VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH TÚ

QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP

CÔNG LẬP: TRƯỜNG HỢP VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH

TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH TÚ

QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP

CÔNG LẬP: TRƯỜNG HỢP VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH

TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG

Ngành: Quản lý kinh tế

Mã số: 8340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN BÙI NAM

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Quản lý tài sản công đối với đơn vị sự

nghiệp công lập: trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng

Trung ương” là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi, với sự hướng

dẫn tận tình của TS. Nguyễn Bùi Nam.

Các tài liệu tham khảo, các số liệu thống kê được dùng với mục đích nghiên

cứu, được sử dụng đúng quy định. Các số liệu sử dụng trong luận văn có nguồn

gốc rõ ràng, trung thực. Các kết luận, nhận định và kết quả nghiên cứu trong luận

văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Tác giả

Lê Thanh Tú

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI

SẢN CÔNG ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP ...................... 8

1.1. Cơ sở lý luận về tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập ............. 8

1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập ......................... 13

1.2. Tiêu chí đánh giá và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản

lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập .......................................... 22

1.4. Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản công

tại một số đơn vị sự nghiệp công lập ...................................................... 25

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN

SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG ....... 31

2.1. Khái quát về Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương 31

2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương ......................................................... 34

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký sinh

trùng - Côn trùng Trung ương ................................................................. 58

Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ

SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ SÍNH

TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG ................................................ 66

3.1. Định hướng phát triển và định hướng quản lý tài sản công tại Viện

Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương ..................................... 66

3.2. Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý tài sản công tại Viện

Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương ..................................... 67

3.3. Một số kiến nghị .............................................................................. 75

KẾT LUẬN .................................................................................................. 78

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 79

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa

1 CNTT Công nghệ thông tin

2 ĐVSN Đơn vị sự nghiệp

3 NSNN Ngân sách nhà nước

4 TSC Tài sản công

5 TSCĐ Tài sản cố định

6 XDCB Xây dựng cơ bản

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng 7 VSR- KST-CT TƯ Trung ương

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của Viện giai đoạn 2014-2018 .... 36

Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn cho đầu tư XDCB, nâng cấp và sửa chữa

cơ sở hạ tầng giai đoạn 2014-2018 ......................................................... 43

Bảng 2.3: Tình hình đầu tư XDCB, mua sắm TSC giai đoạn 2014-2018 ...... 44

Bảng 2.4: Số lượng tài sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của Viện năm 2018 .... 51

Bảng 2.5: Tình hình thanh lý tài sản giai đoạn 2014-2018 ............................. 56

Bảng 2.6: Số lượng tài sản thanh lý tài sản năm 2018 .................................... 58

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Sơ đồ 2.1.Cơ cấu tổ chức của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng

trung ương ............................................................................................... 33

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tài sản công của Viện thời điểm 31/12/2018 ................. 35

Biểu đồ 2.2: Nguồn vốn NSNN giai đoạn 2014-2018 .................................... 40

Biểu đồ 2.3: Nguồn vốn đầu tư phát triển sự nghiệp giai đoạn 2014-2018 .... 41

Biểu đồ 2.4 Biểu đồ so sánh cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 2014-2018 ............ 42

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Ở mỗi quốc gia, tài sản công có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình

sản xuất và quản lý xã hội, đồng thời việc quản lý tốt TSC luôn được coi là

một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng quản lý nhà nước của quốc

gia đó.

Trong những năm qua, TSC ở nước ta đã luôn được quan tâm phát triển

cả về quy mô, giá trị, chất lượng và được giao cho các cơ quan, đơn vị thuộc

bộ máy nhà nước trực tiếp quản lý, sử dụng nhằm thực hiện những chức năng,

nhiệm vụ Nhà nước giao. Đối với các đơn vị được giao tài sản bước đầu đã

kiểm soát được việc sử dụng TSC, hạn chế dần việc sử dụng TSC không đúng

mục đích, sử dụng lãng phí, thất thoát. Công tác quản lý TSC đã được chủ

động hơn trên cơ sở vẫn đảm bảo tính độc lập, phù hợp với quy trình đầu tư,

xây dựng, mua sắm sử dụng tài sản. Công tác quản lý mua sắm tài sản công ở

cơ quan nhà nước hiện nay chưa thực sự hiệu quả: tình trạng mua sắm vượt

tiêu chuẩn định mức, vượt mức giá cho phép, chất lượng không đảm bảo, thủ

tục mua sắm chưa theo đúng quy trình, và còn nhiều vấn đề cần phải xem xét

trong quá trình mua sắm: từ khâu lập dự toán, xác định nhu cầu kinh phí và tổ

chức thực hiện việc mua sắm. Đây là biểu hiện rõ ràng nhất về bất cập, vướng

mắc trong quản lý mua sắm tài sản công.

Song, bên cạnh những kết quả đạt được, do có nhiều nguyên nhân chủ quan,

khách quan, hệ thống cơ chế quản lý TSC còn nhiều bất cập, hạn chế chưa

thực sự thích ứng với thực tế.

Quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra, là yếu tố quan

trọng góp phần xây dựng và phát triển Viện cũng như thực hiện các chức

năng, nhiệm vụ được giao. Quản lý TSC từng bước được hoàn thiện theo

1

hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt

được, vẫn còn bộc lộ một số bất cập như: việc lập kế hoạch mua sắm tài sản

còn bị động, phụ thuộc vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp; hệ thống tiêu

chuẩn, định mức sử dụng TSC làm căn cứ mua sắm tài sản chưa đầy đủ; công

tác kiểm tra, giám sát chưa thực sự được coi trọng; công kiểm kê hàng năm

chưa hiệu quả; việc áp dụng CNTT vào quản lý TSC chưa khoa học, đồng bộ;

trình độ của cán bộ quản lý và cá nhân người sử dụng còn hạn chế. Ở nước ta,

cơ quan quản lý trung ương về tài sản là Cục Quản lý Công sản thuộc Bộ Tài

Chính. Hiện nay, uy tín của nhà nước, của cán bộ công chức nhà nước một

phần rất lớn được công dân đánh giá thông qua việc quản lý, sử dụng tài sản

công. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng tài sản công không đúng mục đích, gây

lãng phí, thất thoát diễn ra rất phổ biến. Cho đến nay, các nghiên cứu liên

quan đến đề tài này chỉ mang tính khái quát chung, chưa dựa trên những

chuẩn mực cụ thể. Vì vậy đề tài mang một ý nghĩa thiết thực, là nguồn tài liệu

tham khảo cho cơ quan, giúp tìm ra giải pháp của vấn đề quản lý tài sản công,

là cơ sở để cải thiện các vấn đề này tốt hơn.

Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý tài sản công

đối với đơn vị sự nghiệp công lập: trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh

trùng - Côn trùng Trung ương” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ

của mình.

2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Quản lý TSC là một nội dung đã và đang được đề cập tới trong nhiều

công trình nghiên cứu, luận án tiến sỹ, luận văn cao học, báo cáo khoa học…

Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Chiến lược đổi mới cơ chế

quản lý TSC công giai đoạn 2001-2010” của tác giả PGS.TS Nguyễn Văn Xa

đã nghiên cứu thực trạng quản lý, sử dụng TSC ở nước ta giai đoạn 1995 -

2000, đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.Từ

2

đó đề xuất những giải pháp để thực hiện đổi mới cơ chế quản lý TSC tại các

ĐVSN công lập giai đoạn 2001-2010 [23]. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu

của đề tài chỉ có giá trị đóng góp thiết thực ở thời điểm thực hiện.

Trong đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2002 “Hoàn thiện cơ chế quản lý TSC

tại đơn vị sự nghiệp” của tác giả Tiến sĩ Phạm Đắc Phong đã chú trọng nghiên

cứu sâu về cơ chế quản lý TSC được Nhà nước giao cho các ĐVSN trực tiếp sử

dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ [12]. Trong đó, đề tài chủ yếu đi sâu hệ

thống hóa các cơ chế, chính sách đang áp dụng đối với quản lý TSC tại các

ĐVSN, đánh giá những kết quả đạt được khi thực hiện, đồng thời chỉ ra những

tồn tại, hạn chế khi thực hiện các cơ chế, chính sách đó để kiến nghị các giải

pháp hoàn thiện, đổi mới. Tuy nhiên, trong điều kiện văn bản quy phạm pháp

luật liên quan đến quản lý TSC còn thiếu, chưa đồng bộ thì đề tài chưa đánh giá

đến hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế chính sách đó để có những giải pháp giúp

các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.

Luận án “ Cơ chế quản lý TSC trong khu vực hành chính sự nghiệp ở

Việt Nam” của nghiên cứu sinh Nguyễn Mạnh Hùng- Đại học kinh tế quốc

dân năm 2008 đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về TSC trong khu vực

hành chính sự nghiệp [10]. Tác giả đã đi sâu phân tích cơ chế quản lý TSC,

hiệu quả và hiệu lực của cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính

sự nghiệp ở Việt Nam. Đồng thời cũng khảo cứu kinh nghiệm quản lý TSC ở

một số quốc gia trên thế giới.

Luận án “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước ở

Việt Nam” của nghiên cứu sinh Phan Hữu Nghị đã trình bày tổng quan về cơ

quan hành chính nhà nước và TSC, quản lý TSC trong các cơ quan hành

chính đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm quản lý TSC của một số quốc gia.

Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [11]. Mặt khác, trên cơ

sở phân tích quy định chung về quản lý TSC và thực trạng quản lý trụ sở làm

3

việc trong các cơ quan hành chính, tác giả đã tổng kết các kết quả đạt được,

phân tích những tồn tại và nguyên nhân để từ đó đề ra mục tiêu, yêu cầu đổi

mới và hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý trụ sở làm việc của cơ quan

hành chính.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài

chính “Đổi mới cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại ĐVSN công lập”, đã tập

trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá, đề xuất nhiều giải pháp đổi mới công

tác quản lý TSC tại ĐVSN với mục tiêu: trao quyền tự chủ cho các ĐVSN

công lập để phát triển các hoạt động sự nghiệp, thực hiện xã hội hoá, giảm

sức ép chi từ NSNN.

Bài viết “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước –

Các hạn chế và giải pháp” của Lê Chi Mai trên Tạp chí Quản lý nhà nước, đã

căn cứ các tài liệu có liên quan (Báo cáo tổng kết công tác quản lý tài sản

công giai đoạn 1995 - 2005 của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính, Báo cáo

kết quả kiểm toán năm 2007, 2008 của Kiểm toán Nhà nước) để đánh giá khái

quát thực tiễn quản lý TSC nói chung và trong các cơ quan hành chính nhà

nước nói riêng. Từ đó, tác giả đi sâu vào phân tích một số vấn đề bức thiết

đang đặt ra trong quản lý TSC tại các cơ quan hành chính nhà nước như tình

trạng mua sắm lãng phí; sử dụng tài sản kém hiệu quả; thiếu ghi chép, đánh

giá giá trị và tổng kết tài sản; tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý chưa phù

hợp; thiếu sự thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Với những hạn chế trên,

bài báo đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc quản lý TSC

trong các cơ quan hành chính nhà nước.

Cho đến nay, việc nghiên cứu về quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh

trùng - Côn trùng Trung ương chưa có đề tài nào đề cập đến. Trên thực tế,

quản lý TSC ở viện trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt

ra, là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và phát triển viện cũng như thực

4

hiện các chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao. Quản lý tài sản

từng bước được hoàn thiện theo hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Quy trình

quản lý tài sản đã được quan tâm nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi để đảm bảo

phù hợp với quy định chung của Nhà nước và đặc thù hoạt động của viện; các

biện pháp cụ thể để quản lý tài sản cũng liên tục được bổ sung, hoàn thiện.

Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên

cứu được đề cập nêu trên đã đạt được, quản lý TSC là vấn đề phức tạp luôn

cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn, riêng đối với

đề tài “Quản lý tài sản công đối với đơn vị sự nghiệp công lập: trường hợp

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương” được xác định cần được

tập trung nghiên cứu một số vấn đề như sau:

Một là, kế thừa kết quả nghiên cứu mà các công trình đã công bố đạt

được, đề tài tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện một số lý luận cơ bản

về TSC và quản lý TSC trong các ĐVSN công lập, khái niệm TSC, TSC trong

ĐVSN công lập gắn với lợi ích kinh tế mà nó đem lại cho xã hội; đặc điểm,

phân loại TSC trong ĐVSN công lập; khái niệm, mục tiêu, yêu cầu, nội dung

và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý TSC trong ĐVSN công lập.

Hai là, nghiên cứu một số kinh nghiệm trong nước và quốc tế về quản

lý TSC, rút ra bài học kinh nghiệm để tham khảo trong việc kiến nghị, đưa ra

các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý TSC của Viện Sốt

rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ươngtrong thời gian tới.

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ

bản về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đánh giá thực trạng

quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương và đưa

ra một số giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC tại Viện Sốt

rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

5

* Nhiệm vụ cụ thể:

- Nghiên cứu và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về

quản lý TSC tại các đơn vị sự nghiệp y tế công lập.

- Đánh giá thực trạng tình hình quản lý và sử dụng TSC tại Viện Sốt rét -

Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

- Phân tích ưu, nhược điểm, thuận lợi và khó khăn trong việc quản lý

TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

- Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC

tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:

- Lý luận và thực tiễn về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập:

trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương (bao gồm

quản lý quá trình đầu tư mua sắm, khai thác, sử dụng và sửa chữa,vận hành,

bảo trì và khấu hao tài sản công).

* Phạm vi nghiên cứu:

- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2014-2018, định hướng đến năm 2025.

- Về không gian: Luận văn nghiên cứu tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương

- Về nội dung: Quản lý và sử dụng tài sản công

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác

quản lý và sử dụng TSC tại các đơn vị sự nghiệp công lập

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp phân tích:

Luận văn sử dụng các thông tin sơ cấp, thông tin thứ cấp từ các báo cáo

tài chính, quy chế quản lý tài sản, quy chế chi tiêu nội bộ và các báo cáo khác

6

của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương nhằm rút ra các kết

luận và đề xuất cần thiết.

+ Phương pháp so sánh:

So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân

tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện khối

lượng, quy mô tăng (giảm) của các hiện tượng kinh tế.

So sánh bằng số tương đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ

phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện kết

cấu, mối quan hệ tỷ lệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng

kinh tế.

Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích các số liệu, dữ liệu liên

quan nhằm đánh giá được tình hình quản lý tài sản.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận: hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác quản lý

TSC tại các đơn vị sự nghiệp công lập

- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng từ đó đưa ra những giải pháp

tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh

trùng - Côn trùng Trung ương.

7. Kết cấu của luận văn

Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo sẽ có

3 nội dung chính thông qua 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập

Chương 2: Thực trạng quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương

Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC tại

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

7

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG

ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

1.1. Cơ sở lý luận về tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

1.1.1. Khái niệm tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

- Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài

nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên

khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu

toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [13].

- Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14 ngày

21/6/2017 của Quốc hội: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do

Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công

phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an

ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản

công tại doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà

nước ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài

nguyên khác”[17].

1.1.2. Phân loại tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

Việc phân loại TSC nói chung và TSC trong ĐVSN công lập nói riêng

nhằm mục đích đưa ra các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả đối với từng

loại tài sản. Dựa trên các tiêu chí khác nhau thì việc phân loại TSC trong

ĐVSN công lập cũng khác nhau, thông thường có các cách phân loại tài sản

hay được sử dụng như sau:

- Căn cứ vào công dụng của tài sản khi khai thác, sử dụng, có thể chia tài

sản trong ĐVSN công lập thành các loại sau:

8

+ Nhà, đất thuộc trụ sở làm việc, công trình xây dựng và các tài sản

khác gắn liền với đất đai.

+ Phương tiện vận tải: xe ô tô phục vụ công tác (bao gồm xe ô tô phục

vụ chức danh, xe ô tô dùng chung và xe ô tô chuyên dùng) và các phương tiện

vận tải khác.

+ Máy móc, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác.

- Căn cứ hình thái tồn tại của TSC: có thể chia thành tài sản hữu hình và

tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là loại tài sản có hình thái vật chất giá trị và

nhìn thấy được. Tài sản vô hình là các tài sản tồn tại dưới dạng không nhìn

thấy, nhưng cũng có thể đem lại lợi ích cho người sở hữu nó (chẳng hạn như

bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả ...)

- Căn cứ nguồn gốc hình thành: có thể chia thành TSC được nhà nước

trực tiếp đầu tư tạo nên và TSC được gián tiếp sở hữu. TSC được nhà nước

đầu tư tạo nên chủ yếu là các tài sản được hình thành từ NSNN và các nguồn

lực tài chính có nguồn gốc NSNN. TSC được gián tiếp sở hữu trong các

ĐVSN công lập là các tài sản có được không qua các kênh đầu tư của nhà

nước (chẳng hạn các tài sản được tài trợ, biếu tặng, thu phạt…)

- Căn cứ theo cấp quản lý, TSC trong ĐVSN công lập gồm: TSC do

Chính phủ quản lý (gồm TSC do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ và cơ quan khác ở Trung ương quản lý); TSC do các ĐVSN công lập

thuộc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý; TSC do các ĐVSN

công lập thuộc cấp quận, huyện, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) quản lý;

TSC do các ĐVSN công lập thuộc cấp xã, phường, thị trấn quản lý.

1.1.3. Đặc điểm tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

- TSC tại các ĐVSN công lập được hình thành từ NSNN hoặc có nguồn

gốc NSNN: TSC trong ĐVSN công lập bao gồm tài sản được xác lập sở hữu

nhà nước và bàn giao cho ĐVSN công lập quản lý, sử dụng, tài sản được đầu

9

tư xây dựng, mua sắm từ nguồn NSNN cấp. Ngoài ra, do đặc điểm hoạt động

và cơ chế quản lý tài chính của ĐVSN công lập thì nguồn hình thành TSC có

được còn do: tài trợ, viện trợ của các tổ chức, cá nhân; nguồn thu tại các

ĐVSN công lập; nguồn vốn vay của các quỹ hỗ trợ phát triển hay các ngân

hàng; các nguồn quỹ của ĐVSN công lập được trích lập theo quy định của

pháp luật (quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp). Những tài sản này tuy nhà

nước không đầu tư trực tiếp nhưng trước khi giao các ĐVSN công lập sử

dụng thì đều phải làm thủ tục xác lập quyền sở hữu nhà nước, giá trị các tài

sản đó đều được ghi thu hoặc ghi thu, ghi chi cho NSNN nên đều được coi là

có nguồn gốc NSNN.

- Quyền sử dụng TSC trong ĐVSN công lập có sự tách rời khỏi quyền sở

hữu: TSC nói chung và TSC trong ĐVSN công lập đều thuộc sở hữu nhà

nước trong khi đó quyền sử dụng TSC được thực hiện bởi từng ĐVSN công

lập được nhà nước giao tài sản để phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ do nhà

nước giao.

- Về mục đích sử dụng: TSC trong ĐVSN công lập là những tài sản mà

Nhà nước giao cho các ĐVSN công lập trực tiếp sử dụng để thực hiện các

mục tiêu sự nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Về chế độ quản lý: Nhà nước là chủ thể quản lý TSC trong đơn vị

ĐVSN công lập, ở tầm vĩ mô, TSC được quản lý, thống nhất theo pháp luật

của Nhà nước. Ở tầm vi mô, TSC được Nhà nước giao cho các ĐVSN công

lập sử dụng theo đúng quy định, chế độ do Nhà nước quy định. Do đó, nếu

không quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến việc sử dụng TSC lãng phí, thất thoát.

- Tài sản công trong ĐVSN công lập là cơ sở vật chất để phục vụ hoạt

động của các đơn vị nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà

nước của mình. Do vậy, sự hình thành và sử dụng TSC trong các ĐVSN công

lập tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị.

10

-. TSC trong các ĐVSN công lập nhiều về số lượng, lớn về giá trị và mỗi

tài sản lại có giá trị sử dụng khác nhau, thời hạn sử dụng khác nhau, do nhiều

chủ thể quản lý, sử dụng và trình độ quản lý, sử dụng của các chủ thể rất khác

nhau: Có loại tài sản được sử dụng trong hầu hết các ĐVSN công lập (trụ sở

làm việc, xe ô tô, máy tính, photo,…) nhưng cũng có loại tài sản chỉ có một

số ĐVSN công lập sử dụng cho hoạt động, nhiệm vụ đặc thù theo ngành, lĩnh

vực sự nghiệp mà đơn vị hoạt động (thiết bị y tế đối với ĐVSN công lập hoạt

động trong lĩnh vực y tế, thiết bị thí nghiệm trong một số ĐVSN công lập

thuộc lĩnh khoa học công nghệ…). TSC có loại không có khả năng tái tạo

phải được bảo tồn và phát triển, do đó việc quản lý đối với mỗi loại tài sản

cũng có những đặc điểm khác nhau.

- Giá trị của TSC trong ĐVSN công lập giảm dần trong quá trình sử

dụng: phần giá trị giảm dần đó được xem là yếu tố chi phí tiêu dùng công để

tạo ra các sản phẩm dịch vụ công, không thể trực tiếp thu hồi được phần giá

trị hao mòn của các tài sản qua quá trình sử dụng, mà phần lớn thu hồi gián

tiếp qua phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước hoặc qua hiệu quả hoạt động

của các hoạt động sự nghiệp phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

1.1.4. Vai trò của tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

Vai trò của TSC trong ĐVSN công lập có thể được xem xét dưới nhiều

khía cạnh: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…

Thứ nhất, TSC là điều kiện vật chất đầu tiên và không thể thiếu để

ĐVSN công lập thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao. Tài sản công trong

ĐVSN công lập là nền tảng vật chất quan trọng cho việc đảm bảo các lợi ích

công, đồng thời là nguồn lực thiết yếu để đảm bảo sự tồn tại, phát triển. TSC

trong ĐVSN công lập giúp nhà nước cung cấp các dịch vụ công đáp ứng nhu

cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân, góp phần tạo ra một xã hội công bằng,

ổn định. Sử dụng TSC vào giáo dục, văn hóa, khoa học kĩ thuật giúp con

người phát triển, duy trì những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, làm cho

11

xã hội ngày một tốt đẹp hơn. TSC còn được Nhà nước sử dụng để cung cấp các

sản phẩm, dịch vụ có tác dụng điều tiết khoảng cách phân hóa giàu và nghèo

trong xã hội, góp phần đảm bảo sự công bằng của xã hội. Ngoài ra, TSC là nhân

tố quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp của các

đơn vị nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ công với chất lượng ngày càng

được nâng cao cho con người.

Thứ hai, TSC là điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động bộ máy quản

lý điều hành của các cơ quan Nhà nước, là nhân tố quan trọng trong quá trình

tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp của các ĐVSN công lập, là điều

kiện vật chất khẳng định vai trò lãnh đạo của cơ quan quản lý, tạo niềm tin, sự

uy nghiêm của pháp luật nhưng cũng tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân sống

làm việc theo đúng pháp luật nhà nước. Với vai trò là nền tảng vật chất đảm

bảo cho Nhà nước hoạt động, TSC trong ĐVSN công lập giữ vị trí hết sức

quan trọng. Một mặt, đó là phương tiện để truyền tải thông tin sự lãnh đạo

điều hành quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời là công cụ để thể

hiện ý chí của Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát duy trì sự ổn định và phát

triển kinh tế xã hội của đất nước theo những mục tiêu đã định trước.

Thứ ba, TSC là một trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất Nhà

nước thực hiện chức năng kinh tế thông qua các hoạt động nhằm đảm bảo cho

quá trình sản xuất xã hội được tiến hành bình thường, hướng quá trình sản

xuất xã hội đến những mục tiêu đã định trước. TSC là một trong các yếu tố cơ

bản của quá trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài

nguyên, đất đai thì không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của loài người.

Vì vậy, có thể khẳng định TSC trong ĐVSN công lập là yếu tố cấu thành của

quá trình sản xuất hội.

Thứ tư, TSC là nguồn vốn của sự đầu tư phát triển. Thông qua đầu tư

phát triển, TSC được bảo tồn, phát triển. Nguồn tài nguyên thiên nhiên chính

là TSC. TSC là cơ sở, là tiền đề cho đầu tư phát triển, là yếu tố đầu vào cho

12

mọi quá trình sản xuất, là nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển.

Thứ năm, TSC là điều kiện vật chất để không ngừng nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho nhân dân. Trong thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã

hội hiện nay ở nước ta, xuất phát điểm từ một nước nghèo nàn và lạc hậu,

việc bảo đảm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân

dân không chỉ trông vào các nguồn lực do nước ngoài đầu tư, mà Đảng và

Nhà nước coi TSC chính là nội lực - là chủ yếu nhằm từng bước phát triển

kinh tế xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo để nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, TSC được xem là điều kiện vật chất để

mọi công dân tiếp xúc, phản ảnh nguyện vọng của mình; nơi giao dịch hợp tác

quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá, giáo

dục và đào tạo, y tế, xã hội, khoa học và công nghệ v.v...

1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

1.2.1. Khái niệm về quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

TSC trong ĐVSN công lập là những tài sản mà Nhà nước giao cho các đơn

vị trực tiếp quản lý, sử dụng phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Quản lý TSC trong ĐVSN công lập là sự tác động có tổ chức và bằng

pháp quyền của bộ máy quản lý đối với TSC trong ĐVSN công lập nhằm đảm

bảo tài sản công được đầu tư xây dựng mới, mua sắm, quản lý, sử dụng, xử lý

một cách hiệu quả, tiết kiệm, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước

giao cho các ĐVSN công lập.

1.2.2. Sự cần thiết quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

Nhà nước là chủ sở hữu của mọi TSC, nhưng chủ thể trực tiếp khai thác,

sử dụng TSC là các ĐVSN công lập để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được

giao. Quản lý TSC là việc làm cần thiết do:

Thứ nhất, TSC trong ĐVSN công lập là tài sản vật chất, của cải của đất

nước, của nhân dân phản ánh sức mạnh kinh tế của đất nước, là tiền đề, là yếu

tố vật chất để Nhà nước tổ chức thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.

13

TSC trong ĐVSN công lập có khối lượng lớn, giá trị cao do đó việc quản lý

tốt để tạo lập, khai thác, sử dụng TSC là đòi hỏi khách quan trong quá trình

xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ hai, việc sử dụng, khai thác TSC trong ĐVSN công lập có tác dụng

kích thích quá trình phát triển kinh tế xã hội, tác động lớn đến sự phát triển

của quốc gia. Năng lực quản lý yếu kém dẫn đến lãng phí, thất thoát làm suy

giảm nguồn nội lực của đất nước. Do đó, việc nâng cao hiệu quả quản lý TSC

trong ĐVSN công lập là việc làm cần thiết.

Thứ ba, TSC trong ĐVSN công lập được hình từ nguồn NSNN. Đó là điều

kiện đảm bảo cho các ĐVSN công lập thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được

giao. Quản lý tốt TSC trong ĐVSN công lập thông qua việc đầu tư xây dựng mới,

mua sắm, quản lý, sử dụng, xử lý TSC chống thất thoát lãng phí là trách nhiệm,

nghĩa vụ của mọi cán bộ, công chức, viên chức trong các ĐVSN công lập.

1.2.3. Mục tiêu quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

Mỗi một hoạt động của ĐVSN công lập thực hiện bằng những phương

thức khác nhau nhưng đều có những mục tiêu được xác định trước, hướng tới

sự phát triển, ổn định và hiệu quả. Nhà nước đặt ra các mục tiêu quản lý đối

với khối tài sản của mình như sau:

Một là, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí và khai thác hiệu quả nguồn

TSC. Theo đó, các ĐVSN công lập được giao quyền sử dụng TSC phải bảo

tồn, phát triển nguồn TSC và sử dụng TSC theo quy định pháp luật của Nhà

nước nhằm hoàn thành nhiệm vụ do Nhà nước giao.

Hai là, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức chế độ mà

Nhà nước quy định.

Ba là, Nhà nước thực hiện quản lý TSC cũng chính là thực hiện quyền sở

hữu tài sản; trong đó đặc biệt là quyền định đoạt đối với TSC bao gồm: quyền

đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển, thanh lý tài sản. Quản lý TSC phải

14

hướng tới mục tiêu phục vụ thực hiện các nhiệm vụ của ĐVSN công lập. Nếu

nhiệm vụ của ĐVSN công lập tăng lên hoặc có thay đổi trong yêu cầu về chất

lượng dịch vụ thì TSC phải thay đổi để đáp ứng.

1.2.4. Nguyên tắc quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

Để quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản công cần tuân thủ một số nguyên

tắc sau đây:

Thứ nhất, thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời

phải có cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có

tính đặc thù riêng.

Thứ hai, thực hiện quản lý và sử dụng TSC đúng mục đích đầu tư, trang

bị; theo tiêu chuẩn, định mức. TSC trong ĐVSN công lập được hình thành từ

nguồn vốn NSNN, nguồn viện trợ, tài trợ từ các chương trình hợp tác, dự án,

quà biếu, tặng, tài sản tự chế tạo bằng hiện vật… Khi tài sản đưa vào sử dụng

phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định. Việc xác định các

tiêu chuẩn, định mức, chế độ sử dụng TSC là căn cứ quan trọng để kiểm soát

và quản lý trong việc đầu tư, mua sắm tài sản, đồng thời giúp cho các ĐVSN

công lập quản lý TSC hiệu quả, chống lãng phí. Qua đó, khắc phục tình trạng

lạm dụng TSC vào việc riêng cũng được hạn chế đáng kể.

Thứ ba, việc quản lý, sử dụng tài sản trong các ĐVSN công lập được

thực hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng

TSC phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Công khai, minh bạch TSC trong hoạt động của các ĐVSN công lập là

một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm phòng ngừa tham

nhũng. Công khai, minh bạch tạo điều kiện để cán bộ, công chức giám sát quá

trình sử dụng TSC. Với việc công khai, minh bạch TSC trong các ĐVSN

công lập để cán bộ, công chức sẽ dễ dàng biết được các quyền và nghĩa vụ

của mình để chủ động thực hiện theo các quy định của pháp luật.

15

Lĩnh vực, hoạt động công khai, minh bạch theo quy định của Luật

Phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mua sắm công và xây dựng cơ bản; quản

lý dự án đầu tư xây dựng…quản lý và sử dụng nhà, đất.

Thứ tư, quản lý TSC trong ĐVSN công lập phải được thực hiện thống

nhất, có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan,

đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về TSC. Phân cấp

quản lý TSC để đảm bảo việc quản lý phù hợp với đặc điểm của TSC.

Thứ năm, quản lý TSC phải gắn với quản lý NSNN. Xuất phát từ việc

TSC là những tài sản được hình thành từ nguồn NSNN và mọi chi phí trong

quá trình sử dụng tài sản đều do NSNN đảm bảo.

Thứ sáu bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định. TSC trong

cơ quan ĐVSN công lập phải được quản lý bằng hiện vật và giá trị theo đúng

quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng TSC. Giá trị của TSCĐ được ghi

theo nguyên giá xây dựng hoặc mua sắm. Trong quá trình sử dụng nếu có lắp

thêm bộ phận (nâng cấp đối với TSCĐ là máy móc thiết bị) hay cải tạo, mở

rộng thêm (đối với TSCĐ là nhà cửa, vật kiến trúc) thì ghi bổ sung thêm vào

nguyên giá tài sản. Tài sản sử dụng độc lập được xác định là một đối tượng

ghi sổ kế toán.

1.2.5. Quá trình quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

1.2.5.1. Các công cụ quản lý tài sản

Thứ nhất, xây dựng hệ thống chính sách quản lý gồm: Hệ thống các văn

bản quy phạm pháp luật, chính sách, chế độ về quản lý TSC; hệ thống về tiêu

chuẩn định mức.

Thứ hai, ngân sách đầu tư: hàng năm, các tổ chức, đơn vị được cấp trên

giao dự toán. Dựa trên nhu cầu thực tế và dự toán được giao, các đơn vị cấp

dưới xây dựng kế hoạch mua sắm TSC sao cho phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả

trong phạm vi ngân sách của mình.

16

Thứ ba, các ĐVSN công lập thường xuyên: Kiểm tra, kiểm soát của Nhà

nước đối với tổ chức, cá nhân được giao trực tiếp quản lý, sử dụng TS. Kiểm

tra, kiểm soát là công cụ hiệu quả góp phần tăng cường công tác quản lý TSC.

Thứ tư, sử dụng các hệ thống thông tin, tuyên truyền, giáo dục, hệ thống

đào tạo, tập huấn cho các cán bộ làm công tác quản lý TSC, cho các đối tượng

trực tiếp quản lý, sử dụng TSC trong các ĐVSN công lập; áp dụng hệ thống

công nghệ thông tin và mô hình vào quản lý, thống kê đánh giá lại TSC. Quản

lý được thực hiện thông qua số liệu thống kê tình hình TSC tại các đơn vị.

Công tác này đòi hỏi phải làm nhanh, kịp thời và chính xác để làm tốt trong

điều kiện hiện nay thì cách tốt nhất là áp dụng hệ thống phần mềm thống kê,

quản lý và đánh giá các chủng loại tài sản.

1.2.5.2. Nội dung quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp công lập

TSC được Nhà nước giao cho các cơ quan hành chính, ĐVSN công lập

quản lý, sử dụng để thực hiện nhiệm vụ hoặc bảo tồn, bảo dưỡng, duy trì, giữ

gìn bao gồm: nhà và đất thuộc trụ sở làm việc, nhà và đất thuộc các cơ sở hoạt

động sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa

học... phương tiện vận tải và trang thiết bị, phương tiện hoạt động... Đây là

những tài sản được đầu tư bằng nguồn vốn của ngân sách, bằng đóng góp của

nhân dân hoặc hiến tặng của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguyên

tắc chung là: tài sản này phải được quản lý trực tiếp chặt chẽ quá trình đầu tư

xây dựng, mua sắm, quá trình sử dụng và kết thúc sử dụng. Đối với nhà, đất

thuộc trụ sở làm việc hoặc thuộc các cơ sở hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo

dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học...phương tiện vận

tải, trang thiết bị làm việc đảm bảo cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là

những tài sản mà đơn vị được giao trực tiếp sử dụng tài sản phải sử dụng theo

chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Những tài sản này được đầu tư bằng nguồn từ

ngân sách Nhà nước hoặc có nguồn từ ngân sách Nhà nước, những tài sản này

17

có thể điều động từ nơi này sang nơi khác, những tài sản này về cơ bản (trừ

một số trường hợp đặc biệt) đều trải qua các quá trình: hình thành, sử dụng,

thanh lý. Tuy nhiên, trong thực tế, do phạm vi quản lý các TSC rất rộng, số

lượng đơn vị nhiều, mặt khác, do yêu cầu của việc quản lý chặt chẽ của các cấp

ngành, cấp địa phương, vì vậy, tuỳ thuộc vào thực tế, việc quản lý có thể được

phân cấp cho các ngành, các địa phương để giảm bớt các nghiệp vụ xử lý của cơ

quan quản lý và nâng cao trách nhiệm quản lý của ngành, địa phương.

- Quản lý quá trình hình thành tài sản

Quản lý quá trình hình thành TSC tại ĐVSN công lập được căn cứ vào

phương thức hình thành của tài sản: tài sản hình thành do được bàn giao, điều

chuyển và tài sản được hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm mới.

Thứ nhất, quản lý tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển, nhận

tiếp nhận từ đơn vị hoặc cá nhân khác, hoặc thu hồi từ các dự án đầu tư đã kết

thúc. Khi cơ quan được thành lập cùng với những quy định về chức năng, nhiệm

vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ công chức, đơn vị được cấp một số tài sản.

Đối với tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển (bao gồm cả tài sản

mới được mua sắm và tài sản đã trải qua một thời gian khai thác, sử dụng): Căn

cứ biên bản bàn giao và các tài liệu khác liên quan đến tài sản, ĐVSN công lập

cần tiến hành lập hồ sơ về tài sản (gồm các thông tin: nguyên giá, năm đưa vào

sử dụng, giá trị đã hao mòn, giá trị còn lại, hiện trạng tài sản…) để làm cơ sở ghi

chép sổ sách quản lý tài sản, hạch toán kế toán theo quy định, làm cơ sở cho việc

bố trí khai thác, sử dụng, duy tu, bảo dưỡng tài sản.

Thứ hai, quản lý tài sản được hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm

mới. Hàng năm căn cứ vào nhiệm vụ được giao, căn cứ vào nhu cầu và tình

hình thực hiện ngân sách, đơn vị lập kế hoạch mua sắm, đầu tư TSC theo quy

định của pháp luật. Toàn bộ tài sản này được quản lý theo cơ chế của đơn vị

18

xây dựng trên cơ sở chế độ của Nhà nước quy định và đặc thù hoạt động của

đơn vị. Quản lý quá trình hình thành tài sản đối với tài sản được hình thành do

mua sắm, đầu tư xây dựng tại ĐVSN công lập gồm hai giai đoạn: quyết định

chủ trương đầu tư và thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản. Việc quyết định chủ

trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản của người có thẩm quyền được căn

cứ vào định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản, chế độ quản lý tài sản; thực

trạng, nhu cầu về TSC và khả năng nguồn lực tài chính để đầu tư xây dựng,

mua sắm tài sản của từng đơn vị để làm cơ sở xây dựng kế hoạch, ghi vào dự

toán NSNN hàng năm. Việc quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp,

không hiệu quả được coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư

dàn trải, thất thoát, lãng phí NSNN. Vì vậy, khi xem xét, quyết định chủ

trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản để sử dụng cho hoạt động chuyên

môn, để đảm bảo hiệu quả sử dụng NSNN và hiệu quả đầu tư, chẳng hạn như

thay vì đầu tư mới có thể cải tạo, chuyển đổi công năng, mục đích sử dụng

của các tài sản khác một cách phù hợp về mặt kỹ thuật và các yếu tố khác

hoặc có thể xem xét phương án đi thuê đối với những tài sản chỉ có nhu cầu

sử dụng trong thời gian ngắn, không thường xuyên hoặc chưa có đủ nguồn lực

tài chính để đầu tư xây dựng, mua sắm. Sau khi có chủ trương đầu tư xây

dựng, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản phải được tuân

thủ theo các quy trình nghiệp vụ, quy định về đầu tư và xây dựng, quy định về

mua sắm TSC. Trong quản lý ở giai đoạn này cần chú ý là chỉ được đầu tư

xây dựng, mua sắm tài sản đã được ghi vào kế hoạch, dự toán, không thực

hiện các nhu cầu xây dựng, mua sắm tài sản ngoài kế hoạch (trừ các trường

hợp được cấp có thẩm quyền bổ sung, các tài sản mua sắm do tài trợ, biếu,

tặng). Các TSC hình thành do mua sắm cũng được thực hiện theo các quy

định chặt chẽ của Nhà nước qua hai hình thức:

+ Phương thức mua sắm trực tiếp: Theo phương thức này, các cơ quan

dự toán trực tiếp tổ chức thực hiện mua sắm tài sản để phục vụ công tác cho

19

đơn vị mình. Việc thực hiện mua sắm theo phương thức này có ưu điểm là tạo

sự chủ động cho đơn vị. Song, phương thức này có những hạn chế chủ yếu là:

không chuyên nghiệp, tốn nhiều công sức và thời gian; chi phí mua cao hơn

do mua sắm nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm không được tối ưu do chưa có điều

kiện để chọn lựa các nhà cung cấp tốt nhất; thiếu tính đồng bộ, hiện đại và

việc đảm bảo tiêu chuẩn, định mức trong quản lý, sử dụng TSC. Các hình

thức mua sắm tài sản hiện nay bao gồm: Đấu thầu rộng rãi; Đấu thầu hạn chế;

Chỉ định thầu; Mua sắm trực tiếp; Chào hàng cạnh tranh; Lựa chọn nhà thầu

trong trường hợp đặc biệt.

+ Phương thức mua sắm tập trung: phương thức này thường được áp

dụng đối với mua sắm tài sản với số lượng lớn, chủng loại được sử dụng phổ

biến tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, hoặc tài sản có yêu cầu tính đồng bộ,

hiện đại. Theo phương thức này thì các tài sản sau khi có chủ trương mua

sắm, được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ được tổ chức thực hiện mua sắm

tập trung thông qua đơn vị mua sắm tập trung thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh, doanh nghiệp. Đơn vị có chức năng mua sắm tập trung thực hiện quy

trình mua sắm tài sản theo quy định của pháp luật về đấu thầu và tài sản được

hình thành sau mua sắm được giao cho đơn vị trực tiếp sử dụng tài sản.

- Quản lý quá trình sử dụng, sửa chữa, bảo trì nâng cấp tài sản

Các ĐVSN công lập được Nhà nước giao TSC chịu trách nhiệm trực tiếp

quản lý, sử dụng phải xây dựng và ban hành các nội quy, quy chế quản lý

TSC; mở sổ sách theo dõi tình hình biến động của TSC; thực hiện chế độ kê

khai, báo cáo, đăng ký, kiểm kê định kỳ và đột xuất TSC theo quy định của

pháp luật; kiểm tra, thanh tra, giám sát quá trình quản lý sử dụng TSC; bảo

dưỡng, sửa chữa TSC theo yêu cầu kỹ thuật và đặc điểm sử dụng; điều

chuyển, bán, chuyển đổi sở hữu TSC.

20

Mỗi tài sản có đặc điểm khác nhau nên công tác đánh giá hiệu quả là rất

khó, chính vì vậy đối với tài sản thuộc khu vực ĐVSN công lập được thực

hiện quản lý việc sử dụng phải theo công năng, mục đích nhất định. Vì vậy,

việc xây dựng định mức sử dụng tài sản là công việc hết sức cần thiết, quyết

định hiệu quả của việc quản lý, khai thác tài sản. Định mức cũng là một trong

những cơ sở quan trọng để quyết định chủ trương xây mới, mua sắm hay thuê

mua tài sản.

Mỗi một tài sản thường có một thời gian sử dụng nhất định, nên trong

quá trình khai thác, sử dụng cần có cơ chế đánh giá tài sản (công việc này

thường được thực hiện hàng năm) cả về hiệu quả khai thác, sử dụng, tình

trạng của tài sản so với trạng thái ban đầu và giá trị còn lại của tài sản để có

chế độ duy tu, bảo dưỡng tài sản một cách hợp lý theo yêu cầu về mặt kỹ

thuật để tài sản có thể vận hành một cách bình thường. Việc quản lý, bảo

dưỡng, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản, nhằm duy trì hoạt động của TSC,

đảm bảo cho việc sử dụng TSC đạt hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu hoạt

động của các đơn vị.

Trong quá trình quản lý tài sản cũng cần quan tâm đến cơ chế điều chuyển

tài sản từ đơn vị này qua đơn vị khác để đảm bảo tiết kiệm và nâng cao hiệu quả

sử dụng: điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc từ nơi hiệu quả sử dụng tài

sản thấp sang nơi có thể huy hiệu quả sử dụng của tài sản cao hơn, đáp ứng yêu

cầu thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất của cơ quan, đơn vị.

- Quản lý quá trình kết thúc: khấu hao, hao mòn và thanh lý tài sản TSC

sau khi đưa vào khai thác sử dụng một thời gian nhất định đều trải qua quá

trình kết thúc để thay thế bằng tài sản khác (trừ tài sản là đất đai và một số tài

sản lâu bền khác).

Các ĐVSN công lập không còn nhu cầu sử dụng hoặc giảm nhu cầu sử

dụng do có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, thay đổi về chức năng nhiệm vụ thì

21

có thể tiến hành đề xuất điều chuyển hoặc bán TSC. Điều chuyển hoặc bán

TSC đòi hỏi công tác quản lý tổng thể, xác định lại giá trị và đăng ký lại sở

hữu hay sử dụng. Phương pháp này được áp dụng đối với TSC có giá trị sử

dụng dài hạn để đảm bảo hợp lý và tiết kiệm.

Ngoài ra, khi TSC hết thời hạn sử dụng, đã hao mòn hết hoặc hư hỏng

không còn sử dụng được thì phải được tiến hành thanh lý để thu hồi phần giá

trị còn lại. Những tài sản được tiến hành thanh lý bao gồm: Tài sản đã quá

thời hạn sử dụng, đã khấu hao hết theo chế độ Nhà nước quy định mà không

thể tiếp tục sử dụng; Tài sản bị hư hỏng tuy chưa hết thời gian khấu hao đã

được sửa chữa nhưng không hiệu quả; Trụ sở làm việc hoặc tài sản khác gắn

liền với đất cần được tháo dỡ, phá bỏ theo quyết định của cấp có thẩm quyền

phê duyệt. Việc bán thanh lý TSC thường xây dựng thành quy chế cụ thể tuỳ

theo quy định của pháp luật có liên quan. Trong quá trình này, các cơ quan

quản lý, các cơ quan liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý, kiểm

tra giám sát bảo đảm việc thanh lý TSC theo đúng trình tự, thủ tục và quy định

về quản lý, sử dụng tiền thu được từ thanh lý TSC.

1.3. Tiêu chí đánh giá và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả

quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập

1.3.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng TSC tại đơn vị sự nghiệp

công lập.

- Một là, việc thực hiện đầu tư xây dựng, mua sắm TSNN được gắn với

tiêu chuẩn, định mức. Năng lực tài sản công khu vực hành chính sự nghiệp đã

tăng đáng kể, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, cung cấp dịch

vụ công cho xã hội. Các tài sản dôi dư, không còn nhu cầu sử dụng được xử

lý theo quy định của pháp luật. Các đơn vị sự nghiệp công lập bước đầu khai

thác được nguồn tài sản hiện có gắn với việc huy động các nguồn lực của xã

hội để phát triển hoạt động sự nghiệp công.Tiêu chuẩn định mức sử dụng

từng loại tài sản cho từng đối tượng sử dụng, tránh hiện tượng mạnh ai người

22

đó trang bị tuỳ tiện theo ý muốn của mình, tuỳ thuộc vào khả năng kinh phí

của đơn vị; tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản còn là thước đo đánh giá

mức độ sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài sản công của từng đơn vị; mặt khác,

tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản là cơ sở để thực hiện công tác quản lý,

thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước.

-Việc khai thác sử dụng TSC có mang lại những lợi ích mong muốn: có

đáp ứng các mục tiêu về phát triển kinh tế, chính trị xã hội cũng như đáp ứng

được việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước hay không.

- Sự phù hợp trong đầu tư mua sắm TSC ở các ĐVSN công lập: việc đầu

tư, mua sắm có phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Sự tồn tại của

tài sản này có thực sự cần thiết, việc sử dụng những tài sản này như thế nào

để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, giúp các ĐVSN công lập hoàn thành

chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao. Đồng thời từng bước xây dựng và hoàn

thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về TSNN làm cơ sở hoạch định chính sách, chỉ

đạo, điều hành về tài sản công.

- Tác động của việc đầu tư mua sắm TSC tại các ĐVSN công lập mang

lại những lợi ích gì cho con người, có ảnh hưởng gì đến môi trường xung

quanh cũng như những tác động mang tính hạn chế của nó.

1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài sản công tại

đơn vị sự nghiệp công lập

- Nhóm nhân tố về trình độ quản lý, ý thức của đội ngũ cán bộ, công

chức trong bộ máy quản lý của các ĐVSN công lập: Hiệu quả và chất lượng

xây dựng quy chế và thực hiện quản lý TSC tại ĐVSN công lập chịu ảnh

hưởng lớn từ nhân tố này. Trình độ, năng lực cũng như tư duy trách nhiệm

của các cán bộ, công chức trực tiếp tham gia hoạt động quản lý TSC có tác

động tới các quyết định quản lý trong quản lý TSC ở các ĐVSN công lập. Do

đó, yêu cầu ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ

23

công chức quản lý tại ĐVSN công lập phải đảm bảo được tính khách quan khi

đặt ra các yêu cầu quy định trong cơ chế, đảm bảo hiệu quả thực tế của cơ chế

khi áp dụng vào hoạt động thực tiễn của ĐVSN công lập. Năng lực của đội

ngũ cán bộ làm công tác quản lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm

bảo cho cơ chế quản lý tài sản công được thực hiện hiệu lực hiệu quả.

- Mục đích sử dụng tài sản: Tài sản công được sử dụng đúng mục đích sẽ

phát huy được năng suất làm việc. Vì vậy, việc quản lý, sử dụng TSC được thực

hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng TSC

phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Sử dụng

TSC đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ và bảo đảm hiệu quả, tiết

kiệm; sử dụng TSC không đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ; sử

dụng TSC lãng phí hoặc không sử dụng tài sản được giao gây lãng phí; sử dụng

TSC để kinh doanh trái pháp luật, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng TSC; chiếm

giữ, sử dụng trái phép TSC.

- Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về TSC: Việc áp dụng khoa học công

nghệ để nâng cao hiệu quả quản lý TSC trong các ĐVSN công lập có ý nghĩa

hết sức quan trọng. Những dữ liệu về TSC được cập nhật thường xuyên, liên

tục đầy đủ sẽ hỗ trợ rất đắc lực cho công tác quản lý. Hệ thống thông tin quản

lý được xây dựng hoàn thiện sẽ giúp việc quản lý TSC được đầy đủ, chính xác

và được kiểm soát chặt chẽ. Điều này đòi hỏi mỗi đơn vị đều có kế hoạch cải

tạo, đầu tư mới TSCĐ

- Nhóm nhân tố về chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng và phát

triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước. Thể hiện bằng các quy định về

chuẩn mực hành vi, nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của chủ thể tham gia

quản lý TSC tại các ĐVSN công lập phải nằm trong các quy định chung về

nguyên tắc quản lý kinh tế, tài chính và TSC và phải lấy đó làm cơ sở để xây

dựng, điều chỉnh và bổ sung hoàn thiện trong quá trình tổ chức thực hiện. Sự

24

phù hợp và sát thực tế của hệ thống các quy phạm về quản lý kinh tế, tài chính

và TSC của nhà nước sẽ có tác động tích cực tới việc quản lý TSC. Ngược lại,

sự thiếu thực tế, bất hợp lý, thiếu sự thông thoáng giữa văn bản quy phạm

pháp luật và thực tế quản lý sẽ gây trở ngại thậm chí cản trở sự vận hành của

cơ chế quản lý TSC tại các ĐVSN công lập. Trên cơ sở các văn bản quy định

về quản lý TSC của Nhà nước tạo ra môi trường và hành lang pháp lý hướng

dẫn cho các đơn vị. Bất kỳ sự thay đổi trong chế độ, chính sách hiện hành đều

chi phối các hoạt động của đơn vị .

- Nhóm nhân tố khác: bên cạnh những nhân tố trên còn có những nhân tố

khác có thể ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSC mà được coi là nhân tố bất

khả kháng như thiên tai, địch họa… Mức độ tổn hại về lâu dài hay tức thời là

hoàn toàn không thể dự đoán.

1.4. Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản

công tại một số đơn vị sự nghiệp công lập

1.4.1. Quản lý tài sản công ở Nhật Bản

Trên cơ sở Hiến pháp được ban hành từ năm 1947, đối với lĩnh vực quản

lý TSC: thể chế tự chủ địa phương cho phép các địa phương tự chủ trong việc

quyết định các chính sách quản lý TSC và mua sắm công độc lập với Chính

phủ. Vì vậy chính sách quản lý và việc thực hiện mua sắm của các Bộ, ngành

Trung ương có thể khác với các tỉnh và giữa các tỉnh có thể khác nhau. Tuy

nhiên tại Nhật Bản cả chính quyền Trung ương và địa phương đều có xu

hướng giảm chế độ mua sắm, trang bị tài sản cho các cơ quan nhà nước mà

chuyển sang hình thức thuê tài sản. Thành phố Osaka (Nhật Bản), một tỉnh

điển hình trong việc thực hiện hiệu quả mô hình quản lý mua sắm, trang bị tài

sản theo mô hình tập trung. Năm 2000 chính quyền tỉnh Osaka đã có cải cách

rất cơ bản trong việc mua sắm công với việc thành lập Cục mua sắm công với

nhiệm vụ quản lý về mua sắm công mà chủ yếu là đấu thầu mua sắm công đối

25

với tất cả tài sản, hàng hóa, dịch vụ liên quan đến chi tiêu công (bao gồm cả

lựa chọn nhà đầu tư, xây dựng) cho toàn tỉnh và không thu phí dịch vụ, đồng

thời Cục cũng thực hiện một số chức năng kiểm soát như một cơ quan quản lý

TSC. Việc thực hiện mua sắm, trang bị tài sản cho các cơ quan nhà nước tại cơ

quan thuộc Trung ương được tổ chức theo hai hình thức (mua sắm tập trung và

mua sắm phân tán), chưa có quy định bắt buộc mua sắm công tập trung, còn tại

tỉnh Osaka tất cả hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho cơ quan nhà nước đầu bắt buộc

mua sắm công tập trung và do Cục mua sắm công thực hiện.

1.4.2. Một số bài học đối với quản lý tài sản công ở Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh

Việc quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng cho từng loại TSC là yêu

cầu cần thiết đầu tiên và đƣợc cụ thể hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật ở

cấp độ Luật và các quy định, quy chế, tạo thành hệ thống pháp luật về quản lý

TSNN nói chung và quản lý TSC tại từng địa phương, cơ quan, đơn vị nói

riêng để đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả,

phân định rõ trách nhiệm, tránh trùng lắp nhiệm vụ giữa các cơ quan làm chức

năng quản lý TSC. Các quy định, chính sách quản lý TSC càng đầy đủ, cụ thể,

thì việc quản lý tài sản vừa chặt chẽ, vừa thuận lợi, hạn chế được những sai

phạm trong cả quản lý và sử dụng; đồng thời cho phép các cơ quan quản lý

TSC nắm được thực trạng tài sản cả về số lượng và chất lượng để quyết định

được phương thức, mức độ đầu tư, mua sắm tài sản, quy trình quản lý và thực

hiện điều tiết tài sản từ nơi thừa sang nơi thiếu một cách hợp lý.

1.4.3. Kinh nghiệm tổ chức mua sắm tài sản công của Bộ Tài chính

Thực hiện Quyết định số179/2007/QĐ-TTg ngày 26/11/2007 Thủ tướng

Chính phủ về việc ban hành Quy chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hóa từ ngân

sách nhà nước theo phương thức tập trung, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư

số 22/2008/TT-BTC ngày 10/3/2008 hướng dẫn thực hiện Quyết định trên của

26

Thủ tướng Chính phủ, đồng thời xác định 13 Bộ, ngành, địa phương áp dụng thí

điểm việc mua sắm TSC theo phương thức mua sắm tập trung, trong đó có Bộ

Tài chính. Với trách nhiệm vừa là cơ quan quản lý nhà nước tham mưu cho

Chính phủ về cơ chế, chính sách, vừa đi đầu trong việc thực hiện mua sắm công

tập trung đối với TSC của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp trực thuộc

nên việc tổ chức thực hiện mua sắm TSC tại Bộ Tài chính đã được thực hiện hết

sức bài bản và hiệu quả, có thể tham khảo, áp dụng rất tốt đối với các cơ quan,

đơn vị khác

- Về tổ chức thực hiện mua sắm tập trung: Hàng năm, cùng với việc lập

dự toán ngân sách, các đơn vị, hệ thống ngành dọc thuộc Bộ Tài chính căn cứ

các quy định có liên quan về tiêu chuẩn, định mức và nhu cầu về mua sắm tài

sản, hàng hóa thuộc đối tượng mua sắm tập trung để lập dự toán mua sắm

gửi Cục Kế hoạch - Tài chính để thẩm định và tổng hợp chung với dự toán thu,

chi ngân sách năm.

Việc triển khai mua sắm tài sản, hàng hóa, dịch vụ theo phương thức tập

trung tại Bộ Tài chính đã góp phần đảm bảo việc quản lý, sử dụng tài sản nhà

nước chặt chẽ, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng trang bị tài sản vượt tiêu

chuẩn, định mức hoặc trang bị tài sản, không hiệu quả, đảm bảo tính công khai,

minh bạch trong mua sắm TSC; các tài sản đƣợc mua sắm tập trung sẽ được

kiểm soát chặt chẽ về chất lượng, tính tương đồng về mặt kỹ thuật, đáp ứng yêu

cầu trang bị đồng bộ, hiện đại, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ

quan, đơn vị trực thuộc.

1.4.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Quản lý và sử dụng TSC là một vấn đề phức tạp, thực tiễn cho thấy có

rất nhiều khiếm khuyết. Tuy nhiên, với cách thức quản lý ưu việt của một số

nước trên thế giới là những bài học quý báu cho Việt Nam cũng như các

ĐVSN công lập trong việc quản lý và sử dụng TSC.

27

Việc hoàn thiện cơ chế quản lý TSC bằng văn bản quy phạm pháp luật ở

cấp độ luật và các văn bản dưới luật tạo thành hệ thống pháp luật về quản lý

TSC là rất cần thiết ở tất cả các nước. Nhờ có hệ thống pháp luật, đã tạo ra cơ

sở pháp lý để cơ quan quản lý tài sản giám sát, kiểm tra các cơ quan sử dụng tài

sản, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, các cơ

quan, đơn vị trong việc quản lý tài sản. Chính quyền Trung ương cần xây dựng

một khung pháp lý rõ ràng nhằm đảm bảo cho việc quản lý tài sản đúng mục

đích, hiệu quả, tiết kiệm, hạn chế thất thoát hoặc sử dụng lãng phí.

Hiện tại nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi theo cơ chế thị trường có

sự quản lý của nhà nước. Hệ thống pháp luật về TSC cũng đang dần được

hoàn thiện phù hợp với thực tế. Hiện nay, TSC còn bị sử dụng sai mục đích,

lãng phí nên việc hoàn thiện cơ chế quản lý TSC ở Việt Nam đang được đặt ra

là một vấn đề cấp thiết.

Về nguyên tắc hiệu quả, công khai, minh bạch: Ở Việt Nam, cơ chế chịu

trách nhiệm giải trình, gắn chặt với việc công khai, minh bạch, đẩy mạnh

công tác kiểm toán, kiểm tra, giám sát nếu được triển khai tốt trong thực tế sẽ

là điều kiện kiên quyết trong việc nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý tài sản.

Về lập dự toán đầu tư mua sắm tài sản theo phương thức quản lý ngân

sách theo đầu ra và tính toán hiệu quả khi quyết định đầu tư, mua sắm tài sản:

Ở Việt Nam hiện nay, việc lập dự toán đầu tư, mua sắm tài sản vẫn được thực

hiện theo cơ chế quản lý ngân sách theo các khoản mục đầu vào; quản lý ngân

sách theo cơ chế này không chú trọng đến các đầu ra và kết quả trong việc thực

hiện các mục tiêu đã định. Mặt khác, nhiều đơn vị thực hiện đầu tư, mua sắm

tài sản không tính đến hiệu quả. Do vậy, cần vận dụng kinh nghiệm này vào

Việt Nam để hoàn thiện chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính

công cho việc đầu tư, mua sắm tài sản có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng

hàng hóa, dịch vụ công cung cấp cho xã hội.

Về phân cấp trong quản lý tài sản: Nhìn chung, tại các nước nêu trên đã

28

phân định rõ tài sản của chính quyền trung ương và tài sản của chính quyền các

địa phương; đồng thời đều giao quyền quản lý tài sản công cho các tổ chức độc

lập và các cơ quan khác gắn với trách nhiệm. Tuy nhiên, Chính phủ Trung

ương vẫn thực hiện vai trò thống nhất quản lý của mình bằng các quy định

trong Luật quản lý tài sản thông qua cơ quan quản lý tài sản để định đoạt các

vấn đề chung như: Bố trí kinh phí đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển,

đăng ký, báo cáo, thanh lý tài sản. Mặt khác việc phân cấp được tiến hành thận

trọng đồng bộ với việc xây dựng cơ chế thưởng phạt hoặc là gắn kết quả hoạt

động, để buộc các cơ quan quản lý tài sản phải đưa ra được những quyết định

đúng đắn trên cơ sở tuân thủ các chính sách và nguyên tắc quản lý tài sản hiệu

quả do Chính phủ ban hành.

Hiện nay ở Việt Nam, nhìn chung các đơn vị vẫn quản lý tài sản bằng các

công cụ đơn giản hoặc nếu có sử dụng phần mềm quản lý thì công nghệ phần

mềm lạc hậu, các chỉ tiêu theo dõi chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Do vậy,

Bộ Tài chính cần khẩn trương triển khai dự án thông tin kê khai đăng ký TSC.

Dự án này xây dựng giải pháp trợ giúp quản lý đăng ký tài sản tại đơn vị sử dụng

tài sản như theo dõi biến động tăng, giảm, nâng cấp, sữa chữa, điều chuyển, thu

hồi, nhượng bán, thanh lý tài sản…

29

Tiểu kết chương 1

Chương 1 đã đề cập đến những khái niệm chung về ĐVSN công lập, TSC

và quản lý TSC trong các ĐVSN công lập. Từ đó nghiên cứu những vấn đề liên

quan như vai trò và đặc điểm của TSC đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

thông qua việc Nhà nước giao cho các ĐVSN công lập thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của mình.

TSC đặc biệt là phần tài sản trong các ĐVSN công lập, là phần vốn hiện

vật của nhà nước, được hình thành từ nguồn NSNN. Đó là điều kiện đảm bảo

cho các đơn vị quản lý, các ĐVSN công lập thực hiện tốt các chức năng, nhiệm

vụ được giao. Quản lý tốt phần TSC trong các ĐVSN công lập qua việc mua

sắm, sử dụng, bảo quản TSC, chống thất thoát lãng phí là đòi hỏi đồng thời là

trách nhiệm, nghĩa vụ của tất cả các cá nhân.

Quản lý TSC là yêu cầu mong muốn của mọi người dân, tạo lập, khai thác,

sử dụng TSC có ý nghĩa kinh tế chính trị và xã hội to lớn. Uy tín của nhà nước,

của mỗi tổ chức, cá nhân được đánh giá thông qua việc quản lý, sử dụng TSC.

Công tác quản lý TSC có ý nghĩa quan trọng và là một bộ phận không thể tách

rời trong yêu cầu về quản lý tài chính công ở nước ta hiện nay.

Những nội dung trên là cơ sở để tác giả nghiên cứu, phân tích thực trạng

công tác quản lý TSC trong các năm từ 2014 đến 2018 tại VSR- KST-CT TƯ.

Từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài sản tại đơn vị.

30

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ

SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG

2.1. Khái quát về Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương được thành lập

ngày 01/7/1957 theo Quyết định số 287/TTg của Thủ tướng Chính phủ với

tên gọi là Viện Sốt rét do Giáo sư Đặng Văn Ngữ làm Viện trưởng với nhiệm

vụ: “Nghiên cứu bệnh sốt rét và tình hình bệnh sốt rét, nghiên cứu những

phương pháp phòng và chữa bệnh sốt rét để giúp Bộ Y tế lãnh đạo toàn ngành

và nhân dân tiến lên từng bước giảm dần tỷ lệ và tiêu diệt bệnh sốt rét”, năm

1961 Viện được đổi tên thành Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và côn trùng và

năm 1998 đổi tên thành Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

cho đến nay.

Hơn 60 năm xây dựng và phát triển, mặc dù còn nhiều khó khăn VSR-

KST-CT TƯ đã luôn nhận thức đúng đắn vai trò, ý nghĩa của công tác bảo vệ,

chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Cán bộ viên chức VSR- KST-CT

TƯ đã luôn khắc phục khó khăn hoàn thành xuất sắc chức năng và nhiệm vụ

được Nhà nước giao là nghiên cứu khoa học, chỉ đạo các biện pháp làm giảm

tỷ lệ mắc và tỉ lệ tử vong do các bệnh ký sinh trùng khác, phòng chống các

côn trùng truyền bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng cho người trên phạm

vi toàn quốc. Công tác phòng chống sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh

trùng và côn trùng truyền bệnh trong nhiều năm qua đã thu được những thành

tựu đáng kể làm giảm số tử vong, giảm số mắc, giảm gánh nặng bệnh tật do

bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, côn trùng gây ra cho cộng đồng, đã

góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân

dân của Đảng và Nhà nước ta.

31

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ

2.1.2.1. Chức năng.

VSR- KST-CT TƯ có chức năng nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ về

truyền thông giáo dục sức khoẻ; chỉ đạo chuyên môn tuyến dưới trong phạm

vi toàn quốc, trực tiếp chỉ đạo chuyên môn tại 28 tỉnh thành phố phía Bắc về

sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng.

2.1.2.2. Nhiệm vụ

Nghiên cứu khoa học

- Nghiên cứu về Sốt rét bao gồm: Dịch tễ học, các kỹ thuật chẩn đoán,

lâm sàng, điều trị và các biện pháp phòng chống.

- Nghiên cứu về các bệnh ký sinh trùng khác bao gồm: Dịch tễ học, các kỹ

thuật chẩn đoán lâm sàng, điều trị, các loại thuốc và các biện pháp phòng chống.

Chỉ đạo tuyến

- Giúp Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật, kế hoạch

bệnh sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh

cho người trong phạm vi toàn quốc, trực tiếp chỉ đạo chuyên ngành tại 28

tỉnh, thành phố phía Bắc.

- Xây dựng kế hoạch, chương trình, dự án phòng chống bệnh sốt rét, các

bệnh do ký sinh trùng khác và côn trùng truyền bệnh do Bộ Y tế quản lý cho các

tỉnh để trình Bộ Y tế phê duyệt và tổ chức thực hiện sau khi đã được phê duyệt.

- Theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện các nội dung nêu trên

phạm vi cả nước. Trực tiếp theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả tại 28 tỉnh,

thành phố phía Bắc.

Đào tạo

- Tổ chức đào tạo và đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ chuyên môn

kỹ thuật chuyên ngành sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh cho các

tuyến theo quy định của pháp luật.

32

- Tham gia đào tạo đại học về chuyên ngành sốt rét, ký sinh trùng và côn

trùng truyền bệnh cho các tuyến theo quy định của pháp luật.

2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy

Cơ cấu tổ chức của VSR- KST-CT TƯ hiện tại có Ban lãnh đạo gồm

Viện trưởng và các Phó Viện trưởng; 05 phòng chức năng, 07 khoa chuyên

môn; đơn vị trực thuộc Viện gồm có Trường Cao đẳng y tế Đặng Văn Ngữ và

Trung tâm phòng chống côn trùng.

Cơ cấu tổ chức bộ máy của VSR- KST-CT TƯ được thể hiện theo sơ đồ

2.1 dưới đây.

Sơ đồ 2.1.Cơ cấu tổ chức của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng

trung ương

VIỆN TRƯỞNG

Phó viện trưởng phụ trách chuyên môn

Phó viện trưởng phụ trách Hậu cần

g n ù r t

h n à g n

N V Đ ế t y g n ẳ đ o a C

g n ù r t n ô C a o h K

g n ù r t h n i s ý K a o h K

t é r t ố S ễ t h c ị D a o h K

ộ b n á c c ứ h c ổ T g n ò h P

ử t n â h p c ọ h h n i S a o h K

n á o t ế k h n í h c i à T g n ò h P

m ệ i h g n c ự h T a ó H a o h K

c ọ h a o h k ý l n ả u Q g n ò h P

p ợ h g n ổ t h c ạ o h ế k g n ò h P

ị r t u ề i đ u ứ c n ê i h g N a o h K

n ê y u h c h n ệ b m á h K a o h K

ị r t n ả u q h n í h c h n à H g n ò h P

T C g n ố h c g n ò h P m â t g n u r T

g n ờ ư r T

Lãnh đạo bệnh viện: gồm có

- 01 Viện trưởng: Phụ trách chung, chịu trách nhiệm trước Bộ y tế về

toàn bộ hoạt động và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Viện; làm chủ

33

tài khoản, trực tiếp chỉ đạo công tác tổ chức cán bộ, công tác tài chính và đầu

tư xây dựng cơ bản.

- 02 Phó Viện trưởng:

Phó Viện trưởng phụ trách kinh tế: Giúp Viện trưởng điều hành công tác

tài chính, công nghệ thông tin; quản lý điều hành xe ô tô, công tác bảo vệ

thường trực; tổ chức phục vụ hội nghị, công tác hành chính lễ tân,…

Phó Viện trưởng phụ trách chuyên môn: Giúp Viện trưởng điều hành

công tác chuyên môn về chỉ đạo tuyến, phòng chống dịch, đào tạo và công tác

khám chữa bệnh.

Tình hình nhân lực của VSR- KST-CT TƯ năm 2018.

Phân loại cán bộ - viên chức Biên chế Hợp đồng

- Phó Giáo sư, tiến sĩ, Tổng số 21 21

chuyên khoa II

- Thạc sĩ, chuyên khoa I 44 44

- Đại học 104 103 1

- Cao đẳng 20 20

- Trung cấp 47 43 4

- Cán bộ y tế khác 24 9 15

Tổng cộng 260 240 20

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2018 của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương

2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương

2.2.1. Hiện trạng tài sản công

VSR- KST-CT TƯ là viện đầu ngành về phòng chống các bệnh về côn

trùng và ký sinh trùng. Là đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế, nên

cơ cấu tài sản của đơn vị mang tính đặc thù là những máy móc, thiết bị y tế

34

phục vụ nghiên cứu và chăm sóc sức khỏe người dân. Đặc điểm của những

loại tài sản này là những thiết bị mang tính hiện đại để có thể đáp ứng ngày

càng cao nhu cầu khám chữa bệnh, xu hướng xã hội hóa ngành y tế.

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tài sản công của Viện thời điểm 31/12/2018

Nguồn: Báo cáo tài sản năm 2018 của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn

trùng Trung ương

Tính đến 31/12/2018, TSC của VSR- KST-CT TƯ có giá trị 554.861

triệu đồng. Trong đó tài sản hữu hình là 265.207 triệu đồng chiếm 48%, tài

sản vô hình là 289.654 triệu đồng chiếm 52% bao gồm quyền sử dụng đất là

chủ yếu và phần mềm quản lý chiếm tỷ trọng nhỏ (288 triệu đồng).

35

Bảng 2.1: Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của Viện giai đoạn 2014-2018

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

STT

Chỉ tiêu

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

1

Nhà cửa, vật kiến trúc

144.616

70,02%

145.516

64,41%

145.676

62,20%

162.509

60,87%

162.715

61,49%

2

Máy móc, thiết bị

58.218

28,19%

75.828

33,57%

83.012

35,44%

98.309

36,82%

96.429

36,44%

3

Phương tiện vận tải

1.992

0,96%

1.992

0,88%

1.992

0,85%

1.314

0,49%

740

0,28%

4

Thiết bị dụng cụ quản lý

1.722

0,83%

2.576

1,14%

3.532

1,51%

4.862

1,82%

4.749

1,79%

Tổng cộng

206.548

100%

225.912

100%

234.212

100%

266.994

100%

264.633

100%

Nguồn: Báo cáo tăng giảm tài sản hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

36

Đối với tài sản là đất, trụ sở làm việc, VSR- KST-CT TƯ có 2 cơ sở. Cơ

sở 1 có diện tích 20.514 m2 tại địa chỉ số 245 Lương Thế Vinh, Phường Trung

Văn, Quận Nam Từ Liêm, Hà nội. Toàn bộ diện tích này đã có giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất. Diện tích này được sử dụng vào mục đích xây dựng trụ sở

làm việc và các công trình kiến trúc khác bao gồm 09 khu nhà là nơi nhà làm

việc của các phòng chức năng và các khoa chuyên môn, khu nhà Trường cao

đẳng Đặng Văn Ngữ là nơi đào tạo sinh viên, khu nhà khám chữa bệnh để khám

và điều trị cho bệnh nhân và các khu nhà 2 tầng phục vụ chuyên môn khác như:

nhà kho, nhà nuôi côn trùng, nhà nuôi súc vật…Ngoài hai tòa nhà được xây

dựng đầu tư mới từ năm 2014-2017 là tòa nhà làm việc của các phòng chức năng

và tòa nhà phục vụ khám chữa bệnh, còn lại các khu nhà của Viện là nhà 2 tầng

được xây dựng từ những năm 1990 nên hầu như đã xuống cấp.

Cơ sở 2 của Viện có diện tích 5.338.m2 - tại thôn Yên Thái, xã Đông

Yên, Quốc Oai, Hà Nội. Đây là khu nhà cấp IV dùng để làm kho bảo quản

hóa chất. Diện tích này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nhóm tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc: chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản

cố định hữu hình. Do phần lớn các khu làm việc là nhà cấp III, cấp IV được xây

dựng vào những năm của thập kỷ 90 nên về giá trị đã hao mòn gần hết và hiện

trạng sử dụng đã xuống cấp. Sau khi tòa nhà làm việc được đầu tư, xây mới và

đưa vào sử dụng vào năm 2014, Viện tiếp tục tiến hành sửa chữa, nâng cấp và

xây mới một số hạng mục, công trình khác. Đặc biệt là khu nhà Khám chữa bệnh

được đưa vào sử dụng làm giá trị của nhóm tài sản này tiếp tục tăng lên đạt

162.715 triệu đồng vào năm 2018. Mặc dù, nhóm tài sản này có tăng về giá trị

qua các năm nhưng tỷ trọng của khối tài sản này không tăng mà thậm chí còn

giảm (từ 74,02% xuống còn 61,49%) là do cùng với sự đầu tư về cơ sở hạ tầng,

là sự đầu tư đồng bộ về máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại để mở rộng, nâng

cao chất lượng khám và điều trị của khoa khám bệnh chuyên ngành.

Nhóm tài sản là máy móc thiết bị y tế: giá trị của khối tài sản này tăng

đều qua các năm, đạt giá trị từ 58.218 triệu đồng chiếm 28,19 % (năm 2014)

37

tăng lên 96.429 triệu đồng chiếm 36,44% (năm 2018) trong tổng số tài sản cố

định hữu hình. Năm 2015, sau khi Viện đưa tòa nhà làm việc của các phòng

chức năng và các khoa chuyên môn vào khai thác sử dụng với các phòng làm

việc và phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO thì giá trị máy móc thiết bị y tế

tăng 17.610 triệu đồng làm tổng giá trị máy móc thiết bị đạt 75.828 triệu

đồng.Với mục đích mở rộng và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh phục vụ

nhân dân, Viện tiếp tục đầu tư và mua sắm trang thiết bị máy móc trong

những năm tiếp theo. Đến năm 2017, tòa nhà 5 tầng phục vụ việc khám chữa

bệnh được đưa vào sử dụng. Do đó, giá trị tài sản là máy móc thiết bị tiếp tục

tăng với giá trị 15.297 triệu đồng làm tăng tổng giá trị lên 98.309 triệu đồng.

Đến năm 2018, giá trị khối tài sản này là 96.429 triệu đồng chiếm 36,44%. Có

sự giảm về giá trị và tỷ trọng là do nhiều máy móc thiết bị y tế đều đã cũ kỹ,

lạc hậu, phần lớn đều đã hết hao mòn, hỏng hóc và được thay thế sửa chữa

nhiều lần. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng không cao nên đã được thanh lý.

Nhóm tài sản là phương tiện vận tải: số tài sản này chiếm tỷ trọng rất

nhỏ, khoảng 0,5% tổng giá trị tài sản hữu hình và không có sự biến động

nhiều qua các năm. Hiện có 02 xe 7 chỗ phục vụ công tác chung. Các xe này

đều sản xuất năm 1995 và đã hao mòn hết giá trị.

Nhóm tài sản là thiết bị dụng cụ quản lý: cũng không có nhiều biến động

và chiếm tỷ trọng không lớn, dưới 1%. Số tài sản này chủ yếu là hệ thống

điều hòa, máy tính, máy in, máy động lực và các loại máy móc thiết bị khác…

2.2.2. Tình hình quản lý trong quá trình hình thành tài sản

2.2.2.1. Lập kế hoạch về đầu tư XDCB, mua sắm tài sản công

Công tác lập kế hoạch là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý

sử dụng tài sản vì nó là công tác khởi đầu khi tài sản được sử dụng tại đơn vị.

Công tác này có đúng và chính xác thì sẽ góp phần tiết kiệm ngân sách cho

nhà nước là rất lớn.

Nhìn chung, đây là nội dung quan trọng trong công tác quản lý sử dụng

tài sản vì nó là công tác khởi đầu khi tài sản được sử dụng tại đơn vị. Những

38

quyết định ban đầu có đúng đắn thì sẽ góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước.

Nếu quản lý công tác này không tốt, không có sự phân tích kỹ lưỡng trong

việc lựa chọn phương án mua sắm sẽ làm cho tài sản không phát huy được tác

dụng để phục vụ quá trình hoạt động của đơn vị có hiệu quả.

Hàng năm, việc lập dự toán đầu tư XDCB và mua sắm TSC được thực

hiện như sau:

- Về đầu tư XDCB: Phòng Hành chính quản trị lập danh mục đầu tư

XDCB, tính toán và dự kiến kinh phí đầu tư XDCB.

- Về mua sắm tài sản công: Các khoa chuyên môn và ban phòng chức

năng lập danh sách nhu cầu về số lượng, chủng loại, yêu cầu kỹ thuật của máy

móc thiết bị, sau đó gửi cho phòng Kế hoạch tổng hợp để lập dự toán chi tiết

cho từng loại tài sản.

Ngoài ra, việc xây dựng danh mục đầu tư XDCB, mua sắm TSC còn phải

dựa trên các tiêu chuẩn, định mức căn cứ vào Quyết định số 50/2017/QĐ-TTg

ngày 31/12/2017 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử

dụng máy móc, thiết bị, Nghị định số 152/2017/NĐ-CP ngày 27/12/2017 của

chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức trụ sở làm việc.

Dựa vào nguồn ngân sách được cấp trên giao, Phòng kế hoạch tổng hợp

sẽ xác định những danh mục đầu tư XDCB, tài sản cần ưu tiên mua sắm, lập

dự toán ngân sách (bao gồm giá trị tài sản, số lượng tài sản và các chi phí

khác có liên quan). Sau khi lãnh đạo Viện ký duyệt, hồ sơ được gửi đến Vụ

Kế hoạch tài chính- Bộ y tế phê duyệt.

Trường hợp mua sắm chưa có trong kế hoạch dự toán hàng năm sẽ phải

trình lãnh đạo cấp trên theo phân cấp quản lý là Bộ y tế để xin chủ trương và

phê duyệt bổ sung dự toán mua sắm theo quy định.

Việc mua sắm TSC cũng phải thực hiện nghiêm túc theo quy Luật đấu

thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 của Quốc hội 13, Nghị định số

63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.Việc mua sắm tài sản do Phòng

39

kế hoạch tổng hợp đảm nhiệm. Căn cứ vào kế hoạch mua sắm tài sản đã được

duyệt, Phòng kế hoạch tổng sẽ áp dụng các hình thức mua sắm theo quy định:

xây dựng kế hoạch đấu thầu, tổ chức đầu thầu hoặc chỉ định thầu, thương thảo

ký kết hợp đồng kinh tế.

2.2.2.2. Tình hình phân bổ ngân sách cho đầu tư, mua sắm tài sản công

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương có chức năng chính

là nghiên cứu khoa học và chỉ đạo tuyến trong việc phòng chống bệnh sốt rét

và các bệnh về ký sinh trùng. Tuy nhiên, những năm gần đây, để bắt kịp xu

hướng phát triển và yêu cầu ngày càng cao của xã hội, dần hướng đến việc

nâng cao đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của dân nhân, Viện đã tiến hành

đầu tư XDCB, mua sắm trang thiết bị hiện đại với số lượng lớn. Vì vậy nguồn

vốn NSNN đầu tư cho Viện tăng trong những năm qua.

Biểu đồ 2.2: Nguồn vốn NSNN giai đoạn 2014-2018

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương

40

Qua biểu đồ trên ta thấy tổng nguồn vốn cho hoạt động đầu tư XDCB,

mua sắm, sửa chữa TSC ổn định qua các năm. Năm 2014, tổng nguồn vốn là

20.595 triệu đồng, đến năm 2018 là 23.705 triệu đồng, tăng 3.110 triệu đồng.

Biểu đồ 2.3: Nguồn vốn đầu tư phát triển sự nghiệp giai đoạn 2014-2018

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương

Qua biểu đồ cho thấy, tình hình sử dụng nguồn vốn từ quỹ phát triển

hoạt động sự nghiệp tăng qua các năm, đặc biệt vào năm 2018 đạt 1.903 triệu

đồng. Như vậy, ngoài việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, Viện đã dần

chủ động trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính khác.

41

Biểu đồ 2.4 Biểu đồ so sánh cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 2014-2018

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương

VSR- KST-CT TƯ là ĐVSN công lập trong ngành y tế (đơn vị dự toán

cấp II) nên nguồn thu tại Viện chủ yếu là từ Ngân sách Nhà nước. Còn lại là

nguồn vốn viện trợ, tài trợ nước ngoài, chiếm khoảng 1%. Đây là khoản kinh

phí nhà tài trợ nước ngoài cho phép Viện mua một số máy móc, thiết bị để

thực hiện đề tài, dự án hoặc Viện nhận trực tiếp viện trợ bằng hàng. Ngoài ra,

Viện còn sử dụng nguồn kinh phí phát triển hoạt động sự nghiệp cho việc sửa

chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn này tăng đều qua các năm, chiếm tỷ

trọng từ 1,71% tăng lên 4,36% vào năm 2018 cho thấy Viện đã chủ động

trong việc sử dụng các nguồn vốn khác nhau chứ không bị động phụ thuộc

vào nguồn ngân sách nhà nước cấp.

42

Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn cho đầu tư XDCB, nâng cấp và sửa chữa cơ sở hạ tầng giai đoạn 2014-2018

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

STT

Chỉ tiêu

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

1

Nguồn kinh phí

15.833

100%

22.103

100%

15.628

100%

19.928

19.024

100%

100%

Chi thường xuyên

689

4,35%

475

2,15%

610

3,90%

968

1.231

4,86%

6,47%

Chi không thường xuyên

14.785

93,38%

21.160

95,73%

14.410

92,21%

18.790

94,29%

16.700

87,78%

Quỹ phát triển hoạt động SN

359

2,27%

468

2,12%

608

3,89%

170

1.093

0,85%

5,75%

2

Tình hình sử dụng

100%

100%

100%

100%

100%

94,29%

87,78%

Đầu tư, xây mới

93,38%

95,73%

92,21%

15.833 14.785 1.048

22.103 21.160 943

15.628 14.410 1.218

19.928 18.790 1.138

19.024 16.700 2.324

5,71%

12,22%

7,79%

6,62%

4,27%

Nâng cấp, sửa chữa Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

Qua số liệu được thể hiện ở bảng 2.2 ta thấy: Nguồn ngân sách nhà nước cấp hàng năm chủ yếu là dành cho đầu tư XDCB.

Nguồn ngân sách chi không thường xuyên được sử dụng để đầu tư mới các công trình XDCB. Nguồn chi không thường xuyên

chiểm tỷ trọng lớn, từ 87,78% đến 95,73%. Còn lại nguồn chi thường xuyên chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ từ 2,15% đến 6,47% và

43

nguồn quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp chiếm từ 0% đến 5,57% dùng để chi cho việc nâng cấp, sửa chữa cơ sở hạ tầng.

2.2.2.3. Tình hình đầu tư XDCB, mua sắm tài sản công

Bảng 2.3: Tình hình đầu tư XDCB, mua sắm TSC giai đoạn 2014-2018

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

STT

Chỉ tiêu

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

Giá trị Tỷ trọng

1

Nhà cửa, vật kiến trúc

131.177

91,93%

900

4,39%

200

1,67%

20.746

54,25%

1.037

20,34%

2

Máy móc, thiết bị

9.121

6,39%

17.877

87,17%

10.218

85,41%

15.551

40,67%

3.668

71,95%

3

Phương tiện vận tải

0

0,00%

0

0,00%

0

0,00%

0

0,00%

0

0,00%

4

Thiết bị dụng cụ quản lý

2.389

1,67%

1.731

8,44%

1.546

12,92%

1.942

5,08%

393

7,71%

Tổng cộng

142.687

100%

20.508

100%

11.964

100%

38.239

100%

5.098

100%

Nguồn: Báo cáo tăng giảm tài sản hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

44

- Về công tác xây dựng cơ bản đã thực hiện

Năm 2014, giá trị quyết toán công trình tòa nhà làm việc 11 tầng của các

phòng chức năng và khoa chuyên môn là 131.177 triệu đồng, chiếm 91,93 %

tổng số tài sản tăng trong năm.

Năm 2015, Viện tiếp tục đầu tư xây mới tòa nhà 5 tầng dùng để khám và

chữa bệnh. Mặc dù nguồn kinh phí cho đầu tư XDCB ổn định qua các năm

nhưng giá trị của công trình XDCB tăng không lớn, 900 triệu đồng là do các

công trình có nhiều hạng mục, giá trị từng hạng mục chỉ được quyết toán giữa

chủ đầu tư và nhà thầu. Sau khi tổng giá trị quyết toán công trình hoàn thành

đưa vào sử dụng được Bộ y tế phê duyệt Viện mới tiến hành ghi tăng giá trị

tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc…Vì vậy giá trị tăng trong hai năm này chủ

yếu là do các hạng mục sửa chữa, nâng cấp tường rào, sân vườn và các hạng

mục khác.

Năm 2016, giá trị đầu tư XDCB tăng 200 triệu là do sửa chữa, nâng cấp

cơ sở hạ tầng. Một số hạng mục sửa chữa được thực hiện trong hai năm 2016

và 2017 nên chưa được quyết toán.

Năm 2017, sau 3 năm đầu tư xây dựng, tòa nhà 5 tầng dùng để khám và

chữa bệnh và các hạng mục công trình khác đã hoàn thành và được quyết toán

với tổng giá trị 20.476 triệu đồng. Để thực hiện đề án thành lập Bệnh viện

Đặng Văn Ngữ và trường Cao đẳng y tế Đặng Văn Ngữ, Viện tiếp tục đầu tư

xây mới tòa nhà 7 tầng phục vụ khám chữa bệnh và tòa nhà giảng đường 3

tầng phục vụ công tác giảng dạy.

Năm 2018, giá trị đầu tư XDCB tăng 1.307 triệu đồng là do giá trị sửa

chữa, nâng cấp khu ký túc xá cho học sinh, sinh viên.

Như vậy, trong giai đoạn 2014- 2018, có thể thấy Viện đã chú trọng việc

đầu tư xây mới, nâng cấp và sửa chữa nhiều hạng mục công trình đáp ứng

được yêu cầu về tiến độ, đảm bảo chất lượng, quy mô và công năng sử dụng.

45

Năm tòa nhà được đầu tư xây mới, bốn tòa nhà được hoàn thiện đưa vào sử

dụng đã đáp ứng được yêu cầu hoạt động cũng như yêu cầu phát triển của

Viện trong giai đoạn 2020-2025.

Khi dự án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, vật kiến trúc… hoàn thành

đưa vào sử dụng, Ban quản lý dự án có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán

vốn đầu tư gửi Vụ kế hoạch tài chính - Bộ y tế thẩm định, phê duyệt quyết

toán công trình. Việc quyết toán vốn đầu tư dự án là việc tập hợp toàn bộ các

khoản chi phí hợp lệ, hợp pháp nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư và các

bản thuyết minh báo cáo của dự án được tổng hợp trình cấp có thẩm quyền

phê duyệt, nhằm phản ánh tình hình vốn NSNN được đầu tư thực tế vào công

trình, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư.

Việc đầu tư XDCB được thực hiện trên cơ sở kế hoạch và dự án được

duyệt, sử dụng vốn đầu tư XDCB đảm bảo đúng mục đích. Do chi phí rất lớn

và tồn tại nhiều năm, ảnh hưởng lớn đến cảnh quan chung, không thể chốc lát

phá dỡ, di dời, cho nên để đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả việc xây dựng công

trình phải theo thiết kế; bảo đảm mỹ quan công trình, bảo vệ môi trường. Việc

đầu tư XDCB được quản lý chặt chẽ cả về chất lượng, tiến độ, an toàn lao

động, hiệu quả sử dụng vốn, chống lãng phí, thất thoát và các tiêu cực khác

trong xây dựng, cả về trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng, từ khâu chuẩn bị đầu

tư, thực hiện đầu tư đến khâu kết thúc đầu tư.

Sau khi lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư gửi Vụ kế hoạch tài chính- Bộ

y tế thẩm định, phê duyệt quyết toán công trình, phòng Tài chính kế toán mới

ghi tăng giá trị tài sản. Vì vậy, một số công trình thực tế đã được đưa vào khai

thác sử dụng nhưng năm sau mới được ghi tăng trong sổ sách.

- Về việc đầu tư, mua sắm tài sản khác

Để thực hiện đề án thành lập Bệnh viện Đặng Văn Ngữ và trường Cao

đẳng y tế Đặng Văn Ngữ, cùng với việc mở rộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, số

46

lượng và giá trị máy móc, thiết bị y tế trong 3 năm 2015 là: 17.877 triệu đồng,

năm 2016 là 10.218 triệu đồng và 2017 là 15.551 triệu đồng nâng tổng giá trị

của nhóm tài sản này lên 96.429 triệu đồng vào năm 2018. Với tài sản là

phương tiện vận tải, Viện không đầu tư mua mới trong các năm qua vì số

lượng xe đã đáp ứng đủ theo tiêu chuẩn sử dụng xe công. Với tài sản là thiết

bị quản lý, giá trị tài sản được đầu tư mua mới chủ yếu là thiết bị văn phòng

như điều hòa, bàn ghế, tủ tài liệu được trang bị đồng bộ khi các tòa nhà làm

việc được đưa vào khai thác, sử dụng.

Đối với việc mua sắm tài sản công: Việc quyết định danh mục và số

lượng mua sắm tài sản được tuân thủ theo đúng Quyết định số 50/2017/QĐ-

TTg ngày 31/12/2017 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu chuẩn, định

mức sử dụng máy móc, thiết bị. Quy trình mua sắm tài sản được thực hiện theo

Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 của Quốc hội 13; Nghị định số

63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số

điều của luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu; Thông tư số 58/2016/TT-BTC ngày

29/3/2016 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm tài

sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan Nhà nước bằng vốn Nhà

nước, các văn bản của Bộ Y tế và hướng dẫn tài chính của Viện.

Trước hết, Viện sẽ thành lập tổ đấu thầu, trong đó bao gồm đại diện lãnh

đạo các Phòng Kế hoạch tổng hợp, Hành chính quản trị, Tổ chức cán bộ và

Tài chính kế toán. Khi mua sắm TSCĐ bằng các nguồn vốn này đều phải

được chấp hành theo đúng dự toán được Bộ Y tế đã duyệt.

Sau khi dự toán chi về mua sắm tài sản được Bộ y tế phê duyệt, việc mua

sắm tài sản được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào đặc

điểm, tính chất của tài sản và yêu cầu quản lý của nhà nước trong từng thời

kỳ. Các hình thức mua sắm tài sản hiện nay gồm:

* Mua sắm tài sản thông qua đấu thầu gồm 2 loại:

47

- Đấu thầu rộng rãi

- Đấu thầu hạn chế

* Mua sắm không phải đấu thầu gồm:

- Chào hàng cạnh tranh

- Mua sắm trực tiếp

- Chỉ định thầu

2.2.3. Quản lý quá trình sử dụng tài sản công

2.2.3.1. Ghi sổ và báo cáo tình hình biến động tài sản

Các đơn vị ĐVSN công lập được giao trực tiếp sử dụng tài sản là nhà,

đất, các công trình xây dựng khác gắn liền với đất, phương tiện vận tải và các

tài sản khác theo quy định của Nhà nước phải đăng ký; có trách nhiệm thực

hiện việc đăng ký, sử dụng tài sản với cơ quan có chức năng quản lý tài sản

theo quy định hiện hành, ngay sau khi hoàn thành việc đầu tư XDCB, mua

sắm tài sản hoặc tiếp nhận tài sản để đưa vào sử dụng. Hàng năm,Viện lập

báo cáo tình hình tăng giảm đối với tài sản là nhà, đất, các công trình xây

dựng khác gắn liền với đất, phương tiện vận tải và các loại tài sản khác có giá

trị trên 500 triệu đồng gửi đơn vị chủ quản là Vụ kế hoạch tài chính - Bộ Y tế.

Việc quản lý TSC được phân loại thống kê và đánh mã số theo nhóm,

chủng loại tài sản. Mã số tài sản sẽ được dán vào tài sản và ghi vào hồ sơ, sổ

theo dõi tải sản cố định của đơn vị. Việc ghi tăng, ghi giảm tài sản phải có

chứng từ theo quy định hiện hành.

Thứ hai, việc điều chuyển tài sản giữa các đơn vị sử dụng phải có quyết

định của Viện trưởng và có biên bản bàn giao tài sản do phòng Kế hoạch tổng

hợp lập và được lưu tại, phòng Kế hoạch tổng hợp, Phòng Tài chính kế toán

và tại các đơn vị quản lý sử dụng có tài sản điều chuyển đi và điều chuyển

đến, là cơ sở để phòng Phòng Tài chính kế toán ghi tăng, ghi giảm tài sản

tương ứng trong biên bản kiểm kê.

48

Thứ ba, hồ sơ quản lý tài sản gồm:

- Quyết định giao nhận tài sản cho đơn vị sử dụng;

- Hóa đơn tài chính + hợp đồng

- Biên bản giao nhận tài sản;

- Các hồ sơ khác liên quan như: Hồ sơ tăng, giảm tài sản;

- Sổ theo dõi tài sản;

- Báo cáo tổng hợp tình hình tăng giảm tài sản.

2.2.3.2. Xây dựng và ban hành nội quy, quy chế quản lý, sử dụng tài sản công

Để quản lý, sử dụng số lượng và giá trị một cách có hiệu quả, Viện đã

ban hành Quy chế quản lý và sử dụng TSC theo quyết định số 1278/ QĐ -

VSR ngày 21/6/2017 của Viện trưởng VSR- KST-CT TƯ đảm bảo các yêu

cầu sau:

Thứ nhất, tất cả các loại TSC do VSR- KST-CT TƯ quản lý và sử dụng

được quản lý tập trung, thống nhất và phân công, phân cấp cho các Khoa,

Phòng, Trường, Trung tâm, cá nhân quản lý. Tổ chức hệ thống sổ sách theo

dõi chặt chẽ, định kỳ, được tổ chức kiểm kê vào 0h ngày 01 tháng 01 hàng

năm theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, sử dụng tài sản đúng mục đích, tiêu chuẩn định mức, chế độ,

đảm bảo công bằng, hiệu quả và tiết kiệm.

Thứ ba, tài sản thuộc phạm vi của Viện quản lý được giao cụ thể đến

từng Khoa, Phòng, Trường, Trung tâm, cá nhân chịu trách nhiệm quản lý.

Việc giao, nhận tài sản do Viện trưởng ký quyết định và khi bàn giao thực tế

phải có biên bản giao, nhận theo mẫu quy định.

Thứ tư, thực hiện việc bàn giao tài sản theo quy định khi có sự thay đổi

về nhân sự đối với chức danh lãnh đạo của Viện và của Khoa, Phòng, Trường,

Trung tâm.

Thứ năm, tài sản được giữ gìn, bảo quản, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa và

bảo vệ theo chế độ quy định của Nhà nước và theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

49

Thứ sáu, việc quản lý, sử dụng tài sản được thực hiện công khai, minh

bạch. Mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước được xử

lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Thứ bảy, hồ sơ tài sản được bảo quản và lưu trữ theo quy định. Trường

hợp để xảy ra mất mát, hư hỏng do lỗi khoa, phòng, cá nhân được giao quản

lý, sử dụng phải bồi thường và xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân.

50

2.2.3.3. Mức độ đáp ứng nhu cầu máy móc thiết bị

Bảng 2.4: Số lượng tài sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của Viện năm 2018 Số lượng (chiếc) STT Nội dung

Xe ô tô 1 2

Máy tính để bàn 2 208

Máy tính xách tay 3 48

Máy in 4 60

Máy fax 5 3

Máy photo 6 19

Bàn làm việc theo chức danh 7 17

Máy điều hòa 8 189

Máy chiếu 9 37

Tủ lạnh 10 37

Máy giặt 11 4

Thiết bị thông tin liên lạc 12 5

Bàn làm việc 13 234

Tủ tài liệu 14 83

15 167 Máy móc thiết bị y tế

Tổng hợp số liệu từ sổ tài sản cố định của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương năm 2018

Đối với phương tiện vận tải, Viện được trang bị 02 xe ô tô dùng cho

phục vụ công tác chung.

Đối với tài sản là thiết bị văn phòng, mỗi khoa phòng được trang bị 01

máy chiếu được lắp đặt tại phòng họp của đơn vị; 01 máy photocopy. Mỗi cán

bộ từ cấp phó phòng trở lên được trang bị 01 máy tính xách tay và cấp trưởng

phòng trở lên được trang bị 01 bàn làm việc theo chức danh. Số lượng máy

51

tính để bàn là 208 và 60 máy in, 234 bàn làm việc, 83 tủ tài liệu trên tổng số

260 cán bộ.

2.2.3.4. Công tác kiểm kê

Định kỳ hàng năm, phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Tài chính kế toán

phối hợp tiến hành kiểm kê một lần vào thời điểm 0h ngày 1 tháng 1 hàng

năm để xác định rõ số lượng tài sản, trang thiết bị thuộc phạm vi quản lý.

Phương pháp kiểm kê là thống kê đo đếm, căn cứ dựa trên kết quả kiểm kê

của năm trước đã đối chiếu với sổ sách kế toán và so sánh với kết quả kiểm kê

thực tế ở từng khoa phòng, cá nhân đang sử dụng.

Công tác kiểm kê diễn ra như sau:

Cuối niên độ kế toán, Viện trưởng quyết định thành lập hội đồng kiểm

kê tài sản. Hội đồng kiểm kê gồm có:

- Chủ tịch Hội đồng kiểm kê: Viện trưởng

- Phó chủ tịch Hội đồng: Phó Viện trưởng phụ trách kinh tế

- Các thành viên bao gồm:

+ Kế toán trưởng

+ Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp

+ Trưởng phòng Hành chính quản trị

+ Trưởng phòng Tổ chức cán bộ

+ Trưởng ban thanh tra nhân dân

+ Các cán bộ theo dõi tài sản phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Tài chính

kế toán

Công tác kiểm kê tài sản thực hiện theo qui định hiện hành. Các thành

viên trong Hội đồng kiểm kê tới từng phòng làm việc của các đơn vị sử dụng

kiểm kê thực tế và tiến hành dán tem kiểm kê lên từng tài sản. Phòng Tài

chính kế toán sẽ tập hợp biên bản kiểm kê của các khoa, phòng, trường, Trung

tâm và lập báo cáo kiểm kê tổng hợp và trình lãnh đạo Viện. Căn cứ vào báo

52

cáo, nếu có sự chênh lệch giữa thực tế kiểm kê và sổ sách ghi chép thì sẽ tìm

nguyên nhân để xử lý.

Tuy nhiên thực tế do đặc thù tài sản với số lượng lớn và đa dạng về

chủng loại nên công tác kiểm kê gặp rất nhiều khó khăn. Hội đồng kiểm kê

hầu như chỉ căn cứ vào báo cáo của các cán bộ trực tiếp kiểm kê và bộ phận

phụ trách quản lý tài sản.

Công tác kiểm kê tài sản được thực hiện định kỳ hàng năm khi kết thúc

năm tài chính. Tuy nhiên công tác kiểm kê chỉ dừng lại ở việc đo đếm tài sản

về số lượng mà chưa đánh giá được thực trạng, cơ cấu, các nguồn vốn hình

thành tài sản do đơn vị đang quản lý, sử dụng.

2.2.3.5. Quản lý quá trình nâng cấp, sửa chữa tài sản công

Trong quá trình sử dụng tài sản, các máy móc thiết bị của Viện được

thực hiện bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định

mức kinh tế - kỹ thuật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc

theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Đối với tài sản thiết bị chuyên dùng chưa

có chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa thì

lãnh đạo trực tiếp sử dụng tài sản đề xuất chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế

- kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa tài sản Nhà nước thuộc phạm vi quản lý và

trình Viện trưởng xem xét.

Khi tài sản cố định bị hỏng phải bảo dưỡng, sửa chữa thì lãnh đạo các

khoa, phòng, Trường, Trung tâm quản lý, sử dụng tài sản đó có trách nhiệm

báo cáo về các phòng chức năng để có kế hoạch sửa chữa.

Phòng Kế hoạch tổng hợp phụ trách việc sửa chữa, bảo trì những máy

móc, thiết bị y tế.

Phòng Hành chính quản trị có chức năng tham mưu lãnh đạo Viện trong

công tác quy hoạch: Lập kế hoạch đầu tư và quản lý, theo dõi các công trình

XDCB, quản lý sử dụng cơ sở vật chất trong cơ quan; quản lý và giám sát việc

53

sữa chữa thường xuyên các công trình nhà cửa - vật kiến trúc, hệ thống điện -

nước - điện thoại, thang máy; quản lý các phòng làm việc dùng chung, phục vụ

các nhu cầu quản lý và điều hành phương tiện vận tải. Việc sửa chữa, bảo trì

những tài sản này do phòng Hành chính quản trị đảm nhiệm.

Việc sử dụng đúng mục đích và tiến hành duy tu, sửa chữa định kỳ giúp

làm tăng độ bền của các máy móc thiết bị có tần suất sử dụng lớn. Đồng thời

giúp tiết kiệm năng lượng. Kinh phí bảo dưỡng, sửa chữa tài sản được thanh

toán từ nguồn kinh phí theo kế hoạch (dự toán NSNN giao từ đầu năm).

Tuy nhiên, do nguồn kinh phí hạn chế nên việc bảo dưỡng định kỳ còn hạn

chế. Đặc biệt, chỉ được thực hiện ở nhóm tài sản là nhà cửa, thiết bị vận tải, máy

điều hòa mà chưa chú trọng đối với nhóm tài sản là máy móc thiết bị y tế.

2.2.4. Quản lý trong quá trình tính hao mòn và thanh lý tài sản

2.2.4.1. Tỷ lệ hao mòn tài sản cố định

Thời gian sử dụng và tỷ lệ hao mòn tài sản cố định hữu hình thực hiện

theo quy định tại Phụ lục số 01 ban hành kèm theo Thông tư số 45/2018/TT-

BTC ngày 07/5/2018 của Bộ Tài chính quy định chế độ quản lý, tính hao

mòn, khấu hao TSCĐ.

Do Viện là ĐVSN công lập có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường

xuyên ở mức 25%, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp, nên nguồn

kinh phí đầu tư, mua sắm tài sản chủ yếu là nguồn ngân sách Nhà nước. Vì

vậy, tài sản tại Viện chỉ được tính hao mòn theo từng năm mà không áp dụng

hình thức tính khấu hao.

2.2.4.2. Tình hình thanh lý tài sản cố định

Cuối năm, phòng Tài chính kế toán thực hiện tính hao mòn tài sản cố định

theo tỷ lệ quy định; đối với tài sản cố định tính hao mòn hết giá trị nhưng vẫn

còn sử dụng được, đơn vị vẫn tiếp tục quản lý theo quy định của pháp luật.

54

Tài sản sau quá trình sử dụng hết hao mòn, bị mất hoặc bị hư hỏng không

khắc phục được nữa được tiến hành thanh lý để loại ra ngoài sổ sách kế toán.

-Về điều kiện để được thanh lý tài sản:

+ Đã sử dụng vượt quá thời gian sử dụng theo chế độ quy định mà không

thể tiếp tục sử dụng.

+ Bị hư hỏng không thể sử dụng được hoặc việc sửa chữa không có hiệu quả.

- Thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản: Viện trưởng ra quyết định

thanh lý đối với những tài sản là máy móc thiết bị có giá trị dưới 500 triệu

đồng. Đối với tài sản là nhà, đất, các công trình xây dựng khác gắn liền với

đất, phương tiện vận tải và các loại tài sản khác có giá trị trên 500 triệu đồng trình

Bộ y tế phê duyệt. Hồ sơ đề nghị thanh lý tài sản lên cơ quan cấp trên gồm:

- Quy trình thanh lý tài sản:

+ Đề xuất của các Khoa, phòng, Trường, Trung tâm

+ Hội đồng thẩm định kiểm tra, xác định hiện trạng tài sản được đề xuất

+ Hội đồng thanh lý dựa trên biên bản thẩm định của tổ thẩm định ra

quyết định danh mục tài sản đủ điều kiện thanh lý.

+ Tiến hành thanh lý theo quy định

Hội đồng thanh lý tài sản sẽ tiến hành tổ chức việc thanh lý tài sản theo

đúng trình tự, thủ tục quy định trong chế độ quản lý tài chính của Nhà nước

và của đơn vị quản lý cấp trên.

Phương thức thanh lý tài sản được đề xuất là hình thức bán đấu giá công

khai trọn gói (gồm máy móc thiết bị và công cụ dụng cụ). Quyết định thanh lý

tài sản và danh mục tài sản thanh lý được thông báo tới từng cá nhân trong cơ

quan thông mạng nội bộ để đảm bảo tính công khai, minh bạch.

55

Bảng 2.5: Tình hình thanh lý tài sản giai đoạn 2014-2018

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm 2015

STT Chỉ tiêu Năm 2014 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

1 Nhà cửa, vật kiến trúc - 39 3.913 831

2 Máy móc, thiết bị 567 267 3.034 254 5.548

3 Phương tiện vận tải 678 574

Thiết bị dụng cụ quản

667 877 590 612 506 4 lý

Tổng cộng 1.234 1.144 3.663 5.457 7.459

Nguồn: Báo cáo tài sản của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng

Trung ương

Trong giai đoạn 2014- 2018 tình hình thanh lý tài sản như sau:

Nhóm tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc: Từ năm 2016- 2018 các tòa nhà

cũ được thanh lý để giải phóng mặt bằng nhằm phục công tác đầu tư xây dựng

tòa nhà 5 tầng phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, tòa nhà 3 tầng

là giảng đường của Trường Cao đẳng y tế Đặng Văn Ngữ, tòa nhà kho 2 tầng

có đủ điều kiện đáp ứng việc bảo quản hóa chất, thuốc men, vật tư.

Nhóm máy móc thiết bị y tế: Cùng với việc mở rộng và nâng cao chất

lượng dịch vụ khám chữa bệnh cũng như nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.

Viện đã trang bị nhiều máy móc, thiết bị y tế hiện đại. Đặc biệt là khi tòa nhà

5 tầng phục vụ khám chữa bệnh được đưa vào sử dụng, trang thiết bị y tế của

khoa tăng cả về số lượng và giá trị. Vì thế, những máy móc sử dụng đã lâu,

không còn hiệu quả được đề xuất thanh lý.

56

Nhóm phương tiện vận tải: Năm 2017,Viện đã tiến hành thanh lý 02 xe ô

tô 7 chỗ hiệu MITSUBISHI Nhật bản được đưa vào sử dụng năm 1995 trị giá

678 triệu đồng. Năm 2018, Viện tiếp tục thanh lý 02 xe 9 chỗ hiệu NISSAN

Nhật bản sử dụng từ năm 1995 trị giá 574 triệu đồng. 02 xe này được sử dụng

trong nhiều năm, chủ yếu đi đường đèo núi, tiêu hao nhiều nhiên liệu, được

sửa chữa, bảo trì nhiều lần nhưng hiệu quả sử dụng không cao. Theo khuyến

cáo của nhà sản xuất và để đảm bảo tính an toàn, viện đã cho thanh lý số

phương tiện trên.

Nhóm thiết bị dụng cụ quản lý: Từ năm 2014-2018, viện đã thực hiện

đầu tư mua sắm nhiều máy móc thiết bị như máy tính, máy in, bàn làm việc…

đáp ứng nhu nâng cao chất lượng quản lý và điều kiện làm việc của cán bộ

viên chức. Các máy móc, thiết bị đã cũ kỹ, lạc hậu, được sửa chữa nhiều lần

được tiến hành thanh lý. Đồng thời, các tòa nhà được giải phóng mặt bằng

phục vụ các công trình đầu tư XDCB nên một số điều hòa, quạt gió không

còn sử dụng được cũng đã được thanh lý.

57

Bảng 2.6: Số lượng tài sản thanh lý tài sản năm 2018

STT Nội dung Số lượng (chiếc)

1 Nhà cấp III 1

2 Máy tính để bàn 23

3 Máy tính xách tay 2

4 Máy in 7

5 Máy fax 1

6 Máy photo 5

7 Tủ lạnh 2

8 Máy điều hòa 11

9 Máy móc thiết bị y tế 67

10 Thiết bị mạng truyền thông 1

11 Máy móc, thiết bị quản lý khác 12

Nguồn: Báo cáo tài sản năm 2018 của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn

trùng Trung ương

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương

2.3.1. Những kết quả đạt được

Quy mô TSC của Viện những năm qua không ngừng được mở rộng. Do

đó, năng lực khám chữa bệnh, đào tạo chuyên môn và công tác chỉ đạo tuyến

ngày càng được nâng cao, góp phần phát triển lĩnh vực y tế dự phòng.

Trong quá trình thực hiện mua sắm, các khoa, phòng, Trường, Trung tâm

và các bộ phận liên quan đã phối hợp rất chặt chẽ trong việc quản lý hồ sơ

liên quan đến việc hình thành tài sản. Kế hoạch mua sắm được thực hiện đúng

tiến độ, đảm bảo không gây lãng phí ngân sách nhà nước.

Nhìn chung, công tác quản lý mua sắm tài sản của Viện trong những

năm tương đối tốt. Tài sản được quản lý, sử dụng đúng mục đích, không sử

58

dụng tài sản nhà nước để cho thuê, cho mượn hoặc chuyển sang kinh doanh

trái với quy định. Từng bước tăng cường công tác quản lý chặt chẽ nêu cao

tinh thần tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát; sử dụng tài sản có hiệu quả.

Quy trình mua sắm tài sản đảm bảo đúng theo quy định của Nhà nước

(Luật đầu tư, Luật xây dựng, …), áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu để

mua sắm tài sản theo quy định; đối với tài sản phải mua sắm theo hình thức

chào hàng cạnh tranh hoặc đấu thầu thì thủ tục phê duyệt kế hoạch đấu thầu,

xây dựng hồ sơ mời thầu, lựa chọn nhà thầu…đảm bảo theo thẩm quyền quy

định và phân cấp việc mua sắm tài sản đảm bảo yêu cầu thiết thực, hiệu quả

và tiết kiệm

2.3.2. Những hạn chế và tồn tại.

- Trong kế hoạch mua sắm tài sản, VSR-KST-CT TƯ chưa đặt ra được

kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn từ đó có những chiến lược phát triển cụ

thể. Công tác mua sắm còn nhiều bị động, phụ thuộc vào nguồn ngân sách

Nhà nước cấp. Điều này cũng cho thấy trình độ quản lý, lập kế hoạch đơn vị

còn chưa thực sự được quan tâm triệt để.

- Hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC làm căn cứ mua sắm tài

sản chưa đầy đủ. Các tài sản là thiết bị văn phòng như máy vi tính, bàn ghế, tủ

làm việc chưa có quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng cụ thể, dẫn đến việc

mua sắm một số tài sản còn lãng phí và dư thừa so với nhu cầu sử dụng, nhất

là những tài sản phục vụ công tác là thiết bị văn phòng (máy tính, máy in...).

Việc xây dựng, mua sắm tài sản chưa được chú trọng thực hiện đúng theo tiêu

chuẩn, định mức của Nhà nước quy định mà tuỳ thuộc vào khả năng nguồn

kinh phí của đơn vị.

- Do đặc thù tài sản đa dạng về chủng loại nên công tác kiểm kê gặp rất

nhiều khó khăn. Hội đồng kiểm kê hầu như chỉ căn cứ vào báo cáo của tổ kiểm

kê và bộ phận quản lý tài sản để tổng hợp báo cáo. Công tác kiểm kê chỉ dừng

59

lại ở việc đo đếm tài sản về số lượng mà chưa đánh giá được thực trạng, cơ

cấu, các nguồn vốn hình thành tài sản do đơn vị đang quản lý, sử dụng. Công

tác quản lý hồ sơ, lưu trữ từng loại tài sản tại các khoa, phòng, trường, Trung

tâm chưa theo dõi chi tiết lý lịch tài sản, nguồn kinh phí mua sắm và vị trí lắp

đặt tài sản; công tác quản lý và quá trình sử dụng tài sản của một số cá nhân,

bộ phận chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa nắm bắt được tình hình sử

dụng tài sản kịp thời. Do vậy khó khăn trong việc tổng hợp, đánh giá tài sản

để xử lý và mua sắm tài sản mới. Một số tài sản hư hỏng không còn sử dụng

được hoặc nếu có sửa chữa thì chi phí cao mà hiệu quả sử dụng thấp, tài sản

không còn nhu cầu sử dụng, tài sản thu hồi khi tiến hành phá dỡ để xây dựng,

cải tạo, sửa chữa công trình hầu như chưa có báo cáo đánh giá cụ thể về số vật

tư, tài sản thu hồi của từng công trình và lập hồ sơ đề nghị xử lý theo quy

định. Một số tài sản tại các đơn vị đã mất nhưng chưa xác định rõ nguyên

nhân, quy trách nhiệm cá nhân và biện pháp xử lý, đồng thời vẫn được các

đơn vị theo dõi và tính hao mòn trên sổ kế toán.

- Công tác kiểm tra, giám sát của Viện còn chưa được thường xuyên, chế

tài xử phạt vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản chưa đủ mạnh, trách

nhiệm chưa rõ ràng giữa các chủ thể, dẫn đến sử dụng tài sản còn tuỳ tiện.

Hiện nay do công tác quản lý tài sản tại các đơn vị còn lỏng lẻo, nhiều tài sản

mất nhưng không kiên quyết xử lý vẫn theo dõi trên sổ sách, tài sản các dự án

tài trợ đã kết thúc nhưng không bàn giao, không theo dõi trên sổ sách của đơn

vị, việc sử dụng tài sản còn lãng phí,.. do vậy thời gian tới Viện cần có bộ

phận riêng chuyên theo dõi tình hình quản lý tài sản để có điều kiện tăng

cường kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm minh các sai phạm.

- Hệ thống thông tin phục vụ quản lý TSC tại Viện còn hạn chế, thể hiện

ở nhiều yếu tố, trước hết là không đầy đủ, không đồng bộ, không chính xác và

không kịp thời. Hệ thống cơ sở dữ liệu về TSC còn phân tán; chưa hình thành

60

được một hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung để đáp ứng có hiệu quả các yêu

cầu về số liệu, thông tin cho quá trình quản lý, điều hành cũng như cho công

tác phân tích, dự báo nhu cầu về tài sản. Cơ sở dữ liệu tài sản của viện còn

chưa bao quát được hết các loại tài sản, chưa có thông tin về những tài sản có

giá trị dưới 500 triệu đồng/1đơn vị tài sản, là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn về

số lượng và tổng giá trị trong tổng cơ cấu về tài sản của viện. Vai trò hỗ trợ

của CNTT đối với yêu cầu tăng cường công khai, minh bạch và thúc đẩy trách

nhiệm giải trình trong quản lý, sử dụng TSC trên một số phương diện vẫn còn

hạn chế (ví dụ như về hình thức, phạm vi và thời điểm công khai các số liệu

về tài sản…). Công tác thống kê, báo cáo về TSNN tại các đơn vị dự toán

trực thuộc hầu hết chưa được quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, kịp

thời và còn mang tính hình thức, chưa phản ánh thực tế tình hình quản lý, sử

dụng đảm bảo quy định, dẫn tới thông tin về tài sản không đảm bảo đầy đủ và

chính xác để phục vụ cho công tác quản lý.

- Tài sản chỉ thực hiện việc tính hao mòn hàng năm, mà không được

trích khấu hao tài sản, nên giá trị tài sản không được bảo toàn. Do đó, tài sản

dù được đưa vào sử dụng hay không đưa vào sử dụng thì giá trị tài sản cũng

bị hao mòn theo năm, tháng. Giá trị thu hồi sau thanh lý tài sản thường nhỏ

hơn rất nhiều so với giá trị đầu tư, mua sắm tài sản ban đầu, nên không tái tạo

được tài sản ban đầu. Vì thế, khi đầu tư, mua sắm mới tài sản nhà nước, các

đơn vị đều phải sử dụng bằng nguồn NSNN cấp.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại.

2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan

- Viện là ĐVSN công lập có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường

xuyên ở mức 25%, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp, nên nguồn

kinh phí đầu tư, mua sắm tài sản chủ yếu là nguồn ngân sách Nhà nước cấp.

Vì vậy, nguồn vốn đầu tư cho XDCB và mua sắm tài sản công phụ thuộc chủ

61

yếu vào ngân sách này mà chưa khai thác được các nguồn vốn khác như quỹ

đầu tư phát triển sự nghiệp hoặc từ việc liên doanh, liên kết...Việc đẩu tư, sử

dụng tài sản còn quá trông chờ vào ngân sách, chưa thực sự năng động, linh

hoạt trong việc áp dụng các cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực khác

để phát triển TSC. Kinh phí đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản của viện hầu

hết từ ngân sách nhà nước, và kinh phí khác cũng có nguồn gốc ngân sách nhà

nước (từ học phí, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp). Trong khi đó nguồn

lực ngân sách nhà nước có hạn, nguồn thu của viện không nhiều nên hiện nay

số lượng và chất lượng TSC của viện còn chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện

nhiệm vụ được giao.

- Trong nhiều năm, lãnh đạo viện chưa chú trọng công tác quản lý tài sản tại

đơn vị. Quy chế quản lý và sử dụng tài sản kèm theo quyết định số 1278/ QĐ -

VSR ngày 21/6/2017 mới được ban hành năm 2017, chưa xây dựng các tiêu

chuẩn định mức cho các khoa phòng theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể.

- Trình độ cán bộ tham gia công tác quản lý có vai trò rất lớn trong việc

nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản tại đơn vị. Do chưa có bộ máy

quản lý tài sản riêng biệt, cán bộ làm kiêm nhiệm, thường xuyên luân chuyển

công việc nên chất lượng, hiệu quả công tác quản lý tài sản công chưa thực sự

đáp ứng yêu cầu.Trình độ và ý thức của cán bộ quản lý tại các khoa phòng chưa

cao nên việc bảo quản, sử dụng và quản lý còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý tài

sản ở từng khoa, phòng, trường, Trung tâm hiện nay vẫn còn rất lỏng lẻo. Thực tế

cho thấy, hiệu quả sử dụng của các máy móc thiết bị y tế còn thấp là do trình độ

của bác sỹ, điều dưỡng hay kỹ thuật viên sử dụng thiết bị đó chỉ quan tâm đến việc

khai thác, sử dụng các máy móc thiết bị mà chưa chú trọng đến công tác duy tu,

bảo dưỡng, hiệu kiểm, hiệu chỉnh...Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất

lượng của công tác kiểm kê.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về quản lý, sử dụng TSC của

62

viện còn chưa được quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, đầy đủ.

Trong nhiều năm qua chưa tổ chức thanh tra, kiểm tra chuyên đề về quản lý,

sử dụng TSC. Các vi phạm trong quản lý, sử dụng TSC được phát hiện qua

kiểm tra được xử lý không kiên quyết, không dứt điểm hoặc xử lý còn mang

tính hình thức, hành chính nên không có tác dụng răn đe. Nhận thức về vai

trò, vị trí của công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung và công tác

thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quản lý TSC nói riêng còn chưa đầy đủ

- Viện chưa triển khai được các ứng dụng CNTT để nâng cao hiệu quả

công tác. Số liệu về tài sản được tập hợp trên cơ sở báo cáo của các đơn vị sử

dụng tài sản chủ yếu mang tính định tính, tương đối, không đầy đủ các thông

tin về tài sản và chưa được kiểm tra nên viện chưa đánh giá được một cách

đầy đủ,chính xác về số lượng, chất lượng, bản chất của tài sản và sử dụng tài

sản tại từng đơn vị trực tiếp, sử dụng tài sản, do đó công tác quản lý tài sản

hiện nay còn mang nặng tính sự vụ, chưa có điều kiện để thực hiện các biện

pháp quản lý mang tính tổng thể như sắp xếp lại, điều chuyển tài sản một cách

hợp lý hoặc đánh giá được hiệu quả sử dụng tài sản của từng đơn vị trực tiếp

quản lý, sử dụng tài sản. Trong thời gian qua, cùng với việc hoàn thiện tổ

chức, nâng cao năng lực để đảm bảo quản lý TSC đảm bảo tuân thủ các quy

định của Nhà nước, viện đã chú trọng xây dựng hệ thống thông tin, ứng dụng

CNTT phục vụ công tác quản lý, nhiều dự án CNTT phục vụ quản lý tài chính

nói chung và quản lý TSC nói riêng đã xây dựng, triển khai thực hiện tại các

đơn vị dự toán trực tiếp quản lý, sử dụng TSC, nhất là các phần mềm ứng

dụng: Phần mềm kế toán, phần mềm quản lý tài sản, Việc triển khai các dự án

ứng dụng CNTT này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách

hành chính, tăng cường tính công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả, hiệu

lực công tác quản lý TSC. Tuy nhiên, những kết quả này chỉ là bước đầu, việc

63

ứng dụng CNTT trong quản lý tài chính nói chung và quản lý TSC nói riêng

vẫn còn nhiều hạn chế

2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan

Trong giai đoạn 2014 -2018, Nhà nước thay đổi nhiều cơ chế, chính sách

về quản lý đầu tư XDCB và mua sắm tài sản công nhằm thắt chặt chi tiêu

công, giảm lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, trong khi văn bản chỉ đạo của các

cấp còn thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, nhiều văn bản chưa kịp triển khai đã

có văn bản khác thay thế, làm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình quản lý TSC.

Thực tiễn công tác quản lý TSC đã được cụ thể hóa tại Nghị định số

151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số

điều Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Thông tư số 144/2017/TT-BTC ngày

29/12/2017 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung Nghị định số

151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính Phủ; Quyết định số

50/2017/QĐ-TTg ngày 31/12/2017 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu

chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị. Từ đó Nhà nước xây dựng tiêu

chuẩn, định mức: nhà làm việc, phương tiện đi lại, tiêu chuẩn, định mức sử

dụng máy móc, thiết bị trong các ĐVSN công lập.

Bộ Y tế đã thực hiện phân cấp thẩm quyền quyết định mua sắm, sửa

chữa lớn, tài sản từ kinh phí thường xuyên và các quỹ các các đơn vị hành

chính, sự nghiệp trực thuộc Bộ Y tế tại Quyết định số 1232/QĐ-BYT ngày

08/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Bộ Y tế đã thực hiện phân cấp thẩm quyền quyết định thanh lý là nhà

cửa, vật kiến trúc, phương tiện vận tải và máy móc thiết bị có giá trị từ 500

triệu đồng trở lên.

64

Tiểu kết chương 2

Dựa trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp từ các báo cáo tài chính, báo cáo

kê khai tài sản nhà nước hàng năm và nguồn dữ liệu sơ cấp được thu thập

thông qua điều tra khảo sát, sử dụng bảng biểu từ các báo cáo tổng hợp liên

quan đến TSC trong giai đoạn 2014 - 2018 của VSR-KST-CT TƯ để đề cập

đến các nội dung như: Tài sản thuộc phạm vi quản lý của Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương; nguồn kinh phí cho đầu tư XDCB, mua

sắm TSC, tình hình đầu tư xây dựng trụ sở, tình hình mua sắm máy móc, thiết

bị y tế; công tác lập kế hoạch, tổ chức thực hiện việc đầu tư, mua sắm tài sản;

công tác kiểm tra giám sát quản lý TSC.

Từ các số liệu thu thập được, có thể đánh giá một cách khách quan nhất

về thực trạng công tác quản lý TSC tại VSR-KST-CT TƯ giai đoạn 2014-

2018. Đồng thời chỉ ra những điểm hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong

công tác quản lý TSC tại VSR-KST-CT TƯ. Và đây sẽ là căn cứ để tác giả

đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện công tác quản lý TSC tại

VSR-KST-CT TƯ trong phần tiếp theo của luận văn.

65

Chương 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG

TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ SÍNH TRÙNG - CÔN

TRÙNG TRUNG ƯƠNG

3.1. Định hướng phát triển và định hướng quản lý tài sản công tại

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

3.1.1. Định hướng phát triển chung của ngành y tế đến năm 2025

Thực hiện chiến lược chăm sóc và nâng cao sức khỏe toàn dân. Ngành y

tế đã được Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và

nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2020 - 2025 tại Quyết định số 122/QĐ-

TTg ngày 10/01/2013 trên quan điểm:

Nhà nước thống nhất quản lý vĩ mô, định hướng phát triển sự nghiệp

bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân thông qua hệ thống pháp

luật và chính sách; điều tiết, phân bổ nguồn lực; quản lý chất lượng dịch vụ y

tế và giá dịch vụ y tế.

Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong các đơn vị y tế gắn với việc

thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân để nhanh chóng thích ứng với thể chế kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động của ngành y tế.

Chiến lược nhằm mục tiêu chung là bảo đảm mọi người dân được hưởng

các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch

vụ y tế có chất lượng. Người dân được sống trong cộng đồng an toàn, phát

triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật, nâng cao thể lực,

tăng tuổi thọ, nâng cao chất lượng dân số.

3.1.2. Định hướng phát triển của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn

trùng Trung ương

Trong quy hoạch tổng thể phát triển VSR-KST-CT TƯ giai đoạn 2020 –

2025, mục tiêu xây dựng Viện trở thành đơn vị đầu ngành về nghiên cứu khoa

66

học, đào tạo, chỉ đạo tuyến và khám, chữa bệnh trong lĩnh vực sốt rét, các

bệnh ký sinh trùng, bệnh do côn trùng truyền và các bệnh nhiệt đới liên quan

đạt trình độ ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng ngày càng

tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân trong thời kỳ mới, hoàn thành

các nhiệm vụ chính trị được Bộ Y tế giao, góp phần bảo vệ, chăm sóc và nâng

cao sức khỏe nhân dân.

3.1.3. Định hướng hoàn thiện cơ chế quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương

Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai

thực hiện các cơ chế chính sách quản lý tài sản trong đơn vị. Thực hiện việc

giám sát và kiểm soát việc quản lý và sử dụng trên tiêu chí tiết kiệm, chống

lãng phí đối với tài sản sử dụng cho hành chính, quản lý và hiệu quả đối với

tài sản phục vụ cho công tác chuyên môn gắn với trách nhiệm đối với tập thể.

Thực hiện kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất về tình hình quản lý và sử

dụng tài sản tại các đơn vị.

Thực hiện việc theo dõi, quản lý TSC trên cơ sở đăng ký tài sản, kiểm tra

tình trạng tài sản, tính toán mức hao mòn. Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu

phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản.

3.2. Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng tài sản

công tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

3.2.1. Hoàn thiện công tác lập kế hoạch quản lý tài sản công

Tăng cường chủ động, linh hoạt, có các kế hoạch đầu tư, mua sắm tài sản

trong dài, trung và ngắn hạn đảm bảo tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí;

cần chấp hành nghiêm Quy chế quản lý tài sản, Quy chế công khai, minh bạch

tài chính, công khai mua sắm tài sản, phát huy dân chủ của cán bộ, công chức

trong việc giám sát hoạt động đầu tư, mua sắm tài sản.

Trước khi lập dự toán mua sắm tài sản, trang thiết bị làm việc, Viện cần

tổ chức, rà soát, bố trí sắp xếp lại tài sản, trang thiết bị làm việc hiện có tại

67

đơn vị theo tiêu chuẩn, định mức, nhất là các thiết bị tin học, để lập danh mục

mua sắm tài sản và lập dự toán mua sắm đảm bảo sát với thực tế.

Việc xây dựng dự toán mua sắm tài sản được tập trung và đảm bảo theo

tiêu chuẩn, định mức Nhà nước quy định; gắn các khâu quản lý lập dự toán,

thanh quyết toán kinh phí về đầu tư, mua sắm, sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng

tài sản, góp phần nâng cao hiệu quả sau đầu tư, mua sắm.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp trong hoạt động đấu thầu mua sắm, đầu

tư xây dựng cơ bản, đẩy nhanh tiến độ quyết toán các dự án, công trình hoàn

thành, nâng cao hiệu quả vốn NSNN.

Do tác động mạnh của nền kinh tế, nên cơ chế quản lý đầu tư, mua sắm

tài sản nhà nước có sự thay đổi thường xuyên. Hơn nữa, sự đa dạng của hoạt

động đầu tư XDCB và sự phức tạp của hồ sơ tài liệu đầu tư, mua sắm tài sản...

Đòi hỏi cán bộ làm công tác quản lý tài sản phải luôn nâng cao năng lực, học

tập, bồi dưỡng cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, về các kỹ năng

quản lý, quy trình quản lý vốn, quản lý dự án, quản lý quá trình mua sắm... Nâng

cao năng lực, trách nhiệm, trình độ quản lý của các tổ chức, cá nhân liên quan

đến việc đề xuất chủ trương đầu tư, mua sắm tài sản; quyết định đầu tư, mua sắm

tài sản; lập, thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án đầu tư, mua sắm...

Trong thời gian tới, Viện cần có quy định cụ thể đối với việc trích lập, sử

dụng các nguồn quỹ ngoài ngân sách cấp hàng năm, Quỹ phát triển hoạt động

sự nghiệp để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của đơn vị.

Bên cạnh đó, viện cũng cần nghiên cứu các cơ chế, chính sách có liên quan của

Nhà nước để huy động các nguồn lực xã hội nhằm phát triển TSC, đặc biệt trong

điều kiện TSC còn thiếu, xuống cấp, chưa đồng bộ, cơ chế quản lý tài sản còn

hạn chế thì mô hình hợp tác công - tư với phương thức “đầu tư - sử dụng công”

và “đầu tư công - quản lý tư” là thích hợp. Tuy nhiên, đây là mô hình đầu tư

mới, hiện nay mới được triển khai ở một số địa phương nên cần phải có lộ trình

68

tổ chức thích hợp và sự hỗ trợ về cơ sở pháp lý, cách thức thực hiện của các

cơ quan quản lý Nhà nước.

Đổi mới hình thức đầu tư, mua sắm tài sản nhà nước phải đồng bộ với

đổi mới hoạt động của ngành, có phân theo lộ trình thích hợp để đảm bảo

nguồn kinh phí được giao. Đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong

quản lý, sử dụng nguồn kinh phí đầu tư, thúc đẩy đổi mới toàn diện từ hạ tầng

cơ để đến việc tăng cường tài sản để đáp ứng công việc chuyên môn. Lấy việc

thực hiện mục tiêu chiến lược của ngành đến năm 2025 làm tiêu chuẩn cao

nhất để đầu tư, trang bị tài sản của quá trình phát triển.

Đổi mới hình thức đầu tư, mua sắm tài sản phân tán sang phương thức

đầu tư, mua sắm tài sản tập trung để nâng cao vai trò trách nhiệm của người

có thầm quyền, chống thất thoát, lãng phí thời gian, kinh phí của Nhà nước.

Tuy nhiên, mua sắm những tài sản nhỏ, sửa chữa nhỏ tài sản, công cụ

dụng cụ cần thực hiện theo phân cấp quản lý và sử dụng các hình thức mua

sắm tập trung hoặc phân tán cho phù hợp.

Lãnh đạo Viện cần quan tâm củng cố, xây dựng và phát triển nguồn nhân

lực; xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý

có tính chuyên nghiệp, chuyên sâu. Đồng thời, giữ vững kỷ luật, kỷ cương

trong quản lý TSC; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho

cán bộ quản lý; thường xuyên tổ chức các khoá tập huấn nghiệp vụ, cập nhật

kiến thức mới về quản lý tài sản.

Nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý là

một trong những giải pháp quan trọng giúp đơn vị tăng cường khả năng quản

lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Đây là đội ngũ quan trọng, là những

người trực tiếp tham gia vào hệ thống quản lý tài sản. Nhận thức được điều

này, đơn vị cần:

- Không ngừng nâng cao trình độ quản lý nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,

69

mặt khác phải tạo cơ hội cho cán bộ tự phấn đấu vươn lên. Đào tạo và bồi

dưỡng cán bộ, công chức quản lý tài sản là hoạt động nhằm nâng cao năng lực,

cung cấp kiến thức và kỹ năng quản lý cụ thể để bù đắp những thiếu hụt trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ.

- Chăm lo công tác đào tạo mọi mặt : đào tạo nâng cao, đào tạo lại, đào

tạo bổ xung, đào tạo chuyên ngành cho cán bộ kỹ thuật cho phù hợp với điều

kiện máy móc trang thiết bị ngày càng tiên tiến và hiện đại. Cần đặt ra yêu

cầu là phải thường xuyên cập nhật thông tin về chủ trương, chính sách của

Đảng và nhà nước, hệ thống pháp luật về quản lý tài sản và các công nghệ

mới, hiện đại mà đơn vị chưa có điều kiện đầu tư để có thể tham mưu cho ban

lãnh đạo khi tiến hành đổi mới tài sản Tuy nhiên, năng lực trình độ chuyên

môn của một bộ phận cán bộ quản lý còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu

quản lý trong tình hình mới. Vì vậy, việc nâng cao năng lực, trình độ của đội

ngũ cán bộ làm công tác quản lý, sử dụng tài sản là hết sức cần thiết, yêu cầu

bản thân mỗi cán bộ quản lý phải tập trung nỗ lực, ý thức trách nhiệm, tự giác

học tập nâng cao trình độ chuyên môn về quản lý TSC.

3.2.2. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật

Cần xây dựng một hệ thống quản lý tài sản mang tính quy chuẩn và phục

vụ tốt nhất cho công tác quản lý. Căn cứ pháp lý, chính sách, hệ thống tiêu

chuẩn, định mức sử dụng tài sản chính là căn cứ đánh giá việc quản lý, sử

dụng tài sản của từng đơn vị tiết kiệm hay lãng phí. Do vậy, cần tiếp tục hoàn

thiện các căn cứ pháp lý, chính sách hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài

sản. Ban hành quy định quản lý, sử dụng tài sản nhà nước trên cơ sở văn bản

pháp quy của Nhà nước, làm rõ các chế độ, tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC.

Nâng cao vai trò trách nhiệm của người sử dụng trong quá trình sử dụng

tài sản; tuân thủ đầy đủ Quy chế quản lý và sử dụng tài sản; Quy định về tiêu

chuẩn, định mức sử dụng tài sản nhà nước; đảm bảo thiết thực, tiết kiệm, hiệu

quả, chống lãng phí. Việc quản lý, sử dụng tài sản được thực hiện công khai,

70

minh bạch. Mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước

được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Hồ sơ tài sản

được bảo quản và lưu trữ theo quy định. Trường hợp để xảy ra mất mát, hư

hỏng do lỗi khoa, phòng, cá nhân được giao quản lý, sử dụng phải bồi thường

và xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân trực tiếp quản lý, sử dụng; đồng thời là

thước đo để đánh giá việc sử dụng TSC của từng đơn vị, vì vậy Luật thực

hành tiết kiệm chống lãnh phí (năm 2013) xác định: “Đối với việc quản lý, sử

dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, TSC, lao động, thời gian lao động

trong khu vực nhà nước và tài nguyên ở những lĩnh vực đã có định mức, tiêu

chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì tiết kiệm là

việc sử dụng ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng vẫn đạt

được mục tiêu đã định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng

đạt cao hơn mục tiêu đã định. Lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà

nước, vốn nhà nước, TSC, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà

nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục

tiêu đã định”. Ngoài ra tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC còn là công cụ để

thực hiện kiểm tra, giám sát việc sử dụng TSC của các đơn vị, cá nhân trực

tiếp quản lý, sử dụng tài sản.

Với chức năng, nhiệm vụ và hoạt động đặc thù của viện thì việc áp dụng

các tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý TSC như các ĐVSN công lập thông

thường như hiện nay là chưa hợp lý, chưa đầy đủ. Vì vậy, viện cần nghiên

cứu, báo cáo các cơ quan có thẩm quyền ban hành bổ sung những tiêu chuẩn

định mức, chế độ về TSC phù hợp với hoạt động đặc thù của mình như:

Thứ nhất là hoàn thiện, bổ sung tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC giao

cho các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng, phù hợp với quy định của Nhà nước

và đặc thù hoạt động, yêu cầu công tác của viện.

71

Thứ hai là xây dựng bổ sung những tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản

chưa được quy định như: tiêu chuẩn, định mức trang bị tài sản, các tiêu chuẩn,

định mức trang bị về TSC phải được quy định cụ thể về chủng loại, quy cách

và chất lượng của tài sản nhằm thống nhất trang bị tài sản trong tất cả các đơn

vị, tránh tình trạng tùy tiện trong mua sắm tài sản gây lãng phí và bất công

bằng giữa các đơn vị cùng có chức năng nhiệm vụ thực hiện như nhau và

giữa cán bộ công chức làm việc ở các đơn vị khác nhau.

3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác kiểm kê

Nâng cao chất lượng của công tác kiểm kê tài sản để phản ánh được tình

hình sử dụng tài sản: tài sản đang sử dụng, tài sản chưa cần, tài sản không cần

dùng, tài sản hư hỏng hoặc tài sản đã hết thời gian sử dụng. Từ đó các lãnh đạo

Viện có kế hoạch mua mới, điều chuyển giữa các khoa phòng, thanh lý tài sản

cho phù hợp. Thực hiện nghiêm công tác kiểm kê, tính khấu hao tài sản hàng

năm. Thông qua công tác kiểm kê và tính hao mòn tài sản để đánh giá số lượng

và chất lượng tài sản hiện có tại các khoa, phòng, Trường, Trung tâm. Qua đó

xác định tài sản thừa, thiếu và tìm nguyên nhân để xử lý theo chế độ quy định.

Cơ chế quản lý, sử dụng tài sản là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có sự

quản lý chặt chẽ để phát huy tác dụng hiệu quả sử dụng TSC.

3.2.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát quản lý tài sản công

Kiểm kê tài sản hàng năm là yêu cầu bắt buộc nhằm xác định số lượng,

chất lượng; giá trị của tài sản, nguồn vốn hiện có tại thời điểm kiểm kê để

kiểm tra để đối chiếu với số liệu trong sổ kế toán. Qua dó, xác định tài sản

thừa, thiếu tìm nguyên nhân để quy trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản của

các tổ chức và cá nhân có liên quan.

Lãnh đạo Viện cần quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra,

giám sát trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa

lớn nhà cửa, vật kiển trúc; quá trình mua sắm tài sản để đẩy nhanh tiến độ

72

thực hiện, giải ngân vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ đúng các quy trình quy định

về đầu tư, mua sắm tài sản góp phần chấp hành tốt dự toán NSNN được giao

hàng năm.

Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, giám sát quá trình đầu tư, mua sắm

tài sản của đơn vị; kiểm soát chặt chẽ các nội dung chi, quản lý giá cả hàng

hoá; thực hiện nghiêm quy trình lập, trình thẩm định và phê duyệt danh mục

mua sắm TSC; nắm bắt tài sản hiện có, sớm phát hiện sử dụng tài sản sai mục

đích, vượt định mức hoặc tài sản không có nhu cầu sử dụng…để thu hồi, sắp

xếp lại tài sản, điều chuyển tài sản từ nơi thừa đến nơi thiếu hoặc bán, thanh

lý tài sản nhằm quản lý, sử dụng TSC tiết kiệm, hiệu quả.

Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai

thực hiện các cơ chế chính sách quản lý tài sản trong đơn vị. Thực hiện việc giám

sát và kiểm soát việc quản lý và sử dụng trên tiêu chí tiết kiệm, chống lãng phí đối

với tài sản sử dụng cho hành chính, quản lý và hiệu quả đối với tài sản phục vụ

cho công tác chuyên môn gắn với trách nhiệm đối với tập thể, cá nhân.

Thực hiện kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất về tình hình quản lý và sử

dụng tài sản tại các đơn vị.

Thực hiện việc theo dõi, quản lý TSC trên cơ sở đăng ký tài sản, kiểm tra

tình trạng tài sản, tính toán mức hao mòn. Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu

phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát cần chú trọng về quản lý, sử

dụng tài sản được thực hiện tập trung một số nội dung cụ thể như: việc quản

lý và sử dụng nguồn vốn, tài sản nhà nước; chế độ tiêu chuẩn, định mức tài

chính và việc giám sát đối với quá trình đầu tư, mua sắm tài sản theo quy định

để trang bị tài sản phục vụ cho công tác chuyên môn; việc chấp hành quy định

của pháp luật về đầu tư, mua sắm cũng như việc tuân thủ các quyết định của

cấp có thầm quyền và quyết định về phân cấp quản lý tài sản...

73

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cần được thực hiện theo đúng định

hướng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về các hoạt động của đơn vị,

trong đó có việc giám sát đánh giá hoạt động TSC, đây là một trong những

công cụ quan trọng.

Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát để xem xét, đánh giá và làm rõ

việc chấp hành, tuân thủ các quy định của pháp luật, việc thực hiện quyết định

của cấp có thầm quyền về đầu tư XDCB và sửa chữa, mua sắm tài sản nhà

nước; đồng thời qua đó giúp cho lãnh đạo và cơ quan quản lý cấp trên nắm

bắt, phân tích, đánh giá và xác định được tính hiệu quả việc sử dụng nguồn

vốn đầu tư và kinh phí mua sắm tài sản nhà nước, giúp đơn vị tăng cường

năng lực công tác quản lý, sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn được chặt chẽ hơn.

3.2.5. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong việc quản lý TSC

Một trong những tồn tại lớn nhất trong công tác quản lý, sử dụng TSC

của viện là chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ, thống nhất về TSC để nắm chắc

chủng loại, số lượng, chất lượng, giá trị TSC của từng đơn vị và trong phạm

vi cả viện, trên cơ sở đó cung cấp dữ liệu cho công tác dự báo xây dựng chiến

lược, kế hoạch phát triển TSC cũng như phục vụ quản lý, điều hành. Việc

thực hiện chế độ báo cáo của các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản

không kịp thời, đầy đủ, chính xác do chưa có công cụ hỗ trợ.

Với mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý TSC, bên cạnh việc hoàn thiện

chức năng, nhiệm vụ chuyên môn, trong đó nhiệm vụ quản lý tài chính và

quản trị tài sản, thì việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng công

nghệ quản lý hiện đại trong việc quản lý TSC là một điều kiện quan trọng

không thể thiếu được trong việc hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng TSC.

Trước mắt, Viện các cấp cần rà soát, chuẩn hóa dữ liệu về quản lý TSC theo

chương trình Quản lý tài sản để bảo đảm đầy đủ, chính xác, phục vụ kịp thời

74

cho công tác báo cáo. Đồng thời, cần khai thác ứng dụng phần mềm kế toán

để thuận lợi cho việc trích hao mòn hàng năm.

Việc ứng dụng CNTT cần phải được đẩy mạnh trên nhiều phương diện,

một mặt phải xử lý được những hạn chế hiện nay. Mặt khác phải đáp ứng

được các yêu cầu mới đặt ra trong quản lý TSC, qua đó phát huy tối đa hiệu

quả của CNTT trong công tác quản lý, sử dụng TSC, phù hợp với xu hướng

về cải cách quản lý TSC và ứng dụng CNTT. Mục tiêu cụ thể của việc xây

dựng hệ thống CNTT phục vụ quản lý TSC của viện cần hướng tới như sau:

- Đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong định hướng quản lý TSC thời

gian tới và phù hợp các định hướng cải cách hành chính, quản lý tài chính

của Viện.

- Góp phần tăng cường công khai, minh bạch thông tin về quản lý, sử

dụng TSC theo quy định (phạm vi thông tin công khai, tính toàn diện của

thông tin công khai và hình thức công khai, đảm bảo tính kịp thời, dễ hiểu,

dễ so sánh…); đồng thời, góp phần thúc đẩy thực hiện trách nhiệm giải trình

của các đơn vị trong quản lý, khai thác, sử dụng tài sản.

- Khắc phục sự phân tán về nguồn dữ liệu TSC, từng bước hình thành

kho dữ liệu tập trung, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu về thông tin, dữ liệu phục

vụ cho công tác quản lý điều hành.

- Góp phần đảm bảo được tính kết nối, tích hợp thông tin, dữ liệu trong

toàn bộ hệ thống Viện đối với toàn bộ quy trình quản lý TSC.

Trên cơ sở các nội dung và yêu cầu về quản lý TSC, Viện cần xây dựng

dự án tổng thể ứng dụng CNTT vào quản lý cả hệ thống, nhằm giảm thiểu chi

phí quản lý thủ công và tăng khả năng trao đổi thông tin. Để tránh ách tắc, kế

hoạch ứng dụng CNTT cần xây dựng một cách cụ thể, chi tiết về công việc,

tiến độ và kết quả cũng như trách nhiệm của người quản lý.

3.3. Một số kiến nghị

75

3.3.1 Đối với Bộ y tế

Thứ nhất, cần chú trọng hơn nữa đến công tác xây dựng các quy chế

quản lý nói chung cũng như quy chế quản lý tài sản nói riêng. Trên cơ sở đó

sớm chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị thực hiện và tiến hành kiểm tra, kiểm soát

thường xuyên, liên tục để đảm bảo công tác quản lý và sử dụng tài sản đúng

quy định và đạt hiệu quả cao.

Thứ hai, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để

có thể đáp ứng được nhu cầu quản lý tài sản và đặc thù trong toàn ngành.

Thứ ba, đề nghị Bộ y tế cần có cơ chế đầu tư hợp lý về TSC đối với Viện

để có nguồn lực TSC đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng

thời là tiền đề Viện có các biện pháp hợp lý để tổ chức quản lý đối với tài sản

được giao quản lý, sử dụng.

3.3.2 Đối với các Bộ, ban ngành khác

Đối với Bộ tài chính tiếp tục thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý

TSC và nâng cấp cơ sở dữ liệu về TSC, bảo đảm từng bước cơ sở dữ liệu có

đầy đủ thông tin về TSC. Trong đó, đối với TSC tại ĐVSN công lập cần bổ

sung thông tin về tài sản thương hiệu, tài sản cố định; thông tin về khai thác

TSC như: Tài sản được hình thành từ vốn huy động, tài sản được hình thành

qua liên doanh, liên kết hoặc đầu tư theo hình thức PPP, kết quả từ việc sử

dụng tài sản vào mục đích kinh doanh dịch vụ... Đồng thời tăng cường công

tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về quản

lý, sử dụng TSC; nâng cao hiệu quả xử lý TSC tại ĐVSN công lập theo

hướng công khai, minh bạch, ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện và

kiểm soát việc xử lý TSC, sử dụng các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến

TSC trong việc xác định giá trị tài sản, lựa chọn nhà đầu tư, nhà cung cấp, tổ

chức đấu giá tài sản có quyết định bán, thanh lý.

76

Các cơ quan quản lý nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ

chế, chính sách trong quản lý TSC nhằm khắc phục những bất cập trong triển

khai thực tế; trong đó ngoài việc xác định hệ thống tiêu chuẩn, định mức về

TSC được xây dựng thống nhất cho các cơ quan nhà nước.

ĐVSN trong cả nước thì cần cân nhắc, tính đến các tiêu chuẩn, định mức

áp dụng cho các Bộ, ngành, địa phương có tính đặc thù về nhiệm vụ, tổ chức

bộ máy, địa bàn hoạt động để đảm bảo sự linh hoạt, chủ động của các cơ

quan, đơn vị này trong thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà nước trong quản

lý TSC.

Các cơ quan quản lý nhà nước cần ban hành cơ chế tài chính riêng, phù

hợp với đặc thù về tổ chức và hoạt động của viện. Đây cũng là một điều kiện

hết sức quan trọng để hoàn thiện quản lý TSC do mối quan hệ không thể tách

rời giữa sự hình thành và quản lý TSC với quản lý tài chính công. Nhà nước

cần có cơ chế đầu tư hợp lý về TSC để có nguồn lực TSC đáp ứng yêu cầu

thực hiện nhiệm vụ được giao.

77

KẾT LUẬN

Quản lý tài TSC là một trong những nội dung lớn của quản lý tài chính

công. Hiệu quả của quản lý TSC là thước đo hiệu quả quản lý kinh tế và hành

chính nói chung. Việc tổ chức hệ thống quản lý tài sản tốt sẽ thường xuyên

theo dõi, nắm chắc tình hình tăng giảm tài sản về số lượng, giá trị, tình hình

sử dụng đầy đủ, hợp lý. Hoàn thiện công tác quản lý mua sắm TSC tại ĐVSN

công lập là một trong những nội dung quan trọng. Hiệu quả của việc quản lý

là thước đo hiệu quả quản lý kinh tế và quản lý nhà nước nói chung, ổn định

kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

Từ các số liệu thu thập được, luận văn đánh giá một cách khách quan

nhất về thực trạng công tác quản lý TSC tại VSR-KST-CT TƯ giai đoạn

2014-2018. Kết quả chính của luận văn gồm:

- Hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về TSC và quản lý TSC trong các

ĐVSN công lập; xác định vai trò, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung quản lý

TSC trong các ĐVSN công lập; tìm hiểu kinh nghiệm quản lý TSC tại một số

quốc gia trên thế giới để tìm ra những điểm có thể vận dụng cho Việt Nam.

-Từ số liệu thực tế về thực trạng quản lý và sử dụng TSC tại VSR-KST-

CT TƯ, luận văn chỉ ra những nguyên nhân và những điểm còn tồn tại, bất

cập trong quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung

ương trong giai đoạn 2014-2018.

- Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý

TSC tại VSR-KST-CT TƯ, luận văn đã đề xuất những giải pháp nhằm tăng

cường công tác quản lý TSC VSR-KST-CT TƯ trong thời gian tới.

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính (2016), Thông tư 58/2016/TT-BTC về việc hướng dẫn thực

hiện đấu thầu mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của

cơ quan Nhà nước bằng vốn Nhà nước, ban hành ngày 29/3/2016, Hà nội.

2. Bộ Tài chính (2017), Thông tư 144/2017/TT-BTC hướng dẫn một số nội

dung Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính Phủ, ban

hành ngày 29/12/2017 Hà nội

3. Chính phủ (2014), Nghị định 167/2017/NĐ-CP quy định việc sắp xếp, xử

lý tài sản công, ban hành ngày 31/12/2017, Hà Nội.

4. Chính phủ (2014), Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, ban hành ngày

26/6/2014, Hà Nội

5. Chính phủ (2017), Nghị định số 151/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, ban hành ngày 26/12/2017,Hà

Nội.

6. Chính phủ (2017), Nghị định số 152/2017/NĐ-CP quy định tiêu chuẩn,

định mức trụ sở làm việc, ban hành ngày 27/12/2017, Hà Nội.

7. Hoàng Thu Thủy (2018), Quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt

Đức, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH.

8. Nguyễn Quang Hạnh ( 2012), Kinh nghiệm của quốc tế về quản lý, sử dụng

tài sản Nhà nước, NXB Lao động.

9. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), Cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành

chính sự nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ. Đại học Kinh tế Quốc dân

10. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật kế toán,

số 81/2015/QH13. Hà Nội.

11. Phan Hữu Nghị (2009), Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành

chính Nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân.

79

12. Phạm Đức Phong (2003), Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản nhà nước

13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp.

Hà Nội.

14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật đấu

thầu, số 43/2013/QH13. Hà Nội.

15. hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật dân sự, số

91/2015/QH13. Hà Nội.

16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Quản

lý, sử dụng tài sản công, số 15/2017/QH14. Hà Nội.

17. Nguyễn Hồng Sơn và Phan Huy Đường (2013), Giáo trình Khoa học

Quản lý. Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.

18. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 32/2015/QĐ-TTg quy định tiêu

chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô trong cơ quan nhà nước,

đơn vị sự nghiệp công lập, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do

nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, ban hành ngày 04/8/2015, Hà Nội.

19. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 50/2017/QĐ-TTg của Thủ

tướng chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết

bị, ban hành ngày 31/12/2017, Hà Nội.

20. Trần Văn Giao (2011), Giáo trình tài chính công và công sản, Học viện

hành chính quốc gia.

21. Trần Đức Thắng (2011), Khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai tại Việt

Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính, Hà Nội.

22. Tưởng Quốc Công (2018), Quản lý tài sản công tại hệ thống Toà án

nhân dân ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH.

80