HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ THANH MAI

qu¶n lý nhµ n­íc nh»m ph¸t triÓn c¸c dÞch vô c¬ b¶n ®èi víi ng­êi nghÌo trªn ®Þa bµn thµnh phè hµ néi

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2014

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ THANH MAI

qu¶n lý nhµ n­íc nh»m ph¸t triÓn c¸c dÞch vô c¬ b¶n ®èi víi ng­êi nghÌo trªn ®Þa bµn thµnh phè hµ néi

Chuyên ngành : Quản lý kinh tế

: 62 34 01 01

Mã số

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS NGUYỄN HỮU THẮNG

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.

Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Thị Thanh Mai

MỤC LỤC

Trang 1

7

7

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về đói nghèo và quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên thế giới và ở Việt Nam 1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về đói nghèo, dịch vụ cho người nghèo và quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo ở Hà Nội

14 17

21 21

38

1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO 2.1. Người nghèo và các dịch vụ cần thiết cho người nghèo 2.2. Khái niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến quản lý nhà nước cấp tỉnh, thành phố nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo 2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với

52

người nghèo ở trong nước và quốc tế

72

Chương 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Thực trạng đói nghèo và các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa

72

bàn thành phố Hà Nội

3.2. Thực trạng quản lý nhà nước của thành phố Hà Nội nhằm phát triển các

95

dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

3.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản

114

đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

124

124

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 4.1. Bối cảnh hiện nay và phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội 4.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ

cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

134 147

149 150 161

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH An sinh xã hội

BRI Ngân hàng nhân dân Inđônêxia

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CSXH Chính sách xã hội

CTMTQG Chương trình mục tiêu quốc gia

DVVL Dịch vụ việc làm

DVXH Dịch vụ xã hội

HĐND Hội đồng nhân dân

KTXH Kinh tế - xã hội

KCHT Kết cấu hạ tầng

NGO Tổ chức phi chính phủ

NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTG Ngân hàng Thế giới

NSNN Ngân sách nhà nước

QLNN Quản lý nhà nước

SHG Tổ chức tự lực

TBXH Thương binh và xã hội

TCTD Tổ chức tín dụng

UBND Ủy ban nhân dân

UNDP Chương trình Phát triển Liên hợp quốc

XĐGN Xóa đói giảm nghèo

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

27 Bảng 2.1: Chuẩn nghèo, cận nghèo qua các giai đoạn của cả nước và Hà Nội

Bảng 3.1: Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo của thành phố Hà Nội giai đoạn

2001 - 2011 72

75 Bảng 3.2: Đặc điểm việc làm của người nghèo ở Hà Nội qua điều tra

76 Bảng 3.3: Điều kiện nhà ở và môi trường sống của người nghèo ở Hà Nội

77 Bảng 3.4: Thu nhập và chi tiêu của hộ nghèo ở Hà Nội

Bảng 3.5: Các khó khăn và cách giải quyết khó khăn của hộ nghèo ở

78 Hà Nội

Bảng 3.6: Mức độ tham gia các hoạt động xã hội của người nghèo và lý

do không tham gia 80

81 Bảng 3.7: Nguyên nhân dẫn đến nghèo của các hộ ở Hà Nội qua điều tra

84 Bảng 3.8: Trình độ văn hóa của người dân Hà Nội qua điều tra

85 Bảng 3.9: Trình độ tay nghề của người nghèo ở Hà Nội qua điều tra

87 Bảng 3.10: Số lao động xuất khẩu của thành phố Hà Nội

89 Bảng 3.11: Số liệu lao động việc làm của Hà Nội giai đoạn 2000-2010

Bảng 3.12: Mạng lưới tín dụng và dư nợ tín dụng của Ngân hàng Chính

93 sách xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2000-2010

Bảng 3.13: Một số văn bản của thành phố về tín dụng cho người nghèo

99 giai đoạn 2008 - 2011

Bảng 3.14: Dư nợ tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội Hà Nội cho

người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội (tính đến 31/12/

2012) 102

DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang

28 Hình 2.1: Cơ hội tìm việc làm của người nghèo Hà Nội.

Hình 3.1: Tỷ lệ nghèo theo từng chiều thiếu hụt của thành phố Hà Nội và

74 thành phố Hồ Chí Minh

90 Hình 3.2: Cơ cấu độ tuổi được nhận hỗ trợ dịch vụ việc làm

91 Hình 3.3: Tỷ lệ các tổ chức, cá nhân cho người nghèo Hà Nội vay tiền

Hình 3.4: Mô hình phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về cung

95 cấp dịch vụ cơ bản nhằm xóa đói giảm nghèo

96 Hình 3.5: Mô hình tổ chức Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo Hà Nội

107 Hình 3.6: Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ tín dụng

112 Hình 3.7: Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ việc làm

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đói nghèo luôn là vấn đề được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, đặc

biệt đối với đang phát triển như Việt Nam. Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) là một

chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta và đang được thực hiện từ nhiều năm

nay. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN được phê duyệt tháng

5/2002 nêu rõ: “Chính phủ Việt Nam coi vấn đề XĐGN là mục tiêu xuyên suốt

trong quá trình phát triển KTXH của đất nước” [14].

Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình XĐGN ở vùng sâu,

vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương

thức xoá đói, giảm n ghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát

triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo

bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên

làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo [32].

Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ rõ:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quyết liệt trong chỉ đạo điều hành của

Chính phủ và thực thi của các cấp chính quyền, nước ta đã đạt được những thành

tựu đáng kể trong công cuộc XĐGN, được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, tỷ

lệ hộ nghèo giảm đáng kể từ 64% những năm 1980 xuống còn 17% năm 2001,

vào khoảng 14,2% năm 2010. Những năm gần đây, do bất ổn về kinh tế, lạm

phát cao cùng với hậu quả nặng nề của thiên tai bão lụt, nên đời sống người dân

nói chung, nhất là người nghèo gặp nhiều khó khăn. Đến hết năm 2011, tỷ lệ

nghèo cả nước vẫn còn trên 14%.

Cùng với các địa phương khác trong cả nước, Thủ đô Hà Nội đã có nhiều

cố gắng trong công tác XĐGN, trở thành một trong số địa phương tiêu biểu, đi

đầu của cả nước về thành tựu XĐGN. Tính đến năm 2005, về cơ bản, Hà Nội

không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm theo từng năm. Đến cuối năm 2007, Hà

Nội chỉ còn 2,3% hộ nghèo, hoàn thành vượt chỉ tiêu mà Nghị quyết HĐND

2

thành phố đề ra. Từ ngày 01/8/2008, thực hiện Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12

của Quốc hội, địa giới hành chính thành phố Hà Nội được điều chỉnh, mở rộng

với diện tích tự nhiên là 334.470,02 ha và dân số là 6.232.940 người. Tỷ lệ hộ

nghèo tăng lên, đạt mức 7%. Mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo vì thế cũng là một

thách thức đối với chính quyền Thủ đô trong quá trình phát triển KTXH Hà Nội

vì mục tiêu ổn định bền vững.

Những năm qua, chính quyền thành phố Hà Nội đã triển khai nhiều dịch

vụ khác nhau cho người nghèo Hà Nội như: cho vay lãi suất ưu đãi thông qua

quỹ tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (CSXH), xây dựng chính sách ưu

tiên đối tượng thuộc hộ nghèo trong xuất khẩu lao động, đào tạo nghề, khuyến

khích doanh nghiệp nhận lao động địa phương thuộc hộ nghèo vào làm việc…

Kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2012 vừa được Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội (TBXH) công bố cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo của Hà

Nội còn 1,52% và Hà Nội thuộc một trong năm tỉnh, thành phố có số hộ nghèo

thấp nhất cả nước.

Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận nêu trên, trên bình diện tổng thể,

quản lý nhà nước (QLNN) đối với XĐGN nói chung và đối với một số dịch vụ

cho người nghèo nói riêng vẫn còn những hạn chế nhất định, như: QLNN đối với

dịch vụ việc làm (DVVL) tại các trung tâm giới thiệu việc làm hay đào tạo nghề

cho người nghèo chưa sâu sát; việc hoạch định chính sách tài chính cho người

nghèo vẫn còn chắp vá, manh mún, chưa có tính đột phá; công tác kiểm tra, kiểm

soát dịch vụ tài chính cho người nghèo còn lỏng lẻo, việc cấp phát trợ cấp cho

người nghèo ở một số nơi chưa kịp thời…

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, cùng

với sự tác động của thiên tai, nhiều rủi ro bất trắc có thể xẩy ra, tình trạng phân

hóa giàu nghèo tăng lên, tình trạng tái nghèo có nguy cơ gia tăng. Để giảm

nghèo một cách bền vững, việc cung cấp các dịch vụ cho người nghèo một cách

có hiệu quả có ý nghĩa lớn. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm tìm các giải pháp

3

hoàn thiện QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên

địa bàn thành phố Hà Nội có ý nghĩa thiết thực, cấp bách. Đó là lý do chủ yếu

của việc lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ

bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm luận án tiến sĩ

kinh tế, chuyên ngành Quản lý kinh tế.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đặt ra là: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về QLNN

nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo.

- Phân tích và đánh giá thực trạng QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ

bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nêu trên, việc nghiên cứu đề tài tập

trung vào đối tượng và phạm vi nghiên cứu như sau:

- Đối tượng nghiên cứu là QLNN ở cấp tỉnh, thành phố nhằm phát triển

các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Phạm vi nghiên cứu: Việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào những nội dung cơ bản của QLNN đối với một số dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn Hà Nội, gồm hai loại dịch vụ cơ bản là dịch vụ tài chính và dịch vụ việc làm.

Việc nghiên cứu thực trạng QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn Hà Nội từ năm 2000 đến nay; các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn Hà Nội đến năm 2020.

4

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Về phương pháp luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận

duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để nghiên cứu vấn đề QLNN nhằm phát triển

các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trong sự biến đổi không ngừng, trong

mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, gắn với những điều kiện cụ thể.

Về phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, các phương pháp nghiên cứu được sử

dụng bao hàm cả phương pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp; phương pháp

định tính, định lượng và phối hợp.

Việc sử dụng phương pháp diễn dịch nhằm hình thành khung lý thuyết về

QLNN đối với một số dịch vụ cho người nghèo, dựa trên cách tiếp cận đói nghèo

đa chiều, cách thức XĐGN chủ yếu là cung cấp một số dịch vụ cơ bản cho người

nghèo (được luận chứng), với giả định về tính hiệu quả của việc cung cấp một số

dịch vụ cho người nghèo từ phía Nhà nước, nội dung và phương thức QLNN đối

với các dịch vụ này. Trên cơ sở đó để rút ra những kết luận cần thiết, những kiến

nghị về QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo nói

chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.

Phương pháp quy nạp được sử dụng trên cơ sở các dữ liệu thực tế về đói

nghèo, XĐGN cũng như hiện trạng QLNN đối với các dịch vụ cho người nghèo

(chủ yếu trên địa bàn Hà Nội) để khái quát hoá (quy nạp), rút ra những nhận

định, kết luận về QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người

nghèo, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện, đổi mới.

Việc nghiên cứu đề tài đòi hỏi sử dụng cả phương pháp định tính, định

lượng và phối hợp cả hai phương pháp đó. Theo đó, phương pháp định tính được

sử dụng trong việc mô tả, đưa ra các khái niệm, đặc điểm của đói nghèo đô thị,

phương thức XĐGN ở đô thị, nội dung và phương thức QLNN nhằm phát triển

các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo đô thị nói chung và thành phố Hà Nội

nói riêng. Phương pháp định tính cho chúng ta biết như thế nào và tại sao:

QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo và tại sao?

5

Phương pháp định lượng được sử dụng để xem xét, đánh giá sự biến động về

đói nghèo, XĐGN, những chuyển động trong QLNN nhằm phát triển các dịch vụ

cơ bản đối với người nghèo ở Hà Nội cũng như lượng hoá một số vấn đề nghiên

cứu có liên quan.

Để kiểm định một số luận điểm theo phương pháp định tính và lượng hoá

một số chỉ tiêu về đói nghèo, XĐGN và QLNN đối với một số dịch vụ cho người

nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả đã tiến hành điều tra theo mẫu

phiếu điều tra XHH nhằm làm rõ nhu cầu và mức độ cung cấp dịch vụ cho người

nghèo. Quy mô điều tra tại 710 hộ dân thuộc 6 quận, huyện (Sóc Sơn, Ba Vì,

Thanh Trì, Hoàng Mai, Ứng Hòa và Mỹ Đức). Kết quả thu về được 648 phiếu

(đạt 91,3%). Kết hợp điều tra 210 cán bộ quản lý thuộc 02 sở (Sở Nông nghiệp

và PTNT, Sở Lao động - TBXH) và Viện nghiên cứu Phát triển KTXH Hà Nội,

thu về được 197 phiếu với việc phỏng vấn sâu 10 nhà quản lý thuộc 2 sở và cán

bộ quản lý của huyện Ba Vì (huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất thành phố) để

nắm rõ đường lối, chủ trương, cơ chế chính sách liên quan đến QLNN nhằm phát

triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn Hà Nội.

Các phiếu điều tra được xử lý bằng phần mềm chuyên dùng SPSS. Kết

quả xử lý phiếu điều tra như ở Phụ lục 1. Kết quả điều tra được sử dụng trong

luận án, đặc biệt là chương 3 của luận án.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án đã có một số đóng góp mới về khoa học như sau:

- Tiếp cận đói nghèo đa chiều, lựa chọn hai loại dịch vụ cơ bản là dịch vụ

tài chính và dịch vụ việc làm làm công cụ giảm nghèo bền vững theo tiếp cận đa

chiều phù hợp với các thành phố lớn như Hà Nội, xây dựng mô hình QLNN đối

với hai loại dịch vụ cơ bản đó.

- Lượng hoá được nghèo theo tiếp cận đa chiều, giảm nghèo và QLNN

nhằm phát triển dịch vụ tài chính và việc làm để giảm nghèo bền vững đối với

người nghèo ở Hà Nội và được kiểm chứng bằng điều tra XHH.

6

- Các giải pháp hoàn thiện QLNN nhằm phát triển hai dịch vụ cơ bản là tài

chính và việc làm đối với người nghèo phù hợp với Hà Nội, phù hợp với cấp

thành phố trực thuộc Trung ương. Kết quả nghiên cứu có thể nhân rộng ra cho các

thành phố lớn khác ở Việt Nam.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công

bố, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung chính của luận án

được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết.

7

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI

NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM

Đói nghèo là hiện tượng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và XĐGN

được nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế và nhiều nhà khoa học quan tâm đặc

biệt. Do vậy, đã có không ít nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước liên quan

đến đề tài. Dưới đây sẽ hệ thống các công trình nghiên cứu trong nước và quốc

tế có liên quan đến đề tài luận án.

1.1.1. Các nghiên cứu về đói nghèo, dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

và vai trò của chính phủ trong việc giải quyết vấn đề đói nghèo trên thế giới

Để góp phần XĐGN ở từng nước và trên toàn cầu, nhiều tổ chức và cá

nhân đã tiến hành các nghiên cứu về đói nghèo, các phương thức XĐGN. Trong

số đó, phải kể đến một số nghiên cứu điển hình, được coi như là “kim chỉ Nam”

trong xây dựng khuôn khổ hành động giải quyết đói nghèo của nhiều quốc gia

trên thế giới như các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (NHTG).

Một nghiên cứu mang tính toàn cầu về đói nghèo của NHTG “Đánh giá

tình trạng nghèo trên thế giới”, được coi là một trong các nghiên cứu khá sớm,

có tính toàn diện và hệ thống về vấn đề đói nghèo. Báo cáo của NHTG đưa ra

quan niệm người nghèo: “Một người được gọi là nghèo khi không có việc làm,

không có đủ tiền để mua lương thực thực phẩm để có thể duy trì được cuộc sống

của mình, không có tiền để cho con đi học và cũng không đủ tiền để chữa bệnh

khi ốm đau” [60, tr.19]. Trong báo cáo này, các thước đo về đói nghèo (chủ yếu

là đói nghèo về thu nhập) được xác định. Điểm nổi bật trong báo cáo này chính

là việc phát hiện và tổng kết các nguyên nhân của đói nghèo, trong đó đặc biệt là

sự hạn chế trong tiếp cận các nguồn lực (như vốn, đất đai) cho sản xuất. Từ đó,

nhóm nghiên cứu đề xuất với chính phủ các nước là cần chú trọng đến các chính

8

sách tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất cho người dân. Trên cơ sở đó

để tăng được thu nhập cho người nghèo, giúp họ tiếp cận với giáo dục và y tế, có

vậy mới thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Tuy nhiên, khung lý thuyết về

giải quyết đói nghèo mà nghiên cứu này đưa ra chưa toàn diện và thiếu cụ thể.

Trong công trình nghiên cứu “Hoàn thiện một số chính sách XĐGN chủ

yếu của Việt Nam đến năm 2015”, tác giả Nguyễn Thị Hoa cho rằng có nhiều

quan niệm khác nhau về đói nghèo. Có ý kiến cho rằng “Đói nghèo là tình trạng

một nhóm người trong xã hội không có khả năng được hưởng một “cái gì đó” ở

mức tối thiểu cần thiết [38, tr.13]. Sự khác nhau về “cái gì đó” đã được đề cập

đến với ba lý thuyết chủ yếu: lý thuyết của trường phái phúc lợi, trường phái nhu

cầu cơ bản và trường phái khả năng.

Theo trường phái phúc lợi, xã hội có hiện tượng đói nghèo khi một hay

nhiều cá nhân trong xã hội không có được một mức phúc lợi kinh tế (thường

được sử dụng đồng nhất với mức sống) được coi là cần thiết để đảm bảo một

cuộc sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. Khi đó, tăng thu nhập

được xem là điều quan trọng nhất để nâng cao mức sống. Theo cách hiểu này,

các chính sách XĐGN sẽ phải tập trung vào việc tăng năng suất, tạo việc làm…

qua đó nâng cao thu nhập để người dân có được mức phúc lợi kinh tế cao hơn.

Trường phái nhu cầu cơ bản coi “cái gì đó” mà người nghèo thiếu là một

tập hợp những hàng hoá và dịch vụ được xác định cụ thể mà việc thoả mãn

chúng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng cuộc sống. Những nhu cầu

cơ bản đó bao gồm: lương thực, thực phẩm, nước, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần

áo, giáo dục và y tế cơ sở, giao thông công cộng. Theo trường phái này, để

XĐGN, cần có chính sách cụ thể đối với từng loại nhu cầu cơ bản, chứ không

chỉ tập trung vào mỗi việc tăng thu nhập cho cá nhân.

Trường phái năng lực coi giá trị cuộc sống của con người không chỉ phụ

thuộc duy nhất vào độ thoả dụng hay thoả mãn các nhu cầu cơ bản, mà đó là khả

năng mà một con người có được, là quyền tự do đáng kể mà họ được hưởng để

vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn. Theo cách hiểu này, điều mà các

9

chính sách XĐGN cần làm là phải tạo điều kiện để người nghèo có được năng

lực thực hiện các chức năng cần thiết, đi từ những thứ rất cơ bản như đủ dinh

dưỡng, có sức khoẻ tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm… đến những nhu cầu

cao hơn như được tôn trọng, được tham gia vào đời sống xã hội, có tiếng nói và

quyền lực. Trường phái này khác cơ bản so với các trường phái trên ở chỗ nó

chú trọng đến việc tạo cơ hội để phát huy năng lực của người nghèo.

Năm 2000, NHTG thực hiện một nghiên cứu khác về đói nghèo trên phạm

vi toàn cầu “Báo cáo tình hình phát triển thế giới: tấn công đói nghèo” [63].

Trong đó, NHTG khẳng định bản chất của đói nghèo là đa chiều: Một là, sự khốn

cùng về vật chất, được đo lường theo thu nhập hoặc tiêu dùng hay nói cách khác

khía cạnh đầu tiên của đói nghèo là đói nghèo theo thu nhập; hai là, sự hưởng

thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế; ba là, nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi

ro, tức là khả năng một hộ gia đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu

nhập hoặc về sức khoẻ; cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực

của người nghèo.

Với phát hiện đói nghèo là đa chiều, các khía cạnh đó có mối quan hệ chặt

chẽ với nhau nên NHTG đề xuất chiến lược tấn công đói nghèo với ba trụ cột

chính đó là tạo cơ hội, trao quyền và thiết lập mạng lưới an sinh xã hội (ASXH),

đồng thời, khuyến cáo các quốc gia 3 điểm: Một, cần có chính sách cụ thể để hỗ

trợ người nghèo có được các nguồn lực cần thiết như đất đai, vốn cho sản xuất

kinh doanh, tạo thu nhập để thoát đói nghèo về vật chất; hai, cần trợ giúp đặc

biệt từ chính phủ về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch cho người nghèo; ba, phát

triển mạng lưới ASXH để giúp người nghèo chống đỡ với những rủi ro, giảm

thiểu tổn thương và cần tạo cơ hội nhiều hơn để người nghèo tham gia hiệu quả

vào các hoạt động ở địa phương.

Như vậy, qua các khuyến cáo của NHTG có thể thấy để XĐGN, có nhiều

dịch vụ cần được cung ứng đến người nghèo, đặc biệt là dịch vụ tín dụng, dịch

vụ đào tạo nghề, tạo việc làm và các dịch vụ xã hội (DVXH) khác như giáo

dục,y tế, cung cấp nước sạch, nhà ở, dịch vụ bảo hiểm...

10

Năm 2004, NHTG thực hiện nghiên cứu “Báo cáo phát triển thế giới

2004: Cải thiện các dịch vụ để phục vụ người nghèo” [64]. Trong đó, nhóm tác

giả làm rõ một số vấn đề như: các dịch vụ nào có thể cải thiện được điều kiện

sống cho người nghèo, chính phủ có thể làm gì để các dịch vụ đó có tác dụng,

khuôn khổ nào cho việc cung ứng hiệu quả dịch vụ cơ bản cho người nghèo.

Báo cáo này đã một lần nữa khẳng định, các dịch vụ có quan hệ trực tiếp

đến sự phát triển của con người đó là giáo dục, y tế, nước, phương tiện vệ sinh

và điện. Đây cũng chính là các dịch vụ phục vụ nhu cầu cơ bản của con người

theo quan niệm nghèo nghèo của trường phái nhu cầu. Các tác giả cũng nhấn

mạnh rằng nghèo nghèo về thu nhập có thể được giải quyết nếu như chính phủ ở

các quốc gia nỗ lực trong thực hiện các chính sách tác động đến tạo thu nhập cho

người nghèo. Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra bốn lý do khiến cho dịch vụ không

đến được với nghèo: i) Chính phủ chi tiêu rất ít cho các dịch vụ mà người nghèo

cần; ii) Tiền khó đến tay nhà cung ứng dịch vụ tuyến đầu; iii) Các nhà cung ứng

dịch không phải khi nào cũng được đãi ngộ xứng đáng; iv) Mức cầu về dịch vụ

của người nghèo thấp do các yếu tố về văn hóa, giới hay khoảng cách xã hội

giữa người nghèo và nhà cung ứng dịch vụ còn khá xa.

Từ đó, nhóm nghiên cứu gợi ý một số cách thức cung ứng dịch vụ cơ bản

cho người nghèo như: chính phủ trung ương cung cấp; ký hợp đồng cung ứng dịch

vụ với khu vực ngoài nhà nước hoặc có thể nhượng quyền cung ứng dịch vụ cho tư

nhân; chính quyền cấp trên chuyển trách nhiệm cho chính quyền bên dưới, hoặc

chuyển trách nhiệm cho cộng đồng, khách hàng, các hộ gia đình [64, tr.4-7].

Ngoài ra, không ít các nghiên cứu tại nhiều quốc gia riêng lẻ gắn với điều

kiện cụ thể của địa phương. Chẳng hạn, công trình “Phát triển quỹ hỗ trợ các

dịch vụ cơ bản cho người nghèo khu vực đô thị” tại thành phố Hyderabad (Ấn

Độ) [119], do Trung tâm nghiên cứu quản lý thành phố Hyderabad thực hiện

năm 2010. Nhóm nghiên cứu làm rõ khái niệm đói nghèo đô thị, ý nghĩa của việc

giảm nghèo, sự cần thiết của việc cung cấp dịch vụ cơ bản (gồm 7 dịch vụ: bảo

hiểm về biến động giá, cải thiện nhà ở, cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo

11

dục, y tế và bảo hiểm xã hội) cho người nghèo, ý nghĩa của quỹ hỗ trợ cung cấp

các dịch vụ cơ bản. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đã đề xuất quy trình quản lý

và phát triển quỹ hỗ trợ dịch vụ cơ bản đối với người nghèo đô thị tại thành phố

Hyderabad (Ấn Độ).

1.1.2. Các nghiên cứu về dịch vụ cơ bản cho người nghèo và quản lý nhà

nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo ở Việt Nam

Năm 1995, lần đầu tiên, một nghiên cứu về đói nghèo trên phạm vi cả

nước được NHTG thực hiện với tiêu đề “Đánh giá đói nghèo và chiến lược”

[67]. Điểm nổi bật của báo cáo này chính là tổng hợp được các quan niệm khác

nhau về đói nghèo và đặc điểm của người nghèo ở Việt Nam. Thông qua đánh

giá thực trạng đói nghèo của Việt Nam, nghiên cứu này đã chỉ ra các nguyên

nhân gây ra đói nghèo: “... do thiếu các nguồn lực sản xuất kinh doanh như vốn,

đất đai; do trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định; do bệnh tật và

sức khỏe kém; do sự cách biệt về địa lý như hệ thống đường giao thông chưa

phát triển” [67, tr.6-12]. Các phát hiện về nguyên nhân đói nghèo đã là cơ sở

quan trọng để các nhà hoạch định chính sách Việt Nam xây dựng chiến lược tấn

công đói nghèo. Báo cáo chỉ rõ, để XĐGN, nếu chỉ chú trọng vào các chính sách

tăng trưởng kinh tế thì chưa đủ, mà cần phải có các chính sách tác động trực tiếp

đến người nghèo như tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các nguồn lực sản xuất.

Trong Báo cáo “Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam” [108] do UNDP thực

hiện năm 1995, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra các nguyên nhân gây ra đói nghèo ở

Việt Nam, đồng thời khẳng định: “Để giải quyết đói nghèo cần tăng khả năng

tiếp cận các nguồn lực cơ bản như đất đai, vốn ưu đãi cho người nghèo. Đặc biệt,

hỗ trợ về giáo dục và y tế để giải quyết được tình trạng trình độ học vấn thấp

cũng như sức khỏe yếu kém của người nghèo” [108, tr.34]. Cùng với các nghiên

cứu của NHTG, nghiên cứu của UNDP tập trung vào nhận diện người nghèo và

nguyên nhân đói nghèo của Việt Nam, làm cơ sở để cho Chính phủ ban hành

chương trình XĐGN với các nhóm giải pháp tập trung vào cải thiện thu nhập cho

người nghèo và khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế.

12

Trong Báo cáo “Việt Nam tấn công đói nghèo” thực hiện năm 2000 của

mình, NHTG đã khái quát một bức tranh tổng thể về đói nghèo với những đặc

trưng của người nghèo ở Việt Nam và chỉ rõ “Những người dân nhập cư thành

thị nghèo và không có hộ khẩu gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch

công cộng (giáo dục, y tế, DVVL)”. Nhóm nghiên cứu khuyến cáo cần tiến hành

ngay cải cách nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp hơn [63, tr.46]. Nhóm

nghiên cứu cũng đã tiến hành đánh giá tác động của hệ thống chính sách hỗ trợ

người nghèo đến giảm nghèo trong cả nước, nêu kết quả của một số chính sách

lớn như: tín dụng ưu đãi cho người nghèo, chính sách hỗ trợ y tế và giáo dục cho

người nghèo, chính sách việc làm, chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng...

Nhóm nghiên cứu cũng chỉ rõ rằng sự lựa chọn cách tiếp cận XĐGN của Chính

phủ Việt Nam theo cách của NHTG (với ba trụ cột chính) là đúng đắn.

Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác do các tổ chức trong và ngoài nước

triển khai thực hiện điển hình như: các bài viết trong cuốn “Kỷ yếu hội nghị sơ

kết ba năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm giai

đoạn 2001-2005” do Bộ Lao động TBXH chủ trì [6]; “Số liệu thống kê XĐGN

giai đoạn 1998-2000 và 2001-2003” của Bộ Lao động TBXH và Chương trình

hợp tác Việt - Đức về XĐGN [7]; “Đánh giá nghèo theo vùng tại đồng bằng

Sông Hồng” do UNDP thực hiện năm 2003 [109].

Để làm rõ hơn vai trò của Chính phủ trong cung ứng các dịch vụ cần thiết

cho người nghèo, có một số nghiên cứu của các tổ chức và cá nhân trong và

ngoài nước đã thực hiện về dịch vụ tín dụng, DVXH, dịch vụ đào tạo nghề.

Một trong các nghiên cứu nhằm cải thiện khả năng tiếp cận nhiều dịch vụ

cung ứng cho người nghèo đó là công trình nghiên cứu về thực trạng đói nghèo

và đề xuất hoàn thiện chính sách giảm nghèo công bố năm 2000 của Nguyễn Thị

Hoa. Tác giả đã khẳng định:“Công cuộc XĐGN ở Việt Nam chỉ thành công khi

Chính phủ xây dựng được chiến lược tấn công đói nghèo kết hợp với chiến lược

tăng trưởng hướng tới người nghèo” [121] và vai trò của Chính phủ là rất lớn

“trong hoạch định và ưu tiên nguồn lực để thực hiện các chính sách hỗ trợ trực

13

tiếp tạo cơ hội cho người nghèo như chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo,

chính sách tạo việc làm cho người nghèo...” [121, tr.36-37]. Cũng trong nghiên

cứu này, tác giả đã khẳng định sự thành công của các chính sách hỗ trợ trực tiếp

cho người nghèo phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức thực hiện các chính sách, đòi

hỏi các cấp chính quyền địa phương phải thực sự vào cuộc và coi đây là nhiệm

vụ chính trị quan trọng của mình.

Một số nghiên cứu gần đây như “Tiếp tục cải cách và đổi mới khu vực tổ

chức sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ giáo dục và y tế ở Việt Nam” [2] của

tác giả Nguyễn Thi Tuệ Anh (2010); các công trình nghiên cứu “Phát triển dạy

nghề, tạo việc làm và hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng yếu thế giai đoạn

2006-2015” và “Hoàn thiện chế độ, cơ chế tài chính trợ cấp tại cộng đồng cho

đối tượng xã hội” của Bộ Lao động TBXH [9] thực hiện năm 2007.

Một nghiên cứu được UNDP thực hiện năm 2011 về “Dịch vụ xã hội phát

triển con người” [17]... Các nhà nghiên cứu đã phân tích khoảng cách trong tiếp

cận các dịch vụ y tế và giáo dục ở cấp địa phương và giữa các nhóm KTXH.

Việc cung cấp các DVXH và các cơ chế tài chính và quản lý trong cung ứng

DVXH hiện nay đã ảnh hưởng như thế nào đến việc tiếp cận và chất lượng của

các dịch vụ y tế và giáo dục là một nội dung chính được các nhà nghiên cứu giải

quyết trong báo cáo này. Trong đó, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng cơ chế

tài chính, cung cấp dịch vụ và quản lý các DVXH ở Việt Nam dường như đều

đang đóng góp làm sâu sắc hơn tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận các

DVXH. Công tác QLNN đối với các dịch vụ y tế và giáo dục cũng bị ảnh hưởng

đáng kể từ cơ chế phân cấp về tài chính và quản lý cho tổ chức cung cấp dịch vụ.

Nhóm nghiên cứu đã đề xuất các cơ chế, chính sách cụ thể và phương thức tổ

chức thực hiện các chính sách đó để giải quyết được vấn đề đói nghèo cho các

đối tượng khác nhau.

Một số nghiên cứu tập trung vào dịch vụ tín dụng cho người nghèo. Với

quan điểm cho rằng tín dụng có vai trò lớn trong công cuộc XĐGN ở Việt Nam,

tác giả Đào Văn Hùng với công trình “Các giải pháp tín dụng đối với người

14

nghèo ở Việt Nam hiện nay” năm 2000 làm rõ vai trò của tín dụng trong việc

giảm nghèo ở nông thôn và một số kinh nghiệm quốc tế về cung cấp tín dụng

cho người nghèo. Tác giả cũng chỉ ra rằng cần “mở rộng thông qua các tổ chức

tài chính hiện hành bằng cách cải cách môi trường chính sách cho phù hợp, đặc

biệt chính sách lãi suất, khuôn khổ thể chế pháp lý và giám sát” và để làm được

điều này, vai trò của chính phủ là rất lớn, đặc biệt trong cải cách môi trường

chính sách [46, tr.130, 146].

Một nghiên cứu khác tuy không trực tiếp liên quan đến dịch vụ cơ bản cho

người nghèo là “Quản lý nhà nước đối với cung ứng dịch công” [35] của Đỗ Thị

Hải Hà năm 2007. Tác giả tập trung làm rõ những nội dung QLNN về dịch vụ

nói chung và dịch vụ công nói riêng. Theo đó, nội dung QLNN đối với cung ứng

dịch vụ công gồm có: Xác định và phân loại chính xác các dịch vụ công; hình

thành quan điểm, nguyên tắc, mô hình cung ứng dịch vụ công; xây dựng bộ máy

triển khai việc cung ứng dịch vụ công; huy động nguồn lực, lựa chọn phương

thức, phương pháp, chính sách cung ứng dịch vụ công; theo dõi, kiểm tra đo

lường, đánh giá kết quả hoạt động cung ứng dịch vụ công và đổi mới cung ứng

dịch vụ công [35, tr.34].

1.2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓI NGHÈO,

DỊCH VỤ CHO NGƯỜI NGHÈO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN

CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO Ở HÀ NỘI

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về đói nghèo ở Hà Nội

Mặc dù Hà Nội là Thủ đô và là một trong các thành phố lớn của Việt Nam

nhưng đói nghèo cũng là một vấn đề nổi cộm cần được quan tâm giải quyết. Vì

vậy, đã có không ít công trình nghiên cứu về đói nghèo và XĐGN của Hà Nội.

Công trình nghiên cứu: “Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội

trong quá trình đô thi hóa” của tác giả Phạm Minh Liên (2008) [51]. Tác giả tập

trung làm rõ thực trạng đói nghèo của các huyện ngoại thành trong bối cảnh đẩy

nhanh tốc độ đô thị hóa. Tác giả chỉ ra rằng nhiều hộ gia đình bị rơi vào tình

trạng nghèo do thiếu tư liệu sản xuất, không chuyển đổi nghề kịp thời nên rơi

15

vào tình trạng thất nghiệp. Hay có những trường hợp nghèo vì chưa biết cách

làm ăn hoặc chưa có vốn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh khi không

còn sản xuất nông nghiệp... Ngoài ra, quá trình đô thị hóa cũng dẫn đến tình

trạng các hộ nghèo gặp khó khăn về nước sinh hoạt. Từ đó, tác giả đề xuất một

số giải pháp nhằm giải quyết việc làm, khắc phục hạn chế trong sử dụng vốn tín

dụng, cung cấp nước sạch, hỗ trợ về giáo dục, y tế cho các hộ nghèo. Hướng giải

quyết này có nhiều điểm đồng nhất với tác giả Bùi Thu Thủy, trong nghiên cứu

“Thực trạng XĐGN ở huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, kinh nghiệm và giải

pháp” [99] năm 2008. Tuy nhiên, mỗi giải pháp có khác biệt về cách thức thực hiện

do xuất phát từ đặc thù riêng của từng địa phương.

Để làm rõ tình trạng đói nghèo và tìm giải pháp thúc đẩy XĐGN, được sự

tài trợ của UNDP, năm 2010, UBND thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí

Minh tiến hành nghiên cứu “Đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ

Chí Minh” [16]. Đây là một nghiên cứu về đói nghèo ở Hà Nội với việc sử dụng

hai cách tiếp cận là cách truyền thống sử dụng thu nhập và chuẩn nghèo thu nhập

làm công cụ và cách tiếp cận mới đánh giá nghèo đa chiều (bao gồm cả kinh tế

và các chiều xã hội). Kết quả nghiên cứu cho thấy ở khu vực đô thị hiện nay, đói

nghèo về kinh tế không còn là vấn đề bức xúc nữa mà mối quan tâm sẽ ngày

càng tăng lên đối với mức độ và tính bình đẳng trong tiếp cận các DVXH cơ

bản” như giáo dục, y tế, nhà ở, việc làm, hệ thống ASXH [16, tr.100]. Một khó

khăn lớn của người nghèo là vay vốn của Ngân hàng CSXH (chỉ có 1,5% hộ

nghèo vay được vốn của Ngân hàng này); phần lớn họ phải vay vốn phi chính

thức từ bạn bè, người thân (10,9%) [16, tr.145]. Ngoài ra, đặc điểm chung ở hai

thành phố này là “ba chiều đóng góp nhiều nhất cho chỉ số nghèo đa chiều là

thiếu hụt tiếp cận hệ thống ASXH, thiếu hụt tiếp cận dịch vụ nhà ở (điện, nước,

thoát nước, rác thải,...) và thiếu hụt về chất lượng và diện tích nhà ở” [16,

tr.116]. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, nếu nhìn nhận một cách thực tế thì

“giảm nghèo dựa trên tiêu chí kinh tế (thu nhập, chi tiêu) tỏ ra không phù hợp” mà

“cách tiếp cận đa chiều có vẻ phù hợp hơn, theo đó đời sống của dân cư cần được

16

đánh giá dựa trên một số khía cạnh KTXH và các chính sách giảm nghèo, nâng cao

đời sống người dân cần dựa trên cách đánh giá nhiều chiều này” [16, tr.117]. Nhóm

nghiên cứu khuyến nghị thành phố cần quan tâm hỗ trợ người nghèo tiếp cận hệ

thống ASXH; cải thiện các dịch vụ nhà ở; tăng cường công tác giáo dục và phổ

cập giáo dục trung học cơ sở; hỗ trợ cho vay vốn tín dụng ưu đãi và tín dụng

nhỏ; hỗ trợ dạy nghề và giải quyết việc làm [16, tr.145]. Trong đó, cải thiện khả

năng tiếp cận tín dụng được coi là chìa khóa để giải quyết đói nghèo về thu nhập.

Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp ngành “Hoạt động tín dụng góp

phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành Thủ đô Hà Nội” [106]

năm 2011 của Chi nhánh Ngân hàng CSXH thành phố Hà Nội chỉ rõ hạn chế tiếp cận

tín dụng của hộ nghèo là do mạng lưới hệ thống tín dụng tuy phát triển không đồng

đều, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa của thành phố” [106, tr.38].

1.2.2. Các nghiên cứu về dịch vụ cho người nghèo và quản lý nhà nước

nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo ở Hà Nội

Liên quan đến vấn đề này, có một số ít công trình nghiên cứu như “Nâng

cao khả năng tiếp cận các DVXH của người nghèo thành thị Hà Nội” [118] của

Viện Nghiên cứu phát triển KTXH Hà Nội thực hiện năm 2002. Nhóm nghiên

cứu đã nêu bức tranh khá toàn diện về thực trạng tiếp cận các DVXH của người

nghèo ở Hà Nội. Theo nghiên cứu này, người nghèo được tiếp cận với giáo dục

chất lượng không cao do không có khả năng chi trả [118, tr.53]. Đối với dịch vụ

y tế, do “có sự khác biệt khá nhiều về chi tiêu giữa người giàu và người nghèo”

nên dẫn đến sự lựa chọn nơi khám chữa bệnh cũng có sự khác biệt giữa hai

nhóm này “người nghèo vẫn yếu thế hơn trong việc tiếp cận các cơ sở y tế, đa số

người nghèo khi ốm sẽ lựa chọn không đi khám, tự điều trị hoặc nếu có đi khám thì

đến các bệnh viện huyện, quận nơi mà chất lượng dịch vụ y tế được đánh giá không

cao” [118, tr.59]. Tác giả chỉ rõ các nguyên nhân của tình trạng này, trong đó nhấn

mạnh hạn chế trong QLNN đối với các DVXH là một nguyên nhân cơ bản.

Về vấn đề lao động và việc làm của lao động nông thôn ngoại thành Hà

Nội, trong cuốn“Đô thị hoá và lao động việc làm ở Hà Nội” [37], tác giả Hoàng

17

Văn Hoa (2007) chỉ ra sự bất cập trong đào tạo nghề: đào tạo không gắn với nhu

cầu thực tế, thiếu sự gắn kết, chia sẻ trách nhiệm giữa cơ sở đào tạo và doanh

nghiệp; tình hình đào tạo ra không bố trí được việc làm, trong khi doanh nghiệp

lại thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực

Tác giả Nguyễn Tiệp (2005) trong cuốn “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại

thành trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội” [102], chỉ rõ tình

trạng yếu kém của nguồn nhân lực, nhất là về chất lượng. Tác giả đề xuất các

phương án đào tạo nghề cho những địa bàn ngoại thành phù hợp với hoàn cảnh,

yêu cầu và khả năng của các địa phương.

Về vấn đề nhà ở cho những người có thu nhập thấp, công trình nghiên cứu

“Thực trạng và giải pháp giải quyết nhà ở cho người thu nhập thấp ở Hà Nội”

[69] do tác giả Hoàng Xuân Nghĩa (2007) làm chủ nhiệm chỉ ra bức tranh nhà ở

ngày càng nan giải và bức xúc đối với người nghèo trên địa bàn Hà Nội. Tác giả

chỉ ra rằng để giải quyết căn cơ, bền vững nhà ở cho người thu nhập thấp trên địa

bàn, cần nắm vững xu hướng đô thị hoá và quy luật thị trường, đồng thời vận

dụng tốt các cơ chế, chính sách ưu đãi và hỗ trợ tích cực của Nhà nước, thực

hiện Chương trình bao cấp nhà ở có mục tiêu cho người thu nhập thấp. Ngoài

ra, cần có giải pháp và mô hình nhà ở khả thi trong thực tế.

Ngoài ra, còn có khá nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu khác đề

cập đến các vấn đề như: dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục, nước sạch, vệ sinh môi

trường,... trên địa bàn Hà Nội cũng được nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm nghiên

cứu trong thời gian qua.

1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.3.1. Các kết quả đạt được từ các nghiên cứu liên quan đến đề tài

luận án

Từ các công trình nghiên cứu đã phân tích ở trên, có thể rút ra một số kết

quả, kết luận khoa học có thể kế thừa khi nghiên cứu đề tài luận án:

18

Một là, cách tiếp cận đói nghèo ngày càng phù hợp hơn, sát thực hơn.

Trong từng giai đoạn nhất định, cách tiếp cận đói nghèo có khác nhau nhưng xu

hướng chung hiện nay là tiếp cận đói nghèo đa chiều. Theo đó, khái niệm và bản

chất của đói nghèo cũng đã có sự thay đổi: đói nghèo không đơn thuần là thu

nhập thấp, thiếu ăn mà còn là những hạn chế trong tiếp cận các dịch vụ, tiếp cận

nguồn lực, nguy cơ dễ bị tổn thương, rủi ro, và ít có cơ hội nói lên tiếng nói của

mình trong cộng đồng. Từ đó, nguyên nhân của đói nghèo cũng rất đa dạng: do

năng lực và điều kiện của người nghèo, do những tác động khách quan, do thiếu

sự hỗ trợ của nhà nước và nhiều nguyên nhân khác.

Hai là, các công trình nghiên cứu đều có những đề xuất ở các mức độ

khác nhau về cách thức, biện pháp XĐGN: tạo việc làm để tăng thu nhập, tạo

điều kiện cho người nghèo tiếp cận nguồn lực, cung cấp các dịch vụ cho người

nghèo,... Trong đó, cung cấp dịch vụ cơ bản cho người nghèo là nhóm giải pháp

quan trọng hiện nay ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các dịch vụ cơ bản như: dịch vụ

nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo dục, y tế. Ngoài ra, cần chú trọng

nhóm dịch vụ trực tiếp hỗ trợ người nghèo cải thiện thu nhập như dịch vụ tín

dụng, DVVL; nhóm dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho người nghèo.

Điều quan trọng là các nghiên cứu đã khẳng định nếu người nghèo được

cung cấp các dịch vụ cơ bản đó, cơ hội thoát nghèo sẽ rất cao nhưng trên thực tế

họ lại đang bị hạn chế trong tiếp cận và sử dụng chúng. Để giải quyết được vấn

đề đó, vai trò của chính phủ là rất lớn, thể hiện từ khâu hoạch định chiến lược,

chính sách và tổ chức thực hiện cung ứng các dịch vụ cơ bản.

Ba là, các nghiên cứu trong và ngoài nước về đói nghèo tuy không trực

tiếp đề cập đến vấn đề QLNN đối với cung ứng dịch vụ cơ bản cho người nghèo

nhưng các tác giả đều đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của một số dịch vụ được

coi là không thế thiếu được khi giải quyết vấn đề đói nghèo và cần đến can thiệp

của chính phủ để đảm bảo người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ đó không

chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Các khuyến cáo chính phủ nên làm gì trong

19

các nghiên cứu này sẽ được luận án kế thừa khi đề cập sâu hơn trong vai trò

QLNN đối với một số dịch vụ cơ bản cho người nghèo ở Hà Nội.

Bốn là, tuy chỉ có rất ít nghiên cứu về QLNN nhằm phát triển các dịch vụ

cơ bản đối với người nghèo (có một nghiên cứu tập trung vào QLNN đối với

dịch vụ công), nhưng một số kết quả nghiên cứu thể được kế thừa như nội dung

QLNN đối với cung ứng dịch vụ trong xây dựng khung lý thuyết về QLNN đối

với các dịch vụ cơ bản cho người nghèo. Đây là một trong những nội dung quan

trọng của luận án vì dựa vào khung lý thuyết này, nghiên cứu sinh tiến hành

đánh giá được thực trạng QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với

người nghèo ở Hà Nội.

1.3.2. Các vấn đề liên quan đến đề tài luận án cần tiếp tục nghiên cứu

làm rõ

Từ tổng quan các công trình nghiên cứu cho thấy, đến nay, còn nhiều vấn

đề về dịch vụ cơ bản đối với người nghèo và QLNN nhằm phát triển các dịch vụ

này chưa được làm rõ, cần tiếp tục nghiên cứu. Cụ thể như sau:

Một là, đối tượng chính của các nghiên cứu là đói nghèo nên mới chỉ

dừng ở mức độ thống nhất về cách nhận dạng người nghèo thông qua quan niệm

cũng như đặc điểm của người nghèo. Vì vậy, các nghiên cứu chỉ gián tiếp chỉ ra

những dịch vụ nào cần thiết để giải quyết đói nghèo, đảm bảo cung cấp cho

người nghèo. Chỉ có rất ít nghiên cứu đề cập đến các dịch vụ cơ bản cho người

nghèo là gì. Tuy nhiên, các nghiên cứu này cũng chưa làm rõ được những dịch

vụ cơ bản nào là phù hợp đối với giải quyết đói nghèo ở từng địa phương có điều

kiện KTXH cụ thể khác nhau.

Hai là, một số tác giả nghiên cứu ở khía cạnh này hay khía cạnh khác của

dịch vụ cơ bản cho người nghèo. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đó chủ yếu tập

trung vào một số dịch vụ như dịch vụ tín dụng, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế,

chưa có một nghiên cứu riêng nào về DVVL cho người nghèo.

Ba là, các nghiên cứu trực tiếp vào QLNN chưa làm rõ được sự khác biệt

giữa QLNN nói chung và QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản cho người

20

nghèo, QLNN đối với cung ứng dịch vụ cơ bản cho người nghèo. Điều này dễ

dẫn đến sự lẫn lộn khi đề cập đến nội dung QLNN đối với dịch vụ cơ bản cho

người nghèo.

Bốn là, đến nay có nhiều nghiên cứu về đói nghèo của Hà Nội. Tuy nhiên,

nếu xét về thời gian thì các nghiên cứu này phần lớn được thực hiên trước năm

2010. Do đó, bức tranh toàn cảnh về đói nghèo của Hà Nội đến nay chưa được

phản ánh đầy đủ. Vì vậy, cần có những nghiên cứu sâu để phản ánh được thực

trạng về đói nghèo của Hà Nội và xác định xu hướng đói nghèo của Hà Nội đến

năm 2020.

Năm là, mặc dù các nghiên cứu liên quan đến đói nghèo, đặc biệt là

nghiên cứu về dịch vụ cơ bản cho người nghèo đều khẳng định chính phủ có vai

trò quan trọng đối với cung ứng dịch vụ cơ bản cho người nghèo. Tuy nhiên, đến

nay chưa có nghiên cứu nào trên phạm vi cả nước nói chung và ở Hà Nội nói

riêng về vấn đề QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo.

Do đó, yêu cầu đặt ra cần nghiên cứu một cách hệ thống để xác định trong bối

cảnh hiện nay, dịch vụ cơ bản đối với người nghèo Hà Nội gồm những dịch vụ

nào, thực trạng cung ứng dịch vụ đó thời gian qua ở Hà Nội như thế nào và vai

trò QLNN đối với dịch vụ đó cho người nghèo Hà Nội ra sao...

Từ những phân tích trên cho thấy việc lựa chọn “Quản lý nhà nước

nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố

Hà Nội” làm đề tài luận án tiến sĩ là hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu về mặt lý luận

và thực tiễn đặt ra.

21

Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO

2.1. NGƯỜI NGHÈO VÀ CÁC DỊCH VỤ CẦN THIẾT CHO NGƯỜI NGHÈO

2.1.1. Khái quát về người nghèo và nguyên nhân đói nghèo

2.1.1.1. Quan niệm về đói nghèo và người nghèo trên thế giới

Khi đề cập đến vấn đề đói nghèo, luôn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.

Xét trên góc độ lý thuyết, đói nghèo được xác định theo ba trường phái lý thuyết

khác nhau:

Trường phái phúc lợi coi đói nghèo là hiện tượng mà một bộ phận dân cư

chưa đạt tới mức phúc lợi kinh tế cần thiết để đảm bảo một cuộc sống tối thiểu

hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. Theo cách quan niệm này, các chính sách

XĐGN sẽ phải tập trung vào việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân.

Quan niệm về đói nghèo như vậy tuy được coi là cần, nhưng chưa đủ vì đói

nghèo còn bao hàm nhiều khía cạnh khác chứ không chỉ riêng thu nhập.

Trường phái nhu cầu cơ bản coi người nghèo là một bộ phận dân cư

không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản đó như: lương thực, thực phẩm,

nước, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục và y tế cơ sở, và giao

thông công cộng. Tại Hội nghị về chống đói nghèo do Ủy ban KTXH khu

vực châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tại Băng Cốc, Thái Lan (diễn ra từ

ngày 15-17 tháng 9 năm 1993) đã đưa ra định nghĩa: “Nghèo là tình trạng

một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con

người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát

triển KTXH và phong tục tập quán của địa phương”.Tuy nhiên, một khó

khăn lớn nhất đối với quan niệm đói nghèo theo trường phái nhu cầu cơ bản

là nhu cầu cơ bản cũng thay đổi tùy theo tuổi tác, giới tính, trình độ phát

triển của quốc gia...

22

Trường phái năng lực coi đói nghèo là sự hạn chế về khả năng hay năng

lực của con người trong việc thực hiện các chức năng cần thiết, từ những thứ rất

cơ bản như đủ dinh dưỡng, có sức khoẻ tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm…

đến những chức năng cao hơn như tham gia vào đời sống xã hội, có tiếng nói và

quyền lực. Do vậy, trường phái này chú trọng đến việc tạo cơ hội cho người

nghèo để họ có thể phát huy năng lực theo cách mà họ lựa chọn.

Ngày nay, hầu hết các tổ chức quốc tế như NHTG, Liên hợp quốc đều đã

mở rộng khái niệm đói nghèo để bao hàm cả những khía cạnh về năng lực. Theo

đó, đói nghèo gồm những khía cạnh cơ bản như sau: là sự khốn cùng về vật chất,

được xác định theo thu nhập hoặc tiêu dùng; sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và

y tế; nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro; không có tiếng nói và quyền lực.

Theo Liên hợp quốc, nghèo là sự thiếu hụt so với một mức sống tối thiểu

của một quốc gia và nghèo có 2 dạng: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.

Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng

thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là

những bảo đảm ở mức tối thiểu những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và nhu

cầu sinh hoạt hàng ngày gồm: văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp.

Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức

trung bình của cộng đồng tại địa phương mà bộ phận dân cư đó đang sinh sống.

Năm 1995, tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức

tại Copenhaghen (Đan Mạch), khái niệm người nghèo được đưa ra: “người

nghèo là tất cả những người mà thu nhập thấp hơn l USD/ngày, là số tiền được

coi như đủ mua những sản phẩm tất yếu để tồn tại”.

Theo NHTG, từ những năm 80 cho đến nay, chuẩn mực để xác định ranh

giới giữa người giàu với người nghèo ở các nước đang phát triển và các nước

ASEAN được xác định bằng mức chi phí lương thực, thực phẩm cần thiết để

duy trì cuộc sống với mức tiêu dùng nhiệt lượng từ 2100 - 2300 calo/ngày/người

hoặc mức thu nhập bình quân tính ra tiền là 370USD/người/năm. Chẳng hạn,

23

Ấn Độ lấy tiêu chuẩn là 2250 calo/người/ngày; Bănglađet lấy tiêu chuẩn là

2100 calo/người/ngày; Inđônêxia là 2100calo/người/ngày; Trung Quốc là

2150calo/người/ngày. Đối với các nước công nghiệp phát triển châu Âu là 2570

calo/người/ngày.

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo, nhưng nói đến người

nghèo là đề cập đến các khía cạnh như: Không có hoặc ít được hưởng thụ những

nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu của cuộc sống con người; mức sống thấp hơn

mức sống trung bình của cộng đồng dân cư địa phương; thiếu hoặc không có cơ

hội lựa chọn để tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.

Khái niệm nghèo có thể thống nhất về mặt định tính song không thể thống

nhất về mặt định lượng. Bởi vì, mỗi quốc gia khác nhau thì mức sống của người

dân cũng khác nhau hoặc ngay trong một quốc gia, mức sống giữa các vùng,

miền cũng có sự khác nhau. Hơn nữa, về mặt định lượng, mức nghèo cũng biến

động theo thời gian tương ứng với sự biến động về sự phát triển KTXH của quốc

gia đó. Do vậy, mỗi quốc gia xây dựng cho mình một thước đo mức độ đói

nghèo riêng thông qua những tiêu chí cụ thể được xác định gọi là chuẩn nghèo

và lấy đó làm cơ sở xác định tỷ lệ đói nghèo của quốc gia.

Tỷ lệ nghèo: Tỷ lệ nghèo là số phần trăm số người hoặc số hộ có mức

sống thấp hơn chuẩn nghèo trong tổng số người hoặc số hộ sinh sống trên địa

bàn. Trong đó, mức sống được đo bằng các thước đo như sau:

- Thước đo đơn chiều: Thước đo này đo khía cạnh về kinh tế của mức

sống và được tính theo thu nhập hoặc chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia

đình từ các cuộc điều tra thu nhập, chi tiêu hoặc điều tra mức sống hộ gia đình.

- Thước đo đa chiều: Thước đo đa chiều xem xét mức sống của dân cư

một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn. Nó đo lường mức sống cả mặt kinh tế lẫn

chất lượng cuộc sống theo các chiều cạnh khác nhau như: tình trạng phi tiền tệ,

tình trạng dễ bị tổn thương, rủi ro, quyền tự do, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị phân

biệt đối xử, bị vi phạm quyền con người v.v.. Tuy nhiên, do khó khăn về số liệu

24

nên trong thực tế thước đo nghèo đa chiều chỉ đo lường sự phát triển con người

về 3 chiều: tuổi thọ bình quân; trình độ học vấn và chất lượng cuộc sống (đo

bằng GDP thực tế bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương - PPP).

2.1.1.2. Quan niệm đói nghèo và người nghèo ở Việt Nam

Trên thực tế, quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam khá phong phú, có sự

thay đổi và ngày một gần với quan niệm đói nghèo của thế giới. Trước đây, với

việc chia đói nghèo thành đói và nghèo thì căn cứ xác định đói và nghèo là

những nhu cầu cơ bản con người không được hưởng và thoả mãn. Nhu cầu cơ

bản ở đây chính là những thứ thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con

người như ăn, mặc, ở. Theo đó, đói nghèo tuyệt đối, sự bần cùng được biểu

hiện là tình trạng con người không có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối

thiểu, sự đứt đoạn trong nhu cầu ăn. Nói một cách khác, đói là một khái niệm

biểu đạt tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu

cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản

xuất sức lao động. Đói lại được chia ra làm đói gay gắt kinh niên (thiếu ăn

thường xuyên) và đói gay gắt cấp tính do những biến động đột xuất, bất ngờ

như thiên tai bão lụt, mất mùa, bệnh tật,... dẫn tới tình trạng không có đủ ăn và

có thể dẫn tới cái chết.

Dù ở dạng nào thì đói đều đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh

dưỡng với các biểu hiện như: thất thường về lượng (bữa đói, bữa no); đứt bữa

(ngày chỉ ăn một bữa hoặc bữa cơm, bữa cháo hoặc cả hai bữa đều không đủ

năng lượng tối thiểu); đứt bữa kéo dài tới 1-3 tháng trong năm, nhất là thời kỳ

giáp hạt. Hoặc nếu đo lượng calo thì thiếu đói (thiếu ăn) là tình trạng con người

ăn chỉ ở mức 1500 calo/ngày, dưới mức đó là đói gay gắt.

Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng khi mà thu nhập thực tế của người dân

chỉ dành hầu như toàn bộ cho ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần tích luỹ

hầu như không có. Các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra như ở, mặc, y tế, giáo dục,

đi lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi, không đáng kể.

25

Để lượng hoá được tỷ lệ nghèo, người ta đưa ra khái niệm chuẩn nghèo,

gồm chuẩn nghèo quốc tế, chuẩn nghèo quốc gia và địa phương.

Chuẩn nghèo thường được đo bằng mức thu nhập (hoặc chi tiêu) bình

quân đầu người mà một quốc gia quy định dùng làm tiêu chuẩn để xác định

người nghèo hoặc hộ nghèo. Theo đó, “những người hoặc những hộ có thu nhập

(hoặc chi tiêu) bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo được coi là người

nghèo hoặc hộ nghèo” [104].

NHTG đã đưa ra thước đo nghèo (chuẩn nghèo) như sau: Các nước công

nghiệp phát triển là 14 USD/ngày/người; các nước Đông Á là 4USD/người/ngày;

các nước thuộc Mỹ latinh và vùng Caribê là 2 USD/người/ngày; các nước đang

phát triển là 1USD/người/ngày. Đối với các nước nghèo, một số người được coi

là đói nghèo khi mà thu nhập dưới 0,5USD/ngày/người [67]. Tuy nhiên, các

quốc gia đều tự đưa ra chuẩn đói, nghèo riêng của nước mình và thường thấp

hơn chuẩn đói nghèo mà NHTG khuyến nghị.

Ở Việt Nam, theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH của Bộ Lao

động TBXH, chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005 được tính theo mức thu nhập

bình quân đầu người trong hộ, cụ thể như sau: Vùng nông thôn, miền núi và hải

đảo là 80.000 đồng/người/tháng; vùng nông thôn đồng bằng: 100.000

đồng/người/tháng; vùng thành thị 150.000 đồng/người/tháng [11]. Những hộ có

thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định đó là hộ nghèo.

Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg, chuẩn nghèo áp dụng cho giai

đoạn 2006-2010 được xác định dựa trên thu nhập bình quân của hộ gia đình như

sau: Khu vực nông thôn 200.000 đồng/người/tháng trở xuống; khu vực thành thị

260.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo [94].

Giai đoạn 2011-2015, chuẩn nghèo được điều chỉnh lại theo Quyết định số

09/2011/QĐ-TTg. Theo đó, mức thu nhập bình quân mỗi người/tháng như sau:

Hộ nghèo ở nông thôn 400.000 đồng trở xuống; hộ nghèo ở thành thị 500.000

đồng trở xuống; hộ cận nghèo ở nông thôn: 401.000 đồng đến 520.000 đồng; hộ

cận nghèo ở thành thị: 501.000 đồng đến 650.000 đồng [96].

26

Ngoài ra, ở Việt Nam, tiêu chí xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, huyện

nghèo cũng được quy định. Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-BLĐTBXH, xã

nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên và chưa có đủ từ 3 trong 6 hạng

mục kết cấu hạ tầng (KCHT) thiết yếu (đường giao thông; trường học; trạm y tế;

nước sinh hoạt; điện sinh hoạt; chợ) [5] như: có dưới 30% số hộ sử dụng nước

sạch; dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt; chưa có đường ô tô đến trung tâm

xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm; số phòng học (theo qui định) chỉ đáp ứng

được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bằng tranh, tre, nứa,

lá; chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm. Còn huyện nghèo là những

huyện có tỷ lệ hộ nghèo lớn hơn 50% tổng số hộ.

2.1.1.3. Đặc điểm của người nghèo ở Hà Nội

Do điều kiện và quy định ở từng địa phương có khác nhau nên người

nghèo ở Hà Nội có một số đặc điểm khác với người nghèo ở các địa phương

khác mà trước hết, đó là chuẩn nghèo. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, chuẩn nghèo của Hà Nội luôn cao hơn chuẩn nghèo chung cả nước

Qui định của Việt Nam là mỗi tỉnh, thành phố có thể đề ra chuẩn nghèo

riêng của mình căn cứ vào mặt bằng giá và mức sống dân cư ở từng địa phương,

miễn là không thấp hơn chuẩn nghèo thu nhập chung theo qui định của Chính

phủ. Trong các năm qua, chuẩn nghèo riêng của Hà Nội liên tục được điều chỉnh

tăng, căn cứ vào chi phí cuộc sống đô thị và khả năng cân đối ngân sách thực

hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo của thành phố. Năm 2011, Hà Nội ban

hành chuẩn nghèo riêng cao hơn gấp rưỡi so với chuẩn nghèo chung của Chính

phủ. Giai đoạn 2006 - 2010, có 13,4% dân số cả nước sống dưới chuẩn nghèo

nhưng tỷ lệ nghèo ở Hà Nội (cũ) chỉ có 2,4%. Điều đó có thể khẳng định nếu chỉ

dựa vào chuẩn nghèo do Chính phủ quy định cho từng giai đoạn thì kết quả điều

tra theo mẫu của VHLSS, cho thấy tỷ lệ nghèo thấp ở Hà Nội chưa phản ánh

chính xác mức độ nghèo ở thành phố này.

27

Bảng 2.1: Chuẩn nghèo, cận nghèo qua các giai đoạn của cả nước và Hà Nội

Đơn vị tính: 1.000 đồng/tháng

Chuẩn nghèo của cả nước

Chuẩn nghèo của Hà Nội

2011-2015

2009-2013

2011-2015

2001- 2005

2006- 2010 Nghèo

Nghèo

Nghèo Cận nghèo

Cận nghèo

Cận nghèo

100

200

Nông thôn

400

330

550

401520

330430

551750

150

260

500

500

750

501650

500650

7511.000

Thành thị

Nguồn: [11]; [94]; [96]; [111]; [112]

Thứ hai, người nghèo Hà Nội dễ bị tổn thương hơn. Do sống phụ thuộc

chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền và ở thế yếu hơn so với người nghèo

nông thôn ở chỗ tư liệu sản xuất quan trọng là đất đai đã ngày càng trở nên bị

thu hẹp nhanh chóng cùng với tốc độ đô thị hóa. Đó có thể là do Nhà nước lấy

đất để xây dựng các công trình công cộng, cơ sở hạ tầng, thực hiện dự án đầu

tư; hay do nhiều gia đình ven đô bán đất canh tác nhằm thu lợi nhờ qui hoạch

của Nhà nước… Thực tế cho thấy người dân ngoại thành không được chuẩn bị

một cách chủ động cho quá trình chuyển hóa từ nông thôn thành đô thị, từ nông

dân thành thị dân. Họ không được chuẩn bị về tay nghề, tâm lý, cách thức tổ

chức đời sống cho nên không đón nhận được các cơ hội cũng như lường trước

được mọi sự thay đổi gấp gáp. Một số hộ gia đình giàu lên nhanh chóng, nhưng

đó chỉ là sự giàu “xổi”, không bền. Tuy Nhà nước qui định chính sách các

doanh nghiệp chủ đầu tư dự án phải cam kết tạo công ăn việc làm cho người

dân địa phương bị lấy đất, nhưng chỉ một số rất nhỏ người lao động địa phương

đáp ứng được tiêu chuẩn do doanh nghiệp đề ra bởi trình độ tay nghề thấp, tác

phong làm việc nông nghiệp... Bị thu hồi đất nhưng do không có nghề phụ,

trình độ hạn chế nên nhiều người bỗng chốc trở nên thất nghiệp, cả gia đình

đều không có việc làm tạo ra thu nhập thường xuyên, ổn định. Số tiền có được

do Nhà nước đền bù đất hay do bán đất không được sử dụng đúng mục đích

như mua máy móc, công cụ sản xuất, hay đầu tư cho con đi học nghề mà phần

28

lớn được sử dụng vào việc xây mới, sửa chữa nhà, mua sắm trang thiết bị gia

đình đắt tiền, tâm lý hưởng thụ làm nảy sinh những vấn đề xã hội nghiêm trọng

(nghiện hút, cờ bạc, tệ nạn khác). Đây thực sự là một vấn đề của đô thị khi

nhiều hộ gia đình “giàu xổi” lại nằm sát ranh giới nghèo, hiện tượng “nghèo

mới” và “tái nghèo” xuất hiện không ít ở vành đai ngoại thành khiến cho bức

tranh nghèo càng trở nên phức tạp hơn.

Thứ ba, do mật độ dân cư đông đúc nên khả năng tìm việc làm để thoát

nghèo bền vững rất khó.

Hình 2.1: Cơ hội tìm việc làm của người nghèo Hà Nội

Nguồn: [56]

Theo một nghiên cứu ở Hà Nội đã được thực hiện hồi tháng 5/2012 do hai

chuyên viên phụ trách nghiên cứu của Asian Trend Monitoring (hay ATM) là

Taufik Indrakesuma và Johannes Loh, đã liên hệ tiếp xúc với các tổ chức lo và

giúp người nghèo, gặp dân cư các xóm ổ chuột, hay ở ngoài đường, đối thoại với

các người làm việc trong các tổ chức phi chính phủ… để hiểu về những thách

thức mà người nghèo ở Hà Nội phải trực diện hàng ngày. Kết quả cho thấy tìm

việc làm là một vấn đề quan trọng của những người nghèo Hà Nội. Gần nửa số

người nghèo trong khảo sát đều cho rằng “rất khó” hay “không thể” tìm được

29

việc làm. Chỉ 5,5% trong số người tham dự khảo sát cho rằng “dễ dàng” tìm

được việc làm. Cuộc sống đặc biệt khó khăn hơn cho người nhập cư ở Hà nội, đa

số những người rời thôn quê ra thành phố đều hi vọng thoát nghèo.

Thứ tư, đa số người nghèo ở Hà Nội là người dân nhập cư từ các tỉnh khác

về. Người dân Hà Nội phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trong tìm kiếm

việc làm với làn sóng di dân tự do từ các tỉnh về đô thị lớn và từ đội ngũ tri thức

trẻ của các tỉnh về học tại đô thị sau khi tốt nghiệp không trở về.

2.1.2. Các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

2.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

Dịch vụ nói chung là những hoạt động mang tính phục vụ. Theo Từ điển

Bách khoa Việt Nam, dịch vụ là “những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn nhu

cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt”.

Một số ý kiến cho rằng dịch vụ là những hoạt động và kết quả mà một bên

(người bán) có thể cung cấp cho bên kia (người mua) chủ yếu là vô hình. Một số

ý kiến khác lại cho rằng dịch vụ là một quá trình bao gồm một loạt hoạt động diễn

ra trong quá trình giao dịch giữa khách hàng và người cung ứng dịch vụ vô hình

hoặc các sản phẩm hữu hình hoặc là các giải pháp cho các vấn đề của khách hàng.

Dù có quan niệm khác nhau nhưng từ những quan điểm trên có thể thấy

sự thống nhất chung đó là: dịch vụ là một loại hoạt động mà sản phẩm của nó là

vô hình. Nó giải quyết các mối quan hệ với khách hàng hoặc với tài sản của

khách hàng mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu.

Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm dịch vụ, đó là các hoạt

động phục vụ của các tổ chức, cá nhân nhằm thỏa mãn những nhu cầu chính

đáng, hợp pháp của cá nhân, nhóm người liên quan đến mọi lĩnh vực của đời

sống KTXH (giáo dục - đào tạo, y tế, lao động - việc làm, ASXH, tài chính -

tín dụng,...).

Dịch vụ có một số đặc tính sau: Tính đồng thời (sản xuất và tiêu dùng

dịch vụ xảy ra cùng lúc); tính không thể tách rời (sản xuất và tiêu dùng dịch vụ

không thể tách rời, thiếu mặt này thì sẽ không có mặt kia); vô hình (không có

30

hình hài rõ rệt, không thể thấy trước khi tiêu dùng); không lưu trữ được (không

lập kho để lưu trữ như hàng hóa thông thường).

Các dịch vụ cơ bản cho người nghèo:

Dịch vụ cơ bản đối với người nghèo gắn với nhu cầu thiết yếu, cơ bản của

người nghèo. Dù được hiểu như thế nào thì điểm chung các dịch vụ cần thiết cho

người nghèo đều nhằm mục đích giúp cho người nghèo thoát nghèo. Do đó, cách

xác định dịch vụ thiết yếu cho người nghèo phụ thuộc rất nhiều vào quan niệm

về đói nghèo và cách thức giải quyết đói nghèo.

Xuất phát từ quan niệm đói nghèo được thống nhất năm 1995 tại Hội nghị

thượng đỉnh Copenhaghen (Đan Mạch), Liên hợp quốc đưa ra bốn loại dịch vụ

cơ bản cho người nghèo gồm: giáo dục, y tế, các DVXH (như cứu trợ xã hội),

dịch vụ nước sạch và vệ sinh.

Theo NHTG, các dịch vụ cần thiết cho người nghèo được chia ra làm ba

nhóm: i) Các dịch vụ giúp người nghèo tạo thu nhập để cải thiện đời sống như

dịch vụ tín dụng, DVVL, dịch vụ giao thông...; ii) Các dịch vụ giúp người nghèo

thỏa mãn nhu cầu cơ bản như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế, dịch vụ nước sạch,

dịch vụ vệ sinh môi trường, dịch vụ nhà ở, dịch vụ điện và năng lượng...; iii) Các

dịch vụ giúp người chống đỡ, giảm nguy cơ bị tổn thương và nâng cao năng lực

cá nhân như dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ hỗ trợ pháp lý...

Ngoài hai tổ chức kể trên, một số các tổ chức chính phủ hay phi chính phủ

khi thực hiện các gói cứu trợ đối với người nghèo dựa trên cách xác định chia

dân số quốc gia thành 5 nhóm (cực nghèo, nghèo, trung bình, khá và giàu). Theo

đó, có các dịch vụ tối cần thiết cho nhóm người cực nghèo và nhóm dịch vụ cần

thiết cho nhóm người nghèo. Trong đó, các dịch vụ cần thiết cho nhóm cực

nghèo chủ yếu là dịch vụ nhà ở, dịch vụ vệ sinh môi trường và dịch vụ nước

sạch. Nhóm dịch vụ cho người nghèo gồm có: các dịch vụ liên quan đến tạo thu

nhập, tiếp cận các DVXH cơ bản và dịch vụ giảm nguy cơ bị tổn thương như:

dịch vụ tín dụng, DVVL, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế, dịch vụ bảo hiểm và

dịch vụ hỗ trợ pháp lý.

31

Tuy xác định các dịch vụ cơ bản cho người nghèo khác nhau nhưng các

quan điểm đều có điểm thống nhất là nhu cầu về các dịch vụ này sẽ thay đổi theo

thời gian và theo vùng. Về cơ bản, nhu cầu dịch vụ chủ yếu liên quan đến nhóm

dịch vụ thiết yếu cải thiện thu nhập. Chính vì vậy, ở các đô thị lớn, lúc đầu, người

ta chú trọng cung ứng các dịch vụ thiết yếu cơ bản cho người nghèo, nhưng khi phát

triển đến một ngưỡng nào đó thì chỉ còn tồn tại nhu cầu dịch vụ tín dụng nhằm thỏa

mãn nhu cầu về vốn kinh doanh để cải thiện thu nhập cũng như các DVVL nhằm

đảm bảo thu nhập ổn định.

2.1.2.2. Một số dịch vụ cơ bản cần thiết cho người nghèo

Thứ nhất, dịch vụ tài chính cho người nghèo

Dịch vụ tài chính cho người nghèo chủ yếu là tài chính vi mô mà theo quy

định của Nghị định 28/2005/NĐ-CP gọi là tài chính quy mô nhỏ. Đó là các hoạt

động cho vay, tiết kiệm, bảo hiểm, chuyển giao dịch vụ và các sản phẩm tài

chính khác cho nhóm khách hàng có thu nhập thấp. Theo quy định tại Nghị định

28/2005/NĐ-CP thì “Tài chính quy mô nhỏ là hoạt động cung cấp một số dịch

vụ tài chính, ngân hàng nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập

thấp, đặc biệt là hộ gia đình nghèo và người nghèo” [14].

Tuy nhiên, trên thực tế, dịch vụ tài chính cho người nghèo hay tài chính

quy mô nhỏ chủ yếu là hoạt động tín dụng - còn được gọi là tín dụng vi mô. Hoạt

động này chủ yếu cung cấp các khoản vay nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn

của người nghèo. Theo quy định của Nghị định 28/2005/NĐ-CP, dịch vụ tín

dụng vi mô là việc cấp cho các hộ gia đình rất nghèo các khoản vay rất nhỏ,

nhằm mục đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, hoặc khởi tạo các

hoạt động kinh doanh nhỏ.

Dịch vụ tín dụng vi mô có vai trò quan trọng trong việc giúp người nghèo

tiếp cận nguồn vốn, góp phần nâng cao năng lực XĐGN, vươn lên thoát nghèo.

Trên thực tế, dịch vụ tín dụng vi mô hoạt động thông qua các phương thức

cơ bản như: tín dụng cho cá nhân, tín dụng theo nhóm tương hỗ và tín dụng gián

tiếp theo nhóm tương hỗ thông qua trung gian thứ ba. Do những ưu và nhược điểm

32

của từng phương thức tín dụng, tùy thuộc điều kiện và khả năng cụ thể mà các tổ

chức cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô lựa chọn áp dụng phương thức phù hợp.

Bên cạnh hoạt động cho vay, các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô

có thể thực hiện huy động vốn bằng nhiều cách khác như nhận tiền gửi tiết kiệm,

phát hành kì phiếu, trái phiếu; vay các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn hoặc

trên thị trường liên ngân hàng; vay ngân hàng trung ương, hoặc nguồn tài trợ

trực tiếp từ các nhà tài trợ. Tuy nhiên, tiết kiệm vẫn là hình thức chủ yếu để huy

động vốn của các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô. Rất nhiều tổ chức

cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô trên toàn thế giới đã tỏ ra rất thành công trong

việc huy động tiết kiệm và nguồn vốn từ huy động tiết kiệm phải trở thành

nguồn hoạt động chính của các tổ chức này.

Thông thường, các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô cung cấp ba

loại tiết kiệm chính: tiết kiệm bắt buộc, tiết kiệm tự nguyện, và tiền gửi có kỳ

hạn cho các doanh nghiệp nhỏ.

Dịch vụ tín dụng vi mô có vai trò không nhỏ đối với người nghèo. Vai trò

đó thể hiện trên các mặt như sau:

Một là, dịch vụ tín dụng vi mô giúp những hộ nghèo vươn lên trong cuộc

sống và tự bảo vệ trước những rủi ro. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ rõ khả

năng dễ bị tổn thương của những người sống dưới ngưỡng nghèo trước những

cú sốc như ốm đau, thiên tai, mất cắp và các sự cố khác. Nguồn tài chính hạn

hẹp của các hộ gia đình chính là nguyên nhân gây ra sự tổn thương trước các cú

sốc này, và do thiếu các dịch vụ tài chính hữu hiệu, các gia đình bị đẩy vào tình

trạng nghèo cùng cực hơn và phải mất nhiều năm để khắc phục. Các dịch vụ tín

dụng vi mô là một giải pháp đệm trong những trường hợp như người nghèo đột

nhiên bị rơi vào tình trạng quẫn bách, rủi ro trong kinh doanh, lũ lụt, nhà có

người ốm đau, tai nạn, lao động chính bị chết hay kinh doanh trì trệ theo mùa

vụ thường đẩy các gia đình nghèo vào cảnh khốn cùng. Họ có thể rút tiền tiết

kiệm hoặc vay để chi tiêu thay vì bán một tài sản có thể sinh lời, việc bán tài

sản này sẽ làm giảm khả năng tạo thu nhập của họ trong tương lai. Việc sử

33

dụng các dịch vụ tài chính này cho phép dân cư nông thôn tiếp tục tăng thu

nhập và gây dựng tài sản. Việc các hộ có thu nhập thấp sử dụng dịch vụ tín

dụng vi mô sẽ kết hợp với sự cải thiện đời sống kinh tế và công việc kinh

doanh ổn định, phát triển. Bên cạnh đó, tín dụng vi mô còn khuyến khích phát

triển khả năng kinh doanh của người nghèo.

Hai là, tín dụng vi mô giúp cho người nghèo phát triển kinh tế, tăng thu

nhập, nâng cao đời sống.

Trên thực tế, các tổ chức dịch vụ tín dụng vi mô vai trò “kép” cả về khía

cạnh tài chính và khía cạnh xã hội. Về khía cạnh tài chính, thông qua quá trình

cung cấp các dịch vụ tài chính, các dịch vụ tín dụng vi mô góp phần huy động

tiết kiệm, tái phân bổ tiết kiệm cho đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi

thương mại hàng hóa và dịch vụ, trở thành một công cụ đắc lực để giảm đói

nghèo và tăng thu nhập. Về khía cạnh xã hội, các tổ chức dịch vụ tín dụng vi mô

đã tạo ra cơ hội cho người nghèo tiếp cận được với dịch vụ tài chính, tăng cường

sự tham gia của họ vào cuộc sống cộng đồng nói chung, tăng cường năng lực xã

hội của họ nói riêng.

Dịch vụ tín dụng vi mô giúp tăng thu nhập và giảm đói nghèo theo hai

cách gián tiếp và trực tiếp như sau: (i) Tác động gián tiếp, thông qua việc trợ

giúp các tổ chức dịch vụ tín dụng vi mô góp phần tạo điều kiện cho phát triển

kinh tế và xã hội; (ii) Tác động trực tiếp thông qua việc tạo việc làm, tăng thu

nhập và ổn định chi tiêu cho người dân. Nếu được thiết kế và sử dụng phù hợp,

các tổ chức dịch vụ tín dụng vi mô có khả năng bảo vệ các hộ nghèo tránh được

những khó khăn và rủi ro luôn tiềm ẩn trong cuộc sống hàng ngày. Các dịch vụ

cho vay, tiết kiệm và bảo hiểm có thể giúp ổn định mức thu nhập thất thường và

duy trì các mức chi tiêu ngay cả trong những thời điểm khó khăn, giúp người

nghèo tăng thu nhập hay ít nhất là ổn định thu nhập trong gia đình.

Thứ hai, DVVL cho người nghèo

DVVL hiểu theo nghĩa truyền thống là hoạt động trung gian nhằm chắp

nối cung và cầu về lao động, giúp người lao động tìm kiếm được việc làm và

34

người sử dụng lao động tìm được lao động cần thuê. Quan niệm như vậy tồn tại

cho đến 1975 - trước khi ra đời Công ước 142 về hướng nghiệp và đào tạo nghề

trong phát triển nguồn nhân lực của ILO. Từ khi có Công ước của ILO, quan

niệm về DVVL đã có sự thay đổi cơ bản.

Theo ILO, DVVL là toàn bộ các hoạt động nhằm sắp xếp việc làm có hiệu

quả cho người lao động thông qua quá trình chắp nối cung cầu lao động hoặc tư

vấn, trợ giúp để người lao động có thể tự tạo việc làm. Sắp xếp việc làm liên

quan tới việc chắp nối kỹ năng, khả năng của người tìm việc với yêu cầu của

người sử dụng lao động. Như vậy, theo ILO, ngoài việc môi giới, DVVL còn có

nhiệm vụ hướng nghiệp và đào tạo nghề với các hoạt động cụ thể như: thông tin

thị trường lao động, chắp nối cung- cầu lao động liên vùng, liên quốc gia.

Ở Việt Nam, theo Từ điển thuật ngữ Lao động TBXH của Việt Nam thì

DVVL là “hoạt động nhằm hỗ trợ cho người lao động dễ dàng tìm được việc

làm”. Như vậy, DVVL hiểu một cách đầy đủ nhất phải bao gồm: thông tin về

nhu cầu cần tuyển lao động, đào tạo bổ sung để người lao động có trình độ

chuyên môn - kỹ thuật phù hợp với công việc, giới thiệu/tuyển chọn người lao

động phù hợp với yêu cầu công việc theo sự ủy quyền của người sử dụng và

tuyên truyền hướng nghiệp cho những người lao động.

DVVL có nhiều hình thức khác nhau. Nếu phân theo đối tượng hoạt động,

có 3 dạng DVVL: dịch vụ trợ giúp người lao động; dịch vụ trợ giúp người sử

dụng lao động và dịch vụ trợ giúp người đào tạo, dạy nghề. Theo phạm vi hoạt

động, DVVL gồm 3 dạng khác nhau: DVVL địa phương; DVVL liên địa phương

và DVVL quốc tế. Theo chủ thể quản lý, DVVL thường được phân chia thành

hai hoặc ba loại: DVVL nhà nước và DVVL tư nhân, DVVL của các tổ chức

đoàn thể, trong đó DVVL nhà nước được gọi là DVVL công. DVVL công

thường là hoạt động phi lợi nhuận nên rất phù hợp cho người nghèo.

Trên thực tế, DVVL công có các nội dung cụ thể như sau:

Một là, hoạt động môi giới, chắp nối việc làm. Môi giới chắp nối việc làm

bao gồm môi giới, DVVL và cung ứng lao động theo hợp đồng với người sử

35

dụng lao động. Các nguyên tắc cơ bản của quá trình chắp nối việc làm của cơ sở

DVVL có thể tóm tắt như sau: (i) Dịch vụ chắp nối, môi giới việc làm cần được

tiến hành trên cơ sở tự nguyện và tự do lựa chọn của người lao động và người sử

dụng lao động; (ii) Dịch vụ chắp nối, môi giới việc làm nên được cung cấp miễn

phí nhằm đảm bảo mọi người tìm việc có thể tiếp cận và sử dụng dịch vụ này

không phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của họ; (iii) Tính bảo mật và riêng tư của

thông tin của người tìm việc cần được bảo đảm; (iv) Quá trình môi giới việc làm

cần được tiến hành vô tư, công bằng, tránh phân biệt đối xử đối với người lao

động và người sử dụng lao động; (v) Cơ sở DVVL cần đứng trung lập trong các

tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Hai là, tổ chức thu thập và phổ biến thông tin thị trường lao động. Tham

gia thu thập, tổ chức và phổ biến thông tin và thị trường lao động là một chức

năng cơ bản, một hoạt động cơ bản khác của DVVL. Bên cạnh người tìm việc và

người sử dụng lao động là những khách hàng quan trọng, thì thông tin thị trường

lao động cũng có những khách hàng khác như các nhà hoạch định chính sách,

xây dựng kế hoạch, các cơ sở giáo dục, đào tạo, các cơ quan nghiên cứu. Xây

dựng và phát triển thông tin thị trường lao động, như nhiều nghiên cứu đã khẳng

định, không phải là công việc riêng của tổ chức DVVL hay của một tổ chức, cá

nhân riêng lẻ nào mà là nỗ lực chung của các đối tác khác nhau. Tổ chức DVVL

vừa là người cung cấp vừa là người sử dụng thông tin thị trường lao động.

Ba là, quản lý các chương trình việc làm. Các chính phủ đều triển khai

các chương trình việc làm chủ động để khắc phục những vấn đề cụ thể, đặc biệt

là các vấn đề liên quan đến gia tăng thất nghiệp. Tham gia vào các chương trình

này là sự thay đổi lớn nhất trong các chức năng truyền thống của DVVL. Các

DVVL công có lợi thế khi tham gia vào thiết kế chương trình và cung cấp dịch

vụ triển khai chương trình là do: DVVL công có hiểu biết khá rõ về thị trường

lao động, có mối quan hệ với người sử dụng lao động, người tìm việc và biết khá

rõ nhu cầu của họ; DVVL công có mối liên hệ với mạng lưới cơ sở đào tạo và

mạng lưới phúc lợi xã hội.

36

Hai loại chương trình thường được triển khai là: Các chương trình việc

làm xây dựng công trình công ích (xây dựng các công trình công ích như đường

xá, thủy lợi) và các chương trình tái phát triển việc làm.

Bốn là, tham gia quản lý hoặc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

Trong triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp, DVVL công có thể đóng các

vai trò sau: Cung cấp dịch vụ hỗ trợ tìm việc làm, tái làm việc đối với người thất

nghiệp; xác nhận đủ tư cách tiếp tục được nhận trợ cấp thất nghiệp và đang tích

cực tìm việc làm của người lao động; tham gia quản lý chương trình bảo hiểm

thất nghiệp.

Năm là, hoạt động tư vấn chính sách lao động việc làm, tư vấn nghề và tư

vấn đào tạo. Tư vấn là một hoạt động không thể thiếu được của các cơ sở

DVVL. Hoạt động tư vấn rất phong phú về nội dung và đối tượng. Các hoạt

động tư vấn có thể được chia thành tư vấn về chính sách, tư vấn về nghề nghiệp,

tư vấn về đào tạo.

Sáu là, các hoạt động DVVL khác như: Tổ chức đào tạo, tổ chức sản xuất

nhỏ, các hoạt động dịch vụ đặc thù trợ giúp các đối tượng đặc biệt.

Từ thực tế cho thấy DVVL công có vai trò quan trọng đối với người

nghèo. Vai trò đó thể hiện trên các mặt như sau:

Một là, DVVL là cầu nối trung gian giữa người sử dụng lao động và

người lao động. Nó làm tăng tính hiệu quả của thị trường lao động, rút ngắn thời

gian tìm việc, thời gian tuyển người, thời gian thất nghiệp, góp phần sử dụng tiết

kiệm và hiệu quả nguồn lực và làm tăng tính minh bạch của thông tin thị trường

lao động. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng thông tin thị trường lao động, đặc

biệt là thông tin về cơ hội việc làm, là thông tin nhạy cảm dễ bị “bóp méo” do ý

đồ của người sử dụng. Không giống thị trường hàng hóa và dịch vụ khác, trong

thị trường việc làm, người bán thông tin về cơ hội việc làm thường hiểu rất rõ về

bản chất của việc làm đó như mức lương, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi,

các quyền lợi liên quan đến việc làm, độ dài thời gian làm việc v.v.. Những

thông tin này mang tính chất quyết định để người tìm việc cân nhắc giữa mức

37

phí phải trả cho việc môi giới việc làm và thu nhập mà người đó có thể thu được.

Tuy nhiên, người tìm việc thường có ít thông tin liên quan đến việc làm và cơ sở

DVVL tư nhân. Do vậy, các quyết định của người tìm việc thường dễ mắc sai

lầm. Các cơ sở DVVL công thường không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu

mà cao hơn là mục tiêu xã hội nên các cơ sở DVVL công sẽ góp phần minh bạch

hóa các thông tin thị trường lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao

động và người sử dụng lao động.

Các trung tâm DVVL công còn tham gia đào tạo nghề để tạo việc làm và

như vậy có tác động nâng cao chất lượng “cung về lao động”. Thông qua đó tăng

hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao mức

sống dân cư.

Hai là, DVVL công là công cụ hữu hiệu thúc đẩy sự bình đẳng về cơ hội

việc làm và bảo vệ các đối tượng yếu thế. Sự bình đẳng về cơ hội thường bảo vệ

các đối tượng yếu thế là mục tiêu mà các xã hội văn minh muốn đạt tới. DVVL

tư nhân thường đặt mục tiêu kinh doanh, thu lợi nhuận là mục tiêu sống còn để

tồn tại của mình. Hoặc trong các thị trường mà việc làm khan hiếm, phải trả tiền

mới có việc làm thì các đối tượng yếu thế thường bị nhiều thua thiệt. Nếu tư

nhân hóa hoàn toàn DVVL, để cho thị trường quyết định mức giá của dịch vụ thì

sẽ dẫn đến tình trạng ai có tiền thì có việc làm, ai không có tiền thì chịu thất

nghiệp hoặc chấp nhận việc làm với chất lượng thấp, không phù hợp với năng

lực và khả năng của mình. Các đối tượng thất nghiệp, người tàn tật, phụ nữ,

người lớn tuổi bị bật ra khỏi chỗ làm việc... thường là các đối tượng yếu thế cần

sự bảo vệ của xã hội, cần có sự bình đẳng trong tiếp cận cơ hội việc làm. DVVL

công chính là chỗ dựa, là nơi giúp họ thực hiện nguyện vọng của mình.

Ba là, DVVL công cụ giúp cho việc giảm nhẹ những tác động tiêu cực của

quá trình chuyển dịch cơ cấu về nhu cầu lao động. Trong các nền kinh tế, nhất là

các nền kinh tế quá độ sang kinh tế thị trường, quá trình đổi mới và sắp xếp lại

các doanh nghiệp nhà nước thường dẫn đến việc giảm bớt các nhu cầu lao động,

chuyển lao động sang khu vực khác. DVVL công thường có trách nhiệm tham

38

gia tích cực vào quá trình bố trí, sắp xếp việc làm cho người thất nghiệp, giảm

nhẹ tác động tiêu cực của mất việc làm. Nếu chỉ dựa vào các cơ sở việc làm thu

phí thì phần tiền hỗ trợ của Nhà nước cho những người lao động dôi dư sẽ phải

dùng phần lớn cho chi phí môi giới, giới thiệu việc làm mới. Sự hỗ trợ của Nhà

nước sẽ mất ý nghĩa.

Bốn là, DVVL góp phần làm giảm nhu cầu bức bách của xã hội về việc

làm, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, thông qua đó có tác động làm cho xã hội lành

mạnh hơn. Ở những nước triển khai hệ thống trợ cấp thất nghiệp, DVVL công có

thể xem như công cụ hữu hiệu nhằm đảm bảo cho những người thất nghiệp được

bảo hiểm quay trở lại làm việc trong thời gian ngắn nhất có thể. Một số chuyên

gia của ILO cho rằng điều kiện có thể triển khai tốt chính sách bảo hiểm thất

nghiệp là phải có hệ thống DVVL hoạt động hiệu quả và các cơ sở đào tạo nghề

phát triển tốt. Mục tiêu của bảo hiểm thất nghiệp không chỉ dừng lại ở chi trả trợ

cấp thất nghiệp, giúp người lao động thất nghiệp có thu nhập thay thế khi mất

nguồn thu nhập từ việc làm mà cao hơn là nhanh chóng giúp người mất việc

quay trở lại làm việc. Các cơ sở DVVL kém hiệu quả, thời gian hưởng bảo hiểm

thất nghiệp dài và số lượng hưởng trợ cấp thất nghiệp lớn sẽ nhanh chóng làm

phá sản Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, làm hỏng chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

2.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ

CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO

2.2.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết của quản lý nhà nước nhằm

phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

2.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ

bản đối với người nghèo

Quản lý nhằm phát triển các dịch vụ đối với người nghèo được nhìn nhận

dưới hai giác độ chính: quản lý của các nhà cung cấp dịch vụ (quản trị kinh

doanh) và QLNN nhằm phát triển các dịch vụ đó. Khác với quản trị của các nhà

cung cấp dịch vụ - với mục đích yếu là lợi nhuận hay lợi ích kinh tế từ việc cung

39

cấp dịch vụ, QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo có

mục tiêu, nội dung và chủ thể quản lý rất khác.

QLNN có thể hiểu một cách khái quát nhất là thuật ngữ chỉ hoạt động

thực hiện bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước

nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở các

quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước.

Như vậy, QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản cho người nghèo là

sự tác động có tổ chức và bằng quyền lực nhà nước tới các hoạt động cung ứng

và sử dụng dịch vụ cho người nghèo nhằm phát triển các dịch vụ này, góp phần

giúp người nghèo nâng cao năng lực XĐGN và thoát nghèo bền vững.

Từ khái niệm QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người

nghèo nêu trên, có thể rút ra một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, đối tượng của QLNN là các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo mà

thực chất là các chủ thể tham gia cung ứng các dịch vụ, các đối tượng thụ hưởng dịch

và các mối quan hệ giữa các chủ thể này cũng như với Nhà nước, cụ thể như sau:

- Các tổ chức cung ứng dịch vụ cơ bản, bao gồm các tổ chức do cơ quan

chức năng quản lý cung ứng dịch vụ trực tiếp thành lập, quản lý, vận hành và các

tổ chức ngoài nhà nước thực hiện theo hợp đồng hoặc ủy quyền cấp phép của các

cơ quan chức năng quản lý cung ứng dịch vụ;

- Khách hàng tiêu dùng các dịch vụ cơ bản, đó là người nghèo, vừa là đối

tượng bị quản lý của Nhà nước với tư cách là người được hưởng lợi từ việc cung

ứng dịch vụ mà Nhà nước đem lại; vừa là khách thể quản lý với tư cách là những

người có quyền đòi hỏi Nhà nước phải phục vụ lại mình.

- Các mối quan hệ giữa nhà cung cấp dịch vụ với các cơ quan nhà nước,

với người thụ hưởng dịch vụ (người nghèo), đặc biệt biệt là quan hệ phân phối

và sử dụng nguồn lực như nguồn tài chính.

Hai là, chủ thể QLNN là các cơ quan nhà nước. Ở cấp tỉnh, thành phố, cơ

quan QLNN đối với các dịch vụ cơ bản cho người nghèo chính là HĐND,

UBND tỉnh và các cơ quan chức năng tham mưu, giúp việc cho chính quyền cấp

40

tỉnh. Trong đó, Sở Lao động TBXH và một số cơ quan cấp tỉnh khác được phân

công trực tiếp tham mưu, giúp việc cho chính quyền tỉnh, thành phố thực hiện

QLNN đối với các dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn. Từ đặc điểm này cho

thấy, để QLNN có hiệu quả và hiệu lực nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối

với người nghèo, cần tăng cường phối hợp giữa các sở, ngành, ban là rất quan

trọng; cần có một tổ chức chịu trách nhiệm chính.

Ba là, cơ chế tác động của QLNN. Đây là một trong các yếu tố cơ bản của

QLNN, bao gồm các nguyên tắc, các phương pháp và các công cụ quản lý.

Về nguyên tắc, QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người

nghèo cần dựa trên nguyên tắc phát triển các dịch vụ mang lại lợi ích thiết thực

nhất cho người nghèo, góp phần nâng cao năng lực XĐGN để họ vươn lên thoát

nghèo bền vững.

Về phương pháp, QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người

nghèo dựa trên các nhóm phương cơ bản như: phương pháp kinh tế (với các đòn bẩy

như lãi suất, thu nhập..., phương pháp tổ chức - hành chính và phương pháp tâm lý -

giáo dục.

Về công cụ tác động, trong QLNN đối với các dịch vụ cho người nghèo,

có thể sử dụng nhiều loại công cụ. Xuất phát từ tính đa dạng, đa lĩnh vực của

dịch vụ cơ bản đối với người nghèo nên công cụ QLNN nhằm phát triển các

dịch vụ này cũng rất đa dạng và phức tạp. Chẳng hạn, công cụ quản lý đối với

việc cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô cho người nghèo có thể là lãi suất, các

điều kiện vay; trong khi công cụ quả lý đối với cung cấp DVVL liên quan tới

các ràng buộc về điều kiện giới thiệu việc làm đào tạo việc làm, các quy định

về lệ phí...

Bốn là, mục tiêu chung của QLNN đối với dịch vụ cho người nghèo là

giúp cho người nghèo nâng cao năng lực XĐGN, vươn lên thoát nghèo bền

vững. Ngoài ra, đối với từng dịch vụ và trong từng giai đoạn cụ thể, QLNN đối

với các dịch vụ này cần đạt được các mục tiêu cụ thể. Chẳng hạn như các chỉ tiêu

về tiếp cận tín dụng của người nghèo, tỷ lệ đào tạo nghề cho người nghèo v.v..

41

2.2.1.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ

cơ bản đối với người nghèo

Thực tế ở trong nước và trên thế giới cho thấy QLNN nhằm phát triển các

dịch vụ cơ bản đối với người nghèo là rất cần thiết. Điều đó thể hiện như sau:

Thứ nhất, khắc phục được thất bại của thị trường dịch vụ cho người nghèo. Trên thực tế, nhiều dịch vụ người nghèo cần nhưng thị trường từ chối không cung cấp hoặc cung cấp dưới mức mong muốn của họ. Chẳng hạn như DVVL, nếu các trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, họ sẽ đòi hỏi người lao động phải trả phí khi tư vấn, hoặc giới thiệu việc làm. Điều này khiến cho người nghèo không thể tiếp cận được với các DVVL từ các trung tâm DVVL này. Nhờ có sự can thiệp của Nhà nước có thể thông qua hình thức hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp, người nghèo có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với các dịch vụ.

Thứ hai, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ cho người nghèo. Một số dịch vụ rất cần cho người nghèo nhưng họ rất khó tiếp cận. Chẳng hạn như dịch vụ tín dụng: các ngân hàng không muốn cho người nghèo vay tiền vì rủi ro cao, món vay nhỏ, không có tài sản thế chấp... Với sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước, người nghèo mới có thể tiếp cận được các dịch vụ này.

Thứ ba, định hướng tiếp cận đúng dịch vụ. Có rất nhiều dịch vụ cho người nghèo cần có sự định hướng, khuyến khích của Nhà nước để đảm bảo cho việc cung cấp dịch vụ đúng hướng cho người nghèo. Ngoài việc cấm các dịch vụ bất hợp pháp mà người nghèo dễ mắc phải (do thiếu thông tin hay do cần có thu nhập), Nhà nước định hướng, khuyến khích và hỗ trợ phát triển các dịch vụ cần cho người nghèo, hữu ích đối với xã hội, giúp họ thoát nghèo bền vững.

2.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước cấp tỉnh, thành phố nhằm

phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

2.2.2.1. Các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước nói chung nhằm phát

triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

Trước khi đi vào nội dung QLNN của địa phương nhằm phát triển các

dịch vụ cơ bản đối với người nghèo, cần làm rõ nội dung QLNN nói chung nhằm

42

phát triển các dịch vụ này. Về cơ bản, QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản

đối với người nghèo thể hiện ở bốn nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, hoạch định phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

Hoạch định phát triển các dịch vụ đối với người nghèo là việc xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình liên quan phát triển các dịch vụ cơ bản cho người nghèo. Trước hết, cần có chiến lược phát triển dịch vụ cho người nghèo. Nhìn chung, không có chiến lược riêng về phát triển dịch vụ cho người nghèo, nhưng thường lồng ghép các nội dung này vào chiến lược phát triển KTXH của quốc gia, ngành và địa phương, Trong đó, cần chú trọng

xây dựng và định hướng thực hiện các biện pháp trong dài hạn cho tổng thể các dịch vụ và từng dịch vụ cụ thể. Để phát triển các dịch vụ cho người nghèo, cần có các biện pháp và dự kiến bố trí nguồn lực để bảo đảm cung ứng dịch vụ cho người nghèo có hiệu quả.

Hoạch định dịch vụ cho người nghèo chủ yếu và phổ biến nhất là dưới dạng các chương trình lớn của quốc gia, chẳng hạn như Chương trình phát triển KTXH vùng đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 theo Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg (được gọi là Chương trình 135 giai đoạn 2). Trên cơ sở các chương trình quốc gia, các ngành, địa phương xây dựng các kế hoạch phát triển các dịch vụ theo thẩm quyền được phân cấp.

Trong các chương trình, kế hoạch phát triển dịch vụ cho người nghèo, cần xác định rõ mục đích, mục tiêu, đối tượng, các biện pháp chủ yếu và bố trí nguồn lực để thực hiện các biện pháp đó, đặc biệt là nguồn nhân lực và tài lực.

Mục đích và mục tiêu chủ yếu của các chương trình, kế hoạch cần cụ thể và hướng tới việc đáp ứng các nhu về cầu dịch vụ cần thiết cho người nghèo, giúp người nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững.

Đối tượng thụ hưởng và cung cấp dịch vụ cần được xác định rõ trong các chương trình, kế hoạch phát triển dịch vụ cho người nghèo. Chẳng hạn, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30A/2008/NQ-CP đề ra mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2010 và 2025, đối tượng là các hộ nghèo thuộc 61 huyện nghèo. Các biện pháp

43

chủ yếu trong Chương trình này gồm: hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; phát triển giáo dục, đào tạo, đào tạo nghề; phát triển kết cấu hạ tầng [15].

Thứ hai, xây dựng và thực hiện thể chế quản lý các dịch vụ cho người nghèo Nội dung xây dựng thể chế quản lý đối với dịch vụ cho người nghèo bao gồm: Xây dựng khuôn khổ pháp lý về cung ứng dịch vụ cho người nghèo, bao gồm các quy định pháp luật điều chỉnh các dịch vụ cho người nghèo và các chủ thể liên quan trong các văn bản quy phạm pháp luật như các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật như các nghị quyết của Quốc hội, các nghị định và nghị quyết của Chính phủ và các loại văn bản khác theo quy định pháp luật hiện hành. Trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định rõ các điều kiện, tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ cho người nghèo, điều chỉnh các mối quan hệ giữa người cung cấp - người thụ hưởng (người nghèo) - Nhà nước, thể chế hoá cơ chế, chính sách (nguyên tắc, phương pháp, công cụ) về dịch vụ cho người nghèo.

Thứ ba, tổ chức bộ máy quản lý dịch vụ đối với người nghèo từ trung

ương đến địa phương

Nhìn chung, ở hầu hết các nước, không có bộ máy riêng để quản lý dịch vụ cho người nghèo mà chủ yếu theo mô hình “kiêm nhiệm”. Ở Việt Nam, Chính phủ là đầu mối đứng đầu ở trung ương trong việc quản lý cung ứng các dịch vụ cho người. Giúp việc cho Chính phủ có Bộ Lao động TBXH và một số bộ, ngành khác. Mô hình “kiêm nhiệm” chủ yếu dựa trên cơ sở bộ máy QLNN hiện có, chủ yếu là các bộ, ngành, chính quyền địa phương để quản lý các dịch vụ cho người nghèo. Mô hình kiêm nhiệm đặt ra yêu cầu phối hợp giữa các ngành, bộ phận trong quản lý việc cung cấp và sử dụng các dịch vụ cho người nghèo, kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.

Thứ tư, đánh giá, kiểm tra, kiểm soát đối với các dịch vụ cho người nghèo Việc tổ chức đánh giá quá trình, kết quả thực hiện các dịch vụ cho người

nghèo là cần thiết vì nó cho phép đánh giá việc cung ứng dịch vụ cho người

nghèo đã được thực hiện như thế nào, kết quả đạt được ra sao và có đạt được

mục tiêu đặt ra ban đầu hay không. Để làm được điều đó, hiện nay, việc đánh giá

các dịch vụ cho người nghèo được thực hiện theo phương pháp đánh giá theo kết

44

quả, trong đó nhấn mạnh, bên cạnh đánh giá việc thực hiện các hoạt động và cần

làm tốt việc xác định mục tiêu cung ứng cũng như kết quả cần đạt được theo

mục tiêu này. Tổ chức đánh giá việc thực hiện các dịch vụ thiết yếu cho người

nghèo có thể được thực hiện bởi bản thân tổ chức cung cấp dịch vụ, hoặc một

đơn vị độc lập như công ty kiểm toán, tổ chức xã hội hoặc qua một cơ quan giám

sát cấp Nhà nước nhằm đảm bảo các chính sách, các dịch vụ được cung cấp cho

người nghèo một cách chất lượng, hiệu quả, đảm bảo minh bạch.

Việc kiểm tra, kiểm soát thực hiện các các dịch vụ cho người nghèo nhằm

phát hiện sai sót để kịp thời chấn chỉnh nhằm động viên, khuyến khích kịp thời

những nỗ lực đóng góp tích cực; tạo động lực thực hiện tốt việc cung ứng DVCB

đối với người nghèo; giúp việc điều chỉnh sai sót trong cơ chế, chính sách. Việc

kiểm tra, kiểm soát là thực hiện các nội dung chính như: kiểm tra thực hiện các

quy định, quy chế, định mức của các dịch vụ; kiểm tra tính đúng đắn của đối

tượng thụ hưởng; kiểm tra các chủ thể cung cấp các các dịch vụ cho người nghèo

về quy trình, chất lượng dịch vụ...; kiểm tra hoạt động của các cơ quan QLNN

cấp dưới về cung cấp các dịch vụ cho người nghèo; tự kiểm tra QLNN của từng

cấp về cung cấp các dịch vụ cho người nghèo; kiểm soát hoạt động cung cấp các

các dịch vụ cho người nghèo ở từng khâu, từng cấp.

2.2.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước ở cấp tỉnh, thành phố nhằm

phát triển các dịch vụ cơ bản đối vớingười nghèo

Về cơ bản, QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo ở

cấp tỉnh, thành phố có nhiều điểm chung, tương đồng với QLNN nói chung đối với

các dịch vụ này. Tuy nhiên, do cấp tỉnh là cấp chính quyền cao nhất ở địa phương

nhưng là cấp thừa hành của trung ương trong chức năng, quyền hạn được phân cấp

nên ngoài việc triển khai thực hiện thể chế, chính sách chung của trung ương, chính

quyền cấp tỉnh, thành phố còn phải thực hiện các nội dung QLNN nhằm phát triển

các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo theo phân cấp. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, triển khai thực hiện thể chế, chính sách của trung ương, bao

gồm những nội dung cụ thể như sau:

45

- Tuyên truyền, phổ biến và triển khai thực hiện pháp luật, chính sách về dịch vụ đối với người nghèo và những vấn đề có liên quan trên địa bàn tỉnh, thành phố. Khi pháp luật và chính sách của trung ương được ban hành có liên quan và trong chức trách của mình, chính quyền tỉnh, thành phố lĩnh hội, nắm bắt và tuyên truyền, phố biến, hướng dẫn đối tượng người nghèo và những người cung cấp dịch vụ cho người nghèo hiểu.

Đối với những quy định của trung ương mà không cần cụ thể hoá, chính quyền tỉnh, thành phố triển khai thực hiện trên địa bàn. Trên thực tế, phần lớn các chương trình về XĐGN như Chương trình 135 (Quyết định số 135/QĐ-TTg) [92].

- Cụ thể hoá các thể chế, chính sách của trung ương. Chẳng hạn, để cụ thể hoá chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm của Chính phủ theo Quyết định số 52/2012/QĐ-TTg, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 41 [115] để cụ thể hoá và chỉ đạo thực hiện cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Hà Nội. - Lồng ghép các nội dung QLNN được phân cấp với nhiệm vụ chung của

tỉnh, thành phố.

Thứ hai, xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch, quy trình

cung ứng các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn tỉnh, thành phố

Trên thực tế, thường không có quy hoạch, kế hoạch riêng về dịch vụ cho người nghèo, nhưng ở cấp tỉnh, thành phố, các nội dung về dịch vụ cho người nghèo được lồng ghép vào quy hoạch, kế hoạch chung về phát triển KTXH ở địa phương.

Quy hoạch, chương trình, kế hoạch 5 năm và hàng năm về cung ứng dịch vụ cho người nghèo nhằm định hướng các hoạt động cung ứng dịch vụ cho người nghèo theo lộ trình thời gian thực hiện; sắp xếp, cân đối nguồn lực và tạo tiền đề pháp lý để triển khai các dự án cung ứng dịch vụ cho người nghèo.

Đây là những công cụ quan trọng để các cơ quan QLNN ở cấp tỉnh, thành phố thực hiện công tác quản lý nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo và là những tư tưởng chỉ đạo, các mục tiêu, chỉ tiêu, các mô hình, biện pháp ngắn hạn và dài hạn để định hướng cho hoạt động cung ứng các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn phát triển theo đúng các mục tiêu chung về phát triển KTXH và là điều kiện tiền đề, tiên quyết để triển khai các hoạt động

46

cung ứng dịch vụ cho người nghèo. Chẳng hạn, trong Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH của Hà Nội đến năm 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 1081/2011/QĐ-TTg ghi rõ: “Nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng lao động đang làm việc”, “phát triển các cơ sở dạy nghề”, thực hiện chuyển đổi ngành, nghề cho người lao động” [97].

Trong hoạch định phát triển dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn tỉnh,

thành phố, cần xác định rõ mục tiêu tổng quát về XĐGN, các mục tiêu và biện

pháp lớn về phát triển dịch vụ cơ bản cho người nghèo. Chẳng hạn, trong Quy

hoạch phát triển KTXH của Hà Nội (sửa đổi, bổ sung năm 2011), mục tiêu giảm

nghèo đưa ra là “giảm tỷ lệ nghèo bình quân 1,5% - 1,8%/năm giai đoạn 2011 -

2015 và 1,4% - 1,5%/năm giai đoạn 2016 - 2020 [116]. Các biện pháp phát triển

dịch vụ cho người nghèo được chú trọng như: “có chính sách đào tạo, chuyển

đổi nghề”, “tạo điều kiện cho các nhóm khó khăn, đối tượng yếu thế được tham

gia học nghề, tăng cơ hội việc làm” [116].

Thứ ba, ban hành và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách phát triển dịch

vụ cơ bản đối với người nghèo theo chức năng, nhiệm vụ được phân cấp

Trên cơ sở thể chế, chính sách của Nhà nước trung ương dưới dạng các

văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, của Chính phủ, các văn bản quản lý

và hướng dẫn của các bộ quản lý chuyên ngành, các tỉnh, thành phố xây dựng

các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương nhằm cung ứng và quản lý các

dịch vụ cho người nghèo.

Trong phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan tham mưu giúp việc

UBND cấp tỉnh QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

ban hành các văn bản hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ đối với các hoạt động

cung ứng dịch vụ cho người nghèo.

Thứ tư, tổ chức huy động và quản lý sử dụng các nguồn lực để cung ứng

dịch vụ cho người nghèo

Ngoài các nguồn vốn ngân sách, chính quyền tỉnh, thành phố cần

tạo cơ sở pháp lý để khuyến khích sự tham gia của người dân, của các

47

thành phần KTXH, các tổ chức trong và ngoài nước cung ứng dịch vụ cho

người nghèo.

Thực tế cho thấy, việc đảm bảo các nguồn lực tài chính cần thiết (đặc biệt

là mức độ đầu tư từ NSNN) cung ứng dịch vụ cho người nghèo ở các nước trên

thế giới, cũng như ở Việt Nam cao hay thấp là nhân tố quyết định và tỷ lệ thuận

với tỷ lệ người nghèo được tiếp cận với dịch vụ cao hay thấp.

Thứ năm, tổ chức bộ máy QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối

với người nghèo phù hợp với điều kiện của địa phương

Tổ chức bộ máy QLNN ở cấp tỉnh, thành phố là một nội dung quan trọng

trong QLNN đối với các dịch vụ cho người nghè. Ở cấp tỉnh, thành phố, việc tổ

chức bộ máy QLNN đối với các dịch vụ cho người nghèo chủ yếu theo mô hình

kiêm nhiệm như đã nêu ở phần chung trên đây. UBND tỉnh, thành phố là cấp cao

nhất trong bộ máy QLNN đối với các dịch vụ cho người nghèo ở địa phương.

Bên cạnh đó, cơ quan đắc lực giúp việc cho UBND tỉnh, thành phố là Sở Lao

động TBXH và các sở ngành khác.

Trên thực tế, do mô hình “kiêm nhiệm” nên việc tổ chức bộ máy QLNN ở

cấp tỉnh nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo chủ yếu là phân

định chức năng, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan; phối hợp giữa các

cơ quan đó với nhau; bố trí nhân lực từng vị trí cho phù hợp với chức năng, nhiệm

vụ. Việc tổ chức bộ máy QLNN cần phải bảo đảm tính khoa học, phù hợp, hiệu

quả, không chồng chéo chức năng nhiệm vụ nhưng rõ trách nhiệm, không bỏ sót

công việc, theo phương châm “tinh, gọn, nhẹ” và “hiệu lực, hiệu quả cao”.

2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước ở cấp tỉnh, thành

phố nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

Có nhiều nhân tố tác động đến QLNN ở cấp tỉnh nhằm phát triển các dịch

vụ cơ bản đối với người nghèo và các nhân tố này cũng được nhìn nhận dưới

nhiều giác độ khác nhau. Để giúp cho việc làm rõ tính chủ quan - khách quan và

trách nhiệm của chủ thể quản lý, dưới đây sẽ xem xét các nhân tố bên ngoài và

các nhân tố bên trong hệ thống chủ thể quản lý - chính quyền cấp tỉnh.

48

2.2.3.1. Các nhân tố bên ngoài chủ thể quản lý

Thứ nhất, quan điểm, đường lối chính trị của quốc gia về xoá đói giảm

nghèo và QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bàn đối với người

Quan điểm, đường lối chính trị của quốc gia nói chung và quan điểm, chủ

trương về XĐGN có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc xoá đói giảm

nghèo và phát triển dịch vụ cho người nghèo. Điều này, trước hết, thể hiện quyết

tâm chính trị của quốc gia về XĐGN, phát triển dịch vụ cho người nghèo và

QLNN đối với các dịch vụ này. Ngoài ra, quan điểm, đường lối chính trị về

XĐGN và QLNN đối với dịch vụ cho người nghèo còn thể hiện ở những định

hướng lớn, những giải pháp tổng thể phát triển dịch vụ và QLNN đối với các

dịch vụ cho người nghèo. Chẳng hạn, việc XĐGN càn nhất quán theo phương

châm nâng cao năng lực cho người nghèo, tạo cơ hội tiếp cận nguồn lực, tiếp cận

các công cụ cho họ “cho cần câu, không cho xâu cá”. Thực tế cho thấy, ở các

quốc gia hay địa phương nào có quyết tâm chính trị quyết liệt, cung ứng các dịch

vụ cho người nghèo thuận lợi thì công cuộc XĐGN mới thành công nhanh chóng

và vững chắc. Ngược lại, nếu quyết tâm chính trị không cao, quan điểm XĐGN

và cung ứng dịch vụ cho người nghèo không phù hợp thì công cuộc XĐGN sẽ

gặp rất nhiều khó khăn.

Thứ hai, cơ chế, chính sách chung của quốc gia về XĐGN

Cơ chế, chính sách của quốc gia về XĐGN bao gồm tổng thể các biện

pháp, cách thức, công cụ tác động đến các chủ thể, các hoạt động liên quan đến

XĐGN và cung ứng dịch vụ cho người nghèo. Đây được coi là cơ sở pháp lý,

khung chính sách cho hoạt động XĐGN và các dịchvụ cho người nghèo ở các

địa phương. Cơ chế, chính sách của nhà nước trung ương tích cực, tiến bộ là tiền

đề cho việc đẩy nhanh phát triển các dịch vụ cho người nghèo và thúc đẩy giảm

nghèo bền vững.

Ở Việt Nam, từ những năm 1990, Nhà nước đã ban hành và thực thi nhiều

cơ chế, chính sách về XĐGN và cung ứng các dịch vụ cho người nghèo qua các

nghị định, quyết định của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ; các thông tư,

49

quyết định của các bộ, ngành chức năng. Chẳng hạn như cơ chế, chính sách

XĐGN và cung ứng dịch vụ cho người nghèo qua Chương trình 135, hỗ trợ việc

làm qua Chương trình 120... có ý nghĩa quan trọng đối với các tỉnh, thành phố

trong XĐGN và cung ứng dịch vụ cho người nghèo.

Thứ ba, nhu cầu về dịch vụ cơ bản của người nghèo

Nhu cầu về dịch vụ của người nghèo là một trong các nhân tố quan trọng

ảnh hưởng tới QLNN. Ở một địa phương cụ thể, qui mô, tính chất và cơ cấu

nghèo sẽ quyết định sự thay đổi cầu về dịch vụ. Sự đa đạng về nhu cầu dịch vụ

của người nghèo đòi hỏi chính quyền địa phương vừa đảm bảo cung ứng đầy đủ

vừa đảm bảo dịch vụ đến đúng đối tượng. Do đó, yêu cầu đặt ra cho chính quyền

địa phương là để thực hiện tốt vai trò QLNN trong cung ứng dịch vụ cho người

nghèo, cần thiết kế được các chương trình cũng như kế hoạch cụ thể đảm bảo

cung ứng đủ và chất lượng các dịch vụ cho người nghèo. Cụ thể, cần bố trí qui

hoạch mạng lưới hợp lý đảm bảo người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ,

cũng như tham gia vào việc tìm kiếm huy động và quản lý các nguồn lực để cung

ứng dịch vụ. Ngoài ra, để đảm bảo dịch vụ được cung ứng đến đúng đối tượng,

yêu cầu chính quyền địa phương có cơ chế đánh giá, giám sát thường xuyên quá

trình cung ứng đó.

Thứ tư, sự tham gia của các tổ chức vào quá trình cung ứng dịch vụ cơ

bản cho người nghèo

Giải quyết vấn đề đói nghèo là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó, Nhà

nước có vai trò rất quan trọng. Để thực hiện tốt vai trò của mình, Chính phủ cần

đảm bảo có đủ nguồn lực để cung ứng dịch vụ cho người nghèo. Chính phủ có

ba lựa chọn đối với phương thức cung ứng dịch vụ cho người nghèo như đã đề

cập ở trên. Nếu chấp nhận cả ba phương thức cung ứng dịch vụ, đồng nghĩa với

xuất hiện sự tham gia của các tổ chức khác vào quá trình cung cấp dịch vụ cho

người nghèo. Bên cạnh đó, ngay cả khi lựa chọn hình thức vừa cung cấp tài

chính vừa cung cấp dịch vụ thiết yếu cho người nghèo, Chính phủ cũng cần đến

sự hỗ trợ tài trợ về tài chính của các nhà tài trợ trong hoặc ngoài nước. Tuy

50

nhiên, do năng lực và nguồn lực của Nhà nước có hạn nên sự tham gia của các tổ

chức xã hội vào việc XĐGN. Sự tham gia đông đảo của các tổ chức xã hội như

Hội Phụ nữ, Hội Nông dân... làm thay đổi căn bản quá trình XĐGN và phương

thức cung ứng dịch vụ cho người nghèo. Để phát huy vai trò và năng lực của

toàn xã hội trong việc XĐGN và cung cấp dịch vụ cho người nghèo, Nhà nước

cần xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các bên, giám sát được quá trình

thực hiện các cơ chế đó.

Thứ năm, mức độ sẵn có của mạng lưới dịch vụ và hệ thống cơ sở hạ tầng

để cung ứng dịch vụ cho người nghèo

Dịch vụ chỉ có thể cung ứng được đến cho người nghèo khi thiết lập được

mạng lưới cung ứng cũng như một hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình

cung ứng đó. Mức độ sẵn có của mạng lưới dịch vụ và hệ thống cơ sở hạ tầng

ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai các chính sách cung ứng dịch vụ cho

người nghèo. Mạng lưới cung ứng dịch vụ yếu kém sẽ là một rào cản lớn đối với

tiếp cận dịch vụ của người nghèo. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ việc cung ứng

dịch vụ thiếu thốn khiến cho người nghèo được tiếp cận dịch vụ nhưng không

đảm bảo chất lượng. Tất cả những điều này khiến cho việc tổ chức triển khai

chính sách cung ứng dịch vụ đến cho người nghèo khó khăn hơn. Điều đó dẫn

đến giảm tính hiệu quả của chính sách cung ứng dịch vụ cho người nghèo. Hệ

quả, chính quyền tỉnh, thành phố không thực hiện tốt nội dung QLNN đối với

dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn của mình.

2.2.3.2. Các nhân tố bên trong gắn với chủ thể quản lý

Thứ nhất, trình độ, năng lực của chính quyền tỉnh, thành phố nhằm phát

triển các dịch vụ đối với người nghèo

Trình độ, năng lực của chính quyền cấp tỉnh, thành phố được coi là một

yếu tố then chốt, tác động mạnh tới QLNN nói chung và đối với dịch vụ cho

người nghèo nói riêng. Nếu trình độ, năng lực và quyết tâm chính trị không cao

sẽ là nhân tố cản trở lớn trong việc xây dựng và thực thi cơ chế quá trình XĐGN

và cung ứng dịch vụ cho người nghèo ở địa phương.

51

Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý là một trong những điều kiện tiên

quyết bảo đảm kết quả công tác quản lý. Đội ngũ cán bộ quản lý là nguồn lực

chủ yếu của hệ thống quản lý để có thể vận hành và hoàn thành chức năng,

nhiệm vụ được giao. Do yêu cầu không chỉ đảm bảo người nghèo tiếp cận

được với các dịch vụ mà còn là tiếp cận với dịch vụ đảm bảo chất lượng đòi

hỏi phải liên tục phát triển năng lực của tất cả cán bộ QLNN đối với dịch vụ

cho người nghèo.

Thứ hai, vấn đề phân cấp, phân quyền giữa các cấp và trình độ tổ chức bộ

máy quản lý nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

Việc phân cấp, phân quyền một cách hợp lý giữa các cấp chính quyền địa

phương có tác động không nhỏ tới QLNN đối với dịch vụ cho người nghèo ở địa

phương. Nếu phân cấp quá mạnh sẽ có nguy cơ phân tán, khó kiểm soát; ngược

lại, nếu phân cấp không đủ mạnh sẽ tạo nguy cơ tập trung quá lớn, gây áp lực ở

cấp cao, trong khi ở cấp dưới thụ động, trông chờ, ỷ lại. Về nguyên tắc, cấp trên

chỉ nên nắm toàn cục, những định hướng lớn, hoạt động tổng thể còn những

nhiệm cụ thể hơn cần phân cấp cho cấp dưới.

Thứ ba, điều kiện vật chất - kỹ thuật của các cơ quan QLNN nhằm phát

triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

Điều kiện vật chất kỹ thuật và các phương tiện phục vụ quản lý là những

cơ sở vật chất - kỹ thuật, là hệ thống các phương tiện vật chất - kỹ thuật khác

nhau được sử dụng để phục vụ hoạt động của con người trong đời sống nói

chung và trong hoạt động quản lý nói riêng.

Điều kiện, phương tiện phục vụ quản lý là những yếu tố quan trọng giúp

chủ thể quản lý thực hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Hiện nay,

trong điều kiện xã hội phát triển thì điều kiện và phương tiện phục vụ quản lý

càng có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu quản lý. Nếu điều

kiện, phương tiện phục vụ quản lý đáp ứng nhu cầu thực tế khách quan sẽ giúp

chủ thể quản lý hoàn thành tốt những mục tiêu đặt ra. Ngược lại, mục tiêu sẽ khó

đạt khi không đủ hay thiếu các điều kiện, phương tiện phục vụ quản lý.

52

Thứ tư, nguồn lực tài chính thực tế được huy động để phát triển dịch vụ

cơ bản đối với người nghèo

Nguồn lực tài chính là một trong các công cụ QLNN đối với cung ứng

dịch vụ cho người nghèo, Nhà nước không thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ

quản lý nếu thiếu công cụ này. Trong điều kiện nguồn lực cung ứng dịch vụ cho

người nghèo từ NSNN hạn hẹp, việc huy động các nguồn lực tài chính khác có ý

nghĩa vô cùng quan trọng và là yêu cầu cấp thiết. Thực tế cho thấy, mức độ đầu

tư từ NSNN và nguồn tài chính huy động được từ các tổ chức, cá nhân trong và

ngoài nước cho cung ứng dịch vụ là nhân tố quan trong hàng đầu quyết định

lượng người nghèo được tiếp cận các dịch vụ.

2.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC

DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO Ở TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ

2.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nước nhằm phát triển các

dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

2.3.1.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước nhằm phát triển dịch vụ việc làm

Thứ nhất, tạo môi trường pháp lý và cơ chế chính sách cho tư nhân hoạt

động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ việc làm cho người nghèo ở Malayxia

Là một nước trong khu vực Đông Nam Á, trong hơn hai thập niên qua,

Malayxia được đánh giá vừa có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa giải quyết

khá tốt vấn đề công bằng xã hội, trong đó giải quyết việc làm cho người nghèo.

Tỉ lệ thất nghiệp của nước này thuộc hàng thấp nhất trong khu vực. Có được kết

quả này là nhờ việc thực thi các CSXH phù hợp và có trọng điểm, đặc biệt là

những biện pháp thích hợp nhằm hỗ trợ người lao động nói chung và người

nghèo thành thị nói riêng trong vấn đề tìm việc làm. Ngay từ những năm 1980,

vấn đề cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc làm cho người lao động đã được Chính phủ

chú trọng. Việc theo dõi và cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc làm do một cơ quan

chức năng là Vụ Nhân lực thuộc Bộ Lao động và Phát triển nguồn nhân lực đảm

nhiệm. Trong Vụ Nhân lực có Phòng DVVL cung cấp miễn phí cho người lao

động tìm việc. Bên cạnh đó, phòng này còn cung cấp danh sách những ứng cử

53

viên đủ tiêu chuẩn cho người tuyển dụng lao động. Thông tin về việc làm được

Phòng dịch vụ thu thập từ các số liệu báo cáo của các hiệp hội ngành nghề, các

công ty, các phòng đăng ký lao động của các thành phố và cả từ các trung tâm

DVVL tư nhân. Qua nhiều năm, phòng này đã thiết lập được một mạng lưới các

thông tin đa dạng về việc làm và các dịch vụ có liên quan. Thông tin về việc làm

được công khai niêm yết hoặc đưa thông tin trên nhiều kênh, như: tờ rơi, báo, đài

phát thanh và truyền hình địa phương, hệ thống thông tin cơ sở…

Bên cạnh cơ quan của Nhà nước, Chính phủ nước này cho phép và tạo

điều kiện thuận lợi cho các trung tâm DVVL tư nhân phát triển. Các dịch vụ

mà các trung tâm này cung cấp được chia làm ba nhóm: (i) Các trung tâm

DVVL thông thường: cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc làm cho mọi đối

tượng tìm việc; (ii) Các trung tâm tư vấn quản lý: chủ yếu phục vụ các đối

tượng là các nhà quản lý và những người có trình độ chuyên môn cao; và (iii)

Các trung tâm tuyển chọn lao động: đây là các tổ chức cung cấp dịch vụ chủ

yếu cho người nghèo, cung ứng việc làm cho một số ngành nhất định không đòi

hỏi cao về trình độ tay nghề. Như vậy, có thể thấy Chính phủ cũng đã huy động

được sự tham gia của các trung tâm DVVL tư nhân giải quyết vấn đề việc làm

cho người nghèo.

Để tạo thuận lợi cho các trung tâm DVVL tư nhân hoạt động, Chính phủ

đã thành lập Quĩ Phát triển nguồn nhân lực nhằm hỗ trợ các tổ chức tư nhân

tham gia hoạt động đào tạo nghề. Hàng năm quĩ này dành một khoản kinh phí

khoảng 10% đến 15% để hỗ trợ đào tạo nghề cho người có thu nhập thấp.

Phương thức hỗ trợ thông qua cách thức cơ quan Nhà nước về đào tạo và dạy

nghề sẽ thuê các cơ sở đào tạo nghề tư nhân mở các khóa đào tạo dành riêng cho

người lao động nghèo. Phương thức hỗ trợ này mang lại lợi ích cho hai bên. Việc

sử dụng các cơ sở tư nhân nhằm tranh thủ cơ sở vật chất sẵn có của tư nhân, từ

đó tiết kiệm cho Nhà nước khoản kinh phí lớn đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị

đào tạo. Về phía khu vực tư nhân, điều này tạo cho họ tăng doanh thu, sử dụng

có hiệu quả cơ sở của mình.

54

Thứ hai, xây dựng hệ thống tổ chức DVVL công theo ngành dọc hoạt

động hiệu quả rộng khắp trên cả nước ở Hàn Quốc

Để thực hiện vai trò của Chính phủ trong giải quyết việc làm cho người

lao động nói chung và người nghèo nói riêng, Hàn Quốc đã thiết lập được một

hệ thống mạng lưới cung ứng DVVL công rộng khắp trên cả nước. Hệ thống tổ

chức DVVL công của Hàn Quốc bao gồm: Trung tâm DVVL trực thuộc Bộ Lao

động - Việc làm Hàn Quốc (thực hiện đầy đủ các hoạt động DVVL, thông tin thị

trường lao động, chi trả bảo hiểm việc làm, hỗ trợ phát triển kỹ năng nghề và

tham gia vào các chương trình của Chính phủ nhằm bảo đảm việc làm …); và

trung tâm DVVL trực thuộc chính quyền địa phương (chỉ thực hiện các hoạt

động DVVL). Do qui định rõ chức năng giữa các trung tâm trong hệ thống

DVVL công nên không xảy ra tình trạng chồng chéo trong cung cấp dịch vụ.

Đặc biệt, các trung tâm DVVL trực thuộc bộ Lao động - Việc làm Hàn Quốc đã

thực hiện tốt vai trò hỗ trợ về thông tin thị trường, cũng như điều phối được việc

làm đối với các trung tâm DVVL trực thuộc chính quyền địa phương. Điều này

được thể hiện rõ thông qua cơ cấu tổ chức, hoạt động và cơ chế phối hợp cung

cấp thông tin được đề cập chi tiết sau đây.

Về cơ cấu tổ chức, hoạt động. Để tập trung tìm kiếm việc làm cho người

lao động, người thất nghiệp và tham gia sâu rộng vào chính sách bảo hiểm việc

làm, Hàn Quốc đã thiết lập một hệ thống các Trung tâm DVVL trên phạm vi

toàn quốc được tổ chức theo hệ thống dọc trực thuộc Bộ Lao động - Việc làm.

Các trung tâm này chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Bộ Lao động -

Việc làm về tổ chức nhân sự, bộ máy và chuyên môn, nghiệp vụ và ngân sách,

tài chính (không chịu sự quản lý điều hành của chính quyền địa phương hay của

Sở Lao động - Việc làm). Hiện nay, có 88 trung tâm việc làm trực thuộc Bộ Lao

động - Việc làm Hàn Quốc, trong đó có 48 trung tâm vừa thực hiện các hoạt

động DVVL, vừa tham gia vào thực hiện chính sách bảo hiểm việc làm và các

chương trình bảo đảm việc làm, 40 trung tâm chỉ thực hiện các hoạt động

DVVL. Tại mỗi tỉnh hoặc khu vực có thể có một trung tâm đầu mối lớn và các

55

Trung tâm nhỏ (gọi là chi nhánh). Các trung tâm này đều trực thuộc Bộ nên độc

lập với nhau về tổ chức, nhân sự và tài chính nhưng có sự phối kết hợp chặt chẽ

với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Trung tâm đầu mối có thể chỉ hỗ

trợ các chi nhánh về chuyên môn nghiệp vụ.

Về đối tượng phục vụ của Trung tâm DVVL gồm: (1) Học sinh, sinh viên -

đối tượng này được cung cấp các dịnh vụ như tư vấn hướng nghiệp, lựa chọn

nghề phù hợp với khả năng; cung cấp dịch vụ vừa làm việc vừa đi học; tư vấn

kiến thức cho phụ huynh học sinh. (2) Người đang tìm việc làm được cung cấp

các dịch vụ: hỗ trợ tìm công việc phù hợp; tư vấn chuyên sâu cho người khó tìm

được việc làm (tư vấn 1-1); hỗ trợ tìm được các chứng chỉ cần thiết trong quá

trình tìm việc làm: thẻ đào tạo phát triển kỹ năng nghề; DVVL cho từng đối

tượng: thanh thiếu niên, phụ nữ... (3) Người đang làm việc được cung cấp các

dịnh vụ: hỗ trợ phát triển kỹ năng nghề (thẻ đào tạo phát triển kỹ năng nghề) cho

lao động chính, lao động làm thêm; hỗ trợ riêng cho phụ nữ: thai sản, nghỉ nuôi

con. (4) Người thất nghiệp tìm việc làm, được cung cấp: thông tin, tư vấn tâm lý

và kỹ năng tìm kiếm việc làm; cung cấp các dịch vụ tìm kiếm việc làm; hỗ trợ

phát triển kỹ năng nghề; trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp thúc đẩy tìm kiếm việc làm.

(5) Người sử dụng lao động, được cung cấp các dịch vụ: cung cấp lao động kể cả

lao động nước ngoài; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp nhận nhiều lao

động đặc thù; hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm cho người lao động (hỗ trợ

tiền lương, hỗ trợ người sử dụng đào tạo phát triển kỹ năng nghề cho người lao

động...); hỗ trợ trang thiết bị khi doanh nghiệp mở rộng cơ sở sản xuất để họ tiếp

nhận nhiều lao động; hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp tục tiếp nhận người đã nghỉ

hưu nhưng vẫn mong muốn làm việc; hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng nhà trẻ

khi có một nửa số người lao động có nhu cầu gửi con vào nhà trẻ; hỗ trợ doanh

nghiệp tìm kiếm nguồn nhân lực thông qua chương trình online và offline... (6)

Đối với lao động nước ngoài, được cung cấp các dịch vụ: cấp giấy phép lao

động; cung cấp những kiến thức về phong tục tập quán, sinh hoạt của người Hàn

Quốc; hỗ trợ tìm kiếm việc làm mới (nếu người lao động có nhu cầu thay đổi

56

việc làm). Tuy không xác định người nghèo là một nhóm đối tượng riêng nhưng

trong mỗi nhóm đối tượng nêu trên đều bao gồm người nghèo và người có thu

nhập thấp trong xã hội.

Về hệ thống thông tin DVVL nhằm kết nối giữa các Trung tâm DVVL

thuộc Chính phủ, bao gồm 3 hệ thống: hệ thống bảo hiểm việc làm (EI net), hệ

thống hỗ trợ việc làm (work net), hệ thống phát triển kỹ năng nghề (HRD net).

Đối tượng sử dụng hệ thống thông tin DVVL bao gồm: người tìm việc, doanh

nghiệp, trung tâm đào tạo phát triển kỹ năng nghề. Cách thức sử dụng hệ thống:

mỗi người sử dụng có một ID, password để truy cập vào hệ thống.

Thứ ba, xây dựng hệ thống DVVL xuất phát từ nhu cầu của từng vùng địa

phương ở Thụy Điển

Thụy Điển không thành lập các trung tâm theo vùng và địa bàn hành

chính, mà hoàn toàn phụ thuộc vào các vùng hoặc địa phương có nhu cầu giao

dịch việc làm hay không. Do vậy, Thụy Điển đã chia thị trường lao động của

mình thành các khu vực thị trường lao động khác nhau, gồm có 10 trung tâm khu

vực và một Trung tâm quốc gia chịu trách nhiệm về dịch vụ khách hàng. Trong

10 trung tâm khu vực thị trường lao động này lại chia nhỏ thành 55 trung tâm

vùng thị trường khác nhau và sau cùng là 321 trung tâm hoặc văn phòng DVVL

rải khắp tại các khu vực và vùng trên toàn quốc.

DVVL công Thụy Điển là một cơ quan công quyền trực thuộc Chính phủ

và Quốc Hội, được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến các địa phương.

Trụ sở chính đặt tại Thủ đô Stokholm, gồm có Hội đồng quản lý, Tổng Giám

đốc, các phó tổng giám đốc và các vụ, phòng ban chức năng. Cấp vụ gồm có: (1)

Văn phòng giúp việc Tổng Giám đốc gồm có 2 bộ phận, Kiểm soát và An

ninh/bảo đảm; (2) Kế hoạch; Và (3) Hợp tác Quốc tế. Cấp Phòng gồm có: (1)

Phục hồi chức năng làm việc; (2) Hướng dẫn và Hội nhập; (3) Chiến lược việc

làm; (4) Tài chính; (5) Dịch vụ pháp lý; (6) Công nghệ thông tin; (7) Cung cấp

dịch vụ cá nhân; (8) Phân tích; (9) Truyền thông; (10) Nguồn nhân lực và (11)

Hỗ trợ và dịch vụ nội bộ.

57

Tuy cơ cấu tổ chức hoàn toàn theo hệ thống ngành dọc, nhưng trong quản

lý, chỉ đạo và điều hành hệ thống thì Cơ quan DVVL công Thụy Điển lại có sự

phân cấp tương đối triệt để và rõ ràng. Cấp Trung ương, Tổng Giám đốc có

nghĩa vụ bảo vệ kế hoạch ngân sách trước Chính phủ và Quốc hội và có quyền

bổ nhiệm nhân viên dưới quyền tại khối cơ quan Trung ương và Giám đốc các

trung tâm khu vực. Giám đốc các trung tâm khu vực được phân quyền bổ nhiệm

cấp dưới, nhân viên của mình và Giám đốc các trung tâm vùng. Tương tự như

vậy, Giám đốc các trung tâm vùng lại có quyền quản lý và bổ nhiệm các trung

tâm và các trưởng văn phòng DVVL ở cơ sở. Trong hoạt động thực tế, các

chuyên gia hoặc nhân viên tại khối cơ quan Trung ương thường xuyên luân

phiên xuống các trung tâm hoặc văn phòng DVVL tại cơ sở để làm việc.

Với một mạng lưới cung ứng DVVL được đánh giá hình thành khá hợp lý,

Chính phủ Thụy Điển thuận lợi rất nhiều trong việc triển khai các chính sách

việc làm của mình. Đặc biệt, xuất phát từ nhu cầu về DVVL ở mỗi địa phương

để thành lập trung tâm DVVL vừa tránh tình trạng lãng phí không cần thiết khi

vận hành trung tâm DVVL ở tất cả các địa phương, vừa giúp Chính phủ tập

trung nguồn lực hỗ trợ cho các đối tượng thu nhập thấp trong xã hội có được

việc làm hợp lý.

Thứ tư, xây dựng hệ thống tổ chức DVVL theo đơn vị hành chính ở

Trung Quốc

Trung tâm DVVL tại Trung Quốc là đơn vị sự nghiệp được tổ chức theo 3

cấp quản lý (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) và 4 cấp phục vụ (ba cấp vừa nêu và

thêm tổ dân phố). Hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm bao gồm các trung tâm

công lập và tư nhân, đoàn thể. Các đơn vị công lập hiện nay ở Trung Quốc

chiếm 52,9% và các đơn vị tư nhân, đoàn thể chiếm 47,1%. Hiện nay 100% các

phường có cán bộ phụ trách công tác thống kê lao động và giới thiệu việc làm.

Các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trung tâm theo quy định của pháp

luật và không hạn chế số lượng. Các địa phương không có quy hoạch hệ thống

trung tâm, mà được hình thành theo đơn vị hành chính.

58

Hệ thống trung tâm do Nhà nước thành lập có 2 loại: (1) các trung tâm

phục vụ việc làm nhằm cung cấp các DVVL cho người có hộ khẩu tại địa

phương và hoạt động miễn phí; (2) các trung tâm giới thiệu việc làm nhằm cung

cấp các DVVL cho người không có hộ khẩu tại địa phương (lao động di chuyển

từ các vùng khác đến) và hoạt động có thu phí. Đối với DVVL tư nhân, Nhà

nước quy định các tiêu chí để cấp giấy phép hoạt động (bao gồm vốn tương ứng với 10 vạn nhân dân tệ, diện tích ít nhất là 100m2, cán bộ có ít nhất 3 người và phải có chứng chỉ đào tạo giới thiệu việc làm do Sở cấp), giấy phép cấp có thời

hạn một năm và mỗi lần gia hạn là 1 năm. Riêng đối với các trung tâm do Sở

Lao động và ASXH thành lập (của Nhà nước) thì không quy định điều kiện vì

được Nhà nước thành lập và quản lý.

Mối quan hệ giữa các tổ chức DVVL: các tổ chức dịch vụ làm không tổ

chức quản lý theo hệ thống dọc, mà tổ chức quản lý theo đơn vị hành chính,

trung tâm của đơn vị hành chính cấp trên hướng dẫn, hỗ trợ các hoạt động về

chuyên môn nghiệp vụ trung tâm của đơn vị hành chính cấp dưới. Các Sở Lao

động và ASXH thành lập các trung tâm trực thuộc sở và các quận, huyện thành

lập các trung tâm thuộc cấp thành phố thuộc tỉnh, quận huyện.

Mối quan hệ giữa các trung tâm: Trung tâm cấp tỉnh có vai trò trung tâm

đầu mối của tỉnh trong hoạt động giới thiệu việc làm, hướng dẫn chuyên môn

nghiệp vụ, tổ chức đào tạo cán bộ cho các trung tâm thuộc cấp huyện. Các trung

tâm có trách nhiệm thông tinh với nhau thông qua hệ thống mạng,

Chức năng chính của các trung tâm là giới thiệu việc làm và đào tạo, với

các hoạt động sau: Tư vấn việc làm; giới thiệu việc làm; đào tạo đối với trung

tâm cấp tỉnh còn thực hiện việc đào tạo người vào làm việc tại các tổ chức giới

thiệu việc làm ở các đơn vị cấp dưới; thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp:

người thất nghiệp đăng ký với trung tâm giới thiệu việc làm, việc đủ điều kiện

thì được hưởng tiền trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp y tế và tiền mai táng phí; khởi sự

doanh nghiệp (cả đào tạo, tư vấn và hỗ trợ tín dụng); thông tin thị trường lao

động (bao gồm: thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá thị trường lao động);

59

phái cử lao động: trung tâm ký kết hợp đồng lao động với người lao động và trực

tiếp đưa người lao động đến làm việc tại các doanh nghiệp, trung tâm chịu trách

nhiệm quản lý và thực hiện các chế độ đối với người lao động, doanh nghiệp trả

tiền cho trung tâm.

Cũng giống như hầu hết các nước trên thế giới, Trung Quốc không thành

lập trung tâm cung ứng DVVL cho riêng đối tượng người nghèo hay thu nhập

thấp trong xã hội. Người nghèo sẽ là một trong các đối tượng phục vụ của các

trung tâm cung ứng DVVL nhà nước hay tư nhân. Thông qua các trung tâm này,

Chính phủ sẽ có các biện pháp hỗ trợ DVVL đối với người nghèo như qui định

miễn phí tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ hoàn toàn hoặc một phần chi phí đào

tạo nghề. Để đảm bảo người nghèo thực sự là đối tượng được thụ hưởng, các cơ

quan quản lý các cấp ở Trung Quốc chú trọng công tác kiểm tra giám sát hoạt

động của các trung tâm thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao.

2.3.1.2. Kinh nghiệm về quản lý nhà nước nhằm phát triển dịch vụ tài

chính cho người nghèo

Thứ nhất, vai trò của Chính phủ trong việc giúp các tổ chức cung cấp tín

dụng cho người nghèo giữ mức lãi suất ổn định và giảm chi phí là cách duy nhất

để duy trì chương trình cho người nghèo vay vốn với lãi suất thị trường ở

Inđônêxia.

Thành công của Ngân hàng Rakyat Inđônexia (BRI) - một ngân hàng nhân

dân Inđônêxia trong cung cấp dịch vụ tín dụng cho người nghèo đã được nhiều

quốc gia trên thế giới học hỏi kinh nghiệm. Là một ngân hàng nông thôn thuộc

sở hữu nhà nước nhưng BRI đã ngừng hẳn việc cung cấp tín dụng bao cấp và tiến

hành một phương pháp vận hành theo các nguyên tắc thị trường. Đặc biệt, BRI đã

phát triển một hệ thống khuyến khích người vay (những nông dân nghèo) và nhân

viên của mình một cách rất rõ ràng, khen thưởng với những người trả nợ đúng hạn,

và hoạt động dưạ trên huy động tiết kiệm cũng như nguồn vốn của ngân hàng.

Với sự cho phép của Chính phủ, BRI xây dựng được một mạng lưới cung

cấp tín dụng cho người nghèo rộng khắp. Với hơn 4.500 văn phòng chi nhánh

60

nhỏ, mỗi chi nhánh này được uỷ quyền hoạt động độc lập với trách nhiệm cân

đối tài sản, lợi nhuận độc lập và cho vay những nguồn vốn nhỏ, thường là vài

trăm USD cho những nông dân nghèo và những nhà buôn nhỏ. Các chi nhánh

này hoàn toàn dựa vào nguồn vốn vay của địa phương và lãi suất cho vay ở mức

cao. Chi phí cho vay 100 USD tương tự như chi phí cho vay những khoản vốn

lớn hơn nhiều. Kết quả hoạt động rất khả quan: tiền vốn cho vay tại các chi

nhánh nhỏ của BRI tạo lợi nhuận tới 7% hàng năm và thu nhập trung bình các

khách hàng của Bank Rakyat Indonesia tăng 112%, và 90% hộ thoát nghèo. Hoạt

động có lãi không chỉ có trong điều kiện nền kinh tế ổn định mà ngay cả khi có

khủng hoảng (1997 - 1998) BRI vẫn tổng kết có lãi trước thuế 89 triệu USD

trong mảng cho vay tín dụng cho người nghèo.

Sự thành công của BRI đã làm thay đổi quan điểm của các ngân hàng

thương mại đó là cho người nghèo vay vốn không phải là giải pháp kinh doanh

tốt. Ngược lại, BRI cho thấy các ngân hàng thương mại chưa khai thác hết thị

trường - thị trường tín dụng cho người nghèo. Thực tế cho thấy, BRI cung cấp và

duy trì được hoạt động trong thị trường tín dụng cho người nghèo là do có sự hỗ

trợ lớn của Chính phủ. Tuy nhiên, sự hỗ trợ ở đây không phải là cấp bù chênh

lệch lãi suất mà là do Chính phủ tạo điều kiện cho BRI phát triển mạng lưới rộng

khắp trên toàn quốc. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong giảm chi phí tiếp cận

vốn vay của người nghèo. Quan trọng hơn, chính sách lãi suất vĩ mô ổn định đã

giúp BRI duy trì được lãi suất huy động và cho vay cũng ổn định. Chính vì vậy,

các chuyên gia về tín dụng cho người nghèo đều cho rằng nếu Chính phủ có thể

tạo cơ chế và chính sách thuận lợi để các tổ chức cung cấp tín dụng cho người

nghèo giữ được mức lãi suất ổn định và giảm chi phí sẽ duy trì chương trình cho

người nghèo vay vốn. Muốn vậy, Chính phủ phải kiểm soát được lạm phát; xây

dựng các quy chế phù hợp cho phép các tổ chức thay đổi lãi suất và mức phí thu

cần thiết để trang trải tất cả các chi phí và mang lại lợi nhuận; có các biện pháp

giám sát hiệu quả và thích hợp đối với các tổ chức tài chính vi mô; đặc biệt nâng

cao nhận thức của các quan chức và công chúng về học thuyết tài chính vi mô

61

mới (tài chính vi mô thương mại) và tầm quan trọng của nó đối với nền kinh tế

và sự phát triển.

Thứ hai, cung cấp tín dụng cho người nghèo thông qua mối liên kết nhóm

nghèo tự lực với hệ thống ngân hàng ở Ấn Độ

Là một nước đông dân nghèo nhất thế giới, ấn Độ xem cung cấp tín dụng

đến với người nghèo là một công cụ hữu ích cho công cuộc xoá đói giảm nghèo.

Chính vì vậy, xuất phát từ thành công của nhóm người nghèo tự lực, Chính phủ

Ấn Độ đã triển khai cung cấp tín dụng đến người nghèo thông qua mối liên kết

nhóm người nghèo tự lực với ngân hàng.

Ban đầu các tổ tự lực (SHG) - thành viên là người nghèo, đặc biệt là phụ

nữ nghèo được thành lập với sự hỗ trợ bên ngoài, đặc biệt là sự hỗ trợ của các tổ

chức phi chính phủ (NGOs). Họ góp chung tiền tiết kiệm thành một quỹ mà họ

có thể mượn khi cần thiết. SHG liên kết với một ngân hàng nông nghiệp, hợp tác

xã hay thương mại - đó là nơi gửi tài khoản của tổ. Vai trò của NGOs đó là hỗ

trợ việc thành lập các SHG, cũng như kinh nghiệm để quản lý SHG. Ngoài ra

còn có một vai trò cực kỳ quan trọng đó là cầu nối giữa các SHG với hệ thống

ngân hàng. Ban đầu hoạt động của các SHG chưa gây ấn tượng với Chính phủ.

Tuy nhiên, kết hợp với NGOs tài trợ, SHG nỗ lực giảm chi phí quản lý và giao

dịch của các món vay nhỏ cũng như giúp người nghèo tiếp cận với tín dụng. Do

đó SHG đã thu hút sự quan tâm đáng kể trong khu vực ngân hàng nông thôn

cũng như từ Chính phủ. Đặc biệt, sau một thời gian hoạt động không quá lâu, rất

nhiều thành viên của SHG đã thoát nghèo và tiếp tục phát triển kinh tế tốt hơn

khiến cho Chính phủ quan tâm đến mô hình này.

Năm 1999, với 14.000 chi nhánh ở 375 huyện toàn quốc, trung bình cứ ba

làng có một chi nhánh, Ấn Độ được thế giới đánh giá là một trong số ít quốc gia

đã thiết lập mạng lưới ngân hàng nông nghiệp bao phủ khắp quốc gia. Ấn tượng

với sự thành công này của SHG, Chính phủ Ấn Độ đi đến một quyết định tận

dụng mạng lưới hệ thống ngân hàng nông nghiệp rộng khắp mọi miền tổ quốc để

cung cấp tín dụng cho người nghèo. Để làm được điều này, ban đầu Chính phủ

62

cần đến sự hỗ trợ của các NGO trong thiết lập mạng lưới SHG. Đến nay, một số

ngân hàng nông nghiệp đóng vai trò là tổ chức xúc tiến tự lực (SHPIs) và hỗ trợ

thành lập và quản lý SHG.

Với sự cho phép của Chính phủ, nhiều mô hình của quan hệ giữa ngân

hàng -NGO-SHG đã nổi lên trong những năm gần đây. Mô hình thứ nhất là ngân

hàng trực tiếp cho NGO vay tiền và sau đó cho vay tới các tổ viên của SHG.

Trong trường hợp này, NGO có thể cung cấp đào tạo và hướng dẫn cho SHG mà

vẫn giao dịch trực tiếp với ngân hàng. Mô hình thứ hai là ngân hàng cho vay trực

tiếp tới tổ viên của SHG, các NGO hỗ trợ ngân hàng giám sát và thu hồi nợ. Dù

bằng hình thức này hay hình thức khác, Chính phủ đã khai thác được triệt để

hiệu quả từ mô hình liên kết giữa nhóm tự lực và ngân hàng trong việc cung cấp

tín dụng cho người nghèo.

Đỉnh điểm của thành công trong cung cấp tín dụng cho người nghèo của

Ấn Độ đó là sự ra đời của một chương trình xoá đói giảm nghèo do Chính phủ

thành lập (SGSY) năm 1999. SGSY nỗ lực giúp người nghèo nông thôn thoát

khỏi cảnh đói nghèo bằng cách tạo thêm thu nhập ổn định, bền vững. Mục tiêu

của chương trình là giúp cho người nghèo đạt được tài sản tạo ra thu nhập. Theo

hướng dẫn của SGSY, SHG giúp người nghèo xây dựng lòng tự tin thông qua

hành động cộng đồng. Sự tương tác ở các cuộc họp tổ và quyết định tập thể có

thể giúp họ trong việc xác định và ưu tiên nhu cầu và nguồn lực của họ. Quá

trình này sẽ mang lại sức mạnh về KTXH của người nghèo nông thôn cũng như

nâng cao năng lực mặc cả tập thể.

Thứ ba, tìm kiếm mô hình cung cấp hiệu quả dịch vụ tài chính cho người

nghèo ở Trung Quốc

Với quan điểm, cung cấp tín dụng đến với người nghèo được coi là một

trong các biện pháp quan trọng để XĐGN nên Chính phủ Trung Quốc đã rất nỗ

lực tìm kiếm một mô hình cung ứng dịch vụ tín dụng hiệu quả. Khác với nhiều

quốc gia trên thế giới, Chính phủ Trung Quốc thận trọng trong tìm kiếm mô

hình. Ban đầu, Chính phủ cho phép các nhà tài trợ triển khai các dự án thí điểm

63

nhằm phát hiện cách thức triển khai phù hợp với điều kiện đặc thù của quốc gia.

Tiếp đó, trên cơ sở tổng kết hoạt động của các dự án thí điểm, xây dựng mô hình

phù hợp cho Trung Quốc nhân rộng trong chương trình Chính phủ triển khai

rộng trên phạm vi cả nước. Để tránh những tổn thất không đáng có, khi thực hiện

cung cấp tín dụng cho người nghèo thông qua chương trình quốc gia XĐGN,

Chính phủ tiếp tục tạo cơ chế cho chiến lược cung cấp khoản vay nhỏ với hình

thức ngân hàng chính quy của các hợp tác xã tín dụng nông nghiệp.

Như vậy, có thể nói vai trò của Chính phủ là rất lớn trong tìm kiếm một

mô hình phù hợp trong cung ứng dịch vụ tín dụng cho người nghèo. Chính nhờ

vào sự cẩn thận của Chính phủ, Trung Quốc đã rút ra được bài học cực kỳ quan

trọng đó là: mô hình Grameen có thể thành công ở nhiều nước trên thế giới

nhưng không thành công ở Trung Quốc nếu triển khai trên diện rộng. Cơ cấu tổ

chức Grameen không thể áp dụng vào thực tế tại Trung Quốc. Cơ cấu tổ chức và

nguồn lực của Chính phủ Trung Quốc rất mạnh nhưng lại không có sự tham gia

của các tổ chức phi chính phủ. Ở khu vực nông thôn, tổ chức tín dụng vi mô cấp

cơ sở theo đơn vị làng và theo đó cuộc họp hàng tuần của trung tâm sẽ được thay

thế bằng cuộc họp của cả làng và trưởng làng sẽ giữ một số vị trí nhất định. Ở

khu vực thành thị, liên hiệp các doanh nghiệp và các cơ quan dưới cấp huyện sẽ

là tổ chức tín dụng vi mô cấp cơ sở và vì vậy rất khó thành lập các trung tâm tín

dụng cho các tổ chức này.

Chính vì vậy, Chính phủ vẫn đóng vai trò chính trong cung cấp tín dụng

cho người nghèo thông qua tín dụng ưu đãi. Các NGO vẫn đang đứng ngoài

chưa tham gia vào thị trường này do gặp rào cản lớn về cơ chế chính sách của

Chính phủ. Điều này cho thấy Chính phủ chưa chú trọng đến đa dạng hóa đối

tượng cung cấp tín dụng cho người nghèo. Điều này dẫn đến không tận dụng

được lợi thế của các tổ chức, ngân hàng tư nhân muốn hoạt động trong lĩnh vực

này khi mà họ cho rằng thị trường tín dụng cho người nghèo là một thị trường

mang lại lợi nhuận ổn định. Hệ quả của vấn đề này đó là Chính phủ khó có thể

đủ nguồn lực để cung cấp tín dụng cho người nghèo. Cho nên trên thực tế hoạt

64

động cung cấp tín dụng tại Trung Quốc còn chưa phục vụ được các đối tượng

người nghèo khác nhau.

Thứ tư, tạo môi trường pháp lý cho ngân hàng cung cấp tài chính cho

người nghèo theo nhóm nhỏ hoạt động ở Bănglađét

Bắt đầu bằng thử nghiệm nhỏ (bỏ 27 đô la tiền túi cho 42 hộ gia đình

nghèo vay) thành công, Yunus đã thành lập ngân hàng Grameen tại Bănglađét

năm 1976 và đến năm 1983 thì chuyển đổi thành một ngân hàng chính thống

theo một đạo luật đặc biệt của Chính phủ dành cho ngân hàng này. Ngân hàng

Grameen do chính những người vay làm chủ thông qua việc góp cổ phần của

khách hàng. Mục đích chính là để đem tín dụng đến với những người nghèo ở

vùng nông thôn, chủ yếu là phụ nữ trong nỗ lực XĐGN. Ngân hàng cung cấp

những khoản vay phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh và nhà ở. Tất cả các

khoản vay đều không cần thế chấp và không áp dụng các công cụ pháp lý.

Phương pháp thực hiện đó là phân người vay thành hai nhóm rõ ràng: nhóm đầu

tư rủi ro cao và nhóm đầu tư an toàn. Không cho vay theo cá nhân mà vay theo

nhóm (cluster): Các nhóm thành viên không có quan hệ huyết thống hay hôn

nhân được tự thành lập và tập trung thành các “trung tâm” gồm khoảng 8 nhóm.

Sự thành công của Bănglađét trong cung cấp dịch vụ tín dụng đến cho

người nghèo đó chính là Chính phủ mạnh dạn tạo môi trường pháp lý để một

ngân hàng tư nhân tiến hành cung cấp tín dụng cho người nghèo. Ngoài ra, để

tạo thuận lợi cho ngân hàng hoạt động, Chính phủ đã cho phép các NGO và bản

thân Chính phủ hỗ trợ một phần nguồn lực để duy trì hoạt động của ngân hàng

trong thời kỳ đầu. Đến nay, ngân hàng hoàn toàn tự chủ về nguồn vốn hoạt động.

Điều đáng nói ở đây chính là Grameen cung cấp khoản tín dụng đến với người

nghèo với mức lãi suất còn thấp hơn lãi suất Nhà nước áp dụng.

Như vậy, có thể thấy, vai trò nổi bật của Chính phủ Ấn Độ đối với sự ra

đời và phát triển dịch vụ tín dụng cho người nghèo đó chính là tạo hành lang

pháp lý thể hiện ở sự cho phép thành lập, ban hành đạo luật riêng đối với hoạt

65

động của ngân hàng Grameen, thừa nhận ngân hàng này như là một công cụ để

cung cấp dịch vụ tín dụng cho người nghèo, góp phần XĐGN ở Bănglađét.

2.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch vụ cơ

bản đối với người nghèo ở trong nước

Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn, trung tâm kinh tế của khu vực

phía Nam và của nước ta. Trong quá trình đổi mới, mở rộng quan hệ hợp tác

phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, thành phố Hồ Chí Minh cũng không

tránh khỏi bị những tác động tiêu cực từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong

đó, tình trạng phân hóa giàu nghèo, khoảng cách giàu nghèo ngày một tăng đòi

hỏi chính quyền thành phố phải giải quyết sớm. Chính vì vậy, Thành ủy thành

phố Hồ Chí Minh đã đề ra chương trình XĐGN, theo đó tạo điều kiện cho người

nghèo tiếp cận các DVXH cơ bản.

Có thể nói, tại thành phố Hồ Chí Minh, chương trình XĐGN đã được xã

hội hóa sâu rộng, là gương điển hình của cả nước. Trong hơn 20 năm qua, thành

phố đã tập trung triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá.

Tính đến cuối năm 2013, chương trình đã trải qua 3 giai đoạn (1992 - 2003; 2004 -

2008 và 2009 - 2015) với bảy lần điều chỉnh nâng mức chuẩn hộ nghèo cho phù

hợp với điều kiện phát triển KTXH của thành phố. Với sự chỉ đạo quyết liệt của

Thành ủy và chính quyền, thành phố đã hoàn thành chương trình giai đoạn 1 và

giai đoạn 2. Năm 2009, thành phố đã triển khai Chương trình giai đoạn 3 “giảm

nghèo, tăng hộ khá” với chuẩn hộ nghèo theo tiêu chí thu nhập bình quân từ 12

triệu đồng/người/năm trở xuống và tiếp cận theo hướng hỗ trợ chăm lo trực tiếp,

toàn diện các nhu cầu cuộc sống của người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo thành

phố, thông qua thực hiện đa dạng các giải pháp hỗ trợ tổ chức sản xuất làm ăn

nâng thu nhập cho từng hộ nghèo, hộ cận nghèo và đảm bảo ASXH. Công tác

chỉ đạo, quản lý điều hành chương trình được thực hiện theo cơ chế phối hợp đa

ngành đã phát huy hiệu quả, thể hiện sự chủ động, linh hoạt phù hợp theo nhu

cầu đa dạng của người nghèo, hộ nghèo và điều kiện phát triển về KTXH của

từng địa phương và từng hộ dân.

66

Qua 5 năm thực hiện giai đoạn 3 (2009 - 2013), tổng số hộ nghèo theo

tiêu chí thu nhập 12 triệu đồng/người/năm giảm từ 152.328 hộ vào đầu năm

2009 xuống còn 14.000 hộ vào cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 8,4%

xuống còn 0,71% trên tổng số hộ dân thành phố, thành phố không còn hộ nghèo

theo chuẩn quốc gia giai đoạn 2011 - 2015, hoàn thành mục tiêu cơ bản không

còn hộ nghèo theo tiêu chí giai đoạn 3 trước thời hạn 2 năm so với Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ thành phố lần IX đã đề ra.

Cùng với việc tập trung phát triển kinh tế, thành phố luôn quan tâm thực

hiện các chính sách ASXH và chương trình giảm nghèo, quyết tâm nâng thu

nhập và chất lượng cuộc sống người dân, nhất là người nghèo, hộ nghèo và

không để tái nghèo, góp phần giảm nghèo bền vững. Hiện nay, mặc dù hộ nghèo

thành phố đã vượt qua mức chuẩn thu nhập 12 triệu đồng/người/năm, nhưng

thực tế cuộc sống vẫn còn khó khăn và dễ tái nghèo do mức thu nhập thực tế của

mức chuẩn nghèo 12 triệu/người/năm của năm 2013 chỉ tương đương 7,2 triệu

đồng/người/năm so với thời điểm năm 2009, nên đòi hỏi phải điều chỉnh chuẩn

hộ nghèo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, giá cả sinh hoạt và điều kiện

của người dân thành phố. Đồng thời, thành phố tập trung nghiên cứu tổ chức thí

điểm theo hướng tiếp cận giảm nghèo đa chiều tại 4 quận, huyện để rút kinh

nghiệm và nhân rộng toàn thành phố.

Với mục tiêu, tập trung cải thiện và từng bước nâng cao về mức sống,

điều kiện sống và chất lượng cuộc sống của người nghèo, hộ nghèo, hộ cận

nghèo thành phố, ưu tiên người nghèo là gia đình chính sách và dân tộc thiểu số;

không để tái nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các tầng lớp và các

nhóm dân cư trong xã hội, giữa nội thành và ngoại thành. Những nhiệm vụ chủ

yếu thành phố đã và đang triển khai như:

Thứ nhất, phát triển kinh tế đi đôi với giảm nghèo bền vững và căn cơ

- Tổ chức phối hợp lồng ghép có hiệu quả Chương trình giảm nghèo, tăng

hộ khá với các chương trình, kế hoạch phát triển KTXH của thành phố và của

từng địa phương như: Chương trình xây dựng xã nông thôn mới; Chương trình

67

đào tạo nguồn nhân lực; Chương trình chăm sóc sức khỏe; Chương trình chỉnh

trang nâng cấp đô thị và các chương trình ASXH.

- Hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề, đẩy mạnh

việc xây dựng, nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả trong giai đoạn

2009 - 2013 theo hướng phát triển hợp tác, xây dựng các doanh nghiệp vừa và

nhỏ, các mô hình sản xuất nông nghiệp đô thị, chuyển đổi sản xuất dịch vụ tại

các xã nông thôn mới, hỗ trợ liên kết giữa hộ nghèo, hộ cận nghèo với doanh

nghiệp thông qua hoạt động cung cấp nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Thứ hai, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để người nghèo, hộ nghèo, hộ

cận nghèo tiếp cận được nguồn vốn sản xuất và DVXH cơ bản

- Tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để hộ nghèo, hộ cận nghèo tổ chức sản

xuất, tự vượt nghèo thông qua các chính sách, biện pháp hỗ trợ về cho vay ưu đãi

và tín dụng nhỏ, gắn với tư vấn hướng dẫn phương án sản xuất kinh doanh; đào

tạo nghề theo hướng điều chỉnh chọn lọc các ngành nghề có hiệu quả, phù hợp

với quy hoạch phát triển KTXH từng địa phương và theo điều kiện khả năng của

từng hộ nghèo, hộ cận nghèo; tăng cường tư vấn cho người nghèo.

- Phát triển các DVXH cơ bản, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người

nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo thông qua thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội

về bảo hiểm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường.

- Tiếp tục bổ sung hoàn thiện hệ thống ASXH để trợ giúp có hiệu quả cho

người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng xã hội yếu thế, neo đơn.

- Thực hiện chương trình giảm nghèo gắn với phong trào toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa và phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội.

Thứ ba, huy động, vận động, bố trí nguồn lực ở từng địa bàn quận -

huyện, phường - xã, thị trấn cho các mục tiêu giảm nghèo; ưu tiên đầu tư cho

các địa bàn trọng điểm và các hoạt động ưu tiên

- Tập trung nguồn lực vào các mục tiêu, dự án ưu tiên để đẩy nhanh tốc độ

và quy mô giảm hộ nghèo, hộ cận nghèo; làm chuyển biến các phường, xã, thị

trấn có tỷ lệ hộ nghèo cao (trên 20% tổng số hộ dân của từng địa phương).

68

- Đẩy mạnh xã hội hóa việc huy động các nguồn lực đầu tư cho mục tiêu

giảm hộ nghèo, hộ cận nghèo, tạo thành phong trào sâu rộng thu hút và động

viên sự tham gia ủng hộ của các tầng lớp dân cư, các ngành, các cấp, các tổ chức

đoàn thể, các tổ chức KTXH hỗ trợ người nghèo và các địa phương nghèo.

Thứ tư, về nâng cao năng lực chỉ đạo, quản lý, điều hành các hoạt động

giảm nghèo

- Các cấp ủy Đảng chịu trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo và có nghị quyết,

chương trình hành động triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện cụ thể mục tiêu

giảm nghèo, tăng hộ khá, từng bước cải thiện nâng dần mức sống, chất lượng

cuộc sống của hộ nghèo, hộ cận nghèo ở từng địa phương, đơn vị.

- Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và có hiệu quả giữa các

sở, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các Đoàn thể và các quận, huyện, phường, xã, thị

trấn trong các hoạt động giảm nghèo trên địa bàn thành phố.

- Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ chuyên trách

giảm nghèo, nhất là ở phường, xã, thị trấn và tổ trưởng tổ tự quản giảm nghèo,

gắn với chính sách đãi ngộ hợp lý.

Thứ năm, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các chương trình

truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về định hướng giảm

nghèo bền vững, về chủ trương, chính sách mục tiêu giảm nghèo của thành phố;

đẩy mạnh hoạt động của trang tin điện tử giảm nghèo, bản tin giảm nghèo.

Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra thường xuyên các hoạt động giảm

nghèo ở các cấp, các ngành; đồng thời đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng và

người dân trong hoạt động giám sát, đánh giá, kiểm tra việc thực hiện các mục

tiêu, chương trình giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân.

2.3.3. Bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước nhằm phát triển các

dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

Thứ nhất, bài học kinh nghiệm về QLNN đối với DVVL cho người nghèo

Một là, Nhà nước không thiết lập một hệ thống riêng để cung ứng DVVL

cho người nghèo. Việc cung ứng DVVL cho người nghèo là cần thiết nhưng

69

không cần thiết phải hình thành một mạng lưới riêng để cung ứng DVVL. Quan

trọng là qui hoạch bố trí mạng lưới trung tâm cung ứng hợp lý, xác định rõ chức

năng đối với các trung tâm này để chúng có thực hiện tốt nhiệm nhiệm vụ cung

ứng DVVL cho người nghèo.

Hai là, Nhà nước tạo cơ chế để huy động tư nhân tham gia cung ứng

DVVL cho người nghèo. Việc huy động tư nhân tham gia vào cung ứng DVVL

cho người nghèo hoàn toàn có thể thực hiện nếu như thiết lập một cơ chế phối

hợp hợp lý trong hoạt động cung ứng. Tư nhân và Nhà nước đều được lợi từ sự

phối hợp trong cung ứng DVVL cho người nghèo như trường hợp của Malayxia.

Ba là, Nhà nước lựa chọn mô hình hệ thống tổ chức cung ứng DVVL đảm

bảo thuận lợi trong phối hợp hoạt động và hỗ trợ thông tin giữa các trung tâm

DVVL trong hệ thống. Một vấn đề lớn trong hoạt động của các trung tâm DVVL

chính là sự phối hợp trong hoạt động cũng như kết nối thông tin còn rất nhiều

điểm bất cập. Điều này đặc biệt nghiêm trọng trong hoạt động cung cấp thông tin

thị trường lao động và đào tạo nghề cho người lao động nói chung và người lao

động nghèo nói riêng. Các hạn chế này sẽ được khắc phục rất nhiều nếu như Nhà

nước xây dựng được hệ thống tổ chức cung ứng dịch vụ vừa đảm bảo tăng tính

liên kết theo chiều dọc và liên kết theo chiều ngang giữa các trung tâm DVVL.

Bốn là, Nhà nước phát huy vai trò kiểm soát đối với hoạt động của các

trung tâm cung ứng DVVL để đảm bảo người nghèo tiếp cận được với DVVL có

chất lượng. Nhà nước có thể hỗ trợ nguồn lực cho người nghèo thông qua các

trung tâm cung ứng DVVL nhưng phải đảm bảo các khoản hỗ trợ phải thực sự

đến được với người nghèo. Đặc biệt, Nhà nước có cơ chế, chế tài để kiểm soát và

xử lý các vi phạm của các trung tâm được giao nhiệm vụ hỗ trợ người nghèo tiếp

cận với DVVL.

Thứ hai, bài học kinh nghiệm về QLNN đối với dịch vụ tài chính cho

người nghèo

Một là, Nhà nước đóng vai trò lớn trong thiết lập hệ thống mạng lưới cung

ứng dịch vụ tài chính cho người nghèo. Để dịch vụ tín dụng đến được với người

70

nghèo cần thiết lập được mạng lưới cung ứng. Việc làm này sẽ là rất khó đối với

tư nhân vì họ có thể gặp các rào cản về thủ tục hay các qui định của chính quyền

khi xây dựng mạng lưới này. Rào cản này sẽ được gỡ bỏ nếu như Nhà nước tạo

cơ chế chính sách thuận lợi cho sự xuất hiện của mạng lưới cung cấp. Thêm vào

đó, với mỗi quốc gia đều sẵn có một hệ thống ngân hàng thực hiện chức năng

của Chính phủ. Do đó, nếu tận dụng mạng lưới này vào cung cấp dịch vụ tín

dụng cho người nghèo sẽ giảm được chi phí các khoản vay. Bởi vậy, vai trò của

Nhà nước trong thiết lập hệ thống cung ứng dịch vụ tài chính đến với người

nghèo là rất lớn, quyết định sự tồn tại và phát triển của loại hình dịch vụ này ở

cấp quốc gia cũng như địa phương.

Hai là, Nhà nước tạo cơ chế để huy động và sử dụng nguồn lực đảm bảo

cung ứng dịch vụ tín dụng hiệu quả cho người nghèo. Tín dụng cho người nghèo

là một công cụ để giảm nghèo đó là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, làm thế

nào để cung ứng có hiệu quả dịch vụ tín dụng đến người nghèo? Các tổ chức tư

nhân hay Nhà nước có thể đảm bảo cung ứng tín dụng cho người nghèo nhưng

không có gì đảm bảo tất cả người nghèo đều có thể tiếp cận dịch vụ tín dụng.

Nếu có cũng không có gì đảm bảo trong mọi trường hợp người nghèo có thể sử

dụng hiệu quả nguồn tín dụng. Do đó, vai trò của Nhà nước đó là tạo cơ chế để

huy động được cả nguồn lực khác nhau để đảm bảo có đủ nguồn lực đáp ứng

nhu cầu về tín dụng của người nghèo. Ngoài ra, Nhà nước nên xác định nguồn

lực của mình là hạn chế, do đó thay vì dùng nguồn lực đó để cấp tín dụng ưu đãi

cho người nghèo nên dùng nó để hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực cho họ để họ

biết cách sử dụng đồng vốn đó một cách hiệu quả nhất.

Ba là, Nhà nước tạo môi trường ổn định cho sự phát triển và hoạt động

của các tổ chức tham gia cung ứng dịch vụ tín dụng cho người nghèo. Chính phủ

cần huy động từ nhiều nguồn lực khác nhau thì mới cải thiện cơ hội tiếp cận dịch

vụ tín dụng cho người nghèo. Do đó, sự thừa nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho

các tổ chức khi tham gia thị trường tín dụng cho người nghèo phụ thuộc nhiều

vào cơ chế, chính sách của Nhà nước. Đặc biệt, để duy trì được hoạt động lâu dài

71

của các tổ chức này, tạo lập một môi trương pháp lý và vĩ mô là cần thiết. Cụ

thể, Nhà nước cần duy trì các chính sách kinh tế vĩ mô thuận lợi cho tổ chức vi

mô phát triển. Kinh nghiệm của Inđônêxia cho thấy, kể từ khi chính sách lãi suất

được thay đổi theo hướng thị trường, các tổ chức tài chính vi mô được quyền

quyết định lãi suất cho vay theo đối tượng khách hàng. Những khoản vay nhỏ,

rủi ro lớn thường được tính lãi suất cao hơn còn những khoản vay lớn, rủi ro thấp

được tính lãi suất thấp hơn.

Bốn là, Nhà nước phát huy và tăng cường vai trò kiểm soát đối với hoạt

động của các tổ chức để đảm bảo người nghèo tiếp cận được với dịch vụ tín

dụng thoát nghèo bền vững. Dù dịch vụ tín dụng được cung cấp thông qua tổ

chức tín dụng nhà nước hay tư nhân, việc kiểm soát đối với các tổ chức này là

cần thiết. Kinh nghiệm ở các quốc gia cho thấy, nếu thiếu sự giám sát của nhà

nước có thể dẫn tới tình huống: hoặc các tổ chức cung cấp tín dụng tư nhân sẽ

phát sinh các khoản chi phí khiến cho lãi suất thực mà người nghèo phải trả cao

hơn theo qui định, hay đối với tổ chức tín dụng của nhà nước có thể cho vay sai

đối tượng… Cả hai trường hợp này đều không tốt cho người nghèo. Nhà nước có

cơ chế giám sát hoạt động của các tổ chức sẽ đảm bảo người nghèo có nhiều cơ

hội tiếp cận với dịch vụ tín dụng thoát nghèo bền vững.

72

Chương 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI

NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1.1. Tổng quan đói nghèo của Hà Nội

3.1.1.1. Bức tranh chung về đói nghèo của Hà Nội

Theo kết quả của các cuộc điều tra khảo sát của các tổ chức, cá nhân trên

địa bàn thành phố cho thấy số lượng và cơ cấu hộ nghèo của Hà Nội như sau:

Căn cứ vào báo cáo của Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo thành phố và

báo cáo của Sở Lao động TBXH: Sau một năm mở rộng địa giới hành chính, số

lượng hộ nghèo có hộ khẩu chính thức Hà Nội năm 2009 là 91.392 hộ với

308.632 nhân khẩu, chiếm 6,09% tổng số hộ toàn thành phố.

Số hộ nghèo của thành phố thời điểm đầu năm 2010 là 76.707 hộ, chiếm

4,97% và số hộ cận nghèo của thành phố là 37.929 hộ, chiếm 2,46%. Đến cuối

năm 2010, đầu năm 2011 khi thay đổi chuẩn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đã tăng lên

cao nhất trong giai đoạn 2001-2010, chiếm 7,52%. Đến cuối năm 2011, tỷ lệ này

đã giảm xuống còn 5,1% và dự tính hết năm 2012 chỉ còn 3,6%.

Bảng 3.1: Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo của thành phố Hà Nội

giai đoạn 2001 - 2011

Năm

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2009

2010

2011

Chỉ tiêu

3.685 37.080 91.392 116.057 80.945

Số hộ nghèo 30.752 24.622 17.722 7.652

5,01

4,01

2,60

1,09

0,49

5,02

6,09

7,52

5,10

Tỷ lệ trên tổng số hộ toàn thành phố, %

Nguồn: [25]

73

Hà Nội hiện nay là một trong những thành phố dẫn đầu cả nước về thành

tích XĐGN. Tỷ lệ hộ nghèo ngày càng có xu hướng giảm theo mức chuẩn nghèo

xác định. Theo kết quả điều tra, năm 2012, cả nước có hơn 2,1 triệu hộ nghèo,

chiếm 9,6%. Theo vùng lãnh thổ, vùng núi Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là

28,6% và vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất là Đông Nam Bộ với 1,27%; tỉnh có

tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là Điện Biên (38,3%). Hà Nội đứng thứ tư trong số 5

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ lệ hộ nghèo dưới 3% (gồm Hà Nội

1,52%; thành phố Hồ Chí Minh 0,0003%; Đồng Nai 0,91%; Đà Nẵng 0,97%; Bà

Rịa Vũng Tàu 1,71%).

Kết quả của cuộc Điều tra nghèo đô thị (UPS-2009) [16] cho thấy, năm

2009, UNDP đã tài trợ Dự án “Hỗ trợ đánh giá sâu về tình trạng nghèo đô thị ở Hà

Nội và thành phố Hồ Chí Minh” (UPS-2009), do ngành thống kê của hai thành phố

chủ trì thực hiện. Dự án đã áp dụng cách tiếp cận đo lường nghèo đa chiều theo tám

chiều thiếu hụt: thu nhập, giáo dục, y tế, tiếp cận hệ thống ASXH, chất lượng và

diện tích nhà ở, dịch vụ nhà ở, tham gia các hoạt động xã hội và an toàn xã hội,

được tiến hành vào tháng 10 và 11/2009 tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã

khắc phục những hạn chế trong thiết kế mẫu của VHLSS, tức là bao hàm cả bộ

phận dân di cư, và nhằm đánh giá chính xác hơn mức độ nghèo đô thị tại hai thành

phố này. Kết quả đo lường nghèo đa chiều của UPS-2009 cho thấy, chất lượng cuộc

sống của dân cư ở Hà Nội còn nhiều mặt hạn chế mặc dù tỷ lệ nghèo theo thu nhập

đã ở mức thấp. Ba lĩnh vực thiếu hụt nhiều nhất là tiếp cận hệ thống ASXH, tiếp cận

các dịch vụ nhà ở phù hợp (điện, nước, nước thải và rác thải), và tiếp cận nhà ở có

chất lượng và diện tích phù hợp. Người dân di cư chịu thiếu hụt ở hầu hết các chiều

nhiều hơn người dân có hộ khẩu. Cụ thể như Hình 3.1 dưới đây:

Thứ nhất, về giáo dục

Điều tra UPS-09 cho thấy, nhìn chung, Hà Nội đạt được kết quả về giáo

dục ở mức cao hơn thành phố Hồ Chí Minh, thể hiện ở tỷ lệ biết chữ, trình độ

học vấn và trình độ chuyên môn của người dân, và tỷ lệ đi học đúng tuổi. Không

có sự khác biệt lắm về tỷ lệ biết chữ giữa hai nhóm nam và nữ, nhưng nam lại có

74

bằng cấp cao hơn nữ. Đáng chú ý, chỉ có 97,3% trẻ em 10- 14 tuổi (là các em

trong độ tuổi học trung học cơ sở) biết chữ, chứng tỏ rằng vẫn còn một tỷ lệ trẻ

em trong độ tuổi này hoặc chưa được đi học, hoặc chưa đạt phổ cập giáo dục tiểu

Đơn vị tính: %

học. Hầu hết số trẻ em này thuộc các hộ nghèo.

Hình 3.1: Tỷ lệ nghèo theo từng chiều thiếu hụt của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh

Nguồn: [16]

Thứ hai, về y tế

Kết quả điều tra nghèo đô thị UPS-09 cũng cho thấy 63% dân số bị ốm có

chăm sóc y tế chuyên môn với tần suất là “thường xuyên” hoặc “thỉnh thoảng”,

còn lại là đều tự chữa bệnh. Trong đó, tỷ lệ dân cư tìm đến bác sĩ khi bị ốm của

dân cư thường trú là 65% và dân di cư trên địa bàn Hà Nội là 53%.

Kết quả điều tra cũng cho thấy có 69% người dân trong nhóm thu nhập

cao nhất đi khám khi bị ốm so với 58% dân số trong nhóm thu nhập thấp nhất.

Khi được hỏi lí do tại sao không tìm bác sĩ khám bệnh, hầu hết các câu trả lời

(96%) đưa ra là ốm không nghiêm trọng nên không cần khám bác sĩ. Tuy nhiên,

cũng có những nhân tố khác như 5% dân số cho rằng họ không có thời gian; 3%

cho rằng họ không có đủ tiền. Đối với người dân di cư, 8% cho rằng họ không có

thời gian và 6% trả lời rằng họ không đủ tiền đi khám bệnh.

Thứ ba, về việc làm

Xét về trình độ đào tạo, trong số người nghèo được điều tra trên địa bàn

Hà Nội chỉ có 1% có trình độ đại học trở lên, so với mức chung toàn thành phố

75

là 26% và người có thu nhập cao là 46%. Có 5% người nghèo làm công việc bàn

giấy, tỷ lệ này khá thấp so với mức chung của thành phố và nhóm thu nhập cao

tương ứng là 34% và 60%.

Tỷ lệ người nghèo là những người làm công ăn lương khá cao (61%), chỉ

có 1% người nghèo là người sử dụng lao động/chủ sở hữu. Tỷ lệ người nghèo

làm việc cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài và cho nhà nước khá thấp - cùng

chiếm (8%), làm việc trong ngành công nghiệp (38%). Tỷ lệ người nghèo có hợp

đồng lao động lao động tương đối thấp (9%). Tỷ lệ người nghèo nhận được các

quyền lợi liên quan đến công việc chiếm 21%.

Đơn vị tính: %

Bảng 3.2: Đặc điểm việc làm của người nghèo ở Hà Nội qua điều tra

Toàn

Chỉ tiêu

Hà Nội

Nhóm người nghèo

Nhóm người giàu

26

1

46

Trình độ học vấn đại học trở lên

34

5

60

Công việc bàn giấy

5

1

13

Người sử dụng lao động/ chủ sở hữu

67

61

67

Công việc làm công ăn lương

28

38

27

Ngành Công nghiệp

29

8

28

Làm việc cho nhà nước

7

8

8

Làm việc cho công ty có VĐT nước ngoài

34

9

39

Có hợp đồng không xác định thời hạn

Nhận được các quyền lợi liên quan đến

45

21

56

công việc

Nguồn: [16]

Thứ tư, về nhà ở và môi trường sống Tính trung bình, hộ gia đình và cá nhân ở Hà Nội có 15,7m2 không gian sống trên đầu người, tỷ lệ dân số phải sống trong tình trạng chật chội (ít

76

hơn 7m2) toàn thành phố Hà Nội chiếm 26% thấp hơn thành phố Hồ Chí Minh (31%). Tỷ lệ người nghèo Hà Nội phải sống trong tình trạng chật chội

khá cao (35%).

Có 16% hộ gia đình ở Hà Nội phải thuê chỗ ở hoặc ở trọ, trong đó phần

lớn là dân di cư (64%), tỷ lệ người nghèo phải thuê chỗ ở hoặc ở trọ (15%). Số

hộ không có nước máy riêng trong nhà ở Hà Nội là 30%, trong đó hộ nghèo

(58%), nên phải dùng nước giếng khoan hoặc mua nước để sử dụng.

Toàn thành phố vẫn còn 14% các hộ gia đình nấu ăn bằng dầu, củi hoặc

than, những nhiên liệu này được sử dụng khá rộng rãi trong các hộ gia đình

nghèo (16%). Mặt khác, các hộ gia đình ở Hà Nội nói chung và các hộ nghèo nói

riêng còn phải đối mặt với các khó khăn như tiếng ồn, khói bụi, thiếu điện, ngập

lụt hoặc trộm cướp.

Bảng 3.3: Điều kiện nhà ở và môi trường sống của người nghèo ở Hà Nội

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu

Thành phố Hà Nội

Nhóm người nghèo

Nhóm người giàu

26

35

17

Không gian sống dưới 7 m2/ người

16

15

24

Nhà trọ/nhà thuê

70

42

74

Nước máy riêng

14

16

2

Nấu ăn bằng dầu, củi hoặc than

Khó khăn mà hộ gia đình gặp phải:

22

18

23

Tiếng ồn

26

19

21

Khói bụi

27

18

13

Mất/ cắt điện

14

15

10

Ngập lụt

11

14

13

Trộm/ cướp

Nguồn: [16]

77

Thứ năm, về thu nhập và chi tiêu

Bảng 3.4: Thu nhập và chi tiêu của hộ nghèo ở Hà Nội

Đơn vị tính: 1.000 đồng

Nhóm

Thành phố

Nhóm

Chỉ tiêu

Hà Nội

người nghèo

người giàu

1. Thu nhập

2.321

805

5.219

Thu nhập người/ tháng

57

62

51

% thu nhập từ lương

22

44

6

Thu nhập không đủ (%)

Lao động làm công ăn lương/

1.381

1.185

2.978

lao động giản đơn

2. Chi tiêu

Chi tiêu chung

1841

-

-

950

520

1671

Chi cho lương thực, thực phẩm

268

121

554

Chi cho nhà ở

122

41

302

Chi cho giáo dục

85

46

138

Cho cho y tế

Nguồn: [16]

Thu nhập bình quân đầu người/tháng trên địa bàn Hà Nội là 2,3 triệu

đồng/tháng, tuy nhiên, có sự chênh lệch khá lớn về thu nhập giữa người giàu (5,2

triệu đồng/tháng) và người nghèo (0,8 triệu đồng/tháng); với mức thu nhập trên

có đến 44% người nghèo thu nhập không đủ cho chi tiêu. Tiền lương trả cho lao

động phổ thông tại Hà Nội thuộc nhóm người giàu (3 triệu đồng/tháng) cao hơn

so với nhóm người nghèo (1,2 triệu đồng/tháng) [16].

Chi tiêu chung được điều tra trong điều tra nghèo đô thị UPS - 09 tại Hà

Nội là 1,84 triệu đồng /người/ tháng thấp hơn so với mức thu nhập được báo cáo.

Hơn một nửa tiêu dùng là chi cho lương thực thực phẩm, trong đó người nghèo

là 520.000 đồng/tháng, thấp hơn so với người giàu là 1.671.000 đồng/tháng. Chi

cho nhà ở của người nghèo là 121.000 đồng/tháng, thấp hơn so người giàu là

78

554.000 đồng/tháng. Chi cho giáo dục và y tế của người nghèo là 87.000

đồng/tháng, ít hơn nhiều so với người giàu là 440.000 đồng/tháng. Điều này cho

thấy người nghèo ít hơn cho giáo dục và y tế, nhưng lại chi tiêu nhiều hơn cho

lương thực thực phẩm và nhà ở, vì thu nhập của họ thấp chỉ đủ lo ăn từng ngày

và thường là những người phải thuê nhà [16].

Thứ sáu, rủi ro và đối phó với rủi ro

Bảng 3.5: Các khó khăn và cách giải quyết khó khăn của hộ nghèo ở Hà Nội

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu

Thành phố Hà Nội

Nhóm người nghèo

Nhóm người giàu

75

69

55

1. Những khó khăn gặp phải - Tăng giá các mặt hàng thiết yếu

4

8

3

- Mất việc

6

9

14

- Kinh doanh thua lỗ

25

27

11

- Sức khỏe

14

27

11

2. Cách giải quyết khó khăn gặp phải - Vay/ mượn tiền

54

57

47

- Bán tài sản/ sử dụng tiền tiết kiệm

4

7

2

- Giảm chi tiêu cho giáo dục

15

21

10

- Làm việc thêm giờ

- Khác

3

8

1

Nguồn: [16]

Mọi người đều phải đối mặt với một số loại rủi ro như mất việc, tăng giá

lương thực thực phẩm, ốm đau bất thường, hay thiên tai. Trong điều tra nghèo đô

thị UPS-09, người được phỏng vấn được hỏi về khó khăn mà họ gặp phải và

cách mà họ giải quyết khó khăn. Tại thời điểm điều tra tháng 10 và tháng

11/2009, giá lương thực thực phẩm tăng cận mức cao nhất trong lịch sử và nhiều

người đã cảm thấy mức tăng chóng mặt của nó. Ở Hà Nội, 75% số người được

hỏi cho rằng khó khăn lớn nhất là giá các mặt hàng thiết yếu tăng cao, trong đó

79

có 69% nhóm nghèo có cùng ý kiến. Khó khăn lớn thứ hai được người dân đưa

ra là vấn đề về sức khỏe, có 25% người được điều tra ở Hà Nội đề cập đến, trong

đó nhóm nghèo là 27%. Các khó khăn khác như chậm trả lương/tiền công (3%),

thiên tai (2%), hoặc vấn đề gia đình (5%) đều là không thường xuyên [16].

Khi phải đối mặt với khó khăn, cách ứng phó chính là lấy tiền tiết kiệm

hoặc bán tài sản; ở Hà Nội, 14% hộ gia đình được hỏi vay tiền để giải quyết khó

khăn và 15% hộ gia đình chọn cách làm thêm giờ. Những người nghèo thường đi

vay, bán tài sản và làm thêm giờ nhiều hơn là những người giàu (tương ứng là

27%, 57% và 21% so với 11%, 47% và 10%) [16].

Thứ bảy, tham gia hoạt động xã hội

Điều tra nghèo đô thị UPS-09 nhằm làm rõ mức độ tham gia các hoạt

động xã hội của nhóm nghèo. Những hoạt động xã hội này được chia thành 4

nhóm: (i) Tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội như đoàn thanh niên, công

đoàn, hoặc hội phụ nữ, hội cựu chiến binh hoặc hội người cao tuổi; (ii) Tham gia

vào các hoạt động xã hội trong khu vực sinh sống, bao gồm tham gia các cuộc

họp liên quan đến kế hoạch hóa gia đình hay đóng góp cho quỹ xã hội; (iii)

Thông tin về các DVXH được cung cấp bao gồm thông tin liên quan đến các

chính sách, thông tin liên quan đến chăm sóc y tế, tiêm chủng, hoặc dịch bệnh,

chăm sóc sức khỏe sinh sản,... và (iv) Các mối quan hệ xã hội trong khu vực sinh

sống, bao gồm tham gia vào các sự kiện quanh khu vực như đám cưới hay

chuyện trò với hàng xóm.

Kết quả điều tra UPS-09 cho thấy, tỷ lệ người được hỏi tham gia vào các

hoạt động xã hội như sau: 48% người nghèo tham gia vào các tổ chức chính trị-

xã hội (so với nhóm người giàu là 57% và số người được hỏi ý kiến ở Hà Nội là

73%). Người nghèo cũng tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội khác như:

các hoạt động xã hội trong khu vực sinh sống (71%), các mối quan hệ trong khu

vực sinh sống (90%), được cung cấp các DVXH (75%). So với nhóm người giàu

và mức chung của những người được hỏi thì các hoạt động xã hội của nhóm

người nghèo như vậy là khá tốt.

80

Bảng 3.6: Mức độ tham gia các hoạt động xã hội của người nghèo

và lý do không tham gia

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu

Toàn Hà Nội

Nhóm người nghèo

Nhóm người giàu

1. Tham gia vào

73

48

57

Tổ chức chính trị - xã hội

80

71

81

Các hoạt động trong khu vực sinh sống

84

75

76

Được cung cấp các DVXH

95

90

95

Các mối quan hệ trong khu vực sinh sống

2. Lý do không tham gia:

- Không quan tâm

3

7

5

3

9

3

- Không được tham gia

- Không liên quan

24

47

40

3

5

3

- Không có hộ khẩu

5

13

16

- Không có thời gian

Nguồn: [16]

3.1.1.2. Nguyên nhân đói nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Từ các kết quả khảo sát, điều tra trên đây cho thấy bức tranh tổng thể về

đói nghèo ở địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm vừa qua, từ đó có thể rút

ra một số nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở Hà Nội như sau:

Thứ nhất, qua kết quả điều tra của Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo thành

phố phối hợp với Trung tâm Dự báo và Phân tích KTXH (Viện Khoa học xã hội

Việt Nam), năm 2009 đã công bố 9 nhóm nguyên nhân dẫn đến nghèo của Hà

Nội, cụ thể như Bảng 3.7 dưới đây:

81

Bảng 3.7: Nguyên nhân dẫn đến nghèo của các hộ ở Hà Nội qua điều tra

Đơn vị tính: %

TT

Nguyên nhân nghèo của các hộ

So với tổng số hộ nghèo 38,2

So với tổng số hộ chung 2,33

1 Thiếu vốn sản xuất - kinh doanh

26,6

1,62

2 Thiếu kinh nghiệm làm ăn

16,0

0,97

3 Thiếu đất sản xuất

21,8

1,33

4 Thiếu lao đông, đông người ăn theo

38,2

2,33

5 Gia đình có người già yếu, bệnh tật

1,4

0,09

6 Có người mắc tệ nạn xã hội

2,8

0,17

7 Bị tai nạn, rủi ro

2,2

0,13

8 Bị thiên tai, dịch bệnh

9 Nguyên nhân khác

6,0

0,37

Nguồn: [24]

Theo đó, nguyên nhân cao nhất dẫn đến nghèo của Hà Nội là thiếu vốn

sản xuất kinh doanh và gia đình có người già yếu, bệnh tật - cùng chiếm 38,2%;

tiếp đến là do thiếu kinh nghiệm làm ăn (26,6%); thiếu lao động, đông người ăn

theo (21,8%); thiếu đất sản xuất 16%;...

Tuy nhiên, các nguyên nhân trên chủ yếu đánh giá ở vùng nông thôn

ngoại thành Hà Nội. Trong thực tế, nguyên nhân dẫn đến nghèo của Hà Nội hiện

nay còn liên quan đến hàng loạt các nguyên nhân chung của các hộ nghèo cả

nước và các nguyên nhân đặc thù của Hà Nội.

Thứ hai, trình độ học vấn thấp của các hộ nghèo. Nguyên nhân này dẫn

đến các hộ nghèo chủ yếu làm việc trong môi trường nặng nhọc, không đòi hỏi

tay nghề cao, thu nhập thấp, ít có khả năng cải thiện mức sống. Đó là các gia

đình đông con, ít lao động chính. Đó là khoảng cách chênh lệch về cơ sở hạ tầng,

điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu vùng - miền giữa thành thị và nông thôn, giữa các xã đồng bằng và 18 xã miền núi…

Thứ ba, chi phí cho nhu cầu thiết yếu ở Hà Nội rất “đắt đỏ”, ảnh hưởng

trực tiếp đến mức sống tối thiểu của các hộ nghèo. Một nguyên nhân nữa là sự

82

phân tầng xã hội của Hà Nội tương đối lớn, khoảng cách giữa nhóm 5 (nhóm

giàu) và nhóm 1 (nhóm nghèo) chênh lệch từ 7-8 lần. Đối với nhóm giàu, việc

mua sắm không cần suy tính nhiều đã góp phần đẩy giá của các dịch vụ và nhu

yếu phẩm tăng cao dẫn đến người nghèo cũng phải hứng chịu mặt bằng giá cao

của các hộ giàu và trung lưu [16].

Ngoài ra, các nguyên nhân liên quan đến quá trình đô thi hóa, thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, nông dân mất việc làm có nguy cơ tái nghèo, tâm lý ngại lao động nặng nhọc, thích hưởng thụ, không muốn làm việc, các hiện tượng tín dụng đen (điển hình gần đây như ở Phú Xuyên, Hà Đông, Cầu Giấy) của một bộ phận dân cư, đặc biệt tầng lớp thanh niên ở thành thị có nguy cơ cao rơi vào

“bẫy đói nghèo”.

Nguồn cung ứng tài chính cho chương trình giảm nghèo của thành phố được trích từ nguồn ngân sách thành phố là tương đối lớn, cơ bản đủ khả năng đáp ứng thực hiện các mục tiêu đạt ra đối với chương trình giảm nghèo của thành phố Hà Nội.

Một số cơ chế, chính sách hỗ trợ, trợ giúp người nghèo về tín dụng, trợ cấp, trợ giá, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, xây dựng nhà cho người nghèo, hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm, thực hiện ASXH, bình ổn giá… trong thời gian vừa qua đã phát huy tác dụng, tạo điều kiện cho một bộ phận hộ nghèo

vươn lên thoát nghèo, ổn định đời sống.

Sự tham gia đồng bộ giữa thành phố và quận, huyện, sở, ngành gắn liền với các phong trào “Vì người nghèo, chung tay góp sức” đã được sự quan tâm, hưởng ứng của cả xã hội. Công tác giảm nghèo của thành phố thời gian qua đã góp phần cho việc thực hiện Nghị quyết số 11 năm 2011 của Chính phủ và Chương trình hành động số 33 năm 2011 của thành phố có hiệu quả.

3.1.2. Thực trạng một số dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa

bàn thành phố Hà Nội

3.1.2.1. Dịch vụ việc làm cho người nghèo Công cuộc XĐGN còn nhiều thách thức, trong đó một thách thức lớn là giảm

nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao. Vì vậy, chính sách giảm nghèo trong

83

thời gian tới nên đặc biệt quan tâm đến việc giảm nghèo bền vững, khuyến khích

tính chủ động, vươn lên của người nghèo; mở rộng chính sách hỗ trợ đối với hộ cận

nghèo, hộ mới thoát nghèo; quy định thời hạn hỗ trợ đối với hộ nghèo, trong thời

gian đó nếu thiếu ý chí vươn lên, trông chờ, ỷ lại không muốn thoát nghèo sẽ tạm

dừng việc hỗ trợ, đảm bảo công bằng trong thực hiện chính sách. Một trong những

chính sách quan trọng ở đây là vấn đề tạo việc làm cho người nghèo.

- Tình hình lao động, việc làm trên địa bàn Hà Nội

Trên địa bàn thành phố Hà Nội, sau khi mở rộng địa giới, cùng với xu

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn sang dịch vụ - công nghiệp - nông

lâm nghiệp thì cơ cấu lao động, việc làm cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng

lao động khu vực công nghiệp đô thị, giảm tỷ trọng lao động khu vực nông

nghiệp nông thôn. Nếu năm 2006 tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng - dịch

vụ trên địa bàn chiếm 76,4% và nông lâm thủy sản là 23,6%; thì năm 2010 tỷ

trọng lao động công nghiệp, xây dựng - dịch vụ trên địa bàn chiếm 88,5% và

nông lâm thủy sản là 11,5% [3, tr.129]. Hiện nay, Hà Nội đang có sự mất cân đối

giữa cung - cầu lao động xét về mặt cơ cấu và chất lượng, giữa đào tạo nâng cao

chất lượng lao động với yêu cầu phát triển các ngành kinh tế. Đặc biệt, sau khi

mở rộng địa giới hành chính lao động qua đào tạo bị suy giảm từ 40% trước khi

sáp nhập xuống 31,2% sau khi sáp nhập [20].

Theo kết quả đánh giá năm 2010, Hà Nội đã được công nhận đạt phổ cập

giáo dục trung học cơ sở và theo kết quả Điều tra nghèo đô thị ở Hà Nội và TP

Hồ Chí Minh [16], cho thấy thành phố Hà Nội số người có trình độ THPT đã

chiếm 36,3%, đại học là 19,3%, cao đẳng 2,5%, trình độ thạc sĩ 1,6% và 0,7%

tiến sĩ. Tuy nhiên, một điều đáng lo ngại là chất lượng lao động và trình độ lao

động chuyên môn kỹ thuật của bộ phận lao động thuộc nhóm người nghèo còn

thấp, chủ yếu là lao động phổ thông trong đó tỷ lệ trung học cơ sở tương đối cao

(34,9%), lao động lành nghề chiếm tỷ lệ rất thấp, tỷ lệ người nghèo có trình độ

đại học chỉ chiếm 1,4% (so với nhóm người giàu là 36,5%) và trên đại học dưới

1% (so với nhóm người giàu là trên 3%).

84

Bảng 3.8: Trình độ văn hóa của người dân Hà Nội qua điều tra

Đơn vị tính: %

Thành phố Hà Nội Nhóm người nghèo Nhóm người giàu 18,5

2,7

4,4

7,6

22,6

7,5

16,2

34,9

27,7

29,8

21,7

36,3

Chỉ tiêu Không bằng cấp Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông

4,1

0,7

2,5

Cao đẳng

36,5

1,4

19,3

2,3

0,13

1,6

0,8

-

0,7

Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ

Nguồn: [16]

Kết quả Điều tra cũng cho thấy, tỷ lệ dân số tham gia hoạt động kinh tế

chưa qua đào tạo chuyên môn của lao động ở thành phố Hà Nội là 50,8%, lao

động đã qua đào tạo công nhân kỹ thuật (ngắn hạn và dài hạn) là 9,9%, trung cấp

là 10%, cao đẳng 3,4% và đại học trở lên 25,9%. Trình độ chuyên môn của

nhóm người nghèo thấp hơn mặt bằng chung của thành phố và nhóm người giàu,

các hộ gia đình càng nghèo có trình độ chuyên môn càng thấp. Tỷ lệ lao động

chưa qua đào tạo giảm dần từ nhóm hộ nghèo nhất (87,1%) đến nhóm hộ giàu

nhất (32,4%) và trình độ cao đẳng, đại học trở lên tăng dần từ nhóm hộ nghèo

nhất (1,7%) đến nhóm hộ giàu nhất (46,3%) [16].

Từ đó, có thể nhận thấy, trình độ chuyên môn của người lao động thuộc

nhóm hộ nghèo và hộ giàu còn có khoảng cách lớn. Hộ nghèo gắn liền với trình

độ chuyên môn thấp, trình độ chuyên môn càng thấp thì hộ càng nghèo. Lao

động thuộc nhóm hộ nghèo có vị thế việc làm thấp. Vị trí công việc của nhóm hộ

nghèo nhất cũng chủ yếu là lao động tự làm và làm công ăn lương. Lao động của

nhóm hộ giàu chủ yếu làm việc trong khu vực thương mại, dịch vụ còn nhóm hộ

nghèo làm việc trong khu vực công nghiệp xây dựng và nông lâm thủy sản nhiều

hơn. Tình trạng người lao động thuộc nhóm hộ nghèo, nhóm dân di cư làm việc

không có hợp đồng lao động chỉ thỏa thuận miệng là phổ biến, điều này đã

85

không đảm bảo được quyền lợi người lao động. Người lao động chịu thiệt thòi

do không được hưởng các chế độ mà một người lao động có hợp đồng lao động

không xác định hoặc xác định thời gian được hưởng. Về tính ổn định trong công

việc, nhóm hộ giàu nhất có tỷ lệ làm việc ổn định và cao hơn ở tất cả các tháng

trong năm so với lao động thuộc nhóm hộ nghèo.

Bảng 3.9: Trình độ tay nghề của người nghèo ở Hà Nội qua điều tra

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu

Thành phố Hà Nội 100

Nhóm người nghèo 100

Nhóm người giàu 100

Tổng số

50,8

87,1

32,4

7,5

4,5

6,0

2,4

1,5

1,0

10,0

3,9

8,6

3,4

1,3

5,7

25,9

1,7

46,3

Chưa qua đào tạo chuyên môn Công nhân kỹ thuật ngắn hạn Công nhân kỹ thuật dài hạn Trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề Cao đẳng và cao đẳng nghề Đại học trở lên

Nguồn: [16]

Vì vậy, việc hỗ trợ đào tạo nghề và DVVL đối với người nghèo cần phải

được đặc biệt quan tâm trong thời gian tới không chỉ đối với thành phố Hà Nội,

mà cần thiết đối với tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, nhằm đảm bảo cho

người nghèo thoát nghèo bền vững.

- Mạng lưới đào tạo nghề và DVVL

Việc đào tạo nghề trên địa bàn cũng được thực hiện mở rộng dưới nhiều

hình thức, đa dạng, phong phú nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thành

phố đã đầu tư để nâng quy mô một số cơ sở đào tạo nghề như; trường trung cấp

nghề tổng hợp tại Hà Đông và Xuân Mai; trường trung cấp dạy nghề số 1 Phú

Xuyên và các trung tâm dạy nghề ở các quận, huyện, thị xã… Các trường này đã

đào tạo lao động phục vụ cho các doanh nghiệp thuộc các khu, cụm công nghiệp

và các làng nghề, góp phần cung cấp một lớp công nhân kỹ thuật có trình độ,

trong đó có nhiều công nhân tham gia sản xuất tại các cơ sở tiểu thủ công

86

nghiệp. Ngoài ra, còn huy động các tổ chức, cá nhân tham gia, đào tạo theo

phương pháp truyền nghề với hình thức dạy nghề, đào tạo nghề phong phú đã

đem lại cho người lao động việc làm phù hợp. Tuy nhiên, đào tạo nghề cơ bản

vẫn chưa đáp ứng nhu cầu lao động cho các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp,

cho khu vực nông thôn trên địa bàn.

Thời gian qua, tại Hà Nội, DVVL nói chung và DVVL cho người nghèo

nói riêng đã được quan tâm và được triển khai đồng bộ dưới nhiều hình thức.

Thứ nhất, hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm được hình thành, hoạt động

và cung cấp dịch vụ cho người lao động nói chung, trong đó có nhiều người

nghèo. Đến tháng 12/2012, toàn thành phố có 30 đơn vị có chức năng giới thiệu

việc làm; trong đó có 16 các trung tâm giới thiêu việc làm; có 14 doanh nghiệp

có chức năng giới thiệu việc làm. Các trung tâm giới thiệu việc làm, các doanh

nghiệp có chức năng giới thiệu việc làm trong năm 2012 đã tổ chức tư vấn cho

trên 102.000 người, thông tin thị trường lao động cho gần 95.000 người, cung

ứng lao động được gần 60.000 người, tổ chức dạy nghề ngắn hạn cho gần 28.000

người lao động tại địa phương. Từ năm 2006, đã đưa vào hoạt động trang thông

tin Website: vieclamhanoi.net (Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội). Đến hết

năm 2012, đã có trên 2 triệu lượt người truy cập, trong đó có trên 20.000 lao

động tìm được việc làm qua Website. Tổ chức thử nghiệm và đưa vào hoạt động

hiệu quả Tổng đài 1080-5-3 nhằm tư vấn việc làm, học nghề và tư vấn quan hệ

lao động cho người lao động và người sử dụng lao động. Ngoài ra, hàng năm,

thành phố đã tổ chức được các phiên giao dịch việc làm với gần 5.000 doanh

nghiệp tham gia; lao động được tuyển dụng qua sàn trên 40.000 người.

Giai đoạn 2007 - 2012, các cơ quan có chức năng QLNN về việc làm của

thành phố là Sở Lao động TBXH đã phối kết hợp với các trung tâm dịch vụ giới

thiệu việc làm, các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề tổ chức “Ngày hội lao

động việc làm” đó là nơi gặp gỡ của cung và cầu lao động. Có rất nhiều người đã

tìm được việc làm phù hợp. Được triển khai đơn giản, nhanh gọn, với mức phí

hợp lý, áp dụng miễn phí cho đối tượng người nghèo, các trung tâm đã thu hút

87

được một lượng khá lớn lao động đến đăng ký tìm việc làm. Những năm gần

đây, các trung tâm giới thiệu việc làm tại Hà Nội giới thiệu cho khoảng 150.000

lượt người với trên khoảng 50% số người đã nhận được việc làm.

Thứ hai, kênh việc làm qua tổ chức xuất khẩu lao động

Bảng 3.10: Số lao động xuất khẩu của thành phố Hà Nội

Đơn vị tính: người

Tiêu chí

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Số lao động xuất khẩu 1.322 1.648 2.152 2.958 3.286 3.524 3.628 3.920 2.935 3.124

446

720

848

956 1.008 1.212 1.416 1.562

808

918

Lao động phổ thông

852 1.237 1.914 2.182 2.207 2.100 2.190 2.002 2.090

Lao động có tay nghề 832

44

76

67

88

96

105

112

168

125

116

Chuyên viên cao cấp

Nguồn: [10]

Xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm hữu hiệu của thành

phố Hà Nội. Trong thực tiễn, giải quyết việc làm theo hướng xuất khẩu lao động

được nhiều tỉnh, thành phố trong nước áp dụng thành công, đặc biệt có ý nghĩa

đối với người nghèo. Thực hiện tốt công việc này không những góp phần giải

quyết một phần lao động thất nghiệp, giảm tỷ lệ hộ nghèo, mà đây còn là một

hướng đào tạo nghề có hiệu quả, đồng thời góp phần tạo nguồn ngoại tệ và phát

triển kinh tế của Thủ đô. Trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2008, số lượng

xuất khẩu liên tục tăng, nhưng cho đến năm 2009, 2010 thì số lao động xuất

khẩu chững lại do sự thu hẹp thì trường cũng như nhu cầu lao động thị trường

các nước giảm đi, trong bối cảnh có sự khó khăn chung của nền kinh tế thế giới.

Chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, trong

hai năm 2010 và 2011, đã có khoảng 150 ngàn lao động nghèo được đào tạo

nghề miễn phí gắn với tạo việc làm. Đến nay đã có trên 8.500 lao động thuộc các

huyện nghèo được hỗ trợ đào tạo nghề, giáo dục định hướng và đi làm việc ở

nước ngoài; đã được đi làm việc tại các thị trường như Malaixia, Các tiểu vương

quốc Ả rập thống nhất, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ả rập xê út, Đài Loan… Nhìn

88

chung, người lao động đi làm việc ở nước ngoài có việc làm và thu nhập ổn định,

trung bình khoảng 6,5-7,5 triệu đồng/tháng ở thị trường Libya, UAE, Ả Rập Xê

Út và Macao; từ 5-7 triệu đồng/tháng ở thị trường Malaixia; 15-22 triệu

đồng/tháng ở thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản. Với chi phí hỗ trợ của Nhà

nước khoảng 9 triệu đồng/người lao động, người lao động sau khi hoàn thành hợp

đồng lao động ở nước ngoài (thời hạn 2 năm) có thể tiết kiệm được ít nhất trên 100

triệu đồng. Như vậy, với mức thu nhập khá khi đi làm việc ở nước ngoài, người lao

động đã góp phần đáng kể tăng thu nhập của gia đình và giảm nghèo [10].

Thứ ba, giải quyết việc làm thông qua kênh tín dụng ưu đãi cho các dự án

được khuyến khích đầu tư trong nước

Qua 8 năm thực hiện chương trình vay vốn từ Quỹ Quốc gia giải quyết

việc làm, thành phố Hà Nội đã thẩm định và xét duyệt 2.880 dự án với tổng số

tiền cho vay 223.261 triệu đồng và thu hút được 143.568 lao động. Tính bình

quân, mỗi năm tạo việc làm cho 17.946 lao động, chiếm khoảng 45,6% số người

được giải quyết việc làm hàng năm của thành phố. Đặc biệt, đã có 29 lượt dự án

của cơ sở thương binh, người có hoàn cảnh khó khăn được vay 4.400 triệu đồng,

thu hút và nâng cao đời sống cho 1.135 đối tượng lao động là người nghèo, khó

khăn [58, tr.27].

- Số người được tiếp cận DVVL

Giai đoạn 2006 - 2010, thành phố đã tổ chức thực hiện Đề án phát triển thị

trường lao động thành phố Hà Nội định hướng đến 2015. Trên cơ sở đề án này,

UBND thành phố đã chỉ đạo các ngành xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ và

thúc đẩy phát triển thị trường lao động, tạo công ăn việc làm cho người dân. Đã

có 10/12 chương trình, kế hoạch được thực hiện có kết quả như: Chương trình

việc làm giai đoạn 2006-2010; kế hoạch xã hội hóa trong lĩnh vực dạy nghề

UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 2383/QĐ-UBND phê duyệt đề án

hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2008-2010, đồng thời quyết

định thành lập Quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm

cho lao động chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

89

Bảng 3.11: Số liệu lao động việc làm của Hà Nội giai đoạn 2000-2010

TT

2000

2002

2004

2006

2008

2010

Chỉ tiêu

Đơn vị

1

1.785

1.889

1.939

2.256

4.300

4.875

Số người trong độ tuổi lao động

1.000 người

2

Người 57.148 63.666 74.681 85.658 156.200 165.250

Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm

3

Người 24.056 24.900 28.000 30.200 57.165 62.355

Số người thay đổi việc làm trong năm

4

%

7,95

7,08

6,84

6,34

7,56

6,82

Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị

5

%

83,4

85,7

86,0

87,0

82,5

86,2

Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn

Nguồn: [81]

Nhìn chung, trong thời gian qua, thành phố Hà Nội đã có sự quan tâm chỉ

đạo các cơ quan chức năng thực hiện khá tốt vấn đề giảm tỷ lệ thất nghiệp và tạo

công ăn việc làm cho người dân Thủ đô nói chung và người nghèo nói riêng. Sau

khi mở rộng địa bàn hành chính Hà Nội, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thay

đổi từ 7,56% năm 2008 xuống 6,82% năm 2010. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao

động nông thôn cũng đã tăng trở lại từ 82,5% năm 2008 lên 86,2% năm 2010.

Điều này cho thấy những nỗ lực chung của Hà Nội trong việc tạo ra việc làm cho

các khu vực của nền kinh tế của Thủ đô.

Về tỷ lệ nhận hỗ trợ từ DVVL, kết quả khảo sát của tác giả cho thấy tỷ lệ

hộ nghèo được hỗ trợ việc làm như sau: đào tạo nghề 31,6%, giới thiệu việc làm

49%, xuất khẩu lao động 1,2% [81].

Kết quả điều tra thực tế của tác giả tại các địa phương trên địa bàn Hà Nội

cho thấy tỷ lệ được nhận hỗ trợ nhiều nhất từ hoạt động giới thiệu việc làm và

xuất khẩu lao động nằm ở độ tuổi 40-50. Thực tế của quá trình đô thị hóa, nhất là

từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, nhu cầu đào tạo và đào tạo lại lao

động nhất là lao động nông thôn có chiều hướng gia tăng ở hầu hết các độ tuổi,

trong đó nhiều nhất là ở độ tuổi từ 20-50 tuổi.

90

Đào tạo nghề Giới thiệu việc làm Xuất khẩu lao động

Tuổi

Hình 3.2: Cơ cấu độ tuổi được nhận hỗ trợ dịch vụ việc làm

Nguồn: Khảo sát của tác giả, xem phụ lục 2

3.1.2.2. Dịch vụ tài chính đối với hộ nghèo - Khái quát chung về dịch vụ tín dụng cho người nghèo tại Hà Nội Chính phủ đã ban hành Nghị định về chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; đã thành lập Ngân hàng CSXH hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, chuyên cho vay theo chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước, giúp cho người nghèo thoát nghèo, người cận nghèo vươn lên khá giả. Năm 2011-2012, ngân sách trung ương đã chuyển vốn cho Ngân hàng CSXH 1.670 tỷ đồng; cấp bù lãi suất 3.050 tỷ đồng; hơn 01 triệu lượt hộ nghèo trong cả nước đã được vay vốn tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất với mức vay bình quân 12 triệu động/lượt, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo phát triển sản xuất đến 31/12/2012 là 37.447 tỷ đồng; có 1,9 triệu hộ gia đình được vay vốn tín dụng học sinh, sinh viên để cho 2,3 triệu con em đi học, với dư nợ 36.000 tỷ đồng [12].

Không thể phủ nhận vai trò của Chi nhánh Ngân hàng CSXH Hà Nội trong thời gian qua đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng vào công cuộc XĐGN, bảo đảm ASXH trên địa bàn Thủ đô. Cụ thể, đã giúp cho trên 14.000 hộ dân thoát nghèo; giải quyết việc làm cho trên 200.000 lao động; giúp trên 120.000 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn; xây dựng 7.000 ngôi nhà cho các gia đình nghèo; tạo điều kiện về vốn cho trên 1.000 cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động hiệu quả; xây dựng và cải tạo trên 120.000 công trình nước sạch - vệ sinh môi trường ở khu vực nông thôn [105].

91

Mặc dù vậy, kết quả điều tra nghèo đô thị về việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của người dân [16] cho thấy tỷ lệ tương đối cao các hộ/cá nhân phải vay tiền để giải quyết khó khăn. Nhưng phần lớn trong số họ vay tiền của bạn bè và người thân chứ ít vay của các ngân hàng, kể cả Ngân hàng CSXH và quỹ quốc gia về việc làm. Trong tổng số những hộ vay để giải quyết khó khăn có 10,9% hộ đi vay bạn bè, người thân nhưng chỉ có 1,4% hộ vay của Ngân hàng CSXH; 1% vay từ các ngân hàng khác; 1,1% vay từ các tổ chức đoàn thể và 0,6% vay từ quỹ XĐGN. Trong khi đó, tỷ lệ hộ phải vay từ người cho vay lấy lãi cũng không phải ít, có 2,1% hộ phải vay từ nguồn này để giải quyết khó khăn của gia đình. Điều này cho thấy, việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước và các đoàn thể của người dân nói chung còn khó khăn. Khi cần tiền, người dân có xu hướng vay từ khu vực tín dụng phi chính thức. Một nguyên nhân quan trọng do khu vực này thường không đòi hỏi thế chấp về tài sản, thủ tục vay đơn giản, thuận tiện.

Điều này cũng được khẳng định thông qua kết quả điều tra của hai chuyên viên phụ trách nghiên cứu của Asian Trend Monitoring (hay ATM) là Taufik Indrakesuma và Johannes Loh khi hỏi về “Khi cần, người nghèo ở Hà Nội vay

tiền ở đâu?”

Hình 3.3: Tỷ lệ các tổ chức, cá nhân cho người nghèo Hà Nội vay tiền

Nguồn: [56]

Kết quả cho thấy có đến 74% là vay từ bà con hay bạn bè, ngân hàng thương mại 11%, tư nhân cho vay 8%, tổ chức tín dụng nhỏ phi chính phủ 5%. Theo đó, có thể khẳng định là người nghèo khi cần thường chỉ có thể nương tựa

92

trên họ hàng thân thích bạn bè chứ khó tiếp cận các dịch vụ tài chính thương mại hay xã hội.

- Mạng lưới dịch vụ tín dụng cho người nghèo tại Hà Nội Thời gian qua, thành phố Hà Nội đã chú trọng đến công tác cung ứng dịch vụ tín dụng cho người nghèo trên địa bàn. Việc cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo được lồng ghép trong chiến lược phát triển chung của ngành ngân hàng trên địa bàn thành phố. Hàng năm, thành phố chỉ đạo các ngành liên quan xây dựng và thực hiện triển khai kế hoạch phù hợp với tình hình thực tiễn. Cụ thể là thành phố chỉ đạo Chi nhánh Ngân hàng CSXH Hà Nội xây dựng kế hoạch công tác năm, trong đó chú trọng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho người nghèo, thực hiện tốt kế hoạch giải ngân vốn ủy thác từ ngân sách thành phố; chỉ đạo Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thành phố Hà Nội quan tâm chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn cung ứng tín dụng cho người nghèo của Hà Nội, đáp ứng nhu cầu vay vốn của người nghèo; chỉ đạo Sở Lao động TBXH xây dựng kế hoạch giảm tỷ lệ hộ nghèo của thành phố theo kỳ kế hoạch 5 năm và hàng năm... Trong kế hoạch phân bổ dự toán ngân sách hàng năm đều bố trí vốn cho các quỹ tài chính của thành phố để thực hiện chi cho các đối tượng trong đó có cung ứng tín dụng cho các hộ nghèo. Ngoài việc cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cá nhân, hộ gia đình nói chung, các TCTD đã tích cực cho vay bổ sung vốn ngắn hạn, trung dài hạn cho các hộ nghèo để mua sắm công cụ, máy móc, mua nguyên, nhiên vật liệu,… cho một số chương trình, dự án kinh tế, làng nghề góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển KTXH của các huyện ngoại thành. Cụ thể như sau:

o Mạng lưới cho vay nông nghiệp và kinh tế ngoại thành liên tục mở rộng qua các năm, các TCTD tham gia cung cấp tín dụng phục vụ nông nghiệp và kinh tế ngoại thành ngày càng đa dạng.

o Dư nợ tín dụng đối với các đối tượng hộ nghèo của Ngân hàng CSXH Hà Nội liên tục tăng trong những năm qua. Đến ngày 31/12/2012 tổng dư nợ đạt 3.994 tỷ đồng, chủ yếu tập trung vào 6 chương trình tín dụng, chiếm đến 98,9% tổng dư nợ, dư nợ cho vay đối tượng là người nghèo thuộc các chương trình tín dụng chiếm 54,2% tổng dư nợ, các đối tượng khác chiếm 45,8%. Đồng vốn tín

93

dụng của Ngân hàng CSXH đã thực sự đồng hành cùng hộ nghèo, giúp nhiều hộ nghèo, cận nghèo vươn lên ổn định cuộc sống.

o Khối lượng tín dụng cho các hộ nghèo của các tổ chức tín dụng trên địa

bàn hàng năm tốc độ tăng trưởng tương đối cao, bình quân 26,5%/ năm.

o Thành phố đã đẩy mạnh nghiên cứu và từng bước đa dạng hóa các hình thức tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn, thích ứng với quá trình chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu, kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu hàng hóa và quy hoạch mới đất đai Hà Nội.

o Đối tượng khách hàng là người nghèo được tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngày càng tăng đã thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Hà Nội.

o Việc cho vay người nghèo, cho vay các chương trình kinh tế, cho vay ưu đãi tiếp tục được thực hiện đã góp phần XĐGN ở một số bộ phân nông dân gặp khó khăn và bảo đảm ASXH ở nông thôn.

o Quá trình cho vay, các tổ chức tín dụng đã góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và thành phố đối với nông nghiệp và kinh tế ngoại thành; mặt khác, các tổ chức tín dụng cũng đã từng bước điều chỉnh cơ chế tín dụng cho phù hợp với yêu cầu đổi mới của

ngành và đất nước. Bảng 3.12: Mạng lưới tín dụng và dư nợ tín dụng của Ngân hàng Chính sách

xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2000-2010

2000

2005

2006

2007

2008

2009

2010

451

973

1172

1503

1768

1965

2456

Điểm giao dịch TCTD

50

258

303

482

642

756

889

39.700 252.100 283.200 329.400 433.400 619.100 773.900

379

1.169

1.752

1.915

2.036

2.882

3.422

284

924

1.156

1.436

1.812

2.305

2.840

Điểm giao dịch TCTD ngoại thành Tổng nguồn vốn huy động (tỷ đồng) Dư nợ tín dụng Ngân hàng CSXH (tỷ đồng) Dư nợ cho vay đối với hộ nghèo (tỷ đồng)

Nguồn: [57]

94

- Số người được tiếp cận dịch vụ tín dụng

Việc triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và

các đối tượng chính sách khác đang được thực hiện với các thủ tục thuận tiện,

các đối tượng thụ hưởng chính sách dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay. Mặt khác,

nhờ cơ chế mang tiền đến tận xã để cho người nghèo và các đối tượng chính

sách khác vay vốn, Ngân hàng CSXH đã tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa người vay

với chính quyền và các tổ chức hội, đoàn thể ở cấp cơ sở. Mặc dù NSNN còn

khó khăn nhưng 3 năm gần đây, Quốc hội đã quyết định phân bổ mỗi năm trên

2.500 tỷ đồng để bảo đảm nguồn vốn cho vay ưu đãi đối với người nghèo và các

đối tượng chính sách; đối tượng được vay vốn ưu đãi ngày càng được mở rộng,

từ chỗ chỉ cho vay 3 chương trình, đến nay đã cho vay 18 chương trình, dự án.

Theo số liệu điều tra của tác giả tại Hà Nội cho thấy, tỷ lệ nhận hỗ trợ về

vốn của các người dân thuộc diện nghèo được khảo sát là khá cao, chiếm đến

85,58% số người trong mẫu được khảo sát.

Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu vay của hộ nghèo và các đối tượng chính

sách ngày càng lớn nhưng nguồn vốn còn quá hạn hẹp, lại thiếu ổn định. Nguồn

vốn cho vay Chương trình tín dụng học sinh, sinh viên, cho vay hộ nghèo làm

nhà ở có thời điểm chưa được cấp kịp thời; mức vốn cho vay một số chương

trình như: Xây dựng công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; hỗ

trợ hộ nghèo làm nhà ở... còn thấp, chưa sát với thực tế biến động của giá cả thị

trường, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn không cao. Tỷ trọng dư nợ cho vay đối

với các hộ nghèo so với tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng còn thấp,

chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn đối với các hộ gia đình nghèo tại Hà Nội.

Trước thời điểm hợp nhất (ngày 1/8/2008) có khoảng 1,2 triệu dân nông thôn

ngoại thành sinh sống, chiếm khoảng 35% tổng số dân thành phố Hà Nội nhưng

khu vực này chỉ chiếm 2,6% tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn.

Điều đó cho thấy khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức đối với các

hộ nông dân ngoại thành là rất hạn chế [88, tr.170].

95

3.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO

3.2.1. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước cấp thành phố nhằm

phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

- Mối tương quan giữa các cơ quan cấp trung ương

Từ mô hình trên cho thấy, các chương trình triển khai các dịch vụ phục vụ

XĐGN là những chương trình trọng điểm quốc gia. Vì thế, vai trò của Văn

phòng Chính phủ rất quan trọng trong việc tạo lập chính sách, chỉ đạo các bộ,

ngành có liên quan, điều phối hoạt động của các đơn vị nhằm thực hiện tốt các

kế hoạch của quốc gia theo từng thời kỳ.

Hình 3.4: Mô hình phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về cung cấp dịch vụ cơ bản nhằm xóa đói giảm nghèo

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các quy định pháp luật hiện hành

Ở cấp trung ương, Bộ Lao động TBXH là đơn vị chủ đạo trong việc xác định đối tượng chính sách XĐGN, nghiên cứu chính sách và đề xuất với Chính phủ các chương trình hỗ trợ trực tiếp cũng như gián tiếp đối với người dân. Ở cấp tỉnh, thành phố là Sở Lao động TBXH, cấp quận, huyện là Phòng Lao động TBXH, cấp xã/phường/thị trấn là chuyên viên phụ trách về vấn đề lao động, xã hội.

96

- Mối tương quan giữa các cơ quan tại thành phố Hà Nội Đa số các tỉnh, thành phố thực hiện mối quan hệ về chức năng và nhiệm vụ trong vấn đề XĐGN theo mô hình ngành dọc như ở trên. Tuy nhiên, thành phố Hà Nội có quy chế đặc thù theo Pháp lệnh Thủ đô (năm 2000) và Luật Thủ đô mới được Quốc hội thông qua (có hiệu lực từ 01/7/2013), nên khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, ngoài các quan hệ QLNN theo ngành dọc, còn tạo ra các liên kết ngang giữa các cơ quan trên địa bàn thành phố cùng tham gia công tác tham mưu cho UBND và chỉ đạo công tác XĐGN đến các cấp chính quyền bên dưới. Năm 1999, UBND đã ra quyết định thành lập “Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo thành phố Hà Nội” theo Quyết định số 1138/QĐ-UB ngày 15/03/1999, quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo được thể hiện tại Quyết định số 58/1999/QĐ-UB, ban hành ngày 22/07/1999. Theo quy chế hoạt động này, mô hình hoạt động, phối hợp của các cơ quan của Hà Nội đối với các chương trình XĐGN như Hình 3.5.

Hình 3.5: Mô hình tổ chức Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo Hà Nội

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa theo các quy định văn bản hiện hành của Chính phủ và UBND thành phố Hà Nội.

97

Trưởng ban Chỉ đạo chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND thành phố về triển khai thực hiện và đánh giá kết quả chương trình, phân công các thành viên trong Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo thực hiện các hoạt động của chương trình. Giúp việc cho Trưởng ban có Phó Trưởng ban thường trực thứ nhất: Giám đốc Sở Lao động TBXH Hà Nội; Phó Trưởng ban thường trực thứ hai: Chủ tịch Hội Nông dân thành phố; Phó Trưởng ban chỉ đạo: Phó giám đốc Sở NNPTNN. Các thành viên: phó trưởng ban, các uỷ viên và lãnh đạo của các sở, ban, ngành, hội đoàn thể có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện các chính sách và nguồn kinh phí của chương trình thuộc NSNN và thành phố phân bổ cho sở, ban ngành đúng mục đích và có hiệu quả.

Giúp việc cho Trưởng ban Chỉ đạo còn có các sở, ban, ngành như: Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính; Sở Lao động TBXH; Sở Giáo dục và Đào tạo; NHNN thành phố.

Ban Chỉ đạo trợ giúp người nghèo hoạt động theo nguyên tắc và phương

thức như sau:

o Thảo luận tập thể và quyết định những vấn đề quan trọng của chương trình, như nội dung chương trình trợ giúp, kế hoạch thực hiện, phân bổ nguồn ngân sách của chương trình cho các sở, ban, ngành, quận, huyện trình UBND Thành phố quyết định.

o Họp thường kỳ (3 tháng 1 lần) hoặc bất thường để xử lý các vấn đề cấp

bách, tổ chức giao ban lãnh đạo hàng tháng.

o Hàng năm, Ban Chỉ đạo tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động

chung của cả chương trình và từng dự án.

Nhìn chung, Ban Chỉ đạo trợ giúp người nghèo Hà Nội đã đạt được một

số kết quả như sau:

o Tạo nên cơ chế phối hợp giữa các Sở, ban, ngành định kỳ một cách chặt

chẽ hơn.

Sở Lao động TBXH nắm giữ vị trí chủ chốt trong việc điều phối các hoạt

động về XĐGN với cương vị Giám đốc Sở Lao động TBXH là Phó ban chỉ đạo

thường trực của Ban Chỉ đạo trợ giúp người nghèo.

98

3.2.2. Thực trạng quản lý nhà nước của thành phố Hà Nội nhằm phát

triển dịch vụ tài chính đối với người nghèo

3.2.2.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương

trình về dịch vụ tài chính đối với người nghèo

Thời gian qua, thành phố Hà Nội đã chú trọng đến công tác cung ứng dịch

vụ tín dụng cho người nghèo trên địa bàn. Tuy không xây dựng quy hoạch và

chiến lược riêng Hà Nội thực hiện lồng ghép trong Chiến lược phát triển chung

của ngành ngân hàng ở thành phố. Hàng năm, thành phố chỉ đạo các ngành liên

quan xây dựng và thực hiện kế hoạch triển khai phù hợp với tình hình thực tiễn.

Trên cơ sở đó, Chi nhánh Ngân hàng CSXH Hà Nội xây dựng kế hoạch công tác

năm, trong đó chú trọng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho người nghèo, thực hiện

tốt kế hoạch giải ngân vốn ủy thác từ ngân sách thành phố, chỉ đạo các tổ chức

tín dụng trên địa bàn cung ứng tín dụng cho người nghèo của Hà Nội. Sở Lao

động TBXH xây dựng kế hoạch giảm tỷ lệ hộ nghèo của thành phố theo kỳ kế

hoạch 5 năm và hàng năm... Trong kế hoạch phân bổ dự toán ngân sách hàng

năm đều bố trí vốn cho các quỹ tài chính của thành phố để thực hiện chi cho các

đối tượng trong đó có cung ứng tín dụng cho các hộ nghèo.

Những năm qua, thành phố đã tập trung thực hiện thành công các chương

trình giảm nghèo. Chính điều này đã tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận tốt

hơn các DVXH cơ bản.

Căn cứ Nghị định số 78/2008/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Thủ tướng

Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và đối tượng chính sách khác, thành

phố đã ban hành quyết định 86/2009/QĐ-UBND quy chế quản lý và sử dụng

nguồn vốn cho vay của Quỹ giải quyết việc làm uỷ thác qua Chi nhánh Ngân

hàng CSXH Hà Nội, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển KTXH của

thành phố trong từng thời kỳ. Đối với người nghèo, cận nghèo, người lao động là

người tàn tật, việc cho vay không thu lãi, chỉ thu phí quản lý triển khai việc cho

vay và thu nợ tiền vay.

99

3.2.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách, các văn

bản pháp luật về cung ứng dịch vụ tài chính đối với người nghèo

Trên cơ sở các quy định của Chính phủ như Nghị định số 78/2002/NĐ -

CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, chính

quyền thành phố Hà Nội đã cụ thể hóa dưới hình thức các nghị quyết, quyết định

về cho vay vốn đối với người nghèo. Giai đoạn 2008-2011, một số văn bản liên

quan đến người nghèo và tín dụng cho người nghèo trên địa bàn như Bảng 3.13.

Bảng 3.13: Một số văn bản của thành phố về tín dụng cho người

nghèo giai đoạn 2008 - 2011

Ngày ban hành

Văn bản

Nội dung

15/1/2009

Quyết định số 43/2009/QĐ- UBND

Quy định mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng do xã, phường, thị trấn quản lý và các cơ sở bảo trợ xã hội thuộc Sở Lao động TBXH

7/7/2009

Quyết định số 86/2009/QĐ- UBND

Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn cho vay của Quỹ giải quyết việc làm thành phố uỷ thác qua Chi nhánh Ngân hàng CSXH thành phố Hà Nội

10/1/2011

Về việc ban hành chuẩn nghèo, cận nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015

Quyết định số 86/2011/QĐ- UBND

28/1/2011

Kế hoạch số 24/KH-UBND

Kế hoạch thực hiện mục tiêu giảm nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015

Nguồn: [101]

Các hoạt động cho vay người nghèo trên địa bàn Hà Nội như sau:

Cho vay học nghề lao động nông thôn: Việc cho các hộ nghèo vay học

nghề lao động ở nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009

về phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” của

Thủ tướng Chính phủ. Đối tượng chính sách thuộc diện XGGN nói riêng cũng là

một trong những đối tượng được hưởng sự hỗ trợ của Quyết định này.

100

Cho vay đi lao động xuất khẩu: Thực hiện quy định tại Quyết định số

71/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ

các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững

giai đoạn 2009-2010, Bộ Lao động TBXH đã có văn bản hướng dẫn mức trần

chi phí cụ thể theo từng thị trường lao động để Ngân hàng CSXH, UBND các

tỉnh tham chiếu trong hoạt động hỗ trợ tín dụng sao cho phù hợp với các đối

tượng người nghèo có được các khoản vay thích hợp để có thể đi xuất khẩu lao

động ra nước ngoài. Căn cứ các văn bản hướng dẫn này, UBND thành phố Hà

Nội đã chỉ đạo các đơn vị cơ sở phối hợp với Ngân hàng CSXH thực hiện việc

cho vay đối với các hộ nghèo đi lao động xuất khẩu theo đúng tinh thần chỉ đạo

của Chính phủ.

Cho vay giải quyết việc làm: Cơ chế cho vay giải quyết việc làm gắn với

hộ gia đình và phải đảm bảo thêm 01 chỗ làm mới. Với các dự án vay vốn thuộc

nguồn vốn do UBND cấp tỉnh và nguồn vốn do các tổ chức chính trị - xã hội và

tổ chức xã hội quản lý, áp dụng phương thức cho vay ủy thác từng phần qua các

tổ chức chính trị - xã hội (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) trên cơ sở thiết lập các tổ tiết kiệm và vay

vốn ở thôn, để có cơ chế giám sát và hỗ trợ người nghèo được tốt nhất. Trong

giai đoạn suy giảm kinh tế, Chính phủ có Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày

23/02/2009 về việc hỗ trợ đối với lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp

khó khăn do suy giảm kinh tế.

Cho vay hỗ trợ nhà ở: Diện được vay vốn là những người nghèo đang cư

trú tại địa phương, có trong danh sách hộ nghèo do UBND cấp xã quản lý, hộ

chưa có nhà ở hoặc đã có nhà ở nhưng nhà ở quá tạm bợ, hư hỏng, dột nát, có

nguy cơ sập đổ và không có khả năng tự cải thiện nhà ở.

Cho vay người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp: đối tượng là người

lao động thuộc các hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp, bị Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp mà không có đất để bồi thường. Về điều kiện vay vốn, người lao

101

động có hộ khẩu thường trú tại hộ gia đình có đất nông nghiệp bị thu hồi; có

quyết định thu hồi đất với thời hạn trong vòng 3 năm kể từ ngày quyết định có

hiệu lực; được bên tuyển dụng lao động xuất khẩu chính thức tiếp nhận đi lao

động có thời hạn ở nước ngoài (Quyết định số 52/2012/QĐ-TTg).

Về cơ bản, thành phố đã cụ thể hóa các văn bản phối hợp của Quỹ hỗ trợ

việc làm từ nguồn ngân sách thành phố với Ngân hàng CSXH Hà Nội trong việc

cung ứng tín dụng cho các đối tượng được hưởng trên địa bàn.

Ngoài ra, thành phố Hà Nội đã ban hành một số quy định riêng của thành

phố về cung ứng dịch vụ tín dụng cho người nghèo Hà Nội như: Quyết định số

86/2009/QĐ-UBND về quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn cho vay của Quỹ

quốc gia giải quyết việc làm ủy thác qua Chi nhánh Ngân hàng CSXH Hà Nội;

Quy định quy trình về dự án cho vay hộ nghèo chăn nuôi bò sinh sản phù hợp

với điều kiện thực tế của Hà Nội; Chính sách cho vay hộ nghèo của 7 xã nghèo

thuộc huyện Sóc Sơn.

Thành phố đã chỉ đạo Ngân hàng CSXH tích cực triển khai có hiệu quả

các chính sách tín dụng cho người nghèo. Từ ba chương trình tín dụng ban

đầu, đến nay Ngân hàng CSXH Hà Nội đã thực hiện cho vay 10 chương trình

tín dụng. Dư nợ tập trung vào 6 chương trình tín dụng: cho vay hộ nghèo; học

sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó; giải quyết việc làm; chương trình nước sạch

và vệ sinh môi trường nông thôn; hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định

số 167/2008/QĐ-TTg và cho vay hộ sản xuất, kinh doanh vùng khó khăn

(chiếm đến 98,9% tổng dư nợ, dư nợ cho vay đối tượng là người nghèo thuộc

các chương trình tín dụng chiếm 54,2% tổng dư nợ, các đối tượng khác chiếm

45,8%). Tính đến 31/12/2012, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách của Ngân

hàng CSXH Hà Nội đạt gần 4.000 tỷ đồng, tăng gấp 12 lần so với thời điểm

mới thành lập (đầu năm 2003), với mức tăng trưởng bình quân bình quân mỗi

năm 29%.

102

Bảng 3.14: Dư nợ tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội Hà Nội

cho người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội (tính đến 31/12/ 2012)

TT

Tên Chương trình tín dụng

Số dư nợ (tỷ đồng)

Số hộ vay vốn

Tỷ lệ so với tổng dư nợ (%)

92.185

1.362,4

34,1

1 Cho vay hộ nghèo

1.001

25,1

2 Cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn 58.769

45.412

914,2

23

3 Cho vay giải quyết việc làm

73.672

539,6

13,5

4 Cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn

3.633

75,6

1,9

5

Cho vay hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn theo quyết định số 31/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

6

7.242

57,9

1,5

Cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo quyết định số 167/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

7

63

25

0,6

Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ (Vốn tài trợ cho vay từ NH Tái thiết Đức)

2.300

14,7

0,4

8 Cho vay dự án chăn nuôi bò sinh sản

9

1,9

0,05

Cho vay đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài

63

1,7

0,04

10 Cho vay thương nhân vùng khó khăn

3.994

100

Tổng dư nợ đến 31/12/2012

Nguồn: [57]

Chương trình hỗ trợ hộ nghèo vay chăn nuôi bò sinh sản được thành phố

quyết định triển khai từ năm 2007 tại các xã, huyện có điều kiện chăn nuôi bò.

Trong giai đoạn 2007-2012, đã có 65 xã thuộc 9 huyện của Hà Nội thực hiện

chương trình này với khoảng 2.300 hộ nghèo được vay 14,7 tỷ đồng, trung bình

6 triệu đồng/hộ. Các hộ tham gia chương trình đều xác nhận đây là khoản vay có

điều kiện, đảm bảo trả được bê con để luân chuyển cho hộ khác vay. Đến nay, đã

có 1.405 bò mẹ sinh sản trong tổng số 2.300 con bò mua ban đầu, chiếm tỷ lệ

62%. Chương trình được quản lý và triển khai thực hiện thông qua Hội Nông

103

dân, Hội Phụ nữ thành phố các cấp, trên cơ sở Quy chế quản lý và điều hành vốn

vay đã được UBND thành phố phê duyệt. Việc cho vay được tiến hành đúng quy

định, do Ngân hàng CSXH các huyện và Ban điều hành dự án của xã giải ngân

trực tiếp cho các hộ vay vốn. Chương trình cho hộ nghèo vay chăn nuôi bò sinh

sản đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu đa dạng về vốn vay của hộ nghèo, là giải

pháp giảm nghèo (hỗ trợ gián tiếp) được chính quyền cơ sở và hộ nghèo ủng hộ.

Tuy nhiên, qua sơ kết 5 năm triển khai, Chương trình cũng đã bộc lộ một số hạn

chế. Đó là: một số hộ nghèo có trình độ nhận thức, tiếp thu khoa học kỹ thuật

chăn nuôi còn hạn chế đã để bò ốm chết, hoặc bò gầy yếu không đủ chất lượng

sinh sản để bàn giao cho hộ khác vay. Một số hộ nghèo đã bán bò để chi phí

thuốc men do ốm đau. Một số huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đồng

cỏ ngày càng thu hẹp, gây khó khăn cho quá trình chăn nuôi. Mô hình chăn nuôi

nhỏ lẻ cá thể ở một số vùng đã không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn. Đối

với nguồn vốn đã thu hồi thì qui định mức vay khoảng 6 triệu đồng/hộ như

những năm đầu triển khai Chương trình không đảm bảo mua được con giống đủ

tiêu chuẩn theo giá thị trường hiện nay và một số năm tới [57].

Bên cạnh đó, triển khai Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg, thành phố đã

chỉ đạo Chi nhánh NHNN thành phố Hà Nội xây dựng Đề án củng cố, hoàn thiện

và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn thành phố. Qua đó,

việc cung ứng tín dụng cho người nghèo phục vụ mục tiêu XĐGN cũng được các

quỹ tín dụng nhân dân quan tâm thực hiện. Đến cuối năm 2011, số dư nợ của

hơn 600 hộ nghèo Hà Nội là 7,8 tỷ đồng (chiếm 0,2% tổng dư nợ khoảng 3.085

tỷ đồng của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn thành phố) [57].

Từ năm 2003 đến 2012, đã có 575 ngàn lượt hộ nghèo được vay vốn, giúp

cho hơn 150 ngàn hộ thoát nghèo; tạo việc làm cho hơn 370 ngàn lao động; hơn

120 ngàn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập,

không để học sinh, sinh viên nào phải bỏ học vì khó khăn về tài chính; xây dựng,

cải tạo hơn 200 ngàn công trình nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn; hỗ trợ

xây dựng hơn 7.200 ngôi nhà cho hộ nghèo. Tổng doanh số cho vay trong 10

104

năm là 10.040 tỷ đồng, bình quân mỗi năm 1.100 tỷ đồng; riêng năm 2012,

doanh số cho vay đạt 1.750 tỷ đồng [57].

3.2.2.3. Tổ chức huy động và quản lý các nguồn lực nhằm phát triển dịch

vụ tài chính đối với người nghèo

Đối với tín dụng cho vay đến đối tượng người nghèo: Nguồn vốn cho vay

do ngân sách trung ương cấp 50% trên tổng số vốn vay cho Ngân hàng CSXH;

50% còn lại do Ngân hàng CSXH huy động, ngân sách trung ương sẽ cấp bù

chênh lệch lãi suất cho Ngân hàng CSXH do những khoản vay huy động của

Ngân hàng CSXH theo quy định. Với những khoản vay cho người nghèo, Ngân

hàng CSXH thực hiện cho vay theo phương thức uỷ thác từng phần qua các tổ

chức chính trị-xã hội.

Để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao, Ngân hàng CSXH đã tranh thủ

nguồn vốn của Trung ương để triển khai cho vay kịp thời, không để tồn đọng

vốn; khai thác tối đa nguồn vốn uỷ thác của các địa phương để bổ sung thêm

nguồn vốn; tiếp tục huy động tiền gửi tiết kiệm thông qua tổ tiết kiệm, vay vốn

kết hợp với huy động các nguồn vốn của tổ chức, cá nhân có lãi suất thấp, đáp ứng

nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của các đối tượng chính sách, xã hội. Việc cho vay

đối với hộ nghèo căn cứ vào kết quả bình xét của tổ tiết kiệm và vay vốn - đây là

hình thức tổ chức do các tổ chức chính trị - xã hội hoặc cộng đồng dân cư tự nguyện

thành lập trên địa bàn hành chính của xã, được UBND cấp xã chấp thuận bằng văn

bản. Hoạt động của tổ tiết kiệm và vay vốn do Ngân hàng CSXH hướng dẫn.

Tại cấp xã, Ngân hàng CSXH hình thành điểm giao dịch gọi là tổ giao

dịch lưu động tại xã nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng chính

sách ưu đãi của Chính phủ đối với người nghèo và các đối tượng chính sách; tiết

giảm các chi phí giao dịch của người vay; thực hiện dân chủ, công khai việc sử

dụng vốn tín dụng chính sách và tăng cường sự chỉ đạo của chính quyền địa

phương, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm tra, giám sát và giúp đỡ

người vay sử dụng vốn có hiệu quả.

105

Tính đến 31/12/2012, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách của chi nhánh

Ngân hàng CSXH Hà Nội đạt 4.008 tỷ đồng, trong đó: (1) nguồn vốn Trung

ương điều chuyển là 2.957,8 tỷ đồng; (2) nguồn vốn nhận ủy thác đầu tư tại địa

phương là 837 tỷ đồng (chiếm 20,8% tổng nguồn vốn), gồm từ ngân sách thành

phố 745 tỷ đồng, từ ngân sách quận, huyện, thị xã là 78,5 tỷ đồng, từ Mặt trận

Tổ quốc thành phố 13,6 tỷ đồng; (3) nguồn vốn huy động theo lãi suất thị

trường là 213 tỷ đồng (chiếm 5,4% tổng nguồn vốn), tăng trưởng bình quân qua

các năm đạt 29%. Bên cạnh việc bố trí ngân sách ủy thác cho Ngân hàng

CSXH để cho người nghèo vay vốn, thành phố còn kêu gọi một số tổ chức

quốc tế phi chính phủ tài trợ nguồn lực nhằm cung ứng tín dụng cho người

nghèo Hà Nội thông qua một số dự án có qui mô nhỏ. Từ năm 2008 đến nay, đã

có 05 tổ chức nước ngoài tài trợ số vốn hơn 4 tỷ đồng để cho hộ nông dân

nghèo vay vốn phục vụ sản xuất. Tuy qui mô vốn không lớn, nhưng điều này

đã thể hiện sự quan tâm đa dạng hóa về nguồn lực để cung ứng tín dụng cho

người nghèo của Thành phố [57].

Tín dụng CSXH là giải pháp để thực hiện mục tiêu giảm nghèo một cách

cơ bản và bền vững; tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng CSXH

để thực sự là công cụ thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng của Nhà nước về

hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững.

3.2.2.4. Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện chức năng kiểm tra, giám

sát nhằm phát triển dịch vụ tài chính đối với người nghèo trên địa bàn

Công tác cung ứng tín dụng cho người nghèo chủ yếu triển khai qua kênh

tổ tiết kiệm và vay vốn tại địa bàn. Các cán bộ thuộc Ban XĐGN tại xã phường

có trách nhiệm điều phối hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn, đồng thời hỗ

trợ các công việc hành chính, các thủ tục vay vốn cho người dân nghèo trong

việc thực hiện các bước nhận hỗ trợ tín dụng từ chính sách của Nhà nước.

Hiện nay, UBND thành phố Hà Nội đang giao cho Sở Lao động TBXH là

cơ quan thường trực Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo thành phố tham mưu,

theo dõi tổng hợp chung, trong đó bao gồm cả các chương trình tín dụng cho

106

người nghèo. Đồng thời, thành phố tổ chức thành lập một số quỹ tài chính như

Quỹ Hỗ trợ nông dân (thuộc Hội Nông dân), Quỹ Khuyến nông (thuộc Sở Nông

nghiệp và PTNT), Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm (thuộc Sở Lao động TBXH)

để thực hiện một số chính sách chung của Trung ương, trong đó có ủy thác cho

Ngân hàng CSXH chi nhánh Hà Nội cho vay đối với người nghèo.

Ngân hàng CSXH là một mắt xích quan trọng trong việc cho vay hộ

nghèo. Năm 2010, Ngân hàng CSXH Chi nhánh Hà Nội có 01 trụ sở chính với

05 phòng chuyên môn nghiệp vụ, 25 phòng giao dịch quận, huyện, 559 điểm

giao dịch xã, phường và 8.017 tổ tiết kiệm và vay vốn [57]. Có thể khẳng định,

sau 10 năm hoạt động, hệ thống mạng lưới của Chi nhánh đã thực sự bao phủ

khắp các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thủ đô, tạo điều kiện thuận lợi nhất

cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận được dễ dàng với các

chương trình tín dụng ưu đãi trong điều kiện món vay nhỏ lẻ, tập trung nhiều ở

những vùng nông thôn hẻo lánh.

Mô hình tổ tiết kiệm và vay vốn được thành lập và hoạt động hiệu quả tại

các thôn, khu dân cư có thể được coi là cánh tay vươn dài của Ngân hàng CSXH

tại cơ sở, góp phần tuyên truyền và chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi tới tận tay

đúng người, đúng đối tượng thụ hưởng cũng như đảm bảo an toàn và sử dụng vốn

đúng mục đích thông qua khâu kiểm tra, giám sát ngay tại từng địa bàn dân cư.

Đến hết năm 2010, có 98,5% tổng số vốn cho vay hộ nghèo đã được Ngân

hàng CSXH Hà Nội uỷ thác từng phần cho 4 tổ chức chính trị - xã hội thực hiện.

Trong đó: Hội Phụ nữ quản lý 3.805 tổ tiết kiệm và vay vốn, chiếm 61,69% tổng

dư nợ; Hội Nông dân quản lí 2.881 tổ tiết kiệm và vay vốn, chiếm 25,07% tổng

dư nợ; Hội Cựu chiến binh quản lí 897 tổ tiết kiệm và vay vốn, chiếm 9,25%

tổng dư nợ; Đoàn Thanh niên quản lí 434 tổ tiết kiệm và vay vốn, chiếm 2,4%

tổng dư nợ [57].

Có thể khái quát hóa mô hình tổ chức bộ máy QLNN về dịch vụ tín dụng

như Hình 3.6.

107

Bộ LĐTB&XH

UBND Thành phố Hà Nội

Ngân hàng nhà nước Việt Nam

Ngân hàng CSXH Việt Nam

Sở LĐTB&XH Hà Nội

Ngân hàng CSXH Hà Nội

Phòng LĐTB&XH Quận, huyện

Văn phòng UBND Quận, huyện

Doanh nghiệp trong lĩnh vực XĐGN

Tổ chức tín dụng

Cán bộ chính sách

Đối tượng XĐGN

Cán bộ chuyên trách

Tổ chức chính trị - xã hội

Tổ tiết kiệm và vay vốn

Hình 3.6: Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ tín dụng

Nguồn: Tác giả tập hợp trên cơ sở các quy định của Nhà nước và TP Hà Nội.

Việc thực hiện một chức năng quan trọng của bộ máy quản lý là kiểm tra, giám dịch vụ tài chính cho người nghèo trên địa bàn thành phố. Theo đó, hoạt động kiểm tra, giám sát được thực hiện trên các mặt như: kiểm tra, giám sát về đối tượng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi; kiểm tra, giám sát việc cung ửng dịch vụ tín dụng ưu đãi cho người nghèo; kiểm tra, giám sát việc thực hiện cơ chế, chính sách của Trung ương và thành phố về dịch vụ tín dụng cho người nghèo trên địa bàn thành phố; kiểm tra, giám sát, đánh giá tác động của dịch vụ tài chính đối với người nghèo trên địa bàn.

3.2.3. Thực trạng quản lý nhà nước của thành phố Hà Nội nhằm phát

triển dịch vụ việc làm cho người nghèo trên địa bàn

3.2.3.1. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình cung

ứng dịch vụ việc làm cho người nghèo

Trên cơ sở triển khai thực hiện cơ chế, chính sách của Trung ương như

Nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính

phủ) về chủ trương, phương hướng, biện pháp giải quyết việc làm, chính quyền

108

thành phố triển khai thực hiện nhiều biện pháp về tạo việc làm và đào tạo nghề

cho người lao động.

Trong Chiến lược phát triển KTXH Thủ đô, Quy hoạch tổng thể phát triển

KTXH Thủ đô đến năm 2010 được xây dựng từ năm 1999, trong đó, đã có nhiều

nội dung liên quan đến lĩnh vực giải quyết việc làm, đặc biệt là các đối tượng hộ

nghèo. Đồng thời, Hà Nội cũng đã sớm thành lập Quỹ Giải quyết việc làm để

cho vay vốn tạo việc làm với lãi suất ưu đãi theo các dự án nhỏ, hỗ trợ cho các

đối tượng chính sách, trong đó có người nghèo và những người yếu thế có việc

làm; hình thành và phát triển hệ thống các trung tâm DVVL và cơ sở đào tạo

nghề xã hội; phát triển nhiều hình thức, mô hình tổ chức giải quyết việc làm với

thu nhập cao đồng thời nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động. Ngoài ra,

hỗ trợ giải quyết việc làm còn có các quỹ như: Quỹ Hỗ trợ nông dân, Quỹ

Khuyến nông... Đặc biệt, ngay từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, công

tác đào tạo nghề gắn với sản xuất, việc làm và bao tiêu sản phẩm cho lao động

nông thôn nói chung và cho người nghèo nói riêng là một trong những nội dung

được thành phố đặc biệt quan tâm.

Bên cạnh đề án “dài hơi” đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm

2020, thành phố Hà Nội cũng đã cụ thể hóa chương trình đào tạo này trong từng

giai đoạn với mức đầu tư hàng nghìn tỷ đồng, cùng hàng loạt giải pháp đồng bộ

kèm theo, tạo thành nguồn tổng lực nâng cao số lượng lao động nông thôn được

đào tạo nghề, tạo việc làm ổn định. Mặt khác, để thu hút người dân tham gia các

lớp đào tạo nghề, ngoài việc hỗ trợ học phí, các huyện trên địa bàn thành phố Hà

Nội còn chú trọng lựa chọn ngành nghề đào tạo với phương châm “Dạy nghề

dân cần, giúp dân sống được bằng nghề.” Ngoài việc đào tạo ngành nghề theo

đặc thù từng địa phương, Hà Nội còn triển khai hiệu quả 2 mô hình dạy nghề

điểm là may công nghiệp và nghề trồng nấm.

Kết quả, trong 3 năm (2010-2012), toàn thành phố đã tổ chức dạy nghề

cho gần 40.000 lao động nông thôn, trong đó tỷ lệ có việc làm đạt tối thiểu 70%

trở lên. Một số nghề có tỷ lệ lao động nông thôn sau đào tạo có việc làm đạt gần

109

100% như: Nghề may công nghiệp tại huyện Ba Vì, huyện Đan Phượng, thị xã

Sơn Tây; nghề điêu khắc tại huyện Chương Mỹ; nghề mây tre đan tại huyện Từ

Liêm… Trên 18.300 người đã chuyển sang làm các nghề thuộc lĩnh vực phi

nông nghiệp, đạt 75% trên tổng số người tham gia học nghề thuộc nhóm nghề

phi nông nghiệp. Mô hình dạy nghề may công nghiệp được 13 huyện (gồm: Ba

Vì, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Phúc Thọ, Đan Phượng, Quốc Oai, Thạch Thất,

Thường Tín, Phú Xuyên, Hoài Đức, Ứng Hòa, Sóc Sơn và thị xã Sơn Tây) tổ

chức dạy nghề cho 5.168 người với tỷ lệ lao động có việc làm sau khi học nghề

theo mô hình đạt 86%, thậm chí có huyện đạt tỷ lệ 100% (như Ba Vì, Mỹ Đức,

thị xã Sơn Tây) với mức thu nhập đạt từ 2-3 triệu đồng/người/tháng. Với mô

hình dạy nghề trồng nấm vốn được đánh giá là nghề mới, Sở Lao động, TBXH

Hà Nội đã chủ động phối hợp với Trung tâm Công nghệ sinh học thực vật, Viện

di truyền cây công nông nghiệp, tổ chức dạy nghề cho 350 lao động. Theo đánh giá

ban đầu, hiện mô hình này đã được ứng dụng, đem lại hiệu quả cao. Người lao động

sau khi học nghề có kiến thức đã tự sản xuất được nấm, trên cơ sở tận dụng rơm rạ

sau thu hoạch, vừa bảo vệ được môi trường, vừa tăng thêm thu nhập [57].

Nhìn chung, dịch vụ đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm trên địa bàn

thành phố Hà Nội được thực hiện thông qua 3 hướng chính là phát triển kinh tế

tạo nhiều việc làm thông qua các làng nghề; xuất khẩu lao động, có ưu tiên

người nghèo và chuyên gia, thực hiện CTMTQG về việc làm, trong đó đối tượng

thanh niên thuộc hộ nghèo, lao động chính sách, lao động thiếu việc làm ở nông

thôn... được ưu tiên giải quyết việc làm.

Các nghị quyết về phát triển KTXH của thành phố Hà Nội hàng năm đều

đặt ra chỉ tiêu về số lao động được đào tạo và tạoviệc làm mới, chỉ tiêu về tỷ lệ

giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo của thành phố. Chẳng hạn, Nghị quyết số

12/2009/NQ-HĐND của HĐND thành phố Hà Nội đã đề ra một số chỉ tiêu như:

tỷ lệ lao động qua đào tạo 53%; số lao động được tạo việc làm mới 135.000

người; giảm 1,6% tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo của thành phố (đến cuối năm

2010 tỷ lệ hộ nghèo còn 5,4%).

110

3.2.3.2. Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách về dịch vụ việc làm

cho người nghèo

Chính sách tạo việc làm góp phần giảm nghèo bền vững đang dần đi vào

cuộc sống được sự quan tâm của các cấp các ngành, góp phần thực hiện tốt chính

sách ASXH, công tác điều hành KTXH của thành phố Hà Nội đã đem lại những

chuyển biến tích cực trong những năm gần đây. Ngành nông nghiệp và kinh tế

ngoại thành đã có sự chuyển biến bước đầu tích cực với sự phát triển của các

làng nghề, các khu cụm tiểu thủ công nghiệp, các cơ sở du lịch, các trang trại và

khu nông nghiệp công nghệ cao. Bước đầu hình thành nhiều vùng nông nghiệp

hàng hóa tập trung quy mô (hoa Tây Tựu - Từ Liêm, thủy sản Đông Mỹ - Thanh

Trì, rau an toàn Văn Đức - Gia Lâm, Vân Nội - Đông Anh). Ngành trồng trọt có

xu hướng giảm, ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản ngày càng chiếm tỷ trọng

cao. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, người dân được đào tạo, dạy

nghề và nhân rộng mô hình làm kinh tế thành công, góp phần giảm nghèo bền

vững trong cộng đồng dân cư.

Thực hiện Chương trình số 05-CTr/TU của Thành ủy về phát triển kinh tế

ngoại thành và từng bước hiện đại hóa nông thôn giai đoạn 2006-2010, hạ tầng

nông thôn như điện, đường, trường, trạm... tiếp tục được đầu tư phát triển,

KTXH ngoại thành có bước phát triển mới. Nông thôn ngoại thành đã được đầu

tư tập trung cho hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Đã chủ động tưới tiêu cho 65-7%

diện tích thiết kế, cứng hóa 100% kênh mương và đường giao thông liên xã, tu

bổ thường xuyên hệ thống đê điều. Nhiều cánh đồng đạt giá trị sản lượng trên

100 triệu/ha.

Thành phố Hà Nội đã và đang triển khai cơ chế, chính sách của Trung

ương về đào tạo nghề và tạo việc làm như: triển khai Quyết định số 81/2005/QĐ-

TTg về dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn; Thông tư liên tịch số

06/2006/TTLT-BTC-BLĐTBXH; Chỉ thị số 24/2005/CT-TTg về đẩy nhanh

công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg

về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích

111

sử dụng đất nông nghiệp; Nghị định 139/2006/NĐ-CP về chính sách ưu đãi cho

người học nghề là “lao động nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông

nghiệp” được hỗ trợ học nghề; Luật Dạy nghề cũng quy định “khuyến khích, hỗ trợ

dạy nghề các nghề truyền thông và ngành nghề nông thôn”, hỗ trợ người trực tiếp

lao động trong cac hộ sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác...

Có thể nói, Hà Nội đã triển khai nhiều chương trình khuyến khích phát

triển làng nghề như: hỗ trợ khoa học - công nghệ; đào tạo nghề, nhân cấy nghề;

nâng cao trình độ quản lý cho lãnh đạo doanh nghiệp, chủ các cơ sở công

nghiệp nông thôn; cung cấp thông tin, tập huấn chính sách, văn bản pháp luật;

thông tin tuyên truyền trên Đài phát thanh và truyền hình Hà nội, Báo Hà Nội

mới, Báo Kinh tế đô thị; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng

sản xuất vào các điểm công nghiệp làng nghề, tham gia hội trợ triển lãm... góp

phần phát triển kinh tế làng nghề và giảm thiểu ô nhiễm môi trường cho làng

nghề; khuyến khích hỗ trợ các làng nghề xây dựng thương hiệu, thành lập hội,

hiệp hội. Thành phố cũng đã ban hành quy chế công nhận làng nghề Thủ đô

trong năm 2009.

Các hoạt động hỗ trợ làng nghề cũng được các địa phương có làng nghề

coi là nhiệm vụ ưu tiên trong công tác chỉ đạo, điều hành. Tạo điều kiện thuận

lợi về vị trí, mặt bằng sản xuất, kinh doanh, các thủ tục về cho thuê đất, thông tin

thị trường cho các doanh nghiệp trên địa bàn các huyện.

Sau 3 năm thực hiện kế hoạch về đào tạo nghề cho lao động nông thôn

theo Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ, bước đầu đã mang lại những

hiệu quả tích cực, trong đó hầu hết các học viên được đào tạo đều đạt tiêu chuẩn

về trình độ tay nghề và có việc làm, bước đầu có thu nhập ổn định; 78% số

người được học có việc làm và thoát nghèo, góp phần xoá đói, giảm nghèo trên

địa bàn toàn thành phố nhất là các huyện ngoại thành. Riêng huyện Thạch Thất

được đánh giá là vùng trọng điểm và triển khai tốt nhất các hoạt động dạy nghề

do cuộc sống của người dân có nhiều thay đổi, nhu cầu việc làm phi nông nghiệp

tăng, nhiều KCN được đầu tư có như cầu sư dụng nguồn nhân lực phải qua đào

112

tạo nghề nhằm đảm bảo duy trì các làng nghề truyền thống, đồng thời có khả

năng cung cấp nguồn lao động có chất lượng cho các KCN.

3.2.3.3. Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện chức năng kiểm tra,

giám sát nhằm phát triển dịch vụ việc làm cho người nghèo

Hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về DVVL: Sở Lao động TBXH Hà Nội thành lập Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội trực thuộc sự điều hành của Sở bên cạnh các trung tâm giới thiệu việc làm khác. Đây là mô hình dịch vụ nhà nước cùng tham gia nhằm đảm bảo ổn định và

Cấp Trung ương

Bộ Lao động TBXH

Cấp Thành phố

UBND Thành phố Hà Nội

Sở Lao động TBXH Thành phố Hà Nội

Cấp Huyện

Văn phòng UBND Quận/Huyện

Trung tâm Dịch vụ việc làm

Phòng Lao động TBXH Quận/Huyện

Cấp cơ sở

Kế toán

Cán bộ chính sách

Bộ phận dạy nghề

Tổ chức hành chính

Cán bộ tiếp dân (1 cửa)

Bộ phận giới thiệu việc làm

Bộ phận sản xuất dịch vụ

đem lại hiệu quả phát triển kinh tế cho người dân.

Hình 3.7: Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ việc làm

Nguồn: Tác giả tập hợp trên cơ sở các quy định của Nhà nước và TP Hà Nội.

Theo Quyết định số 3055/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội, Trung

tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội có các nhiệm vụ sau: (i) Tư vấn về việc làm, học

113

nghề, chính sách có liên quan đến quan hệ lao động theo quy định của pháp luật

lao động; (ii) Giới thiệu việc làm cho người lao động; cung ứng và tuyển lao

động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; (iii) Thu thập, phân tích và cung

ứng thông tin về thị trường lao động, bao gồm: nhu cầu tuyển lao động, nhu cầu

cần việc làm, tiêu chuẩn lao động, tiền lương, tiền công trên địa bàn hoạt động

của vùng và cả nước; (iv) Tổ chức dạy nghề theo quy định của pháp luật và tổ

chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho người làm tư vấn, giới thiệu

việc làm; (v) Tổ chức sàn giao dịch lao động và (vi) Thực hiện chính sách bảo

hiểm thất nghiệp theo quy định.

Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội đã tư vấn về việc làm, nghề nghiệp

cho hàng trăm nghìn lượt người; giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho

54.000 lượt người, trong đó 18.000 người có việc làm ổn định; dạy nghề ngắn

hạn gắn với giải quyết việc làm cho 18.000 người; tổ chức quản lý và giới thiệu

lao động Việt Nam cho 350 văn phòng đại diện nước ngoài đóng trên địa bàn Hà

Nội với tổng số gần 3.000 lao động. Gần 2.000 lao động thuộc diện ưu tiên

hưởng các CSXH, người nghèo, người tàn tật đã được giới thiệu việc làm, dạy

nghề miễn, giảm phí. Sàn giao dịch việc làm thuộc Trung tâm tổ chức mỗi tháng

hai phiên giao dịch việc làm vào 2 ngày 10 và 20 hàng tháng, kết nối giữa các

doanh nghiệp, người lao động về lao động việc làm.

Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội là một đầu mối quan trọng trong

việc triển khai thực hiện đề án phát triển thị trường lao động Hà Nội của UBND

thành phố Hà Nội và đang phấn đấu trở thành Trung tâm thông tin thị trường lao

động chính thức trên địa bàn Thủ đô.

Chức năng kiểm tra, kiểm sát cung ứng và sử dụng dịch vụ cơ bản đối với

người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội được triển khai trên các mặt:

Một là, rà soát, kiểm tra đối tượng được hỗ trợ giải quyết việc làm, để bảo

đảm việc hỗ trợ đúng người, đúng việc, không bỏ sót đối tượng, đồng thời tránh

việc lợi dụng các chế độ, chính sách của nhà nước. Việc rà soát đối tượng do

chính quyền địa phương các cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở (xã, phường) tiến hành

114

cùng với các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm chính về dịch vụ việc làm như

Sở Lao động TBXH, các phòng lao động TBXH quận, huyện. Chẳng hạn, qua

kiểm tra tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trên

địa bàn Hà Nội, trong đó có nhiều người nghèo, đã phát hiện ra hàng chục đối

tượng hưởng sai chế độ, hàng chục người khác chưa được hưởng chế độ [36].

Qua kiểm tra tại một xã của huyện Sóc Sơn, phát hiện ra 21,4% số hộ đang

hưởng chính sách hộ nghèo nhưng không phải là hộ nghèo [1].

Hai là, kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ việc làm từ phía

người cung ứng cho người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội, bao gồm các cá

nhân, các tổ chức cung ứng dịch vụ như các trung tâm giới thiệu việc làm, các cơ

sở đào tạo nghề, các tổ chức cho vay tín dụng ưu đãi đối với người nghèo như

Ngân hàng CSXH... trên địa bàn với các nội dung: kiểm tra sự tuân thủ pháp

luật, chính sách, chế độ đối với người nghèo; kiểm tra chất lượng dịch vụ và các

điều kiện bảo đảm cung ứng dịch vụ cho người nghèo.

Ba là, kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện cơ chế, chính sách của

trung ương đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội: về đối tượng thụ

hưởng, về phạm vi, chế độ, chính sách hỗ trợ... trên thực tế so với quy định.

Bốn là, kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện, tác động của các dịch vụ cơ

bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC

DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.3.1. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước nhằm phát

triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo

QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội đối với dịch vụ đào tạo nghề, tạo việc làm và tín dụng cho người nghèo trên địa bàn Hà Nội đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trong thời gian qua, đã góp phần tích cực làm chuyển biến nền kinh tế, văn hoá, xã hội, đời sống người nghèo trên địa bàn từng bước được ổn định và ngày một tăng lên; chính trị, quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Cụ thể như sau:

115

Một là, những thành công trong công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện

quy hoạch, kế hoạch, chương trình cung ứng dịch vụ đào tạo nghề, tạo việc làm

và tín dụng ưu đãi cho người nghèo.

Thông qua CTMTQG về XĐGN, Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2006-2010, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo, chính sách hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn (NQ 30a)… thành phố Hà Nội đã chủ động nghiên cứu, đề xuất những chỉ tiêu cụ thể và những biện pháp phù hợp với từng giai đoạn được thể hiện thông qua các Nghị quyết của Thành ủy, Nghị quyết của HĐND thành phố, Kế hoạch của UBND thành phố. Đặc biệt thành phố đã chủ động điều chỉnh chính sách theo hướng tốt hơn, có lợi hơn cho người dân như: điều chỉnh chuẩn nghèo, nâng mức hỗ trợ, cụ thể hóa các chỉ tiêu, giao cho các cấp chính quyền địa phương thực hiện, thay đổi cách tiếp cận nên Chương trình giảm nghèo đã đạt được kết quả cao.

Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo, Ban chỉ

dung triển khai đồng bộ các chủ trương, cơ chế, chính sách phù hợp với thực

tiễn, phát huy những kết quả đã đạt được, huy động sức mạnh tổng hợp của cả

hệ thống chính trị để thực hiện mục tiêu giảm nghèo theo từng năm, thành

phố Hà Nội đã tập trung vào các nội dung như tín dụng ưu đãi đối với hộ

nghèo, thực hiện khuyến nông, khuyến công; đào tạo nghề và việc làm cho

người nghèo đồng thời tuyên truyền, động viên các hộ nghèo tạo được sự

đồng thuận trong xã hội và được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Với mục tiêu giảm 1% số hộ nghèo trên địa bàn, đặc biệt là khu vực

nông thôn thì công tác đào tạo nghề, tạo việc làm và tín dụng ưu đãi được

đánh giá là một trong những giải pháp hỗ trợ các hộ nghèo tự vươn lên phát

triển bền vững.

Nhờ đó, đã góp phần giúp người nghèo trên địa bàn thanh phố tiếp cận

nguồn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ tạo việc làm cho hàng nghìn người. Theo Gám

đạo thành phố đã phân công cụ thể cho các sở, ban ngành, các tổ chức,... Với nội

116

đốc Ngân hàng CSXH thành phố Hà Nội, đến nay hầu hết các hộ nghèo của

thành phố Hà Nội đủ điều kiện đã được vay vốn. Thông qua chương trình cho

vay giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo, hằng năm Ngân hàng CSXH

Hà Nội đã góp phần giải quyết việc làm cho 30.000 - 35.000 lao động. Ngoài

nguồn vốn hỗ trợ của trung ương, ngân sách của thành phố Hà Nội và các

quận, huyện cùng các tổ chức, đoàn thể đã hỗ trợ các đối tượng nghèo, đối

tượng chính sách xã hội vay vốn tới 825 tỷ đồng (trong khi nguồn vốn này

của cả nước chỉ khoảng trên 1.700 tỷ đồng) [90].

Hai là, những thành công trong công tác ban hành và tổ chức thực hiện

các cơ chế, chính sách, các văn bản pháp luật về cung ứng một số dịch vụ đào

tạo nghề, tạo việc làm và tín dụng ưu đãi cho người nghèo

Trên cơ sở các chương trình, kế hoạch,... các sở, ban, ngành trên địa bàn

thành phố căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu

quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong đó ưu tiên người nghèo.

Tập trung đào tạo các nghề truyền thống như thêu ren, đan rổ rá, mây tre đan

xuất khẩu, đúc đồng, khảm trai… phù hợp với thực hiện củng cố từng địa

phương để hỗ trợ thoát nghèo bền vững.

Đồng thời, gắn đào tạo nghề với tạo việc làm. Tổ chức các sàn giao dịch

việc làm và phiên giao dịch việc làm lưu động tại các quận, huyện, thị xã để tạo

điều kiện cho người nghèo tìm việc làm, gia tăng thu nhập. Các doanh nghiệp, cơ

quan, đơn vị trên địa bàn tiếp nhận lao động nghèo vào làm việc.

Triển khai các mô hình giảm nghèo. Hướng dẫn, tư vấn cho hộ nghèo các

mô hình dịch vụ, thương mại phù hợp để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, hỗ

trợ giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm góp phần thoát nghèo bền vững.

Đối với công tác hỗ trợ tránh tái nghèo, các hộ cận nghèo có nhu cầu vốn

sản xuất kinh doanh, dịch vụ đều được vay từ nguồn vốn do Ngân hàng CSXH

quản lý với phí 0,4%/ tháng, tổ chức các phiên giao dịch việc làm cố định và lưu

động; hỗ trợ thành viên có nhu cầu xuất khẩu lao động được vay vốn.

117

Ba là, những thành công trong công tác tổ chức huy động và quản lý các

nguồn lực để cung ứng một số dịch vụ đào tạo, tạo việc làm và tín dụng ưu đãi

cho người nghèo

Công tác tuyên truyền và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội trong việc thực hiện các chương trình đào tạo nghề và tạo việc làm cho người nghèo hàng năm cần huy động các nguồn lực tổng hợp. Đồng thời nâng cao nhận thức, ý chí phấn đấu vượt nghèo. Cùng với đó, thành phố đã chủ động trong việc hỗ trợ xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh (công trình thủy lợi, đường liên thôn, liên xã, trường học, trạm y tế, điện, nước sạch, chợ…) theo chương trình xây dựng nông thôn mới.

Huy động được nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, trung tâm nông nghiệp,

trung tâm hướng nghiệp, cán bộ kĩ thuật, người có tay nghề cao tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn. Việc không phân biệt cơ sở dạy nghề trong hoặc ngoài công lập, thuộc hoặc không thuộc ngành Lao động TBXH tham gia vào Đề án đã tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trong dạy nghề, phù hợp với chủ trương xã hội hóa.

Công tác tổ chức huy động và quản lý các nguồn lực được chuẩn hóa thành các văn bản luật, có bộ phận đơn vị chuyên trách thực hiện cung cấp các dịch vụ cho người nghèo. Vì vậy, hoạt động tổ chức huy động và quản lý các nguồn lực qua các năm được ghi nhận ngày càng tăng về số lượng và thực sự có hiệu quả.

Bốn là, những thành công trong công tác tổ chức, kiện toàn, nâng cao

năng lực bộ máy quản lý cung ứng một số dịch vụ đào tạo, tạo việc làm và tín

dụng ưu đãi cho người nghèo

Hàng năm, thành phố đã quan tâm đến công tác tổ chức tập huấn các phiên giao dịch việc làm cố định và lưu động, đào tạo nghề cho lao động nông thôn và đôn đốc, hướng dẫn các địa phương thực hiện quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có thu nhập bằng 150% hộ nghèo để đưa ra những giải pháp có hiệu quả.

118

Công tác tổ chức được chuẩn hóa, có bộ phận đơn vị chuyên trách thực

hiện cung cấp các dịch vụ cho người nghèo. Cơ chế và quy trình hoạt động, quy

trình phối hợp giữa các tổ chức ngày càng được hoàn thiện làm cho công tác tổ

chức, năng lực bộ máy quản lý cung ứng một số dịch vụ đào tạo, tạo việc làm và

tín dụng cho người nghèo ngày càng được hoàn thiện, việc xây dựng và tổ chức

thực hiện kế hoạch tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, thành phố

về công tác giảm nghèo, kinh nghiệm và những mô hình giảm nghèo thành công

của các xã, phường, thị trấn đã được quan tâm triển khai góp phần khích lệ các

hộ vươn lên thoát nghèo.

3.3.2. Những hạn chế trong quản lý nhà nước nhằm phát triển các dịch

vụ cơ bản đối với người nghèo ở Hà Nội

QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội đối với dịch vụ đào tạo nghề,

tạo việc làm và tín dụng cho người nghèo trên địa bàn Hà Nội tuy đạt được một

số thành tựu đáng khích lệ trong thời gian qua, song vẫn còn tồn tại một số hạn

chế nhất định ở một số mặt. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, hạn chế trong công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy

hoạch, kế hoạch, chương trình cung ứng một số dịch vụ đào tạo, tạo việc làm và

tín dụng ưu đãi cho người nghèo

Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch mới chỉ được tập trung ở việc lập kế

hoạch thực hiện, kiểm tra và giám sát. Việc đề xuất, định hướng chính sách về

phát triển các DVCB cho XĐGN còn hạn chế.

Thực hiện các chương trình XĐGN ở các quận, huyện và xã, phường chủ

yếu kiêm nhiệm, còn yếu kém trong việc đánh giá, đề xuất và điều chỉnh kịp thời

các kế hoạch triển khai công tác XĐGN.

Mô hình và cơ chế hoạt động của Ban chỉ đạo là lập kế hoạch và thực hiện

chủ yếu một chiều từ trên xuống, tổ chức Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo các

quận, huyện và xã, phường tương đối lỏng lẻo, chủ yếu là kiêm nhiệm. Vì thế,

nhiều biện pháp, chính sách chưa sát nhu cầu của người nghèo, đôi lúc thiếu nhất

quán trong quá trình thực hiện.

119

Thứ hai, hạn chế trong công tác ban hành và tổ chức thực hiện các cơ

chế, chính sách, các văn bản pháp luật về cung ứng một số dịch vụ đào tạo, tạo

việc làm và tín dụng ưu đãi cho người nghèo

Chính sách về DVVL hiện nay còn chồng chéo, hoặc thừa hoặc thiếu,

triển khai thiếu đồng bộ giữa các ban ngành, cũng như thiếu nhất quán từ trung

ương xuống địa phương.

Luật Các tổ chức tín dụng giao Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt

động của Ngân hàng CSXH nhưng Ngân hàng CSXH hiện vẫn đang hoạt động

theo quy định của Điều lệ do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số

16/2003/QĐ-TTg.

Luật Giáo dục và Nghị định quy định chi tiết thi hành luật quy định: “Nhà

nước có chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, điều kiện và thời hạn vay tiền để

người học thuộc gia đình có thu nhập thấp có điều kiện học tập”, tuy nhiên cho

đến nay, chưa có văn bản quy định về tiêu chí hộ gia đình có thu nhập thấp theo

quy định của luật này.

Quy trình thực hiện chưa nhất quán, vì chưa có luật nên các văn bản

hướng dẫn dưới luật cũng chưa có. Phần nhiều là các tài liệu hướng dẫn, tập

huấn chung của các cấp về các vấn đề quản lý chung chứ chưa đi sâu chuyên về

DVVL. Vì thế, quy trình phối hợp cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung thêm.

Công tác tuyên truyền đến người dân chưa thực sự hiệu quả, người dân

nhất là các hộ thuộc diện XĐGN khó có cơ hội tiếp cận chính sách DVVL, hiểu biết

về các ưu đãi mà họ được hưởng theo các chương trình dự án của Nhà nước. Với

tâm lý e ngại trong việc làm các thủ tục hành chính tại cấp cơ sở để được tham gia

vào các chương trình chính sách của Nhà nước cũng hạn chế đi rất nhiều.

Thứ ba, hạn chế trong công tác tổ chức huy động và quản lý các nguồn

lực để cung ứng một số dịch vụ đào tạo, tạo việc làm và tín dụng ưu đãi cho

người nghèo

Công tác tổ chức huy động và quản lý các nguồn lực cung ứng một số

dịch vụ cho người nghèo còn hạn chế về số lượng và chất lượng của các đơn vị

120

tham gia. Chính vì lẽ đó nguồn lực cung ứng cho người nghèo còn hạn chế về

quy mô và chất lượng. Để giảm nghèo bền vững các nguồn lực trong tương lai

cần phải mạnh và quy mô tăng hơn nữa để có thể có lộ trình giảm các hộ nghèo

một cách bền vững và thuận lợi hơn.

Hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư cho các trung tâm dạy nghề công

lập còn hạn chế. Hiện nay, tại các đơn vị dạy nghề công lập, nhà nước đầu tư tốt

về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho một số nghề thuộc nhóm sản xuất chế biến,

công nghệ kĩ thuật,… là những nghề xã hội có nhu cầu cao nhưng chưa đào tạo

được nhiều học viên, hiệu quả sử dụng thấp.

Cơ chế phối hợp giữa Ngân hàng CSXH với các cơ sở đào tạo, UBND các

cấp chưa rõ, thiếu chặt chẽ; hệ thống mẫu biểu sử dụng cho vay HSSV chưa hợp

lí, tạo kẽ hở để HSSV có thể lợi dụng vay vốn nhiều nơi; trách nhiệm xác nhận

đối tượng được vay vốn của UBND cấp xã còn bị buông lỏng, xác nhận sai đối

tượng, lãng phí nguồn vốn.

Nhu cầu vay của hộ nghèo và các đối tượng chính sách ngày càng lớn

nhưng nguồn vốn còn quá hạn hẹp, lại thiếu ổn định. Nguồn vốn cho vay

Chương trình tín dụng HSSV, cho vay hộ nghèo làm nhà ở có thời điểm chưa

được cấp kịp thời; mức vốn cho vay một số chương trình như: Xây dựng công trình

nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; hỗ trợ hộ nghèo làm nhà ở và cho vay

hộ đồng bào dân tộc thiểu số vùng khó khăn… còn thấp, chưa sát với thực tế biến

động của giá cả thị trường, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn không cao.

Thứ tư, hạn chế trong công tác tổ chức, kiện toàn, nâng cao năng lực bộ

máy quản lý cung ứng một số dịch vụ đào tạo, tạo việc làm và tín dụng ưu đãi

cho người nghèo

Hiện có đến 7 bộ, ngành trực tiếp đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành

chính sách tín dụng ưu đãi, trong khi đó, mỗi chính sách lại có đối tượng và điều

kiện cho vay khác nhau; chương trình cho vay giải quyết việc làm hiện vẫn do cơ

quan QLNN trực tiếp phê duyệt và quyết định cho vay; thực tế đã phát sinh sự

chồng chéo, trùng lắp, có hộ gia đình cùng lúc được vay theo nhiều chương trình.

121

Công tác tổ chức, kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy quản lý cung ứng

dịch vụ cho người nghèo cần quan tâm đến trình độ của đội ngũ cán bộ, thái độ

cư xử thân thiện và chuyên nghiệp hơn.

3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế

Qua phân tích thực trạng, những thành tựu đạt được cũng như những mặt

còn hạn chế của công tác QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội đối với dịch

vụ đào tạo nghề, tạo việc làm và tín dụng cho người nghèo trên địa bàn Hà Nội

nhằm phát triển KT-XH ở Hà Nội ở trên, chúng ta nhận thấy những nguyên nhân

hạn chế của công tác này ở Hà Nội có cả nguyên nhân khách quan và nguyên

nhân chủ quan.

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan

- Việc việc xây dựng, hoạch định các chính sách XĐGN của Nhà nước

các gian đoạn vừa qua còn nhiều điểm chưa phù hợp. Các chính sách XĐGN ban

hành trong các giai đoạn vừa qua còn thiếu đồng bộ, có phần trùng lắp đồng thời

hầu hết là các chính sách ban hành là để áp dụng chung cho cả nước mà chưa

xây dựng được chính sách đặc thù các thành phố trực thuộc Trung ương, trong

đó có Thủ đô Hà Nội là một đô thị đặc biệt cấp Quốc gia nên có nhiều điểm bất

cập hoặc hiệu quả thực hiện một số chính sách XĐGN ở Hà Nội chưa cao. Các

chương trình giảm nghèo chưa bao quát toàn diện công tác giảm nghèo; các

chính sách, dự án, chương trình giảm nghèo được ban hành nhiều nhưng lại

mang tính ngắn hạn, chồng chéo, phân tán nguồn lực, chưa tạo sự gắn kết chặt

chẽ nên chưa tác động tích cực vào đời sống người nghèo dẫn đến việc thực hiện

phân bổ và hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao.

- Nguồn lực vốn cho vay của nhà nước rất hạn hẹp và có nhiều khó khăn,

nhất là trong giai đoạn hiện nay, trong khi đó nhu cầu, nguyện vọng của người

nghèo được được vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết việc

làm...là rất lớn. Đồng thời nguồn lực vốn thực hiện mục tiêu giảm nghèo các giai

đoạn vừa qua còn phân tán, dàn trải, chưa tập trung ưu tiên giải quyết những vấn

đề bức xúc nhất, địa bàn trọng điểm nhất nên các chủ trương, kỳ vọng trong

122

XĐGN của Hà Nội các giai đoạn vừa qua chưa có điều kiện để được đáp ứng

đầy đủ về vốn.

- Mạng lưới cơ sở dạy nghề còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất, thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ cán bộ QLNN về dạy nghề thiếu về số lượng và yếu về nghiệp vụ. Công tác kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, phổ biến về dạy nghề cho lao động nông thôn chưa sát thực tế, chưa phong phú về hình thức.

- Việc lồng ghép giữa các chương trình, dự án chưa tốt, dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả chưa cao. Có một số cơ chế, chính sách đã phát hiện còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn, nhưng việc sửa đổi, bổ sung chậm.

Thứ hai, nguyên nhân chủ quan - Nhận thức và sự phối hợp tổ chức thực hiện chính sách của các cấp, các ngành và người dân còn hạn chế. Ở một số quận, huyện, hộ dân còn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, thành phố mà chưa tự lực vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, đội ngũ các bộ làm công tác giảm nghèo cũng chưa được đào tạo chính quy, chuyên nghiệp nên việc tuyên truyền hướng dẫn để huy động sự tham gia của người dân vào việc phối hợp triển khai các chính sách giảm nghèo thời gian qua ở Hà Nội chưa đạt yêu cầu, còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả đạt được từ các chính sách XĐGN chưa cao. Cá biệt, trên địa bàn thành phố, có cấp ủy đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức, kịp thời, thường xuyên đến việc triển khai thực hiện Chương trình XĐGN.

Mặt khác, việc tổ chức phối hợp chỉ đạo thực hiện XĐGN giữa các bộ,

ngành, địa phương chưa chặt chẽ, kém hiệu quả; cơ chế phân cấp, trao quyền cho địa phương, cơ sở chủ động với sự tham gia của người dân còn nhiều lúng túng; công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân còn nhiều hạn chế, chưa khơi dậy được ý thức tự giác vươn lên thoát nghèo của người nghèo.

- Năng lực hoạch định chính sách và triển khai thực hiện chính sách của Thành phố còn hạn chế, thiếu chủ động; cán bộ làm công tác XĐGN nói chung và quản lý dịch vụ cơ bản cho người nghèo nói riêng ở cấp Thành phố chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm, không chuyên trách.

123

- Việc phân công theo dõi, đánh giá hiệu quả từng lớp học khi tổ chức

lưu động tại các xã, thôn chưa được phân công cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm

của cấp xã, nơi lựa chọn học viên và nắm rõ tình hình việc làm, thu nhập của

người học nghề. Chưa xây dựng định mức chi phí đào tạo cho từng nghề và

chậm điều chỉnh mức hỗ trợ đối với các nghề có chi phí đào tạo cao nhưng xã

hội, doanh nghiệp có nhu cầu để triển khai đào tạo. Văn bản hướng dẫn của

trung ương, của Thành phố ban hành chưa kịp thời, lại thường xuyên thay đổi.

Lực lượng giáo viên dạy nghề cho lao động nông thôn còn ít, trình độ, kĩ năng

dạy nghề hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu người học. Nguồn lực tài chính cho dạy

nghề chưa tương xứng với nhu cầu học nghề, dạy nghề của các địa phương; chưa

có cơ chế huy động được nhiều nguồn từ các chương trình, dự án phát triển nông

nghiệp, nông thôn khác.

- Thủ tục hành chính phức tạp, phiền hà, hệ thống cung cấp dịch vụ chưa

đáp ứng nhu cầu hoặc phát sinh nhiều chi phí vượt quá khả năng thanh toán của

người nghèo... nên người nghèo vẫn khó tiếp cận với các dịch vụ tín dụng ưu đãi

cho người nghèo.

124

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ

NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI

NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

4.1. BỐI CẢNH HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI

NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

4.1.1. Bối cảnh hiện nay tác động đến quản lý nhà nước nhằm phát triển

các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Một là, yêu cầu và nhiệm vụ XĐGN của Hà Nội vẫn gay gắt

Bối cảnh hiện nay được đặc trưng bởi phát triển KTXH trong điều kiện

kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Việc phát triển kinh tế

thị trường làm cho quá trình phân hóa giàu - nghèo ngày càng gay gắt.

Hà Nội vừa được mở rộng nên ngoài khu vực nội thành thì vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xa cũng còn khá rộng lớn. Do đó, sự chênh lệch giữa các

vùng trên địa bàn Hà Nội là đáng kể. Tình trạng đói nghèo chưa thể giải quyết

một sớm, một chiều, tỷ lệ nghèo còn cao. Việc tăng cường các dịch vụ cho người

nghèo và QLNN đối với các dịch vụ này là tất yếu.

Hơn nữa, XĐGN là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm cải

thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng

cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các

nhóm dân cư ở nước ta. XĐGN toàn diện, bền vững là mục tiêu xuyên suốt trong

quá trình phát triển KTXH và là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần

thực hiện phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Những thành tựu đạt được

trong giai đoạn vừa qua đã tạo bước ngoặt mới trong XĐGN và là nền tảng cho

việc thực hiện những giải pháp XĐGN trong thời gian tới.

Giải quyết vấn đề đói nghèo cũng là thể hiện mạnh mẽ cam kết của Đảng,

Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các mục tiêu Thiên

125

niên kỷ của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết. Chính phủ Việt Nam đã tập

trung chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực thực hiện tốt mục tiêu XĐGN. Mỗi giai đoạn tuy

có những nội dung, giải pháp khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là

nâng cao mức sống của người dân, giảm nhanh tỷ lệ hộ sống dưới ngưỡng nghèo.

Những năm qua, tuy đã đạt được những thành tựu không nhỏ, nhưng nhìn

chung, một số đối tượng, ở một số vùng, tình trạng giảm nghèo chưa vững chắc,

nguy cơ tái nghèo do những biến động về KTXH, thiên tai, dịch bệnh còn lớn.

Việc cung ứng các dịch vụ cho người nghèo đặt ra yêu cầu cao về tính bền vững.

Điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện QLNN đối với các dịch vụ cho người nghèo trên

địa bàn Thủ đô.

Hai là, nhiệm vụ nâng cao hiệu quả các dịch vụ cho người nghèo đang là

vấn đề bức xúc

Hà Nội là đô thị đông dân cư với tỷ lệ dân nhập cư khá cao. Tình trạng

nghèo và loại hộ nghèo cũng rất đa dạng. Các dịch vụ cho người nghèo cần phải

phù hợp điều kiện cụ thể của địa phương. Để nâng cao hiệu quả cung ứng dịch

vụ cho người nghèo, ngoài việc lựa chọn các dịch vụ phù hợp, cần chú trọng đổi

mới phương thức cung ứng.

Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các

vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao

thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng

giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công

nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và

ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các chương

trình xoá đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,

vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình

quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng

sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; thực hiện việc miễn giảm đóng góp và cấp học

bổng cho học sinh nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh giỏi.

126

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Tập

trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ

và công bằng xã hội, bảo đảm ASXH, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện

chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”.

Cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, trong Chiến lược phát triển KTXH

giai đoạn 2011 - 2020 giảm nghèo bền vững là một trong những mục tiêu trọng

tâm cần đạt được, cụ thể là thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo

phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo

đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt

khó khăn; khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập

trung bình khá trở lên; có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế

phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.

Ba là, đổi mới việc cung ứng dịch vụ và QLNN đối với các dịch vụ cho

người nghèo trên địa bàn Hà Nội đặt trong bối cảnh hiện nay nhằm thực hiện

mục tiêu phát triển KTXH và mục tiêu XĐGN của thành phố

Thực hiện Quyết định số 01/2011/QĐ-UBND của UBND thành phố về

việc ban hành Chuẩn nghèo, cận nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015;

Kế hoạch số 24/KH-UBND của UBND thành phố về thực hiện Mục tiêu giảm

nghèo giai đoạn 2011-2015; Nghị quyết số 06/NQ-HĐND của HĐND thành phố

về kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của thành phố 5 năm 2011- 2015 đã chỉ rõ:

- Triển khai hiệu quả các chương trình giảm nghèo, đặc biệt là ở các

vùng xa trung tâm, vùng đặc biệt khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo cao. Giải quyết tốt

chính sách đối với người có công và gia đình chính sách [40].

- Đẩy mạnh phát triển KTXH, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần đối với hộ nghèo. Tăng cường các biện pháp giảm nghèo bền

vững, tránh tái nghèo, hỗ trợ, khuyến khích hộ nghèo vươn lên mức sống khá.

Tập trung nguồn lực, giải pháp hỗ trợ hộ nghèo diện chính sách có công, hộ

nghèo dân tộc thiểu số, hộ nghèo có đối tượng bảo trợ xã hội [114].

127

Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc triển khai thực hiện được các mục tiêu XĐGN giai đoạn 2011 - 2015, quan điểm QLNN của chính quyền Hà Nội đối với một số dịch vụ cho người nghèo là tiếp tục thực hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang thực hiện như: CTMTQG về giảm nghèo, thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ và các chương trình phát triển KTXH khác. Nguồn lực đề thực hiện giảm nghèo phải được huy động tối đa, không chỉ bằng NSNN mà còn huy động đóng góp với tinh thần trách nhiệm cao của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại…và đặc biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực... Đồng thời, khắc phục những hạn chế của các chương trình giảm nghèo gắn kết việc thực hiện chính sách giảm nghèo với chính sách ASXH, phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa các bộ, ngành, địa phương.

Thực hiện mục tiêu giảm nghèo theo Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ

theo hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 cụ thể như sau: - Về mục tiêu tổng quát: Giảm nghèo bền vững là một trọng tâm của Chiến lược phát triển KTXH 2011 - 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.

- Mục tiêu cụ thể về giảm nghèo như sau: Một là, thu nhập bình quân đầu người của các hộ nghèo tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn;

Hai là, điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là về y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các DVXH cơ bản;

128

Ba là, cơ sở hạ tầng KTXH ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như giao thông, điện, nước sinh hoạt.

Căn cứ vào định hướng của Chính phủ, Hà Nội đã cụ thể hóa trong các

nghị quyết, quyết định, kế hoạch của HĐND và UBND thành phố. Cụ thể:

Nghị quyết số 06/NQ-HĐND của HĐND thành phố Hà Nội đã cụ thể hóa các chỉ tiêu về lao động việc làm như: Số lao động được giải quyết việc làm mới hàng năm 140-145 ngàn người; tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 là 55%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới bình quân giảm 1,5 - 1,8%/năm.

Kế hoạch số 150/KH-UBND của UBND thành phố Hà Nội đã đưa ra chỉ tiêu về đào tạo trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề cho 10.000 lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo và hộ cận nghèo; tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này tối thiểu đạt 70%;...

Kế hoạch số 112/KH-UBND của UBND thành phố Hà Nội về Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã đưa ra chỉ tiêu về đào tạo trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề cho 500 lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo và hộ cận nghèo; tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề tối thiểu đạt 80%.

4.1.2. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước nhằm phát triển các

dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Từ những định hướng chung nêu trên, định hướng XĐGN nhằm phát triển KTXH ở Hà Nội thời gian tới cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho người nghèo; phát triển KCHT dịch vụ thiết yếu, mở rộng ứng dụng khoa học công nghệ trong nhóm người nghèo; tăng cường mối quan hệ đoàn kết trong nhân dân để đảm bảo điều kiện ổn định an ninh, chính trị, xã hội cho phát triển KTXH ở Hà Nội. Cụ thể như sau:

Một là, ưu tiên đầu tư vào con người song song với phát triển kinh tế

Mục tiêu phát triển là tạo ra môi trường thuận lợi để con người có cuộc

sống ấm no, khỏe mạnh có năng lực lao động, sáng tạo để làm ra của cải vật

129

chất, có điều kiện chăm sóc gia đình và tiếp tục chăm nom cho một thế hệ nối

tiếp ngày một tốt đẹp hơn. Mục tiêu “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa” lấy con người là yếu tố căn bản của sự phát triển, vì thế cũng như

trên bình diện quốc gia, thành phố Hà Nội luôn định hướng giải quyết bài toán

con người trong quá trình quản lý điều hành phát triển KTXH.

Các chính sách về XĐGN và phương pháp tiếp cận con người, ưu tiên

phát triển con người song song với phát triển KTXH ở Hà Nội có một đặc thù

riêng. Do đó, các dịch vụ cơ bản cho người dân nghèo cũng có những yêu cầu

khác biệt. Việc nhận diện những nhu cầu khác biệt này cho phép tác động một

cách chính xác đến các yếu tố đầu vào của quá trình XĐGN một cách đúng đắn

và hiệu quả.

Các chương trình điều tra khảo sát những năm gần đây của các đơn vị

nghiên cứu trong và ngoài nước như UNDP, Tổng cục Thống kê, Viện nghiên

cứu phát triển KTXH Hà Nội... cho thấy chủ trương của thành phố những năm

trước 2005 - 2010 đã làm rất tốt những dịch vụ cơ bản thiết yếu cho người

nghèo. Còn trong giai đoạn hiện nay và những năm tới, người dân có nhu cầu

cao hơn về những dịch vụ cơ bản tác động trực tiếp đến khả năng và năng lực

sản xuất của họ, đó là dịch vụ về tài chính và dịch vụ về việc làm. Chủ trương

này cũng thể hiện khá rõ trong các văn bản chỉ đạo gần đây của chính quyền

thành phố cũng như thực tiễn hành động. Chính quyền thành phố đang đẩy mạnh

hơn quá trình CNH, HĐH nông thôn, từng bước có những thử nghiệm thành công

tại một số địa phương, rút kinh nghiệm và sau đó nhân rộng mô hình đến toàn địa

bàn nông thôn của thành phố Hà Nội. Về DVVL, những năm trước và đến hiện nay

chính quyền thành phố đã mở rộng được mạng lưới giới thiệu DVVL trên toàn địa

bàn và giờ đây chính quyền thành phố đang có chủ trương đào tạo nghề có chất

lượng cao, đào tạo nghề cần gắn kết với nhu cầu thực tế của thị trường.

Thành phố cũng phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân

đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận để chăm sóc đối tượng bảo trợ xã

hội dựa vào cộng đồng theo tinh thần “lá lành đùm lá rách, tương thân tương ái”.

130

Quyết định số 48/2010/QĐ-UBND ngày 22/ 09/2010 về việc “thành lập đội hoạt

động xã hội tình nguyện cấp xã, phường, thị trấn” làm công tác phòng chống tệ

nạn ma túy, mại dâm, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các công tác xã hội

khác. Tại các xã, phường, thị trấn đều vận động địa phương ủng hộ quỹ vì người

nghèo, ủng hộ thiên tai bão lũ cũng như các hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội

khác. Hà Nội còn thu hút, khuyến khích nhiều tổ chức phi chính phủ trong nước

và ngoài nước đã có các hoạt động tình nguyện, nhân đạo, hoạt động xã hội vì sự

phát triển chung của cộng đồng, thực hiện tình tương thân tương ái đến những

người nghèo, khiếm khuyết hoặc bệnh tật hiểm nghèo.

Hai là, cải cách hệ thống cung cấp dịch vụ cơ bản, tạo điều kiện cho

người dân nghèo có cơ hội tiếp cận tốt hơn

Đối với UBND các các cấp: cần kiện toàn Ban Chỉ đạo trợ giúp người

nghèo các cấp. Tổ chức rà soát hộ nghèo, cận nghèo hàng năm; nắm chắc thông

tin về hộ nghèo (địa chỉ, hoàn cảnh, nguyên nhân nghèo, nhu cầu cần hỗ trợ…);

tăng cường quản lý, theo dõi chặt chẽ biến động của hộ nghèo, cận nghèo tại xã,

phường, thị trấn bằng việc áp dụng công nghệ thông tin để quản lý đối tượng kịp

thời, chính xác. Xây dựng kế hoạch, bố trí ngân sách hàng năm và huy động các

nguồn lực để thực hiện kế hoạch giảm nghèo tại địa phương, chú trọng các xã có

tỷ lệ hộ nghèo cao. Quản lý, sử dụng có hiệu quả, đúng đối tượng và mục đích

các nguồn lực phục vụ giảm nghèo; gắn công tác giảm nghèo với kế hoạch phát

triển KTXH của địa phương; giao chỉ tiêu giảm nghèo cụ thể cho từng hội, đoàn

thể trong công tác giảm nghèo. Chỉ đạo các xã, phường, thị trấn bố trí đủ và ổn

định cán bộ làm công tác giảm nghèo. Đề xuất kế hoạch phát triển kinh tế, đầu tư

cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh ở các xã, phường, thị trấn,

đặc biệt ưu tiên các xã nghèo, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao. Phối hợp chặt chẽ với

các sở, ban, ngành thành phố trong việc triển khai, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện

các chỉ tiêu, chính sách, giải pháp giảm nghèo. Phối hợp với các hội, đoàn thể

vận động, thuyết phục, hướng dẫn cách làm ăn, vận động kế hoạch hóa gia

đình... cho các hộ nghèo, tập trung các giải pháp để các hộ đông con, lười lao

131

động, mắc tệ nạn xã hội có ý thức vươn lên thoát nghèo. Xây dựng và nhân rộng

các mô hình giảm nghèo có hiệu quả. Vận động các doanh nghiệp, cơ quan, đơn

vị đóng trên địa bàn hỗ trợ dạy nghề, tiếp nhận con em hộ nghèo vào làm việc.

Bổ sung các nguồn lực cho công tác giảm nghèo.

Đối với Sở Lao động TBXH - cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo Trợ giúp

người nghèo cần chủ trì và phối hợp với các sở, ngành có liên quan trong việc

hướng dẫn các quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn nghiệp vụ điều tra, rà

soát xác định hộ nghèo, cận nghèo. Xây dựng và thống nhất trình UBND thành

phố Kế hoạch giảm nghèo hàng năm và nguồn lực để thực hiện chương trình. Đề

xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo, tập trung ưu tiên hộ nghèo

diện chính sách có công, hộ nghèo dân tộc thiểu số và chính sách hỗ trợ các xã

có tỷ lệ hộ nghèo cao. Tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch giảm nghèo hàng

năm và tổ chức tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo

các cấp. Triển khai dự án dạy nghề cho người nghèo, người tàn tật, lao động

nông thôn. Hỗ trợ hộ nghèo cải thiện về nhà ở. Phối hợp triển khai, thực hiện tốt

chính sách hỗ trợ hộ nghèo về cấp thẻ bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí, chương

trình vay bò sinh sản, miễn giảm kinh phí chữa trị cai nghiện... Xây dựng hệ

thống chỉ tiêu giám sát chương trình giảm nghèo các cấp. Tổ chức giám sát,

kiểm tra, đánh giá hiệu quả thực hiện kế hoạch giảm nghèo và tổng hợp báo cáo

UBND thành phố và Bộ Lao động - TBXH. Đồng thời, xây dựng phần mềm và

quản lý dữ liệu hộ nghèo toàn thành phố để phục vụ các nhiệm vụ và cập nhật

thường xuyên hàng năm.

Trong thời gian qua, việc triển khai chương trình XĐGN đôi khi bị lồng

ghép, dẫm chân nhau trong nhiều kế hoạch từ trung ương, đến địa phương. Việc

một số chương trình chạy song song trên địa bàn, với số lượng cán bộ chính sách

hạn chế cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện. Chủ trương cải cách hệ

thống cung cấp dịch vụ vì thế rất cần thiết trong việc tối ưu các nguồn lực của xã

hội nhằm đảm bảo hiệu quả các chính sách đề ra. Trong lĩnh vực dịch vụ tài

chính đã có những cải cách rõ rệt, Ngân hàng CSXH đã mở rộng mạng lưới đến

132

các địa bàn nông thôn, cử cán bộ định kỳ về công tác tại địa bàn UBND phường

xã, mở rộng mạng lưới tổ nhóm tư vấn cho vay qua Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến

binh, Đoàn thanh niên... nhằm tăng cường khả năng tiếp cận đối với người dân

nghèo. Qua đánh giá và báo cáo cho thấy cách làm như vậy đã thực sự hiệu quả,

người nghèo có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận dịch vụ cơ bản về tín dụng,

đem lại cho họ cơ hội nâng cao năng lực sản xuất để từ đó thoát nghèo một cách

ổn định và bền vững.

Thành phố đã chủ trương tăng cường cho vay nông nghiệp và kinh tế

ngoại thành để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất của các hộ nông dân. Việc cho

vay người nghèo, cho vay các chương trình kinh tế, cho vay ưu đãi tiếp tục được

thực hiện đã góp phần XĐGN ở một số bộ phận nông dân gặp khó khăn và đảm

bảo ASXH ở nông thôn.

Quan điểm QLNN của thành phố đã ưu tiên tập trung đầu tư phát triển

KTXH ở một số vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao; phấn đấu từng bước thu hẹp khoảng

cách giàu nghèo giữa các đối tượng, các vùng, không để chênh lệch này trở

thành vấn đề xã hội bức xúc. Trong thời gian tới, Ngân hàng CSXH thành phố

cần chủ động phối hợp và có kế hoạch cụ thể về huy động, bổ sung, đề xuất và

thực hiện cơ chế chính sách hỗ trợ tín dụng thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu giảm

nghèo và chính sách ASXH; khuyến khích xây dựng hạ tầng khu vực nông nghiệp

nông thôn. Phối hợp với các sở, ban, ngành, hội, đoàn thể, UBND các quận, huyện,

thị xã hướng dẫn hộ nghèo, cận nghèo sử dụng vốn vay có hiệu quả.

Tập trung nỗ lực cho đầu tư giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ từ bậc mầm non,

tiểu học đến việc đào tạo nghề cho lao động đã trưởng thành. Tập trung đầu tư hệ

thống KCHT cho các trường học nhất là các trường ở huyện nghèo, xã nghèo.

Chỉ đạo, hướng dẫn các trường thực hiện chính sách miễn giảm học phí, tiền xây

dựng và các khoản đóng góp khác đối với học sinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo,

học sinh mồ côi, học sinh khuyết tật, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Vận động

các ban, ngành, đoàn thể hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập, cấp học bổng cho học

133

sinh nghèo vượt khó. Từ đó, góp phần đẩy mạnh việc đào tạo phát triển nguồn

nhân lực tại chỗ phục vụ phát triển KTXH.

Ba là, đưa các nội dung phát triển các dịch vụ cho người nghèo vào chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của thành phố

Kế hoạch phát triển KTXH chung đến năm 2020 trên cơ sở quán triệt tinh

thần và nội dung của Nghị quyết số 21-NQ/TW, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng XHCN, tích cực chủ động tổ chức thực hiện hiệu quả thế chế kinh tế

thị trường định hướng XHCN trên địa bàn phù hợp với những nguyên tắc cơ bản

của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế Thủ đô phát triển nhanh, hiệu

quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Thành phố Hà Nội cần phối

hợp cùng các bộ, ban ngành trung ương, các địa phương trong cả nước từng

bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, chính sách và tổ chức hiệu quả các

cơ chế, chính sách nhằm nâng cao mức sống, nâng cao trình độ tay nghề cũng

như tạo điều kiện làm ăn cho người dân lao động.

Hoàn thiện khung pháp lý và công tác quy hoạch phát triển. Đổi mới công

tác kế hoạch hóa; đưa định hướng phát triển dịch vụ cho người nghèo vào kế

hoạch 5 năm 2016-2020 trên cơ sở chiến lược phát triển KTXH Thủ đô đến năm

2030, tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Triển khai xây

dựng và phê duyệt các quy hoạch ngành, kế hoạch có liên quan hướng tới mục

tiêu đổi mới chất lượng cung cấp dịch vụ đến người dân, trong đó có đối tượng

người nghèo ngày một tốt hơn. Nghiên cứu đưa chỉ tiêu phát triển DVVL cho

người nghèo vào hệ thống chỉ tiêu phát triển KTXH của thành phố để giao cho

các quận, huyện, thị xã và ngành Lao động TBXH thực hiện.

Trọng tâm của QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội đối với một số

dịch vụ cho người nghèo là các dịch vụ hành chính hỗ trợ cho công tác XĐGN.

Thay đổi cách thức QLNN một cách có hệ thống theo hệ thống kiểm soát chiến

lược các chương trình, chính sách triển khai đối với đối tượng XĐGN. Đẩy

nhanh thực hiện xã hội hóa công tác XĐGN. Ngoài việc huy động nguồn đóng

134

góp tự nguyện của các cá nhân, tập thể và các tổ chức cho quỹ vì người nghèo,

Nhà nước nên có cơ chế, chế tài để điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp,

cộng đồng nhằm tăng thêm nguồn lực hỗ trợ người nghèo hiệu quả hơn nữa.

Việc ban hành và thực hiện các chính sách, biện pháp QLNN của chính

quyền thành phố Hà Nội đối với một số dịch vụ cho người nghèo sẽ đạt hiệu quả

hơn khi có sự tham gia của người dân vào việc xây dựng và góp ý vào chính

sách, chương trình, kế hoạch của Nhà nước. Hoàn thiện cơ chế giám sát cộng

đồng, phản biện xã hội gắn với thực hiện cơ chế dân chủ cơ sở cũng là những

điểm cần lưu tâm trong quá trình xây dựng thể chế, chính sách và kế hoạch.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM

PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua phân tích thực trạng cũng như đề xuất

các quan điểm, định hướng hoàn thiện QLNN đối với các dịch vụ cho người

nghèo như trên, thời gian tới chính quyền thành phố cần chú trọng thực hiện một

số giải pháp sau:

4.2.1. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược, kế hoạch phát triển các dịch

vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Trước hết, cần khắc phục tính phân tán, tản mạn của các quan điểm chiến

lược về phát triển dịch vụ cho người nghèo. Các quan điểm này hiện nằm rải rác

trong các chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung

và XĐGN nói riêng. Các quan điểm chiến lược cần được hệ thống lại một cách

thống nhất, xuyên suốt, tạo sự liên kết chặt chẽ với nhau.

Thứ hai, trong chiến lược, kế hoạch phát triển dịch vụ cho người nghèo,

cần xác định các dịch vụ phù hợp với từng loại đối tượng người nghèo và xác

định các ưu tiên trong từng giai đoạn, đối với từng vùng cụ thể. Chẳng hạn, Hà

Nội đang trong quá trình đô thị hoá mạnh, một bộ phận dân cư nông thôn mất đất

sản xuất nên cần chú trọng dịch vụ đào tạo chuyển đổi nghề, trong khi đó người

nghèo ở vùng sâu, vùng xa thì lại cần chú trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

135

Thứ ba, việc lựa chọn các dịch vụ ưu tiên cho các nhóm người nghèo cần sát với thực tế, dựa vào mục tiêu xoá nghèo bền vững, theo hướng nâng cao năng lực giảm nghèo cho người nghèo.

Kế hoạch phát triển các dịch vụ cho người cần có sự phối hợp giữa các dịch vụ. Hiện tại, các dịch vụ cho người nghèo do nhiều đầu mối quản lý và cung ứng nên có hiện tượng chồng chéo, hiệu quả thấp. Điều này đặt ra yêu cầu phối hợp kế hoạch giữa các cơ quan QLNN trong việc quản lý cung ứng dịch vụ cho người nghèo (Sở Lao động TBXH, Sở Tài chính, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố, Ngân hàng CSXH,...) với đầu mối chung là UBND thành phố. Các bước, các khâu trong kế hoạch phát triển dịch vụ cho người nghèo cần được nối kết, phối hợp đồng bộ theo mô hình mạng PET hoặc mô hình ma trận dưới sự giám sát của một bộ phận chuyên trách trong UBND thành phố.

Trong kế hoạch phát triển dịch vụ cho người nghèo, mỗi dịch vụ cần hình thành mạng lưới cung ứng rộng khắp trên địa bàn như kinh nghiệm phát triển DVVL của Hàn Quốc.

Trong các kế hoạch phát triểndịch vụ cho người nghèo, cần có mục tiêu rõ ràng, sát thực và cần có kế hoạch bố trí nguồn lực phù hợp để bảo đảm thực hiện cung ứng các dịch vụ cho người nghèo.

4.2.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách trong thẩm quyền của chính quyền thành phố nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Thành phố cần tích cực, chủ động và sáng tạo trong việc triển khai thực hiện cơ, chính sách về dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn; đồng thời, hoàn thiện việc xây dựng và thực thi cơ chế, chính sách về dịch vụ đối với người nghèo trong thẩm quyền được phân cấp.

Trong khuôn khổ cơ chế, chính sách của Trung ương, thành phố tích cực, chủ động và sáng tạo triển khai thực hiện cơ chế, chính sách về dịch vụ đối với người nghèo cho phù hợp với đặc điểm người nghèo và điều kiện của thành phố. Chú trọng ưu tiên cho các chính sách tác động mạnh nhất đến đời sống, sinh hoạt và sản xuất của người nghèo.

136

Nhằm hỗ trợ hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo bền vững, trước mắt,

thành phố Hà Nội làm tốt công tác tuyên truyền, động viên các hộ nghèo tăng

cường phát huy nội lực, chủ động, nỗ lực, không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ từ

bên ngoài, có ý chí tự vươn lên thoát nghèo và cần quan tâm đến một số giải

pháp cụ thể sau đây:

Một là, đối với chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, cần tăng cường

nguồn vốn và bảo đảm cho các đối tượng tiếp cận được nguồn vốn. Các giải

pháp cụ thể trước mắt như sau:

- Tăng cường nguồn vốn, đảm bảo 100% hộ nghèo có nhu cầu vay vốn

sản xuất - kinh doanh; dịch vụ đều được vay từ nguồn vốn do Ngân hàng CSXH

quản lý với phí 0,3%/tháng. Đề xuất nâng mức vay tối đa lên 20 - 30 triệu

đồng/hộ. Hộ cận nghèo có nhu cầu vay vốn sản xuất - kinh doanh, dịch vụ đều

được vay từ nguồn vốn do Ngân hàng CSXH quản lý với phí 0,4%/tháng. Bổ

sung thêm đối tượng là hộ có thu nhập bằng 150% thu nhập hộ nghèo được vay

vốn sản xuất - kinh doanh, dịch vụ với phí 0,4%/tháng.

- Hỗ trợ học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn hoặc thành viên của

hộ nghèo, hộ có thu nhập bằng 150% hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi tại

Ngân hàng CSXH để góp phần trang trải chi phí học tập, sinh hoạt trong thời

gian theo học tại trường.

- Đảm bảo thành viên của hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhu cầu đi xuất khẩu

lao động đều được vay vốn tại Ngân hàng CSXH, thông qua các hội đoàn thể,

vốn khuyến công, khuyến nông.

- Bổ sung nguồn vốn cho hộ nghèo vay chăn nuôi bò sinh sản thông qua

các hội đoàn thể.

Hai là, đối với chương trình khuyến công và khuyến nông, cần quan tâm

đến một số giải pháp trước mắt sau đây:

- Tập huấn, phổ biến kiến thức sản xuất, xây dựng các mô hình sản xuất

khuyến nông, khuyến lâm, nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, chuyển giao khoa học công

137

nghệ... cho hộ nghèo. Nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả, phù hợp với

hộ nghèo và đặc thù của từng địa phương.

- Hỗ trợ phát triển ngành nghề, tập trung các nghề truyền thống, quy mô

nhỏ, nhóm hộ gia đình.

- NSNN hỗ trợ mua phí bảo hiểm nông nghiệp đối với hộ nông dân, cá

nhân nghèo, cận nghèo và không thuộc diện nghèo, cận nghèo theo Thông tư số

121/2011 /TT-BTC ngày 17/8/2011 của Bộ Tài chính.

Ba là, đối với dịch vụ đào tạo nghề và tạo việc làm cho người nghèo cần

quan tâm đến một số giải pháp trước mắt sau đây:

- Hoàn thiện việc xây dựng Kế hoạch thực hiện CTMTQG về việc làm

theo kỳ kế hoạch 5 năm và hàng năm trên địa bàn thành phố một cách có hiệu

quả. Thực hiện lồng ghép DVVL cho người nghèo trong xây dựng Chiến lược

tổng thể và Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH của Thủ đô, thể hiện qua

việc giao chỉ tiêu kế hoạch đào tạo lao động và giải quyết việc làm nói chung

và cho người nghèo nói riêng đến từng quận, huyện, thị xã và bản thân Sở Lao

động TBXH.

- Triển khai CTMTQG về việc làm, CTMTQG về giảm nghèo, CTMTQG

về xây dựng nông thôn mới… một cách hiệu quả hơn, trong đó, chú trọng vai trò

trung tâm của người nghèo, đặc biệt là Đề án Nâng cao chất lượng sàn giao dịch

việc làm của Hà Nội đến năm 2015, Đề án Đào tạo nghề lao động nông thôn đến

năm 2020 tập trung vào đối tượng người nghèo, người bị thu hồi đất (phương

tiện sản xuất rất quan trọng của nông dân)...

- Gắn đào tạo nghề với tạo việc làm. Thành phố cần thành lập sàn giao

dịch việc làm; tổ chức định kỳ các phiên giao dịch việc làm hằng tháng nhằm

mục đích phục vụ tốt cho người lao động đang tìm việc làm, học nghề và các

đơn vị có nhu cầu tuyển dụng việc làm. Tăng cường vận động các doanh

nghiệp, cơ quan, đơn vị trên địa bàn tiếp nhận lao động nghèo vào làm việc, để

tạo điều kiện cho người nghèo có thêm nhiều cơ hội có được việc làm mới,

tăng thu nhập.

138

- Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao

động nông thôn, trong đó ưu tiên người nghèo, thành viên hộ cận nghèo. Tập

trung đào tạo các nghề truyền thống như thêu ren, đan rổ rá, mây tre đan xuất

khẩu, đúc đồng, khảm trai... phù hợp với điều kiện của từng địa phương để hỗ

trợ thoát nghèo bền vững.

Bốn là, triển khai thực hiện các mô hình giảm nghèo.

Hướng dẫn, tư vấn cho hộ nghèo các mô hình dịch vụ, thương mại phù

hợp để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, hỗ trợ giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm góp

phần thoát nghèo bền vững. Cụ thể như sau:

- Lồng ghép các chương trình, dự án từ khâu thiết kế: Thiết kế chương

trình XĐGN ở Hà Nội cần đặc biệt quan tâm việc lồng ghép nguồn lực đầu

tư của các chương trình, dự án có cùng mục tiêu trên cùng địa bàn nhằm hạn

chế đầu tư dàn trải, chồng chéo. Đồng thời phải có sự phối hợp tổ chức theo

cấp, ngành và đưa ra được một khung giám sát chặt chẽ về kết quả thực hiện

chương trình.

- Khắc phục những bất cập, chồng chéo trong thiết kế chương trình

XĐGN và phát triển KTXH. Điểm bất cập của chương trình XĐGN trong thời

gian qua là sự chồng chéo trong thiết kế các chính sách và chương trình giảm

nghèo. Mỗi bộ, ngành quản lý nhiều chương trình, dự án hoặc các hợp phần khác

nhau. Trong khi, mối liên hệ giữa các hợp phần lại thiếu chặt chẽ nên chưa có

được kết quả tổng lực từ các hợp phần riêng lẻ. Do đó, khi thiết kế các chính

sách, chương trình XĐGN không thể tách rời riêng rẽ, độc lập mà phải gắn với

các chương trình phát triển KTXH, chương trình xây dựng nông thôn mới, đầu

tư KCHT, dạy nghề, tạo việc làm cho nông dân...

4.2.3. Hoàn thiện tổ chức quản lý và nâng cao năng lực nhằm phát triển

các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Các dịch vụ cho người nghèo do nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều thành

phần tham gia và quản lý. Do vậy, việc hoàn thiện tổ chức quản lý đối với các

dịch vụ này cần chú trọng các nội dung sau:

139

Thứ nhất, cần thiết phải sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN đối với

các dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn. Theo đó, cần có đầu mối chính theo

dõi việc quản lý các loại dịch vụ này. Đầu mối này không nên phó mặc cho một

sở chuyên ngành như Sở Lao động TBXH như hiện nay, mà nên trực thuộc một

cơ quan tổng hợp như Văn phòng UBND thành phố. Đầu mối này thay mặt

UBND và chịu trách nhiệm trước UBND về việc theo dõi, đôn đốc, phối hợp

hoạt động giữa các cơ quan, ngành liên quan đến XĐGN và cung ứng, sử dụng

dịch vụ cho người nghèo.

Thứ hai, song song với việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức, cần tăng cường

chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan chức năng thực hiện quản lý và cung cấp

các dịch vụ cho người nghèo như Sở Lao động TBXH, Ngân hàng CSXH; tăng

thêm trách nhiệm cho các tổ chức xã hội như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn

Thanh niên, Hội Cựu chiến binh trong việc theo dõi, giám sát việc cung ứng và

sử dụng các DVVL, dịch vụ đào tạo nghề cho người nghèo trên địa bàn. Cần

nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể

và người dân trong việc XĐGN và cung ứng các dịch vụ cho người nghèo trên

địa bàn thành phố.

Thứ ba, bảo đảm sự phối hợp ăn khớp, nhịp nhàng và thực chất giữa các

cấp, các ngành trong việc thực hiện và cung ứng, sử dụng các dịch vụ cho người

nghèo trên cơ sở giao nhiệm vụ rõ ràng và chịu trách nhiệm cụ thể cho từng đầu

mối quản lý. Trên cơ sở đó, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng tổ

chức và cá nhân liên quan đến dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn.

Thứ tư, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ XĐGN các cấp,

đặc biệt là cấp cơ sở. Tăng cường tập huấn và thực hiện chế độ đãi ngộ cho cán

bộ chuyên trách giảm nghèo các cấp từ thành phố đến xã; lựa chọn bố trí cán bộ

phù hợp chuyên môn để triển khai các văn bản, chính sách, chương trình, dự án

XĐGN của Trung ương, thành phố để nâng cao năng lực hoạt động cho các

thành viên Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo và cán bộ làm công tác giảm nghèo

từ thành phố đến quận huyện, xã, phường, thôn, tổ dân phố. Phát huy năng lực,

140

vai trò, trách nhiệm của các thành viên Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo các cấp

trong hoạt động giám sát, đánh giá. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chức

năng liên quan đến dịch vụ cơ bản cho người nghèo như Sở Lao động TBXH, Sở

Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND các quận, huyện, thị xã. Tổ chức kiểm

tra, giám sát, đánh giá việc triển khai, thực hiện các chính sách trợ giúp người

nghèo, hộ nghèo tại quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn.

4.2.4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách giảm nghèo trên địa bàn thành

phố Hà Nội

Cơ chế, chính sách XĐGN nói chung trên địa bàn thành phố cần được

hoàn thiện theo hướng sau:

Thứ nhất, đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện XĐGN.

Xây dựng cơ chế cho các quận, huyện chủ động thực hiện việc lồng ghép

các chương trình, dự án trên địa bàn để tạo ra những chuyển biến đột phá trong

phát triển sản xuất. Phối hợp lồng ghép các chương trình hỗ trợ người nghèo

trong chương trình phát triển KTXH của địa phương để hỗ trợ tốt nhất khả năng

tự vươn lên thoát nghèo, làm giàu của các hộ dân trong mỗi cụm dân cư.

Huy động sự tham gia của người dân vào hoạt động XĐGN bằng cách:

Nhà nước đầu tư, hỗ trợ xây dựng, còn người dân tham gia đóng góp bằng lao

động và các vật liệu sẵn có tại địa phương. Các chương trình, dự án thực hiện ở

địa phương phải thu hút được sự tham gia trực tiếp của những người có uy tín

trong cộng đồng dân cư. Từ đó, cuốn hút sự tham gia đông đảo của người dân,

đặc biệt là người nghèo vào các hoạt động XĐGN trên địa bàn.

Thực hiện phân cấp quản lý linh hoạt phù hợp với trình độ và khả năng

của mỗi cấp, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan. Trong đó, người

nghèo vừa là người hưởng lợi từ các chính sách đồng thời là một trong số các

bên tham gia thực hiện chính sách. Thực hiện phân cấp linh hoạt cho cấp huyện,

cấp xã tùy theo trình độ và năng lực quản lý của mỗi địa phương trong việc

quyết định và thực hiện đầu tư các công trình, dự án trên địa bàn phù hợp với

năng lực quản lý, kết hợp với việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của

141

cộng đồng và các cấp nhằm phát huy dân chủ thực sự ở cơ sở, đảm bảo việc dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Xây dựng các chính sách hỗ trợ nhóm hộ cận nghèo, nhóm hộ mới thoát

nghèo để họ cũng được tiếp tục hưởng chính sách trợ giúp về tín dụng, về khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư học nghề trong một thời gian nhất định để có đủ tiềm lực và vững vàng hơn khi tự vươn lên thoát nghèo, bỏ xa ngưỡng nghèo, tránh tình trạng bị rơi xuống dưới ngưỡng nghèo hoặc tái nghèo khi gặp phải rủi ro (thiên tai, đau ốm, tai nạn...).

Thứ hai, động viên người dân và các cấp tham gia tích cực vào XĐGN. Đẩy mạnh công tác truyền thông giảm nghèo để mọi người cùng hiểu rõ việc thực hiện công tác XĐGN là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và người dân. Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn cho cán bộ cấp xã và người dân hiểu rõ để tham gia và đề xuất những hỗ trợ cần thiết, phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình. Các cấp chính quyền cần chỉ đạo các xã đảm bảo vai trò chủ động và sự tham gia tự giác của những người được hưởng lợi, từ việc xác định nhu cầu cần hỗ trợ, công tác xây dựng và triển khai kế hoạch cũng như việc giám sát triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách và xây dựng các công trình xây dựng cơ bản. Từ đó, xác định nhiệm vụ của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và hộ nghèo, người nghèo trong việc triển khai thực hiện các chính sách. Các cấp ủy Đảng, chính quyền thôn bản, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Mặt trận tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội chữ thập đỏ... theo lĩnh vực hoạt động của mình tổ chức tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức cho người dân, cho các hội viên của mình đồng thời phối hợp để hướng dẫn người dân trao đổi kinh nghiệm làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tổ chức các phong trào thi đua sáng tạo tìm cách làm ăn, giúp đỡ các gia đình vươn lên thoát nghèo.

Tăng cường thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý giúp người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật để tránh bị rơi vào nhóm yếm thế trong xã hội. Người nghèo ở Hà Nội phải được thường xuyên trợ giúp pháp lý để nắm được và hiểu biết rõ pháp luật của Nhà nước trong làm

142

ăn và sinh hoạt để người nghèo Hà Nội đoàn kết, cùng nhau chung sức xây dựng nông thôn mới tại các xã. Trợ giúp pháp lý cũng là để giúp người nghèo nâng cao tinh thần giúp đỡ lẫn nhau nhanh chóng vươn lên thoát nghèo và cùng nhau thụ hưởng thành quả của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Thứ ba, tăng cường kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện những sai

sót, bất cập để có sự điều chỉnh kịp thời hoặc có các biện pháp xử lý, chỉnh đốn

thực hiện nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của các chính

sách để phù hợp với thực tế; có cơ chế khuyến khích các tổ chức đoàn thể,

người dân nhất là bản thân các hộ nghèo tham gia vào quá trình giám sát

thực hiện chính sách.

Thường xuyên đánh giá chính sách để tìm ra những mô hình tốt nhất. Từ

đó đưa ra các chính sách linh hoạt, phát huy được tính chủ động, sáng tạo và

nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương ở các địa bàn khó

khăn, huyện nghèo, xã nghèo với những đặc điểm, điều kiện kinh tế, văn hoá, xã

hội, tập quán và dân trí rất khác nhau.

Thứ tư, tăng cường hỗ trợ các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, xã miền núi, xã

giữa sông, xã, thôn đặc biệt khó khăn.

Theo Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 31/10/2011của Ban Thường vụ

Thành ủy Hà Nội chỉ đạo thực hiện mục tiêu đến năm 2015 đạt được 12 chỉ

tiêu chủ yếu, tuy nhiên, qua khảo sát thực tế và cân đối nguồn lực của thành

phố giai đoạn hiện nay, UBND thành phố xác định một số chỉ tiêu khó đạt

được mục tiêu đề ra theo Nghị quyết, cụ thể như: Tỷ lệ lao động qua đào tạo

đạt trên 50% (đây là chỉ tiêu thành phố phấn đấu đạt được vào năm 2015 tính

chung toàn thành phố, bao gồm cả khu vực các quận nội thành, khu vực phát

triển đô thị; trong khi địa bàn vùng dân tộc thiểu số miền núi hiện đang là khu

vực chậm và kém phát triển); chỉ tiêu giải quyết việc làm mới hàng năm từ

1,5-2 nghìn người, tỷ lệ đường liên thôn, bản, liên xã được nhựa hóa hoặc bê

tông hóa đạt 100%.

143

Vì vậy, để triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 06-NQ/TU về phát triển

KTXH vùng dân tộc thiểu số miền núi của Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011-2015

cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:

- Nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả, ưu tiên các xã nghèo, xã

miền núi, xã, thôn ở vùng có điều kiện KTXH đặc biệt khó khăn. Giảm hộ nghèo

bình quân 1,5-1,8% năm, đến năm 2015 số hộ nghèo giảm còn dưới 8%;

- Hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo thuộc các xã vùng dân tộc

và miền núi khó khăn, xã, thôn đặc biệt khó khăn để mua sắm nguyên vật liệu,

vật tư phục vụ sản xuất và đời sống. Mức hỗ trợ 150.000 đồng/người/năm (đối

với xã khu vực II) và 200.000 đồng/người/năm (đối với xã khu vực III).

4.2.5. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc phát triển các dịch vụ cơ

bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế dân chủ và chế độ thủ

trưởng trong các cơ quan hành chính công. Phân cấp mạnh hơn nữa và trao

quyền chủ động cho các cơ quan chính quyền địa phương, ban ngành. Đề cao

trách nhiệm của người đứng đầu, đồng thời với tăng cường trách nhiệm của thủ

trưởng đơn vị. Thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc thực

hiện công vụ và chịu trách nhiệm về những vi phạm trong thực hiện công vụ của

cán bộ, công chức thuộc phạm vi mình quản lý.

Phát huy tinh thần trách nhiệm, tính năng động sáng tạo của chính quyền

địa phương trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi

cấp trong bộ máy chính quyền đồng thời xây dựng hành lang pháp lý để đảm bảo

sự thống nhất. Từng thành viên UBND thành phố thủ trưởng các sở ban ngành,

chủ tịch các Quận, Huyện, Thị xã được giao trách nhiệm đối thoại, tháo gỡ các

khó khăn liên quan đến thủ tục DVCB.

Xây dựng quy chế làm việc mẫu của UBND các cấp. Quy rõ trách nhiệm

cá nhân, lãnh đạo nếu để xảy ra vi phạm ở đơn vị mình, xử lý kỷ luật kịp thời

những cán bộ công chức vi phạm. Công bố công khai các số điện thoại, đường

144

dây nóng, địa chỉ hộp thư điện tử của các cơ quan, đơn vị, tổ chức mình để tiếp

nhận góp ý về quy trình thủ tục, các thông tin vướng mắc của cá nhân, tổ chức

với những việc làm sai trái, sách nhiễu, tiêu cực gây phiền hà của cán bộ công

chức. Phân công trách nhiệm cụ thể trong việc theo dõi ghi nhận đầy đủ các

thông tin góp ý, xây dựng quy chế nhằm thẩm tra, xác minh, xử lý kịp thời và

công bố công khai kết quả xử lý.

Thành phố cần chú trọng hơn công tác xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh

tra trong từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể:

Một là, đối với dịch vụ tài chính vi mô. NHNN chi nhánh thành phố Hà

Nội cần tăng cường hơn nữa việc xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra các

Ngân hàng, tổ chức tín dụng chính thức… trong việc cung ứng dịch vụ tài chính

đối với người nghèo, nhất là trong bối cảnh tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng ngày

càng cao. Trong đó, kiểm tra tập trung, chuyên sâu tại Ngân hàng CSXH. Đồng

thời, UBND thành phố chỉ đạo các cơ quan: Công an thành phố chủ trì, phối hợp

với NHNN chi nhánh thành phố Hà Nội cùng UBND các quận, huyện, thị xã

trên địa bàn cần kiểm tra, điều tra việc một số tổ chức, cá nhân thuộc khu vực tín

dụng “đen”, một số tổ chức tiệm cầm đồ trá hình cho vay nặng lãi… để kịp thời

phát hiện, xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định liên quan đến hoạt

động tổ chức tín dụng.

Hai là, đối với DVVL. Đây là dịch vụ đã xuất hiện khá lâu tại địa bàn

thành phố và ngày càng được coi trọng về nâng cao chất lượng dịch vụ. Cùng

với nhu cầu về việc làm ngày càng tăng, cầu lao động có tăng nhưng không đồng

tốc, nên rủi ro cũng lớn hơn đối với người lao động, nhất là đối tượng người

nghèo. Vì thế, công tác kiểm tra cũng quan trọng hơn. Không chỉ kiểm tra định

kỳ, mà thành phố phải tăng cường công tác kiểm tra đột xuất, nhất là trong thời

điểm cầu lao động tăng cao. Kế hoạch kiểm tra không chỉ tập trung vào các

Trung tâm DVVL ở khu vực trung tâm mà còn phải chú trọng đến địa bàn vùng

sâu, xa, nơi có nhiều người nghèo nhưng lại thiếu nhiều thông tin về việc làm.

145

Thứ hai, bổ sung chế tài vào quy định QLNN về công chức.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra phát hiện những bất cập và xử lý kịp thời.

Đánh giá thường xuyên, sơ kết tổng kết uốn nắn những hành vi không đúng mực.

Tạo cơ sở pháp luật và sự giám sát trực tiếp của người dân đối với hoạt động của

bộ máy hành chính, tăng cường các hình thức dân chủ để người dân tham gia

trực tiếp vào công việc hành chính ngày càng thực chất, có hiệu qủa, đảm bảo

người dân, các tổ chức, doanh nghiệp được tham gia vào quá trình xây dựng

pháp luật và thực hiện pháp luật.

Tăng cường cơ chế tiếp nhận thông tin phản hồi, tổ chức tiếp thu ý kiến

định kỳ, tham vấn, đưa ý kiến của người dân, tổ chức, doanh nghiệp vào luật

pháp. Các quan hệ xã hội dân sự, pháp luật phải được chuyển từ kiểm soát ra

lệnh, theo hàng dọc từ trên xuống sang xây dựng mối quan hệ tương tác ngang

dưới dạng đối tác.

Đưa ra chế tài nhằm xử lý nghiêm những cá nhân và tổ chức tuỳ tiện đặt

ra các quy định trái pháp luật, trái thẩm quyền, các hành vi nhũng nhiễu, gây

phiền hà cho nhân dân trong quá trình cung cấp DVCB; hạn chế tối đa các oan

sai và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quá trình công

chức thi hành công vụ.

Thứ ba, tăng cường giám sát của HĐND các cấp.

Theo quy chế hoạt động của HĐND các cấp, được ban hành theo nghị

quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11, ngày 02/04/2005 trong chương IV đã đưa

ra các hướng dẫn thực hiện các hoạt động giám sát nói chung của HĐND tại địa

phương. Điều 51 quy định, HĐND các cấp hàng năm lên chương trình dự kiến

các hoạt động giám sát dựa trên các đề nghị của các Ban của HĐND, Ban

Thường trực UB Mặt trận tổ quốc Việt Nam và kiến nghị của cử tri ở địa phương

về nội dung giám sát của HĐND.

Mục đích quan trọng hoạt động giám sát của HĐND là đánh giá thực

trạng, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, trách nhiệm, từ đố đề xuất kiến nghị

các cơ quan liên quan giải quyết khắc phục hạn chế. Vì vậy, để làm tốt hơn công

146

tác QLNN đối với một số dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn thành phố thì

thời gian tới HĐND thành phố Hà Nội nên đưa ra định hướng giám sát hoạt

động cung cấp dịch vụ đối với ngừoi nghèo để HĐND các cấp quận/ huyện và

xã/phường thực hiện giám sát tại cơ sở và HĐND thành phố trực tiếp giám sát

nội dung này ở cấp thành phố. Lấy kết quả hoạt động giám sát, cùng với kết quả

kiểm tra, thanh tra của các ngành chức năng làm căn cứ để đánh giá chất lượng,

hiệu quả hoạt động QLNN đối với dịch vụ cho người nghèo. Trong trường hợp

cần thiết HĐND sẽ thực hiện tái giám sát việc thực hiện các kiến nghị của Đoàn

giám sát nếu các kiến nghị không được cơ quan nhà nước thực hiện hoặc thực

hiện không hiệu quả.

Bên cạnh việc trực tiếp giám sát, thực hiện quy chế phối hợp công tác

giữa Thường trực HĐND thành phố với Kiểm toán Nhà nước, Ban Kinh tế và

Ngân sách cần đề nghị Kiểm toán Nhà nước khu vực 1 thực hiện kiểm toán

chuyên đề các chương trình, kế hoạch chi NSNN cho việc cung cấp DVVL, đào

tạo nghề, tín dụng ưu đãi cho người nghèo trên địa bàn thành phố để phát hiện

những bất cập, thậm trí sai phạm cần xử lý, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

nguồn vốn ngân sách thành phố cho công tác này, qua đó góp phần nâng cao chất

lượng hoạt động QLNN đối với dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn thành phố.

147

KẾT LUẬN

Đói nghèo luôn là vấn đề được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, đặc

biệt đối với Việt Nam. XĐGN là quan điểm định hướng xuyên suốt của Đảng và

Nhà nước Việt Nam trong quá trình phát triển KTXH đất nước từ nhiều năm qua

và trong thời gian tới.

Hà Nội với vị thế là Thủ đô, trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của cả

nước, bên cạnh những điều kiện thuận lợi để phát triển KTXH thì vấn đề đói

nghèo hiện hữu, là thách thức đối với chính quyền Thủ đô trong quá trình chỉ

đạo điều hành phát triển KTXH bền vững. Bên cạnh những thành tựu đạt được,

QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn

thành phố Hà Nội vẫn còn những hạn chế nhất định. Các vấn đề xã hội và phân

hóa giàu nghèo cũng càng ngày trở nên sâu sắc hơn. Điều này tiềm ẩn nguy cơ

gây bất ổn định về các mặt chính trị - KTXH. Điều đó đặt ra nhiệm vụ cùng với

sự chuyển đổi hệ thống kinh tế, việc QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội

nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo sẽ vẫn là vấn đề bức xúc

của Hà Nội, đặc biệt sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.

Việc nghiên cứu những khía cạnh lý luận và thực tiễn cũng như tìm ra các

giải pháp nâng cao vai trò QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội nhằm phát

triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội có

một ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trên cơ sở khung lý thuyết, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của

Hà Nội, tác giả đã lựa chọn phạm vi nghiên cứu dịch vụ có ý nghĩa quan trọng

đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội gồm dịch vụ tài chính và

dịch vụ việc làm đối với người nghèo. Tác giả đã hệ thống hóa và phân tích cơ

sở lý luận của QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo;

Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với dịch vụ tài chính và dịch vụ việc

làm đối với người nghèo; đề xuất phương hướng, mục tiêu và giải pháp hoàn

148

thiện QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người trên địa bàn thành

phố Hà Nội trong thời gian tới.

Với mục tiêu nghiên cứu đặt ra là tìm ra các giải pháp hoàn thiện QLNN

nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố

Hà Nội, luận án đã giải quyết những nội dung cơ bản sau:

- Về mặt lý luận, đã hệ thống hóa và bổ sung những vấn đề lý luận của

QLNN nhằm phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo.

- Về mặt thực tiễn, Luận án đã khái quát được thực trạng QLNN nhằm

phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội,

trong đó tập trung vào việc đánh giá hai dịch vụ cơ bản là dịch vụ tài chính và

dịch vụ việc làm đối với người nghèo.

- Dựa trên cơ sở lý luận và phân tích tình hình thực tiễn, đề xuất phương

hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN của chính quyền thành phố Hà Nội nhằm

phát triển các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội

đến năm 2020./.

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phạm Thị Thanh Mai (2005), “Kinh nghiệm quốc tế trong việc cung ứng

dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo”, Tạp chí Thương mại, (8), tr.22-25.

2. Phạm Thị Thanh Mai (2011), “Người nghèo và vấn đề tiếp cận các dịch vụ

cơ bản”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (24), tr.37-39.

3. Phạm Thị Thanh Mai (2012), “Vai trò của Chính phủ trong cuộc chiến đói

nghèo: Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và

Phát triển, (11), tr.87-91.

4. Phạm Thị Thanh Mai (2012), “Chính sách xóa đói giảm nghèo và an sinh xã

hội ở vùng đặc biệt khó khăn”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán, (12),

tr.19-22.

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Hà An, Xuân Bùi (2014), Chạy hộ nghèo, Trang Thanh niên điện tử http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141016/chay-ho-ngheo.aspx, [truy cập ngày 16/10/2014].

2. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2010), Tiếp tục cải cách và đổi mới khu vực tổ chức sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ giáo dục và y tế ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

3. Vũ Quốc Bình (2011), Một số giải pháp đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn Hà Nội tới năm 2020, Báo cáo khoa học đề tài cấp thành phố, Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH Hà Nội.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo của

Việt Nam 2006-2010, Hà Nội.

5. Bộ Lao động - TBXH (2002), Quyết định số 587/2002/QĐ-BLĐTBXH ngày 22/5/2002 về ban hành tiêu chuẩn xã nghèo giai đoạn 2001-2005, Hà Nội. 6. Bộ Lao động - TBXH (2003), Kỷ yếu hội nghị sơ kết ba năm thực hiện

chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

7. Bộ Lao động TBXH (2004), Số liệu thống kê xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 và 2001-2003, Chương trình hợp tác Việt - Đức về xóa đói giảm nghèo, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

8. Bộ Lao động TBXH - Tổng cục Dạy nghề (2007), Phát triển dạy nghề, tạo

việc làm và hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng yếu thế giai đoạn 2006-2015, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.

9. Bộ Lao động TBXH (2007), Hoàn thiện chế độ, cơ chế tài chính trợ cấp tại

cộng đồng cho đối tượng xã hội, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.

10. Bộ Lao động TBXH - Văn phòng điều phối chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 (2008), Hệ thống các chính sách giảm nghèo, Nxb Lao động -Xã hội, Hà Nội.

151

11. Bộ Lao động TBXH (2000), Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH của Bộ LĐ-

TB&XH ngày 01/11/2000, về việc điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai

đoạn 2001-2005.

12. Bộ Lao động TBXH (2013), Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến về giảm nghèo

bền vững, ngày 22/4/2013.

13. Nguyễn Văn Châu (2002), Công bằng xã hội trong lĩnh vực chăm sóc y tế cho dân nghèo thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, luận văn tốt nghiệp lớp Cử nhân chính trị khóa VI, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

14. Chính phủ (2005), Nghị định số 28/2005/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ ở Việt Nam, ngày 09/03/2005. 15. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 30A/2008/NQ-CP về Chương trình giảm

nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, ngày 8/7/2005.

16. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) - Cục Thống kê thành phố Hà Nội - Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2010), Đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. 17. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) (2011), Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người, Báo cáo quốc gia về phát triển con người năm 2011, Hà Nội.

18. Nguyễn Thành Công (2010), Giải pháp thực hiện hiệu quả thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Cục Thống kê Hà Nội (2004), Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp năm

2003 thành phố Hà Nội, Nxb thống kê, Hà Nội.

20. Cục Thống kê Hà Nội, Niên giám thống kê các năm từ 2000 đến 2011, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

21. Cục Thống kê Hà Nội, Niên giám thống kê năm 2001, Nxb Thống kê, Hà Nội. 22. Cục Thống kê Hà Nội, Niên giám thống kê năm 2002, Nxb Thống kê, Hà Nội. 23. Cục Thống kê Hà Nội, Niên giám thống kê năm 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội. 24. Cục Thống kê Hà Nội (2008), Báo cáo khảo sát, điều tra mức sống hộ gia

đình, Hà Nội.

152

25. Cục Thống kê Hà Nội, Báo cáo điều tra hộ nghèo, cận nghèo thành phố Hà

Nội năm 2009, 2010, 2011, Hà Nội.

26. Đàm Viết Cường (Chủ nhiệm) (2005), Tác động của Qũi khám chữa bệnh

cho người nghèo đối với hộ gia đình tại hai tỉnh Hải Dương và Bắc

Giang, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, tỉnh Hải Dương, Bắc Giang.

27. Nguyễn Đình Dương, Nguyễn Thành Công, (2011), Các giải pháp chủ yếu

để Hà Nội cơ bản hoàn thành công nghiệp hóa theo hướng hiện đại

hóa vào năm 2018, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2010),

Xóa đói giảm nghèo ở Malaysia và Thái Lan - Bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng bộ thành phố Hà Nội (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành

phố Hà Nội lần thứ XIII, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Trang tin điện tử về Cải cách hành chính Nhà nước, Bộ Nội vụ,

Hà Nội.

33. Nghiêm Xuân Đạt, Vũ Trọng Lâm (2000), “Thất nghiệp và thiếu việc làm ở Hà

Nội, nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (268).

34. Hoàng Văn Giang (2012), Hoàn thiện quản lý nhà nước của thành phố Hà Nội

đối với cung ứng nước sạch ở các vùng nông thôn trong điều kiện hiện

nay, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Thương mại Hà Nội.

35. Đỗ Thị Hải Hà (2007), Quản lý nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công,

Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

153

36. Lệ Hằng (2014), “Kiểm tra tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi

người có công triên địa bàn thành phố: nghiêm túc, kịp thời, đúng chế

độ”, Trang Thông tin điện tử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố

Hà Nội http://www.mttqhanoi.org.vn, ngày 307/2014.

37. Hoàng Văn Hoa (2007), Đô thị hoá và lao động việc làm ở Hà Nội, Nxb Lao

động Xã hội, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Hoa (2009), Hoàn thiện một số chính sách xóa đói giảm nghèo

chủ yếu của Việt Nam đến năm 2015, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại học

Kinh tế quốc dân Hà Nội.

39. Đinh Phi Hổ, Lê Ngọc Uyển, Lê Thị Thanh Tùng (2009), Kinh tế phát triển: Lý

thuyết và thực tiễn, Nxb Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh.

40. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2011), Nghị quyết số 06/NQ-HĐND

ngày 15/7/2011 về kế hoạch phát triển KTXH của thành phố Hà Nội 5 năm

2011-2015.

41. Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ (1999), Báo cáo phát triển Việt Nam 2000:

Việt Nam tấn công đói nghèo, Hà Nội.

42. Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ (2002), Báo cáo phát triển Việt Nam 2003:

Việt Nam thực hiện cam kết, Hà Nội.

43. Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ (2003), Báo cáo phát triển Việt Nam 2004:

Nghèo, Hà Nội.

44. Fiona Howell (2003), Bình đẳng trong lao động và Bảo trợ xã hội cho phụ nữ

và nam giới ở khu vực kinh tế chính thức và không chính thức: Những

phát hiện phục vụ xây dựng chính sách, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

45. Phạm Mạnh Hùng (Chủ nhiệm), Phân tích thực trạng chi phí trong điều trị

nội trú của bệnh nhân nghèo 139 tại 3 bệnh viện Ung bướu, Nhi, và

Phụ sản Trung ương, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Hà Nội.

46. Đào Văn Hùng (2000), Các giải pháp tín dụng đối với người nghèo ở Việt Nam

hiện nay, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

154

47. Nguyễn Thu Hương, Một số giải pháp tài chính nhà nước thực hiện XĐGN

trên địa bàn Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh

tế quốc dân, Hà Nội.

48. Hoa Hữu Lân (2011), Đề xuất tiêu chí hộ nghèo và chỉ tiêu giảm nghèo thành

phốHà Nội đến năm 2015, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố, Viện

Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội, Hà Nội.

49. Joanna Ledgerwood, (2001), Cẩm nang hoạt động tài chính vi mô, Nhìn

nhận từ giác độ tài chính và thể chế, Nxb Thống kê, Hà Nội.

50. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Minh Hòa (2003), Đồng tham gia trong giảm nghèo

đô thị, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

51. Phạm Minh Liên (2008), Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội

trong quá trình đô thị hóa, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế quốc dân.

52. Liên Hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển con người 2001, Hà Nội. 53. Liên Hợp quốc Việt Nam, Bộ Lao động TBXH (1999), Dịch vụ xã hội cơ

bản ở Việt Nam - Phân tích chi ngân sách nhà nước và viện trợ phát

triển chính thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Liên Hợp quốc, Bộ Lao động TBXH (2001), Việt Nam hướng tới 2010, tập 1,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

55. Liên Hợp quốc, Bộ Lao động TBXH (2001), Việt Nam hướng tới 2010, tập 2,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

56. Johanne Loh (2013), “Nghiên cứu về người nghèo ở Hà Nội”, Tạp chí Văn hoá

Nghệ An điện tử, trang http://www.vanhoanghean.com.vn, [truy cập ngày 04/02/2013].

57. Ngân hàng Chính sách xã hội, Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động 2003-

2012, Hà Nội.

58. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh thành phố Hà Nội (2011), Hoạt

động tín dụng góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế

ngoại thành thủ đô Hà Nội, Dự án khoa học cấp ngành, Hà Nội.

155

59. Ngân hàng Phát triển Châu Á, Bộ Lao động TBXH (2001), Vốn nhân lực

cho người nghèo ở Việt Nam - Tình hình và các lựa chọn về chính

sách, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

60. Ngân hàng Thế giới (1995), Đánh giá tình trạng nghèo trên thế giới, Hà Nội.

61. Ngân hàng Thế giới (1997), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi,

Báo cáo tình hình phát triển kinh tế thế giới, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

62. Ngân hàng Thế giới (1999), Việt Nam: Tiếng nói của người nghèo, Tổng

hợp từ đánh giá nghèo đói có sự tham gia của cộng đồng, Hà Nội.

63. Ngân hàng Thế giới (2000), Báo cáo tình hình phát triển thế giới

2000/2001: tấn công nghèo đói, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Ngân hàng Thế giới (2003), Báo cáo phát triển Thế giới 2004: Cải thiện các

dịch vụ để phục vụ người nghèo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Ngân hàng Thế giới (2004), Tiêu điểm: Đẩy mạnh Xoá đói giảm nghèo - Bài

học và thách thức từ Trung Quốc, Inđônêxia, Hàn quốc và Malayxia,

Cập nhật báo cáo về Đông Á, Hà Nội.

66. Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Báo cáo phát triển Việt Nam 2002: Thực

hiện cải cách để tăng trưởng và giảm nghèo nhanh hơn, Trung tâm

Thông tin phát triển Việt Nam, Hà Nội.

67. Ngân hàng Thế giới, Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, Vụ Khu vực 1

(1995), Việt Nam - Đánh giá sự nghèo đói và chiến lược, Hà Nội.

68. Ngân hàng Thế giới, Vùng Đông Á và Thái Bình Dương, Vụ Quốc gia I

(1996), Nghiên cứu tài chính cho giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

69. Hoàng Xuân Nghĩa (Chủ nhiệm) (2007), Thực trạng và giải pháp giải

quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp ở Hà Nội, Đề tài nghiên

cứu, mã số: TC-XH/11-06-2, Hà Nội.

70. Hoàng Thị Thúy Nguyệt (2003), “Bàn về vai trò nhà nước trên thị trường

dịch vụ y tế”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (300).

156

71. Quỹ Cứu trợ nhi đồng Anh, Ngân hàng Thế giới, ActionAid, Tổ chức Cứu trợ và phát triển, Tổ chức Plan tại Việt Nam, Oxfam Anh (2002), Cùng người nghèo hoàn thiện chính sách, Tham vấn cộng đồng về dự thảo

chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam, tập 1, Hà Nội.

72. Quỹ Cứu trợ nhi đồng Anh, Ngân hàng Thế giới, ActionAid, Tổ chức cứu trợ và phát triển, Tổ chức Plan tại Việt Nam, Oxfam Anh, Edwin Shanks và Carrie Turk (2002), Các đề xuất của người nghèo về chính sách, tham vấn cộng đồng về dự thảo chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam, tập 2, Hà Nội. 73. Quỹ Cứu trợ nhi đồng Anh, Ngân hàng Thế giới, ActionAid, Tổ chức cứu trợ và phát triển, Tổ chức Plan tại Việt Nam, Oxfam Anh (2002), Ý

kiến của cộng đồng về chiến lược giảm nghèo, tham vấn cộng đồng về

dự thảo chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam, tập 3, Hà Nội.

74. Paul Samuelson, William D.Nordhaus (1989), Kinh tế học, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

75. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (2002), Báo cáo tổng kết năm học 1999-

2000 và 2000-2001, Hà Nội.

76. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (2002), Đề án: Xã hội hóa Giáo dục đào tạo

Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Hà Nội.

77. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (2002), Phổ cập trung học ở Thủ đô Hà Nội

đến năm 2005, Hà Nội.

78. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (2002), Qui hoạch phát triển giáo dục đào tạo

Thủ đô Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

79. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội (2003), Báo cáo Tình hình 4 năm thực hiện

Luật Doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, Hà Nội.

80. Sở Lao động, TBXH Hà Nội (2001), Báo cáo hiện trạng hộ nghèo theo

chuẩn mới, Hà Nội.

81. Sở Lao động, TBXH Hà Nội (2001), Báo cáo Kết quả giải quyết việc làm và

xuất khẩu lao động năm 2000, Mục tiêu, giải pháp năm 2001, Hà Nội.

157

82. Sở Lao động, TBXH Hà Nội (2001), Báo cáo nhanh số liệu trẻ em có hoàn

cảnh đặc biệt khó khăn năm 2001, Hà Nội.

83. Sở Lao động, TBXH Hà Nội (2002), Báo cáo Chương trình Xóa đói giảm

nghèo thành phố Hà Nội năm 2002, Hà Nội.

84. Sở Lao động, TBXH Hà Nội (2004), Báo cáo Kết quả xuất khẩu lao động của

các doanh nghiệp đóng trên địa bàn Hà Nội, Hà Nội.

85. Sở Lao động, TBXH Hà Nội (2003), Qui hoạch phát triển ngành Lao động

TBXH Hà Nội đến năm 2010, Hà Nội.

86. Sở Y tế Hà Nội (2001), Báo cáo hoạt động hưởng ứng “Tháng vì người

nghèo” năm 2001, Hà Nội.

87. Sở Y tế Hà Nội (2003), Qui hoạch tổng thể phát triển sự nghiệp chăm sóc và

bảo vệ sức khỏe nhân dân Hà Nội đến năm 2010, Hà Nội.

88. Đỗ Thanh Sơn, Giải pháp tài chính cho XĐGN ở Hà Nội giai đoạn 2009-

2010, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

89. Joseph E.Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học và Kỹ thuật,

Hà Nội.

90. Bạch Thanh (2012), "Ngân hàng CXSH: hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo",

Báo Hà Nội mới điện tử http://hanoimoi.com.vn/, ngày 08/08/201

91. Lê Thị Kim Thu (2002), Thực hiện chính sách Bảo hiểm Y tế ở thành phố Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị khóa VI, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 92. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/07/1998 về

việc phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.

93. Thủ tướng Chính phủ (2002), Công văn số 2685/VPCP-QHQT ngày 21/5/2002

và Công văn số 1649/CP-QHQT ngày 26/11/2003 phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. 94. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 08/07/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010.

158

95. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 04/2008/CT-TTg ngày 25/1/2008 về

việc tăng cường chỉ đạo thực hiện các chương trình giảm nghèo.

96. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015. 97. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1081/2011/QĐ-TTg ngày 06/07/2011

phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH Hà Nội đến 2020, định hướng đến 2030.

98. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 15/10/2012

về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015.

99. Bùi Thu Thủy (2008), Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, kinh nghiệm và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

100.Vĩnh Thanh (2011), “Chuẩn nghèo, cận nghèo của thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015”, Báo điện tử Chính phủ, trang http://baodientu.chinhphu.vn, [truy cập ngày 18/01/2011].

101. Thành phố Hà Nội, Văn bản pháp quy về tín dụng cho người nghèo giai

đoạn 2008-2011.

102. Nguyễn Tiệp (2005), Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô

thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.

103.Tổng cục Thống kê (2004), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm

2002, Nxb Thống kê, Hà Nội.

104.Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm từ 2008 đến 2011, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

105.Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê, trang http://www.gso.gov.vn/, [truy

cập ngày 25/3/2012].

106.Hoàng Việt Trung (2011), Hoạt động tín dụng góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành thủ đô Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Ngân hàng Chính sách xã hội, chi nhánh thành phố Hà Nội.

159

107.Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (2001), Báo cáo phát

triển con người Việt Nam 2001 - Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 108.UNDP (1995), Xóa đói giảm nghèo Việt Nam, Hà Nội. 109. UNDP (2003), Đánh giá nghèo theo vùng tại đồng bằng Sông Hồng, Hà Nội. 110. UBND thành phố Hà Nội (2003), Báo cáo Quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội đến năm 2010, Hà Nội.

111.UBND thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo số liệu hộ nghèo, cận nghèo Theo chuẩn nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015, Hà Nội. 112.UBND thành phố Hà Nội (2009), Quyết định số 1592/QĐ-UBND ngày

07/09/2009 về việc ban hành chuẩn nghèo, cận nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2009-2013, Hà Nội.

113.UBND thành phố Hà Nội (2011), Quyết định số 01/2011/QĐ-UBND ngày

10/01/2011 về việc ban hành Chuẩn nghèo, cận nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.

114. UBND thành phố Hà Nội (2011), Kế hoạch số 24/KH-UBND ngày

28/1/2011 về Thực hiện Mục tiêu giảm nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.

115.UBND thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 41/QĐ-UBND ngày

25/9/2013 về việc hỗ trợ học nghề, tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.

116.UBND thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH Hà Nội đến 2020, định hướng đến 2030, Hà Nội. 117.Hoàng Thu Vân (2013), “Chính sách ưu đãi của Nhà nước phải đến được với người dân”, Hà Nội Mới điện tử, trang http://hanoimoi.com.vn, [truy cập ngày 23/12/2012].

118. Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội (2002), Nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội của người nghèo thành thị Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố, Hà Nội.

160

Tài liệu tiếng Anh

119. Center for Good Governance Hyderabad (2010), Development of Basic

Servicer for urban poor (BSUP) fund in urban local bodier, Hyderabad.

120. Harold R. Kerbo (2006), World Poverty Global Inequality and the Modern

World System, California Polytechnic State University, Mc Graw Hill.

121.Nguyen Thị Hoa (2000), Review of poverty situation an some policy

recommendations to enhance hunger and eradication and poverty reduction in rural area in Vietnam up to year 2010, Thesis of Master in public management and Economics, Hanoi.

122.The World Bank in Vietnam (1998), Vietnam rising to the challenge, Consultative Group Meeting for Vietnam, An Economic Report of the

World Bank, Hanoi.

123.The World Bank Washington, D.C (2000), Voice for the World’s Poor,

Washington.

124.The World Bank Washington, D.C (2007), Access to Financial Services in Nepal, Aurora Ferrari, Guillemette Jafrin and Sabin Raj Shrestha, Washington.

125.United Nations, Economic and Social Commission for Asia and the Pacific

(1996), Towards social security for the poor in the Asia-Pacific Region, New York.

126. WB (2010), Water supply and sanitation in the People‘s Republic of China. 127.Wang Zhenyu (2007), China's Water Mannagement in Rural Areas.

161

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XHH VỀ DỊCH VỤ VÀ QLNN

ĐỐI VỚI CÁC DỊCH VỤ CHO NGƯỜI NGHÈO Ở HÀ NỘI

1. Mô tả điều tra

- Mục đích điều tra: Để tìm hiểu nhu cầu và mức độ cung cấp dịch vụ cho

người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Đối tượng điều tra: Theo giới tính (nam, nữ); theo tuổi tác (từ 15 - 20, từ

20 - 30, từ 30 - 40, từ 40 - 50, trên 50); theo ngành nghề lao động (làm nông nghiệp;

cán bộ, công chức; viên chức; doanh nhân; khác).

- Phương thức điều tra: Mẫu phiếu hỏi (điều tra) với 2 nhóm câu hỏi: thông

tin cá nhân; ý kiến về dịch vụ cho người nghèo.

- Số phiếu thu được

TT

Địa bàn phát phiếu

Số phiếu phát ra

Số phiếu thu về

1

130

126

Huyện Sóc Sơn

2

130

115

Huyện Ba Vì

3

120

104

Huyện Thanh Trì

4

100

87

Quận Hoàng Mai

5

130

122

Huyện Ứng Hòa

6

100

94

Huyện Mỹ Đức

7

100

97

Sở Nông nghiệp và PTNT

8

100

92

Sở Lao động TBXH

9

10

8

Viện Nghiên cứu PTKTXH

920

845

Tổng cộng

162

2. Kết quả xử lý

Câu 1: Thông tin cá nhân

- Cơ cấu độ tuổi trong điều tra

Cumulative

Độ tuổi

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

1.2

1.2

15-20

4

1.2

13.4

14.6

20-30

43

12.5

29.9

44.5

30-40

96

27.8

Valid

38.3

82.9

40-50

123

35.7

17.1

100.0

>50

55

15.9

100.0

Total

321

93.0

Missing

System

24

7.0

Total

345

100.0

- Giới tính:

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

58.6

58.6

nam

197

57.1

Valid

41.4

100.0

nu

139

40.3

100.0

Total

336

97.4

Missing

System

9

2.6

Total

345

100.0

- Cơ cấu về nghề nghiệp:

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

nongnghiep

194

56.2

59.9

59.9

Canbo-Congchuc

28.7

99

30.6

90.4

Vienchuc

4.3

15

4.6

95.1

Valid

Doanhnhan

.3

1

.3

95.4

Khac

4.3

15

4.6

100.0

Total

93.9

324

100.0

Missing

System

6.1

21

Total

100.0

345

163

Câu II. 1. Ý kiến về số hộ nghèo so với hộ gia đình ở địa phương

Cumulative

Nhận định

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

về số hộ nghèo

185

53.6

54.6

54.6

<5%

33

9.6

9.7

64.3

5%-10%

Valid

121

35.1

35.7

100.0

>10%

339

98.3

100.0

Total

6

1.7

Missing

System

345

100.0

Total

Câu II.2.

Đã nhận dịch vụ

Nhanvon

NhanVL

Nhannuocsach

NhanDVYte

Nhanhotronha Nhandichvukhac

Valid

343

130

343

342

106

6

N

Missing

2

215

2

3

239

339

Tỷ lệ nhận hỗ trợ về vốn

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

conhan

296

85.8

86.3

86.3

Valid

chuanhan

47

13.6

13.7

100.0

Total

343

99.4

100.0

Missing

System

2

.6

Total

345

100.0

Tỷ lệ nhận hỗ trợ việc làm

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Daotaonghe

109

83.8

83.8

31.6

GioithieuVL

17

13.1

96.9

4.9

Valid

XuatkhauLD

4

3.1

100.0

1.2

Total

130

100.0

37.7

Missing

System

215

62.3

Total

345

100.0

164

Tỷ lệ nhận nước sạch:

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

47.8

47.8

nhan

164

47.5

Valid

52.2

100.0

khongnhan

179

51.9

100.0

Total

343

99.4

Missing

System

2

.6

Total

345

100.0

Tỷ lệ nhận dịch vụ y tế

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

92.4

91.6

92.4

Conhan

316

Valid

7.6

7.5

100.0

Khongnhan

26

100.0

99.1

Total

342

.9

Missing

System

3

100.0

Total

345

Nhận hỗ trợ nhà

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Xaydungmoi

26

7.5

24.5

24.5

Valid

Suachua,nangcap

80

23.2

75.5

100.0

Total

106

30.7

100.0

Missing

System

239

69.3

Total

345

100.0

Nhận dịch vụ khác

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

1.00

5

1.4

83.3

83.3

Valid

2.00

1

.3

16.7

100.0

Total

6

1.7

100.0

Missing

System

339

98.3

Total

345

100.0

165

Case Processing Summary

Cases

Missing

Valid

Total

N

Percent

N

Percent

N

Percent

321

93.0%

24

7.0%

345

100.0%

tuoi * Nhanvon

35.1%

224

64.9%

121

345

100.0%

tuoi * NhanVL

321

93.0%

24

7.0%

345

100.0%

tuoi * Nhannuocsach

320

92.8%

25

7.2%

345

100.0%

tuoi * NhanDVYte

96

27.8%

249

72.2%

345

100.0%

tuoi * Nhanhotronha

6

1.7%

339

98.3%

345

100.0%

tuoi * Nhandichvukhac

tuoi * Nhanvon Crosstabulation

Count

Nhanvon

Total

conhan

chuanhan

15-20

4

0

4

20-30

35

8

43

tuoi

30-40

83

13

96

40-50

110

13

123

>50

47

8

55

Total

279

42

321

tuoi * NhanVL Crosstabulation

Count

NhanVL

Total

Daotaonghe

GioithieuVL

XuatkhauLD

3

15-20

2

1

0

25

20-30

21

3

1

tuoi

41

30-40

29

10

2

41

40-50

39

2

0

11

>50

10

0

1

121

Total

101

16

4

166

tuoi * Nhannuocsach Crosstabulation

Count

Nhannuocsach

Total

nhan

khongnhan

15-20

1

3

4

20-30

18

25

43

tuoi

30-40

43

53

96

40-50

79

44

123

>50

12

43

55

Total

153

168

321

tuoi * NhanDVYte Crosstabulation

Count

NhanDVYte

Total

Conhan

Khongnhan

15-20

4

0

4

20-30

37

6

43

tuoi

30-40

90

6

96

40-50

118

5

123

>50

49

5

54

Total

298

22

320

tuoi * Nhanhotronha Crosstabulation

Count

Nhanhotronha

Total

Xaydungmoi Suachua,nangcap

15-20

1

1

2

20-30

5

8

13

tuoi

30-40

10

27

37

40-50

7

21

28

>50

3

13

16

Total

26

70

96

167

tuoi * Nhandichvukhac Crosstabulation

Count

Nhandichvukhac

Total

1.00

2.00

30-40

1

1

2

tuoi

40-50

2

0

2

>50

2

0

2

Total

5

1

6

II.3. Dịch vụ nào cần thiết cho người nghèo

Cankhac

Capvontin dung

Candaota onghe

Cangioithie uvieclam

Canxuatkhau LD

Cannuocs ach

Candichv uyte

Canhotro nha

Valid

334

316

315

271

328

328

328

328

N

Missing

11

29

30

74

17

17

17

17

Cần vốn tín dụng

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative

Percent

73.7

Ratcanvon

246

71.3

73.7

Valid

100.0

Canvon

88

25.5

26.3

Total

334

96.8

100.0

Missing

System

11

3.2

Total

345

100.0

Cần đào tạo nghề

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Ratcannghe

221

64.1

69.9

69.9

Cannghe

93

27.0

29.4

99.4

Valid

Khongcannghe

2

.6

.6

100.0

Total

316

91.6

100.0

Missing

System

29

8.4

Total

345

100.0

168

Cần giới thiệu việc làm

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

66.1

Ratcangioithieu

228

72.4

72.4

24.6

Cangioithieu

85

27.0

99.4

Valid

.6

Khongcangioithieu

2

.6

100.0

91.3

Total

315

100.0

8.7

Missing

System

30

100.0

Total

345

Cần xuất khẩu lao động

Frequency

Percent

Valid Percent Cumulative Percent

49.9

RatcanXKLD

172

63.5

63.5

23.8

CanXKLD

82

30.3

93.7

3.5

ChuacanXKLD

12

4.4

98.2

Valid

1.4

KhongcanXKLD

5

1.8

100.0

78.6

Total

271

100.0

21.4

Missing

System

74

100.0

Total

345

Cần nước sạch

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

63.7

63.7

Ratcannuocsach

195

56.5

31.7

95.4

Cannuocsach

97

28.1

2.6

98.0

Chuacannuocsach

8

2.3

Valid

2.0

100.0

Khongcannuocsach

6

1.7

100.0

Total

306

88.7

Missing

System

39

11.3

Total

345

100.0

Cần dịch vụ y tế

Frequency

Percent

Valid Percent Cumulative Percent

RatcanDVYT

251

72.8

76.5

76.5

Valid

CanDVYT

77

22.3

23.5

100.0

Total

328

95.1

100.0

Missing

System

17

4.9

Total

345

100.0

169

Cần hỗ trợ nhà

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

61.5

61.5

Ratcanhotronha

193

55.9

34.1

95.5

Canhotronha

107

31.0

Valid

3.5

99.0

Chuacanhotronha

11

3.2

1.0

100.0

Khongcanhotronha

3

.9

100.0

Total

314

91.0

Missing

System

31

9.0

Total

345

100.0

Cần các dịch vụ khác

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

82.4

Ratcan

84

24.3

82.4

95.1

Canthiet

13

3.8

12.7

Valid

98.0

Chuacan

3

.9

2.9

100.0

Khongcan

2

.6

2.0

Total

102

29.6

100.0

Missing

System

243

70.4

Total

345

100.0

Case Processing Summary

Cases

Missing

Valid

Total

Percent

Percent

N

N

Percent

N

tuoi * Capvontindung

313

90.7%

345

100.0%

9.3%

32

tuoi * Candaotaonghe

295

85.5%

345

100.0%

14.5%

50

tuoi * Cangioithieuvieclam

293

84.9%

345

100.0%

15.1%

52

tuoi * CanxuatkhauLD

255

73.9%

345

100.0%

26.1%

90

tuoi * Cannuocsach

287

83.2%

345

100.0%

16.8%

58

tuoi * Candichvuyte

307

89.0%

345

100.0%

11.0%

38

tuoi * Canhotronha

292

84.6%

345

100.0%

15.4%

53

tuoi * Cankhac

94

27.2%

345

100.0%

72.8%

251

170

tuoi * Capvontindung Crosstabulation

Count

Capvontindung

Total

Ratcanvon

Canvon

4

15-20

3

1

41

20-30

25

16

tuoi

96

30-40

73

23

118

40-50

83

35

54

>50

46

8

313

Total

230

83

tuoi * Candaotaonghe Crosstabulation

Count

Candaotaonghe

Total

Ratcannghe

Cannghe

Khongcannghe

15-20

4

0

0

4

20-30

24

16

0

40

tuoi

30-40

61

27

0

88

40-50

79

36

2

117

>50

36

10

0

46

89

Total

204

2

295

tuoi * Cangioithieuvieclam Crosstabulation

Count

Cangioithieuvieclam

Total

Ratcangioithieu

Cangioithieu

Khongcangioithi

eu

15-20

3

1

0

4

20-30

28

11

0

39

tuoi

30-40

65

23

0

88

40-50

80

36

2

118

>50

34

10

0

44

Total

210

81

2

293

171

tuoi * CanxuatkhauLD Crosstabulation Count

CanxuatkhauLD

Total

RatcanXKLD

CanXKLD

ChuacanXKLD KhongcanXKLD

0

1

4

0

15-20

3

7

8

31

2

20-30

14

tuoi

4

24

77

0

30-40

49

0

36

102

2

40-50

64

>50

0 11

9 78

41 255

1 5

Total

31 161

tuoi * Cannuocsach Crosstabulation Count

Cannuocsach

Total

Ratcannuocsach Cannuocsach

Chuacannuocsa ch

Khongcannuocs ach

1

1

4

0

15-20

2

0

18

40

1

20-30

21

tuoi

4

27

92

0

30-40

61

1

34

111

2

40-50

74

>50

2 8

10 90

40 287

1 4

Total

27 185

tuoi * Candichvuyte Crosstabulation Count

Candichvuyte

Total

RatcanDVYT

CanDVYT

4

1

15-20

3

42

12

20-30

30

tuoi

93

20

30-40

73

117

34

40-50

83

>50

51 307

7 74

Total

44 233

tuoi * Canhotronha Crosstabulation Count

Total

Canhotronha

Ratcanhotronha Canhotronha

Chuacanhotronha Khongcanhotronha

0

2

4

0

15-20

2

8

13

41

0

20-30

20

tuoi

1

36

91

0

30-40

54

1

36

112

2

40-50

73

>50

0 10

16 103

44 292

1 3

Total

27 176

172

tuoi * Cankhac Crosstabulation

Count

Cankhac

Total

Ratcan

Canthiet

Chuacan

Khongcan

15-20

3

0

0

0

3

20-30

10

3

1

0

14

tuoi

30-40

30

5

1

0

36

40-50

20

1

1

2

24

>50

13

4

0

0

17

Total

76

13

3

2

94

II.4. Ông/ bà có được sử dụng dịch vụ cho người nghèo

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative

Percent

Cosudung

63

18.3

28.9

28.9

Bietcuthe

52

15.1

23.9

52.8

Valid

Ykienkhac

103

29.9

47.2

100.0

Total

218

63.2

100.0

Missing

System

127

36.8

Total

345

100.0

II.5. Vai trò của chính quyền địa phương (1: Rất cần; 2: Cần thiết; 3: Chưa cần; 4: Không cần)

N

Minimum

Maximum

Sum

Mean

Std. Deviation

CapvonTD

316

1.00

2.00

343.00

1.0854

.27998

Dtaonghe

311

1.00

4.00

343.00

1.1029

.33460

Gthieuvieclam

308

1.00

2.00

339.00

1.1006

.30135

Xuatkhaulaodong

275

1.00

4.00

335.00

1.2182

.56319

Cungcapnuocsach

298

1.00

4.00

345.00

1.1577

.45537

Capdichvuyte

317

1.00

2.00

342.00

1.0789

.26995

Capnha

309

1.00

4.00

359.00

1.1618

.41837

Capkhac

113

1.00

4.00

136.00

1.2035

.50284

Valid N (listwise)

106

173

II.6. Thực tế (1: Đã thực hiện cho nhiều người, 2: Thực hiện cho một số người; 3:

Không đăng ký; 4: Chưa thực hiện)

N

Minimum Maximum

Sum

Mean

Std. Deviation

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic Statistic Std. Error

Statistic

Thuctevon

314

1.00

4.00

505.00

1.6083

.03234

.57314

Thuctedaotaonghe

286

1.00

4.00

590.00

2.0629

.05110

.86424

Thuctegioithieuvieclam

283

1.00

4.00

599.00

2.1166

.05095

.85708

ThucteXKLD

196

1.00

22.00

486.00

2.4796

.11875

1.66243

Thuctecapnuocsach

260

1.00

4.00

553.00

2.1269

.07380

1.19007

Thuctedvyt

312

1.00

2.00

439.00

1.4071

.02786

.49207

Thuctenhao

233

1.00

4.00

527.00

2.2618

.06336

.96720

Thuctekhac

81

1.00

4.00

218.00

2.6914

.13222

1.18998

Valid N (listwise)

72

II.7. Mức độ người nghèo cần hỗ trợ từ chính quyền thành phố

(1: Tăng lên, 2: Duy trì; 3: Giảm đi; 4: Không cần)

Descriptive Statistics

N

Minimum Maximum

Sum

Mean

Std. Deviation

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic Statistic

Std.

Statistic

Error

Thuctecanvon

309

1.00

319.00

1.0324

.01108

3.00

.19471

Thuctecandaotaonghe

313

1.00

327.00

1.0447

.01170

2.00

.20704

Thuctecanvieclam

309

1.00

320.00

1.0356

.01056

2.00

.18559

ThuctecanXKLD

276

1.00

297.00

1.0761

.01829

4.00

.30393

Thuctecannuocsach

300

1.00

322.00

1.0733

.01779

4.00

.30812

Thuctecanyte

316

1.00

332.00

1.0506

.01388

3.00

.24682

Thuctecannha

310

1.00

339.00

1.0935

.02150

3.00

.37858

Thuctecankhac

113

1.00

121.00

1.0708

.03919

4.00

.41655

Valid N (listwise)

112

174

3. Mẫu phiếu điều tra

PHIẾU KHẢO SÁT

Về dịch vụ cho người nghèo ở thành phố Hà Nội

Hà Nội, ngày…… tháng……năm 2013

Để tìm hiểu nhu cầu và mức độ cung cấp dịch vụ cho người nghèo trên địa bàn thành

phố Hà Nội, nhóm nghiên cứu đề tài khoa học xin ý kiến Ông/Bà về một số nội dung sau:

I. Thông tin về cá nhân

1. Giới tính: Nam:

 Nữ:

2. Tuổi:

Từ 15 - 20:  Từ 20 - 30:  Từ 30 - 40:  Từ 40 - 50:  Trên 50: 

3. Nghề nghiệp:

- Làm nông nghiệp: 

- Cán bộ, công chức: 

- Doanh nhân:

- Viên chức:

- Khác:

(Xin ghi cụ thể:…………….………………………………………)

4. Cơ quan/Đơn vị/Địa phương:

………………………………………………………………….

II. Ý kiến về dịch vụ cho người nghèo ở Hà Nội

1. Theo Ông/Bà, số hộ nghèo so với tổng số hộ gia đình ở địa phương mình

(quận, huyện, xã, phường):

Trên 10%: 

Dưới 5%: 

Từ 5% đến 10%: 

2. Các hộ nghèo, người nghèo trên địa bàn đã nhận được dịch vụ nào trong số

nêu dưới đây:

- Cấp vốn tín dụng: 

- Hỗ trợ tìm việc làm:  Đào tạo nghề:  Giới thiệu việc làm: 

XKLĐ: 

- Cung cấp nước sạch:

- Dịch vụ y tế (khám, chữa bệnh):

- Hỗ trợ nhà ở:Xây dựng mới: 

Sửa chữa, nâng cấp: 

- Dịch vụ khác (ghi cụ thể tên loại dịch vụ): ……………………….……..………………

175

3. Trong các dịch vụ dưới đây, dịch vụ nào là cần thiết cho người nghèo:

Rất cần

Cần thiết Chưa cần Không cần

- Cấp vốn tín dụng:

- Hỗ trợ tìm việc làm:

+ Đào tạo nghề

+ Giới thiệu việc làm

+ Xuất khẩu lao động

- Cung cấp nước sạch:

- Dịch vụ y tế (khám, chữa bệnh): 

- Hỗ trợ nhà ở:

- Khác

4. Ông/Bà có được sử dụng dịch vụ cho người nghèo hoặc biết cụ thể đối tượng

được cung cấp dịch vụ cho người nghèo

- Có sử dụng dịch vụ cho người nghèo:

- Biết cụ thể người nghèo được cung cấp dịch vụ: 

- Ý kiến khác:…………………………………………………………………..

5. Vai trò của chính quyền địa phương trong việc cung cấp các dịch vụ cho

người nghèo

Rất cần

Cần thiết Chưa cần Không cần

- Cấp vốn tín dụng:

- Hỗ trợ tìm việc làm:

+ Đào tạo nghề

+ Giới thiệu việc làm:

+ Xuất khẩu lao động

- Cung cấp nước sạch:

- Dịch vụ y tế (khám, chữa bệnh): 

- Hỗ trợ nhà ở:

- Khác

176

6. Thực tế hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ cho người nghèo từ phía chính quyền

cho người nghèo ở địa phương như thế nào?

Đã thực hiện Thực hiện cho cho nhiều người một số người

Không đăng ký

Chưa thực hiện

- Cấp vốn tín dụng

- Hỗ trợ tìm việc làm:

+ Đào tạo nghề

+ Giới thiệu việc làm

+ Xuất khẩu lao động

- Cung cấp nước sạch

- Dịch vụ y tế (khám, chữa bệnh)

- Hỗ trợ nhà ở

- Khác:

7. Theo Ông/Bà, người nghèo cần được hỗ trợ từ chính quyền thành phố Hà Nội

đối với các dịch vụ như thế nào?

Duy trì

Tăng lên

Giảm đi

Không cần

- Cấp vốn tín dụng:

- Hỗ trợ tìm việc làm:

+ Đào tạo nghề

+ Giới thiệu việc làm

+ Xuất khẩu lao động

- Cung cấp nước sạch:

- Dịch vụ y tế (khám, chữa bệnh): 

- Hỗ trợ nhà ở:

- Khác:

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà!

177

Phụ lục 2 BÁO CÁO SỐ LIỆU HỘ NGHÈO

Theo chuẩn nghèo thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015

TT

Số liệu (tính đến 15/12/2010) Hộ nghèo

Hộ nghèo

Quận, huyện, thị xã

Tổng số hộ dân

Số liệu (sau khi ban hành chuẩn nghèo) Tổng số hộ dân

Số hộ

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Số hộ

Khối quận, TX

1 Hai Bà Trưng 2 Đống Đa 3 Hoàn Kiếm 4 Ba Đình 5 Tây Hồ 6 Cầu Giấy 7 Thanh Xuân 8 Hoàng Mai 9 Long Biên 10 Hà Đông 11 Sơn Tây

Khối huyện

12 Sóc Sơn 13 Đông Anh 14 Gia Lâm 15 Thanh Trì 16 Từ Liêm 17 Ba Vì 18 Chương Mỹ 19 Đan Phượng 20 Hoài Đức 21 Mỹ Đức 22 Phú Xuyên 23 Phúc Thọ 24 Quốc Oai 25 Thạch Thất 26 Thanh Oai 27 Thường Tín 28 Ứng Hòa 29 Mê Linh

2,00 1,66 1,41 1,43 2,04 0,66 0,54 1,18 1,72 2,01 2,99 9,36 14,46 21,93 10,04 6,25 5,28 5,36 16,25 16,98 15,76 8,01 18,77 25,73 12,15 21,11 17,56 12,95 12,50 25,67 12,63

602.404 74.299 88.129 42.095 48.489 34.807 43.357 56.419 72.113 53.126 60.265 29.305 941.256 67.368 82.055 54.486 48.734 71.024 58.215 66.633 34.627 47.166 42.959 51.975 40.555 40.110 42.705 45.582 54.822 50.268 41.972 1.543.660

12.047 1.233 1.245 602 988 229 232 665 1.239 1.069 1.802 2.743 136.101 14.772 8.242 3.408 2.574 3.808 9.458 11.317 5.456 3.776 8.064 13.371 4.926 8.466 7.497 5.905 6.853 12.905 5.303 148.148

602.363 74.299 88.129 42,095 48.489 34,807 43.357 56.378 72.113 53.126 60.265 29.305 940.141 67.333 82.055 54.486 48.734 71.024 58.215 66.633 34.693 45.783 42.959 52.185 40.555 40.110 42.706 45.582 54.822 50.268 41.998 9,60 1.542.504

10.720 989 1.244 570 1.023 182 665 665 1.178 1.069 833 2.743 105.337 10.127 3.180 3.408 1.612 2.618 8.809 11.317 3.898 2.784 6.463 8.962 4.801 7.223 6.301 5.207 6.853 6.949 4.825 116.057

1,78 1,33 1,41 1,35 2,11 0,52 1,18 1,18 1,63 2,01 1,38 9,36 11,20 15,04 3,88 6,25 3,31 3,69 15,13 16,98 11,24 6,08 15,04 17,17 11,84 18,01 14,75 11,42 12,50 13,82 11,49 7,52

Tổng cộng

Nguồn: [111]

178

Phụ lục 3 CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM 2006-2010

TT Tên chương trình Mục tiêu/Chỉ tiêu Kết quả đạt được Cơ quan chủ trì

1 Tín dụng ưu đãi cho

6 triệu lượt người nghèo được cấp tín dụng ưu đãi

Cho vay ưu đãi cho 2,866 triệu hộ nghèo

người nghèo 26.000 tỉ đồng Đã bố trí: 12.000 tỉ

Bộ LĐTBXH - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) - Ngân hàng CSXH

Bộ NN&PTNT

2 Cấp đất sản xuất cho các hộ đồng bào dân tộc nghèo 1.000 tỉ đồng. Quyết định 134/QDTTg

Các hộ nghèo không có đất hoặc thiếu đất sản xuất được: + cấp đất + hỗ trợ mua lại đất và/hoặc chuyển đổi nghề

Bộ NN&PTNT

Chuyển giao công nghệ cho 1,330 triệu lượt người nghèo

3 Khuyến nông, lâm, ngư, hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề Đã bố trí được 300 tỉ đồng.

- 4,2 triệu lượt người được hướng dẫn - 50% số xã có đủ cán bộ khuyến nông cơ sở

Bộ LĐTBXH

4 Dạy nghề cho người nghèo

450.000 lượt người nghèo được học nghề

Bộ LĐTBXH - UBND tỉnh

- 157 xã hưởng lợi, dự kiến sẽ tăng lên đến 300 xã - 3.000 công trình

Đầu tư vào các dự án XDCB cho 157 xã đặc biệt khó khăn ở vùng ven biển và hải đảo

5 Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã khó khăn ven biển, hải đảo 700 triệu đồng/xã. Tổng kinh phí: 1.350 tỉ đồng.

179

TT Tên chương trình Mục tiêu/Chỉ tiêu Kết quả đạt được Cơ quan chủ trì

Bộ LĐTBXH - UBND tỉnh + Doanh nghiệp

Thu nhập của các hộ gia đình nghèo tham gia chương trình tăng từ 14- 15% và số hộ nghèo tham gia giảm một nửa

6 Nhân rộng các mô hình điển hình về giảm nghèo 300 tỉ đồng: + Từ ngân sách 40 tỉ. + Đóng góp từ doanh nghiệp: 260 tỉ

Xây dựng nhiều mô hình giảm nghèo trên các lĩnh vực (i) phát triển kinh tế và quốc phòng - các mô hình do Bộ Quốc phòng quản lý; (ii) phát triển kinh tế ở những vùng khó khăn về địa lý và (iii)hình thành mối liên hệ giảmnghèo giữa Tổng Cty Chè, TổngCty Bông Việt Nam và 33 xã nghèo

7 Hỗ trợ y tế cho

người Nghèo

Bộ Y tế. BHYT cho người nghèo trị giá 60.000

đồng/năm.

- Cấp Thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) cho 15 triệu người nghèo và khám chữa bệnh cho 13,3 triệu lượt người nhèo.

100 % trung tâm y tế xã được bố trí đủ nhân lực và trang thiết bị - 15 triệu lượt người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí (3 triệu lượt/năm)

8 Giáo dục cho người

Nghèo

Bộ Giáo dục và Đào tạo

19 triệu lượt học sinh nghèo, trong đó có 9 triệu lượt tiểu học, được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác.

- Miễn học phí cho 4,7 triệu lượt học sinh nghèo. Hỗ trợ học sinh sách vở, sách giáo khoa và dạy nghề miễn phí cho lao động nghèo.

180

TT Tên chương trình Mục tiêu/Chỉ tiêu Kết quả đạt được Cơ quan chủ trì

9 Nhà ở và nước sạch

500.000 hộ nghèo

Bộ NN&PTNT

cho người nghèo

được hỗ trợ để xóa bỏ nhà tạm.

Hỗ trợ nhà ở cho 230.000 hộ nghèo qua thực hiện Quyết định 134/Ttg, và huy động nguồn lực

từ khu vực tư nhân. Số hộ được

hỗ trợ đã tăng lên đến 370.000 hộ

do bão lũ.

Bộ Tư pháp

10 Hỗ trợ pháp lý cho

người nghèo

98% người nghèo có nhu cầu hỗ trợ pháp lýđược trợ giúp pháp lýmiễn phí

Bộ Giáo dục và

11 Tăng cường năng

Tập huấn cho 62.000 lượt cán bộ

Đào tạo

giảm nghèo các cấp với tổng kinh

170.000 cán bộ giảm nghèo, trong đó 95% ởcấp cơ sở, được tập huấn nâng cao năng lực.

lực giảm nghèo, bao gồm cả tập huấn cho cán bộ giảm nghèo và truyền thông

phí 38 tỉ đồng từ ngân sách.

Nguồn: [4]

Phụ lục 4

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA HỘ NGHÈO - CẬN NGHÈO TP. HÀ NỘI THEO CHUẨN DỰ KIẾN

(Tháng 3/2009)

HỘ NGHÈO

Chia theo các nhóm

XÃ NGHÈO

Nhóm I

Nhóm II

Nhóm III

Có thành viên đang hưởng trợ cấp hàng tháng diện

TT QUẬN HUYỆN

QUẬN HUYỆN

Số hộ

Số khẩu

Tỷ lệ

(Tỷ lệ từ 25% trở lên)

NCC BTXH

Số hộ

Số hộ

Số hộ

Có vợ hoặc chồng là người dân tộc

Có nhà ở xuống cấp, hư hỏng nặng

Nhân khẩu

Nhân khẩu

Nhân khẩu

XÃ CÓ NHIỀU HỘ NGHÈO (Tỷ lệ từ 15% đến <25% trở lên)

2

3

4=7+9+11 5=8+10+12 6=4/3*100

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

1

518,335

10,572

33,815

6,296

19,322

1,953

6,607

2,323

7,886

12

271

0

0

0

0

2.04

1

66,878

1,022

3,165

1.53

748

307

596

171

2,262

103

Khối quận Hai Bà Trưng

2

65,395

1,110

3,376

1.70

741

429

693

234

2,254

135

3

42,205

1,375

4,763

3.26

648

1,388

353

1,411

6

271

1,964

374

4

41,735

1,011

3,096

2.42

661

265

793

265

2,038

85

5

28,213

260

790

0.92

140

114

280

85

396

35

6

38,388

236

810

0.61

121

117

290

79

403

36

7

Đống Đa Hoàn Kiếm Ba Đình Tây Hồ Cầu Giấy Thanh Xuân

46,598

236

759

0.51

98

117

340

101

302

37

8

Hoàng Mai

66,058

1,009

3,643

1.53

368

1,026

356

1,282

6

1,335

285

9

Long Biên

48,656

772

2,391

1.59

506

266

600

188

1,525

78

10

46,120

981

2,840

2.13

754

364

282

91

2,194

136

Hà Đông

11

28,089

2,560

8,182

9.11

1,511

2,214

1,319

400

4,649

649

Sơn Tây

181

879,567

107,253

372,417

63,684 214,004 25,442

90,914

18,127

67,499

117

2,057

425

291

12.19

43

108

Khối huyện

12

61,135

10,814

42,692

17.69

4,808

18,337

3,082

12,201

2,924

12,154

6

11

Sóc Sơn

13

77,527

4,610

14,341

5.95

2,832

8,286

1,072

3,641

706

2,414

Đông Anh

14

Gia Lâm

49,772

2,489

8,070

5.00

1,115

3,501

803

2,548

571

2,021

1

15

Thanh Trì

41,185

2,366

6,254

5.74

1,573

3,828

359

1,125

434

1,301

1

16

62,646

2,534

8,417

4.04

1,222

3,965

624

2,024

688

2,428

17

Từ Liêm Ba Vì

56,144

11,024

40,898

19.64

7,862

28,717

1,896

7,188

1,266

4,993

12

10

18

64,926

10,602

39,756

16.33

6,960

25,382

2,401

9,344

1,241

5,030

14

4

Chương Mỹ

19

32,207

4,238

13,905

13.16

2,632

8,532

842

10

2,752

764

2,621

5

Đan Phượng

20

41,784

2,461

7,239

5.89

1,760

5,239

425

1,170

276

830

1

21

40,530

9,180

36,720

22.65

3,672

14,688

2,754

11,016

2,754

11,016

9

8

22

Hoài Đức Mỹ Đức Phú Xuyên

51,068

7,089

20,625

13.88

4,879

13,485

1,226

3,932

984

3,208

7

3

23

36,483

5,395

17,498

14.79

3,464

11,147

1,238

3,974

693

2,377

10

24

38,786

6,087

21,932

15.69

4,090

14,746

1,359

4,754

638

2,432

55

1,344

419

6

5

25

40,970

5,487

20,505

13.39

3,073

11,339

1,667

6,334

747

2,832

4

3

26

Phúc Thọ Quốc Oai Thạch Thất Thanh Oai

43,280

5,853

16,533

13.52

3,554

9,694

1,559

4,622

740

2,217

7

1

27

51,784

4,368

12,663

8.44

2,542

7,163

1,061

3,151

765

2,349

1

28

48,212

8,020

26,142

16.63

4,771

15,016

2,018

6,812

1,231

4,314

52

713

6

15

3

29

Thường Tín Ứng Hòa Mê Linh

41,128

4,636

18,227

11.27

2,875

10,939

1,056

4,326

705

2,962

4

291

8.43

117,825

406,232

69,980 233,326 27,395

97,521

20,450

75,385

129

2,328

425

43

108

291

TỔNG CỘNG 1,397,902

Hộ nghèo các quận chiếm 8,97%; hộ nghèo các huyện chiếm 91,03% tổng số hộ nghèo toàn thành phố.

182

Nguồn: [111]

Phụ lục 5 HỘ CẬN NGHÈO THÀNH PHỐ HÀ NỘI

(Tại thời điểm tháng 3/2009)

HỘ CẬN NGHÈO

NGUYÊN NHÂN NGHÈO, CẬN NGHÈO

NHÓM VI

Chia theo các nhóm

NHÓM IV

NHÓM V

TT QUẬN HUYỆN

Số hộ Số khẩu Tỷ lệ

Thiếu vốn SXKD

Thiếu đất SX

Nguyên nhân khác

Bị tai nạn rủi ro

Có người mắc tệ nạn XH

Bị thiên tai dịch bệnh

Có người già yếu, bệnh tật

Thiếu kinh nghiệm làm ăn

Số hộ

Số hộ Nhân khẩu

Số hộ Nhân khẩu

Thiếu LĐ, đông người ăn theo

Có vợ hoặc chồng là người dân tộc

Nhân khẩu

Có thành viên đang hưởng trợ cấp NCC

2

3

4

5

6

7

8

9

12

13

14

15

17

18

19

20

21

22

10

11

1

16

3,671

12,496

8.47

2,595

8,804

1,076

3,692

3,215

4,573

971

3,169

379

4,829

462

1,281

5,395

13,352

0

0

90

Khối quận

1

348

1,044

0.52

211

589

137

455

139

149

382

13

577

79

105

3,435

7,326

Hai Bà Trưng

2

395

1,329

0.60

287

916

108

413

158

157

8

234

13

345

76

162

152

264

Đống Đa

3

188

734

0.45

135

509

53

225

310

328

11

215

10

229

28

100

22

87

Hoàn Kiếm

4

160

545

0.38

109

374

51

171

123

215

65

13

270

66

468

48

141

8

23

Ba Đình

5

98

327

0.35

81

270

17

57

46

81

8

130

3

146

14

39

6

20

Tây Hồ

6

78

257

0.20

24

78

54

179

66

78

4

1

116

14

163

23

52

762

2,373

Cầu Giấy

7

Thanh Xuân

157

551

0.34

91

320

66

231

60

70

5

110

10

150

20

50

82

175

8

Hoàng Mai

539

1,562

0.82

286

829

253

733

600

1,500

100

200

100

300

30

240

425

1,232

9

Long Biên

361

1,236

0.74

265

901

96

335

96

142

25

10

189

11

178

27

59

26

155

10

524

1,915

1.14

386

1,375

138

540

239

502

97

3

394

29

695

37

97

69

199

Hà Đông

11

823

2,996

2.93

720

2,643

103

353

55

929

80

1,378

1,351

656

110

1,578

236

408

1,498

Sơn Tây

183

35,872 134,723

4.08

26,285 100,998 9,587

33,725

67

133

56,829

37,282

24,176

31,120

3,424

3,393

55,320

1,714

8,126

16,154

53,944

Khối huyện

6,590

24,712

10.78

5,130

20,229

1,460

4,483

9,282

5,012

3,797

2,562

12

769

60

2,301

188

843

1,871

7,717

Sóc Sơn

13

2,414

8,668

1,606

5,850

808

2,818

3.11

2,654

2,379

1,366

1,702

249

286

3,183

135

640

1,584

5,438

Đông Anh

14

Gia Lâm

2,102

7,426

1,449

5,099

653

2,327

4.22

1,663

1,039

307

867

26

87

1,263

51

316

4,535

14,212

15

Thanh Trì

1,388

4,276

796

2,500

592

1,776

3.37

566

711

297

824

20

68

1,062

86

355

1,735

3,753

16

2,975

10,536

4.75

1,285

4,621

1,690

5,915

2,026

1,278

742

999

232

53

1,101

93

404

693

2,374

Từ Liêm

17

Ba Vì

2,075

8,267

3.70

1,873

7,531

202

736

8,300

4,622

4,517

2,714

386

500

4,781

169

1,073

322

1,109

18

3,359

13,986

5.17

2,765

11,575

594

2,411

5,687

4,008

2,408

3,136

333

461

5,440

186

636

753

2,829

Chương Mỹ

19

1,336

5,058

991

3,842

345

1,216

4.15

2,012

1,517

102

1,471

82

161

2,978

84

226

272

853

Đan Phượng

20

1,036

3,741

793

2,937

243

804

2.48

1,015

990

384

958

129

84

1,527

53

168

417

1,382

Hoài Đức

21

5.79

2,347

9,388

1,174

4,694

1,173

4,694

4,000

3,000

2,000

3,000

300

400

5,000

150

200

660

2,640

Mỹ Đức

22

Phú Xuyên

890

2,927

617

2,014

273

913

1.74

1,390

1,487

276

1,545

7

43

2,680

28

73

191

659

23

963

3,557

780

3,000

183

557

2.64

1,771

1,245

542

1,291

140

150

2,585

40

531

199

655

Phúc Thọ

24

888

3,446

756

2,938

132

508

2.29

2,823

17

1,073

1,378

221

111

2,421

37

437

612

2,487

Quốc Oai

25

328

4.25

1,742

7,141

1,414

5,800

1,341

45

132

3,523

3,000

2,073

1,955

135

210

2,985

61

326

346

1,181

Thạch Thất

26

Thanh Oai

1,068

3,492

950

3,111

118

381

2.47

1,603

1,329

631

1,508

59

162

4,326

42

314

331

1,129

27

946

2,989

739

2,340

207

649

1.83

1,375

1,098

430

1,091

50

126

3,193

64

465

385

1,203

Thường Tín

28

362

4.31

96

268

5,644

161

762

829

2,572

2,077

8,101

1,715

6,806

1,295

22

1

4,147

2,765

2,027

2,552

Ứng Hòa

29

224

901

4.08

163

2,850

86

357

419

1,751

Mê Linh

1,676

7,012

1,452

6,111

2,992

1,785

1,204

1,567

190

2.83

28,880 109,802 10,663

37,417

67

133

60,044

41,855

25,147

34,289

3,514

3,772

60,149

2,176

9,407

21,549

67,296

TỔNG CỘNG 39,543 147,219

Hộ cận nghèo các quận chiếm 9,28%; hộ cận nghèo các huyện chiếm 90,72% tổng số hộ cận nghèo toàn thành phố.

184

Nguồn: [111]

Phụ lục 6

KẾT QUẢ RÀ SOÁT HỘ NGHÈO CUỐI NĂM 2010

SỐ HỘ NGHÈO ĐẦU NĂM 2010

Só hộ nghèo cuối năm 2010

Số xã có tỷ lệ hộ nghèo

Kết quả giảm nghèo

Đạt tỷ lệ % so với

TT QUẬN HUYỆN

Số hộ chung (T12/2009)

Chỉ tiêu giảm nghèo 2010

Chỉ tiêu giảm nghèo 2010

Số hộ

Số khẩu

Tỷ lệ

Số hộ

Số hộ

Số khẩu

Tỷ lệ

Dưới 2% Trên 25%

KH(cid:13) (tính cả số phát sinh)

Có t.viên đang hưởng trợ cấp hàng tháng diện NCC

2

3

4

5

7

8

9

10

13

14

15

16

1

6

11

12

612,793

7,891

24,024

1,980

2,151

5,799

20,291

0

128

0

1,520

1.29

0.95

109%

Khối quận

1

74,299

793

2,344

1.07

190

602

191

0.81

101%

2,344

19

150

Hai Bà Trưng

2

97,691

790

2,267

0.81

190

633

197

0.65

104%

1,768

20

150

Đống Đa

3

42,095

570

1,285

1.35

150

396

174

0.94

116%

966

16

110

Hoàn Kiếm

4

48,489

814

2,415

1.68

240

574

240

1.18

100%

2,415

7

160

Ba Đình

5

34,807

176

515

0.51

50

120

57

0.34

114%

357

8

30

Tây Hồ

6

44,332

142

465

0.32

50

78

64

0.18

128%

261

8

20

Cầu Giấy

7

Thanh Xuân

56,419

169

528

0.30

40

129

40

0.23

100%

528

11

30

8

Hoàng Mai

71,113

885

3,097

1.24

200

676

209

0.95

105%

3,097

13

170

9

Long Biên

53,996

604

1,871

1.12

150

436

186

0.81

124%

1,295

12

120

10

60,265

775

2,320

1.29

190

585

190

0.97

100%

2,320

13

150

Hà Đông

11

7.42

530

603

5.36

114%

29,287

2,173

6,917

1,570

4,940

1

430

Sơn Tây

185

938,773

83,491

284,594

20,520

21,607

62,683

272,38

105%

27

24

8

8.89

6.68

16,480

Khối huyện

1,530

1,530

12

67,368

6,236

22,812

9.26

4,706

22,812

6.99

100%

1

1,230

Sóc Sơn

13

82,055

3,136

11,905

3.82

770

2,366

11,905

2.88

100%

3

620

770

Đông Anh

14

Gia Lâm

54,486

1,844

5,499

3.38

450

1,394

5,499

2.56

100%

8

360

450

15

Thanh Trì

48,734

1,761

4,687

3.61

430

1,271

4,687

2.61

133%

4

350

573

16

71,024

1,906

6,359

2.68

480

1,406

6,359

1.98

104%

3

370

500

Từ Liêm

17

Ba Vì

58,215

8,817

33,149

15.15

2,230

6,587

33,149

11.31

100%

1,750

4

2,230

18

66,633

8,497

31,863

12.75

2,070

6,270

31,863

9.41

128%

1,680

2,650

Chương Mỹ

19

32,395

3,437

11,632

10.61

900

2,489

8,552

7.68

105%

680

948

Đan Phượng

20

47,169

2,104

6,192

4.46

500

1,604

6,192

3.40

100%

2

410

500

Hoài Đức

21

42,959

6,980

23,217

16.25

1,700

5,280

23,217

12.29

100%

1,380

3

1,700

Mỹ Đức

22

Phú Xuyên

51,975

4,904

12,470

9.44

1,190

3,714

10,053

7.15

100%

27

1

970

1,190

23

40,110

4,755

15,939

11.85

1,150

3,605

12,084

8.99

116%

940

1,336

Phúc Thọ

24

40,572

5,302

20,840

13.07

1,260

4,042

20,840

9.96

100%

1,050

1

1,260

Quốc Oai

25

42,705

4,611

17,033

10.80

1,220

3,391

17,033

7.94

100%

910

1,220

Thạch Thất

26

Thanh Oai

45,582

5,264

14,776

11.55

1,280

3,984

14,776

8.74

100%

1,040

1,280

27

54,822

3,446

9,910

6.29

840

2,606

9,910

4.75

100%

1

680

840

Thường Tín

28

50,019

6,865

22,458

13.72

1,600

5,265

22,458

10.53

100%

1,350

1,600

Ứng Hòa

29

Mê Linh

41,950

3,626

13,853

8.64

920

2,703

10,991

6.44

112%

1

710

1,030

5.89

4.41

91,382

308,618

22,500

23,758

68,482

292,671

106%

27

152

8

18,000

TỔNG CỘNG 1,551,566

186

Nguồn: [25]

Phụ lục 7

BÁO CÁO SỐ LIỆU HỘ NGHÈO, CẬN NGHÈO NĂM 2011

HỘ NGHÈO

HỘ CẬN NGHÈO

TT Quận, huyện, thị xã

Theo chuẩn TW

Theo chuẩn TP

Theo chuẩn TW

Theo chuẩn TP

Tổng số hộ dân

Chỉ tiêu giảm nghèo

Số hộ

Tỷ lệ %

Số hộ

Tỷ lệ %

Số hộ

Tỷ lệ %

Số hộ

Tỷ lệ %

2

3

4

1

5

6

4

5

6

20

602,404

6,081

1.01

10,131

1.68

2,532

0.42

2,509

0.42

1,920

Khối quận

74,299

1

553

0.74

989

1.33

247

0.33

345

0.46

200

Hai Bà Trưng

88,129

2

713

0.81

1,244

1.41

340

0.39

361

0.41

200

Đống Đa

42,095

3

423

1.00

570

1.35

120

0.29

157

0.37

95

Hoàn Kiếm

48,489

4

706

1.46

1,023

2.11

194

0.40

112

0.23

160

Ba Đình

34,807

5

126

0.36

182

0.52

40

0.11

76

0.22

35

Tây Hồ

43,357

6

119

0.27

224

0.52

62

0.14

92

0.21

35

Cầu Giấy

7

Thanh Xuân

56,419

168

0.30

665

1.18

153

0.27

168

0.30

95

72,113

8

Hoàng Mai

558

0.77

589

0.82

329

0.46

185

0.26

200

53,126

9

Long Biên

464

0.87

1,069

2.01

334

0.63

283

0.53

160

60,265

10

472

0.78

833

1.38

200

0.33

539

0.89

290

Hà Đông

29,305

11

1,779

6.07

2,743

9.36

513

1.75

191

0.65

450

Sơn Tây

187

941,256

64,953

27,144

52,419

105,926

6.90

11.25

2.88

5.57

22,280

Khối huyện

12

67,368

4654

10,127

6.91

15.03

3,221

4.78

6,899

10.24

2,530

Sóc Sơn

13

82,055

1,951

3,180

2.38

3.88

754

0.92

1,393

1.70

1,340

Đông Anh

14

Gia Lâm

54,486

1,649

3,408

3.03

6.25

1,237

2.27

1,736

3.19

550

15

Thanh Trì

48,734

663

1,812

1.36

3.72

450

0.92

1,437

2.95

420

16

71,024

1,104

2,626

1.55

3.70

358

0.50

1,082

1.52

620

Từ Liêm

17

Ba Vì

58,215

6,441

8,809

11.06

15.13

2,336

4.01

4,492

7.72

1,540

18

66,633

7,182

11,317

10.78

16.98

3,265

4.90

2,705

4.06

1,840

Chương Mỹ

19

34,627

2,484

3,898

7.17

11.26

1,302

3.76

970

2.80

900

Đan Phượng

20

47,166

1,467

2,784

3.11

5.90

364

0.77

636

1.35

620

Hoài Đức

21

42,959

3,275

6,463

7.62

15.04

1,581

3.68

2,315

5.39

1,300

Mỹ Đức

22

Phú Xuyên

51,975

6,024

8,962

11.59

17.24

2,572

4.95

12,312

23.69

2,200

23

40,555

3,210

4,801

7.92

11.84

903

2.23

4,513

11.13

800

Phúc Thọ

24

40,110

4,641

7,223

11.57

18.01

2,074

5.17

1,304

3.25

1,380

Quốc Oai

25

42,705

4,448

6,301

10.42

14.75

1,288

3.02

1,347

3.15

1,220

Thạch Thất

26

Thanh Oai

45,582

3,880

5,207

8.51

11.42

901

1.98

786

1.72

960

27

54,822

3,679

6,853

6.71

12.50

1,692

3.09

3,704

6.76

1,100

Thường Tín

28

50,268

4,982

6,949

9.91

13.82

1,518

3.02

3,558

7.08

2,100

Ứng Hòa

29

Mê Linh

41,972

3,219

5,206

7.67

12.40

1,328

3.16

1,230

2.93

860

4.60

7.52

1.92

54,928

3.56

24,200

71,034

116,057

29,676

TỔNG CỘNG 1,543,660

188

Nguồn: [25]

Phụ lục 8

TỔNG HỢP SỐ LIỆU HỘ NGHÈO - CẬN NGHÈO NĂM 2012

(Tính đến 15/12/2011)

SỐ HỘ NGHÈO DIỆN

SỐ HỘ CẬN NGHÈO DIỆN

HỘ NGHÈO

HỘ CẬN NGHÈO

TT QUẬN HUYỆN, THỊ XÃ

TỶ LỆ HỘ NGHÈO NGƯỜI

HỘ NGHÈO PHÁT SINH

HỘ CẬN NGHÈO PHÁT SINH

NHÂN KHẨU

NHÂN KHẨU

TỔNG SỐ HỘ CHUNG

HỘ NGHÈO GIẢM TRONG

HỘ CẬN NGHÈO GIẢM TRONG

TỶ LỆ HỘ CẬN NGHÈO

BTXH

BTXH

TRONG

TRONG

ĐÂU NĂM 2011

HỘ NGHÈO CUỐI NĂM 2011

ĐÂU NĂM 2011

HỘ CẬN NGHÈO CUỐI NĂM 2011

NĂM

NĂM

CÓ CÔNG

NGƯỜI CÓ CÔNG

NĂM

NĂM

2

3

4

5

7

8

11

12

13

15

16

1

6

10

9

14

17

18

19

613,944

9,760

3,339

753

7,174

21,717

2,235

2,460

1,249

1,012

2,229

7,373

14

1.17

0.36

7

201

Khối quận

1

74,320

989

251.00

50

788.00

2,354

1.06

74

0.39

291

954

198

346

133

3

25

Hai Bà Trưng

2

77,327

1,246

439.00

73

880.00

2,706

5.00

1.14

80

0.36

282

932

316

316

114

1

17

Đống Đa

3

42,993

570

114.00

32

488.00

1,242

3.00

1.14

45

0.34

148

454

272

157

54

3

12

Hoàn Kiếm

4

56,768

1,023

201.00

897.00

2,806

75

1.58

20

0.21

121

383

258

115

14

12

Ba Đình

5

34,807

182

53.00

7

136.00

433

0.39

19

0.26

90

311

34

76

5

3

Tây Hồ

6

44,540

224

71.00

23

176.00

568

0.40

6

0.17

76

279

32

91

21

Cầu Giấy

7

Thanh Xuân

54,005

292

115.00

17

194.00

653

0.36

11

0.19

105

247

72

161

69

18

8

Hoàng Mai

78,726

589

155.00

44

478.00

1,487

4.00

0.61

77

0.18

140

460

105

185

123

3

9

Long Biên

59,209

1,069

485.00

646.00

1,922

62

1.09

172

0.44

258

865

287

283

196

46

10

60,360

833

284.00

644.00

1,905

95

2.00

1.07

150

0.58

348

1,175

171

539

341

20

Hà Đông

11

30,889

2,743

1,171.00

275

1,847.00

5,641

5.98

358

1.20

370

1,313

490

191

179

45

Sơn Tây

189

984,388

103,991

38,659

8,662

67,994

233,082

6.91

215

18,799

52,221

31,961

16,160

36,722

129,814

3.73

312

3,406

Khối huyện

12

68,796

10127

4,578.00

52

5,601.00 20,654

15.00

477

6,889

2,542

1,181

5,560

20,917

8.08

32

238

8.14

Sóc Sơn

13

83,312

3,180

1,340.00

2,347.00

7,027

1.00

1,010

1,994

1,007

1,203

3,907

216

1.44

214

507

2.82

Đông Anh

14

Gia Lâm

56,609

2,050

710.00

1,595.00

4,593

65.00

504

1,736

839

1,431

4,899

534

2.53

48

213

255

2.82

15

Thanh Trì

56,376

1,743

623.00

1,354.00

4,112

446

1,437

389

1,486

442

2.64

18

234

2.40

4319

16

71,024

2,626

1,069.00

1,731.00

4,948

11.00

572

1,096

496

921

3,033

321

1.30

2

38

174

2.44

Từ Liêm

17

Ba Vì

941

60,881

8,801

2,614.00

7,132.00 18,090

11.71

7.00

3,812

1,503

1,689

4,097

12,367

6.73

51

312

945

18

69,205

11,317

3,867.00

1,104

2,554.00 30,915

33.00

1,877

2,638

1,212

1,592

3,018

12,275

4.36

25

192

3.69

Chương Mỹ

19

731

973

310

1,627

5,821

34,687

3,885

1,508.00

2,627.00

8,482

964

4.69

14

199

250

7.57

Đan Phượng

20

405

628

378

745

2,816

48,987

2,782

1,032.00

2,012.00

6,353

7.00

495

1.52

5

47

262

4.11

Hoài Đức

21

44,863

6,451

2,562.00

4,407.00 14,286

9.82

1,613

2,315

1,381

1,715

6,318

781

3.82

9

196

518

Mỹ Đức

22

Phú Xuyên

53,687

8,926

4,028.00

5,642.00 14,465

10.51

34.00

1,255

12,312

11,085

1,326

2,553

8,060

4.76

26

385

744

23

42,035

4,801

1,683.00

3,654.00 11,865

8.69

11.00

954

4,513

3,183

2,275

8,633

945

5.41

27

277

536

Phúc Thọ

24

44,052

7,215

2,785.00

4,995.00 16,227

11.34

1,121

1,342

1,100

1,229

4,159

832

2.79

4

38

565

Quốc Oai

25

45,472

6,240

2,570.00

4,119.00 14,663

9.06

1,407

1,356

1,019

1,120

1,457

5,740

3.20

6

207

449

Thạch Thất

26

Thanh Oai

48,676

5,219

1,565.00

4,259.00 12,364

8.75

4.00

1,142

519

279

1,143

1,383

4,218

2.84

73

605

27

58,687

6,853

1,807.00

5,401.00 16,022

9.20

1,790

3,683

2,469

164

1,378

4,439

2.35

132

355

Thường Tín

28

52,604

6,949

2,614.00

4,967.00 15,477

9.44

18.00

1,339

3,725

2,129

1,539

3,155

12,080

6.00

42

431

632

Ứng Hòa

29

Mê Linh

44,435

4,826

1,704.00

3,597.00 12,539

8.09

9.00

1,215

1,253

640

876

1,489

5,813

3.35

21

196

475

1,598,332 113,751

41,998

9,415

75,168

254,799

4.70

229

21,034

54,681

33,210

17,172

38,951

137,187

2.44

319

3,607

TỔNG CỘNG

190

Nguồn: [25]