BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỒNG ANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
PHÍA NAM VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỒNG ANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC
NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
PHÍA NAM VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9 34 04 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. Vũ Trọng Hách
2. PGS, TS. Phan Quang Thịnh
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sĩ Quản lý công, đề tài: Quản lý nhà nước đối
với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam là
công trình nghiên cứu do chính bản thân tôi thực hiện. Những số liệu, thông tin được
sử dụng trong luận án là hoàn toàn xác thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận án
Nguyễn Hồng Anh
Qua quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án, tác giả đã nhận được nhiều
sự hỗ trợ, giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu. Qua đây, tác giả xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến:
- Quý thầy cô Học viện Hành chính quốc gia đã quan tâm, tạo điều kiện,
giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu, học tập thời gian qua. Ban Giám hiệu
trường Đại học ANND, Bộ môn Quản lý nhà nước về An ninh quốc gia và các
bạn bè, đồng nghiệp luôn hỗ trợ, động viên. Đặc biệt, tác giả xin chân thành tri
ân sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình về mặt khoa học của PGS, TS. Vũ Trọng
LỜI CẢM ƠN
Hách và PGS, TS. Phan Quang Thịnh.
- Khoa sau đại học Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thiện luận án, đặc biệt
là cô giáo chủ nhiệm: TS. Lê Anh Xuân.
- Lãnh đạo và cán bộ, chiến sỹ Cục Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an
(Cụm 3), Phòng Quản lý xuất nhập cảnh – Công an các tỉnh, thành phố: Thành
phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang, Tây Ninh, Bà
Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ
tác giả nghiên cứu, thu thập tài liệu và đóng góp nhiều ý kiến quý báu.
- Trên hết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến bậc sinh thành và gia
đình đã luôn bên cạnh, giúp đỡ, hỗ trợ tác giả.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Hồng Anh
MỤC LỤC
Trang 01 08 08 23
26 28
28
63
67
76 78
78
91
119 126 127
127 134 158 160 MỞ ĐẦU Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án 1.2. Những kết quả tổng quan từ các công trình nghiên cứu liên quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Kết luận chương 1 Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI 2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, tiêu chí đánh giá hiệu quả và một số yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm 2.2. Vai trò của quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm 2.3. Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Kết luận chương 2 Chương 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM 3.1. Đặc điểm kinh tế xã hội và thực trạng người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam 3.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam 3.3. Một số nhận xét, đánh giá Kết luận chương 3 Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM 4.1. Quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài 4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài Kết luận chương 4 KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND : Hội đồng nhân dân
ICRMW : International Convention on the Protection of
the Rights of All Migrant Workers and
Members of Their Famikies (Công ước quốc tế
về bảo vệ quyền của tất cả những người lao
động di trú và các thành viên gia đình họ)
: International Labour Organization (Tổ chức ILO
Lao động quốc tế)
KCN : Khu công nghiệp
UBND : Ủy ban nhân dân
WTO : World Trade Organization (Tổ chức Thương
mại Thế giới)
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Nội dung
Kí hiệu
Trang
Thống kê số lượng người lao động nước ngoài tại vùng
Bảng 3.1
85
kinh tế trọng điểm phía Nam qua các năm (2008 - 2017)
Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
Bảng 3.2
điểm phía Nam Việt Nam phân theo giới tính (số liệu
86
năm 2017)
Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
Bảng 3.3
điểm phía Nam Việt Nam phân theo thành phần quốc
87
tịch năm 2017
Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
Bảng 3.4
điểm phía Nam phân theo vị trí công việc (số liệu năm
88
2017)
Thống kê thực trạng cấp giấy phép lao động cho người
Bảng 3.5
89
nước ngoài tại Việt Nam từ năm 2011 - 2015
Thống kê thực trạng cấp giấy phép lao động cho người
Bảng 3.6
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (số
90
liệu năm 2017)
Thống kê số buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật lao động, luật xuất nhập cảnh cho người lao động
Bảng 3.7
107
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt
Nam năm 2017
Thống kê kết quả kiểm tra về cư trú của người lao
Bảng 3.8
115
động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam Việt Nam năm 2017
DANH MỤC SƠ ĐỒ SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Kí hiệu Nội dung Trang
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động Sơ đồ 3.1 96 nước ngoài
Quy trình tiếp nhận giải quyết cấp thị thực cho người lao Sơ đồ 3.2 103 động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
DANH MỤC PHỤ LỤC
Trang Kí hiệu Nội dung
1 Phụ lục 1 Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
2 - 13 Phụ lục 2 Mẫu phiếu điều tra xã hội học
Phụ lục 3 Tổng hợp kết quả xử lý số liệu điều tra xã hội học dành 14 - 32 cho cán bộ quản lý trong ngành công an
Phụ lục 4 Tổng hợp kết quả xử lý số liệu điều tra xã hội học dành 33 – 52 cho cán bộ quản lý ngoài ngành Công an
Phụ lục 5a Biểu đồ thống kê số lượng người lao động nước ngoài
tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam (2008 - 53
2017)
Phụ lục 5b Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam Việt Nam phân theo giới tính (Số liệu 55
năm 2017)
Phụ lục 5c Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam Việt Nam phân theo thành phần quốc 56
tịch năm 2017
Phụ lục 5d Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam Việt Nam phân theo vị trí công việc 57
năm 2017
Phụ lục 5e Biểu đồ thống kê thực trạng cấp giấy phép lao động cho
người nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 58
Việt Nam năm 2017
Phụ lục 5g Biểu đồ thể hiện tỷ lệ người lao động nước ngoài nhập
cảnh, cư trú tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt 59
Nam năm 2017
Phụ lục 5h Bảng thống kê kết quả khảo sát về cộng đồng người
nước ngoài cư trú tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 60 - 61
Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6a Thống kê văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến 62 - 64 người lao động nước ngoài
Phụ lục 6b Thống kê văn bản pháp luật trong nước liên quan đến 65 - 68 người lao động nước ngoài
Phụ lục 6c Thống kê văn bản quản lý của các tỉnh, thành phố thuộc
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam liên quan 69 - 72
đến quản lý người lao động nước ngoài
Phụ lục 6d Biểu đồ thống kê cách thức người lao động nước ngoài
nhập cảnh vào Việt Nam đến cư trú tại vùng kinh tế 73
trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6e Biểu đồ thống kê mục đích người nước ngoài đến cư trú 74 tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Phụ lục 6g Biểu đồ thống kê các dạng vi phạm pháp luật của người
lao động nước ngoài do Phòng 7 – Cục Quản lý xuất 75
nhập cảnh – Bộ Công an phát hiện, xử lý (2006 - 2017)
Phụ lục 6h Biểu đồ thống kê các hình thức tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về lao động, pháp luật xuất nhập 76 cảnh cho người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6i Bảng thống kê kết quả khảo sát về việc phân công lực
lượng trong ngành Công an tổ chức các hoạt động quản
lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại các 77 - 78
tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam Việt Nam
Phụ lục 6k Biểu đồ thống kê kết quả hoạt động kiểm tra tạm trú
của người lao động nước ngoài tại Thành Phố Hồ Chí 79
Minh từ năm 2008 đến năm 2017
Phụ lục 6l Biểu đồ thống kê kết quả hoạt động phát hiện, xử lý 80 người lao động nước ngoài vi phạm về cư trú tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6m Biểu đồ thống kê kết quả hoạt động phát hiện, xử lý
người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật tại Thành 81
phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến năm 2017
Phụ lục 6n Biểu đồ thống kê hình thức xử lý người lao động nước
ngoài vi phạm pháp luật về cư trú và lao động tại vùng 82
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6o Bảng thống kê kết quả khảo sát tình hình xử lý người
nước ngoài vi phạm pháp luật về cư trú tại các tỉnh, 83 - 84
thành phố phía Nam
Phụ lục 6p Thống kê kết quả hợp tác quốc tế của Cục Quản lý Xuất
nhập cảnh trong lĩnh vực quản lý lao động nước ngoài 85 - 87
tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam năm 2011 - 2016
Phụ lục 6h Biểu đồ thống kê các hình thức tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về lao động, pháp luật xuất nhập 106 cảnh cho người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6i Bảng thống kê kết quả khảo sát về việc phân công lực
lượng trong ngành Công an tổ chức các hoạt động quản
lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại các 107 - 108
tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam Việt Nam
Phụ lục 6k Biểu đồ thống kê kết quả hoạt động kiểm tra tạm trú
của người lao động nước ngoài tại Thành Phố Hồ Chí 109
Minh từ năm 2008 đến năm 2017
Phụ lục 6l Biểu đồ thống kê kết quả hoạt động phát hiện, xử lý
người lao động nước ngoài vi phạm về cư trú tại vùng 110
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6m Biểu đồ thống kê kết quả hoạt động phát hiện, xử lý 111
người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật tại Thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến năm 2017
Phụ lục 6n Biểu đồ thống kê hình thức xử lý người lao động nước
ngoài vi phạm pháp luật về cư trú và lao động tại vùng 112
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Phụ lục 6o Bảng thống kê kết quả khảo sát tình hình xử lý người
nước ngoài vi phạm pháp luật về cư trú tại các tỉnh, 113 - 114
thành phố phía Nam
Phụ lục 6p Thống kê kết quả hợp tác quốc tế của Cục Quản lý Xuất
nhập cảnh trong lĩnh vực quản lý lao động nước ngoài 115 - 117
tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam năm 2011 - 2016
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, việc tăng
cường hợp tác giữa các nước trong khu vực và trên thế giới là một xu thế khách quan. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia vào nền kinh tế thế giới với những nỗ lực trên tất cả các mặt, việc mở cửa các loại thị trường, trong đó
có thị trường dịch vụ, thị trường lao động theo các cam kết gia nhập các tổ chức quốc tế là một yêu cầu tất yếu. Đi cùng với hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ là lực lượng lao động người nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Lực lượng lao động nước ngoài mà đặc biệt là lực lượng lao động nước ngoài chất lượng cao đã có tác động
tích cực đến tăng trưởng của nền kinh tế, ứng dụng các tiến bộ công nghệ, kinh nghiệm quản lý, gia tăng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các nước... đồng thời cũng mang lại những hiệu ứng ngoài mong muốn như: gia tăng áp lực việc làm
trong nước, xung đột giữa lao động Việt Nam với lao động nước ngoài, trật tự xã hội khó quản lý, an ninh, quốc phòng có thể bị xâm phạm… Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách trong việc quản lý người lao động nước ngoài nhằm phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng
cao vào phát triển kinh tế của đất nước nói chung và tại các vùng kinh tế trọng điểm nói riêng, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Xuất phát từ chủ trương phát triển kinh tế vùng của Đảng, ngày 23 tháng 2
năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một không gian kinh tế mở bao gồm các tỉnh, thành: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Long An,
Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Tiền Giang. Đây là những tỉnh, thành lớn của phía Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế. Với chủ trương, đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước, trong
những năm qua, vùng kinh tế trọng điểm này đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, là nơi có nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất so với các địa phương trong cả nước. Theo số liệu thống kê (Niên giám Thống kê 2016, Tổng cục Thống kê), vùng kinh tế trọng điểm này chiếm 63,84% số dự án và 59,08% tổng số vốn đầu tư nước
ngoài của cả nước. Theo đó, lực lượng người lao động nước ngoài tại đây cũng chiếm gần 50% lực lượng lao động nước ngoài trong cả nước với thành phần quốc
1
tịch khá đa dạng, với nhiều ngành nghề khác nhau… Lực lượng này đã góp một phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, thực tế quá trình người lao động nước ngoài đến làm việc tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam và hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực này trong những năm qua bên cạnh những mặt thuận lợi, tích cực cũng xuất hiện, bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, hạn chế như: (1) Thể chế quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài đã được quan tâm, điều chỉnh, bổ sung phù hợp với thực tiễn, song vẫn còn có điểm bất cập, chưa có sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. (2) Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã có sự kiện toàn, thống nhất. Song chưa ổn
định, còn chia cắt với nhiều chủ thể, lực lượng tham gia. (3) Tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý còn bất cập, sai sót như: việc thực hiện cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài vào Việt Nam làm việc tại một số địa phương thực hiện chưa
nghiêm. Một số địa phương xác nhận đối tượng không phải cấp giấy phép lao động sai quy định; hoặc áp dụng “linh hoạt” khi cấp giấy phép lao động, như cho nợ phiếu lý lịch tư pháp hay các giấy tờ trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động; hoặc khi gia hạn giấy phép lao động, không kiểm tra kỹ việc xây dựng và thực hiện kế hoạch
đào tạo người lao động Việt Nam để thay thế. (4) Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quản lý đối với người lao động nước ngoài còn nhiều bất cập, chồng chéo chưa thật sự nhịp nhàng.
Điều này cho thấy, thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế cần nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi để bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài tại vùng này. Với cách tiếp cận trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam” để thực hiện nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài và thực tiễn quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp
2
nhằm góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
- Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. - Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài và phân tích, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thực tiễn quản
lý của một số quốc gia trên thế giới.
- Phân tích thực trạng người lao động nước ngoài và thực trạng quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
- Tổng hợp các quan điểm của Đảng, định hướng của Nhà nước về lao động
nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài.
3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu về nội dung: nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là vấn đề rất rộng với nhiều chủ thể tham gia quản lý
khác nhau. Song, trong phạm vi đề tài luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của Chính phủ, Ủy ban nhân dân 08 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vai trò của cơ quan chuyên môn là: cơ quan Công an các địa phương cùng phối hợp các cơ quan (Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Sở Tư pháp; Ban
Quản lý Khu công nghiệp) trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: đề tài luận án chỉ nghiên cứu ở các tỉnh,
thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: đề tài nghiên cứu từ 2008 (Từ khi Nghị định 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam) đến 2017. Tuy nhiên, trong quá
trình phân tích, đánh giá, luận án cũng có sử dụng các dữ liệu có trước năm 2008.
3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận - Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử,
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Luận án được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp lý luận và thực tiễn của các ngành
khoa học: hành chính học, chính trị học, xã hội học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin, đề tài được tổ chức nghiên cứu bởi các phương pháp:
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu hồi cứu Nghiên cứu sinh đã sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, xử lý thông
tin hồi cứu khi nghiên cứu các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật, tài liệu, giáo trình và các công trình, bài viết có liên quan đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài nhằm khái quát hóa, hệ thống hóa lý luận để xây dựng khung lý
thuyết của luận án. Luận án cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, sử dụng, bổ sung và phát triển các luận cứ khoa học và thực tiễn mới phù hợp với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
4.2.2. Phương pháp xử lý, phân tích thống kê thứ cấp
Trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu hồi cứu tác giả sử dụng phương pháp xử lý, phân tích thống kê thứ cấp các số liệu liên quan tới thực trạng lao động nước ngoài, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài sử dụng trong luận án.
4.2.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn thông qua điều tra xã hội học Theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án, đồng thời để làm rõ hơn các phân tích nghiên cứu dựa trên các tài liệu thứ cấp, tác giả đã thực hiện điều tra xã hội học đối với các nhà quản lý, lãnh đạo, những người trực tiếp làm công tác
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Khảo sát xã hội học cho phép tác giả luận án có thêm bằng chứng minh họa, so
sánh, đánh giá và nhìn nhận một cách khách quan về thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở góc độ những kết quả đạt được cũng như những bất cập, hạn chế.
Cụ thể, nghiên cứu điều tra xã hội học, tác giả tiến hành bao gồm:
Tác giả đã xây dựng 01 mẫu phiếu khảo sát cho đối tượng là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý xuất nhập cảnh trong Công an nhân dân (Cục Quản lý Xuất nhập
4
cảnh (C3), Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Công an tỉnh Đồng Nai, Công an tỉnh Bình Dương); cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, Ban Quản lý các Khu công nghiệp trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam (tập trung ở 3 địa phương có số lượng người lao động nước ngoài nhiều nhất của vùng là Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương).
Với tổng số phiếu phát ra là 520 phiếu (400 phiếu dành cho cán bộ Công an; 120 phiếu dành cho cán bộ ngành Lao động, Thương binh và Xã hội; Ban Quản lý các Khu Công nghiệp), số phiếu thu về là 430 phiếu (380 phiếu dành cho cán bộ Công an; 50 phiếu dành cho cán bộ ngành Lao động, Thương binh và Xã hội; Ban
Quản lý các Khu Công nghiệp).
4.2.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu Lao động nước ngoài là một xu thế toàn cầu và có những đặc thù riêng trong
quản lý đối với loại hình này ở một số quốc gia. Do vậy, tác giả sử dụng phương pháp so sánh khi phân tích trường hợp tương tự xảy ra ở Việt Nam mà cụ thể ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài thời gian tới.
4.2.5. Phương pháp xử lý thông tin, số liệu Để xử lý số liệu thu thập được qua các bảng hỏi điều tra đã tiến hành trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phần mềm Excel, phần mềm SPSS.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
5.1. Câu hỏi nghiên cứu Luận án tập trung vào các câu hỏi nghiên cứu sau đây: - Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cần dựa trên cơ sở lý
luận nào? Những yếu tố nào có tác động, ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam?
- Trong quá trình quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã đạt được những kết quả gì và còn có hạn chế gì? Nguyên nhân?
- Giải pháp nào để hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đáp ứng được yêu cầu thực tế
của quá trình hội nhập?
5
5.2. Giả thuyết khoa học Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan, đảm bảo mục tiêu quản lý, song vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Do vậy, để hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam các cơ quan quản lý tại vùng cần hoàn thiện văn bản quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước; kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý; tổ chức tốt các hoạt động quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và hoạt động của người lao động nước ngoài; nâng cao chất lượng kiểm tra, xử lý vi phạm; tăng cường hợp tác quốc tế; xây dựng hệ thống thông tin hiện đại trong quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận án Luận án là kết quả nghiên cứu khoa học, độc lập của tác giả và có những đóng góp
mới sau:
6.1. Về lý luận Thứ nhất, luận án phân tích, xây dựng, bổ sung hệ thống lý luận quản lý nhà nước
đối với người lao động nước ngoài ở Việt Nam.
Thứ hai, góp phần xây dựng các luận cứ thực tiễn từ các bài học kinh nghiệm của
một số quốc gia trong quản lý đối với người lao động nước ngoài.
Thứ ba, đề xuất một số quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài tại Việt Nam hiện nay và thời gian tiếp theo.
6.2. Về thực tiễn Luận án phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam một cách khách
quan, toàn diện; Trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả đạt được, những yếu kém, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại các địa phương; Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước
ngoài phù hợp với tình hình thực tế tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam hiện nay và thời gian tiếp theo.
7. Ý nghĩa của luận án Thứ nhất, luận án góp phần làm sâu sắc hơn lý luận quản lý nhà nước đối với
người nước ngoài cũng như đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
6
Thứ hai, phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam hiện nay nhằm chỉ ra những thành công, hạn chế và làm rõ nguyên nhân sẽ có ý nghĩa quan trọng trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung
và tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam nói riêng.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý trong quá trình hoạch định, xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài đáp ứng chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020 tầm nhìn 2030 và có thể được sử dụng để nghiên cứu, giảng dạy ở một số trường Đại học, Học viện.
8. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
luận án có cấu trúc gồm 04 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án
Chương 2. Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài
Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Chương 4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài và các yếu tố ảnh hưởng
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động nước ngoài hay quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài. Trong nhiều tài liệu nghiên cứu về người nước ngoài, người lao động nước ngoài hay lao động di trú như: Cư trú, điều kiện cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam – Thực trạng và kiến nghị của Trung tâm Nghiên cứu khoa học – Viện nghiên cứu lập pháp (2013); Giải thích thuật ngữ về di
cư của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) (2011); Những điều cần biết về người lao động di trú của Hội Luật gia Việt Nam (2008) đều đề cập đến những khái niệm như: “người nước ngoài”, “di cư quốc tế”, “di cư lao động”, “người lao động di trú”…
những điều kiện làm việc của người lao động nước ngoài, đặc điểm của người lao động nước ngoài… Đây là những cơ sở lý luận tiền đề, các khái niệm công cụ để nghiên cứu vấn đề người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó các khái niệm được đề cập đến như:
“Di cư quốc tế” (International migration) là sự di chuyển của những
người rời nước gốc hoặc nước cư trú thường xuyên để tạo lập cuộc sống
mới tại nước khác, kể cả tạm thời hoặc lâu dài. Vì thế họ phải vượt qua
một biên giới quốc tế [90, tr.66].
“Di cư lao động” (Labour migration) là sự di chuyển người từ quốc gia
này sang quốc gia khác, hoặc trong phạm vi quốc gia cư trú của họ, với
mục đích làm việc. Phần lớn các quốc gia đều quy định vấn đề di cư lao
động trong Luật di cư. Ngoài ra một số quốc gia còn đóng vai trò tích cực
trong việc điều tiết di cư lao động ra nước ngoài và tìm kiếm cơ hội việc
làm cho công dân của họ ở nước ngoài [90, tr.73].
Lao động di trú là một người đã, đang và sẽ làm một công việc có
hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân, theo
đó lao động di trú này gồm tám dạng người là: nhân công vùng biên,
nhân công theo mùa, nhân công đi biển, nhân công làm việc ở công trình
8
trên biển, nhân công lưu động, nhân công theo dự án, nhân công lao
động chuyên dụng, nhân công tự chủ” [60, tr.9 - 10].
Nghiên cứu về khái niệm “Quản lý nhà nước về lao động chất lượng cao tại
Việt Nam”, trong nghiên cứu “Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài chất lượng cao ở Việt Nam” – PGS. TS Phan Huy Đường (chủ biên), 2012 – Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội” đề cập “Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài chất lượng cao là việc nhà nước xác định mục tiêu và bằng pháp quyền tác
động có tổ chức lên các quan hệ và hoạt động của nguồn lao động nước ngoài nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lao động này, nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước đã đặt ra” [41, tr.40]. Theo đó, tác giả cũng đề cập đến những nội dung quản lý nhà nước đối với lực
lượng này như sau: xây dựng chiến lược mục tiêu quản lý; ban hành hệ thống pháp luật, chính sách quản lý; tổ chức thực hiện chiến lược mục tiêu, pháp luật, chính sách quản lý; kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng
chỉ ra những kinh nghiệm quản lý của một số nước như: Singapore, Hàn Quốc, Malaysia là cơ sở thực tiễn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quản lý đối với người lao động nước ngoài.
Nghiên cứu về cơ sở thực tiễn của các nước trong quản lý đối với lao động
nước ngoài có các công trình như: Sách tham khảo: “Xuất khẩu lao động của một số nước Đông Nam Á kinh nghiệm và bài học”, Nguyễn Thị Hồng Bích, 2007. Tài liệu này trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về xuất khẩu lao động ở Đông Nam
Á. Trong đó có những vấn đề lý luận về sự dịch chuyển lao động quốc tế như đề cập đến khái niệm thị trường lao động quốc tế, tình hình xuất khẩu lao động trên thế giới: nguyên nhân, tính chất, đặc điểm và các xu hướng xuất khẩu lao động hiện nay (thay đổi về sự dịch chuyển lao động di cư, sự bùng phát di cư bất hợp pháp, nữ hóa di
cư…). Tài liệu đã tiến hành khảo sát thực tiễn về tình hình xuất khẩu lao động ở một số nước Đông Nam Á (Malaysia, Philippine, Indonesia, Thái Lan) cụ thể là: chính sách xuất khẩu lao động (cơ sở và quá trình hình thành); công tác tổ chức và xuất
khẩu lao động (hệ thống tuyển mộ, công tác đào tạo, chuẩn bị cho nguồn nhân lực, vai trò quản lý của Nhà nước, số lượng xuất khẩu và những thị trường chính…); những vấn đề phát sinh và cách giải quyết. Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân tích thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam, chủ trương và đề cập đến những giải
pháp hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam.
9
Nghiên cứu về những yếu tố tác động đến lao động nước ngoài hay lao động nhập cư. Một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài như tại Mỹ, Trung Á hay Anh… chỉ ra các tác động tích cực và tiêu cực từ lực lượng lao động nước ngoài đến tình hình kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội tại các quốc gia
tiếp nhận lao động nhập cư như: nghiên cứu “Immigration and education: The crisis and the opportunities – David W. Stewart, New York: Lexington books, 1993” (Nhập cư và giáo dục: Khủng hoảng và cơ hội) công trình này đã cho thấy làn sóng người
nhập cư vào nước Mỹ và những vấn đề xã hội kèm theo như luật pháp, việc làm, đặc biệt là vấn đề giáo dục cho những người nhập cư và cho các tầng lớp thanh thiếu niên từ nhiều quốc gia, nhiều ngôn ngữ và nhiều trình độ khác nhau, những khó khăn trong việc giáo dục cho người nhập cư.
Báo cáo: “Immigration: A commitment to Australia: The report of the committee to advice on Australia’s immigration policies” - Australia government publishing service, Canberra, 1988. (Nhập cư: Cam kết với chính phủ Úc: Báo cáo
của Ủy ban tư vấn về các chính sách nhập cư của Úc). Công trình này nghiên cứu về làn sóng người nhập cư ở Úc, sự tác động của người nhập cư đối với các vấn đề xã hội, kinh tế, dân số ở Úc. Đồng thời, công trình nghiên cứu này cũng đề cập đến chương trình nhập cư và chính sách cũng như luật pháp của Úc đối với vấn đề này.
Bài viết: “Labour Migration into Russia: The Response of State an Soiety” (Lao động di cư vào Nga: Phản hồi của Nhà nước và xã hội) – Tatiana Nikolaevna Yudina. Qua bài viết này, tác giả đã phân tích những vấn đề liên quan đến sự hiện
diện của người di cư quốc tế trong thị trường lao động ở Nga. Bài viết cũng cho thấy vai trò của người nước ngoài trong cơ cấu thị trường lao động ở Nga, ảnh hưởng của người di cư. Bài viết cũng xem xét các biện pháp có thể để điều chỉnh dòng chảy của di cư.
Báo cáo: “Labour Migration & Human Development”, International Organization for Migration, 2012. (Lao động nhập cư và Sự phát triển của loài người). Tài liệu này là báo cáo hằng năm của tổ chức di cư quốc tế, đánh giá về các
vấn đề về di cư lao động, hội nhập, hợp tác với cộng đồng hải ngoại và các liên kết giữa phát triển và di cư. Trong đó đánh giá quá trình quản lý di cư, cung cấp chuyên môn kỹ thuật trong các lĩnh vực bao gồm chính sách di cư, thủ tục hành chính, hoạt động, thủ tục, đào tạo và hỗ trợ trực tiếp cho lao động di cư.
Báo cáo khoa học: “Labor Migration, Skills & Student Mobility in Asia” – Ngân hàng phát triển châu Á, 2014. (Lao động nhập cư, Lao động có tay nghề cao
10
và sự dịch chuyển lao động trong khu vực châu Á). Tài liệu này là báo cáo khoa học của Ngân hàng phát triển châu Á (ADBI) và Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) tọa đàm về di cư lao động ở châu Á kể từ năm 2011. Tài liệu này đề cập đến những vấn đề liên quan đến người nhập cư có tay nghề cao, những thách thức
từ sự dịch chuyển lao động có tay nghề cao, bảo vệ các quyền của người lao động nhập cư có tay nghề thấp và những vấn đề về chính sách của các nước trong khu vực châu Á về thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc gia mình.
Sách tham khảo: “Di chuyển con người để cung cấp dịch vụ” – Hoàng Yến, Công Sơn, Kiều Anh, Thạc Phương (người dịch), 2004. Đây là quyển sách tập hợp nhiều bài viết của các tác giả là chuyên gia kinh tế, pháp lý, quản lý, đàm phán trên thế giới được giới thiệu lần đầu tiên ngày 11/4/2002 do Ngân hàng Thế giới và Tổ
chức Thương mại Thế giới phối hợp tổ chức. Với mục đích là đưa ra sự phân tích toàn diện về kinh tế và pháp lý của các vấn đề then chốt trên thế giới hiện nay. Trong đó đề cập đến sự di chuyển lao động trong các Hiệp định Thương mại khu
vực, nghiên cứu sự di chuyển lao động giữa các quốc gia như: Mỹ, Ôxtrâylia, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines… Từ thực tiễn của các quốc gia trên thế giới trong việc thực hiện các chế độ đối với sự di chuyển lao động quốc tế, đặt ra những bài học cho Việt Nam trong ứng phó với xu thế toàn cầu hóa này trong những năm sắp tới.
Sách tham khảo: “Di chuyển lao động quốc tế”, Nguyễn Bình Giang, 2011. Tài liệu đã trình bày một số vấn đề nổi bật nhất, các xu hướng cơ bản và những tác động chủ yếu của di chuyển lao động quốc tế.
Thứ nhất, đề cập đến những vấn đề nổi bật của di chuyển lao động quốc tế trong thập niên đầu thế kỷ XXI bao gồm: sự thành lập của thị trường lao động toàn cầu, sự thành lập và vai trò cũng như hạn chế của các thể chế liên quan đến di chuyển lao động quốc tế, nạn phân biệt đối xử với lao động nước ngoài, liên quan
đến sự phối hợp của liên chính phủ trong vấn đề di chuyển lao động quốc tế.
Thứ hai, phân tích các xu hướng cơ bản của di chuyển lao động quốc tế thập niên vừa qua. Đối với lao động phổ thông, xu hướng cơ bản là di chuyển từ các
nước đang phát triển sang các nước thuộc tổ chức OECD (Organization for Economic Cooperation and Development - Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế); bên cạnh đó là di chuyển giữa các nền kinh tế đang phát triển, nhất là di chuyển tới Nga với các nước vùng Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên, dòng di chuyển của loại lao động
này bị thắt chặt ở hầu hết các nước, mặc dù nhu cầu nhập khẩu lao động phổ thông
11
có ở hầu hết các nền kinh tế quốc gia. Xu hướng này dẫn tới sự gia tăng di chuyển lao động quốc tế bất hợp pháp.
Đối với lao động chuyên môn cao, xu hướng cơ bản là di chuyển từ các OECD này sang nước OECD khác; bên cạnh đó, là xu hướng di chuyển từ các nước
đang phát triển sang các nước phát triển. Ngược với lao động phổ thông, lao động chuyên môn cao được các chính phủ tạo thuận lợi. Già hóa dân số ở các nước OECD và ở cả một số nước đang phát triển thu thập trung bình cao dẫn tới xu
hướng nhập khẩu nhân viên y tế nước ngoài vào các nước này. Các nước này còn có xu hướng nhập khẩu các chuyên gia công nghệ thông tin. Nhưng trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, người ta thấy rõ xu hướng thay đổi từ “chảy máu chất xám” sang “tuần hoàn chất xám”. Xu hướng nữ hóa trong di chuyển lao động quốc tế đã
có từ lâu và vẫn còn tiếp tục trong thập niên vừa qua. Đặc biệt là di chuyển lao động từ Trung Quốc ra toàn cầu được thúc đẩy rất mạnh trong thập niên vừa qua bởi các chính sách/chiến lược ở cả ba cấp của nước này.
Thứ ba, khái quát các xu hướng trong chính sách xuất khẩu lao động của nước đang phát triển, nhập khẩu lao động của các nước đang phát triển và chính sách của các nước phát triển. Thứ tư, nghiên cứu cũng chỉ ra các tác động, hệ quả kinh tế - xã hội của di
chuyển lao động quốc tế. Qua đó đưa ra các giải pháp: (1) Xuất khẩu lao động làm giảm áp lực dân số và thất nghiệp, tăng thu nhập ở các nước đang dư thừa lao động. (2) Xuất khẩu lao động góp phần xóa đói giảm nghèo trong nước và thu ngoại tệ,
làm tăng đầu tư tư nhân trong dài hạn. (3) Xuất khẩu lao động thúc đẩy chi tiêu của Chính phủ cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. (4) Xuất khẩu lao động góp phần thúc đẩy tiếp thu công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và như vậy đóng góp vào tiềm năng tăng trưởng dài hạn của nước xuất khẩu lao động.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng quản lý nhà nước đối
với người lao động nước ngoài, kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân Lao động nước ngoài là một xu thế của thời đại, nghiên cứu về vấn đề này
được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Các nhà khoa học tiếp cận nghiên cứu về thực trạng quản lý đối với hiện tượng này trên nhiều khía cạnh khác nhau như: hoạch định chính sách quản lý lao động nhập cư của các nước; xây dựng khuôn khổ pháp lý quốc tế và quốc gia trong quản lý lao động nước ngoài; xử lý
lao động nước ngoài vi phạm pháp luật và hoạt động tội phạm có yếu tố nước ngoài;
12
- Nghiên cứu về chính sách đối với người lao động nước ngoài hay người
quản lý nhà nước đối với người nước ngoài hoạt động trên từng lĩnh vực; quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài… nhập cư:
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu như sách: “Government of trasnationalisation of migrants right – An organizational migration and prespective” (Quản lý nhà nước về di cư và quyền của người di cư xuyên quốc gia –
Một quan điểm tổ chức) – Nicola Piper, 2007. Tài liệu này đề cập đến những thách thức từ di cư lao động quốc tế đến quản lý nhà nước của mỗi quốc gia và đối với hoạt động chính trị. Tài liệu này đã phân tích những vấn đề như: chính sách di cư, quản trị nhà nước và kiểm soát người lao động di cư (quản trị toàn cầu, hệ thống
liên hợp quốc, hệ thống liên chính phủ, cơ chế khu vực); quan điểm lao động di cư (quan điểm xuyên quốc gia, đại diện tổ chức người di cư châu Á)
Nghiên cứu “Immigration and Nationality Act: (As amended through April 1,
1992) with notes and related laws - Prepared for the use of the Committee on the Judiciary of the House of representatives, New York, William S. Hein & Co., 1992” và “U.S. Immigration policy in an age of right – Debra L. Delaet, Praeger, 2000”, (Nhập cư và Quốc tịch: Một số vấn đề lưu ý và các luật có liên quan) đều đề cập đến
chính sách nhập cư của Mỹ trong đó chỉ ra các quy định của pháp luật Hoa Kỳ điều chỉnh vấn đề nhập cư (điều khoản chung, nhập cư, quốc tịch và nhập quốc tịch; giúp đỡ thuyền nhân) quy định rõ hình thức nhập cư, kiểm soát nhập cư và vai trò của các
cơ quan trong quản lý người nước ngoài nhập cư vào Mỹ với nhiều hình thức như lao động, du lịch…; hay phân tích về chính sách chính trị đối nội, những ý tưởng tự do và chính sách nhập cư của Hoa Kỳ trong những năm 1986, 1990.
Hay Luận án Tiến sĩ: “Labor Migration from Central Asia to Russia: State
Mangagent of Migration” (Lao động di cư từ Trung Á sang Nga: Quản lý nhà nước về di cư) – Marthe Handa Myhre, University of Oslo, 2012. Đây là luận án nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước Nga đối với lao động di cư từ các nước thuộc khu
vực Trung Á, luận án đã phân tích thực trạng tình trạng di cư lao động, những quy định của luật pháp nước Nga đối với vấn đề này và những sửa đổi trong pháp luật Nga điều chỉnh lĩnh vực di cư lao động ở Nga.
- Nghiên cứu về hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, tạo tiền đề
pháp lý tổ chức các hoạt động quản lý đối với lao động nước ngoài:
13
Đây là một chủ đề nghiên cứu được nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu như: Sách chuyên khảo: “Lao động di trú trong pháp luật Quốc tế và Việt Nam” – Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền công dân – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2011. Tài liệu này có những bài viết như: “Lao động di trú: Một
xu hướng toàn cầu, một nỗ lực toàn cầu của tác giả Phạm Hồng Thái – Vũ Công Giao” đề cập đến lao động di trú là một hiện tượng tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu hiện nay với sự tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là: (1)
Sự gia tăng không đồng đều về dân số giữa các quốc gia và khu vực; (2) Khoảng cách giàu, nghèo giữa các quốc gia và khu vực, đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển; (3) Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại; (4) Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin; (5) Sự phát triển của các phương tiện giao thông;(6)
Sự phát triển của các “mạng lưới người lao động di trú” (migrant networks). Trên cơ sở đó, chỉ ra những giải pháp để quản lý lực lượng này như: (1) Hợp tác lao động quốc tế và quản lý di trú lao động một cách hiệu quả; (2) Bảo vệ và hỗ trợ người lao
động di trú.
Sách: “Bảo vệ người lao động di trú: Tập hợp các văn kiện quan trọng của quốc tế, khu vực ASEAN và của Việt Nam liên quan đến vị thế và việc bảo vệ người lao động di trú” – Nguyễn Đăng Dung, Hà Nội, 2009. Tài liệu này thống kê các văn
kiện quan trọng của quốc tế, khu vực ASEAN và của Việt Nam liên quan đến vị thế và việc bảo vệ người lao động di trú, trong đó chủ yếu trình bày toàn văn những văn bản pháp luật quốc tế và quốc gia. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức nghiên
cứu quản lý nhà nước đối với lực lượng này tại Việt Nam.
Hay bài viết “Khuôn khổ pháp lý quốc tế về bảo vệ người lao động di trú” của tác giả Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao, tóm tắt những văn kiện của Liên Hợp Quốc, các văn kiện của ILO điều chỉnh về lao động di trú từ đó đưa ra đánh giá,
nhận xét về khuôn khổ pháp lý quốc tế về vấn đề này như:
Đáng tiếc là mặc dù hệ thống các văn kiện quốc tế về người lao động di trú đã được xây dựng từ hơn nửa thế kỷ qua, có ý nghĩa quan trọng về mọi mặt như
đã nêu trên và liên tục được Liên Hợp Quốc, ILO và nhiều tổ chức quốc tế khác vận động, song rất nhiều quốc gia hiện vẫn có thái độ do dự trong việc tham gia các công ước quốc tế về vấn đề này. Cụ thể, tính đến nay, sau hơn 20 năm kể từ khi được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua, song mới có 47 quốc gia là
thành viên của Công ước quốc tế về quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ. Tình trạng tương tự cũng xảy ra với các Công ước
14
cơ bản nhất của ILO trên lĩnh vực này là Công ước số 143 (được thông qua từ năm 1975, hiện mới có 23 quốc gia thành viên), và Công ước số 97 (được thông qua từ năm 1949, hiện mới có 47 thành viên) [108, tr.54]. Trên cơ sở đó, tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân:
Một trong những lý do của tình trạng trên là nội dung các công ước này, mặc dù có tính nhân văn cao cả, nhưng đặt ra nhiều trách nhiệm, đặc biệt là về kinh tế và xã hội, cho những nước tiếp nhận lao động, từ đó khiến cho họ ngần
ngại. Điều này có thể thấy thông qua việc xem xét thành phần các quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người lao động di trú, mà trong đó, chưa có quốc gia nào ở khu vực Bắc Mỹ và châu Âu (những nước phát triển và là nước tiếp nhận lao động di trú) ký và tham gia Công ước này.
Cũng từ việc phân tích thành phần các quốc gia thành viên, có thể thấy trong số các quốc gia châu Á đã ký và tham gia Công ước này không có quốc gia và vùng lãnh thổ nào thuộc về nhóm các nước tiếp nhận lao động di trú (Hàn
Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia…), đồng thời dễ dàng nhận thấy là hầu hết các quốc gia đã ký và tham gia công ước là những nước gửi lao động đi làm việc ở nước ngoài. Việc các nước tiếp nhận lao động không chịu tham gia khiến hiệu lực của các công ước về người lao động di trú trên thực tế ở mức rất
hạn chế [108, tr.54-55]. Từ đó đưa ra giải pháp:
Để thúc đẩy việc tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền
của người lao động di trú thì không thể phó mặc cho Liên Hợp Quốc, ILO và các tổ chức quốc tế mà các nước gửi lao động đi làm việc ở nước ngoài cần đóng vai trò tiền phong gương mẫu trong việc này. Cụ thể, các quốc gia nhóm này cần gương mẫu phê chuẩn hoặc gia nhập, cũng như tích cực vận động, gây
sức ép với các nước tiếp nhận lao động trong việc tham gia và thực hiện các công ước đó [108, tr.55]. Nghiên cứu về những nguyên tắc trong hoạt động quản lý lao động nhập cư,
đặc biệt nhất là việc đảm bảo quyền lợi cho họ tại quốc gia sở tại được đề cập trong sách: “Protecting the least protected: Rights of migrant workers and the role of trade unions: Guidelines for trade unions. Labour education 1996/2” - Geneva: ILO, 1996. (Quyền của người lao động nhập cư và vai trò của tổ chức công đoàn).
Công trình này nghiên cứu các nguyên tắc chỉ đạo cho các tổ chức công đoàn về việc bảo vệ quyền lợi của những người lao động di trú và hoạt động của Tổ chức
15
Lao động quốc tế (ILO) trong lĩnh vực bảo vệ người lao động di trú khỏi chủ nghĩa bài ngoại, chủ nghĩa chủng tộc và các bất công khác.
- Nghiên cứu về hoạt động của nhà nước (hoạt động điều tra, hoạt động xử lý
hành chính) đối với người lao động nước ngoài:
Nghiên cứu về thực trạng vi phạm pháp luật của lao động nước ngoài, hoạt động xử lý vi phạm của cơ quan chức năng đối với lao động nước ngoài như: Đề tài khoa học cấp Bộ: “Người nước ngoài vi phạm pháp luật về cư trú tại các tỉnh,
thành phố phía Nam và một số vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự”, PGS.TS Phan Quang Thịnh, 6/2015. Công trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến người nước ngoài vi phạm pháp luật về cư trú tại các tỉnh, thành phố phía Nam, đây là cơ sở để tác giả đánh giá thực trạng người nước ngoài
vi phạm pháp luật về cư trú tại các tỉnh, thành phố phía Nam như các dạng vi phạm: quá hạn tạm trú, không khai báo tạm trú; hoạt động trái mục đích nhập cảnh trong quá trình cư trú; nhập xuất cảnh trái phép… trong đó về thành phần quốc tịch người
nước ngoài vi phạm pháp luật chủ yếu là người Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, người nước ngoài gốc châu Phi (Nigeria, Cameroon, Ghana…) và Mỹ. Trên cơ sở thực trạng vi phạm của người nước ngoài, cơ quan Công an đã tiến hành các mặt hoạt động quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với cư trú của người nước ngoài
tại các tỉnh thành, phố phía Nam.
Qua đó, đề tài đưa ra những dự báo như: (1) số lượng người nước ngoài đến các tỉnh, thành phố phía Nam ngày càng gia tăng với nhiều thành phần phức tạp
khác nhau tác động ảnh hưởng lớn đến vi phạm pháp luật về cư trú của người nước ngoài tại các tỉnh thành phố phía Nam; (2) vi phạm pháp luật về cư trú của người nước ngoài tại các tỉnh, thành phố phía Nam sẽ diễn biến theo chiều hướng phức tạp, tinh vi hơn, có tính chất đối phó, khai thác triệt để sơ hở, thiếu sót của cơ quan
chức năng; (3) âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài cũng như hoạt động của các loại tội phạm quốc tế vẫn diễn biến phức tạp tác động lớn đến vi phạm pháp luật về cư trú của người nước ngoài tại các tỉnh, thành phố phía Nam. Bên
cạnh ba dự báo, các tác giả cũng đưa ra một số vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự của lực lượng công an trong quá trình quản lý đối với cư trú của người nước ngoài tại các tỉnh, thành phố phía Nam, trong đó tập trung vào những nội dung như: hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức, xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý, tăng cường hoạt động phối hợp, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến
16
giáo dục pháp luật… nhằm hướng đến hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với cư trú của người nước ngoài [99, tr.111-115].
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản do người nước ngoài gây ra tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hữu Hoan, Hà Nội,
2013. Luận án đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản do người nước ngoài gây ra tại Việt Nam của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm; Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
điều tra tội phạm ở Việt Nam.
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Dương, Hà Nội, 2013. Công trình này nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về hoạt động điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam. Qua đó, bổ sung, góp phần hoàn thiện lý luận về khoa học điều tra hình sự và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra tội phạm này của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý.
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng, chống tội phạm do người nước ngoài gây ra trên địa bàn thành phố Hà Nội”
của tác giả Nguyễn Đức Chung, Hà Nội, 2013. Luận án đã nghiên cứu, làm rõ lý luận về người nước ngoài, tội phạm do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam, đặc điểm của tội phạm do người nước ngoài gây ra. Dự báo tình hình, những yếu tố tác động đến
hoạt động nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát nhân dân trong phòng chống tội phạm do người nước ngoài gây ra trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân.
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tội phạm về trật tự xã hội do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam”, của tác giả Trần Thị Hoa, 2015. Luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và lý luận về hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tội
phạm về trật tự xã hội do người nước ngoài gây ra.
Đề tài khoa học: “Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của người nước ngoài đầu tư tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp” của tác giả Phạm Hồng Cử, 1997. Công trình này tập trung làm rõ thực trạng hoạt động xâm phạm an ninh
quốc gia của người nước ngoài đầu tư tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh của cơ quan Công an. Công trình tập trung vào các mặt hoạt
17
động nghiệp vụ công an và đối tượng người nước ngoài được đề cập cũng chỉ tập trung vào những trường hợp đầu tư tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu về hoạt động đầu tư, giáo dục có yếu tố nước ngoài, quản lý người nước ngoài, người lao động nước ngoài: Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lý luận và
Lịch sử Nhà nước và Pháp luật: “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam” của tác giả Phan Quang Thịnh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2009.
Luận án này tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam hiện nay.
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: “Quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với các cơ
sở giáo dục có yếu tố nước ngoài”, của tác giả Phạm Văn Đại, năm 2013. Luận án trình bày về cơ sở lý luận quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với cá cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài, nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý, trên cơ sở đó đưa ra
biện pháp tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục đối với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài theo phân cấp quản lý cho cấp tỉnh.
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Quản lý nhà nước về an ninh đối với người nước ngoài tại Việt Nam” của tác giả Ngô Phúc Thịnh, Học viện An ninh nhân dân, Hà
Nội, 2002. Luận án này đã đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về an ninh đối với người nước ngoài tại Việt Nam, những hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của người nước ngoài. Trên cơ sở đó, luận án đã dự báo và đề xuất những
giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, đấu tranh với hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của người nước ngoài. Về mặt lý luận, luận án đã làm rõ thêm khái niệm về người nước ngoài và địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam, đưa ra những nhận thức quản lý nhà nước về an ninh đối với người nước
ngoài, làm rõ những đặc trưng, nội dung cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước về an ninh đối với người nước ngoài cũng như yếu tố tác động đến hoạt động quản lý. Về thực tiễn, luận án đã chỉ rõ thực trạng quản lý nhà nước về an ninh đối với người
nước ngoài, khái quát về hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của người nước ngoài tại Việt Nam và công tác đấu tranh của cơ quan Công an. Luận án cũng đưa ra những dự báo tình hình âm mưu, hoạt động của thế lực thù địch lợi dụng người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam nhằm xâm phạm an ninh quốc
gia. Trên các cơ sở đó, luận án đã đưa ra được những giải pháp có tính khả thi góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh.
18
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia đối với người nước ngoài hoạt động trên lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam” của tác giả Ngô Nhất Phong, Hà Nội, 2015. Luận án đã làm rõ lý luận về người nước ngoài, quản lý nhà nước về an ninh quốc gia đối với người nước ngoài hoạt động trên lĩnh vực dầu
khí; đối tượng, yêu cầu, đặc điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, chủ thể, nội dung, cơ sở chính trị, pháp lý, biện pháp quản lý nhà nước về an ninh quốc gia đối với đối tượng này. Bằng các phương pháp tổng kết thực tiễn và khảo sát thực tế, với các tài liệu, số liệu
phong phú, đề tài đã hệ thống, phân tích tình hình, hoạt động liên quan đến an ninh quốc gia của người nước ngoài trên lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam. Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, lực lượng Công an đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp để quản lý nhà nước về an ninh quốc gia đối với
người nước ngoài hoạt động trên lĩnh vực dầu khí. Đề tài luận án cũng đã tập trung đưa ra các giải pháp, bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật; tăng cường phối hợp lực lượng quản lý và sử dụng hiệu quả các biện pháp; đẩy mạnh
công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài; tập trung công tác phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động tác động chuyển hoá nội bộ; tổ chức tốt công tác nghiệp vụ cơ bản; chủ động xây dựng phương án xử lý các tình huống vi phạm pháp luật; kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng lực lượng an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ. Mục tiêu chung của các giải pháp là làm chuyển biến một cách cơ bản cả về hành động và tổ chức thực hiện trên thực tế, khẳng định vai trò của lực lượng An ninh trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia hiện nay [72, tr.117 - 146].
Đề tài khoa học: “Vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong quản lý người nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Hiến, Đại học An ninh nhân dân, 1999. Công trình này nghiên cứu, làm rõ vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong quản lý người nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra những giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền cấp cơ sở. Trong đó, hoạt động quản lý người nước ngoài của chính quyền cấp cơ sở được thể hiện chi tiết, nhiều giải pháp có giá trị thực tế. Tuy nhiên, công trình chỉ tập trung nghiên cứu tại địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh và tập trung ở chính quyền cấp cơ sở.
Luận án tiến sĩ Quản lý công: “Quản lý nhà nước về cư trú của người nước ngoài ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phía Nam, Việt Nam”, Vũ Thành Luân, 2016. Luận án tiến sĩ nghiên cứu về cư trú của người nước ngoài tại khu vực
phía Nam, trong đó đề tài luận án đã đạt được những kết quả nghiên cứu như: (1) Xây dựng hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về quản lý nhà nước về cư trú của
19
người nước ngoài; (2) Chỉ ra kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong quản lý nhà nước về cư trú của người nước ngoài; (3) Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về cư trú của người nước ngoài tại các các tỉnh thành phố phía Nam; (4) Đưa ra sáu giải pháp để hoàn thiện quản lý nhà nước về cư trú của người nước ngoài.
Đề tài khoa học “Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài ở Việt Nam” của PGS. TS. Phan Huy Đường được tổ chức nghiên cứu từ 6/2010 – 8/2011. Tác giả đã khái quát hóa những vấn đề lý luận về thị trường lao động, dòng di chuyển
lao động, vai trò và nội dung quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài nói chung và lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Phân tích tình hình lao động nước ngoài và kinh nghiệm quản lý ở một số nước, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm đối với
nước ta hiện nay; Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng tình hình lao động nước ngoài ở nước ta, đề tài đề xuất 3 nhóm giải pháp chủ yếu: (1) Nhóm giải pháp quản lý nhà nước tầm vĩ mô đối với lao động nói chung và lao động nước ngoài ở Việt
Nam nói riêng. (2) Nhóm giải pháp quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có sử dụng lao động nước ngoài làm việc (người sử dụng lao động). (3) Nhóm giải pháp quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài.
Sách chuyên khảo: “Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài chất lượng cao
ở Việt Nam” – PGS. TS Phan Huy Đường (chủ biên), 2012 – Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của tài liệu này được đề cập ở những nội dung lớn như: (1) Lý luận quản lý nhà nước về lao động nước ngoài chất lượng cao
như khái niệm, đối tượng, nội dung quản lý; (2) Chỉ ra kinh nghiệm quản lý của một số nước như Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; (3) Thực trạng quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài chất lượng cao ở Việt Nam. Trong đó phân tích về thị trường lao động ở Việt Nam, đặc điểm của
lao động nước ngoài chất lượng cao và chỉ ra thực tiễn quản lý. Trong phần khảo sát thực tiễn quản lý, tài liệu tập trung phân tích hệ thống pháp luật và chính sách đối với lao động nước ngoài chất lượng cao từ năm 1994 đến 2008 từ đó đánh giá thực trạng
quản lý đối với lực lượng này với những mặt thành công, hạn chế và những nguyên nhân. (4) Định hướng và giải pháp hoàn thiện. Tài liệu đã đưa ra những định hướng, dự báo trong tương lai về lực lượng này, trên cơ sở đó đưa ra (i) Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về lao động nước ngoài chất lượng cao ở tầm vĩ mô như: Nhà
nước cần có một chiến lược khoa học trong việc quản lý lao động nước ngoài chất lượng cao; Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý nhà nước về lao động
20
nước ngoài chất lượng cao ở Việt Nam; Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lao động nhập cư chất lượng cao. (ii) Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và tổ chức sử dụng lao động nước ngoài chất lượng cao tại Việt Nam; (iii) Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với lao
động nước ngoài chất lượng cao làm việc tại Việt Nam hiện nay.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản
lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
Luận án Phó Tiến sĩ Luật học: “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước đối với người nước ngoài tại Việt Nam” của tác giả Bùi Quảng Bạ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. Luận án này đã làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm xác định những đặc trưng, vai trò của quản lý
nhà nước đối với người nước ngoài. Về lý luận, luận án đã đưa ra và làm rõ thêm một số khái niệm: người nước ngoài, phân loại người nước ngoài, địa vị pháp lý của người nước ngoài; quản lý nhà nước bằng pháp luật về an ninh quốc gia; làm rõ cơ
chế điều chỉnh pháp luật trong quản lý nhà nước đối với người nước ngoài ở Việt Nam. Làm rõ vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với người nước ngoài. Về thực tiễn, luận án đã khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với người nước ngoài từ 1945 đến 1996. Luận án cũng phân
tích tình hình thực tiễn quản lý nhà nước đối với người nước ngoài, tình hình người nước ngoài vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan chức năng. Từ đó, luận án cũng đưa ra phương hướng đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực quản lý người nước ngoài ở những nội dung sau: (1) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Theo bốn hướng, thứ nhất là bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật đã ban hành, thứ hai là xây dựng các văn bản pháp luật mới, thứ ba chuyển hóa các quy phạm của Điều ước quốc tế thành các quy phạm quốc tế trong nước, thứ tư tổ
chức tốt thông tin pháp luật cả ở trong nước và ở nước ngoài. (2) Đổi mới và hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước đối với người nước ngoài ở nước ta; cải cách thủ tục hành chính và quy trình quản lý, xử lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt
Nam. (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý người nước ngoài có phẩm chất, năng lực, trình độ về mọi mặt. Đầu tư nâng cấp trang thiết bị phương tiện kỹ thuật, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ phục vụ có hiệu quả quản lý người nước ngoài. (4) Đổi mới và hoàn thiện thủ tục xử lý và cơ quan tài phán.
Đề tài khoa học mã số KHXH 07-08B: “Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý người nước ngoài nhằm đảm bảo an ninh, trật tự của lực lượng công an
21
nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Nguyễn Phùng Hồng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002. Đề tài này đã làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với người nước ngoài và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là người nước ngoài ở Việt Nam. Đề tài cũng
kiến nghị những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với người nước ngoài và công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm là người nước ngoài đến Việt Nam, góp phần bảo vệ an ninh, trật tự trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về mặt lý luận, đề tài đã làm rõ những vấn đề chung về quản lý người nước ngoài nhằm đảm bảo an ninh, trật tự ở Việt Nam. Đề tài cũng nêu bật được địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam, những nguyên tắc cơ bản trong quản lý người nước ngoài nhằm đảm bảo an
ninh, trật tự. Về mặt thực tiễn, đề tài đã chỉ rõ thực trạng công tác quản lý người nước ngoài nhằm đảm bảo an ninh, trật tự ở Việt Nam của lực lượng Công an nhân dân, làm rõ thực trạng công tác đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật của người nước
ngoài ở Việt Nam có liên quan đến an ninh, trật tự. Trong đó, đề tài cũng đã nêu bật lên được thực trạng pháp luật Việt Nam – cơ sở pháp lý để đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật của người nước ngoài tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra được những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý người nước ngoài, đảm
bảo an ninh, trật tự trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những giải pháp quan trọng đó là: xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với người nước ngoài; tăng cường ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp
quốc tế; đổi mới công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam.
Sách tham khảo: “Hoàn thiện pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú ở Việt Nam”, Nguyễn Văn Cường, 2008. Tài liệu này tập trung phân tích một số vấn đề lý
luận về xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú như đề cập đến khái niệm “pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh cư trú”: “pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú là một bộ phận của pháp luật hành chính – hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức, công dân và người nước ngoài trong lĩnh vực xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú”… phân tích vai trò của pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và mối quan hệ của nó với các quy định pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tài liệu cũng giới thiệu pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú ở một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Anh, Đức, Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc… từ
22
đó rút ra những kinh nghiệm hay cho việc xây dựng pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú tại Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng, tác giả đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú ở Việt Nam theo đó (1)
Về phương hướng: một là, xây dựng chương trình, kế hoạch, trong đó chỉ rõ lộ trình hoàn thiện pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú; hai là, thực hiện việc triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học để tổng kết lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà
nước về xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú, đưa ra những dự báo khoa học về sự phát triển của pháp luật trong lĩnh vực này; ba là, tiếp tục rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, chú trọng việc phân loại và xử lý các văn bản có nội dung trái với Hiến pháp hoặc không còn phù hợp; bốn là,
tiến tới xây dựng một đạo luật mới về xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú để điều chỉnh chung đối với công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Việt Nam; năm là, đảm bảo tính khoa học, công khai, minh bạch và dân chủ của pháp luật xuất cảnh, nhập
cảnh và cư trú; sáu là, hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và các lĩnh vực khác có liên quan. (2) Về giải pháp: một là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú; hai là, đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ công chức để thực hiện tốt pháp luật xuất cảnh, nhập
cảnh và cư trú; ba là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp về xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú.
1.2. NHỮNG KẾT QUẢ TỔNG QUAN TỪ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN
CỨU LIÊN QUAN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những kết quả tổng quan từ các công trình nghiên cứu liên quan Hệ thống các công trình nghiên cứu đề cập trên đây cho thấy, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung cũng như những vấn đề
khác có liên quan như người nước ngoài, cư trú của người nước ngoài, vi phạm pháp luật của người nước ngoài đã được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau. Những công trình này đã thể hiện rõ những thành công nhất định cả về mặt lý luận
cũng như thực tiễn mà tác giả có thể tiếp thu, kế thừa và phát triển thêm khi tiến hành nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam. Những thành công cơ bản là:
Một là, xây dựng và đưa ra được một số quan điểm, khái niệm liên quan
đến người lao động nước ngoài, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam
23
Liên quan đến lao động nước ngoài, lao động nhập cư, lao động di cư hay lao động di trú và quản lý nhà nước đối với đối tượng này… Đây là những vấn đề sẽ được đề tài luận án tiếp thu, kế thừa trong việc xây dựng những quan điểm, khái niệm công cụ, những vấn đề lý luận. Theo đó, những quan điểm, khái niệm có liên
quan đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được tác giả nghiên cứu, kế thừa.
Hai là, nêu được thực trạng người lao động nước ngoài cũng như quản lý
nhà nước đối với người lao động nước ngoài
Đây cũng là thành công của các công trình đã nêu trên liên quan đến người nước ngoài cũng như quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Chẳng hạn như thực trạng di cư, nhập cư của người nước ngoài, cư trú của người nước
ngoài; thực trạng của lao động nước ngoài ở một số địa phương; thực trạng người nước ngoài cư trú vi phạm pháp luật; thực trạng quản lý di cư, nhập cư, cũng như quản lý nhà nước về cư trú của người nước ngoài… đã được tiếp cận dưới những góc
độ khác nhau. Những kết quả nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để đề tài luận án tiếp thu, so sánh và có những đánh giá khách quan, toàn diện và sát hợp thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Ba là, đưa ra được một số phương hướng, giải pháp, kiến nghị liên quan
đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến người nước ngoài, đến lao động nước
ngoài, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được liệt kê ở phần trên đã đạt được một thành công đó là đưa ra được một số phương hướng, giải pháp, kiến nghị liên quan đến quản lý nhà nước đối với công dân nước ngoài vào làm việc. Trong đó, một số phương hướng, giải pháp, kiến nghị dù đã được đề cập song chưa
được giải quyết triệt để, vẫn còn giá trị tham khảo và có thể tiếp tục kế thừa.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Những công trình nghiên cứu trên đây có một số khía cạnh liên quan đến
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam và đạt được những thành công như đã phân tích. Song, bên cạnh những thành công đã ghi nhận nêu trên, các công trình này còn những vấn đề chưa làm rõ, chưa đề cập đến như:
Một là, các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài, có công trình nội dung chỉ hướng vào phạm vi hẹp (quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực có yếu
24
tố nước ngoài…), những khía cạnh cụ thể hoặc có những công trình nghiên cứu lại quá chung, quá rộng trên tầm vỹ mô còn nhiều vấn đề lý luận cũng như thực tiễn chưa được làm rõ.
Hai là, nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến người nước ngoài được tiếp
cận dưới góc độ quản lý nhà nước về an ninh, trật tự hay luật học là chủ yếu. Chính vì vậy, vấn đề quản lý đối với người lao động nước ngoài chưa được tiếp cận nghiên cứu đầy đủ nhất dưới góc độ quản lý công.
Ba là, các công trình nghiên cứu liên quan đến người lao động nước ngoài hay quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được tiếp cận dưới góc độ quản lý công còn rất hạn chế, nên những vấn đề lý luận về lĩnh vực này còn hạn chế, cần được đặt ra để nghiên cứu, trao đổi.
Bốn là, nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến người nước ngoài, quản lý nhà nước đối với người nước ngoài được tổ chức nghiên cứu ở phạm vi không gian rộng (Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài ở Việt Nam), hoặc có công trình
nghiên cứu chỉ ở một địa phương… nhưng qua khảo sát, vẫn chưa có một công trình nào tiếp cận nghiên cứu ở một vùng kinh tế gồm nhiều tỉnh (vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long).
Những vấn đề khoa học cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của những công trình nêu trên, luận án “Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam Việt Nam” sẽ tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
Về lý luận, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Trong đó, tập trung làm rõ những vấn
đề như khái niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Qua đó, hoàn thiện những vấn đề lý luận quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Luận án cũng sẽ nghiên cứu, làm rõ những
kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cũng được khảo sát, khái quát hóa và chỉ rõ những giá trị tham khảo cho Việt Nam, đặc biệt cho các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Về thực tiễn, luận án sẽ tập trung nghiên cứu tình hình thực tiễn tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam ảnh hưởng, tác động tới quản lý nhà nước đối với
25
người lao động nước ngoài tại đây. Thực trạng người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cũng được khảo sát, làm rõ. Đặc biệt, luận án sẽ tập trung nghiên cứu làm rõ thực tiễn quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam từ đó đưa ra nhận xét,
đánh giá về những kết quả đạt được, những hạn chế cũng như nguyên nhân. Qua đây, luận án sẽ xây dựng và luận giải những phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung và tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam nói riêng.
Như vậy, có thể thấy, luận án thể hiện rõ tính cấp thiết và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước đó ở trong cũng như ngoài nước. Công trình này được nghiên cứu sẽ có những đóng góp quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Luận
án thể hiện rõ những điểm mới qua việc xây dựng, bổ sung một cách tương đối hoàn chỉnh hệ thống lý luận quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; đánh giá toàn diện, khách quan thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước
ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; đề xuất hệ thống các khuyến nghị khoa học nhằm góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Đây rõ ràng là những vấn đề khoa học quan trọng mà luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả nghiên
cứu trong các công trình đã công bố liên quan đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được đề cập ở phần trên.
Kết luận chương 1 Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài, đây là vấn đề không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính quốc tế. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề này được nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế quan tâm. Qua nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài luận án, một số kết
luận được rút ra như sau:
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu, tác giả tiếp cận nghiên cứu theo hướng bám sát vào nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, theo đó, tác giả tiếp cận ở ba nhóm vấn
đề lớn là (1) Nghiên cứu lý luận về quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài và các yếu tố ảnh hưởng; (2) Nghiên cứu về thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài, kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân; (3) Những công trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài. Trên cơ sở đó, đề tài luận án rút ra những kết quả tổng quan từ các công trình nghiên cứu liên quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.
26
Hai là, qua tiếp cận, nghiên cứu các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam và trên thế giới thì chưa có công trình nào tiếp cận nghiên cứu với tên đề tài “Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam”.
Ba là, kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến đề tài luận án cho thấy đã có những thành công mà luận án có thể tiếp thu, kế thừa như: (1) Về cơ sở lý luận: những khái niệm công cụ về người nước ngoài, quản lý nhà nước, quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài chất lượng cao, thị trường lao động quốc tế, di cư lao động, xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, vùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; những thực trạng có liên quan đến người lao động nước ngoài; một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài;
(2) Về cơ sở thực tiễn của hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài được nghiên cứu từ kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Ba là, những vấn đề chưa được đề cập, cần nghiên cứu làm rõ như: khái
niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; đặc điểm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; những giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
27
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HIỆU
QUẢ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm
Khái niệm người nước ngoài Khái niệm “Người nước ngoài”, hiểu theo nghĩa rộng, dùng để chỉ thể nhân nước ngoài, pháp nhân nước ngoài. Trong một số quan hệ tư pháp quốc tế đặc biệt
mà quốc gia là một bên tham gia, khái niệm này còn bao gồm cả những quốc gia nước ngoài. Theo nghĩa hẹp, “Người nước ngoài” dùng để chỉ những thể nhân, tức là những con người cụ thể tham gia vào quan hệ tư pháp quốc tế với tư cách là
những chủ thể cơ bản của các quan hệ đó.
Khái niệm “Người nước ngoài” thường gắn liền với khái niệm “Quốc tịch” và “Công dân”. Nghiên cứu hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật hiện nay của nhiều nước trên thế giới cho thấy, một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Thụy Điển, Na Uy, Việt Nam… chỉ thừa nhận nguyên tắc một quốc tịch. Ngược lại, có một số nước lại thừa nhận chế độ hai hoặc nhiều quốc tịch như Hoa Kì, Canada, Đan Mạch, Úc, Pháp, Anh, Italia… Ở những nước này người nhiều
quốc tịch trong đó có quốc tịch nước sở tại đương nhiên được coi là công dân nước sở tại. Do đó, dù quan niệm người nước ngoài theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, điều trước tiên phải khẳng định “Người nước ngoài” là người không phải là công dân nước sở tại - không có quốc tịch nước sở tại.
Ở Việt Nam, có thời kỳ đã tồn tại nhiều thuật ngữ về “Người nước ngoài” như “Người ngoại quốc”, “Ngoại kiều”, từ đó có những quan niệm và cách hiểu khác nhau. Các thuật ngữ trên được ghi trong các văn bản pháp luật Nhà nước như: Sắc
lệnh số 73/SL ngày 7/2/1945 quy định điều kiện và thể thức đối với người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt Nam; Sắc lệnh số 205/SL ngày 18/8/1948 ấn định thể lệ trục xuất ngoại kiều khỏi Việt Nam; Nghị định số 286/TTg ngày 31/7/1959 Quy định việc người nước ngoài đăng ký khi đến Việt Nam; Nghị định số 506/NĐ ngày
6/8/1959 của Bộ Công an ban hành thể lệ đăng ký cư trú của ngoại kiều…
28
Theo Quyết định 122/CP ngày 25/4/1977 của Chính phủ ban hành về chính sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam thì khái niệm “Người nước ngoài” là những người cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam, có quốc tịch nước khác, hoặc không có quốc tịch. [54, tr.1]. Theo Điều 49, Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 thì “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam” [82, tr.10], nghĩa là nếu không có quốc tịch Việt Nam thì không phải là công dân Việt Nam. Pháp lệnh
nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam ngày 21/2/1992 và Pháp lệnh về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 02/12/1993 đều quy định: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam” [91, 92, tr.1]
Theo Luật Quốc tịch của Việt Nam năm 2008, “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam” [84, tr.1].
Theo khoản 1, Điều 3, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (có hiệu lực ngày 1/1/2015) giải thích: “Người nước ngoài
là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam” [88, tr.1].
Như vậy, nhìn chung pháp luật Việt Nam đã đề cập khái niệm “Người nước ngoài” theo nghĩa hẹp. Đây là cách hiểu phù hợp, đảm bảo sự công bằng từ phía pháp luật Việt Nam đối với người nước ngoài và người không quốc tịch, tránh những vấn
đề phức tạp do xung đột quốc tịch và cũng phù hợp với xu thế nhân đạo của đời sống quốc tế và Luật quốc tế hiện đại. Để xác định một người là người nước ngoài trước hết cần khẳng định họ là người không có quốc tịch Việt Nam, có nghĩa họ là công dân nước ngoài hoặc không phải là công dân nước nào cả.
Khái niệm lao động Theo Đại từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên, “lao động là hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội” [110, tr.908], còn
theo Bộ luật Lao động (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007) của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì “lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội” [83, tr.1].
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lao động là quá trình hoạt
động tự giác, hợp lý của con người, nhờ đó con người làm thay đổi các đối tượng tự nhiên và làm cho chúng thích ứng để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động là hoạt
29
động quan trọng nhất của con người để tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội; là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại của con người. Chính nhờ lao động, con người đã tách khỏi giới động vật, cải tạo thế giới tự nhiên và bắt nó phục vụ lợi ích của mình; biết chế tạo công cụ lao động, có thể phát huy khả năng và kiến thức của
mình ngày càng cao để chế ngự thiên nhiên. Tất cả những điều đó đã quyết định sự phát triển tiến bộ hơn nữa của xã hội loài người, là tiền đề cho lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao - nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội.
Khái niệm về thị trường lao động Thị trường là tổng thể các quan hệ thực hiện hàng hóa, là nơi diễn ra quá trình trao đổi, thỏa thuận giữa người mua và người bán nhằm đi tới thống nhất về giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ được mua bán. Thị trường cũng có thể được
hiểu là bất kỳ khung cảnh nào trong đó diễn ra việc mua và bán các loại hàng hóa và dịch vụ. Thị trường ngày càng phát triển đa dạng theo xu hướng phát triển chung của nền sản xuất hàng hóa. Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông
tin và thương mại điện tử thì không gian của thị trường là vô tận.
Trong hệ thống các thị trường: thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đất đai… thị trường lao động là quan trọng nhất, bởi lẽ: lao động là nhu cầu của con người, là nguồn gốc tạo ra phần lớn của cải vật chất trong xã
hội, là nhân tố quyết định sự hoạt động và phát triển của tất cả các loại thị trường.
Theo Adam Smith (1826) thì “thị trường là không gian trao đổi hàng hóa và dịch vụ”. Như vậy, nếu coi sức lao động là hàng hóa hoặc nếu coi lao động là dịch
vụ thì bản chất của khái niệm này là: Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức lao động (hoặc dịch vụ lao động) giữa một bên là người sử dụng lao động và một bên là người lao động. Trong khái niệm này, cần lưu ý: đối tượng trao đổi trên thị trường lao động là sức lao động (hoặc dịch vụ lao động) chứ không phải
là người lao động. Ở đây, người lao động là chủ sở hữu sức lao động của mình, họ chỉ đem bán sức lao động (giá trị sử dụng của sức lao động) mà không phải bán bản thân người lao động.
Theo TS. Leo Maglen – chuyên gia tư vấn của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) thì thị trường lao động được tiếp cận dưới góc độ việc làm và được xác định như sau: “Thị trường lao động là một hệ thống trao đổi giữa những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao động) với những người đang sử dụng
lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng (cầu lao động)” [68, tr.53]. Theo quan niệm này, sự trao đổi và thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao
30
động trên thị trường lao động liên quan đến nội dung quan hệ lao động (tuyển dụng lao động, sử dụng lao động, tiền công, tiền lương, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động…) trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì đưa ra định nghĩa: “Thị trường lao động
là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình thỏa thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công” [68, tr.53]. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác
định thông qua việc làm và tiền công.
Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường (1988) thì: “Thị trường lao động là nơi mua bán sức lao động diễn ra giữa người lao động (cung lao động) và người sử dụng lao động (cầu lao động)”. Khái niệm này tương đồng với khái niệm của TS.
Leo Maglen, ở đây mối quan hệ trên thị trường lao động được xác định là quan hệ giữa cung và cầu lao động.
Thời gian qua, khi nghiên cứu các vấn đề lý luận về thị trường lao động,
thường xuất hiện hai thuật ngữ là “thị trường sức lao động” và “thị trường lao động”. Các nhà kinh tế dùng thuật ngữ “thị trường sức lao động” cho rằng khi sức lao động trở thành hàng hóa và hàng hóa sức lao động được mua, bán trên thị trường, nên đó là thị trường sức lao động. Tuy nhiên, sức lao động được mua, bán
trên thị trường không phải là lao động trừu tượng, mà là biểu hiện của lao động cụ thể, được thể hiện thành việc làm. Lao động không chỉ có nghĩa là những hoạt động có mục đích của con người, mà nó còn có nghĩa là công việc hay là việc làm. Trên
thực tế, việc làm là thứ có thể mua, bán được; việc làm là công việc được đổi lấy tiền công, do đó có thể sử dụng thuật ngữ “thị trường lao động”, nhưng phải hiểu rằng đó là thị trường sức lao động.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “thị trường lao động” đã được dùng rộng rãi trong hệ
thống pháp luật, đặc biệt trong Bộ luật Lao động, văn kiện của Đảng đến các văn bản của Nhà nước, trong các từ điển kinh tế, sách giáo khoa kinh tế… và nó có vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập thị trường lao động quốc tế.
Như vậy, mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng các định nghĩa nêu trên đều thống nhất với nhau những nội dung cơ bản về thị trường lao động. Đó là thị trường mà trong đó: Có người cần bán sức lao động, cung cấp dịch vụ lao động (người lao động); Có người cần mua sức lao động (người sử dụng lao động); Có các
quan hệ cung – cầu lao động, giá cả sức lao động (tiền công, tiền lương), các quan
31
hệ thỏa thuận khác liên quan (thời gian làm việc, điều kiện lao động, môi trường lao động, bảo hiểm xã hội…)
Từ đó có thể nêu lên một định nghĩa khái quát về thị trường lao động như sau: Thị trường lao động là nơi mà người có nhu cầu tìm việc làm và người có nhu
cầu sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động thông qua các hình thức xác định giá cả (thời gian, làm việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội…) trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc
thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác. Khái niệm thị trường lao động quốc tế Thị trường lao động quốc tế là nơi diễn ra quan hệ mua bán sức lao động trên quốc tế. Người cung cấp và lượng nhu cầu sức lao động không thuộc về một quốc
gia, lưu động của sức lao động vượt qua biên giới quốc gia. Thị trường lao động quốc tế là một bộ phận hợp thành của hệ thống thị trường thế giới.
Thị trường lao động quốc tế có không gian trao đổi rộng lớn vì nó diễn ra
giữa hai hoặc nhiều quốc gia với nhau. Các yếu tố cấu thành thị trường lao động quốc tế bao gồm: cung, cầu lao động, tiền lương và cạnh tranh lao động trên trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, lao động chất lượng cao và lao động có giá rẻ thường chiếm ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường lao động quốc
tế. Tuy nhiên, lao động và việc làm là vấn đề xã hội hết sức nhạy cảm, ổn định thị trường lao động có tác động trực tiếp đến sự ổn định xã hội. Do vậy, các quốc gia đều xây dựng và áp dụng hệ thống pháp luật nhằm ổn định thị trường lao động
trong nước bằng các quy định về điều kiện thuê mướn lao động nước ngoài, tiền lương tối thiểu, hạn ngạch visa xuất, nhập cảnh…
Khái niệm về người lao động nước ngoài Việc xác định một người có phải là người nước ngoài hay không rất quan
trọng vì liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của người đó, đặc biệt là trong lĩnh vực lao động. Mỗi quốc gia có thể đưa lao động nước mình ra nước ngoài làm việc, đồng thời chấp nhận lao động nước ngoài vào làm việc tại nước mình như một
thực tại khách quan. Những lao động nước ngoài đến làm việc tại một quốc gia còn được gọi là “lao động di trú”. Năm 1939, Tổ chức Lao động quốc tế - ILO thông qua Điều ước đầu tiên về quyền của người lao động di trú (Công ước di trú về việc làm). Năm 1949, ILO sửa đổi Công ước này bằng Công ước số 97 và đến năm 1975
thông qua Công ước số 143 về di trú trong những điều kiện bị lạm dụng và về xúc tiến bình đẳng cơ may và đối xử đối với người lao động di trú. Liên Hợp quốc thảo
32
luận về vấn đề quyền của người lao động di trú từ đầu thập kỷ 1970 và đến năm 1990 thì thông qua Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia đình họ - ICRMW. Theo quan niệm của ILO, lao động di trú là khái niệm chỉ một người di trú từ một nước này sang một nước khác
để làm việc vì lợi ích của chính mình và bao gồm bất kỳ người nào đã được thường xuyên thừa nhận là lao động di trú (Điều 11 Công ước số 97 và Điều 11 Công ước số 143). Dấu hiệu nhận biết lao động di trú ở đây dựa trên những khác biệt về lãnh
thổ, biên giới quốc gia, là việc di chuyển của người lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác. Sự di chuyển này của người lao động từ nước mà người đó mang quốc tịch sang nước khác mà người đó không mang quốc tịch. Khái niệm lao động di trú của ILO chỉ sử dụng cho người lao động “đã được thường xuyên thừa nhận là
lao động di trú” tức là những người lao động di cư hợp pháp, được chấp nhận của nước đến.
ICRMW được coi là điều ước quốc tế trực tiếp nhất và toàn diện nhất về
quyền của người lao động di trú. Công ước xác định khái niệm người di trú và bảo vệ cả quyền của người lao động di trú và thành viên của gia đình họ. ICRMW giải thích: “Thuật ngữ “lao động di trú” để chỉ một người đã, đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân” (Khoản
1, Điều 2) [38, tr.1]. Việc xác định một người là công dân của một quốc gia hay không thường căn cứ vào quốc tịch của người đó. Theo ICRMW, lao động di trú bao gồm cả “lao động di trú có giấy tờ” và “lao động di trú không có giấy tờ” và cả
gia đình họ. “Lao động di trú có giấy tờ hợp pháp” khi họ được phép vào, ở lại và tham gia làm một công việc được trả lương tại một quốc gia nơi có việc làm theo pháp luật quốc gia đó và theo những hiệp định quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. “Lao động di trú không có giấy tờ” còn được gọi là lao động di trú không hợp pháp
hoặc lao động di trú bí mật là những người lao động làm việc ở nước khác mà không có các điều kiện trên (giấy phép lao động hay giấy phép cư trú). Theo Điều 3 Công ước 1990 cũng quy định loại trừ một số đối tượng không được coi là lao động
nước ngoài như:
Những người được cử hoặc tuyển dụng bởi các cơ quan, tổ chức quốc tế, hoặc bởi một nước sang một nước khác để thực hiện các chức năng chính thức mà việc tuyển dụng người đó và địa vị của người đó được điều chỉnh
bởi pháp luật quốc tế chung hoặc các hiệp định hay công ước quốc tế cụ thể;
33
những nhà đầu tư; sinh viên và học viên; những người tị nạn và không có quốc tịch... [38, tr.1]. Pháp luật lao động Việt Nam không xác định khái niệm “người lao động nước ngoài”, nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật đã có đề cập đến thuật
ngữ “người nước ngoài làm việc tại Việt Nam” và “lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam”. Trước đây, theo Nghị định số 58/CP ngày 3/10/1996 về cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại các doanh
nghiệp, tổ chức ở Việt Nam, người nước ngoài cũng được hiểu theo tiêu chí Luật Quốc tịch tức người không có quốc tịch Việt Nam hoặc người không có quốc tịch (Khoản 1, Điều 1). Tuy nhiên, tại thời điểm đó, mục đích của việc thu hút lao động nước ngoài vào làm việc cho Việt Nam là thu hút những người có trình độ chuyên
môn cao, nên khái niệm người lao động nước ngoài cũng được hiểu theo phạm vi rộng hơn bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Dù không trực tiếp ghi nhận họ là “người nước ngoài”, song theo tinh thần của Nghị định này thì pháp luật
Việt Nam coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài lao động tại Việt Nam như “người nước ngoài làm việc tại Việt Nam”; người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam sẽ có địa vị pháp lý như nhau, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, có các quyền và
nghĩa vụ lao động theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào làm việc cho các doanh nghiệp, tổ chức tại Việt Nam cũng phải có giấy phép lao động theo quy định của Nghị định này” (Khoản 2, Điều
1 Nghị định số 58/CP) [16, tr.1].
Đến năm 2003, tại Điều 2 Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, quy định: “Người lao
động nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 1 Nghị định này là người không có quốc tịch Việt Nam theo Luật Quốc tịch Việt Nam” [19, tr.2]. Sau đó là Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 quy định
về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, không đưa ra khái niệm “người lao động nước ngoài” mà xác định người nước ngoài trên căn cứ của một đạo luật khác: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam theo Luật Quốc tịch Việt Nam” (Khoản1, Điều 2) [20, tr.1].
Hiện nay, theo Bộ luật Lao động năm 2012, người lao động nước ngoài muốn vào Việt Nam làm việc thì phải là công dân nước ngoài và phải đáp ứng đầy đủ các
34
điều kiện pháp lý. Việc xác định công dân nước ngoài thì cần phải có sự xác nhận về quốc tịch và không bao gồm người không quốc tịch. Khoản 1, Điều 2 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, xác định các hình thức làm
việc của người nước ngoài tại Việt Nam:
Lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam (sau đây viết tắt
là người lao động nước ngoài) theo các hình thức sau đây:
a) Thực hiện hợp đồng lao động; b) Di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp; c) Thực hiện các loại hợp đồng hoặc thỏa thuận về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học kỹ thuật, văn hóa, thể thao, giáo dục, dạy nghề và y tế; d) Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp
đồng; đ) Chào bán dịch vụ; e) Làm việc cho tổ chức phi chính phủ nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam được phép hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam; g) Tình nguyện viên; h) Người chịu trách nhiệm
thành lập hiện diện thương mại; i) Nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, lao động kỹ thuật; k) Tham gia thực hiện các gói thầu, dự án tại Việt Nam. [25, tr.1]
Như vậy, Bộ luật Lao động năm 2012 và Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày
03/02/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, không có khái niệm về “người lao động nước ngoài”, mà khái niệm người lao động nước ngoài được hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm tất cả công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam với mọi hình thức được pháp luật quy định.
Từ những phân tích trên, có thể xác định, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là công dân nước ngoài vào Việt Nam làm việc theo các hình thức
mà pháp luật quy định.
Khái niệm vùng kinh tế trọng điểm Để phân vùng và phát triển đất nước phù hợp với đặc điểm từng vùng, các
quốc gia đã rất quan tâm nghiên cứu và đưa ra những quan niệm về vùng theo cách tiếp cận của riêng mình. Theo một số tác giả Trung Quốc thì “vùng là một phần của bề mặt trái đất, nó dựa vào một hoặc nhiều loại tiêu chí phân biệt với phần lân cận” [105, tr.18]. Với cách tiếp cận này, ở tầm vĩ mô, vùng có thể bao gồm một số quốc
gia trong khu vực rộng có tính quốc tế. Trên thế giới, có nhiều vùng được gọi như thế: các nước vùng Ban - tích, các nước vùng Ban – căng. Theo nghĩa hẹp hơn,
35
“vùng” là một bộ phận lãnh thổ của một quốc gia. Quan niệm này cơ bản cho người ta thấy được thế nào là một “vùng”, tuy nhiên nó lại là một quan niệm quá “mở” khi có thể chỉ cần dựa vào “một” hoặc có thể dựa vào “nhiều loại tiêu chí” để phân biệt với các phần lân cận. Nó cũng mới chỉ cho thấy “vùng” là một phần “bề mặt trái
đất”, (yếu tố tự nhiên) chưa đề cập đến các khía cạnh xã hội, con người trong vùng. Theo các nhà địa lý học Liên Xô cũ thì “vùng” là “một phần lãnh thổ được tách ra trên cơ sở tập hợp các dấu hiệu (hoặc hiện tượng) có quan hệ mật thiết với
nhau, là một cấp phân vị trong hệ thống phân chia lãnh thổ” [105, tr.5]. Cách phân vùng lãnh thổ này đã chỉ ra được “các dấu hiệu” và sự liên quan mật thiết giữa “các dấu hiệu” để nhận biết một “vùng”. Đồng thời nó cũng cho thấy yếu tố chủ quan của con người trong việc xác định một “vùng”. Các quốc gia Tây Âu cũng có những
quan niệm khác nhau về “vùng”. Theo pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp thì “vùng” (khu) là “một đơn vị hành chính lãnh thổ, một cộng đồng lãnh thổ gồm nhiều tỉnh” [107, tr.253]. Quan niệm của Pháp về “vùng” như trên là rất cụ thể từ
góc độ hành chính nhà nước, xác định rõ “vùng” là đơn vị hành chính – lãnh thổ, chứ không chỉ chung chung là “một phần bề mặt trái đất”. Đối với Italia, “vùng” cũng là một thuật ngữ được nhiều nhà nghiên cứu Italia quan tâm nghiên cứu và đưa ra các cách phân loại vùng khác nhau. Theo đánh giá của TS Bùi Quang Nhật trong
“Chính sách phát triển vùng của Italia” thì “cách phân loại vùng của Anna Bull (Regionalism in Italia, Eurropa Number 2 – Article 4, 1996) là rất đáng chú ý” [67, tr.10]. Anna Bull đã xem xét và phân biệt vùng không chỉ từ một góc nhìn nhất
định, mà tác giả này đã phân biệt và xem xét vùng theo ba góc nhìn khá riêng biệt, bao gồm: “1) Vùng với tư cách là các thực thể hành chính; 2) Chủ nghĩa phân vùng/chủ nghĩa liên bang xem xét dưới góc độ thực hiện các trào lưu chính trị và trường phái tư tưởng; 3) Vùng xem xét dưới góc độ thực hiện các chính sách vùng,
đặc biệt là chính sách phát triển vùng” [67, tr.10]. Đây là cách nhìn nhận vấn đề khá toàn diện khi nghiên cứu “vùng” với nhiều góc độ và chỉ ra mục đích của việc phân vùng lãnh thổ là để “thực hiện các chính sách vùng” và đặc biệt là thực hiện
“chính sách phát triển vùng”.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, thuật ngữ “vùng” được sử dụng trong nhiều
trường hợp, nhiều lĩnh vực khác nhau.
Về ngữ nghĩa trong Tiếng Việt phổ thông thì “vùng” đã được giải thích theo
nhiều cách hiểu khác nhau. Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, xuất bản năm 1999 giải thích từ “vùng” theo 3 nghĩa: “1.
36
Miền, khu vực rộng, một khoảng đất rộng (vùng quê, vùng ngược, vùng xuôi, vùng mỏ,…); 2. Khu ruộng lớn gồm nhiều thửa (bờ vùng, bờ thửa, ruộng liền vùng…); 3. Chỗ nào đó trên cơ thể (vùng ngực…)” [110, tr.1837]. Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê, Nhà xuất bản Giáo dục năm 1994 giải thích “vùng là phần đất đai,
hoặc nói chung là không gian tương đối rộng có những đặc điểm nhất định về tự nhiên hay xã hội, phân biệt với các phần khác ở xung quanh” [71, tr.1093]. Với cách hiểu như trên thì “vùng” theo quan điểm của Hoàng Phê có nghĩa hẹp hơn so
với cách giải thích của Đại từ điển Tiếng Việt và chỉ ở góc độ tiếp cận của khoa học địa lý.
Các nhà nghiên cứu của Việt Nam, từ những góc độ của mình cũng có nhiều quan niệm về “vùng”. Chẳng hạn, GS Lê Bá Thảo, trong “Việt Nam - lãnh thổ và
các vùng địa lý” đã nêu khái niệm:
Vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có một sắc thái đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có những mối quan hệ tương đối
chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó, cũng như những mối quan hệ có chọn lọc với các không gian các cấp bên ngoài [94, tr.281]. Cách tiếp cận này cho thấy “vùng” không chỉ hình thành từ những yếu tố tự nhiên, mà còn có yếu tố xã hội, có sự can thiệp của con người. Sự hình thành của
“vùng” là có tính mục đích, tính tổ chức (hoạt động như một hệ thống) và có mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài vùng.
PGS.TS Ngô Doãn Vịnh trong “Nghiên cứu chiến lược và Qui hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, giải thích: “Vùng kinh tế - xã hội là một hệ thống kinh tế xã hội lãnh thổ, bao gồm các mối liên hệ tương tác nhiều chiều giữa các bộ phận cấu thành: liên hệ địa lý và liên hệ về kỹ thuật, liên hệ về kinh tế và liên hệ về các mặt xã hội trong hệ thống cũng như ngoài hệ thống” [111, tr.184]. Với cách
giải thích này, tác giả đã tiếp cận khái niệm “vùng” từ góc độ kinh tế - xã hội. Cho dù không phải là một đơn vị hành chính, nhưng vùng kinh tế - xã hội cũng là một hệ thống. Hệ thống này bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có mối liên hệ tương tác với
nhau về địa lý, kỹ thuật, kinh tế và các mặt xã hội. Những mối liên hệ này không chỉ có giữa các yếu tố cấu thành vùng mà nó còn có liên hệ với các yếu tố bên ngoài vùng. Như thế, khi xuất hiện vùng, cho dù là vùng lãnh thổ hành chính hay vùng kinh tế - xã hội thì tất yếu phải có pháp luật, cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch để quản lý các quá trình kinh tế - xã hội ở vùng đó, đảm bảo cho các quá trình này vận động, phát triển theo đúng quy luật của nó.
37
Từ sự phân tích và kế thừa những quan niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả luận án cho rằng với cách hiểu chung nhất thì vùng là một bộ phận lãnh thổ của quốc gia, mà trên đó tồn tại những yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội tương đối đồng nhất giúp cho người ta phân biệt với những phần còn lại.
Với cách tiếp cận này, vùng trong phạm vi một quốc gia có thể bao gồm một
số tỉnh, hoặc vùng nhỏ hơn nữa (tiểu vùng) chỉ bao gồm một số huyện hoặc xã.
Về phương diện địa lý - hành chính có vùng hành chính, (các đơn vị hành
chính) được chia ra nhằm phục vụ cho việc quản lý các hoạt động, các quá trình kinh tế - xã hội.
Về phương diện kinh tế, các nhà địa lý học và kinh tế học đã phân chia lãnh thổ thành những những vùng kinh tế ngành (hay còn gọi chuyên ngành) và vùng
kinh tế tổng hợp. Vùng kinh tế ngành là những vùng tập trung khai thác và phát triển trên cơ sở phát huy thế mạnh về riêng một lĩnh vực kinh tế nào đó, như các vùng nông nghiệp, vùng cây công nghiệp, vùng công nghiệp, vùng du lịch… Vùng
kinh tế tổng hợp (thường gọi tắt là vùng kinh tế, vùng kinh tế - xã hội) là một không gian kinh tế với vị trí địa lý có ranh giới xác định nhưng không cố định. Sự phát triển của vùng kinh tế tổng hợp có tính bao trùm hơn với nhiều ngành khác nhau, thậm chí phát triển tất cả các ngành của nền kinh tế. Đây cũng chính là cách tiếp cận
theo hướng “vùng” là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia với những đặc điểm riêng có về kinh tế, địa lý, xã hội thể hiện những lợi thế so sánh khác nhau dẫn đến sự phát triển chênh lệch giữa các vùng đòi hỏi nhà nước “phải thực hiện các chính
sách phát triển vùng với một hệ thống các công cụ, phương tiện can thiệp khác nhau nhằm đảm bảo sự gắn kết chung của các bộ phận lãnh thổ” [67, tr.12].
Căn cứ vào trình độ phát triển của vùng, người ta chia thành các vùng phát triển, vùng chậm phát triển và vùng suy thoái, trong đó vùng phát triển là vùng có
những điều kiện thuận lợi (do thiên nhiên đem lại hoặc do con người tạo nên) cho sự phát triển kinh tế - xã hội và trong thực tế những vùng này cũng đã phát triển hơn hẳn so với các vùng khác. Đây là những vùng mà sự phát triển của nó có những tác
động tích cực đến sự phát triển của cả nước.
Ở Việt Nam, việc phân chia đất nước thành những vùng kinh tế theo những điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa, truyền thống… để có một qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước đã được nhà nước rất quan tâm ngay từ
những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Trong quá trình phát triển đất nước, do hoàn cảnh kinh tế - xã hội, nhà nước có những sự điều chỉnh quy hoạch và phân
38
chia vùng cho phù hợp với hoàn cảnh mỗi giai đoạn. Hiện nay, theo Quyết định số 73/2006/QĐ –TTg, ngày 4 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam có 6 vùng kinh tế - lãnh thổ, bao gồm: Vùng 1 (14 tỉnh trung du miền núi phía Bắc); vùng 2 (15 tỉnh đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ); vùng 3 (10 tỉnh ven biển
Trung Bộ); vùng 4 (4 tỉnh Tây Nguyên); vùng 5 (8 tỉnh Đông Nam Bộ); vùng 6 (13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long). Đây là cơ sở để hoạch định chính sách phát triển kinh tế vùng của Việt Nam.
Đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất những tiêu chí để coi một vùng lãnh thổ nào đó là một vùng kinh tế trọng điểm. Theo đó, có thể coi những yếu tố sau đây sẽ quyết định tính động lực, tính trọng điểm của một vùng kinh tế:
Một là, vùng đó phải là nơi có các lợi thế so sánh về vị trí địa lí, điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, chất lượng cao của đội ngũ lao động, tập trung tiềm lực mạnh về kinh tế.
Hai là, hiện đã chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GDP của cả nước, hoặc sẽ
chiếm tỉ trọng cao nếu được đầu tư thỏa đáng, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh cho cả nước, có thể có được tích lũy đầu tư tái sản xuất, tạo nguồn thu ngân sách lớn cho Nhà nước và hỗ trợ cho các vùng khác phát triển.
Ba là, có khả năng thu hút mạnh đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
các ngành kinh tế mới, từ đó phát triển ra cả nước.
Những nội dung trên đây vừa là tiêu chí, đồng thời cũng là những đặc điểm
nổi bật của vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu vùng kinh tế trọng điểm là vùng kinh tế mà ở đó hội tụ những lợi thế so sánh, những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, đã và đang đóng vai trò có tính quyết định thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng khác và của cả nước.
Khái niệm quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước, đó là quản lý toàn xã hội. Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính
trị, lịch sử và đặc điểm văn hoá, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang quyền lực Nhà nước sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh mọi hành vi, hoạt động của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện nhằm phục vụ nhân dân và duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. Trong đó, chủ thể quản lý là tất cả
39
các cơ quan trong bộ máy Nhà nước gồm: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đối tượng quản lý là toàn thể nhân dân, tức là toàn bộ dân cư sống và làm việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Quản lý nhà nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
nhằm thoả mãn nhu cầu hợp pháp của công dân.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước được giải thích là:
Hoạt động thực thi quyền hành pháp nhà nước; là sự tác động có tổ
chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành nhằm duy trì và phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn
các nhu cầu của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đạt được mục tiêu của quốc gia một cách hiệu quả nhất trong từng giai đoạn phát triển [52, tr.28].
Như vậy, quản lý nhà nước thể hiện ở hoạt động thực thi quyền hành pháp thông qua hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Quản lý nhà nước nhằm cụ thể hoá các ý tưởng, mục tiêu, quyết định; điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đạt mục tiêu tới mức tối đa và với hiệu quả cao nhất;
Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện nay có nhiều
duy trì và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng… hướng tiếp cận khác nhau:
Hướng tiếp cận thứ nhất xem quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài là một bộ phận của quản lý nhà nước đối với người nước ngoài. Theo đó, quản lý nhà nước đối với người nước ngoài là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh mang tính quyền lực Nhà nước đối với các hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, đi lại,
hoạt động... của người nước ngoài nhằm bảo đảm trật tự pháp luật, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là hoạt động quản lý bằng pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại, hoạt động của người lao động
nước ngoài tại Việt Nam..
Hướng thứ hai tiếp cận dưới góc độ quản lý nhà nước về lao động. Ở phương diện này, Nhà nước có vai trò là người tạo khung pháp lý và môi trường bình đẳng cho các chủ thể tham gia thị trường lao động hợp tác và phát huy tốt năng lực của
mình. Đồng thời, Nhà nước còn trực tiếp đóng vai trò tổ chức để thị trường lao động phát triển. Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài nằm trong hệ thống các
40
biện pháp quản lý nhà nước về lao động nói chung này. Bản chất là tập trung vào quản lý việc tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; trình tự, thủ tục cấp giấy phép lao động và việc sử dụng giấy phép lao động, trách nhiệm của lao động nước ngoài, người sử dụng lao động và các cơ quan nhà nước
trong việc tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam…
Những phân tích trên đây đã cho thấy hai xu hướng nổi bật khi đề cập đến khái niệm quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Một là, tiếp cận
dưới góc độ một bộ phận trong quản lý nhà nước đối với người nước ngoài, quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài là quản lý về tất cả các mặt hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, đi lại, lao động, làm việc của lao động nước ngoài tại Việt Nam. Hai là, quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài được đồng nhất với
quản lý nhà nước về lao động của người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tập trung tiến hành quản lý các hành vi của người lao động nước ngoài. Đây được xác
định là đối tượng quản lý. Trong đó, cụ thể hơn chính là những hành vi liên quan đến lao động của người lao động nước ngoài. Vì vậy, ngành Lao động, Thương binh và Xã hội là chủ thể chủ trì giúp Chính phủ thống nhất quản lý. Bên cạnh đó, các hành vi khác có liên quan của người lao động nước ngoài như: xuất cảnh, nhập
cảnh, cư trú… cũng là đối tượng quản lý, cho nên các ngành Công an, Ngoại giao, Y tế, Giáo dục – Đào tạo, Thuế… cũng là những chủ thể quan trọng cùng phối hợp quản lý. Do vậy, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài mới có thể
đảm bảo chặt chẽ, khoa học, tránh trùng dẫm hay buông lỏng, đùn đẩy trách nhiệm. Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành
pháp luật nhằm thực hiện trong đời sống hàng ngày các chức năng của Nhà nước trong quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại, lao động của người lao động nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, đảm bảo khai thác, sử dụng hiệu quả, ngăn chặn
những vấn đề phức tạp phát sinh từ nguồn lao động này, cũng như bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của lao động nước ngoài tại Việt Nam.
2.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm
Vùng kinh tế trọng điểm là vùng có tính đặc thù, hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cũng có những đặc thù của nó. Vì thế, quản lý
41
nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm cũng có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm đó là:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh
tế trọng điểm được tiến hành bởi nhiều chủ thể
Theo Bộ luật Lao động năm 2012, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lao động trong phạm vi cả nước (trong đó có người lao động nước ngoài). Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về lao động. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong quản lý nhà nước về lao động. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về lao động trên địa bàn theo phân cấp của
Chính phủ. Riêng việc quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người lao động nước ngoài tại Việt Nam được phân công cho các cơ quan quản lý như Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ đội Biên phòng. Tuy mỗi cơ quan nhà nước với một chức
năng nhưng luôn có sự liên quan chặt chẽ trong thực hiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Thậm chí, nếu cơ quan này chưa thực hiện đầy đủ chức năng của mình thì cơ quan khác cũng không thể làm tròn trách nhiệm theo quy định của pháp luật hiện hành. Hơn nữa, người nước ngoài vào Việt Nam làm
việc ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, giải quyết các vụ việc liên quan đến người nước ngoài thường ảnh hưởng đến chính trị, ngoại giao giữa nước ta với nước xuất khẩu lao động nên đòi hỏi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
chủ thể trong tổ chức các hoạt động quản lý đối với đối tượng này.
Thứ hai, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài chịu sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp của các chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, định hướng phát triển của vùng.
Hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài nói riêng luôn mang tính chính trị và lệ thuộc vào hệ thống chính trị. Trong tổ chức các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài tại các vùng kinh tế trọng điểm luôn hướng tới và chịu tác động mạnh mẽ của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đặc điểm đó được thể chế hóa qua các văn bản luật, nghị định, thông tư trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Một khi tổ chức có hiệu quả các mặt hoạt động quản
lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi và thu hút người nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Ngược lại, hoạt động quản lý đối
42
với đối tượng này không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách đối ngoại, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ bên ngoài. Trong khi đó, nếu các chính sách đối ngoại thay đổi (nhất là những chính sách liên quan trực tiếp đến nguồn nhân lực nước ngoài) theo chiều hướng xấu đi, thì quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài cũng bị ảnh hưởng và có sự thay đổi.
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế vùng, tạo ra những vùng với sự liên kết của nhiều địa phương có sự tương đồng về điều kiện kinh tế, văn hóa, chính
trị, xã hội là chủ trương phù hợp của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước. Chính vì vậy, định hướng phát triển của từng vùng sẽ tác động đến các hoạt động quản lý mang tính đặc thù của vùng trên hầu hết các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực lao động
nước ngoài.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài có liên quan
đến nhiều văn bản pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế.
Tại khoản 1, Điều 8, Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [85, tr.2], Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, do đó, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cũng phải bằng
pháp luật. Do đặc thù từ đối tượng quản lý là người lao động nước ngoài nên bên cạnh những văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam điều chỉnh, thì các quy định của pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và ký kết cũng là một cơ sở pháp lý để
tổ chức quản lý đối với đối tượng này nhằm hướng đến đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Thứ tư, đối tượng quản lý nhà nước đối với người lao động nước là công dân
nước ngoài đến làm việc, cư trú tại vùng kinh tế trọng điểm.
Theo pháp luật hiện hành, người nước ngoài bao gồm công dân nước ngoài và người không có quốc tịch. Ở đây, đối tượng quản lý có tính đặc thù bởi vì cũng là người lao động nên lao động nước ngoài có các quyền và nghĩa vụ của người
lao động nhưng họ không phải là công dân Việt Nam, họ là người nước ngoài, nên phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối với người nước ngoài.
Người lao động nước ngoài luôn có các đặc điểm riêng biệt so với người lao động trong nước. Khi đến một quốc gia khác để sinh sống và làm việc, lao động
nước ngoài có sự khác biệt với người lao động trong nước. Điều này được thể hiện rất rõ từ lối sống, thói quen trong sinh hoạt cũng như trong lao động, cho đến các
43
quan điểm về ý thức hệ tư tưởng, ý thức chính trị, tư tưởng dân tộc… Ngoài việc mưu sinh, phát triển về chuyên môn, thăng tiến, mỗi người lao động nước ngoài còn có lòng tự tôn dân tộc, ý thức hướng về quê hương, tổ quốc của họ. Đây chính là đặc điểm quan trọng mà chủ thể quản lý nhà nước đối với người lao động nước
ngoài cần nắm vững.
Lực lượng lao động nước ngoài đến từ rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, có trình độ, kỹ năng lao động khác nhau. Lao động có trình độ, chuyên
môn cao thường đóng góp tích cực cho sự phát triển của quốc gia tiếp nhận và ít gây nên các vấn đề phức tạp. Ngược lại, lao động phổ thông, kỹ năng thấp, thường có những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật hoặc có các vấn đề về xử sự, xung đột với công dân của quốc gia sở tại. Hơn nữa, lao động có trình độ kỹ năng
thấp do khó tìm được công việc ổn định, lương cao nên dễ bị ảnh hưởng, tác động bởi những hiện tượng tiêu cực trong xã hội hơn so với lao động nước ngoài có trình độ cao. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc nhóm lao động này trở thành mối
quan tâm của hầu hết các quốc gia có sự hiện diện của họ. Thứ năm, đặc điểm về tính mục đích của quản lý. Nếu như quá trình quản lý xã hội nói chung chủ yếu là tạo nên, duy trì một xã hội có trật tự trên cơ sở những quy phạm pháp luật, thì quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm có những đặc điểm riêng. Mục đích của quá trình này là để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thu hút nguồn ngoại lực (lực lượng lao động nước ngoài), góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội cho mỗi vùng. Trong khi đó, mục đích của quản lý đối với vùng kinh tế trọng điểm, ngoài việc thúc đẩy sự phát triển của vùng, còn có mục đích nữa là làm cho vùng kinh tế trọng điểm trở thành động lực thúc đẩy các vùng khác và thúc đẩy cả nước cùng phát triển.
Mặt khác, do các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm thường có những lợi thế so sánh khác nhau trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút lực lượng lao động nước ngoài cho nên nếu không có sự quản lý thống nhất, dễ xuất hiện sự
cạnh tranh không lành mạnh, sự thiếu thống nhất trong qui hoạch phát triển dẫn đến phá vỡ tính thống nhất trong qui hoạch tầm vĩ mô của đất nước. Vì thế, mục đích quản lý ở đây còn nhằm tạo một không gian kinh tế thống nhất, duy trì sự ổn định, trật tự trong hoạt động của lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm.
44
2.1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là sự tác động mang tính tổ chức, điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hành vi của người lao động nước ngoài và người sử dụng nước ngoài nhằm đảm bảo huy động và sử dụng
có hiệu quả nguồn lao động nước ngoài. Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, có những cách phân chia nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài khác nhau.
Tiếp cận theo mặt các hoạt động của người lao động nước ngoài, nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài bao gồm quản lý nhập cảnh, quản lý xuất cảnh, quản lý cư trú, quản lý đi lại, quản lý quá trình làm việc của người lao động nước ngoài. Đây chính là “nội dung” của đối tượng quản lý, hay có
thể gọi là “các bộ phận cấu thành đối tượng quản lý”. Khi nói đến “quản lý người lao động nước ngoài” là nói đến việc quản lý đối với các hoạt động nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại, làm việc của người nước ngoài tại Việt Nam.
Cách tiếp cận phổ biến hiện nay là tiếp cận theo chức năng và mặt hoạt động của chủ thể quản lý trong quá trình tác động, điều chỉnh (quá trình quản lý). Theo đó, khi nói đến “nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài” là nói đến nội dung của “hoạt động quản lý”. Nó không nằm ngoài nội dung quản lý
nhà nước nói chung. Cụ thể, nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài bao gồm: (1) Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; (2) Tổ chức bộ máy và
phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; (3) Tổ chức các hoạt động quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và hoạt động của người lao động nước ngoài; (4) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; (5) Phối hợp với các
cơ quan trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; (6) Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài; (7) Hợp tác quốc tế trong quản lý người lao động nước ngoài.
2.1.3.1. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách quản
lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
Ban hành thể chế quản lý nhà nước là một đặc điểm quan trọng của quản lý nhà nước. Thể chế quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội cũng như trong mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc theo
45
pháp luật. Đồng thời, nó cũng quy định các mối quan hệ trong hoạt động xã hội cũng như các mối quan hệ giữa các cơ quan và nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước.
Nội dung này đòi hỏi Nhà nước cần thực hiện vai trò chủ thể quản lý đối với người lao động nước ngoài bằng hệ thống các văn bản được thể chế hóa bằng pháp
luật một cách thống nhất, đồng bộ, ổn định và rõ ràng. Hệ thống văn bản pháp luật do Nhà nước xác lập và được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, mọi cá nhân, các tổ chức nhằm thiết
lập trật tự kỷ cương xã hội. Xây dựng, ban hành thể chế quản lý nhà nước là một hoạt động quan trọng của quản lý nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định, cơ quan quản lý nhà nước xây dựng và ban hành thể chế quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài nhằm đảm bảo thực hiện thống nhất trên cả
nước. Trên thực tế, hệ thống văn bản quy định pháp luật về người lao động nước ngoài và hướng dẫn, triển khai thực hiện chủ yếu do Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Công an và chính quyền địa phương các cấp thực hiện.
Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về người lao động nước ngoài là yếu tố tiền đề tạo ra công cụ cho quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Đồng thời, chính những văn bản này đã thể hiện chức năng, vai trò của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở trong việc thực thi các hoạt động quản lý đối với
lực lượng này. Bên cạnh đó, còn có những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động về mặt chuyên môn nghiệp vụ trong quản lý đối với người lao động nước ngoài của các cơ quan chức năng nhằm thực hiện thống nhất, tránh sai sót trong quá trình thực
hiện các hoạt động tác nghiệp đối với lĩnh vực này.
Chính sách là công cụ chủ yếu để thực hiện quản lý nhà nước đối với các quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Việc xây dựng và ban hành chính sách bao gồm toàn bộ quá trình nghiên cứu, hoạch định và trình cơ quan có thẩm quyền thông qua.
Chính sách thường được thể chế hóa bằng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh những mối quan hệ kinh tế - xã hội, hành vi của cá nhân, tổ chức phù hợp với mục tiêu của chính sách. Như vậy, các văn bản quy phạm pháp luật về
người lao động nước ngoài sẽ tạo khuôn khổ pháp lý cho thực thi chính sách về người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Các chính sách về người lao động nước ngoài được ban hành nhằm vào ý tưởng phát huy tối đa nguồn lực này vào quá trình phát triển kinh tế xã hội; tiếp thu và chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý, khoa
học kỹ thuật tiên tiến từ các nước phát triển; đảm bảo an ninh, quốc phòng trong hoạt động của lực lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam.
46
Bản thân chính sách, pháp luật mới chỉ là những quy định thể hiện ý chí của nhà nước. Điều quan trọng là làm sao để các chính sách, pháp luật trở thành một đại lượng tồn tại hợp quy luật, bám rễ chặt trong cuộc sống, mọi chủ thể trong xã hội bao gồm tất cả công dân, tổ chức, cơ quan tuân theo. Khi đó chính sách, pháp luật
mới thực sự trở thành công cụ quản lý của nhà nước trên các lĩnh vực xã hội và trên mọi vùng lãnh thổ quốc gia. Cũng chỉ khi mọi người cùng thực hiện đúng những quy định của pháp luật thì khi đó pháp luật mới thể hiện được sức mạnh và vai trò
của nó đối với xã hội. Trong lĩnh vực lao động nước ngoài, việc triển khai thực thi chính sách, pháp luật, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, có nhiệm vụ triển khai các hoạt động thực thi pháp luật, chính sách đối với người lao động nước ngoài. Tuy nhiên, do tính đặc thù của lĩnh vực lao động nước ngoài có liên quan
trực tiếp tới yếu tố nước ngoài nên trong quá trình triển khai thực thi chính sách, pháp luật đối với người lao động nước ngoài cần có sự phối kết hợp liên ngành dựa trên chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan chức năng theo quy định của pháp luật.
2.1.3.2. Tổ chức bộ máy và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối
với người lao động nước ngoài Tổ chức bộ máy quản lý được xác định là một yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo hiệu quả của quản lý. Tổ chức bộ máy được cấu trúc hợp lý, phù hợp và ổn
định sẽ phát huy được sức mạnh và nâng cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý và ngược lại. Nói cách khác, việc tổ chức tốt một bộ máy triển khai có tính quyết định đến việc thực thi và hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Trên thực tế, mô hình tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài có thể thay đổi tùy từng quốc gia và tùy từng giai đoạn. Thông thường thì sự thay đổi đó xuất phát từ chính những đòi hỏi của thực trạng đối tượng quản lý, từ bối cảnh thời đại và có cả những thay đổi xuất phát từ ý muốn chủ quan của các chủ thể lãnh đạo. Tất nhiên,
nếu bộ máy quản lý không ổn định, có sự thay đổi sẽ gây ra những xáo trộn tâm lý cho đội ngũ cán bộ quản lý, đồng thời sẽ tạo ra những khó khăn trong quá trình tác nghiệp, gây ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý. Chẳng hạn, trong thời gian vừa qua, tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở Việt Nam đã có sự thay đổi về thẩm quyền quản lý của một số cơ quan chức năng, chính vì vậy ít nhiều tác động đến việc thực hiện các mục tiêu quản lý trên lĩnh vực này. Gắn liền với yếu tố tổ chức bộ máy quản lý là nguồn nhân lực quản lý tức là
cán bộ làm công tác quản lý đối với người lao động nước ngoài. Trong cơ cấu nguồn nhân lực quản lý đối với lĩnh vực này có sự phân công cụ thể từng bộ phận,
47
trong đó có những người trực tiếp tham gia quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, cấp giấy phép cho người lao động nước ngoài; có người chỉ thực hiện chức năng tham mưu xây dựng các văn bản pháp luật, các quyết định hành chính về người lao động nước ngoài cũng đồng thời là người triển khai thực thi các quyết định đó. Do
vậy, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc đạt được mục tiêu quản lý đối với người lao động nước ngoài. Đội ngũ làm công tác quản lý người lao động nước ngoài cần phải đảm bảo cả về số lượng và
chất lượng, có tư duy khoa học, có trình độ nghiệp vụ, khả năng ngoại ngữ, am hiểu chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của ngành, địa phương, có kinh nghiệm thực tế… Ngoài việc tự nghiên cứu học tập nâng cao trình độ năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu của hoạt động quản lý, lực lượng này cũng cần được
quan tâm của các chủ thể lãnh đạo trong kiểm tra, đánh giá lại năng lực và trình độ chuyên môn cũng như cần được quan tâm trong việc đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý. Như vậy, năng lực và trình độ của các cán bộ quản lý là yếu tố
quan trọng góp phần vào sự thành công trong quá trình quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Do đó, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các chính sách phát triển, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý người lao động nước ngoài ở các cấp, hoàn thiện tiêu chuẩn của đội ngũ
cán bộ làm công tác này là hết sức cần thiết.
2.1.3.3. Tổ chức các hoạt động quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú của
người lao động nước ngoài
Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là một bộ phận của quản lý nhà nước đối với người nước ngoài nhưng giới hạn đối tượng quản lý chỉ là những người nước ngoài vào Việt Nam với mục đích lao động (mang thị thực “LĐ”). Chính vì thế việc tổ chức các hoạt động quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người lao
động nước ngoài tại Việt Nam cũng là một nội dung quản lý quan trọng.
- Quản lý nhập cảnh đối với người lao động nước ngoài là quá trình kiểm tra, giám sát và cấp phép của các cơ quan chức năng đối với việc nhập cảnh của người
nước ngoài, được tiến hành từ khi người lao động nước ngoài làm thủ tục xin nhập cảnh đến khi họ nhập cảnh tại các cửa khẩu. Khi quản lý nhập cảnh đối với người lao động nước ngoài, các cơ quan chức năng cần thực hiện những công việc sau:
(1) Xem xét, giải quyết việc mời, bảo lãnh người lao động nước ngoài vào
Việt Nam.
48
Đây là việc các cơ quan chức năng đối chiếu những yêu cầu mời, bảo lãnh người lao động nước ngoài vào Việt Nam so với quy định của pháp luật về mời, bảo lãnh để xem xét tính hợp pháp của việc mời, bảo lãnh, từ đó đưa ra quyết định chấp thuận hay không việc mời, bảo lãnh người nước ngoài vào Việt Nam. Nội dung xem
xét, giải quyết việc mời, bảo lãnh người lao động nước ngoài vào Việt Nam: Xem xét về tư cách của chủ thể mời, bảo lãnh người nước ngoài vào Việt Nam; Xem xét về điều kiện mời, bảo lãnh người nước ngoài vào Việt Nam; Xem xét về tính hợp
pháp của quy trình mời, bảo lãnh người nước ngoài vào Việt Nam.
(2) Kiểm tra, xét duyệt nhân sự đối với người lao động nước ngoài xin nhập cảnh Kiểm tra, xét duyệt nhân sự người nước ngoài xin nhập cảnh là việc đối chiếu các yếu tố nhân sự của người lao động nước ngoài xin nhập cảnh với các yếu
tố nhân sự của các đối tượng trong danh sách “người thuộc diện chưa cho nhập cảnh”, “người thuộc diện cần chú ý khi nhập cảnh” để quyết định cho phép hoặc không cho phép người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam.
(3) Kiểm soát việc nhập cảnh của người nước ngoài tại cửa khẩu Kiểm soát việc nhập cảnh của người lao động nước ngoài tại cửa khẩu là hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện bằng biện pháp hành chính và các biện pháp nghiệp vụ khác do lực lượng chức năng tiến hành trên cơ sở các quy định của
pháp luật nhằm duy trì an ninh, trật tự trong hoạt động nhập cảnh của người lao động nước ngoài, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.
Nội dung kiểm soát việc nhập cảnh của người nước ngoài tại cửa khẩu: Nhập
thông tin về người nước ngoài xin nhập cảnh; Kiểm tra hộ chiếu, thị thực và các giấy tờ nhập cảnh; Đóng dấu kiểm chứng, cấp chứng nhận tạm trú cho người nước ngoài.
- Quản lý cư trú đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam là quản lý quá
trình sinh sống, hoạt động của người lao động nước ngoài trong thời gian ở Việt Nam.
Quản lý cư trú đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam là một bộ phận của quản lý cư trú đối với người nước ngoài. Song có điểm khác biệt về đối tượng cư trú và nội dung quản lý. Nếu như quản lý cư trú đối với người nước ngoài
nói chung gồm có quản lý tạm trú và quản lý thường trú thì đối với người lao động nước ngoài chúng ta chỉ quản lý tạm trú, vì xuất phát từ đặc trưng cư trú của người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc với thời hạn theo thị thực nhập cảnh “LĐ” có thời hạn không quá 02 năm và giấy phép lao động có thời hạn tối đa là 02
năm. Theo đó, quản lý cư trú của người lao động nước ngoài tại Việt Nam tập trung ở các vấn đề như: cấp chứng nhận tạm trú tại cửa khẩu cho người lao động nước
49
ngoài; xác định các cơ sở lưu trú, địa điểm tạm trú của người lao động nước ngoài, việc khai báo tạm trú của người lao động nước ngoài, việc cấp thẻ tạm trú, ký hiệu tạm trú, thời hạn thẻ tạm trú, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định về đăng ký tạm trú, giải quyết các thủ tục hành chính về gia hạn tạm trú…
- Quản lý xuất cảnh đối với người lao động nước ngoài là quản lý việc người lao động nước ngoài rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Hoạt động này được xem là khâu cuối cùng trong hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Quản lý xuất cảnh đối với người lao động nước ngoài được tiến hành chủ yếu ở các cửa khẩu do lực lượng Công an và Bộ đội Biên phòng tiến hành.
2.1.3.4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với người lao
động nước ngoài
Giáo dục là một trong những chức năng của pháp luật. Tuy nhiên, bản thân pháp luật muốn thực hiện được chức năng giáo dục thì phải thông qua hoạt động tuyên truyền, giải thích, phổ biến pháp luật của các chủ thể quản lý nhà nước. Đối
với lĩnh vực lao động nước ngoài, thực tế cho thấy người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước ngoài nhiều khi có những hành vi vi phạm pháp luật vì lý do chưa hiểu pháp luật. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh đối với người lao động nước ngoài và những quan hệ xã hội phát sinh từ đây là rất
lớn, rất phức tạp và thường xuyên thay đổi. Vì vậy, việc giải thích, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và hướng dẫn thực hiện các văn bản quản lý nhà nước trên lĩnh vực này là rất cần thiết. Thông qua những hoạt động này, làm cho người lao động
nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài nhận thức được và có thái độ ứng xử thích hợp theo đúng quy định của pháp luật trong các quan hệ ấy, đồng thời hiểu và thực hiện theo đúng các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Làm được điều này là đã đạt được các mục đích tri thức, mục đích tình cảm và mục đích hành
vi của giáo dục pháp luật.
2.1.3.5. Phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài
Phối hợp là một chức năng trong quản lý nhà nước, đây là chức năng thể hiện sự chỉ đạo dọc, sự đồng bộ hoạt động theo cấp hành chính về thời gian, phối hợp giữa các đơn vị khác nhau, xây dựng cơ chế hoạt động có hiệu quả. Với cách tiếp cận đó đòi hỏi, hoạt động phối hợp lực lượng cần phải giải quyết một số vấn đề
trọng tâm như: Thứ nhất là phối hợp với ai (hay còn được hiểu là việc xác định các lực lượng phối hợp); Thứ hai là phối hợp như thế nào (hay còn được hiểu là việc
50
xác định cách thức phối hợp) và cuối cùng là phối hợp để thực hiện những nội dung gì. Có thể nói, đây chính là những cơ sở lý luận quan trọng cho hoạt động phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý nhà nước nói chung và quản lý đối với người lao động nước ngoài nói riêng.
Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài đây là một lĩnh vực
rộng, nó liên quan đến nhiều chủ thể quản lý với những chức năng khác nhau như:
Ở Trung ương Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm chủ trì,
phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao hướng dẫn thực hiện trình tự hợp pháp hóa lãnh sự, lý lịch tư pháp, thẻ tạm trú, thường trú, cấp giấy phép lao động, gia hạn giấy phép lao động và cấp lại giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Đối với hoạt động nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại và hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam của người nước ngoài thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Công an; Bộ Tư pháp là cơ quan cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người lao động nước ngoài trước khi họ làm thủ tục xin giấy phép lao động tại Việt Nam hay Bộ Công thương là
cơ quan có trách nhiệm hướng dẫn căn cứ, trình tự, thủ tục để xác định đối tượng là người nước ngoài di chuyển nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi các ngành dịch vụ trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại Thế giới của mười một ngành dịch vụ bao gồm: kinh doanh; thông tin; xây dựng; phân phối; giáo
dục; môi trường; tài chính; y tế; du lịch; văn hóa giải trí và vận tải…
Ở địa phương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là chủ thể quản lý trực tiếp đối với người lao động nước ngoài trong phạm vi địa
phương thực hiện các chức năng như: Chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; Kiểm tra, thanh tra; Xử lý vi phạm các quy định về việc tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc trên địa bàn; Chỉ đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương và các cơ quan, tổ chức có
liên quan để giới thiệu, cung ứng người lao động Việt Nam cho nhà thầu nước ngoài; Xem xét, quyết định việc cho phép nhà thầu nước ngoài được tuyển người nước ngoài vào các vị trí công việc không tuyển được lao động Việt Nam…
Theo đó, có thể thấy rằng trong thực hiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, cơ quan hành chính cấp Trung ương chủ yếu ban hành các văn bản, quy định và hướng dẫn tổ chức thực hiện; cơ quan hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan trực tiếp thực hiện, giải
quyết các thủ tục, vấn đề phát sinh về lao động nước ngoài. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài
51
đồng thời đảm bảo tính thống nhất trong triển khai các hoạt động quản lý, yêu cầu tất yếu khách quan là phải tăng cường hoạt động phối hợp giữa các lực lượng, các cơ quan hành chính nhà nước ở các cấp.
2.1.3.6. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động
nước ngoài
Thanh tra là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá, nhận xét tình hình thực tế hoạt động do cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tiến hành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Xử lý vi phạm là hoạt động áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả của cơ quan quản lý nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm kỷ luật, pháp luật.
Trong hoạt quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài, các hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm giúp đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước; ngăn ngừa, phát hiện và khắc phục những tiêu cực phát sinh trong phạm vi quản lý nhà nước đối với người
lao động nước ngoài; thể hiện vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong điều tiết, giải quyết mâu thuẫn xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi tiến hành
thanh tra, kiểm tra phải kết hợp đa dạng các hình thức, đảm bảo tính nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật. Xử lý vi phạm phải đảm bảo tính kịp thời, minh bạch, đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt đối tượng của hoạt động xử lý vi phạm pháp luật này khá đặc biệt đó là những người nước ngoài. Việc áp dụng các hình thức xử
lý vi phạm đối với người nước ngoài còn chịu tác động ảnh hưởng bởi những yếu tố về chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hóa… Quá trình xử lý không những tuân thủ đúng quy trình, thủ tục pháp luật quốc gia quy định còn đảm bảo những
quy định của luật pháp quốc tế.
2.1.3.7. Hợp tác quốc tế trong quản lý người lao động nước ngoài Hợp tác quốc tế là một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài nói riêng, gắn liền
với chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Đặc biệt, đối tượng quản lý của hoạt động này là người nước ngoài. Do đó, trước yêu cầu của hoạt động quản lý đối
52
với đối tượng này và chức năng đối ngoại của Nhà nước, công cụ để quản lý nhà nước đối với đối tượng này bên cạnh pháp luật quốc gia còn pháp luật quốc tế được sử dụng thường xuyên, tác động trực tiếp đến đối tượng quản lý là người lao động nước ngoài. Do đó, nội dung hợp tác quốc tế trong quản lý người lao động nước
ngoài trở thành một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước đối với đối tượng này. Hợp tác quốc tế trong quản lý người lao động nước ngoài là một xu thế tất yếu khách quan trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Hợp tác quốc tế giúp tạo điều kiện và
mở rộng khả năng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài đảm bảo tính mục đích trong hoạt động quản lý với đối tượng này đặc biệt đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi làm việc, cư trú tại Việt Nam.
Khi hợp tác quốc tế trong quản lý người lao động nước ngoài cần đảm bảo
yêu cầu chính trị, ngoại giao; quá trình hợp tác quốc tế trong quản lý đối với lực lượng này phải đảm bảo độc lập, chủ quyền, bảo vệ lợi ích quốc gia của Việt Nam; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài khi làm việc tại
Việt Nam.
Để hợp tác quốc tế trong quản lý đối với người lao động nước ngoài cần xác định vấn đề cần hợp tác. Đây là việc xem xét, lựa chọn vấn đề hợp tác cụ thể giữa các bên trong quản lý lao động nước ngoài. Nội dung vấn đề cần hợp tác thường là:
thông tin, cung cấp tài liệu liên quan đến người lao động nước ngoài; trao đổi kinh nghiệm trong quản lý đối với lực lượng này của mỗi quốc gia; xác minh, điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài; xây dựng mối quan
hệ giữa các cơ quan thực thi pháp luật các nước; thông tin về lý lịch tư pháp; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý lao động nước ngoài. Tiếp đó cần lựa chọn hình thức hợp tác quốc tế về bảo vệ an ninh quốc gia. Có thể là: Đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, các hiệp định đa phương, hiệp
định song phương… liên quan đến lao động nước ngoài; Tham gia các tổ chức quốc tế; Tổ chức, tham gia các cuộc họp giao ban, diễn đàn, hội nghị về lao động nước ngoài; Cử cán bộ, giảng viên của cơ quan quản lý ra nước ngoài làm việc, học tập
dài hạn, ngắn hạn; Hội nghị, hội thảo quốc tế; Tham quan học tập kinh nghiệm quản lý, khảo sát tìm kiếm hợp tác quốc tế về lao động nước ngoài. Trọng tâm là cần tổ chức thực hiện các mặt hoạt động cụ thể trong hợp tác quốc tế trong quản lý lao động nước ngoài, như: Thực hiện chế độ thông tin, trao đổi, phối hợp theo các nội
dung hợp tác quốc tế; Theo dõi, đôn đốc các bên thực hiện nghiêm túc quy định hợp tác quốc tế; Sơ kết, tổng kết kịp thời phát hiện, điều chỉnh những hạn chế, bất cập,
53
rút kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quản lý đối với người lao động nước ngoài.
2.1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài
Hiệu quả nói chung và hiệu quả quản lý hành chính nhà nước nói riêng là phạm trù phức tạp, không đơn giản để có thể đưa ra định nghĩa ngắn gọn, bao quát về nó bởi vì cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nội hàm của từ này ngày
càng phong phú.
Trong tài liệu nghiên cứu “Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam”, PGS, TS Nguyễn Đăng Thành, Nhà xuất bản Lao động, hiệu quả hành chính được hiểu như sau:
Hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của khoa học hành chính, là sự so sánh giữa các chi phí đầu vào với giá trị các đầu ra, sự gia tăng tối đa lợi nhuận và giảm tối thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu
ra – đầu vào. Hiệu quả phản ánh giá trị của các nguồn lực đã chi dùng.
Hiệu quả quản lý hành chính nhà nước là kết quả thực hiện một chủ trương, chính sách được xác định qua việc so sánh các kết quả đạt được với toàn bộ các nguồn lực đã sử dụng. Hiệu quả thể hiện ở kết quả đạt được là tối
đa, chi phí thì tối thiểu. Như vậy, khái niệm hiệu quả quản lý hành chính nhà nước được làm rõ thông qua các phạm trù như đầu vào (chi phí, nguồn lực), mục tiêu, kết quả (đầu ra).
Kết quả quản lý được đánh giá thông qua mức độ đạt được mục tiêu đề ra của hoạt động quản lý. Hiệu quả quản lý được đánh giá thông qua so sánh giữa kết quả với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Theo đó, có thể hiểu khái quát về “Hiệu quả quản lý hành chính nhà nước” là sự so sánh, đối chiếu các kết quả của quản lý hành
chính nhà nước đạt được với toàn bộ nguồn lực được sử dụng.
Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước đối với người nước ngoài là việc xác định các tiêu chí đánh giá đối với hoạt quản lý người lao động nước ngoài từ đó tiến
hành phân tích, nghiên cứu và đo lường kết quả thực tế của hoạt động quản lý trong mối tương quan với nguồn lực.
Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước trên một lĩnh vực nói riêng có nhiều tiêu chí và cách tiếp cận khác nhau để lựa chọn tiêu chí,
phân tích, nghiên cứu, đo lường kết quả thực tế so với nguồn lực. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tiếp cận đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước đối với người
54
lao động nước ngoài từ góc độ lý thuyết quản lý công mới. Theo lý thuyết quản lý công mới dựa trên các tiêu chí hiệu quả nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn quản lý trong các điều kiện của nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau.
Hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài dựa trên tính phù hợp, khả thi, minh bạch, công khai, an toàn, chuyên nghiệp, nhân đạo xã hội… thể hiện ở khả năng thực hiện trong khuôn khổ pháp luật quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài các mục tiêu và giá trị công bố công khai.
2.1.4.1. Tiêu chí khả thi Tính khả thi của hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài thể hiện ở chỗ mục tiêu của hoạt động quản lý này có thiết thực không, có phù hợp với
hoàn cảnh thực tế của quốc tế, quốc gia và từng địa phương không. Các mục tiêu có khả năng hiện thực hóa không, có phù hợp với điều kiện, năng lực của chủ thể quản lý không. Xem xét tính khả thi của hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài cần quan tâm đến việc xác định các nguyên nhân làm xuất hiện vấn đề người lao động nước ngoài và thời điểm phù hợp để tổ chức các hoạt động quản lý, hay nói cách khác là xác định tính tất yếu khách quan của hoạt động quản lý, cũng như vai trò của hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước
ngoài trong điều kiện hiện nay. Tính khả thi của hoạt động quản lý đánh giá mức độ ủng hộ, tích cực tham gia của các chủ thể quản, các đối tượng quản lý với kết quả thực tế đạt được trong quá trình triển khai các hoạt động quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài. Tính khả thi là căn cứ để các nhà hoạch định chính sách tiến hành điều chỉnh chính sách, loại bỏ những yếu tố tác động không như mong muốn để tiến tới hoàn thiện hoạt động quản lý đối với lĩnh vực này. Đánh giá tính khả thi của hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài trên cơ
sở các hoạt động quản lý cụ thể của trung ương và của các địa phương vùng kinh tế trọng điểm trong tổ chức, triển khai các hoạt động cụ thể trong thực tiễn quản lý.
2.1.4.2. Tiêu chí phù hợp
Tính phù hợp là căn cứ đảm bảo tính khả thi của quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài, đó chính là nội dung bên trong của hoạt động này. Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được coi là hoàn thiện phải đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ bản về mặt nội dung sau đây: Thứ nhất, phù hợp
với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đường lối đối ngoại nói chung và thu hút nguồn nhân lực nước ngoài nói riêng. Thứ hai, phù hợp với các điều kiện
55
chính trị, kinh tế, xã hội ở từng thời điểm, từng khu vực. Yêu cầu về tính phù hợp của hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài thể hiện sự tương quan giữa hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài với sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội ở mỗi thời kỳ phát triển, với điều
kiện đặc trưng của từng vùng. Thứ ba, phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay. Thứ tư, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn
mực của luật pháp quốc tế đối với lao động quốc tế. Tiêu chí này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của người lao động nước ngoài phải được thiết kế phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực pháp luật quốc tế, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong quản lý đối với người lao động nước
ngoài từ việc tổ chức lực lượng, cũng như những các hoạt động quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú… bảo đảm thể chế quản lý đối với người lao động nước ngoài trở thành cầu nối trong hội nhập quốc tế, đồng thời phải phù hợp với truyền thống và
điều kiện kinh tế, chính trị của Việt Nam.
2.1.4.3. Tiêu chí minh bạch, công khai Trong một xã hội ngày càng dân chủ thì hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài càng phải được minh bạch, công khai, phải trở thành
những đại lượng mang tính phổ thông và dễ dàng tiếp cận.
Theo từ điển Tiếng Việt, “Công khai là việc không giữ gìn, mà để mọi người đều có thể biết”, “Minh bạch là rõ ràng, rành mạch”. Trong hoạt động quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài, công khai có nghĩa là mọi hoạt động của Nhà nước - chủ thể quản lý phải được công bố và phổ biến, truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho đối tượng quản lý (lao động nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài) có thể tiếp cận được các quyết định của Nhà
nước một cách dễ dàng; minh bạch có nghĩa là không những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin. Như vậy, có thể hiểu tiêu chí công khai, minh bạch trong
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là việc làm cho mọi người có thể biết và hiểu cơ quan quản lý nhà nước có chức năng, nhiệm vụ gì, hoạt động như thế nào trong khuôn khổ phù hợp với thực tiễn và các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật điều chỉnh đối với lao động nước ngoài nói riêng.
2.1.4.4. Tiêu chí an toàn
56
Tiêu chí an toàn trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tức là tiêu chí hướng đến đảm bảo tính ổn định của chính trị, hệ thống chính trị. Hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài bên cạnh phát huy nguồn ngoại lực trong phát triển kinh tế xã hội còn hướng đến, góp phần bảo đảm
an toàn chính trị. Tiêu chí an toàn ở đây chính là sự ổn định về chính trị với vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, hoạt động của chính quyền địa phương tạo ra môi trường ổn định, an toàn trong quản lý hoạt động của người
lao động nước ngoài. Tính an toàn trong đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được thể hiện ở nhiều khía cạnh như: xây dựng, ban hành văn bản quản lý tạo điều kiện thu hút, sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động nước ngoài, đồng thời hướng đến ổn định chính trị như ban hành các quy định cấm
sử dụng lao động phổ thông, ban hành các chế tài xử lý vi phạm đối với những hành vi vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài tại Việt Nam, ban hành các quy định về điều kiện người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam (lý lịch tư
pháp, giấy phép lao động…); tổ chức các hoạt động quản lý xuất, nhập cảnh, cư trú của người lao động nước ngoài hướng đến tính an toàn khi quy định cụ thể quy trình nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, giới hạn những trường hợp nào được, chưa được nhập cảnh, xuất cảnh, được đăng ký tạm trú, thường trú tại Việt Nam; tổ chức tuyên
truyền, phố biến giáo dục pháp luật đối với người lao động ngước ngoài; tiến hành xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh; pháp luật về lao động… đảm bảo tính răn đe, hạn chế và hướng đến hoạt động tuân thủ
chấp hành pháp luật của người lao động nước ngoài.
2.1.4.5. Tiêu chí chuyên nghiệp Tính chuyên nghiệp trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được thể hiện ở phương pháp ra quyết định, đảm bảo ổn định của đội ngũ
quản lý. Song đánh giá tính chuyên nghiệp của hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài, thường đánh giá ở tính chuyên nghiệp của lực lượng quản lý. Theo đó, tính chuyên nghiệp của lực lượng quản lý nhà nước đối với người
lao động nước ngoài được thể hiện ở cách làm việc bài bản, thông suốt theo một trình tự chặt chẽ, thành thạo, có kỹ năng theo quy trình đã được xác định và đạt hiệu quả cao. Lực lượng quản lý làm việc có tính chuyên nghiệp thể hiện sự am hiểu, có kiến thức, chứng tỏ kỹ năng làm việc tốt và có thái độ chuẩn mực đối với công việc
của mình. Những biểu hiện cụ thể tính chuyên nghiệp của lực lượng quản lý trong tổ chức các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài như:
57
Thứ nhất, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ về tổ chức, triển khai các nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài mà lực lượng quản lý đảm nhận. Kiến thức cần tích lũy trong suốt thời gian làm việc là kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên môn hẹp và kiến thức cần thiết để xử lý các tình huống xảy ra; Thứ hai, kỹ
năng thực hiện công việc. Nếu kiến thức là sự hiểu biết về công việc thì kỹ năng chính là cách thức làm việc, là tổ chức triển khai công việc. Người có kỹ năng làm việc là người tổ chức tốt công việc, làm việc một cách thành thực, trôi chảy có kết
quả tốt. Người chưa có kỹ năng làm việc thường vụng về. Kỹ năng làm việc cần tập, rèn nhiều mới có được; Thứ ba, xây dựng quy trình công việc. Công việc cần được chia thành các phần việc nhỏ khác nhau và được sắp xếp tiến hành theo trình tự cần thiết nhất định. Khi thực hiện các thao tác để hoàn thành từng phần việc nhỏ, thì
từng bước, cán bộ quản lý đã thực hiện hoàn thành các phần việc theo trình tự được sắp xếp theo quy định và kết quả công việc được hoàn thành theo những chuẩn mực đề ra từ trước; Thứ tư, các yếu tố bổ trợ khác, như môi trường làm việc, cách thức
lãnh đạo, quản lý, thái độ làm việc, tình trạng sức khỏe, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, xử phạt đều là những yếu tố có tác dụng ảnh hưởng trực tiếp đến tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài.
2.1.4.6. Tiêu chí nhân đạo xã hội Tiêu chí nhân đạo xã hội là yêu cầu tự nhiên của quản lý trong hệ thống xã hội, cho phép tạo ảnh hưởng qua lại giữa các tiểu hệ thống quản lý và bị quản lý.
Tính nhân đạo xã hội trong hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài thể hiện cụ thể: Thứ nhất, ở đặc điểm chủ thể quản lý tạo ra khung pháp lý với các quy định pháp luật hướng tới bảo vệ quyền lợi cho người lao động nước ngoài (quyền làm việc, quyền cư trú, quyền đi lại, quyền sở hữu) trên cơ sở thống
nhất với pháp luật quốc tế, quốc gia; Thứ hai, cơ quan hành chính Nhà nước, các chủ thể quản lý được Nhà nước trao quyền không được quan liêu, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà cho người lao động nước ngoài khi thi hành công vụ. Song sự
cưỡng bức của chủ thể quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm để mọi vi phạm phải được xử lý chứ không phải chỉ nhằm để trừng phạt.
58
2.1.5. Một số yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm
Mọi quá trình xã hội đều chịu sự tác động, ảnh hưởng nhất định của những yếu tố chủ quan và khách quan. Quản lý nhà nước đối với người lao động nước
ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm chịu sự tác động, ảnh hưởng của một số yếu tố chủ yếu sau:
2.1.5.1. Yếu tố chính trị
Chính trị là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm. Một nền chính trị tiến bộ, ổn định, nhất quán rõ ràng sẽ có ảnh hưởng tốt tới việc xây dựng, ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật. Quản lý nhà nước cũng là một dạng hoạt động chính trị. Tính chính trị thể hiện ngay trong công cụ, phương tiện quản lý của nhà nước là pháp luật (pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp lãnh đạo). Một nền chính trị thiếu ổn định không thể sản sinh
ra công cụ quản lý hữu hiệu, không thể có cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát một cách khoa học, không thể đảm bảo tính công bằng trong xử lý vi phạm pháp luật.
Sự ảnh hưởng của chính trị tới quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm còn thể hiện ở khía cạnh thể chế chính trị.
Nếu nhà nước được xây dựng theo chế độ tập quyền, quyền lực tập trung ở Trung ương thì nội dung quản lý nhà nước sẽ khác so với nhà nước được xây dựng theo chế độ tản quyền (quyền lực phân chia cho các vùng lãnh thổ). Nếu theo chế độ tản
quyền, mỗi vùng lãnh thổ sẽ có chính quyền vùng (trường hợp một số nước Tây Âu). Khi đó, việc quản lý một vùng sẽ được sử dụng những công cụ, phương tiện không phải chỉ là quy hoạch hay kế hoạch, chương trình phát triển vùng nữa, mà khi đó sẽ có luật pháp của vùng được sử dụng để quản lý. Về chủ thể quản lý, theo chế
độ tản quyền thì mỗi vùng sẽ có chủ thể riêng của vùng (chung cho các tỉnh trong vùng). Ở Pháp, 21 vùng lãnh thổ đều có Hội đồng vùng và Trưởng vùng có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý vùng. Hoặc ở Mỹ cũng có tổ chức vùng với
chức danh Trưởng vùng. Nếu theo chế độ tập quyền thì vùng chỉ có ý nghĩa tương đối về lãnh thổ, mà không có ý nghĩa về mặt hành chính nhà nước, tức là không có chính quyền riêng của một vùng. Đối với Việt Nam, quản lý nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc tập trung có sự phân công, phối hợp hợp lý, kết hợp quản lý
theo ngành và theo lãnh thổ, không có chính quyền vùng riêng. Đây là yếu tố có
59
tính hai mặt: nó có thể đảm bảo tính thống nhất trong quản lý chung cho cả nước, nhưng cũng có thể chính nó lại làm yếu đi tính liên kết vùng.
Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách phát triển kinh tế vùng của Đảng ta là yếu tố chi phối, tác động mạnh mẽ
đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm. Chủ trương của Đảng ta về phát triển những vùng kinh tế động lực, xây dựng những khu vực kinh tế - hành chính có quy chế quản lý đặc biệt để phát triển hàng hóa xuất
khẩu, là định hướng đúng đắn cho việc xây dựng và áp dụng những giải pháp phối hợp, những cơ chế quản lý có tính đặc thù cho các vùng kinh tế trọng điểm.
2.1.5.2. Yếu tố pháp luật Nhìn từ góc độ chung nhất, sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật đến quản lý
nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm trước hết thể hiện ở chất lượng xây dựng và ban hành pháp luật. Việc xây dựng, ban hành pháp luật được thực hiện một cách khoa học, hợp lý thì nhà nước sẽ có được một
công cụ tốt, công cụ có hiệu lực thực thi. Ngược lại, nếu chất lượng xây dựng không tốt thì không thể có một hệ thống pháp luật hoàn hảo làm công cụ quản lý.
Hệ thống văn bản pháp luật chính là công cụ quan trọng nhất trong quản lý nhà nước. Nếu hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với pháp luật, tập quán, thông
lệ quốc tế, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn lĩnh vực lao động nước ngoài thì việc giải thích, tuyên truyền, thực hiện, áp dụng cũng dễ dàng, thuận lợi. Việc xử lý những vi phạm pháp luật trong trường hợp này cũng dễ dàng hơn. Nói như thế để
thấy rằng chất lượng công tác xây dựng, ban hành pháp luật, chất lượng hệ thống pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc quy định nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm. Đồng thời cũng từ đó nó góp phần quyết định tới hiệu quả và hiệu lực quản lý. Vai trò và giá trị của pháp luật
đối với người lao động nước ngoài thể hiện ở chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực này theo hai hướng chính: vừa điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực người lao động nước ngoài sao cho đảm bảo tính trật tự theo pháp luật, vừa
phải bảo đảm cho các quan hệ đó phát triển lành mạnh. Trong lĩnh vực lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm, các quan hệ ngày càng phong phú, đa dạng, dẫn đến nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ ngày càng trở nên bức thiết. Sự can thiệp của pháp luật, những cơ chế quản lý cũ trở ngại việc thu hút
nguồn nhân lực nước ngoài và quản lý hoạt động của người lao động nước ngoài sẽ bị xóa bỏ và thiết lập cơ chế mới hiệu quả hơn.
60
2.1.5.3. Năng lực tổ chức và trách nhiệm thực hiện pháp luật của các chủ thể Lý luận nhà nước và pháp luật đã làm sáng tỏ vấn đề: Trình độ phát triển của pháp luật không thể cao hơn trình độ phát triển của nền văn hóa – kinh tế xã hội. Cho nên, những yếu tố này cũng có những tác động, ảnh hưởng đến quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm. Sự tác động, ảnh hưởng thể hiện ở chỗ năng lực tổ chức và trách nhiệm thực hiện pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật trong lĩnh vực lao động nước ngoài có thể
nâng cao hoặc làm hạn chế hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Khi các chủ thể quản lý có năng lực và trách nhiệm cao thì quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, vận hành cơ chế quản lý sẽ đạt hiệu quả cao. Điều đó thể hiện ở chỗ các chủ thể quản lý sẽ xây dựng chính sách, cơ chế quản lý hợp lý, nhận thức
một cách đúng đắn, đầy đủ và có những phương pháp tổ chức các hoạt động quản lý (thực hiện các thủ tục cấp phép, kiểm tra sau cấp phép, xử lý vi phạm...) ngày một hợp lý hơn, tiên tiến hơn, thu hút được người lao động nước ngoài chất lượng cao
vào làm việc và kiểm tra, giám sát các hoạt động của họ, bảo đảm cho nó được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Chủ thể quản lý thường xuyên nghiên cứu, cải tiến các thủ tục theo đúng định hướng cải cách tư pháp của nước nhà sẽ tạo ra môi trường thuận lợi, sự bình đẳng và minh bạch trong quản lý. Đây là những điều mong
muốn của tất cả các nhà đầu tư nước ngoài khi mang theo nguồn nhân lực của nước mình vào để thực hiện các dự án đầu tư. Các chủ thể quản lý cũng sẽ xây dựng và sử dụng những phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật một cách
hiệu quả giúp cho người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước ngoài nhận thức đúng, từ đó có tình cảm, có ý thức và sự tuân thủ pháp luật của Việt Nam khi đến các vùng kinh tế trọng điểm làm việc. Đặc biệt, trong trường hợp này, ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể sẽ cao hơn và việc tuân thủ pháp
luật cũng tốt hơn do các chủ thể nhận thức được tính tất yếu của những quy tắc ứng xử theo pháp luật Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước đã quản lý một cách có hiệu quả đối với hoạt động của người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm. Ngược lại, nếu các chủ thể quản lý thiếu năng lực và trách nhiệm trong quản lý thì quá trình quản lý sẽ trì trệ, chính sách, pháp luật sẽ thiếu minh bạch, thủ tục rườm rà gây khó khăn cho người lao động nước ngoài, không phát huy được nguồn lực nước ngoài.
Đối với các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật như người lao động nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài có tình cảm và trách nhiệm cao trong
61
việc tuân thủ pháp luật Việt Nam thì họ sẽ thực hiện đúng bổn phận, trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật, không vi phạm. Điều đó đem lại một môi trường làm việc thuận lợi, tránh được những phức tạp nảy sinh.
2.1.5.4. Lợi thế so sánh và nhu cầu phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
Lợi thế so sánh và nhu cầu phát triển các vùng kinh tế trọng điểm là một yếu tố tác động và ảnh hưởng mạnh đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại các vùng này.
Vùng kinh tế trọng điểm là những vùng có lợi thế so sánh rất rõ nét so với các vùng khác, đều là những vùng có tiềm năng rất lớn cho sự phát triển. Tiềm năng của các vùng thể hiện trên các khía cạnh: vị trí địa lý trung tâm của 03 miền Bắc, Trung, Nam; trong mỗi vùng đề có những đô thị lớn, giữ vai trò trung tâm kinh tế, văn hóa
của cả miền; có quỹ đất lớn, thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất; cơ sở hạ tầng như: hệ thống giao thông và các dịch vụ công, hệ thống các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao của các vùng kinh tế
trọng điểm rất được chú ý phát triển; nguồn nhân lực tập trung tại 03 vùng kinh tế trọng điểm; trình độ dân trí của 03 vùng này cũng cao hơn hẳn các vùng còn lại.
Với những lợi thế trên đây, các vùng kinh tế trọng điểm được xác định phải tập trung thu hút mạnh mẽ các nguồn lực, trong đó rất coi trọng nguồn lực từ đầu tư
nước ngoài để phát triển sớm, phát triển trước tạo đà thúc đẩy các vùng khác phát triển. Để làm được điều này, cần có những chính sách, cơ chế quản lý có tính đặc thù đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và hoạt động của lực lượng lao động làm
việc tại các vùng này. Nếu thực hiện chính sách có tính cào bằng, khó có thể tạo nên sự đột phá trong phát triển.
Riêng với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thực tế phát triển những năm qua cho thấy đây là một vùng có tiềm năng lớn, có vị trí, vai trò đặc biệt trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Đây là vùng duy nhất trong cả nước hiện nay có thể phát triển cả công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, nhất là phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và
sản phẩm hóa dầu, dịch vụ tài chính - ngân hàng... Với những tiềm năng trên, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã có đóng góp to lớn vào sự phát triển của cả nước. Chỉ riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã đóng góp gần 30% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của cả nước. Thu hút đầu tư nước ngoài vào vùng này cũng chiếm 63,84%
số dự án và 59,08% tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện nay, vùng này càng cần được tập trung đầu tư
62
cao và xây dựng phát triển thành một trong những vùng kinh tế phát triển năng động nhất, có tốc độ tăng trưởng nhanh vượt trước, chuyển dịch cơ cấu nhanh và đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước.
Chính lợi thế so sánh, nhu cầu phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm nói
chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng đòi hỏi quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài phải có phương pháp riêng, giải pháp riêng cho khu vực này.
2.1.5.5. Cơ chế quản lý Trong quản lý nhà nước, cơ chế quản lý là yếu tố có ý nghĩa rất quyết định đến hiệu quả và hiệu lực quản lý. Nếu cơ chế quản lý khoa học, phù hợp với đặc điểm của đối tượng quản lý thì cơ chế sẽ giúp cho quá trình quản lý đạt hiệu quả
mong muốn và ngược lại.
Đối với lĩnh vực người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm, nếu cơ chế quản lý thông thoáng, hợp lý sẽ có tác dụng to lớn, thể hiện ở chỗ vừa thu
hút được đông đảo nguồn nhân lực nước ngoài chất lượng cao đến làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng thực hiện các hoạt động quản lý.
Cơ chế quản lý phù hợp là điều kiện quan trọng, quyết định trong việc phát
huy lợi thế so sánh của các vùng kinh tế trọng điểm so với các vùng kinh tế khác, phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy vùng phát triển theo đúng định hướng, đảm bảo vai trò đầu tàu cho sự phát triển của cả nước. Ngược lại, nếu cơ chế quản lý không phù
hợp sẽ cản trở việc huy động các nguồn lực, cản trở sự phát triển. Cơ chế quản lý phù hợp là cơ chế mà trong đó phân định rõ trách nhiệm lãnh đạo, trách nhiệm quản lý, trách nhiệm thực thi của các chủ thể. Xác định rõ, đúng đắn nguyên tắc phối kết hợp trong hoạt động quản lý giữa các Bộ, Ngành với các tỉnh trong vùng và giữa các tỉnh
trong vùng kinh tế trọng điểm với nhau nhằm tránh tình trạng chồng chéo, trùng giẫm hoặc cạnh tranh lẫn nhau dẫn đến tự hạn chế và triệt tiêu lợi thế so sánh. 2.2. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO
ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
2.2.1. Đáp ứng yêu cầu khách quan của quá trình toàn cầu hóa và tự do
kinh tế
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, việc đưa lao động từ nước này sang nước
khác hay còn gọi là xuất khẩu lao động (đối với nước đưa lao động nước mình ra nước ngoài) và nhập khẩu lao động (đối với nước tiếp nhận lao động từ nước ngoài
63
vào) thường được gọi với thuật ngữ quốc tế chung nhất là “di cư lao động”. Tìm hiểu về lịch sử quá trình di cư lao động cho thấy, đây là hiện tượng đã có từ rất lâu trong lịch sử quan hệ kinh tế quốc tế và nó được coi là một xu thế tất yếu khách quan trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế các quốc gia có quan hệ với nhau trên nhiều lĩnh vực nhất là quan hệ trên lĩnh vực kinh tế và đặc biệt là nhu cầu về sức lao động còn rất lớn trên thị trường lao động quốc tế cho nên việc lao động di cư từ nước này sang nước khác
hay còn gọi là trao đổi lao động giữa các nước là nhu cầu tất yếu khách quan.
Trước quá trình di cư lao động quốc tế đang diễn ra nhanh và mạnh giữa các quốc gia và khu vực trên thế giới như hiện nay thì mỗi quốc gia phải tổ chức các hoạt động quản lý đối với lực lượng này là một yêu cầu tất yếu khách quan. Với Việt Nam
cũng không nằm ngoài yêu cầu chung đó. Trong thời gian qua, việc tổ chức các hoạt động quản lý của cơ quan chức năng đối với người lao động nước ngoài được tiến hành với nhiều hoạt động tác nghiệp hướng đến việc tận dụng tối đa nguồn lực này
cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà; đảm bảo hoạt động của người lao động nước ngoài tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.
2.2.2. Đảm bảo thực thi chính sách đối ngoại của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
nước ngoài
Để phát triển đất nước, Đảng ta đã chủ trương tăng cường mở rộng và chủ động hội nhập quốc tế với những bước đi thích hợp. Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta
chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc “cùng tồn tại hòa bình”, “ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại” [39, tr.77]. “Tăng cường mở rộng quan hệ với các nước... trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi” [39, tr.84]. Các kỳ Đại hội Đảng sau đó, chủ trương này của Đảng đã được phát
triển thêm theo tinh thần “mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” [39, tr.213]; “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ
chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” [39, tr.213]; “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [39, tr.363]; “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới” [39, tr.479]; “Đa dạng hóa và
đa phương hóa các quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi” [39, tr.263].
64
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế” [39, tr.479]. “Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế... bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa
phương...” [39, tr.526]. Đại hội X của Đảng nhất quán và tiếp tục phát triển đường lối “mở cửa”, hội nhập kinh tế của các đại hội trước, khẳng định việc nhất quán chính sách “đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các qua hệ quốc tế.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” [39, tr.645 – 647]. Tiếp tục khẳng định “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [39, tr.645].
Từ những chính sách này của Đảng, Nhà nước ta đã thể chế hóa thành luật, đưa nó vào hiện thực trong đời sống chính trị - xã hội, nhờ đó thúc đẩy mạnh mẽ và đảm bảo tính chủ động trong tiến trình hợp tác và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Đặc biệt, đối với lĩnh vực lao động có yếu tố nước ngoài, Nhà nước đã xây dựng một hành lang pháp lý cơ bản đầy đủ và chặt chẽ để tổ chức quản lý đối với lực lượng này như: Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam... bên cạnh đó Chính phủ ban hành nhiều
Nghị định điều chỉnh lĩnh vực này nhằm mục đích thể chế hóa chính sách của Đảng thành luật; bảo đảm việc thực thi các chính sách đối với người lao động nước ngoài trong thực tiễn hướng đến đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của lực lượng này khi
làm việc, cư trú, sinh sống tại Việt Nam.
2.2.3. Góp phần phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với xuất phát điểm còn thấp so với một số nước trên thế giới và khu vực nên việc nhập khẩu
lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn cao để đảm đương các vị trí công việc mà lao động trong nước chưa đủ hoặc chưa đáp ứng được là một nhu cầu tất yếu. Hơn nữa, nước ta xây dựng và phát triển kinh tế từ một đất nước nông nghiệp, lực
lượng lao động chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề thủ công truyền thống. Cho nên khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với tốc độ phát triển kinh tế, nhanh chóng gia nhập vào nền kinh tế toàn cầu
thì có nhiều ngành kinh tế cần nhiều lao động có trình độ cao trên nhiều lĩnh vực mà hiện tại ở Việt Nam chưa đáp ứng được. Điều này đòi hỏi phải có một lực lượng lao
65
động dồi dào trên lĩnh vực này, trong khi đó hiện nay lao động của ta chưa đủ, chưa đáp ứng được nên tất yếu phải nhập khẩu lao động nước ngoài, nhất là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mà chúng ta còn thiếu chưa có người đáp ứng thay thế được; việc sử dụng lao động nước ngoài có tay nghề cao, chuyên môn giỏi
sẽ giúp số lao động Việt Nam tiếp thu được kinh nghiệm cũng như tác phong làm việc công nghiệp hiện đại của họ trong quá trình cộng tác làm việc; bên cạnh những vấn đề trên, về phía các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam mang
theo hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại, song lao động trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng trang thiết bị này nên việc họ sử dụng lao động nước ngoài là cần thiết, tất yếu.
2.2.4. Góp phần giữ ổn định chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích
quốc gia
Trong quá trình người lao động nước ngoài vào làm việc tại các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, họ chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của họ khi làm việc,
cư trú tại Việt Nam mà ít quan tâm đến lợi ích quốc gia, dân tộc của nước sở tại. Do vậy, họ thường ít quan tâm đến những vấn đề như môi trường, văn hóa nước sở tại, quyền và lợi ích chính đáng của người lao động Việt Nam. Có thể nói khác đi rằng thu hút nguồn nhân lực nước ngoài vào Việt Nam luôn mang tính hai mặt: tạo ra
nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển nhưng cũng đặt chúng ta trước những thách thức về chủ quyền quốc gia và các lợi ích khác của đất nước. Dự liệu những vấn đề phức tạp, các văn bản pháp luật liên quan đến người lao động nước ngoài đã
có những quy định nhằm ngăn ngừa những phức tạp này. Mọi hoạt động của các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam phải phù hợp với pháp luật Việt Nam và Nhà nước Việt Nam thực hiện chủ quyền của mình thông qua việc ban hành chính sách, pháp luật quản lý người nước ngoài nói chung và người lao động nước ngoài
nói riêng. Cơ quan quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài thực hiện các biện pháp bảo vệ chủ quyền quốc gia từ khâu xây dựng chiến lược, lập kế hoạch sử dụng, quản lý nguồn nhân lực nước ngoài trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng
ngành nghề... Các văn bản pháp luật này đã tạo ra một cơ chế kiểm soát khá chặt chẽ đối với hoạt động của người lao động nước ngoài, không cản trở hoạt động của họ tại Việt Nam, nhưng vẫn đảm bảo lợi ích quốc gia của phía Việt Nam.
Bằng việc ban hành và tổ chức thực hiện những quy định chặt chẽ trên đây,
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài sẽ góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, người
66
lao động Việt Nam, bảo vệ môi trường, phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của các địa phương trong các vùng kinh tế trọng điểm và của cả vùng.
2.2.5. Bảo đảm phát huy tiềm năng, thế mạnh và sự ảnh hưởng, tác động
tích cực của vùng kinh tế trọng điểm đối với các vùng khác
Mỗi vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam đều có những tiềm năng to lớn và lợi thế so sánh so với các vùng khác. Tiềm năng và lợi thế so sánh của các vùng kinh tế trọng điểm thể hiện trên các mặt tài nguyên tự nhiên; nguồn nhân lực; vị trí
địa lý; tiềm năng kinh tế; trình độ dân trí… Nhờ những tiềm năng và lợi thế này mà lực lượng lao động nước ngoài đến với vùng kinh tế trọng điểm nhiều hơn. Nhưng, những tiềm năng và lợi thế ấy chỉ có thể khai thác và phát huy được nếu có được chính sách, cơ chế phù hợp. Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
tại vùng kinh tế trọng điểm với việc ban hành và tổ chức thực hiện các cơ chế quản lý mang tính đặc thù sẽ tạo ra cơ sở pháp lý để khai thác các tiềm năng, phát huy lợi thế so sánh của các vùng kinh tế trọng điểm.
Bên cạnh đó, nhờ thu hút được nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao từ nước ngoài, các vùng kinh tế trọng điểm có sự phát triển mang tính đột phá. Sự phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ tới các vùng khác và cả nước. Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài với việc ban
hành và tổ chức thực hiện những quy ước phối hợp giữa các vùng, đảm bảo cho các vùng kinh tế trọng điểm thể hiện vai trò đầu tàu phát triển của mình trên các khía cạnh như sớm tạo ra cơ chế để thu hút một lực lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng
cao; thực hiện những cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong quản lý hành chính với lực lượng này; tạo động lực phát triển đột phá trong các ngành công nghiệp, dịch vụ... 2.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở
MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
2.3.1. Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở một số
quốc gia
Ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển trong khu vực và thế giới luôn xem việc phát triển nguồn nhân lực là một mục tiêu hàng đầu; đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc sử dụng những chính sách thu hút và quản lý nguồn lao động chất lượng cao luôn được các quốc gia này đặc biệt chú trọng. Một
số quốc gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này như Canada, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia…
67
Thứ nhất, quản lý lao động nước ngoài tại Canada Cơ quan chịu trách nhiệm chính về quản lý lao động nước ngoài tại Canada là Bộ Nhân lực và Phát triển xã hội Canada. Với đặc điểm của một nước phát triển, hiện nay, thị trường lao động tại Canada đang thiếu một lực lượng lớn lao động
trong nhiều lĩnh vực. Mỗi năm, hàng nghìn lao động đến tuổi về hưu mà chưa có sự thay thế bởi lực lượng lao động trong nước kế tiếp, trong bối cảnh này, Canada sẵn sàng chấp nhận và tuyển dụng một số lượng lớn nhân công, được gọi là nhân công
tạm thời.
Quan điểm của Chính phủ Canada về đối tượng lao động này như sau:
Để có thể duy trì cạnh tranh với quy mô thế giới, chúng ta không chỉ thu hút những tài năng tốt nhất mà còn phải có những thực tiễn tốt nhất để duy
trì hiệu quả. Để đạt được điều này, chúng ta phải dành cho những lao động nước ngoài tạm thời sự bảo vệ quyền lợi cho họ tốt hơn nữa để họ có thể phát triển sự nghiệp, cuộc sống trong môi trường tôn trọng và hiệu quả [2, tr.54].
Hàng năm, hơn 90.000 người lao động nước ngoài đến Canada để làm việc tạm thời trong những ngành nghề thiếu hụt lao động người Canada hoặc trong việc chăm sóc người già, trẻ em, người tàn tật tại tư gia. Hầu hết việc làm tạm thời tại Canada đều cần có giấy phép lao động. Tuy nhiên, tùy theo tính chất công việc yêu
cầu, một số công việc và đối tượng doanh nhân không cần thiết phải có loại giấy phép này. Đối với một số công việc, giấy phép được cấp nhanh hơn.
Để đảm bảo việc tuyển dụng đối với người lao động nước ngoài tạm thời
nhanh hơn, hiệu quả hơn, pháp luật Canada cho phép những điều chỉnh linh hoạt trong thủ tục đối với nhân công tạm thời, rút ngắn quá trình tuyển dụng và cấp phép như: kỳ thi tuyển dụng sẽ dễ dàng hơn bằng cách giảm hoặc loại bỏ một số tiêu chí hạn chế nhất định, không cần xin phép đối với người lao động nước ngoài làm việc
trong thời gian ngắn 30 ngày, thời gian hiệu lực tối đa của giấy phép lao động có thể kéo dài từ 36 đến 48 tháng.
Thứ hai, quản lý lao động nước ngoài tại Hàn Quốc
Hàn Quốc mở cửa thị trường lao động từ khoảng giữa những năm 1980. Bắt đầu từ năm 1987, Hàn Quốc trở thành quốc gia thu hút lực lượng lao động đến từ các quốc gia đang phát triển. Từ đó đến nay, Hàn Quốc luôn chú trọng đến việc thu hút nguồn lao động chất lượng cao với những chính sách hấp dẫn. Đó là, mức lương
hấp dẫn đã thu hút số lượng lớn người nước ngoài tới làm việc tại Hàn Quốc, năm 1999, thu nhập trung bình của lao động Hàn Quốc là trên 20.000 USD/năm. Mức
68
lương cao như vậy đã làm tăng làn sóng lao động di cư vào Hàn Quốc. Theo số liệu thống kê của chính phủ Hàn Quốc, tính đến thời điểm này có hơn 2 triệu người nước ngoài nhập cư vào Hàn Quốc; trong đó có rất nhiều lao động nước ngoài chất lượng cao. Đây chính là yếu tố hàng đầu giúp cho chiến lược trở thành một trong
bảy cường quốc khoa học, công nghệ hàng đầu thế giới vào năm 2025 của Hàn Quốc thành công.
Ngoài ra, đối với các sinh viên hoặc nghiên cứu sinh người nước ngoài,
chính phủ Hàn Quốc có chính sách ưu đãi bằng việc cấp học bổng. Đối với chương trình đào tạo đại học, chính phủ sẽ hỗ trợ học bổng một số ngành, đặc biệt là trong lĩnh vực đòi hỏi lao động chất lượng cao như công nghệ thông tin... Đối với chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, Chính phủ hỗ trợ 100% học phí ở một số trường đại
học. Đặc biệt, Chính phủ ưu đãi cho các du học sinh loại học bổng phòng thí nghiệm hay còn gọi là học bổng giáo sư với thủ tục rất đơn giản: giáo sư Hàn Quốc là người bảo lãnh đóng toàn bộ học phí, tiền nhà, cấp tiền chi tiêu sinh hoạt cho học
viên; kể từ khi giáo sư chấp nhận hồ sơ thì chỉ cần khoảng thời gian vừa đủ cho các thủ tục nhập cảnh, nhập học là du học sinh có thể lên đường đến Hàn Quốc học. Đổi lại, các du học sinh tới phòng thí nghiệm của giáo sư để phụ việc. Như vậy, việc tiếp nhận các du học sinh vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực ở các phòng thí nghiệm,
đồng thời lại thỏa mãn nhu cầu được học lên cao của các học viên nước ngoài.
Nhằm thu hút nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho ngành kinh tế mũi nhọn, Bộ Lao động Hàn Quốc áp dụng chương trình “thẻ vàng” (đa dạng hóa hình thức thị
thực, cấp thị thực nhập cảnh nhiều lần cho các chuyên gia không kể bất kỳ quốc tịch nào, tăng thời hạn cư trú cao nhất kèm theo ưu đãi về cuộc sống và sinh hoạt). Từ chỗ chỉ cấp thẻ vàng cho lao động chất lượng cao trong ngành công nghệ thông tin và thương mại điện tử, Hàn Quốc mở rộng sang các lĩnh vực khác như sinh học,
môi trường, năng lượng, vật liệu mới, thiết bị giao thông vận tải... Những ứng viên đủ tiêu chuẩn được cấp visa E7 làm việc tại Hàn Quốc, thời hạn hợp đồng có thể lên tới 5 năm. Với visa E7, người lao động dễ dàng đi về giữa nước mình và Hàn Quốc
(như nghỉ phép, về thăm gia đình...), được quyền mang theo vợ, con trong thời gian làm việc tại Hàn Quốc, được quyền “đổi” chủ sử dụng lao động khi họ không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Như vậy, có thể nói, Hàn Quốc có hẳn một đơn vị môi giới thẻ vàng hoạt động chính quy, chuyên nghiệp và hiệu quả.
Thứ ba, quản lý lao động nước ngoài tại Singapore
69
Singapore được đánh giá là quốc gia có chính sách thu hút lao động người nước ngoài chất lượng cao bài bản nhất thế giới. Điều này cũng dễ hiểu bởi ngay từ khi mới lên cầm quyền, cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu đã xác định rõ nhân tài là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế. Chính
vì thế, trong suốt những năm qua, thu hút nhân tài, đặc biệt là nhân tài nước ngoài đã trở thành chiến lược ưu tiên hàng đầu của Singapore. Singaprore là quốc gia được tạo dựng nên từ những người nhập cư, Singapore chào đón tất cả những ai có
thể đóng góp phần mình vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Các nhà lãnh đạo Singapore đã tiến hành việc hoạch định chính sách sử dụng người nhập cư (hay còn gọi là chính sách tuyển mộ nhân tài nước ngoài) như đòn bẩy nhân tài ngoại làm cho Singapore phấn đấu liên tục vì những chuẩn mực cao hơn. Singapore
mở cửa tiếp nhận lao động nước ngoài từ những năm 1970 với mục đích tăng số lượng cũng như chất lượng của lao động trong nước. Cho đến nay, số lao động nước ngoài tại Singapore khoảng 2.000.000 người (chiếm khoảng 40% lực lượng lao
động); trong số đó, có nhiều người là lao động lành nghề, có chuyên môn cao làm việc tại Singapore.
Chính phủ Singapore đã nới lỏng đáng kể những giới hạn đối với lao động nước ngoài để thu hút nhân tài đến sinh sống và làm việc. Chính phủ Singapore
tuyển chọn nhân tài dựa trên năng lực, khả năng đóng góp vào sự phát triển của đất nước này chứ không phân biệt quốc tịch, chủng tộc của người nhập cư. Trong năm năm (2006 - 2011), Singapore đã thu hút được một bản danh sách ấn tượng những
nhà khoa học lỗi lạc của thế giới; đặc biệt về các lĩnh vực như giải phẫu thần kinh học, lập trình viên phần mềm, ngân hàng, kinh tế, xây dựng, nghiên cứu khoa học. Vì thế, Tạp chí Foreign Policy xếp Singapore là quốc gia toàn cầu hóa nhất trên thế giới và Singapore được xem là “trung tâm thu hút nhân tài” của thế giới.
Thứ tư, quản lý lao động nước ngoài tại Đài Loan (Trung Quốc) Đài Loan (Trung Quốc) quản lý lao động nước ngoài bằng cấp giấy phép lao động. Giấy phép lao động do Ủy ban Lao Động, Viện Hành chính, Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan) cấp. Giấy phép lao động có thể được gia hạn bởi Ủy ban này. Người lao động nước ngoài phải xuất cảnh trước khi giấy phép lao động hết hạn.
Trong vòng 30 ngày trước hoặc sau ngày mãn hạn 6 tháng, 18 tháng và 30 tháng sau khi người lao động nhập cảnh, người sử dụng lao động phải thu xếp cho
người lao động đi khám sức khỏe và thông báo kết quả kiểm tra sức khỏe cho Nhà chức trách y tế tại đại phương trong vòng 15 ngày sau khi nhận được giấy kết quả
70
khám sức khỏe. Người lao động có quyền giữ hộ chiếu, thẻ cư trú và tài sản khác của mình. Người sử dụng lao động không có quyền giữ những thứ này. Người sử dụng lao động phải làm thủ tục gia hạn thời gian cư trú cho người lao động trước khi hết hạn cư trú.
Người lao động nước ngoài được phép quay lại Đài Loan nếu quan hệ hợp đồng lao động chấm dứt, hoặc giấy phép lao động hết hạn hoặc kết quả khám sức khỏe không đạt yêu cầu, sau đó lại đạt yêu cầu và không vi phạm bất kỳ qui định
pháp luật nào. Sau khi về nước 01 ngày, thì người lao động lại có thể làm thủ tục xin Visa tái nhập cảnh vào Đài Loan làm việc. Tuy nhiên tổng thời gian lao động trong lãnh thổ Đài Loan cộng dồn không được vượt quá chín năm.
Người lao động có thể bị phạt từ 30.000 Đài tê ̣đến 150.000 Đài tê ̣và bi ̣trục
xuất trong thời hạn qui định, không được tiếp tục làm việc trên vùng lãnh thổ Đài Loan, nếu sau khi nhập cảnh vào Đài Loan mà liên tục bỏ việc 03 ngày hoặc mất liên lạc hay làm việc cho người sử dụng lao động bất hợp pháp.
Nếu có tranh chấp phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động về quyền lợi lao động, người lao động có thể trực tiếp tìm đến cơ quan Hành chính lao động của chính quyền thuộc các huyện, thị nơi người lao động làm việc để xin giúp điều đình dàn xếp giải quyết hoặc gọi tới đường dây nóng mà Ủy ban lao động
Đài Loan dành riêng cho lao động nước ngoài để khiếu nại hoặc cũng có thể xin phục vụ khiếu nại tại Trạm phục vụ lao động nước ngoài ở Sân bay quốc tế của Đài Loan (Nhà ga sân bay quốc tế Đào Viên và Nhà ga sân bay quốc tế Cao Hùng).
Thứ năm, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Malaysia Năm 2012 số lao động nước ngoài có đăng ký tại Malaysia là 1.570.000 người, nhưng năm 2013 tăng nhanh rõ rệt lên tới 2.470.000 người chủ yếu làm trong các lĩnh vực như xây dựng, dịch vụ, nông nghiệp, trồng trọt và sản xuất [124,
tr. 7]. Do đó việc quản lý lao động nước ngoài có vai trò rất lớn cho sự phát triển kinh tế, cũng như văn hóa, xã hội ở quốc gia Hồi Giáo này. Ngoài các cơ quan nhà nước có chức năng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài, các tổ
chức thuộc xã hội dân sự cũng có vai trò to lớn trong việc góp phần quản lý đối với lao động nước ngoài, nhất là đóng góp cho việc xây dựng và quyết định chính sách liên quan của Nhà nước. Điển hình là một tổ chức được gọi là “Liên đoàn những người sử dụng lao động Malaysia”. Liên đoàn này dưới sự hỗ trợ của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) nghiên cứu nhằm đưa ra các kiến nghị về chính sách để làm sao thúc đẩy việc quản lý có hiệu quả lao động nước ngoài đối với Chính phủ Malaysia.
71
Đây là một cách thức tác động tới chính sách và pháp luật quản lý lao động nước ngoài rất có hiệu quả bởi: hơn ai hết những người chủ sử dụng lao động là những người có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài; người sử dụng lao động là những người gần gũi với lao động nước ngoài nhất và hiểu nhất về những phản ứng của
người lao động nước ngoài đối với pháp luật và chính sách, cũng như sự tác động tích cực hay tiêu cực của chính sách và pháp luật như vậy đối với lao động nước ngoài và hiệu quả của sản xuất, kinh doanh. Thực vậy trong Dự án về “mối quan hệ
tay ba” mang tên “The International Labour Organization (ILO) GMS TRIANGLE project” tổ chức này đã nghiên cứu về tuyển dụng, sử dụng và đưa về nước đối với lao động nước ngoài. Qua đó đưa ra các kiến nghị về pháp luật, thủ tục và cách thức tốt nhất để người sử dụng lao động tuân thủ pháp luật, mặt khác hướng dẫn vấn đề
cải thiện sản xuất, tránh tranh chấp lao động và thúc đẩy mối quan hệ lao động hài hòa, đồng thời giúp Chính phủ quản lý hiệu quả lao động nước ngoài [124, tr.1].
Hiện nay Đạo luật về Lao động năm 1955 của Malaysia vẫn có hiệu lực,
Đạo luật này có mục đích: (1) cung cấp những lợi ích tối thiểu cho những người lao động; (2) thiết lập một số quyền cho cả người lao động và người sử dụng lao động [24, tr. 6]. Để quản lý lao động nước ngoài, Đạo luật này chia lao động nước ngoài thành hai loại là lao động nước ngoài hợp pháp và lao động nước ngoài bất hợp
pháp. Lao động nước ngoài hợp pháp là người được thuê lao động và có Giấy phép lao động tạm thời do Bộ Nhập cư cấp.
Đối với người sử dụng lao động và lao động nước ngoài bất hợp pháp, Đạo
luật Nhập cư 1959/63 (the Immigration Act 1959/63) đưa ra mức phạt như sau:
“S. 55B(1): Phạt không ít hơn 10.000 RM và không nhiều hơn 50.000 RM đối với mỗi người lao động bất hợp pháp được thuê hoặc bị phạt tù không quá 12 tháng hoặc cả hai đối với mỗi người lao động như vậy.
S. 55B(3): Nếu người sử dụng lao động sử dụng quá năm lao động bất hợp pháp, bị kết tội - bị tù không ít hơn sáu tháng nhưng không quá năm năm và cũng phải chịu trách nhiệm bằng đánh roi không vượt quá sáu roi”.
Hình phạt đối với người lao động nước ngoài bất hợp pháp theo Điều 6, Khoản 3, Đạo luật này như sau: “Một người lao động nước ngoài bị kết án phải bị phạt không quá 10.000 RM hoặc bị phạt tù có thời hạn không vượt quá năm năm hoặc cả hai và phải chịu trách nhiệm bằng đánh roi nhưng không vượt quá sáu roi”
[124, tr.8].
Qua đây có thể thấy Malaysia đã rất chú ý tới quản lý lao động nước ngoài
72
từ giữa thế kỷ trước. Các qui định về quản lý lao động nước ngoài được quy định tại nhiều đạo luật khác nhau và chế tài hình sự có vai trò rất lớn trong việc thiết chặt quản lý. Biện pháp quản lý được ấn định với cả người sử dụng lao động.
2.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài của các nước trên thế giới và trong khu vực, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với người lao động nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
Về hệ thống quy định pháp luật, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm một số nước đề cập trên đây qua việc xây dựng hệ thống quy định pháp luật đối với lao động nước ngoài. Quy định pháp luật trong quản lý lao động nước ngoài ở các
nước trên thế giới hiện theo hai hướng chính là: Hướng thứ nhất: tách riêng quy định về lao động nước ngoài so với quy định về lao động trong nước. Theo đó, để quản lý lao động nước ngoài, các quốc gia sẽ
có một đạo luật riêng để điều chỉnh. Các quốc gia theo hướng này là Mỹ, Hàn Quốc, Philipine, Nhật Bản… Chẳng hạn, như quản lý đối với lao động nước ngoài tại Hàn Quốc được dựa trên Bộ luật chính là Luật về việc sử dụng lao động nước ngoài.
Hướng thứ hai: quy định chung về lao động trong nước và lao động nước
ngoài trong một văn bản luật. Theo đó, quản lý lao động nước ngoài tiến hành dựa trên một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thống nhất và được xây dựng một cách đồng bộ với các đạo luật khác có liên quan, đồng thời có một mặt bằng pháp lý
chung cho lao động trong nước và lao động nước ngoài. Các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý lao động nước ngoài được quy định chung trong một đạo luật là “Luật Lao động” thể hiện mặt bằng cơ chế không phân biệt đối xử. Một số nước theo hướng này là Malaysia, Nga...
Về chủ thể quản lý, chủ thể quản lý người lao động nước ngoài tại hầu hết các nước là các cơ quan trong bộ máy nhà nước và các tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền. Đối với các nước như Hàn Quốc, cơ quan quản lý lao động nước
ngoài là Ủy ban Quản lý chính sách lao động nước ngoài, Ủy ban này chịu sự giám sát của Thủ tướng chính phủ; hay Đài Loan (Trung Quốc) việc quản lý lao động nước ngoài được giao cho Ủy ban Lao động, Viện Hành chính quản lý; đối với Canada cơ quan chịu trách nhiệm chính về quản lý lao động nước ngoài tại Canada
là Bộ Nhân lực và Phát triển xã hội…
Bên cạnh các cơ quan nhà nước, việc trao quyền cho các tổ chức xã hội
73
trong quản lý đối với người lao động nước ngoài là một kinh nghiệm cần tham khảo đối với Việt Nam như ở Malaysia, ngoài các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, các tổ chức xã hội dân sự ở Malaysia cũng có vai trò to lớn trong việc góp phần quản lý đối với lao động nước ngoài, nhất là đóng
góp cho việc xây dựng và quyết định chính sách liên quan đến lao động nước ngoài của nhà nước.
Về quy trình, thủ tục quản lý, quy trình, thủ tục quản lý lao động nước ngoài
của nhiều nước trên thế giới là rất chặt chẽ, khoa học. Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo như ở Canada, như để được cấp giấy phép lao động, lao động nước ngoài tại Canada cần:
(1) Lời mời làm việc từ người sử dụng lao động ở Canada: Tìm được
một người sử dụng lao động sẵn sàng hoàn thành các thủ tục để có được thư xác nhận LMO (Labour market opinion) từ Bộ Nhân lực và Phát triển Xã hội Canada (HRSDC); (2) Đơn xin hoàn chỉnh cho thấy người lao động đáp ứng
đủ những yêu cầu theo Luật bảo vệ Người nhập cư và tị nạn; (3) Xác nhận bằng văn bản của Bộ Nhân lực và Phát triển xã hội Canada rằng người sử dụng lao động có thể thuê lao động nước ngoài tới làm việc. Xác nhận này gọi là thư xác nhận LMO; (4) Cam kết sẽ rời Canada ngay khi giấy phép lao
động hết hiệu lực; (5) Chứng minh đủ tài chính trang trải cuộc sống bản thân và gia đình trong thời gian ở Canada; (6) Xuất trình xác nhận của cảnh sát về việc không phạm pháp để chứng minh tôn trọng pháp luật và không có hồ sơ
tội phạm; (7) Chứng minh rằng bạn không gây nguy hại cho an ninh Canada; (8) Giấy khám sức khỏe [2, tr.33]. Hay tại Malaysia, đối với lao động nước ngoài khi muốn đăng ký làm việc tại Malaysia, theo quy định của Bộ Nguồn nhân lực Malaysia, họ phải tham gia một
khóa đào tạo kỹ năng, văn hóa, ngôn ngữ... của Malaysia và đủ điều kiện để được cấp Chứng chỉ kỹ năng nghề (CE). Đặc biệt, để quản lý lao động nước ngoài, giảm thiểu dạng lao động bất hợp pháp, từ năm 2005, Malaysia đã sử dụng thẻ căn cước
sinh trắc đối với lao động nước ngoài. Thẻ căn cước này chứa đựng những thông tin cá nhân của người lao động, dấu vân tay và kỹ thuật chống sửa chữa trên thẻ thay cho hệ thống hộ chiếu cũ không an toàn, dễ bị làm giả và trao đổi, mua bán.
Những kinh nghiệm trong thiết lập quy trình tiếp nhận lao động của Canada
hay yêu cầu đào tạo các kỹ năng, cấp giấy chứng chỉ kỹ năng ngề hay sử dụng thẻ
74
căn cước sinh trắc để quản lý lao động nước ngoài của Malaysia là những kinh nghiệm hay rất đáng tham khảo tại Việt Nam.
Về giảm thiểu lao động bất hợp pháp, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của Malaysia về giảm thiểu lao động bất hợp pháp bằng giải pháp hợp pháp
hóa số lao động bất hợp pháp. Chẳng hạn, nhằm thực hiện các giải pháp tiếp tục thu hút lao động làm việc, đồng thời nhằm quản lý toàn diện đối tượng lao động nước ngoài, đặc biệt là đối tượng lao động không phép, chính phủ Malaysia đã đưa ra
Chương trình Ân xá và Hợp pháp hóa (Chương trình 6P) liên quan đến việc đăng ký, hợp pháp hóa, ân xá, giám sát, thi hành pháp luật và trục xuất người nhập cư bất hợp pháp. Việc hợp pháp hóa lao động bất hợp pháp tại Malaysia được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1 – Trước khi hợp pháp hóa, người lao động nước ngoài phải hoàn thiện giấy tờ tùy thân và các giấy tờ cần thiết khác (người lao động liên hệ với Đại sứ quán của nước mình để được cung cấp, đổi hộ chiếu, giấy tiếp
nhận của chủ sử dụng lao động...);
Bước 2 - Hợp pháp hóa, thực hiện tại các trung tâm hợp pháp hóa gồm
nộp hồ sơ, phỏng vấn, nộp thuế, cấp giấy phép hợp pháp hóa;
Bước 3 - Sau khi hợp pháp hóa: tiến hành các thủ tục bắt buộc đối với
lao động nước ngoài làm việc tại Malaysia. Sau các bước trên, Cục Nhập cư Malaysia sẽ cấp giấy phép làm việc tạm thời (Temporary Work Visit Pass) cho người lao động [2, tr.24].
Về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, để thu hút nhân tài và bổ sung nguồn lao động nước ngoài chất lượng cao, các quốc gia có những chính sách hấp dẫn như mức lương cao, cấp giấy phép cư trú dài hạn dành cho những nhân tài người nước ngoài, cấp học bổng cho sinh viên hoặc nghiên cứu sinh nước
ngoài, miễn thuế thu nhập cá nhân cho lao động chất lượng cao nước ngoài. Việt Nam hoàn toàn có thể nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của Singapore và Hàn Quốc trong việc thúc đẩy chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào
Việt Nam làm việc. Chẳng hạn, Chính phủ Singapore tuyển chọn nhân tài dựa trên năng lực, khả năng đóng góp vào sự phát triển của đất nước này, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc của người nhập cư. Hay tại Hàn Quốc, nhằm thu hút nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho các ngành kinh tế mũi nhọn, Bộ Lao động áp dụng
chương trình “thẻ vàng” ngay từ đầu thế kỷ XXI. Những ứng viên đủ tiêu chuẩn được cấp thị thực có ký hiệu E7 làm việc tại Hàn Quốc, thời hạn hợp đồng có thể
75
đến 5 năm. Với thị thực này, người lao động dễ dàng đi về giữa nước mình và Hàn Quốc (như nghỉ phép, về thăm gia đình...), được quyền mang theo vợ, con trong thời gian làm việc tại Hàn Quốc, được quyền thay đổi chủ sử dụng lao động khi họ không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Ngoài ra, nếu người lao động có nhu
cầu, họ có thể làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức của Hàn Quốc tại quốc gia của họ sau khi về nước. Tổ chức Công nghệ Công nghiệp Hàn Quốc có nhiệm vụ phát hiện nhân lực kỹ thuật cao ở nước ngoài và chào mời họ tới Hàn Quốc làm việc.
Đây là những kinh nghiệm rất đáng tham khảo đối với Việt Nam trong quá trình quản lý người lao động nước ngoài.
Về xử lý vi phạm pháp luật, kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia là rất đáng tham khảo trong quá trình quản lý lao động nước ngoài tại Việt
Nam. Như ở các nước trên mọi hành vi như nhập cảnh làm việc bằng visa du lịch, làm việc không có giấy phép lao động hoặc hết hạn hợp đồng mà không về nước đều bị coi là vi phạm pháp luật, bị xếp vào diện lao động bất hợp pháp. Những trường hợp
này nếu bị phát hiện sẽ bị bắt giam, bị trục xuất và cấm nhập cảnh vĩnh viễn.
Ngoài bị trục xuất về nước, lao động bất hợp pháp và chủ sử dụng lao động chứa chấp lao động bất hợp pháp bị phạt số tiền rất lớn. Chẳng hạn ở Hàn Quốc, nếu thuê một công nhân bất hợp pháp, tùy mức độ, chủ sử dụng lao động sẽ bị phạt
từ 10 đến 20 triệu Won, tương đương 10.000 đến 20.000 USD. Nếu không nộp phạt, chủ sử dụng lao động bị buộc phải đi tù ba năm. Còn ở Đài Loan, trước khi bị trục xuất về nước, lao động bất hợp pháp sẽ bị tạm giam, phạt 18.000 Đài tệ (khoảng 10
triệu VNĐ). Chủ sử dụng lao động bất hợp pháp bị phạt tiền từ 150.000 đến 750.000 Đài tệ [41, tr.108].
Kết luận chương 2 Trên cơ sở nghiên cứu tiếp thu, kế thừa các công trình khoa học có liên quan
trong chương 1, chương 2 của đề tài luận án đã xây dựng lý luận quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam, tập trung ở những nội dung chính: Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài, với các khái niệm công cụ của luận án, gồm: người nước ngoài, lao động, thị trường lao động, thị trường lao động quốc tế, người lao động nước ngoài, vùng kinh tế trọng điểm, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; xác định những nội dung quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; xác định
các tiêu chí đánh giá hiệu quả quả lý nhà nước; đưa ra một số yếu tố tác động đến hoạt động quản lý đối với lực lượng này tại vùng kinh tế trọng điểm.
76
Thứ hai, trong nội dung chương 2, tác giả đề cập đến vai trò của quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm với những nội dung: Đáp ứng yêu cầu khách quan của quá trình toàn cầu hóa và tự do kinh tế; Đảm bảo thực thi chính sách đối ngoại của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp
phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài; Góp phần phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; Góp phần giữ ổn định chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia; Bảo đảm phát huy tiềm năng, thế mạnh và sự ảnh
hưởng, tác động tích cực của vùng kinh tế trọng điểm đối với các vùng khác.
Thứ ba, cơ sở thực tiễn của quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam được nghiên cứu, tham khảo từ thực tiễn quản lý người lao động nước ngoài ở một số quốc gia Canada, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung
Quốc), Malaysia từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên các nội dung: về hệ thống pháp luật; về chủ thể quản lý; về quy trình, thủ tục quản lý; về giảm thiểu lao động bất hợp pháp; về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao;
về xử lý vi phạm pháp luật.
Tóm lại, những nội dung khoa học được đề cập trong chương 2 là những cơ sở quan trọng để làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam thể hiện trong chương 3.
77
Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM
3.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG NGƯỜI LAO ĐỘNG
NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM
3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam 3.1.1.1. Sự hình thành vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế vùng, tạo ra những vùng có tính động lực thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước, cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ
tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt các quyết định về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội 3 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia, (vùng phía Bắc, vùng miền Trung và vùng miền Nam).
Để có cơ sở khoa học cho việc quyết định phê duyệt quy hoạch vùng và quy hoạch các tỉnh trong vùng, ngay từ năm 1994, Chính phủ đã quyết định cho xây dựng dự án “Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam”, hình thành chương trình và danh mục các dự án ưu tiên đầu tư. Trọng điểm
quy hoạch của vùng này là phát triển công nghiệp, đô thị cùng với hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội – đô thị và nguồn nhân lực thích ứng, làm nền tảng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Căn cứ vào văn bản số 315 ngày 16.1.1998 của Chủ tịch Hội đồng thẩm định nhà nước về dự án đầu tư, ngày 23.2.1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Theo Quyết định này, mục tiêu chủ yếu
phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là:
Xây dựng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trở thành một trong những vùng kinh tế phát triển nhanh, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các vùng
khác trong cả nước, đi đầu trong một số lĩnh vực quan trọng tạo động lực cho quá trình phát triển vùng Đông Nam Bộ và góp phần thúc đẩy nền kinh tế cả nước [102, tr.1]. Ngoài việc xác định mục tiêu phát triển của vùng, Quyết định số 44 còn đề cập
đến nhiệm vụ phát triển và những giải pháp thực hiện. Đây chính là văn bản làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định các chương trình, dự án đầu tư phát triển cho toàn
78
vùng và các địa phương trong vùng. Từ chủ trương này của Chính phủ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được chính thức hình thành có cơ sở pháp lý và phát triển ngày càng thể hiện vai trò đầu tàu cho nền kinh tế cả nước.
Ngày 20-21/6/2003, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới
của vùng với việc bổ sung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thêm 3 tỉnh: Tây Ninh, Bình Phước, Long An. Ngày 13 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 146/2004/QĐ-TTg về phương hướng chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm đến năm 2010 tầm nhìn năm 2020, thay thế Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg.
Tháng 9 năm 2005, Chính phủ tiếp tục chấp thuận cho Tiền Giang gia nhập vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Như vậy cho tới nay, vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam gồm có 8 tỉnh, thành phố là Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh và Tiền Giang, với tổng diện tích 30.585 km2, chiếm 9,2% diện tích của cả nước; dân số 15,21 triệu người, chiếm 18% dân số cả nước.
3.1.1.2. Điều kiện địa lý, tự nhiên vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nằm ở vị trí trung tâm của Nam Bộ, gồm một phần lớn của miền Đông Nam Bộ và là khu vực nối tiếp giữa miền Đông Nam
Bộ có những vùng đất cao với miền Tây Nam Bộ gồm vùng trũng đồng bằng. Phía Đông là thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn trên Biển Đông. Phía Bắc và Đông Bắc tiếp giáp với Tây Nguyên và các tỉnh cực Nam duyên hải Trung Bộ.
Phía Tây giáp với Campuchia. Phía Nam nằm liền kề với Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là vùng có vị trí đắc địa cho sự phát triển kinh tế: cả 4 khu vực xung quanh đều là những khu vực tiềm năng về nông nghiệp, cây công nghiệp, giao thông thủy; nằm kế cận hành lang hàng hải quốc tế dọc theo Biển Đông, trên trục
giao thông quan trọng của quốc tế và khu vực. Với hàng trăm kilomet bờ biển và nhiều cửa sông, vùng này có điều kiện thuận lợi để xây dựng hệ thống cảng biển nước sâu (Vũng Tàu – Thị Vải) tạo thành những cửa ngõ thông ra thế giới bên
ngoài. Vị trí này vừa đem lại vị thế và lợi thế so sánh cho vùng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vừa có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực.
Khí hậu, thổ nhưỡng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng có nhiều lợi thế.
Khí hậu ôn hòa, quỹ đất nhiều và rất phù hợp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp do địa thế cao, nền đất chắc (ngoại trừ Tiền Giang và Long An hơi
79
thấp hơn so với 6 tỉnh, thành phố còn lại). Địa hình tương đối bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng các đô thị và các điểm dân cư, phát triển các khu công nghiệp. Với 30.585,7 km2 diện tích đất tự nhiên và hệ thống sông, rạch chằng chịt, nguồn nước dồi dào, nguồn khoáng sản (dầu mỏ) có thể coi đây là những nguồn
tài nguyên lớn của vùng, rất thuận lợi cho đầu tư phát triển mà các vùng khác khó có được như vậy.
Với những lợi thế về vị trí địa lý cùng với hệ thống đô thị dày đặc và phát
triển, các khu công nghiệp, khu công nghệ cao được các địa phương trong vùng chú trọng đầu tư xây dựng làm cho vùng có sức hút lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và là vùng có tiềm lực phát triển kinh tế vượt trội so với các vùng khác trong cả nước.
3.1.1.3. Đặc điểm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam Ngoài những nét chung về kinh tế - xã hội của Việt Nam, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn có một số đặc điểm riêng thể hiện qua các yếu tố chủ yếu như
dân cư, lao động, cơ sở vật chất…
Một, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi tập trung đông dân cư của cả nước đến từ nhiều địa phương khác nhau tạo nên nguồn lao động dồi dào, có chất lượng ngày càng cao.
Theo số liệu năm 2016, dân số vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 19,34 triệu người, chiếm 24% dân số toàn quốc. Tốc độ gia tăng dân số khá nhanh (bình quân mỗi năm tăng 250.000 người) do việc di dân tự do từ các địa phương khác tới
đây tìm cơ hội việc làm, học tập và sinh sống tạo cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nguồn lao động dồi dào. Đây là nguồn nhân lực dồi dào cho vùng trong quá trình phát triển nhưng đồng thời cũng là một gánh nặng lớn về giải quyết việc làm và cải thiện mức sống cho dân cư.
Trình độ dân trí của vùng ngày càng nâng cao, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo cũng tăng nhanh và khoảng cách so với tỉ lệ chung của cả nước ngày càng lớn. Năm 2016, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo của vùng là 34,3% (gấp 1,74 lần so với tỉ lệ
chung của cả nước)
Hai, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cơ sở hạ tầng phát triển cao so với cả
nước, thuận lợi cho phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Xét từ yếu tố này thì vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi có lợi thế so sánh rõ so với cả nước. Đây là vùng có hệ thống giao thông phát triển khá hoàn chỉnh, thuận
80
lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và đi lại. Bao gồm các tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển và đường hàng không cùng với các bến bãi, nhà ga, hệ thống cảng và sân bay tạo thành một mạng lưới dày đặc quy tụ tại Thành phố Hồ Chí Minh – trung tâm của cả vùng. Đây là tiền đề cho sự giao lưu trong vùng, liên
vùng và quốc tế. Hệ thống cảng sông – biển của vùng khá thuận lợi với các cảng lớn như hệ thống cảng sông của Thành phố Hồ Chí Minh với Cảng Sài Gòn, cảng Thị Vải, cảng Vũng Tàu, cảng Đồng Nai, Long An… phục vụ rất tốt cho sự phát triển
kinh tế của vùng, đặc biệt là sự hoạt động và mở rộng quy mô của các khu công nghiệp. Hàng không của vùng cũng phát triển với 2 sân bay quan trọng là sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa. Mạng lưới bưu chính – viễn thông của vùng hiện có mức tăng trưởng cao nhất trong cả nước, được trang bị các thiết bị
hiện đại, tự động hóa ở nhiều công đoạn, hòa nhập được với mạng toàn cầu. Hệ thống sản xuất và cung cấp điện trong vùng đã phát triển nhanh trong những năm gần đây với các nhà máy điện có tổng công suất khoảng 1408,6MW (thủy điện Đa
Nhim, thủy điện Trị An, nhiệt điện Bà Rịa, nhiệt điện Hiệp Phước) và các lưới điện truyền tải như đường dây tải điện 500KW, tuyến 220 KV Phú Mỹ - Long Bình, đường dây 110 KV Vũng Tàu – Bà Rịa – Long Bình. Hệ thống cấp và thoát nước trong vùng với các nhà máy nước Sài Gòn và các nhà máy nước của các địa phương
đủ đáp ứng nhu cầu dân dụng và phát triển công nghiệp.
Ba, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một thị trường lớn, tiềm năng Trong những năm qua, nhờ những cố gắng của các địa phương trong vùng
trong việc thiết lập những mối quan hệ buôn bán mới, làm cho thị trường trong và ngoài nước của vùng liên tục được mở rộng. Mặt khác, vùng có dân số đông, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, do vậy người dân trong vùng có mức sống khá cao. Đây chính là yếu tố góp phần tạo nên một thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp
mạnh mẽ.
Bốn, giữa các địa phương trong vùng có những sự khác biệt nhất định về điều
kiện kinh tế - xã hội
Tuy có nhiều điểm tương đồng về thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết… nhưng giữa các địa phương trong vùng cũng có những sự khác biệt nhất định tạo nên lợi thế riêng của mỗi địa phương. Chẳng hạn, thổ nhưỡng của Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước (vùng cao) rất khác so với Long An, Tiền Giang (vùng trũng hơn). Các
yếu tố khác của cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, bưu chính, cấp thoát nước… có sự chênh lệch khá lớn giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu với các
81
tỉnh còn lại. Trình độ dân trí, trình độ và chất lượng lực lượng lao động cũng còn nhiều cách biệt. Đây là đặc điểm mà trong quá trình quản lý nhà nước cần hết sức quan tâm: khi mở rộng một vùng kinh tế - lãnh thổ cần xem xét thận trọng các yếu tố tương đồng tạo nên sự liên kết vùng, không nên chỉ đơn thuần vùng là “phép
cộng” của các địa phương.
3.1.2. Thực trạng và đặc điểm người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam Việt Nam
3.1.2.1. Thực trạng người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam Việt Nam
Thực trạng người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam được khảo sát trên những nội dung: số lượng, giới tính, thành phần quốc
tịch, vị trí công việc và thực trạng cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài. Cụ thể:
Một là, về số lượng người lao động nước ngoài
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập sâu hơn vào kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng. Mặt khác, là thành viên của WTO, Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các văn
kiện của WTO, trong đó có Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GTAS) và đặc biệt vào năm 2015, Việt Nam là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN đã xuất hiện một “dòng” lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Các tỉnh, thành
phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam là một khu vực năng động của cả nước, việc thu hút đầu tư nước ngoài đồng thời kéo theo một lượng lớn lao động di trú đến khu vực này là một xu thế khách quan.
Qua số liệu thống kê của Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
Cục Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an; các phòng Việc làm, Ban Quản lý các khu công nghiệp, các phòng Quản lý xuất nhập cảnh của 8 tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thì số lượng lao động nước ngoài đến các địa phương làm
việc qua các năm tăng đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây. Nếu như trước năm 2000, lao động nước ngoài di chuyển vào làm việc tại các địa phương chỉ với số lượng ít và chủ yếu là các chuyên gia, lao động có trình độ kỹ thuật cao. Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã có
những bước phát triển vượt bậc và đã thu hút lượng lớn lao động nước ngoài vào khu vực này làm việc. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng người nước ngoài làm việc tại
82
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam xuất phát từ nhiều lý do như: sau khi Việt Nam gia nhập WTO chúng ta phải thực hiện theo đúng các văn kiện mà Việt Nam đã ký kết trong đó có những quy định về mở cửa thị trường lao động, Việt Nam tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN; sự phát triển kinh tế đất nước cũng như ở địa phương là
một nguyên nhân quan trọng thu hút lực lượng lao động nước ngoài vào làm việc; hay một nguyên nhân nữa làm cho lực lượng lao động nước ngoài gia tăng trong năm năm gần đây là việc tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
đã và đang được Chính phủ, các cấp, các ngành và toàn xã hội quan tâm nên đã có những chủ trương cũng như biện pháp khuyến khích thu hút lực lượng lao động nước ngoài đến Việt Nam. Thống kê số lượng người lao động nước ngoài đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam làm việc được nêu trong bảng 3.1.
Bảng 3.1. Thống kê số lượng người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam qua các năm (2008 - 2017)
Đơn vị tính: Người
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
1134
1245
1324
1567
1960
1196
1219
1342
1383
1868
BR-VT
4231
4352
5696
5958
6725
7269
7254
7313
8278
8348
Bình Dương
145
198
234
319
308
338
389
546
587
620
Bình Phước
4676
4782
5269
5264
5448
5383
6124
6142
6205
6267
Đồng Nai
1231
1234
1345
1567
1657
1756
1873
1921
2636
2083
Long An
756
867
947
1145
1145
1457
2137
2162
2234
2349
Tây Ninh
205
234
254
292
350
360
450
521
663
672
Tiền Giang
TP.HCM 10987 11233 12205 14223 15432 17564 19542 19587 20343 20478
Tổng
23.365 24.145 27.274 30.335 33.025 35.323 38.988 39.534 41.729 42.685
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
Hai là, về giới tính của người lao động nước ngoài Lực lượng lao động nước ngoài vào làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam chủ yếu là lao động nam chiếm trên 80% so với lao động nữ. Lực
lượng lao động này chủ yếu làm việc tại các địa phương có nhiều khu công nghiệp,
83
khu chế xuất như tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai… số lượng lao động nước ngoài nam làm việc tại Tiền Giang và Bình Phước thấp hơn cả chỉ 598 và 565 người chiếm gần 2% so với lực lượng lao động nước ngoài tại các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam (xem bảng 3.2)
Bảng 3.2. Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam phân theo giới tính (số liệu năm 2017)
Đơn vị tính: Người
STT
Địa phương
Nam
Nữ
Tổng số
Bà Rịa Vũng Tàu
1
1.169
214
1.868
2
Bình Dương
7.787
2,254
8.348
3
Bình Phước
565
28
620
4
Đồng Nai
5.570
636
6267
5
Long An
1,978
456
2.083
6
Tây Ninh
1.825
609
2.349
Tiền Giang TP. HCM
7 8 Tổng Tỷ lệ %
598 15.531 36.938 82,04
145 4.812 7.662 17,96
672 20.478 42.685 100
Nguồn: Tổng hợp từ [33]
Ba là, về thành phần quốc tịch của lao động nước ngoài Từ năm 2008 đến hết tháng 2017, lao động nước ngoài làm việc tại vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam chủ yếu là những người mang quốc tịch của các quốc gia châu Á (Hàn Quốc, Trung Quốc, Trung Quốc (Đài Loan), Nhật Bản, Thái Lan, Sri Lanka, Ấn Độ). Riêng trong năm 2017, số lượng lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam mang quốc tịch các nước châu Á chiếm 67,39%;
các quốc gia châu Âu chiếm 26%; các quốc gia châu Mỹ chiếm 2,92%, các quốc gia châu Đại Dương chiếm 2,07% và còn lại là các quốc gia châu Phi (xem bảng 3.3).
Theo thống kê cho thấy, lực lượng lao đông nước ngoài đến từ các quốc gia
châu Á chiếm tỷ lệ lớn gần 70% tổng số lao động nước ngoài tại vùng, thấp nhất là lao động của các nước đến từ châu Phi 1,62%.
84
Bảng 3.3. Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam Việt Nam phân theo thành phần quốc tịch năm 2017
Đơn vị tính: Người
Châu
Châu
Châu
Châu
Châu Đại
Tổng số
STT Địa phương
Á
Âu
Phi
Mỹ
Dương
1.868
BR-VT
1.486
306
19
34
23
1
8.348
Bình Dương
6.755
1.274
80
143
96
2
620
Bình Phước
557
50
3
6
4
3
6.267
Đồng Nai
5.247
816
51
92
61
4
2.083
Long An
1.712
272
11
32
56
5
2.349
Tây Ninh
2.336
4
6
0
3
6
672
Tiền Giang
611
49
3
5
4
7
20.478
TP. HCM
10.065
8.330
521
937
625
8
Tổng
42.685
28.769 11.101
694
1.249
872
100
67,39
26
1,62
2,92
2,07
Tỷ lệ %
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
Bốn là, về trình độ chuyên môn của lao động nước ngoài
Theo Điều 169, Bộ luật Lao động năm 2012 thì người nước ngoài làm việc tại
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc; Không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài; Có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp, trừ các trường hợp không phải cấp giấy phép lao động [83, tr.48]. Như vậy, về nguyên tắc, người nước ngoài không có tay nghề, không có trình độ chuyên môn cũng như sức khỏe phù hợp với công việc không được cấp phép vào Việt Nam làm việc. Đây là quy định phù hợp với yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, khi nguồn nhân lực lao động chất lượng cao của chúng ta còn khá mỏng nhưng lao động phổ thông lại chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu thành phần lao động tại Việt Nam. Chính từ quy định, không tuyển dụng, sử dụng người nước ngoài là lao động phổ thông, không có tay nghề vào Việt Nam làm việc một mặt
Việt Nam phải có đủ các điều kiện
85
là bảo hộ lực lượng lao động trong nước một mặt tạo điều kiện thu hút nguồn lực lao động chất lượng cao từ nước ngoài, đặc biệt là những nước phát triển trên thế giới như các quốc gia tại châu Âu, châu Á…
Qua thống kê lực lượng lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cho thấy. Trong tổng số lao động nước ngoài làm việc tại kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam có 34,65% là chuyên gia; nhà quản lý chiếm 37,68%, giám đốc điều hành chiếm 17,97%. Lực lượng lao động nước ngoài đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam làm việc đa số là chuyên gia và nhà quản lý, lực lượng lao động khác chỉ chiếm 1,51%. Trong số tám địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam, số lượng chuyên gia nước ngoài đến làm việc tập trung nhiều nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh (8.011 người), Bình Dương (3.702 người), ít nhất là Bình Phước (158 người) (xem bảng 3.4)
Bảng 3.4. Thống kê lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam phân theo vị trí công việc (số liệu năm 2017)
Đơn vị tính: Người
STT
Địa phương
Khác
Tổng số
Giám đốc điều
Chuyên gia
Lao động kỹ
Nhà quản lý
766
hành 112
882
thuật 101
7
1.868
BR-VT
1
1.307
4.850
1.702
237
252
8.348
Bình Dương
2
205
84
158
56
117
620
Bình Phước
3
1.924
849
2.399
860
235
6.267
Đồng Nai
4
81
375
655
972
0
2083
Long An
5
525
238
692
885
9
2349
Tây Ninh
6
65
201
295
97
14
672
Tiền Giang
7
11.212
962
8.011
291
2
20.478
TP. HCM
8
16.085
7.671
14.794
3.499
636
Tổng
42.685
37,68
17,97
34,65
8,19
1,51
100
Tỷ lệ %
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
Bốn là, thực trạng cấp giấy phép lao động
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người lao động nước ngoài vào làm việc phải được cấp giấy phép lao động thì mới được coi là lao động hợp pháp, còn lại
86
những trường hợp không có giấy phép lao động (trừ trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo Điều 172, Bộ luật Lao động năm 2012) thì đều được coi là lao động bất hợp pháp. Những năm trước đây, đặc biệt từ những năm 2008 đến 2011 số lượng người lao động chưa được cấp giấy phép lao
động tại Việt Nam nói chung và tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng chiếm số lượng lớn vì thời điểm đó theo điểm a, khoản 1, Điều 9, Nghị định 34/2008/NĐ-CP quy định “Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải có giấy
phép lao động, trừ các trường hợp sau: a. Người nước ngoài vào Việt Nam làm việc với thời hạn dưới 03 tháng” [19, tr.5]. Chính quy định này, làm cho một số lượng lớn lao động không có giấy phép làm việc tại Việt Nam (xem bảng 3.5)
Bảng 3.5. Thống kê thực trạng cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài
tại Việt Nam từ năm 2011 - 2015
Tổng số
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
*
%
%
%
%
%
lao động nước ngoài
63.557 người
70.362 người
72.172 người
76.309 người
83.585 người
lao
6.356
10,0
4.185
5,9
6.903
9,6
5.610
7,4
5.676
6,8
1
Số động không thuộc diện giấy cấp
lao
phép động
Số
lao
57.201
90,0
66.177
94,1
65.269
90,4
70.699
92,6
77.909
93,2
động thuộc diện
2
cấp
phải phép
Số động
lao đã
2.1
33.622
58,8
39.797
60,1
43.336
66,4
55.263
78,2
73.534
94,4
được cấp
phép
Số lao động chưa
2.2
23.580
41,2
26.380
39,9
21.933
33,6
15.436
21,8
4.375
5,6
giấy lao
cấp phép
động
Nguồn: Tổng hợp từ [32]
87
Song những năm gần đây, với sự thay đổi, điều chỉnh của hệ thống pháp luật cũng như thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý góp phần tăng tỉ lệ lao động nước ngoài được cấp giấy phép lao động từ 58,8% năm 2011 lên thành 78,2% năm 2014 và đến cuối 2015 tỉ lệ cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc
tại Việt Nam đã đạt 94,4% trên tổng số lao động nước ngoài thuộc diện cấp giấy phép lao động làm việc tại Việt Nam.
Tình hình cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài, số liệu
người lao động đã cấp giấy phép lao động, chưa cấp giấy phép lao động, không thuộc diện cấp giấy phép lao động được phản ánh cụ thể trong bảng 3.6.
Bảng 3.6. Thống kê thực trạng cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài
tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (số liệu năm 2017)
Đơn vị tính: Người
STT
Địa phương
Tổng số
Đã cấp GPLĐ
Chưa cấp GPLĐ
Không thuộc diện cấp GPLĐ
1
Bà Rịa Vũng Tàu
1.255
28
585
1.868
2
Bình Dương
6.664
570
1.114
8.348
3
Bình Phước
501
90
29
620
4
Đồng Nai
5.591
284
392
6.267
5
Long An
1.770
87
226
2.083
6
Tây Ninh
1.883
169
297
2.349
7
Tiền Giang
501
89
82
672
8
TP. HCM
19.517
253
708
20.478
Tổng
37.682
1.570
3.433
42.685
Tỷ lệ %
88,27
3,68
8,05
100
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33] Tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam số lượng lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động chiếm tỷ lệ cao gần 90%, chưa cấp giấy phép lao động
chỉ có 1.570/42.685 người chiếm 3,68%, tại khu vực này số người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động chỉ có 3.433 người chiếm 8,05%.
88
3.1.2.2. Đặc điểm người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam Việt Nam
Qua nghiên cứu tình hình người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cho thấy, những đặc điểm nổi bật của lực lượng lao động
này tại khu vực như sau:
Một là, lực lượng lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
chiếm tỷ lệ lớn so với tổng số lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc
Tính đến năm 2017 cả nước có khoảng gần 90 ngàn lao động là người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Trong khi đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam gồm 8 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chiếm 42.685 lao động là người nước ngoài, gần 50% trong tổng số lao động toàn quốc. Số liệu này cho thấy,
so với các vùng khác trong cả nước thì vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là khu vực tập trung nhiều nhất lực lượng lao động nước ngoài đến làm việc. Đây là một tín hiệu tích cực góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của
vùng trong những năm vừa qua và những năm sắp tới. Song, với số lượng lớn lao động người nước ngoài đến làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp như vấn đề cạnh tranh lao động với lao động trong nước, vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự…
Hai là, lao động nước ngoài làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đa số là những người có chuyên môn cao (chuyên gia nước ngoài, giám đốc điều hành và nhà quản lý), lực lượng lao động khác chiếm tỷ lệ nhỏ.
Thực tế cho thấy, khi mới thâm nhập vào thị trường lao động Việt Nam nói chung và vùng kinh tế trọng điểm nói riêng các doanh nghiệp nước ngoài có xu thế mang theo đội ngũ nhân lực của mình. Đây là những người đã có nhiều kinh nghiệm và đáng tin cậy, những người sẽ đi những bước đầu tiên và đặt nền móng vững chắc
cho doanh nghiệp nước ngoài khi mới bắt đầu đầu tư vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Do vậy, họ luôn là những người có trình độ chuyên môn cao và nắm giữ các chức vụ quan trọng. Sau đó, tùy vào chiến lược phát triển kinh doanh lâu dài
của dự án, doanh nghiệp mà thành phần nhân sự sẽ có ít nhiều sự thay đổi. Số lao động kỹ thuật cao nước ngoài này không chỉ nắm giữ các vị trí quản lý mà ngay cả những vị trí như kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật.
Ba là, lao động nước ngoài làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Việt Nam đa số là lao động Nam và lực lượng này đến từ hầu hết các quốc gia tại các châu lục trên thế giới nhưng trong đó tập trung chủ yếu là châu Á và châu Âu.
89
Với đặc thù tính chất công việc cũng như vị trí việc làm trong các doanh nghiệp, lực lượng lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam chủ yếu là lao động nam chiếm trên 80% so với lao động nước ngoài là nữ giới. Điều này cũng là vấn đề tất yếu trong xu thế di cư lao động quốc tế hiện nay trên thế
giới khi đa số các quốc gia tiếp nhận lao động đưa ra yêu cầu tuyển dụng là nam giới. Ở Việt Nam nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng, yêu cầu về vị trí việc làm đa phần chỉ tuyển dụng những lao động nam giới vào làm việc.
Trong cơ cấu lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cho thấy hầu hết lao động nước ngoài tại đây đều đến từ khắp các quốc gia trên thế giới, song số lượng lao động nước ngoài đến từ các quốc gia trong khu vực châu Á vẫn chiếm tỷ lệ lớn với 28.769 người chiếm 67,39% trong đó phải kể đến các nước
như: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia… còn lại, số lao động nước ngoài đến từ các quốc gia châu Phi chiếm tỷ lệ ít nhất với 694 người với 1,62%.
Bốn là, lao động nước ngoài làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đa số thuộc diện đối tượng phải cấp giấy phép lao động, đối tượng không thuộc diện cấp giấy phép lao động chiếm tỷ lệ nhỏ. Lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc hợp pháp khi được cơ quan
chức năng cấp giấy phép lao động (trừ trường hợp các đối tượng không thuộc diện cấp giấy phép lao động). Lực lượng lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam với 42.685 người, trong đó 88,27% là số lao động thuộc
diện cấp giấy phép lao động và đã được cấp giấy phép lao động theo đúng quy định của pháp luật. Điều này cho thấy, người sử dụng lao động và bản thân lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cơ bản đã có ý thức trong việc chấp hành các quy định về cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc
tại Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tại điều 172, Bộ luật Lao động năm 2012 và Điều 7, Nghị định 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, thì có 19 đối tượng không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Theo đó, tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, số người lao động nước ngoài vào làm việc thuộc 19 đối tượng này chiếm tỷ lệ ít chỉ 3.433 người với 8,05%.
90
3.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM
3.2.1. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài Thời gian qua, các cơ quan Trung ương, cũng như UBND các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quản
lý như: Ở Trung ương: Bộ luật Lao động năm 2012 (điều 169 đến điều 175 quy định về lao động là công dân nước ngoài); Luật số 47/2014/QH13 về Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định 95/2013/NĐ-
CP, ngày 22/8/2013, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013, Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực ANTT, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị định 112/2013/NĐ-CP, ngày 2/10/2013, Quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm
pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất; Nghị định số 64/2015/NĐ-CP, ngày 06/08/2015, Quy định cơ chế phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong công tác quản lý
nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 82/2015/NĐ-CP, ngày 24/9/2015, Quy định về việc miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài là vợ, chồng, con của người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc của công dân Việt Nam; Nghị định số
11/2016/NĐ-CP, ngày 03/2/2016, Quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Nghị quyết 30/2016/QH14, ngày 22/11/2016, về thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho
người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam; Nghị định 07/2017/NĐ-CP, ngày 25/01/2017, Quy định trình tự, thủ tục thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam; Chỉ thị số 734/CT-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh công tác quản lý đối với gói thầu EPC;
Thông tư 41/2014/TT-BCT ngày 5/11/2014 Quy định căn cứ, thủ tục xác định người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi
91
mười một ngành dịch vụ trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới không thuộc diện cấp giấy phép lao động; Thông tư 23/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/8/2017 về hướng dẫn thực hiện cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài tại Việt Nam qua mạng điện tử.
Hệ thống các văn bản nêu trên đã thể hiện sự nỗ lực rất lớn của nhà nước ta trong việc xây dựng hành lang pháp lý, tạo ra công cụ quản lý đối với người lao động nước ngoài một cách có hiệu quả.
Trên cơ sở các văn bản của Nhà nước, các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã ban hành một số văn bản quản lý đối với người lao động nước ngoài trong phạm vi chức năng, thẩm quyền. Chẳng hạn, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản liên quan như: Chỉ thị số 02/2009/CT-UBND
ngày 11/2/2009 của UBND Thành phố, “về tăng cường quản lý nhà nước đối với việc nhập cảnh, cư trú và lao động của người nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 03/01/2014 về việc ủy quyền xem xét
chấp nhận việc sử dụng lao động nước ngoài theo Nghị định số 102/2013/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND ban hành Quy chế phối hợp quản lý lao động nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, chủ đầu tư, nhà thầu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; tỉnh Tiền Giang đã ban hành
văn bản: Chỉ thị số 14/CT-UBND ngày 12/9/2013 của UBND tỉnh Tiền Giang, “về việc tăng cường công tác quản lý cư trú người nước ngoài trên địa bàn tỉnh Tiền Giang”; tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Quyết định số 17/2015/QĐ-UBND ban hành Quy
chế phối hợp về quản lý lao động người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; tỉnh Đồng Nai, Quyết định số 3067/QĐ-UBND ngày 07/10/2015 ban hành Quy chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú và hoạt động của NNN trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai; Quyết định số 51/2010/QĐ-UBND ngày 19/08/2010 ban hành Quy chế phối hợp quản lý lao động là NNN làm việc trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; Quyết định số 07/2016/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 ban hành Quy định quản lý tạm trú tại
doanh nghiệp đối với LĐNN làm việc tại các doanh nghiệp trong các KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; tỉnh Bình Dương, Quyết định số 54/2009/QĐ-UBND ngày 10/08/2009 của UBND tỉnh Bình Dương về việc ban hành Quy chế phối hợp tuyển dụng và quản lý lao động người nước ngoài làm việc trên địa bàn tại tỉnh Bình
Dương; tỉnh Tây Ninh, Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND Phối hợp thực hiện công
92
tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế cửa khẩu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh …
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan Công an đã tổ chức ban hành văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện đưa các quy định này đi vào thực tiễn.
Chẳng hạn như, nhằm tổ chức thực hiện tốt quản lý nhà nước đối với người nước ngoài nói chung và người lao động nước ngoài nói riêng, Tổng cục An ninh I (nay là Tổng cục An ninh) đã ban hành Quyết định số 468/QĐ-A61-A72, ngày 6/6/2014,
về các Quy trình công tác thuộc lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh. Trách nhiệm của các lực lượng liên quan trong quản lý đối với người nước ngoài cũng được xác định rõ qua Quyết định số 469/QĐ-A61-A72, của Tổng cục An ninh I (nay là Tổng cục An ninh), ngày 6/6/2014, về Quy định phân công trách nhiệm trong công tác quản
lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, hoạt động của người nước ngoài tại Việt Nam…
Đối với Công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam, việc ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về người lao động nước ngoài được đảm bảo, duy trì thường xuyên. Như vậy, kết quả nghiên cứu trên đây đã cho thấy, chính quyền và các cơ quan chức năng mà nòng cốt là cơ quan Công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã phát huy tốt vai trò của mình trong ban hành
các văn bản quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Trong đó, việc ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện đảm bảo kịp thời và chất lượng, hiệu quả. Do đó, đa phần cán bộ, chiến sĩ Công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam được khảo sát cũng có nhận định tương tự. Khi đề cập “Về mức độ kịp thời” trong tham mưu, hướng dẫn thực hiện các chính sách, quy định pháp luật về lao động nước ngoài, có đến 113/380 (chiếm 29,7%) trường hợp đánh giá là “kịp thời” (trong khi đánh giá “chưa kịp thời” có 24,7%).
Đa số các trường hợp được khảo sát về “Về chất lượng, hiệu quả chung” của công tác này cho rằng, chất lượng hiệu quả tham mưu, hướng dẫn là “bình thường” với 225/380 trường hợp (chiếm khoảng 59,2%) và 24,2% trường hợp đánh giá chất
lượng, hiệu quả công tác này là “tốt, hiệu quả” (trong khi chỉ có 8,4% trường hợp cho rằng công tác này “kém hiệu quả”).
3.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài Bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam Việt Nam được tổ chức từ cấp trung ương đến cấp tỉnh. Nhìn chung, bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
93
trọng điểm phía Nam Việt Nam có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, thống nhất. Các mối quan hệ bên trong, bên ngoài, quan hệ chỉ đạo, quan hệ phối hợp được xác định rõ qua sơ đồ 3.1
Chính phủ
Bộ LĐ, TB & XH
Bộ Công an
Cục Việc làm Cục Quản lý XNC
Công an cấp tỉnh
UBND cấp tỉnh
Phòng Việc làm Sở LĐ, TB và XH Phòng Quản lý
UBND cấp huyện Công an cấp Đội An ninh
Phòng Quản lý LĐ Ban Quản lý các KCN
Cảnh sát KV
Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ phối hợp
Sơ đồ 3.1 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
UBND cấp xã Công an cấp xã
Cấp Trung ương Theo quy định của pháp luật, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lao động trong phạm vi cả nước, kể cả quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lao động nước ngoài; Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về xuất, nhập cảnh, cư trú của người lao động nước ngoài; Bộ, Cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
94
nhiệm thực hiện và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an trong quản lý nhà nước về lao động nước ngoài.
Cụ thể: - Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan tham mưu giúp Chính phủ
quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài trong phạm vi cả nước. Bộ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao hướng dẫn thực hiện trình tự hợp pháp hóa lãnh sự, lý lịch tư pháp, thẻ tạm trú, thường trú, cấp giấy
phép lao động, gia hạn giấy phép lao động và cấp lại giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
- Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn mẫu, nội dung và là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sức khỏe, thời hạn sử dụng giấy chứng nhận sức khỏe
của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
- Bộ Công an là cơ quan trực tiếp quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý cư trú
đối với người lao động nước ngoài. Bộ Công an có trách nhiệm:
+ Chỉ đạo và hướng dẫn cơ quan công an có thẩm quyền: Cấp thị thực cho người nước ngoài sau khi đã được cấp giấy phép lao động, gia hạn giấy phép lao động hoặc cấp lại giấy phép lao động; Không cấp thị thực đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam khi chưa được cấp giấy phép lao động hoặc giấy phép lao
động hết hiệu lực hoặc vô hiệu, trừ các đối tượng được miễn giấy phép lao động; Không gia hạn tạm trú, buộc xuất cảnh hoặc trục xuất đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam khi chưa được cấp giấy phép lao động hoặc giấy phép lao động
hết hiệu lực hoặc vô hiệu, trừ các đối tượng được miễn giấy phép lao động.
+ Hướng dẫn về thẩm quyền, thủ tục trục xuất đối với người lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động;
+ Hướng dẫn việc cấp thị thực cho người lao động nước ngoài sau khi đã được
cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động hoặc nộp đủ hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động, hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép lao động;
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn trình
tự, thủ tục gửi danh sách người lao động nước ngoài được cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh.
- Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn về lệ phí cấp, cấp lại giấy phép lao động, xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động đối với các trường hợp
không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
95
- Bộ Công thương có trách nhiệm hướng dẫn căn cứ, trình tự, thủ tục để xác định đối tượng là người nước ngoài di chuyển nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi các ngành dịch vụ trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới của 11 ngành dịch vụ bao gồm: kinh doanh; thông tin; xây dựng; phân
phối; giáo dục; môi trường; tài chính; y tế; du lịch; văn hóa giải trí và vận tải.
Ngoài ra, theo các quy định pháp luật, được xây dựng trong nhiều luật khác nhau, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quản lý lao động nước
ngoài còn được quy định như: Bộ Tư pháp có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan thuộc ngành mình cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài; Bộ Ngoại giao thực hiện quản lý về hợp pháp hóa lãnh sự các giấy tờ do phía nước ngoài cấp…
Cấp Tỉnh Những quy định của pháp luật hiện hành xác định trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh là cơ quan trực tiếp thực hiện và giải quyết các vấn
đề, thủ tục, quy định liên quan đến lao động nước ngoài.
Cụ thể như sau: - UBND tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam có trách nhiệm: Chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương tổ chức tuyên truyền,
phổ biến pháp luật; kiểm tra, thanh tra; xử lý vi phạm các quy định về việc tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc trên địa bàn; Chỉ đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương và các cơ quan, tổ chức có liên quan để giới
thiệu, cung ứng người lao động Việt Nam cho nhà thầu nước ngoài; Xem xét, quyết định việc cho phép nhà thầu nước ngoài được tuyển người nước ngoài vào các vị trí công việc không tuyển được lao động Việt Nam.
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm: Tổ chức tuyên truyền,
phổ biến quy định của pháp luật lao động Việt Nam cho các doanh nghiệp, tổ chức, chủ đầu tư, nhà thầu và người lao động trên địa bàn; Tiếp nhận hồ sơ và cấp giấy phép lao động, gia hạn giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động cho người
nước ngoài theo quy định của pháp luật; Thực hiện việc giới thiệu, cung ứng lao động cho các nhà đầu tư nước ngoài theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; Kiểm tra, thanh tra và báo cáo việc thực hiện các quy định của pháp luật về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài
làm việc trên địa bàn; Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý và cấp, cấp
96
lại giấy phép lao động, xác nhận cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn.
- Ban Quản lý các Khu Công nghiệp có trách nhiệm: Trường hợp được Chủ tịch UBND cấp tỉnh ủy quyền: Tiếp nhận, tổng hợp, thẩm định nhu cầu sử dụng
người lao động nước ngoài vào từng vị trí công việc trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh chấp thuận và thông báo bằng văn bản về từng vị trí công việc được sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng người sử dụng lao động trên địa bàn được ủy
quyền; Trường hợp được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ủy quyền: Tổ chức tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật lao động Việt Nam cho các doanh nghiệp, tổ chức, chủ đầu tư, nhà thầu và người lao động trên địa bàn. Tiếp nhận hồ sơ và cấp giấy phép lao động, gia hạn giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao
động cho người nước ngoài theo quy định của pháp luật. Thực hiện việc giới thiệu, cung ứng lao động cho các nhà đầu tư nước ngoài theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam. Kiểm tra, thanh tra
và báo cáo việc thực hiện các quy định của pháp luật về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc trên địa bàn. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý và cấp lại giấy phép lao động, xác nhận cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn.
Theo đó, tại hầu hết các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam, chủ thể quản lý người lao động nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế được UBND các tỉnh, thành phố giao là Phòng
Quản lý Lao động - Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế; còn đối với đối tượng là người lao động nước ngoài làm việc ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thì chủ thể quản lý là Phòng Việc làm – Sở Lao động, Thương binh và Xã hội. Song số liệu tổng hợp về người lao động nước ngoài
trên địa bàn đều được gửi về Phòng Việc làm – Sở Lao động, Thương binh và Xã hội của các tỉnh để theo dõi quản lý chung.
- Công an tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
có trách nhiệm: cấp những giấy tờ xuất nhập cảnh cho người nước ngoài sau khi đã được cấp giấy phép lao động, gia hạn giấy phép lao động hoặc cấp lại giấy phép cho người lao động; không cấp các giấy tờ xuất nhập cảnh đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam khi chưa được cấp giấy phép lao động hoặc giấy phép lao
động hết hiệu lực hoặc vô hiệu; không gia hạn tạm trú, buộc xuất cảnh hoặc trục
97
xuất đối với người nước ngoài làm việc tại địa phương khi chưa được cấp giấy phép lao động hoặc giấy phép lao động hết hiệu lực hoặc vô hiệu.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội còn ban hành nhiều văn bản hướng dẫn,
chỉ đạo cụ thể cho các địa phương tổ chức thực hiện. Mặt khác, UBND nhiều tỉnh, thành cũng căn cứ các quy định của pháp luật và chức năng của các Sở, Ngành, chủ động ban hành quy chế phối hợp quản lý lao động là người nước ngoài làm việc tại
địa phương, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng liên quan. Nhìn chung, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đều có trách nhiệm liên quan đến quản lý người lao động nước ngoài tại địa phương.
Tóm lại, trong thực hiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
tại Việt Nam, cơ quan hành chính cấp Trung ương chủ yếu ban hành các văn bản, quy định và hướng dẫn tổ chức thực hiện; còn cơ quan hành chính cấp tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam là cơ quan trực tiếp thực hiện,
giải quyết các thủ tục, vấn đề phát sinh về lao động nước ngoài. Kết quả khảo sát cho thấy, vai trò của UBND được đánh giá là tốt với 153/380 phiếu chiếm 40,3%; vai trò của Cơ quan Công an cấp tỉnh được đánh giá tốt 226/380 phiếu chiếm 59,5%; vai trò của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội được đánh giá tốt với
181/380 phiếu chiếm 47,6%. Nhìn chung, các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan chuyên môn tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thực hiện tốt vai trò của mình trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại khu vực.
3.2.3 Tổ chức các hoạt động quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và hoạt
động của người lao động nước ngoài
Tổ chức các hoạt động quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, hoạt động của người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam là một
nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài.
Một là, quản lý nhập cảnh đối với người lao động nước ngoài Trong những năm qua, lưu lượng người lao động nước ngoài nhập cảnh vào
Việt Nam đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ngày càng tăng, nếu như năm 2008 là 23.365 lượt người, năm 2009 là 24.145 lượt người thì đến năm 2017 đã là 42.685 lượt người. Rõ ràng chỉ trong vòng tám năm, số lượng người lao động nước ngoài nhập cảnh vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tăng gần gấp đôi (100%).
Đa số người lao động nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam làm việc bằng hai con đường là đường hàng không và
98
đường bộ; nhưng trong đó người lao động nước ngoài đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam làm việc chủ yếu bằng đường hàng không qua sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chiếm 96,5%; đường bộ chiếm 3,5% (xem thêm phụ lục 3d) Trong những năm qua lượt người nước ngoài đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với mục đích
thương mại, đầu tư và làm việc luôn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 28%) chỉ sau mục đích du lịch (60%) (xem thêm phụ lục 3e). Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm 8 tỉnh, thành phố, khu vực tập trung
nhiều khu công nghiệp, nên người lao động nước ngoài đến địa phương chủ yếu với mục đích làm việc và cư trú trong các khu công nghiệp.
Chính từ sự gia tăng nhanh chóng số lượng người lao động nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam làm việc trong những
năm qua một mặt đã tạo động lực to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của vùng, song một mặt gây ra không ít khó khăn cho Cơ quan chức năng trong quá trình quản lý nhập cảnh đối với lực lượng này. Do đó, yêu cầu đặt ra cho công
tác quản lý của cơ quan Công an là phải không ngừng có những biện pháp tăng cường công tác quản lý nhập cảnh một mặt đảm bảo an ninh, trật tự trong hoạt động của người nước ngoài đồng thời đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ khi đến làm việc, cư trú tại các địa phương. Trong thời gian qua, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh
công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã chủ động tiếp nhận hồ sơ nhập cảnh của lao động nước ngoài, quản lý thông tin, số liệu, tình hình lao động nước ngoài nhập cảnh Việt Nam đến địa bàn các tỉnh thuộc
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ngay từ khi người lao động còn chưa đến địa bàn. Trên cơ sở đó, đối chiếu, so sánh, kiểm tra giữa số liệu do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp với số liệu thực tế ở địa phương để kịp thời quản lý người lao động nước ngoài khi họ đến địa bàn, kịp thời xử lý các trường hợp lao động nước
ngoài đến nhưng không khai báo tạm trú với địa phương, xác định mục đích đến địa bàn, địa điểm cư trú của người nước ngoài khi đến địa bàn so với phiếu khai báo nhập cảnh của người nước ngoài tại cửa khẩu.
Bên cạnh những mặt đạt được trong quá trình quản lý nhập cảnh của cơ quan
công an, thời gian qua công tác này còn tồn tại nhiều khó khăn, phức tạp như:
- Nhiều trường hợp người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam với thị thực ký hiệu B2, B3 (trước năm 2015), hiện nay là thị thực ký hiện LV1 và ĐT nhưng thực
chất không có cơ quan hoặc thân nhân trong nước bảo lãnh nên khi có những vi phạm bị phát hiện và cơ quan chức năng tiến hành xử lý thì gặp nhiều khó khăn
99
- Người nước ngoài nhập cảnh bằng thị thực D (không có cơ quan bảo lãnh), hiện nay là ký hiệu SQ có nhiều hoạt động phức tạp, vi phạm pháp luật Việt Nam. Khi hết hạn thị thực, thời hạn được phép tạm trú các đối tượng này thường tìm cách thông qua các cơ sở làm dịch vụ du lịch để xin cấp đổi thị thực, gia hạn tạm trú
nhằm hợp thức hoá việc lưu trú tại Việt Nam.
- Một số lượng không nhỏ người nước ngoài đến các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp làm việc, thử việc nhưng không đăng ký cư trú với
cơ quan quản lý, đặc biệt là số đối tượng có quốc tịch Trung Quốc; có nhiều trường hợp lao động nước ngoài nhập cảnh trái phép rồi thông qua các công ty dịch vụ du lịch để hoàn thiện hồ sơ xuất, nhập cảnh để có thể ở lại làm việc lâu dài trong các doanh nghiệp.
Những khó khăn, bất cập trong công tác quản lý thời gian qua xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau như:
- Chế độ thông tin ở các cấp quản lý, sự phối hợp của các doanh nghiệp với
cơ quan công an trong công tác quản lý người nước ngoài còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp chỉ chú trọng đến lợi ích kinh tế nên thường không tích cực hợp tác với cơ quan công an trong việc quản lý lao động nước ngoài trong doanh nghiệp.
- Việc quy định cơ quan Đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài được cấp thị thực nhập cảnh loại D (không có cơ quan bảo lãnh) (trước năm 2015); hiện nay thị thực nhập cảnh SQ cho người nước ngoài không thông qua xét duyệt
nhân sự, không cần cơ quan trong nước bảo lãnh và việc chính phủ đơn phương miễn thị thực cho công dân một số nước, thực tế đã tạo điều kiện cho một số lượng lớn người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam không có cơ quan bảo lãnh gây khó khăn cho công tác quản lý.
- Công tác quản lý, kiểm soát các tuyến biên giới của Công an các cửa khẩu và Bộ đội biên phòng các tỉnh có tuyến biên giới còn nhiều lỏng lẻo, dẫn đến có nhiều trường hợp người nước ngoài (chủ yếu là người Trung Quốc) nhập cảnh trái
phép, di chuyển sâu vào các tỉnh trong nội địa.
Hai là, quản lý cư trú đối với người lao động nước ngoài Công tác quản lý cư trú đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm quản lý thường trú và quản lý tạm trú. Thực tiễn
công tác quản lý cư trú đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cho thấy, cơ quan Công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế
100
trọng điểm phía Nam thực hiện công tác quản lý tạm trú đối với người lao động nước ngoài là mặt công tác chủ yếu. Công tác này được thực hiện qua các mặt hoạt động quản lý cụ thể như: tổ chức đăng ký khai báo tạm trú cho người lao động nước ngoài; cấp thẻ tạm trú cho người lao động nước ngoài; kiểm tra, giám sát việc chấp
hành các quy định về đăng ký tạm trú; giải quyết thủ tục chuyển đổi mục đích tạm trú, gia hạn tạm trú.
Thực hiện nội dung Thông tư số 54/2013/TT-BCA-A61 ngày 6/11/2013 Quy
định phân công trách nhiệm trong Công an nhân dân về công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú và hoạt động của người nước ngoài tại Việt Nam. Căn cứ Thông tư số 31/2015/TT-BCA, ngày 6/7/2015, Hướng dẫn một số nội dung về cấp thị thực, cấp thẻ tạm trú, cấp giấy phép xuất nhập cảnh, giải quyết thường trú cho người
nước ngoài tại Việt Nam, các cơ quan chức năng đã cấp các giấy tờ về cư trú của người lao động nước ngoài gồm: thị thực, thẻ tạm trú. Kết quả thực hiện việc cấp các loại giấy tờ về cư trú của người nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam Việt Nam của các cơ quan chức năng được thể hiện như sau:
- Việc tiếp nhận, giải quyết cấp thị thực Thị thực là loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, cho phép người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, trong đó xác định mục đích nhập
cảnh, cư trú tại Việt Nam. Do vậy, việc tiếp nhận, giải quyết cấp thị thực được xem là giai đoạn đầu và là cơ sở quan trọng để quản lý nhà nước về cư trú của người nước ngoài. Quy trình tiếp nhận, giải quyết cấp thị thực được các cơ quan chức
năng tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam được thực hiện theo quy trình chặt chẽ, thể hiện rõ qua sơ đồ 3.2.
101
Sơ đồ 3.2. Quy trình tiếp nhận giải quyết cấp thị thực cho người lao động
nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
Theo quy trình này, cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh ở các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam sẽ tiếp nhận văn bản, đơn bảo
lãnh, đề nghị cấp thị thực cho người nước ngoài của các cơ quan, tổ chức, cá nhân mời bảo lãnh và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền cấp thị thực của Việt Nam ở nước ngoài. Đa số người lao động nước ngoài làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam Việt Nam thời gian qua được cơ quan chức năng cấp thị thực ký hiệu LĐ (cấp cho người vào lao động) với thời hạn thị thực không quá 02 năm.
Nhiều trường hợp người nước ngoài được cấp thị thực tại các cửa khẩu quốc tế. Trong trường hợp này, cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh sẽ xem xét và thông báo
cho đơn vị kiểm soát xuất nhập cảnh thực hiện việc cấp thị thực.
Ngoài ra, người nước ngoài đang tạm trú tại Việt Nam có nhu cầu cấp thị thực mới phải đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân mời, bảo lãnh để làm thủ tục tại cơ
quan Quản lý xuất nhập cảnh hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Ngoại giao. Trên cơ sở đó, các cơ quan này sẽ xem xét và cấp thị thực.
- Về việc tiếp nhận, giải quyết gia hạn tạm trú, cấp thẻ tạm trú Tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam, cơ quan Quản lý xuất nhập
cảnh hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Ngoại giao sẽ xem xét cấp thẻ tạm trú, gia hạn tạm trú. Những trường hợp người nước ngoài có nhu cầu gia hạn tạm trú, cấp thẻ tạm trú cần phải thông qua cơ quan, tổ chức, cá nhân đã mời, bảo lãnh trực tiếp
làm thủ tục.
Kết quả khảo sát trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2001 đến năm 2008, cho thấy: cơ quan chức năng đã tiếp nhận, giải quyết cấp thẻ tạm trú, gia hạn tạm trú cho 253.744 lượt người nước ngoài (gia hạn tạm trú: 228.488 trường hợp,
cấp thẻ tạm trú: 25.256 trường hợp) [27]. Theo thống kê năm 2013, Thành phố Hồ Chí Minh đã giải quyết gia hạn tạm trú cho 89.206 người nước ngoài; cấp thẻ tạm trú cho 13.470 người nước ngoài. Năm 2014, số trường hợp được giải quyết gia hạn
tạm trú giảm xuống 46.852 người và số được cấp thẻ tạm trú giảm còn 10.071 người. Đến năm 2016, số trường hợp được gia hạn tạm trú là 46.165 người và số trường hợp người nước ngoài được cấp thẻ tạm trú là 18.138 người. Tại Đồng Nai, trong năm 2014, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh đã tiếp nhận, giải quyết gia hạn tạm
trú cho 3.975 trường hợp người nước ngoài, cấp thẻ tạm trú cho 3.561 trường hợp. Đến năm 2016, số trường hợp gia hạn tạm trú giảm xuống còn 1.941 trường hợp và
102
số được cấp thẻ tạm trú lại tăng lên 5.257 trường hợp… Trong tổng số người nước ngoài được tiếp nhận, giải quyết cấp thẻ tạm trú, gia hạn tạm trú tại các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam có gần 30% trong số đó là người lao động nước ngoài.
Ba là, quản lý hoạt động của người lao động nước ngoài Quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của người lao động nước ngoài đảm bảo cho người nước ngoài hoạt động đúng mục đích đã đăng ký nhập cảnh; phát hiện và kịp
thời đấu tranh, ngăn chặn mọi hành vi phương hại đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Phòng Quản lý xuất nhập cảnh là đơn vị quản lý về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, hoạt động của người nước ngoài tại các địa phương, có chức năng quản lý công khai mọi hoạt động của người nước ngoài, đảm bảo cho hoạt động của họ theo đúng
mục đích đã đăng ký khi nhập cảnh vào Việt Nam. Trên cơ sở triển khai các mặt công tác cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh phát hiện những hoạt động trái mục đích hoặc hoạt động nghi vấn của người nước ngoài để xử lý theo chức năng hoặc cung
cấp thông tin cho các đơn vị nghiệp vụ kịp thời tổ chức triển khai các biện pháp nghiệp vụ làm rõ các hoạt động nghi vấn.
Căn cứ những thông tin về tổ chức, cá nhân nước ngoài đến địa phương, theo quy định của pháp luật Phòng Quản lý xuất nhập cảnh đã phối hợp kịp thời với các
ngành chức năng và các phòng nghiệp vụ thuộc lực lượng An ninh, Cảnh sát (theo từng hệ loại đối tượng) và lực lượng an ninh huyện, thành phố, thị xã để cùng phối hợp tổ chức công tác quản lý đạt hiệu quả. Trách nhiệm chính trong quản lý hoạt
động của người lao động nước ngoài thuộc về cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh địa phương, song bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân mời, bảo lãnh cũng có trách nhiệm trong quản lý hoạt động của người lao động nước ngoài mà đơn vị mình mời, đón bảo lãnh.
Mặt khác, lao động nước ngoài trong các công ty, doanh nghiệp, khu công nghiệp phải thực hiện xin cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài. Nhưng trong thời gian qua, quy định này chưa được các doanh nghiệp quan tâm thực hiện.
Thực tế này xuất phát từ nhiều nhiều nguyên nhân như: quá trình xin xác nhận lý lịch tư pháp của lao động nước ngoài còn chậm hoặc một số lao động nước ngoài không có chứng nhận tay nghề nên các công ty, doanh nghiệp né tránh không thực hiện xin cấp giấy phép lao động…
Trong công tác kiểm tra hoạt động, cấp thị thực, gia hạn tạm trú của lao động nước ngoài ở địa phương, lực lượng chức năng đã phát hiện nhiều công ty, doanh
103
nghiệp mời đón, quản lý sử dụng lao động nước ngoài còn lỏng lẻo, khi chấm dứt hợp đồng hoặc bỏ việc, hầu hết các công ty không thông báo cho cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh. Đặc biệt, hiện nay có một số người Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam bằng đường bộ từ các cửa khẩu phía Bắc, sử dụng hộ chiếu phổ thông (du lịch),
nhưng thực chất là tìm kiếm việc làm, lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân trong các khu công nghiệp. Hiện có nhiều người nước ngoài mang quốc tịch các nước ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản nhập cảnh
diện miễn thị thực, nhưng đã vào làm việc trong các công ty, doanh nghiệp; nhiều trường hợp người nước ngoài đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam làm việc hoặc lưu trú, khi hết giá trị thị thực; chứng nhận tạm trú, họ không xin gia hạn hoặc cấp đổi lại tại Cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh tại nơi làm việc mà thông qua
các công ty du lịch, dịch vụ để gia hạn ở nơi khác (phòng Quản lý xuất nhập cảnh Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Bình Dương). Đây là việc làm không đúng theo qui định của pháp luật, từ đó sẽ gây không ít khó khăn cho công tác theo dõi, quản lý,
kiểm tra của địa phương và nảy sinh các dịch vụ phức tạp khác.
Bên cạnh những mặt đạt được trong công tác quản lý hoạt động của lao động nước ngoài, thời gian qua công tác này vẫn còn một số hạn chế đó là: việc tích lũy thông tin, tài liệu về hoạt động của người nước ngoài tại địa phương chưa được chú
trọng và duy trì thường xuyên; việc bố trí cán bộ trinh sát quản lý đối tượng chưa chuyên sâu, trình độ ngoại ngữ còn yếu và thường có sự thay đổi... nên các hoạt động của đối tượng nước ngoài chưa được hệ thống nhằm rút ra bản chất, quy luật
hoạt động của họ tại địa phương.
Công tác quản lý đối với các công ty, doanh nghiệp trong khu công nghiệp; công tác quản lý về lao động của người nước ngoài phải có sự tham gia của Ban Quản lý các khu công nghiệp từ khâu cấp phép đầu tư đến việc quản lý cấp giấy
phép lao động cho người nước ngoài nhưng trong thời gian qua công tác phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng còn chưa chặt chẽ, chưa thống nhất nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý.
Bốn là, quản lý xuất cảnh đối với người lao động nước ngoài Xác định đây là một mặt công tác quan trọng trong công tác quản lý người nước ngoài trên địa bàn, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an các địa phương đã tổ chức nắm tình hình hoạt động của người nước ngoài trên địa bàn để từ đó chủ
động đề ra các biện pháp xử lý phù hợp như buộc xuất cảnh đối với các đối tượng vi phạm pháp luật, không gia hạn tạm trú, buộc xuất cảnh trước thời hạn đối với những
104
đối tượng ở lại không có lợi cho an ninh quốc gia của Việt Nam hay do các yêu cầu chính trị đặt ra… Đồng thời, áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với những trường hợp có yêu cầu của cơ quan Điều tra, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
3.2.4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục chính sách, quy định pháp
luật Việt Nam cho người lao động nước ngoài
Về hình thức tuyên truyền
Trong thời gian qua, các lực lượng chức năng tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã tập trung các biện pháp, lực lượng để tiến hành công tác này một cách có hiệu quả. Các hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được sử dụng khá đa dạng, như: tuyên truyền miệng, phát tờ rơi tuyên truyền, tuyên truyền thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử… trong đó hình thức tuyên truyền miệng vẫn là hình thức tuyên truyền được các cơ quan chức năng sử dụng nhiều hơn cả với 70%; hình thức tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin
đại chúng, trang thông tin điện tử chiếm 22%; hình thức phát tờ rơi tuyên truyền chiếm 5%... (xem thêm phục lục 6h). Với hình thức tuyên truyền miệng, trong năm 2017 các cơ quan chức năng đã tổ chức 257 buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho 4.101 lượt người lao động nước ngoài như trong bảng 3.7
Bảng 3.7 Thống kê số buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật lao động, luật xuất nhập cảnh cho người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
STT
Địa phương
Buổi
Người tham gia
Tổng số LĐNN
Bà Rịa Vũng Tàu
1
356
14
1.868
Bình Dương
2
456
63
8348
Bình Phước
3
345
12
620
4 Đồng Nai
768
23
6.267
Long An
5
437
21
2.083
Tây Ninh
6
345
15
2.349
Tiền Giang
7
444
34
672
TP. HCM
8
950
75
20.478
Tổng
257
42.685
4.101 Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
105
Đối với hình thức phát tờ rơi, cẩm nang tuyên truyền cổ động cũng được các cơ quan chức năng sử dụng trong tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người lao động nước ngoài như trong năm 2017 Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã
hội, Ban Quản lý các Khu Công nghiệp biên soạn và phát 15.094 cẩm nang “Những điều cần biết khi người nước ngoài đến Việt Nam” và 3.784 tờ gấp “Một số quy định về nhập cảnh, xuất cảnh, lao động đối với người nước ngoài” cho người lao động
nước ngoài và người sử dụng lao động nước ngoài.
Về nội dung tuyên truyền Nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục đối với người lao động nước ngoài chủ yếu là các quy định pháp luật, các chính sách của Nhà nước, của địa phương
liên quan trực tiếp đến người lao động nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài. Việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản này còn tiến hành thông qua niêm yết các văn bản, quy định liên quan (bằng tiếng Việt, Anh, Trung Quốc...) tại trụ sở
cơ quan quản lý, các cơ sở tập trung đông người nước ngoài lưu trú...
Chẳng hạn như tại Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh đã phối hợp chặt chẽ với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật và triển khai có hiệu quả các văn bản quản lý liên quan đến người
nước ngoài, đặc biệt là Quyết định 13/2015/QĐ-UBND, ngày 27/2/2015 của UBND Thành phố về Ban hành Quy chế phối hợp quản lý lao động nước ngoài làm việc trong các danh nghiệp, tổ chức, chủ đầu tư, nhà thầu trên địa bàn. Cơ quan này còn
phối hợp với Sở Du lịch, Ban Quản lý Khu chế xuất, Khu công nghiệp tổ chức tuyên truyền, đối thoại doanh nghiệp liên quan đến các quy định về pháp luật lao động, pháp luật xuất nhập cảnh, cư trú. Từ năm 2012 đến năm 2014, lực lượng Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội,
Ban Quản lý các khu chế xuất và khu công nghiệp Thành phố tổ chức tuyên truyền, đối thoại tại các doanh nghiệp liên quan đến các quy định về pháp luật lao động và pháp luật xuất nhập cảnh, cư trú cho hơn 955 cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp có sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn. Bên cạnh đó, lực lượng Công an Thành phố cũng tham gia góp ý, xây dựng nội dung tuyên truyền pháp luật xuất nhập cảnh, cư trú theo đề nghị của Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật Thành phố do Sở Tư pháp chủ trì.
Năm 2013, phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về xuất, nhập cảnh đối với người nước ngoài tại Việt
106
Nam cho 176 người là đại diện của 146 doanh nghiệp có sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn Thành phố. Năm 2014, phối hợp hiệu quả với các sở, ngành đẩy mạnh việc tuyên truyền pháp luật về xuất nhập cảnh cho các công ty, doanh nghiệp có sử dụng lao động nước ngoài tại Quận 4, Quận 6 với khoảng 650 người tham dự;
phối hợp với Ban Quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Thành phố Hồ Chí Minh (Hepza) tổ chức tuyên truyền quy định pháp luật về xuất nhập cảnh cho 249 doanh nghiệp có sử dụng lao động nước ngoài; phối hợp với các sở, ngành tổ chức
hội nghị đối thoại tuyên truyền pháp luật xuất nhập cảnh cho 105 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng lao động nước ngoài; Trong năm 2015, phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Ban Quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Thành phố Hồ Chí Minh tuyên truyền Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh,
cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam cho hơn 700 doanh nghiệp có sử dụng lao động nước ngoài; phối hợp Sở Du lịch tổ chức phổ biến, tuyên truyền về Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam cho đại
diện 94 khách sạn, 181 công ty kinh doanh lữ hành; phối hợp các cơ quan thông tin, báo chí tuyên truyền về Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam cùng các văn bản có liên quan mới ban hành của Bộ Công an.
Nhìn chung, việc tuyền truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam được tiến hành trong những năm qua đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần nâng cao nhận
thức của người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước ngoài. Song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, khó khăn ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác tuyên truyền.
3.2.5. Phối hợp với các cơ quan trong quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài
3.2.5.1. Cách thức phối hợp trong quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Hoạt động phối hợp trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được tiến hành đồng bộ và thống nhất giữa các cơ quan. Sự phối hợp này được tổ chức rất đa dạng với nhiều hình thức như:
Thứ nhất, thông qua xây dựng, thực hiện các văn bản phối hợp
Trong những năm qua, với vai trò là đơn vị chủ trì trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã
107
hội đã thể hiện rõ nét vai trò là cầu nối giữa các Bộ, Ban, Ngành với Chính phủ. Điều đó được thể hiện rõ qua việc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã xây dựng nhiều kế hoạch, văn bản phối hợp cụ thể hóa các chỉ đạo của Chính phủ nhằm phù hợp với đặc điểm từng vùng, miền, từng đối tượng quản lý.
Trong hoạt động quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người lao động nước ngoài tại Việt Nam các cơ quan chức năng căn cứ vào cơ sở pháp lý là Nghị định số 64/2015/NĐ-CP ngày 06/08/2015 Quy định cơ chế phối hợp giữa các
bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam để thực hiện hoạt động phối hợp.
Ở cấp địa phương, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội của các tỉnh cũng thực
hiện tốt chức năng là cơ quan chủ trì trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại địa phương mình quản lý. Cụ thể, tất cả tám tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đều xây dựng quy chế phối hợp trong quản lý người lao
động nước ngoài. Những quy chế phối hợp được ban hành là cơ sở pháp lý trong triển khai các hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài tại các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Thứ hai, thông qua các cuộc họp liên ngành định kỳ, đột xuất
Thông qua các cuộc họp là một hình thức khá phổ biến trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài nói riêng. Đây là điều kiện để các chủ thể quản lý trao đổi thông tin trong hoạt động
quản lý, thống nhất cách thức quản lý, phát hiện những bất cập, khó khăn trong hoạt động của các chủ thể quản lý để khắc phục kịp thời.
Thực tiễn cho thấy, thông qua các cuộc họp liên ngành định kỳ hoặc đột xuất là một hình thức phối hợp khá hiệu quả trong tổ chức quản lý lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Các ngành như Lao động, thương binh và xã hội; Công an; Tư pháp; Tài chính; Ngoại vụ… thường xuyên duy trì các cuộc họp để kịp thời thông tin và thống nhất trong quá trình tổ chức hoạt động quản lý. Từ đó, hạn chế
3.2.5.2. Phối hợp thực hiện các mặt hoạt động quản lý nhà nước đối với người
tới mức thấp nhất những chồng chéo, bất cập trong hoạt động quản lý đối với đối tượng này. lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, việc thực hiện các nội dung phối hợp trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước
108
ngoài được thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật. Trong đó, việc phối hợp thực hiện các mặt hoạt động như sau:
Một là, phối hợp ban hành, tổ chức thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài Nội dung này được UBND các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, các cơ quan, ban ngành chức năng chủ động triển khai. Điều này được thể hiện rõ nhất qua quá trình ban hành và tổ chức thực hiện Bộ luật Lao động năm 2012; Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam và các Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ. Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lao động của người nước ngoài, UBND các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đều có sự chỉ đạo và thông tin phối hợp kịp thời với ngành Lao động, Thương binh và Xã hội; với cơ quan
Công an và các cơ quan hữu quan… để lấy ý kiến từ đó tổng hợp để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lao động nước ngoài. Khi tổ chức thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài, cơ quan chuyên môn cũng đã có sự phối hợp với
UBND, các cơ quan, ban ngành chức năng các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nhằm tập huấn nghiệp vụ về công tác quản lý đối với người lao động nước ngoài cho các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Hai là, phối hợp cấp các loại giấy tờ cho người lao động nước ngoài
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội ở các địa phương phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng để thực hiện các thủ tục như: chấp thuận nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài; xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động;
cấp, cấp lại giấy phép lao động; thu hồi giấy phép lao động; xác nhận đã thu hồi giấy phép lao động và đề nghị cơ quan công an trục xuất người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động; Phối hợp với cơ quan Công an trong việc cấp các loại giấy tờ cho người lao động nước ngoài như: hộ chiếu, thị
thực, thẻ tạm trú; Phối hợp với cơ quan Tư pháp để tiến hành các thủ tục cấp lý lịch tư pháp cho người lao động nước ngoài.
Ba là, phối hợp quản lý cư trú, hoạt động của người lao động nước ngoài
Quản lý cư trú của người lao động nước ngoài do cơ quan Công an chủ trì quản lý. Để quản lý tốt việc tạm trú, thường trú của người lao động nước ngoài, cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh phối hợp thống nhất với Công an các đơn vị, địa phương và các cơ quan, ban ngành chức năng liên quan. Cơ quan Quản lý xuất nhập
cảnh đã chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp với Công an các địa phương tổ chức thực hiện công tác quản lý khai báo tạm trú của người lao động nước ngoài và cấp giấy
109
phép xuất nhập cảnh cho người lao động nước ngoài thường trú tại Việt Nam nhưng không có hộ chiếu. Cơ quan này cũng đã phối hợp với Công an và UBND các cấp trong tổ chức đăng ký và quản lý tạm trú đối với người lao động nước ngoài trong các cơ sở lưu trú như: khách sạn, nhà cho thuê, phòng cho thuê, nhà riêng… theo
đúng quy định. Cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh đã phối hợp với Công an các đơn vị, địa phương kết nối đường truyền dữ liệu khai báo tạm trú trực tiếp trên Internet từ cơ quan này đến các cơ sở kinh doanh lưu trú; Công an các đơn vị, địa phương
liên quan. Việc kết nối đường truyền dữ liệu khai báo tạm trú trực tiếp trên Internet từ cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh đến các cơ sở kinh doanh lưu trú tăng nhanh qua các năm do được sự quan tâm và chú ý thực hiện của các cơ quan chức năng.
Trong quá trình cư trú tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, người lao động nước ngoài có nhiều hoạt động khác nhau. Do vậy, các cơ quan chức năng như: Công an, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch… đã có sự phối hợp chặt chẽ
trong quản lý cư trú, hoạt động của người nước ngoài. Các cơ quan này đã chủ động phối hợp, trao đổi thông tin cho nhau về những vấn đề có liên quan đến quản lý hoạt động của người nước ngoài thường xuyên, liên tục, kịp thời.
Bốn là, phối hợp thanh tra, kiểm tra, xử lý
Tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các cơ quan chức năng đã chủ động phối hợp kiểm tra người người lao động nước ngoài, qua đó đã phát hiện những vi phạm pháp luật của người nước ngoài để kịp thời xử lý. Sở
Lao động, Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố đã phối hợp với các đoàn kiểm tra liên ngành, Công an tổ chức nhiều lượt kiểm tra các địa điểm có người nước ngoài làm việc, lưu trú. Qua đó, cơ quan chức năng đã phát hiện, xử lý nhiều trường hợp vi phạm ở địa phương. Chẳng hạn như, tại Thành phố Hồ Chí Minh năm
2014 Sở Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Phòng Quản lý xuất nhập cảnh kiểm tra tại 10 điểm, có 157 lao động nước ngoài, trong đó có 01 trường hợp không khai báo tạm trú, 55 trường hợp chưa có giấy phép lao động [73].
Năm là, phối hợp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với người
lao động nước ngoài
Thực hiện quy định hiện hành, cơ quan quản lý lao động các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã phối hợp với các cơ quan ban ngành
liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với người lao động nước ngoài trên địa bàn. UBND các địa phương cũng tiến hành chỉ đạo các cơ quan
110
chức năng phối hợp với cơ quan quản lý lao động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về lao động cho cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan tại địa phương (như đã phân tích ở mục 3.2.4.)
Đánh giá về hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng trong ngành Công an, kết
quả khảo sát cho thấy, đa số cán bộ, chiến sỹ (210/380 ý kiến chiếm 55,3% cho rằng là “tạm được”, “chưa chặt chẽ, hiệu quả” chiếm 13,9%. Hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan Công an, đánh giá “tạm được” với 56,8%;
“chưa chặt chẽ, hiệu quả” chiếm 27,1%. Đánh giá về quan hệ phối hợp trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đa số cán bộ, chiến sỹ được khảo sát cho rằng “tạm được” với 216/380 phiếu chiếm 56,8%.
3.2.6. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao
động nước ngoài
Về hoạt động thanh tra
Hoạt động thanh tra liên quan đến người lao động nước ngoài được các cơ quan chức năng tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam chủ động thực hiện đảm bảo đúng quy định. Qua đó, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến người lao động nước ngoài được đảm bảo, đồng thời vai trò,
trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền được phát huy, chất lượng, hiệu quả quản lý được đảm bảo và nâng cao. Trước năm 2006, hoạt động thanh tra lao động được tiến hành theo đoàn, tức là khi có dấu hiệu của sự vi phạm pháp luật lao động,
cơ quan quản lý nhà nước về lao động sẽ ra quyết định thành lập đoàn thanh tra và cử xuống cơ sở để tìm hiểu vụ việc, như vậy, thanh tra lao động chỉ xuất hiện khi cơ sở có vấn đề. Sau năm 2006, thanh tra lao động chuyển đổi toàn diện phương thức hoạt động từ thanh tra theo đoàn sang thanh tra viên phụ trách vùng và sử dụng
phiếu tự kiểm tra tại doanh nghiệp. Bằng cách này, thanh tra lao động đã tạo ra một kênh thông tin thường xuyên hơn với cơ sở, nắm bắt kịp thời hơn những vấn đề mới nổi lên ở các doanh nghiệp có sử dụng người lao động nước ngoài.
Tuy nhiên tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam với lực lượng thanh tra lao động quá mỏng, đảm nhiệm hàng ngàn doanh nghiệp có sử dụng lao động nước ngoài và nhiều công việc chuyên trách khác, nên rõ ràng không thể hoạt động rộng khắp và đạt hiệu quả cao.
Về hoạt động kiểm tra
111
Hoạt động kiểm tra đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam được tiến hành theo 02 hướng chính: kiểm tra của cơ quan chức năng cấp trên đối với cấp dưới và kiểm tra của cơ quan chức năng đối với hoạt động của người lao động nước ngoài. Trong đó, cơ quan chức năng cấp
trên luôn chú ý việc kiểm tra hoạt động quản lý do cấp dưới thực hiện qua đó phát hiện sơ hở, thiếu sót để kịp thời khắc phục, cũng như đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người lao động nước ngoài. Tuy nhiên, việc kiểm tra của các cơ quan chức
năng đối với hoạt động của người lao động nước ngoài là hướng chính. Hoạt động này có biểu hiện cụ thể là:
+ Về tiêu chí tiến hành kiểm tra: Tiêu chí đánh giá, chọn địa bàn kiểm tra là những địa bàn có đông người lao động nước ngoài. Khi tiến hành kiểm tra, các khu
công nghiệp, khu chế xuất thường xuyên sử dụng người lao động nước ngoài cần được ưu tiên. Các địa bàn thường xuyên xảy ra hiện tượng người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật cũng nằm trong diện ưu tiên để tiến hành kiểm tra nhằm
kiểm tra ý thức chấp hành của người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài. Bên cạnh đó, trong những thời điểm nhất định, diễn ra những vụ việc phức tạp về ANTT liên quan đến một nhóm người nước ngoài đặc thù, thì lực lượng Quản lý xuất nhập cảnh - Công an các địa phương sẽ xây dựng kế hoạch riêng, rà
soát, chọn và tiến hành kiểm tra nhóm người nước ngoài này.
+ Về hình thức tiến hành kiểm tra: Trong thời gian qua, hoạt động kiểm tra của các cơ quan quản lý có thẩm quyền được chủ động đẩy mạnh dưới nhiều hình
thức khác nhau và qua đó đã phát hiện, xử lý nhiều trường hợp người lao động nước ngoài vi phạm. Lực lượng Quản lý xuất nhập cảnh đã trực tiếp kiểm tra hoặc phối hợp với Công an các quận, huyện, phường trọng điểm hay phối hợp với các cơ quan ban ngành có liên quan tổ chức các đợt kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với người
lao động nước ngoài. Thực tế tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cho thấy, hoạt động kiểm tra người lao động nước ngoài được tiến hành khá thường xuyên và chủ yếu là kiểm tra về cư trú của người lao động nước ngoài. Chẳng hạn
tại Thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh chủ trì kiểm tra hàng trăm điểm với hàng trăm người lao động nước ngoài được kiểm tra về cư trú. Đặc biệt, năm 2008, đơn vị này đã kiểm tra 50 điểm với 234 người lao động nước ngoài. Qua các năm, số lượng điểm kiểm tra được duy trì ở mức cao, đến năm
2017, số lượng điểm kiểm tra: 156 điểm, số người được kiểm tra 938 người [Xem phụ lục 6k]. Trong năm 2017, địa phương khác cũng chú trọng công tác kiểm tra
112
với số điểm kiểm tra và số người nước ngoài được kiểm tra lớn như Bình Dương với 70 điểm và 1.687 người lao động nước ngoài được kiểm tra [47]. Đồng Nai với 55 điểm nhưng lại có đến 1.238 người lao động nước ngoài được kiểm tra [47].
Bảng 3.8 Thống kê kết quả kiểm tra về cư trú của người lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Tổng số LĐNN
STT
Địa phương
Điểm
Người LĐNN
(người)
1.868
1
Bà Rịa Vũng Tàu
11
134
8.348
2
Bình Dương
70
1.687
620
3
Bình Phước
14
124
6.267
4
Đồng Nai
55
1.238
2.083
5
Long An
12
157
2.349
6
Tây Ninh
15
150
672
7
Tiền Giang
8
112
20.478
8
TP. HCM
103
821
Tổng
42.685
288
4.423
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
Theo đó, trong năm 2017, cơ quan chức năng tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã tiến hành kiểm tra 288 điểm cư trú, 4.423 người lao động nước ngoài. Rõ ràng số lượng điểm kiểm tra và số người lao động nước ngoài được các địa
phương kiểm tra là chưa nhiều. Đây là một thực trạng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả quản lý đối với đối tượng này tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Bên cạnh phối hợp với Công an các quận, huyện, cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh Công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam còn phối hợp với đoàn kiểm tra của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội để tiến hành kiểm tra định kỳ, đột xuất các điểm lưu trú đối với người lao động người nước ngoài, cơ sở làm việc, kinh doanh có sử dụng lao động người nước ngoài. Cơ
quan Quản lý xuất nhập cảnh còn phối hợp với Sở Y tế để kiểm tra các cơ sở y tế, khám chữa bệnh, bán thuốc có yếu tố nước ngoài. Khảo sát tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, năm 2010, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh phối hợp với đoàn kiểm tra của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tiến hành kiểm tra tại 15 điểm, có 161
lao động nước ngoài, phát hiện 52 trường hợp không có giấy phép. Năm 2011, số điểm kiểm tra tăng lên 31 điểm, gồm 28 doanh nghiệp, 03 văn phòng đại diện, phát
113
hiện 56 trường hợp chưa có giấy phép lao động, 01 trường hợp quá hạn thị thực. Năm 2014, số điểm kiểm tra phối hợp là 13 điểm, gồm 12 công ty và 01 phòng khám, phát hiện 77 trường hợp không khai báo tạm trú, 05 trường hợp không giấy tờ tùy thân, 27 trường hợp không giấy phép lao động, 03 trường hợp hoạt động sai
mục đích nhập cảnh. Năm 2015, số điểm phối hợp kiểm tra là 10 điểm với 695 lao động người nước ngoài được kiểm tra, trong đó có 145 trường hợp đã nghỉ nhưng không trả giấy phép lao động [73].
Hay tại địa bàn tỉnh Đồng Nai, Từ năm 2005 đến tháng 12/2012, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội triển khai 12 kế hoạch phối hợp với cơ quan Công an tỉnh Đồng Nai, Ban Quản lý các Khu công nghiệp tiến hành kiểm tra 450 doanh nghiệp và cơ sở lưu trú, nhà nghỉ, khách sạn với trên 5.000 lượt người nước ngoài lưu trú; người
nước ngoài lưu trú làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn các Khu công nghiệp. Qua đó, phát hiện 120 trường hợp lao động nước ngoài vi phạm các quy định về quản lý lưu trú, xử phạt vi phạm hành chính đối với 15 doanh nghiệp về hành vi không
khai báo tạm trú cho người nước ngoài. Quá trình phối hợp kiểm tra tại các Khu công nghiệp, Khu kinh tế, cơ quan chức năng phát hiện đa số các khu công nghiệp chưa có khu vực dành riêng cho lao động nước ngoài nên phổ biến tình trạng doanh nghiệp tổ chức cho lao động nước ngoài lưu trú ngay tại doanh nghiệp.
Theo nhận định của ông Nguyễn Văn Dũng phó trưởng Ban thường trực Ban Quản lý khu công nghiệp tỉnh Bình Phước cho biết: “Doanh nghiệp nước ngoài xin phép xây dựng nhà nghỉ trưa cho công nhân nhưng thực tế bố trí cho lao động nước
ngoài lưu trú ngay tại nhà máy, xưởng sản xuất nhằm giảm chi phí. Điều này vi phạm Nghị định 29/2008/NĐ-CP là trong khu công nghiệp, khu chế xuất không có dân cư sinh sống. Tuy nhiên, ban quản lý không thể kiểm tra, xử lý vì thiếu sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng lẫn những quy định xử phạt cụ thể”.
Tóm lại, công tác kiểm tra người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam được tiến hành thường xuyên hoặc đột xuất và đã phát huy hiệu quả trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài thời gian
qua. Khi tiến hành kiểm tra, các lực lượng chức năng đã tuân thủ theo đúng kế hoạch đặt ra, đồng thời cũng không làm ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của những nơi bị kiểm tra. Công tác phối hợp trong kiểm tra cũng được chú trọng nâng cao và làm tốt. Chính vì vậy, khi đề cập đến vấn đề “Hiệu quả công tác kiểm
tra”, một số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ được khảo sát (289/380 trường hợp, chiếm
114
khoảng 76,1%) đánh giá là “Tạm được” và có 63/380 trường hợp (chiếm khoảng 16,6%) đánh giá “Đạt hiệu quả cao”.
Về hoạt động xử lý vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài Hoạt động vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài chủ yếu là vi
phạm pháp luật xuất, nhập, cảnh, cư trú và pháp luật lao động. Đây là hai dạng vi phạm phổ biến của người lao động trong thời gian vừa qua tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam. Trong đó vi phạm pháp luật về cư trú của người lao động
nước ngoài chiếm tỷ lệ cao (60%), vi phạm pháp luật về lao động (30%), còn lại là vi phạm khác. Theo kết quả khảo sát hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về cư trú của người lao động nước ngoài do cơ quan chức năng tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành cho thấy, năm 2008 chủ trì phát hiện, xử lý 449 trường hợp, phối hợp phát
hiện, xử lý 382 trường hợp. Số trường hợp được phát hiện, xử lý liên tục tăng đến năm 2011 (cao nhất so với các năm khác) với số trường hợp chủ trì phát hiện, xử lý vi phạm tăng lên đến 3.399, phối hợp phát hiện, xử lý là 312 trường hợp. Từ năm
2011 đến năm 2016, số lượng trường hợp vi phạm bị phát hiện, xử lý có giảm xuống nhưng vẫn ở mức cao, trong năm 2017 đã chủ trì phát hiện, xử lý 1.678 trường hợp, phối hợp phát hiện, xử lý 93 trường hợp [Xem phụ lục 6m].
Cơ quan chức năng đã tiến hành xử lý vi phạm pháp luật của người lao động
nước ngoài đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan. Các hình thức xử lý chủ yếu gồm cảnh cáo, phạt tiền; hình thức xử phạt bổ sung là trục xuất, buộc xuất cảnh. Theo thống kê năm 2017 tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cư trú và pháp luật về lao động của người lao động nước ngoài chủ yếu là phạt tiền (chiếm đến 99,34%), còn lại là cảnh cáo (chiếm 0,33%) và trục xuất, buộc xuất cảnh (chiếm 0,33%) [Xem phụ lục 6n].
Nhìn chung, công tác xử lý đã được cơ quan chức năng các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam chú trọng đảm bảo. Việc xử lý vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài đều đảm bảo, căn cứ theo đúng
quy định pháp luật hiện hành, đảm bảo đúng hành vi, đúng người, lỗi vi phạm và đáp ứng các yêu cầu đặt ra… Tuy nhiên, hoạt động xử lý vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế. Một số trường hợp được xử lý không hiệu quả, không đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, không đủ sức răn đe, giáo dục. Do vậy, khi được khảo sát về “Đánh giá hiệu quả xử lý”, phần đông cho rằng “Hiệu quả không
115
cao, không đủ sức phòng ngừa răn đe” (với 116/380 trường hợp lựa chọn, chiếm khoảng 30,5%), chỉ có 36/380 trường hợp lựa chọn “Hiệu quả cao đủ sức phòng ngừa răn đe” (chiếm khoảng 9,5%).
Kết quả khảo sát cán bộ, quản lý đánh giá về hình thức xử phạt đối với người
lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo Điều 22, Nghị định 95/2013/NĐ- CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng, 143/380 người được khảo sát cho rằng “Về hình thức xử phạt (trục xuất, phạt tiền, đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp)” là “Chưa đủ mạnh” chiếm 37,6%; “Về mức phạt tiền và thời gian chịu phạt” 190/380 ý kiến cho rằng là “chưa đủ mạnh” chiếm 50%.
3.2.7. Hợp tác quốc tế trong quản lý người lao động nước ngoài Cùng với quá trình phát triển đất nước, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và toàn diện với khu vực và quốc tế, trong đó có lĩnh vực lao động và xã hội. Đây là quá
trình Việt Nam tham gia vào phân công lao động quốc tế, thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, đảm bảo an sinh xã hội, công bằng xã hội và tuân thủ các luật chơi chung, trong đó có các công ước quốc tế của Liên hợp quốc, các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2016 đã tập trung vào những mục tiêu như:
Hoàn thiện thể chế về lao động – xã hội theo tiêu chuẩn khu vực và
quốc tế, trong đó có các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đến năm 2020, phê chuẩn các công ước cơ bản còn lại và một số công ước khác của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đến năm 2030, đảm bảo nội luật hóa toàn bộ cam kết quốc tế về lao động – xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu, tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu; tăng cơ hội việc làm có chất lượng cho người lao động. Tăng số lượng các nghề đào tạo được các nước
công nhận về văn bằng, chứng chỉ. Huy động tối đa nguồn lực từ hợp tác đa phương, song phương, hợp tác với các cá nhân và tổ chức phi Chính phủ nước ngoài phục vụ xây dựng, triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển lao động – xã hội [104, tr.2].
116
Thực hiện chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, theo Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hướng đến mục tiêu:
Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối
đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng
bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [7, tr.3].
Thực hiện mục tiêu trên, các cơ quan chức năng trong quản lý lao động nước ngoài đã tích cực, chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực lao động, người có công và xã hội, đảm nhiệm vai trò đầu mối chủ trì Cộng
đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN và là cơ quan giúp việc cho Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo.
Trong thời gian vừa qua, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lao động được cơ quan chức năng quan tâm thực hiện ở nhiều cấp và với nhiều hình thức
khác nhau.
Ở cấp trung ương, hoạt động hợp tác quốc tế về lao động nước ngoài được diễn ra đa dạng với nhiều hình thức như: (1) Thiết lập quan hệ đối tác tích cực với các
tổ chức quốc tế như thiết lập quan hệ quốc tế với các cơ quan của Liên hợp quốc, như: Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR), Cơ quan của Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Phụ nữ (UN
WOMEN), Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Cơ quan Phòng, chống ma túy (UNODC), Tổ chức Di cư quốc tế (IOM)..., với các định chế tài chính quốc tế và khu vực như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền
tệ quốc tế (IMF); tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác đa phương cụ thể về các lĩnh vực lao động và xã hội, Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các tổ chức này đã cung cấp hỗ trợ
về kỹ thuật và tài chính trong việc xây dựng và thực hiện chính sách giải quyết những vấn đề ưu tiên của quốc gia và khu vực, thúc đẩy hội nhập trong việc đảm bảo phát
117
triển bền vững, an sinh xã hội, mục tiêu phát triển bền vững, nghèo đa chiều, bình đẳng giới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục nghề nghiệp gắn với việc làm... (2) Ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về người lao động nước ngoài. Trong năm 2016 các cơ quan chức năng đã ký kết và tiếp tục thực hiện trên 40 thỏa thuận,
biên bản hợp tác; xây dựng và triển khai các đề án/kế hoạch hợp tác song phương nhiều nước như: Lào, Nhật Bản, Đức, Hoa Kỳ, Nga, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Belarus; xây dựng và triển khai Thỏa thuận về Chương trình lao động
trong kỳ nghỉ với New Zealand và Úc; các thỏa thuận về nâng cao năng lực, xây dựng chính sách, pháp luật, thanh tra, an toàn, vệ sinh lao động, công tác hòa giải, giảm nghèo, phúc lợi xã hội, y tá, điều đưỡng, lao động ngoài nước. Tiến hành đàm phán các Hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội tương hỗ với Đức và Hàn Quốc.
Đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cũng như tiếp nhận người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định, thỏa thuận, biên bản ghi nhớ với các nước. (3) Tiếp nhận thông tin
và hỗ trợ các nước trong việc xử lý các trường hợp vi phạm của người lao động nước ngoài; (4) Phối hợp trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng năng lực cán bộ quản lý; trong tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động nước ngoài.
Như trong năm 2016, Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Cụm 3) đã hợp tác với Tổng sự quán Mỹ, Hàn Quốc và Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc trong việc hỗ trợ truy tìm các đối tượng truy nã, vi phạm pháp luật; hợp tác với Tổng sự quán
Đức trong tổ chức lớp tập huấn về kiểm tra giấy tờ giả mạo xuất nhập cảnh cho nhân viên các hãng hàng không, hay hợp tác với Cơ quan Di trú Hungary ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác xuất nhập cảnh… (xem thêm phụ lục 6p). Ở cấp địa phương, các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Việt Nam tham gia vào hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lao động chủ yếu dừng lại ở việc tham mưu, đề xuất các cơ quan có thẩm quyền cấp trên ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về lao động nước ngoài; thực hiện các nội dung cam kết trong các
điều ước quốc tế về lao động nước ngoài; phối hợp trong việc cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hành vi của người lao động nước ngoài khi có vi phạm pháp luật hoặc cần xác minh về nhân thân, lai lịch của người lao động nước ngoài…
118
3.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
3.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân Quá trình tổ chức quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam nói riêng, cho thấy,
cơ quan chức năng đã thực hiện tốt chức năng của mình nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong quá trình quản lý đối với loại hình này với những mặt đạt được là cơ bản như:
Thứ nhất, về thể chế quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý lao động nước ngoài được xây dựng tương đối đầy đủ, đồng bộ; mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng: Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng như Bộ Lao động Thương binh và
xã hội, Bộ Công an, Bộ Công Thương, các quy định rõ trách nhiệm của nhà thầu, chủ đầu tư, UBND tỉnh, thành phố, Sở Lao động, Thương binh, Xã hội; Ban Quản lý các khu công nghiệp, Công an địa phương… Đồng thời cũng thực hiện đơn giản
hóa thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho lao động nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài; quản lý chặt chẽ hơn đối với lao động không đủ điều kiện làm việc tại địa phương, nhất là với lao động phổ thông... Tóm lại, thể chế quản lý nhà nước, bước đầu đã tạo lập được khung pháp lý để quản lý nhà nước đối với người
lao động nước ngoài tại Việt Nam. Kết quả khảo sát của tác giả cho thấy có 319/380 ý kiến đồng ý với nhận định này chiếm 83,9%, không đồng ý chỉ chiếm 1,1%; 310/380 chiếm 81,6% ý kiến “đồng ý” với đánh giá “Văn bản quy phạm pháp luật
Thứ hai, về đóng góp của lực lượng lao động nước ngoài cho quá trình
về lao động nước ngoài có tính khả thi” phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam Kết quả áp dụng pháp luật về lao động nước ngoài đã thu hút được một lực
lượng lao động nước ngoài trình độ cao ở nhiều lĩnh vực mà các địa phương còn thiếu, chưa thay thế được để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình sử dụng lao động nước ngoài tay nghề cao, chuyên
môn giỏi đã tạo điều kiện cho lao động Việt Nam tiếp thu kinh nghiệm cũng như tác phong làm việc công nghiệp hiện đại trong quá trình làm việc… Từ đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước, đóng góp lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Đánh giá về sự đóng góp của lực lượng lao động nước ngoài
vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại các địa phương hiện nay cho thấy 15,8% cho rằng là “rất tích cực”, 70% tích cực.
119
Thứ ba, về hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài Hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài từng bước được tăng cường. Bên cạnh việc thu hút người lao động nước ngoài chất lượng cao còn góp phần ngăn chặn dòng chảy lao động phổ thông vào Việt Nam, nhất là trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, nhằm đảm bảo quỹ việc làm cho người lao động trong nước. Đồng thời phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn lao động bất hợp pháp và những vấn đề tiêu cực phát sinh từ lao động nước ngoài, hạn chế tội phạm xuyên
quốc gia, hạn chế tình hình tội phạm và những vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự. Quá trình tiến hành các hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cho thấy các hoạt động này được đánh giá có hiệu quả với 337/380 cán bộ được hỏi đồng ý với nhận
định trên chiếm 88,7%, chỉ có 43% cho rằng các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại khu vực này không hiệu quả. Thứ tư, về trách nhiệm thực thi của chủ thể quản lý nhà nước đối với người
lao động nước ngoài Thành công của hoạt động quản lý lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam trong thời gian qua còn được ghi nhận ở việc các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tăng cường quản lý nhà nước
đối với người lao động nước ngoài. Xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có liên quan, xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong quản lý người nước ngoài ở các địa phương; Đẩy mạnh tuyên
truyền pháp luật cho lao động nước ngoài nhằm thúc đẩy quá trình tuân thủ pháp luật của các đối tượng này; Thực hiện cơ chế một cửa tại chỗ theo thủ tục ISO 9001:2000, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi tiến hành các thủ tục liên quan đến lao động nước ngoài; Thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử phạt đối với
người nước ngoài nhập cảnh trái phép, cư trú bất hợp pháp. Đánh giá về việc thực thi trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cho thấy, 31,6% đánh giá việc thực thi trách nhiệm của HĐND là
tốt, 40,3% đánh giá việc thực thi trách nhiệm của UBND là tốt, 59,5% đánh giá việc thực thi trách nhiệm Cơ quan Công an là tốt, 47,6% đánh giá việc thực thi trách nhiệm của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội là tốt, 33,7% đánh giá việc thực thi trách nhiệm của Ban Quản lý các khu công nghiệp là tốt.
Nhìn chung, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam thời gian qua đã đạt được những kết quả khả
120
quan thể hiện trên tất cả các nội dung quản lý như trên. Những kết quả đạt được này xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Về nguyên nhân chủ quan, kết quả đạt được là do sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đến việc thực hiện có trách nhiệm của các các cơ
quan chuyên môn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đối với lực lượng này. Về nguyên nhân khách quan, hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam có được một phần
là do các công cụ, phương tiện, điều kiện cần thiết trong quản lý ngày càng được đảm bảo và phát huy tác dụng cao trên thực tiễn. Bên cạnh đó, sự hợp tác từ phía người lao động nước ngoài cũng như cơ quan, tổ chức, cá nhân mời, đón, bảo lãnh người nước ngoài là một nguyên nhân khách quan nâng cao hiệu quả quản lý.
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả cơ bản nêu trên, hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cũng
Thứ nhất, các cơ quan chức năng ở nhiều địa phương chưa thể hiện hết
còn hạn chế như: trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành. Ở nhiều địa phương tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam còn
thiếu sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt, điều hành của các cấp chính quyền đối với việc triển khai các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Kết quả khảo sát của tác giả với đối tượng là cán bộ quản lý về đánh giá thực thi trách
nhiệm của các cơ quan ở địa phương chưa thực sự rõ nét như: đánh giá về việc thực thi trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cho thấy 5% đánh giá việc thực thi trách nhiệm của Ủy ban nhân dân là yếu; 8,4% đánh giá việc thực thi trách nhiệm Ban Quản lý các Khu công
nghiệp là yếu.
Thứ hai, việc ban hành thể chế quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài và triển khai thực hiện trên thực tế còn nhiều khó khăn, bất cập.
Mặc dù đã được chỉnh sửa bổ sung nhiều lần nhưng một số quy định của pháp luật vẫn thiếu, chưa chặt chẽ, gây khó khăn cho công tác quản lý, cơ chế xử lý đối với nhà thầu không thực hiện đúng quy định của pháp luật Việt Nam về lao động nước ngoài; Các quy định liên quan về xuất nhập cảnh, đăng ký tạm trú, công
nhận văn bằng chứng chỉ nước ngoài chưa đồng bộ, gây vướng mắc, xung đột giữa các văn bản chuyên ngành; Một số quy định về thủ tục tuyển dụng, hồ sơ giấy tờ
121
cấp phép lao động, trục xuất khó thực thi; quy định về trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong quản lý lao động nước ngoài chưa có hướng dẫn thực hiện (Bộ Công thương); quy định về xử lý, xử phạt thấp, chưa đủ sức răn đe.
Điển hình như quy định phải có lý lịch tư pháp trong hồ sơ xin cấp giấy phép
lao động. Nhưng đối với nhiều quốc gia không có cơ quan cấp loại giấy tờ này hoặc thủ tục rất khó khăn nên người lao động nước ngoài không thực hiện được; quy định phải đăng báo tuyển lao động Việt Nam trước khi tuyển lao động nước ngoài
trong khi người sử dụng lao động không có nhu cầu tuyển lao động Việt Nam; quy định phải đăng báo tuyển lao động Việt Nam trước khi tuyển lao động nước ngoài trong khi sử dụng người sử dụng lao động không có nhu cầu tuyển lao động Việt Nam; quy định ‘trục xuất” lao động nước ngoài không có giấy phép không đảm bảo
tính thực thi… Các quy định báo cáo tình hình sử dụng lao động nước ngoài, đăng ký nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài, việc xin cấp thuận tuyển lao động nước ngoài, việc đào tạo lao động Việt Nam thay thế… không có chế độ hậu kiểm.
Hầu hết các giấy xác nhận kinh nghiệm làm việc của người lao động nước ngoài hiện nay do doanh nghiệp ở nước ngoài cấp, cơ quan sở tại xác nhận tư cách pháp nhân của doanh nghiệp đó (không xác định nội dung) và được hợp pháp hóa lãnh sự, cơ quan quản lý ít có cơ sở để kiểm tra.
Việc quy định nhiều thủ tục phức tạp, rườm rà, khó thực hiện đã biến thành rào cản, làm nảy sinh tình trạng “ngại” đăng ký để cấp giấy phép lao động. Mặt khác, nhiều trường hợp tìm cách “lách luật” bằng cách thường xuyên xuất, nhập
cảnh, thay đổi nơi làm việc nhằm đảm bảo chỉ làm việc dưới 3 tháng để không phải xin giấy phép lao động (thời điểm Nghị định 34/2008/NĐ-CP đang có hiệu lực pháp lý); hoặc làm giảm các loại giấy tờ liên quan như bằng cấp, giấy chứng nhận kinh nghiệm, lý lịch tư pháp, thậm chí làm giả cả giấy phép lao động… gây nhiều khó
khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện các chức năng liên quan.
Kết quả khảo sát cho thấy, khi “Đánh giá về thể chế quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài” đa số cán bộ, chiến sỹ 65,5% “đồng ý” với đánh
giá “Thiếu tính đồng bộ giữa một số văn bản quy định trong quản lý đối với người lao động nước ngoài”; 258/380 chiếm 67,9% ý kiến “đồng ý” với đánh giá “Chế tài xử lý vi phạm đối với người lao động nước ngoài chưa đủ mạnh”; 43,67% ý kiến “đồng ý” với đánh giá “Có chế tài xử lý nhưng khi thực hiện lại chỉ dừng ở
mức “nhắc nhở””.
122
Thứ ba, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
chưa thật sự ổn định và thống nhất
Mặc dù, bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng được tổ chức từ
trung ương đến cơ sở với sự phân công, phân cấp rõ ràng. Song qua khảo sát cho thấy sự chưa ổn định và thống nhất, còn chia cắt với nhiều chủ thể, lực lượng tham gia. Việc phân công lực lượng ở một số địa phương chưa thống nhất còn chồng
chéo, chưa đạt yêu cầu. Đánh giá về thực thi trách nhiệm của các cơ quan chức năng tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cho thấy, 327/380 chiếm 86,1% cán bộ được hỏi cho rằng “sự bất cập trong công tác tác tổ chức bộ máy ở cơ sở hiện nay có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài hiện nay”.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lao động nước
ngoài tại Việt Nam còn bất cập, chưa hiệu quả
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước ngoài, nâng cao tính thực thi của pháp luật trong thực tiễn. Các cơ quan chức năng thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã tích cực trong việc đa
dạng hóa các hình thức tuyên truyền, song tính hiệu quả mang lại chưa cao. Đặc biệt việc tổ chức các hoạt động truyền thông chưa được thường xuyên, 280/380 ý kiến khảo sát đồng thuận với đánh giá này chiếm 73,7%.
Thứ năm, sự phối hợp giữa các ngành có liên quan trong quản lý nhà nước
đối với người lao động nước ngoài chưa chặt chẽ
Hoạt động phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài giữa các cơ quan, đơn vị, lực lượng trong và ngoài ngành Công an tại vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam Việt Nam có thời điểm còn thiếu đồng bộ, thậm chí chồng chéo và trùng dẫm, làm giảm hiệu quả của quản lý. Đánh giá về công tác phối hợp giữa các lực lượng trong ngành Công an tham gia quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài thì 13,9% cho rằng hiệu quả phối hợp chỉ dừng lại ở mức độ “chưa chặt chẽ, hiệu quả”. Đánh giá về công tác phối hợp giữa lực lượng Công an với các cơ quan chức năng tham gia quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài thì 27,1 % cho rằng hiệu quả phối hợp chỉ dừng lại ở mức độ “chưa chặt chẽ, hiệu
quả”; 8,4% cho rằng “không hiệu quả, chồng chéo hoặc buông lỏng”
123
Trong hoạt động phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Mặc dù, các địa phương đều xây dựng quy chế phối hợp song việc phối hợp trao đổi thông tin trong quản lý đối với đối tượng này giữa các địa phương trong vùng hầu như rất ít. Đánh giá về sự phối hợp
giữa các địa phương trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam 27,1% cho rằng “Chưa chặt chẽ, hiệu quả”; 8,4% cho rằng “không hiệu quả, chồng chéo hoặc buông lỏng”.
Thứ sáu, hoạt động kiểm tra, xử lý chưa phát huy tương xứng, còn hạn chế. Hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm bộc lộ một số hạn chế, có nơi, cơ quan chức năng chưa thực hiện quyền kiểm tra, hướng dẫn xử lý theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Một số nơi lại kiểm tra nhiều, chưa hợp lý. Trong xử lý, nhiều trường hợp xử
lý không đúng với chức năng, quyền hạn, thậm chí một số trường hợp còn xử lý trái với các quy định của pháp luật. Một số trường hợp xử lý không hiệu quả, không đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, không đủ sức răn đe, giáo dục người vi
phạm nên tình trạng vi phạm pháp luật của lao động nước ngoài ở một số địa phương còn diễn biến phức tạp.
Đánh giá về công tác kiểm tra, xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam, có 30,5% cho rằng “Hiệu quả không cao, chưa đủ sức phòng ngừa,
răn đe”
Trên đây là một số hạn chế trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam. Những bất cập, hạn
chế này do những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:
Thứ nhất, lực lượng người lao động nước ngoài đến làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam tăng lên nhanh chóng qua các năm. Nếu như năm 2008 lực lượng lao động tại đây chỉ 23365 người, thì đến năm 2017 đã lên tới
42685 người Dự báo trong những năm sắp tới, số lượng lao động nước ngoài tới làm việc tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam sẽ tăng lên nhanh như theo đánh giá của 182/380 ý kiến chiếm 47,9% cho rằng sẽ “tăng nhanh” trong
những năm sắp tới.
Thứ hai, các cơ quan hữu quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài chưa phát huy vai trò, trách nhiệm một cách tương xứng. Đánh giá về thực thi trách nhiệm của các cơ quan chức năng tham
gia hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cho thấy 5% ý kiến khảo sát đánh giá “yếu” với vai
124
trò trách nhiệm của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; 23,2% ý kiến đánh giá “yếu” đối với vai trò của “người sử dụng lao động” trong quản lý đối với người lao động nước ngoài.
Thứ ba, xuất phát từ trình độ, năng lực một số cán bộ quản lý chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra cũng là nguyên nhân đáng lưu ý. Đội ngũ cán bộ quản lý vẫn còn thiếu và mỏng, chưa đủ sức bao quát hết tình hình. Trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như về pháp luật, ngoại ngữ, tin học... của một bộ phận cán bộ
quản lý còn hạn chế. Điều này làm xuất hiện tình trạng đùn đẩy, né tránh dẫn đến hiệu quả quản lý không cao, không nắm được số lượng người nước ngoài cư trú, một lượng khách khá lớn không khai báo tạm trú, cư trú quá hạn, cư trú không đúng địa chỉ diễn ra phổ biến.
Kết quả khảo sát cho thấy, 118/380 chiếm 31.1% ý kiến khảo sát cho rằng số lượng và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài các cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở có “ảnh hưởng rất lớn” hiệu quả
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện nay.
Thứ tư, văn bản pháp luật về người lao động nước ngoài tại Việt Nam còn hạn chế, lỏng lẻo. Nguyên nhân của tình trạng trên theo khảo sát cho thấy 69,7% cho rằng chưa đổi mới tư duy, chưa theo kịp diễn biến thực tế; 65,5% cho rằng việc bổ
sung, sửa đổi văn bản pháp luật liên quan mang nặng giải pháp tình thế, thiếu thống nhất; thực tiễn chưa được tổng kết, đánh giá toàn diện, khoa học chiếm 59,5%.
Thứ năm, một số đơn vị phối hợp còn đùn đẩy trách nhiệm trong quản lý người
lao động nước ngoài. Trong phối hợp giữa các lực lượng tham gia quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài còn chưa mang lại hiệu quả cao, nguyên nhân này xuất phát từ nguyên nhân: thiếu cơ chế phối hợp (57,1%); do lực lượng liên quan chưa thật sự quan tâm (41,1%); thiếu sự tin cậy, trao đổi (31,1%). Đối với sự
phối hợp giữa các địa phương trong vùng, nguyên nhân dẫn đến sự phối hợp hạn chế là do: thiếu cơ chế phối hợp (78,9%), do cơ quan chức năng liên quan của từng địa phương chưa thật sự quan tâm (46,1%).
Thứ sáu, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với người lao động nước ngoài còn hạn chế vì những nguyên nhân sau: 83,2% cho rằng “các hoạt động tuyên truyền còn chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng”; 76,8% cho rằng “các tài liệu tuyên truyền chưa phong phú”; 78,9% các hình thức tuyên truyền
chưa đa dạng; 61,8% cán bộ tuyên tryền hạn chế về ngoại ngữ nên ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền. Một nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền xuất
125
phát từ các doanh nghiệp, với 56,8% đồng ý với nhận định “Các doanh nghiệp có người lao động nước ngoài làm việc không hợp tác trong công tác tuyên truyền”. Đồng thời, bản thân người lao động nước ngoài ít tham gia vào các buổi tuyên truyền (73,7%) cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động này.
Kết luận chương 3 Kết quả nghiên cứu trong chương 3 đã chỉ rõ, những đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thực trạng, đặc điểm
người lao động nước ngoài ở khu vực này. Thực trạng lao động nước ngoài được khảo sát trong chương 3 trên những khía cạnh: số lượng, giới tính, thành phần quốc tịch, trình độ chuyên môn, thực trạng cấp giấy phép lao động. Từ đó rút ra bốn đặc điểm của lực lượng này tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Với lực lượng lao động nước ngoài đến làm việc tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam khá đông đảo và đa dạng. Đây là yếu tố tích cực tạo động lực phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó có những tác động tiêu
cực từ thực trạng vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài tại đây diễn biến khá phức tạp.
Trước tình hình trên, thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã được tổ chức khảo
sát, đánh giá, phân tích ở nhiều mặt hoạt động khác nhau. Kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam được tiến hành thường xuyên, đúng quy định và đạt hiệu
quả khả quan, đảm bảo bám sát mục tiêu quản lý đặt ra. Song do nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan, những hạn chế, bất cập trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cũng bộc lộ rõ. Trong đó, nguyên nhân đáng lưu ý là do vai trò, trách nhiệm của các
cơ quan hữu quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chưa phát huy tương xứng; trình độ, năng lực một số cán bộ quản lý chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn; tình hình thực tiễn diễn biến phức tạp; quy định pháp luật bộc lộ một số hạn chế ở những
thời điểm nhất định.
Những kết quả nghiên cứu trong chương này là cơ sở thực tiễn quan trọng để đề xuất những giải pháp khả thi, hiệu quả nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài trong chương 4.
126
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
4.1.1. Quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế và thu hút nguồn nhân lực
nước ngoài
Thu hút lao động nước ngoài là một nội dung trong chủ trương chính sách chủ động hội nhập kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu về quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về lao động nước ngoài và quản lý
lao động nước ngoài trước tiên cần phải nghiên cứu nắm vững các quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thức rõ xu thế tất yếu khách quan của toàn cầu hóa, Đảng ta đã chủ
trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Theo đó, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại Đảng ta đã xác định chủ trương đẩy
mạnh việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, Đảng ta luôn xác định ngoại lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Kết hợp tốt nội lực và
ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng đất nước. Ngoại lực bao gồm cả vốn, tri thức, công nghệ, kỹ năng quản lý và thị trường… bổ sung cho nội lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả cao hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại lực càng trở nên quan trọng.
Một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta, muốn vươn lên để theo kịp các nước cần phải chú trọng việc thu hút và sử dụng tốt nhất ngoại lực. Muốn phát huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược phù hợp và môi trường đầu tư, kinh doanh
lành mạnh, trước hết là có một hệ thống thể chế, chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực và hiệu quả. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động xuất, nhập khẩu lao động trong quá trình tham gia thị trường lao động quốc tế, nhất là nhập khẩu lao động nước
ngoài, từ Đại hội VI, khi tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương: “Tham gia sự phân công lao động quốc tế…; tranh thủ mở mang quan hệ
127
kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi” [39, tr.63].
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục khẳng định:
Nhà nước XHCN thực hiện quản lý thị trường sức lao động đảm bảo quyền của người có sức lao động và quyền lợi chính đáng của người sử dụng lao động theo pháp luật. Phát triển thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay
nhằm tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập của người lao động và quản lý mối quan hệ giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động… Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự
tạo và tìm việc làm… Có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn… Đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm, phát triển hệ thống thông tin về thị trường sức lao động
trong nước và trên thế giới… Có hình thức nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển, lĩnh vực kinh doanh quan trọng. Xây dựng hệ thống pháp luật về lao động và thị trường sức lao động nhằm đảm bảo quyền lựa chọn chỗ làm việc
và nơi cư trú của người lao động; thực hiện chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động” [39, tr.628]. “Trong đó ưu tiên thu hút những chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và
cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài” [39, tr.637]. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tiếp thu nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao luôn là một định hướng của Đảng trong những năm vừa qua. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định:
Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài… Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm [40, tr87]. Thực tế thời gian gần đây, trong quá trình hội nhập đầy đủ, sâu rộng với nền
kinh tế thế giới, quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới đã gia tăng nhanh chóng, đóng góp quan trọng
128
vào sự phát triển của đất nước; trong đó có sự đóng góp đáng kể của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và một lực lượng không nhỏ lao động là người nước ngoài có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Các chuyên gia và những người nước ngoài có kinh nghiệm trong nghề nghiệp, trong quản lý đã góp phần đáp ứng nhu
cầu về nhân lực của Việt Nam; đồng thời, thông qua việc sử dụng lao động nước ngoài, lao động Việt Nam cũng học hỏi và nâng cao được trình độ, có sự chuyển biến mạnh về tác phong và thái độ làm việc.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, đã xuất hiện một số trường hợp vi phạm quy định về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, nhiều lao động nước ngoài đến Việt Nam ở lại làm việc khi chưa được pháp luật cho phép; một số tổ chức và doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài ồ ạt với số lượng lớn, chưa chấp hành đúng các
quy định của pháp luật Việt Nam về tuyển chọn sử dụng lao động nước ngoài, không thấy rõ tính phức tạp, nhạy cảm của vấn đề; công tác quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam còn bất cập, yếu kém; sự phối hợp trong quản lý lao
động giữa các Bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ và chưa đồng bộ; nhiều địa phương công tác quản lý lao động nước ngoài còn yếu, có trường hợp vì thu hút đầu tư mà nới lỏng quản lý dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp trên nhiều phương diện trong đó có cả những phức tạp về an ninh, trật tự.
Chính vì vậy, Đảng ta luôn xác định rõ, để đảm bảo việc thu hút đầu tư, nguồn nhân lực nước ngoài đạt hiệu quả cao trong phát triển kinh tế đất nước phải gắn liền với việc đảm bảo an ninh quốc phòng. Đó là sự kết hợp một cách hài hòa
chặt chẽ cả hai yêu cầu vừa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế vừa đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền và an ninh, trật tự của đất nước. Bên cạnh đó, cần quan tâm giải quyết hợp lý việc tranh thủ sử dụng nguồn lực lao động nước ngoài có tay nghề chuyên môn cao với việc phát huy, sử dụng hiệu quả nguồn lao
động trong nước, trong đó cần quan tâm đến việc ưu tiên sử dụng nguồn lao động trong nước.
Để khắc phục tình trạng trên nhằm sử dụng hợp lý, hiệu quả lao động trong
nước và lao động nước ngoài, góp phần ổn định môi trường đầu tư và đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, ngày 20/01/2010 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW về tăng cường công tác quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, trong đó đã yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, tổ chức tốt việc tuyên truyền các quan điểm, chủ trương của Đảng
129
về hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút đầu tư, các quy định của Nhà nước liên quan đến lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, làm cho các ngành, các cấp, các tổ chức, cơ quan, người sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và người lao động nước ngoài hiểu rõ chủ trương, chính sách để thực hiện tốt trách nhiệm của
mình theo quy định của pháp luật. Phản ánh trung thực, khách quan những việc làm được, chưa làm được, tránh đưa tin một chiều, gây ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại và phản ứng không tốt trong dư luận xã hội.
Thứ hai, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến lao động nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Thứ ba, Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tiếp tục theo dõi, nắm chắc tình hình; thường xuyên cập nhật thông tin về số lượng, chất lượng lao động nước ngoài đang làm việc tại các địa phương, tình hình chấp hành
pháp luật của lao động nước ngoài tại Việt Nam và thực hiện chế độ báo cáo theo quy định. Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về người lao động nước ngoài tại các doanh nghiệp, tổ chức; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật lao động, đồng thời hướng doanh
nghiệp có biện pháp xử lý, khắc phục các vi phạm và cam kết thực hiện đúng pháp luật lao động trong thời gian tới, trong trường hợp cần thiết có thể thông báo các vi phạm của doanh nghiệp, tổ chức trên các phương tiện thông tin đại chúng. Khi phát
hiện lao động nước ngoài không đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam hoặc không có giấy phép lao động thì kiên quyết áp dụng hình thức buộc xuất cảnh về nước.
Thứ tư, Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo sớm việc ban hành Quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý lao động nước ngoài tại Việt
Nam. Tăng cường phối hợp, trao đổi thông tin giữa các đơn vị liên quan trong quản lý xuất, nhập cảnh, cấp và gia hạn visa, đăng ký gia hạn tạm trú, đi đôi với cải cách thủ tục hành chính. Tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm khắc các tổ chức, doanh
nghiệp và cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam; trong đó hướng việc xử lý đúng theo quy định pháp luật đối với số lao động không có giấy phép lao động.
Thứ năm, Các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp cần coi công tác
quản lý lao động nước ngoài là nhiệm vụ thường xuyên của mình; triển khai biện pháp nhằm sử dụng hợp lý và hiệu quả lao động nước ngoài cho phát triển kinh tế.
130
Đây là những quan điểm cơ bản của Đảng ta về lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài. Đặc biệt, cần thấy rõ loại hình lao động nước ngoài là một loại hình hoạt động có liên quan chặt chẽ đến nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội để từ đó có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm đảm bảo
hiệu quả quản lý nhà nước đối với loại hình hoạt động còn rất mới mẻ và đang có xu hướng phát triển ngày càng mạnh mẽ này.
4.1.2. Quan điểm của luận án về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài
Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một đòi hỏi khách quan phục vụ chính sách thu hút nguồn nhân lực nước ngoài chất lượng cao; chính sách phát triển vùng; phục vụ chính sách phát
triển kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước ta, do vậy không thể thực hiện một cách vô nguyên tắc, mà quá trình này cần quán triệt những quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài phải quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế vùng và phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương
phân vùng kinh tế, xây dựng và thực hiện quy hoạch tổng thể các vùng kinh tế để thực hiện chuyển dịch cơ cấu, lựa chọn cơ cấu kinh tế phù hợp cho mỗi vùng, sao cho các vùng đều phát triển mạnh mẽ, thu hẹp sự chênh lệch trong phát triển giữa
các vùng lãnh thổ. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển kinh trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực,
tạo sức lôi cuốn, lan tỏa phát triển đến các địa phương trong vùng và đến các vùng khác [40, tr.95] Trong quá trình phát triển kinh tế vùng, do đặc điểm riêng với những lợi thế
của mỗi vùng và do khả năng đầu tư, quản lý của chúng ta còn hạn chế, cho nên trong giai đoạn trước mắt, nhà nước chủ trương tập trung đầu tư phát triển trước một số vùng có những điều kiện thuận lợi nhất. Từ sự phát triển này sẽ làm động lực, đầu tàu cho sự phát triển của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được
xác định là một trong bốn vùng kinh tế trọng điểm của cả nước và chủ trương phát
131
triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã được xác định nhất quán tại nhiều văn bản của Đảng và nhà nước trong suốt 30 năm qua.
Thực tế đất nước ta và phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam những năm qua đã chứng minh chủ trương trên là đúng đắn. Từ đường lối, chính sách phát
triển kinh tế vùng của Đảng, cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế vùng và quản lý phát triển đã bước đầu được hình thành. Do đó, tăng cường quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải quán triệt
và phục vụ cho đường lối, chính sách phát triển kinh tế vùng và phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của Đảng và Nhà nước. Điều đó đòi hỏi toàn bộ quá trình tổ chức các hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đều phải xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng và phục
vụ cho việc thực hiện thắng lợi chủ trương phát huy những lợi thế so sánh, thu hút mạnh mẽ nguồn lực đầu tư nước ngoài để xây dựng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trở thành đầu tàu cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Thứ hai, nhà nước thống nhất quản lý đối với người lao động nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Toàn bộ những hoạt động của người lao động nước ngoài diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam đều phải chịu sự quản lý thống nhất của nhà nước. Vì thế, hoạt động
của người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng phải chịu sự quản lý thống nhất của nhà nước và chỉ có nhà nước mới có thẩm quyền sử dụng hệ thống pháp luật để quản lý các hoạt động của người lao động nước ngoài
tại vùng kinh tế này. Tính thống nhất trong quản lý của nhà nước ở đây thể hiện trong sự thống nhất của không gian pháp lý: hoạt động người lao động nước ngoài dù được thực hiện tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng phải tuân thủ hệ thống pháp luật về người lao động nước ngoài và pháp luật có liên quan của Việt
Nam. Dù đó là người lao động nước ngoài đến từ bất kỳ quốc gia nào cũng phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Ngoài những cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì không một cơ quan nào có quyền ban hành, sử dụng, áp dụng những quy phạm pháp
luật trái với pháp luật Việt Nam cho những hoạt động của người lao động nước ngoài diễn ra tại đây.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải đảm bảo chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đồng thời phục vụ cho việc thu hút và nâng cao hiệu quả nguồn lực nước ngoài
132
Đây là quan điểm cơ bản thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị, giữa hội nhập kinh tế quốc tế với việc giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc trong quá trình quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Trong mối quan hệ này, chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ nếu mất chủ quyền quốc gia, không có độc lập dân tộc, mất an ninh, trật tự thì không có con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, giữ vững độc lập, tự chủ là yêu cầu tất yếu khách quan của mỗi quốc
gia trên thế giới. Không thể nói là hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài với nhiều lợi thế về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực… mang lại lợi ích cho dân tộc, cho đất nước nếu như chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, an ninh quốc gia bị xâm phạm.
Trong xu thế ngày nay, mở rộng quan hệ đối ngoại càng làm tăng thêm vị thế của đất nước. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng thường tìm mọi cách lợi dụng con đường quan hệ đối ngoại để hoạt động chống phá. Vì vậy, mở rộng quan hệ đối
ngoại cần phải gắn liền với giữ vững độc lập, tự chủ. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài phải theo hướng đảm bảo giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc, an ninh quốc gia, góp phần phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh với các hoạt động của các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, không vì áp lực của yêu cầu bảo đảm chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội mà coi nhẹ, cản trở hoặc trì hoãn thực hiện yêu cầu bảo đảm quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp mà cụ
thể là quyền nhập cảnh, xuất cảnh, quyền cư trú, đi lại và làm việc hợp pháp của người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài theo hướng tôn trọng, bảm đảm quyền tự do cư trú, đi lại của người nước ngoài, đồng thời bảo đảm, giữ vững an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài phải bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài tại Việt Nam
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, thu hút người lao động nước ngoài có trình độ cao vào làm việc tại nước ta để góp phần phát triển đất nước. Do vậy, trong quá trình quản lý, các cơ quan chức năng phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại cũng như
cấp phép lao động cho người nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời, phải tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản và quyền lợi hợp
133
pháp của người lao động nước ngoài tại Việt Nam, phải luôn chú ý hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước ngoài thực hiện tốt các quy định của pháp luật Việt Nam trên các lĩnh vực hoạt động. Điều này một mặt phát huy tính cực của người lao động nước ngoài tại Việt
Nam, một mặt đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài. Đây cũng là nguyên tắc hiến định mà Hiến pháp 2013 đã khẳng định tại Điều 48: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam.” [87, tr.37].
Thứ năm, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài phải bảo đảm
tính khoa học, công khai, minh bạch và hiện đại hóa
Tổ chức các hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài khoa học, công khai, minh bạch và hiện đại hóa là đòi hỏi mang tính khách quan và tính cấp thiết hiện nay. Bởi trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, một
khi cơ chế, thủ tục hành chính khoa học, công khai, minh bạch và hiện đại mới là điều kiện thuận lợi để thu hút lực lượng lao động đặc biệt là lực lượng lao động chất lượng cao vào Việt Nam làm việc. Quan điểm này đòi hỏi việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài phải tạo ra cơ sở pháp lý để củng cố,
hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý; đổi mới phương pháp quản lý; hoàn thiện các hoạt động quản lý theo hướng khoa học, công khai, minh bạch và hiện đại hóa.
Các chủ thể tham gia vào hoạt động quản lý người lao động nước ngoài cũng
phải đảm bảo quán triệt quan điểm khoa học, công khai, minh bạch và hiện đại hóa, đặc biệt khi ban hành các thủ tục hành chính cần phải đảm bảo yêu cầu này. Nếu không khoa học, công khai, minh bạch thì các thủ tục hành chính sẽ gây khó khăn, phiền hà cho người lao động nước ngoài trong quá trình họ cư trú, lao động tại Việt
Nam. Do vậy, thủ tục hành chính trong lĩnh vực người lao động nước ngoài phải được xây dựng và hoàn thiện theo đúng tiêu chuẩn, nguyên tắc nhằm bảo đảm như một phương tiện quản lý nhà nước một cách dân chủ đối với các hoạt động của
người lao động nước ngoài tại Việt Nam; chống mọi biểu hiện gây phiền hà, tiêu cực trong lĩnh vực này.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI
LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
4.2.1. Nhóm giải pháp chung quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài tại Việt Nam
134
4.2.1.1. Hoàn thiện văn bản quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài Kết quả khảo sát cho thấy, giải pháp “Hoàn thiện hành lang pháp lý” được 70,9% (269/380) cán bộ đồng ý. Để thực hiện những phương hướng nêu trên, cần có những giải pháp hữu hiệu và phù hợp trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đối với người lao động nước ngoài. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, từ những cơ sở khoa học của việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật đối với người lao động nước ngoài nói riêng, cần tập trung vào những giải pháp như sau:
Thứ nhất, xây dựng chương trình, kế hoạch hoàn thiện pháp luật đối với
người lao động nước ngoài Định hướng này nhằm hướng đến phát huy sự chủ động, sáng tạo và linh hoạt của các chủ thể quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài trong điều
hành, phối hợp, huy động lực lượng; phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo đảm pháp luật đối với người lao động nước ngoài được chấp hành nghiêm; đồng thời hướng tới phát huy tối đa nguồn nhân lực chất lượng cao nước ngoài vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của nước nhà. Định hướng này cũng được 242/380 cán bộ khảo sát đồng ý chiếm 63,7%. Trước hết, cần có lộ trình và định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với người lao động nước ngoài đảm bảo sự nhất quán, đồng bộ giữa pháp
hệ thống luật pháp quốc gia với luật pháp quốc tế, khu vực. Nhằm thực thi những cam kết của Việt Nam với các nước, tổ chức trên thế giới và trong khu vực. Bổ sung các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đối với các doanh nhân, các nhà đầu tư nước
Thứ hai, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đối với
ngoài nhằm thu hút đầu tư thương mại vào Việt Nam, nhằm phát huy mọi nguồn lực và nhân tố trong hội nhập kinh tế quốc tế. người lao động nước ngoài
Bổ sung hoàn thiện văn bản pháp luật đối với người lao động nước ngoài theo hướng “rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài” được 264/380 chiếm 69,5% cán bộ đồng ý với nhận định trên.
Những năm qua, quá trình rà soát các văn bản quy phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài đã được các cơ quan hữu quan quan tâm và thực hiện quyết liệt. Điển hình trong vòng gần 10 năm trở lại đây, Bộ luật Lao động mới đã được ban hành; Chính phủ đã ban hành, sửa đổi, bổ sung 05 Nghị định; Song song
với đó là các Thông tư, Thông tư liên tịch của được các Bộ ban hành nhằm điều chỉnh lĩnh vực lao động có yếu tố nước ngoài này tại Việt Nam. Song để đảm bảo
135
tính khoa học và hiệu quả trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần tích cực rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này theo các hướng: (1) Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến thủ tục phối hợp giữa các cơ
quan hành chính rườm rà cần đình chỉ thi hành hoặc hủy bỏ; nếu phát hiện những vấn đề cần có quy định mới hoặc những thủ tục hành chính còn phù hợp nhưng tản mạn ở nhiều văn bản, thì đề xuất theo hướng tập trung thống nhất vào một văn bản
có hiệu lực hơn và dễ hiểu, tiếp cận và thực hiện. (2) Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính trong từng khâu cấp giấy phép lao động, tuyển dụng, sử dụng lao động nước ngoài, cư trú, đi lại, làm việc của người lao động… để phát hiện và đề nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ những thủ tục không cần thiết; sửa đổi, bổ sung những
quy định mới cho phù hợp. (3) Hoàn thiện các chế định pháp lý: quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý đối với người lao động nước ngoài, theo hướng xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm cụ của từng cơ quan trong quá trình thực thi hoạt động
quản lý đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến vai trò của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Công an trong quá trình phồi hợp thực hiện chức năng quản lý đối với người lao động nước ngoài. Thứ ba, tiến tới xây dựng một đạo luật mới về người lao động nước ngoài để
điều chỉnh chung đối với lĩnh vực này tại Việt Nam Lĩnh vực lao động có yếu tố nước ngoài đây là một lĩnh vực lớn có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều lĩnh vực khác trong xã hội, đặc biệt là lĩnh vực xuất cảnh,
nhập cảnh, cư trú, đi lại; lĩnh vực lao động; lĩnh vực đầu tư nước ngoài… chính vì vậy, việc tạo hành lang pháp lý vững chắc nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý đối với lĩnh vực này là điều cần thiết và cấp bách. Thực tiễn trong quá trình xây dựng Bộ luật Lao động 2012, chỉ có 07 điều (từ điều 169 đến 175) quy định cô đọng
về điều kiện lao động, tuyển dụng, giấy phép, thời hạn lao động đối với lĩnh vực này, nên chưa giải quyết được hết các vấn đề của lao động nước ngoài. Như vậy, để thực hiện những quy định trong Bộ luật Lao động năm 2012 bắt buộc phải có các văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành những điều luật đó. Cách làm này sẽ có thể lại làm nảy sinh các bất cập như thời gian qua. Do đó, cần sớm xây dựng và ban hành Luật Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam – đạo luật vừa cụ thể hóa Bộ luật Lao động vừa tiếp thu và chỉnh sửa những bất cập trong pháp luật hiện hành.
Việc xây dựng một đạo luật riêng về người lao động nước ngoài tại Việt Nam là một định hướng quan trọng và cần nghiên cứu thực hiện. Bởi kết quả điều tra xã
136
hội học đối với cán bộ quản lý cho thấy, khi được hỏi về “Hướng bổi sung hoàn thiện như thế nào?” thì 256/380 với 67,4% cán bộ cho rằng cần phải “xây dựng Luật về người lao động nước ngoài tại Việt Nam” Thứ tư, hoàn thiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam Tiến hành hoàn thiện các quy phạm pháp luật còn chưa phù hợp, chồng chéo, chưa phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại
Việt Nam, đây là hướng bổ sung, hoàn thiện được 230/380 chiếm 60,5% cán bộ khảo sát đồng ý. Theo đó, những quy định như: Về đối tượng áp dụng trong các văn bản của Chính phủ điều chỉnh đối với người lao động nước ngoài, một số đối tượng chưa được điều chỉnh hoặc có những
đối tượng được quy định như thiếu nhất quán, chưa chặt chẽ từ đó gây khó khăn trong quá trình quản lý như trường hợp: Tình nguyện viên, thực tập sinh không trong diện thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập;
Người nước ngoài vào Việt Nam để công tác ngắn ngày, tham dự họp, kiểm toán nội bộ, người làm việc độc lập hoặc khảo sát...; Thương nhân vào thu mua hàng hóa ngắn ngày. Theo đó, cần điều chỉnh và hoàn thiện theo hướng quy định thành 03 loại đối tượng áp dụng theo 03 nhóm: (Nhóm 1) Lao động là công dân nước ngoài
vào Việt Nam lao động theo hình thức thực hiện hợp đồng lao động. (Nhóm 2) Người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc theo các hình thức khác gồm di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp; thực hiện các loại hợp đồng hoặc thỏa thuận,
nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng, chào bán dịch vụ…(Nhóm 3) Lao động vào Việt Nam làm việc ngắn ngày (dưới 30 ngày) gồm: thương nhân vào thu mua hàng hóa ngắn ngày; người nước ngoài vào thực tập tại Việt Nam; người nước ngoài vào Việt Nam để công tác, tham dự họp, khảo sát, đầu tư... Lý do phân loại thành 03
nhóm đối tượng nêu trên vì theo Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam quy định Nhóm 1 thuộc đối tượng phải có giấy phép lao động trước khi xin thị thực nhập cảnh vào Việt Nam. Đối với nhóm 2 và nhóm 3
thì xác nhận không thuộc diện cấp giấy giấy phép lao động trước khi xin thị thực nhập cảnh vào Việt Nam. Riêng Nhóm 3 thì quy định rõ không thuộc đối tượng áp dụng của Nghị định hoặc thuộc đối tượng áp dụng của Nghị định nhưng được miễn giấy phép lao động.
Về hoàn thiện các quy định pháp luật đối với người lao động nước ngoài trên cơ sở phù hợp, thống nhất với các quy định của pháp luật quốc tế mà Việt Nam
137
ký kết hoặc tham gia. Như năm 2016 Việt Nam chính thức tham gia là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) song những quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh đối với lao động nước ngoài vẫn chưa cụ thể hóa. Theo đó, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ cho phép các lao động có tay nghề cao, dịch vụ, đầu
tư và hàng hóa của 10 quốc gia thành viên của ASEAN được di chuyển tự do hơn trong khu vực. Trong đó, có 8 ngành nghề mà lao động có kỹ năng tay nghề cao được phép di chuyển trong khu vực Hiệp định công nhận kỹ năng nghề trong 8
ngành này giữa các nước trong khu vực ASEAN. Đó là, kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên và nhân viên ngành du lịch. Tuy nhiên trong Nghị định 11/2016/NĐ-CP chưa quy định để tạo điều kiện thuận lợi dịch chuyển lao động cho các đối tượng nêu trên. Theo đó, cần bổ sung quy định miễn giấy phép lao động
cho các đối tượng nêu trên hoặc giảm tối đa thủ tục trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động. Về nhu cầu tuyển và sử dụng người lao động nước ngoài. Theo quy định
thực tế tại Điều 5, Nghị định 11/2016/NĐ-CP quy định đối với trường hợp nhà thầu cần sử dụng người nước ngoài thì trước khi tuyển người nước ngoài, nhà thầu có trách nhiệm đề nghị tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển lao động nước ngoài. Trường hợp không tuyển được lao động Việt Nam thì Chủ
tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc nhà thầu được tuyển người lao động nước ngoài vào các vị trí công việc không tuyển được lao động Việt Nam. Chính sách này nhằm tạo cơ hội việc làm cho lao động Việt Nam, thực hiện đúng chủ
trương của Đảng và Nhà nước là không cho phép sử dụng người lao động nước ngoài không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, đặc biệt nghiêm cấm sử dụng lao động phổ thông là người nước ngoài. Đối với vị trí công việc là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật cũng chỉ cho phép tuyển và sử
dụng người lao động nước ngoài khi mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được theo yêu cầu sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động (Khoản 1, Điều 170 Bộ luật lao động 2012).
Tuy nhiên trong thực tế, khi nhà thầu có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài thì thường để đảm nhận những công việc đặc thù, đòi hỏi lao động có chuyên môn đáp ứng được ngay yêu cầu công việc mà không cần phải qua đào tạo (do phần lớn là những công việc có thời hạn ngắn, phục vụ cho từng giai đoạn của gói thầu). Do đó,
quy định đề nghị tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển lao động nước ngoài không hiệu quả. Thực tế cho thấy, tỷ lệ tuyển được người lao động
138
Việt Nam là rất thấp. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung phân biệt rõ khái niệm tuyển và sử dụng lao động nước ngoài, xác lập quy trình quản lý đối với tuyển mới lao động; quy trình quản lý đối với lao động nước ngoài mà doanh nghiệp, tổ chức, nhà thầu đang sử dụng.
Về thủ tục hành chính đối với hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động. Theo quy định hiện hành thì Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động phải có văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam và giấy chứng nhận sức khỏe được cấp ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam theo quy định của Bộ Y tế. Theo quy định của Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam thì phải có giấy phép lao động sau đó mới được cấp thị thực lao động như vậy người lao động
nước ngoài phải có giấy phép lao động trước khi nhập cảnh vào Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tế thì vấn đề này để thực hiện được sẽ rất khó khăn cụ thể như: - Đối với văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam: + Trường hợp người nước ngoài đã ở Việt Nam trong thời gian dài thì không có khả năng lấy được văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự của nước ngoài trước khi nhập cảnh vào Việt Nam;
+ Trường hợp người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam thì thời gian xin phiếu lý lịch tư pháp của Việt Nam thường kéo dài hoặc không xin được vì thời gian quá ngắn nên chưa có cơ sở để cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
- Đối với giấy chứng nhận sức khỏe được cấp ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam
+ Trường hợp khám sức khỏe tại Việt Nam thì không thực hiện được vì lúc
theo quy định của Bộ Y tế: đó người lao động nước ngoài chưa nhập cảnh vào Việt Nam;
+ Trường hợp khám sức khỏe tại nước ngoài thì cũng không thực hiện được vì theo Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế) hiện nay Việt Nam chưa ký bất kỳ thỏa thuận nào với nước ngoài về việc công nhận giấy khám sức khỏe của nước ngoài.
Theo đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung theo hướng nghiên cứ bỏ quy định trong hồ sơ phải có văn bản xác nhận không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam. Vì theo Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam trường hợp có vi phạm nêu trên thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh sẽ chưa cho nhập cảnh.
139
Đối với quy định phải có giấy chứng nhận sức khỏe được cấp ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam, nên tính toán bãi bỏ vì theo Khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 03/2014/NĐ-CP ngày 16/01/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao động về việc làm quy định khi người sử dụng lao động tuyển lao động thì trong
hồ sơ đăng ký dự tuyển lao động mới phải nộp giấy chứng nhận sức khỏe. Thứ năm, thực hiện triển khai nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học để tổng kết lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài; đưa ra những dự báo khoa học về sự phát triển của pháp luật trong lĩnh vực này Bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý đối với người lao động nước ngoài theo hướng “Thực hiện triển khai các đề tài nghiên cứu để tổng kết lý luận và thực tiễn
trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài” được 42,4% cán bộ khảo sát đồng thuận. Để có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với người lao động nước ngoài, một vấn đề có tính chiến lược cần được chỉ ra và giải quyết một
cách thỏa đáng, đó là việc nghiên cứu lý luận về lao động nước ngoài. Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu đối với lĩnh vực này đã được phát huy và đẩy mạnh song chưa được quan tâm đúng mức. Trong thời gian tới, việc xây dựng một hệ thống lý luận chặt chẽ tạo tiền đề, cơ sở cho việc hoạch định các chính sách, pháp luật đối
với lĩnh vực này là rất cần thiết và cấp bách. Trên cơ sở, tổng kết thực tiễn quản lý tại Việt Nam, tiếp thu kinh nghiệm cần thiết trong quản lý của các nước trên thế giới đối với lĩnh vực này để bổ sung, hoàn thiện cho những luận cứ và giải pháp
hoàn thiện pháp luật đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
4.2.1.2. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài
Thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam là cơ sở quan trọng của giải pháp này. Theo đó, công tác phối hợp có một vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam. Kết
quả khảo sát cho thấy, có 296/380 cán bộ đồng ý với giải pháp “Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam” chiếm 77,9%.
Theo đó, để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cần thực hiện tốt những công việc sau:
140
Tuyên truyền, hướng dẫn nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác phối hợp lực lượng trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Nghiên cứu quá trình tiến hành quản lý nhà nước đối với người lao động nước
ngoài nói chung và công tác phối hợp giữa các lực lượng trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng thời gian qua nhận thấy, một trong những nguyên nhân dẫn tới sự hạn chế kết quả
công tác quản lý là do sự nhận thức không đầy đủ, thiếu thống nhất của các chủ thể quản lý. Thực tế không phải tất cả các chủ thể quản lý đều ý thức được ý nghĩa quan trọng của công tác phối hợp lực lượng trong quản lý nhà nước đối với lực lượng này. Từ thực tế đó việc thống nhất về mặt nhận thức về công tác phối hợp giữa các
lực lượng trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này là việc làm cần thiết theo hướng sau:
Một là, lĩnh vực lao động động có yếu tố nước ngoài là một lĩnh vực quan
trọng liên quan trực tiếp đến đường lối đối ngoại của Đảng, đến quan hệ hợp tác của Nhà nước, đến sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng. Do đó hoạt động của người lao động nước ngoài phải được tổ chức quản lý bởi tất cả các lực lượng, các cơ quan, ban ngành với tư
cách là chủ thể theo luật định.
Hai là, thực tiễn hoạt động của lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thời gian qua cho thấy có những diễn biến phức tạp, và công tác
quản lý nhà nước đối với đối tượng này cũng đặt ra nhiều khó khăn. Vì vậy quá trình tổ chức quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, ban ngành chức năng từ khâu tuyển dụng lao động, xét duyệt đối tượng cấp giấy
phép lao động, thủ tục liên quan đến xuất, nhập cảnh, đến quá trình kiểm tra, giám sát hoạt động cũng như phối hợp trong việc xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam khi người lao động nước ngoài đến làm việc tại địa phương.
Ba là, thời gian tới lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sẽ tăng về số lượng, kéo theo đó là tình trạng vi phạm pháp luật về lao động, về lĩnh vực xuất nhập cảnh cũng gia tăng… chính vì vậy, công tác quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại khu vực này không được xem nhẹ và không thể chỉ là
nhiệm vụ riêng của lực lượng quản lý lao động, lực lượng công an mà còn liên quan
141
đến nhiều cơ quan, ban, ngành của các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Ngoài ra, trên thực tế, trong chính đơn vị chủ trì quản lý lao động thực hiện công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan trong quản lý đối với người lao động
nước ngoài vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ chưa có sự nhận thức sâu sắc, cụ thể về vấn đề này. Đồng thời, vẫn còn một số cán bộ quản lý vẫn chưa thật sự nỗ lực trong công tác chuyên môn, chưa đầu tư vào việc nghiên cứu các văn bản của Đảng,
Nhà nước, các hướng dẫn của ngành về công tác phối hợp quản lý đối với lực lượng này. Thực trạng này đã làm giảm đi hiệu quả trong khi thực hiện công tác phối hợp khi quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Do đó, trong thời gian tới, cơ quan quản lý lao động cần có biện pháp nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý về
tầm quan trọng của công tác phối hợp trong quản lý người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Nội dung của việc nâng cao nhận thức cho lực lượng quản lý về vai trò của
công tác phối hợp lực lượng trong quản lý lao động nước ngoài có thể là: những kiến thức cơ bản về công tác phối hợp lực lượng như: : những kiến thức cơ bản về phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; cách thức thực hiện công tác phối hợp; cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công tác phối hợp, lý do thực
hiện công tác này; kết quả mà công tác phối hợp đem lại khi thực hiện cho quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; trách nhiệm của lực lượng, các cơ quan, ban ngành có liên quan khi tổ chức thực hiện phối hợp quản lý nhà nước đối
với người lao động nước ngoài…
Hoàn thiện cơ sở pháp lý trong phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Cơ sở pháp lý trong phối hợp là điều kiện quan trọng để thống nhất các hoạt
động quản lý đối với lao động nước ngoài, kết quả khảo sát cho thấy, 296/380 cán bộ đồng thuận với nhận định trên chiếm 77,9%.
Công tác phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện
đã có những quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, thực tế luôn luôn biến đổi, một số văn bản, quy định đã cũ, có nhiều bất cập, không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay. Hay một số văn bản, quy định tuy mới song còn chung chung, chưa chi tiết, cụ thể nên việc áp dụng còn nhiều lúng túng, khó khăn.
Chính vì thế, trong thời gian tới cần phải hoàn thiện các văn bản này theo hướng:
Thứ nhất, cơ quan quản lý về lao động (Bộ Lao động, Thương binh và Xã
142
hội) chủ trì tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định quy định về cơ chế phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các ngành và địa phương trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Trong đó cần xác định rõ hơn trách nhiệm pháp lý, cơ chế phối hợp cũng như chế độ thông tin, báo cáo đảm bảo sự thống nhất,
thông suốt giữa các chủ thể trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Đây là công việc cần thiết và quan trọng để tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ trong quản lý nhà nước đối với lực lượng lao động có yếu tố nước ngoài
này từ cấp trung ương.
Thứ hai, trên cơ sở pháp lý từ cấp trung ương, các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tổ chức triển khai thực hiện các quy định về phối hợp lực lượng. Từ cơ sở thực tiễn thực hiện việc phối hợp các địa phương có thể xây
dựng quy chế phối hợp chung cho 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tạo sự đồng bộ, thống nhất trong quản lý.
Thứ ba, hiện nay tám tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã xây
dựng quy chế phối hợp trong quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài. Song, nhiều quy chế phối hợp đã cũ, lạc hậu chưa theo kịp tình hình thực tiễn của lĩnh vực này. Chính vì thế, cần nhanh chóng sơ kết, tổng kết để ban hành quy chế phối hợp mới phục vụ hoạt động quản lý.
Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch phối hợp quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Thực tế, tổ chức quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại
từng địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thực hiện theo quy chế phối hợp do địa phương ban hành. Tuy nhiên, một kế hoạch, quy chế phối hợp chung, thống nhất trong phạm vi khu vực là chưa có. Điều này đã gây ra rất nhiều khó khăn khi tổ chức thực hiện phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài tại vùng kinh tết trọng điểm phía Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, cơ quan quản lý về lao động và các cơ quan, ban ngành có liên quan đến công tác quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài phải phối hợp với nhau để xây dựng
một kế hoạch, quy chế phối hợp chung, thống nhất nhằm quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài chặt chẽ, thống nhất, hiệu quả, đồng thuận với nhận định này có 287/380 cán bộ chiếm 75,5%.
Việc lập kế hoạch, xây dựng quy chế phối hợp phải có sự thống nhất cao
giữa các lực lượng trên cơ sở bàn bạc, trao đổi giữa các thành viên của các lực lượng quản lý. Như thế, kế hoạch, quy chế mới được hoàn thiện và khi thực hiện sẽ
143
đảm bảo thống nhất về ý chí, hành động của các thành viên tham gia hoạt động quản lý.
Nội dung cốt lõi của kế hoạch, quy chế chung này là phải chỉ rõ cơ quan quản lý lao động (Sở Lao động, Thương binh và Xã hội) là đơn vị giữ chức năng
chủ trì; xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của từng lực lượng trong khi thực hiện chức quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Việc quy định như thế giúp cho mọi cơ quan, ban ngành hình dung được một cơ chế phối hợp chung và khi
thực hiện các công việc cụ thể sẽ biết được phối hợp như thế nào. Như vậy, việc thực hiện phối hợp quản lý nhà nước đối với cư trú của người người lao động nước ngoài mới diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
Sau khi soạn thảo xong kế hoạch, quy chế chung, cơ quan chủ trì cần phối hợp
với các cơ quan, ban ngành có liên quan đến quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài để có những biện pháp, cách thức phổ biến rộng rãi, nhanh chóng cho mọi cán bộ, nhân viên các đơn vị nắm được và tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Nâng cao hiệu quả sơ kết, tổng kết phối hợp thực hiện các mặt hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Kết quả khảo sát cho thấy, 202/380 cán bộ cho rằng để tăng cường hiệu quả
phối hợp trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cần phải “nâng cao hiệu quả sơ kết, tổng kết phối hợp”.
Đặc thù của phối hợp trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước
ngoài tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là có liên quan đến nhiều lực lượng khác nhau. Do đó, để công tác phối hợp lực lượng được thuận lợi hơn, trong quá trình thực hiện hoặc kết thúc công tác phối hợp cần phải tổ chức sơ kết, tổng kết. Đây cũng là biện pháp để khắc phục những hạn chế ở trên. Có thể thấy, sơ kết, tổng
kết là một trong những công việc không thể thiếu được khi thực hiện công tác phối hợp nói riêng và tất cả các mặt công tác nói chung trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Việc sơ kết, tổng
kết có vai trò quan trọng để giúp cho công tác phối hợp lực lượng nhằm phục vụ quản lý đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được thực hiện tốt hơn.
Việc sơ kết, tổng kết cũng cần chú trọng tiến hành theo hướng chuyên sâu, cụ
thể theo từng mặt hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Việc tổ chức sơ kết, tổng kết khi thực hiện
144
công tác phối hợp có thể được diễn ra trong nội bộ của cơ quan quản lý lao động hoặc có sự tham gia của các cơ quan, ban ngành là bộ phận của công tác phối hợp đó. Tùy từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn sơ kết, tổng kết trong nội bộ hay có thêm những cơ quan, đơn vị chức năng nào tham gia.
Sơ kết, tổng kết có thể thực hiện theo định kỳ: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, cả năm hoặc sơ kết, tổng kết đột xuất khi gặp một khó khăn, vướng mắc và thành công khi giải quyết một công việc nào đó. Thế nhưng, bất cứ khi nào thực hiện sơ kết,
tổng kết cũng phải diễn ra theo đúng một trình tự nhất định theo đúng quy định.
Để thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết khi thực hiện công tác phối hợp trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các lực lượng chức năng cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, mọi cán bộ thực hiện chức năng quản lý phải nhận thức đúng đắn vai trò và tầm quan trọng của việc sơ kết, tổng kết. Khi nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc sơ kết, tổng kết, họ mới có thể thực hiện việc sơ kết, tổng
kết một cách nghiêm túc.
Thứ hai, cơ quan quản lý về lao động phải chủ động tổ chức sơ kết, tổng kết khi cần thiết. Việc sơ kết, tổng kết đúng lúc, phù hợp với tình hình thực tế là điều kiện đầu tiên, có tính tiên quyết nhằm phát huy được tác dụng của nó. Vì vậy, cơ
quan quản lý về lao động cần phải chủ động tổ chức sơ kết, tổng kết đúng lúc, đúng thời điểm.
Thứ ba, trước khi tiến hành sơ kết, tổng kết phải lập kế hoạch cụ thể, rõ ràng.
Lập kế hoạch tốt sẽ giúp cho việc sơ kết, tổng kết được diễn ra dễ dàng, mang lại kết quả cao hơn. Trong kế hoạch cần phải xác định được mục đích, yêu cầu, phạm vi, nội dung sơ kết, tổng kết; ghi rõ phương pháp sơ kết, tổng kết; thời gian và lực lượng tham gia sơ kết, tổng kết… Kế hoạch càng cụ thể, rõ ràng, việc tiến hành sơ
kết, tổng kết càng thuận lợi.
Thứ tư, các thành viên trước khi tham gia sơ kết, tổng kết phải nghiên cứu, chuẩn bị thật kĩ lưỡng những ý kiến tham gia đóng góp nhằm làm cho việc sơ kết,
tổng kết diễn ra được suôn sẻ, có chất lượng.
Thứ năm, trong khi sơ kết, tổng kết phải phát huy được tính dân chủ của mọi thành viên tham gia. Cho họ tham gia đóng góp ý kiến, trao đổi, thảo luận, bàn bạc, đánh giá những công việc đã qua. Như vậy, việc sơ kết, tổng kết mới toàn diện,
khách quan được, không bị ép buộc theo khuynh hướng đã được sắp đặt trước.
145
Thứ sáu, người chủ trì việc sơ kết, tổng kết phải phát huy được vai trò của mình. Khi tổ chức sơ kết, tổng kết, vai trò của người chủ trì rất quan trọng trong việc điều hành, rút ra kết luận cuối cùng. Sau khi nghe xong ý kiến trao đổi, thảo luận, người chủ trì phải nhìn nhận được ý kiến nào đúng, ý kiến nào chưa đúng. Từ
đó rút ra kết luận cuối cùng nhằm hoàn thiện vào trong biên bản sơ kết, tổng kết.
4.2.1.3. Củng cố, tăng cường hợp tác quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài
Hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài liên quan trực tiếp và phục vụ cho công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do đó, tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài là một trong những giải pháp quan trọng cần được quan tâm thực hiện. Kết quả khảo sát cho thấy
186/380 cán bộ cho rằng để nâng cao hiệu quả quản lý đối với lực lượng này, cần “Củng cố, tăng cường quan hệ đối ngoại”.
Tăng cường hợp tác quốc tế sẽ giúp nước ta có một hành lang pháp lý minh
bạch, phục vụ hiệu quả trong việc xử lý các tình huống, trường hợp vi phạm pháp luật nhất là pháp luật lao động, vừa hạn chế những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý đồng thời đảm bảo thực hiện công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước tránh gây hậu quả xấu về mặt đối ngoại, tăng cường phát triển kinh tế, xã hội đất nước.
Hiện nay, chúng ta chưa có cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách hợp tác quốc tế trong quản lý đối với lao động nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, cần mở rộng chức năng, cũng như mạnh dạn phân quyền cho Phòng Quản lý
lao động – Cục Việc làm đảm nhiệm nhiều hơn chức năng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Đây là cơ quan sẽ có trách nhiệm chính trong phối hợp với phòng chức năng thuộc Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và các Bộ, Ban, Ngành có liên quan trong việc tham mưu tăng cường hợp tác, đàm phán, ký kết, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia
nhập, bảo lưu chương trình hợp tác quốc tế việc tuyển lao động, chính sách đối với lao động nước ngoài ở Việt Nam, trong đó cần quy định rõ về cách thức xử lý, giải quyết các trường hợp lao động của nước này tại nước kia khi có những vi phạm pháp
luật về lao động. Đồng thời, đây phải là cơ quan sẽ có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu, xây dựng trình Bộ các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt Nam; xây dựng chương trình, kế hoạch, dự án, đề án về lao động nước ngoài tại Việt Nam; cơ chế, chính sách đối với lao động nước ngoài tại
Việt Nam; các văn bản thỏa thuận, đàm phán về lao động các nước và vùng lãnh thổ tại Việt Nam; tiêu chuẩn, quy trình, định mức kinh tế - kỹ thuật đối với lao động nước
146
ngoài tại Việt Nam; tổ chức thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật có liên quan cho người nước ngoài lao động ở Việt Nam nhất là trong các doanh nghiệp; kiểm tra việc thực hiện quy định của Nhà nước theo các hợp đồng đã ký kết; thẩm định, trình Bộ cấp, đồi, thu hồi giấy phép đối với các trung tâm tổ chức các dịch vụ đưa người
nước ngoài lao động tại Việt Nam; tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu, khuyến khích những ngành, dịch vụ Việt Nam đang thiếu lao động và cần đội ngũ chuyên gia nước ngoài; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lao động nước ngoài... Việc xây dựng
đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài như trên sẽ góp phần không chỉ tăng cường hợp tác quốc tế mà còn tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam, là cơ sở để các cơ quan ban ngành tổ chức thực hiện công tác quản lý lao động làm việc trong các doanh
nghiệp tại địa phương.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
4.2.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Bên cạnh hoàn thiện pháp luật, để đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với lao động nước ngoài cần thiết phải kiện toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ. Bởi lẽ yếu tố con người, tính minh bạch trong phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là vô cùng quan trọng trong việc thực thi các quy
định của pháp luật.
Khảo sát ý kiến cán bộ, chiến sĩ Công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam về giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cũng cho thấy, việc “Hoàn thiện bộ máy tổ chức, đào
tạo bồi dưỡng cán bộ” là một giải pháp khả thi, được nhiều trường hợp lựa chọn với 205/380 trường hợp (chiếm khoảng 53,9%).
Xuất phát từ các cơ sở trên, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý là giải pháp cần tập trung chú ý với phương hướng, cách thức hoàn thiện cụ thể là:
Thứ nhất, cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về lao động nước ngoài, có cơ chế rõ ràng về phân
công và phối hợp giữa các Bộ, Ngành từ trung ương đến địa phương trong quản lý người lao động nước ngoài ngay từ khi xây dựng dự án, hoặc lập hồ sơ mời thầu
147
cho đến công tác xuất nhập cảnh, khai báo, đăng ký, cấp giấy phép lao động; quản lý quá trình cư trú, làm việc, thực hiện pháp luật ở Việt Nam. Cụ thể:
- Đối với các Bộ, Ngành: phải nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hóa những quy định theo Nghị định của Chính phủ, trong đó xác định rõ
trách nhiệm của từng chủ thể tham gia quản lý; quy định cụ thể về trình tự thủ tục thi hành... thẩm quyền giải quyết, phân việc theo trách nhiệm của từng Bộ, Ngành.
Kiện toàn bộ máy của Phòng trực thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Cụm
3) theo hướng bám sát các hoạt động quản lý xuất, nhập cảnh, cư trú đi lại của người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam theo hướng xây dựng, theo dõi chuyên đề “người lao động nước ngoài tại Việt Nam”.
- Đối với các địa phương: khẩn trương rà soát tình hình thực hiện quy chế phối
hợp giữa Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Công an và các Ban, Ngành có liên quan tại địa phương trong việc quản lý lao động nước ngoài; đề xuất xây dựng quy chế phối hợp giữa 8 tỉnh, thành phố trong
quản lý đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Theo kết quả đánh giá về sự phối hợp giữa các địa phương trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thì hiệu quả phối hợp bị ảnh hưởng, nguyên nhân 300/380 với 78,9% ý kiến cho rằng
“Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ”. Nên nhất thiết phải xây dựng quy chế phối hợp quản lý lao động nước ngoài giữa 8 tỉnh, thành phố tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Thứ hai, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý khu chế xuất,
khu công nghiệp và Ban quản lý khu kinh tế
Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã có những văn bản quy định như Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Quy chế Ban quản lý khu kinh tế - khu chế xuất – khu công nghiệp... Tuy nhiên, rất cần có sự xác định rõ ràng hơn nữa về chức năng, nhiệm vụ của những cơ quan này. Chẳng hạn, theo Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 14/03/2008 quy định tại
các điều 37, 38 đã cho thấy có sự chồng chéo trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Ban Quản lý khu chế xuất – khu công nghiệp – khu kinh tế với Ban quản lý khu kinh tế. Theo Nghị định này, trong các khu kinh tế có các khu chế xuất, khu công nghiệp, như vậy, nếu không quy định rõ hơn thì Ban Quản lý khu
kinh tế sẽ quản lý luôn cả Ban Quản lý khu chế xuất – khu công nghiệp. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các khu công
148
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế nói chung và quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế nói riêng.
Thứ ba, cơ cấu tổ chức bên trong của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng cần nghiên cứu điều chỉnh hợp lý. Trong đó, cơ cấu lại bộ máy quản lý nhà
nước đối với người lao động nước ngoài một cách hợp lý tương xứng với chức năng nhiệm vụ của từng lực lượng cũng như phù hợp với thực tiễn. Hiện nay, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài được giao cho Cục Việc làm – Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý chủ yếu với chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể theo Quyết định số 996/QĐ-LĐTBXH, ngày 27 tháng 6 năm 2017 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Việc làm (Trước đây là Quyết định 517/QĐ-LĐTBXH ngày 28/3/2013) theo
đó việc quản lý người lao động nước ngoài được giao cho Phòng Quản lý lao động đảm nhiệm. Song với chức năng của Phòng Quản lý lao động hiện nay vừa thực hiện chức năng quản lý lao động Việt Nam vừa quản lý lao động nước ngoài, điều
này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả quản lý đối với từng đối tượng khác nhau. Bên cạnh đó, đối với lực lượng lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cơ cấu một đơn vị là Cục Quản lý lao động ngoài nước thực hiện chức năng quản lý. Thực tiễn cho thấy, những năm trở lại đây, tình
hình hình lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc có những diễn biến phức tạp và khó kiểm soát. Chính vì những lý do đó, theo kiến nghị của tác giả luận án cần kiện toàn tổ chức, tăng cường phân cấp, phân quyền cho Phòng Quản lý lao động,
trong quản lý đối với lao động nước ngoài là một sự cần thiết khách quan.
Thứ tư, trong cơ cấu tổ chức của lực lượng quản lý xuất nhập cảnh đối với người lao động nước ngoài hiện nay, cần nghiên cứu tính toán lại để đảm bảo tính thực tiễn và hiệu quả quản lý đối với lực lượng này. Vì hiện nay, quản lý người lao
động nước ngoài tại các đơn vị quản lý xuất nhập cảnh được kết hợp với quản lý người nước ngoài nói chung, không phân ra một chuyên đề cụ thể hay một bộ phận chuyên trách để theo dõi, quản lý. Thực trạng này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu
quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở các địa phương. Chính vì những lý do đó, tác giả luận án cho rằng cần phải tăng cường quản lý người lao động nước ngoài bằng việc kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị quản lý xuất nhập cảnh từ cấp cục tới các đơn vị địa phương theo hướng: thành lập Phòng Quản lý lao
động nước ngoài trực thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh; thành lập Đội Quản lý cư trú và xử lý vi phạm trực thuộc phòng Quản lý xuất nhập cảnh (đối với các tỉnh,
149
thành phố chưa thành lập); xây dựng chuyên đề, phân công cán bộ chuyên trách theo dõi lĩnh vực người lao động nước ngoài một cách thường xuyên, liên tục.
Thứ năm, cán bộ làm công tác quản lý lao động nước ngoài cần phải có năng lực chuyên môn, nắm vững pháp luật, sử dụng được ngoại ngữ (ít nhất là trình độ A). Vì
theo kết quả khảo sát cho thấy, số lượng và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở có ảnh hưởng rất lớn (31,1%), ảnh hưởng lớn (40,5%) đến hiệu quả quản lý nhà nước
đối với người lao động nước ngoài.
Do đó, cần tiến hành rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý lao động nước ngoài để bố trí cho phù hợp, đủ lực lượng, đúng người, đúng việc; có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, pháp
luật cho đội ngũ cán bộ làm các khâu liên quan đến quản lý lao động nước ngoài, cần bố trí một bộ phận chuyên trách thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để hỗ trợ chính quyền địa phương, đề xuất chính sách, cơ chế và trực tiếp quản lý số lao
động nước ngoài. Nhà nước cần phân bổ hợp lý các nguồn tài chính, đầu tư kinh phí, phương tiện làm việc nhằm đảm bảo tồ chức thực hiện hiệu quả công tác quản lý lao động nước ngoài.
Ngoài ra, UBND cấp huyện, cấp xã, các trung tâm giới thiệu việc làm cũng
cần có thêm chức năng theo dõi, trợ giúp quản lý lao động nước ngoài tại địa phương; Các cơ quan truyền thông cũng cần được hỗ trợ, khuyến khích để tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật và phản ánh đúng về tình hình lao động
của người nước ngoài tại Việt Nam.
4.2.2.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Thực tế hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam thời gian qua cho thấy sự thiếu hiểu biết pháp luật Việt Nam, sự thiếu ý thức trong tuân thủ, chấp hành pháp luật Việt
Nam của người lao động nước ngoài, người sử dụng lao động còn diễn ra khá phổ biến. Mặt khác, chúng ta chưa có cơ quan chuyên trách về tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhất là đối với các quy định liên quan đến công tác quản lý lao động nước ngoài đã dẫn đễn những hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Do đó, trong thời
gian tới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quản lý lao động nước ngoài
150
cho người lao động nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài. Đồng thuận với nhận định này có 263/380 chiếm 69,2% cán bộ khảo sát cho biết là cần thiết phải “Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với người nước ngoài”. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với người lao
động nước ngoài cần tập trung vào các vấn đề sau:
Về đối tượng tuyên truyền Thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước cho
các cơ quan quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, các cơ quan hữu quan tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình mà xác định nội dung tuyên truyền cho phù hợp: Chẳng hạn, Bộ Công an tập trung vào các quy định về xuất, nhập cảnh, quản lý cư trú, đi lại, hành nghề, hình phạt khi vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng lao
động nước ngoài; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì tập trung tuyên truyền, phổ biến các quy định về lao động như tiêu chuẩn, điều kiện, trình độ, chế độ chính sách đối với các loại người lao động nước ngoài, trách nhiệm của người sử dụng, cơ
quan, doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài, xử phạt khi vi phạm pháp luật về lao động; Bộ Kế hoạch đầu tư tập trung vào tuyên truyền pháp luật về đầu tư nước ngoài như Luật Đầu tư nước ngoài, các quy định liên quan đến đấu thầu có yếu tố nước ngoài, quy định về thành lập các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài nhất là
việc sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài,...
Thứ hai, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với lao động nước ngoài, cơ quan, cá nhân sử dụng lao động nước ngoài, đặc biệt là các nhà thầu nước
ngoài khi trúng thầu tại Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài khi được cấp phép đầu tư hoặc hợp tác đầu tư với Việt Nam có sử dụng lao động nước ngoài. Bởi lẽ, các nhà thầu, nhà đầu tư nước ngoài thời gian qua nhất là các nhà thầu Trung Quốc khi trúng thầu thường sử dụng lao động phổ thông từ Trung Quốc, nhiều đối tượng
sử dụng lao động thường tìm cách khai thác các sơ hở trong quy định về quản lý lao động nước ngoài của ta để tạo điều kiện cho lao động phổ thông đến từ nước họ. Trong thời gian tới, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý
nhà nước đối với lao động nước ngoài cần tập trung vào các nhà thầu Trung Quốc và đội ngũ lao động phổ thông đến từ Trung Quốc. Mặt khác, để đảm bảo tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài đảm bảo sâu rộng thì đòi hỏi cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các
doanh nghiệp Việt Nam có sử dụng lao động nước ngoài.
151
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài đối với người sử dụng lao động nước ngoài là người Việt Nam và người lao động Việt Nam làm việc với lao động nước ngoài. Bởi lẻ, bên cạnh việc quản lý của cơ quan chức năng, trong quá trình hoạt động, đi lại, sinh
sống của lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn có sự tác động của những đối tượng này. Vì thế, việc nâng cao nhận thức pháp luật trong quản lý đối với lao động nước ngoài cho đối tượng này là rất cần thiết. Trong quá
trình sử dụng các hình thức tuyên truyền cũng cần quan tâm đến đặc điểm đặc trưng của đối tượng này – là người ở các địa phương thuộc khu vực Nam bộ, với đặc điểm tính cách, tâm lý, tình cảm khác biệt so với các vùng miền khác, để từ đó có những hình thức tuyên truyền phù hợp với lực lượng này.
Về hình thức tuyên truyền Hình thức tuyên truyền phải đa dạng, phong phú. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về lao động nước ngoài cần mở những lớp tập huấn, hội thảo khoa học,
phát tài liệu, thiết kế trang website nhằm tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp có sử dụng lao động nước ngoài thì phải kịp thời báo cáo với cơ quan chức năng để phối hợp trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quản lý lao động nước ngoài.
Cần phải có quy định trước khi làm việc tại các doanh nghiệp ở Việt Nam, lao động nước ngoài phải trải qua lớp tập huấn ngắn hạn nhằm trang bị những kiến thức về văn hóa, pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật lao động tại Việt Nam
nói riêng. Ngoài việc tổ chức tập huấn tập trung các cơ quan quản lý của ta có thể phát tờ rơi trong đó phổ biến các quy định về quản lý nhà nước đối với người sử dụng lao động nước ngoài, lao động nước ngoài bằng Tiếng Anh, tiếng của nước mà người lao động mang quốc tịch và tiếng Việt Nam. Hình thức này được áp dụng có
hiệu quả khi số lượng lao động của một nước tập trung đông tại một doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp mà lao động nước ngoài có sự đa dạng về quốc tịch thì các tờ rơi ngoài hình ảnh minh họa đẹp mắt thì nội dung các quy định quản lý nhà
nước đối với lao động nước ngoài nên trình bày bằng Tiếng Anh và tiếng Việt Nam.
Về chủ thể tuyên truyền Để tăng cường hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, các cơ quan chức năng của ta cần phải có
sự phối hợp chặt chẽ, phải có cơ quan chịu trách nhiệm chính và phân công nhiệm vụ cụ thể rõ ràng, tránh trùng dẫm, chồng chéo. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà
152
nước đối với lao động là người nước ngoài cần phải tăng cường hợp tác quốc tế với các nước, các cơ quan tổ chức nước ngoài mà họ đưa công dân làm việc tại Việt Nam. Thực tế chúng ta thấy rằng trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý đối với lao động nước ngoài không chỉ là trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, của Việt Nam mà còn là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước của nước mà công dân mang quốc tịch nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cũng như trách nhiệm của công
dân nước họ khi làm việc tại Việt Nam nói chung và tại các doanh nghiệp ở Việt Nam nói riêng. Theo quy định của pháp luật trách nhiệm của UBND tỉnh, thành phố là chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; kiểm tra, thanh tra; xử lý vi phạm các quy định về việc tuyển dụng và
quản lý người nước ngoài làm việc trên địa bàn. Tuy nhiên, pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước đối với người nước ngoài làm việc rất rộng, do đó khi giao trách nhiệm cho UBND tỉnh, thành phố thì việc thành lập một cơ quan chuyên
trách hoặc ban chỉ đạo về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài là việc làm cần thiết và cấp bách.
4.2.2.3. Nâng cao hiệu quả kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người
lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Kết quả khảo sát cho thấy, với giải pháp “Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý” được nhiều cán bộ, chiến sỹ đồng thuận với 280/380 chiếm 73,7%. Chính vì vậy, nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao
động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam trong thời gian tới, lực lượng chức năng cần thực hiện tốt những nội dung công việc sau:
Tham mưu, đề xuất bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến
xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật
Để nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam các lực lượng chức năng cần phải tăng cường công tác tham mưu, đề xuất với các cấp có thẩm quyền về xây dựng và
hoàn thiện các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý kểm tra, xử lý. Trong đó, tập trung vào những nội dung sau:
Một là, trên cơ sở các văn bản pháp luật đã có, tham mưu hoàn thiện các văn bản pháp luật về quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và xử lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật của người nước ngoài tại Việt Nam theo hướng đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính đồng thời bảo đảm cho việc phục vụ các yêu cầu bảo vệ an ninh
153
quốc gia. Trong đó, triển khai áp dụng các quy phạm pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, các Công ước của tổ chức lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam tham gia. Đây là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính quốc tế.
Hai là, tham mưu cho các cơ quan lập pháp bổ sung kịp thời rà soát các văn bản pháp luật hiện hành xem xét hiệu lực, giá trị từng văn bản, nếu còn giá trị thì giữ nguyên để thực hiện, nếu không phù hợp thì đề xuất sửa đổi bổ sung hoặc ban
hành quy phạm pháp luật mới, qua đó tăng cường chất lượng công tác quản lý hoạt động của lao động nước ngoài và hiệu quả của công tác xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật tại các địa phương. Trước mắt lực lượng chức năng các tỉnh, thành phố cần căn cứ vào các văn bản pháp luật của Đảng và Nhà nước để
tham mưu đề xuất ban hành quy chế quản lý hoạt động của lao động nước ngoài tại địa phương, áp dụng các văn bản xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài đảm bảo phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, đảm bảo các yêu
cầu chính trị, pháp luật, ngoại giao.
Ba là, kiến nghị, đề xuất sửa đổi bổ sung các quy định chưa hợp lý với thực tiễn quản lý và xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài của Bộ luật Hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật Dân sự, Bộ luật Lao động… Đó
chính là cơ sở pháp lý vững chắc đấu tranh, xử lý với các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính hay dân sự nhằm kịp thời răn đe, ngăn chặn tình trạng lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam, thể hiện tính nghiêm minh của Pháp luật
Việt Nam. Bốn là, các lực lượng chức năng tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cần đẩy mạnh việc hướng dẫn cho ban, ngành, các công ty, doanh nghiệp có lao động nước ngoài làm việc để tuyên truyền, phổ biến những quy định của Luật Nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm, nhận thức của cá nhân, tổ chức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý hoạt động của lao động nước ngoài.
Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp lực lượng giữa các cơ quan, ban
ngành trong xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật
Công tác xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam đòi hỏi sự phối hợp và trao đổi thông tin chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia công tác
quản lý hiện nay. Do đó, để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan ban ngành, lực lượng có liên quan đến việc xử lý, cần chú trọng những vấn đề sau:
154
Một là, nâng cao nhận thức của cán bộ về vai trò, vị trí quan trọng của công tác phối hợp trong xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam. Trong đó, tập trung vào các nội dung đó là: Kiến thức cơ bản về công tác phối hợp; cách thức thực hiện công tác phối hợp; Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công tác
phối hợp; Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, lực lượng liên quan; Nội dung phối hợp khi xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những nguyên tắc và yêu cầu trong trao
đổi thông tin về nội dung công tác xử lý vi người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, lực lượng Quản lý xuất nhập cảnh Công an các tỉnh sẽ tham mưu, đề xuất những những vấn đề cần thực hiện khi xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật nhằm tạo cơ sở để Công an các tỉnh kiến nghị Ủy ban nhân
dân tỉnh xây dựng, thống nhất cơ chế phối hợp xử lý, thông tin với nhau.
Ba là, thường xuyên tổ chức các hội nghị khoa học, sơ kết, tổng kết liên ngành khi thực hiện các quy chế phối hợp nhằm thống nhất các vấn đề cần thiết
trong xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam.
Bốn là, xây dựng kế hoạch phối hợp trong xử lý người lao động nước ngoài VPPL cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, đảm bảo các yêu cầu chính trị, pháp luật, ngoại giao trong quá trình thực hiện. Việc xây dựng kế hoạch phối hợp phải có sự bàn bạc, trao
đổi giữa các lực lượng chức năng có liên quan tham gia công tác phối hợp. Trước khi lập kế hoạch này, lực lượng Quản lý xuất nhập cảnh phải nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tế, các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động xử lý người
lao động nước ngoài vi phạm pháp luật, trách nhiệm, quyền hạn, hoạt động cụ thể của từng đơn vị. Trên cơ sở đó, cần quy định rõ những nhiệm vụ đặt ra, những lực lượng cần phối hợp, biện pháp, phương pháp, công cụ, thời gian, địa điểm… để thực hiện công tác phối hợp.
Năm là, để làm tốt được công tác phối hợp, cần phải có sự chỉ đạo một cách tập trung, thường xuyên, liên tục, phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của cấp ủy Đảng. Mỗi đơn vị phối hợp trong xử lý người lao động nước
ngoài vi phạm pháp luật có những hoạt động chuyên biệt, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành, của đơn vị mình, nhưng tất cả các hoạt động đó phải đặt trong một thể thống nhất về ý chí, cùng hướng đến cùng một mục đích nhằm kịp thời xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật.
155
4.2.2.4. Xây dựng hệ thống thông tin hiện đại trong quản lý nhà nước đối với
người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Kết quả điều tra, khảo sát thực tế ý kiến cán bộ, chiến sĩ Công an các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam về giải pháp hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cũng là cơ sở quan trọng của giải pháp này. Kết quả cho thấy, giải pháp “Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác quản lý” được 211/380 trường hợp cán bộ, chiến sĩ được khảo sát
(chiếm khoảng 55,5%) đồng tình lựa chọn khi được hỏi về giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Việc tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác quản lý, trong đó “xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại” là giải pháp cấp bách và cần thiết.
Xây dựng hệ thống thông tin quản lý lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cần phải nằm trong xây dựng hệ thống thông tin quản lý hành chính nhà nước tổng thể, hệ thống thông tin theo ngành và hệ thống thông tin theo
lãnh thổ (từng địa phương). Nhằm thiết lập hệ thống thông tin quản lý người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đạt được hiệu quả phải hướng đến xây dựng các hệ thống cụ thể như:
Một là, xây dựng hệ thống thông tin điều hành và quản lý hành chính trên
địa bàn tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Trên cơ sở mạng máy tính bao gồm các mạng LAN tại các cơ quan nhà nước được kết nối với nhau thành mạng diện rộng, các hệ thống thông tin của các cơ quan
nhà nước trong tỉnh, thành phố được tiến hành xây dựng và liên kết với nhau để tạo thành một hệ thống thông tin phục vụ điều hành và quản lý thống nhất nhằm phục vụ và nâng cao hiệu quả công tác điều hành – quản lý đối với lĩnh vực người lao động nước ngoài trong phạm vi tỉnh/thành phố. Đó là hệ thống tích hợp, thống nhất
liên kết các hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước, cụ thể là Văn phòng HĐND, UBND tỉnh, các Sở, UBND các quận/huyện/thị và trong tương lại hệ thống sẽ được mở rộng đến UBND các xã/phường/thị trấn. Tại Văn phòng HĐND, UBND
tỉnh, thành phố sẽ xây dựng trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu về người lao động nước ngoài. Trung tâm này đóng vai trò liên kết và tích hợp thông tin của tất cả các đơn vị trong từng hệ thống. Thông qua trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu, mạng công vụ của tỉnh, thành phố được kết nối với mạng diện rộng của Chính phủ và các mạng
chuyên ngành khác với mục đích báo cáo, khai thác, trao đổi và chia sẻ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài.
156
Hai là, xây dựng hệ thống thông tin tại mỗi cơ quan nhà nước thuộc vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam
Xây dựng hệ thống thông tin tại mỗi cơ quan nhà nước, hay thiết lập hệ thống thông tin chuyên sâu về lĩnh vực người lao động nước ngoài, nhằm phục vụ
công tác điều hành quản lý và hoạt động quản lý người lao động nước ngoài của cơ quan chức năng; hình thành kết nối để báo cáo, chỉ đạo, trao đổi thông tin theo chiều dọc (với cấp trên chủ quản và cấp dưới) và theo chiều ngang (với các cơ quan
ngang cấp); hình thành mối liên kết và trao đổi thông tin với các hệ thống thông tin phục vụ dịch vụ công trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài.
Theo đó, cần bổ sung, xây dựng hệ thống thông tin quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú của người lao động nước ngoài do Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công
an các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Nam quản lý (hiện nay Bộ Công an đã triển khai rộng khắp mô hình “Tiếp nhận thông tin khai báo tạm trú cho người nước ngoài qua mạng internet”); Xây dựng hệ thống thông tin quản lý đối với lao
động nước ngoài do Phòng Việc làm – Sở Lao động - Thương binh, Xã hội quản lý.
Hai hệ thống này cần có sự liên kết, tích hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi thông tin phục vụ kịp thời việc ra quyết định quản lý của chủ thể quản lý.
Hệ thống thông tin của mỗi cơ quan nhà nước về cơ bản sẽ cần được xây dựng bao gồm các thành phần sau: (1) Hệ điều hành tác nghiệp và các chương trình quản lý nội bộ: Hệ điều hành tác nghiệp, hệ thư tín điện tử, WEBSITE của cơ quan,
các chương trình quản lý nội bộ. (2) Hệ thống các cơ sở dữ liệu bao gồm: các cơ sở dữ liệu và các chương trình ứng dụng chuyên ngành phục vụ các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; cơ sở dữ liệu tổng hợp phục vụ điều hành, bao gồm các dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu của ngành Lao động,
Thương binh và Xã hội, ngành Công an, ngành Tư pháp; cơ sở dữ liệu văn bản pháp quy, cơ sở dữ liệu quản lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Ba là, xây dựng hệ thống phục vụ dịch vụ công tại các tỉnh, thành phố thuộc
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Mục tiêu của hệ thống thông tin này hướng đến là nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian, tự động hóa, đơn giản hóa và làm gọn nhẹ các quy trình giải quyết, xử lý các dịch vụ công của các cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện việc phục vụ cung
cấp các dịch vụ công, nhất là các dịch vụ công mang tính liên ngành cho người lao động nước ngoài theo chế độ một cửa: giảm các thủ tục phiền hà, giải quyết công việc
157
nhanh chóng, gọn nhẹ và công minh theo đúng pháp luật; cung cấp các thông tin công cộng về luật pháp điều chỉnh đối với người lao động nước ngoài, về các lĩnh vực dịch vụ công đến người lao động nước ngoài, nâng cao hiểu biết của họ từ đó chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Việt Nam.
Để thực hiện được mục tiêu trên, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của từng chủ thể quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài, cần thiết tiến hành thực hiện các công việc sau: (1) Xây dựng một WEBSITE công cộng; (2) Xây
dựng hệ thống các hệ thống thông tin phục vụ dịch vụ công theo các lĩnh vực xuất, nhập cảnh, lĩnh vực lao động, lĩnh vực tư pháp, lĩnh vực đầu tư…; (3) Kết nối các hệ thống thông tin dịch vụ công với các hệ thống thông tin phục vụ điều hành và quản lý hành chính tại các cơ quan nhà nước với mục đích trao đổi thông tin hai
chiều: cung cấp dữ liệu và khai thác dữ liệu.
Quá trình tin học hóa công tác điều hành và quản lý hành chính tại các cơ quan nhà nước và quá trình tin học hóa phục vụ cung cấp các dịch vụ công cho
người lao động nước ngoài trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cần phải được tiến hành song song, không tách rời nhau, trong một tổng thể thống nhất để hình thành “Chính phủ điện tử” của tỉnh, thành phố. Hoạt động quản lý nhà nước hướng tới phục vụ nhân dân là một trong những nội dung trọng tâm của
quá trình đổi mới và cải cách hành chính.
Kết luận chương 4 Thực trạng quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã cho thấy rõ tính tất yếu khách quan của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài.
Tuy nhiên, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài cần bám sát vào các quan điểm chung. Với những định hướng cơ bản này,
việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tập trung vào việc tiến hành đồng bộ nhóm giải pháp chung, gồm: Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Củng cố, tăng cường hợp tác quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài. Đồng thời, nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cần
được tập trung thực hiện tốt, gồm: Hoàn thiện tổ chức bộ máy và bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý trong quản lý nhà nước đối với người lao
158
động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; Nâng cao hiệu quả kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; Xây dựng hệ thống thông tin hiện đại trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
159
KẾT LUẬN
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam là điểm đến hấp dẫn, thu hút một lượng đông đảo người lao động nước ngoài. Quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên cũng còn bộc lộ nhiều khó khăn, bất cập. Với cách tiếp cận đó, đề tài luận án: “Quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam Việt Nam” đã được chủ động triển khai nghiên cứu làm rõ và rút ra được một số kết luận sau:
Một là, đề tài luận án chưa được thể hiện ở bất kỳ công trình nào trong và ngoài nước thời gian qua. Hiện một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
có liên quan đến đề tài luận án ở nhiều góc độ khác nhau, đã có những thành công nhất định có thể tham khảo, kế thừa, như: những khái niệm công cụ, thực trạng và giải pháp liên quan… Tuy nhiên, nhiều vấn đề chưa được làm rõ, chưa đề cập đến
sẽ được tiếp tục giải quyết, thể hiện rõ tính mới và giá trị khoa học của luận án.
Hai là, đề tài luận án đã tập trung xây dựng hệ thống lý luận tập trung ở các vấn đề: các khái niệm công cụ, cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn xuất phát từ kinh nghiệm quản lý của các nước, xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý, một
số yếu tố tác động đến hoạt động quản lý... Đặc biệt là đã định hình được khung nội dung quản lý, gồm: Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Tổ chức bộ máy và phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Tổ chức các hoạt động quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và hoạt động của người lao động nước ngoài; Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Phối hợp với các cơ quan trong
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài; Hợp tác quốc tế trong quản lý người lao động nước ngoài.
Ba là, kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là rất phong phú, đa dạng. Trong đó, Việt Nam có thể tham khảo, khai thác, vận dụng kinh nghiệm của các nước ở nhiều vấn đề có liên quan.
Bốn là, đề tài luận án đã chỉ rõ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam có
nét đặc thù về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội, đã thu hút một số lượng lớn người lao động nước ngoài đến làm việc.
160
Năm là, quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam đã được các cơ quan chức năng chủ động triển khai và đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, hoạt động này có một số hạn chế như: các cơ quan chức năng ở nhiều địa phương chưa thể hiện hết trách nhiệm trong
chỉ đạo, điều hành; việc ban hành thể chế quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài và triển khai thực hiện trên thực tế còn nhiều khó khăn, bất cập; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài chưa thật sự ổn định
và thống nhất; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt Nam còn bất cập, chưa hiệu quả; sự phối hợp giữa các ngành có liên quan trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài chưa chặt chẽ; hoạt động kiểm tra, xử lý chưa được phát huy tương xứng, còn hạn chế.
Sáu là, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài là vấn đề khó khăn, đòi hỏi phải có cả một quá trình và cần tập trung vào hai nhóm giải pháp quan trọng. Trong đó, nhóm giải pháp chung gồm: Đổi mới nhận thức về quản
lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài và chính sách đối với người lao động nước ngoài; Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài; Củng cố, tăng cường hợp tác quốc tế góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài. Đồng thời, nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam cần được tập trung thực hiện tốt, gồm:
Hoàn thiện tổ chức bộ máy và bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý; Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; Nâng cao hiệu quả kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam; Xây dựng hệ thống thông tin hiện đại trong quản
lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Nhìn chung, những kết quả đạt được của luận án đã cho thấy mục đích, nhiệm
vụ của luận án đã đạt được và giả thuyết khoa học của luận án đã được chứng minh. Đồng thời, luận án cũng có những đóng góp mới về mặt khoa học. Tuy nhiên do điều kiện về thời gian cũng như nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác, những hạn chế của luận án là không tránh khỏi, rất mong nhận được các ý kiến
đóng góp của các nhà khoa học để luận án được hoàn thiện hơn.
161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
STT
Tên công trình
Loại tài liệu
Nơi công bố
Ghi chú
Năm công bố
1
2012
Tác giả
Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí KH & GDAN số 25/07-2012 ISSN 1859 - 4115
2
2013
Tác giả
Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí KH & GDAN số 31/07-2013 ISSN 1859 - 4115
3
2013
Tham gia
Đề tài cấp Cơ sở
Tỉnh Đồng Nai
4
2014
Thành phố Hồ Chí Minh
Chủ nhiệm
Đề tài cấp Cơ sở
Một số thủ đoạn vi phạm pháp luật về trong trường môi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai Một số khó khăn, phức tạp trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với lao nước động ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay Đấu tranh phòng, chống tội phạm tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Thực trạng và giải pháp Công tác quản lý người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp tại Đồng Nai
Tác giả
5
2015
Phân loại lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Trường Đại học ANND - Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả
6
2016
Học viện Hành chính quốc gia
Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
7
Quản lý nhà nước đối với lao động
Tạp chí KH & GDAN số 12/2015 ISSN 1859 - 4115 Tạp chí Quản lý nhà nước số 241/2/2016 ISSN 2354 - 0761 Tạp chí Quản lý nhà nước số
Học viện Hành chính
2017
162
quốc gia
Tác giả
nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh
253/2/2017 ISSN 2354 - 0761
Tác giả
2017
8
Trường Đại học ANND – Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí KH&GDAN số đặc biệt 4/2017 ISSN 1859 - 4115
Nâng cao hiệu quả công tác tham mưu đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về an ninh quốc gia đối với lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong tình hình hiện nay
Chủ biên
2017
9
Sách chuyên khảo
Thành phố Hồ Chí Minh
Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với người lao động nước ngoài tại Đồng Nai
Tác giả
2018
10
Trường Đại học ANND – Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí An ninh nhân dân số 72 4/2018 ISSN: 1859 - 4115
Thực trạng xử lý động lao người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và một số ý kiến đề xuất
Tác giả
11
2018
Thực trạng xử lý người lao động tại Đồng Nai và một số ý kiến đề xuất
Trường Đại học ANND – Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí An ninh nhân dân số 74 6/2018 ISSN: 1859 - 4115
163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Phan Cao Nhật Anh (2014), Một số vấn đề xã hội của người lao động
nước ngoài tại Nhật Bản, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Lan Anh (2011), Hoàn thiện công tác quản lý làm việc tại
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện hành
chính, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Hồng Anh (2014), Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp tại Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Bùi Quảng Bạ (1996), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý
nhà nước đối với người nước ngoài tại Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chỉ thị
số 40-CT/TW về tăng cường công tác quản lý lao động nước ngoài tại Việt
Nam.
6. Bộ Công an (1959), Nghị định 506 – NĐ ngày 6/8/1959 Ban hành thể
lệ đăng ký cư trú của ngoại kiều.
7. Bộ Chính trị (2013), Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của
Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Hà Nội.
8. Bộ Công an (2005), Quyết định số 877/2005/QĐ-BCA(A11) ngày
05/07/2005 qui định phân công trách nhiệm và phối hợp giữa các lực lượng
Công an nhân dân trong công tác quản lý người nước ngoài nhập cảnh, xuất
cảnh, cư trú, hoạt động tại Việt Nam, Hà Nội.
9. Bộ Công an, Chỉ thị số 12/2007/CT-BCA-A11 ngày 20/08/2007 về
việc triển khai thực hiện Quy chế miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, Hà Nội.
164
10. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2005), Lao động và việc
làm ở Việt Nam 1996 – 2010, Hà Nội.
11. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2008), Thông tư
08/2008/TT-BLĐTBXH ngày 10/6/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số Nghị định số 34/2008/NĐ - CP ngày 25/3/2008 quy định về
tuyển dụng và quản lý NNN làm việc tại Việt Nam, Hà Nội.
12. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2014), Thông tư
03/2014/TT-BLĐTBXH ngày 20/01/2014 hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 quy định định chi tiết thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam, Hà Nội.
13. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2017), Thông tư
23/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/8/2017 về hướng dẫn thực hiện cấp giấy
phép lao động cho người lao động nước ngoài tại Việt Nam qua mạng điện
tử.
14. Phạm Thị Thanh Bình (2008), Di cư lao động ở ASEAN: xu hướng và
giải pháp, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Bích (2007), Xuất khẩu lao động của một số nước Đông
Nam Á kinh nghiệm và bài học, Hà Nội.
16. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996),
Nghị định số 58/CP ngày 3/10/1996 về cấp giấy phép lao động cho người nước
ngoài làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam, Hà Nội.
17. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000),
Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 qui định chi tiết thi hành Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
18. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000),
Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11/8/2000 về việc bãi bỏ một số giấy phép
và chuyển một số giấy phép thành điều kiện kinh doanh, Hà Nội.
165
19. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003),
Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động
nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà Nội.
20. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008),
Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 qui định về tuyển dụng và quản
lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà Nội
21. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011),
Nghị định 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về
tuyển dụng và quản lý NNN làm việc tại Việt Nam, Hà Nội
22. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013),
Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Hà Nội
23. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013),
Nghị định 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà
Nội
24. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015),
Nghị định số 64/2015/NĐ-CP, ngày 6/8/2015 của Chính phủ, Về cơ chế phối hợp
giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trong công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
25. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016),
Nghị định 11/2016/NĐ-CP ngày 3/02/2016 Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà
Nội
166
26. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1948),
Sắc lệnh số 205/SL ngày 18/8/1948 ấn định thể lệ trục xuất ngoại kiều khỏi
Việt Nam chủ cộng hòa, Hà Nội.
27. Công an thành phố Hồ Chí Minh (2009), Báo cáo tổng kết 10 năm
triển khai, thực hiện pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người
nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh, số 27/BC-CATP (PV11), ngày
20/1/2009, Thành phố Hồ Chí Minh.
28. Phạm Hồng Cử (1997), Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của
người nước ngoài đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp,
Đề tài khoa học cấp cơ sở, Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Nguyễn Văn Cường (2005), Về hoạt động kiểm soát xuất, nhập cảnh
ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11-2005.
30. Nguyễn Văn Cường (2008), Hoàn thiện pháp luật xuất cảnh, nhập
cảnh và cư trú ở Việt Nam, Hà Nội.
31. Nguyễn Đức Chung (2013), Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng, chống tội phạm do người nước ngoài gây ra trên địa bàn
thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
32. Cục Việc làm – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2017), Báo
cáo tổng kết về lao động nước ngoài tại Việt Nam qua các năm 2008 đến năm
2017, Hà Nội.
33. Cục Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an (2017), Báo cáo tổng kết
công tác quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài tại các tỉnh,
thành phố phía Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
34. Nguyễn Đăng Dung (2009), Bảo vệ người lao động di trú: Tập hợp
các văn kiện quan trọng của quốc tế, khu vực ASEAN và của Việt Nam liên quan
đến vị thế và việc bảo vệ người lao động di trú, Hà Nội.
35. Nguyễn Thanh Dương (2013), Điều tra tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy do người nước ngoài thực hiện tại Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
167
36. Nguyễn Vĩnh Diện (2014), Vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ có
yếu tố nước ngoài của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
37. Phạm Văn Đại (2013), Quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với các cơ sở
giáo dục có yếu tố nước ngoài, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Hà Nội.
38. Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (1990), Công ước quốc tế về bảo vệ
quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia đình họ.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII,VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
41. Phan Huy Đường (2012), Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài
chất lượng cao ở Việt Nam, Hà Nội.
42. Phan Huy Đường, Tô Hiến Thà (2011), Lao động nước ngoài ở Việt
Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Lao động và xã hội, số 402-2011
43. Phan Huy Đường, Đỗ Thị Dung (2011), Một số vấn đề đặt ra trong
thực hiện các quy định pháp luật về lao động nước ngoài ở Việt Nam và hướng
hoàn thiện, Tạp chí Lao động và xã hội, số 403-2011.
44. Phan Huy Đường, Đỗ Thị Dung (2011), Giải pháp tăng cường quản
lý nhà nước về lao động nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí Lao động và xã hội,
số 407 – 2011.
45. Phan Huy Đường (2012), Một số kinh nghiệm về quản lý lao động
nước ngoài tại Xinhgapo và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Lao động và xã hội,
số 430-2012.
46. Phan Huy Đường (2012), Những khó khăn trong quản lý lao động
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục, Tạp chí Lao động và
Xã hội số 425 – 2012.
168
47. Trịnh Gia Đức (2010), Lao động nước ngoài ở các tỉnh phía Nam
và những vấn đề đặt ra với công tác an ninh, Luận văn Thạc sĩ luật học –
Trường Đại học An ninh nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Đỗ Minh Đức (2012), Công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong
hoạt động của lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Luận văn
Thạc sĩ luật học – Trường Đại học An ninh nhân dân, Thành phố Hồ Chí
Minh.
49. Trần Thị Hoa (2015), Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tội phạm về trật tự xã hội do người nước ngoài gây ra ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
50. Nguyễn Hữu Hoan (2013), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản do người nước ngoài gây ra tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
51. Học viện hành chính (2008), Giáo trình hành chính công (dùng cho
đào tạo Đại học hành chính), Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
52. Học viện hành chính (2008), Giáo trình Quản lý học đại cương (Đào
tạo Đại học hành chính), Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
53. Học viện hành chính (2010), Giáo trình quản lý nhà nước về an ninh
quốc phòng, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
54. Hội đồng Chính phủ (1977), Quyết định số 122/CP của Chính phủ
ban hành về chính sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở
Việt Nam, Hà Nội.
55. Nguyễn Phùng Hồng (2002), Những giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý người nước ngoài nhằm đảm bảo an ninh trật tự của lực lượng công an
nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đề tài
khoa học mã số KHXH 07-08, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. Nguyên Vũ Hoàng (2008), Pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, Hà Nội.
57. Học viện hành chính (2008), Giáo trình hành chính công (dùng
cho đào tạo Đại học hành chính), Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
169
58. Học viện hành chính (2008), Giáo trình Quản lý học đại cương
(Đào tạo Đại học hành chính), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
59. Học viện hành chính (2010), Giáo trình quản lý nhà nước về an
ninh quốc phòng, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
60. Hội Luật gia Việt Nam (2008), Những điều cần biết về người lao
động di trú, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Hiến (1999), Vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong
quản lý người nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí
Minh.
62. Nguyễn Duy Hùng – Hồ Trọng Ngũ (1997), Bước đầu tìm hiểu
quản lý nhà nước về an ninh trật tự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
63. Lê Hồng Huyên (2009), Tác động của di chuyển lao động quốc tế
đối với sự phát triển của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Quản
lý kinh tế, số 1, 2-2009.
64. Liên Hiệp Quốc (1961), Công ước Viên của Liên Hợp Quốc ngày
19/4/1961 về quan hệ ngoại giao.
65. Liên Hiệp Quốc (1963), Công ước Viên về quan hệ lãnh sự ngày
24/4/1963 về quan hệ lãnh sự.
66. Vũ Thành Luân (2013), Quản lý nhà nước đối với cư trú của
người nước ngoài – từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ
quản lý hành chính công – Học viện Hành Chính.
67. PGS, TS Bùi Quang Nhật (2006), Chính sách phát triển vùng của
Italia, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
68. Nguyễn Bá Ngọc (1994), Thị trường lao động Việt Nam, Luận án
phó Tiến sĩ kinh tế, waesan
69. Nguyễn Bá Ngọc (2009), Dịch vụ việc làm trong phát triển kinh
doanh ở Việt Nam, Hà Nội.
70. Lưu Bình Nhưỡng (2009), Một số vấn đề pháp lí về người nước
ngoài làm việc tại Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số 9 (112), tr. 33-42.
170
71. Hoàng Phê (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Ngô Nhất Phong (2015), Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia đối
với người nước ngoài hoạt động trên lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
73. Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh,
Báo cáo tổng kết các mặt công tác quản lý xuất nhập cảnh từ năm 2005 đến năm
74. Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
(2009), Báo cáo tình hình, công tác quản lý xuất nhập cảnh năm 2009, thành phố
Hồ Chí Minh.
75. Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
(2014), Báo cáo số 117/BC-PA72 ngày 26/3/2014 về tình hình, công tác cư trú
và xử lý người nước ngoài vi phạm trên địa bàn Thành phố trong 6 tháng qua,
thành phố Hồ Chí Minh.
76. Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh
(2014), Công văn số 422/PA72-Đ4 ngày 06/9/2014 về việc rà soát, đánh giá tình
hình người nước ngoài không giấy phép lao động, thành phố Hồ Chí Minh.
77. Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh
(2014), Báo cáo số 185/BC-PA72 ngày 24/11/2014 về tình hình, công tác quản
lý xuất nhập cảnh xuất nhập cảnh năm 2014, thành phố Hồ Chí Minh.
78. Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh
(2014), Báo cáo số 185/BC-PA72 ngày 24/11/2014 về tình hình, công tác quản
lý xuất nhập cảnh năm 2014, thành phố Hồ Chí Minh.
79. Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh Công an Đồng Nai, Báo cáo tổng kết
2017, thành phố Hồ Chí Minh.
80. Nguyễn Văn Phúc (2016), Tỷ lệ lao động Việt Nam qua đào tạo nghề
chỉ đạt 38,5%, Báo Sài Gòn giải phóng.
81. Đặng Thanh Quang (2008), Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
quản lý người nước ngoài tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa
các mặt công tác quản lý xuất nhập cảnh từ năm 2005 đến năm 2017, Đồng Nai.
171
bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học An ninh
nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
82. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà Nội.
83. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Bộ
luật Lao động, Hà Nội.
84. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật
Quốc tịch Việt Nam, Hà Nội.
85. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ
luật Lao động, Hà Nội.
86. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật
xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
87. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Hà Nội.
88. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật
Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam,
Hà Nội.
89. Nguyễn Hữu Quỳnh (1998), Đại từ điển Kinh tế thị trường, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
90. Richard Perruchoud, Jillyanne Redpath-Cross (2011), Giải thích
thuật ngữ về di cư. NXB. Tổ chức Di cư quốc tế, Thụy Sĩ.
91. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh hôn nhân và gia
đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, Hà Nội.
92. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2000), Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất
cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
93. Lê Quang Thành (2012), Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài thực hiện, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 2-2012.
172
94. GS Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam – lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
95. Lê Văn Thắng (2006), Tăng cường biện pháp nắm tình hình phục vụ
công tác quản lý người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam hiện nay, Tạp chí Công
an nhân dân, số 5-2006.
96. Tô Hiến Thà (2008), Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, tạp chí Lao động và xã hội, Tạp chí Lao động và xã hội, Hà Nội.
97. Tô Hiến Thà (2009), Sự vận động của dòng vốn FDI quốc tế và một
số đề xuất đẩy mạnh thu hút FDI ở Việt Nam, Tạp chí Châu Á ngày nay, Hà Nội.
98. Ngô Phúc Thịnh (2002), Quản lý nhà nước về an ninh đối với người
nước ngoài tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện An ninh nhân dân,
Hà Nội.
99. Phan Quang Thịnh (2015), Người nước ngoài vi phạm pháp luật về
cư trú tại các tỉnh, thành phố phía Nam và một số vấn đề đặt ra đối với công tác
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, Thành phố Hồ Chí Minh.
100. Phan Quang Thịnh (2013), Đặc điểm vi phạm pháp luật về cư trú của
người nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học và Giáo dục An
ninh, số 30 – 5/2013.
101. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1959), Quy định việc người nước ngoài đăng ký khi đến Việt Nam, Hà Nội.
102. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1998), Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg ngày 23 tháng 02 năm 1998 về việc phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam giai đoạn từ nay đến năm 2010, Hà Nội.
103. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2004), Quyết định số 146/2004/QĐ-TTg về phương hướng chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm đến năm 2010 tầm nhìn năm 2020, thay
thế Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg, Hà Nội.
173
104. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2016), Quyết định 145/QĐ-TTg ngày 20/1/2016 Quyết định phê duyệt Chiến
lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030, Hà Nội.
105. PGS, TS Lê Thông (2006), Đại lý ba vùng kinh tế trọng điểm ở Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
106. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (1995), Nxb Lao Động, Hà
Nội.
107. GS Đoàn Trọng Truyến (1992), Từ điển Pháp – Việt – Pháp luật
Hành chính, Nxb Thế giới, Hà Nội.
108. Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Lao động di trú trong pháp luật quốc tế
và Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
109. Nguyễn Danh Vấn (1998), Công tác quản lý người nước ngoài ở khu
chế xuất Tân Thuận, Đại học An ninh nhân dân, 1998
110. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Sự Thật, Hà
Nội.
111. PGS. TS Ngô Doãn Vịnh (2003), Nghiên cứu chiến lược và Quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
112. Hoàng Yến, Công Sơn, Kiều Anh, Thạc Phương (2004), tài liệu dịch
Di chuyển con người để cung cấp dịch vụ, Hà Nội.
113. Tiểu nhóm nhân sự Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (2014), Khảo
sát việc sử dụng lao động nước ngoài, Hà Nội.
TIẾNG ANH
114. Australia government publishing service (1988), Immigration: A
commitment to Australia: The report of the committee to advice on Australia’s
immigration policies, Canberra.
115. ADBI (2014), Labor Migration, Skills & Student Mobility in Asia,
Manila.
174
116. BMRB (2015), The impacts of migrant workers on UK businesses,
UK.
117. David W. Stewart (1993), Immigration and education: The crisis
and the opportunities, Lexington books, New York.
118. Debra L. Delaet(2000), U.S. Immigration policy in an age of right,
Prarger.
119. Erica Marat (2009), Labor migration in Central Asia Implications
of the global economic crisis.
120. ILO (1996), Protecting the least protected: Rights of migrant
workers and the role of trade unions: Guidelines for trade unions. Labour
education 1996/2, Geneva.
121. IOM (2012), Labour Migration & Human Development, Geneva.
122. Marthe Handa Myhre (2012), Labour Migration from Central Asia
to Russia: State Management of Migration, University of Oslo.
123. Nicola
Piper
(2007), Governance
of migration
and
transnationalisation of migrants’ Rights – An organizational perspective.
124. MEF
(Malaysian Employers Federation)
(2014), Practical
Guidelines for on the Employers on the Recuitment, Placement, Employement
and Repatriation of Foreign Workers in Malaysia.
125. Prepared for the use of the Committee on the Judiciary of the
House of representatives (1992), Immigration and Nationality Act: (As amended
through April 1, 1992) with notes and related laws, William S. Hein & Co., New
York.
126. Robert E. B. Lucas (2008), International Labor Migration in a
Globalizing Economy.
127. Spencer Abraham, Lee H. Hamilton (2006), Immigration and
America’s future: A new chapter.
128. Tatiana Nikolaevna Yudina, Labour Migration into Russia: The
Response of State an Society.
175
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1 Nguồn: Alat Địa lý Việt Nam
1
Phụ lục 2
THỨ TỰ PHIẾU CBQLNN ______
MẪU PHIẾU
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN VỀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM
Xin chào đồng chí, Chúng tôi xin tự giới thiệu chúng tôi là Nhóm nghiên cứu đến từ Trường Đại học An Ninh Nhân Dân. Rất hân hạnh được gặp đồng chí. Hiện chúng tôi đang làm một nghiên cứu nhỏ liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Mục đích của nghiên cứu nhằm thăm dò và nắm bắt tình hình quản lý đối với lao động nước ngoài, đồng thời xin được lắng nghe ý kiến của các đồng chí về vấn đề này hiện nay ra sao. Vì những lý do đó, chúng tôi xin phép mời đồng chí tham gia vào cuộc nghiên cứu bằng cách trả lời một số câu hỏi cũng như chia sẻ những suy nghĩ, cảm nhận của mình về vấn đề nêu trên. Những thông tin thu thập chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học. Sự tham gia của đồng chí vào cuộc nghiên cứu sẽ hỗ trợ nhóm chúng tôi rất nhiều trong việc hoàn thành nghiên cứu của mình và đóng góp một phần công sức nhỏ bé phản ánh một số khía cạnh liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài. Từ đó, nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra những khuyến nghị ban đầu để các nhà quản lý, hoạch định chính sách tham khảo và có biện pháp hoàn thiện, đổi mới. Những thông tin đồng chí cung cấp sẽ được bảo mật, đặc biệt là những thông tin cá nhân như tên, địa chỉ nơi ở sẽ để khuyết và được thay đổi khi đưa vào báo cáo. Rất mong nhận được sự nhiệt tình hợp tác của quý đồng chí. Chân thành cám ơn! Địa điểm PV: .................................................................................................................... Thời gian PV: ……………giờ, ngày………..….tháng……………năm ………………….
Họ tên & chữ ký phỏng vấn viên: ..................................................................................... Họ tên & chữ ký người kiểm soát phiếu: ...........................................................................
TP. HCM, tháng…….năm 2017
2
THÔNG TIN CÁ NHÂN Vui lòng ghi số vào năm sinh và đánh dấu X vào bên phải các ô vuông có sẵn tương ứng
với thông tin đồng chí lựa chọn. C1. Năm sinh:……………….
C2. Giới tính 1. Nam
1 2. Nữ
2
C3. Dân tộc 1. Kinh
5. Nùng
2. Khmer 3. Xtiêng
6. Tày 7. Khác (ghi rõ):…………….
5 6 7
4. Hoa
1 2 3 4
C4. Trình độ học vấn
C4.1. Trình độ học vấn dành cho cán bộ Công an 1. Trung học AN, CS 2. Đại học, Cao đẳng ngoài ngành đã học nghiệp vụ 3. Đại học, Cao đẳng ngoài ngành chưa học nghiệp vụ 4. Đại học, Cao đẳng AN, CS 5. Sau Đại học
1 2 3 4 5
C4.1. Trình độ học vấn dành cho cán bộ Sở LĐTB&XH, Ban QL Khu công nghiệp… 1. Trung học 2. Đại học (ngành)………………………………….. 3. Cao đẳng (ngành)………………………………… 4. Sau Đại học (ngành) ……………………………..
1 2 3 4
C5. Thâm niên công tác 1. Dưới 5 năm 2. Từ 5-10 năm 3. Trên 10 năm
1 2 3
C6. Chức vụ hiện tại 1. Lãnh đạo phòng 2. Chỉ huy đội (tổ) 3. Cán bộ, nhân viên
4. Khác (ghi rõ):……………………………………
1 2 3 4
3
C7. Nơi công tác 1.Bà Rịa – Vũng Tàu
2. Bình Dương 3. Bình Phước
4. Đồng Nai 5. Long An
6. Thành phố Hồ Chí Minh 7. Tây Ninh
1 2 3 4 5 6 7 8
8. Tiền Giang I.
NỘI DUNG
1
2
3
4
1
2
3
4
1
2
3
4
5
6
Vui lòng đánh dấu X vào bên phải các ô vuông có sẵn tương ứng với thông tin đồng chí lựa chọn. C8. Đồng chí đánh giá như thế nào về sự đóng góp của lực lượng người lao động nước ngoài cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương hiện nay? 1. Rất tích cực 2. Tích cực 3. Hạn chế 4. Không đóng góp C9. Đồng chí đánh giá như thế nào về tình hình người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian qua? 1. Rất phức tạp 2. Phức tạp 3. Bình thường 4. Không đáng lo ngại C10. Đồng chí đánh giá như thế nào về thủ đoạn vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài trong thời gian qua? 1. Bình thường, kiểm soát được 2. Khá tinh vi, xảo quyệt, nhưng kiểm soát được 3. Tinh vi, xảo quyệt, khó phát hiện 4. Rất tinh vi, rất khó phát hiện 5. Cực kỳ tinh vi, không kiểm soát được, phát hiện do may mắn, tình cờ 6. Khác (ghi rõ):…………………………………………………………. C11. Nguyên nhân nào dẫn đến hoạt động vi phạm pháp luật của người nước ngoài (có thể chọn nhiều phương án)?
1
4
1. Do bất cập, sơ hở trong công tác quản lý
2
3
6
9
10
11
12
1
2
3
1
2
1
2
3
4
5
2. Phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ, thống nhất 3. Cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài có liên quan thiếu hợp tác 4. Xử lý nhẹ, không đủ sức răn đe 4 5. Lực lượng chuyên trách còn mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế 5 6. Trình độ, năng lực cán bộ chuyên trách còn hạn chế 7. Cơ quan mời, bảo lãnh thiếu trách nhiệm 7 8. Có biểu hiện buông lỏng, ngại đụng chạm đến vấn đề này, xử lý qua loa 8 9. Công tác vận động quần chúng tố giác hành vi vi phạm còn hạn chế 10. Thiếu cơ sở vật chất để xử lý, giải quyết hành vi vi phạm 11. Thiếu cơ sở pháp lý điều chỉnh hành vi vi phạm 12. Nguyên nhân khác (ghi rõ):…….......................................................
C12. Theo đồng chí, sự bất cập trong công tác tổ chức bộ máy ở cơ sở hiện nay có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện nay? 1. Có 2. Không 3. Không biết C13. Đồng chí có ý kiến như thế nào về việc triển khai các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay có hiệu quả không? 1. Có. 2. Không. C14. Theo đồng chí, số lượng và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài các cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở có ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện nay? 1. Ảnh hưởng rất lớn 2. Ảnh hưởng lớn 3. Ảnh hưởng khá lớn 4. Ảnh hưởng nhỏ 5. Không ảnh hường gì
5
C15. Đánh giá về thể chế quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài ở Việt Nam
Mức độ đánh giá
Nội dung
Rất đồng ý
Đồng ý
Không đồng ý
Rất không đồng ý
Không biết
4 5 1 2 3
4 5 1 2 3
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
C15.1. Bước đầu đã tạo lập được khung pháp lý để quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam C15.2. Văn bản quy phạm pháp luật về lao động nước ngoài có tính khả thi C15.3. Chế tài xử lý vi phạm đối với người lao động nước ngoài chưa đủ mạnh C15.4. Có chế tài xử lý nhưng khi thực hiện lại chỉ dừng ở mức “nhắc nhở” C15.5. Thiếu tính đồng bộ giữa một số văn bản quy định trong quản lý đối với người lao động nước ngoài C15.6. Có quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong triển khai các hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài nhưng chưa cụ thể C16. Đánh giá về việc thực thi trách nhiệm của các cơ quan sau ở địa phương các đồng chí đối với các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
Các cơ quan tại địa phương
Tốt
Yếu
Rất tốt
Mức độ đánh giá Bình thường
Khó đánh giá 4 5 4 5 4 5
1 2 3 1 2 3 1 2 3
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
C16.1. Hội đồng nhân dân C16.2. Ủy ban nhân dân C16.3. Cơ quan Công an C16.4. Sở Lao Động, Thương Binh và Xã Hội C16.5. Ban Quản lý các Khu công nghiệp C16.6. Những người sử dụng lao động nước ngoài C17. Đánh giá về công tác tham mưu, hướng dẫn thực hiện các chính sách, quy định
pháp luật về lao động nước ngoài C17.1. Về mức độ kịp thời
1
2
3
6
1. Bình thường 2. Chưa kịp thời 3. Kịp thời
4
5
4. Rất kịp thời, đã dự báo chính xác 5. Khó đánh giá
C17.2. Về chất lượng, hiệu quả chung
1
2
3
4
5
1. Kém hiệu quả 2. Bình thường 3. Tốt, hiệu quả 4. Rất tốt, hiệu quả cao 5. Khó đánh giá
C17.3. Nguyên nhân hạn chế, không hiệu quả (có thể chọn nhiều phương án)
1
2
3
4
5
1. Do tình hình chung diễn biến phức tạp 2. Do trình độ, năng lực cán bộ chưa nhạy bén, theo kịp tình hình 3. Do hạn chế trong phòng ngừa, phát hiện, nắm tình hình 4. Do thiếu cơ sở pháp lý cần thiết 5. Khác (ghi rõ): …………………………………………………………
C18. Đánh giá đối với việc triển khai tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các chính sách, quy định pháp luật Việt Nam về lao động nước ngoài
Mức độ đánh giá
Nội dung
Rất đồng ý
Đồng ý
Không đồng ý
Rất không đồng ý
Không biết
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
C18.1. Tổ chức các hoạt động truyền thông chưa được thường xuyên C18.2. Các hoạt động tuyên truyền còn chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng C18.3. Các tài liệu tuyên truyền chưa phong phú C18.4. Các hình thức tuyên truyền chưa đa dạng C18.5. Chưa cung cấp kịp thời, đẩy đủ thông tin về các quy định mới của pháp luật cho người lao động nước ngoài C18.6. Cán bộ tuyên truyền hạn chế về ngoại ngữ nên ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền C18.7. Các doanh nghiệp có người lao động nước ngoài làm việc không hợp tác trong công tác tuyên truyền C18.8. Người lao động nước ngoài ít tham gia vào các buổi tuyên truyền
7
C19. Đánh giá về công tác phòng ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài
Mức độ đánh giá
Nội dung
Rất tốt
Tốt
Khá
Yếu
Bình thương
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
C19.1. Đánh giá chung về công tác phòng ngừa C19.2. Đánh giá hiệu quả công tác phát hiện C19.3. Những khó khăn, hạn chế trong công tác phòng ngừa, phát hiện là do các nguyên nhân nào sau đây (có thể chọn nhiều phương án)
1
2
3
4
5
6
7
8
1. Thủ đoạn vi phạm của đối tượng ngày càng tinh vi, phức tạp 2. Sự hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan chức năng chưa tốt 3. Vai trò của quần chúng phát huy chưa nhiều 4. Thiếu cơ sở pháp lý để răn đe, phòng ngừa 5. Do địa bàn rộng, khó kiểm soát 6. Do lực lượng mỏng và yếu 7. Các mặt công tác nghiệp vụ chưa phát huy hết hiệu quả 8. Khác (ghi rõ):…………………………………………..
C20. Đánh giá về công tác kiểm tra, xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam C20.1. Hiệu quả công tác kiểm tra
1
2
3
1. Đạt hiệu quả cao 2. Tạm được 3. Không hiệu quả
C20.2. Nguyên nhân hạn chế trong công tác kiểm tra
1
2
3
4
5
6
7
1. Do không kịp thời 2. Do trình độ, năng lực cán bộ quản lý 3. Do lực lượng còn thiếu 4. Do địa bàn rộng 5. Do đối tượng chủ động đối phó 6. Do người dân thiếu hợp tác, dung túng, bao che 7. Nguyên nhân khác
C20.3. Đánh giá hiệu quả xử lý
1
2
3
4
8
1. Hiệu quả cao, đủ sức phòng ngừa, răn đe 2. Tạm được 3. Hiệu quả không cao, chưa đủ sức phòng ngừa, răn đe 4. Kém
5
5. Khó đánh giá
C20.4. Nguyên nhân hạn chế, khó khăn trong xử lý (có thể chọn nhiều phương án)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1. Do ảnh hưởng của yếu tố ngoại giao 2. Thiếu cơ sở pháp lý 3. Thiếu biện pháp đủ sức răn đe 4. Thiếu cơ sở vật chất để phục vụ xử lý 5. Do trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế 6. Do bất đồng ngôn ngữ 7. Do đối tượng không hợp tác, dùng thủ đoạn đối phó 8. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong xử lý còn hạn chế 9. Cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài có liên quan thiếu hợp tác 10. Khác (ghi rõ):………………………………………………………
C21. Đồng chí cho biết ý kiến của mình về hình thức xử phạt đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được quy định tại Điều 22, Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Mức độ xử phạt
Nội dung
Mạnh
Rất mạnh
Đủ mạnh
Chưa đủ mạnh
Khó đánh giá
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
C21.1. Về hình thức xử phạt (trục xuất, phạt tiền, đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp) C21.2. Về mức phạt (tiền, thời gian chịu phạt…)
C22. Đồng chí cho biết ý kiến về hình thức xử phạt đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam vi phạm các quy định tại Điều 17. Vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
Mức độ xử phạt
Nội dung
Mạnh
Rất mạnh
Đủ mạnh
Chưa đủ mạnh
Khó đánh giá
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
C2.1. Về hình thức xử phạt (trục xuất, phạt tiền, cảnh cáo) C22.2. Về mức phạt (tiền, thời gian chịu phạt…)
9
C23. Đánh giá về sự phối kết hợp giữa các lực lượng trong ngành công an quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài C23.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong ngành công an
1
2
3
4
5
1. Rất chặt chẽ và hiệu quả 2. Tạm được 3. Chưa chặt chẽ, hiệu quả 4. Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng 5. Kém
C23.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các lực lượng trong ngành công an (có thể chọn nhiều phương án)
1
2
3
4
5
1. Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ 2. Thiếu sự tin cậy, trao đổi 3. Do lực lượng liên quan chưa thật sự quan tâm 4. Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia 5. Khác (ghi rõ):………………………………………………….
C24. Đánh giá về sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài C24.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an
1
2
3
4
5
1. Rất chặt chẽ và hiệu quả 2. Tạm được 3. Chưa chặt chẽ, hiệu quả 4. Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng 5. Kém
C24.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an (có thể chọn nhiều phương án)
1
2
3
4
5
6
7
1. Thiếu cơ sở pháp lý liên quan 2. Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ 3. Thiếu sự tin cậy, trao đổi 4. Do cơ quan chức năng liên quan chưa thật sự quan tâm 5. Do các cơ quan liên quan không tích cực, né tránh 6. Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia 7. Khác (ghi rõ):………………………………………
C25. Đánh giá về sự phối hợp giữa các địa phương trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam (Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Tiền Giang) C25.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các địa phương trong vùng
10
1. Rất chặt chẽ và hiệu quả 2. Tạm được 3. Chưa chặt chẽ, hiệu quả 4. Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng 5. Kém 6. Ít phối hợp 7. Chưa từng phối hợp
1 2 3 4 5 6 7 C25.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các địa phương trong vùng (có thể chọn nhiều phương án)
1 2 3
1. Thiếu cơ sở pháp lý liên quan 2. Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ 3. Thiếu sự tin cậy, trao đổi 4. Do cơ quan chức năng liên quan của từng địa phương chưa thật sự quan tâm
4 5. Do các cơ quan liên quan không tích cực, né tránh 5 6. Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia 6 7. Nguyên nhân khác:……………………………………………………… 7 C26. Vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài trong thời gian tới sẽ như thế nào?
1 2 3 4 5
1. Bị hạn chế và loại trừ 2. Bình thường 3. Phức tạp, nhưng từng bước kiểm soát được 4. Ngày càng phức tạp, khó kiểm soát 5. Rất phức tạp, không kiểm soát được
C27. Tình hình người lao động nước ngoài trong thời gian tới tại các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam như thế nào?
1 2 3 4 5
1. Bình thường 2. Giảm 3. Tăng nhanh 4. Tăng chậm 5. Khó dự đoán
C28. Giải pháp nào sau đây giúp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài? (có thể chọn nhiều phương án)
1 2
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam 4. Củng cố, tăng cường quan hệ đối ngoại 5. Củng cố, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện 6. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý 7. Phát huy vai trò, hiệu quả các mặt công tác công an. 8. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với người nước ngoài 9. Hoàn thiện bộ máy tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ 10. Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác quản lý 11. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 12. Khác (ghi rõ):……………………………………………
11
1. Xây dựng, hoạch định và quản lý các chiến lược chính sách 2. Hoàn thiện hành lang pháp lý 3. Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các địa
C29. Vấn đề hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài C29.1. Hạn chế trong hoàn thiện hành lang pháp lý thời gian qua do nguyên nhân
nào? (có thể chọn nhiều phương án)
3
thiếu thống nhất
4
5
6
5. Cơ chế quản lý còn thiếu tập trung, phân tán, chia cắt 6. Nguyên nhân khác:……………………………………
1. Nhiều vấn đề lý luận liên quan chưa được nghiên cứu cơ bản, hệ thống 1 2. Chưa đổi mới tư duy, chưa theo kịp diễn biến thực tế 2 3. Thực tiễn chưa được tổng kết, đánh giá toàn diện, khoa học 4. Việc bổ sung, sửa đổi văn bản pháp luật liên quan mang nặng giải pháp tình thế,
C29.2. Hướng bổ sung hoàn thiện như thế nào? (có thể chọn nhiều phương án)
1
ngoài
1. Xây dựng chương trình, kế hoạch hoàn thiện pháp luật đối với người lao động nước
ngoài
2
3
3. Xây dựng Luật về người lao động nước ngoài tại Việt Nam 4. Hoàn thiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực lao động nước ngoài tại Việt Nam
4
2. Rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đối với người lao động nước
5
quan chức năng liên quan
5. Ban hành những quy định thống nhất, rõ ràng về thẩm quyền, chức năng của các cơ
6
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
6. Thực hiện triển khai các đề tài nghiên cứu để tổng kết lý luận và thực tiễn trong
động nước ngoài
7. Đưa ra hướng dự báo khoa học về sự phát triển của pháp luật trong lĩnh vực lao
7 8. Khác (ghi rõ):……………………………………………………………… 8 C30. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng? (có thể chọn nhiều phương án)
nước ngoài
3
1 2. Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch phối hợp rõ ràng, cụ thể, thống nhất 2 3. Nâng cao hiệu quả sơ kết, tổng kết phối hợp 4. Phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong thông báo, trao đổi thông tin, nắm tình hình
4
5
5. Phối hợp chặt chẽ trong phòng ngừa, phát hiện 6. Tăng cường phối hợp trong kiểm tra, xử lý 6 7. Thống nhất về cách xử lý, dự trù phương án ngăn chặn tình huống xấu 7
12
1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý trong phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động
8. Có cơ chế tổ chức thực hiện và kiểm tra việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng
8 9. Khác:…………………………………………………………………… 9 C31. Theo đồng chí, để tăng cường quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam hiện nay thì Đảng, Nhà nước
(các Bộ, Ngành, chính quyền địa phương các cấp)… cần làm những việc gì? - Tổ chức Đảng các cấp: ..................................................................................................
- Chính phủ: .................................................................................................................... - Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội: ........................................................................
- Bộ Công an: .................................................................................................................. - Bộ Ngoại giao: .............................................................................................................
- UBND các tỉnh: ............................................................................................................ - Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội: ......................................................................... - Cơ quan Công an địa phương: ....................................................................................... - Ban Quản lý các KCN: .................................................................................................. - Khác: ............................................................................................................................
Câu 32. Ý kiến riêng mang tính cá nhân của đồng chí về những khó khăn, thuận lợi, cách thức, giải pháp… trong quản lý nhà nước nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam? Khó khăn: ........................................................................................................................ ........................................................................................................................................ ........................................................................................................................................ Thuận lợi: ........................................................................................................................ ........................................................................................................................................ Cách thức: ....................................................................................................................... ........................................................................................................................................ Giải pháp: ........................................................................................................................ ........................................................................................................................................
........................................................................................................................................ ........................................................................................................................................
Chúng tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của đồng chí!
13
Phụ lục 3
TỔNG HỢP KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC DÀNH CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ TRONG NGÀNH CÔNG AN
C2. Giới tính
Câu trả lời
Nam Nữ
TỔNG Số lượng 259 121 380 Phần trăm 68,2 31,8 100,0
C3. Dân tộc
Câu trả lời
Kinh Khmer
TỔNG Số lượng 379 1 380 Phần trăm 99,7 0,3 100,0
C4. Trình độ học vấn
Câu trả lời
C4.1. Trình độ học vấn dành cho cán bộ Công an Số lượng 37 Phần trăm 9,7 Trung học AN, CS
Đại học, Cao đẳng ngoài ngành đã học nghiệp vụ 150 39,5
Đại học, Cao đẳng ngoài ngành chưa học nghiệp vụ 20 5,3
Đại học, Cao đẳng AN, CS Sau Đại học
TỔNG 148 25 380 38,9 6,6 100,0
C5. Thâm niên công tác
Câu trả lời
Dưới 5 năm Từ 5-10 năm Trên 10 năm
14
TỔNG Số lượng 31 130 219 380 Phần trăm 8,2 34,2 57,6 100,0
C6. Chức vụ hiện tại
Câu trả lời
Lãnh đạo phòng Chỉ huy đội Cán bộ, giáo viên Khác
TỔNG Số lượng 24 89 257 10 380 Phần trăm 6,3 23,4 67,6 2,6 100,0
C7. Nơi công tác
Câu trả lời
Bình Dương Đồng Nai Thành phố Hồ Chí Minh Tây Ninh
TỔNG Số lượng 71 70 238 1 380 Phần trăm 18,7 18,4 62,6 0,3 100,0
C8. Đồng chí đánh giá như thế nào về sự đóng góp của lực lượng người lao động nước ngoài cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương hiện nay?
Câu trả lời
Rất tích cực Tích cực Khá tích cực Hạn chế
TỔNG Số lượng 60 266 47 7 380 Phần trăm 15,8 70,0 12,4 1,8 100,0
C9. Đồng chí đánh giá như thế nào về tình hình người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian qua?
Câu trả lời
Rất phức tạp Phức tạp Khá phức tạp Bình thường
TỔNG Số lượng 85 230 61 4 380 Phần trăm 22,4 60,5 16,1 1,1 100,0
15
C10. Đồng chí đánh giá như thế nào về thủ đoạn vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài trong thời gian qua?
Câu trả lời
Bình thường, kiểm soát được Số lượng 52 Phần trăm 13,7
Khá tinh vi, xảo quyệt, nhưng kiểm soát được 185 48,7
100 25 26,3 6,6
15 3,9
Tinh vi, xảo quyệt, khó phát hiện Rất tinh vi, rất khó phát hiện Cực kỳ tinh vi, không kiểm soát được, phát hiện do may mắn, tình cờ Khác
TỔNG 3 380 0,8 100,0
C11. Nguyên nhân nào dẫn đến hoạt động vi phạm pháp luật của người nước
ngoài
Số lượng
Phần trăm (trên 380) 61,8% 235
301 79,2% Do bất cập, sơ hở trong công tác quản lý. Phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ, thống nhất
102 26,8%
224 58,9%
190 50,0% Cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài có liên quan thiếu hợp tác Xử lý nhẹ, không đủ sức răn đe Lực lượng chuyên trách còn mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế
140 36,8%
194 51,1%
55 14,5% Trình độ, năng lực cán bộ chuyên trách còn hạn chế Cơ quan mời, bảo lãnh thiếu trách nhiệm Có biểu hiện buông lỏng, ngại đụng chạm đến vấn đề này, xử lý qua loa
96 25,3% Công tác vận động quần chúng tố giác hành vi vi phạm còn hạn chế
69 18,2% Thiếu cơ sở vật chất để xử lý, giải quyết hành vi vi phạm
89 23,4%
Thiếu cơ sở pháp lý điều chỉnh hành vi vi phạm Nguyên nhân khác 11 2,9%
16
C12. Nguyên nhân nào dẫn đến hoạt động VP pháp luật của người nước ngoài
Câu trả lời
Có Không Không biết
TỔNG Số lượng 327 31 22 380 Phần trăm 86,1 8,2 5,8 100,0
C13. Theo đồng chí, sự bất cập trong công tác tác tổ chức bộ máy ở cơ sở hiện
nay có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện nay?
Câu trả lời
Có Không
TỔNG Số lượng 337 43 380 Phần trăm 88,7 11,3 100,0
C14. Đồng chí có ý kiến như thế nào về việc triển khai các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay có hiệu quả không?
Câu trả lời
Ảnh hưởng rất lớn Ảnh hưởng lớn Ảnh hưởng khá lớn Ảnh hưởng nhỏ
TỔNG Số lượng 118 154 99 9 380 Phần trăm 31,1 40,5 26,1 2,4 100,0
C15. Theo đồng chí, số lượng và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với người LĐNN các cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở có ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện nay?
C15.1. Bước đầu đã tạo lập được khung pháp lý để quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết
TỔNG 55 319 4 2 380 14,5 83,9 1,1 0,5 100,0
17
C15.2. Văn bản quy phạm pháp luật về lao động nước ngoài có tính khả thi
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết
Số lượng 31 310 30 9 380 TỔNG
Phần trăm 8,2 81,6 7,9 2,4 100,0 C15.3. Chế tài xử lý vi phạm đối với người lao động nước ngoài chưa đủ mạnh
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết
TỔNG Số lượng 69 258 46 7 380 Phần trăm 18,2 67,9 12,1 1,8 100,0
C15.4. Có chế tài xử lý nhưng khi thực hiện lại chỉ dừng ở mức “nhắc nhở”
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
Số lượng 39 166 155 5 15 380 TỔNG
Phần trăm 10,3 43,7 40,8 1,3 3,9 100,0 C15.5. Tính đồng bộ giữa một số văn bản quy định trong quản lý đối với người lao động nước ngoài
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
Số lượng 13 249 82 3 33 380 Phần trăm 3,4 65,5 21,6 0,8 8,7 100,0 TỔNG
18
C15.6. Có quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong triển khai các hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài nhưng chưa cụ thể
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
TỔNG Số lượng 51 261 52 1 15 380 Phần trăm 13,4 68,7 13,7 0,3 3,9 100,0
C16. Đánh giá về việc thực thi trách nhiệm của các cơ quan sau ở địa phương các đồng chí đối với các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài
C16.1. Hội đồng nhân dân
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Bình thường Yếu Khó đánh giá
TỔNG Số lượng 25 120 161 11 63 380 Phần trăm 6,6 31,6 42,4 2,9 16,6 100,0
C16.2. Ủy ban nhân dân
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Bình thường Yếu Khó đánh giá
TỔNG Số lượng 21 153 150 19 37 380 Phần trăm 5,5 40,3 39,5 5,0 9,7 100,0
C16.3. Cơ quan Công an
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Bình thường Yếu Khó đánh giá
19
TỔNG Số lượng 52 226 84 6 12 380 Phần trăm 13,7 59,5 22,1 1,6 3,2 100,0
C16.4. Sở Lao Động, Thương Binh và Xã Hội
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Bình thường Yếu Khó đánh giá
TỔNG Số lượng 11 181 158 19 11 380 Phần trăm 2,9 47,6 41,6 5,0 2,9 100,0
C16.5. Ban Quản lý các Khu công nghiệp
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Bình thường Yếu Khó đánh giá
TỔNG Phần trăm 3,9 33,7 50,3 8,4 3,7 100,0
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Bình thường Yếu Khó đánh giá
Số lượng 15 128 191 32 14 380 C16.7. Những người sử dụng lao động nước ngoài Số lượng 3 74 184 88 31 380 TỔNG Phần trăm ,8 19,5 48,4 23,2 8,2 100,0
C17. Đánh giá về công tác tham mưu, hướng dẫn thực hiện các chính sách, quy định pháp luật về lao động nước ngoài
C17.1. Về mức độ kịp thời
Câu trả lời
20
Bình thường Chưa kịp thời Kịp thời Rất kịp thời, đã dự báo chính xác Số lượng 140 94 113 9 Phần trăm 36,8 24,7 29,7 2,4
Khó đánh giá
TỔNG 24 380 6,3 100,0
C17.2. Về chất lượng, hiệu quả chung
Câu trả lời
Kém hiệu quả Bình thường Tốt, hiệu quả Rất tốt, hiệu quả cao Khó đánh giá
TỔNG Số lượng 32 225 92 3 28 380 Phần trăm 8,4 59,2 24,2 0,8 7,4 100,0
C17.3. Nguyên nhân hạn chế, không hiệu quả
Số lượng Phần trăm
Do tình hình chung diễn biến phức tạp 252 66,3%
220 57,9%
234 61,6% Do trình độ, năng lực cán bộ chưa nhạy bén, theo kịp tình hình Do hạn chế trong phòng ngừa, phát hiện, nắm tình hình
Do thiếu cơ sở pháp lý cần thiết 144 37,9%
Khác 17 4,5%
C18. Đánh giá đối với việc triển khai tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các chính sách, quy định pháp luật Việt Nam về lao động nước ngoài
C18.1. Tổ chức các hoạt động truyền thông chưa được thường xuyên
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết
TỔNG Số lượng 45 280 48 7 380 Phần trăm 11,8 73,7 12,6 1,8 100,0
C18.2. Các hoạt động tuyên truyền còn chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng
21
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
TỔNG 5,8 83,2 6,6 2,1 2,4 100,0
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết
22 316 25 8 9 380 C18.3 Các tài liệu tuyên truyền chưa phong phú Số lượng 41 292 38 9 380 TỔNG Phần trăm 10,8 76,8 10,0 2,4 100,0
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết
TỔNG C18.4. Các hình thức tuyên truyền chưa đa dạng Số lượng 31 300 46 3 380
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
Phần trăm 8,2 78,9 12,1 0,8 100,0 C18.5. Chưa cung cấp kịp thời, đẩy đủ thông tin về các quy định mới của pháp luật cho người lao động nước ngoài Số lượng 30 243 82 13 12 380 Phần trăm 7,9 63,9 21,6 3,4 3,2 100,0 TỔNG
C18.6. Cán bộ tuyên truyền hạn chế về ngoại ngữ nên ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền
22
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
TỔNG 57 235 70 13 5 380 15,0 61,8 18,4 3,4 1,3 100,0
C18.7. Các doanh nghiệp có người lao động nước ngoài làm việc không hợp tác trong công tác tuyên truyền
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
Số lượng 11 216 127 13 13 380 TỔNG
Phần trăm 2,9 56,8 33,4 3,4 3,4 100,0 C18.8. Người lao động nước ngoài ít tham gia vào các buổi tuyên truyền
Câu trả lời
Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý Không biết
23
TỔNG Số lượng 39 280 47 2 12 380 Phần trăm 10,3 73,7 12,4 0,5 3,2 100,0
C19. Đánh giá về công tác phòng ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật của người
lao động nước ngoài
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Khá Bình thường Yếu
C19.1. Đánh giá chung về công tác phòng ngừa Số lượng 9 145 125 84 17 380 TỔNG Phần trăm 2,4 38,2 32,9 22,1 4,5 100,0
C19.2. Đánh giá hiệu quả công tác phát hiện
Câu trả lời
Rất tốt Tốt Khá Bình thường Yếu
TỔNG Số lượng 13 123 133 92 19 380 Phần trăm 3,4 32,4 35,0 24,2 5,0 100,0
C19.3. Những khó khăn, hạn chế trong công tác phòng ngừa, phát hiện là do các nguyên nhân nào sau đây
Số lượng Phần trăm (trên 380)
296 77,9% Thủ đoạn vi phạm của đối tượng ngày càng tinh vi, phức tạp
259 68,2%
198 52,1%
165 217 207 43,4% 57,1% 54,5%
162 42,6%
24
Sự hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan chức năng chưa tốt Vai trò của quần chúng phát huy chưa nhiều Thiếu cơ sở pháp lý để răn đe, phòng ngừa Do địa bàn rộng, khó kiểm soát Do lực lượng mỏng và yếu Các mặt công tác nghiệp vụ chưa phát huy hết hiệu quả Khác 10 2,6%
C20. Đánh giá về công tác kiểm tra, xử lý người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam
C20.1. Hiệu quả công tác kiểm tra
Câu trả lời Phần trăm
Đạt hiệu quả cao Tạm được Không hiệu quả
Số lượng 63 289 28 380 16,6 76,1 7,4 100,0
TỔNG C20.2. Nguyên nhân hạn chế trong công tác kiểm tra
Số lượng
Do không kịp thời Do trình độ, năng lực cán bộ quản lý Do lực lượng còn thiếu Do địa bàn rộng Do đối tượng chủ động đối phó Do người dân thiếu hợp tác, dung túng, bao che Nguyên nhân khác 182 140 214 221 183 102 8 Phần trăm (trên 380) 47,9% 36,8% 56,3% 58,2% 48,2% 26,8% 2,1%
C20.2. Đánh giá hiệu quả xử lý
Câu trả lời
Hiệu quả cao, đủ sức phòng ngừa, răn đe Tạm được Số lượng 36 205 Phần trăm 9,5 53,9
Hiệu quả không cao, chưa đủ sức phòng ngừa, răn đe 116 30,5
Kém Khó đánh giá
TỔNG 8 15 380 2,1 3,9 100,0
C20.4. Nguyên nhân hạn chế, khó khăn trong xử lý
Số lượng
25
Phần trăm (trên 380) 70,5% 32,4% 51,8% 268 123 197 Do ảnh hưởng của yếu tố ngoại giao Thiếu cơ sở pháp lý Thiếu biện pháp đủ sức răn đe
137 144 169 36,1% 37,9% 44,5%
183 48,2% Thiếu cơ sở vật chất để phục vụ xử lý Do trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế Do bất đồng ngôn ngữ Do đối tượng không hợp tác, dùng thủ đoạn đối phó
215 56,6% Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong xử lý còn hạn chế
95 25,0%
1,3% 5
Cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài có liên quan thiếu hợp tác Khác C21. Đồng chí cho biết ý kiến của mình về hình thức xử phạt đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được quy định tại Điều 22, Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
C21.1. Về hình thức xử phạt (trục xuất, phạt tiền, đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp)
Câu trả lời Phần trăm
Rất mạnh Mạnh Đủ mạnh Chưa đủ mạnh Khó đánh giá
Số lượng 14 56 148 143 19 380 3,7 14,7 38,9 37,6 5,0 100,0 TỔNG
C21.2. Về mức phạt (tiền, thời gian chịu phạt…)
Câu trả lời Phần trăm
Rất mạnh Mạnh Đủ mạnh Chưa đủ mạnh Khó đánh giá
26
Số lượng 9 42 105 190 34 380 2,4 11,1 27,6 50,0 8,9 100,0 TỔNG
C22. Đồng chí cho biết ý kiến của mình về hình thức xử phạt đối với người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam vi phạm các quy định tại Điều 17. Vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
C22.1. Về hình thức xử phạt (trục xuất, phạt tiền, cảnh cáo)
Câu trả lời Phần trăm
Rất mạnh Mạnh Đủ mạnh Chưa đủ mạnh Khó đánh giá
TỔNG Số lượng 4 49 146 165 16 380 1,1 12,9 38,4 43,4 4,2 100,0
C22.2. Về mức phạt (tiền, thời gian chịu phạt…)
Câu trả lời Phần trăm
Rất mạnh Mạnh Đủ mạnh Chưa đủ mạnh Khó đánh giá
TỔNG Số lượng 8 30 124 205 13 380 2,1 7,9 32,6 53,9 3,4 100,0
C23. Đánh giá về sự phối kết hợp giữa các lực lượng trong ngành công an quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
C23.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong ngành công an
Câu trả lời Phần trăm
Rất chặt chẽ và hiệu quả Tạm được Chưa chặt chẽ, hiệu quả Số lượng 82 210 53 21,6 55,3 13,9
Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng 33 8,7
Kém
27
TỔNG 2 380 0,5 100,0
C23.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các lực lượng trong
ngành công an
Số lượng
Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ Thiếu sự tin cậy, trao đổi Do lực lượng liên quan chưa thật sự quan tâm Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia Khác 217 118 156 92 28 Phần trăm (trên 380) 57,1% 31,1% 41,1% 24,2% 7,4%
C24. Đánh giá về sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
C24.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an
Câu trả lời Phần trăm
Rất chặt chẽ và hiệu quả Tạm được Chưa chặt chẽ, hiệu quả Số lượng 26 216 103 6,8 56,8 27,1
Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng 32 8,4
Kém
TỔNG 3 380 0,8 100,0
C24.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an
Số lượng Phần trăm
153 40.3% 271 71.3% 122 32.1%
198 52.1%
Thiếu cơ sở pháp lý liên quan Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ Thiếu sự tin cậy, trao đổi Do cơ quan chức năng liên quan chưa thật sự quan tâm Do các cơ quan liên quan không tích cực, né tránh Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia Khác 131 34.5% 110 28.9% 4.2% 16
28
C25. Đánh giá về sự phối hợp giữa các địa phương trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Việt Nam (Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Tiền Giang)
C25.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các địa phương trong vùng
Câu trả lời Phần trăm
Rất chặt chẽ và hiệu quả Tạm được Chưa chặt chẽ, hiệu quả Số lượng 26 216 103 6,8 56,8 27,1
Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng 32 8,4
Kém
3 380 0,8 100,0 TỔNG
C25.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các địa phương
Số lượng
Phần trăm (trên 380) 30,8% 78,9% 27,4% 117 300 104
46,1% 175
22,9% 17,9% 2,9% 87 68 11
Thiếu cơ sở pháp lý liên quan Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ Thiếu sự tin cậy, trao đổi Do cơ quan chức năng liên quan của từng địa phương chưa thật sự quan tâm Do các cơ quan liên quan không tích cực, né tránh Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia Nguyên nhân khác C26. Vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài trong thời gian tới sẽ như thế nào?
Câu trả lời
Bị hạn chế và loại trừ Bình thường Số lượng 13 38 Phần trăm 3,4 10,0
Phức tạp, nhưng từng bước kiểm soát được 226 59,5
29
Ngày càng phức tạp, khó kiểm soát Rất phức tạp, không kiểm soát được TỔNG 99 4 380 26,1 1,1 100,0
C27. Tình hình người lao động nước ngoài trong thời gian tới tại các địa
phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam như thế nào?
Câu trả lời
Bình thường Giảm Tăng nhanh Tăng chậm Khó dự đoán
TỔNG Số lượng 53 10 182 69 66 380 Phần trăm 13,9 2,6 47,9 18,2 17,4 100,0
C28. Giải pháp nào sau đây giúp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
252 66,3%
269 70,8%
296 77,9%
186 48,9%
278 73,2%
280 73,7%
266 70,0% Xây dựng, hoạch định và quản lý các chiến lược chính sách Hoàn thiện hành lang pháp lý Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam Củng cố, tăng cường quan hệ đối ngoại Củng cố, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý Phát huy vai trò, hiệu quả các mặt công tác công an.
263 69,2% Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với người nước ngoài
205 53,9% Hoàn thiện bộ máy tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
211 55,5% Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác quản lý
211 55,5%
30
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật Khác 10 2,6%
C29.1. Hạn chế trong hoàn thiện hành lang pháp lý thời gian qua do nguyên
nhân nào?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
162 42,6% Nhiều vấn đề lý luận liên quan chưa được nghiên cứu cơ bản, hệ thống
265 69,7% Chưa đổi mới tư duy, chưa theo kịp diễn biến thực tế
226 59,5% Thực tiễn chưa được tổng kết, đánh giá toàn diện, khoa học
249 65,5% Việc bổ sung, sửa đổi văn bản pháp luật liên quan mang nặng giải pháp tình thế, thiếu thống nhất
183 48,2%
Cơ chế quản lý còn thiếu tập trung, phân tán, chia cắt Nguyên nhân khác 19 5,0%
C29.2. Hướng bổ sung hoàn thiện như thế nào?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
242 63,7% Xây dựng chương trình, kế hoạch hoàn thiện pháp luật đối với người lao động nước ngoài
264 69,5% Rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài
256 67,4% Xây dựng Luật về người lao động nước ngoài tại Việt Nam
230 60,5% Hoàn thiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực lao động nước ngoài tại Việt Nam
251 66,1% Ban hành những quy định thống nhất, rõ ràng về thẩm quyền, chức năng của các cơ quan chức năng liên quan
161 42,4% Thực hiện triển khai các đề tài nghiên cứu để tổng kết lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
140 36,8%
31
Đưa ra hướng dự báo khoa học về sự phát triển của pháp luật trong lĩnh vực lao động nước ngoài Khác 12 3,2%
C30. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các cơ quan chức
năng?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
296 77,9% Hoàn thiện cơ sở pháp lý trong phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
287 75,5%
202 53,2%
264 69,5%
258 275 67,9% 72,4%
247 65,0% Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch phối hợp rõ ràng, cụ thể, thống nhất Nâng cao hiệu quả sơ kết, tổng kết phối hợp Phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong thông báo, trao đổi thông tin, nắm tình hình Phối hợp chặt chẽ trong phòng ngừa, phát hiện Tăng cường phối hợp trong kiểm tra, xử lý Thống nhất về cách xử lý, dự trù phương án ngăn chặn tình huống xấu
199 52,4%
32
Có cơ chế tổ chức thực hiện và kiểm tra việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng Khác 20 5,3%
Phụ lục 4
TỔNG HỢP KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC DÀNH CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ NGOÀI NGÀNH CÔNG AN
C2. Giới tính
Câu trả lời
Số lượng 32 Phần trăm 64,0 Nam
18 36,0 Nữ
50 100,0 TỔNG
C3. Dân tộc
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 50 100,0
Kinh Khmer
0 50 0 100,0 TỔNG
C4. Trình độ học vấn
C4.1. Trình độ học vấn dành cho cán bộ Sở LĐTB&XH, Ban QL Khu công nghiệp
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
Trung học 6 12,0
Đại học 32 64,0
Cao đẳng 7 14,0
Sau Đại học 5 10,0
Tổng 50 100,0
C5. Thâm niên công tác
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 2 4,0 Dưới 5 năm
16 32,0 Từ 5-10 năm
32 64,0 Trên 10 năm
33
50 100,0 TỔNG
C6. Chức vụ hiện tại
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 4 8,0 Lãnh đạo phòng
15 30,0 Chỉ huy đội
31 62,0
Cán bộ, giáo viên Khác
0 50 0,00 100,0 TỔNG
C7. Nơi công tác
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
Bình Dương 4 8,0
Đồng Nai 8 16,0
Thành phố Hồ Chí Minh 38 76,0
Tổng 50 100,0
C8. Đồng chí đánh giá như thế nào về sự đóng góp của lực lượng người lao động nước ngoài cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương hiện nay?
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 8 16,0 Rất tích cực
36 72,0 Tích cực
6 12,0 Khá tích cực
50 100,0 TỔNG
C9. Đồng chí đánh giá như thế nào về tình hình người lao động nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian qua?
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 11 22,0 Rất phức tạp
32 64,0 Phức tạp
7 14,0 Khá phức tạp
34
50 100,0 TỔNG
C10. Đồng chí đánh giá như thế nào về thủ đoạn vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài trong thời gian qua?
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 4 8,0
22 44,0
18 36,0 Bình thường, kiểm soát được Khá tinh vi, xảo quyệt, nhưng kiểm soát được Tinh vi, xảo quyệt, khó phát hiện
4 8,0
2 4,0 Rất tinh vi, rất khó phát hiện Cực kỳ tinh vi, không kiểm soát được, phát hiện do may mắn, tình cờ
50 100,0 TỔNG
C11. Nguyên nhân nào dẫn đến hoạt động vi phạm pháp luật của người nước ngoài
Số lượng
Phần trăm (trên 380) 61,8% 235
301 79,2% Do bất cập, sơ hở trong công tác quản lý. Phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ, thống nhất
102 26,8%
224 58,9%
190 50,0% Cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài có liên quan thiếu hợp tác Xử lý nhẹ, không đủ sức răn đe Lực lượng chuyên trách còn mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế
140 36,8%
194 51,1%
55 14,5%
96 25,3% Trình độ, năng lực cán bộ chuyên trách còn hạn chế Cơ quan mời, bảo lãnh thiếu trách nhiệm Có biểu hiện buông lỏng, ngại đụng chạm đến vấn đề này, xử lý qua loa Công tác vận động quần chúng tố giác hành vi vi phạm còn hạn chế
69 18,2%
89 23,4%
35
Thiếu cơ sở vật chất để xử lý, giải quyết hành vi vi phạm Thiếu cơ sở pháp lý điều chỉnh hành vi vi phạm Nguyên nhân khác 11 2,9%
C12. Nguyên nhân nào dẫn đến hoạt động vi phạm pháp luật của NNN
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 45 90,0 Có
3 6,0 Không
2 4,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C13. Theo đồng chí, sự bất cập trong công tác tác tổ chức bộ máy ở cơ sở hiện
nay có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài hiện nay?
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 42 84,0 Có
8 16,0 Không
50 100,0 TỔNG
C14. Đồng chí có ý kiến như thế nào về việc triển khai các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam hiện nay có hiệu quả không?
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
28,0 14 Ảnh hưởng rất lớn
48,0 24 Ảnh hưởng lớn
20,0 10 Ảnh hưởng khá lớn
4,0 2 Ảnh hưởng nhỏ
100,0 50 TỔNG
C15. Theo đồng chí, số lượng và năng lực đội ngũ cán bộ làm QLNN đối với
NLĐNN các cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở có ảnh hưởng tới hiệu quả?
C15.1. Bước đầu đã tạo lập được khung pháp lý để quản lý nhà nước
đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam
14,0 7 Rất đồng ý
86,0 43 Đồng ý
0,0 0 Không đồng ý
0,0 0 Rất không đồng ý
36
0,0 0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C15.2. Văn bản quy phạm pháp luật về lao động nước ngoài có tính khả thi
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 0 0,0 Rất đồng ý
45 90,0 Đồng ý
3 6,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
2 4,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C15.3. Chế tài xử lý vi phạm đối với người lao động nước ngoài chưa đủ mạnh
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 9 18,0 Rất đồng ý
36 72,0 Đồng ý
3 6,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
2 4,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C15.4. Có chế tài xử lý nhưng chỉ dừng ở mức “nhắc nhở”
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 3 6,0 Rất đồng ý
23 46,0 Đồng ý
21 42,0 Không đồng ý
1 2,0 Rất không đồng ý
2 4,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C15.5. Thiếu tính đồng bộ giữa một số văn bản
Câu trả lời Phần trăm
37
Số lượng 0 0,0 Rất đồng ý
33 66,0 Đồng ý
12 24,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
5 10,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C15.6. Có quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong triển khai các hoạt động quản lý đối với người lao động nước ngoài nhưng chưa cụ thể
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
7 14,0 Rất đồng ý
37 74,0 Đồng ý
5 10,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
1 2,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C16. Đánh giá về việc thực thi trách nhiệm của các cơ quan sau ở địa phương các đồng chí đối với các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
C16.1. Hội đồng nhân dân
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
1 2,0 Rất tốt
13 26,0 Tốt
23 46,0 Bình thường
2 4,0 Yếu
11 22,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C16.2. Ủy ban nhân dân
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
1 2,0 Rất tốt
19 38,0 Tốt
38
21 42,0 Bình thường
4 8,0 Yếu
5 10,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C16.3. Cơ quan Công an
Câu trả lời Số lượng Phần trăm
3 6,0 Rất tốt
30 60,0 Tốt
15 30,0 Bình thường
2 4,0 Yếu
0 0,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C16.4. Sở Lao Động, Thương Binh và Xã Hội
Câu trả lời Phần trăm
0,0 Số lượng 0 Rất tốt
26 52,0 Tốt
19 38,0 Bình thường
5 10,0 Yếu
0 0,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
Câu trả lời Phần trăm
0,0 C16.5. Ban Quản lý các Khu công nghiệp Số lượng 0 Rất tốt
14 28,0 Tốt
28 56,0 Bình thường
8 16,0 Yếu
0 0,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C16.7. Những người sử dụng lao động nước ngoài
39
Câu trả lời Phần trăm Số lượng
0 0,0 Rất tốt
5 10,0 Tốt
27 54,0 Bình thường
17 34,0 Yếu
1 2,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C17. Đánh giá về công tác tham mưu, hướng dẫn thực hiện các chính sách, quy định pháp luật về lao động nước ngoài
C17.1. Về mức độ kịp thời
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 15 30,0 Bình thường
17 34,0 Chưa kịp thời
12 24,0 Kịp thời
3 6,0 Rất kịp thời, đã dự báo chính xác
3 6,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C17.2. Về chất lượng, hiệu quả chung
Câu trả lời Phần trăm
10,0 Số lượng 5 Kém hiệu quả
29 58,0 Bình thường
12 24,0 Tốt, hiệu quả
4 8,0 Rất tốt, hiệu quả cao
50 100,0 Khó đánh giá
5 10,0 TỔNG
C17.3. Nguyên nhân hạn chế, không hiệu quả
Số lượng Phần trăm
Do tình hình chung diễn biến phức tạp 252 66,3%
40
220 57,9% Do trình độ, năng lực cán bộ chưa nhạy bén, theo kịp tình hình
234 61,6% Do hạn chế trong phòng ngừa, phát hiện, nắm tình hình
Do thiếu cơ sở pháp lý cần thiết 144 37,9%
Khác 17 4,5%
C18. Đánh giá đối với việc triển khai tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các chính sách, quy định pháp luật Việt Nam về lao động nước ngoài
C18.1. Tổ chức các hoạt động truyền thông chưa được thường xuyên
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 7 14,0 Rất đồng ý
36 72,0 Đồng ý
7 14,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
0 0,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C18.2. Các hoạt động tuyên truyền còn chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 2 4,0 Rất đồng ý
45 90,0 Đồng ý
2 4,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
1 2,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C18.3 Các tài liệu tuyên truyền chưa phong phú
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 7 14,0 Rất đồng ý
41 82,0 Đồng ý
41
2 4,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
0 0,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C18.4. Các hình thức tuyên truyền chưa đa dạng
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 6 12,0 Rất đồng ý
41 82,0 Đồng ý
3 6,0 Không đồng ý
0 0,0 Rất không đồng ý
0 0,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C18.5. Chưa cung cấp kịp thời, đẩy đủ thông tin về các quy định mới của pháp luật cho người lao động nước ngoài
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 6 12,0 Rất đồng ý
29 58,0 Đồng ý
13 26,0 Không đồng ý
2 4,0 Rất không đồng ý
0 0,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C18.6. Cán bộ tuyên truyền hạn chế về ngoại ngữ nên ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 12 24,0 Rất đồng ý
28 56,0 Đồng ý
8 16,0 Không đồng ý
2 4,0 Rất không đồng ý
42
0 0,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C18.7. Các doanh nghiệp có người lao động nước ngoài làm việc không hợp tác trong công tác tuyên truyền
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 3 6,0 Rất đồng ý
32 64,0 Đồng ý
12 24,0 Không đồng ý
2 4,0 Rất không đồng ý
1 2,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C18.8. Người lao động nước ngoài ít tham gia vào các buổi tuyên truyền
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 8 16,0 Rất đồng ý
36 72,0 Đồng ý
4 8,0 Không đồng ý
1 2,0 Rất không đồng ý
1 2,0 Không biết
50 100,0 TỔNG
C19. Đánh giá về công tác phòng ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài
C19.1. Đánh giá chung về công tác phòng ngừa
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 1 2,0 Rất tốt
17 34,0 Tốt
16 32,0 Khá
14 28,0 Bình thường
2 4,0 Yếu
50 100,0
43
TỔNG C19.2. Đánh giá hiệu quả công tác phát hiện
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 2 4,0 Rất tốt
14 28,0 Tốt
17 34,0 Khá
14 28,0 Bình thường
3 6,0 Yếu
50 100,0 TỔNG
C19.3. Những khó khăn, hạn chế trong công tác phòng ngừa, phát hiện
là do các nguyên nhân nào sau đây
Số lượng Phần trăm (trên 380)
296 77,9% Thủ đoạn vi phạm của đối tượng ngày càng tinh vi, phức tạp
259 68,2%
52,1% 43,4% 57,1% 54,5% 198 165 217 207
42,6% 162
2,6% 10
Sự hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan chức năng chưa tốt Vai trò của quần chúng phát huy chưa nhiều Thiếu cơ sở pháp lý để răn đe, phòng ngừa Do địa bàn rộng, khó kiểm soát Do lực lượng mỏng và yếu Các mặt công tác nghiệp vụ chưa phát huy hết hiệu quả Khác C20. Đánh giá về công tác kiểm tra, xử lý người lao động nước ngoài vi phạm
pháp luật Việt Nam
C20.1. Hiệu quả công tác kiểm tra
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 4 8,0 Đạt hiệu quả cao
43 86,0 Tạm được
3 6,0 Không hiệu quả
44
50 100,0 TỔNG
C20.2. Nguyên nhân hạn chế trong công tác kiểm tra
Số lượng
Do không kịp thời Do trình độ, năng lực cán bộ quản lý Do lực lượng còn thiếu Do địa bàn rộng Do đối tượng chủ động đối phó Do người dân thiếu hợp tác, dung túng, bao che Nguyên nhân khác 182 140 214 221 183 102 8 Phần trăm (trên 380) 47,9% 36,8% 56,3% 58,2% 48,2% 26,8% 2,1%
C20.2. Đánh giá hiệu quả xử lý
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 3 6,0 Hiệu quả cao, đủ sức phòng ngừa, răn đe
25 50,0 Tạm được
16 32,0
2 4,0 Hiệu quả không cao, chưa đủ sức phòng ngừa, răn đe Kém
4 8,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C20.4. Nguyên nhân hạn chế, khó khăn trong xử lý
Số lượng
268 123 197 137 144 169 Phần trăm (trên 380) 70,5% 32,4% 51,8% 36,1% 37,9% 44,5%
183 48,2% Do ảnh hưởng của yếu tố ngoại giao Thiếu cơ sở pháp lý Thiếu biện pháp đủ sức răn đe Thiếu cơ sở vật chất để phục vụ xử lý Do trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế Do bất đồng ngôn ngữ Do đối tượng không hợp tác, dùng thủ đoạn đối phó
215 56,6% Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong xử lý còn hạn chế
95 25,0%
45
Cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài có liên quan thiếu hợp tác Khác 5 1,3%
C21. Đồng chí cho biết ý kiến của mình về hình thức xử phạt đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được quy định tại Điều 22, Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
C21.1. Về hình thức xử phạt (trục xuất, phạt tiền, đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp)
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 2 4,0 Rất mạnh
6 12,0 Mạnh
22 44,0 Đủ mạnh
18 36,0 Chưa đủ mạnh
2 4,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C21.2. Về mức phạt (tiền, thời gian chịu phạt…)
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 1 2,0 Rất mạnh
6 12,0 Mạnh
15 30,0 Đủ mạnh
24 48,0 Chưa đủ mạnh
4 8,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C22. Đồng chí cho biết ý kiến của mình về hình thức xử phạt đối với
người nước ngoài làm việc tại Việt Nam vi phạm các quy định tại Điều 17. Vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
C22.1. Về hình thức xử phạt (trục xuất, phạt tiền, cảnh cáo)
Câu trả lời Phần trăm
46
Số lượng 0 7 0,0 14,0 Rất mạnh Mạnh
19 38,0 Đủ mạnh
23 46,0 Chưa đủ mạnh
1 2,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C22.2. Về mức phạt (tiền, thời gian chịu phạt…)
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 0 6 0,0 12,0 Rất mạnh Mạnh
12 24,0 Đủ mạnh
31 62,0 Chưa đủ mạnh
1 2,0 Khó đánh giá
50 100,0 TỔNG
C23. Đánh giá về sự phối kết hợp giữa các lực lượng trong ngành công an quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
C23.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong ngành công an
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 9 18,0 Rất chặt chẽ và hiệu quả
25 50,0 Tạm được
9 18,0 Chưa chặt chẽ, hiệu quả
7 14,0 Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng
Kém
0 50 0,0 100,0 TỔNG
C23.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các lực lượng trong ngành công an
Số lượng
47
217 118 Phần trăm (trên 380) 57,1% 31,1% Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ Thiếu sự tin cậy, trao đổi
Do lực lượng liên quan chưa thật sự quan tâm Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia Khác 156 92 28 41,1% 24,2% 7,4%
C24. Đánh giá về sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
C24.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 2 4,0 Rất chặt chẽ và hiệu quả
23 46,0 Tạm được
17 34,0 Chưa chặt chẽ, hiệu quả
7 14,0
Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng
1 2,0 Kém
50 100,0 TỔNG
C24.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng khác với cơ quan công an
Số lượng Phần trăm
153 271 122 40.3% 71.3% 32.1%
198 52.1%
Thiếu cơ sở pháp lý liên quan Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ Thiếu sự tin cậy, trao đổi Do cơ quan chức năng liên quan chưa thật sự quan tâm Do các cơ quan liên quan không tích cực, né tránh Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia Khác 131 110 16
34.5% 28.9% 4.2% C25. Đánh giá về sự phối hợp giữa các địa phương trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam (Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Tiền Giang)
C25.1. Hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các địa phương trong vùng
Câu trả lời Phần trăm
4,0 Số lượng 2 Rất chặt chẽ và hiệu quả
48
46,0 23 Tạm được
17 34,0
7 14,0
1 2,0 Chưa chặt chẽ, hiệu quả Không hiệu quả, chồng chéo, hoặc buông lỏng Kém
50 100,0 TỔNG
C25.2. Nguyên nhân hạn chế trong phối kết hợp giữa các địa phương trong vùng
Số lượng
Phần trăm (trên 380) 30,8% 78,9% 27,4% 117 300 104
46,1% 175
22,9% 87
Thiếu cơ sở pháp lý liên quan Thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ Thiếu sự tin cậy, trao đổi Do cơ quan chức năng liên quan của từng địa phương chưa thật sự quan tâm Do các cơ quan liên quan không tích cực, né tránh Do vấn đề phức tạp, không muốn tham gia Nguyên nhân khác 17,9% 2,9% 68 11
C26. Vi phạm pháp luật của người lao động nước ngoài trong thời gian tới sẽ như thế nào?
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 3 6,0 Bị hạn chế và loại trừ
4 8,0 Bình thường
25 50,0 Phức tạp, nhưng từng bước kiểm soát được
18 36,0
Ngày càng phức tạp, khó kiểm soát Rất phức tạp, không kiểm soát được
TỔNG 0 50
0,0 100,0 C27. Tình hình người lao động nước ngoài trong thời gian tới tại các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam như thế nào?
Câu trả lời Phần trăm
Số lượng 8 16,0
49
0 26 0,0 52,0 Bình thường Giảm Tăng nhanh
10 20,0 Tăng chậm
6 12,0 Khó dự đoán
50 100,0 TỔNG
C28. Giải pháp nào sau đây giúp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với người
lao động nước ngoài?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
252 66,3%
Xây dựng, hoạch định và quản lý các chiến lược chính sách Hoàn thiện hành lang pháp lý 269 70,8%
296 77,9% Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
186 48,9%
278 73,2%
280 73,7%
266 70,0% Củng cố, tăng cường quan hệ đối ngoại Củng cố, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý Phát huy vai trò, hiệu quả các mặt công tác công an.
263 69,2% Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với người nước ngoài
205 53,9% Hoàn thiện bộ máy tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
211 55,5% Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác quản lý
211 55,5%
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật Khác 10 2,6%
C29.1. Hạn chế trong hoàn thiện hành lang pháp lý thời gian qua do nguyên nhân nào?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
162 42,6% Nhiều vấn đề lý luận liên quan chưa được nghiên cứu cơ bản, hệ thống
50
265 69,7% Chưa đổi mới tư duy, chưa theo kịp diễn biến thực tế
226 59,5% Thực tiễn chưa được tổng kết, đánh giá toàn diện, khoa học
249 65,5% Việc bổ sung, sửa đổi văn bản pháp luật liên quan mang nặng giải pháp tình thế, thiếu thống nhất
183 48,2%
Cơ chế quản lý còn thiếu tập trung, phân tán, chia cắt Nguyên nhân khác 19 5,0%
C29.2. Hướng bổ sung hoàn thiện như thế nào?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
242 63,7% Xây dựng chương trình, kế hoạch hoàn thiện pháp luật đối với người lao động nước ngoài
264 69,5% Rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đối với người lao động nước ngoài
256 67,4% Xây dựng Luật về người lao động nước ngoài tại Việt Nam
230 60,5% Hoàn thiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực lao động nước ngoài tại Việt Nam
251 66,1% Ban hành những quy định thống nhất, rõ ràng về thẩm quyền, chức năng của các cơ quan chức năng liên quan
161 42,4% Thực hiện triển khai các đề tài nghiên cứu để tổng kết lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
140 36,8%
51
Đưa ra hướng dự báo khoa học về sự phát triển của pháp luật trong lĩnh vực lao động nước ngoài Khác 12 3,2%
C30. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các cơ quan chức
năng?
Số lượng Phần trăm (trên 380)
296 77,9% Hoàn thiện cơ sở pháp lý trong phối hợp quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài
287 75,5%
202 53,2%
264 69,5%
258 275 67,9% 72,4%
247 65,0% Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch phối hợp rõ ràng, cụ thể, thống nhất Nâng cao hiệu quả sơ kết, tổng kết phối hợp Phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong thông báo, trao đổi thông tin, nắm tình hình Phối hợp chặt chẽ trong phòng ngừa, phát hiện Tăng cường phối hợp trong kiểm tra, xử lý Thống nhất về cách xử lý, dự trù phương án ngăn chặn tình huống xấu
199 52,4%
52
Có cơ chế tổ chức thực hiện và kiểm tra việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng Khác 20 5,3%
Phụ lục 5a
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM (2008 - 2017)
Đơn vị tính: Người
25000
20000
15000
2016
10000
2014
5000
2012
0
2010
BR-VT
Bình Dương
Đồng Nai
Bình Phước
Long An
Tây Ninh
2008
Tiền Giang
TP.HCM
Tổng Tổng
0-5000
5000-10000
10000-15000
15000-20000
20000-25000
53
54
Phụ lục 5b
THỐNG KÊ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ THỐNG KÊ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ THỐNG KÊ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM PHÂN THEO GIỚI TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM PHÂN THEO GIỚI TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM PHÂN THEO GIỚI TÍNH (SỐ LIỆU NĂM 2017)
Đơn
vị tính: Người
16,000
14,000
12,000
10,000
8,000
6,000
4,000
2,000
0
Long An Tây Ninh
TP. HCM
Bình Bình Dương Dương
Bình Phước
Đồng Nai
Tiền Tiền Giang Giang
Bà Rịa Vũng Tàu
Nam Nữ
Nguồn: T
n: Tổng hợp từ [32, 33]
55
Phụ lục 5c
Đơn vị tính: Người
THỐNG KÊ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM PHÂN THEO THÀNH PHẦN QUỐC TỊCH NĂM 2017
12,000
10,065
10,000
8,330
8,000
6,755
6,000
5,247
4,000
2,336
1,712
2,000
1,486
1,274
937
816
625
611
557
521
306
272
143
96
92
80
61
56
50
51
49
34
32
23
19
11
6
4
4
6
5
4
3
0
3
3
0
Bình Dương
Bình Phước
BR-VT
Đồng Nai
Long An
Tây Ninh
Tiền Giang
TP. HCM
Châu Đại Dương
Châu Á
Châu Âu
Châu Phi
Châu Mỹ
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
56
Phụ lục 5d
Đơn vị tính: Người
THỐNG KÊ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM PHÂN THEO VỊ TRÍ CÔNG VIỆC NĂM 2017
12000
11212
10000
8,011
8000
6000
4,850
4000
2,399
1924
1,702
2000
1307
972
962
885
882
860
849
766
692
655
525
375
295
291
252
238
237
235
205
201
158
117
112
101
97
84
81
65
56
14
7
9
2
0
0
Bình Dương
Bình Phước
BR-VT
Đồng Nai
Long An
Tây Ninh
Tiền Giang
TP. HCM
Giám đốc điều hành
Lao động kỹ thuật
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
Nhà quản lý
Chuyên gia
Khác
57
Phụ lục 5e
Đơn vị tính: Người
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ THỰC TRẠNG CẤP GIẤY PHÉP LAO BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ THỰC TRẠNG CẤP GIẤY PHÉP LAO BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ THỰC TRẠNG CẤP GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ ĐỘNG CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ ĐỘNG CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM NĂM 2017 TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM NĂM 2017 TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM NĂM 2017
29
392
708 253
226
82
297
1,114
284
90
87
585
169
570
89
28
19517
5591
1770
501
1883
6664
501
1255
ĐỒNG NAI
LONG AN
TÂY NINH
TIỀN GIANG TIỀN GIANG
TP. HCM
BÌNH DƯƠNG
BÌNH PHƯỚC
BÀ RỊA VŨNG TÀU
Chưa cấp GPLĐ
Đã cấp GPLĐ Đã cấp GPLĐ
Không thuộc diện cấp GPLĐ Không thuộc diện cấp GPLĐ
Nguồn: T
n: Tổng hợp từ [32, 33]
58
Phụ lục 5g
NH, CƯ TRÚ TẠI VÙNG
NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI NHẬP CẢNH, CƯ TRÚ T BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN TỈ LỆ NGƯ KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM KINH T NĂM 2017
Tiền Giang 1.4%
Tây Ninh Tây Ninh 4.8%
Long An 5.7%
TPHCM 44.1%
Bình Dương 26.1%
Đồng Nai 13.5%
Bình Phước 1.3%
Bà Rịa - Vũng Tàu 3.0%
Nguồ
ồn: Tổng hợp từ [33]
59
Phụ lục 5h BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI CƯ TRÚ TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM NĂM 2017
ĐỊA PHƯƠNG
KHU VỰC TẬP TRUNG ĐÔNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
TÌNH HÌNH VI PHẠM CỦA CÁC NHÓM CỘNG ĐỒNG
-Vi phạm chủ yếu là quá hạn lưu trú, không khai báo tạm trú; gần đây phát hiện có hoạt động lừa đảo chẻ tiền; giáo viên nước ngoài lao động không phép.
1. Long An
- Hoạt động trái mục đích nhập cảnh: làm việc không có giấy phép lao động, nhập cảnh với mục đích du lịch nhưng làm việc với các công ty
- Có 22 KCN: huyện Bến Lức có 05 KCN (Tân Bửu, Long Hiệp, Thạnh Đức, Nhựt Chánh, Vĩnh Lộc 2); huyện Đức Hoà có 05 KCN (Đức Hoà Đông, Tân Đức, Đức Hoà 3, Xuyên Á, Đức Hoà 1); huyện Cần Giuộc có 04 KCN (Tân Kim, Nam Tân Lập, Bắc Tân Lập, Long Hậu); huyện Cần Đước có 02 KCN (Cầu Tràm, Thuận Đạo); huyện Thủ Thừa có 01 KCN (Tân Thành); huyện Tân Trụ có 01 KCN (An Nhật Tân); thị xã Tân An có 01 KCN (Lợi Bình Nhơn).
- Xuất hiện tình trạng lập doanh nghiệp ma để xin cấp thẻ tạm trú
- KCN Mỹ Tho tại xã Trung An, Tp Mỹ Tho (Trung Quốc, Đài Loan)
-Vi phạm chủ yếu là quá hạn lưu trú, không khai báo tạm trú; gần đây phát hiện có hoạt động lừa đảo chẻ tiền;
2. Tiền Giang
- KCN Tân Hương xã Tân Hương, huyện Châu Thành, Tiền Giang (02 dự án Trung Quốc, 02 dự án Đài Loan).
- KCN Long Giang xã Tân Lập 1, huyện Tân Phước, Tiền Giang
- Châu Phi: Nhập xuất cảnh trái phép, quá hạn tạm trú.
3. TP HCM
- Hàn Quốc: K300; khu vực Super Bowl (Hậu Giang, Thăng Long, …); Phú Mỹ Hưng, khu An Phú, Thảo Điền, Q2
- Hàn Quốc: quá hạn tạm trú, hoạt động trái mục đích
60
nhập cảnh (thông qua các công ty ma làm thủ tục bảo lãnh xin cấp thị thực, thẻ tạm trú).
- Trung Quốc, Đài Loan: đường Lãnh Binh Thăng, P8, Q11; khu vực xung quanh Metro Q6; Q5; phường Bình Trị Đông; công ty Pou Yuen, Q. Bình Tân có 1200 người TQ; KCX Tân Tạo có 500 người.
- Trung Quốc, Đài Loan: quá hạn tạm trú, hoạt động trái mục đích nhập cảnh.
- Châu Phi cư trú tại các quận Gò Vấp; Trung Mỹ Tây, Q12; Phú Thạnh, Tân Phú.
4. Bà Rịa
Người Trung Quốc tập trung đông ở 02 KCN Mỹ Xuân A2 và Đông Xuyên, khoảng 1800 người
Vũng Tàu
Quá hạn tạm trú; Không khai báo tạm trú; Hoạt động trái mục đích nhập cảnh: làm việc không có giấy phép lao động, nhập cảnh với mục đích du lịch nhưng làm việc.
- Hàn Quốc: KCN Loteco, Biên Hòa, gần 400 người
5. Đồng Nai
Quá hạn tạm trú; Hoạt động trái mục đích nhập cảnh: làm việc không có giấy phép lao động, nhập cảnh với mục đích du lịch nhưng làm việc.
- Trung Quốc, Đài Loan: KCN tại Nhơn Trạch: gần 1500; Long Thành: 1000; Trảng Bom: hơn 600.
6. Bình Dương
KCN Việt Hương, KCN Việt Nam Singapore VSIP 1& 2; tập trung nhiều ở 03 huyện Dĩ An, Thuận An, Bến Cát.
Hoạt động trái mục đích nhập cảnh: làm việc không có giấy phép lao động, nhập cảnh với mục đích du lịch nhưng làm việc.
Một số cá nhân quá hạn tạm trú
7. Tây Ninh
Có khoảng 10 người Trung Quốc ở nhà máy xi măng Fico, huyện Tân Biên. Người Đài Loan tập trung ở KCN Trảng Bàng, KCN Linh Trung 1, tuy nhiên không tập trung thành khu vực.
Một số cá nhân quá hạn tạm trú
8. Bình Phước KCN Minh Hưng, huyện Chơn Thành.
Nguồn: Tổng hợp từ [33]
61
Phụ lục 6a
THỐNG KÊ VĂN BẢN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
STT
TÊN VĂN BẢN
LOẠI VĂN BẢN
NĂM BAN HÀNH
CƠ QUAN BAN HÀNH
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi các hình thức phân biệt chủng tộc
1965
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
1966
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
1966
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
1979
Công ước quốc tế
1
Liên Hợp Quốc
Công ước về quyền trẻ em
1989
1990
Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả những người lao động di trú và thành viên trong gia đình họ
2000
Nghị định
Nghị định thư về ngăn chặn, trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em, bổ sung Công ước của Liên Hợp Quốc về
62
thư
chống tội phạm xuyên quốc gia
2000
Nghị định thư về chống buôn lậu người di cư qua đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm xuyên quốc gia
Công ước số 29 về xóa bỏ lao động cưỡng bức
1930
Công ước số 87 về tự do lập hội và bảo vệ quyền được tổ chức
1948
Công ước số 97 về di trú tìm việc làm (sửa đổi)
1949
Công ước số 98 về quyền được tổ chức và thỏa ước lao động tập thể
1949
Công ước số 100 về trả lương bình đẳng
1951
2
ILO
Công ước
Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức
1957
Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử (việc làm và nghề nghiệp)
1958
Công ước số 118 về bình đẳng trong đối xử (an sinh xã hội),
1962
Công ước số 138 về tuổi lao động tối thiểu
1973
Công ước số 143 về người lao động di trú (các điều khoản bổ sung)
1975
63
Công ước số 157 về duy trì các quyền an sinh xã hội
1982
Công ước số 169 về các dân tộc thiểu số và bộ lạc
1989
Công ước số 181 về các cơ sở lao động tư nhân
1997
Công ước số 182 về xóa bỏ mọi hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
1999
Khuyến nghị chung số 86 về di trú tìm việc làm (sửa đổi)
1949
1958
Khuyến nghị chung số 111 về chống phân biệt đối xử (việc làm và nghề nghiệp
Khuyến nghị
Khuyến nghị chung số 151 về người lao động di trú
1975
Khuyến nghị chung số 167 về duy trì các quyền an sinh xã hội
1983
3
ASEAN
Tuyên bố Cebu về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di trú
2007
Tuyên bố chung
Nguồn: Trích từ [108]
64
Phụ lục 6b
THỐNG KÊ VĂN BẢN PHÁP LUẬT TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
STT
TÊN VĂN BẢN
CƠ QUAN BAN HÀNH
LOẠI VĂN BẢN
NĂM BAN HÀNH
Bộ luật Lao động
1994
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2002
2002
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2006
2006
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2007
2007
Bộ luật -
1
Quốc hội
Bộ luật Lao động
2012
Luật
Luật Xử lý vi phạm hành chính
2012
2014
Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2014
65
1990
Nghị định 233/HĐBT ngày 22/6/1990, Quy chế lao động đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1996
Nghị định 58/CP ngày 3/10/1996, về cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam.
1999
Nghị định 169/1999/NĐ-CP, Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/CP ngày 03 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ về cấp Giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam.
2
Chính phủ
Nghị định
2003
Nghị định 105/2003/NĐ-CP, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
2006
Nghị định 93/2006/NĐ-CP, Điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và điều chỉnh trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc
2008
Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
66
2010
Nghị định 47/2010/NĐ-CP ngày 6/5/2010 Quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động
2011
Nghị định 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
2013
Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
2013
Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 5/9/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
2016
Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/2/2016 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
2011
Chỉ thị
Chỉ thị số 734/CT-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh công tác quản lý đối với gói thầu EPC
67
2008
Thông tư số 08/2008/TT-BLĐTBXH ngày 10/6/2008 Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
2014
3
Thông tư
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH ngày 20/01/2014 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
2014
Thông tư 41/2014/TT-BCT ngày 5/11/2014 Quy định căn cứ, thủ tục xác định người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi mười một ngành dịch vụ trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới không thuộc diện cấp giấy phép lao động
Nguồn: Tổng hợp từ [60; www.moj.gov.vn]
68
Phụ lục 6c
THỐNG KÊ VĂN BẢN QUẢN LÝ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ THUỘC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM, VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
ĐẠI
CƠ QUAN
LOẠI VĂN
NĂM BAN
PHƯƠNG
BAN
STT
TÊN VĂN BẢN
BẢN
HÀNH
BAN HÀNH
HÀNH
Bà Rịa - Vũng
1
UBND
Quyết định
2015
Quyết dịnh số 17/2015/QĐ-UBND ngày 27/3/2015 Ban hành Quy chế phối hợp về quản lý lao động là người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, cá
Tàu
nhân trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Quyết định số 15/2017 ngày 18/7/2017 Ban hành Quy chế phối hợp quản lý lao động nước ngoài làm việc trên
2
Bình Dương
UBND
Quyết định
2017
địa bàn tỉnh Bình Dương
Quyết định số 29/2016/QD-UBND ngày 29/6/2016 Ban hành Quy chế phối hợp quản lý người nước ngoài cư trú,
3
Bình Phước
UBND
Quyết định
2016
hoạt động trên địa bàn tỉnh Bình Phước
Quyết định số 3067/QD-UBND ngày 7/10/2015 Ban
4
Đồng Nai
UBND
Quyết định
2015
hành Quy chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước
về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú và hoạt động của người
69
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Quyết định số 07/2016/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 ban hành Quy định quản lý tạm trú tại doanh nghiệp đối với
2016
lao động nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp trong
các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
5
Long An
UBND
Quyết định
2009
Quyết định số 74/2009/QĐ-UBND ngày 14/12/2009 Ban hành Quy chế phối hợp về quản lý người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức trên địa
bàn tỉnh Long An
Quyết định số 04/2013/QĐ-UBND ngày 28/2/2013 Ban
hành Quy chế phối hợp công tác quản lý nhà nước đối
2013
với lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
Quyết định số 56/2013/QĐ-UBND ngày 13/12/2013
6
Tây Ninh
UBND
Quyết định
Ban hành Quy định quản lý tạm trú, lưu trú tại daonh nghiệp đối với chuyên gia là lao động nước ngoài làm
2013
việc ở các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND phối hợp thực hiện
2015
công tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế cửa khẩu trên địa bàn tỉnh
70
Tây Ninh, Tây Ninh.
Quyết định số 06/2014/QĐ-UBND ngày 11/4/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang về việc ban hành Quy
2014
chế giải quyết thủ tục đầu tư tại các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp trên địa bàn Tiền Giang;
7
Tiền Giang
UBND
Quyết định
Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND ngày 9/1/2015
Ban hành Quy chế phối hợp trách nhiệm trong công tác
2015
quản lý các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 03/01/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc ủy quyền
2014
xem xét chấp nhận việc sử dụng lao động nước ngoài
theo Nghị định số 102/2013/NĐ-CP của Chính phủ
Quyết định
Quyết định số 5467/QĐ-UBND ngày 06/11/2014 của
Thành phố Hồ
8
UBND
Chí Minh
Công văn
Ủy ban nhân dân Thành phố về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, sửa đổi, bổ sung thuộc thẩm
2014
quyền giải quyết của Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội
2015
Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND ngày 27 tháng 2 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban
71
hành Quy chế phối hợp quản lý lao dộng nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, chủ đầu tư, nhà
thầu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
2014
Công văn số 4279/UBND-VX ngày 27/8/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc cấp giấy phép lao động cho lao động là người nước ngoài vào
làm việc tại Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp từ [32, 33]
72
Phụ lục 6d
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ CÁCH THỨ
ỨC NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI NHẬP CẢ
NH VÀO VIỆT NAM
ĐẾN CƯ TRÚ TẠI VÙNG KINH T
T NAM NĂM 2017 I VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM NĂM 2017
Đường bộ Đường bộ 3.5% 3.5%
Đường biển 0.0%
Đường hàng không 96.5%
Nguồn: Tổng hợ
ợp từ [33]
73
Phụ lục 6e
MỤC ĐÍCH NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ĐẾN CƯ TRÚ T
N CƯ TRÚ TẠI VÙNG
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ M KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM KINH T
Mục đích khác 12.0%
Du lịch 60.0%
Thương mại, đầu tư, việc làm 28.0%
Nguồn: Tổ
ổng hợp từ [33]
74
Phụ lục 6g
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ CÁC D
NG KÊ CÁC DẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT C
LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI DO PHÒNG 7
C NGOÀI DO PHÒNG 7 – CỤC QUẢN LÝ XU CÔNG AN PHÁT HIỆN, XỬ LÝ TỪ NĂM 2006
NHẬP CẢNH – BỘ CÔNG AN PHÁT HI
T CỦA NGƯỜI N LÝ XUẤT NĂM 2006 - 2017
Hoạt động trái Hoạt động trái mục đích nhập mục đích nhập cảnh và vi cảnh và vi phạm khác phạm khác 13% 13%
Quá hạn tạm trú, không khai trú, không khai báo tạm trú 87%
Nguồn: Tổ
ổng hợp từ [33]
75
Phụ lục 6h
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ CÁC HÌNH TH
NG KÊ CÁC HÌNH THỨC TUYÊN TRUYỀN PH
N PHỔ BIẾN,
C PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG, PHÁP LUẬT XU
GIÁO DỤC PHÁP LU CẢNH CHO NGƯỜI LAO Đ
I LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH T
T XUẤT NHẬP I VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐI
T NAM NĂM 2017 NG ĐIỂM PHÍA NAM VIỆT NAM NĂM 2017
Tuyên truyền thông Tuyên truyền thông qua phương tiện qua phương tiện thông tin đại chúng thông tin đại chúng 22.0% 22.0%
Hình thức khác 3.0%
Phát tờ rơi tuyên truyền 5.0%
Tuyên truyền miệng 70.0%
Nguồn: Tổ
ổng hợp từ [33]
76
Phụ luc 6i Bảng thống kê kết quả khảo sát về việc phân công lực lượng trong ngành Công an tổ chức các hoạt động quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
Thực hiện Quyết định số 877/2005/QĐ-BCA(A11)
Tên địa phương
quy định phân công trách nhiệm và phối hợp giữa các lực lượng công an nhân dân trong công tác quản lý người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, hoạt động tại Việt Nam
Văn bản quy định
Phân công lực lượng
- PA61 chủ trì.
1. Long An
số ngày
Công văn 275/CAT(PA35) 30/8/2007
(Đội QL XNC thuộc PA61)
- CA phường, xã và đội An ninh CA quận, huyện phối hợp.
văn
- PA61 chủ trì.
2. Tiền Giang
số ngày
Công 172/CAT(PC13) 14/4/2007.
(Đội QL XNC thuộc PA61)
- CA phường, xã và Đội Cảnh sát quản lý hành chính CA quận, huyện phối hợp.
- PA72 chủ trì.
3. Tp. HCM
số 01/HD- Hướng dẫn ATP(PV1) ngày 28/01/2008
(PA72)
- Đội Cảnh sát quản lý hành chính CA quận, huyện phối hợp.
- PA72 chủ trì.
4. Bình Dương
Quyết định số 69/QĐ-CAT- PV11(PA39) ngày 28/7/2009.
- Đội Cảnh sát quản lý hành chính CA quận, huyện phối hợp.
thành
(Đội QL XNC thuộc PA39, 06/2010 tháng đã lập PA72)
77
- PA61 chủ trì.
5. Bình Phước
Quyết định số 62/QĐ- CAT(PV11) ngày 16/8/2007
(Đội QL XNC thuộc PA61)
- Đội Cảnh sát quản lý hành chính CA quận, huyện phối hợp.
- PA72 chủ trì.
6. BR – VT
số 306/QT- ngày
(PA72)
trình Quy CAT(PA18) 30/6/2009.
- Phòng PC64 và Đội Cảnh sát quản lý hành chính CA quận, huyện phối hợp.
- PA72 chủ trì.
7. Đồng Nai
Hướng dẫn số 291/HD- CAT-PC13, PA35 ngày 18/11/2009.
- Đội An ninh CA quận, huyện phối hợp.
(Đội QL XNC PA61, thuộc tháng 7/2010 thành lập PA72)
- PA72 chủ trì.
8. Tây Ninh
(PA72)
Ban Giám đốc chỉ đạo phân công lực lượng và quy trình thực hiện.
- Đội An ninh CA quận, huyện phối hợp.
Nguồn: Tổng hợp từ [33]
78
Phụ lục 6k
Biểu đồ thống kê kết qu
i lao động nước
t quả hoạt động kiểm tra tạm trú của người lao đ n năm 2017 i Thành Phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến năm 2017
ngoài tại Thành Ph
1000
938
900
821 821
800
700
615
600
500
457
400
349
280
300
256
234
200
156
125
103
80
71 71
100
60
50
50
43
40
18
13
0
2008
2009
2010 2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016 2016
2017
Số điểm kiểm tra
Số người
Nguồn: Tổ
Tổng hợp từ [73]
79
Phụ lục 6l
Biểu đồ thống kê kết qu
t quả hoạt động phát hiện, xử lý người lao độ
ộng nước ngoài
vi phạm về cư trú tại vùng kinh t
t Nam năm 2017 i vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam năm 2017
Đơn vị tính: người Đơn
Phối hợp phát hiện, xử lý 9%
Chủ trì phát Chủ trì phát hiện, xử lý hiện, xử lý 91% 91%
Nguồn: Nguồn: Tổ
ổng hợp từ [33]
80
Phụ lục 6m
Biểu đồ thống kê k
ng kê kết quả hoạt động phát hiện, xử lý người lao đ
i lao động nước n năm 2017 m pháp luật tại TPHCM từ năm 2008 đến năm 2017
ngoài vi phạm pháp lu
Đơn vị tính: người Đơn v
3399
3500
2888
3000
2666
2500
2137
2000
1678
1545
1523 1523
1500
1186
1000
669
449
398 398
382
500
312
228
214
166
132
93
89
85
0
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016 2016
2017
Chủ trì phát hiện, xử lý Chủ trì phát hiện, xử lý
Phối hợp phát hiện, xử lý
Nguồn: Tổ
ổng hợp từ [33]
81
Phụ lục 6n
Biểu đồ thống kê hình th pháp luật về cư trú và lao đ
c ngoài vi phạm ểm phía Nam
ng kê hình thức xử lý người lao động nước ngoài vi ph cư trú và lao động tại vùng kinh tế trọng điể Việt Nam năm 2017
Trục xuất/buộc Trục xuất/buộc xuất cảnh 0.33%
Cảnh cáo Cảnh cáo 0.33% 0.33%
Phạt tiền Phạt tiền 99.34% 99.34%
Nguồn: Tổ
ổng hợp từ [33]
82
Phụ lục 6o
Bảng thống kê kết quả khảo sát tình hình xử lý người nước ngoài vi phạm pháp luật về cư trú tại các tỉnh, thành phố phía Nam
Lực lượng tham gia xử lý
Địa phương
Biện pháp xử lý địa phương thường áp dụng
1. Long An
PA72 xử lý các vi phạm về cư trú, phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ xử lý các vi phạm khác.
- Xử phạt hành chính; rút ngắn thời hạn thị thực hoặc cấp thị thực ngắn hạn để xuất cảnh; thu hồi thẻ tạm trú; buộc xuất cảnh, có tổ chức giám sát.
2. Tiền Giang
PA72 xử lý các vi phạm về cư trú, phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ xử lý các vi phạm khác.
- Xử phạt hành chính; rút ngắn thời hạn thị thực hoặc cấp thị thực ngắn hạn để xuất cảnh; buộc xuất cảnh, có tổ chức giám sát.
- PA72 chủ trì xử lý các vi phạm về cư trú.
- Thông báo về Công an phường/xã nơi đương sự cư trú.
- Tổ chức buộc xuất cảnh, có giám sát.
3. TP Hồ Chí Minh
- Tham gia phối hợp với các lực lượng chức năng khi xử lý vi phạm trên lĩnh vực khác.
- Rút ngắn thị thực buộc xuất cảnh.
4. Bà Rịa - Vũng Tàu
PA72 chủ trì xử lý các vi phạm về cư trú, không thường xuyên tham gia việc xử lý vi phạm của các lực lượng khác.
- Không giải quyết gia hạn lưu trú, cấp đổi thị thực.
- Rút ngắn thị thực buộc xuất cảnh.
5. Đồng Nai
PA72 chủ trì xử lý các vi phạm về cư trú, không thường xuyên tham gia việc xử lý vi phạm của các lực lượng khác.
- Không giải quyết gia hạn lưu trú, cấp đổi thị thực.
- Rút ngắn thị thực buộc xuất cảnh.
6. Bình Dương
PA72 chủ trì phối hợp với các lực lượng trong xử lý vi phạm của người nước ngoài.
- Không giải quyết gia hạn lưu trú, cấp đổi thị thực.
- Rút ngắn thị thực buộc xuất cảnh.
7. Tây Ninh
PA72 chủ trì xử lý các vi phạm về cư trú, không tham gia việc xử lý vi phạm của các lực lượng khác.
- Không giải quyết gia hạn lưu trú, cấp đổi thị thực.
83
- Rút ngắn thị thực buộc xuất cảnh.
PA72 chủ trì xử lý các vi phạm về cư trú, không tham gia việc xử lý vi phạm của các lực lượng khác.
- Không giải quyết gia hạn lưu trú, cấp đổi thị thực.
8. Bình Phước
Nguồn: Tổng hợp từ [33]
84
Phụ lục 6p
THỐNG KÊ KẾT QUẢ HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA CỤC QUẢN LÝ XUẤT NHẬP CẢNH (C3) TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM NĂM 2011-2016
STT
NĂM
QUỐC GIA HỢP TÁC
NỘI DUNG HỢP TÁC
Trao đổi thông tin, kịp thời giải quyết tình trạng công dân của họ vi phạm pháp luật
- Đại sứ quán Nigeria - TLSQ Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ - Văn phòng kinh tế Đài Bắc
- Hợp tác về việc thực hiện Bản ghi nhớ về chia sẻ thông tin xuất nhập cảnh giữa Việt Nam và Úc.
2011
1
- Úc
- Tham dự lớp đào tạo “Đối chiếu nhận diện: Những nguyên tắc và ứng dụng”
- Cử cán bộ đi đào tạo tiếng Anh tại Úc
Hàn Quốc
- Mở lớp đào tạo tiếng Hàn dành riêng cho cán bộ Công an các tỉnh phía Nam
2012
2
Hàn Quốc
- Tổ chức hội nghị tuyên truyền pháp luật xuất nhập cảnh của Việt Nam cho cộng đồng người Hàn Quốc cư trú và làm việc trên địa bàn Thành phố Hồ
85
Chí Minh
- TLSQ Mỹ, Úc, Đức, Hungary, NewZealand, Canada và tổ chức di cư quốc tế IOM
- Tổ chức khóa tập huấn cho nhân viên 19 hãng hàng không hoạt động tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất
Các nước ASEAN
Tổ chức hội nghị những người đứng đầu Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và lãnh sự các nước ASEAN lần thứ 17 tại thành phố Hồ Chí Minh
2013
3
- TLSQ Mỹ, Úc, Đức, Hungary, NewZealand, Canada và tổ chức di cư quốc tế IOM
- Tổ chức 04 khóa tập huấn cho nhân viên các hãng hàng không hoạt động tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất về kỹ năng nhận biết hộ chiếu, giấy tờ xuất nhập cảnh giả và kiến thức cơ bản về các loại tội phạm trong lĩnh vực xuất nhập cảnh.
2014
4
- TLSQ Mỹ, Úc, Đức, Hungary, NewZealand, Canada và tổ chức di cư quốc tế IOM
- Tổ chức khóa tập huấn cho 122 nhân viên các hãng hàng không hoạt động tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất về kỹ năng nhận biết hộ chiếu, giấy tờ xuất nhập cảnh giả và kiến thức cơ bản về các loại tội phạm trong lĩnh vực xuất
86
nhập cảnh.
- TLSQ Úc
Tổ chức đào tạo tiếng Anh cho cán bộ quản lý
- TLSQ Inđônesia
- Tổ chức hội nghị tuyên truyền pháp luật xuất nhập cảnh của Việt Nam cho công dân Inđônesia tại các tỉnh, thành phố phía Nam
2015
5
- TLSQ Mỹ, Úc, Đức, Hungary, NewZealand, Canada và tổ chức di cư quốc tế IOM
- Tổ chức khóa tập huấn cho nhân viên các hãng hàng không hoạt động tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất về kỹ năng nhận biết hộ chiếu, giấy tờ xuất nhập cảnh giả và kiến thức cơ bản về các loại tội phạm trong lĩnh vực xuất nhập cảnh.
- TLSQ Úc
Tổ chức đào tạo tiếng Anh cho cán bộ quản lý
Hỗ trợ truy tìm, bắt giữ các đối tượng truy nã
- TLSQ Mỹ, Hàn Quốc - Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc
2016
6
- TLSQ Đức
Tổ chức lớp tập huấn về kiểm tra giấy tờ giả mạo xuất nhập cảnh cho nhân viên các hãng hàng không
- Cơ quan Di trú Hungary
- Ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác xuất nhập cảnh
Nguồn: Tổng hợp từ [33]
87
88