BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN ĐĂNG KIỂM
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN ĐĂNG KIỂM
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRỊNH ĐỨC HƢNG
HÀ NỘI - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Đăng Kiểm
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn Thạc sỹ tại
Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp
đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình, đã tạo điều kiện
về thời gian, hướng dẫn về nội dung, cung cấp tài liệu và những thông tin cần
thiết.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Hành chính Quốc gia,
Khoa Sau đại học Học viện Hành chính Quốc gia cùng tất cả các thầy, cô
giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình giảng dạy, truyền
đạt những kiến thức quý báu và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến TS.Trịnh Đức Hưng - Giảng viên
của Học viện Hành chính Quốc gia, người đã tận tình hướng dẫn và có những
đóng góp quý báu để tôi hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn UBND huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình và
các phòng, ban của huyện, UBND các xã, thị trấn của huyện Quỳnh Phụ đã hỗ
trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thu thập tài liệu điều
tra thông tin phục vụ nghiên cứu để hoàn thành đề tài này.
Mặc dù đã cố gắng để hoàn thành tốt luận văn nhưng chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi kính mong các thầy, cô và những
người quan tâm đến đề tài có những đóng góp, sửa đổi, bổ sung để luận văn
này được hoàn thiện hơn nữa.
Tôi xin trân trọng cảm ơn./.
Học viên
Nguyễn Đăng Kiểm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ....................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................ 6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................. 8
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG .......... 9
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .................................................... 9
1.2. Sự cần thiết, đặc điểm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ... 13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề
truyền thống ................................................................................................. 19
1.4. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ...... 24
1.5. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số
địa phương và bài học kinh nghiệm cho huyện Quỳnh Phụ ........................ 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH .................................................... 39
2.1. Khái quát về huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.................................... 39
2.2. Thực trạng các làng nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ ............. 42
2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tại huyện
Quỳnh Phụ ................................................................................................... 53
2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ .............................. 66
2.5. Nguyên nhân những thuận lợi và khó khăn của hoạt động quản lý nhà
nước đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ ...................... 69
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ ........................................................ 74
3.1. Quan điểm của Đảng về quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống ............................................................................................................ 74
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về làng nghề truyền
thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ .......................................................... 84
3.3. Kiến nghị với địa phương ................................................................... 111
KẾT LUẬN CHUNG ....................................................................................... 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 117
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 220
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, các làng nghề đã và đang đóng góp tích cực cho
sự phát triển kinh tế nông thôn, giúp giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho người nông dân, góp phần phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Làng nghề cũng đem lại nguồn thu nhập cao hơn sản xuất nông
nghiệp thuần túy, đặc biệt là khi kết hợp cả sản xuất nông nghiệp và tham gia
hoạt động sản xuất của làng nghề thì thu nhập của người dân cao hơn hẳn so
với chỉ làm nông nghiệp. Ngoài ra các làng nghề còn đem lại một nguồn
ngoại tệ đáng kể cho đất nước thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng này.
Huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình là huyện có thế mạnh trong phát triển
nông nghiệp nhưng những năm gần đây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
trên địa bàn huyện đã có bước phát triển khá mạnh, các nghề truyền thống
được duy trì và hoạt động do đó diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc, tỷ lệ
hộ nghèo giảm nhanh, đời sống nhân dân được nâng cao. Hiện tại, Quỳnh Phụ
có 33 làng nghề truyền thống, thu hút trên 23.000 lao động, với thu nhập từ 3-
5 triệu đồng/người/tháng. Sản xuất ở các làng nghề huyện Quỳnh Phụ phát
triển không những giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người
lao động mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo diện mạo mới cho
các làng quê. Nhiều làng nghề không ngừng phát triển, chiếm 70 - 80% tỷ
trọng của thôn, làng, tiêu biểu như: bánh đa làng Dụ Đại, xã Đông Hải; dệt
chiếu xã An Vũ, An Lễ, An Dục, An Tràng; vàng mã xã An Vinh; chế biến
lương thực xã An Mỹ; gỗ mỹ nghệ xã An Đồng... Các làng nghề ở Quỳnh Phụ
đã và đang góp phần hạn chế tình trạng rời quê đi làm ăn xa và tăng thu nhập
cho người lao động, thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học, kỹ thuật, công nghệ… các làng nghề có những cơ hội để phát
1
triển song cũng có không ít những khó khăn, thách thức phải đối mặt. Nhiều
làng nghề, ngành nghề truyền thống có nguy cơ tan rã do không đủ sức cạnh
tranh, không theo kịp tốc độ phát triển của máy móc hiện đại. Nhiều làng
nghề sản xuất còn thủ công theo quy mô nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm chưa
cao, mẫu mã chậm thay đổi nên sức cạnh tranh kém, chưa tạo dựng được
thương hiệu. Hầu hết các làng nghề chưa có hạ tầng kỹ thuật xử lý nguồn
nước trước khi xả ra môi trường, cũng như thu gom chất thải. Vấn đề nan giải
chưa tìm được lời giải đối với nhiều làng nghề trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ
hiện nay là khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, cơ chế, chính
sách ban hành đã lâu, có một số nội dung không còn phù hợp, nhưng lại chậm
được thay đổi cho phù hợp tình hình mới, nhiều thủ tục hành chính còn rườm
rà. Khó khăn nhất là tiếp cận vay vốn, ứng dụng khoa học, công nghệ, nâng
cao tay nghề. Thị trường chậm được mở rộng, chưa gắn kết được các công
đoạn trong chuỗi giá trị từ thiết kế mẫu mã, cung ứng nguyên nhiên liệu đến
sản xuất và tiêu thụ; các nghệ nhân, thợ giỏi làng nghề chưa được quan tâm
bồi dưỡng, phát huy đúng mức, chưa thu hút được truyền dạy nghề cho lao
động mới, chưa được quan tâm để sáng tạo ra mẫu mã mới; mối liên kết giữa
các cơ sở sản xuất trong làng nghề và giữa các làng nghề còn nhiều tồn tại,
hạn chế, kéo dài tình trạng sản phẩm chậm được cải tiến, sức cạnh tranh kém
và thu nhập thấp... Khoa học công nghệ chậm được ứng dụng vào làng nghề
để nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã thiết kế, nhất là trong bảo vệ, khắc
phục ô nhiễm môi trường; tình trạng ô nhiễm tại làng nghề chưa được xử lý,
nhiều làng nghề bị ô nhiễm nặng, phát sinh nhiều dịch bệnh. Việc quy hoạch
làng nghề chậm, nhiều cơ sở sản xuất làng nghề ô nhiễm nặng mà chưa được
di dời…
Ngoài ra, khó khăn lớn nhất của các làng nghề hiện nay là tìm thị
trường tiêu thụ. Bởi lẽ, sản phẩm của làng nghề truyền thống có giá thành cao,
mẫu mã sản phẩm chưa đa dạng, chưa theo kịp thị hiếu người tiêu dùng trong
2
và ngoài nước. Đây là một thực tế khiến cho hàng truyền thống của Quỳnh
Phụ nói riêng cũng như của Việt Nam nói chung chưa thể đến được những thị
trường khó tính nhưng đầy tiềm năng như Mỹ hoặc Châu Âu... Vì vậy, nghiên
cứu đề ra những giải pháp đổi mới quản lý nhà nước để thúc đẩy sự phát triển
của các làng nghề của huyện Quỳnh Phụ đang là đòi hỏi khách quan và cấp
thiết. Xuất phát từ nhận thức đó, em chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về làng
nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình” để
nghiên cứu. Việc nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn,
đề ra các giải pháp tác động tích cực để hoạt động quản lý đối với làng nghề
truyền thống ngày càng hiệu quả, phát huy vai trò của làng nghề truyền thống
trong tiến trình hội nhập và đặc biệt là trong tiến trình xây dựng nông thôn
mới của cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến đề tài, ở Việt Nam có một số đề tài sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Xây dựng và phát triển mô hình
làng nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ” của GS.TS. Hoàng Văn
Châu. Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về làng nghề, làng nghề truyền
thống, làng nghề du lịch cũng như tiềm năng và sự cần thiết phải phát triển
mô hình làng nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Tác giả đã tìm
hiểu kinh nghiệm xây dựng và phát triển làng nghề gắn với hoạt động du lịch
của Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia từ đó rút ra những bài học
đối với Việt Nam. Tác giả đã phân tích và đánh giá thực trạng làng nghề, làng
nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ, từ thực trạng đáp ứng yêu cầu
du lịch tại các làng nghề, đến tình hình khách du lịch cũng như mô hình tổ
chức quản lý và cơ chế quản lý làng nghề du lịch. Tác giả đã đề xuất các mô
hình tổ chức quản lý làng nghề du lịch, một số tuyến du lịch làng nghề chủ
yếu cũng như các phương án xây dựng và phát triển các làng nghề du lịch tại
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
3
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Như Chung về “Quá trình hoàn thiện các
chính sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997
đến 2003- thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp”. Đề tài đã đề cập tới thực
trạng về chính sách quản lý nhà nước đối với làng nghề và đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước thúc đẩy sự phát triển của làng
nghề.
- Luận án tiến sỹ của Mai Thế Hởn về “Phát triển làng nghề truyền
thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà
Nội”. Đề tài đã đề cập tới vấn đề quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề, đã
đề cập đến vấn đề phát triển thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công
nghệ cho sự phát triển làng nghề. Đề tài còn đề cập đến chính sách của Nhà
nước đối với việc phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
- Luận văn thạc sỹ của Vũ Thu Hà năm 2002 về “Khôi phục và phát
triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - Thực trạng và giải
pháp”. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng làng nghề truyền thống ở nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng và đưa ra giải pháp về quy hoạch, kế hoạch khôi
phục và phát triển làng nghề truyền thống, đưa ra giải pháp về đào tạo lao
động, cán bộ quản lý, thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách của
nhà nước để phát triển làng nghề truyền thống.
- Luận văn thạc sỹ của Trần Văn Hiến năm 2006 về “Tín dụng của
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề
tại tỉnh Quảng Nam”. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng công tác tín dụng
ngân hàng nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển làng nghề
của tỉnh; đồng thời tác giả đã ra dự báo sự phát triển của làng nghề, của tín
dụng ngân hàng nông nghiệp đến năm 2012, đưa ra cơ chế, chính sách cho
vay để khuyến khích làng nghề phát triển.
4
- Đề tài: “Làng nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam” của tác giả
Bùi Văn Vượng, 2002, nhà xuất bản (Nxb) Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Đây là
công trình giới thiệu một cách tổng quan về các làng nghề truyền thống ở Việt
Nam, với nhiều thông tin có giá trị tham khảo cao.
- Đề tài: “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam
trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Trần Minh Yến,
2003 NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu mang tính
tổng quan và đặc biệt nhấn mạnh về vai trò của làng nghề truyền thống trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta hiện nay.
Ngoài ra còn một số luận văn lý luận chính trị cao cấp năm 2006 về
“Phát triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường hiện nay trên
địa bàn huyện Đức Thọ- Hà Tĩnh” của Thạc sỹ Nguyễn Quốc Hải và luận văn
thạc sỹ năm 2006 về “Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Trọng Tuấn cũng đều đề cập đến thực
trạng làng nghề truyền thống của các địa phương khác nhau; đồng thời cũng
đưa ra những giải pháp về quy hoạch, kế hoạch phát triển nghề truyển thống
và đặt vấn đề thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách, đào tạo
nguồn lao động để làng nghề được phát triển trong điều kiện Việt Nam thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những
khía cạnh khác nhau của làng nghề và đưa ra những giải pháp phát triển làng
nghề… Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên
sâu về quản lý nhà nước đối với làng nghề trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh
Thái Bình.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3. 1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống, quản
lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, phân tích thực trạng hoạt động
của các làng nghề truyền thống và hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, luận văn đưa ra các
giải pháp quản lý để làng nghề truyền thống phát triển bền vững. Mục đích
của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước đối với
các làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình,
nghiên cứu và đề xuất ý tưởng, giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà
nước đối với làng nghề đồng thời đưa ra những định hướng để phát triển làng
nghề một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống, quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các làng nghề truyền
thống, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại Quỳnh
Phụ, Thái Bình; tìm ra những thuận lợi và khó khăn về hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.
- Nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản
lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ
tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa
bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.
Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện
nhưng đặt trong khuôn khổ các chính sách, chế độ quản lý làng nghề của
6
Chính phủ. Những vấn đề nghiên cứu chính sách sẽ gắn với chủ thể quản lý là
chính quyền tỉnh Thái Bình. Ngoài ra luận văn có xem xét chế độ chính sách
chung của cả nước với tư cách môi trường pháp lý chung về quản lý làng
nghề.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ
tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về hoạt động quản lý, quản lý nhà nước cũng như những quan điểm
của Đảng trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và
các văn bản quản lý nhà nước về phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp thống kê: Dựa trên các báo cáo, kết quả tổng kết tại các
làng nghề, tập hợp các số liệu nhằm đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh: Dựa trên phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng và khoa học, các phương pháp thống kê, tổng
hợp sẽ giúp tác giả có số liệu để phân tích, so sánh từ đó đưa ra những giải
pháp có tính thực tiễn cao.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Luận văn kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình nghiên cứu có liên quan; đồng thời, dựa vào
các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của nhà nước về phát triển
làng nghề truyền thống.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước
nói chung và quản lý làng nghề nói riêng. Kinh nghiệm quản lý làng nghề của
các địa phương khác trong cả nước và bài học kinh nghiệm cho huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài
liệu tham khảo phục vụ cho công tác quản lý, công tác xây dựng chính sách
phát triển làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình nói
riêng cũng như của các địa phương khác trong cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về làng nghề truyền thống và quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống
Chương 2: Thực trạng làng nghề truyền thống và hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái
Bình.
Chương 3: Quan điểm của Đảng và một số giải pháp quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
* Khái niệm làng nghề
Làng là một nhóm người quây quần ở một nơi nhất định trong nông
thôn, làng là một tế bào của xã hội người Việt, một tập hợp dân cư chủ yếu
theo quan hệ láng giềng, một không gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp
những người quần tụ lại cùng sinh sống và sản xuất [14].
Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một
nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng
theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề mà
cũng có hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần thể để phát triển
công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập
thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa
phương.
Thực tế cho thấy, làng nghề là nơi mà ở đó có những hộ thuộc một số
dòng tộc nhất định sinh sống. Trong các làng nghề này tồn tại đan xen các
mối quan hệ kinh tế, xã hội phong phú và phức tạp. Làng nghề là những làng
ở nông thôn có những nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao
động và thu nhập so với nghề nông.
Như vậy làng nghề là một thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, được
cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất
định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là
chính, giữa họ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, xã hội và văn hóa.
* Khái niệm về làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống, trước hết nó được tồn tại và phát triển lâu đời
trong lịch sử, trong đó bao gồm một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống,
9
là nơi hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia
đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ
nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các
thành viên luôn có ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Làng
nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian
vẫn duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các
làng nghề truyền thống thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc
một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc
dạy nghề được thực hiện theo phương pháp truyền nghề.
Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình
thành từ lâu đời.
Theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; làng nghề, làng nghề truyền thống được công
nhận dựa trên các tiêu chí sau:
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
Thứ nhất, có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt
động ngành nghề nông thôn.
Thứ hai, có hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính
đến thời điểm đề nghị công nhận.
Thứ ba, phải chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Làng nghề truyền thống được công nhận phải đạt tiêu chí làng nghề và
có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-
BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng
dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP, cụ thể:
Thứ nhất, nghề của làng nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50
năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận.
Thứ hai, nghề của làng nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn
hoá dân tộc.
10
Thứ ba, nghề của làng nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ
nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Thứ tư, số hộ và số lao động trong làng nghề truyền thống đạt từ 30%
trở lên so với tổng số lao động của làng.
Thứ năm, sản phẩm làm ra có tính thẩm mỹ mang đậm nét yếu tố và
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Thứ sáu, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính
đến thời điểm đề nghị công nhận.
Thứ bảy, chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Như vậy để được công nhận làng nghề truyền thống, trước hết phải đạt
tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống đã xuất hiện tại địa
phương từ trên 50 năm, tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc
và gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
* Khái niệm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
- Khái niệm quản lý:
Quản lý gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên trong thực
tế có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý; tuy nhiên, khi đề cập đến quản
lý, có một cách tiếp cận nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa học và nhà
quản lý thực tiễn, đó là: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của
chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định trước.
- Khái niệm quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng
pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển
của xã hội. Những hoạt động này nhằm bảo đảm cho hệ thống pháp luật quốc
gia đi vào cuộc sống. Đây là chức năng cơ bản của nhà nước. Hoạt động quản
lý nhà nước đạt hiệu quả cao phải trên cơ sở bảo đảm tính khoa học về hoạch
định, tổ chức, điều hành, kiểm tra, giám sát.
11
- Từ các phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống là: "Việc áp dụng hệ thống các công cụ quản lý bao
gồm pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch tác động vào đối tượng quản
lý để hướng dẫn các làng nghề truyền thống của địa phương phát triển theo
định hướng đã đặt ra trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhà nước".
Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống nhằm phát triển làng
nghề theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia và
kiểm soát làng nghề phát triển một cách bền vững. Vì vậy, để quản lý làng
nghề, nhà nước dùng các công cụ như pháp luật, chính sách… trong hoạt
động quản lý; cụ thể như:
+ Thông qua hệ thống pháp luật, một mặt, nhà nước tuyên bố các quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động trong làng nghề truyền thống, đặc biệt
là quyền và nghĩa vụ, chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước đối với
làng nghề. Nếu hệ thống luật pháp tiến bộ và phù hợp, sẽ khuyến khích làng
nghề phát triển. Ngược lại, hệ thống luật pháp lạc hậu, bảo thủ sẽ cản trở sự
phát triển của làng nghề truyền thống.
+ Quản lý nhà nước không chỉ nhằm kiểm soát làng nghề truyền thống
mà quan trọng hơn là định hướng cho làng nghề truyền thống phát triển.
Trong hoạt động quản lý, nhà nước cần có các chiến lược, quy hoạch để định
hướng cho các làng nghề phát triển một cách bền vững. Mặt khác, có qui
hoạch, nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát được sự phát triển của làng nghề
truyền thống, từ đó có các chính sách điều chỉnh phù hợp với tình hình thực
tế.
* Các khái niệm liên quan đến đề tài
Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là thực
hiện chức năng quản lý theo ngành, lĩnh vực cụ thể, được phân cấp quản lý từ
Trung ương đến địa phương.
12
Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
là tổng thể các quan điểm, biện pháp, công cụ nhằm mục tiêu phát triển làng
nghề truyền thống. Nhà nước thông qua việc xây dựng và ban hành chính
sách, pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hộ và các
doanh nghiệp hoạt động, đồng thời hỗ trợ về vật chất để tăng cường năng lực
của các cơ sở, hộ gia đình, doanh nghiệp trong việc sản xuất kinh doanh tại
làng nghề truyền thống.
Xã hội hóa đối với làng nghề có thể thực hiện trên các lĩnh vực như: xã
hội hóa trong đào tạo nghề, trong xây dựng cơ sở hạ tầng, điện, đường,
trường, trạm và bảo vệ môi trường.
Hội nhập quốc tế đối với làng nghề có thể thực hiện trên các lĩnh vực
như: phát triển du lịch làng nghề, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm quốc
tế, áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại từ các nước tiên tiến. Hội nhập quốc
tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút vốn, công nghệ, tiếp thu
kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát triển nhân lực thông qua
các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ...
1.2. Sự cần thiết, đặc điểm quản lý nhà nƣớc về làng nghề truyền thống
1.2.1. Sự cần thiết quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Sự cần thiết quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống được thể hiện
như sau:
Một là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là yêu cầu cấp thiết
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển sản xuất hàng hoá
của các làng nghề truyền thống, thúc đẩy cuộc chiến chống lạm dụng và gian
lận thương mại. Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề sẽ định hướng
cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm làng nghề của địa phương phát
triển theo đúng mục tiêu của địa phương đã đề ra trên cơ sở tạo lập môi
trường thuận lợi cho các làng nghề tại địa phương tiếp cận với các yếu tố tài
nguyên, nguồn nhân lực, các thông tin cần thiết về thị trường…
13
Các cơ sở sản xuất tại các làng nghề sẽ khó khăn trong việc xây dựng
thương hiệu, xúc tiến thương mại cho sản phẩm làng nghề nếu không có sự
hướng dẫn, hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước. Đặc biệt, trong quá trình
hội nhập, thị trường thế giới yêu cầu rất cao về chất lượng, thiết kế mẫu mã
sản phẩm. Tuy nhiên, tình trạng phổ biến của các sản phẩm ở các làng nghề
truyền thống của Việt Nam là còn rập khuôn, những mẫu có sẵn đơn điệu, tự
nghĩ ra cái gì thì làm cái đó hoặc làm theo đơn đặt hàng và bắt chước sao chép
những hàng bán chạy; vì vậy cần tăng cường hoạt động quản lý nhà nước để
hướng dẫn, định hướng cho các làng nghề phát triển bền vững.
Hai là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là hoạt động có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống
làng nghề, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm làng nghề, giúp thúc đẩy tiềm năng phát triển của các nguồn lực địa
phương, nâng cao đời sống cộng đồng, đặc biệt là các khu vực nông thôn,
miền núi trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Hiện nay, các làng nghề truyền thống gặp không ít khó khăn và thách
thức trong bảo tồn và phát triển. Chính vì vậy, tăng cường hoạt động quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống để giúp các làng nghề truyền thống
vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển và đóng góp cho đất nước là một nhiệm
vụ quan trọng của Đảng và nhà nước ta. Để duy trì và phát triển các làng
nghề, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ địa phương trong xây dựng quy
hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền thống trong phạm vi cả tỉnh, xây
dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề truyền thống, tìm kiếm thị
trường tiêu thụ cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống, xây dựng
nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống...
Ba là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống có vai trò giám sát,
bảo đảm phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh của làng nghề, để bảo tồn các giá trị văn hóa của làng nghề.
14
Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát cơ quan quản lý nhà nước
hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh tuân thủ các quy định của pháp
luật; cụ thể như tuân thủ các quy định về sử dụng đất theo quy hoạch, nguồn
nguyên liệu sử dụng trong sản xuất có đảm bảo và quan trọng hơn là việc đảm
bảo các yếu tố truyền thống được kết tinh trong từng sản phẩm. Đồng thời,
nếu phát hiện các dấu hiệu vi phạm, sẽ kịp thời xử lý các sai phạm nhằm
hướng đến môi trường phát triển bền vững.
Bốn là, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống nhằm kiểm soát và
đưa ra các giải pháp để giảm thiểu vấn đề ô nhiểm môi trường tại các làng
nghề.
Hiện nay, hầu hết các cơ sở sản xuất tại các làng nghề đều có quy mô
nhỏ, nằm trong khu dân cư, mặt bằng sản xuất chật hẹp nên rất khó xây dựng
hệ thống xử lý môi trường, các hộ sản xuất chưa đầu tư các biện pháp nhằm
giảm thải ô nhiễm môi trường không khí, bụi, chất thải rắn; nước thải sản xuất
chưa qua xử lý cùng với nước thải sinh hoạt được xả vào hệ thống thoát nước
mặt, đồng thời, ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa cao… là những
nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Thông qua hoạt động
quản lý nhà nước sẽ giúp người dân hiểu rõ hơn vấn đề đảm bảo môi trường
làng nghề, hỗ trợ các giải pháp để xử lý môi trường. Ví dụ như nhà nước sẽ
tăng cường tuyên truyền, tập huấn cho người dân về vấn đề đảm bảo môi
trường làng nghề, hỗ trợ xây dựng các hệ thống thu gom, xử lý nước thải, rác
thải… tại các làng nghề truyền thống.
1.2.2. Đặc điểm làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống là cả một môi trường kinh tế - xã hội và văn
hoá. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang
đời khác, hun đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài hoa và những sản phẩm độc đáo
mang bản sắc riêng. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống là những sản
phẩm văn hoá, có giá trị mỹ thuật cao. Làng nghề truyền thống có thể có một
15
nghề hoặc vài nghề truyền thống. Nếu làng có vài nghề thì có một nghề chính
và tên nghề đó được gọi tên làng nghề. Sản phẩm của làng nghề có quy trình
công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang các thế hệ khác.
Trong các làng nghề truyền thống, trước đây chủ yếu là dậy nghề theo
phương thức truyền nghề mà trước tiên là trong phạm vi gia đình. Nhìn
chung, các nghề được bảo tồn trong từng gia đình của các làng, xã mà ít được
phổ biến ra bên ngoài, bởi vì ở một số nơi quy định truyền nghề rất chặt chẽ.
Tuy nhiên, từ sau khi thực hiện cải cách công thương nghiệp (1957-1960)
phương thức dạy nghề và truyền nghề trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Làng nghề truyền thống là một cụm dân cư sinh sống tạo thành làng
quê hay phường hội. Đó chính là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Những phong
tục, tập quán, đền thờ, miếu mạo… của mỗi làng xã vừa có nét chung của văn
hoá dân tộc, vừa có nét riêng của mỗi làng quê, làng nghề. Các sản phẩm của
làng nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá
trị văn hoá, văn minh của dân tộc.
Các làng nghề có đặc điểm là thường yêu cầu vốn đầu tư không lớn
nhưng có khả năng thu hút nhiều lao động, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội
cao. Làng nghề gắn bó chặt chẽ không tách rời với nông nghiệp nông thôn về
lao động, nguyên liệu, thị trường… Ở nông thôn gần như 100% người làm
làng nghề đều có đất nông nghiệp, có thể do họ canh tác hoặc phần lớn là cho
thuê hoặc nhượng cho người khác canh tác. Trong điều kiện toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới như hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nếu phải
xem xét để tìm ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường
quốc tế của những nước đang phát triển như Việt Nam thì trên hết phải kể đến
sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống.
1.2.3. Đặc điểm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là sự tác động liên tục, có
tổ chức của nhà nước đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề
16
truyền thống nhằm duy trì và phát triển bền vững các làng nghề truyền thống
theo các mục tiêu mà nhà nước đặt ra. Quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống được thể hiện bởi các đặc điểm sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tương đối khó
khăn và phức tạp vì liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Nhà nước trao
thẩm quyền cho các cơ quan quản lý để thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề là
tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang tính quyền lực - pháp lý do pháp luật
quy định. Trên cơ sở, hiến pháp, luật, các cơ quan quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống ra quyết định mang tính pháp lý bắt buộc các cơ sở
sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống phải tuân thủ. Các cơ
quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống chỉ hành động trong
phạm vi thẩm quyền của mình. Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống có sự tham gia của các ngành như: Ngành nông
nghiệp- quản lý nhà nước đối với ngành nghề nông thôn; ngành công thương-
quản lý xúc tiến thương mại cho các sản phẩm làng nghề; ngành tài nguyên
môi trường- quản lý sử dụng đất đai và vấn đề môi trường tại các làng nghề;
ngành khoa học và công nghệ - quản lý việc ứng dụng công nghệ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ xây xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm
làng nghề…
Thứ hai, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống rất
nhạy cảm, phức tạp. Cách thức tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các cơ sở sản xuất tại các làng nghề đã trở thành nét văn hóa riêng của làng
nghề, thành thói quen của những người lao động tại nơi đây. Vì vậy, khi nhà
nước tác động những chính sách, cơ chế mới rất khó khăn và cần có sự đồng
thuận của tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề. Ví dụ, phương
thức hoạt động sản xuất tại các làng nghề truyền thống gốm sứ, muốn thay đổi
nguyên liệu dùng để nung sản phẩm là rơm, rạ, than, củi… bằng cách dùng
17
nhiệt, ga… để hạn chế ô nhiễm môi trường, tăng năng suất lao động, giảm chi
phí giá thành… nhưng để thay đổi thói quen sản xuất của làng nghề là cả một
vấn đề lớn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Nhà nước phải dùng các phương pháp khác nhau trong hoạt động quản lý như
giáo dục thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế và cả
các công cụ như pháp luật… một cách hài hòa thì mới thực hiện tốt hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Thứ ba, các cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống được
sử dụng nhiều nguồn lực để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Nhà
nước sử dụng nguồn nhân lực, nguồn tài chính để đảm bảo các hoạt động thực
thi công vụ (tiền lương, thiết bị hỗ trợ hoạt động quản lý, công tác phí...) và
hỗ trợ cho các cơ sở tại các làng nghề truyền thống trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Ví dụ như nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề cho các lao động của
làng nghề thông qua các buổi tập huấn; hỗ trợ các cơ sở tham gia các chương
trình xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm…
Thứ tư, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống mang
tính pháp lý và bình đẳng với các đối tượng: Sử dụng đúng đắn quyền lực,
thực hiện đúng đắn chức năng và quyền hạn được trao khi thực hiện nhiệm
vụ. Đồng thời, chú trọng đến việc nâng cao uy tín chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực trí tuệ của người thực thi công vụ. Phải kết hợp chặt chẽ yếu
tố thẩm quyền và uy quyền để để nâng cao được hiệu lực và hiệu quả hoạt
động của một nhà nước, của nhân dân và vì nhân dân phục vụ.
Thứ năm, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống chịu
sự tác động của các chủ thể trong hệ thống chính trị. Vì vậy, phải chịu sự
kiểm soát của các cơ quan dân cử, các nhóm lợi ích, dư luận quần chúng, các
cơ quan thông tin đại chúng và cử tri. Tất cả các hoạt động quản lý nhà nước
về làng nghề đều hướng tới mục tiêu phục vụ người dân, lấy đó làm xuất phát
điểm cho việc xây dựng hệ thống thể chế, chính sách.
18
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động quản lý nhà nƣớc về làng nghề
truyền thống
1.3.1 Yếu tố về thể chế
Thể chế hành chính nhà nước là hệ thống các quy định xác định mối
quan hệ hành chính giữa nhà nước với các đối tượng trong xã hội, hệ thống
quy định quản lý nội bộ cơ quan hành chính, thủ tục hành chính và tài phán
hành chính. Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để xác lập mức độ và
phạm vi can thiệp của nhà nước đối với các cơ sở sản xuất trong làng nghề
truyền thống; là căn cứ để thiết lập nên bộ máy hành chính nhà nước đối với
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, là căn cứ để xây dựng
đội ngũ nhân sự trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống và là cơ sở để điều chỉnh, sử dụng các nguồn lực của xã hội trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề. Vì vậy, thể chế hoá của nhà nước
về các mặt tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, ngân sách... phù hợp hay không
phù hợp với kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống.
1.3.2 Yếu tố về chính sách
Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển làng nghề, trong đó yếu tố
chính sách đóng vai trò quan trọng. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia, vùng, ngành, địa phương, lãnh thổ, loại hình doanh nghiệp… đều
tác động đến mục tiêu, nội dung và phương thức quản lý của nhà nước đối với
làng nghề truyền thống. Quá trình hội nhập và phát triển đòi hỏi cùng với quá
trình đổi mới chính sách. Hệ thống các chính sách của nhà nước tác động rất
lớn và quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và làng nghề
truyền thống nói riêng. Nhà nước thông qua việc xây dựng và ban hành chính
sách, pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hộ và các
doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ về vật chất để tăng cường năng lực của các cơ
sở, doanh nghiệp, hộ gia đình trong việc sản xuất kinh doanh tại làng nghề.
19
1.3.3. Yếu tố về văn hóa truyền thống, phong tục tập quán
Yếu tố truyền thống có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với sự phát
triển làng nghề. Các nghệ nhân là những người có tay nghề cao trong các làng
nghề, là hạt nhân để bảo tồn duy trì và phát triển làng nghề. Những luật, quy
định, tập quán của các làng nghề đã tạo ra những phong cách riêng về đạo đức
nghề nghiệp, tạo nên nét độc đáo để phát triển sản phẩm làng nghề và là các
yếu tố quan trọng để phát triển làng nghề. Tuy nhiên, bên cạnh việc gìn giữ
những yếu tố truyền thống, các làng nghề truyền thống phải biết tiếp thu
những yếu tố mới, thị trường hội nhập, loại bỏ những quy ước, tập tục lạc
hậu… để các sản phẩm làng nghề luôn giữ được yếu tố truyền thống kết tinh
trong sản phẩm và phải đáp ứng được thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng.
1.3.4. Yếu tố về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để làng nghề phát triển. Các làng
nghề chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có hệ thống kết cấu hạ tầng đảm
bảo và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng bao gồm: Hệ thống giao thông vận tải, thông
tin liên lạc, điện, nước… Hiện nay, trong quá trình hội nhập, cạnh tranh gay
gắt, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng khắp, nguồn nguyên liệu không sẵn có
tại làng nghề nên nhu cầu về hệ thống giao thông vận tải rất quan trọng; hệ
thống giao thông vận tải tốt rất thuận lợi trong việc vận chuyển nguyên liệu,
tạo điều kiện mở rộng thị trường…
Vì vậy, ở những nơi có cơ sở hạ tầng đầy đủ và đồng bộ thì các làng
nghề truyền thống có điều kiện phát triển mạnh. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn
các làng nghề truyền thống còn đang gặp rất nhiều khó khăn vì điều kiện cơ
sở hạ tầng còn yếu kém và chưa đồng bộ.
1.3.5. Yếu tố về nguồn lực
Nghệ nhân: Là những người giỏi nghề nhờ quá trình tích luỹ kinh
nghiệm và rèn luyện tay nghề. Nghệ nhân của các làng nghề làm chủ những
công nghệ sản xuất tinh xảo, đạt tới mức nghệ thuật cao. Nghệ nhân làng nghề
20
truyền thống không chỉ là những người nắm giữ những bí quyết riêng trong
việc sáng tạo những sản phẩm độc đáo, tinh tế, nghệ nhân còn là người giữ
nghề, bảo đảm cho làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển. Nhờ có tài
năng và những bí quyết riêng rất đặc biệt như vậy nên nhiều nghệ nhân làng
nghề truyền thống tạo ra những mặt hàng chất lượng cao và độc đáo mà
không nơi nào khác có thể sản xuất được. Tuy nhiên, hiện nay các nghệ nhân
tại các làng nghề truyền thống tuổi đều cao, nhà nước chưa có chính sách tôn
vinh, khuyến khích và tạo điều kiện để các nghệ nhân đào tạo đội ngũ kế cận
cho các làng nghề truyền thống.
Nguồn lực về vốn: Đa phần các cơ sở sản xuất trong làng nghề là qui
mô hộ gia đình và trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó
khăn nên khả năng tích lũy vốn của các chủ cơ sở là rất thấp, rất khó khăn
trong việc đảm bảo nguồn vốn. Các làng nghề muốn mở rộng sản xuất, đầu tư
trang thiết bị mới, mở rộng thị trường… đều phải cần có vốn. Việc đầu tư vốn
phụ thuộc vào quy mô sản xuất, đặc điểm sản xuất của từng sản phẩm. Ngày
nay, các sản phẩm làng nghề muốn cạnh trạnh trên thị trường đòi hỏi cần phải
chuyên môn hóa trong tất cả các hoạt động sản xuất, vì vậy nhu cầu về vốn rất
lớn.
Nguồn nhân lực: Đa số làng nghề sản xuất sản phẩm mang tính truyền
thống do vậy mà lao động trong làng nghề được đào tạo cũng theo lối truyền
thống. Những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề là những người
truyền nghề, dạy nghề. Các làng nghề hiện tại đa phần lao động là những
người đứng tuổi đã theo đuổi nghề từ lâu; những lao động trẻ phần lớn có tâm
lý không muốn theo đuổi nghề. Ngày nay, việc phát triển sản xuất theo công
nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập, thị trường cạnh tranh đòi hỏi chất lượng
nguồn nhân lực cao. Các chủ cơ sở sản xuất tại các làng nghề đòi hỏi ngoài
kinh nghiệm quản lý còn cần phải nghệ thuật quản lý, tinh thông, phải am
hiểu tất cả các kiến thức về kinh tế, xã hội, lực lượng lao động tại các làng
21
nghề phải thể hiện tính chuyên môn hóa cao… nhằm đáp ứng nhu cầu của
tình hình mới.
Thị trường tiêu thụ: Phần lớn trước đây, sản xuất tại các làng nghề còn
mang nặng tính chất tự cung, tự cấp do sự hạn chế về khả năng tiếp cận thông
tin với thị trường bên ngoài; đây là một trong những nguyên nhân làm hạn
chế khả năng cung cầu trên thị trường đối với các sản phẩm làng nghề; cản trở
các hoạt động tiếp nhận, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công
nghệ mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống.
Nếu không nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường, về thị hiếu của người
tiêu dùng, về bản sắc dân tộc và văn hóa đặc trưng riêng của thị trường các
vùng miền, các nước… thì các làng nghề khó mà chủ động trong sản xuất,
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ của các sản phẩm
làng nghề truyền thống.
1.3.6. Yếu tố xã hội hóa và hội nhập quốc tế
Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về
nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hóa... phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là một xu thế lâu dài và
mang tính quy luật. Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của
nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại nhà nước thường xuyên
tìm kiếm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các dịch vụ công,
đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.
Hội nhập quốc tế vừa tạo cơ hội mới vừa đặt ra những thách thức
không nhỏ đối với sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống.
- Những cơ hội mới chủ yếu cho làng nghề truyền thống của Việt Nam
do hội nhập quốc tế tạo ra bao gồm:
22
Mở rộng thị trường xuất khẩu cho các làng nghề truyền thống, tạo ra cơ
hội lớn trong giao lưu kinh tế văn hoá giữa các làng nghề truyền thống của
các địa phương với các nước trên thế giới.
Giúp làng nghề truyền thống khắc phục hạn chế về không gian, thời
gian và những khó khăn trở ngại khác trong tiếp cận thị trường thế giới, là cơ
hội để làng nghề truyền thống tìm kiếm cơ hội kinh doanh và mở rộng kinh
doanh.
Hội nhập quốc tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút
vốn, công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát
triển nhân lực thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ trong quá
trình hội nhập…
- Những thách thức chính đối với các làng nghề truyền thống trong hội
nhập quốc tế, gồm:
Thị trường thế giới luôn biến động khó lường, không ổn định, hậu quả
của khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu có tác động làm giảm sức mua
nói chung của thị trường, gây tác động tiêu cực rất lớn tới các chủ thể sản
xuất kinh doanh các sản phẩm mang đậm nét văn hóa như các mặt hàng của
làng nghề truyền thống.
Quá trình hội nhập đòi hỏi cán bộ quản lý nhà nước về làng nghề và các
doanh nghiệp phải năng động, chuyên nghiệp, nhạy bén và có nguồn nhân lực
cao. Hội nhập sẽ là cơ hội để tăng lượng khách du lịch đến Việt Nam là thị
trường tiềm năng của các sản phẩm làng nghề truyền thống, vì đa phần các
khách du lịch đều muốn mua những sản phẩm có tính đặc trưng, đậm nét văn
hóa bản địa.
23
1.4. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nƣớc về làng nghề truyền thống
1.4.1. Chủ thể quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Chủ thể quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về làng nghề
nói riêng là nhà nước và được nhà nước giao cho các tổ chức, cơ quan nhà
nước như sau:
Ở Trung ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý
cho các Bộ quản lý như sau:
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm quản lý nhà
nước đối với các ngành nghề nông thôn.
- Bộ Công thương chịu trách nhiệm quản lý doanh nghiệp ở nông thôn,
triển khai chính sách khuyến công, xúc tiến thương mại, quản lý các khu, cụm
công nghiệp làng nghề, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực
hiện công tác bảo vệ môi trường, đáp ứng việc di dời các cơ sở sản xuất trong
làng nghề.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm xây dựng và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đối với làng nghề; hướng dẫn, kiểm tra việc
thực hiện các hồ sơ, thủ tục về môi trường; theo dõi và xác định các làng nghề
ô nhiễm và đề xuất phương án xử lý; tổ chức thu phí về bảo vệ môi trường;
kiểm tra, giám sát tình hình tuân thủ các quy định của pháp luật và xử lý vi
phạm về bảo vệ môi trường tại làng nghề; nghiên cứu, ứng dụng và phổ biến
công nghệ xử lý môi trường phù hợp với làng nghề.
- Bộ Công an có trách nhiệm điều tra, phát hiện, xử lý nghiêm, kịp thời
các hành vi tội phạm về bảo vệ môi trường tại các làng nghề.
- Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm quản lý các công nghệ sản
xuất nhằm đưa các công nghệ mới ứng dụng trong sản xuất để tăng năng suất
và chất lượng sản phẩm; hạn chế việc đưa công nghệ cũ, lạc hậu vào làng
24
nghề và khu vực dân cư nông thôn gây ô nhiễm môi trường (sản phẩm làm ra
vẫn phải đảm bảo các yếu tố truyền thống).
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm về bảo tồn, phát huy,
phát triển các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó
có các giá trị văn hóa của sản phẩm làng nghề truyền thống.
Ở địa phương, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh thống nhất quản lý,
chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc quy hoạch, phát triển làng nghề,
quản lý các làng, khu, cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh; bố trí
nguồn lực cần thiết và chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai các nhiệm vụ về quản
lý phát triển làng nghề của UBND cấp huyện. UBND cấp huyện hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với làng nghề của các UBND cấp xã.
Tại các xã, phường và thị trấn có làng nghề có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến, hướng dẫn và giám sát các cơ sở sản xuất tại các làng nghề trong tổ
chức hoạt động sản xuất và tuân thủ các quy định của phát luật (UBND các
cấp giao quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan
tham mưu trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề
truyền thống).
Đối tượng chịu sự quản lý đối với các làng nghề truyền thống là các cơ
sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống.
1.4.2. Nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bao gồm các nội
dung chính như sau:
* Hoạt động ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường trong hoạt động
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Để quản lý các làng nghề truyền thống nhà nước cần ban hành và chỉ
đạo thực hiện các luật, chính sách theo đúng chức năng và thẩm quyền đối với
từng cấp. Nhà nước tại các địa phương cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện các
25
văn bản cấp trên có hiệu quả và ban hành các văn bản nhằm hướng dẫn, tổ
chức thực hiện và cụ thể hóa các văn bản cấp trên. Việc ban hành các văn bản
của địa phương phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của địa phương và không
được trái với các văn bản của cấp trên.
Việc ban hành văn bản nhằm tạo điều kiện cho các làng nghề truyền
thống phát triển một cách thuận tiện, mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thu
nhập cho những người lao động tại làng nghề. Bên cạnh đó, nhà nước cũng
thực hiện việc chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện các văn bản tới các đối
tượng chịu ảnh hưởng. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật buộc
phải có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành có liên quan và cả những
chủ thể thực thi văn bản.
Trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, nhà nước
phải có trách nhiệm cung cấp và thông tin kịp thời đến các cơ sở của làng
nghề về những thông tin cần thiết và liên quan đến hoạt động phát triển làng
nghề truyền thống.
* Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
về làng nghề truyền thống
Trong các quy định của Nhà nước có quy định rất cụ thể về bộ máy tổ
chức quản lý nhà nước tại địa phương về các lĩnh vực khác nhau trong đó có
lĩnh vực làng nghề, làng nghề truyền thống. Bộ máy này được quản lý từ
UBND cấp tỉnh, giao quyền quản lý cho các sở, ban, ngành cấp tỉnh tới các
phòng chuyên môn cấp huyện và chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cấp
huyện. Cơ quan chuyên môn cấp huyện chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức,
biên chế, công tác của UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
chuyên môn nghiệp vụ của sở, ban, ngành cấp tỉnh và dưới cùng là UBND
cấp xã. Bên cạnh đó, còn có một số cơ quan liên quan tham gia phối hợp
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại địa
phương từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã.
26
* Nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
về làng nghề truyền thống
Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống rất cần đội ngũ cán bộ có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo hoạt động thực thi công vụ. Nhà
nước cần quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống. Nếu tuyển dụng, đào
tạo không đáp ứng được nhu cầu thực tế thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu
công việc của địa phương. Đồng thời, việc bồi dưỡng, đào tạo các chủ doanh
nghiệp làng nghề ở nông thôn về các kiến thức về kinh tế thị trường, về pháp
luật trọng kinh doanh là rất cấp bách nhằm đảm bảo và nâng cao hơn nữa hiệu
quả trong kinh doanh, để kinh doanh đúng pháp luật.
* Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền
thống
Chính sách công trong quản lý nhà nước về làng nghề là hệ thống các
chính sách có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, như: Chính sách về đầu tư, tín
dụng; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng; chính sách về môi trường; chính sách
về khoa học và công nghệ... Môi trường kinh doanh của các làng nghề truyền
thống liên quan đến toàn bộ yếu tố kinh tế, xã hội, tự nhiên tác động đến hoạt
động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Vì vậy, chính sách
phát triển làng nghề truyền thống là tổng hợp của nhiều chính sách kinh tế xã
hội.
Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
nhằm định hướng và điều tiết hoạt động của làng nghề, kích thích sự phát
triển làng nghề, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi để phát triển
làng nghề. Chính sách phát triển làng nghề truyền thống thường do Chính
phủ, Bộ ngành Trung ương quyết định như các Nghị định của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Quyết định của Bộ ngành.
27
Đồng thời, các địa phương căn cứ vào chính sách cấp trên và thực trạng của
mình để ban hành các chính sách phù hợp.
Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
là tập hợp tất cả những chủ trương và hành động của nhà nước nhằm tạo cơ
chế cho các làng nghề truyền thống hoạt động và phát triển bằng việc tác
động nhằm khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu tiềm
năng, thế mạnh của địa phương trong việc phát triển làng nghề truyền thống
theo mục tiêu đã đề ra.
Xây dựng và thực hiện chính sách giúp cho các hộ tham gia sản xuất
làng nghề thấy được định hướng, mục tiêu phát triển, lĩnh vực phát triển các
ngành nghề của địa phương từ đó có hướng phát triển. Tuy nhiên, chính sách
đó có thật sự có hiệu quả cần phải nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội của các địa phương, phù hợp với địa phương và phải được cụ thể hóa và
mang tính đồng bộ.
* Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền
thống
Trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, hoạt
động thanh tra và kiểm tra có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy các làng nghề
phát triển.
Thanh tra không chỉ có ý nghĩa quan trọng mà còn là một nhu cầu tất
yếu trong quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống nói riêng. Mục đích của hoạt động thanh tra nhằm
phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện
và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, các nhân thực hiện
đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
28
Kiểm tra thì cho đến nay nhà nước ta chưa có văn bản quy phạm pháp
luật có định nghĩa cụ thể về kiểm tra những trên phương diện lý luận thực tiễn
thì kiểm tra là khái niệm rộng thể hiện ở nhiều góc độ như:
+ Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của
chính mình. Qua kiểm tra các cơ quan, tổ chức đánh giá đúng mực việc làm
của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp
theo một cách hợp lý hơn. Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem
xét, nhìn lại việc làm của chính mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực
hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn.
+ Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với
cấp dưới của mình nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã
thực hiện. Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc,
vì thế cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các
biện pháp như: biểu dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện
pháp cưỡng chế để xử lý đối với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi
phạm pháp luật.
Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra đối làng nghề truyền
thống được thể hiện thông qua các hình thức như: cơ quan nhà nước tổ chức
thanh, kiểm tra đối với các làng truyền thống trong việc chấp hành các quy
định của nhà nước về quy hoạch sản xuất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
trong quá trình sản xuất, kinh doanh; đảm bảo vệ sinh môi trường trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, hướng dẫn cơ sở sản xuất về phương hướng hoạt
động và tuân thủ các văn bản quy định của cấp trên…
Việc thanh tra, kiểm tra, các hoạt động của các làng nghề truyền thống
cần được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất tùy thuộc vào đối tượng và yêu cầu
thực tế nhằm phát hiện những sai sót và kịp thời xử lý những vi phạm tại các
cơ sở sản xuất kinh doanh nếu có.
29
* Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Nhà nước với một ngân sách eo hẹp và những nhu cầu lớn về nhiều loại
dịch vụ tối cần thiết khác cần được bảo đảm thì không thể bao cấp cho mọi
loại dịch vụ, sản phẩm, nhu cầu thiết yếu của người dân, cho dù có thu phí
dịch vụ. Trước những mâu thuẫn ngày càng gay gắt trong quan hệ cung cấp
dịch vụ công, nhiều chính phủ đã tiến hành xã hội hóa các dịch vụ này.
Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về
nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hóa... phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là một xu thế lâu dài và
mang tính quy luật. Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của
nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại nhà nước thường xuyên
tìm kiếm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các dịch vụ công,
đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.
Thực hiện xã hội hóa hoạt động quản lý và phát triển làng nghề truyền
thống là giải pháp quan trọng để thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển
một cách bền vững. Xã hội hóa trong hoạt động quản lý làng nghề truyền
thống tập trung vào các dịch vụ như xã hội hóa trong dịch vụ đào tạo, xã hội
hóa trong dịch vụ quản lý môi trường tại các làng nghề truyền thống, xã hội
hóa trong việc kêu gọi người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng tại các làng
nghề truyền thống... và sự tham gia hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong
hoạt động quản lý, phát triển làng nghề truyền thống.
30
1.5. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một
số địa phƣơng và bài học kinh nghiệm cho huyện Quỳnh Phụ
1.5.1. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của
một số địa phương
* Kinh nghiệm của thành phố Huế
Vùng đất Thừa Thiên Huế qua thống kê có hơn 200 làng nghề thủ công
truyền thống. Hiện tại, số nghề và làng nghề truyền thống ở Thừa Thiên Huế
đang hoạt động là 88 làng nghề, trong đó có 69 làng nghề truyền thống.
Những nghề tiêu biểu như: mộc gia dụng, mộc mỹ nghệ, đúc đồng, mây tre
đan, thêu, dệt thổ cẩm, nón lá, may áo dài, sản xuất vật liệu xây dựng, bún
bánh, chế biến nông sản thực phẩm truyền thống cùng nhiều khác đã được
khôi phục tại các địa phương. Bên cạnh đó, có một số nghề mới được du nhập
như đan sợi nhựa, sợi mây xuất khẩu, thêu hàng, mây tre xiên, thêu móc,
composit mỹ nghệ, chế biến cau khô xuất khẩu…
Một số nghề và làng nghề truyền thống phát triển mạnh vừa cung cấp
sản phẩm cho đời sống xã hội, vừa đang thu hút các khách du lịch đến du lịch,
góp phần tạo nên những giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc và đặc trưng của
vùng đất cố đô. Một số làng nghề cũng mạnh dạn đầu tư, tăng năng lực sản
xuất, chú ý đến thương hiệu và chất lượng sản phẩm, một số cơ sở sản xuất
trong làng nghề truyền thống đã di dời vào cụm làng nghề tập trung để thuận
lợi cho việc liên kết, hợp tác, tăng năng lực cạnh tranh trong xu thế hội nhập.
Ngoài ra, thông qua chương trình khuyến công, nhiều nghề và làng
nghề truyền thống ở Huế gắn với du lịch được đầu tư khôi phục, phát triển
như: Nghề may áo dài truyền thống Huế, nghề làm nón lá, kẹo mè xửng…
Sự phát triển nghề và làng nghề truyền thống ở Huế góp phần tăng thu
nhập cho dân cư nông thôn, ổn định cuộc sống; góp phần chuyển dịch cơ cấu
lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới; góp phần tăng
kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của tỉnh.
31
Nâng cao đời sống người dân ở vùng có làng nghề truyền thống lên từ 3-5 lần.
Các loại hình dịch vụ cùng hoạt động du lịch đã đóng góp 48% - 49% GDP
địa phương, đồng thời góp phần thu hút lượng khách đến Thừa Thiên Huế
hàng năm từ 2,5 -3 triệu lượt, trong đó gần 1 triệu lượt là khách nước ngoài.
* Kinh nghiệm của huyện Hải Hậu, Nam Định
“Xây dựng, phát triển các làng nghề” là một trong 6 đề án phát triển
kinh tế - xã hội đã được BCH Đảng bộ huyện Hải Hậu nhiệm kỳ 2010-2015
ban hành, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhằm thúc đẩy kinh tế nông
thôn phát triển, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, hướng tới
mục tiêu xây dựng Hải Hậu trở thành huyện nông thôn mới... Mục tiêu là duy
trì, mở rộng sản xuất tại các làng nghề hiện có và xây dựng, phát triển thêm
các làng nghề mới. Phấn đấu đến năm 2015 mỗi xã, thị trấn trong huyện có ít
nhất một làng nghề, mỗi làng nghề có một loại sản phẩm đặc trưng, phát triển
ngành nghề theo thế mạnh của địa phương. Sau hơn 4 năm triển khai thực
hiện đề án, từ chỗ toàn huyện chỉ có 5 làng nghề, đến nay toàn huyện Hải Hậu
đã xây dựng và phát triển được thêm 35 làng nghề mới với đa dạng các ngành
nghề như: sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (mộc, dệt chiếu, kéo sợi
PE, chế biến lương thực, thực phẩm), sinh vật cảnh (trồng cây cảnh, trồng
hoa), trồng cây dược liệu và nuôi thủy sản. Nhiều làng nghề được duy trì, phát
triển ổn định, có số lao động và doanh thu làm nghề chính tăng dần theo các
năm như: nhóm nghề mộc mỹ nghệ tại các xã: Hải Minh, Hải Đường, Hải
Trung, Hải Vân; nghề cán kéo sợi PE ở Thị trấn Thịnh Long; nghề chế biến
lương thực, thực phẩm (sản xuất bánh kẹo) ở Thị trấn Yên Định… Những
làng nghề này có số lao động làm nghề chiếm từ 80-90% số lao động của
làng, doanh thu các năm đều đạt từ 15-20 tỷ đồng/năm; chiếm trên 80%
doanh thu của làng. Trên địa bàn huyện đã xây dựng thành công 2 làng nghề
nuôi trồng thủy sản tại các xã: Hải Chính, Hải Châu mới được công nhận
trong năm 2013 có số lao động và doanh thu đều đạt từ 85-90% tổng số lao
32
động, doanh thu của làng. Nhóm 20 làng nghề sinh vật cảnh tuy còn gặp khó
khăn ở khâu tiêu thụ sản phẩm nhưng nhìn chung vẫn có sự tăng trưởng, là
động lực quan trọng góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động của nhiều địa phương. Tổng diện tích đất dành cho phát triển
kinh tế sinh vật cảnh toàn huyện đã tăng từ 374ha (năm 2009) lên trên 600ha
(năm 2015), doanh thu trên một đơn vị diện tích đạt trên 370 triệu
đồng/ha/năm. Các làng nghề mới được nhân cấy, xây dựng thành công trong
giai đoạn 2011-2015 không chỉ tạo việc làm, thu nhập ổn định cho trên 9.000
lao động nông thôn mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của nhiều địa phương, là “cú
hích” để huyện Hải Hậu thực hiện và hoàn thành thắng lợi các mục tiêu Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XXV. Đến nay, toàn huyện Hải Hậu có 40
làng nghề ở 30 xã, thị trấn; trong đó có 20 làng nghề sinh vật cảnh, 12 làng
nghề sản xuất CN-TTCN, 3 làng nghề nuôi trồng thủy sản, 3 làng nghề trồng
cây dược liệu và 2 làng nghề xây dựng. Trong đó có 1 xã có 5 làng nghề, 6 xã
có 2 làng nghề còn lại mỗi xã có 1 làng nghề. Số nghệ nhân được UBND
huyện công nhận là 24 nghệ nhân, trong đó có 6 nghệ nhân nghề mộc mỹ
nghệ, 18 nghệ nhân nghề sinh vật cảnh. Các làng nghề của huyện Hải Hậu thu
hút trên 10 nghìn lao động, đem lại việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho
lao động tại địa phương. Dự kiến hết năm 2015, bình quân thu nhập đầu
người của huyện đạt trên 30,1 triệu đồng/người/năm; tăng trên 12,1 triệu
đồng/người/năm so với năm 2011. Toàn huyện có 30% hộ dân đạt mức thu
nhập trên 50 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo (tiêu chí mới) giảm từ 11,2%
(năm 2011) xuống còn dưới 3% năm 2015. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế của huyện
đã có sự dịch chuyển tích cực, tỷ trọng ngành sản xuất CN-TTCN, dịch vụ
được nâng lên 40,4%; tỷ trọng ngành sản xuất nông nghiệp - thủy sản giảm
xuống còn 28,6%.
33
Để đạt được kết quả khả quan đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ, huyện Hải
Hậu đã thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng và phát triển làng nghề giai đoạn
2011-2015 với sự “vào cuộc” của cả hệ thống chính trị. Phòng Công thương
là đơn vị thường trực giúp UBND huyện xây dựng chương trình, hướng dẫn
các xã, thị trấn rà soát, lựa chọn địa điểm, ngành nghề, vùng nguyên liệu, thị
trường… xây dựng kế hoạch phát triển làng nghề phù hợp với điều kiện thực
tế tại địa phương theo hướng quy hoạch xây dựng NTM. Trên cơ sở đăng ký
của các xã, thị trấn phối hợp với Phòng LĐ-TB và XH, Trung tâm Khuyến
công quốc gia Khu vực I (Bộ Công thương), Trung tâm Khuyến công và Tư
vấn phát triển công nghiệp (Sở Công thương), Trung tâm Dạy nghề huyện hỗ
trợ dạy nghề, truyền nghề, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thực
tiễn sản xuất tại các làng nghề để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Trong 5 năm qua (2011-2015), huyện Hải Hậu đã tổ chức hàng trăm lớp đào
tạo nghề, dạy nghề cho trên 12 nghìn lao động; đa dạng hóa các hình thức
truyền nghề, chuyển giao kỹ thuật để đào tạo nghề mới cho 33 nghìn lao
động. Bên cạnh đó, để đảm bảo nguồn điện phục vụ sản xuất tại các làng
nghề, huyện đã chủ động kế hoạch với ngành điện triển khai tổ chức cải tạo,
nâng cấp 235 trạm biến áp, 272,2km dây trung thế, 1.314,8km dây hạ thế
trong hệ thống lưới điện các xã, thị trấn với tổng vốn đầu tư 285 tỷ đồng, bình
quân 8,1 tỷ đồng/xã, thị trấn. Tăng cường phối hợp với các ngành chức năng
tổ chức các hội chợ xúc tiến thương mại, tạo điều kiện tối đa cho các làng
nghề quảng bá hình ảnh, tiêu thụ sản phẩm góp phần ổn định và phát triển sản
xuất, kinh doanh. Phòng TN và MT có trách nhiệm hỗ trợ các cơ sở sản xuất
trong làng nghề các thủ tục thuê, chuyển nhượng mặt bằng, các biện pháp bảo
vệ môi trường. Phòng Tài chính và các ngân hàng NN và PTNT, CSXH…
tham mưu cho UBND huyện cơ chế hỗ trợ các xã, thị trấn về xây dựng làng
nghề, phát triển nghề mới theo quy định của Nhà nước, tạo điều kiện về
nguồn vốn cho các cơ sở, hộ gia đình trong các làng nghề được vay để phát
34
triển sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở đó, các xã, thị trấn trong huyện đã
thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng và phát triển làng nghề cấp xã, thị trấn. Căn
cứ vào thực tế và tiềm năng, thế mạnh của địa phương để xây dựng kế hoạch,
định hướng phát triển ngành nghề, tổ chức họp dân thông qua kế hoạch và
tham khảo ý kiến của dân về thời gian thực hiện, tiến độ và các tiêu chí của
làng nghề, thông qua quy chế hoạt động của làng nghề…
1.5.2. Bài học về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của
các địa phương mà huyện Quỳnh Phụ cần học tập
Từ những kinh nghiệm trong hoạt động quản lý và phát triển làng nghề
truyền thống nêu trên chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện
Quỳnh Phụ như sau:
Thứ nhất, để hạn chế tình trạng “ly hương” đang ngày càng diễn ra ở
hầu hết ở các làng quê trong cả nước, các địa phương đều có chiến lược phát
triển, khôi phục các làng nghề truyền thống, xem đây là nhiệm vụ quan trọng
để phát triển kinh tế địa phương.
Thứ hai, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững cần có sự
quan tâm, hỗ trợ của nhà nước thông qua việc ban hành các chính sách hỗ trợ,
khuyến khích các làng nghề truyền thống phát triển và phát huy sự nổ lực tự
vươn lên của những người lao động tại làng nghề truyền thống.
Thứ ba, cần phải xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề
truyền thống thông qua công tác quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu cho
các làng nghề truyền thống, điều này rất quan trọng, đây là cơ sở để duy trì
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các làng nghề truyền thống.
Thứ tư, tăng cường công tác bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực quản lý
và lực lượng lao động tại các làng nghề truyền thống. Quan tâm và có chế độ
ưu đãi đối với nghệ nhân, thợ cả, thợ giỏi tại các làng nghề truyền thống, chú
trọng đào tạo thế hệ trẻ cho các lao động tại các làng nghề truyền thống.
35
Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các cơ
sở sản xuất tại các làng nghề phát triển bền vững; nhà nước quan tâm hỗ trợ
xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề truyền thống, tìm kiếm, mở
rộng thị trường cho sản phẩm làng nghề.
Thứ sáu, phải tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong
việc quản lý và phát triển các làng nghề truyền thống.
Thứ bảy, phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch.
36
Tiểu kết chƣơng 1
Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống là yêu cầu tất yếu để khôi
phục và phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển kinh tế xã hội
của địa phương.
Hệ thống hóa các khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống và
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, đặc điểm của làng nghề truyền
thống và đặc điểm quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống rất quan trọng,
là cơ sở lý luận để nắm vững hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền
thống, đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất giải pháp quản lý nhà nước
về làng nghề truyền thống.
Xác định chủ thể quản lý đối với làng nghề truyền thống: Ở Trung
ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý cho các Bộ, ngành
liên quan quản lý. Ở địa phương, UBND cấp tỉnh thống nhất quản lý và giao
quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan tham mưu
trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.
Nội dung quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bao gồm:
- Ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật,văn bản hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống;
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
về làng nghề truyền thống;
- Nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
về làng nghề truyền thống;
- Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền
thống;
- Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền
thống;
- Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.
37
Để hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống có hiệu quả
cần phải nắm vững các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống; trên cơ sở đó, các chủ thể quản lý biết tận dụng
các yếu tố có lợi trong hoạt động quản lý và biết hạn chế đến mức thấp nhất
đối với các yếu tố bất lợi đối với hoạt động của làng nghề. Đồng thời, trong
hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần phải biết kế
thừa và học tập kinh nghiệm từ các mô hình quản lý có hiệu quả, đó là kinh
nghiệm trong quản lý về phát triển sản xuất, xúc tiến mại, nâng cao nguồn
lực, hoạt động thanh tra, kiểm đối với làng nghề truyền thống… nhằm để tổ
chức tốt hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống của địa
phương.
Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống và quản lý nhà
nước về làng nghề truyền thống là cơ sở để tìm ra các giải pháp tốt nhất trong
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.
38
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ TỈNH THÁI BÌNH
2.1. Khái quát về huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
Quỳnh Phụ nằm ở phía đông bắc tỉnh Thái Bình có tọa độ địa lý từ
20030' đến 20045' độ vĩ Bắc và từ 106010'đến 106025' độ kinh Đông. Phía
bắc giáp tỉnh Hải Dương, với ranh giới là sông Luộc, phía Nam giáp huyện
Thái Thụy, Đông Hưng, phía Đông giáp Hải Phòng, phía Tây giáp huyện
Hưng Hà [25].
Toàn huyện có 38 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 2 thị trấn và 36 xã)
với tổng diện tích 20.961,4 ha chiếm 13,5% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh
Thái Bình.
Thị trấn huyện lỵ Quỳnh Côi là một trong những trung tâm kinh tế
hành chính sầm uất, lâu đời của cùng đồng bằng sông Hồng, cách trung tâm
thành phố Thái Bình 25km [27].
Là cửa ngõ nối Thái Bình với các vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải
Dương- Hải Phòng- Quảng Ninh nên rất thuận lợi cho việc giao lưu phát triển
kinh tế. Với vị trí khá thuận lợi này, huyện Quỳnh Phụ có thị trường lớn là
các đô thị lớn trong vùng và xuất khẩu, có cơ hội tiếp thu các thành tựu khoa
học kỹ thuật, thu hút vốn đầu tư cho phát triển các ngành kinh tế- xã hội của
huyện.
Địa hình đất đai của Quỳnh Phụ tương đối bằng phẳng, đồng ruộng
thấp cao xen kẽ kiểu bát úp, có độ dốc nghiêng từ Tây sang Đông, từ Bắc
xuống Nam (giống địa hình toàn tỉnh); giữa huyện tạo thành lòng chảo, chiếm
62,5% diện tích toàn huyện có độ cao từ 1-2m trên mực nước biển, nơi cao
nhất 3m như (xã Quỳnh Ngọc) nơi thấp nhất là Chiều Trắng, Chiều Ruồi
39
thuộc thôn Lường Cả xã An Vinh cao hơn 0,4m, Cầu Vồng xã An Ninh cao
hơn 0,5-0,6m so với mực nước biển. Trong từng khu vực cũng có độ chia cắt
hình thành những tiểu vùng khác nhau về độ cao, thấp, tạo lên những hạn chế
nhất định về phát triển vùng thâm canh tăng vụ, bố trí cây trồng và hệ thống
thủy lợi [25].
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đặc điểm chung mùa hạ
nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông sương giá buốt. Nhiệt độ trung bình trong năm
từ 23-240C; bức xạ mặt trời lớn với tổng mức bức xạ trên 100kca/cm2 /năm,
số giờ nắng trung bình từ 1.600-1.800 giờ/1năm. Lượng mưa trung bình hàng
năm dao động từ 1.500-1.900mm, độ ẩm tương đối từ 80-90%.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có mạng lưới sông dày đặc, phân bố
thích hợp cho tưới tiêu tự chảy: Hệ thống sông Luộc, sông Hóa dài 36km
chảy qua phía Bắc và phía Tây của huyện dẫn nước vào các sông nội đồng.
Sông Yên Lộng tưới cho 8.238ha (tự chảy 1.000ha) Sông Sành, sông Diêm
Hộ, sông Cô dài 83km cung cấp và tưới tiêu thoát nước cho cả huyện. Hệ
thống cống dưới đê từ Lý Xá đến Láng Láy lấy nước sông Hóa tưới cho
4.500ha. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có các sông ngòi khác với mật độ
lớn và nhiều hồ, đầm [25].
Với 2 trục đường chính thông thương với các tỉnh bạn, Quỳnh Phụ là
huyện có vị trí chiến lược của tỉnh Thái Bình. Phía Tây bắc, dọc theo tỉnh lộ
396B, qua cầu Hiệp là tỉnh Hải Dương. Phía Đông bắc, theo quốc lộ 10, qua
cầu Nghìn là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Phải chăng vì vị thế
quan trọng đó mà Quỳnh Phụ là đất có cư dân sinh sống lâu đời nhất và Thị
trấn huyện lỵ Quỳnh Côi được thành lập và công nhận là thị trấn sớm nhất của
tỉnh Thái Bình. Với thế sông nước ở phía bắc, đất đai trải rộng về phía biển,
Quỳnh Phụ trở thành bàn đạp để con người tiến ra biển Đông.
Huyện Quỳnh Phụ ngày nay được hợp nhất từ hai huyện Quỳnh Côi và
Phụ Dực năm 1969. Đầu thời Trần đất này thuộc huyện A Côi và Đa Dực,
40
thuộc lộ An Tiêm. Trước đó, từ khoảng 500 năm trước công nguyên, căn cứ
theo những di vật tìm được, các nhà khoa học khẳng định con người đã tụ cư
đông đúc ở đây và một vùng thuộc huyện Hưng Hà ngày nay. Lịch sử hơn
2000 năm đã khắc ghi nơi đây là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, truyền
thống lao động sản xuất và truyền thống cách mạng. Thời phong kiến mảnh
đất nhỏ bé này đã có 23 người con thi đỗ tiến sỹ. Nghệ thuật Chèo và Múa
kéo hội cổ truyền còn được lưu giữ đến ngày nay. Trong 2 cuộc kháng chiến
gần đây Quỳnh Phụ có hơn 7 nghìn liệt sỹ, 4 nghìn thương bệnh binh. Hiện
nay có 30,5 nghìn người hưởng các chế độ, chính sách nhà nước. Quỳnh Phụ
đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân.
Tóm lại, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình là một huyện thuộc Đồng
bằng Bắc bộ với địa hình bằng phẳng, khí hậu nhiệt đới gió mùa mưa nhiều,
độ ẩm cao, đất đai màu mỡ phì nhiêu nên thích hợp để trồng cây nông nghiệp
phục vụ nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất của các làng nghề. Do
giáp ranh với các vùng kinh tế phát triển của đất nước nên dân cư đông đúc và
trình độ dân trí cao. Điều này rất thuận lợi cho phát triển ngành nghề thủ công
truyền thống cũng như quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tại đây.
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế của huyện
Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền huyện Quỳnh Phụ đã tập trung
lãnh đạo, ban hành nhiều nghị quyết, đề án phù hợp với tình hình thực tế để
phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm, nâng cao chất lượng đời sống nhân
dân, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Với quyết tâm chính trị cao, nỗ
lực thực hiện, Đảng bộ, chính quyền huyện Quỳnh Phụ xác định: Để nâng cao
đời sống của người dân, cần phải tập trung phát triển kinh tế gắn với xây dựng
nông thôn mới. Trong đó chú trọng phát triển nông nghiệp hàng hóa. Tuy
nhiên, để tạo đột phá cần đổi mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa
các giống mới có năng suất cao và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
41
sản xuất. Cùng với đó, ban hành các cơ chế hỗ trợ sản xuất. Nhờ đó, cơ cấu
giống và phương pháp gieo cấy chuyển biến tích cực theo hướng tăng diện
tích gieo vãi, gieo sạ hàng, lúa ngắn ngày và lúa chất lượng cao như BC15,
TBR1, TBR45, N87… Năm 2016, vụ đông tiếp tục được quan tâm chỉ đạo
mở rộng nhiều loại cây trồng cho giá trị kinh tế cao, trở thành vụ sản xuất
chính trong năm, diện tích gieo trồng đạt 11.700ha. Nhiều xã phủ kín 70 -
90% diện tích như: Quỳnh Minh, Quỳnh Hải, Quỳnh Hội, Quỳnh Hoàng,
Quỳnh Ngọc, An Ấp, An Đồng, An Khê... Hàng nghìn hộ gia đình nông dân
đã có cuộc sống khá giả. Toàn huyện hiện có trên 1.500 gia trại, 206 trang
trại. Nhiều địa phương có phong trào chăn nuôi tập trung phát triển về quy mô
và quy thành vùng sản xuất hàng hóa, như vùng nuôi lợn nái ngoại xã Quỳnh
Minh, Quỳnh Hoa, An Tràng, Quỳnh Hội; vùng nuôi gia cầm xã Quỳnh Sơn,
Quỳnh Khê, Quỳnh Châu; vùng nuôi trồng thủy sản xã An Thanh, An Mỹ, An
Ninh. Hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại,
dịch vụ và xây dựng có chuyển biến tích cực. Các lĩnh vực sản xuất hoạt động
ổn định, nhất là chế biến lương thực, thực phẩm, giày da. Các làng nghề hoạt
động hiệu quả, giải quyết việc làm thường xuyên cho hàng nghìn lao động,
với thu nhập từ 3,5 - 5 triệu đồng/người/tháng. Cùng với đó Quỳnh Phụ tiếp
tục tranh thủ có hiệu quả sự đầu tư của Đảng và Nhà nước thông qua các
chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống kênh mương
thủy lợi nội đồng, các tuyến đường giao thông liên huyện, liên xã, mạng lưới
trường học, trạm y tế, chợ… tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân từng bước
vươn lên phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Thực trạng các làng nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ
2.2.1. Khái quát về làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
Hiện tại, huyện Quỳnh Phụ có 33 làng nghề truyền thống, thu hút trên
23.000 lao động, với thu nhập từ 3-5 triệu đồng/người/tháng. Sản xuất ở các
làng nghề huyện Quỳnh Phụ phát triển không những giải quyết việc làm tại
42
chỗ, nâng cao thu nhập cho người lao động mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội, tạo diện mạo mới cho các làng quê.
Bảng 2.2.1: Danh sách các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
STT TÊN LÀNG NGHỀ ĐỊA BÀN XÃ
SẢN PHẨM
THỰC
TRẠNG
Làng An Dục An Dục Dệt chiếu cói Hoạt động yếu 1
Làng An Tràng An Tràng Dệt chiếu cói Hoạt động yếu 2
Làng Cổ Tiết An Vinh Vàng mã Hoạt động BT 3
Làng Vọng Lỗ An Vũ Dệt chiếu cói Hoạt động BT 4
Làng Đại Điền An Vũ Dệt chiếu cói Hoạt động BT 5
Làng Vũ Hạ An Vũ Dệt chiếu cói Hoạt động BT 6
Làng Tô Đê An Mỹ Chế biến LT Hoạt động BT 7
Làng Tô Hồ An Mỹ Chế biến LT Hoạt động BT 8
Làng Dụ Đại Đông Hải Chế biến LT Hoạt động BT 9
Làng Nguyên Xá An Hiệp Khâu nón Hoạt động BT 10
Làng Lam Cầu An Hiệp Dệt chiếu cói Hoạt động BT 11
Làng Phong Xá TT. An Bài Xây dựng Hoạt động yếu 12
Làng Cầu Nghìn TT. An Bài VL Xây dựng Hoạt động yếu 13
Làng Nguyên Xá Quỳnh Hội May xuất khẩu Hoạt động BT 14
Làng Phụng Công Quỳnh Hội May xuất khẩu Hoạt động BT 15
Làng Châu Tiến Quỳnh Mỹ Đan tre Hoạt động BT 16
Làng Đông Lễ Văn An Đồng Gỗ Mỹ nghệ Hoạt động BT 17
Làng Tây Lễ Văn An Đồng Gỗ Mỹ nghệ Hoạt động BT 18
Làng Đào Xá An Đồng Mây tre đan Hoạt động BT 19
Làng An Phú Quỳnh Hải Mây tre đan Hoạt động yếu 20
Làng Lộng Khê An Khê Xây dựng Hoạt động yếu 21
Làng Cẩn Du Quỳnh Sơn Lưỡi câu, mi Hoạt động BT 22
giả
43
23 Làng Đồn Xá Quỳnh Hồng Mây tre đan Hoạt động yếu
24 Làng Bương Hạ Quỳnh Ngọc Đệm ghế cói Hoạt động yếu
25 Làng Bến Hiệp Quỳnh Giao Cơ khí Hoạt động yếu
26 Làng Đồng Phúc An Lễ Dệt chiếu cói Hoạt động yếu
27 Làng Đào Động An Lễ Xe đay Hoạt động yếu
28 Làng Đồng Bằng An Lễ Dệt chiếu cói Hoạt động yếu
29 Làng Hưng Hòa An Lễ Xe đay Hoạt động yếu
30 Làng Ngọc Minh Quỳnh Hoàng Đan tre Hoạt động BT
31 Làng Phục Lễ Quỳnh Châu May xuất khẩu Hoạt động BT
32 Làng Đông Trụ Quỳnh Minh May xuất khẩu Hoạt động BT
33 Làng Đò Neo Đồng Tiến Chế biến LT Hoạt động BT
* Về lao động
Diện tích đất canh tác nông nghiệp bình quân đầu người tại các làng
nghề thấp và ngày càng bị thu hẹp nên lực lượng lao động dư thừa để đưa vào
hoạt động ngành nghề rất lớn, đó cũng là yêu cầu bức xúc buộc người dân
trong các làng nghề phải duy trì và phát triển nghề truyền thống của mình
đảm bảo cuộc sống ở mức ổn định. Việc sử dụng lao động tại các làng nghề là
triệt để, khi sản xuất càng phát triển thì còn thu hút một lực lượng lớn lao
động tại các vùng lân cận. Thu nhập của người lao động tại các làng nghề
tăng so với lao động thuần nông (tỷ trọng bình quân chiếm từ 40% - 70% tổng
thu nhập). Hiện tại lao động được sử dụng tại các làng nghề mang tính đa
dạng, lao động trực tiếp làm theo phương pháp thủ công, gia truyền. Việc
quản lý sản xuất còn theo kinh nghiệm, trình độ văn hoá của người lao động
tương đối thấp. Trình độ tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại chậm, tri thức
quản lý không có do vậy nhiều khi dẫn đến sản xuất kinh doanh thua lỗ hoặc
thậm chí có hộ bị phá sản. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh biết rằng yếu
tố con người có vai trò quyết định, song thực tế hiện nay cho thấy hầu hết
44
trình độ sản xuất kinh doanh của lực lượng lao động tại các làng nghề là được
đào tạo theo sự kèm cặp tại chỗ, người đi trước chỉ người đi sau, không được
đào tạo cơ bản do vậy khi chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa công nghệ sản xuất đã gặp không ít khó khăn, nhiều hộ do quá kém về
năng lực và trình độ hiểu biết đã dẫn tới việc mua phải những thiết bị không
đủ chất lượng hoạt động, công suất hoạt động thấp, chất lượng sản phẩm
không cao, trong quá trình sản xuất liên tục phải sửa chữa nên dẫn đến thua lỗ
rất nhiều trong sản xuất kinh doanh.
* Về nguồn vốn.
Thực tế ở nước ta và cụ thể là Quỳnh Phụ, Thái Bình cho thấy kinh tế
làng nghề chiếm vị trí không nhỏ trong sự phát triển kinh tế chung, kinh tế
làng nghề phát triển mạnh không chỉ về sức tiêu thụ sản phẩm mà cả về vốn
lẫn hình thức hoạt động. Vốn cho nhu cầu đầu tư trang thiết bị phục vụ sản
xuất ngày càng nhiều hơn vì thực tế cho thấy các làng nghề muốn tồn tại và
phát triển phải được đầu tư công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm. Nhu cầu vốn lưu động dùng cho cả 3 khâu: Dự
trữ nguyên vật liệu, sản xuất và tiêu thụ là rất lớn. Việc tiêu thụ sản phẩm tự
do theo cơ chế thị trường nên thường cần khối lượng vốn tồn trong khâu
thanh toán nhiều, nguyên vật liệu ở dạng thu gom nên thường phải trả ngay
cho người bán, còn sản phẩm xuất đi nằm tại các đại lý với số lượng khá lớn.
Để có thể duy trì sản xuất thường xuyên thì nhu cầu vốn lưu động đối với các
làng nghề phải gấp 3-4 lần trị giá tài sản cố định. Từ những lý do đó nên thời
gian vừa qua, nhiều hộ và doanh nghiệp tư nhân lao vào sản xuất với số vốn
chỉ đạt ở mức cần thiết để sản xuất ban đầu, sau khi giao hàng đi không còn
tiền để tiếp tục chu kỳ sản xuất do vậy gặp rất nhiều khó khăn, tuy hàng tiêu
thụ được mà vốn đọng trong thanh toán lớn, dẫn tới khó khăn cho một số
doanh nghiệp và hộ sản xuất đặc biệt là những cơ sở mới đầu tư nâng cấp dây
chuyền thiết bị. Qua tổng hợp tình hình vốn tại các làng nghề cho thấy sự phát
45
triển của làng nghề đã huy động được nguồn vốn đáng kể trong nhân dân vào
phát triển kinh tế của tỉnh, phát huy tính cần cù, sáng tạo, yêu lao động của
người dân Việt Nam, mở mang một số ngành nghề mới có công nghệ hiện
đại, khai thác và tận dụng nguồn nguyên liệu thừa, nguyên liệu sẵn có, thu hút
được nguồn lao động không có việc làm trong và ngoài tỉnh. Nhiều doanh
nghiệp và hộ sản xuất trong các làng nghề kinh doanh đúng pháp luật, có hiệu
quả. Tuy nhiên, trong những làng nghề không phải cơ sở sản xuất nào cũng
tốt, mà cũng còn có nhiều hộ, nhiều doanh nghiệp làm ăn lúng túng, chưa có
kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường. Một số cơ sở kinh doanh
bằng vốn của mình thì ít, chủ yếu bằng vốn đi vay, huy động và chiếm dụng
của người khác thì nhiều. Hơn nữa hoạt động của các làng nghề trong thời
gian qua không có một cơ quan nào quản lý rõ ràng, nên thiếu sự kiểm soát
của Nhà nước, với các doanh nghiệp tư nhân thì vốn điều lệ thường ít hơn rất
nhiều so với vốn pháp định, do vậy sản xuất kinh doanh và hạch toán hầu như
nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước và pháp luật, tình trạng trốn lậu thuế
xảy ra triền miên, số thuế mà các hộ doanh nghiệp nộp vào Nhà nước không
tương xứng với doanh thu làm ra. Thất thu thuế tại các làng nghề xảy ra
nghiêm trọng về số hộ nộp và doanh thu tính thuế. Việc thất thu thuế do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra, đây là một vấn đề có tính bức
xúc đòi hỏi phải có sự chỉ đạo và quản lý của các cơ quan chức năng trong
tỉnh.
* Về quảng bá thương hiệu
Quỳnh Phụ có những làng nghề nổi tiếng, sản phẩm xuất hiện ở rất
nhiều nơi nhưng việc xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm cho làng
nghề còn khá yếu ớt, chủ yếu là tự phát, hiệu quả chưa cao. Lấy truyền thống
trăm năm, nghìn năm để thay thế cho việc quảng bá thương hiệu làng nghề là
nếp nghĩ của khá nhiều người làm nghề thủ công. Theo họ, vì đã có truyền
thống lâu đời nên sẽ có nhiều người biết đến sản phẩm của làng nghề mình.
46
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiệu quả của cách làm này không cao. Cả làng
với hàng trăm doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhưng chưa có hoặc mới chỉ có
một vài trang web cá nhân, còn website riêng cho cả làng nghề thì chưa có.
Một trong những nguyên nhân của khó khăn trên là sản xuất trong các làng
nghề hiện còn manh mún, nhỏ lẻ theo hộ gia đình, mạnh ai nấy làm. Thế nên,
để xây dựng thương hiệu chung không phải chuyện dễ. Ngoài ra việc mang
sản phẩm ra trưng bày tại các trung tâm thương mại lớn cũng tốn khá nhiều
chi phí, hơn nữa do khó khăn chung của nền kinh tế nên sản phẩm bán không
chạy lắm. Mặc dùng Phòng Công thương của huyện đã có những chính sách
hỗ trợ, xúc tiến quảng bá thương mại dành cho các làng nghề nhưng hiệu quả
chưa cao bởi ngoài những nỗ lực của Phòng còn đòi hỏi sự nhận thức và sự
đầu tư của chính các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
* Về thị trường tiêu thụ sản phẩm
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, tổ chức kinh tế làng nghề vẫn
còn mang hình thức độc đáo theo kiểu “truyền thống gia đình” sản xuất mang
tính tự phát, nhiều khi chạy theo lợi nhuận trước mắt nên hạn chế rất nhiều
đến quá trình bảo tồn và phát triển thường xuyên của các làng nghề, có những
làng đang phát triển thịnh vượng thì bị đột ngột co lại, lý do là sự ồ ạt ra đời
những sản phẩm mà thị trường không tiếp tục chấp nhận dẫn tới có thời kỳ có
làng nghề việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, có những làng không
thích ứng với thị trường do công nghệ và chủng loại sản phẩm không được cải
tiến dẫn tới hầu như ngừng hoạt động. Một số làng nghề phụ thuộc hoàn toàn
vào một thị trường nhất định nên khi thị trường này hết nhu cầu thì gần như
cả làng nghề đóng cửa.
* Về tài nguyên và môi trường
Thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai, thời gian qua, Phòng
Tài nguyên và Môi trường huyện Quỳnh Phụ đã phối hợp với các phòng, ban
liên quan thẩm định và tham mưu UBND huyện phê duyệt quy hoạch sử dụng
47
đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất của 36/38 xã, thị trấn, qua đó giúp
khoanh định quỹ đất sản xuất nông nghiệp, bảo vệ quỹ đất trồng lúa; việc giao
đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đã tuân thủ đúng
quy hoạch, đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tăng nguồn thu từ đất, từng
bước đưa công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện đi vào nền
nếp. Toàn huyện đã chuyển mục đích 98,19ha đất nông nghiệp sang đất phi
nông nghiệp để xây dựng các công trình công cộng và phát triển kinh tế; trong
đó, chuyển mục đích sử dụng đất để quy hoạch dân cư theo Quyết định số 372
của UBND tỉnh tại 38 xã, thị trấn gần 28,6ha. Tập trung thực hiện tốt việc
giao đất, cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất... 6 tháng đầu năm
2015, Phòng đã trình UBND huyện ban hành 6 quyết định cho thuê đất để
thực hiện các dự án, diện tích 114.511m2; 7 quyết định chuyển mục đích sang
đất ở, diện tích 1.170m2; 261 quyết định thu hồi đất, diện tích 652.401m2; 16
quyết định giao đất tái định cư cho hộ gia đình, cá nhân ở các xã Quỳnh
Hồng, Quỳnh Xá để thực hiện Dự án nâng cấp, cải tạo đường 396B, diện tích
1.570m2.
Chú trọng công tác đền bù, hỗ trợ tái định cư thực hiện giải phóng mặt
bằng các dự án: nâng cấp, cải tạo đường 396B, đường 455, đường 2/9… với
tổng số tiền bồi thường 31,3 tỷ đồng. Để hạn chế tình trạng vi phạm, tranh
chấp, khiếu kiện về đất đai, một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu
thời gian qua là đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ) cho các hộ gia đình, cá nhân. UBND huyện đã thành lập ban
chỉ đạo, tổ công tác đẩy nhanh tiến độ triển khai Dự án hoàn thiện hệ thống
quản lý đất đai Việt Nam nhằm xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, cơ sở dữ
liệu đất đai hiện đại và cấp GCNQSDĐ cho người dân. Đến nay, Quỳnh Phụ
đã hoàn thành đo đạc trên 20.260ha với gần 170.000 số thửa phải cấp
48
GCNQSDĐ; đã ký trên 155.800 GCNQSDĐ, trao cho người sử dụng đất
114.300 GCNQSDĐ.
Trong công tác quản lý môi trường, các xã, thị trấn đã thành lập 182
đội vệ sinh môi trường tự quản với hơn 600 người tham gia. Việc tiếp nhận
thủ tục xin đăng ký xác nhận bản cam kết bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ
môi trường đối với các dự án, thẩm định thủ tục hồ sơ được thực hiện theo
đúng quy định. Thường xuyên kiểm tra tiến độ, kết quả thực hiện tiêu chí 17
về môi trường trong xây dựng nông thôn mới. Tổ chức rà soát các cơ sở sản
xuất, kinh doanh sử dụng đất nhưng chưa có thủ tục bảo vệ môi trường.
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện chủ động phối hợp với các đoàn thể
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và kiến thức
pháp luật về bảo vệ môi trường. Tại nhiều địa phương, tiêu chí về bảo vệ môi
trường đã được đưa vào quy ước, hương ước của thôn, làng, được gắn với
việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, danh hiệu thôn làng, gia đình
văn hóa. Đến nay, 97% dân số toàn huyện được sử dụng nước hợp vệ sinh,
trong đó 14 xã, thị trấn đã được cung cấp nước sạch từ các nhà máy nước tập
trung.
Tuy nhiên, đối với các làng nghề, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn
chưa được kiểm soát, nhiều làng nghề đang đối mặt với ô nhiễm môi trường
không khí, nước, đất… Nguyên nhân chính là do các làng nghề xen lẫn khu
dân cư; phần lớn các chất thải không được thu gom, xử lý mà được xả thẳng
vào môi trường. Làng nghề bánh đa Thôn Dụ Đại xã Đông Hải không chỉ nổi
tiếng với bánh đa cá Quỳnh Côi truyền thống mà còn nổi tiếng hơn bởi vấn
nạn môi trường. Hàng loạt bệnh tật xuất hiện nơi đây như viêm phổi, đau mắt
vì khí lò than sản xuất bánh đa. Người dân nơi đây đã phải chung sống với
tình trạng ô nhiễm môi trường từ khi nghề sản xuất bánh đa ra đời (39 năm).
Qua hàng chục năm trời, nước ô nhiễm bị ngấm sâu vào lòng đất, nguồn nước
ngầm bị ô nhiễm khá nặng. Ngoài ra, theo báo cáo tổng hợp Đánh giá hiện
49
trạng ô nhiễm môi trường cho thấy, nồng độ khí thải CO, SO2, NO2, NH3,
bụi và độ ồn tại khu vực làng nghề Cầu Nghìn nơi sản xuất vôi xuất khẩu đã
vượt tiêu chuẩn cho phép 5937, 5938/2005; Nước thải tại một số điểm thải từ
Cầu Nghìn có các thông số SS, COD, BOD5, coliform vượt tiêu chuẩn cho
phép từ 1,2 - 10 lần TCVN 5945-2005. Hàm lượng các chất ô nhiễm trong
nguồn nước tiếp nhận nước thải tại các sông chảy qua có thông số COD,
BOD5, dầu mỡ khoáng, coliform vượt tiêu chuẩn cho phép 4; 2,9; 1,4; 8; 3,6
lần TCVN 5942-1995 chất lượng nước mặt, đã có mẫu phát hiện dấu hiệu ô
nhiễm kim loại nặng Asen cadimi. Như vậy, làng nghề Cầu Nghìn đang đứng
đầu danh sách gây ô nhiễm môi trường tại tỉnh Thái Bình [30].
2.2.2. Hoạt động của làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
Trước những thách thức của nền kinh tế thị trường thời hội nhập, nhiều
làng nghề, ngành nghề truyền thống tan rã do không đủ sức cạnh tranh, không
theo kịp tốc độ phát triển của máy móc hiện đại. Nhưng sản xuất ở các làng
nghề huyện Quỳnh Phụ vẫn sôi động và ngày càng phát triển. Không những
giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người lao động mà còn
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo diện mạo mới cho các làng quê. Nhiều
làng nghề không ngừng phát triển, chiếm 70 - 80% tỷ trọng của thôn, làng,
tiêu biểu như: bánh đa làng Dụ Đại, xã Đông Hải; dệt chiếu xã An Vũ, An Lễ,
An Dục, An Tràng; vàng mã xã An Vinh; chế biến lương thực xã An Mỹ; gỗ
mỹ nghệ xã An Đồng...
Quỳnh Phụ hiện có 33 làng nghề truyền thống, thu hút hàng chục nghìn
lao động, với thu nhập từ 3,5-5 triệu đồng/người/tháng. Trong đó, chủ yếu là
nghề dệt chiếu cói, mây tre đan xuất khẩu, máy may công nghiệp, móc hộp,
làm bánh đa, bún… Là huyện có thế mạnh trong phát triển nông nghiệp
nhưng những năm gần đây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn
huyện Quỳnh Phụ đã có bước phát triển khá, các nghề truyền thống tiếp tục
50
phát triển. Qua đó, diện mạo nông thôn mới ngày càng khởi sắc, tỷ lệ hộ
nghèo giảm nhanh và bền vững [28].
Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong những năm
qua ở Quỳnh Phụ đạt bình quân từ 7.000 - 7.500 tỷ đồng/năm. Sự phát triển
của nghề và làng nghề đã góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói giảm
nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Hơn 10 năm qua, tình hình phát triển nghề và làng nghề trên địa bàn
huyện Quỳnh Phụ đã có sự chuyển biến tích cực. Ðến nay các làng nghề đều
hoạt động ổn định, phát triển theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề sản
xuất. Sự phát triển của nghề và làng nghề đã góp phần không nhỏ vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Trước năm 2000, nghề và làng nghề ở Quỳnh Phụ kém phát triển. Năm
2001, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 85 tỷ đồng,
chiếm 18% tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Tới năm 2002, lần đầu tiên
UBND tỉnh xét công nhận làng nghề, huyện Quỳnh Phụ đã được công nhận
10 làng nghề, tập trung ở các xã An Dục, An Tràng, Quỳnh Hoàng, An Vũ,
An Mỹ, Ðông Hải, An Vinh, An Hiệp với các nghề chính là dệt chiếu và chế
biến lương thực. Toàn huyện đã thu hút hơn 8.000 lao động tham gia làm
nghề, giá trị sản xuất từ nghề đạt trên 66 tỷ đồng. Tới năm 2005, Quỳnh Phụ
tiếp tục được công nhận thêm 11 làng nghề, đưa tổng số làng nghề toàn huyện
lên 21 làng nghề với tổng số lao động lên tới 17.500 người, gấp hơn 2 lần so
với năm 2001 và giá trị sản xuất từ nghề đạt gần 161 tỷ đồng. Giai đoạn từ
năm 2006 đến nay, nghề và làng nghề ở Quỳnh Phụ tiếp tục phát triển mạnh,
huyện tiếp tục được UBND tỉnh công nhận thêm 14 làng nghề, đưa tổng số
làng nghề trong toàn huyện lên 33 làng nghề, với tổng số 21.317 lao động
tham gia làm nghề, tăng gấp 2,48 lần năm 2001 và gấp 1,2 lần năm 2005. Giá
trị sản xuất từ nghề cũng vì thế mà tăng lên nhanh chóng, đạt 890 tỷ đồng,
gấp 13,4 lần năm 2001 và 5,5 lần năm 2005 [29].
51
Có được kết quả trên là do Quỳnh Phụ đã duy trì và phát triển mạnh,
bền vững nhiều nghề truyền thống và du nhập nghề mới. Một số nghề đã được
cơ giới hóa công cụ sản xuất tạo năng suất cao, hạ giá thành sản phẩm đủ sức
cạnh tranh và tồn tại trong cơ chế thị trường và khắc phục tình trạng lao động
trong làng nghề chuyển sang các cơ sở công nghiệp tập trung. Ðặc biệt, hầu
hết các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong làng nghề đã đứng ra lo việc cung
ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm nên hoạt động của làng nghề thường ổn
định và đạt hiệu quả.
Bên cạnh những mặt tích cực, thời gian qua Quỳnh Phụ đã có 2 làng
nghề suy giảm, không duy trì được các tiêu chí của làng nghề là làng nghề xã
Quỳnh Hoàng và Tiên Bá (xã Quỳnh Thọ). Những làng nghề làm hàng xuất
khẩu như thêu, móc sợi, mây tre đan phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất
khẩu, tính ổn định, bền vững không cao, có chiều hướng suy giảm. Chất
lượng lao động trong làng nghề cũng giảm do lao động trẻ, khỏe, khéo tay chủ
yếu đi làm trong các khu, cụm công nghiệp, số lao động trong làng nghề hầu
hết là người già.
Ðể thúc đẩy sự phát triển nghề và làng nghề, trong thời gian tới huyện
Quỳnh Phụ tiếp tục huy động tối đa lực lượng lao động nhàn rỗi tham gia sản
xuất tiểu thủ công nghiệp. Tập trung củng cố làng nghề hiện có để các làng
nghề hoạt động ổn định và bền vững, tạo điều kiện để tất cả lao động trong
làng nghề được tham gia làm nghề. Tiếp tục phát triển các làng nghề mới,
nhất là những xã chưa có làng nghề. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục
làm chuyển biến nhận thức cho toàn thể cán bộ và người dân về lợi ích của
việc phát triển nghề và làng nghề. Quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất về mặt
bằng, vốn, môi trường sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất. Tận dụng nguồn vốn khuyến công từ trung ương đến địa phương và các
nguồn vốn khác để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong làng
nghề. Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất như đường vào làng nghề, xử lý môi trường
52
trong làng nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp để tạo điều kiện
cho nghề và làng nghề phát triển.
2.3. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về làng nghề truyền thống tại huyện
Quỳnh Phụ
2.3.1. Hoạt động ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền
thống
Xét trên phạm vi rộng toàn quốc, Chính phủ luôn dành mối quan tâm
đặc biệt để hỗ trợ thúc đẩy phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề
nông thôn như một phương thức hiệu quả thực hiện xoá đói nghèo, đặc biệt ở
khu vự ứ VII
ữ -
ề truyền thống và các ngành
nghề mới...”. Trên định hướng đó của Đảng, Chính phủ và các Bộ ngành liên
quan đã ban hành rất nhiều chính sách đối với phát triển nghề và làng nghề
(được thể hiện tại Phụ lục 01).
Ngày 09/12/2015 HĐND tỉnh Thái Bình đã ban hành Nghị quyết số
20/2015/NQ-HĐND về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội của Thái Bình giai đoạn 2016 - 2020 đã xác định đẩy nhanh
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung phát triển các ngành có
công nghệ cao trong các khu công nghiệp cùng với phát triển tiểu thủ công
nghiệp, phát triển làng nghề. Tăng trưởng kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua đó xác định các làng
nghề là tiềm năng, là thế mạnh của tỉnh trong phát triển kinh tế xã hội nói
chung và tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Xác
định phát triển làng nghề là bước đi đúng đắn để phát triển kinh tế địa
phương. Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực nông thôn theo
hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Xây dựng, giữ gìn các làng nghề
53
truyền thống, các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống đi
đôi với việc phát triển các nghề mới, làng nghề mới. Xây dựng được đội ngũ
Nghệ nhân và thợ lành nghề. Gắn phát triển làng nghề với khai thác tốt tiềm
năng du lịch và mở rộng xuất khẩu. Để thực hiện những mục tiêu này BCH
Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ cũng đã định hướng đưa ra một số chủ trương về
giải pháp phát triển làng nghề là: Quy hoạch và tạo mặt bằng cho sản xuất, về
vốn đầu tư phát triển, nguyên liệu cho sản xuất và thị trường tiêu thụ, tổ chức
sản xuất và phát triển nguồn nhân lực, về thuế, phí và lệ phí, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với việc khôi phục, củng cố, phát triển mở rộng làng
nghề, đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước đối với các làng nghề.
Dựa trên định hướng của Đảng và chỉ đạo của Nhà nước, huyện Quỳnh
Phụ đã hướng dẫn và tổ chức thực hiện tốt các văn bản của cấp trên; đồng
thời, trên cơ sở các văn bản của cấp trên và dựa trên tình hình thực tế của địa
phương, UBND huyện đã ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản liên
quan đến quy định, hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn
huyện.
Trong thời gian từ năm 2011 đến nay, UBND huyện đã ban hành nhiều
văn bản để khuyến khích hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống của địa
phương và phổ biến đến các tổ chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn huyện
thông qua các hình thức như tuyên truyền phổ biến trên các phương tiện thông
tin, hội thảo, tập huấn ... Phần lớn các văn bản sau khi ban hành đã được áp
dụng vào thực tế và đem lại hiệu quả trong việc phát triển các làng nghề truyền
thống của địa phương.
Ngoài ra, cơ quan quản lý thường xuyên tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến văn bản cấp trên, kiến thức pháp luật về doanh nghiệp, làng
nghề, về hội nhập kinh tế quốc tế WTO; tổ chức các hội thảo, tập huấn về các
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam, nhằm giúp doanh nghiệp, làng nghề
54
trên địa bàn tỉnh nắm bắt kịp thời các văn bản cấp trên, quy định pháp luật,
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động quản lý nhà nước về
việc ban hành, hướng dẫn, tổ chức, triển khai thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật tại địa phương vẫn còn nhiều bất cấp; cụ thể như:
- Một số văn bản đã ban hành, tuy nhiên không thể áp dụng thực hiện,
do thiếu thực tế, thiếu nguồn kinh phí triển khai và đồng thời còn mang tính
chất chung chung, không cụ thể, ví dụ như: UBND huyện đã ban hành Quyết
định số 2298/QĐ-UBND ngày 26/7/2013 về Đề án điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025; Đề án có đề cập một số nội dung có cụ
thể về ngành nghề nông thôn, làng nghề nhưng chưa đủ để Quy hoạch về phát
triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày
07/7/2006 và Thông tư 116 /2006/TT- BNN, ngày 18/12/2006 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Vì vậy, đến nay huyện Quỳnh Phụ vẫn chưa
có quy hoạch phát triển sản xuất làng nghề tập trung.
- Hầu hết tại các địa phương có các làng nghề truyền thống cũng chưa
xây dựng được các văn bản riêng về hoạt động quản lý và phát triển làng nghề
truyền thống cho địa phương mình. Hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn và
phổ biến các văn bản liên quan chưa được triệt để. Ví dụ, như chính sách về
hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề. Do chưa xây dựng
được quy hoạch ngành nghề nông thôn nên đa số nguồn nguyên liệu phục vụ
cho sản xuất của các làng nghề đều bị khan hiếm, không có sự liên kết chặt
chẽ giữa cơ quan quản lý với các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề...
55
2.3.2. Tổ chức quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
của huyện Quỳnh Phụ được thể hiện tại Sơ đồ 2.3.2.
UBND Huyện
P. Tài nguyên
P. Văn hóa
P. Công thương
P. Nông nghiệp
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về môi trường làng nghề
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, phát triển du lịch gắn với làng nghề
Quản lý nhà nước về thương mại, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ sản xuất làng nghề truyền thống.
Tham mưu hoạt động nhà nước về kinh tế trang trại nông thôn, kinh tế hợp tác xã nông, lâm, ngư với làng nghề nông thôn trên địa bàn.
UBND cấp xã
Ban Kinh tế- Nông nghiệp
Sơ đồ 2.3.2: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề huyện Quỳnh Phụ
Trong đó:
- UBND huyện: chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành và quản lý chung
mọi hoạt động của huyện. Trực tiếp chỉ đạo công tác: tổ chức cán bộ, nội
chính, tài chính, an ninh - quốc phòng và chương trình tổng thể phát triển kinh
tế-xã hội. Quản lý đô thị, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ,
cấp phép kinh doanh, quản lý thị trường, tài sản công; chương trình, đề án
phát triển kinh tế...
- Phòng Nông nghiệp: Tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về: nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp; thuỷ lợi;
thuỷ sản; phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại nông
56
thôn, kinh tế hợp tác xã nông, lâm, ngư, diêm nghiệp gắn với ngành nghề,
làng nghề nông thôn trên địa bàn xã.
- Phòng Công thương: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện có
chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện các chức năng quy hoạch,
quản lý công trình xây dựng trên địa bàn, kiến trúc, xây dựng nhà ở và công
sở, giao thông, đô thị, thương mại, điện, quản lý chợ. Phòng có nhiệm vụ cụ
thể sau:
+ Thụ lý hồ sơ cấp phép xây dựng, cấp phép quản lý điện, công trình
giao thông trên địa bàn.
+ Quản lý về chất lượng các công trình xây dựng, sản phẩm vật liệu
xây dựng thuộc huyện quản lý. Quản lý các hồ sơ, tài liệu khảo sát thiết kế
xây dựng, hồ sơ hoàn thành công tác thiết kế công trình thuộc thẩm quyền
quản lý của UBND huyện.
+ Quản lý nhà nước về lĩnh vực dịch vụ thương mại, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ sản xuất làng nghề truyền thống.
- Phòng Tài nguyên - Môi trường: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
có chức năng tham mưu giúp UBND huyện thực hiện quản lý nhà nước về đất
đai, tài nguyên , môi trường, Phòng có nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Cấp giấy đăng ký chuyển đổi, tặng cho, quyền sử dụng đất, sử dụng
nhà ở.
+ Giải quyết những vấn đề khiếu nại về đất đai, nhà ở.
+ Giao đất, thu hồi đất, bồi thường đất theo quy định của pháp luật.
+ Đánh giá tác động môi trường, kiểm tra, thanh tra, xử lý ô nhiễm môi
trường.
- Phòng Văn hoá và Thông tin: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
huyện, tham mưu giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về các lĩnh vực: văn hoá; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; bưu chính, viễn
57
thông và Internet; công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin; phát thanh; báo chí;
xuất bản.
- Ban Kinh tế - Nông nghiệp xã: là bộ phận chuyên môn giúp UBND xã
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn
trên địa bàn dưới sự chỉ đạo của UBND xã và các cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành của huyện. Tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ: xây dựng qui
hoạch, kế hoạch sản xuất nông nghiệp bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn… và hướng
dẫn chỉ đạo, điều hành thực hiện qui hoạch, kế hoạch đó.
Nhìn vào sơ đồ ta thấy, huyện đã tổ chức bộ máy có đầy đủ các phòng
ban chức năng tham gia quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống. Tuy
nhiên, bộ máy hoạt động quản lý nhà nước của huyện Quỳnh Phụ rất cồng
kềnh, do bốn (04) phòng chuyên môn khác nhau tham gia quản lý. Điều này
gây rất nhiều khó khăn trong hoạt động điều hành quản lý nhà nước vì dễ dẫn
tới việc phối kết hợp không tốt trong điều hành quản lý hoặc có thể dẫn tới
việc buông lỏng quản lý đối với làng nghề truyền thống. Đồng thời, trong
thực tế khi có vấn đề cần giải quyết nhưng vì có nhiều cơ quan cùng tham gia
trong bộ máy tổ chức quản lý nên thường đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, giải
quyết không nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh
doanh của các làng nghề truyền thống.
2.3.3. Thực hiện chính sách quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống
Để các khu, cụm công nghiệp, làng nghề truyền thống hình thành và
hoạt động có hiệu quả, tỉnh Thái Bình đã thành lập Ban Quản lý các khu công
nghiệp có nhiệm vụ giúp các cấp, các ngành, trước hết là UBND cấp xã,
huyện thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các khu, cụm công
nghiệp, làng nghề truyền thống. Ban Quản lý này là một đơn vị sự nghiệp có
thu, có tư cách pháp nhân, được sử dụng con dấu và mở tài khoản theo quy
58
định hiện hành của Nhà nước. UBND các xã, huyện quản lý khu, cụm công
nghiệp là cơ quan quản lý trực tiếp các làng nghề truyền thống; đồng thời là
đầu mối phối hợp với các cơ quan chuyên môn của UBND huyện, thị, xã, các
tổ chức kinh tế - xã hội và UBND các xã có làng nghề truyền thống, giải
quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý các khu, cụm công
nghiệp, làng nghề truyền thống. Các làng nghề truyền thống chưa nhận được
sự quan tâm giúp đỡ có hiệu lực của Nhà nước cũng như các ngành có liên
quan về thông tin, công nghệ, tiếp cận thị trường nên hiệu quả sản xuất kinh
doanh của làng nghề truyền thống còn thấp. Hệ thống chính sách cho làng
nghề truyền thống chưa đồng bộ như chính sách tài chính, tín dụng, đào tạo
lao động, công nghệ, bảo hiểm xã hội và chưa có chính sách ưu đãi các nghệ
nhân, chính sách hỗ trợ cho một số sản phẩm quan trọng ở các làng nghề
truyền thống. Chưa có cán bộ chuyên trách theo dõi để tìm cách tháo gỡ khó
khăn cho các làng nghề truyền thống.
* Chính sách nhân sự quản lý
Phòng Công thương và Phòng Nông nghiệp đảm nhận nhiệm vụ quản
lý nhà nước trực tiếp về làng nghề tại địa phương, các phòng bố trí 01 chuyên
viên phụ trách hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề tại địa phương.
Chuyên viên này phụ trách về làng nghề và phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ
ở các lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề tại địa phương không được đẩy mạnh và không chặt chẽ. Qua khảo sát
tại các địa phương hầu hết các nguồn lực thực hiện quản lý nhà nước về làng
nghề tại địa phương còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thực thi công
vụ như: thiếu kinh nghiệm, không được đào tạo, tập huấn nhiều, việc tiếp cận
các văn bản cấp trên còn sơ sài, chưa nắm rõ các đầu công việc để báo cáo
cấp cơ quan quản lý cấp trên. Chuyên viên phụ trách hoạt động quản lý nhà
nước về làng nghề tại các phòng Công thương, Nông nghiệp, Văn hóa, Tài
nguyên đều có trình độ đại học; tuy nhiên, về chuyên ngành đào tạo của các
59
chuyên viên khác nhau; bao gồm: Cử nhân kinh tế phát triển nông thôn, kỹ sư
nông nghiệp, cử nhân kinh tế, cử nhân môi trường, cử nhân sinh học...
Số lượng, chất lượng cán bộ Ban Nông nghiệp một số xã chưa đồng
đều, nhất là về trình độ quản lý, kỹ thuật. Năng lực chỉ đạo, hướng dẫn tổ
chức sản xuất của cán bộ Ban Nông nghiệp xã nhìn chung còn hạn chế. Hoạt
động của Ban Nông nghiệp một số xã, thị trấn chưa hiệu quả. Việc chỉ đạo,
hướng dẫn sản xuất cũng như công tác xây dựng kế hoạch sản xuất nông
nghiệp còn chậm, nhiều việc chưa nắm được. Một số xã vẫn dựa chủ yếu vào
HTX nông nghiệp, chưa tách hẳn chức năng quản lý nhà nước của UBND xã
với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX nông nghiệp. Điều kiện
làm việc, kinh phí hoạt động của Ban Nông nghiệp xã còn khó khăn. Nhiều xã
có phó ban nhưng làm công tác kiêm nhiệm nên chưa tập trung nhiều cho
công việc chính. Chế độ tuân thủ nộp báo cáo lên cấp trên của nhiều Ban
Nông nghiệp chất lượng chưa đảm bảo, còn quá chậm chưa nghiêm túc.
Chế độ tiền lương cho cán bộ phụ trách còn rất thấp, chỉ đáp ứng được
khoảng 65%-70% nhu cầu cuộc sống do vậy họ không thể chú tâm hoàn toàn
vào công việc mà vẫn phải làm thêm các việc phụ để kiếm thêm thu nhập.
Nhìn chung, với đội ngũ nguồn nhân lực hiện có tại địa phương mới
đáp ứng nhu cầu cơ bản về quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề
truyền thống. Để hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề, làng nghề truyền
thống có những bước đột phá cần phải tăng cường nguồn nhân lực cho các địa
phương. Chỉ có tạo ra nguồn nhân lực quản lý chuyên nghiệp, có kiến thức,
kinh nghiệm, chuyên môn vững, thì mới có thể phát triển các làng nghề theo
hướng bền vững và lâu dài.
* Tổ chức các lớp đào tạo nghề nâng cao trình độ dân trí
Công tác đào tạo nghề trong các làng nghề chủ yếu là truyền nghề,
người thợ vừa làm vừa học kinh nghiệm, học kiến thức của người thợ cả hay
nghệ nhân. Phương pháp đào tạo trong làng nghề là cầm tay chỉ việc, là
60
truyền khẩu, vừa học vừa làm. Trong những năm gần đây Sở Công nghiệp có
tổ chức cho một số cơ sở đào tạo nghề theo chương trình Khuyến công của
tỉnh, nhưng chủ yếu đào tạo cơ khí, sửa chữa điện tử, chăn nuôi trồng trọt
hoặc may mặc để cung cấp lao động cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh. Nghề
tiểu thủ công nghiệp đem lại nguồn thu lớn và chủ yếu cho các gia đình trong
làng nghề truyền thống. Do đặc điểm ngành nghề là sử dụng lao động thủ
công trong gia đình và thuê mướn bên ngoài, đồng thời vì lợi ích của mỗi gia
đình nên tình trạng không học hết phổ thông trung học của các con em còn
nhiều.
* Bảo vệ môi trường tự nhiên
Hiện nay việc tác động của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc xử lý
các chất thải tại làng nghề truyền thống vẫn còn hạn chế, chưa chú ý quan
tâm thực sự. Bởi vậy, tình trạng làm ô nhiễm môi trường, tác động ảnh hưởng
xấu đến sức khoẻ người lao động trong làng nghề và cộng đồng dân cư. Mặt
khác, tình trạng ô nhiễm càng khó hạn chế khi có không ít lãnh đạo địa
phương chưa nghiêm túc trong việc chỉ đạo thực hiện các quy định cũng như
xử lý các vi phạm về quản lý môi trường trên địa bàn mình quản lý.
2.3.4. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền
thống
Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà
nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động
thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định
kỳ hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển
bền vững.
Khi tổ chức thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời phát hiện những sai trái trong
hoạt động của các làng nghề truyền thống để xử phạt, hướng dẫn cho các làng
nghề thực hiện tốt hơn... Hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức
năng đối với làng nghề huyện Quỳnh Phụ được thể hiện tại Bảng 2.3.5.
61
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế, hoạt động quản lý nhà nước về thanh
tra, kiểm tra hầu hết không diễn ra theo đúng quy định, không tổ chức thanh
kiểm tra định kỳ và không thường xuyên; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống chưa được chặt chẽ và còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, một số địa phương thiếu quan tâm, không điều tra, khảo
sát, không thanh tra, kiểm tra để nắm thông tin về tình hình hoạt động tại các
làng nghề truyền thống; do vậy, rất lúng túng khi cập nhật các số liệu, không
phản ánh đúng thực tế tại làng nghề truyền thống. Hiện nay, đa số các làng
nghề đều tuân thủ đúng các quy trình sản xuất truyền thống của làng nghề,
nguồn nguyên liệu chủ yếu được cung cấp tại địa phương. Tuy nhiên, việc xử
lý môi trường tại các cơ sở chưa được đảm bảo, rất nhiều làng nghề gây ô
nhiễm cục bộ ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
Bảng 2.3.4: Số liệu về hoạt động thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý
nhà nước đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
TT
Tên xã có làng nghề
1 TT An Bài 2 Xã An Dục 3 Xã An Đồng 4 Xã An Hiệp 5 Xã An Khê 6 Xã An Lễ 7 Xã An Mỹ 8 Xã An Tràng 9 Xã An Vinh 10 Xã An Vũ 11 Xã Đồng Tiến 12 Xã Đông Hải 13 Xã Quỳnh Châu 14 Xã Quỳnh Giao 15 Xã Quỳnh Hải 16 Xã Quỳnh Hoàng Hoạt động thanh kiểm tra các làng nghề truyền thống tại địa phƣơng Không định kỳ thực hiện thanh, kiểm tra x x x x x x x x x Định kỳ hoạt động thanh, kiểm tra x x x x x Không thanh, kiểm tra x x
62
17 Xã Quỳnh Hội 18 Xã Quỳnh Hồng 19 Xã Quỳnh Minh 20 Xã Quỳnh Mỹ 21 Xã Quỳnh Ngọc 22 Xã Quỳnh Sơn x x x x x x
2.3.5. Xã hội hóa và hội nhập quốc tế trong hoạt động quản lý nhà
nước đối với các làng nghề truyền thống
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc ưu tiên đầu tư ngân sách để thực
hiện các cơ chế, chính sách, nhưng do nguồn kinh phí còn hạn hẹp, nên việc
phân bổ ngân sách hằng năm để thực hiện một số đề án, cơ chế còn thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tế. Xác định nhân dân là lực lượng đông đảo nhất,
là chủ thể trong xây dựng làng nghề truyền thống của địa phương, thời gian
qua, công tác tuyên truyền, vận động luôn được các địa phương chú trọng,
triển khai sâu rộng tới quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau,
nội dung truyền tải phong phú, đa dạng nên đã tạo được những chuyển biến
lớn, khích lệ cả về tư tưởng, nhận thức và hành động, nhân dân tích cực đóng
góp ngày công, hiến đất, tiền mặt để xây dựng các công trình phục vụ xây
dựng nông thôn mới trong đó có phục vụ sản xuất làng nghề truyền thống; cụ
thể như sau:
Sau khi tỉnh và huyện có chủ trương hỗ trợ xi măng xây dựng kết cấu
hạ tầng nông thôn mới, các cấp, ngành, địa phương trong huyện đã tập trung
chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc cơ sở tổ chức đăng ký và tiếp nhận, sử dụng xi
măng hỗ trợ. Toàn huyện đã đăng ký và được UBND tỉnh phê duyệt 121.969
tấn xi măng, các xã đã tiếp nhận 112.376 tấn xi măng và xây dựng 17,413km
đường trục xã; 187,9km đường giao thông trục thôn; 302,36km đường nhánh
cấp 1 của đường giao thông trục thôn; 62,741km đường giao thông nội đồng
trục chính; 7,644km kênh cấp 1 loại 3; đổ bê tông và xây tường bao được trên
63
20 sân trường, các công trình thi công đảm bảo đúng quy mô kết cấu theo chỉ
đạo của tỉnh.
Trung bình mỗi ngày, huyện Quỳnh Phụ thải ra khoảng 1200 tấn rác
các loại, chủ yếu là rác thải sinh hoạt, phế thải vật liệu xây dựng, bao vỏ thuốc
bảo vệ thực vật và một phần rác công nghiệp. Trước đây, hầu hết lượng rác
thải này đều không được thu gom, đa số người dân đổ rác trực tiếp ra môi
trường xung quanh như vườn, ao hồ, đường làng ngõ xóm… vừa làm mất mỹ
quan, vừa gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Trên
cơ sở rút kinh nghiệm của một số tổ vệ sinh môi trường tự quản tại các xã An
Bài, An Khê và Quỳnh Minh, năm 2004 huyện Quỳnh Phụ đã chỉ đạo nhân
rộng mô hình đội vệ sinh môi trường tự quản tại các thôn. Đến nay toàn
huyện đã thành lập được 207 đội vệ sinh môi trường, tương đương 100% tổng
số thôn tại các xã, thị trấn. Trong đó, chỉ có các đội vệ sinh môi trường tại thị
trấn Quỳnh Côi hoạt động theo mô hình chuyên trách; các xã còn lại đều hoạt
động theo mô hình thôn tự quản. Để tiếp nhận lượng rác thải ngày càng lớn,
huyện Quỳnh Phụ đã quy hoạch 145 bãi tập kết rác thải, tương đương 75% số
thôn có bãi rác riêng. Các bãi rác này đều do thôn chủ động tham mưu cho
UBND xã về địa điểm xây dựng cũng như quy mô diện tích, bảo đảm xa khu
dân cư, xa nguồn nước và không ảnh hưởng tới mỹ quan chung. Phần kinh
phí đầu tư xây dựng bãi rác và mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác thu
gom được trích từ ngân sách chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường. Phần kinh
phí chi trả lương và phụ cấp cho cán bộ và những người trực tiếp làm công tác
thu gom rác chủ yếu do nhân dân đóng góp, mức thu dao động từ 5.000-
10.000đồng/hộ, phổ biến là 5.000 đồng/hộ/tháng. Tính ra mỗi người thu gom
rác có mức thu nhập từ 2.500.000 - 3.500.000 đồng/người/tháng. Ngoài khoản
chi đầu tư mua sắm thiết bị và trả phụ cấp hàng tháng, các xã đều dành một
phần kinh phí nhất định phục vụ việc bảo dưỡng, sửa chữa xe rác; thay mới
64
các trang thiết bị, dụng cụ làm việc và một số nhiệm vụ khác liên quan đến
lĩnh vực môi trường.
Hội nhập quốc tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút
vốn, công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát
triển nhân lực thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ trong quá
trình hội nhập…
Trong 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, Quỳnh
Phụ huy động được tổng vốn đầu tư 1.569,160 tỷ đồng, trong đó vốn ngân
sách Trung ương 130,187 tỷ đồng; vốn ngân sách tỉnh 255,654 tỷ đồng; vốn
ngân sách huyện 91,725 tỷ đồng; vốn ngân sách xã 192,706 tỷ đồng; huy
động các nguồn vốn khác 898,888 tỷ đồng. 22 xã hoàn thành xây dựng nông
thôn mới, 10 xã hoàn thành 15 tiêu chí, 4 xã hoàn thành 13 tiêu chí.
Quá trình hội nhập đòi hỏi cán bộ quản lý nhà nước về làng nghề và các
doanh nghiệp phải năng động, chuyên nghiệp, nhạy bén và có nguồn nhân lực
cao. Tuy nhiên, cán bộ quản lý còn thiếu, chưa chuyên nghiệp và phần lớn các
làng nghề truyền thống kế hoạch sản xuất không ổn định, mô hình tổ chức sản
xuất chủ yếu ở các làng nghề là hộ gia đình, nhưng các hộ gia đình lại không
có đủ năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm cũng như độ nhạy bén trong việc tìm
kiếm và phát triển thị trường. Cho đến hiện tại huyện mới chỉ có một số làng
nghề truyền thống tìm được thị trường xuất khẩu ra nước ngoài bao gồm các
sản phẩm của làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ, vàng mã, mây tre đan.
Hội nhập sẽ là cơ hội để tăng lượng khách du lịch đến Việt Nam là thị
trường tiềm năng của các sản phẩm làng nghề truyền thống, vì đa phần các
khách du lịch đều muốn mua những sản phẩm có tính đặc trưng, đậm nét văn
hóa bản địa nhưng các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa biết cách quảng bá,
phổ biến và giới thiệu sản phẩm. Vì vậy hiện nay vẫn chưa có làng nghề
truyền thống nào của huyện mở cửa để đón được du khách nước ngoài cũng
như kết hợp để gắn dịch vụ du lịch với phát triển làng nghề.
65
2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động quản lý nhà nƣớc về
làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ
2.4.1. Những yếu tố thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống
- Tỉnh Thái Bình rất quan tâm và đã ban hành nhiều chính sách ưu tiên
phát triển và bảo tồn các làng nghề truyền thống tại các địa phương ví dụ như:
Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19 tháng 10 năm 2015 của UBND
tỉnh Thái Bình về Quy định tiêu chí, quy trình xét công nhận làng nghề trên
địa bàn tỉnh Thái Bình; Quyết định số 16/2014/QĐ-UBND ngày 24 tháng 09
năm 2014 về Quy định cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư vào một số
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn đến
năm 2020... Thực hiện các chính sách đó, huyện Quỳnh Phụ đã áp dụng triệt
để các điều kiện của mình nhằm phát triển và bảo tồn làng nghề truyền thống
như thực hiện các chính sách về cho vay vốn ưu đãi, mở các lớp huấn luyện
tay nghề, đào tạo nghề, tuyên dương khen tặng nghệ nhân, thợ giỏi...
- Quỳnh Phụ là huyện đồng bằng, địa hình bằng phẳng, khí hậu nhiệt
đới gió mùa mưa nhiều độ ẩm cao, đất đai phì nhiêu, màu mỡ nên thích hợp
cho phát triển các loại cây trồng phục vụ nguyên liệu cho các làng nghề
truyền thống. Ngoài ra do giáp ranh với các vùng kinh tế phát triển nên trình
độ dân trí cao thuận lợi cho việc tuyên truyền phổ biến các chế độ chính sách
của nhà nước
- Con người Thái Bình nói chung và Quỳnh Phụ nói riêng luôn luôn
lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ và có truyền thống sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ từ lâu đời, hình thành lên các làng nghề nổi tiếng có các sản
phẩm được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng do vậy rất thuận
lợi để triển khai hoạt động quản lý phát triển làng nghề.
- Được sự quan tâm của nhà nước thông qua các chương trình, đề án,
dự án và đề tài khoa học công nghệ, một số làng nghề truyền thống đã được
66
hỗ trợ các công nghệ, thiết bị mới vào các công đoạn sản xuất, kết hợp giữa
kỹ thuật hiện đại và kỹ thuật truyền thống để nâng cao chất lượng sản phẩm,
tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên
thị trường.
- Việt Nam là nước có môi trường chính trị, an ninh xã hội ổn định, an
toàn. Chính phủ nước ta đã có những nỗ lực trong việc thể chế hóa hệ thống
pháp luật, cải cách hành chính nhất là sau khi tham gia WTO đã tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động sản xuất
kinh doanh của làng nghề truyền thống nói riêng.
2.4.2. Những khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước về làng
nghề truyền thống
- Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách,
quy định có liên quan đến phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn ví dụ
như: Quyết định số 132/2000/QĐ/TTg, ngày 24/11/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn;
Thông tư số 84/2002/TT-BTC, ngày 26/9/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn
về các hình thức khuyến khích tài chính nhằm kích thích sự phát triển của các
ngành thủ công; Quyết định số 577/QĐ-TTg ngày 11/04/2013 về việc phê
duyệt Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030... Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai còn rất nhiều hạn
chế, nên hiệu ứng tác động của chính sách còn rất mờ nhạt, chưa kích thích
cho làng nghề phát triển.
- Huyện Quỳnh Phụ mới chỉ tập trung cho đầu tư phát triển các khu,
cụm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, thu hút các doanh nghiệp có nguồn
vốn, kỹ thuật tương đối lớn, chưa tập trung cho phát triển các hộ nghề, làng
nghề truyền thống.
- Chất lượng nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống rất thấp,
các chủ cơ sở sản xuất không có kinh nghiệm trong quản lý, tìm kiếm, phát
67
triển thị trường. Lực lượng lao động trực tiếp tại các làng nghề chưa qua đào
tạo chiếm tỷ lệ khá cao.
- Các chủ cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống rất khó khăn
trong việc tiếp cận các nguồn vốn; đồng thời, quy mô sản xuất của các cơ sở
nhỏ lẻ, nơi sản xuất cũng là nơi nhà ở, vốn tự có của các chủ thể sản xuất kinh
doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh của các làng nghề truyền thống rất
thấp. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước về triển khai các chương trình phát
triển làng nghề truyền thống rất khó khăn.
- Hiện nay, trên thị trường xuất hiện các loại sản phẩm cùng loại với
sản phẩm của các làng nghề nhưng sản xuất bằng máy nên giá cả cạnh tranh
rất thấp. Đồng thời, công nghệ, thiết bị máy móc sản xuất của các cơ sở sản
xuất tại các làng nghề truyền thống đa phần là lạc hậu, không đồng bộ, vì vậy
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường rất thấp. Các yếu tố là một
trong những khó khăn lớn trong hoạt động quản lý nhà nước về giá cả, tìm
kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.
- Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn đến việc giảm lực lượng
lao động tại các làng nghề truyền thống.
- Các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống chưa quan tâm đến
vấn đề xây dựng thương hiệu, thiết kế mẫu mã, kiểu dáng cho sản phẩm... vì
vậy, trên thị trường xuất hiện rất nhiều sản phẩm công nghiệp giả mạo sản
phẩm làng nghề truyền thống do đó hoạt động quản lý nhà nước về sở hữu trí
tuệ cũng gặp phải những khó khăn nhất định.
- Chính sách đãi ngộ đối với các cán bộ quản lý phụ trách chuyên trách
chưa thỏa đáng do đó chưa thúc đẩy được nhiệt tâm của họ đối với công việc.
- Trình độ của người lao động còn thấp nên không tiếp thu được trình
độ kỹ thuật tiên tiến nên hạn chế việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại.
- Trong triển khai lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết ở địa
phương theo quyết định của Luật Đất đai và Nghị định 181 của Chính phủ,
68
UBND huyện và xã gặp phải rất nhiều khó khăn về điều kiện nguồn lực tài
chính và con người. Vì vậy, tình trạng tự phát trong sử dụng đất nông nghiệp
và phi nông nghiệp ở nông thôn diễn ra phổ biến, thiếu tác động quản lý kịp
thời và sát sao của UBND huyện và xã, chỉ đến khi xảy ra biến động lớn, khi
đó mới “vận hành” hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai theo quy định
của pháp luật. Điều tất yếu xảy ra là hiệu quả kinh tế - xã hội của sử dụng đất
trong nông nghiệp, nông thôn rất thấp.
Thiếu chế tài xử phạt mạnh đối với các cơ sở kinh doanh gây ô nhiễm
môi trường, đối với một số lĩnh vực đã có các văn bản quy định về vấn đề này
thì việc áp dụng còn lỏng lẻo, chưa triệt để.
2.5. Nguyên nhân những thuận lợi và khó khăn của hoạt động quản lý
nhà nƣớc đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
* Nguyên nhân những thuận lợi của hoạt động quản lý nhà nước đối
với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
- Việc khôi phục và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống là chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta; hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều
chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển ngành nghề ở nông thôn;
đặc biệt, cả nước đang triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới là cơ
sở, điều kiện để các làng nghề đầu tư, mở rộng và phát triển. Thông qua
chương trình xây dựng nông thôn mới, hệ thống giao thông đi lại tại nông
thôn được nâng cấp, rất thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
làng nghề truyền thống.
- Trong thời gian qua, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng một Chính phủ
kiến tạo và liêm chính, vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề
có nhiều thuận lợi, việc quản lý tại các làng nghề sẽ thuận lợi hơn, các doanh
nghiệp tại các làng nghề có nhiều cơ hội để phát triển.
- Quá trình xây dựng xã nông thôn mới được triển khai trên địa bàn tỉnh
đã có chuyển biến tích cực, ý thức của nhân dân được nâng cao. Các quy
69
hoạch về nông thôn mới cơ bản đã hoàn chỉnh là cơ sở để định hướng phát
triển làng nghề truyền thống trong thời gian đến.
- Nước ta gia nhập thành viên của WTO đã mở ra hướng đi mới cho các
cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống; các cơ sở đã có cách nhìn khác
về việc tạo ra sản phẩm chất lượng, mẫu mã đẹp để đáp ứng thị hiếu của
người tiêu dùng trong và ngoài nước. Các cơ quan quản lý nhà nước tiếp cận
được các thông tin mới về thị trường, công nghệ sản xuất sản phẩm, tìm kiếm
các nguồn vốn vay hợp lý, các nguồn tại trợ để hỗ trợ các làng nghề truyền
thống.
- Quỳnh Phụ là vùng đất đồng bằng nơi sản sinh các sản phẩm nông
nghiệp từ lâu đời đặc trưng của địa phương. Cùng với quá trình hình thành và
phát triển, lại là vùng đất hội tụ và giao thoa các tỉnh lân cận. Chính các yếu
tố này quyết định đến sự hình thành và phát triển làng, làng nghề là điều kiện
để mở rộng quy mô sản xuất tại các làng nghề truyền thống của địa phương.
* Nguyên nhân những khó khăn hạn chế của hoạt động quản lý nhà
nước đối với các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
- Nhà nước thiếu cơ chế vận hành thông suốt hệ thống chính sách về
ngành nghề nông thôn, làng nghề từ Trung ương đến cơ sở, đem chính sách
về với người dân để người dân hiểu sử dụng chính sách một cách có hiệu quả.
- Nhiều chính sách được ban hành chưa thỏa đáng và không kịp thời
nên không áp dụng vào thực tế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan
quản lý nhà nước chưa được chặt chẽ, chưa theo quy trình.
- Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
còn nhiều bất cập, cồng kềnh; nguồn nhân lực quản lý hoạt động nhà nước đối
với làng nghề còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hội
nhập.
- Sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân địa phương về chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn, bảo tồn và phát triển
70
làng nghề truyền thống chưa trở thành hành động mạnh mẽ của người dân.
Nhiều nơi còn ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước.
- Phát triển làng nghề truyền thống tuy có sự quan tâm của nhiều cấp,
nhiều ngành song nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp. Bản thân các hộ sản xuất lại
không đủ vốn để mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất. Các cơ sở nghề chưa
tiếp cận được các nguồn vốn vay với lãi suất thấp, hầu hết các làng nghề
truyền thống sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm làm ra phục vụ cho thị
trường nội địa là chủ yếu, sức cạnh tranh còn yếu. Bản thân mỗi làng nghề
truyền thống chưa có doanh nghiệp đầu đàn làm đầu mối cho việc tổ chức sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm.
71
Tiểu kết chƣơng 2
Với vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương với các vùng kinh tế
trọng điểm của vùng Đông Bắc bộ, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa, mưa nhiều, độ ẩm cao, đất đai phì nhiêu màu mỡ nên huyện Quỳnh Phụ
rất thích hợp cho trồng cây nông nghiệp phục vụ phát triển các làng nghề
truyền thống. Sản xuất ở các làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ rất sôi
động và ngày càng phát triển. Không những giải quyết việc làm tại chỗ, nâng
cao thu nhập cho người lao động mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
tạo diện mạo mới cho các làng quê. Nhiều làng nghề không ngừng phát triển,
chiếm 70 - 80% tỷ trọng của thôn, làng, tiêu biểu như: bánh đa làng Dụ Đại,
xã Đông Hải; dệt chiếu xã An Vũ, An Lễ, An Dục, An Tràng; vàng mã xã An
Vinh; chế biến lương thực xã An Mỹ; gỗ mỹ nghệ xã An Đồng...
Tuy nhiên, hiện nhiều làng nghề sản xuất còn theo quy mô nhỏ lẻ, chất
lượng sản phẩm chưa cao, mẫu mã chậm thay đổi nên sức cạnh tranh kém,
chưa tạo dựng được thương hiệu. Hầu hết các làng nghề chưa có hạ tầng kỹ
thuật xử lý nguồn nước trước khi xả ra môi trường, cũng như thu gom chất
thải. Vấn đề nan giải chưa tìm được lời giải đối với nhiều làng nghề trên địa
bàn huyện Quỳnh Phụ hiện nay là khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.
Chính phủ, UBND tỉnh, UBND huyện đã ban hành nhiều chính sách ưu
tiên bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống cũng như nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống. Khi đưa vào thực hiện các cơ
chế chính sách đó đã thúc đẩy để phát triển và đẩy mạnh hoạt động của các
làng nghề truyền thống. Tuy nhiên nguồn lực hỗ trợ của Trung ương, tỉnh còn
nhiều hạn chế, chủ yếu hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa quan tâm nhiều đến
việc hỗ trợ phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Bộ máy quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống thiếu đồng bộ, cồng kềnh, còn chồng chéo
giữa các cơ quan quản lý nhà nước; chưa có sự liên kết giữa các cấp các
ngành, các phòng ban chuyên môn trong công tác quản lý nhà nước về làng
72
nghề truyền thống. Thiếu cán bộ quản lý làng nghề tại các địa phương, đặc
biệt chưa chú tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực quản lý tại địa phương.
Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra đối với các làng
nghề truyền thống chưa được tăng cường, rất mờ nhạt, làm giảm hiệu quả
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý nhà nước về
làng nghề được đẩy mạnh, bước đầu đã huy động được sự đóng góp, tham gia
quản lý của người dân đối với hoạt động quản lý, góp phần phát triển làng
nghề truyền thống tại địa phương, nhưng vẫn còn ở mức thấp.
Nguyên nhân là do thiếu cơ chế vận hành thông suốt hệ thống chính
sách về ngành nghề nông thôn, làng nghề từ Trung ương đến cơ sở. Nhiều
chính sách được ban hành chưa thỏa đáng và không kịp thời nên không áp
dụng vào thực tế. Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền
thống còn nhiều bất cập, cồng kềnh; nguồn nhân lực quản lý hoạt động nhà
nước đối với làng nghề còn yếu kém. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ
quan quản lý nhà nước chưa được chặt chẽ, chưa thường xuyên và theo quy
trình. Sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân địa phương đối với chủ trương
của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn, bảo tồn và phát
triển làng nghề truyền thống chưa được tốt. Các cơ sở nghề chưa tiếp cận
được các nguồn vốn vay với lãi suất thấp, hầu hết các làng nghề truyền thống
sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm làm ra phục vụ cho thị trường nội địa là
chủ yếu, sức cạnh tranh còn yếu. Bản thân mỗi làng nghề truyền thống chưa
có doanh nghiệp đầu đàn làm đầu mối cho việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm.
73
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ
3.1. Quan điểm của Đảng về quản lý nhà nƣớc đối với làng nghề truyền
thống
3.1.1. Quan điểm của Đảng về quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống
Thứ nhất, quản lý phát triển làng nghề truyền thống không chỉ là một
yêu cầu phát triển kinh tế, mà còn là yêu cầu của việc duy trì và phát triển văn
hóa - xã hội. Phát triển làng nghề truyền thống phải dựa trên sự kết hợp hài
hòa các yếu tố truyền thống với hiện đại; dân tộc với quốc tế; giữa bản sắc
văn hóa riêng với những giá trị văn hóa, thẩm mỹ của nhân loại. Quản lý phát
triển làng nghề truyền thống gắn với bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc được kết tinh trong sản phẩm làng nghề.
Hiện nay, các làng nghề truyền thống gặp không ít khó khăn và thách
thức trong bảo tồn và phát triển. Chính vì vậy, tăng cường hoạt động quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống để giúp các làng nghề truyền thống
vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển và đóng góp cho đất nước là một nhiệm
vụ quan trọng của Đảng và nhà nước ta. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát
triển kinh tế - xã hội đi đôi với tuân thủ pháp luật”. Quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống sẽ định hướng cho hoạt động sản xuất sản phẩm của
làng nghề ở địa phương phát triển theo đúng mục tiêu của địa phương đã đề ra
trên cơ sở tạo lập môi trường thuận lợi cho các làng nghề tại địa phương tiếp
cận với các yếu tố tài nguyên, nguồn nhân lực.
74
Thứ hai, trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống, cần tăng cường sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với phát triển
ngành nghề nông thôn và bảo vệ môi trường để phát triển bền vững.
Khẩn trương chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển ngành nghề nông
thôn, phát triển các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn, gắn với việc
hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Quy hoạch phát triển ngành
nghề nông thôn được xây dựng phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội của địa phương và cả nước, gắn với bảo vệ môi trường làng
nghề.
Trong thời gian qua, việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền
thống đã mang lại hiệu quả cao, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và
đời sống cho người lao động. Tuy nhiên, do hoạt động quy hoạch và tổ chức
thực hiện phát triển làng nghề truyền thống tại một số địa phương chưa được
quan tâm đúng mức; nhiều làng nghề tiếp tục phát triển dựa vào sản xuất thủ
công, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không khí, đất, nước, ảnh
hưởng trực tiếp tới sức khoẻ cộng đồng.
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ bảo
vệ môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Tại Nghị quyết số
41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2014 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã xác
định rõ: Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung
cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, qui
hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa
phương. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định phương hướng phát
triển cơ bản của nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”.
75
Thứ ba, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng
nông thôn mới, trong đó có bao gồm cả phát triển làng nghề truyền thống.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn xác định
nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, gắn với phát triển kinh tế nông thôn
và xây dựng nông thôn mới cần được đẩy mạnh để nâng cao thu nhập của
nông dân và phát triển kinh tế đất nước. Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, đã xác định một trong những phương hướng đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới, trong đó có bao gồm cả phát triển làng nghề truyền
thống.
Thứ tư, cần xây dựng lại tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với
ngành nghề nông thôn phù hợp và có hệ thống để tăng cường hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Hiện nay việc quản lý nhà nước đối với các làng nghề còn phân tán,
chồng chéo, khiến hiệu quả hoạt động của các làng nghề chưa cao. Vì vậy,
cần hoàn chỉnh lại bộ máy tổ chức hoạt động quản lý làng nghề truyền thống
quy về một đầu mối.
Quan điểm này được đề cập trong nội dung Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ
Đại hội XII của Đảng: “Cần xây dựng lại tổ chức bộ máy của toàn hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả”.
76
3.1.2. Quan điểm của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống
* Quan điểm chung
- Phát triển ngành nghề ở khu vực nông thôn phải phù hợp với Quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020; phù hợp với Quy
hoạch phát triển công nghiệp Thái Bình giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn
2030.
- Phát triển ngành nghề nông thôn phải đáp ứng định hướng, mục tiêu
của Nghị quyết Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ gần nhất là Nghị quyết đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ XVIII.
- Khai thác lợi thế của Thái Bình trong vùng kinh tế trọng điểm và
tuyến hành lang kinh tế Thái Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh. Để phát triển
công nghiệp nông thôn của tỉnh, gắn với thị trường và vùng nguyên liệu để
phát triển các mặt hàng có lợi thế so sánh và tính cạnh tranh cao.
- Lựa chọn phát triển các ngành nghề, ngành nghề truyền thống có lợi
thế so sánh, các ngành nghề phụ trợ, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài
nguyên, năng lượng, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế cao.
- Coi trọng chất lượng tăng trưởng và giá trị gia tăng của sản xuất công
nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo an ninh quốc phòng và đảm bảo
phát triển bền vững.
- Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới, huy động mọi nguồn lực trong dân, đồng thời phải có sự
hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức quốc tế. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp nông thôn phải kết hợp hài hoà nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ
chức và sở hữu.
* Phát triển làng nghề truyền thống là một bộ phận trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội
77
Mục tiêu phát triển làng nghề truyền thống hay xây dựng các khu, cụm
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là để phát triển kinh tế góp phần tăng
trưởng kinh tế xã hội của nông nghiệp nông thôn. Đó là quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình phát triển làng nghề
truyền thống hay xây dựng các khu, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, thu hút lao động từ nông
nghiệp sang công nghiệp, làm cơ sở nền tảng để phát triển công nghiệp. Quá
trình đó chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn và cũng chính là thực hiện quá trình đô thị hoá nông thôn
của tỉnh. Muốn thực hiện có hiệu quả việc phát triển làng nghề truyền thống
hay xây dựng các khu, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng
bền vững theo các hướng sau:
- Xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống hay xây dựng
các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, của từng, xã cần gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội của huyện đi đôi với phát triển thương mại, dịch vụ. Đây là khâu
quan trọng cần phải đi trước, nó ảnh hưởng và quyết định đến sự phát triển
lâu dài, bền vững của làng nghề truyền thống hay các cụm công nghiệp làng
nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cũng như
bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. Xây dựng làng nghề truyền thống hay
xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là để hạn chế ô nhiễm môi trường và đạt hiệu
quả kinh tế cao.
- Quy định về tổ chức bộ máy quản lý hoạt động của làng nghề truyền
thống các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp. Để quản lý làng nghề truyền thống, các cụm công
nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
có hiệu quả cần phải phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng
78
quản lý nội bộ làng nghề truyền thống các cụm công nghiệp làng nghề truyền
thống, khu - cụm công nghiệp -tiểu thủ công nghiệp. Trong đó, cần phải phân
công, phân cấp quản lý: ai làm chức năng quản lý nhà nước, ai làm chức năng
quản lý nội bộ để không chồng chéo nhau.
- Xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách theo hướng tạo ra
môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển làng nghề truyền thống, các
cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp.
- Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao
thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, trường, trạm y tế… nhằm tạo điều
kiện để làng nghề truyền thống, các cụm công nghiệp làng nghề truyền thống,
khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mở rộng quy mô sản xuất,
chuyển giao công nghệ, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao năng suất lao động.
Tạo điều kiện làng nghề truyền thống, các cụm công nghiệp làng nghề truyền
thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mở rộng giao lưu sản
xuất, mở rộng thị trường cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.
- Việc quy hoạch xây dựng làng nghề truyền thống, các cụm công
nghiệp làng nghề truyền thống, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
phải tuỳ thuộc vào từng ngành nghề khác nhau. Những ngành nghề nào không
cần nhiều diện tích, không gây ô nhiễm môi trường thì không nhất thiết phải
hình thành cụm công nghiệp làng nghề truyền thống. Những ngành nghề nào
cần nhiều diện tích, gây ô nhiễm môi trường thì nhất thiết phải xây dựng cụm
công nghiệp làng nghề truyền thống. Khi quy hoạch xây dựng cụm công
nghiệp làng nghề truyền thống phải tính toán đầy đủ diện tích cần thiết cho
một hộ gia đình để mở rộng sản xuất, tránh tình trạng giải quyết diện tích một
hộ gia đình sản xuất quá hẹp, không thể mở rộng sản xuất dẫn đến biến cụm
công nghiệp làng nghề truyền thống trở thành khu dân cư. Xây dựng cụm
công nghiệp làng nghề truyền thống phải quy hoạch khu vực sản xuất, khu
79
vực dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Khu tiêu thụ sản
phẩm có thể gắn liền với khu dân cư và phải quy hoạch xây dựng thống nhất
theo một mẫu mã, kiến trúc nhất định của cơ quan quản lý nhà nước nhằm
đảm bảo tổng thể kiến trúc hài hoà, đảm bảo môi trường xanh - sạch - đẹp,
gắn liền với hoạt động văn hoá, du lịch. Có như vậy mới thực hiện được chủ
trương xây dựng mô hình du lịch làng nghề truyền thống của tỉnh góp phần
tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Phát triển cụm công nghiệp làng nghề truyền thống phải gắn với việc
giải quyết chế độ chính sách cho những hộ có diện tích đất bị thu hồi phục vụ
cho xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống như cho họ làm dịch
vụ hoặc tuyển dụng vào làm việc trong các cụm công nghiệp làng nghề truyền
thống. Phát triển cụm công nghiệp làng nghề truyền thống phải gắn với việc
sử dụng lao động nông nghiệp của làng nghề, xã nghề hoặc các xã xung
quanh cụm công nghiệp làng nghề truyền thống nhằm giải quyết việc làm cho
người nông dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông
nghiệp nông thôn.
- Phát triển làng nghề truyền thống phải theo hướng đa dạng hoá hình
thức sở hữu, mô hình tổ chức sản xuất, định hướng ưu tiên công nghệ tiên
tiến, hiện đại kết hợp với cổ truyền trong các làng nghề truyền thống.
* Phát triển làng nghề truyền thống nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Cần phải nhận thức đúng đắn vị trí của làng nghề truyền thống trên địa
bàn huyện Quỳnh Phụ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một bộ phận quan trọng của chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Làng nghề truyền thống
nông thôn giữ một vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển mô
hình nông thôn mới văn minh, hiện đại. Đặc biệt, sự phát triển làng nghề
truyền thống nông thôn còn là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự
80
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quy luật tất yếu khách quan trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế nhưng đây là một quá trình lâu dài với nhiều nội
dung phức tạp như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
thành phần kinh tế. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
ngành kinh tế là thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông chuyển sang
cơ cấu kinh tế tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đây là con đường tất yếu
để phát triển một cách toàn diện nền kinh tế nông thôn, tạo điều kiện khai thác
có hiệu quả các nguồn lực sẵn có của địa phương và từng bước hình thành cơ
cấu kinh tế nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đóng
một vai trò rất quan trọng, bởi nó tạo ra những tiền đề hỗ trợ cho sự phát triển
nền đại công nghiệp và các ngành công nghiệp. Mặt khác, các làng nghề
truyền thống ở nông thôn còn là cầu nối giữa sản xuất nông nghiệp với sản
xuất công nghiệp, giữa khu vực nông thôn với thành thị, giữa tính truyền
thống với sự hiện đại. Do vậy, sự phát triển của các làng nghề truyền thống ở
nông thôn là quá trình vận động, biến đổi để thích ứng dần với những điều
kiện mới.
Nhận thức được vai trò quan trọng của làng nghề truyền thống nông
thôn, những năm qua Đảng ta đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển các
làng nghề truyền thống nông thôn nhất là làng nghề truyền thống sản xuất
hàng xuất khẩu, kinh doanh dịch vụ gắn với du lịch và đã ban hành nhiều
chính sách nhằm khôi phục và khuyến khích phát triển các làng nghề truyền
thống ở nông thôn.
81
* Phát triển làng nghề truyền thống trong mối quan hệ liên kết, hỗ trợ,
chuyển giao kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các địa phương.
Làng nghề truyền thống gắn liền với máy móc cũ, lạc hậu, thô sơ và lao
động thủ công. Nhưng sản phẩm làng nghề truyền thống gắn liền với nét văn
hoá độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc và gắn liền với kỹ nghệ tinh xảo của
những bàn tay tài hoa do các nghệ nhân hay người thợ tạo nên. Phát triển làng
nghề truyền thống là mở rộng quy mô sản xuất của các làng nghề truyền
thống, sử dụng công nghệ hiện đại, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
hàng loạt. Do đó, để kết hợp hài hoà giữa tính hiện đại và kỹ thuật truyền
thống trong việc tạo ra sản phẩm làng nghề truyền thống cần phải nghiên cứu
cải tiến áp dụng khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại vào khâu nào, giai đoạn
nào của quá trình sản xuất; còn khâu nào, thao tác nào phải sử dụng lao động
thủ công, kỹ thuật truyền thống. Có như vậy mới đáp ứng yêu cầu của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
* Quy hoạch đất cho phát triển làng nghề truyền thống.
Công tác quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống
là khâu đầu tiên phải được coi trọng vì khâu này ảnh hưởng có tính chất quyết
định đến sự phát triển lâu dài, bền vững của cụm công nghiệp làng nghề
truyền thống. Mục tiêu thành lập cụm công nghiệp làng nghề truyền thống là
để hạn chế ô nhiễm môi trường và phát triển kinh doanh tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, khi quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống
phải thực hiện một số nguyên tắc sau:
- Những ngành nào, sản phẩm nào tăng trưởng mà không ô nhiễm môi
trường như thêu ren, mây tre đan, dệt chiếu… thì không nhất thiết phải thành
lập cụm công nghiệp làng nghề truyền thống.
- Những ngành nào, sản phẩm nào làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng
xấu thì kiên quyết thành lập cụm công nghiệp làng nghề truyền thống để tách
khu vực sản xuất ra khỏi khu dân cư. Cần tránh tình trạng biến cụm công
82
nghiệp làng nghề truyền thống thành một khu dân cư mới. Cụm công nghiệp
làng nghề truyền thống phải có hệ thống xử lý chất thải, phải có hệ thống cây
xanh, phải quy hoạch xây dựng thống nhất theo một mô hình kiến trúc tạo nên
một tổng thể hài hoà có môi trường xanh, sạch, đẹp.
- Quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống phải
chú ý kết hợp:
+ Phát triển ngành nghề trong chiến lược lâu dài.
+ Phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
+ Sử dụng đất đai của địa phương một cách có hiệu quả.
+ Phát triển các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa
và nhỏ trên địa bàn huyện.
* Phát triển làng nghề truyền thống sản xuất sản phẩm thủ công mỹ
nghệ gắn với du lịch.
Cùng với việc xây dựng cụm công nghiệp làng nghề truyền thống, làng
nghề mới, cần bảo tồn không gian, môi trường và sinh hoạt văn hoá, sản xuất
của các làng nghề truyền thống. Nghĩa là, khi xây dựng cụm công nghiệp làng
nghề truyền thống cần phải bảo tồn, lưu giữ lại một bộ phận môi trường, cảnh
quan, các hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hoá của làng nghề truyền thống
du lịch. Như vậy, không chỉ có những chủ trương, chính sách nhằm xây dựng
và phát triển cụm công nghiệp làng nghề truyền thống mà còn phải có chính
sách hỗ trợ nhằm bảo tồn không gian, môi trường và sinh hoạt văn hoá của
làng nghề truyền thống tiêu biểu. Trong cụm công nghiệp làng nghề truyền
thống cần xây dựng trung tâm triển lãm, hội chợ nhằm giới thiệu, quảng bá
sản phẩm và văn hoá làng nghề truyền thống. Trên phạm vi toàn huyện cần
xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm, hội chợ thương mại, du lịch… để
quảng bá, giới thiệu các sản phẩm thủ công, những kết quả, thành tựu bảo tồn
và phát huy văn hoá làng nghề truyền thống. Cần xây dựng một phòng bảo
tàng trưng bày, giới thiệu lịch sử, văn hoá làng nghề truyền thống. Xây dựng
83
và phát triển du lịch làng nghề truyền thống gắn với khu di tích lịch sử, di sản
văn hoá của huyện tạo nên một quần thể các điểm du lịch, thu hút du khách
trong và ngoài nước góp phần tăng trưởng kinh tế của địa phương.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về làng nghề
truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình
Trước thực trạng trên, để thực hiện tốt hoạt động quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện cần tập trung thực hiện các giải
pháp sau:
3.2.1. Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống
Một là, rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính
thông thường không còn phù hợp, không có khả năng thực hiện, nhằm loại
bỏ. Ví dụ như một số văn bản sau:
- Quyết định số 37/2001/QĐ-UBND ngày 30/7/2001 của UBND huyện
Quỳnh Phụ quy định về khuyến khích đầu tư phát triển ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh. Quy định này đã xuất
hiện nhiều bất cập, không phù hợp với tình hình hiện tại của địa phương.
- Quyết định số 1224/QĐ-UBND, ngày 07/4/2015 của UBND huyện về
việc phê duyệt Đề án Phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du
lịch trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ giai đoạn 2015 - 2020; Quyết định này đã
được ban hành hai năm, tuy nhiên cũng không có kinh phí để triển khai thực
hiện, cần xem xét rà soát lại để thay văn bản mới có tính khả thi, nhằm góp
phần phát triển du lịch của làng nghề truyền thống.
Hai là, hướng dẫn và tổ chức thực hiện một số chính sách hiện có của
Trung ương, của tỉnh có tác động đến phát triển làng nghề, làng nghề truyền
thống như:
84
- Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn tại Quyết
định 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ;
- Quyết định 23/2010/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015
và định hướng đến năm 2020”;
- Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 22/4/2010 của Chính phủ về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 04/6/2010 của Chính phủ Chính
sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;
- Quyết định 1216/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 phê duyệt Chiến lược Bảo
vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - là chính sách
về khoa học công nghệ và chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và xử lý môi
trường làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn.
Ba là, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy pháp pháp luật
phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất của làng nghề
tại địa phương, nhằm giúp các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh
trên địa bàn tỉnh có điều kiện phát triển sản phẩm làng nghề truyền thống; đặc
biệt, ưu tiên phát triển các làng nghề có công nghệ sản xuất thân thiện với môi
trường, làng nghề có doanh thu cao, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao
động với mức thu nhập ổn định.
- Hiện nay, đa số các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống còn
thiếu những kiến thức về thị trường, cách thức quảng bá, giới thiệu sản
phẩm... Vì vậy, cần thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế hỗ
trợ các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống trong lĩnh
vực xúc tiến thương mại.
- Sản phẩm của làng nghề truyền thống trong đó yếu tố truyền thống
được kết tinh trong từng sản phẩm là quan trọng nhất, sản phẩm làng nghề
mang tính nghệ thuật rất cao. Những làng nghề truyền thống đang tồn tại là
85
những làng nghề biết kết hợp tinh hoa, nghệ thuật của truyền thống và tiến bộ
của khoa học công nghệ, bắt kịp với sự đổi mới của đất nước, tuân thủ sự vận
động của cơ chế thị trường, nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Vì
vậy, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững cần thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị máy móc để
hỗ trợ hoạt động sản xuất của các cơ sở ở những công đoạn cần thiết có sự
phụ trợ của máy móc, nhằm tạo ra sản phẩm vẫn giữ được nét truyền thống
được kết tinh trong sản phẩm, vừa tạo ra được sản phẩm có thể cạnh tranh
trên thị trường.
Bốn là, cần xây dựng quy hoạch hoạch tổng thể cho các làng nghề
truyền thống trong phạm vi huyện theo quy định tại Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn.
Việc quy hoạch phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch sử dụng đất đai, vùng thương mại, vùng nguyên liệu, phát triển du lịch
và theo hướng bền vững. Việc quy hoạch các làng nghề truyền thống còn xây
dựng theo hướng quy hoạch những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục
vụ du lịch, những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục vụ sản xuất, và
những những làng nghề truyền thống vừa phục vụ cho sản xuất vừa phục vụ
cho phát triển du lịch.
Thực hiện khảo sát quy hoạch, thiết kế xây dựng cần tập trung đến
chiều hướng phát triển của các làng nghề truyền thống: những làng nghề
truyền thống mà sản phẩm đang là nhu cầu của thị trường nhưng bị suy giảm
về năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm, sẽ tập trung đầu tư, hỗ trợ để
bảo tồn và khôi phục; đối với làng nghề truyền thống sản xuất các mặt hàng
mà hiện nay thị trường không có nhu cầu thì cần phải mạnh dạn xóa bỏ và
thay thế bằng nghề mới; đối với những ngành nghề có tiềm năng phát triển,
86
thị trường được mở rộng cần quan tâm và có hướng đầu tư phù hợp để nâng
cao vị thế, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước.
Quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống theo hướng hình thành các
cụm công nghiệp làng nghề nhằm chuyển một số cơ sở sản xuất kinh doanh
khỏi khu dân cư để khỏi ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong hoạt động sản
xuất kinh doanh như thuận tiện trong việc thu mua, vận chuyển nguyên liệu;
mở rộng và tìm kiếm thị trường tiêu thụ, quảng bá cho sản phẩm… Cần chủ
động quy hoạch vùng nguyên liệu tương ứng với các sản phẩm làng nghề, có
kế hoạch đầu tư, gây dựng những loại giống nguyên liệu có chất lượng cao,
đảm bảo chất lượng sản phẩm, tập trung quy hoạch các vùng nguyên liệu lúa
gạo, mây, tre, cói... Nguyên liệu sản xuất của các làng nghề truyền thống chủ
yếu là khai thác tự nhiên hoặc các sản phẩm của nông nghiệp. Chính vì vậy,
với những nguyên liệu tự nhiên, các làng nghề truyền thống cần có kế hoạch
khai thác hợp lý, hạn chế việc khai thác ồ ạt, có tính chất tận diệt. Căn cứ vào
vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của huyện quy hoạch vùng nguyên liệu theo
hướng khoanh vùng nuôi trồng, đẩy mạnh việc thâm canh, tăng năng suất cây
trồng đối với cây công nghiệp và cây nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại các
làng nghề truyền thống.
Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành để hoàn thành thủ tục,
công khai quy hoạch, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư vào sản
xuất trong các làng nghề truyền thống. Cần thực hiện sự phân cấp rõ ràng
trong quy hoạch để tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý.
Năm là, tăng cường quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, coi
việc hướng dẫn, giúp đỡ phát triển làng nghề truyền thống là trách nhiệm của
các cấp, các ngành. Khi có văn bản mới ban hành cần tổ chức tập huấn, phổ
biến, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện. Cán
bộ quản lý nhà nước đối với làng nghề phải thường xuyên xuống cơ sở,
hướng dẫn các cơ sở nắm bắt kịp thời các thông tin, chính sách mới để các cơ
87
sở sản xuất, kinh doanh tại làng nghề có định hướng phát triển. Tiếp tục đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, các
chương trình phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm của địa
phương.
3.2.2. Tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
Để thực hiện tốt hoạt động tổ chức về quản lý nhà nước về làng nghề
truyền thống cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, cần có sự thống nhất giao nhiệm vụ quản lý nhà nước và tập
trung một đầu mối về hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề.
Hiện nay, việc quản lý nhà nước về làng nghề truyện thống của huyện
do bốn phòng chuyên môn khác nhau tham gia quản lý, điều này dẫn đến hiệu
quả hoạt động của các làng nghề chưa cao vì trong thực tế khi có vấn đề cần
giải quyết nhưng do có nhiều cơ quan cùng tham gia trong bộ máy tổ chức
quản lý nên thường đùn đẩy trách nhiệm trong quản lý, giải quyết không
nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các
làng nghề truyền thống. Để tránh tình trạng phân tán như hiện nay, thống nhất
đầu mối quản lý; cụ thể như sau:
Huyện cần tập trung về một đầu mối quản lý bằng cách thành lập một
ban riêng lấy tên là Ban Quản lý làng nghề huyện Quỳnh Phụ. Ban Quản lý
làng nghề sẽ tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà
nước ở địa phương về ngành nghề, làng nghề ở nông thôn đồng thời, Ban này
chịu sự quản lý của Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Thái Bình về hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của địa phương.
Ở cấp xã, tăng cường và phát huy vai trò của UBND cấp xã trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, đẩy mạnh việc tuyên
truyền về giá trị của sản phẩm làng nghề, bảo vệ môi trường làng nghề, góp
88
phần thúc đẩy làng nghề phát triển một cách bền vững. Bộ phận tham mưu
giúp việc cho UBND cấp xã trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống là Ban Nông nghiệp xã.
Hai là, cần tăng cường sự phối hợp, chỉ đạo điều hành trong hoạt động
quản lý nhà nước giữa huyện và các địa phương.
Để nắm bắt kịp thời thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống giữa các cấp quản lý cần có quy định về công tác báo
cáo định kỳ của cấp xã về hoạt động quản lý làng nghề truyền thống ở địa
phương đối với cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở cấp
huyện (Ban Quản lý làng nghề huyện) và ngược lại là sự chỉ đạo thường
xuyên, xuyên suốt của cơ quan cấp huyện đối với các cơ quan quản lý nhà
nước về làng nghề truyền thống cấp xã.
Từ việc đề xuất mô hình quản lý như đã nêu trên, tôi mô phỏng lại sơ
đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống của
tỉnh huyện Quỳnh Phụ như sau:
UBND huyện
Ban Quản lý làng nghề
UBND xã
Ban Nông nghiệp
Sơ đồ 3.2.2: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước về làng
nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ (theo mô hình mới)
Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
thực hiện theo mô hình trên sẽ tinh gọn, quy về một đầu mối quản lý và tăng
tính trách nhiệm, tránh được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau trong
89
hoạt động thực thi công vụ ở từng bộ phận, từng cấp tham mưu trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Ở cấp huyện là Ban
Quản lý làng nghề và ở cấp xã là Ban Nông nghiệp xã.
Ba là, UBND huyện nghiên cứu, đưa nội dung phát triển làng nghề
truyền thống vào Nghị quyết chuyên đề của cấp ủy, chính quyền địa phương
để chỉ đạo phát triển làng nghề gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới.
Bốn là, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống của UBND cấp xã, xem đây là một trong các nội dung
quan trọng của Đề án phát triển sản xuất, tăng thu nhập của cư dân nông thôn,
khi thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.
UBND cấp xã cần theo dõi và nắm chắc tình hình sản xuất, kinh doanh
của các hộ, các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống, tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát để báo cáo các cơ quan quản lý nhà nước cấp
trên nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn, có tính khả thi cao trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Để đảm bảo nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống, cần tập trung vào các giải pháp sau:
- Nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống chưa chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, cán bộ quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống ở các địa phương chủ yếu là kiêm nhiệm,
thường biến động về tổ chức nên việc tiếp cận, bám sát nội dung hoạt động
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bị hạn chế. Vì vậy, cần bố trí cán
bộ chuyên trách tại UBND các xã, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống, nhằm đảm bảo sự ổn định và nâng cao năng lực quản
lý của cán bộ chuyên trách. Để thể hiện được tính chuyên môn hóa, chuyên
nghiệp hóa thì trước hết trong công tác bố trí cán bộ phải bố trí đúng ngành
nghề khi tuyển dụng, trong quá trình công tác cần phát huy năng lực của cán
90
bộ để đào tạo nâng cao tay nghề mang tính chuyên nghiệp; ví dụ như cán bộ
chuyên về lĩnh vực báo cáo viên, tuyên truyền - hướng dẫn phổ biến các văn
bản, chính sách của nhà nước, cán bộ chuyên về hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo kỹ
năng tiếp thị, quảng bá, tìm kiếm mở rộng thị trường…
- Cần có kế hoạch cụ thể, định kỳ trong việc đào tạo nâng cao kỹ năng
quản lý nhà nước cho các cán bộ tham gia công tác quản lý nhà nước về làng
nghề truyền thống tại các địa phương.
+ Quy định ít nhất một năm hai lần tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống từ cấp huyện đến cấp xã, có thể tập
huấn thông qua hình thức trực tuyến hoặc giới thiệu trực tiếp.
+ Trong các chương trình đào tạo kỹ năng quản lý làng nghề truyền
thống cần phải dựa vào các giáo trình, đi từ lý thuyết đến thực hành, khắc
phục tình trạng việc đào tạo không có giáo trình, chủ yếu được biên soạn theo
kinh nghiệm sẽ không đảm bảo tính khoa học, logic và thiếu hẳn phần lý
thuyết.
+ Việc phổ biến các thông tin, kỹ năng quản lý có thể dưới hình thức
văn bản hướng dẫn hoặc phổ biến trên các tạp chí chuyên ngành để cán bộ
quản lý dễ tiếp cận và tìm hiểu.
- Đào tạo và xây dựng mạng lưới Ban quản lý làng nghề ở các xã (là
thành viên Ban Nông nghiệp của xã), đây là lực lượng nòng cốt để đề xuất,
xây dựng và trực tiếp triển khai thực hiện các chương trình phát triển làng
nghề truyền thống nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống ở địa phương.
- Cần có cơ chế khuyến khích hỗ trợ nghệ nhân, thợ giỏi truyền nghề và
tăng cường việc giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các làng nghề có cùng
nhóm nghề.
+ Duy trì việc tổ chức các hoạt động phong tặng, tôn vinh các danh
hiệu nghệ nhân, thợ giỏi cho các làng nghề truyền thống. Có chính sách trợ
91
giúp chi phí tổ chức lớp học đào tạo nghề tại các làng nghề để khuyến khích
các nghệ nhân mở lớp truyền nghề, truyền bí quyết, người thiết kế mẫu sản
phẩm trong các làng nghề truyền thống.
+ Tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích và giúp đỡ nghệ nhân lao
động sáng tạo, tham gia nghiên cứu, truyền dạy nghề cho lớp trẻ: Các nghệ
nhân, thợ giỏi được tổ chức truyền nghề trực tiếp và được thu tiền của học
viên theo nguyên tắc thỏa thuận, được miễn các loại thuế trọng hoạt động
truyền, dạy nghề.
+ Hằng năm, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
cần tổ chức các hoạt động như tham quan, học tập kinh nghiệm tại các mô
hình làng nghề phát triển cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh của các làng
nghề.
- Tập trung làm tốt công tác đào tạo nghề phi nông nghiệp cho lao động
ở các làng nghề; nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ về đóng
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn cho người lao động tại các
làng nghề.
- Thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các làng
nghề theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020”.
3.2.3. Các chính sách phát triển làng nghề truyền thống
* Chính sách thị trường
Một là, về thị trường sản phẩm, hàng hoá: Thị trường sản phẩm hàng
hoá vẫn là thị trường quan trọng nhất của làng nghề truyền thống. Trong đó
các mặt hàng mộc dân dụng, nông sản… là những mặt hàng có khối lượng
tiêu thụ lớn. Ngoài ra, các mặt hàng tiêu dùng, dệt chiếu, quần áo, nông cụ…
vẫn có nhu cầu ngày càng tăng do đời sống của nhân dân được cải thiện. Các
sản phẩm mỹ nghệ trang trí cho nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội thời gian
92
tới vẫn tiếp tục phát triển. Song những mặt hàng này đang chịu áp lực của
hàng nhập lậu tràn lan. Vì vậy, một mặt cần nâng cao khả năng cạnh tranh sản
phẩm của làng nghề truyền thống nhờ các biện pháp: đầu tư, đổi mới công
nghệ, tiếp thị, tìm thị trường, liên doanh, liên kết, tăng cường tổ chức sản xuất
và quản lý sản phẩm. Mặt khác, phải phát triển các hình thức gia công hợp tác
làm “vệ tinh” cho doanh nghiệp Nhà nước ở đô thị để tạo ra thị trường lớn và
ổn định. Tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế trong làng nghề truyền
thống thay đổi mẫu mã của sản phẩm, nắm vững thị hiếu của người tiêu dùng
trong và ngoài tỉnh. Đồng thời, có biện pháp kích cầu cũng như nâng cao mức
thu nhập để tăng sức mua của dân. Kiên quyết ngăn chặn hàng nhập lậu,
khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa. Phát triển mạnh các trung tâm thương
mại, hình thành các tụ điểm thương mại, thị trấn, chợ ở nông thôn.
Hai là, về thị trường du lịch: Lượng khách trong và ngoài tỉnh du lịch
đến Quỳnh Phụ ngày một tăng nhất là các ngày lễ hội của địa phương như lễ
hội Đền Đợi, Lễ hội Đền Đồng Bằng… họ thường mua những sản phẩm
truyền thống của địa phương… do đó cần phải phát triển mẫu mã mới, nâng
cao chất lượng sản phẩm để tăng sức mua của khách du lịch. Việc quan trọng
hàng đầu là phải có chiến lược phát triển sản xuất phục vụ cho khách du lịch.
Những sản phẩm sản xuất bán ra cho khách du lịch phải có nét đặc thù, tính
độc đáo và đặc sắc mang yếu tố truyền thống Việt Nam từ đó họ sẽ có nhu
cầu nhiều hơn về sản phẩm của làng nghề truyền thống tạo tiền đề cho thị
trường xuất khẩu phát triển.
Ba là, về thị trường xuất khẩu: Tiềm năng xuất khẩu trong làng nghề
truyền thống của huyện còn rất lớn và khả quan, song khối lượng xuất khẩu
hiện nay còn nhỏ bé, về lâu dài, xuất khẩu vẫn là thị trường quan trọng. Vấn
đề đặt ra hiện nay là: phải có kế hoạch đầu tư vào việc nghiên cứu phát triển
sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Khác với tính chất của sản phẩm
bán cho khách du lịch là mang đặc tính của truyền thống Việt Nam; sản phẩm
93
xuất khẩu ra nước ngoài cần được khai thác kỹ lưỡng năng lực truyền thống
để tạo ra những sản phẩm mới và có mẫu mã phù hợp với thị hiếu và tiêu
chuẩn quốc tế. Do đó, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi thích hợp đối với
những nhà sản xuất các mặt hàng truyền thống để họ có cơ hội duy trì phát
triển mặt hàng thông qua việc mở rộng sản xuất, bồi dưỡng tay nghề cho sự
nghiệp kế tục và cải tiến sản phẩm. Đối với các cơ sở sản xuất trong làng
nghề truyền thống coi trọng thị trường tiêu thụ nước ngoài thông qua các cơ
quan ngoại thương, ngoại giao để nắm vững thị hiếu tiêu dùng của từng khu
vực, từng nước đối với từng mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta và tiến hành
công tác dự báo, dự đoán thị trường nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh
hợp lý; thường xuyên nghiên cứu sự biến động nhu cầu và thị hiếu khách
hàng ở các nước khác nhau mà cải tiến sản phẩm cho phù hợp. Chú ý hơn nữa
việc phát triển quan hệ với các loại khách hàng ở những thị trường khác nhau
để tạo khả năng mở rộng thị trường. Tiến hành tìm chọn những bạn hàng
nước ngoài để liên doanh, liên kết trong sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Trên cơ
sở đó thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý nước ngoài để xây dựng sản
phẩm của Việt Nam trong cách nhìn của người nước ngoài.
Bốn là, thị trường chuyển giao công nghệ: Phát triển cơ cấu công nghệ
kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, sử dụng triệt để những thành tựu công
nghệ trong nước, công nghệ truyền thống, đồng thời khai thác kịp thời công
nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kết hợp hài hoà giữa kích thích nhập khẩu
công nghệ với khuyến khích sáng tạo sản xuất, chuyển giao công nghệ trong
nước; phát triển hoạt động tư vấn dịch vụ cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học
kỹ thuật nâng cao năng lực công nghệ tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Có chính
sách đánh thuế thấp hoặc miễn giảm thuế đối với những máy móc thiết bị có
hàm lượng khoa học kỹ thuật cao và những máy móc thiết bị nhỏ lẻ sử dụng
trong các làng nghề truyền thống. Do vậy, đi đôi với việc sử dụng đôi bàn tay
94
khéo léo của người thợ cần hiện đại hoá công nghệ truyền thống bằng cách
dùng máy cơ khí trong các khâu tạo phôi, sơ chế và xử lý nguyên vật liệu…
* Chính sách tài chính tín dụng
Giải pháp tạo vốn và khuyến khích đầu tư cần được ưu tiên theo hướng:
- Nhà nước tạo điều kiện trong việc huy động vốn an toàn và có hiệu
quả cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Để thực hiện tốt
vấn đề này cần có trung tâm hỗ trợ tài chính và bảo lãnh tín dụng. Sự giúp đỡ
này là vô cùng to lớn trong việc nâng cao quy mô sản xuất và thu hút vốn đầu
tư ngày càng nhiều.
- Đa dạng hoá hình thức cho vay vốn đối với làng nghề truyền thống,
thay đổi định mức cho vay và thời gian cho vay. Tăng cường kiểm soát các
nguồn vốn vay để hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn
vay đúng mục đích và có hiệu quả.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng. Mở rộng
hình thức cho vay tín chấp, cho vay có bảo lãnh đối với những hộ nông dân
quá nghèo, có chính sách hỗ trợ vốn để họ có điều kiện sản xuất kinh doanh.
Cải tiến các thủ tục cho vay sao cho thật đơn giản nhưng vẫn phải đảm bảo an
toàn vốn.
- Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng trong nông thôn. Đó là tín
dụng cộng đồng làng xã để giúp đỡ nhau tạo vốn phát triển sản xuất trong
làng nghề truyền thống. Các tổ chức tín dụng nông thôn cần đổi mới thủ tục
cho vay vốn, mở rộng quy mô và phạm vi cho vay sao cho phù hợp với quy
mô sản xuất của họ. Đồng thời, có chính sách, biện pháp bảo hiểm vốn, tài
sản cho quỹ tín dụng.
- Trong các làng nghề truyền thống hiện nay đang xuất hiện một số chủ
sản xuất kinh doanh do làm ăn hiệu quả đã trở thành những người có vốn lớn,
nắm quyền chi phối toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của làng. Số còn lại
do nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố thiếu vốn đang trở thành người làm
95
thuê hoặc con nợ của các ông chủ. Để tránh tình trạng bóc lột quá mức đối với
thợ thủ công, những người nghèo, Nhà nước cần có các hình thức, biện pháp
xử lý nghiêm đối với hiện tượng cho vay nặng lãi, hình thức lừa đảo, chiếm
dụng vốn của nhau nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh trong làng
nghề truyền thống.
- Chính sách đầu tư, trước tiên cần ưu tiên vốn đầu tư của ngân sách
Nhà nước để hỗ trợ và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho làng nghề
truyền thống. Sự ưu tiên này cần tập trung vào các cơ sở sản xuất sử dụng
nhiều lao động, sản xuất những mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Đối với những
mặt hàng mới sản xuất lần đầu, Nhà nước tạo điều kiện cho việc sử dụng đất
đai, kho bãi để khuyến khích họ đổi mới mẫu mã.
* Chính sách thuế
Để khuyến khích và tạo điều kiện cho làng nghề truyền thống phát
triển, chính sách thuế phải trở thành đòn bẩy kích thích sản xuất và là công cụ
điều tiết có hiệu quả của Nhà nước. Đánh thuế đúng sẽ làm cho người lao
động trong làng nghề truyền thống tích cực phát triển sản xuất kinh doanh, tạo
thêm nhiều việc làm mới, nâng cao nguồn thu nhập cho ngân sách Nhà nước.
Vì vậy, Nhà nước cần bổ sung hoàn chỉnh một số vấn đề chính sách thuế theo
hướng sau:
- Thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới
thành lập, hộ gia đình sản xuất kinh doanh lần đầu và những sản phẩm mới
đưa vào quá trình sản xuất. Nhưng việc thực hiện chính sách này cần có sự
phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đúng mức, tránh những hiện tượng tiêu
cực xảy ra.
- Để khuyến khích sự đổi mới công nghệ trong làng nghề truyền thống,
cần có chính sách miễn giảm thuế từ 2 - 3 năm đối với cơ sở sản xuất thực
hiện áp dụng công nghệ mới. Tạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất, nâng
96
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nhằm tăng thu nhập và tạo việc làm
cho người lao động.
- Trước mắt ưu tiên miễn giảm thuế đối với những làng nghề truyền
thống sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ hoặc
các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn. Trong đó, cần đặc biệt ưu tiên các
cơ sở của thương binh, người tàn tật, gia đình chính sách…
- Miễn giảm thuế đối với cơ sở dạy nghề gắn với việc giải quyết việc
làm tại chỗ cho người lao động, các trung tâm dạy nghề truyền thống và các
cơ sở dạy nghề tư nhân. Các cơ sở này rất cần được miễn giảm thuế để vay
vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng như sự hỗ trợ của các tổ chức phi
chính phủ và tổ chức quốc tế. Đồng thời, xoá bỏ các khoản chi phí và những
khoản thu ngoài quy định của pháp luật. Kiên quyết xử lý nghiêm minh
những hiện tượng trốn thuế, lậu thuế.
- Nhà nước cần xem xét thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các hộ, các
doanh nghiệp trong làng nghề truyền thống vì các đơn vị này không có được
hoá đơn hợp lệ do mua nguyên liệu thu gom, mua lẻ, chi phí vận tải thuê
ngoài và một số vật liệu phụ khác… Đồng thời, có chính sách ưu đãi về thuế
thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ, vì điều kiện sản xuất còn
lạc hậu, công nghệ chắp vá nên lãi suất rất thấp.
* Chính sách đào tạo nguồn nhân lực
Để nâng cao trình độ quản lý và tăng nhanh số lượng, trình độ tay nghề
cho người lao động, đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất ở làng nghề truyền
thống cần phải có giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ theo các hướng
sau:
- Nâng cao trình độ dân trí và học vấn cho người lao động trong làng
nghề truyền thống. Đây là điều kiện cơ bản để đào tạo đội ngũ lao động có tay
nghề có trình độ ở làng nghề truyền thống. Bởi vì, trong thời gian qua, nhiều
làng nghề truyền thống do tiếp xúc với nghề sớm các em học sinh ngoài giờ
97
học đã tham gia phụ việc và kiếm được tiền, do cái lợi trước mắt mà các bậc
cha mẹ sẵn sàng cho con em mình bỏ học để làm nghề. Mặc dù, số lao động
trẻ có thể rất giỏi về kỹ thuật tay nghề nhưng lại hạn chế về trí thức và đó sẽ
là trở ngại lớn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
- Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề.
Tập trung chủ yếu vào đào tạo những kiến thức thiết thực cho việc phát triển
làng nghề truyền thống. Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề, cần có cơ
sở dành riêng đào tạo cho làng nghề truyền thống. Thông qua các cơ sở này,
Nhà nước có sự tài trợ về đội ngũ cán bộ giảng dạy và nội dung chương trình.
Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa truyền nghề trực tiếp với
đào tạo cơ bản. Đối với những ngành nghề đan lát, mộc dân dụng, dệt, bánh
đa… có thể áp dụng truyền nghề trực tiếp, còn những nghề như thợ thêu, thợ
kim hoàn, trạm khắc… phải có quy trình, giáo trình đào tạo cụ thể. Có kế
hoạch cùng với chính quyền địa phương và ngành giáo dục các cấp đưa
chương trình hướng nghiệp vào các trường phổ thông ở làng nghề truyền
thống. Đối với con em thuộc diện gia đình chính sách, nên có hình thức dạy
nghề miễn phí và trợ cấp một phần kinh phí để các em yên tâm học tập.
- Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng hoá hình thức dạy nghề. Các đơn
vị tổ chức sản xuất kinh doanh cần rà soát lại nguồn nhân lực hiện có, trên cơ
sở đó xây dựng kế hoạch bố trí cho đi đào tạo với nhiều hình thức: dài hạn,
ngắn hạn, bồi dưỡng và đào tạo tại chỗ… đi đôi với vấn đề đào tạo là việc sử
dụng; phải gắn việc đào tạo với giải quyết việc làm. Những mặt hàng mới,
mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước nên hỗ trợ kinh phí để đào tạo nghề. Khẩn
trương xúc tiến thành lập các trường dạy nghề truyền thống để tạo ra những
nhà doanh nghiệp ở nông thôn biết quản lý kinh tế và những chuyên gia kỹ
thuật giỏi. Đồng thời, thành lập các trung tâm nghiên cứu giúp làng nghề
truyền thống về dịch vụ, tư vấn, về quản lý kinh doanh, về xuất nhập khẩu và
pháp luật.
98
- Kết hợp chặt chẽ với các địa phương thường xuyên mở các lớp bồi
dưỡng kiến thức về quản lý, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ
trong làng nghề truyền thống. Nội dung và hình thức đào tạo cần tập trung
vào những vấn đề mới như cung cấp thông tin, những kiến thức cập nhật,
phương thức quản lý tiên tiến và đặc biệt là kiến thức kinh tế thị trường. Việc
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế cho các chủ doanh nghiệp
không thể thực hiện theo kiểu máy móc giản đơn mà xuất phát từ nhu cầu của
thị trường, có nghĩa là thị trường cần gì thì đào tạo nấy. Nội dung đào tạo bồi
dưỡng cần đặc biệt quan tâm đến việc phổ biến hệ thống luật pháp có liên
quan đến tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống. Bởi vì,
nhiều nhà doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất trong làng nghề truyền thống
trình độ hiểu biết luật pháp còn hạn chế, nhất là Luật Kinh tế và Luật Lao
động…
- Hoạt động đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và tay nghề cho người
lao động không phải chỉ do Nhà nước làm mà phải trên cơ sở cơ chế chính
sách nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các thành phần kinh
tế cùng tham gia. Trước mắt, các làng nghề truyền thống cần chủ động đào
tạo tay nghề cho người lao động. Để khuyến khích loại hình đào tạo này phải
có chính sách không thu thuế trực tiếp đối với họ. Động viên các nghệ nhân
dạy nghề và truyền bí quyết nghề nghiệp cho thế hệ sau. Đặc biệt là những
nghề thủ công tinh xảo mà họ tích luỹ được.
* Chính sách đối với cán bộ quản lý
Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước. Để làm được điều đó chúng
ta cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
Một là, cần rà soát, tổng hợp đội ngũ cán bộ không đạt tiêu chuẩn theo
quy định, cán bộ đạt chuẩn về trình độ nhưng có độ tuổi cao, năng lực hạn chế
chưa đủ điều kiện nghỉ hưu tự nguyện nghỉ hưu trước tuổi, nghỉ thôi việc;
99
Hai là, đề nghị cấp có thẩm quyền quy định chế độ tiền lương và định
mức biên chế đối với cán bộ phù hợp với từng chức năng nhiệm vụ và phân
loại đơn vị hành chính các cấp; đề xuất ban hành quy chế, chính sách thu hút
cán bộ, sinh viên giỏi có trình độ Đại học, trên Đại học về công tác tại các
phòng ban chức năng huyện, xã; thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, các
nghệ nhân, thợ giỏi tham gia vào phát triển ngành nghề, làng nghề. Ví dụ như
tham mưu ban hành các chính sách thu hút nhân tài tham gia trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề; hỗ trợ các chế độ đãi ngộ như tiền lương,
tiền thưởng, phụ cấp, bố trí chỗ ở cho cán bộ...
Ba là, phối hợp thực hiện tốt việc giao ban định kỳ (theo tháng hoặc
quý) giữa cơ quan cấp huyện và cán bộ, công chức cấp xã để nhận xét, đánh
giá, hướng dẫn kịp thời công tác chuyên môn; xây dựng quy chế và tăng
cường công tác điều động, luân chuyển cán bộ cấp huyện về làm việc tại xã,
thị trấn và cán bộ cấp xã lên làm việc ở huyện;
Bốn là, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ công chức, đảm bảo công tác đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ quy
hoạch, gắn với sử dụng, đúng với ngạch và chức danh cán bộ, chú trọng bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết những tình
huống theo từng chức danh cụ thể.
Năm là, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về công vụ; mạnh
dạn xử lý cán bộ nhũng nhiễu, hách dịch, gây khó khăn cho công dân.
* Chính sách động viên đối với nghệ nhân
Trong quá khứ cũng như hiện tại, làng nghề truyền thống luôn là bộ
phận cơ bản hình thành lịch sử văn hoá, văn minh Việt Nam. Những di sản
văn hoá của dân tộc đều là sản phẩm của nghề thủ công trong lịch sử. Các
công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ như đình đền, lâu đài, lăng tẩm… cho
đến những công cụ sản xuất đều là sản phẩm thủ công do các thế hệ nghệ
nhân và thợ thủ công làm ra. Ngay cả trong điều kiện phát triển của công nghệ
100
hiện đại, sản phẩm thủ công truyền thống vẫn cần thiết cho con người. Bởi vì,
do tính độc đáo và tinh xảo với “bàn tay vàng” của người thợ thủ công vẫn
được coi trọng, được bảo tồn và phát triển. Thế nhưng trong mấy chục năm
qua, có lúc các nghệ nhân đã bị lãng quên, nhiều người đã phải bỏ nghề đi
làm việc khác. Nhận rõ vai trò của nghệ nhân đối với làng nghề truyền thống,
cần phải tiến hành một số việc cần thiết như sau:
- Tiến hành điều tra nắm lại toàn bộ số nghệ nhân của làng nghề truyền
thống (kể cả số còn sống và đã mất). Từ đó làm rõ những ông tổ nghề của
ngành nghề truyền thống để tìm đến con cháu và dòng họ ông tổ nghề đã
được truyền lại bí quyết nghề mà có chính sách cụ thể nhằm khôi phục, phát
triển những nghề đã thất truyền.
- Để bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống một mặt phải phát
động phong trào khôi phục nghề truyền thống ở các địa phương, mặt khác
phải xem xét, suy tôn những danh hiệu nghề nghiệp cho nghệ nhân và dòng
họ, coi đây là niềm vinh dự, tự hào về nghề nghiệp của gia đình, dòng họ.
- Huyện nên thành lập “câu lạc bộ, hiệp hội nghề truyền thống” để thu
hút các nghệ nhân tham gia. Từ đây, các nghệ nhân có điều kiện tiếp xúc, trao
đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, đồng thời cũng là nơi truyền nghề cho thế
hệ sau.
- Thông qua các hội nghề nghiệp hoặc câu lạc bộ nghề truyền thống mà
có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân. Đối với những nghệ nhân già yếu,
không còn sức lao động, nên có một số tiền nhất định để chu cấp cho các cụ,
động viên họ truyền lại bí quyết nghề cho con cháu. Những nghệ nhân tuy sức
khoẻ còn tốt nhưng việc hành nghề gặp khó khăn; Nhà nước có khoản trợ cấp
hỗ trợ họ từng bước phát triển nghề bằng cách cải tiến mẫu mã phục hồi quy
trình, tìm kiếm bí quyết, tổ chức làm thử sản phẩm… sau đó có điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, giới thiệu sản phẩm qua các phương tiện thông tin đại
chúng, qua triển lãm, qua tổ chức hội chợ triển lãm ở nước ngoài.
101
- Hàng năm hoặc 5 năm một lần tổ chức xét và công nhận danh hiệu
nghệ nhân để trao tặng cho người thợ giỏi, những nghệ nhân tài hoa có nhiều
công sức đóng góp cho làng nghề truyền thống và cả những nhà kinh doanh,
chủ cơ sở xuất sắc. Những người được phong tặng, nên có khoản trợ cấp hàng
tháng để động viên họ. Đối với những nghệ nhân có nhiều phát minh, sáng
kiến và có công trong việc đào tạo nghề, truyền nghề, Nhà nước nên tổ chức
cho họ được đi tham quan học tập kinh nghiệm ở nước ngoài khuyến khích họ
đưa những tri thức mới, nét văn hoá hiện đại kết hợp với nét độc đáo, tinh xảo
cổ truyền của dân tộc, để sản phẩm làm ra vừa mang yếu tố truyền thống, vừa
mang yếu tố hiện đại.
- Thực hiện chủ trương đa dạng hoá, xã hội hoá phát triển nguồn nhân
lực. Xây dựng chương trình khuyến công đào tạo, nhân cấy nghề, truyền nghề
đến năm 2020 đảm bảo theo chỉ tiêu về lao động đề ra (mỗi năm bình quân
300 đến 500 người) và cấp đủ kinh phí tăng dần hàng năm cho chương trình.
Phối hợp với các trường đào tạo dạy nghề của trung ương, các trung tâm
hướng nghiệp dạy nghề trên địa bàn tỉnh tổ chức đào tạo nghề tại chỗ và tổ
chức các lớp đào tạo nghệ nhân cho làng nghề. Huyện chỉ đạo các ngành, các
đoàn thể, các đơn vị tham gia phân công công tác để đào tạo nghề phục vụ
cho làng nghề.
3.2.4. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà
nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động
thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định
kỳ hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển
bền vững. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra làng
nghề truyền thống trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề cần thực
hiện các giải pháp sau:
102
Thứ nhất, thực hiện nghiêm túc việc thanh tra, kiểm tra trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề truyền thống theo đúng quy
định của pháp luật, đẩy mạnh việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân,
khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của
pháp luật về sản xuất, kinh doanh và tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, đối với cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề ở cấp huyện
cần có kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với từng làng
nghề truyền thống, qua đó để nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh của từng
làng nghề truyền thống để có định hướng trong quy hoạch, phát triển các làng
nghề của huyện.
Thứ ba, đối với Phòng, ban chuyên môn của huyện có chức năng quản
lý nhà nước về làng nghề truyền thống cần phối hợp với UBND xã có làng
nghề truyền thống điều tra khảo sát, nắm thông tin về tình hình hình hoạt
động tại làng nghề và báo cáo Ban quản lý làng nghề tổng hợp, báo cáo tham
mưu UBND huyện theo dõi, chỉ đạo, theo định kỳ, hằng quý, 6 tháng, 1 năm
hoặc đột xuất. Thanh tra, kiểm tra thường xuyên hoạt động của các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh của làng nghề trên địa bàn huyện về việc
chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước.
Thứ tư, nâng cao vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý của cấp xã,
thường xuyên kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất nhằm uốn nắn kịp thời những mặt yếu kém,
lệch lạc và có hình thức xử lý thích đáng đối với các cơ sở vi phạm pháp luật.
Thứ năm, trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề
truyền thống cần tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường,
trong đó tập trung vào những loại hình hoạt động của các làng nghề có nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường cao, khu vực môi trường nhạy cảm; xử lý nghiêm
các vi phạm về bảo vệ môi trường.
103
Thứ sáu, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần
có kế hoạch phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
thẩm, về môi trường tại địa phương trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về
việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đảm bảo an toàn về môi trường... để
tránh tình trạng kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà, cản trở sản xuất kinh
doanh, góp phần cho các làng nghề truyền thống được phát triển bền vững.
Thực hiện tốt hoạt động thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời cung cấp các
thông tin về những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, cung cấp kịp thời thông tin
ban đầu về thị trường cho các làng nghề, từ đó sẽ tạo điện kiện cho các làng
nghề nắm bắt các thông tin thị trường để có những định hướng, thay đổi hợp
lý trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
3.2.5. Xã hội hóa trong xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng cho làng
nghề truyền thống
Kết cấu hạ tầng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành, tồn
tại và phát triển làng nghề truyền thống nông thôn. Tình trạng thiếu hụt, lạc
hậu, yếu kém của hệ thống công trình giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp
điện, nước, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường, trường học, trạm y tế… ở khu
vực nông thôn trong huyện nói chung cũng như trong các làng nghề truyền
thống nói riêng đang tạo ra không ít trở ngại, khó khăn cho sự khôi phục và
phát triển các làng nghề truyền thống. Bên cạnh các giải pháp tình huống
đang được nhiều địa phương trong huyện thực hiện một cách năng động, linh
hoạt, cần thiết phải có giải pháp tổng thể, đồng bộ về phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn trong tỉnh nói chung và trong các làng nghề truyền thống nói riêng.
Thứ nhất, phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn
Sự phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn trong vùng có liên
quan đến vấn đề cung cấp dịch vụ “đầu vào, đầu ra” cho các làng nghề truyền
thống cũng như mở rộng thị trường nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Hiện tại, hệ thống đường giao thông nông thôn khá phát triển, hầu hết
104
các xã đã có hệ thống đường giao thông nông thôn cho ôtô đi lại được. Hệ
thống đường giao thông nông thôn của huyện đã vươn tới các thôn, xóm hình
thành mạng lưới khá hoàn chỉnh với chất lượng ngày càng cao. Tuy nhiên,
khó khăn và yếu kém của hệ thống đường giao thông nông thôn tỉnh Thái
Bình nói chung và trong các làng nghề truyền thống nói riêng vẫn còn nhiều.
Trước hết là giao thông liên xã, xuống cấp nghiêm trọng, những con đường
xuống các xã xa đường quốc lộ vừa hẹp lại vừa xấu nhất là vào mùa mưa bão
nên việc đi lại vận chuyển vật liệu, hàng hoá càng khó khăn hơn. Thêm vào
đó, do ngân sách địa phương và nguồn vốn đóng góp của dân trong các làng
nghề truyền thống có hạn nên việc nâng cấp, cải tạo, sửa chữa hệ thống đường
giao thông nông thôn trong các làng, xã còn hạn chế. Để phát triển hệ thống
đường giao thông trong làng nghề truyền thống trong huyện cần phải:
- Đẩy mạnh khảo sát thiết kế và quy hoạch phát triển đồng bộ hệ thống
công trình giao thông, bao gồm cả hệ thống đường nội bộ đi lại trong từng
làng nghề truyền thống và hệ thống cầu cống, bến bãi bên ngoài làng nghề
truyền thống, hệ thống cấp thoát nước để xử lý triệt để chất thải trong làng
nghề truyền thống.
- Nguồn vốn để xây dựng hệ thống đường giao thông bên cạnh việc huy
động đóng góp trực tiếp, tại chỗ của dân cư và các cơ sở sản xuất trong các
làng nghề truyền thống từ nguồn ngân sách của địa phương các cấp, Nhà
nước cần tăng cường đầu tư trực tiếp từ ngân sách trung ương và các khoản
đầu tư tín dụng ưu đãi khác.
Thứ hai, phát triển mạng lưới cung cấp điện
Ở các làng nghề truyền thống của Quỳnh Phụ hiện nay đã được cung
cấp điện phục vụ chiếu sáng cho đời sống sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên,
điện nông thôn vẫn còn một số tồn tại như:
- Lượng điện phục vụ cho sản xuất của làng nghề truyền thống vẫn còn
thiếu, hệ thống điện và công trình phân phối điện trong nông thôn cũng như
105
trong làng nghề truyền thống chưa được quy hoạch, thiếu đồng bộ, giá điện
còn cao. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải có giải pháp giải quyết mạng lưới
điện nông thôn để các làng nghề truyền thống ổn định sản xuất kinh doanh.
- Tiếp tục mở rộng, hoàn thiện các công trình mạng lưới điện và phân
phối điện quốc gia đến tận các làng nghề truyền thống nông thôn, đồng thời
hỗ trợ trực tiếp cho việc quy hoạch, cải tạo đồng bộ và tiêu chuẩn hoá mạng
lưới điện hạ thế đến từng hộ dân và cơ sở sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước cần có chính sách và biện pháp can thiệp đối với giá điện
sản xuất ở nông thôn tạo sự bình đẳng về chi phí năng lượng đầu vào so với
thành thị. Đồng thời, Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích các cơ sở sản xuất
kinh doanh trong các làng nghề truyền thống sử dụng điện thay thế các nguồn
năng lượng khác gây ô nhiễm môi trường như than, củi, trấu…
Thứ ba, phát triển hệ thống thông tin liên lạc
Mạng lưới thông tin liên lạc trong các làng nghề truyền thống nông
thôn trong tỉnh nhìn chung vẫn còn thiếu và lạc hậu. Để phát triển mạng lưới
thông tin liên lạc phục vụ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền
thống cần phải:
- Tăng cường đầu tư cho việc nâng cấp công trình, đổi mới thiết bị kỹ
thuật của các trung tâm bưu điện, liên lạc ở các huyện, xã, thị trấn đồng thời
mở mang mạng lưới thông tin xuống tận các xã, ấp, cụm dân cư làm cho
thông tin về thị trường, giá cả được tiếp cận nhanh nhất đối với các làng nghề
truyền thống trong huyện.
- Tạo điều kiện thuận lợi và ưu tiên lắp đặt, thuê bao điện thoại cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống có thể lắp đặt
nhiều điện thoại phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, cải tạo, nâng cấp cơ sở trường học, trạm y tế, nhà văn hoá
Trong các làng nghề truyền thống ở nông thôn hệ thống trường học,
trạm y tế, nhà văn hoá trong thời gian tới cần phải kết hợp giữa đầu tư của
106
ngân sách Nhà nước với sự đóng góp của nhân dân để cải tạo nâng cấp hệ
thống cơ sở trường học, trạm y tế tốt hơn nữa. Đặc biệt là, các địa phương
tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị cho các cơ sở hướng
nghiệp, dạy nghề, cung cấp kiến thức kinh doanh và chuyển giao công nghệ
phù hợp với tình hình hiện nay cho khu vực nông thôn nói chung và các làng
nghề truyền thống nói riêng.
3.2.6. Hợp tác quốc tế và đẩy mạnh quan hệ kinh tế giữa làng nghề
truyền thống và thị trường tiêu thụ sản phẩm
Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh cần phải:
- Tích cực tạo điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở
ký kết các hợp đồng buôn bán nhằm tạo ra một thị trường nước ngoài có tính
chất lâu dài và ổn định.
- Trên cơ sở Nhà nước định hướng khuyến khích các cơ sở sản xuất,
các hộ gia đình của làng nghề truyền thống và đặc biệt là những làng nghề
mới sản xuất những sản phẩm mà thị trường có nhu cầu. Trước mắt, thành lập
các tổ chức và có đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu, dự báo thị trường
về sản phẩm của làng nghề truyền thống trong và ngoài nước. Cần mở rộng hệ
thống thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin thị trường, giá cả cho các cơ sở
sản xuất nhằm giúp các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống
nghiên cứu xử lý thông tin thị trường có liên quan đến hoạt động sản xuất
kinh doanh như mẫu mã, kiểu dáng, loại sản phẩm có khả năng sẽ được khách
hàng chấp nhận. Trên cơ sở đó, các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền
thống hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, chiến lược mặt hàng, thay
đổi mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên thị trường trong và
ngoài nước. Mặt khác, giúp các làng nghề truyền thống giới thiệu sản phẩm
qua các phương tiện thông tin đại chúng như các ấn phẩm về nghề, làng nghề
truyền thống, phim ảnh truyền hình, quảng cáo, giúp các làng nghề truyền
107
thống ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tiêu thụ sản phẩm như nối mạng
Internet để quảng cáo sản phẩm ra nước ngoài.
- Tạo điều kiện cho người sản xuất trong các làng nghề truyền thống
được xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình không qua khâu trung gian. Đơn
giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, mở rộng phạm vi quỹ hỗ trợ
xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu ở các làng nghề truyền thống trong
vùng để khuyến khích các cơ sở tìm kiếm thị trường nước ngoài, đẩy mạnh
xuất khẩu.
- Tạo điều kiện cho các nghệ nhân, các làng nghề truyền thống tham gia
gia công cho các doanh nghiệp ở đô thị, khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp để tạo điều kiện cho họ quảng cáo tiêu thụ các sản phẩm làng
nghề truyền thống tại các đô thị lớn, trung tâm công nghiệp lớn. Đây là hướng
đi quan trọng giúp cho làng nghề truyền thống mở rộng thị trường tiêu thụ từ
đó có khả năng phát triển làng nghề truyền thống một cách bền vững.
- Hình thành hệ thống chợ làng tại các làng nghề truyền thống kết hợp
với xây dựng các trung tâm thương mại cụm xã để thúc đẩy sự giao lưu hàng
hoá, bởi lẽ qua chợ làng mà người sản xuất trong các làng nghề truyền thống
phát hiện ra nhu cầu của người tiêu dùng trong vùng để đáp ứng một cách tốt
nhất trong điều kiện có thể được.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất kinh doanh trong
các làng nghề truyền thống mở các đại lý, các cửa hàng, quầy hàng giới thiệu
sản phẩm tại các đô thị và các tụ điểm thương mại ở các địa phương khác
nhau. Đồng thời, phải tạo ra được mối liên kết giữa các đơn vị sản xuất kinh
doanh trong các làng nghề truyền thống với các doanh nghiệp lớn của Nhà
nước, trong đó các doanh nghiệp này sẽ đứng ra làm đầu mối thu mua - bao
tiêu sản phẩm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống
trên tinh thần hợp tác, liên kết lâu dài đó chính là biện pháp tạo thị trường ổn
định, lâu dài cho các làng nghề truyền thống.
108
- Cần phải có những biện pháp đồng bộ hiệu quả trong công tác quản lý
thị trường, chống hàng giả, trốn thuế, có chính sách điều tiết nhập khẩu hợp lý
để khuyến khích và bảo vệ sản xuất cho các làng nghề truyền thống.
- Phát triển mạnh du lịch để thu hút du khách nước ngoài đến địa
phương tham quan du lịch, tạo cơ hội cho các làng nghề truyền thống tham
gia xuất khẩu tại chỗ. Bởi vì, khách nước ngoài đến Việt Nam họ thường tìm
tòi để thưởng thức vẻ đẹp của dân tộc, những nét văn hoá đặc sắc, độc đáo
của dân tộc. Những vẻ đẹp độc đáo đó được thể hiện rõ nét trong sản phẩm
thủ công mỹ nghệ của những làng nghề truyền thống như trạm khắc, dệt lụa,
mộc dân dụng, mộc trạm trổ mỹ nghệ…
3.2.7. Giải pháp đảm bảo môi trường
- Hình thành các cụm, điểm công nghiệp để có thể tập trung quy mô
sản xuất, vốn để cải tiến kỹ thuật và xử lý ô nhiễm.
- Một số làng nghề đã bị ô nhiễm nặng cần thiết phải có lộ trình cắt
giảm sản lượng, tiến tới chuyển đổi ngành nghề.
- Các cơ quan hữu quan cùng các bộ như Bộ Công thương, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… phải xây
dựng và hoàn thiện những văn bản hướng dẫn, tổ chức bộ máy và đầu tư tốt
cho việc thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường
- Tách khu sản xuất ra khỏi khu dân cư, quy hoạch xây dựng hợp lý khu
công nghiệp làng nghề mới và có kế hoạch quản lý tốt môi trường như đề ra
những quy định về quản lý bảo vệ môi trường và an toàn lao động trong các
làng nghề; định mức và thu lệ phí môi trường đối với các hộ sản xuất, tổ sản
xuất để triển khai và duy trì các hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường của
xã. Thành lập đội vệ sinh môi trường của làng nghề để kiểm tra thường xuyên
tình trạng môi trường trong khu vực sản xuất, thu gom chất thải, xử lý bụi
giao thông.
109
- Xây dựng chương trình bảo vệ môi trường làng nghề, tiếp tục dành
phần đáng kể trong kinh phí đảm bảo môi trường để hỗ trợ, cùng với huy
động nguồn vốn ODA và các nguồn vốn khác để thực hiện, đến năm 2020
giải quyết cơ bản cho các làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng.
- Về lâu dài cần thiết phải khảo sát, xây dựng được bản đồ làng nghề ô
nhiễm. Phải phân ra mức độ ô nhiễm nặng nhẹ của từng làng nghề và có quy
hoạch cụ thể để có căn cứ xây dựng hệ thống các giải pháp khắc phục trước
mắt cũng như lâu dài tình trạng ô nhiễm làng nghề, có kế hoạch xử lý môi
trường từ khi bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm thiểu ô
nhiễm môi trường.
- Đề xuất với tỉnh có chính sách hỗ trợ tài chính để các làng nghề, các
doanh nghiệp đầu tư xây dựng nâng cấp cải tạo cơ sở hạ tầng góp phần làm
giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đầu tư xây dựng các làng nghề truyền thống
kết hợp với du lịch gắn với bảo vệ môi trường. Đồng thời có chính sách quy
định thu phí bảo vệ môi trường để đầu tư lại cho các làng nghề bảo vệ môi
trường.
- Các địa phương thường xuyên tuyên truyền, vận động xây dựng cơ
chế, chính sách quy định, hướng dẫn cho các cơ sở sản xuất, làng nghề về bảo
vệ môi trường, tổ chức đơn vị thu gom chất thải, kiên quyết xử lý vi phạm của
các đơn vị sản xuất, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm môi trường theo quy
định của pháp luật.
- Cần ưu tiên các đối tượng phải xử lý theo thứ tự về mức độ bức xúc
của các loại chất thải trong mỗi loại làng nghề để giải quyết nhanh những
nguồn thải nguy hại nhất.
- Đưa tiêu chí môi trường vào việc xét duyệt các làng nghề được tỉnh
công nhận.
110
3.3. Kiến nghị với địa phƣơng
- Thực hiện khảo sát, lập quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền
thống trên cả huyện, tránh lập quy hoạch ngắn hạn, tự phát, thiếu đồng bộ.
- Quy hoạch, cải tạo vùng nguyên liệu cho một số làng nghề truyền
thống: Vùng nguyên liệu gạo cho làng nghề bánh đa, bún, vùng nguyên liệu
cói cho các làng nghề dệt chiếu...
- Tăng cường sự chỉ đạo quản lý Nhà nước của UBND huyện đối với
làng nghề truyền thống, đặc biệt bổ sung cán bộ chuyên trách và tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh
tại các làng nghề truyền thống để cung cấp và nắm bắt kịp thời các thông tin
phục vụ, hỗ trợ cho làng nghề phát triển.
- Xây dựng chuyên trang làng nghề tại cổng thông tin điện tử của huyện
để quảng bá, giới thiệu về các làng nghề truyền thống của mình.
- Tăng nguồn kinh phí khuyến nông, khuyến công hằng năm để hỗ trợ
cho các đối tượng tại làng nghề với các nội dung hỗ trợ như: Xây dựng sản
phẩm nông nghiệp an toàn theo chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu, đăng ký
nhãn hiệu, mua sắm trang thiết bị, tham quan học tập…
- Xây dựng các mô hình điểm về xử lý môi trường làng nghề; sửa chữa,
nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm tại cơ sở ngành nghề tại làng nghề; xây dựng
hệ thống xử lý nước thải làng nghề; xây dựng hệ thống thu gom, phân loại
chất thải rắn.
- Ban hành Quyết định thành lập Ban Quản lý làng nghề và quy định
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban đó. Đồng thời, chỉ
đạo việc bàn giao chức năng quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề nông
thôn từ các phòng liên quan như Phòng Nông nghiệp, Kinh tế, Văn hóa, Công
thương... về cho Ban Quản lý làng nghề để đảm bảo thống nhất trong quản lý.
111
Tiểu kết chƣơng 3
Để làng nghề phát triển ngày càng mạnh và bền vững rất cần sự quan
tâm của các cấp chính quyền Nhà nước trong việc định hướng vĩ mô như đưa
ra các chính sách hỗ trợ phát triển cũng như quy hoạch đúng đắn kịp thời giúp
các làng nghề hoạt động thông suốt, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và
bảo vệ môi trường.
Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các làng nghề được công
nhận tiêu chuẩn làng nghề về vốn đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề.
Chính phủ có cơ chế giảm lãi suất cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất trung, dài
hạn cho làng nghề phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với việc quản lý đất đai, cần bổ sung vào pháp luật đất đai những
vấn đề sau:
- Thứ nhất, quy định cụ thể hơn đối với UBND huyện, xã về phạm vi
quyền, trách nhiệm, phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và
theo dõi, điều chỉnh những bất cập trọng quá trình sử dụng đất. Theo đó, cần
xác định rõ những công việc mà UBND mỗi huyện phải làm để lập và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Một số điểm quan trọng, cấp bách
cũng cần được luật hoá như xác định các tiêu chí cơ bản làm cơ sở pháp lý
cho UBND huyện quyết định lựa chọn phương án sử dụng đất lâu dài vào các
mục đích khác nhau tại địa phương (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và
văn hoá xã hội), đáp ứng yêu cầu vừa bảo đảm giữ quỹ đất tốt nhất cho sản
xuất nông nghiệp, chuyển các diện tích đất xấu, không thuận lợi đối với sản
xuất nông nghiệp sang làm công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng đời sống
xã hội ở nông thôn…
- Thứ hai, quy định việc đánh giá và xử lý những UBND xã không thực
hiện được nhiệm vụ xây dựng và triển khai quy hoạch và kế hoạch sử dụng
đất ở địa phương mình.
112
- Thứ ba, tiếp tục thể chế hoá các quyền của người được Nhà nước giao
đất đã được quy định trong luật, làm rõ phạm vi về quyền của hộ nông dân
được giao đất trong việc quyết định lựa chọn hướng sử dụng đất nông nghiệp,
các nguyên tắc bồi thường thoả đáng cho hộ nông dân khi Nhà nước thu hồi
đất để đưa vào mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc mục đích kinh doanh
khác.
- Thứ tư, bổ sung quy định và các chế tài đối với những trường hợp sử
dụng đất sai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
- Thứ năm, sớm có quy định bằng luật pháp về kéo dài thời hạn sử dụng
đất nông nghiệp, bởi những quy định về pháp luật về thời hạn sử dụng đất
hiện nay trên thực tế chưa đáp ứng được những thay đổi của quá trình sử dụng
đất, không phù hợp với quy luật của thị trường đất đai khi luật đã chính thức
thừa nhận nó, nhất là khi các quy hoạch sử dụng đất cho đến nay vẫn chưa
xong, hoặc chưa rõ ràng, mà thời hạn thì sắp hết. Hơn nữa để hình thành vùng
sản xuất chuyên môn hoá lớn thì chính sách về thời hạn sử dụng đất như hiện
nay là không phù hợp. Cùng với việc xác định lại thời hạn sử dụng đất, cần bổ
sung cho UBND cấp huyện quyền chủ động ra quyết định chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp, đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp theo
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được tỉnh phê duyệt. Đồng
thời tạo cơ chế ràng buộc các huyện cùng nằm trên một vùng địa lý, sinh thái
phối hợp với nhau trong xây dựng kế hoạch sử dụng đất theo hướng hình
thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung quy mô lớn liên huyện và liên tỉnh.
- Hỗ trợ vốn đầu tư cho phát triển các làng nghề truyền thống kết hợp
với du lịch đồng thời khắc phục ô nhiễm mỗi trường làng nghề.
- Phòng Công thương, Phòng Văn hoá có chương trình quảng bá sản
phẩm, đồng thời có chính sách hỗ trợ giúp đỡ kinh phí cho làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề, hộ gia đình, nghệ nhân đăng ký tham gia hội chợ triển lãm,
113
hội chợ du lịch làng nghề; Tổ chức các tuyến du lịch làng nghề; Có chương
trình hợp tác quốc tế về nguyên liệu cho làng nghề.
- Phòng Công thương cùng các tổ chức có liên quan nên quan tâm quan
hệ với các tổ chức quốc tế hỗ trợ cung cấp thông tin trên các phương tiện
thông tin để giúp doanh nghiệp, làng nghề tiếp cận thị trường quốc tế để xuất
khẩu các sản phẩm, nhập khẩu nguyên liệu cho các làng nghề.
114
KẾT LUẬN
Huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình hiện nay có 33 làng nghề thu hút trên
23.000 lao động với thu nhập 3,5-5 triệu đồng/người/tháng. Các ngành nghề
chính như: thủ công mỹ nghệ, mây tre đan xuất khẩu, dệt chiếu cói, chế biến
lương thực, sản xuất bánh đa, bún, đồ gỗ mỹ nghệ… Các ngành nghề này có
mức tăng trưởng khá cao, bình quân khoảng 20% năm, giải quyết công ăn
việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần tích cực vào
công cuộc công nghiệp hóa khu vực nông thôn.
Với những kết quả đó cho thấy việc chú trọng phát triển làng nghề,
ngành nghề thủ công mỹ nghệ là chủ trương đúng đắn của Đảng bộ và nhân
dân huyện Quỳnh Phụ, là một bước đi đúng đắn.
Từ những vấn đề đã nêu, luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hóa được tình hình nghiên cứu về làng
nghề, làng nghề truyền thống ở trong và ngoài nước để tìm hiểu và kế thừa
những kết quả nghiên cứu, đồng thời tiếp tục đi sâu nghiên cứu về hoạt động
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ.
Thứ hai, luận văn đã hệ thống hóa một số khái niệm liên quan đến quản
lý nhà nước về làng nghề truyền thống, tìm ra sự cần thiết phải quản lý và các
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống.
Thứ ba, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã được
các nhà khoa học nghiên cứu, các nhà quản lý đưa ra, luận văn đã hệ thống lại
các khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống, các tiêu chí công nhận
làng nghề truyền thống, khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước về làng nghề
truyền thống.
Thứ tư, từ việc nghiên cứu những kinh nghiệm về quản lý và phát triển
làng nghề, làng nghề truyền thống của một số địa phương khác, luận văn đã
rút ra được những bài học kinh nghiệm có giá trị cho hoạt động quản lý và
phát triển làng nghề truyền thống của huyện Quỳnh Phụ.
115
Thứ năm, trên cơ sở thu thập, tổng hợp số liệu, tài liệu và xử lý số liệu,
luận văn đã phân tích được thực trạng của làng nghề truyền thống trên địa bàn
huyện Quỳnh Phụ và hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
của huyện từ năm 2011 đến 2016. Từ đó, luận văn đã chỉ rõ những yếu tố
thuận lợi, những hạn chế và nguyên nhân của những yếu tố thuận lợi, những
hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của
huyện Quỳnh Phụ.
Thứ sáu, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng về hoạt
động quản lý và phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh
Phụ, luận văn đã đưa ra những giải pháp để tiếp tục quản lý làng nghề truyền
thống trong thời gian tới. Cụ thể gồm các giải pháp sau:
- Nâng cao việc hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống;
- Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
huyện Quỳnh Phụ;
- Đưa ra các chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống;
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống
trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề;
- Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng
nghề truyền thống.
Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở địa phương là một đề tài
rộng và phức tạp, do hạn chế về thời gian và khả năng cá nhân, luận văn đã
không thể đưa ra phân tích đầy đủ những vấn đề có liên quan đến đổi mới
quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền thống tại huyện Quỳnh Phụ.
Tác giả luận văn mong muốn nhận được sự góp ý, bổ sung định hướng để tiếp
tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình về sau.
116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2010, 2011, 2012, 2013,2014), Niên giám
thống kê, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
2. Nguyễn Như Chung (2008), Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc đẩy
phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003, Luận
án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Đại - Trần Văn Luận (1998), Tạo việc làm thông qua khôi
phục và phát triển làng nghề truyền thống, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước
Châu Á và Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Mạc Đồng (1995), Làng xã ở Châu Á và ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ
Chí Minh.
9. Đỗ Thái Đồng (2001), Phát triển nông thôn, Nxb. Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.
10. Vũ Thị Hà (2002), Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng
đồng bằng sông Hồng - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh
tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
11. Trần Văn Hiến (2006), Tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam, Luận văn
Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
117
12. Mai Thế Hởn (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Hữu Loan (2007), Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh theo hướng phát triển bền vững, Luận văn Thạc sĩ kinh
tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
14. Nguyễn Tấn Nhan, Phú Văn Hẳn (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
15. Chu Tiến Quang (2007), “Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về Kinh tế
của cấp huyện và xã trong nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản,
Số 782, tháng 12/2007.
16. Ngô Thành Trung (2014), Quản lý nhà nước đối với các làng nghề trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sỹ quản lý Kinh tế, Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Trọng Tuấn (2006), Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
18. Võ Văn Việt (2008), Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển làng
nghề ở tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn
Việt Nam trong quá trình CNH - HĐH, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Tổng hợp thông tin từ các Website:
20. http://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/50/1479/nghe-va-lang-nghe-phat-trien-
ben-vung-1479
21. http://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/69/47506/quynh-phu-khoi-sac-nghe-va-
lang-nghe-47506
118
22. http://cand.com.vn/Ban-doc-cand/Lang-nghe-nung-voi-o-nhiem-tram-
trong-399931/
23. http://dulich.vnexpress.net/tin-tuc/viet-nam/thai-binh/canh-ca-quynh-coi-
mon-dan-da-dam-hon-que-3202495.html
24. http://enternews.vn/o-nhiem-tai-cac-co-so-san-xuat-thai-binh-bao-dong-
do-21955.html
25.
http://quynhphu.thaibinh.gov.vn/News/Lists/DKTuNhien/View_detail.
aspx
26. http://suckhoedoisong.vn/lang-banh-da-chim-trong-o-nhiem-n8974.html
27. http://thaibinh.gov.vn/gioithieu/Pages/dieu-kien-tu-nhien.aspx
28. http://thaibinhtv.vn/tin-tuc/huyen-quynh-phu-co-34-lang-nghe-voi-nhieu-
loai-hinh-san-xuat-26448.html
29. http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/2619/thai-binh--242-lang-nghe-va-8-
xa-nghe-duoc-cap-bang-cong-nhan.aspx
30. http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/item/31762902-cuong-quyet-xoa-
bo-lo-voi-gay-o-nhiem-moi-truong-o-thai-binh.html
31. http://www.nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/26553402-phat-trien-
lang-nghe-truyen-thong-o-thai-binh.html
32. http://www.thaibinh.gov.vn/gioithieu/pages/lang-nghe-truyen-thong.aspx
119
PHỤ LỤC
1. Chính sách đối với phát triển nghề và làng nghề
Cơ quan Tên văn bản ban hành
Quyết định số 132/2000/QĐ/TTg, ngày 24/11/2000 của Thủ Thủ tướng
tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển ngành Chính phủ
nghề nông thôn.
Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg, ngày 07/9/2001 của Thủ Thủ tướng
tướng Chính phủ về Cơ chế tài chính thực hiện các Chương Chính phủ
trình phát triển giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng.
Thông tư số 79/2001/TT-BTC, ngày 28/9/2001 của Bộ Tài Bộ Tài chính
chính hướng dẫn về thực hiện Quyết định số
132/2001/QĐ/TTg.
Thông tư số 84/2002/TT-BTC, ngày 26/9/2002 của Bộ Tài Bộ Tài chính
chính hướng dẫn về các hình thức khuyến khích tài chính
nhằm kích thích sự phát triển của các ngành thủ công.
Công văn số 670/CV- BNN, ngày 26/3/2003 của Bộ Nông Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn về đào tạo và phát nghiệp và
triển các nghề thủ công nông thôn. Phát triển
nông thôn
Quyết định số 124/2003/QĐ-TTg, ngày 17/6/2003 của Thủ Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về bảo tồn văn hoá và phát
triển các dân tộc thiểu số ở Việt Nam để thúc đẩy các nghề
truyền thống.
Nghị định số 134/2004/NĐ-CP, ngày 09/6/2004 của Chính Chính phủ
phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn.
120
Thông tư liên tịch số 65/2004/TTLT/BTC-BLDTBXH, ngày Bộ Tài chính
2/7/2004 của Bộ Tài chính và Bộ Lao động TBXH hướng dẫn và Bộ Lao
về việc hỗ trợ đào tạo nghề thủ công ở vùng nông thôn. động TBXH
Quyết định số184/2004/QĐ-TTg, ngày 22/10/2004 của Thủ Thủ tướng
tướng Chính phủ về việc sử dụng tín dụng dành cho phát triển Chính phủ
của nhà nước để nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các làng nghề cho
giai đoạn 2006-2010.
Thông tư số 03/2005/TT-BCN, ngày 23/6/2005 của Bộ Công Bộ Công
nghiệp hướng dẫn về hoạt động khuyến khích các ngành thủ nghiệp
công nông thôn.
Thông tư số 116 /2006/TT- BNN, ngày 18/12/2006 của Bộ Bộ Nông
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện nghiệp và
một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP. Phát triển
nông thôn
Thông tư số 113/2006/TT-BTC, ngày 28/12/2006 của Bộ Tài Bộ Tài chính
chính hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ
trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số
66/2006/NĐ-CP
Quyết định 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/08/2009 của Thủ Thủ tướng
tướng Chính phủ ban hành quy chế quản lý Cụm Công nghiệp Chính phủ
Nghị định số 45/2012/NĐ-CP ngày 21/05/2012 của Chính phủ Thủ tướng
về khuyến công Chính phủ
Quyết định 999/QĐ-BCT ngày 19/02/2013 của Bộ Công Bộ Công
thương quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu thương
tổ chức của Cục Công nghiệp địa phương.
Quyết định số 577/QĐ-TTg ngày 11/04/2013 về việc phê Thủ tướng
duyệt Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm Chính phủ
2020 và định hướng đến năm 2030.
121
Quyết định số 733/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 về việc phê duyệt Thủ tướng
tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Thái Bình đến năm Chính phủ
2020.
Nghị định số 66/2006/NĐ-TTg ngày 07/7/2006 về việc phát Thủ tướng
triển ngành nghề nông thôn. Chính phủ
2. Một số hình ảnh của làng nghề truyền thống huyện Quỳnh Phụ
122
Sản xuất Bánh đa gạo tại Dụ Đại, Đông Hải
123
Làng nung vôi tại Cầu Nghìn, An Bài
In chiếu cói tại An Tràng, Quỳnh Phụ
124
Dệt chiếu bằng máy tại Vũ Hạ, An Vũ
Sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ tại An Đồng, Quỳnh Phụ
125
Sản xuất vàng mã tại An Vinh, Quỳnh Phụ
Sản xuất mây tre đan xuất khẩu tại An Đồng, Quỳnh Phụ
126
May xuất khẩu tại Quỳnh Châu, Quỳnh Phụ
Ô nhiễm môi trường tại Làng Bánh đa Dụ Đại, Đông Hải
127
Ô nhiễm khói bụi tại Làng nung vôi Cầu nghìn, An Bài
128