1
Luận văn
Quản lý nhà nước về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng và giải pháp
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nói đến rau xanh chắc hẳn trong mỗi chúng ta không ai không biết đến. Đó
là món ăn không thể thiếu trong mỗi bữa cơm của gia đình người Việt. Rau không
chỉ là món ăn giúp bữa cơm ngon hơn mà chúng có vai trò dinh dưỡng đặc biệt
quan trọng đối với cơ thể con người. Tuy nhiên, để có thể mua được rau tươi, ngon,
an toàn lại không dễ chút nào. Có thể mua rau một cách nhanh chóng và dễ dàng ở
nhiều nơi như chợ, siêu thị, hay một quán nhỏ gần nhà nhưng những vụ ngộ độc
thực phẩm vừa qua (trong đó có rau - thức ăn thiết yếu) khiến người tiêu dùng
hoang mang, từ đó có thể thấy rằng chất lượng rau đang là vấn đề khá nan giải.
Không ít hộ trồng rau do chạy theo lợi nhuận đã không tuân thủ quy trình sản xuất
nên chất lượng không đạt yêu cầu là nguyên nhân khiến người tiêu dùng không tin
tưởng vào chất lượng RAT khiến nhiều cửa hàng, siêu thị kinh doanh RAT rơi vào
tình trạng ế ẩm. Thêm vào đó là sự thiếu ý thức trách nhiệm, lơ là quản lý, trình độ
chuyên môn của cán bộ quản lý còn hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém,
chưa có kế hoạch, chính sách cụ thể để quản lý thị trường RAT tại Hà Nội đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe con người.
Đã đến lúc phải đưa ra các giải pháp để quản lý thị trường RAT trong thời
gian tới một cách thực sự hiệu quả.
1.2. Xác lập vấn đề nghiên cứu
Như đã đề cập ở trên, tình hình quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
đang là một bài toán khá nan giải. Vấn đề nghiên cứu ở đây là nghiên cứu thực trạng
về thị trường và quản lý thị trường RAT tại Hà Nội của nhà nước. Trên cở sở phân
tích thực trạng đề ra các biện pháp để quản lý thị trường RAT tại Hà Nội một cách
hiệu quả.
Do đó, chúng em đã lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về thị trường
RAT trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khoa
học.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về RAT và quản lý thị trường của nhà nước.
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực trạng thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội,
3
phát hiện ra những mặt hạn chế về quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội của
nhà nước và đưa ra các giải pháp quản lý thị trường RAT hữu hiệu.
1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu
Tình hình thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội như thế nào?
Tình hình quản lý thị trường RAT tại Hà Nội như thế nào?
Làm thế nào để quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiệu quả hơn?
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và hiểu biết của cá nhân nên đề tài tập
trung nghiên cứu thực trạng thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội trong 3 năm từ
năm 2007 đến năm 2009, giải pháp đưa ra cho 10 năm từ năm 2010-2020.
Nội dung nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu thị trường RAT và thực trạng
(trong đó nhấn mạnh những hạn chế) quản lý thị trường RAT của nhà nước trên địa
bàn Hà Nội chủ yếu về các nội dung chính sách quản lý thị trường và tổ chức liên
quan đến mảng thực thi, kiểm tra, kiểm soát thị trường.
1.6. Những nghiên cứu có liên quan
Về vấn đề quản lý thị trường RAT đã có không ít đề tài đề cập, trong đó có thể
kể đến:
Đề tài: “Tìm hiểu hệ thống thị trường tiêu thụ rau quả quận Đống Đa” (2001) -
Lê Anh Tuấn; “Tìm hiểu hệ thống thị trường tiêu thụ rau quả quận Cầu Giấy”
(2001) - Lê Thế Anh; “Nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ rau sạch tại trung
tâm kỹ thuật rau hoa quả Hà Nội” (2001) - Đinh Đức Huấn; “Một số vấn đề về tổ
chức và hiệu quả thị trường rau Hà Nội”- Paule Moustier; “Sự phát triển của các
cửa hàng, siêu thị trong ngành hàng rau tươi tại Hà Nội và TP.HCM - Việt Nam”
(2002)-Nguyễn Thị Tân Lộc; “Tổ chức và quản lý chất lượng rau ở các kênh tiêu
thụ tại Hà Nội” (2002)-Nguyễn Thị Tân Lộc; “Chương trình phát triển rau an toàn
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2002-2005” - UBND thành phố Hồ
Chí Minh; “Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ RAT trên địa bàn Hà Nội” (2008) - Trương
Thị Thùy Ninh.
Tuy nhiên, các đề tài trên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thực trạng sản xuất và
tiêu thụ rau tươi tại các quận của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; chiến lược bán
và cung ứng rau tươi của các doanh nghiệp; đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ
rau tươi; thực trạng ô nhiễm độc tố rau quả; từ đó đưa ra các giải pháp phát triển thị
4
trường rau tại các quận, huyện của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Các đề tài tiếp cận từ góc độ vi mô.
Đề tài của chúng em đi sâu vào nghiên cứu thị trường RAT trên toàn thành phố Hà
Nội (tình hình cung, cầu, giá cả RAT…), thực trạng quản lý nhà nước về thị trường
RAT . Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thị trường và quản lý thị trường RAT thời gian
qua, chúng em đưa ra các giải pháp để quản lý thị trường RAT tại Hà Nội trong thời
gian tới. Đề tài tiếp cận từ góc độ vĩ mô.
1.7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu dùng phương pháp thu thập dữ liệu, phân tích các dữ liệu sơ cấp
và thứ cấp thu thập được.
Phương pháp thu thập dữ liệu là phương pháp cơ bản được sử dụng trong các
công trình nghiên cứu, nó góp phần quan trọng để đưa ra những nhận định, đánh giá
đúng đắn và có cơ sở khoa học. Các dữ liệu thu được từ hai nguồn: Dữ liệu sơ cấp
và dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu sơ cấp:
Đây là những dữ liệu ở dạng thô chưa qua xử lý, thường cung cấp các thông tin
mang tính đơn lẻ. Dữ liệu này thường được thu thập bằng các phương pháp điều tra,
phỏng vấn. Bằng việc tiến hành điều tra chọn mẫu nhóm tác giả thiết lập các phiếu
điều tra bao gồm những câu hỏi lựa chọn phương án trả lời về những vấn đề liên
quan đến thực trạng thị trường RAT và tình hình QLNN đối với thị trường RAT
trên địa bàn Hà Nội và các câu hỏi mở đi sâu vào tìm hiểu những ý kiến, kiến nghị
của các chủ cơ sở kinh doanh cũng như các cán bộ quản lý. Phiếu điều tra được gửi
đến các đối tượng khác nhau là những người tiêu dùng ở một số địa điểm trên địa
bàn Hà Nội, phiếu điều tra trắc nghiệm tại một số cơ sở kinh doanh RAT, tại Chi
cục BVTV và Quản lý thị trường Hà Nội. Cụ thể phát ra 100 phiếu cho người tiêu
dùng, 10 phiếu cho cán bộ quản lý và 50 phiếu cho các cơ sở kinh doanh RAT.
Dữ liệu thứ cấp:
Đây là những dữ liệu đã qua xử lý. Thông tin dữ liệu thứ cấp được lấy từ các
nguồn sách báo, giáo trình, tạp chí, internet và các tài liệu nghiên cứu có liên quan
để phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài.
Khi đã có được kết quả điều tra chúng em tiến hành phân tích, tổng hợp sau đó
tiến hành xử lý bằng các phương pháp thống kê, phương pháp thủ công nhằm làm
5
cơ sở đánh giá thực trạng thị trường và quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
hiện nay.
1.8. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần như tóm lược, phụ lục, danh mục bảng biểu, danh mục từ viết
tắt, kết luận… đề tài bao gồm 4 chương :
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài
Chương 2: Một số vấn đề lý luận cơ bản về rau an toàn và quản lý nhà nước về
rau an toàn
Chương 3: Thực trạng thị trường rau an toàn và quản lý nhà nước về thị trường
rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
Chương 4: Giải pháp quản lý thị trường rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
6
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RAU AN TOÀN VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN
2.1. Một số lý luận về rau an toàn
2.1.1. Khái niệm rau an toàn
Lâu nay, người tiêu dùng đã quen với cụm từ “RAT”. Nhưng, thế nào là
RAT, chắc hẳn không nhiều người tường tận. Chúng ta cần phân biệt ba loại rau:
Rau đại trà, RAT và rau sạch.
Rau đại trà: là các loại rau đang sử dụng truyền thống, được tổ chức sản xuất
theo các tập quán khác nhau từng địa phương, không có quy trình thống nhất và
chất lượng cũng rất khác nhau.
Rau an toàn:
Có hai quan điểm về RAT:
Theo quyết định 106/2007 của Bộ NN & PTNT, RAT là những sản phẩm rau
tươi được sản xuất, thu hoạch, sơ chế phù hợp quy trình sản xuất RAT, gồm các loại
rau ăn: lá, thân, củ, hoa, quả, hạt; rau mầm, nấm thực phẩm. Đồng thời, RAT được
sản xuất từ đất trồng, nguồn nước, môi trường, dinh dưỡng… tất cả đều phải sạch
và đúng quy trình GAP (Good Agricultural Practices). Nguồn nước tưới rau không
bị ô nhiễm bởi các sinh vật và hoá chất độc hại, hàm lượng một số hoá chất không
vượt quá mức cho phép...Từ đó, rau quả được coi là an toàn khi có dư lượng nitrat,
kim loại nặng và thuốc BVTV, mức độ nhiễm vi sinh vật dưới ngưỡng quy định của
Bộ NN & PTNT ban hành với từng loại rau quả.
Theo các chuyên gia, RAT là loại rau mà ngay từ khâu gieo trồng không bị
bón phân đạm, hoặc bón rất ít phân đạm để tránh ô nhiễm muối nitrat, thay vào đó
phải bón phân vô cơ như phân chuồng, phân bắc ủ hoai.
Rau sạch: là rau được trồng trên đất sạch, tưới nước giếng khoan hoặc nước
sông lớn không ô nhiễm (chất lượng đất, nước được cơ quan chức năng kiểm tra và
công nhận). Không dùng phân tươi hay bón đạm nhiều. Hạn chế tối đa chất kích
thích sinh trưởng. Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết và sau một thời gian
quy định mới được thu hoạch.
Trong đời sống hàng ngày, hai khái niệm RAT và rau sạch chưa được phân
biệt rõ ràng thậm chí còn có sự đánh đồng giữa RAT và rau sạch. Để phân biệt
chính xác hơn, khái niệm rau sạch nên sử dụng để chỉ các loại rau được sản xuất
7
theo các quy trình canh tác đặc biệt, như rau thủy canh, rau “hữu cơ”…Mức độ đảm
bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của rau sạch cao hơn nhiều so với
RAT. Sản lượng rau sạch được sản xuất ở nước ta hiện nay không đáng kể (phần
lớn giới hạn trong phạm vi các dự án khoa học-sản xuất), nên chủ yếu đề cập tới
RAT.
Tóm lại, RAT được hiểu là rau tươi hoặc đã qua chế biến, được sản xuất theo
phương pháp hữu cơ hoặc có sử dụng các hóa chất nhưng trong tiêu chuẩn cho phép
và khi thu hoạch chỉ còn dư lượng dưới mức quy định, được trồng trên các vùng đất
đảm bảo các tiêu chuẩn thổ nhưỡng theo quy định, đảm bảo cho người sử dụng và
môi trường.
2.1.2. Nguyên tắc trong sản xuất rau an toàn
RAT khác rau đại trà ở chỗ nó được sản xuất theo các nguyên tắc đã được
nghiên cứu bởi các chuyên gia và các nhà nghiên cứu. Rau được sản xuất theo đúng
các nguyên tắc này sẽ đảm bảo chất lượng.
GAP (Good Agriculture Practice) là sáng kiến của những nhà bán lẻ Châu
Âu EURPWG (Euro- Retailer Produce Working Group) nhằm giải quyết mối quan
hệ bình đẳng và trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khách
hàng của họ. Họ đưa ra khái niệm GAP từ năm 1997.
Nguyên tắc sản xuất RAT theo tiêu chuẩn GAP đó là:
Chọn đất: Đất trồng rau phải là đất cao, thoát nước tốt, thích hợp với quá
trình sinh trưởng, phát triển của rau. Tốt nhất là chọn đất cát pha, đất thịt nhẹ hoặc
đất thịt trung bình có tầng canh tác dày 20-30 cm. Vùng trồng rau phải cách ly với
khu vực có chất thải công nghiệp nặng và bệnh viện ít nhất 2km, với chất thải sinh
hoạt của thành phố ít nhất 200m. Đất có thể chứa một lượng nhỏ kim loại nhưng
không được tồn dư hóa chất độc hại.
Nước tưới: Vì trong rau xanh nước chứa trên 90% nên việc tưới nước có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Nếu không có nước giếng cần dùng nước
sông, ao, hồ không bị ô nhiễm. Nước sạch còn dùng để pha các loại phân bón lá,
thuốc BVTV… đối với các loại rau ăn quả giai đoạn đầu có thể sử dụng nước từ
mương, sông, hồ để tưới rãnh.
Giống: Chỉ gieo những hạt giống tốt và trồng cây con khỏe mạnh, không có
mầm bệnh. Phải biết rõ lý lịch nơi sản xuất hạt giống. Hạt giống nhập nội phải qua
kiểm dịch thực vật. Trước khi gieo trồng hạt giống phải được xử lý hóa chất hoặc
8
nhiệt. Trước khi trồng cây con xuống ruộng cần xử lý Sherpa 0,1% để phòng trừ sâu
hại sau này.
Phân bón: Mỗi loại cây có chế độ bón và lượng bón khác nhau. Trung bình
để bón lót dùng 15 tấn phân chuồng và 300 kg lân hữu cơ vi sinh cho 1 ha. Tuyệt
đối không dùng phân chuồng tươi để loại trừ các vi sinh vật gây bệnh, tránh nóng
cho rễ cây và để tránh sự cạnh tranh đạm giữa cây trồng và các nhóm vi sinh vật.
Tuyệt đối không dùng phân tươi và nước phân chuồng pha loãng tưới cho rau.
Bảo vệ thực vật: Không sử dụng thuốc hóa học BVTV thuộc nhóm độc I và
II, khi thật cần thiết có thể sử dụng nhóm III và IV. Nên chọn loại thuốc có hoạt
chất thấp, ít độc hại với ký sinh thiên địch. Kết thúc phun thuốc hóa học trước khi
thu hoạch ít nhất 5 đến 10 ngày. Ưu tiên sử dụng các chế phẩm sinh học như các hạt
củ đậu, các chế phẩm thảo mộc, các ký sinh thiên địch để phòng bệnh. Áp dụng các
biện pháp nghiêm ngặt để phòng trừ tổng hợp IPM như: Luân canh cây trồng hợp
lý, sử dụng giống tốt không bệnh, chăm sóc cây theo yêu cầu sinh lý…
Thu hoạch, đóng gói: Rau được thu hoạch đúng độ chín, loại bỏ các lá già,
héo, quả bị sâu, dị dạng. Rau được rửa kỹ bằng nước sạch, để ráo cho vào bao, túi
sạch trước khi mang đi tiêu thụ tại các cửa hàng. Trên bao bì phải có phiếu bảo hành
ghi rõ địa chỉ nơi sản xuất nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.
2.1.3. Tiêu chuẩn đánh giá rau an toàn
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì có 4 tiêu chuẩn sau đây
nếu vượt quá ngưỡng cho phép sẽ thuộc vào rau không an toàn, các nhóm chất đó
là:
Dư lượng thuốc hóa học (thuốc sâu, bệnh, thuốc cỏ), số lượng vi sinh vật, ký
sinh trùng gây bệnh, dư lượng đạm nitrat, dư lượng các kim loại nặng (chì, thủy
ngân, kẽm, đồng, asenic..)
Dư lượng thuốc BVTV: Khái niệm thuốc BVTV: Gồm thuốc trừ sâu, thuốc
trừ bệnh, thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và thuốc kích thích sinh trưởng cây trồng,
gọi tắt là thuốc BVTV. Như vậy, thuốc BVTV khi phun vào cây trồng thuốc sẽ tạo
thành lớp mỏng bám vào bề mặt thân, lá và mặt đất, mặt nước và 1 lớp chất đó nó
còn tồn đọng lại trên sản phẩm thì gọi là dư lượng thuốc BVTV. Năm 2009, ở Việt
Nam sử dụng trên 200 loại thuốc trừ sâu, trên 80 loại thuốc trừ bệnh, trên 50 loại
thuốc trừ cỏ, khoảng 8 loại thuốc diệt chuột và khoảng 9 loại thuốc kích thích sinh
trưởng cây trồng. Khi sử dụng cần lưu ý những điểm sau:
9
- Khi sử dụng thuốc BVTV cần đảm bảo thời gian cách ly: Ví dụ một loại
thuốc ghi trên nhãn là thời gian cách ly 7 ngày, nghĩa là từ khi phun thuốc đến khi
thu hoạch phải được 7 ngày.
- Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết và chỉ sử dụng những loại thuốc
BVTV thuộc nhóm 1 hay nhóm 2 hoặc thuốc trừ sâu sinh học.
- Để phân biệt từng nhóm thuốc BVTV, có thể xác định bằng vạch màu ghi
trên nhãn Thuốc BVTV ở nhóm 1 có vạch màu đỏ. Thuốc BVTV ở nhóm 2 có vạch
màu vàng. Thuốc BVTV ở nhóm 3 có vạch màu xanh nước biển . Thuốc BVTV ở
nhóm 4 có vạch màu xanh lá cây. Ví dụ: Dư lượng thuốc BVTV tối đa cho phép đối
với rau cải là nhóm Diazion: 0,7mg/kg +Nhóm cypermethrin: 1,0 mg/kg + nhóm
Meviaphos: 1,0mg/kg + nhóm Trichlorphos: 0,2mg/kg.
Hàm lượng Nitrát (NO3): Lượng phân hoá học sử dụng ở Việt Nam không
vào loại cao so với thế giới và các nước trong khu vực. Tuy nhiên, ảnh hưởng của
phân hoá học, nhất là phân đạm với sự tích luỹ nitrát trong rau cũng là nguyên nhân
làm cho rau được xem là không sạch. NO3 vào cơ thể ở mức độ bình thường không gây độc, chỉ khi hàm lượng vượt tiêu chuẩn cho phép mới nguy hiểm. Trong hệ
thống tiêu hoá NO3 bị khử thành NO2. Nitrít là những chất chuyển biến
Oxyhaemoglobin (chất vận chuyển oxy trong máu) thành chất không hoạt động
được gọi là Methaemoglobin. Ở mức độ cao sẽ giảm hô hấp của tế bào, ảnh hưởng
tới hoạt động của tuyến giáp, gây đột biến và phát triển các khối u trong cơ thể
người, lượng Nitrít ở mức độ cao có thể gây phản ứng với amin thành chất gây ung
thư gọi là nitrosamin. Có thể nói hàm lượng nitrát vượt ngưỡng là rất nguy hiểm
cho sức khoẻ con người nên các nước nhập khẩu rau tươi điều kiểm tra hàm lượng
nitrát trước khi nhận sản phẩm. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) khuyến cáo hàm
lượng nitrát trong rau không vượt quá 300mg/kg tươi.
Tồn dư kim loại nặng trong sản phẩm rau: Sự lạm dụng hóa chất BVTV
cùng với phân bón các loại đã làm cho một lượng N.P.K và hóa chất BVTV bị rửa
trôi xuống mương vào ao hồ, sông suối thâm nhập vào mạch nước ngầm gây ô
nhiễm, các kim loại nặng tiềm ẩn trong đất trồng thẩm thấu hoặc từ nguồn nước thải
thành phố và khu công nghiệp chuyển trực tiếp qua nước tưới được rau xanh hấp
thụ.
Vi sinh vật gây hại trong rau xanh: Việc một số vùng sử dụng nước phân
tươi (phân người) cho rau đã trở thành một tập quán canh tác trong sản xuất rau
10
xanh, sử dụng phân gia súc chưa qua ủ, hoặc là chưa hoai mục chính là mầm mống
tạo nên các vi sinh vật độc hại.
Tóm lại, sản phẩm rau được xem là RAT khi đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Tươi, sạch bụi bặm, tạp chất; thu đúng độ chín có chất lượng cao nhất,
không có triệu chứng bệnh; hấp dẫn về hình thức,bao bì.
- Sạch an toàn về chất lượng: Khi sản phẩm rau không chứa các dư lượng thuốc
BVTV dư lượng NO3, dư lượng kim loại nặng, vi sinh vật gây hại.
2.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn
2.2.1. Quản lý nhà nước về thị trường rau an toàn
Quản lý có thể hiểu với ý nghĩa thông thường, phổ biến, với phạm vi rất rộng
là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức của chủ thể vào đối tượng nhất
định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người, nhằm duy trì
tính ổn định và sự phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định.
QLNN là hoạt động có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy nhà nước
(công quyền) để điều chỉnh các quá trình xã hội, hành vi của công dân và mọi tổ
chức xã hội (chính trị- kinh tế- xã hội), giữ gìn trật tự xã hội (thể chế chính trị) và
phát triển xã hội theo những mục tiêu đã định.
QLNN về thị trường RAT là hoạt động có tổ chức của nhà nước thông qua
các văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách, nhà nước sẽ tác động đến thị trường
RAT trên cả nước nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể sản xuất, kinh doanh,
người tiêu dùng để thực hiện tốt các vấn đề về sản xuất và cung cấp RAT.
2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn
Hiện nay, nhu cầu sử dụng RAT ngày một tăng, tuy nhiên trên thị trường
xuất hiện rất nhiều các loại rau không rõ nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng chưa được
kiểm định chặt chẽ.
Phần lớn người tiêu dùng tiện đâu mua đấy, họ chỉ dựa vào kinh nghiệm để
chọn và mua rau. RAT và rau không an toàn khó có thể nhận biết được bằng mắt
thường. Thậm chí những rau được bán trong các cửa hàng kinh doanh RAT có nhãn
RAT nhưng chất lượng có khi lại không được đảm bảo.
Với các cơ sở kinh doanh RAT, chính bản thân họ cũng không thể kiểm định
được chất lượng rau mà họ kinh doanh do không có điều kiện để tiến hành kiểm tra.
Mặt khác, do sự lỏng lẻo trong quản lý nên một số cơ sở kinh doanh RAT còn mua rau
đại trà về gắn nhãn RAT để bán với giá cao hơn.
11
Hiện nay, vấn đề tiêu thụ RAT còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều nơi sản xuất
rau theo quy trình GAP nhưng lại chưa có giấy chứng nhận hay nhãn mác riêng cho
sản phẩm của mình, chưa được đăng ký ở các cơ quan có thẩm quyền vì vậy gây ra
tâm lý nghi ngờ cho người tiêu dùng. Mặt khác, số lượng cơ sở kinh doanh RAT
còn ít nên chưa thể thu mua hết lượng RAT sản xuất ra. RAT sản xuất ra, một phần
người nông dân phải tự mang ra chợ bán lẻ nên việc tiêu thụ không dễ dàng và
không đảm bảo thu nhập của người nông dân.
Từ những thực trạng trên cho thấy tầm quan trọng và cần thiết của QLNN
đối với thị trường RAT như thế nào. Cần có sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo
quyền lợi cho người sản xuất và kinh doanh RAT đồng thời đảm bảo sức khỏe,
quyền lợi của người tiêu dùng, giúp họ yên tâm hơn khi mua RAT.
2.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về thị trường RAT
2.2.3.1. Ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch liên quan
đến thị trường rau an toàn
Nhà nước ban hành, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật đối với vấn
đề quản lý nhà nước về thị trường RAT
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành theo
thẩm quyền, hình thức, trình tự thủ tục được quy định trong luật của hội đồng nhân
dân, UBND, trong đó có các quy tắc sử xự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được
nhà nước đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Xác lập các cơ sở đúng đắn cho các hoạt động trên thị trường RAT được xem
là điều kiện tiên quyết đảm bảo thị trường RAT hoạt động ổn định, bảo vệ lợi ích
chính đáng của người sản xuất và kinh doanh RAT. Nhà nước thông qua cơ chế
cưỡng chế buộc các chủ thể sản xuất và kinh doanh RAT phải thực hiện đúng
những quy định đã đề ra. Từ đó, người sản xuất và kinh doanh RAT có thể đưa ra
phương thức phát triển hợp lý, đồng thời không vi phạm quy định của nhà nước.
Vai trò của văn bản quy phạm pháp luật:
Thể chế hóa các chủ trương chính sách của đảng và nhà nước về quản lý thị
trường RAT.
Đặt ra và điều chỉnh quan hệ xã hội.
Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật về QLNN đối với thị trường RAT
bao gồm:
Đối tượng áp dụng: các cơ sở sản xuất, sơ chế và kinh doanh RAT.
12
Điều kiện sản xuất, sơ chế và kinh doanh RAT.
Đăng ký và các giấy chứng nhận cho cơ sở đủ điều kiện sản xuất và kinh
doanh RAT.
Chỉ định tổ chức chứng nhận.
Quyền và trách nhiệm của các tổ chức được chứng nhận.
Tổ chức chứng nhận chất lượng đánh giá và cấp giấy chứng nhận rau được
sản xuất theo quy trình RAT.
Tổ chức, cá nhân sản xuất RAT tự đánh giá quá trình sản xuất.
Công bố rau được sản xuất theo quy trình RAT.
Thời gian vừa qua, nhà nước đã đưa ra nhiều văn bản, quyết định về quản lý
thị trường RAT như:
Quyết định số 04/2007/QĐ-BNN ban hành “quy định về quản lý và chứng
nhận RAT”.
Quyết định số 106/2007/QĐ-BNN ban hành “quy định về quản lý sản xuất
và kinh doanh RAT”.
Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN ban hành “quy định quản lý sản xuất, kinh
doanh rau, quả, chè an toàn”.
Quyết định số 107/2008/QĐ-TTg ban hành “một số chính sách hỗ trợ phát
triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn.
Quyết định số 104/2009/QĐ-UBND ban hành “quy định về quản lý sản xuất
và kinh doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội”…
2.2.3.2. Quản lý chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt động sản
xuất và kinh doanh RAT
Kiểm tra việc đăng ký sản xuất và kinh doanh RAT của các cá nhân và tổ
chức.
Sở NN và PTNT: thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các Quy trình kỹ thuật
sản xuất RAT, các quy định về sơ chế RAT. Kiểm tra chất lượng RAT ở các khâu
từ sản xuất, sơ chế, kinh doanh RAT theo quy định.
Sở Công thương: thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về điều kiện
kinh doanh RAT của các cửa hàng, quầy hàng kinh doanh RAT trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
Sở Y tế: thanh tra, kiểm tra công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng
RAT ở các cơ sở chế biến, các cửa hàng, quầy hàng kinh doanh RAT trên địa bàn
13
thành phố Hà Nội. Phát hiện và xử lý theo thẩm quyền những hành vi vi phạm chế
độ quy định và luật pháp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh RAT.
Tổ chức, cá nhân và hộ gia đình vi phạm các quy định trong “Quy định về
quản lý sản xuất và kinh doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội” sẽ bị xử lý
theo quy định tại Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN ngày 15/10/2008 của Bộ Nông
nghiệp và kênh phân phối RAT
2.2.3.3. Quản lý cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối
Cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối có vai trò quan trọng trong việc
sản xuất và tiêu thụ RAT hiệu quả. Cơ sở hạ tầng cho kinh doanh RAT bao gồm hệ
thống cửa hàng, chợ đầu mối, siêu thị, đường giao thông và cho sản xuất RAT là hệ
thống tưới, tiêu nước, hệ thống điện, nhà lưới, nhà sơ chế, bể chứa chất thải vật tư
nông nghiệp… Hệ thống kênh phân phối bao gồm: từ người sản xuất - người bán
buôn - người bán lẻ - người tiêu dùng, người sản xuất - người bán lẻ - người tiêu
dùng, người sản xuất - người tiêu dùng.
Nội dung quản lý cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối của Nhà nước
tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Nhà nước phải trực tiếp quy hoạch các chợ đầu mối, xây dựng hệ thống
đường giao thông, nhà kho, sơ chế… đầu tư hỗ trợ người nông dân về vốn, kỹ
thuật…
Tăng cường quản lý hệ thống kênh phân phối theo kế hoạch và khuyến khích các
cá nhân, tổ chức tham gia đầu tư và phát triển mạng lưới phân phối RAT.
2.2.3.4. Quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị trường
Quản lý, kiểm tra chất lượng RAT trên thị trường là một nội dung quan trọng
của nhà nước đối với thị trường RAT, góp phần định hướng, dẫn dắt các chủ thể
tham gia sản xuất và cung cấp RAT một cách hiệu quả.
Quản lý và kiểm soát chất lượng RAT trên thị trường tập trung vào các nội
dung chủ yếu sau:
Cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở đủ điều kiện sản xuất RAT theo nguyên
tắc GAP.
Ban hành các tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá chất lượng RAT.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở sản xuất và kinh doanh
RAT hoạt động tốt trên thị trường.
14
Kiểm tra chặt chẽ các loại rau nhập khẩu từ Trung Quốc và đặc biệt là các
loại rau không rõ nguồn gốc.
Ngoài các nội dung chủ yếu trên, Nhà nước còn tham gia vào quản lý giá rau,
thuốc BVTV, khuyến khích đội ngũ các nhà khoa học tham gia nghiên cứu và tạo ra
giống cây trồng mới và thuốc BVTV mới giúp người sản xuất nâng cao năng suất.
15
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
HIỆN NAY
3.1. Thực trạng thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.1.1. Nguồn cung RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
Đến nay, đại bộ phận người tiêu dùng Thủ đô đã biết đến RAT. Để có RAT
đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của người tiêu dùng, thành phố Hà Nội đã quy
hoạch các vùng trồng RAT tập trung ở các huyện ngoại thành: Đông Anh, Gia Lâm,
Từ Liêm... với tổng diện tích gần 3.000 ha gieo trồng, đồng thời xây dựng các mô
hình sản xuất RAT có chất lượng cao.
Tính đến ngày 25/3/2009, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 20 cơ sở, HTX
được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất và sơ chế RAT. 20 cơ sở này đều
nằm trong vùng quy hoạch sản xuất RAT của thành phố với đầy đủ các điều kiện về
đất, nước tưới và vị trí. Theo đánh giá của Chi cục BVTV Hà Nội, các hộ sản xuất
RAT trong khu vực được cấp giấy chứng nhận bước đầu sử dụng thuốc BVTV và
sản xuất rau theo quy trình đảm bảo VSATTP tương đối tốt. Các đợt lấy mẫu phân
tích hàm lượng dư lượng thuốc BVTV đều dưới ngưỡng cho phép.
16
Bảng 3.1: Diện tích, năng suất và sản lượng RAT cung ứng trên địa bàn Hà Nội Chủng loại rau Xã, huyện
Số vụ/năm Năng suất (tấn/ha) Sản lượng ( tấn/năm)
Theo mùa 43 loại Xu hào, bắp cải, bí xanh
Diện tích (ha) 60 35 30 1.Đông Anh Xã Vân Nội Xã Nam hồng Xã Bắc hồng 3 3 3 20 - 25 16 -18 16 - 18 3600-4500 1700-1900 1400-1650 Cà chua, xu hào, cải bắp, đậu
100 3 15-16 4500-4800
quả Cà chua, xu hào, khoai tây, cải các loại
100 Xã Nguyên Khê, Tiên Dương, Kim Chung, Kim Nổ 2.Gia Lâm Xã Văn Đức 3 16-17 4800-5000 Cải bắp, cà chua, đậu hà lan,
Xã Đăng Xá 15-16 2200-2400 3
50 xu hào, cải các loại Cải các loại, đậu quả, cà chua, cải bắp
Xã Đông dư 16-17 1900-2000 Các loại rau gia vị: mùi, rau 40 3
50 20 Xã Lệ chi 3.Thanh Trì Xã Lĩnh Nam 3 3 15-16 19-20 2250-2400 1140-1200
15 25 185 3 3 3 15-16 15-16 19,5 675-720 1120-1200 108225
thơm và rau các loại Các loại rau theo mùa vụ Các loại rau muống, ngót, mồng tơi, bí… Súp lơ, bí và cải các loại Cà chua và cải các loại… Rau gia vị và các loại rau ăn lá theo mùa vụ
50 Xã Yên Mỹ Xã Duyên Hà 4.Từ Liêm Minh Khai, Phú Diễn, Liên mạc 5.Sóc sơn Xã Đông Xuân 3 15 2300
Bắp cải, xu hào, ngô bao tử, cải các loại…
Xã Thanh Xuân 10 3 15 450
Bắp cải, xu hào, cải các loại, dưa chuột, bí xanh…
Nguồn :rauhoaquavietnam.vn
17
Trên đây là bảng số liệu về diện tích, năng suất và sản lượng của một số
huyện trên địa bàn Hà Nội năm 2009. Sản lượng RAT và rau đại trà của Hà Nội đạt
175.000 tấn/ năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ của Hà Nội hiện khoảng 1.200 tấn/
ngày. Như vậy chưa cần bàn đến chất lượng thì cung cũng chỉ mới đáp ứng được
40% lượng cầu, còn 60% phải nhập từ các địa phương khác. Riêng về sản xuất RAT
mới chỉ đáp ứng 18% nhu cầu vào khoảng gần 300 tấn/ngày. Vì vậy, lượng rau
thiếu hụt tất yếu sẽ được nhập từ các địa phương khác, trong đó chủ yếu là các tỉnh,
thành phố gần với Hà Nội về khoảng cách địa lý như Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hưng
Yên, Nam Định, Phú Thọ…
Ngoài ra, mỗi ngày có khoảng 400 tấn rau, củ, quả nhập khẩu từ Trung Quốc
vào Việt Nam qua các cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn), Móng Cái (Quảng Ninh),
Hà Khẩu (Lào Cai)… Tuy nhiên, chất lượng các loại rau quả nhập khẩu, đặc biệt là
về dư lượng các thuốc BVTV, hóa chất bảo quản lại chưa được các cơ quan chức
năng kiểm định. Trên thực tế các cơ quan chức năng đang buông lỏng quản lý, “đá
bóng” trách nhiệm cho nhau, tạo kẽ hở để rau củ không an toàn tràn vào nội địa.
Hầu hết lượng rau quả nhập khẩu từ Trung Quốc không phải là RAT.
Nguồn cung RAT cho các cơ sở kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội rất đa
dạng. Trong phiếu điều tra trắc nghiệm câu hỏi số 2: “Cửa hàng của ông (bà) chủ
yếu nhập RAT từ đâu?” Có 6,67% cửa hàng chủ yếu nhập rau từ địa phương khác,
33,33% cửa hàng cho biết họ chủ yếu nhập RAT từ các cơ sở sản xuất RAT trên địa
bàn Hà Nội. Đây chủ yếu là các cửa hàng kinh doanh với quy mô nhỏ, mới mở.
Khối lượng rau tiêu thụ mỗi ngày không lớn do còn gặp khó khăn trong việc tiêu
thụ rau. Có 60% cửa hàng cho biết họ không chỉ nhập RAT từ các cơ sở sản xuất
RAT tại Hà Nội mà còn nhập từ các địa phương khác như Hải Dương, Hải Phòng...
Họ cho biết thêm nếu chỉ nhập rau từ các cơ sở sản xuất tại Hà Nội nhiều khi không
được cung cấp rau kịp thời và chủng loại rau bán không được phong phú. Điều này
cho thấy rằng các cơ sở sản xuất RAT trên địa bàn Hà Nội cần phát triển nhiều hơn
nữa cả về quy mô và cơ cấu cây trồng để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
3.1.2. Tình hình cung - cầu, giá cả, cạnh tranh trên thị trường RAT Hà Nội hiện
nay
3.1.2.1. Tình hình cung RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
Hiện nay RAT được cung cấp trên thị trường Hà Nội chủ yếu là do các HTX
sản xuất RAT ở các vùng ngoại thành như: HTX tổng hợp Văn Đức, Gia Lâm, Hà
18
Nội; HTX dịch vụ nông nghiệp Đông Dư; HTX dịch vụ Đồng Tâm, phường Giang
Biên; HTX dịch vụ nông nghiệp Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai…còn lại được nhập từ
các địa phương khác trong cả nước. Tính đến năm 2009 Hà Nội đã có khoảng
12.000 ha rau trong đó có khoảng 2.105 ha diện tích sản xuất RAT, chiếm khoảng
18% trên tổng diện tích trồng rau của toàn thành phố. Sản lượng RAT làm ra mỗi
năm mới chỉ đáp ứng được 18% nhu cầu, nhưng việc tiêu thụ loại rau này lại rất
chật vật. Tại nhiều vùng trồng RAT, người trồng rau luôn khốn đốn tìm đầu ra.
Sản xuất RAT đòi hỏi chi phí bỏ ra nhiều hơn chi phí sản xuất rau đại trà
khoảng 30 - 35%. Khác với sản xuất rau thông thường, sản xuất RAT đòi hỏi yêu
cầu khắt khe trong cả quá trình sản xuất. Ngoài việc đảm bảo các tiêu chuẩn về đất
trồng, nước tưới, từ khâu giám sát đầu vào, quy trình gieo trồng chăm sóc, đến khâu
thu hoạch tiêu thụ sản phẩm đều phải đảm bảo theo các tiêu chuẩn quy định. Khi
sản xuất RAT những người dân mong muốn cung cấp cho thị trường những sản
phẩm RAT đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, với chi phí cao như vậy thì đòi hỏi giá
RAT cao hơn giá rau đại trà là điều tất yếu. Trên thực tế không phải tất cả RAT
được sản xuất ra đều được bán với đúng giá trị của nó. Trừ những nơi sản xuất có
thương hiệu như: Đặng Xá, Đông Dư, Lĩnh Lam… có cơ sở đứng ra thu mua tận
ruộng, đầu ra của những địa phương này được đảm bảo nên giá rau bán ra phù hợp
với chi phí mà người nông dân đã bỏ ra. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều HTX sản
xuất RAT nhưng chưa tìm được đầu ra cho sản phẩm của mình. Do vậy, nhiều
người dân tuy đã tham gia vào HTX sản xuất RAT nhưng khi thu hoạch thì phải
mang ra chợ bán. Trong chợ được bày bán rất nhiều loại rau mà chủ yếu là rau đại
trà. Giá rau ngoài chợ thường không ổn định, biến động từng ngày nên thu nhập của
người nông dân rất bấp bênh.
Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản phẩm được gắn nhãn RAT nhưng
không đảm bảo chất lượng. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng có thể kể
đến là: Nguyên nhân thứ nhất là do người nông dân còn yếu kém về trình độ. Quy
trình sản xuất RAT đòi hỏi yêu cầu khắt khe trong tất cả các khâu của quá trình sản
xuất. Tuy nhiên, với các xã viên trong các HTX sản xuất RAT vốn quen với phương
thức canh tác rau truyền thống, lại thiếu vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, quy mô nhỏ lẻ do
đó việc đảm bảo đúng các tiêu chuẩn trồng RAT và tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường là việc vô cùng khó khăn. Từ đó cho ra đời những sản phẩm RAT không thật
sự đạt tiêu chuẩn quy định. Những sản phẩm RAT không đảm bảo chất lượng này
19
lại được cung cấp cho các cơ sở kinh doanh RAT và được bán ra thị trường.
Nguyên nhân thứ hai do các chủ cơ sở kinh doanh RAT gặp khó khăn trong việc
kiểm tra chất lượng rau. Trong câu hỏi số 5 của phiếu điều tra trắc nghiệm: “Cửa
hàng của ông (bà) có kiểm tra chất lượng RAT cung cấp cho cửa hàng không?” Có
32,67% cơ sở kinh doanh RAT cho biết họ không tiến hành kiểm tra chất lượng rau
mà chỉ kiểm tra số lượng có đủ theo đặt hàng hay không. Có 24% của cơ sở kinh
doanh RAT trả lời rằng họ có thể kiểm tra chất lượng RAT nhập về. Đó là cơ sở
kinh doanh lớn có uy tín có quy trình kiểm tra hiện đại. Có 53,33% cơ sở kinh
doanh RAT trả lời là họ chỉ kiểm tra được một phần RAT nhập về. Họ chỉ kiểm tra
bao gói sản phẩm có đạt yêu cầu không, RAT có dập nát hay thối không… còn dư
lượng thuốc BVTV trong rau thì họ không thể kiểm tra được. Các phương pháp có
thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá chất lượng của rau như: phương pháp cảm quan,
phương pháp thí nghiệm, phương pháp chuyên viên, phương pháp sử dụng thử.
Việc đánh giá chất lượng rau bằng phương pháp cảm quan đơn giản, tiện lợi, chi phí
thấp nhưng độ chính xác không cao, khó khách quan. Việc xác định các chỉ tiêu về
VSATTP bằng phương pháp thí nghiệm độ chính xác cao, khách quan, tin cậy
nhưng đòi hỏi thời gian dài (2-3 ngày) và chi phí quá lớn (1,5-3 triệu đồng/1 mẫu),
tốn công sức và không phải lúc nào cũng thực hiện được và không phải ai cũng làm
được, phương pháp này hầu như chỉ có các cán bộ chi cục BVTV và quản lý thị
trường thực hiện... Mà rau quả là mặt hàng thực phẩm tươi sống, nhanh hư hỏng
nên việc dùng các biện pháp kỹ thuật để kiểm tra chất lượng rau là không khả thi
trên thực tế. Nguyên nhân thứ ba do việc sản xuất RAT cho năng suất thấp và chi
phí cao nhưng trong thực tế nhiều người dân lại phải bán như giá rau thường. Vì
vậy một bộ phận người sản xuất đã không mặn mà với việc sản xuất RAT. Một
nguyên nhân khác là do các cơ sở kinh doanh RAT muốn thu lợi nhuận cao nên đã
mua rau trôi nổi trên thị trường về gắn nhãn RAT và bán với giá của RAT khiến
người tiêu dùng nghi ngờ chất lượng của RAT. Tình trạng này khá phổ biến trên thị
trường hiện nay.
Một phần RAT được cung cấp đến người tiêu dùng thông qua hệ thống cửa
hàng kinh doanh RAT và siêu thị. Khoảng cách từ các hệ thống cửa hàng, siêu thị
kinh doanh RAT trên thị trường Hà Nội đến nơi sống của người tiêu dùng còn khá
xa. Theo phiếu điều tra ý kiến người tiêu dùng trong câu hỏi số 9 “Khoảng cách từ
nơi bạn sống đến cửa hàng kinh doanh RAT gần nhất?” Chỉ có 3% người tiêu dùng
20
được hỏi trả lời dưới 1km, 15% người tiêu dùng trả lời khoảng cách từ 1km đến
3km, và có tới 82% người tiêu dùng trả lời là cách địa điểm kinh doanh RAT trên
5km. Điều này cho thấy rằng, hệ thống kinh doanh RAT trên thị trường Hà Nội hiện
nay còn rất ít chưa tạo được sự thuận lợi để người tiêu dùng đến với RAT. Theo
phiếu điều tra ý kiến người tiêu dùng, trong câu hỏi số 8 “Bạn có biết cửa hàng kinh
doanh RAT nào không?” Có tới 65% người tiêu dùng trả lời rằng họ chưa biết địa
điểm nào để mua RAT, chỉ có 35% người tiêu dùng biết được một vài địa điểm kinh
doanh RAT trong thành phố Hà Nội hiện nay. Một nguyên nhân khác khiến cho
nhiều người tiêu dùng còn chưa biết đến các cửa hàng kinh doanh RAT là do các
cửa hàng này còn chưa chú trọng đến việc giới thiệu cửa hàng và sản phẩm RAT tới
người tiêu dùng. Trong câu hỏi số 6 của phiếu điều tra trắc nghiệm “Ông (bà) có
quan tâm đến việc quảng cáo cho cửa hàng của mình để được người tiêu dùng biết
đến không?” Có 13,33% cơ sở kinh doanh rất quan tâm, có 33,33% cơ sở kinh
doanh là quan tâm, có tới 53,34% cơ sở kinh doanh không quan tâm đến việc quảng
cáo để người tiêu dùng có thể biết đến cửa hàng của họ.
Lượng cung cụ thể của một số loại rau cho thị trường Hà Nội được thể hiện
trong bảng dưới đây:
Bảng 3.2: Tình hình cung một số loại RAT trên địa bàn Hà Nội
Tên rau Lượng rau ( tấn/ ngày) Tôc độ tăng năm sau
so với năm trước (%)
2007 2008 2009 2008/2007 2009/2008
Rau muống 18 20 21 11,1 5
Cải ngọt 16 18 20 12,5 11,1
Bắp cải 15 16 17 6,7 6.25
Súp lơ xanh 12 16 19 16,8 18,8
Cải thảo 17 21 22 23,4 4,8
Rau ngót 13 15 18 15,3 20
… … … … … …
Tổng cung 220 255 300 15,9 17,6
Nguồn: rauhoaquavietnam.vn
Qua bảng trên cho thấy cung RAT trung bình từng ngày tăng lên hàng năm.
Năm 2007 lượng cung RAT là 220tấn/ ngày, đến năm 2008 tăng lên 255 tấn/ ngày
(tương đương tăng 15,9%), năm 2009 lượng cung tiếp tục tăng lên 300 tấn/ ngày
21
(tăng 17,6%) so với năm 2008. Lượng cung RAT tăng lên hàng năm do diện tích
trồng RAT tiếp tục được mở rộng theo các đề án phát triển sản xuất RAT. Đến năm
2009, diện tích trồng RAT trên địa bàn Hà Nội là 2105ha, tăng gần 500 ha so với
năm 2007. Hầu hết các địa phương khác như Hải Dương, Hưng Yên … đều tăng
diện tích trồng RAT lên. Trong quá trình sản xuất, người nông dân tích cực áp dụng
khoa học công nghệ và trồng nhiều giống mới cho năng suất cao hơn. Đó cũng là
nguyên nhân mà lượng RAT được cung cấp cho thị trường ngày càng tăng.
3.1.2.2. Tình hình cầu về RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
Sau khi mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội có diện
tích 3324,92 km2, gồm 1 thị xã, 10 quận và 18 huyện ; dân số 6,233 triệu dân; thu
nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 960 USD/người. Dân số của Hà Nội đã
tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra, Hà Nội còn thường xuyên tiếp nhận một lượng
khách vãng lai lớn bao gồm cả khách du lịch trong và ngoài nước. Trên địa bàn Hà
Nội cũng tập trung một lượng lớn các khu công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, các
trường Đại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.Vì vậy nhu cầu tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ nói chung, nông sản phẩm nói riêng của Hà Nội là rất lớn, đặc biệt là
các sản phẩm có chất lượng cao. Thêm vào đó, trong những năm gần đây, nền kinh
tế ngày một phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân Hà Nội ngày càng được
nâng cao, do vậy, một bộ phận người dân đã chuyển sang sử dụng các sản phẩm
RAT thay vì các sản phẩm rau đại trà.
Hàng năm, trên địa bàn TP Hà Nội đã xảy ra hàng nghìn vụ ngộ độc thực
phẩm. Có hàng trăm nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó, các loại rau quả
với dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép là một tác nhân ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe của người tiêu dùng. Ở mức độ nhẹ, nó gây ngộ độc thực phẩm, nặng
sẽ ảnh hưởng đến quá trình hô hấp, gây đột biến và phát sinh các căn bệnh ung thư.
Việc sử dụng các loại thực phẩm không đảm bảo VSATTP gây ảnh hưởng rất lớn
đến sức khỏe con người. Xu hướng chung là người tiêu dùng dần chuyển sang sử
dụng các sản phẩm đảm bảo VSATTP.
Theo phiếu điều tra ý kiến người tiêu dùng đối với câu hỏi 1 “Bạn có biết
đến sản phẩm RAT không?” Có 97% người tiêu dùng trả lời rằng họ biết đến RAT,
chỉ có 3% chưa biết đến RAT. Điều này cho thấy RAT đã trở nên quen thuộc đối
với người tiêu dùng. Đối với câu hỏi 2 “Bạn biết đến sản phẩm RAT qua phương
tiện nào?” Phần lớn người tiêu dùng đều trả lời là biết đến RAT thông qua giới thiệu
22
của bạn bè, người thân (40%) và qua internet (35%), còn lại 25% là biết qua sách
báo và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Đối với câu hỏi 3 “Khi mua rau
bạn có quan tâm đó là RAT không?” Một tỷ lệ khá cao có tới 90% người tiêu dùng
cho biết khi mua rau họ không để ý tới rau họ mua là RAT hay rau đại trà. Điều này
cho thấy do thói quen mua bán hàng ngày của người tiêu dùng rất “dễ tính” trong sự
lựa chọn sản phẩm.
Ý kiến của người tiêu dùng về địa điểm họ mua rau hàng ngày được thể hiện
trong bảng dưới đây:
Bảng 3.3: Kết quả điều tra về địa điểm mua rau của người tiêu dùng
STT Địa điểm Số lượng ( người) Tỷ lệ (%)
1 Chợ cóc, chợ tạm gần nhà, gần 59 59
trường, gần nơi làm việc
2 Siêu thị 37 37
3 Cửa hàng kinh doanh RAT 4 4
Tổng số 100 100
Nguồn: Điều tra thực tế
Trong 100 người tiêu dùng được hỏi có tới 59% người tiêu dùng vẫn giữ thói
quen mua rau không an toàn tại các chợ gần nhà, gần nơi làm việc. Tuy nhiên, hiện
có nhiều người tiêu dùng đang chuyển dần từ thói quen mua ở các chợ hay các cửa
hàng rau gần nhà sang mua các sản phẩm RAT trong các siêu thị (42%). Khi được
hỏi thêm lý do khiến họ mua rau trong siêu thị, nhiều bà nội trợ cho biết vì chất
lượng rau trong các siêu thị vượt trội so với rau bán ở bên ngoài. Sản phẩm rau quả
trong siêu thị thường được bảo quản và chế biến dựa trên nguyên tắc chặt chẽ, đảm
bảo độ tươi, ngon, chất lượng cao, đem lại sự an toàn vệ sinh cho người tiêu dùng.
Các loại rau tươi được đóng gói và bảo quản đông lạnh như các loại rau cải, rau cần,
rau dền, rau muống, xà lách...và các loại rau được sấy khô như các loại nấm, măng
tây, hành, tỏi khô... được bán ngay tại quầy, đảm bảo chất lượng VSATTP. Trong
đó số người tiêu dùng đến cửa hàng kinh doanh RAT mua còn chiếm tỷ lệ khá thấp
(7%). Họ cho biết: do cửa hàng kinh doanh RAT không gần nhà, đi xa lại không
tiện đường nên không tới đó.
Lượng RAT tiêu thụ trên địa bàn Hà Nội được thể hiện trong bảng dưới đây:
23
Bảng 3.4: Tình hình tiêu thụ một số loại RAT trên địa bàn Hà Nội
Tên rau Lượng rau tiêu thụ (tấn/ ngày) Tốc độ tăng năm sau
so với năm trước (%)
2007 2008 2009 2008/2007 2009/2008
Rau muống 22 25 27 13,6 8%
Cải ngọt 20 22 25 10 13,6
Bắp cải 17 18 20 5,9 11
Súp lơ xanh 15 17 21 13,3 3,5
Cải thảo 18 21 23 16,7 9,5
Rau ngót 14 17 20 21,4 17,6
… … … … … …
14,5 20 Tổng lượng rau 214 245 295
tiêu thụ/ ngày
Nguồn: rauhoaquavietnam.vn
Mỗi ngày lượng RAT mà thị trường Hà Nội tiêu thụ khoảng 295 tấn năm
2009. Từ bảng số liệu trên cho thấy tình hình tiêu thụ RAT tăng lên hàng năm. Năm
2007 mỗi ngày Hà Nội tiêu thụ RAT là 214 tấn/ ngày, đến năm 2008 tăng lên
245tấn/ ngày (tương đương tăng 14,5%). Đến năm 2009 lượng RAT được tiêu thụ
tăng lên 295 tấn/ngày (tương đương tăng 20%). Tuy nhiên, lượng RAT cung ứng
cho thị trường thực tế còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu của người tiêu dùng. Có
80% người tiêu dùng sẵn sàng mua RAT nếu tin chắc đó là RAT. Nhưng khi lấy ý
kiến người tiêu dùng trong câu hỏi số 5 “Bạn có thường xuyên mua RAT không?”
Có 8% người tiêu dùng được hỏi trả lời là thường xuyên mua, 28% thỉnh thoảng và
có tới 64% chưa mua bao giờ. Do trên thực tế chất lượng RAT vẫn là ẩn số và
người tiêu dùng khó có thể kiểm định được chất lượng rau. Thêm vào đó nhiều cửa
hàng kinh doanh RAT dù có giấy phép kinh doanh RAT vẫn vi phạm, họ mua rau
đại trà về bán lẫn đã làm cho lòng tin của người tiêu dùng bị giảm sút. Điều này
khiến cho nhiều người tiêu dùng mặc dù có nhu cầu mua RAT nhưng lại không mua
RAT. Đây là một số lý do khiến cho lượng RAT tiêu thụ thực tế thấp hơn so với
nhu cầu RAT của người dân.
24
3.1.3. Mối quan hệ cung - cầu RAT trên thị trường Hà Nội
Hà Nội là nơi thực hiện việc sản xuất rau theo quy trình an toàn đã hơn 10
năm. Hiện nay, lượng RAT mới chỉ đáp ứng được khoảng 18% nhu cầu của người
tiêu dùng. Có thể thấy rằng, lượng cung còn quá ít so với lượng cầu. Trong khi đó,
nhu cầu sử dụng RAT ngày càng tăng trong tương lai. Bài toán mất cân đối cung-
cầu là điều đang tồn tại trên thị trường RAT hiện nay. Theo quy luật cung- cầu thì
cung nhỏ hơn cầu làm cho giá tăng. Với lượng cung ít như vậy thì việc tiêu thụ
RAT là vấn đề khá đơn giản. Nhưng thực tế lại không như lý thuyết. Hiện nay, việc
tiêu thụ RAT là một vấn đề khó khăn đặt ra cho người nông dân sản xuất RAT, các
nhà kinh doanh RAT và nhà quản lý thị trường.
Nhu cầu của người tiêu dùng về RAT tăng. Đó là một tin vui cho những
người trồng RAT vì đã có một lượng lớn người tiêu dùng sẵn sàng mua sản phẩm
RAT mà họ sản xuất ra. Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn là nhiều người nông
dân tuy đã tham gia vào HTX sản xuất RAT nhưng khi sản xuất ra không có cơ sở
thu mua RAT, họ phải tự mang rau ra chợ bán lẻ như rau đại trà. Khi RAT mang ra
chợ bán thì không có ranh giới giữa RAT và rau đại trà, người nông dân không thể
chứng minh rau họ bán là RAT nên giá bán không cao. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng cung thiếu mà không bán được hàng, còn cầu nhiều mà chưa được
đáp ứng?
Hiện nay trên thị trường cửa hàng kinh doanh RAT rất ít nên chưa đủ để thu
mua được hết toàn bộ lượng RAT sản xuất ra. Do vậy một lượng lớn RAT sản xuất
ra người nông dân phải mang đi bán lẻ tại các chợ. Như vậy thu nhập không đảm
bảo cho người dân tiếp tục sản xuất. So sánh hơn thua giữa quy trình sản xuất RAT
và sản xuất rau đại trà khiến nhiều người nông dân tỏ ra không mặn mà với việc
trồng RAT.
Hơn thế nữa, không ít hộ trồng rau do chạy theo lợi nhuận đã không tuân thủ
đúng quy trình sản xuất nên chất lượng rau không đạt yêu cầu. Thêm vào đó nhiều
cửa hàng kinh doanh RAT hiện nay vì mục tiêu lợi nhuận, đã bán lẫn rau đại trà và
RAT đều với giá của RAT. Nhiều khi chỉ mua một số ít sản phẩm RAT về làm mẫu,
còn lại lấy rau đại trà về bán. Đây là nguyên nhân khiến cho người tiêu dùng không
tin tưởng vào chất lượng RAT, khiến cho nhiều cửa hàng, siêu thị kinh doanh RAT
rơi vào tình trạng ế ẩm.
25
3.1.4. Tình hình giá cả RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
Cũng như nhiều mặt hàng khác, RAT cũng chịu sự ảnh hưởng của các quy
luật trên thị trường, đặc biệt là quy luật cung- cầu. Khi cung lớn hơn cầu thì giá
thấp, ngược lại khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cao. Giá RAT trên thị trường không
ngừng biến động theo mùa vụ và theo từng năm. Hơn nữa, việc sản xuất các loại
nông sản nói chung và sản xuất rau nói riêng đều chịu ảnh hưởng rất lớn của thời
tiết. Khi thời tiết thuận lợi rau sinh trưởng nhanh, cho năng suất cao và chất lượng
tốt, người nông dân được mùa. Lúc đó, cung lớn hơn cầu dẫn tới giá rau bị giảm
xuống. Khi thời tiết khắc nghiệt rau sinh trưởng chậm và chất lượng rau cũng kém
hơn. Bên cạnh đó, sâu bệnh, dịch hại phát sinh, cũng ảnh hưởng không tốt đến chất
lượng của rau. Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là trận lụt lịch sử Hà Nội tháng
11 năm 2008. Hậu quả của trận lụt là hầu hết diện tích rau của Hà Nội đều bị ngập
úng và hỏng làm cho giá rau tăng đột biến. Ví dụ như: cà chua có giá 15.000
đồng/kg, củ cải, cải thảo, cải bắp: 13.000 đồng/kg, cao hơn so với trước khi mưa lũ
từ 3.000-6.000 đồng/kg. Rau muống là loại rau luôn có giá cả ổn định, ít biến động
theo mùa như các loại rau khác nhưng sau khi xảy ra mưa lũ, giá một mớ rau muống
là 7.000 đồng, gấp hơn 2 lần so với trước khi xảy ra mưa lũ.
RAT sản xuất ra một phần cung cấp cho các cửa hàng kinh doanh RAT, cho
các siêu thị, các nhà máy chế biến, các khách sạn... và các gia đình. Phần này chỉ
chiếm khoảng gần 30% trong tổng số RAT được sản xuất ra. Do các cửa hàng kinh
doanh RAT có giấy phép kinh doanh nên được người tiêu dùng tin tưởng hơn. Đối
với các siêu thị lớn có uy tín, khi nhập RAT từ các cơ sở sản xuất RAT họ có kiểm
tra chất lượng rau kỹ lưỡng đảm bảo các loại rau nhập về đều đáp ứng các tiêu
chuẩn VSATTP. Chình vì vậy, giá RAT thường cao hơn giá rau đại trà. Tuy nhiên
đây chỉ là một phần RAT được sản xuất ra, còn hơn 70% RAT còn lại người dân
phải tự mang ra chợ bán lẻ như rau đại trà. RAT mang ra chợ bán thì khó có thể bán
với giá cao hơn rau đại trà, nếu bán với giá cao họ sẽ không bán được hàng, bởi một
phần người tiêu dùng không tin đó là RAT; một phần khác do người nông dân
không thể chứng minh đó là RAT mặc dù đó là RAT 100%. Do vậy, đối với RAT
mang ra các chợ và rau đại trà dường như giá cả của chúng không có sự phân biệt.
Nhiều lắm thì giá RAT cũng chỉ cao hơn giá rau đại trà được khoảng 500 đồng/kg
đối với rau su hào hay cải bắp.
26
Bảng 3.5: Giá một số loại rau trên địa bàn Hà Nội
Tên rau Rau Cải Bắp Súp lơ Cải Rau
muống ngọt cải ngót thảo
Giá rau Rau 2007 7000 12500 15000 9500 10000 9000
(đồng/kg) an 2008 7200 13500 13000 10000 12000 9000 toàn
2009 8000 15000 12500 12000 14000 8000
Rau 2007 6500 11500 13500 8500 8000 9200
đại 2008 6700 12700 12000 9000 11200 7500 trà
2009 7500 14500 11500 11000 13500 9400
So sánh giá rau 2007 7,7 8,7 11,1 11,8 12,5 8,7
an toàn với rau 2008 7,5 6,3 8,3 11,1 7,1 8,4 đại trà (%)
2009 6,7 3,4 8,7 9,1 3,7 6,7
Nguồn: rauhoaquavietnam.vn
Theo đánh giá, giá của RAT cao hơn giá rau đại trà vào khoảng từ 3% đến
12%. Sở dĩ như vậy do chi phí sản xuất RAT cao hơn chi phí sản xuất rau đại trà từ
30 đến 35%. Trung bình năm 2007 giá RAT cao hơn rau đại trà khoảng 7,64%, năm
2008 khoảng 6,95%, và đến năm 2009 khoảng 5,47%. Giá RAT cao hơn giá rau đại
trà tuy nhiên mức độ chênh lệch giá giữa hai loại rau này dần giảm xuống qua các
năm. Diện tích trồng RAT tiếp tục tăng lên, năng suất tăng do áp dụng kỹ thuật và
sử dụng giống mới nên nguồn cung tăng lên. Mặt khác, do người tiêu dùng còn
chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng RAT trên thị trường đã làm cho cầu thực tế
thấp hơn nhiều so với nhu cầu có thể có. Vì vậy, giá RAT cũng không còn cao hơn
nhiều so với giá rau đại trà. Trong tương lai, Hà Nội tiến tới xây dựng toàn bộ diện
tích trồng rau đều trồng RAT thì giá RAT còn có thể tiếp tục giảm.
3.1.5. Tình hình cạnh tranh trên thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
Cuộc sống văn minh hiện đại, nhu cầu sử dụng RAT ngày càng tăng, nhưng
người bán RAT lại đang dần rút lui khỏi thị trường.
27
Hiện nay trên thị trường, rau đại trà vẫn đang chiếm ưu thế. Các cửa hàng kinh doanh RAT còn ít. Theo tính toán, cứ 33km2 mới có một cửa hàng bán RAT.
Trong khi đó rau đại trà được bán ở khắp mọi nơi từ chợ đến các ngõ gần nhà, chỉ
cần ra khỏi cửa người tiêu dùng có thể mua được ngay. Một nguyên nhân khác là do
vấn đề thu nhập. Thu nhập của người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ
RAT vì giá bán của RAT cao hơn giá bán của rau đại trà nên bộ phận lớn dân cư có
thu nhập thấp rất hạn chế trong việc tiêu dùng RAT.
Trên các khu phố cũng xuất hiện các cửa hàng treo biển bán RAT, nhưng
thực tế cửa hàng có bán RAT hay không thì chỉ có chủ cửa hàng và cơ quan chức
năng đi kiểm tra mới biết. Nhiều cơ sở kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận đã mua rau
đại trà về bán cùng với RAT. Giá RAT cao hơn so với rau đại trà từ 3000-5000
đồng, họ đương nhiên có lãi lớn từ cái biển treo bán RAT. Chịu thiệt hại nhiều là
các cơ sở kinh doanh chân chính, họ không thể cạnh tranh nổi. Họ có ưu thế về chất
lượng nhưng không thể chứng minh được. Các cơ sở kinh doanh RAT đều được cục
quản lý thị trường cấp giấy phép kinh doanh, vì vậy mà chất lượng RAT của các cơ
sở kinh doanh được các cơ quan chức năng và người tiêu dùng đánh giá là như
nhau. Người tiêu dùng không nhận biết được chất lượng RAT trong các cửa hàng.
Chỉ khi cục quản lý thị trường thanh, kiểm tra phát hiện ra cơ sở kinh doanh nào có
RAT không đảm bảo chất lượng thì người tiêu dùng mới biết. Sự quản lý lỏng lẻo
của cơ quan nhà nước đã tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh bất chính hoạt
động và thu lợi. Họ có thể đưa ra các chiến lược giảm giá, khuyến mại, vận chuyển
tới tận nhà đối với những khách hàng mua với khối lượng lớn…để thu hút người
mua trong khi các cơ sở kinh doanh chân chính thường lo lắng mỗi khi đưa ra các
chiến lược xúc tiến bởi họ không thể cạnh tranh về giá với các cơ sở bất chính bởi
nếu giảm giá thì cơ sở bất chính có thể giảm bằng hoặc thấp hơn và người chịu thiệt
chính là họ (lợi nhuận thu được thấp thậm chí còn bị thua lỗ), không những thế
khoản chi phí bỏ ra cho các chiến dịch xúc tiến bán không phải là nhỏ. Còn chất
lượng RAT đã bị đánh đồng.
“Vấn đề cạnh tranh giữa các cơ sở kinh doanh RAT chưa thực sự rõ nét” là
nhận định chung từ phía các chủ cơ sở kinh doanh RAT. Trong phiếu điều tra trắc
nghiệm, ở câu hỏi số 4: “Ông (bà) đánh giá như thế nào về mức độ cạnh tranh giữa
các cơ sở kinh doanh RAT?” Có 5% cơ sở kinh doanh RAT nói rằng họ phải cạnh
tranh gay gắt với các cửa hàng khác. Các chiến lược cạnh tranh mà họ sử dụng đó là
28
chất lượng, quảng cáo, vận chuyển tới tận nhà… nhằm thu hút người tiêu dùng đến
với cửa hàng của họ. Mối lo lắng lớn của họ là bao giờ RAT có thể thay thế rau đại
trà. Có 45% cơ sở kinh doanh RAT cho biết họ phải cạnh tranh với các cửa hàng
khác nhưng ở mức độ thấp. Đây chủ yếu là các cửa hàng quy mô nhỏ chỉ đáp ứng
được nhu cầu của người dân khu phố đó và cách rất xa với các cửa hàng khác. Có
50% cơ sở kinh doanh RAT cho biết họ hầu như không phải cạnh tranh với các cửa
hàng khác. Họ chưa phải lo lắng đến việc làm sao để thu hút khách hàng về mua rau
ở cửa hàng mình.
Với thực tế như vậy, RAT thực sự vẫn chưa đủ làm nên cuộc cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường Hà Nội. Hiện nay rau đại trà vẫn còn chiếm ưu thế nhiều hơn
trên thị trường.
3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
Qua kết quả của một số đợt kiểm tra hàng loạt tại các cơ sở sản xuất, siêu thị,
cửa hàng bán RAT trên địa bàn Hà Nội vừa qua khiến người tiêu dùng không khỏi
băn khoăn lo lắng “Liệu các sản phẩm rau trên thị trường thì bao nhiêu phần trăm là
RAT”. Trong khi đó có nhiều HTX sản xuất RAT nhưng lại chưa tìm được đầu ra
cho sản phẩm của mình. Nhu cầu sử dụng RAT của thành phố đang ngày càng tăng
nhưng người nông dân thì lại chật vật vì không bán được. Việc tồn tại những nghịch
lý này liên quan mật thiết đến thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường RAT
hiện nay.
3.2.1. Tình hình ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch liên
quan đến thị trường RAT
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, chính sách quy định, hướng dẫn và hỗ
trợ, khuyến khích người người nông dân, người kinh doanh RAT trong hoạt động
sản xuất và cung ứng RAT cho thị trường. Tuy nhiên, khi tiến hành điều tra tại chi
cục BVTV và Quản lý thị trường Hà Nội với câu hỏi 1 “Ông (bà) cho biết việc ban
hành văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch liên quan đến thị trường RAT
như thế nào?” Có 10% cán bộ quản lý cho rằng việc ban hành văn bản, chính sách,
chiến lược và quy hoạch liên quan đến thị trường RAT đã hoàn thiện, 60% là chưa
hoàn thiện, 30% cho rằng còn yếu kém. Sở dĩ như vậy là do các văn bản, chính
sách, quy định…còn rắc rối¸ khó thực thi, chưa có cơ chế hướng dẫn, dẫn dắt cụ
thể, rõ ràng. Các quyết định của nhà nước chưa được chuyển đến các đối tượng sản
29
xuất, kinh doanh RAT kịp thời. Mặt khác, chi phí nguồn lực đã bỏ ra nhờ có các
chính sách, biện pháp…của nhà nước tác động tới thị trường RAT còn cao, trong
khi đó kết quả thu được lại thấp. Chất lượng các quyết định và tính hợp lý của bộ
máy tổ chức cũng như năng lực, độ tin cậy của đội ngũ cán bộ quản lý trong việc
triển khai đưa các quyết định quản lý đó vào đời sống của cộng đồng kinh doanh và
người tiêu dùng, dân cư còn hạn chế. Các quyết định phần lớn chưa đảm bảo kết hợp
hài hòa các mục tiêu, lợi ích, chưa có tính ưu tiên, ưu đãi trong những trường hợp, đối
tượng, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi thị trường cụ thể, chưa cân đối các mục đích
Hiện nay, việc thực hiện các thủ tục đăng ký giấy phép kinh doanh RAT khá thuận
lợi và dễ dàng. Trong câu hỏi số 1 khi được hỏi: “Ông (bà) cho biết quá trình làm thủ tục
đăng ký giấy phép kinh doanh RAT như thế nào?” Có 53,33% các chủ cơ sở kinh doanh
RAT cho biết họ không gặp khó khăn trong việc đăng ký. Có 33,33% cho biết quá trình
làm thủ tục đăng ký bình thường không phải mất nhiều thời gian. Chỉ có 13,34% cơ sở
kinh doanh RAT gặp khó khăn trong việc đăng ký. Đó là do các cơ sở này còn chưa nắm
rõ được các quy định và chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn đã đề ra. Chình điều này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức muốn tham gia cung ứng RAT trên thị trường được dễ dàng hơn.
và phương tiện, các nguồn lực sử dụng.
Từ năm 1996, đề án RAT tại Hà Nội đã được thai nghén. Thế nhưng đến nay
Hà Nội vẫn chưa có được một dự án khả thi nào. Mặc dù, nếu xét về lượng, Hà Nội
đã nỗ lực phát triển các vùng sản xuất RAT với diện tích trồng RAT lên đến trên
5.600 ha với sản lượng 125.000 tấn/năm (tức có trên 70% sản lượng rau của Hà Nội
sản xuất là RAT). Tuy nhiên, hiện toàn thành phố mới chỉ có 42 ha nhà lưới trồng
RAT và chỉ có 3 cơ sở được đầu tư hệ thống giếng khoan công suất lớn có xử lý
nước để tưới rau.
Hiện UBND TP Hà Nội đã ban hành “Quy định về quản lý sản xuất và kinh
doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội” (Ban hành kèm theo Quyết định số
104/2009/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2009 của UBND TP Hà Nội). Quy định
này quy định về điều kiện và chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, sơ chế, kinh doanh
RAT; thanh kiểm tra và xử lý vi phạm trong sản xuất, sơ chế, kinh doanh RAT trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Quy định áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất,
sơ chế, chế biến, kinh doanh RAT và các tổ chức, cá nhân liên quan trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
30
3.2.2. Quản lý việc chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt động sản
xuất và kinh doanh rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
Hiện nay, việc quản lý các điểm sản xuất và kinh doanh RAT còn gặp nhiều
khó khăn. Đó là việc quản lý việc đăng ký kinh doanh của các cửa hàng kinh doanh
RAT. Chi cục BVTV Hà Nội đã cấp giấy phép cho nhiều vùng sản xuất và địa điểm
kinh doanh RAT đủ điều kiện. Thống kê từ Chi cục BVTV Hà Nội cho thấy, hiện
chi cục đã cấp 45 giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất RAT cho các hộ, HTX sản
xuất RAT với tổng diện tích hơn 260ha. Bên cạnh đó, cũng đã cấp 1 giấy chứng
nhận sản xuất RAT theo VietGAP và 13 giấy chứng nhận đủ điều kiện sơ chế RAT
cho các cơ sở. Trong khi đó, theo thống kê của Sở Công Thương Hà Nội, đến thời
điểm hiện tại, sở này đã cấp 137 giấy chứng nhận kinh doanh RAT cho các tổ chức,
cá nhân trên địa bàn thành phố. Song, cũng theo danh sách, trong tổng số 137 cơ sở
được cấp giấy phép, có đến hơn 100 cơ sở đã hết thời hạn, chỉ một số ít mới đăng
ký vào năm 2009 còn thời hạn. Với câu hỏi điều tra thứ 6 “Ông (bà) cho biết việc
kiểm soát hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh RAT hiện nay như thế
nào?” 20% phiếu cho rằng đã kiểm soát được toàn bộ, 50% kiểm soát được một
phần, 30% là chưa kiểm soát được. Thực tế cho thấy, hầu hết các cửa hàng dù đã hết
hạn đăng ký vẫn tiếp tục kinh doanh. Theo ghi nhận của chúng em, tại một số cửa
hàng như số 5 Ngô Thì Nhậm giấy phép đăng ký kinh doanh đã hết hạn từ 31-7-2008,
song thời điểm hiện tại cửa hàng này vẫn tiếp tục kinh doanh RAT. Hay, cửa hàng
kinh doanh RAT số 2 Phạm Ngọc Thạch, giấy phép kinh doanh đã hết hạn từ 31-12-
2008, nhưng trên thực tế vẫn tiếp tục kinh doanh RAT... Từ thực trạng trên cho thấy
việc quản lý các cửa hàng hiện đang kinh doanh cũng chưa chặt chẽ. Số cửa hàng
trên thực tế đang hoạt động so với số cửa hàng đăng ký trên giấy tờ do Sở quản lý
không trùng khớp. Trên thị trường có nhiều cửa hàng kinh doanh RAT mà không có
giấy phép kinh doanh. Thêm vào đó có những cơ sở sản xuất, kinh doanh sau một
thời gian không làm được, họ tự đóng cửa, không báo cáo lại cho Sở nên khó có thể
nắm được chính xác hiện còn bao nhiêu đơn vị vẫn đang kinh doanh.
Như vậy, việc quản lý các cửa hàng kinh doanh RAT có giấy phép kinh
doanh hay không cũng đã gặp nhiều khó khăn nhưng việc quản lý các cửa hàng hiện
đang hoạt động cũng không mấy dễ dàng. Lợi dụng kẽ hở trong việc đăng ký, quản
lý kinh doanh RAT, khi mang hồ sơ đến đăng ký, các cơ sở chỉ trình một bộ hồ sơ
cung cấp nơi sản xuất đủ điều kiện. Còn trên thực tế, lượng rau cung cấp cho cửa
hàng từ nhiều nguồn khác nhau mà không được khai báo trong hồ sơ đăng ký kinh
doanh.
31
3.2.3. Tình hình quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị trường Hà
Nội
Thời gian qua, Chi cục BVTV Hà Nội đã chủ động phối hợp với Chi cục
Quản lý thị trường tổ chức các đợt kiểm tra tại các cửa hàng, siêu thị, lấy mẫu rau,
quả để kiểm định chất lượng. Tuy nhiên, việc kiểm tra chất lượng rau thực hiện còn
sơ sài, chưa thực sự hiệu quả, chủ yếu dựa vào cảm quan, tần suất kiểm tra còn ít.
Một xã chỉ có khoảng 0,2 lượt đoàn đi thanh kiểm tra ATTP/năm (năm 2007, con số
này tăng lên 0,73 lượt đoàn). Hệ thống phòng thí nghiệm kiểm nghiệm thực phẩm
chưa đáp ứng kịp với yêu cầu thực tế. Kinh phí đầu tư cho công tác quản lý quá ít…
Do vậy mà hiện tại, chất lượng RAT tại nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn chưa
được kiểm soát hoặc còn thả nổi.
Bên cạnh đó, Bộ NN và PTNT đã có một số giải pháp kiểm tra chất lượng rau
quả ngay tại cửa khẩu. Đối với lô hàng thuộc diện kiểm dịch trước khi thông quan,
cơ quan hải quan chỉ thực hiện thông quan khi có kết quả kiểm dịch đạt yêu cầu
nhập khẩu. Với những lô hàng thuộc diện thông quan trước kiểm dịch sau, được
thông quan khi chủ hàng nộp giấy đăng ký kiểm dịch, có xác nhận của cơ quan
kiểm dịch. Trong quá trình làm thủ tục, chủ lô hàng nhập khẩu có trách nhiệm bảo
quản hàng hóa chờ kiểm dịch. Tổng cục Hải quan yêu cầu các đơn vị trực thuộc
phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng trong việc kiểm soát, phát hiện và xử lý
nghiêm những sai phạm trong quá trình kiểm dịch hàng nhập khẩu theo đúng quy
định hiện hành. Rất nhiều những trường hợp do không được kiểm soát chặt chẽ nên
đã không tránh khỏi việc trong rau có dư lượng thuốc BVTV có nồng độ cao hơn
mức độ cho phép. Thuốc này chủ yếu nhập từ Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch.
Vì vậy các cơ quan chức năng như hải quan cần quản lý chặt chẽ ngay từ nơi cửa
khẩu.
Để tăng cường kiểm soát chặt mặt hàng thực phẩm nhập khẩu, sắp tới Bộ NN
và PTNT sẽ thành lập một tổ công tác đặc biệt xây dựng văn bản hợp tác với Trung
Quốc trong việc kiểm tra nguồn thực phẩm nhập khẩu.
Việc quản lý, kiểm tra chất lượng RAT ngay tại nơi sản xuất đóng vai trò
quan trọng đối với việc cung ứng và tiêu thụ RAT trên thị trường. Năm 2009 trên cả
nước có 22.000ha RAT trên tổng số 450.000ha trồng rau. Ngoài 5% diện tích trồng
rau được áp dụng theo quy trình sản xuất RAT, 80% nước tưới cho rau là nước mặt
chưa qua kiểm nghiệm, 60% diện tích trồng rau vẫn sử dụng phân hữu cơ, điều này
32
làm cho rau nhiễm hóa chất và kim loại nặng vượt mức cho phép, ảnh hưởng không
tốt đến chất lượng rau được sản xuất ra.
Vấn đề sử dụng thuốc BVTV không đúng cách đang là vấn đề đáng lo ngại,
làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng rau. Khi được hỏi câu hỏi thứ 2 “Ông (bà)
thấy việc quản lý kinh doanh và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiện nay như thế
nào? Có 20% cán bộ quản lý cho rằng việc quản lý kinh doanh và sử dụng thuốc
BVTV tốt, 70% là quản lý được một phần, 10% còn lại cho rằng chưa quản lý được.
Thật vậy, vấn đề quản lý việc sử dụng thuốc BVTV ở nơi sản xuất RAT còn lỏng
lẻo, chưa kiểm soát được. Theo kết quả điều tra, chỉ có khoảng 10% nông dân hỏi ý
kiến tư vấn của cơ quan quản lý về sử dụng thuốc BVTV, 90% còn lại sử dụng
thuốc theo tư vấn của người bán thuốc. Một mặt hầu hết những người trồng RAT
hiện nay đều chưa được hướng dẫn cụ thể cách sử dụng thuốc BVTV. Mặt khác, do
người nông dân vẫn giữ thói quen sử dụng thuốc BVTV tùy tiện, chưa tuân thủ
nghiêm hướng dẫn sử dụng.
Cục BVTV thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra việc buôn bán, sử dụng
thuốc BVTV trên rau tại các tỉnh trong vùng trồng rau trọng điểm. Chỉ đạo thanh tra
chuyên ngành bảo vệ và kiểm dịch thực vật các tỉnh, thành phố đồng loạt tổ chức
các đợt thanh tra, kiểm tra việc buôn bán, sử dụng thuốc BVTV tại các vùng sản
xuất rau, lấy mẫu thuốc kiểm tra chất lượng thuốc BVTV, lấy mẫu rau kiểm tra dư
lượng; xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật các trường hợp vi phạm.
Tại các vùng trồng rau tập trung, đại diện chính quyền địa phương, Chi cục
BVTV và hộ nông dân sản xuất rau ký kết cam kết về việc: chỉ sử dụng thuốc
BVTV được phép sử dụng trên rau, bảo đảm thời gian cách ly trước khi thu hoạch...
3.2.4. Tình hình tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác thanh kiểm tra
Công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm nói chung và về
RAT trên địa bàn Hà Nội nói riêng còn chồng chéo, dẫn đến có những “vùng trắng”
không có cơ quan quản lý. Đặc biệt hệ thống tổ chức mạng lưới cán bộ làm công tác
an toàn vệ sinh thực phẩm thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Kết quả thu được
từ câu hỏi thứ 3 của phiếu điều tra “Ông (bà) đánh giá về số lượng nguồn nhân lực
trong lĩnh vực quản lý thị trường hiện nay?” như sau: Có 30% cán bộ quản lý cho
rằng đã hợp lý, 70% là còn thiếu, và 0 % chọn nhiều. Trên thực tế 2.100 ha diện
tích trồng RAT trên địa bàn Hà Nội mới chỉ có 5 cán bộ kỹ thuật chỉ đạo, giám sát
sản xuất. Do vậy, việc kiểm tra, giám sát trong quá trình sản xuất còn gặp nhiều khó
33
khăn. Vì vậy, không thể đảm rằng các sản phẩm RAT sản xuất ra là được sản xuất
đúng kỹ thuật. Thực tế đó cho thấy đội ngũ cán bộ kiểm tra còn thiếu nhiều cần
được bổ sung trong thời gian tới. Với câu hỏi số 4: “Ông (bà) đánh giá trình độ
nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý thị trường RAT như thế nào?” Có 20% phiếu
cho rằng có trình độ chuyên môn tốt, 50% cho rằng có trình độ chuyên môn trung
bình, còn lại là trình độ chuyên môn kém.
Theo Sở NN và PTNN, một năm Sở chỉ có 140 triệu đồng cho công tác an
toàn vệ sinh thực phẩm. Các chốt kiểm định chất lượng an toàn rau quả vì thế không
đủ số người đảm nhiệm, thậm chí những địa bàn trọng điểm cũng chưa tổ chức
được ban thanh tra, kiểm tra đủ mạnh. Theo Sở Công thương, cơ quan này có 2
phòng chuyên môn liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm, nhưng chưa có tổ
chuyên trách. Không những thế, việc kiểm tra chủ yếu dựa vào cảm quan, vì kinh
phí cho mảng an toàn vệ sinh thực phẩm còn ít mà chi phí để tiến hành kiểm tra chất
lượng lại lớn.
Trong khi thuốc BVTV đang được nhập lậu và sử dụng một cách khó kiểm
soát thì hiện này, nhân lực kiểm tra của chi cục BVTV cũng như trang thiết bị phân
tích chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm còn rất hạn chế. Toàn thành phố Hà Nội
năm 2009 có 875 tổ chức, cá nhân kinh doanh thuốc BVTV với 74 công ty và
801 cửa hàng nhưng chỉ có 7 cán bộ làm công tác thanh kiểm tra. Trong số 801
cửa hàng trên, mới có 496 cửa hàng được cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh
thuốc BVTV. Hơn 300 cửa hàng còn lại chưa được cấp chứng chỉ nhưng vẫn
hành nghề. Đó là chưa kể đến việc mỗi lần cần xét nghiệm phân tích chất lượng
VSATTP, chi cục đều phải đi thuê bên ngoài.
3.3. Đánh giá sự QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
3.3.1. Kết quả đạt được trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
Những cố gắng của Bộ Nông nghiệp và các cơ quan chuyên môn trong việc
hạn chế thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục là không thể phủ nhận.
Theo số liệu thu thập được về các hoạt động sản xuất hàng ngày của 32 hộ
dân trồng rau tại vùng rau Đông Anh (Hà Nội) từ tháng 8/2002 – 3/2003, lượng
thuốc không xác định được hoạt chất chiếm 7,7% trong tổng số 84,84 kg lượng
thuốc thương phẩm được sử dụng. Tuy nhiên, từ tháng 8/2006 – 3/2007, lượng
thuốc không xác định được hoạt chất chỉ còn chiếm 1,2% trong tổng số 106,78 kg
lượng thuốc thương phẩm được sử dụng.
34
Năm 2006, Hà Nội đã bắt đầu xây dựng thí điểm mô hình RAT theo nguyên
tắc GAP (thực hành nông nghiệp tốt) tại Đông Anh. Các mô hình được nông dân,
chính quyền địa phương đánh giá cao và hiện đang được nhân rộng. Chi cục đã phối
hợp và tư vấn cho các quận, huyện, doanh nghiệp xây dựng được 3 thương hiệu
RAT mang tên Năm Sao, Bảo Hà, Yên Mỹ. Hiện rau Năm Sao chỉ cung cấp cho các
bếp ăn, RAT Bảo Hà, Yên Mỹ đang bán thị trường Hà Nội
Cùng với việc đẩy mạnh diện tích trồng RAT, ngành nông nghiệp Hà Nội
cũng thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật chỉ đạo, giám sát sản xuất RAT, ngoài ra, tổ
chức nhiều đợt thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy trình sản xuất, sơ chế RAT tại
các cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận. Kết quả các mẫu kiểm tra về dư lượng
thuốc BVTV, hàm lượng nitrat, hàm lượng kim loại nặng và vi sinh vật đều đạt chất
lượng. Hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội đã cấp 45 giấy chứng nhận đủ điều kiện
sản xuất RAT với tổng diện tích hơn 260ha. Bên cạnh đó, cũng đã cấp 13 giấy
chứng nhận đủ điều kiện sơ chế RAT cho các cơ sở.
Nhà nước cũng đã phối hợp với nhiều cơ quan chức năng tổ chức các hội chợ
RAT, các phiên giao dịch hàng nông sản thực phẩm an toàn khu vực phía Bắc với
các nhà phân phối, trung tâm thương mại, siêu thị Hà Nội. Hội nghị giao thương
giữa các nhà cung ứng nông sản thực phẩm khu vực phía Bắc với các đơn vị tiêu
thụ bán lẻ Hà Nội… Hỗ trợ các doanh nghiệp tổ chức các hội nghị, xây dựng các
trang web để quảng bá thương hiệu cho nông sản, cho các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh RAT… như: Năm Sao, Bảo Hà, Yên Mỹ...Thông qua các hội nghị này,
người sản xuất và nhà phân phối sẽ có thêm cơ hội tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị
trường nội địa.
Nằm trong khuôn khổ Hội chợ Thực phẩm và Đồ uống, từ ngày 7-
11/11/2007 tại Cung văn hoá Lao động Hữu Nghị, Trung tâm khuyến nông Hà Nội
sẽ tổ chức phiên chợ "Rau an toàn và Nông sản thực phẩm chất lượng cao". Tham
gia có 50 gian hàng bày bán các chủng loại rau của các cơ sở RAT thuộc 6 vùng sản
xuất rau nổi tiếng ở Hà Nội: Vân Nội, Lĩnh Nam, Văn Đức, Đặng Xá, Duyên Hà và
Đông Dư.
Đặc biệt, trong các ngày diễn ra phiên chợ sẽ có các đoàn kiểm tra của Sở
Khoa học Công nghệ - Môi trường và Chi cục BVTV thành phố đi kiểm định chất
lượng RAT tại các gian trưng bày.
35
Các cơ quan chức năng cũng đã hợp tác với Đài truyền hình thành phố trong
mục thời sự nông nghiệp để tuyên truyền về tác hại của rau không an toàn trên thị
trường…
3.3.2. Hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
Khi nói về những hạn chế của công tác quản lý hiện nay, trên thực tế cho
thấy, hiện chưa có quy định hoặc văn bản nào cấm trồng rau không an toàn. Chức
năng của Chi cục BVTV thành phố là cấp phép cho những đơn vị trồng RAT. Nghĩa
là chúng ta chỉ có thể làm được việc xây dựng vùng RAT chứ chưa thể loại bỏ
những vùng trồng rau không an toàn.
Công tác quản lý và sử dụng thuốc BVTV mặc dù đã đạt được một số kết
quả đáng khích lệ nhưng tình trạng sử dụng thuốc ngoài danh mục, không đảm bảo
thời gian cách ly... vẫn phổ biến ở nhiều địa phương.
Bên cạnh những địa phương triển khai tốt cơ chế khuyến khích sản xuất RAT
cũng có không ít vùng chưa đầu tư để quy hoạch vùng sản xuất RAT, sản xuất vẫn
mang tính nhỏ lẻ, phân tán, áp dụng quy trình kỹ thuật chưa cao, chưa đồng nhất,
chưa có cán bộ kỹ thuật, nhà khoa học hướng dẫn nông dân cách trồng, chăm sóc
RAT,…Nhà khoa học chưa nghiên cứu ra các giống rau mới có năng suất cao, chịu
được thời tiết khắc nghiệt, chi phí thấp…Công tác quản lý sản xuất RAT ở các địa
phương chưa thực sự chặt chẽ, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên
môn. Việc đầu tư xây dựng hạ tầng cho vùng sản xuất RAT còn thiếu và yếu. Cơ
chế chính sách cho sản xuất RAT chưa hoàn thiện nên chưa khuyến khích được
nông dân tham gia. Công tác quản lý kinh doanh RAT của ngành thương mại còn
lỏng lẻo, chưa làm tốt công tác hậu kiểm chính là những khó khăn trong phát triển
sản xuất RAT.
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT trên
địa bàn Hà Nội
Trước hết phải nói rằng trình độ chuyên môn của một số cán bộ quản lý, cán
bộ kỹ thuật chưa đáp ứng với sự phát triển của sản xuất và đòi hỏi của xã hội về
RAT. Bên cạnh đó sự phân cấp chức năng quản lý giữa các cơ quan liên quan đến
quản lý thị trường RAT còn chưa rõ ràng, chồng chéo. Khi được hỏi câu hỏi số 5:
“Ông (bà) thấy sự phân cấp chức năng giữa các cơ quan quản lý thị trường RAT đã
rõ ràng chưa?” 30% là cán bộ quản lý cho rằng đã phân cấp rõ ràng, 70% là còn có
sự chồng chéo, 0% là chưa phân cấp. Nhiều khi giữa Sở NN và PTNN với Sở
36
Thương Mại lại có những kết luận trái ngược nhau gây hoang mang cho cả người
sản xuất và người tiêu dùng. Do không phân định rõ chức năng nên nhiều cơ quan
không nhận trách nhiệm về mình mà lại nói rằng đó là trách nhiệm của cơ quan
khác. Chi cục Kiểm dịch thực vật nói rằng họ chỉ có chức năng kiểm dịch côn trùng
gây hại trên rau quả còn trong rau, quả có dư lượng thuốc trừ sâu, chất bảo quản ra
sao… là phần việc của các trung tâm Kiểm dịch y tế. Khi được hỏi thì trung tâm
Kiểm dịch y tế nói rằng đã giao cho Trung tâm Y tế dự phòng và Chi cục Quản lý
vệ sinh an toàn thực phẩm. Cứ như vậy, nên hiện nay vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm và kiểm soát chất lượng rau trên thị trường vẫn chưa được giải quyết.
Tình trạng sử dụng thuốc BVTV ngoài danh mục, không đảm bảo thời gian
cách ly... vẫn còn tồn tại ở một số nơi, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và
môi trường sinh thái. Hiện tượng thuốc BVTV, đặc biệt thuốc ngoài danh mục nhập
lậu tại các cửa khẩu vẫn diễn ra phức tạp, chưa quản lý được, đang tràn vào các tỉnh
và Hà Nội, gây khó khăn cho công tác quản lý ở địa phương. Điều này còn tồn tại là
do thị trường trong nước vẫn chưa cung cấp đủ lượng thuốc BVTV đảm bảo chất
lượng cần thiết cho người dân sử dụng trong quá trình sản xuất. Ngoài ra do ý thức
của người sản xuất còn kém. Họ muốn thu được nhiều lợi nhuận mà không quan
tâm đến việc sử dụng các thuốc BVTV cấm sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của
người tiêu dùng.
Công tác quản lý sản xuất RAT chưa thực sự chặt chẽ. Trách nhiệm quản lý
sản xuất RAT của chính quyền địa phương ở một số nơi chưa cao, chưa chủ động
thực hiện và phối hợp với cơ quan chuyên môn. Công tác quản lý kinh doanh RAT
của ngành thương mại đã triển khai nhưng chưa chặt chẽ, chưa làm tốt công tác hậu
kiểm. Cơ chế chính sách cho sản xuất RAT chưa hoàn thiện, chưa khuyến khích
được nông dân sản xuất RAT.
Sở dĩ dẫn đến những bất cập trong quản lý thị trường RAT thì phần lớn các
cán bộ quản lý khi trả lời câu hỏi 7: “Ông (bà) cho biết những khó khăn gặp phải
trong công tác quản lý thị trường RAT hiện nay?” cho rằng: ngân sách nhà nước chi
cho việc quản lý thị trường còn hạn hẹp, vì thế việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản
xuất RAT còn thiếu và yếu. Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý còn hạn chế,
số lượng cán bộ ít. Mặt khác, nhận thức từ người mua, người sản xuất, người kinh
doanh còn chưa đầy đủ về RAT. Trong khi rau đại trà lại chiếm tỷ trọng lớn, tình
trạng chợ cóc, chợ tạm phổ biến phân bố rộng khắp rất tiện lợi cho người tiêu dùng.
37
Tại Hà Nội, đâu đâu, bất kỳ chỗ nào cũng có chợ. Người tiêu dùng với thói quen
truyền thống là tiện đâu mua đấy. Phần lớn họ cho rằng rau ở đâu thì cũng giống
nhau, cơ bản là mình rửa có sạch hay không. Do vậy, họ thường xuyên mua rau của
những người bán rau ngồi rải rác quanh ngõ gần nhà hoặc nơi làm việc. Mặc dù đã
nghe nói về nhiều vụ ngộ độc do rau có thuốc sâu nhưng nếu quanh khu vực họ
sống chưa thấy có hiện tượng gì thì dường như họ yên tâm về độ an toàn rau ở khu
vực mình. Hơn nữa tác hại của rau không an toàn không biểu lộ ngay nên người dân
chủ quan. Có đong đếm thì được bao nhiều phần trăm vào siêu thị, hay các cửa hàng
kinh doanh RAT để mua bó rau. Nên khi cầu vẫn có thì cung sẽ đáp ứng. Rau đại
trà vẫn được người tiêu dùng ủng hộ qua hành động thì chuyện RAT bị lép vế là
đương nhiên. Thói quen xuề xòa, thế nào cũng được, cứ tiện đâu mua đấy là một
trong những nguyên nhân gây ra những khó khăn rất lớn trong công tác quản lý.
Còn người sản xuất thấy rau nào cũng bán được, thậm chí rau đại trà còn dễ bán
hơn. Người làm kinh doanh thì vì mục tiêu lợi nhuận, trà trộn rau đại trà với RAT
che mắt người tiêu dùng. Có khi chỉ mua một ít sản phẩm RAT về làm mẫu, còn lại
là lấy rau đại trà cho rẻ”.
Thực tế, khó khăn cơ bản nhất trong phát triển diện tích sản xuất RAT vẫn là
vấn đề tiêu thụ do chưa có bất kỳ cơ chế nào cho người sản xuất để sản phẩm của họ
đến được dễ dàng với người tiêu dùng. Khi ngày một nhiều dự án sản xuất, tiêu thụ
RAT ở Hà Nội đang đứng trước nguy cơ bị "phá sản". Nghe có vẻ vô lý, nhưng điều
khiến các dự án này đi vào bế tắc là bởi chúng ta quá chú trọng vào việc sản xuất
RAT mà lại bỏ ngỏ khâu thị trường khiến người tiêu dùng còn chưa tin tưởng. Có
công ty sản xuất kiêm luôn việc tiêu thụ RAT mỗi tháng thua lỗ từ 10 đến 30 triệu
đồng nhưng vẫn gắng gượng cầm cự với hy vọng một ngày không xa nó sẽ được
người tiêu dùng đón nhận thường xuyên. Trong số những dự án sản xuất RAT đang
được Chi cục BVTV Hà Nội hướng dẫn về mặt kỹ thuật, có một dự án đứng trước
nguy cơ phá sản nhiều năm nay nhưng vẫn cầm cự là RAT của thương hiệu Hà An.
Điều khá đặc biệt là RAT của Công ty cổ phần Sản xuất và Dịch vụ nông sản an
toàn Hà An (RAT Hà An) được sản xuất và tiêu thụ trên dây chuyền khép kín: sản
xuất kiêm luôn việc tiêu thụ tại cửa hàng ở 17T9 Trung Hòa, Nhân Chính và qua đại
lý tại Văn Quán, Thành Công, Hồ Tùng Mậu và mô hình đưa rau đến tận nhà nhưng
vẫn lỗ.
38
RAT Hà An có mặt trên thị trường Hà Nội từ tháng 9/2007. Ban đầu, RAT
Hà An do một nhóm cộng sự nhiệt huyết bắt tay vào sản xuất trên mô hình 5ha ở
thôn Quán Tình, phường Giang Biên do Chi cục BVTV hỗ trợ làm mô hình điểm và
UBND quận Long Biên đầu tư cơ sở hạ tầng. Nhưng RAT Hà An ra đời vào đúng
thời điểm người tiêu dùng không mặn mà, thậm chí còn tẩy chay RAT vì những
nhập nhằng, trà trộn của người kinh doanh, nên RAT đã không có thị trường và
nhanh chóng bị thất bại
Sự mập mờ giữa RAT và không an toàn đối với người tiêu dùng đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của những người sản xuất RAT. Chẳng hạn, một số
khách sạn lớn ở Hà Nội từ lâu đã không dùng rau trong nước mà toàn dùng rau
ngoại nhập. Hy vọng một thời gian nữa, càng nhanh càng tốt, các vùng sản xuất rau
đều là vùng an toàn. Nhờ đó mà các khách sạn, nhà hàng của Việt Nam mới xứng
đáng trở thành bếp ăn an toàn của thế giới
Bên cạnh đó, các điều kiện khác về trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công
tác quản lý nhà nước về RAT, công tác thông tin tuyên truyền về sản xuất, kinh
doanh RAT còn hạn chế, chưa được thường xuyên, kịp thời nên một bộ phận cán bộ
và số đông nông dân còn thiếu thông tin về quản lý, sản xuất, tiêu thụ RAT.
39
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG
RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
Quá trình nghiên cứu cho thấy rằng, tình hình cung- cầu RAT là bài toán
khá nan giải và việc QLNN về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội vẫn tồn tại
những “khoảng trắng”, nhà nước cần phải đề ra các mục tiêu, chiến lược, phương
hướng và giải pháp để mở rộng thị trường RAT, khắc phục những hạn chế trong
quản lý trong thời gian tới để RAT có thể chiếm lĩnh được thị trường, đáp ứng được
nhu cầu cấp thiết của người dân thủ đô, và nâng cao niềm tin của người dân vào sức
mạnh quản lý của nhà nước.
4.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp;
phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất và quản lý thị trường RAT
Do nhu cầu sử dụng RAT của người dân ngày một tăng đòi hỏi phải có sản
phẩm đáp ứng nhu cầu đó. Hiện nay, việc mở rộng diện tích trồng RAT là điều cần
thiết. Thực tế này đòi hỏi các cơ quan quản lý của Nhà Nước có những định hướng
và giúp đỡ người sản xuất RAT để họ có thể phát triển sản xuất tăng cung RAT cho
thị trường. Mặt khác khi đã tạo điều kiện để cho người nông dân mở rộng sản xuất
thì cần có những biện pháp để quản lý thị trường, mở rộng thị trường nhằm đảm bảo
quyền lợi cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Do vậy song song với việc xây
dựng định hướng phát triển sản xuất cần xác định được phương hướng quản lý và
phát triển thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới.
4.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp
4.1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về phát triển thị trường RAT
Kinh doanh RAT phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường.
Thúc đẩy phát triển RAT trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng sản
phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thúc đẩy phát triển RAT trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
với công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao giá trị sản phẩm.
Thúc đẩy phát triển RAT trên cơ sở khuyến khích mọi thành phần kinh tế
tham gia sản xuất, chế biến và kinh doanh RAT.
Thúc đẩy phát triển RAT cần có sự hỗ trợ của Nhà Nước và các ngành có
liên quan.
40
4.1.1.2. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội của
ngành nông nghiệp
Thành phố Hà Nội đã đề ra một số mục tiêu cụ thể phát triển thị trường RAT
trên toàn thành phố. Cụ thể như sau:
Hoàn thiện nghiên cứu xác định vùng và cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở
đủ điều kiện sản xuất RAT, đề xuất quy hoạch và đầu tư vùng sản xuất RAT tập
trung trên các vùng nông nghiệp ổn định của thành phố.
Xây dựng và triển khai các dự án kết cấu hạ tầng vùng, khu sản xuất RAT
tập trung.
Xây dựng và triển khai mô hình của thành phố về sản xuất và tiêu thụ RAT
tập trung (hệ thống tưới phun, nhà lưới, đường bê tông…).
Chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, đảm bảo
sản xuất RAT có hiệu quả.
Hoàn thiện trung tâm phân tích, kiểm định chất lượng rau quả Hà Nội.
Phối hợp với các tỉnh bạn nhằm sản xuất, cung ứng và quản lý chất lượng
RAT từ các tỉnh cung cấp cho Hà Nội.
4.1.2. Phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất RAT trên địa bàn Hà Nội
Uỷ ban nhân thành phố Hà Nội phê duyệt đề án mang tên “ sản xuất và tiêu
thụ RAT giai đoạn 2009-2015” đến năm 2015, thành phố sẽ có khoảng 5.000 -
5.500ha RAT được đầu tư về cơ sở hạ tầng, có cán bộ kỹ thuật hướng dẫn nông dân
trong quá trình sản xuất. Tổng số vốn đầu tư cho đề án này dự kiến lên đến hơn 900
tỷ đồng. Các vùng sản xuất RAT tập trung, ưu tiên các vùng ven sông Hồng, sông
Đuống, sông Đáy và sông Tích; trong đó, thành phố sẽ lựa chọn những vùng có quy
mô lớn, thuộc các huyện như Đông Anh, Mê Linh, Gia Lâm, Chương Mỹ, Đan
Phượng nhằm đầu tư khép kín tạo thành các vùng RAT trọng điểm.
Dự kiến, đến năm 2020, diện tích sản xuất RAT của Hà Nội sẽ đạt
16.267,7ha, trong đó các vùng sản xuất rau tập trung là 151 vùng với tổng diện tích
6.644,7ha; các vùng sản xuất rau phân tán do nông dân trồng tự phát khoảng 2.190
vùng, tổng diện tích 9.632ha. Hà Nội cũng sẽ tập trung hình thành các vùng sản
xuất RAT tập trung phù hợp với định hướng quy hoạch, đồng thời ưu tiên xây dựng
cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các vùng sản xuất RAT tập trung theo Đề án sản xuất và
tiêu thụ RAT giai đoạn 2009 - 2015 đã được UBND TP phê duyệt.
4.1.3. Phương hướng kế hoạch quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội
41
Một đề án liên quan trực tiếp đến RAT cho người tiêu dùng Hà Nội mang tên
''Lưu thông, tiêu thụ rau an toàn, thực phẩm sạch trên địa bàn thành phố Hà Nội'' với
mục đích bảo vệ sức khỏe cộng đồng, do Sở Công Thương đệ trình và đã được
UBND TP Hà Nội phê duyệt. Đề án này đã đặt ra tiêu chí RAT cũng như các thực
phẩm sạch khác cung ứng cho các cửa hàng, siêu thị, khách sạn, nhà hàng, bếp ăn tập
thể... phải đảm bảo 100% các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Không chỉ vậy,
các cửa hàng, các điểm bán RAT, thực phẩm sạch sẽ được tổ chức, sắp xếp thành
mạng lưới một cách có hệ thống, hợp lý và rộng khắp địa bàn Thủ đô, ngoài tiêu chí
về văn minh thương mại.
Để củng cố niềm tin của người tiêu dùng về chất lượng RAT, trong thời gian
tới Chi cục BVTV Hà Nội cần tăng cường phối hợp với các ngành thương mại, y tế
để quản lý chặt chẽ RAT từ sản xuất đến tiêu thụ ở các khâu thủ tục, nguồn gốc,
chất lượng, nâng cao năng lực, tăng cường công tác thanh kiểm tra việc kinh doanh,
sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt tại các vùng RAT. Tổ chức các đội thanh tra, kiểm
tra, giám sát chất lượng rau tại các cửa hàng kinh doanh RAT và việc đăng ký kinh
doanh RAT.
Một trong những điểm yếu nhất của thị trường RAT hiện nay là khâu tiêu
thụ. RAT sản xuất ra còn khó tìm nơi tiêu thụ hơn cả rau đại trà. Vấn đề đặt ra là
phải có hệ thống cửa hàng kinh doanh RAT thống nhất trên toàn địa bàn vừa đảm
bảo đầu ra cho người sản xuất vừa đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Để khắc
phục điều này, Chi cục BVTV thành phố Hà Nội có định hướng là thực hiện quy
hoạch các chợ đầu mối RAT gắn với các vùng sản xuất lớn và các trục đường giao
thông chính. Tùy theo quy mô khu dân cư, Hà Nội bố trí từ 1- 3 cửa hàng bán rau an
toàn ở mỗi khu. Tổng số cửa hàng kinh doanh RAT sẽ được hỗ trợ lên đến 520.
4.2. Giải pháp quản lý nhà nước về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện
nay
4.2.1. Một số đề xuất đối với nhà quản lý các cấp trên địa bàn Hà Nội
Nhà nước cần thành lập ban chỉ đạo sản xuất RAT các cấp từ thành phố đến
cấp xã, phường; đồng thời giám sát sản xuất RAT cũng như kinh doanh thuốc
BVTV trên địa bàn. Chi cục BVTV cử cán bộ kỹ thuật chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát
nông dân sản xuất RAT ở tất cả các vùng sản xuất rau. Siết chặt hơn nữa công tác
giám sát sản xuất, tiêu thụ RAT, giám sát chặt chẽ các cơ sở đã được cấp giấy
chứng nhận (áp dụng quy trình sản xuất, nguồn gốc, sản lượng, địa chỉ cung ứng
42
rau…), phối hợp các cơ quan chức năng xử lý nghiêm, công khai các cơ sở vi phạm,
tuyên truyền và khen thưởng những cơ sở làm tốt.
Hiện nay, cơ chế chính sách của Nhà Nước cho sản xuất RAT chưa hoàn
thiện, chưa khuyến khích được nông dân, và người kinh doanh RAT. Do đó, UBND
TP cần đưa ra các văn bản hướng dẫn cụ thể tới các địa phương, cơ sở sản xuất và
kinh doanh RAT. Thành phố Hà Nội nên xây dựng, ban hành, quản lý quy trình sản
xuất RAT cho từng loại cụ thể bằng những văn bản pháp lý cụ thể, phù hợp với điều
kiện từng vùng, hướng dẫn nông dân thực hiện chặt chẽ các quy trình, tăng cường
kiểm tra việc sử dụng thuốc BVTV, phân bón, thuốc kích thích để kịp thời ngăn
chặn các hành vi gian dối làm “bẩn” RAT…Phải gắn tên các hộ sản xuất chịu trách
nhiệm với từng luống rau cụ thể. Kiểm tra đột xuất và ngẫu nhiên nhiều diện tích
trồng rau và cửa hàng kinh doanh.
Mạng lưới các cửa hàng, các điểm bán RAT cần được tổ chức, sắp xếp có hệ
thống, hợp lý và rộng khắp địa bàn thủ đô, đồng thời đảm bảo văn minh thương mại.
Tùy theo quy mô khu dân cư để bố trí từ 1-3 cửa hàng bán RAT ở mỗi khu, cần quy
hoạch các chợ tạm, chợ cóc, tránh tình trạng tiện đâu bán đấy.
Hơn nữa cần quy hoạch các khu sản xuất RAT không để người dân sản xuất
nhỏ lẻ, manh mún, không có chiến lược cụ thể. Cần phải xây dựng hệ thống sản
xuất RAT theo hướng chuyên nghiệp, đồng bộ, góp phần vào việc bảo đảm vệ sinh
an toàn thực phẩm vì sức khỏe người tiêu dùng. Việc quy hoạch cần phải chú trọng
đến vấn đề môi trường, thậm chí cả phát triển du lịch sinh thái tại những vùng trồng
rau. TP Hà Nội nên đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất RAT, để khuyến khích người
nông dân trồng RAT. Cùng với đó là xây dựng những khu trồng rau công nghệ cao
đã được triển khai thành công ở Trung Quốc, Singapore…
Nhà nước cần có những ưu đãi cho các doanh nghiệp, các HTX, các hộ nông
dân trong việc vay vốn sản xuất và kinh doanh RAT. Thành phố cần chỉ đạo các
ngành chức năng xem xét cho nông dân vay vốn sản xuất ưu đãi cả về số lượng và
thời gian vay. Các doanh nghiệp và HTX đầu tư sản xuất kinh doanh hàng nông sản
chất lượng cao với mô hình hiện đại, quy mô lớn cũng cần được xem xét cho vay
với những ưu thế hợp lý để các doanh nghiệp này có thể đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật ban đầu và đầu tư cho các hộ nông dân qua việc cung cấp giống, thuốc BVTV,
từ những nguồn cung cấp đáng tin cậy. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp, các HTX, các hộ nông dân tiếp tục với công nghệ tiên tiến trong sản xuất
43
nông nghiệp như mô hình trồng rau nhà kính, trồng rau trong nhà lưới, trồng rau
không cần đất… để có thể hội nhập với ngành nông nghiệp thế giới. Ngoài ra, do
chi phí sản xuất RAT cao hơn chi phí sản xuất rau đại trà nên nhà nước phải xem
xét miễn thuế VAT và thủy lợi phí cho người nông dân. Cùng với đó, sở công
thương, sở tài chính phải duyệt giá thành sản phẩm tránh kiểu mua đứt bán đoạn,
nảy sinh rất nhiều vấn đề như: lúc giá cao thì người sản xuất bán ra bên ngoài, lúc
giá rẻ thì lại bán vào siêu thị, hoặc rau không sơ chế, không đảm bảo chất lượng…
Có sự phân cấp rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý theo
các cấp tránh tình trạng trùng lặp. Tránh tình trạng bỏ ngỏ thị trường do trông chờ, ỷ
lại, không có trách nhiệm.
Hội khuyến nông thành phố Hà Nội nên phối hợp với đài phát thanh- truyền
hình Hà Nội, mỗi ngày có một chương trình chuyên nói về RAT (cung cấp địa chỉ
sản xuất và cung ứng RAT tin cậy, uy tín, tư vấn cách chọn mua RAT…). Thời gian
của mỗi ngày phát sóng chỉ cần 5 - 10 phút là đủ. Nội dung của mỗi chương trình
được nói đến dưới dạng một tiểu phẩm gần gũi như trong cuộc sống thực hàng ngày
của chúng ta. Như vậy, người tiêu dùng sẽ nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng
và dễ dàng.
4.2.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội
Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội
không nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng các doanh nghiệp kinh doanh RAT bị
thua lỗ phải đóng cửa. Do vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp này phải có chiến lược
kinh doanh mới.
Trước khi mở cửa hàng kinh doanh phải đăng ký kinh doanh RAT theo các
quy định của Nhà Nước. Đảm bảo việc kinh doanh là hợp pháp theo quy định của
pháp luật. Có giấy phép kinh doanh do Cục quản lý thị trường cấp để đảm bảo
quyền lợi của doanh nghiệp và của hàng.
Kiên quyết chỉ kinh doanh các loại RAT đảm bảo chất lượng, không bán rau
đại trà lẫn RAT. Chỉ nhập RAT của các HTX đã đạt tiêu chuẩn về sản xuất RAT,
không nhập rau không rõ nguồn gốc. Chọn lựa các cơ sở cung cấp rau uy tín, đảm
bảo thời gian giao hàng đúng hạn, đúng chủng loại đảm bảo chất lượng. Từ đó xây
dựng lên một thương hiệu uy tín của cửa hàng được nhiều người biết đến.
Do RAT cũng như các loại nông sản khác là mặt hàng có tính đặc thù là khó
bảo quản trong thời gian dài, đòi hỏi sự tươi ngon nên vấn đề bảo quản là rất quan
44
trọng. Các doanh nghiệp kinh doanh lớn hay các siêu thị thì vấn đề này đã được giải
quyết khá tốt. Tuy nhiên, với các cửa hàng nhỏ thì việc bảo quản còn là vấn đề khá
khó khăn. Do quy mô cửa hàng nhỏ nên không có điều kiện bảo quản tốt, rau nhập
về rất dễ bị hỏng do chưa bán hết trong vài ngày. Do vậy, các cửa hàng này nên thu
mua với số lượng vừa đủ, phù hợp với quy mô cửa hàng của mình và để phục vụ
nhu cầu của người tiêu dùng. Đồng thời đầu tư thiết bị để bảo quản rau tốt hơn. Bên
cạnh đó, các cửa hàng kinh doanh RAT cần sơ chế, đóng gói, dán tem, nhãn trên
từng sản phẩm và tuân theo các quy định hiện hành của Nhà Nước. Đồng thời phải
có nơi giao nhận, sơ chế bao gói, bảo quản, có đầy đủ biển hiệu, bảng giá, niêm yết
kinh doanh…Đảm bảo rằng RAT được bày bán phải luôn tươi, ngon và đảm bảo
chất lượng.
Một điều rất quan trọng là các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh RAT phải
nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Việc đảm bảo chất lượng
rau là quan trọng hàng đầu. Nhưng chỉ có rau chất lượng tốt thì chưa đủ mà cần có
nhiều yếu tố khác.
Đầu tiên là đội ngũ nhân viên kinh doanh phải có kiến thức về RAT để có thể
giải thích cho người tiêu dùng biết về sự khác nhau năng suất, đặc điểm, tính chất
của RAT so với các sản phẩm rau khác. Nhân viên bán hàng có thái độ phục vụ thân
thiện, nhiệt tình với phương châm “khách hàng là thượng đế”. Ngoài ra, mỗi cơ sở
kinh doanh nên có đồng phục riêng cho nhân viên của mình nhằm tạo nên sự khác
biệt với đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, nhu cầu của người tiêu dùng đa dạng và đặc biệt đối với rau thì thay
đổi theo từng bữa ăn. Do vậy, các cơ sở kinh doanh RAT phải đảm bảo đáp ứng nhu
cầu đó. Cần kinh doanh nhiều loại rau khác nhau đa dạng và phong phú về chủng
loại làm tăng sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Các loại rau được đóng gói với khối
lượng khác nhau phù hợp với quy mô của từng gia đình và nhu cầu của người tiêu
dùng.
Thứ ba là dịch vụ trước, trong và sau bán hàng cần được tăng cường hơn
nữa. Nếu các dịch vụ này làm tốt sẽ tăng tỷ lệ quay trở lại của khách hàng. Hơn nữa
còn có thể có mở rộng uy tín và tên tuổi của cửa hàng thông qua kênh truyền tin từ
phía khách hàng. Họ không chỉ trở thành khách hàng quen thuộc mà còn giới thiệu
cho bạn bè của họ. Khách hàng đến mua rau tại cửa hàng có chỗ để xe và trông xe
45
miễn phí. Đối với những khách hàng ở cùng một khu phố mua với khối lượng lớn
cửa hàng có thể giao hàng đến từng nhà theo yêu cầu của khách hàng...
Tất cả những yếu tố đó sẽ là lý do mà cửa hàng thu hút được khách hàng đến
với cửa hàng của mình mà không phải đến với cửa hàng khác.
Hiện nay, số lượng cửa hàng kinh doanh RAT còn ít và thưa nên việc mua
RAT vẫn chưa thuận tiện cho người tiêu dùng. Do vậy, cần phát triển mạng lưới
tiêu thụ RAT qua các siêu thị, đại lý, cửa hàng bán lẻ có gắn chứng nhận RAT đến
từng khu phố tùy thuộc vào mật độ dân cư.
Ngoài ra, các doanh nghiệp và cửa hàng kinh doanh RAT có thể cho thông
tin về cửa hàng của mình lên các trang Web. Hiện nay, việc mua bán qua mạng đã
trở nên khá phổ biến nên đây cũng là hướng kinh doanh mới mà các doanh nghiệp
nên hướng tới trong tương lai. Khách hàng không cần phải đến tận cửa hàng để mua
mà có thể tiến hành mua bán, thanh toán qua mạng, sau đó sẽ giao hàng đến nhà cho
khách hàng. Giúp giảm chi phí và tiết kiệm thời gian cho cả doanh nghiệp và người
tiêu dùng.
4.2.3. Giải pháp đối với người nông dân và các HTX sản xuất RAT
Trong quá trình sản xuất RAT, người nông dân cần tuân thủ các nguyên tắc
sản xuất của GAP. RAT phải được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn quy định. Phải có
hệ thống kiểm dịch chặt chẽ, công khai, tạo sự tin tưởng cho người tiêu dùng. Việc
sơ chế, đóng gói, dán tem, nhãn sẽ phải thực hiện trên từng sản phẩm và tuân theo
các quy định hiện hành của nhà nước.
Người sản xuất phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm RAT, củng
cố lòng tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm RAT. Muốn vậy trong sản xuất,
người sản xuất RAT phải sử dụng thuốc BVTV theo đúng hướng dẫn trong kỹ thuật
sản xuất. Không vì lợi nhuận mà sử dụng các loại thuốc BVTV không rõ nguồn gốc,
các loại thuốc BVTV nằm trong danh mục đã bị Nhà Nước cấm. Đặc biệt không
dùng các loại thuốc kích thích tăng trưởng rau nhập từ Trung Quốc. Các loại thuốc
này giúp cho rau tăng trưởng nhanh chóng, cho năng suất cao, mẫu mã đẹp, rút
ngắn thời gian thu hoạch rau xuống chỉ bằng một nửa so với trồng rau khi không sử
dụng thuốc kích thích. Tuy nhiên, chất lượng của loại rau do sử dụng thuốc kích
thích thấp, thậm chí nguy hại đến sức khỏe con người, không được người tiêu dùng
ưa chuộng.
46
Người sản xuất phải sản xuất ra những sản phẩm RAT thực sự an toàn. Tham
gia các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật của các nhà khoa học để hiểu rõ và ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất một cách tốt nhất. Không ngừng nâng cao trình
độ, hiểu biết nhằm sản xuất ra những sản phẩm RAT đảm bảo chất lượng, đạt tiêu
chuẩn về dư lượng thuốc hóa học (thuốc sâu, bệnh, thuốc cỏ), số lượng vi sinh vật,
ký sinh trùng gây bệnh, dư lượng đạm nitrat, dư lượng các kim loại nặng (chì, thủy
ngân, kẽm, đông, asenic..) theo mức cho phép. Áp dụng các biện pháp kỹ thuật
thâm canh nhằm nâng cao chất lượng RAT và năng suất. Muốn vậy các vùng trồng
RAT cần được quy hoạch cụ thể về đất đai, thủy lợi, có nguồn nước sạch không bị
nhiễm chất độc hại.
Các HTX sản xuất RAT phải xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình.
Do vậy, người nông dân nên tham gia vào các HTX sản xuất RAT tránh sản xuất
manh mún, nhỏ lẻ. Với quy mô lớn tạo điều kiện đầu tư áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, thực hiện thâm canh tổng hợp, tạo ra vùng nguyên liệu gắn với công nghệ
sau thu hoạch, gắn với hệ thống tiêu thụ. Đồng thời dễ dàng trao đổi thông tin giữa
các thành viên. Mỗi thành viên trong HTX phải tích cực tham gia sản xuất, tiêu thụ
theo quy hoạch của HTX. Cùng nhau xây dựng HTX vững mạnh có thương hiệu
riêng cho sản phẩm RAT của mình để ngày càng được nhiều người biết đến. Mặt
khác, phải đăng ký nhãn mác, mã vạch, đóng gói, logo… cho riêng sản phẩm của
mình. Tạo nên một thương hiệu mạnh và người tiêu dùng có thể dễ dàng nhận biết
mà không lẫn với các sản phẩm của các HTX khác. Chỉ có như vậy mới tạo được
sức cạnh tranh và nâng cao uy tín trên thị trường.
Các HTX chịu trách nhiệm tìm đầu ra cho sản phẩm của các hội viên hạn chế
tối đa việc các xã viên phải mang RAT ra chợ bán như rau đại trà. Liên hệ với các
cơ sở kinh doanh RAT có ký hợp đồng cụ thể về việc cung cấp RAT đảm bảo chất
lượng, thời gian giao hàng đúng hạn với khối lượng như yêu cầu. Bên cạnh đó xây
dựng các vùng chuyên canh sản xuất RAT gần các cơ sở, các nhà máy chế biến rau
quả tại, gần đường giao thông, thuận tiện cho khâu vận chuyển nguyên liệu, sản
phẩm tới nơi phân phối và tiêu thụ. Ngoài ra còn giúp cho mặt hàng rau có thể bảo
quản được lâu hơn, có thể vận chuyển đến những địa bàn xa hơn, không ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm cũng như sức khỏe con người.
Đối với RAT, trong tương lai nhu cầu còn tăng mạnh do vậy cần đầu tư tốt
cho công nghệ bảo quản và chế biến. Nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có, mở
47
rộng quy mô tương xứng với nhu cầu chế biến. Xây dựng một số nhà máy chế biến
tại vùng nguyên liệu đã được quy hoạch tùy quy mô chế biến lớn hay nhỏ mà ứng
dụng công nghệ chế biến từ thủ công tới hiện đại. Hơn nữa, làm tốt công tác bảo
quản rau sau thu hoạch là điều rất cần thiết. Giúp cho đảm bảo chất lượng rau, giảm
tỷ lệ hư hao, hạ giá thành sản phẩm. Cần áp dụng rộng rãi các kinh nghiệm cổ
truyền về bảo quản rau quả, kết hợp với từng bước áp dụng công nghệ tiên tiến,
hiện đại (xử lý hóa học, lý sinh hóc…) trong bảo quản rau để đảm bảo chất lượng
sản phẩm trong khi thời gian cung cấp rau cho thị trường đòi hỏi kéo dài.
Mỗi huyện nên tập trung các HTX lại và thành lập được website riêng của
huyện mình. Trên website công bố cụ thể các loại rau cung cấp cho thị trường, giá
bán của từng loại, các địa chỉ phân phối rau của các HTX… Từ đó giúp cho người
tiêu dùng có thể tìm hiểu thông tin nhanh chóng về nguồn gốc của RAT và các địa
chỉ mua RAT đáng tin cậy phù hợp với mình hơn. Bên cạnh đó, trong website của
mỗi huyện có liên kết với website của các địa phương khác nhằm giúp cho xã viên
của mình có cơ hội giao lưu và học hỏi kinh nghiệm từ các hội viên khác cùng
huyện và các địa phương khác trên cả nước và trên thế giới.
Các HTX chịu trách nhiệm tìm đầu ra cho sản phẩm của các hội viên, hạn chế tối đa
việc các xã viên phải mang rau an toàn ra chợ bán như rau đại trà. Bên cạnh đó, cần
xây dựng các cơ sở, các nhà máy chế biến rau quả tại các vùng chuyên canh sản
xuất RAT. Bởi các mặt hàng rau có thể bảo quản được lâu hơn, có thể vận chuyển
đến những địa bàn xa hơn, không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cũng như sức
khỏe con người.
4.2.4. Giải pháp đối với nhà khoa học
Các nhà khoa học cần tích cực nghiên cứu ra các loại giống rau mới cho
năng suất cao, chi phí thấp, quản lý và ứng dụng giống mới, nâng cao chất lượng
giống; có văn bản hướng dẫn cụ thể việc gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo
quản đối với các loại giống mới; tham gia các buổi tập huấn phổ biến kỹ thuật,
hướng dẫn người nông dân sản xuất theo đúng quy trình, đúng nguyên tắc của sản
xuất RAT; đưa ra các cách để người tiêu dùng phân biệt RAT hay rau không an toàn
để người tiêu dùng biết để mua.
Bên cạnh việc nghiên cứu giống mới thì nhiệm vụ của các nhà khoa học còn
phải nghiên cứu và cho ra các loại thuốc BVTV tốt cho sinh trưởng của rau và đảm
bảo không độc hại đối với sức khỏe của người tiêu dùng. Đồng thời có các loại
48
thuốc bảo quản rau tươi hơn trong thời gian lâu hơn để có thể vận chuyển đi các
vùng xa hơn.
Giúp nông dân nâng cao kiến thức về quản lý dịch hại tổng hợp trong sản
xuất như việc sử dụng thuốc BVTV, các biện pháp canh tác cây trồng một cách hợp
lý, chăm bón tưới tiêu, chủ động điều khiển thời gian thu hoạch... Phổ biến ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật trong chu trình sản xuất tươi, bảo quản lâu, vận chuyển xa và
tuổi thọ tiêu thụ kéo dài (vải, thanh long đường biển, nhãn…). Từ đó góp phần bảo
vệ môi trường, sức khoẻ người sản xuất cũng như người tiêu dùng, tăng lượng RAT
cung cấp cho thị trường Hà Nội.
4.2.5. Giải pháp đối với người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người trực tiếp tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra.
Để quản lý tốt thị trường cũng cần phải có cách tác động đến người tiêu dùng. Do
đặc điểm thị trường Hà Nội hiện nay còn tồn tại rất nhiều chợ cóc, chợ tạm ở khắp
nơi, nó len lỏi trong từng hẻm, từng góc phố. Do thói quen mua sắm hàng ngày của
người dân là tiện đâu mua đó, lại chưa yêu cầu cao về chất lượng. Thói quen này
gây không ít khó khăn cho hoạt động quản lý thị trường. Bên cạnh đó hiện nay các
cửa hàng kinh doanh RAT còn ít nên hầu hết người dân phải đi rất xa mới có thể
mua được RAT. Do vậy, dù biết rau mình mua là không phải là RAT nhưng họ vẫn
mua. Một cách truyền thống mà các bà nội trợ vẫn thường làm là mua rau ở chợ về
ngâm nước muối khoảng 10 - 15 phút là sử dụng để chế biến thành món ăn cho gia
đình. Cách này chỉ giúp loại bỏ được những chất hại bên ngoài còn không thể loại
bỏ dư lượng thuốc BVTV còn trong rau. Rõ ràng đây không phải là giải pháp an
toàn đối với người tiêu dùng. Họ cần sử dụng những sản phẩm thực sự an toàn đảm
bảo chất lượng. Bản thân mỗi người tiêu dùng cần ý thức được tác hại của việc sử
dụng các sản phẩm không an toàn. Sự mở rộng của hệ thống thống cung cấp RAT
trên toàn thành phố có thể thực hiện được thành công hay không phụ thuộc rất lớn
vào người tiêu dùng. Chỉ khi nào người tiêu dùng thực sự tin tưởng và hình thành
được thói quen chỉ tiêu dùng những sản phẩm RAT thì việc cung cấp RAT đến từng
khu phố mới có thể thực hiện được. Do vậy, vì sức khỏe của bản thân và gia đình
mình, mỗi người tiêu dùng hãy trở thành người tiêu dùng thông minh, không chấp
nhận những sản phẩm không đạt chất lượng.
49
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .........................................2 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu..............................................................2 1.2. Xác lập vấn đề nghiên cứu .............................................................................2 1.3. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................2 1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu.................................................................3 1.5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................3 1.6. Những nghiên cứu có liên quan......................................................................3 1.7. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................4 1.8. Kết cấu của đề tài............................................................................................5 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN ...........................6 2.1. Một số lý luận về rau an toàn.........................................................................6 2.1.1. Khái niệm rau an toàn..................................................................................6 2.1.2. Nguyên tắc trong sản xuất rau an toàn ........................................................7 2.1.3. Tiêu chuẩn đánh giá rau an toàn .................................................................8 2.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn......10 2.2.1. Quản lý nhà nước về thị trường rau an toàn..............................................10 2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn ............10 2.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về thị trường RAT ...................................11 2.2.3.1. Ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch liên quan đến thị trường rau an toàn ...................................................................................11 2.2.3.2. Quản lý chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh RAT ......................................................................................12 2.2.3.3. Quản lý cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối ................................ 13 2.2.3.4. Quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị trường ..................13 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY...........................................................................................................15 3.1. Thực trạng thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay ........................15 3.1.1. Nguồn cung RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay .......................................15 3.1.2. Tình hình cung - cầu, giá cả, cạnh tranh trên thị trường RAT Hà Nội hiện nay ........................................................................................................................17 3.1.2.1. Tình hình cung RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay ...........................17 3.1.2.2. Tình hình cầu về RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay .........................21 3.1.3. Mối quan hệ cung - cầu RAT trên thị trường Hà Nội ................................ 24
50
3.1.4. Tình hình giá cả RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay............................ 25 3.1.5. Tình hình cạnh tranh trên thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội ...............26 3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội .............................................................................................................................. 28 3.2.1. Tình hình ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch liên quan đến thị trường RAT .....................................................................................28 3.2.2. Quản lý việc chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh rau an toàn trên địa bàn Hà Nội ..........................................30 3.2.3. Tình hình quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị trường Hà Nội ........................................................................................................................31 3.2.4. Tình hình tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác thanh kiểm tra .............................................................................................................................. 32 3.3. Đánh giá sự QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay .............................................................................................................................. 33 3.3.1. Kết quả đạt được trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội .............................................................................................................................. 33 3.3.2. Hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội...........35 3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN đối với thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội .....................................................................................................35 CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY ............................................39 4.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp; phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất và quản lý thị trường RAT ........39 4.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT của ngành nông nghiệp..39 4.1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về phát triển thị trường RAT ..........39 4.1.1.2. Mục tiêu, chiến lược phát triển thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội của ngành nông nghiệp............................................................................................... 40 4.1.2. Phương hướng kế hoạch phát triển sản xuất RAT trên địa bàn Hà Nội..........40 4.1.3. Phương hướng kế hoạch quản lý thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội...........40 4.2. Giải pháp quản lý nhà nước về thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay ........................................................................................................................41 4.2.1. Một số đề xuất đối với nhà quản lý các cấp trên địa bàn Hà Nội .....................41 4.2.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội.....43 4.2.3. Giải pháp đối với người nông dân và các HTX sản xuất RAT ...................45 4.2.4. Giải pháp đối với nhà khoa học..................................................................47 4.2.5. Giải pháp đối với người tiêu dùng .............................................................. 48