn thành tốt luận văn nhưng chắc chắn không

tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi kính mong các thầy, cô và những

người quan tâm đến đề tài có những đóng góp, sửa đổi, bổ sung để luận văn

này được hoàn thiện hơn nữa.

Tôi xin trân trọng cảm ơn./.

Học viên

Nguyễn Đăng Kiểm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .................................. 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ....................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................ 6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ................... 7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................. 8

7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 8

Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG .......... 9

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .................................................... 9

1.2. Sự cần thiết, đặc điểm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ... 13

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề

truyền thống ................................................................................................. 19

1.4. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ...... 24

1.5. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số

địa phương và bài học kinh nghiệm cho huyện Quỳnh Phụ ........................ 31

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ QUẢN

LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH .................................................... 39

2.1. Khái quát về huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.................................... 39

2.2. Thực trạng các làng nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ ............. 42

2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tại huyện

Quỳnh Phụ ................................................................................................... 53

2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ .............................. 66

2.5. Nguyên nhân những thuận lợi và khó khăn của hoạt động quản lý nhà

nước đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ ...................... 69

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO

HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ ........................................................ 74

3.1. Quan điểm của Đảng về quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống ............................................................................................................ 74

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về làng nghề truyền

thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ .......................................................... 84

3.3. Kiến nghị với địa phương ................................................................... 111

KẾT LUẬN CHUNG ....................................................................................... 115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 117

PHỤ LỤC .......................................................................................................... 220

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở Việt Nam hiện nay, các làng nghề đã và đang đóng góp tích cực cho

sự phát triển kinh tế nông thôn, giúp giải quyết công ăn việc làm, tăng thu

nhập cho người nông dân, góp phần phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước. Làng nghề cũng đem lại nguồn thu nhập cao hơn sản xuất nông

nghiệp thuần túy, đặc biệt là khi kết hợp cả sản xuất nông nghiệp và tham gia

hoạt động sản xuất của làng nghề thì thu nhập của người dân cao hơn hẳn so

với chỉ làm nông nghiệp. Ngoài ra các làng nghề còn đem lại một nguồn

ngoại tệ đáng kể cho đất nước thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng này.

Huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình là huyện có thế mạnh trong phát triển

nông nghiệp nhưng những năm gần đây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

trên địa bàn huyện đã có bước phát triển khá mạnh, các nghề truyền thống

được duy trì và hoạt động do đó diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc, tỷ lệ

hộ nghèo giảm nhanh, đời sống nhân dân được nâng cao. Hiện tại, Quỳnh Phụ

có 33 làng nghề truyền thống, thu hút trên 23.000 lao động, với thu nhập từ 3-

5 triệu đồng/người/tháng. Sản xuất ở các làng nghề huyện Quỳnh Phụ phát

triển không những giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người

lao động mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo diện mạo mới cho

các làng quê. Nhiều làng nghề không ngừng phát triển, chiếm 70 - 80% tỷ

trọng của thôn, làng, tiêu biểu như: bánh đa làng Dụ Đại, xã Đông Hải; dệt

chiếu xã An Vũ, An Lễ, An Dục, An Tràng; vàng mã xã An Vinh; chế biến

lương thực xã An Mỹ; gỗ mỹ nghệ xã An Đồng... Các làng nghề ở Quỳnh Phụ

đã và đang góp phần hạn chế tình trạng rời quê đi làm ăn xa và tăng thu nhập

cho người lao động, thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá cùng với sự phát triển mạnh mẽ

của khoa học, kỹ thuật, công nghệ… các làng nghề có những cơ hội để phát

1

triển song cũng có không ít những khó khăn, thách thức phải đối mặt. Nhiều

làng nghề, ngành nghề truyền thống có nguy cơ tan rã do không đủ sức cạnh

tranh, không theo kịp tốc độ phát triển của máy móc hiện đại. Nhiều làng

nghề sản xuất còn thủ công theo quy mô nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm chưa

cao, mẫu mã chậm thay đổi nên sức cạnh tranh kém, chưa tạo dựng được

thương hiệu. Hầu hết các làng nghề chưa có hạ tầng kỹ thuật xử lý nguồn

nước trước khi xả ra môi trường, cũng như thu gom chất thải. Vấn đề nan giải

chưa tìm được lời giải đối với nhiều làng nghề trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ

hiện nay là khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, cơ chế, chính

sách ban hành đã lâu, có một số nội dung không còn phù hợp, nhưng lại chậm

được thay đổi cho phù hợp tình hình mới, nhiều thủ tục hành chính còn rườm

rà. Khó khăn nhất là tiếp cận vay vốn, ứng dụng khoa học, công nghệ, nâng

cao tay nghề. Thị trường chậm được mở rộng, chưa gắn kết được các công

đoạn trong chuỗi giá trị từ thiết kế mẫu mã, cung ứng nguyên nhiên liệu đến

sản xuất và tiêu thụ; các nghệ nhân, thợ giỏi làng nghề chưa được quan tâm

bồi dưỡng, phát huy đúng mức, chưa thu hút được truyền dạy nghề cho lao

động mới, chưa được quan tâm để sáng tạo ra mẫu mã mới; mối liên kết giữa

các cơ sở sản xuất trong làng nghề và giữa các làng nghề còn nhiều tồn tại,

hạn chế, kéo dài tình trạng sản phẩm chậm được cải tiến, sức cạnh tranh kém

và thu nhập thấp... Khoa học công nghệ chậm được ứng dụng vào làng nghề

để nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã thiết kế, nhất là trong bảo vệ, khắc

phục ô nhiễm môi trường; tình trạng ô nhiễm tại làng nghề chưa được xử lý,

nhiều làng nghề bị ô nhiễm nặng, phát sinh nhiều dịch bệnh. Việc quy hoạch

làng nghề chậm, nhiều cơ sở sản xuất làng nghề ô nhiễm nặng mà chưa được

di dời…

Ngoài ra, khó khăn lớn nhất của các làng nghề hiện nay là tìm thị

trường tiêu thụ. Bởi lẽ, sản phẩm của làng nghề truyền thống có giá thành cao,

mẫu mã sản phẩm chưa đa dạng, chưa theo kịp thị hiếu người tiêu dùng trong

2

và ngoài nước. Đây là một thực tế khiến cho hàng truyền thống của Quỳnh

Phụ nói riêng cũng như của Việt Nam nói chung chưa thể đến được những thị

trường khó tính nhưng đầy tiềm năng như Mỹ hoặc Châu Âu... Vì vậy, nghiên

cứu đề ra những giải pháp đổi mới quản lý nhà nước để thúc đẩy sự phát triển

của các làng nghề của huyện Quỳnh Phụ đang là đòi hỏi khách quan và cấp

thiết. Xuất phát từ nhận thức đó, em chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về làng

nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình” để

nghiên cứu. Việc nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn,

đề ra các giải pháp tác động tích cực để hoạt động quản lý đối với làng nghề

truyền thống ngày càng hiệu quả, phát huy vai trò của làng nghề truyền thống

trong tiến trình hội nhập và đặc biệt là trong tiến trình xây dựng nông thôn

mới của cả nước.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Liên quan đến đề tài, ở Việt Nam có một số đề tài sau:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Xây dựng và phát triển mô hình

làng nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ” của GS.TS. Hoàng Văn

Châu. Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về làng nghề, làng nghề truyền

thống, làng nghề du lịch cũng như tiềm năng và sự cần thiết phải phát triển

mô hình làng nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Tác giả đã tìm

hiểu kinh nghiệm xây dựng và phát triển làng nghề gắn với hoạt động du lịch

của Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia từ đó rút ra những bài học

đối với Việt Nam. Tác giả đã phân tích và đánh giá thực trạng làng nghề, làng

nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ, từ thực trạng đáp ứng yêu cầu

du lịch tại các làng nghề, đến tình hình khách du lịch cũng như mô hình tổ

chức quản lý và cơ chế quản lý làng nghề du lịch. Tác giả đã đề xuất các mô

hình tổ chức quản lý làng nghề du lịch, một số tuyến du lịch làng nghề chủ

yếu cũng như các phương án xây dựng và phát triển các làng nghề du lịch tại

các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

3

- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Như Chung về “Quá trình hoàn thiện các

chính sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997

đến 2003- thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp”. Đề tài đã đề cập tới thực

trạng về chính sách quản lý nhà nước đối với làng nghề và đưa ra một số giải

pháp hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước thúc đẩy sự phát triển của làng

nghề.

- Luận án tiến sỹ của Mai Thế Hởn về “Phát triển làng nghề truyền

thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà

Nội”. Đề tài đã đề cập tới vấn đề quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề, đã

đề cập đến vấn đề phát triển thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công

nghệ cho sự phát triển làng nghề. Đề tài còn đề cập đến chính sách của Nhà

nước đối với việc phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công

nghiệp hoá và hiện đại hoá.

- Luận văn thạc sỹ của Vũ Thu Hà năm 2002 về “Khôi phục và phát

triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - Thực trạng và giải

pháp”. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng làng nghề truyền thống ở nông thôn

vùng đồng bằng sông Hồng và đưa ra giải pháp về quy hoạch, kế hoạch khôi

phục và phát triển làng nghề truyền thống, đưa ra giải pháp về đào tạo lao

động, cán bộ quản lý, thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách của

nhà nước để phát triển làng nghề truyền thống.

- Luận văn thạc sỹ của Trần Văn Hiến năm 2006 về “Tín dụng của

ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề

tại tỉnh Quảng Nam”. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng công tác tín dụng

ngân hàng nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển làng nghề

của tỉnh; đồng thời tác giả đã ra dự báo sự phát triển của làng nghề, của tín

dụng ngân hàng nông nghiệp đến năm 2012, đưa ra cơ chế, chính sách cho

vay để khuyến khích làng nghề phát triển.

4

- Đề tài: “Làng nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam” của tác giả

Bùi Văn Vượng, 2002, nhà xuất bản (Nxb) Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Đây là

công trình giới thiệu một cách tổng quan về các làng nghề truyền thống ở Việt

Nam, với nhiều thông tin có giá trị tham khảo cao.

- Đề tài: “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam

trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Trần Minh Yến,

2003 NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu mang tính

tổng quan và đặc biệt nhấn mạnh về vai trò của làng nghề truyền thống trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta hiện nay.

Ngoài ra còn một số luận văn lý luận chính trị cao cấp năm 2006 về

“Phát triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường hiện nay trên

địa bàn huyện Đức Thọ- Hà Tĩnh” của Thạc sỹ Nguyễn Quốc Hải và luận văn

thạc sỹ năm 2006 về “Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Trọng Tuấn cũng đều đề cập đến thực

trạng làng nghề truyền thống của các địa phương khác nhau; đồng thời cũng

đưa ra những giải pháp về quy hoạch, kế hoạch phát triển nghề truyển thống

và đặt vấn đề thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách, đào tạo

nguồn lao động để làng nghề được phát triển trong điều kiện Việt Nam thực

hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và gia nhập tổ

chức thương mại thế giới WTO.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những

khía cạnh khác nhau của làng nghề và đưa ra những giải pháp phát triển làng

nghề… Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên

sâu về quản lý nhà nước đối với làng nghề trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh

Thái Bình.

5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3. 1. Mục đích của luận văn

Trên cơ sở hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống, quản

lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, phân tích thực trạng hoạt động

của các làng nghề truyền thống và hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, luận văn đưa ra các

giải pháp quản lý để làng nghề truyền thống phát triển bền vững. Mục đích

của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước đối với

các làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình,

nghiên cứu và đề xuất ý tưởng, giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà

nước đối với làng nghề đồng thời đưa ra những định hướng để phát triển làng

nghề một cách bền vững.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống, quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các làng nghề truyền

thống, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại Quỳnh

Phụ, Thái Bình; tìm ra những thuận lợi và khó khăn về hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.

- Nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản

lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ

tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa

bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.

Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện

nhưng đặt trong khuôn khổ các chính sách, chế độ quản lý làng nghề của

6

Chính phủ. Những vấn đề nghiên cứu chính sách sẽ gắn với chủ thể quản lý là

chính quyền tỉnh Thái Bình. Ngoài ra luận văn có xem xét chế độ chính sách

chung của cả nước với tư cách môi trường pháp lý chung về quản lý làng

nghề.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ

tỉnh Thái Bình.

- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh về hoạt động quản lý, quản lý nhà nước cũng như những quan điểm

của Đảng trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và

các văn bản quản lý nhà nước về phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

- Phương pháp thống kê: Dựa trên các báo cáo, kết quả tổng kết tại các

làng nghề, tập hợp các số liệu nhằm đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.

- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh: Dựa trên phương pháp

nghiên cứu duy vật biện chứng và khoa học, các phương pháp thống kê, tổng

hợp sẽ giúp tác giả có số liệu để phân tích, so sánh từ đó đưa ra những giải

pháp có tính thực tiễn cao.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Luận văn kế thừa kết quả

nghiên cứu của các công trình nghiên cứu có liên quan; đồng thời, dựa vào

các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của nhà nước về phát triển

làng nghề truyền thống.

7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước

nói chung và quản lý làng nghề nói riêng. Kinh nghiệm quản lý làng nghề của

các địa phương khác trong cả nước và bài học kinh nghiệm cho huyện Quỳnh

Phụ, tỉnh Thái Bình.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài

liệu tham khảo phục vụ cho công tác quản lý, công tác xây dựng chính sách

phát triển làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình nói

riêng cũng như của các địa phương khác trong cả nước nói chung.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở khoa học về làng nghề truyền thống và quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống

Chương 2: Thực trạng làng nghề truyền thống và hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái

Bình.

Chương 3: Quan điểm của Đảng và một số giải pháp quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.

8

Chƣơng 1

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài

* Khái niệm làng nghề

Làng là một nhóm người quây quần ở một nơi nhất định trong nông

thôn, làng là một tế bào của xã hội người Việt, một tập hợp dân cư chủ yếu

theo quan hệ láng giềng, một không gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp

những người quần tụ lại cùng sinh sống và sản xuất [14].

Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một

nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng

theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề mà

cũng có hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần thể để phát triển

công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập

thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa

phương.

Thực tế cho thấy, làng nghề là nơi mà ở đó có những hộ thuộc một số

dòng tộc nhất định sinh sống. Trong các làng nghề này tồn tại đan xen các

mối quan hệ kinh tế, xã hội phong phú và phức tạp. Làng nghề là những làng

ở nông thôn có những nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao

động và thu nhập so với nghề nông.

Như vậy làng nghề là một thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, được

cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất

định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là

chính, giữa họ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, xã hội và văn hóa.

* Khái niệm về làng nghề truyền thống

Làng nghề truyền thống, trước hết nó được tồn tại và phát triển lâu đời

trong lịch sử, trong đó bao gồm một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống,

9

là nơi hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia

đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ

nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các

thành viên luôn có ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Làng

nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian

vẫn duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các

làng nghề truyền thống thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc

một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc

dạy nghề được thực hiện theo phương pháp truyền nghề.

Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình

thành từ lâu đời.

Theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn; làng nghề, làng nghề truyền thống được công

nhận dựa trên các tiêu chí sau:

Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:

Thứ nhất, có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt

động ngành nghề nông thôn.

Thứ hai, có hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính

đến thời điểm đề nghị công nhận.

Thứ ba, phải chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Làng nghề truyền thống được công nhận phải đạt tiêu chí làng nghề và

có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-

BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng

dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP, cụ thể:

Thứ nhất, nghề của làng nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50

năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận.

Thứ hai, nghề của làng nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn

hoá dân tộc.

10

Thứ ba, nghề của làng nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ

nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.

Thứ tư, số hộ và số lao động trong làng nghề truyền thống đạt từ 30%

trở lên so với tổng số lao động của làng.

Thứ năm, sản phẩm làm ra có tính thẩm mỹ mang đậm nét yếu tố và

bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Thứ sáu, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính

đến thời điểm đề nghị công nhận.

Thứ bảy, chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Như vậy để được công nhận làng nghề truyền thống, trước hết phải đạt

tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống đã xuất hiện tại địa

phương từ trên 50 năm, tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc

và gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.

* Khái niệm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

- Khái niệm quản lý:

Quản lý gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên trong thực

tế có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý; tuy nhiên, khi đề cập đến quản

lý, có một cách tiếp cận nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa học và nhà

quản lý thực tiễn, đó là: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của

chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định trước.

- Khái niệm quản lý nhà nước:

Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng

pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển

của xã hội. Những hoạt động này nhằm bảo đảm cho hệ thống pháp luật quốc

gia đi vào cuộc sống. Đây là chức năng cơ bản của nhà nước. Hoạt động quản

lý nhà nước đạt hiệu quả cao phải trên cơ sở bảo đảm tính khoa học về hoạch

định, tổ chức, điều hành, kiểm tra, giám sát.

11

- Từ các phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống là: "Việc áp dụng hệ thống các công cụ quản lý bao

gồm pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch tác động vào đối tượng quản

lý để hướng dẫn các làng nghề truyền thống của địa phương phát triển theo

định hướng đã đặt ra trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhà nước".

Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống nhằm phát triển làng

nghề theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia và

kiểm soát làng nghề phát triển một cách bền vững. Vì vậy, để quản lý làng

nghề, nhà nước dùng các công cụ như pháp luật, chính sách… trong hoạt

động quản lý; cụ thể như:

+ Thông qua hệ thống pháp luật, một mặt, nhà nước tuyên bố các quyền

và nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động trong làng nghề truyền thống, đặc biệt

là quyền và nghĩa vụ, chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước đối với

làng nghề. Nếu hệ thống luật pháp tiến bộ và phù hợp, sẽ khuyến khích làng

nghề phát triển. Ngược lại, hệ thống luật pháp lạc hậu, bảo thủ sẽ cản trở sự

phát triển của làng nghề truyền thống.

+ Quản lý nhà nước không chỉ nhằm kiểm soát làng nghề truyền thống

mà quan trọng hơn là định hướng cho làng nghề truyền thống phát triển.

Trong hoạt động quản lý, nhà nước cần có các chiến lược, quy hoạch để định

hướng cho các làng nghề phát triển một cách bền vững. Mặt khác, có qui

hoạch, nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát được sự phát triển của làng nghề

truyền thống, từ đó có các chính sách điều chỉnh phù hợp với tình hình thực

tế.

* Các khái niệm liên quan đến đề tài

Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là thực

hiện chức năng quản lý theo ngành, lĩnh vực cụ thể, được phân cấp quản lý từ

Trung ương đến địa phương.

12

Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

là tổng thể các quan điểm, biện pháp, công cụ nhằm mục tiêu phát triển làng

nghề truyền thống. Nhà nước thông qua việc xây dựng và ban hành chính

sách, pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hộ và các

doanh nghiệp hoạt động, đồng thời hỗ trợ về vật chất để tăng cường năng lực

của các cơ sở, hộ gia đình, doanh nghiệp trong việc sản xuất kinh doanh tại

làng nghề truyền thống.

Xã hội hóa đối với làng nghề có thể thực hiện trên các lĩnh vực như: xã

hội hóa trong đào tạo nghề, trong xây dựng cơ sở hạ tầng, điện, đường,

trường, trạm và bảo vệ môi trường.

Hội nhập quốc tế đối với làng nghề có thể thực hiện trên các lĩnh vực

như: phát triển du lịch làng nghề, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm quốc

tế, áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại từ các nước tiên tiến. Hội nhập quốc

tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút vốn, công nghệ, tiếp thu

kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát triển nhân lực thông qua

các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ...

1.2. Sự cần thiết, đặc điểm quản lý nhà nƣớc về làng nghề truyền thống

1.2.1. Sự cần thiết quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Sự cần thiết quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống được thể hiện

như sau:

Một là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là yêu cầu cấp thiết

nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển sản xuất hàng hoá

của các làng nghề truyền thống, thúc đẩy cuộc chiến chống lạm dụng và gian

lận thương mại. Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề sẽ định hướng

cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm làng nghề của địa phương phát

triển theo đúng mục tiêu của địa phương đã đề ra trên cơ sở tạo lập môi

trường thuận lợi cho các làng nghề tại địa phương tiếp cận với các yếu tố tài

nguyên, nguồn nhân lực, các thông tin cần thiết về thị trường…

13

Các cơ sở sản xuất tại các làng nghề sẽ khó khăn trong việc xây dựng

thương hiệu, xúc tiến thương mại cho sản phẩm làng nghề nếu không có sự

hướng dẫn, hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước. Đặc biệt, trong quá trình

hội nhập, thị trường thế giới yêu cầu rất cao về chất lượng, thiết kế mẫu mã

sản phẩm. Tuy nhiên, tình trạng phổ biến của các sản phẩm ở các làng nghề

truyền thống của Việt Nam là còn rập khuôn, những mẫu có sẵn đơn điệu, tự

nghĩ ra cái gì thì làm cái đó hoặc làm theo đơn đặt hàng và bắt chước sao chép

những hàng bán chạy; vì vậy cần tăng cường hoạt động quản lý nhà nước để

hướng dẫn, định hướng cho các làng nghề phát triển bền vững.

Hai là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là hoạt động có ý

nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống

làng nghề, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh của

sản phẩm làng nghề, giúp thúc đẩy tiềm năng phát triển của các nguồn lực địa

phương, nâng cao đời sống cộng đồng, đặc biệt là các khu vực nông thôn,

miền núi trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Hiện nay, các làng nghề truyền thống gặp không ít khó khăn và thách

thức trong bảo tồn và phát triển. Chính vì vậy, tăng cường hoạt động quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống để giúp các làng nghề truyền thống

vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển và đóng góp cho đất nước là một nhiệm

vụ quan trọng của Đảng và nhà nước ta. Để duy trì và phát triển các làng

nghề, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ địa phương trong xây dựng quy

hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền thống trong phạm vi cả tỉnh, xây

dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề truyền thống, tìm kiếm thị

trường tiêu thụ cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống, xây dựng

nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống...

Ba là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống có vai trò giám sát,

bảo đảm phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm trong hoạt động sản xuất,

kinh doanh của làng nghề, để bảo tồn các giá trị văn hóa của làng nghề.

14

Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát cơ quan quản lý nhà nước

hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh tuân thủ các quy định của pháp

luật; cụ thể như tuân thủ các quy định về sử dụng đất theo quy hoạch, nguồn

nguyên liệu sử dụng trong sản xuất có đảm bảo và quan trọng hơn là việc đảm

bảo các yếu tố truyền thống được kết tinh trong từng sản phẩm. Đồng thời,

nếu phát hiện các dấu hiệu vi phạm, sẽ kịp thời xử lý các sai phạm nhằm

hướng đến môi trường phát triển bền vững.

Bốn là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống nhằm kiểm soát và

đưa ra các giải pháp để giảm thiểu vấn đề ô nhiểm môi trường tại các làng

nghề.

Hiện nay, hầu hết các cơ sở sản xuất tại các làng nghề đều có quy mô

nhỏ, nằm trong khu dân cư, mặt bằng sản xuất chật hẹp nên rất khó xây dựng

hệ thống xử lý môi trường, các hộ sản xuất chưa đầu tư các biện pháp nhằm

giảm thải ô nhiễm môi trường không khí, bụi, chất thải rắn; nước thải sản xuất

chưa qua xử lý cùng với nước thải sinh hoạt được xả vào hệ thống thoát nước

mặt, đồng thời, ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa cao… là những

nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Thông qua hoạt động

quản lý nhà nước sẽ giúp người dân hiểu rõ hơn vấn đề đảm bảo môi trường

làng nghề, hỗ trợ các giải pháp để xử lý môi trường. Ví dụ như nhà nước sẽ

tăng cường tuyên truyền, tập huấn cho người dân về vấn đề đảm bảo môi

trường làng nghề, hỗ trợ xây dựng các hệ thống thu gom, xử lý nước thải, rác

thải… tại các làng nghề truyền thống.

1.2.2. Đặc điểm làng nghề truyền thống

Làng nghề truyền thống là cả một môi trường kinh tế - xã hội và văn

hoá. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang

đời khác, hun đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài hoa và những sản phẩm độc đáo

mang bản sắc riêng. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống là những sản

phẩm văn hoá, có giá trị mỹ thuật cao. Làng nghề truyền thống có thể có một

15

nghề hoặc vài nghề truyền thống. Nếu làng có vài nghề thì có một nghề chính

và tên nghề đó được gọi tên làng nghề. Sản phẩm của làng nghề có quy trình

công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang các thế hệ khác.

Trong các làng nghề truyền thống, trước đây chủ yếu là dậy nghề theo

phương thức truyền nghề mà trước tiên là trong phạm vi gia đình. Nhìn

chung, các nghề được bảo tồn trong từng gia đình của các làng, xã mà ít được

phổ biến ra bên ngoài, bởi vì ở một số nơi quy định truyền nghề rất chặt chẽ.

Tuy nhiên, từ sau khi thực hiện cải cách công thương nghiệp (1957-1960)

phương thức dạy nghề và truyền nghề trở nên đa dạng và phong phú hơn.

Làng nghề truyền thống là một cụm dân cư sinh sống tạo thành làng

quê hay phường hội. Đó chính là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Những phong

tục, tập quán, đền thờ, miếu mạo… của mỗi làng xã vừa có nét chung của văn

hoá dân tộc, vừa có nét riêng của mỗi làng quê, làng nghề. Các sản phẩm của

làng nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá

trị văn hoá, văn minh của dân tộc.

Các làng nghề có đặc điểm là thường yêu cầu vốn đầu tư không lớn

nhưng có khả năng thu hút nhiều lao động, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội

cao. Làng nghề gắn bó chặt chẽ không tách rời với nông nghiệp nông thôn về

lao động, nguyên liệu, thị trường… Ở nông thôn gần như 100% người làm

làng nghề đều có đất nông nghiệp, có thể do họ canh tác hoặc phần lớn là cho

thuê hoặc nhượng cho người khác canh tác. Trong điều kiện toàn cầu hoá nền

kinh tế thế giới như hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nếu phải

xem xét để tìm ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường

quốc tế của những nước đang phát triển như Việt Nam thì trên hết phải kể đến

sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống.

1.2.3. Đặc điểm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là sự tác động liên tục, có

tổ chức của nhà nước đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề

16

truyền thống nhằm duy trì và phát triển bền vững các làng nghề truyền thống

theo các mục tiêu mà nhà nước đặt ra. Quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống được thể hiện bởi các đặc điểm sau:

Thứ nhất, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tương đối khó

khăn và phức tạp vì liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Nhà nước trao

thẩm quyền cho các cơ quan quản lý để thực hiện chức năng nhiệm vụ của

mình. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề là

tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang tính quyền lực - pháp lý do pháp luật

quy định. Trên cơ sở, hiến pháp, luật, các cơ quan quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống ra quyết định mang tính pháp lý bắt buộc các cơ sở

sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống phải tuân thủ. Các cơ

quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống chỉ hành động trong

phạm vi thẩm quyền của mình. Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống có sự tham gia của các ngành như: Ngành nông

nghiệp- quản lý nhà nước đối với ngành nghề nông thôn; ngành công thương-

quản lý xúc tiến thương mại cho các sản phẩm làng nghề; ngành tài nguyên

môi trường- quản lý sử dụng đất đai và vấn đề môi trường tại các làng nghề;

ngành khoa học và công nghệ - quản lý việc ứng dụng công nghệ trong hoạt

động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ xây xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm

làng nghề…

Thứ hai, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống rất

nhạy cảm, phức tạp. Cách thức tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh của

các cơ sở sản xuất tại các làng nghề đã trở thành nét văn hóa riêng của làng

nghề, thành thói quen của những người lao động tại nơi đây. Vì vậy, khi nhà

nước tác động những chính sách, cơ chế mới rất khó khăn và cần có sự đồng

thuận của tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề. Ví dụ, phương

thức hoạt động sản xuất tại các làng nghề truyền thống gốm sứ, muốn thay đổi

nguyên liệu dùng để nung sản phẩm là rơm, rạ, than, củi… bằng cách dùng

17

nhiệt, ga… để hạn chế ô nhiễm môi trường, tăng năng suất lao động, giảm chi

phí giá thành… nhưng để thay đổi thói quen sản xuất của làng nghề là cả một

vấn đề lớn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Nhà nước phải dùng các phương pháp khác nhau trong hoạt động quản lý như

giáo dục thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế và cả

các công cụ như pháp luật… một cách hài hòa thì mới thực hiện tốt hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Thứ ba, các cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống được

sử dụng nhiều nguồn lực để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Nhà

nước sử dụng nguồn nhân lực, nguồn tài chính để đảm bảo các hoạt động thực

thi công vụ (tiền lương, thiết bị hỗ trợ hoạt động quản lý, công tác phí...) và

hỗ trợ cho các cơ sở tại các làng nghề truyền thống trong hoạt động sản xuất,

kinh doanh. Ví dụ như nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề cho các lao động của

làng nghề thông qua các buổi tập huấn; hỗ trợ các cơ sở tham gia các chương

trình xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm…

Thứ tư, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống mang

tính pháp lý và bình đẳng với các đối tượng: Sử dụng đúng đắn quyền lực,

thực hiện đúng đắn chức năng và quyền hạn được trao khi thực hiện nhiệm

vụ. Đồng thời, chú trọng đến việc nâng cao uy tín chính trị, phẩm chất đạo

đức và năng lực trí tuệ của người thực thi công vụ. Phải kết hợp chặt chẽ yếu

tố thẩm quyền và uy quyền để để nâng cao được hiệu lực và hiệu quả hoạt

động của một nhà nước, của nhân dân và vì nhân dân phục vụ.

Thứ năm, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống chịu

sự tác động của các chủ thể trong hệ thống chính trị. Vì vậy, phải chịu sự

kiểm soát của các cơ quan dân cử, các nhóm lợi ích, dư luận quần chúng, các

cơ quan thông tin đại chúng và cử tri. Tất cả các hoạt động quản lý nhà nước

về làng nghề đều hướng tới mục tiêu phục vụ người dân, lấy đó làm xuất phát

điểm cho việc xây dựng hệ thống thể chế, chính sách.

18

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động quản lý nhà nƣớc về làng nghề

truyền thống

1.3.1 Yếu tố về thể chế

Thể chế hành chính nhà nước là hệ thống các quy định xác định mối

quan hệ hành chính giữa nhà nước với các đối tượng trong xã hội, hệ thống

quy định quản lý nội bộ cơ quan hành chính, thủ tục hành chính và tài phán

hành chính. Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để xác lập mức độ và

phạm vi can thiệp của nhà nước đối với các cơ sở sản xuất trong làng nghề

truyền thống; là căn cứ để thiết lập nên bộ máy hành chính nhà nước đối với

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, là căn cứ để xây dựng

đội ngũ nhân sự trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống và là cơ sở để điều chỉnh, sử dụng các nguồn lực của xã hội trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề. Vì vậy, thể chế hoá của nhà nước

về các mặt tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, ngân sách... phù hợp hay không

phù hợp với kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống.

1.3.2 Yếu tố về chính sách

Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển làng nghề, trong đó yếu tố

chính sách đóng vai trò quan trọng. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội

quốc gia, vùng, ngành, địa phương, lãnh thổ, loại hình doanh nghiệp… đều

tác động đến mục tiêu, nội dung và phương thức quản lý của nhà nước đối với

làng nghề truyền thống. Quá trình hội nhập và phát triển đòi hỏi cùng với quá

trình đổi mới chính sách. Hệ thống các chính sách của nhà nước tác động rất

lớn và quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và làng nghề

truyền thống nói riêng. Nhà nước thông qua việc xây dựng và ban hành chính

sách, pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hộ và các

doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ về vật chất để tăng cường năng lực của các cơ

sở, doanh nghiệp, hộ gia đình trong việc sản xuất kinh doanh tại làng nghề.

19

1.3.3. Yếu tố về văn hóa truyền thống, phong tục tập quán

Yếu tố truyền thống có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với sự phát

triển làng nghề. Các nghệ nhân là những người có tay nghề cao trong các làng

nghề, là hạt nhân để bảo tồn duy trì và phát triển làng nghề. Những luật, quy

định, tập quán của các làng nghề đã tạo ra những phong cách riêng về đạo đức

nghề nghiệp, tạo nên nét độc đáo để phát triển sản phẩm làng nghề và là các

yếu tố quan trọng để phát triển làng nghề. Tuy nhiên, bên cạnh việc gìn giữ

những yếu tố truyền thống, các làng nghề truyền thống phải biết tiếp thu

những yếu tố mới, thị trường hội nhập, loại bỏ những quy ước, tập tục lạc

hậu… để các sản phẩm làng nghề luôn giữ được yếu tố truyền thống kết tinh

trong sản phẩm và phải đáp ứng được thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng.

1.3.4. Yếu tố về cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để làng nghề phát triển. Các làng

nghề chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có hệ thống kết cấu hạ tầng đảm

bảo và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng bao gồm: Hệ thống giao thông vận tải, thông

tin liên lạc, điện, nước… Hiện nay, trong quá trình hội nhập, cạnh tranh gay

gắt, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng khắp, nguồn nguyên liệu không sẵn có

tại làng nghề nên nhu cầu về hệ thống giao thông vận tải rất quan trọng; hệ

thống giao thông vận tải tốt rất thuận lợi trong việc vận chuyển nguyên liệu,

tạo điều kiện mở rộng thị trường…

Vì vậy, ở những nơi có cơ sở hạ tầng đầy đủ và đồng bộ thì các làng

nghề truyền thống có điều kiện phát triển mạnh. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn

các làng nghề truyền thống còn đang gặp rất nhiều khó khăn vì điều kiện cơ

sở hạ tầng còn yếu kém và chưa đồng bộ.

1.3.5. Yếu tố về nguồn lực

Nghệ nhân: Là những người giỏi nghề nhờ quá trình tích luỹ kinh

nghiệm và rèn luyện tay nghề. Nghệ nhân của các làng nghề làm chủ những

công nghệ sản xuất tinh xảo, đạt tới mức nghệ thuật cao. Nghệ nhân làng nghề

20

truyền thống không chỉ là những người nắm giữ những bí quyết riêng trong

việc sáng tạo những sản phẩm độc đáo, tinh tế, nghệ nhân còn là người giữ

nghề, bảo đảm cho làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển. Nhờ có tài

năng và những bí quyết riêng rất đặc biệt như vậy nên nhiều nghệ nhân làng

nghề truyền thống tạo ra những mặt hàng chất lượng cao và độc đáo mà

không nơi nào khác có thể sản xuất được. Tuy nhiên, hiện nay các nghệ nhân

tại các làng nghề truyền thống tuổi đều cao, nhà nước chưa có chính sách tôn

vinh, khuyến khích và tạo điều kiện để các nghệ nhân đào tạo đội ngũ kế cận

cho các làng nghề truyền thống.

Nguồn lực về vốn: Đa phần các cơ sở sản xuất trong làng nghề là qui

mô hộ gia đình và trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó

khăn nên khả năng tích lũy vốn của các chủ cơ sở là rất thấp, rất khó khăn

trong việc đảm bảo nguồn vốn. Các làng nghề muốn mở rộng sản xuất, đầu tư

trang thiết bị mới, mở rộng thị trường… đều phải cần có vốn. Việc đầu tư vốn

phụ thuộc vào quy mô sản xuất, đặc điểm sản xuất của từng sản phẩm. Ngày

nay, các sản phẩm làng nghề muốn cạnh trạnh trên thị trường đòi hỏi cần phải

chuyên môn hóa trong tất cả các hoạt động sản xuất, vì vậy nhu cầu về vốn rất

lớn.

Nguồn nhân lực: Đa số làng nghề sản xuất sản phẩm mang tính truyền

thống do vậy mà lao động trong làng nghề được đào tạo cũng theo lối truyền

thống. Những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề là những người

truyền nghề, dạy nghề. Các làng nghề hiện tại đa phần lao động là những

người đứng tuổi đã theo đuổi nghề từ lâu; những lao động trẻ phần lớn có tâm

lý không muốn theo đuổi nghề. Ngày nay, việc phát triển sản xuất theo công

nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập, thị trường cạnh tranh đòi hỏi chất lượng

nguồn nhân lực cao. Các chủ cơ sở sản xuất tại các làng nghề đòi hỏi ngoài

kinh nghiệm quản lý còn cần phải nghệ thuật quản lý, tinh thông, phải am

hiểu tất cả các kiến thức về kinh tế, xã hội, lực lượng lao động tại các làng

21

nghề phải thể hiện tính chuyên môn hóa cao… nhằm đáp ứng nhu cầu của

tình hình mới.

Thị trường tiêu thụ: Phần lớn trước đây, sản xuất tại các làng nghề còn

mang nặng tính chất tự cung, tự cấp do sự hạn chế về khả năng tiếp cận thông

tin với thị trường bên ngoài; đây là một trong những nguyên nhân làm hạn

chế khả năng cung cầu trên thị trường đối với các sản phẩm làng nghề; cản trở

các hoạt động tiếp nhận, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công

nghệ mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống.

Nếu không nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường, về thị hiếu của người

tiêu dùng, về bản sắc dân tộc và văn hóa đặc trưng riêng của thị trường các

vùng miền, các nước… thì các làng nghề khó mà chủ động trong sản xuất,

ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ của các sản phẩm

làng nghề truyền thống.

1.3.6. Yếu tố xã hội hóa và hội nhập quốc tế

Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về

nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn

hóa... phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là một xu thế lâu dài và

mang tính quy luật. Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của

nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại nhà nước thường xuyên

tìm kiếm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các dịch vụ công,

đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.

Hội nhập quốc tế vừa tạo cơ hội mới vừa đặt ra những thách thức

không nhỏ đối với sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống.

- Những cơ hội mới chủ yếu cho làng nghề truyền thống của Việt Nam

do hội nhập quốc tế tạo ra bao gồm:

22

Mở rộng thị trường xuất khẩu cho các làng nghề truyền thống, tạo ra cơ

hội lớn trong giao lưu kinh tế văn hoá giữa các làng nghề truyền thống của

các địa phương với các nước trên thế giới.

Giúp làng nghề truyền thống khắc phục hạn chế về không gian, thời

gian và những khó khăn trở ngại khác trong tiếp cận thị trường thế giới, là cơ

hội để làng nghề truyền thống tìm kiếm cơ hội kinh doanh và mở rộng kinh

doanh.

Hội nhập quốc tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút

vốn, công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát

triển nhân lực thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ trong quá

trình hội nhập…

- Những thách thức chính đối với các làng nghề truyền thống trong hội

nhập quốc tế, gồm:

Thị trường thế giới luôn biến động khó lường, không ổn định, hậu quả

của khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu có tác động làm giảm sức mua

nói chung của thị trường, gây tác động tiêu cực rất lớn tới các chủ thể sản

xuất kinh doanh các sản phẩm mang đậm nét văn hóa như các mặt hàng của

làng nghề truyền thống.

Quá trình hội nhập đòi hỏi cán bộ quản lý nhà nước về làng nghề và các

doanh nghiệp phải năng động, chuyên nghiệp, nhạy bén và có nguồn nhân lực

cao. Hội nhập sẽ là cơ hội để tăng lượng khách du lịch đến Việt Nam là thị

trường tiềm năng của các sản phẩm làng nghề truyền thống, vì đa phần các

khách du lịch đều muốn mua những sản phẩm có tính đặc trưng, đậm nét văn

hóa bản địa.

23

1.4. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nƣớc về làng nghề truyền thống

1.4.1. Chủ thể quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Chủ thể quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về làng nghề

nói riêng là nhà nước và được nhà nước giao cho các tổ chức, cơ quan nhà

nước như sau:

Ở Trung ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý

cho các Bộ quản lý như sau:

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm quản lý nhà

nước đối với các ngành nghề nông thôn.

- Bộ Công thương chịu trách nhiệm quản lý doanh nghiệp ở nông thôn,

triển khai chính sách khuyến công, xúc tiến thương mại, quản lý các khu, cụm

công nghiệp làng nghề, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực

hiện công tác bảo vệ môi trường, đáp ứng việc di dời các cơ sở sản xuất trong

làng nghề.

- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm xây dựng và ban hành

văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,

quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đối với làng nghề; hướng dẫn, kiểm tra việc

thực hiện các hồ sơ, thủ tục về môi trường; theo dõi và xác định các làng nghề

ô nhiễm và đề xuất phương án xử lý; tổ chức thu phí về bảo vệ môi trường;

kiểm tra, giám sát tình hình tuân thủ các quy định của pháp luật và xử lý vi

phạm về bảo vệ môi trường tại làng nghề; nghiên cứu, ứng dụng và phổ biến

công nghệ xử lý môi trường phù hợp với làng nghề.

- Bộ Công an có trách nhiệm điều tra, phát hiện, xử lý nghiêm, kịp thời

các hành vi tội phạm về bảo vệ môi trường tại các làng nghề.

- Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm quản lý các công nghệ sản

xuất nhằm đưa các công nghệ mới ứng dụng trong sản xuất để tăng năng suất

và chất lượng sản phẩm; hạn chế việc đưa công nghệ cũ, lạc hậu vào làng

24

nghề và khu vực dân cư nông thôn gây ô nhiễm môi trường (sản phẩm làm ra

vẫn phải đảm bảo các yếu tố truyền thống).

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm về bảo tồn, phát huy,

phát triển các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó

có các giá trị văn hóa của sản phẩm làng nghề truyền thống.

Ở địa phương, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh thống nhất quản lý,

chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc quy hoạch, phát triển làng nghề,

quản lý các làng, khu, cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh; bố trí

nguồn lực cần thiết và chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai các nhiệm vụ về quản

lý phát triển làng nghề của UBND cấp huyện. UBND cấp huyện hướng dẫn,

kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với làng nghề của các UBND cấp xã.

Tại các xã, phường và thị trấn có làng nghề có trách nhiệm tuyên truyền, phổ

biến, hướng dẫn và giám sát các cơ sở sản xuất tại các làng nghề trong tổ

chức hoạt động sản xuất và tuân thủ các quy định của phát luật (UBND các

cấp giao quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan

tham mưu trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề

truyền thống).

Đối tượng chịu sự quản lý đối với các làng nghề truyền thống là các cơ

sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống.

1.4.2. Nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bao gồm các nội

dung chính như sau:

* Hoạt động ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn

bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường trong hoạt động

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Để quản lý các làng nghề truyền thống nhà nước cần ban hành và chỉ

đạo thực hiện các luật, chính sách theo đúng chức năng và thẩm quyền đối với

từng cấp. Nhà nước tại các địa phương cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện các

25

văn bản cấp trên có hiệu quả và ban hành các văn bản nhằm hướng dẫn, tổ

chức thực hiện và cụ thể hóa các văn bản cấp trên. Việc ban hành các văn bản

của địa phương phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của địa phương và không

được trái với các văn bản của cấp trên.

Việc ban hành văn bản nhằm tạo điều kiện cho các làng nghề truyền

thống phát triển một cách thuận tiện, mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thu

nhập cho những người lao động tại làng nghề. Bên cạnh đó, nhà nước cũng

thực hiện việc chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện các văn bản tới các đối

tượng chịu ảnh hưởng. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật buộc

phải có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành có liên quan và cả những

chủ thể thực thi văn bản.

Trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, nhà nước

phải có trách nhiệm cung cấp và thông tin kịp thời đến các cơ sở của làng

nghề về những thông tin cần thiết và liên quan đến hoạt động phát triển làng

nghề truyền thống.

* Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

về làng nghề truyền thống

Trong các quy định của Nhà nước có quy định rất cụ thể về bộ máy tổ

chức quản lý nhà nước tại địa phương về các lĩnh vực khác nhau trong đó có

lĩnh vực làng nghề, làng nghề truyền thống. Bộ máy này được quản lý từ

UBND cấp tỉnh, giao quyền quản lý cho các sở, ban, ngành cấp tỉnh tới các

phòng chuyên môn cấp huyện và chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cấp

huyện. Cơ quan chuyên môn cấp huyện chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức,

biên chế, công tác của UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra

chuyên môn nghiệp vụ của sở, ban, ngành cấp tỉnh và dưới cùng là UBND

cấp xã. Bên cạnh đó, còn có một số cơ quan liên quan tham gia phối hợp

trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại địa

phương từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã.

26

* Nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

về làng nghề truyền thống

Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống rất cần đội ngũ cán bộ có

trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo hoạt động thực thi công vụ. Nhà

nước cần quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống. Nếu tuyển dụng, đào

tạo không đáp ứng được nhu cầu thực tế thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu

công việc của địa phương. Đồng thời, việc bồi dưỡng, đào tạo các chủ doanh

nghiệp làng nghề ở nông thôn về các kiến thức về kinh tế thị trường, về pháp

luật trọng kinh doanh là rất cấp bách nhằm đảm bảo và nâng cao hơn nữa hiệu

quả trong kinh doanh, để kinh doanh đúng pháp luật.

* Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền

thống

Chính sách công trong quản lý nhà nước về làng nghề là hệ thống các

chính sách có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, như: Chính sách về đầu tư, tín

dụng; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng; chính sách về môi trường; chính sách

về khoa học và công nghệ... Môi trường kinh doanh của các làng nghề truyền

thống liên quan đến toàn bộ yếu tố kinh tế, xã hội, tự nhiên tác động đến hoạt

động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Vì vậy, chính sách

phát triển làng nghề truyền thống là tổng hợp của nhiều chính sách kinh tế xã

hội.

Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

nhằm định hướng và điều tiết hoạt động của làng nghề, kích thích sự phát

triển làng nghề, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi để phát triển

làng nghề. Chính sách phát triển làng nghề truyền thống thường do Chính

phủ, Bộ ngành Trung ương quyết định như các Nghị định của Chính phủ,

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Quyết định của Bộ ngành.

27

Đồng thời, các địa phương căn cứ vào chính sách cấp trên và thực trạng của

mình để ban hành các chính sách phù hợp.

Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

là tập hợp tất cả những chủ trương và hành động của nhà nước nhằm tạo cơ

chế cho các làng nghề truyền thống hoạt động và phát triển bằng việc tác

động nhằm khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu tiềm

năng, thế mạnh của địa phương trong việc phát triển làng nghề truyền thống

theo mục tiêu đã đề ra.

Xây dựng và thực hiện chính sách giúp cho các hộ tham gia sản xuất

làng nghề thấy được định hướng, mục tiêu phát triển, lĩnh vực phát triển các

ngành nghề của địa phương từ đó có hướng phát triển. Tuy nhiên, chính sách

đó có thật sự có hiệu quả cần phải nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế xã

hội của các địa phương, phù hợp với địa phương và phải được cụ thể hóa và

mang tính đồng bộ.

* Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền

thống

Trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, hoạt

động thanh tra và kiểm tra có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy các làng nghề

phát triển.

Thanh tra không chỉ có ý nghĩa quan trọng mà còn là một nhu cầu tất

yếu trong quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống nói riêng. Mục đích của hoạt động thanh tra nhằm

phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với

cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện

và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, các nhân thực hiện

đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao

hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

28

Kiểm tra thì cho đến nay nhà nước ta chưa có văn bản quy phạm pháp

luật có định nghĩa cụ thể về kiểm tra những trên phương diện lý luận thực tiễn

thì kiểm tra là khái niệm rộng thể hiện ở nhiều góc độ như:

+ Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của

chính mình. Qua kiểm tra các cơ quan, tổ chức đánh giá đúng mực việc làm

của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp

theo một cách hợp lý hơn. Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem

xét, nhìn lại việc làm của chính mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực

hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn.

+ Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với

cấp dưới của mình nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã

thực hiện. Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc,

vì thế cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các

biện pháp như: biểu dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện

pháp cưỡng chế để xử lý đối với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi

phạm pháp luật.

Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra đối làng nghề truyền

thống được thể hiện thông qua các hình thức như: cơ quan nhà nước tổ chức

thanh, kiểm tra đối với các làng truyền thống trong việc chấp hành các quy

định của nhà nước về quy hoạch sản xuất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm

trong quá trình sản xuất, kinh doanh; đảm bảo vệ sinh môi trường trong hoạt

động sản xuất, kinh doanh, hướng dẫn cơ sở sản xuất về phương hướng hoạt

động và tuân thủ các văn bản quy định của cấp trên…

Việc thanh tra, kiểm tra, các hoạt động của các làng nghề truyền thống

cần được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất tùy thuộc vào đối tượng và yêu cầu

thực tế nhằm phát hiện những sai sót và kịp thời xử lý những vi phạm tại các

cơ sở sản xuất kinh doanh nếu có.

29

* Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Nhà nước với một ngân sách eo hẹp và những nhu cầu lớn về nhiều loại

dịch vụ tối cần thiết khác cần được bảo đảm thì không thể bao cấp cho mọi

loại dịch vụ, sản phẩm, nhu cầu thiết yếu của người dân, cho dù có thu phí

dịch vụ. Trước những mâu thuẫn ngày càng gay gắt trong quan hệ cung cấp

dịch vụ công, nhiều chính phủ đã tiến hành xã hội hóa các dịch vụ này.

Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về

nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn

hóa... phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là một xu thế lâu dài và

mang tính quy luật. Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của

nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại nhà nước thường xuyên

tìm kiếm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các dịch vụ công,

đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.

Thực hiện xã hội hóa hoạt động quản lý và phát triển làng nghề truyền

thống là giải pháp quan trọng để thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển

một cách bền vững. Xã hội hóa trong hoạt động quản lý làng nghề truyền

thống tập trung vào các dịch vụ như xã hội hóa trong dịch vụ đào tạo, xã hội

hóa trong dịch vụ quản lý môi trường tại các làng nghề truyền thống, xã hội

hóa trong việc kêu gọi người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng tại các làng

nghề truyền thống... và sự tham gia hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong

hoạt động quản lý, phát triển làng nghề truyền thống.

30

1.5. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một

số địa phƣơng và bài học kinh nghiệm cho huyện Quỳnh Phụ

1.5.1. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của

một số địa phương

* Kinh nghiệm của thành phố Huế

Vùng đất Thừa Thiên Huế qua thống kê có hơn 200 làng nghề thủ công

truyền thống. Hiện tại, số nghề và làng nghề truyền thống ở Thừa Thiên Huế

đang hoạt động là 88 làng nghề, trong đó có 69 làng nghề truyền thống.

Những nghề tiêu biểu như: mộc gia dụng, mộc mỹ nghệ, đúc đồng, mây tre

đan, thêu, dệt thổ cẩm, nón lá, may áo dài, sản xuất vật liệu xây dựng, bún

bánh, chế biến nông sản thực phẩm truyền thống cùng nhiều khác đã được

khôi phục tại các địa phương. Bên cạnh đó, có một số nghề mới được du nhập

như đan sợi nhựa, sợi mây xuất khẩu, thêu hàng, mây tre xiên, thêu móc,

composit mỹ nghệ, chế biến cau khô xuất khẩu…

Một số nghề và làng nghề truyền thống phát triển mạnh vừa cung cấp

sản phẩm cho đời sống xã hội, vừa đang thu hút các khách du lịch đến du lịch,

góp phần tạo nên những giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc và đặc trưng của

vùng đất cố đô. Một số làng nghề cũng mạnh dạn đầu tư, tăng năng lực sản

xuất, chú ý đến thương hiệu và chất lượng sản phẩm, một số cơ sở sản xuất

trong làng nghề truyền thống đã di dời vào cụm làng nghề tập trung để thuận

lợi cho việc liên kết, hợp tác, tăng năng lực cạnh tranh trong xu thế hội nhập.

Ngoài ra, thông qua chương trình khuyến công, nhiều nghề và làng

nghề truyền thống ở Huế gắn với du lịch được đầu tư khôi phục, phát triển

như: Nghề may áo dài truyền thống Huế, nghề làm nón lá, kẹo mè xửng…

Sự phát triển nghề và làng nghề truyền thống ở Huế góp phần tăng thu

nhập cho dân cư nông thôn, ổn định cuộc sống; góp phần chuyển dịch cơ cấu

lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới; góp phần tăng

kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của tỉnh.

31

Nâng cao đời sống người dân ở vùng có làng nghề truyền thống lên từ 3-5 lần.

Các loại hình dịch vụ cùng hoạt động du lịch đã đóng góp 48% - 49% GDP

địa phương, đồng thời góp phần thu hút lượng khách đến Thừa Thiên Huế

hàng năm từ 2,5 -3 triệu lượt, trong đó gần 1 triệu lượt là khách nước ngoài.

* Kinh nghiệm của huyện Hải Hậu, Nam Định

“Xây dựng, phát triển các làng nghề” là một trong 6 đề án phát triển

kinh tế - xã hội đã được BCH Đảng bộ huyện Hải Hậu nhiệm kỳ 2010-2015

ban hành, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhằm thúc đẩy kinh tế nông

thôn phát triển, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, hướng tới

mục tiêu xây dựng Hải Hậu trở thành huyện nông thôn mới... Mục tiêu là duy

trì, mở rộng sản xuất tại các làng nghề hiện có và xây dựng, phát triển thêm

các làng nghề mới. Phấn đấu đến năm 2015 mỗi xã, thị trấn trong huyện có ít

nhất một làng nghề, mỗi làng nghề có một loại sản phẩm đặc trưng, phát triển

ngành nghề theo thế mạnh của địa phương. Sau hơn 4 năm triển khai thực

hiện đề án, từ chỗ toàn huyện chỉ có 5 làng nghề, đến nay toàn huyện Hải Hậu

đã xây dựng và phát triển được thêm 35 làng nghề mới với đa dạng các ngành

nghề như: sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (mộc, dệt chiếu, kéo sợi

PE, chế biến lương thực, thực phẩm), sinh vật cảnh (trồng cây cảnh, trồng

hoa), trồng cây dược liệu và nuôi thủy sản. Nhiều làng nghề được duy trì, phát

triển ổn định, có số lao động và doanh thu làm nghề chính tăng dần theo các

năm như: nhóm nghề mộc mỹ nghệ tại các xã: Hải Minh, Hải Đường, Hải

Trung, Hải Vân; nghề cán kéo sợi PE ở Thị trấn Thịnh Long; nghề chế biến

lương thực, thực phẩm (sản xuất bánh kẹo) ở Thị trấn Yên Định… Những

làng nghề này có số lao động làm nghề chiếm từ 80-90% số lao động của

làng, doanh thu các năm đều đạt từ 15-20 tỷ đồng/năm; chiếm trên 80%

doanh thu của làng. Trên địa bàn huyện đã xây dựng thành công 2 làng nghề

nuôi trồng thủy sản tại các xã: Hải Chính, Hải Châu mới được công nhận

trong năm 2013 có số lao động và doanh thu đều đạt từ 85-90% tổng số lao

32

động, doanh thu của làng. Nhóm 20 làng nghề sinh vật cảnh tuy còn gặp khó

khăn ở khâu tiêu thụ sản phẩm nhưng nhìn chung vẫn có sự tăng trưởng, là

động lực quan trọng góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

cơ cấu lao động của nhiều địa phương. Tổng diện tích đất dành cho phát triển

kinh tế sinh vật cảnh toàn huyện đã tăng từ 374ha (năm 2009) lên trên 600ha

(năm 2015), doanh thu trên một đơn vị diện tích đạt trên 370 triệu

đồng/ha/năm. Các làng nghề mới được nhân cấy, xây dựng thành công trong

giai đoạn 2011-2015 không chỉ tạo việc làm, thu nhập ổn định cho trên 9.000

lao động nông thôn mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của nhiều địa phương, là “cú

hích” để huyện Hải Hậu thực hiện và hoàn thành thắng lợi các mục tiêu Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XXV. Đến nay, toàn huyện Hải Hậu có 40

làng nghề ở 30 xã, thị trấn; trong đó có 20 làng nghề sinh vật cảnh, 12 làng

nghề sản xuất CN-TTCN, 3 làng nghề nuôi trồng thủy sản, 3 làng nghề trồng

cây dược liệu và 2 làng nghề xây dựng. Trong đó có 1 xã có 5 làng nghề, 6 xã

có 2 làng nghề còn lại mỗi xã có 1 làng nghề. Số nghệ nhân được UBND

huyện công nhận là 24 nghệ nhân, trong đó có 6 nghệ nhân nghề mộc mỹ

nghệ, 18 nghệ nhân nghề sinh vật cảnh. Các làng nghề của huyện Hải Hậu thu

hút trên 10 nghìn lao động, đem lại việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho

lao động tại địa phương. Dự kiến hết năm 2015, bình quân thu nhập đầu

người của huyện đạt trên 30,1 triệu đồng/người/năm; tăng trên 12,1 triệu

đồng/người/năm so với năm 2011. Toàn huyện có 30% hộ dân đạt mức thu

nhập trên 50 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo (tiêu chí mới) giảm từ 11,2%

(năm 2011) xuống còn dưới 3% năm 2015. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế của huyện

đã có sự dịch chuyển tích cực, tỷ trọng ngành sản xuất CN-TTCN, dịch vụ

được nâng lên 40,4%; tỷ trọng ngành sản xuất nông nghiệp - thủy sản giảm

xuống còn 28,6%.

33

Để đạt được kết quả khả quan đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ, huyện Hải

Hậu đã thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng và phát triển làng nghề giai đoạn

2011-2015 với sự “vào cuộc” của cả hệ thống chính trị. Phòng Công thương

là đơn vị thường trực giúp UBND huyện xây dựng chương trình, hướng dẫn

các xã, thị trấn rà soát, lựa chọn địa điểm, ngành nghề, vùng nguyên liệu, thị

trường… xây dựng kế hoạch phát triển làng nghề phù hợp với điều kiện thực

tế tại địa phương theo hướng quy hoạch xây dựng NTM. Trên cơ sở đăng ký

của các xã, thị trấn phối hợp với Phòng LĐ-TB và XH, Trung tâm Khuyến

công quốc gia Khu vực I (Bộ Công thương), Trung tâm Khuyến công và Tư

vấn phát triển công nghiệp (Sở Công thương), Trung tâm Dạy nghề huyện hỗ

trợ dạy nghề, truyền nghề, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thực

tiễn sản xuất tại các làng nghề để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Trong 5 năm qua (2011-2015), huyện Hải Hậu đã tổ chức hàng trăm lớp đào

tạo nghề, dạy nghề cho trên 12 nghìn lao động; đa dạng hóa các hình thức

truyền nghề, chuyển giao kỹ thuật để đào tạo nghề mới cho 33 nghìn lao

động. Bên cạnh đó, để đảm bảo nguồn điện phục vụ sản xuất tại các làng

nghề, huyện đã chủ động kế hoạch với ngành điện triển khai tổ chức cải tạo,

nâng cấp 235 trạm biến áp, 272,2km dây trung thế, 1.314,8km dây hạ thế

trong hệ thống lưới điện các xã, thị trấn với tổng vốn đầu tư 285 tỷ đồng, bình

quân 8,1 tỷ đồng/xã, thị trấn. Tăng cường phối hợp với các ngành chức năng

tổ chức các hội chợ xúc tiến thương mại, tạo điều kiện tối đa cho các làng

nghề quảng bá hình ảnh, tiêu thụ sản phẩm góp phần ổn định và phát triển sản

xuất, kinh doanh. Phòng TN và MT có trách nhiệm hỗ trợ các cơ sở sản xuất

trong làng nghề các thủ tục thuê, chuyển nhượng mặt bằng, các biện pháp bảo

vệ môi trường. Phòng Tài chính và các ngân hàng NN và PTNT, CSXH…

tham mưu cho UBND huyện cơ chế hỗ trợ các xã, thị trấn về xây dựng làng

nghề, phát triển nghề mới theo quy định của Nhà nước, tạo điều kiện về

nguồn vốn cho các cơ sở, hộ gia đình trong các làng nghề được vay để phát

34

triển sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở đó, các xã, thị trấn trong huyện đã

thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng và phát triển làng nghề cấp xã, thị trấn. Căn

cứ vào thực tế và tiềm năng, thế mạnh của địa phương để xây dựng kế hoạch,

định hướng phát triển ngành nghề, tổ chức họp dân thông qua kế hoạch và

tham khảo ý kiến của dân về thời gian thực hiện, tiến độ và các tiêu chí của

làng nghề, thông qua quy chế hoạt động của làng nghề…

1.5.2. Bài học về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của

các địa phương mà huyện Quỳnh Phụ cần học tập

Từ những kinh nghiệm trong hoạt động quản lý và phát triển làng nghề

truyền thống nêu trên chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện

Quỳnh Phụ như sau:

Thứ nhất, để hạn chế tình trạng “ly hương” đang ngày càng diễn ra ở

hầu hết ở các làng quê trong cả nước, các địa phương đều có chiến lược phát

triển, khôi phục các làng nghề truyền thống, xem đây là nhiệm vụ quan trọng

để phát triển kinh tế địa phương.

Thứ hai, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững cần có sự

quan tâm, hỗ trợ của nhà nước thông qua việc ban hành các chính sách hỗ trợ,

khuyến khích các làng nghề truyền thống phát triển và phát huy sự nổ lực tự

vươn lên của những người lao động tại làng nghề truyền thống.

Thứ ba, cần phải xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề

truyền thống thông qua công tác quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu cho

các làng nghề truyền thống, điều này rất quan trọng, đây là cơ sở để duy trì

hoạt động sản xuất, kinh doanh của các làng nghề truyền thống.

Thứ tư, tăng cường công tác bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực quản lý

và lực lượng lao động tại các làng nghề truyền thống. Quan tâm và có chế độ

ưu đãi đối với nghệ nhân, thợ cả, thợ giỏi tại các làng nghề truyền thống, chú

trọng đào tạo thế hệ trẻ cho các lao động tại các làng nghề truyền thống.

35

Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các cơ

sở sản xuất tại các làng nghề phát triển bền vững; nhà nước quan tâm hỗ trợ

xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề truyền thống, tìm kiếm, mở

rộng thị trường cho sản phẩm làng nghề.

Thứ sáu, phải tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong

việc quản lý và phát triển các làng nghề truyền thống.

Thứ bảy, phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch.

36

Tiểu kết chƣơng 1

Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là yêu cầu tất yếu để khôi

phục và phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển kinh tế xã hội

của địa phương.

Hệ thống hóa các khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống và

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, đặc điểm của làng nghề truyền

thống và đặc điểm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống rất quan trọng,

là cơ sở lý luận để nắm vững hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền

thống, đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất giải pháp quản lý nhà nước

về làng nghề truyền thống.

Xác định chủ thể quản lý đối với làng nghề truyền thống: Ở Trung

ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý cho các Bộ, ngành

liên quan quản lý. Ở địa phương, UBND cấp tỉnh thống nhất quản lý và giao

quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan tham mưu

trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.

Nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bao gồm:

- Ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm

pháp luật,văn bản hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống;

- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

về làng nghề truyền thống;

- Nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

về làng nghề truyền thống;

- Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền

thống;

- Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền

thống;

- Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.

37

Để hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống có hiệu quả

cần phải nắm vững các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống; trên cơ sở đó, các chủ thể quản lý biết tận dụng

các yếu tố có lợi trong hoạt động quản lý và biết hạn chế đến mức thấp nhất

đối với các yếu tố bất lợi đối với hoạt động của làng nghề. Đồng thời, trong

hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần phải biết kế

thừa và học tập kinh nghiệm từ các mô hình quản lý có hiệu quả, đó là kinh

nghiệm trong quản lý về phát triển sản xuất, xúc tiến mại, nâng cao nguồn

lực, hoạt động thanh tra, kiểm đối với làng nghề truyền thống… nhằm để tổ

chức tốt hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống của địa

phương.

Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống và quản lý nhà

nước về làng nghề truyền thống là cơ sở để tìm ra các giải pháp tốt nhất trong

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.

38

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH

2.1. Khái quát về huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội

Quỳnh Phụ nằm ở phía đông bắc tỉnh Thái Bình có tọa độ địa lý từ

20030' đến 20045' độ vĩ Bắc và từ 106010'đến 106025' độ kinh Đông. Phía

bắc giáp tỉnh Hải Dương, với ranh giới là sông Luộc, phía Nam giáp huyện

Thái Thụy, Đông Hưng, phía Đông giáp Hải Phòng, phía Tây giáp huyện

Hưng Hà [25].

Toàn huyện có 38 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 2 thị trấn và 36 xã)

với tổng diện tích 20.961,4 ha chiếm 13,5% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh

Thái Bình.

Thị trấn huyện lỵ Quỳnh Côi là một trong những trung tâm kinh tế

hành chính sầm uất, lâu đời của cùng đồng bằng sông Hồng, cách trung tâm

thành phố Thái Bình 25km [27].

Là cửa ngõ nối Thái Bình với các vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải

Dương- Hải Phòng- Quảng Ninh nên rất thuận lợi cho việc giao lưu phát triển

kinh tế. Với vị trí khá thuận lợi này, huyện Quỳnh Phụ có thị trường lớn là

các đô thị lớn trong vùng và xuất khẩu, có cơ hội tiếp thu các thành tựu khoa

học kỹ thuật, thu hút vốn đầu tư cho phát triển các ngành kinh tế- xã hội của

huyện.

Địa hình đất đai của Quỳnh Phụ tương đối bằng phẳng, đồng ruộng

thấp cao xen kẽ kiểu bát úp, có độ dốc nghiêng từ Tây sang Đông, từ Bắc

xuống Nam (giống địa hình toàn tỉnh); giữa huyện tạo thành lòng chảo, chiếm

62,5% diện tích toàn huyện có độ cao từ 1-2m trên mực nước biển, nơi cao

nhất 3m như (xã Quỳnh Ngọc) nơi thấp nhất là Chiều Trắng, Chiều Ruồi

39

thuộc thôn Lường Cả xã An Vinh cao hơn 0,4m, Cầu Vồng xã An Ninh cao

hơn 0,5-0,6m so với mực nước biển. Trong từng khu vực cũng có độ chia cắt

hình thành những tiểu vùng khác nhau về độ cao, thấp, tạo lên những hạn chế

nhất định về phát triển vùng thâm canh tăng vụ, bố trí cây trồng và hệ thống

thủy lợi [25].

Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đặc điểm chung mùa hạ

nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông sương giá buốt. Nhiệt độ trung bình trong năm

từ 23-240C; bức xạ mặt trời lớn với tổng mức bức xạ trên 100kca/cm2 /năm,

số giờ nắng trung bình từ 1.600-1.800 giờ/1năm. Lượng mưa trung bình hàng

năm dao động từ 1.500-1.900mm, độ ẩm tương đối từ 80-90%.

Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có mạng lưới sông dày đặc, phân bố

thích hợp cho tưới tiêu tự chảy: Hệ thống sông Luộc, sông Hóa dài 36km

chảy qua phía Bắc và phía Tây của huyện dẫn nước vào các sông nội đồng.

Sông Yên Lộng tưới cho 8.238ha (tự chảy 1.000ha) Sông Sành, sông Diêm

Hộ, sông Cô dài 83km cung cấp và tưới tiêu thoát nước cho cả huyện. Hệ

thống cống dưới đê từ Lý Xá đến Láng Láy lấy nước sông Hóa tưới cho

4.500ha. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có các sông ngòi khác với mật độ

lớn và nhiều hồ, đầm [25].

Với 2 trục đường chính thông thương với các tỉnh bạn, Quỳnh Phụ là

huyện có vị trí chiến lược của tỉnh Thái Bình. Phía Tây bắc, dọc theo tỉnh lộ

396B, qua cầu Hiệp là tỉnh Hải Dương. Phía Đông bắc, theo quốc lộ 10, qua

cầu Nghìn là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Phải chăng vì vị thế

quan trọng đó mà Quỳnh Phụ là đất có cư dân sinh sống lâu đời nhất và Thị

trấn huyện lỵ Quỳnh Côi được thành lập và công nhận là thị trấn sớm nhất của

tỉnh Thái Bình. Với thế sông nước ở phía bắc, đất đai trải rộng về phía biển,

Quỳnh Phụ trở thành bàn đạp để con người tiến ra biển Đông.

Huyện Quỳnh Phụ ngày nay được hợp nhất từ hai huyện Quỳnh Côi và

Phụ Dực năm 1969. Đầu thời Trần đất này thuộc huyện A Côi và Đa Dực,

40

thuộc lộ An Tiêm. Trước đó, từ khoảng 500 năm trước công nguyên, căn cứ

theo những di vật tìm được, các nhà khoa học khẳng định con người đã tụ cư

đông đúc ở đây và một vùng thuộc huyện Hưng Hà ngày nay. Lịch sử hơn

2000 năm đã khắc ghi nơi đây là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, truyền

thống lao động sản xuất và truyền thống cách mạng. Thời phong kiến mảnh

đất nhỏ bé này đã có 23 người con thi đỗ tiến sỹ. Nghệ thuật Chèo và Múa

kéo hội cổ truyền còn được lưu giữ đến ngày nay. Trong 2 cuộc kháng chiến

gần đây Quỳnh Phụ có hơn 7 nghìn liệt sỹ, 4 nghìn thương bệnh binh. Hiện

nay có 30,5 nghìn người hưởng các chế độ, chính sách nhà nước. Quỳnh Phụ

đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ

trang nhân dân.

Tóm lại, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình là một huyện thuộc Đồng

bằng Bắc bộ với địa hình bằng phẳng, khí hậu nhiệt đới gió mùa mưa nhiều,

độ ẩm cao, đất đai màu mỡ phì nhiêu nên thích hợp để trồng cây nông nghiệp

phục vụ nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất của các làng nghề. Do

giáp ranh với các vùng kinh tế phát triển của đất nước nên dân cư đông đúc và

trình độ dân trí cao. Điều này rất thuận lợi cho phát triển ngành nghề thủ công

truyền thống cũng như quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tại đây.

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế của huyện

Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền huyện Quỳnh Phụ đã tập trung

lãnh đạo, ban hành nhiều nghị quyết, đề án phù hợp với tình hình thực tế để

phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm, nâng cao chất lượng đời sống nhân

dân, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Với quyết tâm chính trị cao, nỗ

lực thực hiện, Đảng bộ, chính quyền huyện Quỳnh Phụ xác định: Để nâng cao

đời sống của người dân, cần phải tập trung phát triển kinh tế gắn với xây dựng

nông thôn mới. Trong đó chú trọng phát triển nông nghiệp hàng hóa. Tuy

nhiên, để tạo đột phá cần đổi mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa

các giống mới có năng suất cao và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

41

sản xuất. Cùng với đó, ban hành các cơ chế hỗ trợ sản xuất. Nhờ đó, cơ cấu

giống và phương pháp gieo cấy chuyển biến tích cực theo hướng tăng diện

tích gieo vãi, gieo sạ hàng, lúa ngắn ngày và lúa chất lượng cao như BC15,

TBR1, TBR45, N87… Năm 2016, vụ đông tiếp tục được quan tâm chỉ đạo

mở rộng nhiều loại cây trồng cho giá trị kinh tế cao, trở thành vụ sản xuất

chính trong năm, diện tích gieo trồng đạt 11.700ha. Nhiều xã phủ kín 70 -

90% diện tích như: Quỳnh Minh, Quỳnh Hải, Quỳnh Hội, Quỳnh Hoàng,

Quỳnh Ngọc, An Ấp, An Đồng, An Khê... Hàng nghìn hộ gia đình nông dân

đã có cuộc sống khá giả. Toàn huyện hiện có trên 1.500 gia trại, 206 trang

trại. Nhiều địa phương có phong trào chăn nuôi tập trung phát triển về quy mô

và quy thành vùng sản xuất hàng hóa, như vùng nuôi lợn nái ngoại xã Quỳnh

Minh, Quỳnh Hoa, An Tràng, Quỳnh Hội; vùng nuôi gia cầm xã Quỳnh Sơn,

Quỳnh Khê, Quỳnh Châu; vùng nuôi trồng thủy sản xã An Thanh, An Mỹ, An

Ninh. Hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại,

dịch vụ và xây dựng có chuyển biến tích cực. Các lĩnh vực sản xuất hoạt động

ổn định, nhất là chế biến lương thực, thực phẩm, giày da. Các làng nghề hoạt

động hiệu quả, giải quyết việc làm thường xuyên cho hàng nghìn lao động,

với thu nhập từ 3,5 - 5 triệu đồng/người/tháng. Cùng với đó Quỳnh Phụ tiếp

tục tranh thủ có hiệu quả sự đầu tư của Đảng và Nhà nước thông qua các

chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống kênh mương

thủy lợi nội đồng, các tuyến đường giao thông liên huyện, liên xã, mạng lưới

trường học, trạm y tế, chợ… tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân từng bước

vươn lên phát triển kinh tế - xã hội.

2.2. Thực trạng các làng nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ

2.2.1. Khái quát về làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

Hiện tại, huyện Quỳnh Phụ có 33 làng nghề truyền thống, thu hút trên

23.000 lao động, với thu nhập từ 3-5 triệu đồng/người/tháng. Sản xuất ở các

làng nghề huyện Quỳnh Phụ phát triển không những giải quyết việc làm tại

42

chỗ, nâng cao thu nhập cho người lao động mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế

- xã hội, tạo diện mạo mới cho các làng quê.

Bảng 2.2.1: Danh sách các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

STT TÊN LÀNG NGHỀ ĐỊA BÀN XÃ

SẢN PHẨM

THỰC

TRẠNG

Làng An Dục An Dục Dệt chiếu cói Hoạt động yếu 1

Làng An Tràng An Tràng Dệt chiếu cói Hoạt động yếu 2

Làng Cổ Tiết An Vinh Vàng mã Hoạt động BT 3

Làng Vọng Lỗ An Vũ Dệt chiếu cói Hoạt động BT 4

Làng Đại Điền An Vũ Dệt chiếu cói Hoạt động BT 5

Làng Vũ Hạ An Vũ Dệt chiếu cói Hoạt động BT 6

Làng Tô Đê An Mỹ Chế biến LT Hoạt động BT 7

Làng Tô Hồ An Mỹ Chế biến LT Hoạt động BT 8

Làng Dụ Đại Đông Hải Chế biến LT Hoạt động BT 9

Làng Nguyên Xá An Hiệp Khâu nón Hoạt động BT 10

Làng Lam Cầu An Hiệp Dệt chiếu cói Hoạt động BT 11

Làng Phong Xá TT. An Bài Xây dựng Hoạt động yếu 12

Làng Cầu Nghìn TT. An Bài VL Xây dựng Hoạt động yếu 13

Làng Nguyên Xá Quỳnh Hội May xuất khẩu Hoạt động BT 14

Làng Phụng Công Quỳnh Hội May xuất khẩu Hoạt động BT 15

Làng Châu Tiến Quỳnh Mỹ Đan tre Hoạt động BT 16

Làng Đông Lễ Văn An Đồng Gỗ Mỹ nghệ Hoạt động BT 17

Làng Tây Lễ Văn An Đồng Gỗ Mỹ nghệ Hoạt động BT 18

Làng Đào Xá An Đồng Mây tre đan Hoạt động BT 19

Làng An Phú Quỳnh Hải Mây tre đan Hoạt động yếu 20

Làng Lộng Khê An Khê Xây dựng Hoạt động yếu 21

Làng Cẩn Du Quỳnh Sơn Lưỡi câu, mi Hoạt động BT 22

giả

43

23 Làng Đồn Xá Quỳnh Hồng Mây tre đan Hoạt động yếu

24 Làng Bương Hạ Quỳnh Ngọc Đệm ghế cói Hoạt động yếu

25 Làng Bến Hiệp Quỳnh Giao Cơ khí Hoạt động yếu

26 Làng Đồng Phúc An Lễ Dệt chiếu cói Hoạt động yếu

27 Làng Đào Động An Lễ Xe đay Hoạt động yếu

28 Làng Đồng Bằng An Lễ Dệt chiếu cói Hoạt động yếu

29 Làng Hưng Hòa An Lễ Xe đay Hoạt động yếu

30 Làng Ngọc Minh Quỳnh Hoàng Đan tre Hoạt động BT

31 Làng Phục Lễ Quỳnh Châu May xuất khẩu Hoạt động BT

32 Làng Đông Trụ Quỳnh Minh May xuất khẩu Hoạt động BT

33 Làng Đò Neo Đồng Tiến Chế biến LT Hoạt động BT

* Về lao động

Diện tích đất canh tác nông nghiệp bình quân đầu người tại các làng

nghề thấp và ngày càng bị thu hẹp nên lực lượng lao động dư thừa để đưa vào

hoạt động ngành nghề rất lớn, đó cũng là yêu cầu bức xúc buộc người dân

trong các làng nghề phải duy trì và phát triển nghề truyền thống của mình

đảm bảo cuộc sống ở mức ổn định. Việc sử dụng lao động tại các làng nghề là

triệt để, khi sản xuất càng phát triển thì còn thu hút một lực lượng lớn lao

động tại các vùng lân cận. Thu nhập của người lao động tại các làng nghề

tăng so với lao động thuần nông (tỷ trọng bình quân chiếm từ 40% - 70% tổng

thu nhập). Hiện tại lao động được sử dụng tại các làng nghề mang tính đa

dạng, lao động trực tiếp làm theo phương pháp thủ công, gia truyền. Việc

quản lý sản xuất còn theo kinh nghiệm, trình độ văn hoá của người lao động

tương đối thấp. Trình độ tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại chậm, tri thức

quản lý không có do vậy nhiều khi dẫn đến sản xuất kinh doanh thua lỗ hoặc

thậm chí có hộ bị phá sản. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh biết rằng yếu

tố con người có vai trò quyết định, song thực tế hiện nay cho thấy hầu hết

44

trình độ sản xuất kinh doanh của lực lượng lao động tại các làng nghề là được

đào tạo theo sự kèm cặp tại chỗ, người đi trước chỉ người đi sau, không được

đào tạo cơ bản do vậy khi chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại

hóa công nghệ sản xuất đã gặp không ít khó khăn, nhiều hộ do quá kém về

năng lực và trình độ hiểu biết đã dẫn tới việc mua phải những thiết bị không

đủ chất lượng hoạt động, công suất hoạt động thấp, chất lượng sản phẩm

không cao, trong quá trình sản xuất liên tục phải sửa chữa nên dẫn đến thua lỗ

rất nhiều trong sản xuất kinh doanh.

* Về nguồn vốn.

Thực tế ở nước ta và cụ thể là Quỳnh Phụ, Thái Bình cho thấy kinh tế

làng nghề chiếm vị trí không nhỏ trong sự phát triển kinh tế chung, kinh tế

làng nghề phát triển mạnh không chỉ về sức tiêu thụ sản phẩm mà cả về vốn

lẫn hình thức hoạt động. Vốn cho nhu cầu đầu tư trang thiết bị phục vụ sản

xuất ngày càng nhiều hơn vì thực tế cho thấy các làng nghề muốn tồn tại và

phát triển phải được đầu tư công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất, chất

lượng, hạ giá thành sản phẩm. Nhu cầu vốn lưu động dùng cho cả 3 khâu: Dự

trữ nguyên vật liệu, sản xuất và tiêu thụ là rất lớn. Việc tiêu thụ sản phẩm tự

do theo cơ chế thị trường nên thường cần khối lượng vốn tồn trong khâu

thanh toán nhiều, nguyên vật liệu ở dạng thu gom nên thường phải trả ngay

cho người bán, còn sản phẩm xuất đi nằm tại các đại lý với số lượng khá lớn.

Để có thể duy trì sản xuất thường xuyên thì nhu cầu vốn lưu động đối với các

làng nghề phải gấp 3-4 lần trị giá tài sản cố định. Từ những lý do đó nên thời

gian vừa qua, nhiều hộ và doanh nghiệp tư nhân lao vào sản xuất với số vốn

chỉ đạt ở mức cần thiết để sản xuất ban đầu, sau khi giao hàng đi không còn

tiền để tiếp tục chu kỳ sản xuất do vậy gặp rất nhiều khó khăn, tuy hàng tiêu

thụ được mà vốn đọng trong thanh toán lớn, dẫn tới khó khăn cho một số

doanh nghiệp và hộ sản xuất đặc biệt là những cơ sở mới đầu tư nâng cấp dây

chuyền thiết bị. Qua tổng hợp tình hình vốn tại các làng nghề cho thấy sự phát

45

triển của làng nghề đã huy động được nguồn vốn đáng kể trong nhân dân vào

phát triển kinh tế của tỉnh, phát huy tính cần cù, sáng tạo, yêu lao động của

người dân Việt Nam, mở mang một số ngành nghề mới có công nghệ hiện

đại, khai thác và tận dụng nguồn nguyên liệu thừa, nguyên liệu sẵn có, thu hút

được nguồn lao động không có việc làm trong và ngoài tỉnh. Nhiều doanh

nghiệp và hộ sản xuất trong các làng nghề kinh doanh đúng pháp luật, có hiệu

quả. Tuy nhiên, trong những làng nghề không phải cơ sở sản xuất nào cũng

tốt, mà cũng còn có nhiều hộ, nhiều doanh nghiệp làm ăn lúng túng, chưa có

kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường. Một số cơ sở kinh doanh

bằng vốn của mình thì ít, chủ yếu bằng vốn đi vay, huy động và chiếm dụng

của người khác thì nhiều. Hơn nữa hoạt động của các làng nghề trong thời

gian qua không có một cơ quan nào quản lý rõ ràng, nên thiếu sự kiểm soát

của Nhà nước, với các doanh nghiệp tư nhân thì vốn điều lệ thường ít hơn rất

nhiều so với vốn pháp định, do vậy sản xuất kinh doanh và hạch toán hầu như

nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước và pháp luật, tình trạng trốn lậu thuế

xảy ra triền miên, số thuế mà các hộ doanh nghiệp nộp vào Nhà nước không

tương xứng với doanh thu làm ra. Thất thu thuế tại các làng nghề xảy ra

nghiêm trọng về số hộ nộp và doanh thu tính thuế. Việc thất thu thuế do nhiều

nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra, đây là một vấn đề có tính bức

xúc đòi hỏi phải có sự chỉ đạo và quản lý của các cơ quan chức năng trong

tỉnh.

* Về quảng bá thương hiệu

Quỳnh Phụ có những làng nghề nổi tiếng, sản phẩm xuất hiện ở rất

nhiều nơi nhưng việc xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm cho làng

nghề còn khá yếu ớt, chủ yếu là tự phát, hiệu quả chưa cao. Lấy truyền thống

trăm năm, nghìn năm để thay thế cho việc quảng bá thương hiệu làng nghề là

nếp nghĩ của khá nhiều người làm nghề thủ công. Theo họ, vì đã có truyền

thống lâu đời nên sẽ có nhiều người biết đến sản phẩm của làng nghề mình.

46

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiệu quả của cách làm này không cao. Cả làng

với hàng trăm doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhưng chưa có hoặc mới chỉ có

một vài trang web cá nhân, còn website riêng cho cả làng nghề thì chưa có.

Một trong những nguyên nhân của khó khăn trên là sản xuất trong các làng

nghề hiện còn manh mún, nhỏ lẻ theo hộ gia đình, mạnh ai nấy làm. Thế nên,

để xây dựng thương hiệu chung không phải chuyện dễ. Ngoài ra việc mang

sản phẩm ra trưng bày tại các trung tâm thương mại lớn cũng tốn khá nhiều

chi phí, hơn nữa do khó khăn chung của nền kinh tế nên sản phẩm bán không

chạy lắm. Mặc dùng Phòng Công thương của huyện đã có những chính sách

hỗ trợ, xúc tiến quảng bá thương mại dành cho các làng nghề nhưng hiệu quả

chưa cao bởi ngoài những nỗ lực của Phòng còn đòi hỏi sự nhận thức và sự

đầu tư của chính các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.

* Về thị trường tiêu thụ sản phẩm

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, tổ chức kinh tế làng nghề vẫn

còn mang hình thức độc đáo theo kiểu “truyền thống gia đình” sản xuất mang

tính tự phát, nhiều khi chạy theo lợi nhuận trước mắt nên hạn chế rất nhiều

đến quá trình bảo tồn và phát triển thường xuyên của các làng nghề, có những

làng đang phát triển thịnh vượng thì bị đột ngột co lại, lý do là sự ồ ạt ra đời

những sản phẩm mà thị trường không tiếp tục chấp nhận dẫn tới có thời kỳ có

làng nghề việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, có những làng không

thích ứng với thị trường do công nghệ và chủng loại sản phẩm không được cải

tiến dẫn tới hầu như ngừng hoạt động. Một số làng nghề phụ thuộc hoàn toàn

vào một thị trường nhất định nên khi thị trường này hết nhu cầu thì gần như

cả làng nghề đóng cửa.

* Về tài nguyên và môi trường

Thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai, thời gian qua, Phòng

Tài nguyên và Môi trường huyện Quỳnh Phụ đã phối hợp với các phòng, ban

liên quan thẩm định và tham mưu UBND huyện phê duyệt quy hoạch sử dụng

47

đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất của 36/38 xã, thị trấn, qua đó giúp

khoanh định quỹ đất sản xuất nông nghiệp, bảo vệ quỹ đất trồng lúa; việc giao

đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đã tuân thủ đúng

quy hoạch, đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tăng nguồn thu từ đất, từng

bước đưa công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện đi vào nền

nếp. Toàn huyện đã chuyển mục đích 98,19ha đất nông nghiệp sang đất phi

nông nghiệp để xây dựng các công trình công cộng và phát triển kinh tế; trong

đó, chuyển mục đích sử dụng đất để quy hoạch dân cư theo Quyết định số 372

của UBND tỉnh tại 38 xã, thị trấn gần 28,6ha. Tập trung thực hiện tốt việc

giao đất, cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất... 6 tháng đầu năm

2015, Phòng đã trình UBND huyện ban hành 6 quyết định cho thuê đất để

thực hiện các dự án, diện tích 114.511m2; 7 quyết định chuyển mục đích sang

đất ở, diện tích 1.170m2; 261 quyết định thu hồi đất, diện tích 652.401m2; 16

quyết định giao đất tái định cư cho hộ gia đình, cá nhân ở các xã Quỳnh

Hồng, Quỳnh Xá để thực hiện Dự án nâng cấp, cải tạo đường 396B, diện tích

1.570m2.

Chú trọng công tác đền bù, hỗ trợ tái định cư thực hiện giải phóng mặt

bằng các dự án: nâng cấp, cải tạo đường 396B, đường 455, đường 2/9… với

tổng số tiền bồi thường 31,3 tỷ đồng. Để hạn chế tình trạng vi phạm, tranh

chấp, khiếu kiện về đất đai, một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu

thời gian qua là đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

(GCNQSDĐ) cho các hộ gia đình, cá nhân. UBND huyện đã thành lập ban

chỉ đạo, tổ công tác đẩy nhanh tiến độ triển khai Dự án hoàn thiện hệ thống

quản lý đất đai Việt Nam nhằm xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, cơ sở dữ

liệu đất đai hiện đại và cấp GCNQSDĐ cho người dân. Đến nay, Quỳnh Phụ

đã hoàn thành đo đạc trên 20.260ha với gần 170.000 số thửa phải cấp

48

GCNQSDĐ; đã ký trên 155.800 GCNQSDĐ, trao cho người sử dụng đất

114.300 GCNQSDĐ.

Trong công tác quản lý môi trường, các xã, thị trấn đã thành lập 182

đội vệ sinh môi trường tự quản với hơn 600 người tham gia. Việc tiếp nhận

thủ tục xin đăng ký xác nhận bản cam kết bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ

môi trường đối với các dự án, thẩm định thủ tục hồ sơ được thực hiện theo

đúng quy định. Thường xuyên kiểm tra tiến độ, kết quả thực hiện tiêu chí 17

về môi trường trong xây dựng nông thôn mới. Tổ chức rà soát các cơ sở sản

xuất, kinh doanh sử dụng đất nhưng chưa có thủ tục bảo vệ môi trường.

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện chủ động phối hợp với các đoàn thể

đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và kiến thức

pháp luật về bảo vệ môi trường. Tại nhiều địa phương, tiêu chí về bảo vệ môi

trường đã được đưa vào quy ước, hương ước của thôn, làng, được gắn với

việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, danh hiệu thôn làng, gia đình

văn hóa. Đến nay, 97% dân số toàn huyện được sử dụng nước hợp vệ sinh,

trong đó 14 xã, thị trấn đã được cung cấp nước sạch từ các nhà máy nước tập

trung.

Tuy nhiên, đối với các làng nghề, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn

chưa được kiểm soát, nhiều làng nghề đang đối mặt với ô nhiễm môi trường

không khí, nước, đất… Nguyên nhân chính là do các làng nghề xen lẫn khu

dân cư; phần lớn các chất thải không được thu gom, xử lý mà được xả thẳng

vào môi trường. Làng nghề bánh đa Thôn Dụ Đại xã Đông Hải không chỉ nổi

tiếng với bánh đa cá Quỳnh Côi truyền thống mà còn nổi tiếng hơn bởi vấn

nạn môi trường. Hàng loạt bệnh tật xuất hiện nơi đây như viêm phổi, đau mắt

vì khí lò than sản xuất bánh đa. Người dân nơi đây đã phải chung sống với

tình trạng ô nhiễm môi trường từ khi nghề sản xuất bánh đa ra đời (39 năm).

Qua hàng chục năm trời, nước ô nhiễm bị ngấm sâu vào lòng đất, nguồn nước

ngầm bị ô nhiễm khá nặng. Ngoài ra, theo báo cáo tổng hợp Đánh giá hiện

49

trạng ô nhiễm môi trường cho thấy, nồng độ khí thải CO, SO2, NO2, NH3,

bụi và độ ồn tại khu vực làng nghề Cầu Nghìn nơi sản xuất vôi xuất khẩu đã

vượt tiêu chuẩn cho phép 5937, 5938/2005; Nước thải tại một số điểm thải từ

Cầu Nghìn có các thông số SS, COD, BOD5, coliform vượt tiêu chuẩn cho

phép từ 1,2 - 10 lần TCVN 5945-2005. Hàm lượng các chất ô nhiễm trong

nguồn nước tiếp nhận nước thải tại các sông chảy qua có thông số COD,

BOD5, dầu mỡ khoáng, coliform vượt tiêu chuẩn cho phép 4; 2,9; 1,4; 8; 3,6

lần TCVN 5942-1995 chất lượng nước mặt, đã có mẫu phát hiện dấu hiệu ô

nhiễm kim loại nặng Asen cadimi. Như vậy, làng nghề Cầu Nghìn đang đứng

đầu danh sách gây ô nhiễm môi trường tại tỉnh Thái Bình [30].

2.2.2. Hoạt động của làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

Trước những thách thức của nền kinh tế thị trường thời hội nhập, nhiều

làng nghề, ngành nghề truyền thống tan rã do không đủ sức cạnh tranh, không

theo kịp tốc độ phát triển của máy móc hiện đại. Nhưng sản xuất ở các làng

nghề huyện Quỳnh Phụ vẫn sôi động và ngày càng phát triển. Không những

giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người lao động mà còn

thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo diện mạo mới cho các làng quê. Nhiều

làng nghề không ngừng phát triển, chiếm 70 - 80% tỷ trọng của thôn, làng,

tiêu biểu như: bánh đa làng Dụ Đại, xã Đông Hải; dệt chiếu xã An Vũ, An Lễ,

An Dục, An Tràng; vàng mã xã An Vinh; chế biến lương thực xã An Mỹ; gỗ

mỹ nghệ xã An Đồng...

Quỳnh Phụ hiện có 33 làng nghề truyền thống, thu hút hàng chục nghìn

lao động, với thu nhập từ 3,5-5 triệu đồng/người/tháng. Trong đó, chủ yếu là

nghề dệt chiếu cói, mây tre đan xuất khẩu, máy may công nghiệp, móc hộp,

làm bánh đa, bún… Là huyện có thế mạnh trong phát triển nông nghiệp

nhưng những năm gần đây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn

huyện Quỳnh Phụ đã có bước phát triển khá, các nghề truyền thống tiếp tục

50

phát triển. Qua đó, diện mạo nông thôn mới ngày càng khởi sắc, tỷ lệ hộ

nghèo giảm nhanh và bền vững [28].

Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong những năm

qua ở Quỳnh Phụ đạt bình quân từ 7.000 - 7.500 tỷ đồng/năm. Sự phát triển

của nghề và làng nghề đã góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói giảm

nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Hơn 10 năm qua, tình hình phát triển nghề và làng nghề trên địa bàn

huyện Quỳnh Phụ đã có sự chuyển biến tích cực. Ðến nay các làng nghề đều

hoạt động ổn định, phát triển theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề sản

xuất. Sự phát triển của nghề và làng nghề đã góp phần không nhỏ vào công

cuộc xóa đói giảm nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn. Trước năm 2000, nghề và làng nghề ở Quỳnh Phụ kém phát triển. Năm

2001, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 85 tỷ đồng,

chiếm 18% tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Tới năm 2002, lần đầu tiên

UBND tỉnh xét công nhận làng nghề, huyện Quỳnh Phụ đã được công nhận

10 làng nghề, tập trung ở các xã An Dục, An Tràng, Quỳnh Hoàng, An Vũ,

An Mỹ, Ðông Hải, An Vinh, An Hiệp với các nghề chính là dệt chiếu và chế

biến lương thực. Toàn huyện đã thu hút hơn 8.000 lao động tham gia làm

nghề, giá trị sản xuất từ nghề đạt trên 66 tỷ đồng. Tới năm 2005, Quỳnh Phụ

tiếp tục được công nhận thêm 11 làng nghề, đưa tổng số làng nghề toàn huyện

lên 21 làng nghề với tổng số lao động lên tới 17.500 người, gấp hơn 2 lần so

với năm 2001 và giá trị sản xuất từ nghề đạt gần 161 tỷ đồng. Giai đoạn từ

năm 2006 đến nay, nghề và làng nghề ở Quỳnh Phụ tiếp tục phát triển mạnh,

huyện tiếp tục được UBND tỉnh công nhận thêm 14 làng nghề, đưa tổng số

làng nghề trong toàn huyện lên 33 làng nghề, với tổng số 21.317 lao động

tham gia làm nghề, tăng gấp 2,48 lần năm 2001 và gấp 1,2 lần năm 2005. Giá

trị sản xuất từ nghề cũng vì thế mà tăng lên nhanh chóng, đạt 890 tỷ đồng,

gấp 13,4 lần năm 2001 và 5,5 lần năm 2005 [29].

51

Có được kết quả trên là do Quỳnh Phụ đã duy trì và phát triển mạnh,

bền vững nhiều nghề truyền thống và du nhập nghề mới. Một số nghề đã được

cơ giới hóa công cụ sản xuất tạo năng suất cao, hạ giá thành sản phẩm đủ sức

cạnh tranh và tồn tại trong cơ chế thị trường và khắc phục tình trạng lao động

trong làng nghề chuyển sang các cơ sở công nghiệp tập trung. Ðặc biệt, hầu

hết các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong làng nghề đã đứng ra lo việc cung

ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm nên hoạt động của làng nghề thường ổn

định và đạt hiệu quả.

Bên cạnh những mặt tích cực, thời gian qua Quỳnh Phụ đã có 2 làng

nghề suy giảm, không duy trì được các tiêu chí của làng nghề là làng nghề xã

Quỳnh Hoàng và Tiên Bá (xã Quỳnh Thọ). Những làng nghề làm hàng xuất

khẩu như thêu, móc sợi, mây tre đan phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất

khẩu, tính ổn định, bền vững không cao, có chiều hướng suy giảm. Chất

lượng lao động trong làng nghề cũng giảm do lao động trẻ, khỏe, khéo tay chủ

yếu đi làm trong các khu, cụm công nghiệp, số lao động trong làng nghề hầu

hết là người già.

Ðể thúc đẩy sự phát triển nghề và làng nghề, trong thời gian tới huyện

Quỳnh Phụ tiếp tục huy động tối đa lực lượng lao động nhàn rỗi tham gia sản

xuất tiểu thủ công nghiệp. Tập trung củng cố làng nghề hiện có để các làng

nghề hoạt động ổn định và bền vững, tạo điều kiện để tất cả lao động trong

làng nghề được tham gia làm nghề. Tiếp tục phát triển các làng nghề mới,

nhất là những xã chưa có làng nghề. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục

làm chuyển biến nhận thức cho toàn thể cán bộ và người dân về lợi ích của

việc phát triển nghề và làng nghề. Quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất về mặt

bằng, vốn, môi trường sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, cơ sở sản

xuất. Tận dụng nguồn vốn khuyến công từ trung ương đến địa phương và các

nguồn vốn khác để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong làng

nghề. Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất như đường vào làng nghề, xử lý môi trường

52

trong làng nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp để tạo điều kiện

cho nghề và làng nghề phát triển.

2.3. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về làng nghề truyền thống tại huyện

Quỳnh Phụ

2.3.1. Hoạt động ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện văn bản

quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền

thống

Xét trên phạm vi rộng toàn quốc, Chính phủ luôn dành mối quan tâm

đặc biệt để hỗ trợ thúc đẩy phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề

nông thôn như một phương thức hiệu quả thực hiện xoá đói nghèo, đặc biệt ở

khu vự ứ VII

ữ -

ề truyền thống và các ngành

nghề mới...”. Trên định hướng đó của Đảng, Chính phủ và các Bộ ngành liên

quan đã ban hành rất nhiều chính sách đối với phát triển nghề và làng nghề

(được thể hiện tại Phụ lục 01).

Ngày 09/12/2015 HĐND tỉnh Thái Bình đã ban hành Nghị quyết số

20/2015/NQ-HĐND về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển

kinh tế - xã hội của Thái Bình giai đoạn 2016 - 2020 đã xác định đẩy nhanh

tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung phát triển các ngành có

công nghệ cao trong các khu công nghiệp cùng với phát triển tiểu thủ công

nghiệp, phát triển làng nghề. Tăng trưởng kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua đó xác định các làng

nghề là tiềm năng, là thế mạnh của tỉnh trong phát triển kinh tế xã hội nói

chung và tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Xác

định phát triển làng nghề là bước đi đúng đắn để phát triển kinh tế địa

phương. Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực nông thôn theo

hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Xây dựng, giữ gìn các làng nghề

53

truyền thống, các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống đi

đôi với việc phát triển các nghề mới, làng nghề mới. Xây dựng được đội ngũ

Nghệ nhân và thợ lành nghề. Gắn phát triển làng nghề với khai thác tốt tiềm

năng du lịch và mở rộng xuất khẩu. Để thực hiện những mục tiêu này BCH

Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ cũng đã định hướng đưa ra một số chủ trương về

giải pháp phát triển làng nghề là: Quy hoạch và tạo mặt bằng cho sản xuất, về

vốn đầu tư phát triển, nguyên liệu cho sản xuất và thị trường tiêu thụ, tổ chức

sản xuất và phát triển nguồn nhân lực, về thuế, phí và lệ phí, tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với việc khôi phục, củng cố, phát triển mở rộng làng

nghề, đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước đối với các làng nghề.

Dựa trên định hướng của Đảng và chỉ đạo của Nhà nước, huyện Quỳnh

Phụ đã hướng dẫn và tổ chức thực hiện tốt các văn bản của cấp trên; đồng

thời, trên cơ sở các văn bản của cấp trên và dựa trên tình hình thực tế của địa

phương, UBND huyện đã ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản liên

quan đến quy định, hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn

huyện.

Trong thời gian từ năm 2011 đến nay, UBND huyện đã ban hành nhiều

văn bản để khuyến khích hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống của địa

phương và phổ biến đến các tổ chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn huyện

thông qua các hình thức như tuyên truyền phổ biến trên các phương tiện thông

tin, hội thảo, tập huấn ... Phần lớn các văn bản sau khi ban hành đã được áp

dụng vào thực tế và đem lại hiệu quả trong việc phát triển các làng nghề truyền

thống của địa phương.

Ngoài ra, cơ quan quản lý thường xuyên tăng cường công tác tuyên

truyền, phổ biến văn bản cấp trên, kiến thức pháp luật về doanh nghiệp, làng

nghề, về hội nhập kinh tế quốc tế WTO; tổ chức các hội thảo, tập huấn về các

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam, nhằm giúp doanh nghiệp, làng nghề

54

trên địa bàn tỉnh nắm bắt kịp thời các văn bản cấp trên, quy định pháp luật,

phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động quản lý nhà nước về

việc ban hành, hướng dẫn, tổ chức, triển khai thực hiện văn bản quy phạm

pháp luật tại địa phương vẫn còn nhiều bất cấp; cụ thể như:

- Một số văn bản đã ban hành, tuy nhiên không thể áp dụng thực hiện,

do thiếu thực tế, thiếu nguồn kinh phí triển khai và đồng thời còn mang tính

chất chung chung, không cụ thể, ví dụ như: UBND huyện đã ban hành Quyết

định số 2298/QĐ-UBND ngày 26/7/2013 về Đề án điều chỉnh, bổ sung quy

hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025; Đề án có đề cập một số nội dung có cụ

thể về ngành nghề nông thôn, làng nghề nhưng chưa đủ để Quy hoạch về phát

triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày

07/7/2006 và Thông tư 116 /2006/TT- BNN, ngày 18/12/2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn. Vì vậy, đến nay huyện Quỳnh Phụ vẫn chưa

có quy hoạch phát triển sản xuất làng nghề tập trung.

- Hầu hết tại các địa phương có các làng nghề truyền thống cũng chưa

xây dựng được các văn bản riêng về hoạt động quản lý và phát triển làng nghề

truyền thống cho địa phương mình. Hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn và

phổ biến các văn bản liên quan chưa được triệt để. Ví dụ, như chính sách về

hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề. Do chưa xây dựng

được quy hoạch ngành nghề nông thôn nên đa số nguồn nguyên liệu phục vụ

cho sản xuất của các làng nghề đều bị khan hiếm, không có sự liên kết chặt

chẽ giữa cơ quan quản lý với các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề...

55

2.3.2. Tổ chức quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

của huyện Quỳnh Phụ được thể hiện tại Sơ đồ 2.3.2.

UBND Huyện

P. Tài nguyên

P. Văn hóa

P. Công thương

P. Nông nghiệp

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về môi trường làng nghề

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, phát triển du lịch gắn với làng nghề

Quản lý nhà nước về thương mại, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ sản xuất làng nghề truyền thống.

Tham mưu hoạt động nhà nước về kinh tế trang trại nông thôn, kinh tế hợp tác xã nông, lâm, ngư với làng nghề nông thôn trên địa bàn.

UBND cấp xã

Ban Kinh tế- Nông nghiệp

Sơ đồ 2.3.2: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề huyện Quỳnh Phụ

Trong đó:

- UBND huyện: chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành và quản lý chung

mọi hoạt động của huyện. Trực tiếp chỉ đạo công tác: tổ chức cán bộ, nội

chính, tài chính, an ninh - quốc phòng và chương trình tổng thể phát triển kinh

tế-xã hội. Quản lý đô thị, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ,

cấp phép kinh doanh, quản lý thị trường, tài sản công; chương trình, đề án

phát triển kinh tế...

- Phòng Nông nghiệp: Tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về: nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp; thuỷ lợi;

thuỷ sản; phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại nông

56

thôn, kinh tế hợp tác xã nông, lâm, ngư, diêm nghiệp gắn với ngành nghề,

làng nghề nông thôn trên địa bàn xã.

- Phòng Công thương: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện có

chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện các chức năng quy hoạch,

quản lý công trình xây dựng trên địa bàn, kiến trúc, xây dựng nhà ở và công

sở, giao thông, đô thị, thương mại, điện, quản lý chợ. Phòng có nhiệm vụ cụ

thể sau:

+ Thụ lý hồ sơ cấp phép xây dựng, cấp phép quản lý điện, công trình

giao thông trên địa bàn.

+ Quản lý về chất lượng các công trình xây dựng, sản phẩm vật liệu

xây dựng thuộc huyện quản lý. Quản lý các hồ sơ, tài liệu khảo sát thiết kế

xây dựng, hồ sơ hoàn thành công tác thiết kế công trình thuộc thẩm quyền

quản lý của UBND huyện.

+ Quản lý nhà nước về lĩnh vực dịch vụ thương mại, tiểu thủ công

nghiệp, dịch vụ sản xuất làng nghề truyền thống.

- Phòng Tài nguyên - Môi trường: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND

có chức năng tham mưu giúp UBND huyện thực hiện quản lý nhà nước về đất

đai, tài nguyên , môi trường, Phòng có nhiệm vụ cụ thể sau:

+ Cấp giấy đăng ký chuyển đổi, tặng cho, quyền sử dụng đất, sử dụng

nhà ở.

+ Giải quyết những vấn đề khiếu nại về đất đai, nhà ở.

+ Giao đất, thu hồi đất, bồi thường đất theo quy định của pháp luật.

+ Đánh giá tác động môi trường, kiểm tra, thanh tra, xử lý ô nhiễm môi

trường.

- Phòng Văn hoá và Thông tin: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND

huyện, tham mưu giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước

về các lĩnh vực: văn hoá; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; bưu chính, viễn

57

thông và Internet; công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin; phát thanh; báo chí;

xuất bản.

- Ban Kinh tế - Nông nghiệp xã: là bộ phận chuyên môn giúp UBND xã

thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn

trên địa bàn dưới sự chỉ đạo của UBND xã và các cơ quan quản lý nhà nước

chuyên ngành của huyện. Tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ: xây dựng qui

hoạch, kế hoạch sản xuất nông nghiệp bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi

trồng thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn… và hướng

dẫn chỉ đạo, điều hành thực hiện qui hoạch, kế hoạch đó.

Nhìn vào sơ đồ ta thấy, huyện đã tổ chức bộ máy có đầy đủ các phòng

ban chức năng tham gia quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống. Tuy

nhiên, bộ máy hoạt động quản lý nhà nước của huyện Quỳnh Phụ rất cồng

kềnh, do bốn (04) phòng chuyên môn khác nhau tham gia quản lý. Điều này

gây rất nhiều khó khăn trong hoạt động điều hành quản lý nhà nước vì dễ dẫn

tới việc phối kết hợp không tốt trong điều hành quản lý hoặc có thể dẫn tới

việc buông lỏng quản lý đối với làng nghề truyền thống. Đồng thời, trong

thực tế khi có vấn đề cần giải quyết nhưng vì có nhiều cơ quan cùng tham gia

trong bộ máy tổ chức quản lý nên thường đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, giải

quyết không nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh

doanh của các làng nghề truyền thống.

2.3.3. Thực hiện chính sách quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống

Để các khu, cụm công nghiệp, làng nghề truyền thống hình thành và

hoạt động có hiệu quả, tỉnh Thái Bình đã thành lập Ban Quản lý các khu công

nghiệp có nhiệm vụ giúp các cấp, các ngành, trước hết là UBND cấp xã,

huyện thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các khu, cụm công

nghiệp, làng nghề truyền thống. Ban Quản lý này là một đơn vị sự nghiệp có

thu, có tư cách pháp nhân, được sử dụng con dấu và mở tài khoản theo quy

58

định hiện hành của Nhà nước. UBND các xã, huyện quản lý khu, cụm công

nghiệp là cơ quan quản lý trực tiếp các làng nghề truyền thống; đồng thời là

đầu mối phối hợp với các cơ quan chuyên môn của UBND huyện, thị, xã, các

tổ chức kinh tế - xã hội và UBND các xã có làng nghề truyền thống, giải

quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý các khu, cụm công

nghiệp, làng nghề truyền thống. Các làng nghề truyền thống chưa nhận được

sự quan tâm giúp đỡ có hiệu lực của Nhà nước cũng như các ngành có liên

quan về thông tin, công nghệ, tiếp cận thị trường nên hiệu quả sản xuất kinh

doanh của làng nghề truyền thống còn thấp. Hệ thống chính sách cho làng

nghề truyền thống chưa đồng bộ như chính sách tài chính, tín dụng, đào tạo

lao động, công nghệ, bảo hiểm xã hội và chưa có chính sách ưu đãi các nghệ

nhân, chính sách hỗ trợ cho một số sản phẩm quan trọng ở các làng nghề

truyền thống. Chưa có cán bộ chuyên trách theo dõi để tìm cách tháo gỡ khó

khăn cho các làng nghề truyền thống.

* Chính sách nhân sự quản lý

Phòng Công thương và Phòng Nông nghiệp đảm nhận nhiệm vụ quản

lý nhà nước trực tiếp về làng nghề tại địa phương, các phòng bố trí 01 chuyên

viên phụ trách hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề tại địa phương.

Chuyên viên này phụ trách về làng nghề và phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ

ở các lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề tại địa phương không được đẩy mạnh và không chặt chẽ. Qua khảo sát

tại các địa phương hầu hết các nguồn lực thực hiện quản lý nhà nước về làng

nghề tại địa phương còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thực thi công

vụ như: thiếu kinh nghiệm, không được đào tạo, tập huấn nhiều, việc tiếp cận

các văn bản cấp trên còn sơ sài, chưa nắm rõ các đầu công việc để báo cáo

cấp cơ quan quản lý cấp trên. Chuyên viên phụ trách hoạt động quản lý nhà

nước về làng nghề tại các phòng Công thương, Nông nghiệp, Văn hóa, Tài

nguyên đều có trình độ đại học; tuy nhiên, về chuyên ngành đào tạo của các

59

chuyên viên khác nhau; bao gồm: Cử nhân kinh tế phát triển nông thôn, kỹ sư

nông nghiệp, cử nhân kinh tế, cử nhân môi trường, cử nhân sinh học...

Số lượng, chất lượng cán bộ Ban Nông nghiệp một số xã chưa đồng

đều, nhất là về trình độ quản lý, kỹ thuật. Năng lực chỉ đạo, hướng dẫn tổ

chức sản xuất của cán bộ Ban Nông nghiệp xã nhìn chung còn hạn chế. Hoạt

động của Ban Nông nghiệp một số xã, thị trấn chưa hiệu quả. Việc chỉ đạo,

hướng dẫn sản xuất cũng như công tác xây dựng kế hoạch sản xuất nông

nghiệp còn chậm, nhiều việc chưa nắm được. Một số xã vẫn dựa chủ yếu vào

HTX nông nghiệp, chưa tách hẳn chức năng quản lý nhà nước của UBND xã

với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX nông nghiệp. Điều kiện

làm việc, kinh phí hoạt động của Ban Nông nghiệp xã còn khó khăn. Nhiều xã

có phó ban nhưng làm công tác kiêm nhiệm nên chưa tập trung nhiều cho

công việc chính. Chế độ tuân thủ nộp báo cáo lên cấp trên của nhiều Ban

Nông nghiệp chất lượng chưa đảm bảo, còn quá chậm chưa nghiêm túc.

Chế độ tiền lương cho cán bộ phụ trách còn rất thấp, chỉ đáp ứng được

khoảng 65%-70% nhu cầu cuộc sống do vậy họ không thể chú tâm hoàn toàn

vào công việc mà vẫn phải làm thêm các việc phụ để kiếm thêm thu nhập.

Nhìn chung, với đội ngũ nguồn nhân lực hiện có tại địa phương mới

đáp ứng nhu cầu cơ bản về quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề

truyền thống. Để hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề, làng nghề truyền

thống có những bước đột phá cần phải tăng cường nguồn nhân lực cho các địa

phương. Chỉ có tạo ra nguồn nhân lực quản lý chuyên nghiệp, có kiến thức,

kinh nghiệm, chuyên môn vững, thì mới có thể phát triển các làng nghề theo

hướng bền vững và lâu dài.

* Tổ chức các lớp đào tạo nghề nâng cao trình độ dân trí

Công tác đào tạo nghề trong các làng nghề chủ yếu là truyền nghề,

người thợ vừa làm vừa học kinh nghiệm, học kiến thức của người thợ cả hay

nghệ nhân. Phương pháp đào tạo trong làng nghề là cầm tay chỉ việc, là

60

truyền khẩu, vừa học vừa làm. Trong những năm gần đây Sở Công nghiệp có

tổ chức cho một số cơ sở đào tạo nghề theo chương trình Khuyến công của

tỉnh, nhưng chủ yếu đào tạo cơ khí, sửa chữa điện tử, chăn nuôi trồng trọt

hoặc may mặc để cung cấp lao động cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh. Nghề

tiểu thủ công nghiệp đem lại nguồn thu lớn và chủ yếu cho các gia đình trong

làng nghề truyền thống. Do đặc điểm ngành nghề là sử dụng lao động thủ

công trong gia đình và thuê mướn bên ngoài, đồng thời vì lợi ích của mỗi gia

đình nên tình trạng không học hết phổ thông trung học của các con em còn

nhiều.

* Bảo vệ môi trường tự nhiên

Hiện nay việc tác động của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc xử lý

các chất thải tại làng nghề truyền thống vẫn còn hạn chế, chưa chú ý quan

tâm thực sự. Bởi vậy, tình trạng làm ô nhiễm môi trường, tác động ảnh hưởng

xấu đến sức khoẻ người lao động trong làng nghề và cộng đồng dân cư. Mặt

khác, tình trạng ô nhiễm càng khó hạn chế khi có không ít lãnh đạo địa

phương chưa nghiêm túc trong việc chỉ đạo thực hiện các quy định cũng như

xử lý các vi phạm về quản lý môi trường trên địa bàn mình quản lý.

2.3.4. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền

thống

Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà

nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động

thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định

kỳ hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển

bền vững.

Khi tổ chức thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời phát hiện những sai trái trong

hoạt động của các làng nghề truyền thống để xử phạt, hướng dẫn cho các làng

nghề thực hiện tốt hơn... Hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức

năng đối với làng nghề huyện Quỳnh Phụ được thể hiện tại Bảng 2.3.5.

61

Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế, hoạt động quản lý nhà nước về thanh

tra, kiểm tra hầu hết không diễn ra theo đúng quy định, không tổ chức thanh

kiểm tra định kỳ và không thường xuyên; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống chưa được chặt chẽ và còn nhiều hạn chế.

Bên cạnh đó, một số địa phương thiếu quan tâm, không điều tra, khảo

sát, không thanh tra, kiểm tra để nắm thông tin về tình hình hoạt động tại các

làng nghề truyền thống; do vậy, rất lúng túng khi cập nhật các số liệu, không

phản ánh đúng thực tế tại làng nghề truyền thống. Hiện nay, đa số các làng

nghề đều tuân thủ đúng các quy trình sản xuất truyền thống của làng nghề,

nguồn nguyên liệu chủ yếu được cung cấp tại địa phương. Tuy nhiên, việc xử

lý môi trường tại các cơ sở chưa được đảm bảo, rất nhiều làng nghề gây ô

nhiễm cục bộ ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.

Bảng 2.3.4: Số liệu về hoạt động thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý

nhà nước đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

TT

Tên xã có làng nghề

1 TT An Bài 2 Xã An Dục 3 Xã An Đồng 4 Xã An Hiệp 5 Xã An Khê 6 Xã An Lễ 7 Xã An Mỹ 8 Xã An Tràng 9 Xã An Vinh 10 Xã An Vũ 11 Xã Đồng Tiến 12 Xã Đông Hải 13 Xã Quỳnh Châu 14 Xã Quỳnh Giao 15 Xã Quỳnh Hải 16 Xã Quỳnh Hoàng Hoạt động thanh kiểm tra các làng nghề truyền thống tại địa phƣơng Không định kỳ thực hiện thanh, kiểm tra x x x x x x x x x Định kỳ hoạt động thanh, kiểm tra x x x x x Không thanh, kiểm tra x x

62

17 Xã Quỳnh Hội 18 Xã Quỳnh Hồng 19 Xã Quỳnh Minh 20 Xã Quỳnh Mỹ 21 Xã Quỳnh Ngọc 22 Xã Quỳnh Sơn x x x x x x

2.3.5. Xã hội hóa và hội nhập quốc tế trong hoạt động quản lý nhà

nước đối với các làng nghề truyền thống

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc ưu tiên đầu tư ngân sách để thực

hiện các cơ chế, chính sách, nhưng do nguồn kinh phí còn hạn hẹp, nên việc

phân bổ ngân sách hằng năm để thực hiện một số đề án, cơ chế còn thấp, chưa

đáp ứng được nhu cầu thực tế. Xác định nhân dân là lực lượng đông đảo nhất,

là chủ thể trong xây dựng làng nghề truyền thống của địa phương, thời gian

qua, công tác tuyên truyền, vận động luôn được các địa phương chú trọng,

triển khai sâu rộng tới quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau,

nội dung truyền tải phong phú, đa dạng nên đã tạo được những chuyển biến

lớn, khích lệ cả về tư tưởng, nhận thức và hành động, nhân dân tích cực đóng

góp ngày công, hiến đất, tiền mặt để xây dựng các công trình phục vụ xây

dựng nông thôn mới trong đó có phục vụ sản xuất làng nghề truyền thống; cụ

thể như sau:

Sau khi tỉnh và huyện có chủ trương hỗ trợ xi măng xây dựng kết cấu

hạ tầng nông thôn mới, các cấp, ngành, địa phương trong huyện đã tập trung

chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc cơ sở tổ chức đăng ký và tiếp nhận, sử dụng xi

măng hỗ trợ. Toàn huyện đã đăng ký và được UBND tỉnh phê duyệt 121.969

tấn xi măng, các xã đã tiếp nhận 112.376 tấn xi măng và xây dựng 17,413km

đường trục xã; 187,9km đường giao thông trục thôn; 302,36km đường nhánh

cấp 1 của đường giao thông trục thôn; 62,741km đường giao thông nội đồng

trục chính; 7,644km kênh cấp 1 loại 3; đổ bê tông và xây tường bao được trên

63

20 sân trường, các công trình thi công đảm bảo đúng quy mô kết cấu theo chỉ

đạo của tỉnh.

Trung bình mỗi ngày, huyện Quỳnh Phụ thải ra khoảng 1200 tấn rác

các loại, chủ yếu là rác thải sinh hoạt, phế thải vật liệu xây dựng, bao vỏ thuốc

bảo vệ thực vật và một phần rác công nghiệp. Trước đây, hầu hết lượng rác

thải này đều không được thu gom, đa số người dân đổ rác trực tiếp ra môi

trường xung quanh như vườn, ao hồ, đường làng ngõ xóm… vừa làm mất mỹ

quan, vừa gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Trên

cơ sở rút kinh nghiệm của một số tổ vệ sinh môi trường tự quản tại các xã An

Bài, An Khê và Quỳnh Minh, năm 2004 huyện Quỳnh Phụ đã chỉ đạo nhân

rộng mô hình đội vệ sinh môi trường tự quản tại các thôn. Đến nay toàn

huyện đã thành lập được 207 đội vệ sinh môi trường, tương đương 100% tổng

số thôn tại các xã, thị trấn. Trong đó, chỉ có các đội vệ sinh môi trường tại thị

trấn Quỳnh Côi hoạt động theo mô hình chuyên trách; các xã còn lại đều hoạt

động theo mô hình thôn tự quản. Để tiếp nhận lượng rác thải ngày càng lớn,

huyện Quỳnh Phụ đã quy hoạch 145 bãi tập kết rác thải, tương đương 75% số

thôn có bãi rác riêng. Các bãi rác này đều do thôn chủ động tham mưu cho

UBND xã về địa điểm xây dựng cũng như quy mô diện tích, bảo đảm xa khu

dân cư, xa nguồn nước và không ảnh hưởng tới mỹ quan chung. Phần kinh

phí đầu tư xây dựng bãi rác và mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác thu

gom được trích từ ngân sách chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường. Phần kinh

phí chi trả lương và phụ cấp cho cán bộ và những người trực tiếp làm công tác

thu gom rác chủ yếu do nhân dân đóng góp, mức thu dao động từ 5.000-

10.000đồng/hộ, phổ biến là 5.000 đồng/hộ/tháng. Tính ra mỗi người thu gom

rác có mức thu nhập từ 2.500.000 - 3.500.000 đồng/người/tháng. Ngoài khoản

chi đầu tư mua sắm thiết bị và trả phụ cấp hàng tháng, các xã đều dành một

phần kinh phí nhất định phục vụ việc bảo dưỡng, sửa chữa xe rác; thay mới

64

các trang thiết bị, dụng cụ làm việc và một số nhiệm vụ khác liên quan đến

lĩnh vực môi trường.

Hội nhập quốc tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút

vốn, công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát

triển nhân lực thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ trong quá

trình hội nhập…

Trong 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, Quỳnh

Phụ huy động được tổng vốn đầu tư 1.569,160 tỷ đồng, trong đó vốn ngân

sách Trung ương 130,187 tỷ đồng; vốn ngân sách tỉnh 255,654 tỷ đồng; vốn

ngân sách huyện 91,725 tỷ đồng; vốn ngân sách xã 192,706 tỷ đồng; huy

động các nguồn vốn khác 898,888 tỷ đồng. 22 xã hoàn thành xây dựng nông

thôn mới, 10 xã hoàn thành 15 tiêu chí, 4 xã hoàn thành 13 tiêu chí.

Quá trình hội nhập đòi hỏi cán bộ quản lý nhà nước về làng nghề và các

doanh nghiệp phải năng động, chuyên nghiệp, nhạy bén và có nguồn nhân lực

cao. Tuy nhiên, cán bộ quản lý còn thiếu, chưa chuyên nghiệp và phần lớn các

làng nghề truyền thống kế hoạch sản xuất không ổn định, mô hình tổ chức sản

xuất chủ yếu ở các làng nghề là hộ gia đình, nhưng các hộ gia đình lại không

có đủ năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm cũng như độ nhạy bén trong việc tìm

kiếm và phát triển thị trường. Cho đến hiện tại huyện mới chỉ có một số làng

nghề truyền thống tìm được thị trường xuất khẩu ra nước ngoài bao gồm các

sản phẩm của làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ, vàng mã, mây tre đan.

Hội nhập sẽ là cơ hội để tăng lượng khách du lịch đến Việt Nam là thị

trường tiềm năng của các sản phẩm làng nghề truyền thống, vì đa phần các

khách du lịch đều muốn mua những sản phẩm có tính đặc trưng, đậm nét văn

hóa bản địa nhưng các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa biết cách quảng bá,

phổ biến và giới thiệu sản phẩm. Vì vậy hiện nay vẫn chưa có làng nghề

truyền thống nào của huyện mở cửa để đón được du khách nước ngoài cũng

như kết hợp để gắn dịch vụ du lịch với phát triển làng nghề.

65

2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động quản lý nhà nƣớc về

làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ

2.4.1. Những yếu tố thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống

- Tỉnh Thái Bình rất quan tâm và đã ban hành nhiều chính sách ưu tiên

phát triển và bảo tồn các làng nghề truyền thống tại các địa phương ví dụ như:

Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19 tháng 10 năm 2015 của UBND

tỉnh Thái Bình về Quy định tiêu chí, quy trình xét công nhận làng nghề trên

địa bàn tỉnh Thái Bình; Quyết định số 16/2014/QĐ-UBND ngày 24 tháng 09

năm 2014 về Quy định cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư vào một số

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn đến

năm 2020... Thực hiện các chính sách đó, huyện Quỳnh Phụ đã áp dụng triệt

để các điều kiện của mình nhằm phát triển và bảo tồn làng nghề truyền thống

như thực hiện các chính sách về cho vay vốn ưu đãi, mở các lớp huấn luyện

tay nghề, đào tạo nghề, tuyên dương khen tặng nghệ nhân, thợ giỏi...

- Quỳnh Phụ là huyện đồng bằng, địa hình bằng phẳng, khí hậu nhiệt

đới gió mùa mưa nhiều độ ẩm cao, đất đai phì nhiêu, màu mỡ nên thích hợp

cho phát triển các loại cây trồng phục vụ nguyên liệu cho các làng nghề

truyền thống. Ngoài ra do giáp ranh với các vùng kinh tế phát triển nên trình

độ dân trí cao thuận lợi cho việc tuyên truyền phổ biến các chế độ chính sách

của nhà nước

- Con người Thái Bình nói chung và Quỳnh Phụ nói riêng luôn luôn

lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ và có truyền thống sản xuất hàng thủ

công mỹ nghệ từ lâu đời, hình thành lên các làng nghề nổi tiếng có các sản

phẩm được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng do vậy rất thuận

lợi để triển khai hoạt động quản lý phát triển làng nghề.

- Được sự quan tâm của nhà nước thông qua các chương trình, đề án,

dự án và đề tài khoa học công nghệ, một số làng nghề truyền thống đã được

66

hỗ trợ các công nghệ, thiết bị mới vào các công đoạn sản xuất, kết hợp giữa

kỹ thuật hiện đại và kỹ thuật truyền thống để nâng cao chất lượng sản phẩm,

tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên

thị trường.

- Việt Nam là nước có môi trường chính trị, an ninh xã hội ổn định, an

toàn. Chính phủ nước ta đã có những nỗ lực trong việc thể chế hóa hệ thống

pháp luật, cải cách hành chính nhất là sau khi tham gia WTO đã tạo điều kiện

thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động sản xuất

kinh doanh của làng nghề truyền thống nói riêng.

2.4.2. Những khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước về làng

nghề truyền thống

- Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách,

quy định có liên quan đến phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn ví dụ

như: Quyết định số 132/2000/QĐ/TTg, ngày 24/11/2000 của Thủ tướng

Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn;

Thông tư số 84/2002/TT-BTC, ngày 26/9/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn

về các hình thức khuyến khích tài chính nhằm kích thích sự phát triển của các

ngành thủ công; Quyết định số 577/QĐ-TTg ngày 11/04/2013 về việc phê

duyệt Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định

hướng đến năm 2030... Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai còn rất nhiều hạn

chế, nên hiệu ứng tác động của chính sách còn rất mờ nhạt, chưa kích thích

cho làng nghề phát triển.

- Huyện Quỳnh Phụ mới chỉ tập trung cho đầu tư phát triển các khu,

cụm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, thu hút các doanh nghiệp có nguồn

vốn, kỹ thuật tương đối lớn, chưa tập trung cho phát triển các hộ nghề, làng

nghề truyền thống.

- Chất lượng nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống rất thấp,

các chủ cơ sở sản xuất không có kinh nghiệm trong quản lý, tìm kiếm, phát

67

triển thị trường. Lực lượng lao động trực tiếp tại các làng nghề chưa qua đào

tạo chiếm tỷ lệ khá cao.

- Các chủ cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống rất khó khăn

trong việc tiếp cận các nguồn vốn; đồng thời, quy mô sản xuất của các cơ sở

nhỏ lẻ, nơi sản xuất cũng là nơi nhà ở, vốn tự có của các chủ thể sản xuất kinh

doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh của các làng nghề truyền thống rất

thấp. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước về triển khai các chương trình phát

triển làng nghề truyền thống rất khó khăn.

- Hiện nay, trên thị trường xuất hiện các loại sản phẩm cùng loại với

sản phẩm của các làng nghề nhưng sản xuất bằng máy nên giá cả cạnh tranh

rất thấp. Đồng thời, công nghệ, thiết bị máy móc sản xuất của các cơ sở sản

xuất tại các làng nghề truyền thống đa phần là lạc hậu, không đồng bộ, vì vậy

khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường rất thấp. Các yếu tố là một

trong những khó khăn lớn trong hoạt động quản lý nhà nước về giá cả, tìm

kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.

- Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn đến việc giảm lực lượng

lao động tại các làng nghề truyền thống.

- Các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống chưa quan tâm đến

vấn đề xây dựng thương hiệu, thiết kế mẫu mã, kiểu dáng cho sản phẩm... vì

vậy, trên thị trường xuất hiện rất nhiều sản phẩm công nghiệp giả mạo sản

phẩm làng nghề truyền thống do đó hoạt động quản lý nhà nước về sở hữu trí

tuệ cũng gặp phải những khó khăn nhất định.

- Chính sách đãi ngộ đối với các cán bộ quản lý phụ trách chuyên trách

chưa thỏa đáng do đó chưa thúc đẩy được nhiệt tâm của họ đối với công việc.

- Trình độ của người lao động còn thấp nên không tiếp thu được trình

độ kỹ thuật tiên tiến nên hạn chế việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại.

- Trong triển khai lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết ở địa

phương theo quyết định của Luật Đất đai và Nghị định 181 của Chính phủ,

68

UBND huyện và xã gặp phải rất nhiều khó khăn về điều kiện nguồn lực tài

chính và con người. Vì vậy, tình trạng tự phát trong sử dụng đất nông nghiệp

và phi nông nghiệp ở nông thôn diễn ra phổ biến, thiếu tác động quản lý kịp

thời và sát sao của UBND huyện và xã, chỉ đến khi xảy ra biến động lớn, khi

đó mới “vận hành” hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai theo quy định

của pháp luật. Điều tất yếu xảy ra là hiệu quả kinh tế - xã hội của sử dụng đất

trong nông nghiệp, nông thôn rất thấp.

Thiếu chế tài xử phạt mạnh đối với các cơ sở kinh doanh gây ô nhiễm

môi trường, đối với một số lĩnh vực đã có các văn bản quy định về vấn đề này

thì việc áp dụng còn lỏng lẻo, chưa triệt để.

2.5. Nguyên nhân những thuận lợi và khó khăn của hoạt động quản lý

nhà nƣớc đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

* Nguyên nhân những thuận lợi của hoạt động quản lý nhà nước đối

với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

- Việc khôi phục và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống là chủ

trương của Đảng và Nhà nước ta; hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều

chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển ngành nghề ở nông thôn;

đặc biệt, cả nước đang triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới là cơ

sở, điều kiện để các làng nghề đầu tư, mở rộng và phát triển. Thông qua

chương trình xây dựng nông thôn mới, hệ thống giao thông đi lại tại nông

thôn được nâng cấp, rất thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các

làng nghề truyền thống.

- Trong thời gian qua, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng một Chính phủ

kiến tạo và liêm chính, vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề

có nhiều thuận lợi, việc quản lý tại các làng nghề sẽ thuận lợi hơn, các doanh

nghiệp tại các làng nghề có nhiều cơ hội để phát triển.

- Quá trình xây dựng xã nông thôn mới được triển khai trên địa bàn tỉnh

đã có chuyển biến tích cực, ý thức của nhân dân được nâng cao. Các quy

69

hoạch về nông thôn mới cơ bản đã hoàn chỉnh là cơ sở để định hướng phát

triển làng nghề truyền thống trong thời gian đến.

- Nước ta gia nhập thành viên của WTO đã mở ra hướng đi mới cho các

cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống; các cơ sở đã có cách nhìn khác

về việc tạo ra sản phẩm chất lượng, mẫu mã đẹp để đáp ứng thị hiếu của

người tiêu dùng trong và ngoài nước. Các cơ quan quản lý nhà nước tiếp cận

được các thông tin mới về thị trường, công nghệ sản xuất sản phẩm, tìm kiếm

các nguồn vốn vay hợp lý, các nguồn tại trợ để hỗ trợ các làng nghề truyền

thống.

- Quỳnh Phụ là vùng đất đồng bằng nơi sản sinh các sản phẩm nông

nghiệp từ lâu đời đặc trưng của địa phương. Cùng với quá trình hình thành và

phát triển, lại là vùng đất hội tụ và giao thoa các tỉnh lân cận. Chính các yếu

tố này quyết định đến sự hình thành và phát triển làng, làng nghề là điều kiện

để mở rộng quy mô sản xuất tại các làng nghề truyền thống của địa phương.

* Nguyên nhân những khó khăn hạn chế của hoạt động quản lý nhà

nước đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

- Nhà nước thiếu cơ chế vận hành thông suốt hệ thống chính sách về

ngành nghề nông thôn, làng nghề từ Trung ương đến cơ sở, đem chính sách

về với người dân để người dân hiểu sử dụng chính sách một cách có hiệu quả.

- Nhiều chính sách được ban hành chưa thỏa đáng và không kịp thời

nên không áp dụng vào thực tế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan

quản lý nhà nước chưa được chặt chẽ, chưa theo quy trình.

- Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

còn nhiều bất cập, cồng kềnh; nguồn nhân lực quản lý hoạt động nhà nước đối

với làng nghề còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hội

nhập.

- Sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân địa phương về chủ trương của

Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn, bảo tồn và phát triển

70

làng nghề truyền thống chưa trở thành hành động mạnh mẽ của người dân.

Nhiều nơi còn ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước.

- Phát triển làng nghề truyền thống tuy có sự quan tâm của nhiều cấp,

nhiều ngành song nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp. Bản thân các hộ sản xuất lại

không đủ vốn để mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất. Các cơ sở nghề chưa

tiếp cận được các nguồn vốn vay với lãi suất thấp, hầu hết các làng nghề

truyền thống sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm làm ra phục vụ cho thị

trường nội địa là chủ yếu, sức cạnh tranh còn yếu. Bản thân mỗi làng nghề

truyền thống chưa có doanh nghiệp đầu đàn làm đầu mối cho việc tổ chức sản

xuất và tiêu thụ sản phẩm.

71

Tiểu kết chƣơng 2

Với vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương với các vùng kinh tế

trọng điểm của vùng Đông Bắc bộ, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió

mùa, mưa nhiều, độ ẩm cao, đất đai phì nhiêu màu mỡ nên huyện Quỳnh Phụ

rất thích hợp cho trồng cây nông nghiệp phục vụ phát triển các làng nghề

truyền thống. Sản xuất ở các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ rất sôi

động và ngày càng phát triển. Không những giải quyết việc làm tại chỗ, nâng

cao thu nhập cho người lao động mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,

tạo diện mạo mới cho các làng quê. Nhiều làng nghề không ngừng phát triển,

chiếm 70 - 80% tỷ trọng của thôn, làng, tiêu biểu như: bánh đa làng Dụ Đại,

xã Đông Hải; dệt chiếu xã An Vũ, An Lễ, An Dục, An Tràng; vàng mã xã An

Vinh; chế biến lương thực xã An Mỹ; gỗ mỹ nghệ xã An Đồng...

Tuy nhiên, hiện nhiều làng nghề sản xuất còn theo quy mô nhỏ lẻ, chất

lượng sản phẩm chưa cao, mẫu mã chậm thay đổi nên sức cạnh tranh kém,

chưa tạo dựng được thương hiệu. Hầu hết các làng nghề chưa có hạ tầng kỹ

thuật xử lý nguồn nước trước khi xả ra môi trường, cũng như thu gom chất

thải. Vấn đề nan giải chưa tìm được lời giải đối với nhiều làng nghề trên địa

bàn huyện Quỳnh Phụ hiện nay là khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.

Chính phủ, UBND tỉnh, UBND huyện đã ban hành nhiều chính sách ưu

tiên bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống cũng như nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống. Khi đưa vào thực hiện các cơ

chế chính sách đó đã thúc đẩy để phát triển và đẩy mạnh hoạt động của các

làng nghề truyền thống. Tuy nhiên nguồn lực hỗ trợ của Trung ương, tỉnh còn

nhiều hạn chế, chủ yếu hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa quan tâm nhiều đến

việc hỗ trợ phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Bộ máy quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống thiếu đồng bộ, cồng kềnh, còn chồng chéo

giữa các cơ quan quản lý nhà nước; chưa có sự liên kết giữa các cấp các

ngành, các phòng ban chuyên môn trong công tác quản lý nhà nước về làng

72

nghề truyền thống. Thiếu cán bộ quản lý làng nghề tại các địa phương, đặc

biệt chưa chú tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực quản lý tại địa phương.

Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra đối với các làng

nghề truyền thống chưa được tăng cường, rất mờ nhạt, làm giảm hiệu quả

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý nhà nước về

làng nghề được đẩy mạnh, bước đầu đã huy động được sự đóng góp, tham gia

quản lý của người dân đối với hoạt động quản lý, góp phần phát triển làng

nghề truyền thống tại địa phương, nhưng vẫn còn ở mức thấp.

Nguyên nhân là do thiếu cơ chế vận hành thông suốt hệ thống chính

sách về ngành nghề nông thôn, làng nghề từ Trung ương đến cơ sở. Nhiều

chính sách được ban hành chưa thỏa đáng và không kịp thời nên không áp

dụng vào thực tế. Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền

thống còn nhiều bất cập, cồng kềnh; nguồn nhân lực quản lý hoạt động nhà

nước đối với làng nghề còn yếu kém. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ

quan quản lý nhà nước chưa được chặt chẽ, chưa thường xuyên và theo quy

trình. Sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân địa phương đối với chủ trương

của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn, bảo tồn và phát

triển làng nghề truyền thống chưa được tốt. Các cơ sở nghề chưa tiếp cận

được các nguồn vốn vay với lãi suất thấp, hầu hết các làng nghề truyền thống

sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm làm ra phục vụ cho thị trường nội địa là

chủ yếu, sức cạnh tranh còn yếu. Bản thân mỗi làng nghề truyền thống chưa

có doanh nghiệp đầu đàn làm đầu mối cho việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ

sản phẩm.

73

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO

HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ

TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ

3.1. Quan điểm của Đảng về quản lý nhà nƣớc đối với làng nghề truyền

thống

3.1.1. Quan điểm của Đảng về quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống

Thứ nhất, quản lý phát triển làng nghề truyền thống không chỉ là một

yêu cầu phát triển kinh tế, mà còn là yêu cầu của việc duy trì và phát triển văn

hóa - xã hội. Phát triển làng nghề truyền thống phải dựa trên sự kết hợp hài

hòa các yếu tố truyền thống với hiện đại; dân tộc với quốc tế; giữa bản sắc

văn hóa riêng với những giá trị văn hóa, thẩm mỹ của nhân loại. Quản lý phát

triển làng nghề truyền thống gắn với bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc được kết tinh trong sản phẩm làng nghề.

Hiện nay, các làng nghề truyền thống gặp không ít khó khăn và thách

thức trong bảo tồn và phát triển. Chính vì vậy, tăng cường hoạt động quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống để giúp các làng nghề truyền thống

vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển và đóng góp cho đất nước là một nhiệm

vụ quan trọng của Đảng và nhà nước ta. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát

triển kinh tế - xã hội đi đôi với tuân thủ pháp luật”. Quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống sẽ định hướng cho hoạt động sản xuất sản phẩm của

làng nghề ở địa phương phát triển theo đúng mục tiêu của địa phương đã đề ra

trên cơ sở tạo lập môi trường thuận lợi cho các làng nghề tại địa phương tiếp

cận với các yếu tố tài nguyên, nguồn nhân lực.

74

Thứ hai, trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống, cần tăng cường sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với phát triển

ngành nghề nông thôn và bảo vệ môi trường để phát triển bền vững.

Khẩn trương chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển ngành nghề nông

thôn, phát triển các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn, gắn với việc

hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Quy hoạch phát triển ngành

nghề nông thôn được xây dựng phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội của địa phương và cả nước, gắn với bảo vệ môi trường làng

nghề.

Trong thời gian qua, việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền

thống đã mang lại hiệu quả cao, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và

đời sống cho người lao động. Tuy nhiên, do hoạt động quy hoạch và tổ chức

thực hiện phát triển làng nghề truyền thống tại một số địa phương chưa được

quan tâm đúng mức; nhiều làng nghề tiếp tục phát triển dựa vào sản xuất thủ

công, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không khí, đất, nước, ảnh

hưởng trực tiếp tới sức khoẻ cộng đồng.

Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ bảo

vệ môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Tại Nghị quyết số

41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2014 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi

trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã xác

định rõ: Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung

cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, qui

hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa

phương. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định phương hướng phát

triển cơ bản của nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”.

75

Thứ ba, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng

nông thôn mới, trong đó có bao gồm cả phát triển làng nghề truyền thống.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn xác định

nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng

cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, gắn với phát triển kinh tế nông thôn

và xây dựng nông thôn mới cần được đẩy mạnh để nâng cao thu nhập của

nông dân và phát triển kinh tế đất nước. Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII của Đảng, đã xác định một trong những phương hướng đổi

mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với

xây dựng nông thôn mới, trong đó có bao gồm cả phát triển làng nghề truyền

thống.

Thứ tư, cần xây dựng lại tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với

ngành nghề nông thôn phù hợp và có hệ thống để tăng cường hiệu lực, hiệu

quả quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Hiện nay việc quản lý nhà nước đối với các làng nghề còn phân tán,

chồng chéo, khiến hiệu quả hoạt động của các làng nghề chưa cao. Vì vậy,

cần hoàn chỉnh lại bộ máy tổ chức hoạt động quản lý làng nghề truyền thống

quy về một đầu mối.

Quan điểm này được đề cập trong nội dung Văn kiện Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XII, là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ

Đại hội XII của Đảng: “Cần xây dựng lại tổ chức bộ máy của toàn hệ thống

chính trị tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả”.

76

3.1.2. Quan điểm của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống

* Quan điểm chung

- Phát triển ngành nghề ở khu vực nông thôn phải phù hợp với Quy

hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020; phù hợp với Quy

hoạch phát triển công nghiệp Thái Bình giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn

2030.

- Phát triển ngành nghề nông thôn phải đáp ứng định hướng, mục tiêu

của Nghị quyết Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ gần nhất là Nghị quyết đại hội Đảng

bộ tỉnh lần thứ XVIII.

- Khai thác lợi thế của Thái Bình trong vùng kinh tế trọng điểm và

tuyến hành lang kinh tế Thái Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh. Để phát triển

công nghiệp nông thôn của tỉnh, gắn với thị trường và vùng nguyên liệu để

phát triển các mặt hàng có lợi thế so sánh và tính cạnh tranh cao.

- Lựa chọn phát triển các ngành nghề, ngành nghề truyền thống có lợi

thế so sánh, các ngành nghề phụ trợ, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài

nguyên, năng lượng, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế cao.

- Coi trọng chất lượng tăng trưởng và giá trị gia tăng của sản xuất công

nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo an ninh quốc phòng và đảm bảo

phát triển bền vững.

- Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn gắn với xây

dựng nông thôn mới, huy động mọi nguồn lực trong dân, đồng thời phải có sự

hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức quốc tế. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp nông thôn phải kết hợp hài hoà nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ

chức và sở hữu.

* Phát triển làng nghề truyền thống là một bộ phận trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội

77

Mục tiêu phát triển làng nghề truyền thống hay xây dựng các khu, cụm

công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là để phát triển kinh tế góp phần tăng

trưởng kinh tế xã hội của nông nghiệp nông thôn. Đó là quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình phát triển làng nghề

truyền thống hay xây dựng các khu, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, thu hút lao động từ nông

nghiệp sang công nghiệp, làm cơ sở nền tảng để phát triển công nghiệp. Quá

trình đó chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông

nghiệp nông thôn và cũng chính là thực hiện quá trình đô thị hoá nông thôn

của tỉnh. Muốn thực hiện có hiệu quả việc phát triển làng nghề truyền thống

hay xây dựng các khu, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng

bền vững theo các hướng sau:

- Xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống hay xây dựng

các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu

thủ công nghiệp, của từng, xã cần gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh

tế - xã hội của huyện đi đôi với phát triển thương mại, dịch vụ. Đây là khâu

quan trọng cần phải đi trước, nó ảnh hưởng và quyết định đến sự phát triển

lâu dài, bền vững của làng nghề truyền thống hay các cụm công nghiệp làng

nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cũng như

bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. Xây dựng làng nghề truyền thống hay

xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là để hạn chế ô nhiễm môi trường và đạt hiệu

quả kinh tế cao.

- Quy định về tổ chức bộ máy quản lý hoạt động của làng nghề truyền

thống các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp -

tiểu thủ công nghiệp. Để quản lý làng nghề truyền thống, các cụm công

nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

có hiệu quả cần phải phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng

78

quản lý nội bộ làng nghề truyền thống các cụm công nghiệp làng nghề truyền

thống, khu - cụm công nghiệp -tiểu thủ công nghiệp. Trong đó, cần phải phân

công, phân cấp quản lý: ai làm chức năng quản lý nhà nước, ai làm chức năng

quản lý nội bộ để không chồng chéo nhau.

- Xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách theo hướng tạo ra

môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển làng nghề truyền thống, các

cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ

công nghiệp.

- Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao

thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, trường, trạm y tế… nhằm tạo điều

kiện để làng nghề truyền thống, các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống,

khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mở rộng quy mô sản xuất,

chuyển giao công nghệ, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao năng suất lao động.

Tạo điều kiện làng nghề truyền thống, các cụm công nghiệp làng nghề truyền

thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mở rộng giao lưu sản

xuất, mở rộng thị trường cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.

- Việc quy hoạch xây dựng làng nghề truyền thống, các cụm công

nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

phải tuỳ thuộc vào từng ngành nghề khác nhau. Những ngành nghề nào không

cần nhiều diện tích, không gây ô nhiễm môi trường thì không nhất thiết phải

hình thành cụm công nghiệp làng nghề truyền thống. Những ngành nghề nào

cần nhiều diện tích, gây ô nhiễm môi trường thì nhất thiết phải xây dựng cụm

công nghiệp làng nghề truyền thống. Khi quy hoạch xây dựng cụm công

nghiệp làng nghề truyền thống phải tính toán đầy đủ diện tích cần thiết cho

một hộ gia đình để mở rộng sản xuất, tránh tình trạng giải quyết diện tích một

hộ gia đình sản xuất quá hẹp, không thể mở rộng sản xuất dẫn đến biến cụm

công nghiệp làng nghề truyền thống trở thành khu dân cư. Xây dựng cụm

công nghiệp làng nghề truyền thống phải quy hoạch khu vực sản xuất, khu

79

vực dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Khu tiêu thụ sản

phẩm có thể gắn liền với khu dân cư và phải quy hoạch xây dựng thống nhất

theo một mẫu mã, kiến trúc nhất định của cơ quan quản lý nhà nước nhằm

đảm bảo tổng thể kiến trúc hài hoà, đảm bảo môi trường xanh - sạch - đẹp,

gắn liền với hoạt động văn hoá, du lịch. Có như vậy mới thực hiện được chủ

trương xây dựng mô hình du lịch làng nghề truyền thống của tỉnh góp phần

tăng trưởng kinh tế bền vững.

- Phát triển cụm công nghiệp làng nghề truyền thống phải gắn với việc

giải quyết chế độ chính sách cho những hộ có diện tích đất bị thu hồi phục vụ

cho xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống như cho họ làm dịch

vụ hoặc tuyển dụng vào làm việc trong các cụm công nghiệp làng nghề truyền

thống. Phát triển cụm công nghiệp làng nghề truyền thống phải gắn với việc

sử dụng lao động nông nghiệp của làng nghề, xã nghề hoặc các xã xung

quanh cụm công nghiệp làng nghề truyền thống nhằm giải quyết việc làm cho

người nông dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông

nghiệp nông thôn.

- Phát triển làng nghề truyền thống phải theo hướng đa dạng hoá hình

thức sở hữu, mô hình tổ chức sản xuất, định hướng ưu tiên công nghệ tiên

tiến, hiện đại kết hợp với cổ truyền trong các làng nghề truyền thống.

* Phát triển làng nghề truyền thống nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Cần phải nhận thức đúng đắn vị trí của làng nghề truyền thống trên địa

bàn huyện Quỳnh Phụ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một bộ phận quan trọng của chiến lược công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Làng nghề truyền thống

nông thôn giữ một vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển mô

hình nông thôn mới văn minh, hiện đại. Đặc biệt, sự phát triển làng nghề

truyền thống nông thôn còn là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự

80

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa là quy luật tất yếu khách quan trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nền kinh tế nhưng đây là một quá trình lâu dài với nhiều nội

dung phức tạp như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành kinh tế, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

thành phần kinh tế. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo

ngành kinh tế là thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông chuyển sang

cơ cấu kinh tế tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đây là con đường tất yếu

để phát triển một cách toàn diện nền kinh tế nông thôn, tạo điều kiện khai thác

có hiệu quả các nguồn lực sẵn có của địa phương và từng bước hình thành cơ

cấu kinh tế nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đóng

một vai trò rất quan trọng, bởi nó tạo ra những tiền đề hỗ trợ cho sự phát triển

nền đại công nghiệp và các ngành công nghiệp. Mặt khác, các làng nghề

truyền thống ở nông thôn còn là cầu nối giữa sản xuất nông nghiệp với sản

xuất công nghiệp, giữa khu vực nông thôn với thành thị, giữa tính truyền

thống với sự hiện đại. Do vậy, sự phát triển của các làng nghề truyền thống ở

nông thôn là quá trình vận động, biến đổi để thích ứng dần với những điều

kiện mới.

Nhận thức được vai trò quan trọng của làng nghề truyền thống nông

thôn, những năm qua Đảng ta đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển các

làng nghề truyền thống nông thôn nhất là làng nghề truyền thống sản xuất

hàng xuất khẩu, kinh doanh dịch vụ gắn với du lịch và đã ban hành nhiều

chính sách nhằm khôi phục và khuyến khích phát triển các làng nghề truyền

thống ở nông thôn.

81

* Phát triển làng nghề truyền thống trong mối quan hệ liên kết, hỗ trợ,

chuyển giao kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các địa phương.

Làng nghề truyền thống gắn liền với máy móc cũ, lạc hậu, thô sơ và lao

động thủ công. Nhưng sản phẩm làng nghề truyền thống gắn liền với nét văn

hoá độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc và gắn liền với kỹ nghệ tinh xảo của

những bàn tay tài hoa do các nghệ nhân hay người thợ tạo nên. Phát triển làng

nghề truyền thống là mở rộng quy mô sản xuất của các làng nghề truyền

thống, sử dụng công nghệ hiện đại, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất

hàng loạt. Do đó, để kết hợp hài hoà giữa tính hiện đại và kỹ thuật truyền

thống trong việc tạo ra sản phẩm làng nghề truyền thống cần phải nghiên cứu

cải tiến áp dụng khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại vào khâu nào, giai đoạn

nào của quá trình sản xuất; còn khâu nào, thao tác nào phải sử dụng lao động

thủ công, kỹ thuật truyền thống. Có như vậy mới đáp ứng yêu cầu của quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

* Quy hoạch đất cho phát triển làng nghề truyền thống.

Công tác quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống

là khâu đầu tiên phải được coi trọng vì khâu này ảnh hưởng có tính chất quyết

định đến sự phát triển lâu dài, bền vững của cụm công nghiệp làng nghề

truyền thống. Mục tiêu thành lập cụm công nghiệp làng nghề truyền thống là

để hạn chế ô nhiễm môi trường và phát triển kinh doanh tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, khi quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống

phải thực hiện một số nguyên tắc sau:

- Những ngành nào, sản phẩm nào tăng trưởng mà không ô nhiễm môi

trường như thêu ren, mây tre đan, dệt chiếu… thì không nhất thiết phải thành

lập cụm công nghiệp làng nghề truyền thống.

- Những ngành nào, sản phẩm nào làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng

xấu thì kiên quyết thành lập cụm công nghiệp làng nghề truyền thống để tách

khu vực sản xuất ra khỏi khu dân cư. Cần tránh tình trạng biến cụm công

82

nghiệp làng nghề truyền thống thành một khu dân cư mới. Cụm công nghiệp

làng nghề truyền thống phải có hệ thống xử lý chất thải, phải có hệ thống cây

xanh, phải quy hoạch xây dựng thống nhất theo một mô hình kiến trúc tạo nên

một tổng thể hài hoà có môi trường xanh, sạch, đẹp.

- Quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống phải

chú ý kết hợp:

+ Phát triển ngành nghề trong chiến lược lâu dài.

+ Phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

+ Sử dụng đất đai của địa phương một cách có hiệu quả.

+ Phát triển các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa

và nhỏ trên địa bàn huyện.

* Phát triển làng nghề truyền thống sản xuất sản phẩm thủ công mỹ

nghệ gắn với du lịch.

Cùng với việc xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, làng

nghề mới, cần bảo tồn không gian, môi trường và sinh hoạt văn hoá, sản xuất

của các làng nghề truyền thống. Nghĩa là, khi xây dựng cụm công nghiệp làng

nghề truyền thống cần phải bảo tồn, lưu giữ lại một bộ phận môi trường, cảnh

quan, các hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hoá của làng nghề truyền thống

du lịch. Như vậy, không chỉ có những chủ trương, chính sách nhằm xây dựng

và phát triển cụm công nghiệp làng nghề truyền thống mà còn phải có chính

sách hỗ trợ nhằm bảo tồn không gian, môi trường và sinh hoạt văn hoá của

làng nghề truyền thống tiêu biểu. Trong cụm công nghiệp làng nghề truyền

thống cần xây dựng trung tâm triển lãm, hội chợ nhằm giới thiệu, quảng bá

sản phẩm và văn hoá làng nghề truyền thống. Trên phạm vi toàn huyện cần

xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm, hội chợ thương mại, du lịch… để

quảng bá, giới thiệu các sản phẩm thủ công, những kết quả, thành tựu bảo tồn

và phát huy văn hoá làng nghề truyền thống. Cần xây dựng một phòng bảo

tàng trưng bày, giới thiệu lịch sử, văn hoá làng nghề truyền thống. Xây dựng

83

và phát triển du lịch làng nghề truyền thống gắn với khu di tích lịch sử, di sản

văn hoá của huyện tạo nên một quần thể các điểm du lịch, thu hút du khách

trong và ngoài nước góp phần tăng trưởng kinh tế của địa phương.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về làng nghề

truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình

Trước thực trạng trên, để thực hiện tốt hoạt động quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện cần tập trung thực hiện các giải

pháp sau:

3.2.1. Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực

hiện văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống

Một là, rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính

thông thường không còn phù hợp, không có khả năng thực hiện, nhằm loại

bỏ. Ví dụ như một số văn bản sau:

- Quyết định số 37/2001/QĐ-UBND ngày 30/7/2001 của UBND huyện

Quỳnh Phụ quy định về khuyến khích đầu tư phát triển ngành nghề tiểu thủ

công nghiệp, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh. Quy định này đã xuất

hiện nhiều bất cập, không phù hợp với tình hình hiện tại của địa phương.

- Quyết định số 1224/QĐ-UBND, ngày 07/4/2015 của UBND huyện về

việc phê duyệt Đề án Phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du

lịch trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ giai đoạn 2015 - 2020; Quyết định này đã

được ban hành hai năm, tuy nhiên cũng không có kinh phí để triển khai thực

hiện, cần xem xét rà soát lại để thay văn bản mới có tính khả thi, nhằm góp

phần phát triển du lịch của làng nghề truyền thống.

Hai là, hướng dẫn và tổ chức thực hiện một số chính sách hiện có của

Trung ương, của tỉnh có tác động đến phát triển làng nghề, làng nghề truyền

thống như:

84

- Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn tại Quyết

định 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ;

- Quyết định 23/2010/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015

và định hướng đến năm 2020”;

- Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 22/4/2010 của Chính phủ về chính

sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

- Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 04/6/2010 của Chính phủ Chính

sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;

- Quyết định 1216/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 phê duyệt Chiến lược Bảo

vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - là chính sách

về khoa học công nghệ và chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và xử lý môi

trường làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn.

Ba là, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy pháp pháp luật

phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất của làng nghề

tại địa phương, nhằm giúp các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh

trên địa bàn tỉnh có điều kiện phát triển sản phẩm làng nghề truyền thống; đặc

biệt, ưu tiên phát triển các làng nghề có công nghệ sản xuất thân thiện với môi

trường, làng nghề có doanh thu cao, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao

động với mức thu nhập ổn định.

- Hiện nay, đa số các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống còn

thiếu những kiến thức về thị trường, cách thức quảng bá, giới thiệu sản

phẩm... Vì vậy, cần thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế hỗ

trợ các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống trong lĩnh

vực xúc tiến thương mại.

- Sản phẩm của làng nghề truyền thống trong đó yếu tố truyền thống

được kết tinh trong từng sản phẩm là quan trọng nhất, sản phẩm làng nghề

mang tính nghệ thuật rất cao. Những làng nghề truyền thống đang tồn tại là

85

những làng nghề biết kết hợp tinh hoa, nghệ thuật của truyền thống và tiến bộ

của khoa học công nghệ, bắt kịp với sự đổi mới của đất nước, tuân thủ sự vận

động của cơ chế thị trường, nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Vì

vậy, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững cần thực hiện các văn

bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị máy móc để

hỗ trợ hoạt động sản xuất của các cơ sở ở những công đoạn cần thiết có sự

phụ trợ của máy móc, nhằm tạo ra sản phẩm vẫn giữ được nét truyền thống

được kết tinh trong sản phẩm, vừa tạo ra được sản phẩm có thể cạnh tranh

trên thị trường.

Bốn là, cần xây dựng quy hoạch hoạch tổng thể cho các làng nghề

truyền thống trong phạm vi huyện theo quy định tại Nghị định số

66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề

nông thôn.

Việc quy hoạch phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy

hoạch sử dụng đất đai, vùng thương mại, vùng nguyên liệu, phát triển du lịch

và theo hướng bền vững. Việc quy hoạch các làng nghề truyền thống còn xây

dựng theo hướng quy hoạch những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục

vụ du lịch, những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục vụ sản xuất, và

những những làng nghề truyền thống vừa phục vụ cho sản xuất vừa phục vụ

cho phát triển du lịch.

Thực hiện khảo sát quy hoạch, thiết kế xây dựng cần tập trung đến

chiều hướng phát triển của các làng nghề truyền thống: những làng nghề

truyền thống mà sản phẩm đang là nhu cầu của thị trường nhưng bị suy giảm

về năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm, sẽ tập trung đầu tư, hỗ trợ để

bảo tồn và khôi phục; đối với làng nghề truyền thống sản xuất các mặt hàng

mà hiện nay thị trường không có nhu cầu thì cần phải mạnh dạn xóa bỏ và

thay thế bằng nghề mới; đối với những ngành nghề có tiềm năng phát triển,

86

thị trường được mở rộng cần quan tâm và có hướng đầu tư phù hợp để nâng

cao vị thế, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước.

Quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống theo hướng hình thành các

cụm công nghiệp làng nghề nhằm chuyển một số cơ sở sản xuất kinh doanh

khỏi khu dân cư để khỏi ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong hoạt động sản

xuất kinh doanh như thuận tiện trong việc thu mua, vận chuyển nguyên liệu;

mở rộng và tìm kiếm thị trường tiêu thụ, quảng bá cho sản phẩm… Cần chủ

động quy hoạch vùng nguyên liệu tương ứng với các sản phẩm làng nghề, có

kế hoạch đầu tư, gây dựng những loại giống nguyên liệu có chất lượng cao,

đảm bảo chất lượng sản phẩm, tập trung quy hoạch các vùng nguyên liệu lúa

gạo, mây, tre, cói... Nguyên liệu sản xuất của các làng nghề truyền thống chủ

yếu là khai thác tự nhiên hoặc các sản phẩm của nông nghiệp. Chính vì vậy,

với những nguyên liệu tự nhiên, các làng nghề truyền thống cần có kế hoạch

khai thác hợp lý, hạn chế việc khai thác ồ ạt, có tính chất tận diệt. Căn cứ vào

vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của huyện quy hoạch vùng nguyên liệu theo

hướng khoanh vùng nuôi trồng, đẩy mạnh việc thâm canh, tăng năng suất cây

trồng đối với cây công nghiệp và cây nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại các

làng nghề truyền thống.

Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành để hoàn thành thủ tục,

công khai quy hoạch, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư vào sản

xuất trong các làng nghề truyền thống. Cần thực hiện sự phân cấp rõ ràng

trong quy hoạch để tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý.

Năm là, tăng cường quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, coi

việc hướng dẫn, giúp đỡ phát triển làng nghề truyền thống là trách nhiệm của

các cấp, các ngành. Khi có văn bản mới ban hành cần tổ chức tập huấn, phổ

biến, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện. Cán

bộ quản lý nhà nước đối với làng nghề phải thường xuyên xuống cơ sở,

hướng dẫn các cơ sở nắm bắt kịp thời các thông tin, chính sách mới để các cơ

87

sở sản xuất, kinh doanh tại làng nghề có định hướng phát triển. Tiếp tục đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương chính sách của

Đảng và nhà nước về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, các

chương trình phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm của địa

phương.

3.2.2. Tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

Để thực hiện tốt hoạt động tổ chức về quản lý nhà nước về làng nghề

truyền thống cần tập trung vào các giải pháp sau:

Một là, cần có sự thống nhất giao nhiệm vụ quản lý nhà nước và tập

trung một đầu mối về hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề.

Hiện nay, việc quản lý nhà nước về làng nghề truyện thống của huyện

do bốn phòng chuyên môn khác nhau tham gia quản lý, điều này dẫn đến hiệu

quả hoạt động của các làng nghề chưa cao vì trong thực tế khi có vấn đề cần

giải quyết nhưng do có nhiều cơ quan cùng tham gia trong bộ máy tổ chức

quản lý nên thường đùn đẩy trách nhiệm trong quản lý, giải quyết không

nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các

làng nghề truyền thống. Để tránh tình trạng phân tán như hiện nay, thống nhất

đầu mối quản lý; cụ thể như sau:

Huyện cần tập trung về một đầu mối quản lý bằng cách thành lập một

ban riêng lấy tên là Ban Quản lý làng nghề huyện Quỳnh Phụ. Ban Quản lý

làng nghề sẽ tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà

nước ở địa phương về ngành nghề, làng nghề ở nông thôn đồng thời, Ban này

chịu sự quản lý của Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Thái Bình về hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của địa phương.

Ở cấp xã, tăng cường và phát huy vai trò của UBND cấp xã trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, đẩy mạnh việc tuyên

truyền về giá trị của sản phẩm làng nghề, bảo vệ môi trường làng nghề, góp

88

phần thúc đẩy làng nghề phát triển một cách bền vững. Bộ phận tham mưu

giúp việc cho UBND cấp xã trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống là Ban Nông nghiệp xã.

Hai là, cần tăng cường sự phối hợp, chỉ đạo điều hành trong hoạt động

quản lý nhà nước giữa huyện và các địa phương.

Để nắm bắt kịp thời thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống giữa các cấp quản lý cần có quy định về công tác báo

cáo định kỳ của cấp xã về hoạt động quản lý làng nghề truyền thống ở địa

phương đối với cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở cấp

huyện (Ban Quản lý làng nghề huyện) và ngược lại là sự chỉ đạo thường

xuyên, xuyên suốt của cơ quan cấp huyện đối với các cơ quan quản lý nhà

nước về làng nghề truyền thống cấp xã.

Từ việc đề xuất mô hình quản lý như đã nêu trên, tôi mô phỏng lại sơ

đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống của

tỉnh huyện Quỳnh Phụ như sau:

UBND huyện

Ban Quản lý làng nghề

UBND xã

Ban Nông nghiệp

Sơ đồ 3.2.2: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng

nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ (theo mô hình mới)

Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

thực hiện theo mô hình trên sẽ tinh gọn, quy về một đầu mối quản lý và tăng

tính trách nhiệm, tránh được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau trong

89

hoạt động thực thi công vụ ở từng bộ phận, từng cấp tham mưu trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Ở cấp huyện là Ban

Quản lý làng nghề và ở cấp xã là Ban Nông nghiệp xã.

Ba là, UBND huyện nghiên cứu, đưa nội dung phát triển làng nghề

truyền thống vào Nghị quyết chuyên đề của cấp ủy, chính quyền địa phương

để chỉ đạo phát triển làng nghề gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới.

Bốn là, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống của UBND cấp xã, xem đây là một trong các nội dung

quan trọng của Đề án phát triển sản xuất, tăng thu nhập của cư dân nông thôn,

khi thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.

UBND cấp xã cần theo dõi và nắm chắc tình hình sản xuất, kinh doanh

của các hộ, các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống, tăng cường

công tác kiểm tra, kiểm soát để báo cáo các cơ quan quản lý nhà nước cấp

trên nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn, có tính khả thi cao trong hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Để đảm bảo nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống, cần tập trung vào các giải pháp sau:

- Nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống chưa chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, cán bộ quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống ở các địa phương chủ yếu là kiêm nhiệm,

thường biến động về tổ chức nên việc tiếp cận, bám sát nội dung hoạt động

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bị hạn chế. Vì vậy, cần bố trí cán

bộ chuyên trách tại UBND các xã, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống, nhằm đảm bảo sự ổn định và nâng cao năng lực quản

lý của cán bộ chuyên trách. Để thể hiện được tính chuyên môn hóa, chuyên

nghiệp hóa thì trước hết trong công tác bố trí cán bộ phải bố trí đúng ngành

nghề khi tuyển dụng, trong quá trình công tác cần phát huy năng lực của cán

90

bộ để đào tạo nâng cao tay nghề mang tính chuyên nghiệp; ví dụ như cán bộ

chuyên về lĩnh vực báo cáo viên, tuyên truyền - hướng dẫn phổ biến các văn

bản, chính sách của nhà nước, cán bộ chuyên về hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo kỹ

năng tiếp thị, quảng bá, tìm kiếm mở rộng thị trường…

- Cần có kế hoạch cụ thể, định kỳ trong việc đào tạo nâng cao kỹ năng

quản lý nhà nước cho các cán bộ tham gia công tác quản lý nhà nước về làng

nghề truyền thống tại các địa phương.

+ Quy định ít nhất một năm hai lần tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống từ cấp huyện đến cấp xã, có thể tập

huấn thông qua hình thức trực tuyến hoặc giới thiệu trực tiếp.

+ Trong các chương trình đào tạo kỹ năng quản lý làng nghề truyền

thống cần phải dựa vào các giáo trình, đi từ lý thuyết đến thực hành, khắc

phục tình trạng việc đào tạo không có giáo trình, chủ yếu được biên soạn theo

kinh nghiệm sẽ không đảm bảo tính khoa học, logic và thiếu hẳn phần lý

thuyết.

+ Việc phổ biến các thông tin, kỹ năng quản lý có thể dưới hình thức

văn bản hướng dẫn hoặc phổ biến trên các tạp chí chuyên ngành để cán bộ

quản lý dễ tiếp cận và tìm hiểu.

- Đào tạo và xây dựng mạng lưới Ban quản lý làng nghề ở các xã (là

thành viên Ban Nông nghiệp của xã), đây là lực lượng nòng cốt để đề xuất,

xây dựng và trực tiếp triển khai thực hiện các chương trình phát triển làng

nghề truyền thống nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống ở địa phương.

- Cần có cơ chế khuyến khích hỗ trợ nghệ nhân, thợ giỏi truyền nghề và

tăng cường việc giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các làng nghề có cùng

nhóm nghề.

+ Duy trì việc tổ chức các hoạt động phong tặng, tôn vinh các danh

hiệu nghệ nhân, thợ giỏi cho các làng nghề truyền thống. Có chính sách trợ

91

giúp chi phí tổ chức lớp học đào tạo nghề tại các làng nghề để khuyến khích

các nghệ nhân mở lớp truyền nghề, truyền bí quyết, người thiết kế mẫu sản

phẩm trong các làng nghề truyền thống.

+ Tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích và giúp đỡ nghệ nhân lao

động sáng tạo, tham gia nghiên cứu, truyền dạy nghề cho lớp trẻ: Các nghệ

nhân, thợ giỏi được tổ chức truyền nghề trực tiếp và được thu tiền của học

viên theo nguyên tắc thỏa thuận, được miễn các loại thuế trọng hoạt động

truyền, dạy nghề.

+ Hằng năm, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

cần tổ chức các hoạt động như tham quan, học tập kinh nghiệm tại các mô

hình làng nghề phát triển cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh của các làng

nghề.

- Tập trung làm tốt công tác đào tạo nghề phi nông nghiệp cho lao động

ở các làng nghề; nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ về đóng

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn cho người lao động tại các

làng nghề.

- Thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các làng

nghề theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm

2020”.

3.2.3. Các chính sách phát triển làng nghề truyền thống

* Chính sách thị trường

Một là, về thị trường sản phẩm, hàng hoá: Thị trường sản phẩm hàng

hoá vẫn là thị trường quan trọng nhất của làng nghề truyền thống. Trong đó

các mặt hàng mộc dân dụng, nông sản… là những mặt hàng có khối lượng

tiêu thụ lớn. Ngoài ra, các mặt hàng tiêu dùng, dệt chiếu, quần áo, nông cụ…

vẫn có nhu cầu ngày càng tăng do đời sống của nhân dân được cải thiện. Các

sản phẩm mỹ nghệ trang trí cho nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội thời gian

92

tới vẫn tiếp tục phát triển. Song những mặt hàng này đang chịu áp lực của

hàng nhập lậu tràn lan. Vì vậy, một mặt cần nâng cao khả năng cạnh tranh sản

phẩm của làng nghề truyền thống nhờ các biện pháp: đầu tư, đổi mới công

nghệ, tiếp thị, tìm thị trường, liên doanh, liên kết, tăng cường tổ chức sản xuất

và quản lý sản phẩm. Mặt khác, phải phát triển các hình thức gia công hợp tác

làm “vệ tinh” cho doanh nghiệp Nhà nước ở đô thị để tạo ra thị trường lớn và

ổn định. Tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế trong làng nghề truyền

thống thay đổi mẫu mã của sản phẩm, nắm vững thị hiếu của người tiêu dùng

trong và ngoài tỉnh. Đồng thời, có biện pháp kích cầu cũng như nâng cao mức

thu nhập để tăng sức mua của dân. Kiên quyết ngăn chặn hàng nhập lậu,

khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa. Phát triển mạnh các trung tâm thương

mại, hình thành các tụ điểm thương mại, thị trấn, chợ ở nông thôn.

Hai là, về thị trường du lịch: Lượng khách trong và ngoài tỉnh du lịch

đến Quỳnh Phụ ngày một tăng nhất là các ngày lễ hội của địa phương như lễ

hội Đền Đợi, Lễ hội Đền Đồng Bằng… họ thường mua những sản phẩm

truyền thống của địa phương… do đó cần phải phát triển mẫu mã mới, nâng

cao chất lượng sản phẩm để tăng sức mua của khách du lịch. Việc quan trọng

hàng đầu là phải có chiến lược phát triển sản xuất phục vụ cho khách du lịch.

Những sản phẩm sản xuất bán ra cho khách du lịch phải có nét đặc thù, tính

độc đáo và đặc sắc mang yếu tố truyền thống Việt Nam từ đó họ sẽ có nhu

cầu nhiều hơn về sản phẩm của làng nghề truyền thống tạo tiền đề cho thị

trường xuất khẩu phát triển.

Ba là, về thị trường xuất khẩu: Tiềm năng xuất khẩu trong làng nghề

truyền thống của huyện còn rất lớn và khả quan, song khối lượng xuất khẩu

hiện nay còn nhỏ bé, về lâu dài, xuất khẩu vẫn là thị trường quan trọng. Vấn

đề đặt ra hiện nay là: phải có kế hoạch đầu tư vào việc nghiên cứu phát triển

sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Khác với tính chất của sản phẩm

bán cho khách du lịch là mang đặc tính của truyền thống Việt Nam; sản phẩm

93

xuất khẩu ra nước ngoài cần được khai thác kỹ lưỡng năng lực truyền thống

để tạo ra những sản phẩm mới và có mẫu mã phù hợp với thị hiếu và tiêu

chuẩn quốc tế. Do đó, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi thích hợp đối với

những nhà sản xuất các mặt hàng truyền thống để họ có cơ hội duy trì phát

triển mặt hàng thông qua việc mở rộng sản xuất, bồi dưỡng tay nghề cho sự

nghiệp kế tục và cải tiến sản phẩm. Đối với các cơ sở sản xuất trong làng

nghề truyền thống coi trọng thị trường tiêu thụ nước ngoài thông qua các cơ

quan ngoại thương, ngoại giao để nắm vững thị hiếu tiêu dùng của từng khu

vực, từng nước đối với từng mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta và tiến hành

công tác dự báo, dự đoán thị trường nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh

hợp lý; thường xuyên nghiên cứu sự biến động nhu cầu và thị hiếu khách

hàng ở các nước khác nhau mà cải tiến sản phẩm cho phù hợp. Chú ý hơn nữa

việc phát triển quan hệ với các loại khách hàng ở những thị trường khác nhau

để tạo khả năng mở rộng thị trường. Tiến hành tìm chọn những bạn hàng

nước ngoài để liên doanh, liên kết trong sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Trên cơ

sở đó thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý nước ngoài để xây dựng sản

phẩm của Việt Nam trong cách nhìn của người nước ngoài.

Bốn là, thị trường chuyển giao công nghệ: Phát triển cơ cấu công nghệ

kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, sử dụng triệt để những thành tựu công

nghệ trong nước, công nghệ truyền thống, đồng thời khai thác kịp thời công

nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kết hợp hài hoà giữa kích thích nhập khẩu

công nghệ với khuyến khích sáng tạo sản xuất, chuyển giao công nghệ trong

nước; phát triển hoạt động tư vấn dịch vụ cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học

kỹ thuật nâng cao năng lực công nghệ tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Có chính

sách đánh thuế thấp hoặc miễn giảm thuế đối với những máy móc thiết bị có

hàm lượng khoa học kỹ thuật cao và những máy móc thiết bị nhỏ lẻ sử dụng

trong các làng nghề truyền thống. Do vậy, đi đôi với việc sử dụng đôi bàn tay

94

khéo léo của người thợ cần hiện đại hoá công nghệ truyền thống bằng cách

dùng máy cơ khí trong các khâu tạo phôi, sơ chế và xử lý nguyên vật liệu…

* Chính sách tài chính tín dụng

Giải pháp tạo vốn và khuyến khích đầu tư cần được ưu tiên theo hướng:

- Nhà nước tạo điều kiện trong việc huy động vốn an toàn và có hiệu

quả cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Để thực hiện tốt

vấn đề này cần có trung tâm hỗ trợ tài chính và bảo lãnh tín dụng. Sự giúp đỡ

này là vô cùng to lớn trong việc nâng cao quy mô sản xuất và thu hút vốn đầu

tư ngày càng nhiều.

- Đa dạng hoá hình thức cho vay vốn đối với làng nghề truyền thống,

thay đổi định mức cho vay và thời gian cho vay. Tăng cường kiểm soát các

nguồn vốn vay để hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn

vay đúng mục đích và có hiệu quả.

- Tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng. Mở rộng

hình thức cho vay tín chấp, cho vay có bảo lãnh đối với những hộ nông dân

quá nghèo, có chính sách hỗ trợ vốn để họ có điều kiện sản xuất kinh doanh.

Cải tiến các thủ tục cho vay sao cho thật đơn giản nhưng vẫn phải đảm bảo an

toàn vốn.

- Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng trong nông thôn. Đó là tín

dụng cộng đồng làng xã để giúp đỡ nhau tạo vốn phát triển sản xuất trong

làng nghề truyền thống. Các tổ chức tín dụng nông thôn cần đổi mới thủ tục

cho vay vốn, mở rộng quy mô và phạm vi cho vay sao cho phù hợp với quy

mô sản xuất của họ. Đồng thời, có chính sách, biện pháp bảo hiểm vốn, tài

sản cho quỹ tín dụng.

- Trong các làng nghề truyền thống hiện nay đang xuất hiện một số chủ

sản xuất kinh doanh do làm ăn hiệu quả đã trở thành những người có vốn lớn,

nắm quyền chi phối toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của làng. Số còn lại

do nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố thiếu vốn đang trở thành người làm

95

thuê hoặc con nợ của các ông chủ. Để tránh tình trạng bóc lột quá mức đối với

thợ thủ công, những người nghèo, Nhà nước cần có các hình thức, biện pháp

xử lý nghiêm đối với hiện tượng cho vay nặng lãi, hình thức lừa đảo, chiếm

dụng vốn của nhau nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh trong làng

nghề truyền thống.

- Chính sách đầu tư, trước tiên cần ưu tiên vốn đầu tư của ngân sách

Nhà nước để hỗ trợ và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho làng nghề

truyền thống. Sự ưu tiên này cần tập trung vào các cơ sở sản xuất sử dụng

nhiều lao động, sản xuất những mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Đối với những

mặt hàng mới sản xuất lần đầu, Nhà nước tạo điều kiện cho việc sử dụng đất

đai, kho bãi để khuyến khích họ đổi mới mẫu mã.

* Chính sách thuế

Để khuyến khích và tạo điều kiện cho làng nghề truyền thống phát

triển, chính sách thuế phải trở thành đòn bẩy kích thích sản xuất và là công cụ

điều tiết có hiệu quả của Nhà nước. Đánh thuế đúng sẽ làm cho người lao

động trong làng nghề truyền thống tích cực phát triển sản xuất kinh doanh, tạo

thêm nhiều việc làm mới, nâng cao nguồn thu nhập cho ngân sách Nhà nước.

Vì vậy, Nhà nước cần bổ sung hoàn chỉnh một số vấn đề chính sách thuế theo

hướng sau:

- Thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới

thành lập, hộ gia đình sản xuất kinh doanh lần đầu và những sản phẩm mới

đưa vào quá trình sản xuất. Nhưng việc thực hiện chính sách này cần có sự

phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đúng mức, tránh những hiện tượng tiêu

cực xảy ra.

- Để khuyến khích sự đổi mới công nghệ trong làng nghề truyền thống,

cần có chính sách miễn giảm thuế từ 2 - 3 năm đối với cơ sở sản xuất thực

hiện áp dụng công nghệ mới. Tạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất, nâng

96

cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nhằm tăng thu nhập và tạo việc làm

cho người lao động.

- Trước mắt ưu tiên miễn giảm thuế đối với những làng nghề truyền

thống sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ hoặc

các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn. Trong đó, cần đặc biệt ưu tiên các

cơ sở của thương binh, người tàn tật, gia đình chính sách…

- Miễn giảm thuế đối với cơ sở dạy nghề gắn với việc giải quyết việc

làm tại chỗ cho người lao động, các trung tâm dạy nghề truyền thống và các

cơ sở dạy nghề tư nhân. Các cơ sở này rất cần được miễn giảm thuế để vay

vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng như sự hỗ trợ của các tổ chức phi

chính phủ và tổ chức quốc tế. Đồng thời, xoá bỏ các khoản chi phí và những

khoản thu ngoài quy định của pháp luật. Kiên quyết xử lý nghiêm minh

những hiện tượng trốn thuế, lậu thuế.

- Nhà nước cần xem xét thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các hộ, các

doanh nghiệp trong làng nghề truyền thống vì các đơn vị này không có được

hoá đơn hợp lệ do mua nguyên liệu thu gom, mua lẻ, chi phí vận tải thuê

ngoài và một số vật liệu phụ khác… Đồng thời, có chính sách ưu đãi về thuế

thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ, vì điều kiện sản xuất còn

lạc hậu, công nghệ chắp vá nên lãi suất rất thấp.

* Chính sách đào tạo nguồn nhân lực

Để nâng cao trình độ quản lý và tăng nhanh số lượng, trình độ tay nghề

cho người lao động, đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất ở làng nghề truyền

thống cần phải có giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ theo các hướng

sau:

- Nâng cao trình độ dân trí và học vấn cho người lao động trong làng

nghề truyền thống. Đây là điều kiện cơ bản để đào tạo đội ngũ lao động có tay

nghề có trình độ ở làng nghề truyền thống. Bởi vì, trong thời gian qua, nhiều

làng nghề truyền thống do tiếp xúc với nghề sớm các em học sinh ngoài giờ

97

học đã tham gia phụ việc và kiếm được tiền, do cái lợi trước mắt mà các bậc

cha mẹ sẵn sàng cho con em mình bỏ học để làm nghề. Mặc dù, số lao động

trẻ có thể rất giỏi về kỹ thuật tay nghề nhưng lại hạn chế về trí thức và đó sẽ

là trở ngại lớn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.

- Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề.

Tập trung chủ yếu vào đào tạo những kiến thức thiết thực cho việc phát triển

làng nghề truyền thống. Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề, cần có cơ

sở dành riêng đào tạo cho làng nghề truyền thống. Thông qua các cơ sở này,

Nhà nước có sự tài trợ về đội ngũ cán bộ giảng dạy và nội dung chương trình.

Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa truyền nghề trực tiếp với

đào tạo cơ bản. Đối với những ngành nghề đan lát, mộc dân dụng, dệt, bánh

đa… có thể áp dụng truyền nghề trực tiếp, còn những nghề như thợ thêu, thợ

kim hoàn, trạm khắc… phải có quy trình, giáo trình đào tạo cụ thể. Có kế

hoạch cùng với chính quyền địa phương và ngành giáo dục các cấp đưa

chương trình hướng nghiệp vào các trường phổ thông ở làng nghề truyền

thống. Đối với con em thuộc diện gia đình chính sách, nên có hình thức dạy

nghề miễn phí và trợ cấp một phần kinh phí để các em yên tâm học tập.

- Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng hoá hình thức dạy nghề. Các đơn

vị tổ chức sản xuất kinh doanh cần rà soát lại nguồn nhân lực hiện có, trên cơ

sở đó xây dựng kế hoạch bố trí cho đi đào tạo với nhiều hình thức: dài hạn,

ngắn hạn, bồi dưỡng và đào tạo tại chỗ… đi đôi với vấn đề đào tạo là việc sử

dụng; phải gắn việc đào tạo với giải quyết việc làm. Những mặt hàng mới,

mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước nên hỗ trợ kinh phí để đào tạo nghề. Khẩn

trương xúc tiến thành lập các trường dạy nghề truyền thống để tạo ra những

nhà doanh nghiệp ở nông thôn biết quản lý kinh tế và những chuyên gia kỹ

thuật giỏi. Đồng thời, thành lập các trung tâm nghiên cứu giúp làng nghề

truyền thống về dịch vụ, tư vấn, về quản lý kinh doanh, về xuất nhập khẩu và

pháp luật.

98

- Kết hợp chặt chẽ với các địa phương thường xuyên mở các lớp bồi

dưỡng kiến thức về quản lý, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ

trong làng nghề truyền thống. Nội dung và hình thức đào tạo cần tập trung

vào những vấn đề mới như cung cấp thông tin, những kiến thức cập nhật,

phương thức quản lý tiên tiến và đặc biệt là kiến thức kinh tế thị trường. Việc

đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế cho các chủ doanh nghiệp

không thể thực hiện theo kiểu máy móc giản đơn mà xuất phát từ nhu cầu của

thị trường, có nghĩa là thị trường cần gì thì đào tạo nấy. Nội dung đào tạo bồi

dưỡng cần đặc biệt quan tâm đến việc phổ biến hệ thống luật pháp có liên

quan đến tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống. Bởi vì,

nhiều nhà doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất trong làng nghề truyền thống

trình độ hiểu biết luật pháp còn hạn chế, nhất là Luật Kinh tế và Luật Lao

động…

- Hoạt động đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và tay nghề cho người

lao động không phải chỉ do Nhà nước làm mà phải trên cơ sở cơ chế chính

sách nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các thành phần kinh

tế cùng tham gia. Trước mắt, các làng nghề truyền thống cần chủ động đào

tạo tay nghề cho người lao động. Để khuyến khích loại hình đào tạo này phải

có chính sách không thu thuế trực tiếp đối với họ. Động viên các nghệ nhân

dạy nghề và truyền bí quyết nghề nghiệp cho thế hệ sau. Đặc biệt là những

nghề thủ công tinh xảo mà họ tích luỹ được.

* Chính sách đối với cán bộ quản lý

Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước. Để làm được điều đó chúng

ta cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

Một là, cần rà soát, tổng hợp đội ngũ cán bộ không đạt tiêu chuẩn theo

quy định, cán bộ đạt chuẩn về trình độ nhưng có độ tuổi cao, năng lực hạn chế

chưa đủ điều kiện nghỉ hưu tự nguyện nghỉ hưu trước tuổi, nghỉ thôi việc;

99

Hai là, đề nghị cấp có thẩm quyền quy định chế độ tiền lương và định

mức biên chế đối với cán bộ phù hợp với từng chức năng nhiệm vụ và phân

loại đơn vị hành chính các cấp; đề xuất ban hành quy chế, chính sách thu hút

cán bộ, sinh viên giỏi có trình độ Đại học, trên Đại học về công tác tại các

phòng ban chức năng huyện, xã; thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, các

nghệ nhân, thợ giỏi tham gia vào phát triển ngành nghề, làng nghề. Ví dụ như

tham mưu ban hành các chính sách thu hút nhân tài tham gia trong hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề; hỗ trợ các chế độ đãi ngộ như tiền lương,

tiền thưởng, phụ cấp, bố trí chỗ ở cho cán bộ...

Ba là, phối hợp thực hiện tốt việc giao ban định kỳ (theo tháng hoặc

quý) giữa cơ quan cấp huyện và cán bộ, công chức cấp xã để nhận xét, đánh

giá, hướng dẫn kịp thời công tác chuyên môn; xây dựng quy chế và tăng

cường công tác điều động, luân chuyển cán bộ cấp huyện về làm việc tại xã,

thị trấn và cán bộ cấp xã lên làm việc ở huyện;

Bốn là, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ công chức, đảm bảo công tác đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ quy

hoạch, gắn với sử dụng, đúng với ngạch và chức danh cán bộ, chú trọng bồi

dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết những tình

huống theo từng chức danh cụ thể.

Năm là, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về công vụ; mạnh

dạn xử lý cán bộ nhũng nhiễu, hách dịch, gây khó khăn cho công dân.

* Chính sách động viên đối với nghệ nhân

Trong quá khứ cũng như hiện tại, làng nghề truyền thống luôn là bộ

phận cơ bản hình thành lịch sử văn hoá, văn minh Việt Nam. Những di sản

văn hoá của dân tộc đều là sản phẩm của nghề thủ công trong lịch sử. Các

công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ như đình đền, lâu đài, lăng tẩm… cho

đến những công cụ sản xuất đều là sản phẩm thủ công do các thế hệ nghệ

nhân và thợ thủ công làm ra. Ngay cả trong điều kiện phát triển của công nghệ

100

hiện đại, sản phẩm thủ công truyền thống vẫn cần thiết cho con người. Bởi vì,

do tính độc đáo và tinh xảo với “bàn tay vàng” của người thợ thủ công vẫn

được coi trọng, được bảo tồn và phát triển. Thế nhưng trong mấy chục năm

qua, có lúc các nghệ nhân đã bị lãng quên, nhiều người đã phải bỏ nghề đi

làm việc khác. Nhận rõ vai trò của nghệ nhân đối với làng nghề truyền thống,

cần phải tiến hành một số việc cần thiết như sau:

- Tiến hành điều tra nắm lại toàn bộ số nghệ nhân của làng nghề truyền

thống (kể cả số còn sống và đã mất). Từ đó làm rõ những ông tổ nghề của

ngành nghề truyền thống để tìm đến con cháu và dòng họ ông tổ nghề đã

được truyền lại bí quyết nghề mà có chính sách cụ thể nhằm khôi phục, phát

triển những nghề đã thất truyền.

- Để bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống một mặt phải phát

động phong trào khôi phục nghề truyền thống ở các địa phương, mặt khác

phải xem xét, suy tôn những danh hiệu nghề nghiệp cho nghệ nhân và dòng

họ, coi đây là niềm vinh dự, tự hào về nghề nghiệp của gia đình, dòng họ.

- Huyện nên thành lập “câu lạc bộ, hiệp hội nghề truyền thống” để thu

hút các nghệ nhân tham gia. Từ đây, các nghệ nhân có điều kiện tiếp xúc, trao

đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, đồng thời cũng là nơi truyền nghề cho thế

hệ sau.

- Thông qua các hội nghề nghiệp hoặc câu lạc bộ nghề truyền thống mà

có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân. Đối với những nghệ nhân già yếu,

không còn sức lao động, nên có một số tiền nhất định để chu cấp cho các cụ,

động viên họ truyền lại bí quyết nghề cho con cháu. Những nghệ nhân tuy sức

khoẻ còn tốt nhưng việc hành nghề gặp khó khăn; Nhà nước có khoản trợ cấp

hỗ trợ họ từng bước phát triển nghề bằng cách cải tiến mẫu mã phục hồi quy

trình, tìm kiếm bí quyết, tổ chức làm thử sản phẩm… sau đó có điều kiện mở

rộng quy mô sản xuất, giới thiệu sản phẩm qua các phương tiện thông tin đại

chúng, qua triển lãm, qua tổ chức hội chợ triển lãm ở nước ngoài.

101

- Hàng năm hoặc 5 năm một lần tổ chức xét và công nhận danh hiệu

nghệ nhân để trao tặng cho người thợ giỏi, những nghệ nhân tài hoa có nhiều

công sức đóng góp cho làng nghề truyền thống và cả những nhà kinh doanh,

chủ cơ sở xuất sắc. Những người được phong tặng, nên có khoản trợ cấp hàng

tháng để động viên họ. Đối với những nghệ nhân có nhiều phát minh, sáng

kiến và có công trong việc đào tạo nghề, truyền nghề, Nhà nước nên tổ chức

cho họ được đi tham quan học tập kinh nghiệm ở nước ngoài khuyến khích họ

đưa những tri thức mới, nét văn hoá hiện đại kết hợp với nét độc đáo, tinh xảo

cổ truyền của dân tộc, để sản phẩm làm ra vừa mang yếu tố truyền thống, vừa

mang yếu tố hiện đại.

- Thực hiện chủ trương đa dạng hoá, xã hội hoá phát triển nguồn nhân

lực. Xây dựng chương trình khuyến công đào tạo, nhân cấy nghề, truyền nghề

đến năm 2020 đảm bảo theo chỉ tiêu về lao động đề ra (mỗi năm bình quân

300 đến 500 người) và cấp đủ kinh phí tăng dần hàng năm cho chương trình.

Phối hợp với các trường đào tạo dạy nghề của trung ương, các trung tâm

hướng nghiệp dạy nghề trên địa bàn tỉnh tổ chức đào tạo nghề tại chỗ và tổ

chức các lớp đào tạo nghệ nhân cho làng nghề. Huyện chỉ đạo các ngành, các

đoàn thể, các đơn vị tham gia phân công công tác để đào tạo nghề phục vụ

cho làng nghề.

3.2.4. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà

nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động

thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định

kỳ hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển

bền vững. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra làng

nghề truyền thống trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề cần thực

hiện các giải pháp sau:

102

Thứ nhất, thực hiện nghiêm túc việc thanh tra, kiểm tra trong hoạt động

sản xuất, kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề truyền thống theo đúng quy

định của pháp luật, đẩy mạnh việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân,

khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của

pháp luật về sản xuất, kinh doanh và tổ chức sản xuất, kinh doanh.

Thứ hai, đối với cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề ở cấp huyện

cần có kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với từng làng

nghề truyền thống, qua đó để nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh của từng

làng nghề truyền thống để có định hướng trong quy hoạch, phát triển các làng

nghề của huyện.

Thứ ba, đối với Phòng, ban chuyên môn của huyện có chức năng quản

lý nhà nước về làng nghề truyền thống cần phối hợp với UBND xã có làng

nghề truyền thống điều tra khảo sát, nắm thông tin về tình hình hình hoạt

động tại làng nghề và báo cáo Ban quản lý làng nghề tổng hợp, báo cáo tham

mưu UBND huyện theo dõi, chỉ đạo, theo định kỳ, hằng quý, 6 tháng, 1 năm

hoặc đột xuất. Thanh tra, kiểm tra thường xuyên hoạt động của các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh của làng nghề trên địa bàn huyện về việc

chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước.

Thứ tư, nâng cao vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý của cấp xã,

thường xuyên kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất nhằm uốn nắn kịp thời những mặt yếu kém,

lệch lạc và có hình thức xử lý thích đáng đối với các cơ sở vi phạm pháp luật.

Thứ năm, trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề

truyền thống cần tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường,

trong đó tập trung vào những loại hình hoạt động của các làng nghề có nguy

cơ gây ô nhiễm môi trường cao, khu vực môi trường nhạy cảm; xử lý nghiêm

các vi phạm về bảo vệ môi trường.

103

Thứ sáu, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần

có kế hoạch phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực

thẩm, về môi trường tại địa phương trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về

việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đảm bảo an toàn về môi trường... để

tránh tình trạng kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà, cản trở sản xuất kinh

doanh, góp phần cho các làng nghề truyền thống được phát triển bền vững.

Thực hiện tốt hoạt động thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời cung cấp các

thông tin về những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, cung cấp kịp thời thông tin

ban đầu về thị trường cho các làng nghề, từ đó sẽ tạo điện kiện cho các làng

nghề nắm bắt các thông tin thị trường để có những định hướng, thay đổi hợp

lý trong quá trình sản xuất, kinh doanh.

3.2.5. Xã hội hóa trong xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng cho làng

nghề truyền thống

Kết cấu hạ tầng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành, tồn

tại và phát triển làng nghề truyền thống nông thôn. Tình trạng thiếu hụt, lạc

hậu, yếu kém của hệ thống công trình giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp

điện, nước, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường, trường học, trạm y tế… ở khu

vực nông thôn trong huyện nói chung cũng như trong các làng nghề truyền

thống nói riêng đang tạo ra không ít trở ngại, khó khăn cho sự khôi phục và

phát triển các làng nghề truyền thống. Bên cạnh các giải pháp tình huống

đang được nhiều địa phương trong huyện thực hiện một cách năng động, linh

hoạt, cần thiết phải có giải pháp tổng thể, đồng bộ về phát triển cơ sở hạ tầng

nông thôn trong tỉnh nói chung và trong các làng nghề truyền thống nói riêng.

Thứ nhất, phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn

Sự phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn trong vùng có liên

quan đến vấn đề cung cấp dịch vụ “đầu vào, đầu ra” cho các làng nghề truyền

thống cũng như mở rộng thị trường nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh

doanh. Hiện tại, hệ thống đường giao thông nông thôn khá phát triển, hầu hết

104

các xã đã có hệ thống đường giao thông nông thôn cho ôtô đi lại được. Hệ

thống đường giao thông nông thôn của huyện đã vươn tới các thôn, xóm hình

thành mạng lưới khá hoàn chỉnh với chất lượng ngày càng cao. Tuy nhiên,

khó khăn và yếu kém của hệ thống đường giao thông nông thôn tỉnh Thái

Bình nói chung và trong các làng nghề truyền thống nói riêng vẫn còn nhiều.

Trước hết là giao thông liên xã, xuống cấp nghiêm trọng, những con đường

xuống các xã xa đường quốc lộ vừa hẹp lại vừa xấu nhất là vào mùa mưa bão

nên việc đi lại vận chuyển vật liệu, hàng hoá càng khó khăn hơn. Thêm vào

đó, do ngân sách địa phương và nguồn vốn đóng góp của dân trong các làng

nghề truyền thống có hạn nên việc nâng cấp, cải tạo, sửa chữa hệ thống đường

giao thông nông thôn trong các làng, xã còn hạn chế. Để phát triển hệ thống

đường giao thông trong làng nghề truyền thống trong huyện cần phải:

- Đẩy mạnh khảo sát thiết kế và quy hoạch phát triển đồng bộ hệ thống

công trình giao thông, bao gồm cả hệ thống đường nội bộ đi lại trong từng

làng nghề truyền thống và hệ thống cầu cống, bến bãi bên ngoài làng nghề

truyền thống, hệ thống cấp thoát nước để xử lý triệt để chất thải trong làng

nghề truyền thống.

- Nguồn vốn để xây dựng hệ thống đường giao thông bên cạnh việc huy

động đóng góp trực tiếp, tại chỗ của dân cư và các cơ sở sản xuất trong các

làng nghề truyền thống từ nguồn ngân sách của địa phương các cấp, Nhà

nước cần tăng cường đầu tư trực tiếp từ ngân sách trung ương và các khoản

đầu tư tín dụng ưu đãi khác.

Thứ hai, phát triển mạng lưới cung cấp điện

Ở các làng nghề truyền thống của Quỳnh Phụ hiện nay đã được cung

cấp điện phục vụ chiếu sáng cho đời sống sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên,

điện nông thôn vẫn còn một số tồn tại như:

- Lượng điện phục vụ cho sản xuất của làng nghề truyền thống vẫn còn

thiếu, hệ thống điện và công trình phân phối điện trong nông thôn cũng như

105

trong làng nghề truyền thống chưa được quy hoạch, thiếu đồng bộ, giá điện

còn cao. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải có giải pháp giải quyết mạng lưới

điện nông thôn để các làng nghề truyền thống ổn định sản xuất kinh doanh.

- Tiếp tục mở rộng, hoàn thiện các công trình mạng lưới điện và phân

phối điện quốc gia đến tận các làng nghề truyền thống nông thôn, đồng thời

hỗ trợ trực tiếp cho việc quy hoạch, cải tạo đồng bộ và tiêu chuẩn hoá mạng

lưới điện hạ thế đến từng hộ dân và cơ sở sản xuất kinh doanh.

- Nhà nước cần có chính sách và biện pháp can thiệp đối với giá điện

sản xuất ở nông thôn tạo sự bình đẳng về chi phí năng lượng đầu vào so với

thành thị. Đồng thời, Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích các cơ sở sản xuất

kinh doanh trong các làng nghề truyền thống sử dụng điện thay thế các nguồn

năng lượng khác gây ô nhiễm môi trường như than, củi, trấu…

Thứ ba, phát triển hệ thống thông tin liên lạc

Mạng lưới thông tin liên lạc trong các làng nghề truyền thống nông

thôn trong tỉnh nhìn chung vẫn còn thiếu và lạc hậu. Để phát triển mạng lưới

thông tin liên lạc phục vụ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền

thống cần phải:

- Tăng cường đầu tư cho việc nâng cấp công trình, đổi mới thiết bị kỹ

thuật của các trung tâm bưu điện, liên lạc ở các huyện, xã, thị trấn đồng thời

mở mang mạng lưới thông tin xuống tận các xã, ấp, cụm dân cư làm cho

thông tin về thị trường, giá cả được tiếp cận nhanh nhất đối với các làng nghề

truyền thống trong huyện.

- Tạo điều kiện thuận lợi và ưu tiên lắp đặt, thuê bao điện thoại cho các

cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống có thể lắp đặt

nhiều điện thoại phục vụ cho sản xuất kinh doanh.

Thứ tư, cải tạo, nâng cấp cơ sở trường học, trạm y tế, nhà văn hoá

Trong các làng nghề truyền thống ở nông thôn hệ thống trường học,

trạm y tế, nhà văn hoá trong thời gian tới cần phải kết hợp giữa đầu tư của

106

ngân sách Nhà nước với sự đóng góp của nhân dân để cải tạo nâng cấp hệ

thống cơ sở trường học, trạm y tế tốt hơn nữa. Đặc biệt là, các địa phương

tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị cho các cơ sở hướng

nghiệp, dạy nghề, cung cấp kiến thức kinh doanh và chuyển giao công nghệ

phù hợp với tình hình hiện nay cho khu vực nông thôn nói chung và các làng

nghề truyền thống nói riêng.

3.2.6. Hợp tác quốc tế và đẩy mạnh quan hệ kinh tế giữa làng nghề

truyền thống và thị trường tiêu thụ sản phẩm

Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống

trên địa bàn tỉnh cần phải:

- Tích cực tạo điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở

ký kết các hợp đồng buôn bán nhằm tạo ra một thị trường nước ngoài có tính

chất lâu dài và ổn định.

- Trên cơ sở Nhà nước định hướng khuyến khích các cơ sở sản xuất,

các hộ gia đình của làng nghề truyền thống và đặc biệt là những làng nghề

mới sản xuất những sản phẩm mà thị trường có nhu cầu. Trước mắt, thành lập

các tổ chức và có đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu, dự báo thị trường

về sản phẩm của làng nghề truyền thống trong và ngoài nước. Cần mở rộng hệ

thống thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin thị trường, giá cả cho các cơ sở

sản xuất nhằm giúp các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống

nghiên cứu xử lý thông tin thị trường có liên quan đến hoạt động sản xuất

kinh doanh như mẫu mã, kiểu dáng, loại sản phẩm có khả năng sẽ được khách

hàng chấp nhận. Trên cơ sở đó, các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền

thống hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, chiến lược mặt hàng, thay

đổi mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên thị trường trong và

ngoài nước. Mặt khác, giúp các làng nghề truyền thống giới thiệu sản phẩm

qua các phương tiện thông tin đại chúng như các ấn phẩm về nghề, làng nghề

truyền thống, phim ảnh truyền hình, quảng cáo, giúp các làng nghề truyền

107

thống ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tiêu thụ sản phẩm như nối mạng

Internet để quảng cáo sản phẩm ra nước ngoài.

- Tạo điều kiện cho người sản xuất trong các làng nghề truyền thống

được xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình không qua khâu trung gian. Đơn

giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, mở rộng phạm vi quỹ hỗ trợ

xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu ở các làng nghề truyền thống trong

vùng để khuyến khích các cơ sở tìm kiếm thị trường nước ngoài, đẩy mạnh

xuất khẩu.

- Tạo điều kiện cho các nghệ nhân, các làng nghề truyền thống tham gia

gia công cho các doanh nghiệp ở đô thị, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ

công nghiệp để tạo điều kiện cho họ quảng cáo tiêu thụ các sản phẩm làng

nghề truyền thống tại các đô thị lớn, trung tâm công nghiệp lớn. Đây là hướng

đi quan trọng giúp cho làng nghề truyền thống mở rộng thị trường tiêu thụ từ

đó có khả năng phát triển làng nghề truyền thống một cách bền vững.

- Hình thành hệ thống chợ làng tại các làng nghề truyền thống kết hợp

với xây dựng các trung tâm thương mại cụm xã để thúc đẩy sự giao lưu hàng

hoá, bởi lẽ qua chợ làng mà người sản xuất trong các làng nghề truyền thống

phát hiện ra nhu cầu của người tiêu dùng trong vùng để đáp ứng một cách tốt

nhất trong điều kiện có thể được.

- Khuyến khích và tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất kinh doanh trong

các làng nghề truyền thống mở các đại lý, các cửa hàng, quầy hàng giới thiệu

sản phẩm tại các đô thị và các tụ điểm thương mại ở các địa phương khác

nhau. Đồng thời, phải tạo ra được mối liên kết giữa các đơn vị sản xuất kinh

doanh trong các làng nghề truyền thống với các doanh nghiệp lớn của Nhà

nước, trong đó các doanh nghiệp này sẽ đứng ra làm đầu mối thu mua - bao

tiêu sản phẩm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống

trên tinh thần hợp tác, liên kết lâu dài đó chính là biện pháp tạo thị trường ổn

định, lâu dài cho các làng nghề truyền thống.

108

- Cần phải có những biện pháp đồng bộ hiệu quả trong công tác quản lý

thị trường, chống hàng giả, trốn thuế, có chính sách điều tiết nhập khẩu hợp lý

để khuyến khích và bảo vệ sản xuất cho các làng nghề truyền thống.

- Phát triển mạnh du lịch để thu hút du khách nước ngoài đến địa

phương tham quan du lịch, tạo cơ hội cho các làng nghề truyền thống tham

gia xuất khẩu tại chỗ. Bởi vì, khách nước ngoài đến Việt Nam họ thường tìm

tòi để thưởng thức vẻ đẹp của dân tộc, những nét văn hoá đặc sắc, độc đáo

của dân tộc. Những vẻ đẹp độc đáo đó được thể hiện rõ nét trong sản phẩm

thủ công mỹ nghệ của những làng nghề truyền thống như trạm khắc, dệt lụa,

mộc dân dụng, mộc trạm trổ mỹ nghệ…

3.2.7. Giải pháp đảm bảo môi trường

- Hình thành các cụm, điểm công nghiệp để có thể tập trung quy mô

sản xuất, vốn để cải tiến kỹ thuật và xử lý ô nhiễm.

- Một số làng nghề đã bị ô nhiễm nặng cần thiết phải có lộ trình cắt

giảm sản lượng, tiến tới chuyển đổi ngành nghề.

- Các cơ quan hữu quan cùng các bộ như Bộ Công thương, Bộ Tài

nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… phải xây

dựng và hoàn thiện những văn bản hướng dẫn, tổ chức bộ máy và đầu tư tốt

cho việc thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường

- Tách khu sản xuất ra khỏi khu dân cư, quy hoạch xây dựng hợp lý khu

công nghiệp làng nghề mới và có kế hoạch quản lý tốt môi trường như đề ra

những quy định về quản lý bảo vệ môi trường và an toàn lao động trong các

làng nghề; định mức và thu lệ phí môi trường đối với các hộ sản xuất, tổ sản

xuất để triển khai và duy trì các hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường của

xã. Thành lập đội vệ sinh môi trường của làng nghề để kiểm tra thường xuyên

tình trạng môi trường trong khu vực sản xuất, thu gom chất thải, xử lý bụi

giao thông.

109

- Xây dựng chương trình bảo vệ môi trường làng nghề, tiếp tục dành

phần đáng kể trong kinh phí đảm bảo môi trường để hỗ trợ, cùng với huy

động nguồn vốn ODA và các nguồn vốn khác để thực hiện, đến năm 2020

giải quyết cơ bản cho các làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng.

- Về lâu dài cần thiết phải khảo sát, xây dựng được bản đồ làng nghề ô

nhiễm. Phải phân ra mức độ ô nhiễm nặng nhẹ của từng làng nghề và có quy

hoạch cụ thể để có căn cứ xây dựng hệ thống các giải pháp khắc phục trước

mắt cũng như lâu dài tình trạng ô nhiễm làng nghề, có kế hoạch xử lý môi

trường từ khi bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm thiểu ô

nhiễm môi trường.

- Đề xuất với tỉnh có chính sách hỗ trợ tài chính để các làng nghề, các

doanh nghiệp đầu tư xây dựng nâng cấp cải tạo cơ sở hạ tầng góp phần làm

giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đầu tư xây dựng các làng nghề truyền thống

kết hợp với du lịch gắn với bảo vệ môi trường. Đồng thời có chính sách quy

định thu phí bảo vệ môi trường để đầu tư lại cho các làng nghề bảo vệ môi

trường.

- Các địa phương thường xuyên tuyên truyền, vận động xây dựng cơ

chế, chính sách quy định, hướng dẫn cho các cơ sở sản xuất, làng nghề về bảo

vệ môi trường, tổ chức đơn vị thu gom chất thải, kiên quyết xử lý vi phạm của

các đơn vị sản xuất, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm môi trường theo quy

định của pháp luật.

- Cần ưu tiên các đối tượng phải xử lý theo thứ tự về mức độ bức xúc

của các loại chất thải trong mỗi loại làng nghề để giải quyết nhanh những

nguồn thải nguy hại nhất.

- Đưa tiêu chí môi trường vào việc xét duyệt các làng nghề được tỉnh

công nhận.

110

3.3. Kiến nghị với địa phƣơng

- Thực hiện khảo sát, lập quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền

thống trên cả huyện, tránh lập quy hoạch ngắn hạn, tự phát, thiếu đồng bộ.

- Quy hoạch, cải tạo vùng nguyên liệu cho một số làng nghề truyền

thống: Vùng nguyên liệu gạo cho làng nghề bánh đa, bún, vùng nguyên liệu

cói cho các làng nghề dệt chiếu...

- Tăng cường sự chỉ đạo quản lý Nhà nước của UBND huyện đối với

làng nghề truyền thống, đặc biệt bổ sung cán bộ chuyên trách và tăng cường

công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh

tại các làng nghề truyền thống để cung cấp và nắm bắt kịp thời các thông tin

phục vụ, hỗ trợ cho làng nghề phát triển.

- Xây dựng chuyên trang làng nghề tại cổng thông tin điện tử của huyện

để quảng bá, giới thiệu về các làng nghề truyền thống của mình.

- Tăng nguồn kinh phí khuyến nông, khuyến công hằng năm để hỗ trợ

cho các đối tượng tại làng nghề với các nội dung hỗ trợ như: Xây dựng sản

phẩm nông nghiệp an toàn theo chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu, đăng ký

nhãn hiệu, mua sắm trang thiết bị, tham quan học tập…

- Xây dựng các mô hình điểm về xử lý môi trường làng nghề; sửa chữa,

nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm tại cơ sở ngành nghề tại làng nghề; xây dựng

hệ thống xử lý nước thải làng nghề; xây dựng hệ thống thu gom, phân loại

chất thải rắn.

- Ban hành Quyết định thành lập Ban Quản lý làng nghề và quy định

chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban đó. Đồng thời, chỉ

đạo việc bàn giao chức năng quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề nông

thôn từ các phòng liên quan như Phòng Nông nghiệp, Kinh tế, Văn hóa, Công

thương... về cho Ban Quản lý làng nghề để đảm bảo thống nhất trong quản lý.

111

Tiểu kết chƣơng 3

Để làng nghề phát triển ngày càng mạnh và bền vững rất cần sự quan

tâm của các cấp chính quyền Nhà nước trong việc định hướng vĩ mô như đưa

ra các chính sách hỗ trợ phát triển cũng như quy hoạch đúng đắn kịp thời giúp

các làng nghề hoạt động thông suốt, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và

bảo vệ môi trường.

Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các làng nghề được công

nhận tiêu chuẩn làng nghề về vốn đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề.

Chính phủ có cơ chế giảm lãi suất cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất trung, dài

hạn cho làng nghề phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế.

Đối với việc quản lý đất đai, cần bổ sung vào pháp luật đất đai những

vấn đề sau:

- Thứ nhất, quy định cụ thể hơn đối với UBND huyện, xã về phạm vi

quyền, trách nhiệm, phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và

theo dõi, điều chỉnh những bất cập trọng quá trình sử dụng đất. Theo đó, cần

xác định rõ những công việc mà UBND mỗi huyện phải làm để lập và thực

hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Một số điểm quan trọng, cấp bách

cũng cần được luật hoá như xác định các tiêu chí cơ bản làm cơ sở pháp lý

cho UBND huyện quyết định lựa chọn phương án sử dụng đất lâu dài vào các

mục đích khác nhau tại địa phương (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và

văn hoá xã hội), đáp ứng yêu cầu vừa bảo đảm giữ quỹ đất tốt nhất cho sản

xuất nông nghiệp, chuyển các diện tích đất xấu, không thuận lợi đối với sản

xuất nông nghiệp sang làm công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng đời sống

xã hội ở nông thôn…

- Thứ hai, quy định việc đánh giá và xử lý những UBND xã không thực

hiện được nhiệm vụ xây dựng và triển khai quy hoạch và kế hoạch sử dụng

đất ở địa phương mình.

112

- Thứ ba, tiếp tục thể chế hoá các quyền của người được Nhà nước giao

đất đã được quy định trong luật, làm rõ phạm vi về quyền của hộ nông dân

được giao đất trong việc quyết định lựa chọn hướng sử dụng đất nông nghiệp,

các nguyên tắc bồi thường thoả đáng cho hộ nông dân khi Nhà nước thu hồi

đất để đưa vào mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc mục đích kinh doanh

khác.

- Thứ tư, bổ sung quy định và các chế tài đối với những trường hợp sử

dụng đất sai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.

- Thứ năm, sớm có quy định bằng luật pháp về kéo dài thời hạn sử dụng

đất nông nghiệp, bởi những quy định về pháp luật về thời hạn sử dụng đất

hiện nay trên thực tế chưa đáp ứng được những thay đổi của quá trình sử dụng

đất, không phù hợp với quy luật của thị trường đất đai khi luật đã chính thức

thừa nhận nó, nhất là khi các quy hoạch sử dụng đất cho đến nay vẫn chưa

xong, hoặc chưa rõ ràng, mà thời hạn thì sắp hết. Hơn nữa để hình thành vùng

sản xuất chuyên môn hoá lớn thì chính sách về thời hạn sử dụng đất như hiện

nay là không phù hợp. Cùng với việc xác định lại thời hạn sử dụng đất, cần bổ

sung cho UBND cấp huyện quyền chủ động ra quyết định chuyển đổi mục

đích sử dụng đất nông nghiệp, đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp theo

quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được tỉnh phê duyệt. Đồng

thời tạo cơ chế ràng buộc các huyện cùng nằm trên một vùng địa lý, sinh thái

phối hợp với nhau trong xây dựng kế hoạch sử dụng đất theo hướng hình

thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung quy mô lớn liên huyện và liên tỉnh.

- Hỗ trợ vốn đầu tư cho phát triển các làng nghề truyền thống kết hợp

với du lịch đồng thời khắc phục ô nhiễm mỗi trường làng nghề.

- Phòng Công thương, Phòng Văn hoá có chương trình quảng bá sản

phẩm, đồng thời có chính sách hỗ trợ giúp đỡ kinh phí cho làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề, hộ gia đình, nghệ nhân đăng ký tham gia hội chợ triển lãm,

113

hội chợ du lịch làng nghề; Tổ chức các tuyến du lịch làng nghề; Có chương

trình hợp tác quốc tế về nguyên liệu cho làng nghề.

- Phòng Công thương cùng các tổ chức có liên quan nên quan tâm quan

hệ với các tổ chức quốc tế hỗ trợ cung cấp thông tin trên các phương tiện

thông tin để giúp doanh nghiệp, làng nghề tiếp cận thị trường quốc tế để xuất

khẩu các sản phẩm, nhập khẩu nguyên liệu cho các làng nghề.

114

KẾT LUẬN

Huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình hiện nay có 33 làng nghề thu hút trên

23.000 lao động với thu nhập 3,5-5 triệu đồng/người/tháng. Các ngành nghề

chính như: thủ công mỹ nghệ, mây tre đan xuất khẩu, dệt chiếu cói, chế biến

lương thực, sản xuất bánh đa, bún, đồ gỗ mỹ nghệ… Các ngành nghề này có

mức tăng trưởng khá cao, bình quân khoảng 20% năm, giải quyết công ăn

việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần tích cực vào

công cuộc công nghiệp hóa khu vực nông thôn.

Với những kết quả đó cho thấy việc chú trọng phát triển làng nghề,

ngành nghề thủ công mỹ nghệ là chủ trương đúng đắn của Đảng bộ và nhân

dân huyện Quỳnh Phụ, là một bước đi đúng đắn.

Từ những vấn đề đã nêu, luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau:

Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hóa được tình hình nghiên cứu về làng

nghề, làng nghề truyền thống ở trong và ngoài nước để tìm hiểu và kế thừa

những kết quả nghiên cứu, đồng thời tiếp tục đi sâu nghiên cứu về hoạt động

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ.

Thứ hai, luận văn đã hệ thống hóa một số khái niệm liên quan đến quản

lý nhà nước về làng nghề truyền thống, tìm ra sự cần thiết phải quản lý và các

yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.

Thứ ba, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã được

các nhà khoa học nghiên cứu, các nhà quản lý đưa ra, luận văn đã hệ thống lại

các khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống, các tiêu chí công nhận

làng nghề truyền thống, khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước về làng nghề

truyền thống.

Thứ tư, từ việc nghiên cứu những kinh nghiệm về quản lý và phát triển

làng nghề, làng nghề truyền thống của một số địa phương khác, luận văn đã

rút ra được những bài học kinh nghiệm có giá trị cho hoạt động quản lý và

phát triển làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ.

115

Thứ năm, trên cơ sở thu thập, tổng hợp số liệu, tài liệu và xử lý số liệu,

luận văn đã phân tích được thực trạng của làng nghề truyền thống trên địa bàn

huyện Quỳnh Phụ và hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

của huyện từ năm 2011 đến 2016. Từ đó, luận văn đã chỉ rõ những yếu tố

thuận lợi, những hạn chế và nguyên nhân của những yếu tố thuận lợi, những

hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của

huyện Quỳnh Phụ.

Thứ sáu, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng về hoạt

động quản lý và phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh

Phụ, luận văn đã đưa ra những giải pháp để tiếp tục quản lý làng nghề truyền

thống trong thời gian tới. Cụ thể gồm các giải pháp sau:

- Nâng cao việc hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy

phạm pháp luật, văn bản hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống;

- Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

huyện Quỳnh Phụ;

- Đưa ra các chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống;

- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống

trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề;

- Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng

nghề truyền thống.

Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở địa phương là một đề tài

rộng và phức tạp, do hạn chế về thời gian và khả năng cá nhân, luận văn đã

không thể đưa ra phân tích đầy đủ những vấn đề có liên quan đến đổi mới

quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ.

Tác giả luận văn mong muốn nhận được sự góp ý, bổ sung định hướng để tiếp

tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình về sau.

116

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2010, 2011, 2012, 2013,2014), Niên giám

thống kê, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

2. Nguyễn Như Chung (2008), Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc đẩy

phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003, Luận

án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

3. Nguyễn Văn Đại - Trần Văn Luận (1998), Tạo việc làm thông qua khôi

phục và phát triển làng nghề truyền thống, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước

Châu Á và Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Mạc Đồng (1995), Làng xã ở Châu Á và ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ

Chí Minh.

9. Đỗ Thái Đồng (2001), Phát triển nông thôn, Nxb. Đại học Quốc gia Thành

phố Hồ Chí Minh.

10. Vũ Thị Hà (2002), Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng

đồng bằng sông Hồng - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh

tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

11. Trần Văn Hiến (2006), Tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển

nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam, Luận văn

Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

117

12. Mai Thế Hởn (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt

Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Hữu Loan (2007), Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh theo hướng phát triển bền vững, Luận văn Thạc sĩ kinh

tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

14. Nguyễn Tấn Nhan, Phú Văn Hẳn (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ

điển Bách khoa, Hà Nội.

15. Chu Tiến Quang (2007), “Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về Kinh tế

của cấp huyện và xã trong nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản,

Số 782, tháng 12/2007.

16. Ngô Thành Trung (2014), Quản lý nhà nước đối với các làng nghề trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sỹ quản lý Kinh tế, Đại học Kinh

tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Nguyễn Trọng Tuấn (2006), Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

18. Võ Văn Việt (2008), Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển làng

nghề ở tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

19. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn

Việt Nam trong quá trình CNH - HĐH, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Tổng hợp thông tin từ các Website:

20. http://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/50/1479/nghe-va-lang-nghe-phat-trien-

ben-vung-1479

21. http://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/69/47506/quynh-phu-khoi-sac-nghe-va-

lang-nghe-47506

118

22. http://cand.com.vn/Ban-doc-cand/Lang-nghe-nung-voi-o-nhiem-tram-

trong-399931/

23. http://dulich.vnexpress.net/tin-tuc/viet-nam/thai-binh/canh-ca-quynh-coi-

mon-dan-da-dam-hon-que-3202495.html

24. http://enternews.vn/o-nhiem-tai-cac-co-so-san-xuat-thai-binh-bao-dong-

do-21955.html

25.

http://quynhphu.thaibinh.gov.vn/News/Lists/DKTuNhien/View_detail.

aspx

26. http://suckhoedoisong.vn/lang-banh-da-chim-trong-o-nhiem-n8974.html

27. http://thaibinh.gov.vn/gioithieu/Pages/dieu-kien-tu-nhien.aspx

28. http://thaibinhtv.vn/tin-tuc/huyen-quynh-phu-co-34-lang-nghe-voi-nhieu-

loai-hinh-san-xuat-26448.html

29. http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/2619/thai-binh--242-lang-nghe-va-8-

xa-nghe-duoc-cap-bang-cong-nhan.aspx

30. http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/item/31762902-cuong-quyet-xoa-

bo-lo-voi-gay-o-nhiem-moi-truong-o-thai-binh.html

31. http://www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/26553402-phat-trien-

lang-nghe-truyen-thong-o-thai-binh.html

32. http://www.thaibinh.gov.vn/gioithieu/pages/lang-nghe-truyen-thong.aspx

119

PHỤ LỤC

1. Chính sách đối với phát triển nghề và làng nghề

Cơ quan Tên văn bản ban hành

Quyết định số 132/2000/QĐ/TTg, ngày 24/11/2000 của Thủ Thủ tướng

tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển ngành Chính phủ

nghề nông thôn.

Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg, ngày 07/9/2001 của Thủ Thủ tướng

tướng Chính phủ về Cơ chế tài chính thực hiện các Chương Chính phủ

trình phát triển giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng.

Thông tư số 79/2001/TT-BTC, ngày 28/9/2001 của Bộ Tài Bộ Tài chính

chính hướng dẫn về thực hiện Quyết định số

132/2001/QĐ/TTg.

Thông tư số 84/2002/TT-BTC, ngày 26/9/2002 của Bộ Tài Bộ Tài chính

chính hướng dẫn về các hình thức khuyến khích tài chính

nhằm kích thích sự phát triển của các ngành thủ công.

Công văn số 670/CV- BNN, ngày 26/3/2003 của Bộ Nông Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn về đào tạo và phát nghiệp và

triển các nghề thủ công nông thôn. Phát triển

nông thôn

Quyết định số 124/2003/QĐ-TTg, ngày 17/6/2003 của Thủ Chính phủ

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về bảo tồn văn hoá và phát

triển các dân tộc thiểu số ở Việt Nam để thúc đẩy các nghề

truyền thống.

Nghị định số 134/2004/NĐ-CP, ngày 09/6/2004 của Chính Chính phủ

phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn.

120

Thông tư liên tịch số 65/2004/TTLT/BTC-BLDTBXH, ngày Bộ Tài chính

2/7/2004 của Bộ Tài chính và Bộ Lao động TBXH hướng dẫn và Bộ Lao

về việc hỗ trợ đào tạo nghề thủ công ở vùng nông thôn. động TBXH

Quyết định số184/2004/QĐ-TTg, ngày 22/10/2004 của Thủ Thủ tướng

tướng Chính phủ về việc sử dụng tín dụng dành cho phát triển Chính phủ

của nhà nước để nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các làng nghề cho

giai đoạn 2006-2010.

Thông tư số 03/2005/TT-BCN, ngày 23/6/2005 của Bộ Công Bộ Công

nghiệp hướng dẫn về hoạt động khuyến khích các ngành thủ nghiệp

công nông thôn.

Thông tư số 116 /2006/TT- BNN, ngày 18/12/2006 của Bộ Bộ Nông

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện nghiệp và

một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP. Phát triển

nông thôn

Thông tư số 113/2006/TT-BTC, ngày 28/12/2006 của Bộ Tài Bộ Tài chính

chính hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ

trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số

66/2006/NĐ-CP

Quyết định 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/08/2009 của Thủ Thủ tướng

tướng Chính phủ ban hành quy chế quản lý Cụm Công nghiệp Chính phủ

Nghị định số 45/2012/NĐ-CP ngày 21/05/2012 của Chính phủ Thủ tướng

về khuyến công Chính phủ

Quyết định 999/QĐ-BCT ngày 19/02/2013 của Bộ Công Bộ Công

thương quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu thương

tổ chức của Cục Công nghiệp địa phương.

Quyết định số 577/QĐ-TTg ngày 11/04/2013 về việc phê Thủ tướng

duyệt Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm Chính phủ

2020 và định hướng đến năm 2030.

121

Quyết định số 733/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 về việc phê duyệt Thủ tướng

tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Thái Bình đến năm Chính phủ

2020.

Nghị định số 66/2006/NĐ-TTg ngày 07/7/2006 về việc phát Thủ tướng

triển ngành nghề nông thôn. Chính phủ

2. Một số hình ảnh của làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ

122

Sản xuất Bánh đa gạo tại Dụ Đại, Đông Hải

123

Làng nung vôi tại Cầu Nghìn, An Bài

In chiếu cói tại An Tràng, Quỳnh Phụ

124

Dệt chiếu bằng máy tại Vũ Hạ, An Vũ

Sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ tại An Đồng, Quỳnh Phụ

125

Sản xuất vàng mã tại An Vinh, Quỳnh Phụ

Sản xuất mây tre đan xuất khẩu tại An Đồng, Quỳnh Phụ

126

May xuất khẩu tại Quỳnh Châu, Quỳnh Phụ

Ô nhiễm môi trường tại Làng Bánh đa Dụ Đại, Đông Hải

127

Ô nhiễm khói bụi tại Làng nung vôi Cầu nghìn, An Bài

128