VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THANH TÚ
QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CÔNG LẬP: TRƯỜNG HỢP VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH
TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THANH TÚ
QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CÔNG LẬP: TRƯỜNG HỢP VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH
TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG
Ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 8340410
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN BÙI NAM
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Quản lý tài sản công đối với đơn vị sự
nghiệp công lập: trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng
Trung ương” là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi, với sự hướng
dẫn tận tình của TS. Nguyễn Bùi Nam.
Các tài liệu tham khảo, các số liệu thống kê được dùng với mục đích nghiên
cứu, được sử dụng đúng quy định. Các số liệu sử dụng trong luận văn có nguồn
gốc rõ ràng, trung thực. Các kết luận, nhận định và kết quả nghiên cứu trong luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả
Lê Thanh Tú
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI
SẢN CÔNG ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP ...................... 8
1.1. Cơ sở lý luận về tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập ............. 8
1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập ......................... 13
1.2. Tiêu chí đánh giá và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản
lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập .......................................... 22
1.4. Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản công
tại một số đơn vị sự nghiệp công lập ...................................................... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN
SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG ....... 31
2.1. Khái quát về Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương 31
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương ......................................................... 34
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương ................................................................. 58
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ SÍNH
TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG ................................................ 66
3.1. Định hướng phát triển và định hướng quản lý tài sản công tại Viện
Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương ..................................... 66
3.2. Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý tài sản công tại Viện
Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương ..................................... 67
3.3. Một số kiến nghị .............................................................................. 75
KẾT LUẬN .................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 79
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
1 CNTT Công nghệ thông tin
2 ĐVSN Đơn vị sự nghiệp
3 NSNN Ngân sách nhà nước
4 TSC Tài sản công
5 TSCĐ Tài sản cố định
6 XDCB Xây dựng cơ bản
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng 7 VSR- KST-CT TƯ Trung ương
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của Viện giai đoạn 2014-2018 .... 36
Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn cho đầu tư XDCB, nâng cấp và sửa chữa
cơ sở hạ tầng giai đoạn 2014-2018 ......................................................... 43
Bảng 2.3: Tình hình đầu tư XDCB, mua sắm TSC giai đoạn 2014-2018 ...... 44
Bảng 2.4: Số lượng tài sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của Viện năm 2018 .... 51
Bảng 2.5: Tình hình thanh lý tài sản giai đoạn 2014-2018 ............................. 56
Bảng 2.6: Số lượng tài sản thanh lý tài sản năm 2018 .................................... 58
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1.Cơ cấu tổ chức của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng
trung ương ............................................................................................... 33
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tài sản công của Viện thời điểm 31/12/2018 ................. 35
Biểu đồ 2.2: Nguồn vốn NSNN giai đoạn 2014-2018 .................................... 40
Biểu đồ 2.3: Nguồn vốn đầu tư phát triển sự nghiệp giai đoạn 2014-2018 .... 41
Biểu đồ 2.4 Biểu đồ so sánh cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 2014-2018 ............ 42
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Ở mỗi quốc gia, tài sản công có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
sản xuất và quản lý xã hội, đồng thời việc quản lý tốt TSC luôn được coi là
một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng quản lý nhà nước của quốc
gia đó.
Trong những năm qua, TSC ở nước ta đã luôn được quan tâm phát triển
cả về quy mô, giá trị, chất lượng và được giao cho các cơ quan, đơn vị thuộc
bộ máy nhà nước trực tiếp quản lý, sử dụng nhằm thực hiện những chức năng,
nhiệm vụ Nhà nước giao. Đối với các đơn vị được giao tài sản bước đầu đã
kiểm soát được việc sử dụng TSC, hạn chế dần việc sử dụng TSC không đúng
mục đích, sử dụng lãng phí, thất thoát. Công tác quản lý TSC đã được chủ
động hơn trên cơ sở vẫn đảm bảo tính độc lập, phù hợp với quy trình đầu tư,
xây dựng, mua sắm sử dụng tài sản. Công tác quản lý mua sắm tài sản công ở
cơ quan nhà nước hiện nay chưa thực sự hiệu quả: tình trạng mua sắm vượt
tiêu chuẩn định mức, vượt mức giá cho phép, chất lượng không đảm bảo, thủ
tục mua sắm chưa theo đúng quy trình, và còn nhiều vấn đề cần phải xem xét
trong quá trình mua sắm: từ khâu lập dự toán, xác định nhu cầu kinh phí và tổ
chức thực hiện việc mua sắm. Đây là biểu hiện rõ ràng nhất về bất cập, vướng
mắc trong quản lý mua sắm tài sản công.
Song, bên cạnh những kết quả đạt được, do có nhiều nguyên nhân chủ quan,
khách quan, hệ thống cơ chế quản lý TSC còn nhiều bất cập, hạn chế chưa
thực sự thích ứng với thực tế.
Quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra, là yếu tố quan
trọng góp phần xây dựng và phát triển Viện cũng như thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ được giao. Quản lý TSC từng bước được hoàn thiện theo
1
hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, vẫn còn bộc lộ một số bất cập như: việc lập kế hoạch mua sắm tài sản
còn bị động, phụ thuộc vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp; hệ thống tiêu
chuẩn, định mức sử dụng TSC làm căn cứ mua sắm tài sản chưa đầy đủ; công
tác kiểm tra, giám sát chưa thực sự được coi trọng; công kiểm kê hàng năm
chưa hiệu quả; việc áp dụng CNTT vào quản lý TSC chưa khoa học, đồng bộ;
trình độ của cán bộ quản lý và cá nhân người sử dụng còn hạn chế. Ở nước ta,
cơ quan quản lý trung ương về tài sản là Cục Quản lý Công sản thuộc Bộ Tài
Chính. Hiện nay, uy tín của nhà nước, của cán bộ công chức nhà nước một
phần rất lớn được công dân đánh giá thông qua việc quản lý, sử dụng tài sản
công. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng tài sản công không đúng mục đích, gây
lãng phí, thất thoát diễn ra rất phổ biến. Cho đến nay, các nghiên cứu liên
quan đến đề tài này chỉ mang tính khái quát chung, chưa dựa trên những
chuẩn mực cụ thể. Vì vậy đề tài mang một ý nghĩa thiết thực, là nguồn tài liệu
tham khảo cho cơ quan, giúp tìm ra giải pháp của vấn đề quản lý tài sản công,
là cơ sở để cải thiện các vấn đề này tốt hơn.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý tài sản công
đối với đơn vị sự nghiệp công lập: trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ
của mình.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý TSC là một nội dung đã và đang được đề cập tới trong nhiều
công trình nghiên cứu, luận án tiến sỹ, luận văn cao học, báo cáo khoa học…
Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Chiến lược đổi mới cơ chế
quản lý TSC công giai đoạn 2001-2010” của tác giả PGS.TS Nguyễn Văn Xa
đã nghiên cứu thực trạng quản lý, sử dụng TSC ở nước ta giai đoạn 1995 -
2000, đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.Từ
2
đó đề xuất những giải pháp để thực hiện đổi mới cơ chế quản lý TSC tại các
ĐVSN công lập giai đoạn 2001-2010 [23]. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu
của đề tài chỉ có giá trị đóng góp thiết thực ở thời điểm thực hiện.
Trong đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2002 “Hoàn thiện cơ chế quản lý TSC
tại đơn vị sự nghiệp” của tác giả Tiến sĩ Phạm Đắc Phong đã chú trọng nghiên
cứu sâu về cơ chế quản lý TSC được Nhà nước giao cho các ĐVSN trực tiếp sử
dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ [12]. Trong đó, đề tài chủ yếu đi sâu hệ
thống hóa các cơ chế, chính sách đang áp dụng đối với quản lý TSC tại các
ĐVSN, đánh giá những kết quả đạt được khi thực hiện, đồng thời chỉ ra những
tồn tại, hạn chế khi thực hiện các cơ chế, chính sách đó để kiến nghị các giải
pháp hoàn thiện, đổi mới. Tuy nhiên, trong điều kiện văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến quản lý TSC còn thiếu, chưa đồng bộ thì đề tài chưa đánh giá
đến hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế chính sách đó để có những giải pháp giúp
các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Luận án “ Cơ chế quản lý TSC trong khu vực hành chính sự nghiệp ở
Việt Nam” của nghiên cứu sinh Nguyễn Mạnh Hùng- Đại học kinh tế quốc
dân năm 2008 đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về TSC trong khu vực
hành chính sự nghiệp [10]. Tác giả đã đi sâu phân tích cơ chế quản lý TSC,
hiệu quả và hiệu lực của cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính
sự nghiệp ở Việt Nam. Đồng thời cũng khảo cứu kinh nghiệm quản lý TSC ở
một số quốc gia trên thế giới.
Luận án “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước ở
Việt Nam” của nghiên cứu sinh Phan Hữu Nghị đã trình bày tổng quan về cơ
quan hành chính nhà nước và TSC, quản lý TSC trong các cơ quan hành
chính đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm quản lý TSC của một số quốc gia.
Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [11]. Mặt khác, trên cơ
sở phân tích quy định chung về quản lý TSC và thực trạng quản lý trụ sở làm
3
việc trong các cơ quan hành chính, tác giả đã tổng kết các kết quả đạt được,
phân tích những tồn tại và nguyên nhân để từ đó đề ra mục tiêu, yêu cầu đổi
mới và hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý trụ sở làm việc của cơ quan
hành chính.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài
chính “Đổi mới cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại ĐVSN công lập”, đã tập
trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá, đề xuất nhiều giải pháp đổi mới công
tác quản lý TSC tại ĐVSN với mục tiêu: trao quyền tự chủ cho các ĐVSN
công lập để phát triển các hoạt động sự nghiệp, thực hiện xã hội hoá, giảm
sức ép chi từ NSNN.
Bài viết “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước –
Các hạn chế và giải pháp” của Lê Chi Mai trên Tạp chí Quản lý nhà nước, đã
căn cứ các tài liệu có liên quan (Báo cáo tổng kết công tác quản lý tài sản
công giai đoạn 1995 - 2005 của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính, Báo cáo
kết quả kiểm toán năm 2007, 2008 của Kiểm toán Nhà nước) để đánh giá khái
quát thực tiễn quản lý TSC nói chung và trong các cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng. Từ đó, tác giả đi sâu vào phân tích một số vấn đề bức thiết
đang đặt ra trong quản lý TSC tại các cơ quan hành chính nhà nước như tình
trạng mua sắm lãng phí; sử dụng tài sản kém hiệu quả; thiếu ghi chép, đánh
giá giá trị và tổng kết tài sản; tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý chưa phù
hợp; thiếu sự thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Với những hạn chế trên,
bài báo đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc quản lý TSC
trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Cho đến nay, việc nghiên cứu về quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương chưa có đề tài nào đề cập đến. Trên thực tế,
quản lý TSC ở viện trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt
ra, là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và phát triển viện cũng như thực
4
hiện các chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao. Quản lý tài sản
từng bước được hoàn thiện theo hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Quy trình
quản lý tài sản đã được quan tâm nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi để đảm bảo
phù hợp với quy định chung của Nhà nước và đặc thù hoạt động của viện; các
biện pháp cụ thể để quản lý tài sản cũng liên tục được bổ sung, hoàn thiện.
Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên
cứu được đề cập nêu trên đã đạt được, quản lý TSC là vấn đề phức tạp luôn
cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn, riêng đối với
đề tài “Quản lý tài sản công đối với đơn vị sự nghiệp công lập: trường hợp
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương” được xác định cần được
tập trung nghiên cứu một số vấn đề như sau:
Một là, kế thừa kết quả nghiên cứu mà các công trình đã công bố đạt
được, đề tài tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện một số lý luận cơ bản
về TSC và quản lý TSC trong các ĐVSN công lập, khái niệm TSC, TSC trong
ĐVSN công lập gắn với lợi ích kinh tế mà nó đem lại cho xã hội; đặc điểm,
phân loại TSC trong ĐVSN công lập; khái niệm, mục tiêu, yêu cầu, nội dung
và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý TSC trong ĐVSN công lập.
Hai là, nghiên cứu một số kinh nghiệm trong nước và quốc tế về quản
lý TSC, rút ra bài học kinh nghiệm để tham khảo trong việc kiến nghị, đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý TSC của Viện Sốt
rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ươngtrong thời gian tới.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ
bản về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đánh giá thực trạng
quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương và đưa
ra một số giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC tại Viện Sốt
rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
5
* Nhiệm vụ cụ thể:
- Nghiên cứu và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
quản lý TSC tại các đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
- Đánh giá thực trạng tình hình quản lý và sử dụng TSC tại Viện Sốt rét -
Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
- Phân tích ưu, nhược điểm, thuận lợi và khó khăn trong việc quản lý
TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC
tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Lý luận và thực tiễn về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập:
trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương (bao gồm
quản lý quá trình đầu tư mua sắm, khai thác, sử dụng và sửa chữa,vận hành,
bảo trì và khấu hao tài sản công).
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2014-2018, định hướng đến năm 2025.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung ương
- Về nội dung: Quản lý và sử dụng tài sản công
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác
quản lý và sử dụng TSC tại các đơn vị sự nghiệp công lập
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích:
Luận văn sử dụng các thông tin sơ cấp, thông tin thứ cấp từ các báo cáo
tài chính, quy chế quản lý tài sản, quy chế chi tiêu nội bộ và các báo cáo khác
6
của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương nhằm rút ra các kết
luận và đề xuất cần thiết.
+ Phương pháp so sánh:
So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân
tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện khối
lượng, quy mô tăng (giảm) của các hiện tượng kinh tế.
So sánh bằng số tương đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện kết
cấu, mối quan hệ tỷ lệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng
kinh tế.
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích các số liệu, dữ liệu liên
quan nhằm đánh giá được tình hình quản lý tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác quản lý
TSC tại các đơn vị sự nghiệp công lập
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng từ đó đưa ra những giải pháp
tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo sẽ có
3 nội dung chính thông qua 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập
Chương 2: Thực trạng quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung ương
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC tại
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Cơ sở lý luận về tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.1. Khái niệm tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
- Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [13].
- Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14 ngày
21/6/2017 của Quốc hội: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công
phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an
ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản
công tại doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà
nước ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài
nguyên khác”[17].
1.1.2. Phân loại tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Việc phân loại TSC nói chung và TSC trong ĐVSN công lập nói riêng
nhằm mục đích đưa ra các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả đối với từng
loại tài sản. Dựa trên các tiêu chí khác nhau thì việc phân loại TSC trong
ĐVSN công lập cũng khác nhau, thông thường có các cách phân loại tài sản
hay được sử dụng như sau:
- Căn cứ vào công dụng của tài sản khi khai thác, sử dụng, có thể chia tài
sản trong ĐVSN công lập thành các loại sau:
8
+ Nhà, đất thuộc trụ sở làm việc, công trình xây dựng và các tài sản
khác gắn liền với đất đai.
+ Phương tiện vận tải: xe ô tô phục vụ công tác (bao gồm xe ô tô phục
vụ chức danh, xe ô tô dùng chung và xe ô tô chuyên dùng) và các phương tiện
vận tải khác.
+ Máy móc, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác.
- Căn cứ hình thái tồn tại của TSC: có thể chia thành tài sản hữu hình và
tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là loại tài sản có hình thái vật chất giá trị và
nhìn thấy được. Tài sản vô hình là các tài sản tồn tại dưới dạng không nhìn
thấy, nhưng cũng có thể đem lại lợi ích cho người sở hữu nó (chẳng hạn như
bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả ...)
- Căn cứ nguồn gốc hình thành: có thể chia thành TSC được nhà nước
trực tiếp đầu tư tạo nên và TSC được gián tiếp sở hữu. TSC được nhà nước
đầu tư tạo nên chủ yếu là các tài sản được hình thành từ NSNN và các nguồn
lực tài chính có nguồn gốc NSNN. TSC được gián tiếp sở hữu trong các
ĐVSN công lập là các tài sản có được không qua các kênh đầu tư của nhà
nước (chẳng hạn các tài sản được tài trợ, biếu tặng, thu phạt…)
- Căn cứ theo cấp quản lý, TSC trong ĐVSN công lập gồm: TSC do
Chính phủ quản lý (gồm TSC do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và cơ quan khác ở Trung ương quản lý); TSC do các ĐVSN công lập
thuộc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý; TSC do các ĐVSN
công lập thuộc cấp quận, huyện, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) quản lý;
TSC do các ĐVSN công lập thuộc cấp xã, phường, thị trấn quản lý.
1.1.3. Đặc điểm tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
- TSC tại các ĐVSN công lập được hình thành từ NSNN hoặc có nguồn
gốc NSNN: TSC trong ĐVSN công lập bao gồm tài sản được xác lập sở hữu
nhà nước và bàn giao cho ĐVSN công lập quản lý, sử dụng, tài sản được đầu
9
tư xây dựng, mua sắm từ nguồn NSNN cấp. Ngoài ra, do đặc điểm hoạt động
và cơ chế quản lý tài chính của ĐVSN công lập thì nguồn hình thành TSC có
được còn do: tài trợ, viện trợ của các tổ chức, cá nhân; nguồn thu tại các
ĐVSN công lập; nguồn vốn vay của các quỹ hỗ trợ phát triển hay các ngân
hàng; các nguồn quỹ của ĐVSN công lập được trích lập theo quy định của
pháp luật (quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp). Những tài sản này tuy nhà
nước không đầu tư trực tiếp nhưng trước khi giao các ĐVSN công lập sử
dụng thì đều phải làm thủ tục xác lập quyền sở hữu nhà nước, giá trị các tài
sản đó đều được ghi thu hoặc ghi thu, ghi chi cho NSNN nên đều được coi là
có nguồn gốc NSNN.
- Quyền sử dụng TSC trong ĐVSN công lập có sự tách rời khỏi quyền sở
hữu: TSC nói chung và TSC trong ĐVSN công lập đều thuộc sở hữu nhà
nước trong khi đó quyền sử dụng TSC được thực hiện bởi từng ĐVSN công
lập được nhà nước giao tài sản để phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ do nhà
nước giao.
- Về mục đích sử dụng: TSC trong ĐVSN công lập là những tài sản mà
Nhà nước giao cho các ĐVSN công lập trực tiếp sử dụng để thực hiện các
mục tiêu sự nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Về chế độ quản lý: Nhà nước là chủ thể quản lý TSC trong đơn vị
ĐVSN công lập, ở tầm vĩ mô, TSC được quản lý, thống nhất theo pháp luật
của Nhà nước. Ở tầm vi mô, TSC được Nhà nước giao cho các ĐVSN công
lập sử dụng theo đúng quy định, chế độ do Nhà nước quy định. Do đó, nếu
không quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến việc sử dụng TSC lãng phí, thất thoát.
- Tài sản công trong ĐVSN công lập là cơ sở vật chất để phục vụ hoạt
động của các đơn vị nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà
nước của mình. Do vậy, sự hình thành và sử dụng TSC trong các ĐVSN công
lập tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị.
10
-. TSC trong các ĐVSN công lập nhiều về số lượng, lớn về giá trị và mỗi
tài sản lại có giá trị sử dụng khác nhau, thời hạn sử dụng khác nhau, do nhiều
chủ thể quản lý, sử dụng và trình độ quản lý, sử dụng của các chủ thể rất khác
nhau: Có loại tài sản được sử dụng trong hầu hết các ĐVSN công lập (trụ sở
làm việc, xe ô tô, máy tính, photo,…) nhưng cũng có loại tài sản chỉ có một
số ĐVSN công lập sử dụng cho hoạt động, nhiệm vụ đặc thù theo ngành, lĩnh
vực sự nghiệp mà đơn vị hoạt động (thiết bị y tế đối với ĐVSN công lập hoạt
động trong lĩnh vực y tế, thiết bị thí nghiệm trong một số ĐVSN công lập
thuộc lĩnh khoa học công nghệ…). TSC có loại không có khả năng tái tạo
phải được bảo tồn và phát triển, do đó việc quản lý đối với mỗi loại tài sản
cũng có những đặc điểm khác nhau.
- Giá trị của TSC trong ĐVSN công lập giảm dần trong quá trình sử
dụng: phần giá trị giảm dần đó được xem là yếu tố chi phí tiêu dùng công để
tạo ra các sản phẩm dịch vụ công, không thể trực tiếp thu hồi được phần giá
trị hao mòn của các tài sản qua quá trình sử dụng, mà phần lớn thu hồi gián
tiếp qua phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước hoặc qua hiệu quả hoạt động
của các hoạt động sự nghiệp phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.4. Vai trò của tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Vai trò của TSC trong ĐVSN công lập có thể được xem xét dưới nhiều
khía cạnh: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Thứ nhất, TSC là điều kiện vật chất đầu tiên và không thể thiếu để
ĐVSN công lập thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao. Tài sản công trong
ĐVSN công lập là nền tảng vật chất quan trọng cho việc đảm bảo các lợi ích
công, đồng thời là nguồn lực thiết yếu để đảm bảo sự tồn tại, phát triển. TSC
trong ĐVSN công lập giúp nhà nước cung cấp các dịch vụ công đáp ứng nhu
cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân, góp phần tạo ra một xã hội công bằng,
ổn định. Sử dụng TSC vào giáo dục, văn hóa, khoa học kĩ thuật giúp con
người phát triển, duy trì những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, làm cho
11
xã hội ngày một tốt đẹp hơn. TSC còn được Nhà nước sử dụng để cung cấp các
sản phẩm, dịch vụ có tác dụng điều tiết khoảng cách phân hóa giàu và nghèo
trong xã hội, góp phần đảm bảo sự công bằng của xã hội. Ngoài ra, TSC là nhân
tố quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp của các
đơn vị nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ công với chất lượng ngày càng
được nâng cao cho con người.
Thứ hai, TSC là điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động bộ máy quản
lý điều hành của các cơ quan Nhà nước, là nhân tố quan trọng trong quá trình
tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp của các ĐVSN công lập, là điều
kiện vật chất khẳng định vai trò lãnh đạo của cơ quan quản lý, tạo niềm tin, sự
uy nghiêm của pháp luật nhưng cũng tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân sống
làm việc theo đúng pháp luật nhà nước. Với vai trò là nền tảng vật chất đảm
bảo cho Nhà nước hoạt động, TSC trong ĐVSN công lập giữ vị trí hết sức
quan trọng. Một mặt, đó là phương tiện để truyền tải thông tin sự lãnh đạo
điều hành quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời là công cụ để thể
hiện ý chí của Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát duy trì sự ổn định và phát
triển kinh tế xã hội của đất nước theo những mục tiêu đã định trước.
Thứ ba, TSC là một trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất Nhà
nước thực hiện chức năng kinh tế thông qua các hoạt động nhằm đảm bảo cho
quá trình sản xuất xã hội được tiến hành bình thường, hướng quá trình sản
xuất xã hội đến những mục tiêu đã định trước. TSC là một trong các yếu tố cơ
bản của quá trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài
nguyên, đất đai thì không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của loài người.
Vì vậy, có thể khẳng định TSC trong ĐVSN công lập là yếu tố cấu thành của
quá trình sản xuất hội.
Thứ tư, TSC là nguồn vốn của sự đầu tư phát triển. Thông qua đầu tư
phát triển, TSC được bảo tồn, phát triển. Nguồn tài nguyên thiên nhiên chính
là TSC. TSC là cơ sở, là tiền đề cho đầu tư phát triển, là yếu tố đầu vào cho
12
mọi quá trình sản xuất, là nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển.
Thứ năm, TSC là điều kiện vật chất để không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Trong thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã
hội hiện nay ở nước ta, xuất phát điểm từ một nước nghèo nàn và lạc hậu,
việc bảo đảm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân không chỉ trông vào các nguồn lực do nước ngoài đầu tư, mà Đảng và
Nhà nước coi TSC chính là nội lực - là chủ yếu nhằm từng bước phát triển
kinh tế xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo để nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, TSC được xem là điều kiện vật chất để
mọi công dân tiếp xúc, phản ảnh nguyện vọng của mình; nơi giao dịch hợp tác
quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá, giáo
dục và đào tạo, y tế, xã hội, khoa học và công nghệ v.v...
1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.1. Khái niệm về quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
TSC trong ĐVSN công lập là những tài sản mà Nhà nước giao cho các đơn
vị trực tiếp quản lý, sử dụng phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Quản lý TSC trong ĐVSN công lập là sự tác động có tổ chức và bằng
pháp quyền của bộ máy quản lý đối với TSC trong ĐVSN công lập nhằm đảm
bảo tài sản công được đầu tư xây dựng mới, mua sắm, quản lý, sử dụng, xử lý
một cách hiệu quả, tiết kiệm, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước
giao cho các ĐVSN công lập.
1.2.2. Sự cần thiết quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Nhà nước là chủ sở hữu của mọi TSC, nhưng chủ thể trực tiếp khai thác,
sử dụng TSC là các ĐVSN công lập để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao. Quản lý TSC là việc làm cần thiết do:
Thứ nhất, TSC trong ĐVSN công lập là tài sản vật chất, của cải của đất
nước, của nhân dân phản ánh sức mạnh kinh tế của đất nước, là tiền đề, là yếu
tố vật chất để Nhà nước tổ chức thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.
13
TSC trong ĐVSN công lập có khối lượng lớn, giá trị cao do đó việc quản lý
tốt để tạo lập, khai thác, sử dụng TSC là đòi hỏi khách quan trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, việc sử dụng, khai thác TSC trong ĐVSN công lập có tác dụng
kích thích quá trình phát triển kinh tế xã hội, tác động lớn đến sự phát triển
của quốc gia. Năng lực quản lý yếu kém dẫn đến lãng phí, thất thoát làm suy
giảm nguồn nội lực của đất nước. Do đó, việc nâng cao hiệu quả quản lý TSC
trong ĐVSN công lập là việc làm cần thiết.
Thứ ba, TSC trong ĐVSN công lập được hình từ nguồn NSNN. Đó là điều
kiện đảm bảo cho các ĐVSN công lập thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được
giao. Quản lý tốt TSC trong ĐVSN công lập thông qua việc đầu tư xây dựng mới,
mua sắm, quản lý, sử dụng, xử lý TSC chống thất thoát lãng phí là trách nhiệm,
nghĩa vụ của mọi cán bộ, công chức, viên chức trong các ĐVSN công lập.
1.2.3. Mục tiêu quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Mỗi một hoạt động của ĐVSN công lập thực hiện bằng những phương
thức khác nhau nhưng đều có những mục tiêu được xác định trước, hướng tới
sự phát triển, ổn định và hiệu quả. Nhà nước đặt ra các mục tiêu quản lý đối
với khối tài sản của mình như sau:
Một là, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí và khai thác hiệu quả nguồn
TSC. Theo đó, các ĐVSN công lập được giao quyền sử dụng TSC phải bảo
tồn, phát triển nguồn TSC và sử dụng TSC theo quy định pháp luật của Nhà
nước nhằm hoàn thành nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Hai là, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức chế độ mà
Nhà nước quy định.
Ba là, Nhà nước thực hiện quản lý TSC cũng chính là thực hiện quyền sở
hữu tài sản; trong đó đặc biệt là quyền định đoạt đối với TSC bao gồm: quyền
đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển, thanh lý tài sản. Quản lý TSC phải
14
hướng tới mục tiêu phục vụ thực hiện các nhiệm vụ của ĐVSN công lập. Nếu
nhiệm vụ của ĐVSN công lập tăng lên hoặc có thay đổi trong yêu cầu về chất
lượng dịch vụ thì TSC phải thay đổi để đáp ứng.
1.2.4. Nguyên tắc quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Để quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản công cần tuân thủ một số nguyên
tắc sau đây:
Thứ nhất, thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời
phải có cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có
tính đặc thù riêng.
Thứ hai, thực hiện quản lý và sử dụng TSC đúng mục đích đầu tư, trang
bị; theo tiêu chuẩn, định mức. TSC trong ĐVSN công lập được hình thành từ
nguồn vốn NSNN, nguồn viện trợ, tài trợ từ các chương trình hợp tác, dự án,
quà biếu, tặng, tài sản tự chế tạo bằng hiện vật… Khi tài sản đưa vào sử dụng
phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định. Việc xác định các
tiêu chuẩn, định mức, chế độ sử dụng TSC là căn cứ quan trọng để kiểm soát
và quản lý trong việc đầu tư, mua sắm tài sản, đồng thời giúp cho các ĐVSN
công lập quản lý TSC hiệu quả, chống lãng phí. Qua đó, khắc phục tình trạng
lạm dụng TSC vào việc riêng cũng được hạn chế đáng kể.
Thứ ba, việc quản lý, sử dụng tài sản trong các ĐVSN công lập được
thực hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng
TSC phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Công khai, minh bạch TSC trong hoạt động của các ĐVSN công lập là
một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm phòng ngừa tham
nhũng. Công khai, minh bạch tạo điều kiện để cán bộ, công chức giám sát quá
trình sử dụng TSC. Với việc công khai, minh bạch TSC trong các ĐVSN
công lập để cán bộ, công chức sẽ dễ dàng biết được các quyền và nghĩa vụ
của mình để chủ động thực hiện theo các quy định của pháp luật.
15
Lĩnh vực, hoạt động công khai, minh bạch theo quy định của Luật
Phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mua sắm công và xây dựng cơ bản; quản
lý dự án đầu tư xây dựng…quản lý và sử dụng nhà, đất.
Thứ tư, quản lý TSC trong ĐVSN công lập phải được thực hiện thống
nhất, có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan,
đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về TSC. Phân cấp
quản lý TSC để đảm bảo việc quản lý phù hợp với đặc điểm của TSC.
Thứ năm, quản lý TSC phải gắn với quản lý NSNN. Xuất phát từ việc
TSC là những tài sản được hình thành từ nguồn NSNN và mọi chi phí trong
quá trình sử dụng tài sản đều do NSNN đảm bảo.
Thứ sáu bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định. TSC trong
cơ quan ĐVSN công lập phải được quản lý bằng hiện vật và giá trị theo đúng
quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng TSC. Giá trị của TSCĐ được ghi
theo nguyên giá xây dựng hoặc mua sắm. Trong quá trình sử dụng nếu có lắp
thêm bộ phận (nâng cấp đối với TSCĐ là máy móc thiết bị) hay cải tạo, mở
rộng thêm (đối với TSCĐ là nhà cửa, vật kiến trúc) thì ghi bổ sung thêm vào
nguyên giá tài sản. Tài sản sử dụng độc lập được xác định là một đối tượng
ghi sổ kế toán.
1.2.5. Quá trình quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.5.1. Các công cụ quản lý tài sản
Thứ nhất, xây dựng hệ thống chính sách quản lý gồm: Hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật, chính sách, chế độ về quản lý TSC; hệ thống về tiêu
chuẩn định mức.
Thứ hai, ngân sách đầu tư: hàng năm, các tổ chức, đơn vị được cấp trên
giao dự toán. Dựa trên nhu cầu thực tế và dự toán được giao, các đơn vị cấp
dưới xây dựng kế hoạch mua sắm TSC sao cho phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả
trong phạm vi ngân sách của mình.
16
Thứ ba, các ĐVSN công lập thường xuyên: Kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước đối với tổ chức, cá nhân được giao trực tiếp quản lý, sử dụng TS. Kiểm
tra, kiểm soát là công cụ hiệu quả góp phần tăng cường công tác quản lý TSC.
Thứ tư, sử dụng các hệ thống thông tin, tuyên truyền, giáo dục, hệ thống
đào tạo, tập huấn cho các cán bộ làm công tác quản lý TSC, cho các đối tượng
trực tiếp quản lý, sử dụng TSC trong các ĐVSN công lập; áp dụng hệ thống
công nghệ thông tin và mô hình vào quản lý, thống kê đánh giá lại TSC. Quản
lý được thực hiện thông qua số liệu thống kê tình hình TSC tại các đơn vị.
Công tác này đòi hỏi phải làm nhanh, kịp thời và chính xác để làm tốt trong
điều kiện hiện nay thì cách tốt nhất là áp dụng hệ thống phần mềm thống kê,
quản lý và đánh giá các chủng loại tài sản.
1.2.5.2. Nội dung quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp công lập
TSC được Nhà nước giao cho các cơ quan hành chính, ĐVSN công lập
quản lý, sử dụng để thực hiện nhiệm vụ hoặc bảo tồn, bảo dưỡng, duy trì, giữ
gìn bao gồm: nhà và đất thuộc trụ sở làm việc, nhà và đất thuộc các cơ sở hoạt
động sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa
học... phương tiện vận tải và trang thiết bị, phương tiện hoạt động... Đây là
những tài sản được đầu tư bằng nguồn vốn của ngân sách, bằng đóng góp của
nhân dân hoặc hiến tặng của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguyên
tắc chung là: tài sản này phải được quản lý trực tiếp chặt chẽ quá trình đầu tư
xây dựng, mua sắm, quá trình sử dụng và kết thúc sử dụng. Đối với nhà, đất
thuộc trụ sở làm việc hoặc thuộc các cơ sở hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo
dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học...phương tiện vận
tải, trang thiết bị làm việc đảm bảo cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là
những tài sản mà đơn vị được giao trực tiếp sử dụng tài sản phải sử dụng theo
chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Những tài sản này được đầu tư bằng nguồn từ
ngân sách Nhà nước hoặc có nguồn từ ngân sách Nhà nước, những tài sản này
17
có thể điều động từ nơi này sang nơi khác, những tài sản này về cơ bản (trừ
một số trường hợp đặc biệt) đều trải qua các quá trình: hình thành, sử dụng,
thanh lý. Tuy nhiên, trong thực tế, do phạm vi quản lý các TSC rất rộng, số
lượng đơn vị nhiều, mặt khác, do yêu cầu của việc quản lý chặt chẽ của các cấp
ngành, cấp địa phương, vì vậy, tuỳ thuộc vào thực tế, việc quản lý có thể được
phân cấp cho các ngành, các địa phương để giảm bớt các nghiệp vụ xử lý của cơ
quan quản lý và nâng cao trách nhiệm quản lý của ngành, địa phương.
- Quản lý quá trình hình thành tài sản
Quản lý quá trình hình thành TSC tại ĐVSN công lập được căn cứ vào
phương thức hình thành của tài sản: tài sản hình thành do được bàn giao, điều
chuyển và tài sản được hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm mới.
Thứ nhất, quản lý tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển, nhận
tiếp nhận từ đơn vị hoặc cá nhân khác, hoặc thu hồi từ các dự án đầu tư đã kết
thúc. Khi cơ quan được thành lập cùng với những quy định về chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ công chức, đơn vị được cấp một số tài sản.
Đối với tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển (bao gồm cả tài sản
mới được mua sắm và tài sản đã trải qua một thời gian khai thác, sử dụng): Căn
cứ biên bản bàn giao và các tài liệu khác liên quan đến tài sản, ĐVSN công lập
cần tiến hành lập hồ sơ về tài sản (gồm các thông tin: nguyên giá, năm đưa vào
sử dụng, giá trị đã hao mòn, giá trị còn lại, hiện trạng tài sản…) để làm cơ sở ghi
chép sổ sách quản lý tài sản, hạch toán kế toán theo quy định, làm cơ sở cho việc
bố trí khai thác, sử dụng, duy tu, bảo dưỡng tài sản.
Thứ hai, quản lý tài sản được hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm
mới. Hàng năm căn cứ vào nhiệm vụ được giao, căn cứ vào nhu cầu và tình
hình thực hiện ngân sách, đơn vị lập kế hoạch mua sắm, đầu tư TSC theo quy
định của pháp luật. Toàn bộ tài sản này được quản lý theo cơ chế của đơn vị
18
xây dựng trên cơ sở chế độ của Nhà nước quy định và đặc thù hoạt động của
đơn vị. Quản lý quá trình hình thành tài sản đối với tài sản được hình thành do
mua sắm, đầu tư xây dựng tại ĐVSN công lập gồm hai giai đoạn: quyết định
chủ trương đầu tư và thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản. Việc quyết định chủ
trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản của người có thẩm quyền được căn
cứ vào định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản, chế độ quản lý tài sản; thực
trạng, nhu cầu về TSC và khả năng nguồn lực tài chính để đầu tư xây dựng,
mua sắm tài sản của từng đơn vị để làm cơ sở xây dựng kế hoạch, ghi vào dự
toán NSNN hàng năm. Việc quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp,
không hiệu quả được coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư
dàn trải, thất thoát, lãng phí NSNN. Vì vậy, khi xem xét, quyết định chủ
trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản để sử dụng cho hoạt động chuyên
môn, để đảm bảo hiệu quả sử dụng NSNN và hiệu quả đầu tư, chẳng hạn như
thay vì đầu tư mới có thể cải tạo, chuyển đổi công năng, mục đích sử dụng
của các tài sản khác một cách phù hợp về mặt kỹ thuật và các yếu tố khác
hoặc có thể xem xét phương án đi thuê đối với những tài sản chỉ có nhu cầu
sử dụng trong thời gian ngắn, không thường xuyên hoặc chưa có đủ nguồn lực
tài chính để đầu tư xây dựng, mua sắm. Sau khi có chủ trương đầu tư xây
dựng, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản phải được tuân
thủ theo các quy trình nghiệp vụ, quy định về đầu tư và xây dựng, quy định về
mua sắm TSC. Trong quản lý ở giai đoạn này cần chú ý là chỉ được đầu tư
xây dựng, mua sắm tài sản đã được ghi vào kế hoạch, dự toán, không thực
hiện các nhu cầu xây dựng, mua sắm tài sản ngoài kế hoạch (trừ các trường
hợp được cấp có thẩm quyền bổ sung, các tài sản mua sắm do tài trợ, biếu,
tặng). Các TSC hình thành do mua sắm cũng được thực hiện theo các quy
định chặt chẽ của Nhà nước qua hai hình thức:
+ Phương thức mua sắm trực tiếp: Theo phương thức này, các cơ quan
dự toán trực tiếp tổ chức thực hiện mua sắm tài sản để phục vụ công tác cho
19
đơn vị mình. Việc thực hiện mua sắm theo phương thức này có ưu điểm là tạo
sự chủ động cho đơn vị. Song, phương thức này có những hạn chế chủ yếu là:
không chuyên nghiệp, tốn nhiều công sức và thời gian; chi phí mua cao hơn
do mua sắm nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm không được tối ưu do chưa có điều
kiện để chọn lựa các nhà cung cấp tốt nhất; thiếu tính đồng bộ, hiện đại và
việc đảm bảo tiêu chuẩn, định mức trong quản lý, sử dụng TSC. Các hình
thức mua sắm tài sản hiện nay bao gồm: Đấu thầu rộng rãi; Đấu thầu hạn chế;
Chỉ định thầu; Mua sắm trực tiếp; Chào hàng cạnh tranh; Lựa chọn nhà thầu
trong trường hợp đặc biệt.
+ Phương thức mua sắm tập trung: phương thức này thường được áp
dụng đối với mua sắm tài sản với số lượng lớn, chủng loại được sử dụng phổ
biến tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, hoặc tài sản có yêu cầu tính đồng bộ,
hiện đại. Theo phương thức này thì các tài sản sau khi có chủ trương mua
sắm, được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ được tổ chức thực hiện mua sắm
tập trung thông qua đơn vị mua sắm tập trung thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, doanh nghiệp. Đơn vị có chức năng mua sắm tập trung thực hiện quy
trình mua sắm tài sản theo quy định của pháp luật về đấu thầu và tài sản được
hình thành sau mua sắm được giao cho đơn vị trực tiếp sử dụng tài sản.
- Quản lý quá trình sử dụng, sửa chữa, bảo trì nâng cấp tài sản
Các ĐVSN công lập được Nhà nước giao TSC chịu trách nhiệm trực tiếp
quản lý, sử dụng phải xây dựng và ban hành các nội quy, quy chế quản lý
TSC; mở sổ sách theo dõi tình hình biến động của TSC; thực hiện chế độ kê
khai, báo cáo, đăng ký, kiểm kê định kỳ và đột xuất TSC theo quy định của
pháp luật; kiểm tra, thanh tra, giám sát quá trình quản lý sử dụng TSC; bảo
dưỡng, sửa chữa TSC theo yêu cầu kỹ thuật và đặc điểm sử dụng; điều
chuyển, bán, chuyển đổi sở hữu TSC.
20
Mỗi tài sản có đặc điểm khác nhau nên công tác đánh giá hiệu quả là rất
khó, chính vì vậy đối với tài sản thuộc khu vực ĐVSN công lập được thực
hiện quản lý việc sử dụng phải theo công năng, mục đích nhất định. Vì vậy,
việc xây dựng định mức sử dụng tài sản là công việc hết sức cần thiết, quyết
định hiệu quả của việc quản lý, khai thác tài sản. Định mức cũng là một trong
những cơ sở quan trọng để quyết định chủ trương xây mới, mua sắm hay thuê
mua tài sản.
Mỗi một tài sản thường có một thời gian sử dụng nhất định, nên trong
quá trình khai thác, sử dụng cần có cơ chế đánh giá tài sản (công việc này
thường được thực hiện hàng năm) cả về hiệu quả khai thác, sử dụng, tình
trạng của tài sản so với trạng thái ban đầu và giá trị còn lại của tài sản để có
chế độ duy tu, bảo dưỡng tài sản một cách hợp lý theo yêu cầu về mặt kỹ
thuật để tài sản có thể vận hành một cách bình thường. Việc quản lý, bảo
dưỡng, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản, nhằm duy trì hoạt động của TSC,
đảm bảo cho việc sử dụng TSC đạt hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu hoạt
động của các đơn vị.
Trong quá trình quản lý tài sản cũng cần quan tâm đến cơ chế điều chuyển
tài sản từ đơn vị này qua đơn vị khác để đảm bảo tiết kiệm và nâng cao hiệu quả
sử dụng: điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc từ nơi hiệu quả sử dụng tài
sản thấp sang nơi có thể huy hiệu quả sử dụng của tài sản cao hơn, đáp ứng yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất của cơ quan, đơn vị.
- Quản lý quá trình kết thúc: khấu hao, hao mòn và thanh lý tài sản TSC
sau khi đưa vào khai thác sử dụng một thời gian nhất định đều trải qua quá
trình kết thúc để thay thế bằng tài sản khác (trừ tài sản là đất đai và một số tài
sản lâu bền khác).
Các ĐVSN công lập không còn nhu cầu sử dụng hoặc giảm nhu cầu sử
dụng do có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, thay đổi về chức năng nhiệm vụ thì
21
có thể tiến hành đề xuất điều chuyển hoặc bán TSC. Điều chuyển hoặc bán
TSC đòi hỏi công tác quản lý tổng thể, xác định lại giá trị và đăng ký lại sở
hữu hay sử dụng. Phương pháp này được áp dụng đối với TSC có giá trị sử
dụng dài hạn để đảm bảo hợp lý và tiết kiệm.
Ngoài ra, khi TSC hết thời hạn sử dụng, đã hao mòn hết hoặc hư hỏng
không còn sử dụng được thì phải được tiến hành thanh lý để thu hồi phần giá
trị còn lại. Những tài sản được tiến hành thanh lý bao gồm: Tài sản đã quá
thời hạn sử dụng, đã khấu hao hết theo chế độ Nhà nước quy định mà không
thể tiếp tục sử dụng; Tài sản bị hư hỏng tuy chưa hết thời gian khấu hao đã
được sửa chữa nhưng không hiệu quả; Trụ sở làm việc hoặc tài sản khác gắn
liền với đất cần được tháo dỡ, phá bỏ theo quyết định của cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Việc bán thanh lý TSC thường xây dựng thành quy chế cụ thể tuỳ
theo quy định của pháp luật có liên quan. Trong quá trình này, các cơ quan
quản lý, các cơ quan liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý, kiểm
tra giám sát bảo đảm việc thanh lý TSC theo đúng trình tự, thủ tục và quy định
về quản lý, sử dụng tiền thu được từ thanh lý TSC.
1.3. Tiêu chí đánh giá và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.3.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng TSC tại đơn vị sự nghiệp
công lập.
- Một là, việc thực hiện đầu tư xây dựng, mua sắm TSNN được gắn với
tiêu chuẩn, định mức. Năng lực tài sản công khu vực hành chính sự nghiệp đã
tăng đáng kể, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, cung cấp dịch
vụ công cho xã hội. Các tài sản dôi dư, không còn nhu cầu sử dụng được xử
lý theo quy định của pháp luật. Các đơn vị sự nghiệp công lập bước đầu khai
thác được nguồn tài sản hiện có gắn với việc huy động các nguồn lực của xã
hội để phát triển hoạt động sự nghiệp công.Tiêu chuẩn định mức sử dụng
từng loại tài sản cho từng đối tượng sử dụng, tránh hiện tượng mạnh ai người
22
đó trang bị tuỳ tiện theo ý muốn của mình, tuỳ thuộc vào khả năng kinh phí
của đơn vị; tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản còn là thước đo đánh giá
mức độ sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài sản công của từng đơn vị; mặt khác,
tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản là cơ sở để thực hiện công tác quản lý,
thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước.
-Việc khai thác sử dụng TSC có mang lại những lợi ích mong muốn: có
đáp ứng các mục tiêu về phát triển kinh tế, chính trị xã hội cũng như đáp ứng
được việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước hay không.
- Sự phù hợp trong đầu tư mua sắm TSC ở các ĐVSN công lập: việc đầu
tư, mua sắm có phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Sự tồn tại của
tài sản này có thực sự cần thiết, việc sử dụng những tài sản này như thế nào
để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, giúp các ĐVSN công lập hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao. Đồng thời từng bước xây dựng và hoàn
thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về TSNN làm cơ sở hoạch định chính sách, chỉ
đạo, điều hành về tài sản công.
- Tác động của việc đầu tư mua sắm TSC tại các ĐVSN công lập mang
lại những lợi ích gì cho con người, có ảnh hưởng gì đến môi trường xung
quanh cũng như những tác động mang tính hạn chế của nó.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài sản công tại
đơn vị sự nghiệp công lập
- Nhóm nhân tố về trình độ quản lý, ý thức của đội ngũ cán bộ, công
chức trong bộ máy quản lý của các ĐVSN công lập: Hiệu quả và chất lượng
xây dựng quy chế và thực hiện quản lý TSC tại ĐVSN công lập chịu ảnh
hưởng lớn từ nhân tố này. Trình độ, năng lực cũng như tư duy trách nhiệm
của các cán bộ, công chức trực tiếp tham gia hoạt động quản lý TSC có tác
động tới các quyết định quản lý trong quản lý TSC ở các ĐVSN công lập. Do
đó, yêu cầu ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ
23
công chức quản lý tại ĐVSN công lập phải đảm bảo được tính khách quan khi
đặt ra các yêu cầu quy định trong cơ chế, đảm bảo hiệu quả thực tế của cơ chế
khi áp dụng vào hoạt động thực tiễn của ĐVSN công lập. Năng lực của đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm
bảo cho cơ chế quản lý tài sản công được thực hiện hiệu lực hiệu quả.
- Mục đích sử dụng tài sản: Tài sản công được sử dụng đúng mục đích sẽ
phát huy được năng suất làm việc. Vì vậy, việc quản lý, sử dụng TSC được thực
hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng TSC
phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Sử dụng
TSC đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ và bảo đảm hiệu quả, tiết
kiệm; sử dụng TSC không đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ; sử
dụng TSC lãng phí hoặc không sử dụng tài sản được giao gây lãng phí; sử dụng
TSC để kinh doanh trái pháp luật, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng TSC; chiếm
giữ, sử dụng trái phép TSC.
- Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về TSC: Việc áp dụng khoa học công
nghệ để nâng cao hiệu quả quản lý TSC trong các ĐVSN công lập có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Những dữ liệu về TSC được cập nhật thường xuyên, liên
tục đầy đủ sẽ hỗ trợ rất đắc lực cho công tác quản lý. Hệ thống thông tin quản
lý được xây dựng hoàn thiện sẽ giúp việc quản lý TSC được đầy đủ, chính xác
và được kiểm soát chặt chẽ. Điều này đòi hỏi mỗi đơn vị đều có kế hoạch cải
tạo, đầu tư mới TSCĐ
- Nhóm nhân tố về chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước. Thể hiện bằng các quy định về
chuẩn mực hành vi, nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của chủ thể tham gia
quản lý TSC tại các ĐVSN công lập phải nằm trong các quy định chung về
nguyên tắc quản lý kinh tế, tài chính và TSC và phải lấy đó làm cơ sở để xây
dựng, điều chỉnh và bổ sung hoàn thiện trong quá trình tổ chức thực hiện. Sự
24
phù hợp và sát thực tế của hệ thống các quy phạm về quản lý kinh tế, tài chính
và TSC của nhà nước sẽ có tác động tích cực tới việc quản lý TSC. Ngược lại,
sự thiếu thực tế, bất hợp lý, thiếu sự thông thoáng giữa văn bản quy phạm
pháp luật và thực tế quản lý sẽ gây trở ngại thậm chí cản trở sự vận hành của
cơ chế quản lý TSC tại các ĐVSN công lập. Trên cơ sở các văn bản quy định
về quản lý TSC của Nhà nước tạo ra môi trường và hành lang pháp lý hướng
dẫn cho các đơn vị. Bất kỳ sự thay đổi trong chế độ, chính sách hiện hành đều
chi phối các hoạt động của đơn vị .
- Nhóm nhân tố khác: bên cạnh những nhân tố trên còn có những nhân tố
khác có thể ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSC mà được coi là nhân tố bất
khả kháng như thiên tai, địch họa… Mức độ tổn hại về lâu dài hay tức thời là
hoàn toàn không thể dự đoán.
1.4. Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản
công tại một số đơn vị sự nghiệp công lập
1.4.1. Quản lý tài sản công ở Nhật Bản
Trên cơ sở Hiến pháp được ban hành từ năm 1947, đối với lĩnh vực quản
lý TSC: thể chế tự chủ địa phương cho phép các địa phương tự chủ trong việc
quyết định các chính sách quản lý TSC và mua sắm công độc lập với Chính
phủ. Vì vậy chính sách quản lý và việc thực hiện mua sắm của các Bộ, ngành
Trung ương có thể khác với các tỉnh và giữa các tỉnh có thể khác nhau. Tuy
nhiên tại Nhật Bản cả chính quyền Trung ương và địa phương đều có xu
hướng giảm chế độ mua sắm, trang bị tài sản cho các cơ quan nhà nước mà
chuyển sang hình thức thuê tài sản. Thành phố Osaka (Nhật Bản), một tỉnh
điển hình trong việc thực hiện hiệu quả mô hình quản lý mua sắm, trang bị tài
sản theo mô hình tập trung. Năm 2000 chính quyền tỉnh Osaka đã có cải cách
rất cơ bản trong việc mua sắm công với việc thành lập Cục mua sắm công với
nhiệm vụ quản lý về mua sắm công mà chủ yếu là đấu thầu mua sắm công đối
25
với tất cả tài sản, hàng hóa, dịch vụ liên quan đến chi tiêu công (bao gồm cả
lựa chọn nhà đầu tư, xây dựng) cho toàn tỉnh và không thu phí dịch vụ, đồng
thời Cục cũng thực hiện một số chức năng kiểm soát như một cơ quan quản lý
TSC. Việc thực hiện mua sắm, trang bị tài sản cho các cơ quan nhà nước tại cơ
quan thuộc Trung ương được tổ chức theo hai hình thức (mua sắm tập trung và
mua sắm phân tán), chưa có quy định bắt buộc mua sắm công tập trung, còn tại
tỉnh Osaka tất cả hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho cơ quan nhà nước đầu bắt buộc
mua sắm công tập trung và do Cục mua sắm công thực hiện.
1.4.2. Một số bài học đối với quản lý tài sản công ở Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh
Việc quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng cho từng loại TSC là yêu
cầu cần thiết đầu tiên và đƣợc cụ thể hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật ở
cấp độ Luật và các quy định, quy chế, tạo thành hệ thống pháp luật về quản lý
TSNN nói chung và quản lý TSC tại từng địa phương, cơ quan, đơn vị nói
riêng để đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả,
phân định rõ trách nhiệm, tránh trùng lắp nhiệm vụ giữa các cơ quan làm chức
năng quản lý TSC. Các quy định, chính sách quản lý TSC càng đầy đủ, cụ thể,
thì việc quản lý tài sản vừa chặt chẽ, vừa thuận lợi, hạn chế được những sai
phạm trong cả quản lý và sử dụng; đồng thời cho phép các cơ quan quản lý
TSC nắm được thực trạng tài sản cả về số lượng và chất lượng để quyết định
được phương thức, mức độ đầu tư, mua sắm tài sản, quy trình quản lý và thực
hiện điều tiết tài sản từ nơi thừa sang nơi thiếu một cách hợp lý.
1.4.3. Kinh nghiệm tổ chức mua sắm tài sản công của Bộ Tài chính
Thực hiện Quyết định số179/2007/QĐ-TTg ngày 26/11/2007 Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hóa từ ngân
sách nhà nước theo phương thức tập trung, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
số 22/2008/TT-BTC ngày 10/3/2008 hướng dẫn thực hiện Quyết định trên của
26
Thủ tướng Chính phủ, đồng thời xác định 13 Bộ, ngành, địa phương áp dụng thí
điểm việc mua sắm TSC theo phương thức mua sắm tập trung, trong đó có Bộ
Tài chính. Với trách nhiệm vừa là cơ quan quản lý nhà nước tham mưu cho
Chính phủ về cơ chế, chính sách, vừa đi đầu trong việc thực hiện mua sắm công
tập trung đối với TSC của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp trực thuộc
nên việc tổ chức thực hiện mua sắm TSC tại Bộ Tài chính đã được thực hiện hết
sức bài bản và hiệu quả, có thể tham khảo, áp dụng rất tốt đối với các cơ quan,
đơn vị khác
- Về tổ chức thực hiện mua sắm tập trung: Hàng năm, cùng với việc lập
dự toán ngân sách, các đơn vị, hệ thống ngành dọc thuộc Bộ Tài chính căn cứ
các quy định có liên quan về tiêu chuẩn, định mức và nhu cầu về mua sắm tài
sản, hàng hóa thuộc đối tượng mua sắm tập trung để lập dự toán mua sắm
gửi Cục Kế hoạch - Tài chính để thẩm định và tổng hợp chung với dự toán thu,
chi ngân sách năm.
Việc triển khai mua sắm tài sản, hàng hóa, dịch vụ theo phương thức tập
trung tại Bộ Tài chính đã góp phần đảm bảo việc quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước chặt chẽ, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng trang bị tài sản vượt tiêu
chuẩn, định mức hoặc trang bị tài sản, không hiệu quả, đảm bảo tính công khai,
minh bạch trong mua sắm TSC; các tài sản đƣợc mua sắm tập trung sẽ được
kiểm soát chặt chẽ về chất lượng, tính tương đồng về mặt kỹ thuật, đáp ứng yêu
cầu trang bị đồng bộ, hiện đại, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ
quan, đơn vị trực thuộc.
1.4.4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quản lý và sử dụng TSC là một vấn đề phức tạp, thực tiễn cho thấy có
rất nhiều khiếm khuyết. Tuy nhiên, với cách thức quản lý ưu việt của một số
nước trên thế giới là những bài học quý báu cho Việt Nam cũng như các
ĐVSN công lập trong việc quản lý và sử dụng TSC.
27
Việc hoàn thiện cơ chế quản lý TSC bằng văn bản quy phạm pháp luật ở
cấp độ luật và các văn bản dưới luật tạo thành hệ thống pháp luật về quản lý
TSC là rất cần thiết ở tất cả các nước. Nhờ có hệ thống pháp luật, đã tạo ra cơ
sở pháp lý để cơ quan quản lý tài sản giám sát, kiểm tra các cơ quan sử dụng tài
sản, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, các cơ
quan, đơn vị trong việc quản lý tài sản. Chính quyền Trung ương cần xây dựng
một khung pháp lý rõ ràng nhằm đảm bảo cho việc quản lý tài sản đúng mục
đích, hiệu quả, tiết kiệm, hạn chế thất thoát hoặc sử dụng lãng phí.
Hiện tại nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước. Hệ thống pháp luật về TSC cũng đang dần được
hoàn thiện phù hợp với thực tế. Hiện nay, TSC còn bị sử dụng sai mục đích,
lãng phí nên việc hoàn thiện cơ chế quản lý TSC ở Việt Nam đang được đặt ra
là một vấn đề cấp thiết.
Về nguyên tắc hiệu quả, công khai, minh bạch: Ở Việt Nam, cơ chế chịu
trách nhiệm giải trình, gắn chặt với việc công khai, minh bạch, đẩy mạnh
công tác kiểm toán, kiểm tra, giám sát nếu được triển khai tốt trong thực tế sẽ
là điều kiện kiên quyết trong việc nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý tài sản.
Về lập dự toán đầu tư mua sắm tài sản theo phương thức quản lý ngân
sách theo đầu ra và tính toán hiệu quả khi quyết định đầu tư, mua sắm tài sản:
Ở Việt Nam hiện nay, việc lập dự toán đầu tư, mua sắm tài sản vẫn được thực
hiện theo cơ chế quản lý ngân sách theo các khoản mục đầu vào; quản lý ngân
sách theo cơ chế này không chú trọng đến các đầu ra và kết quả trong việc thực
hiện các mục tiêu đã định. Mặt khác, nhiều đơn vị thực hiện đầu tư, mua sắm
tài sản không tính đến hiệu quả. Do vậy, cần vận dụng kinh nghiệm này vào
Việt Nam để hoàn thiện chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính
công cho việc đầu tư, mua sắm tài sản có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng
hàng hóa, dịch vụ công cung cấp cho xã hội.
Về phân cấp trong quản lý tài sản: Nhìn chung, tại các nước nêu trên đã
28
phân định rõ tài sản của chính quyền trung ương và tài sản của chính quyền các
địa phương; đồng thời đều giao quyền quản lý tài sản công cho các tổ chức độc
lập và các cơ quan khác gắn với trách nhiệm. Tuy nhiên, Chính phủ Trung
ương vẫn thực hiện vai trò thống nhất quản lý của mình bằng các quy định
trong Luật quản lý tài sản thông qua cơ quan quản lý tài sản để định đoạt các
vấn đề chung như: Bố trí kinh phí đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển,
đăng ký, báo cáo, thanh lý tài sản. Mặt khác việc phân cấp được tiến hành thận
trọng đồng bộ với việc xây dựng cơ chế thưởng phạt hoặc là gắn kết quả hoạt
động, để buộc các cơ quan quản lý tài sản phải đưa ra được những quyết định
đúng đắn trên cơ sở tuân thủ các chính sách và nguyên tắc quản lý tài sản hiệu
quả do Chính phủ ban hành.
Hiện nay ở Việt Nam, nhìn chung các đơn vị vẫn quản lý tài sản bằng các
công cụ đơn giản hoặc nếu có sử dụng phần mềm quản lý thì công nghệ phần
mềm lạc hậu, các chỉ tiêu theo dõi chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Do vậy,
Bộ Tài chính cần khẩn trương triển khai dự án thông tin kê khai đăng ký TSC.
Dự án này xây dựng giải pháp trợ giúp quản lý đăng ký tài sản tại đơn vị sử dụng
tài sản như theo dõi biến động tăng, giảm, nâng cấp, sữa chữa, điều chuyển, thu
hồi, nhượng bán, thanh lý tài sản…
29
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã đề cập đến những khái niệm chung về ĐVSN công lập, TSC
và quản lý TSC trong các ĐVSN công lập. Từ đó nghiên cứu những vấn đề liên
quan như vai trò và đặc điểm của TSC đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
thông qua việc Nhà nước giao cho các ĐVSN công lập thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
TSC đặc biệt là phần tài sản trong các ĐVSN công lập, là phần vốn hiện
vật của nhà nước, được hình thành từ nguồn NSNN. Đó là điều kiện đảm bảo
cho các đơn vị quản lý, các ĐVSN công lập thực hiện tốt các chức năng, nhiệm
vụ được giao. Quản lý tốt phần TSC trong các ĐVSN công lập qua việc mua
sắm, sử dụng, bảo quản TSC, chống thất thoát lãng phí là đòi hỏi đồng thời là
trách nhiệm, nghĩa vụ của tất cả các cá nhân.
Quản lý TSC là yêu cầu mong muốn của mọi người dân, tạo lập, khai thác,
sử dụng TSC có ý nghĩa kinh tế chính trị và xã hội to lớn. Uy tín của nhà nước,
của mỗi tổ chức, cá nhân được đánh giá thông qua việc quản lý, sử dụng TSC.
Công tác quản lý TSC có ý nghĩa quan trọng và là một bộ phận không thể tách
rời trong yêu cầu về quản lý tài chính công ở nước ta hiện nay.
Những nội dung trên là cơ sở để tác giả nghiên cứu, phân tích thực trạng
công tác quản lý TSC trong các năm từ 2014 đến 2018 tại VSR- KST-CT TƯ.
Từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài sản tại đơn vị.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ
SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG
2.1. Khái quát về Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương được thành lập
ngày 01/7/1957 theo Quyết định số 287/TTg của Thủ tướng Chính phủ với
tên gọi là Viện Sốt rét do Giáo sư Đặng Văn Ngữ làm Viện trưởng với nhiệm
vụ: “Nghiên cứu bệnh sốt rét và tình hình bệnh sốt rét, nghiên cứu những
phương pháp phòng và chữa bệnh sốt rét để giúp Bộ Y tế lãnh đạo toàn ngành
và nhân dân tiến lên từng bước giảm dần tỷ lệ và tiêu diệt bệnh sốt rét”, năm
1961 Viện được đổi tên thành Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và côn trùng và
năm 1998 đổi tên thành Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
cho đến nay.
Hơn 60 năm xây dựng và phát triển, mặc dù còn nhiều khó khăn VSR-
KST-CT TƯ đã luôn nhận thức đúng đắn vai trò, ý nghĩa của công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Cán bộ viên chức VSR- KST-CT
TƯ đã luôn khắc phục khó khăn hoàn thành xuất sắc chức năng và nhiệm vụ
được Nhà nước giao là nghiên cứu khoa học, chỉ đạo các biện pháp làm giảm
tỷ lệ mắc và tỉ lệ tử vong do các bệnh ký sinh trùng khác, phòng chống các
côn trùng truyền bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng cho người trên phạm
vi toàn quốc. Công tác phòng chống sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh
trùng và côn trùng truyền bệnh trong nhiều năm qua đã thu được những thành
tựu đáng kể làm giảm số tử vong, giảm số mắc, giảm gánh nặng bệnh tật do
bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, côn trùng gây ra cho cộng đồng, đã
góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân của Đảng và Nhà nước ta.
31
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
2.1.2.1. Chức năng.
VSR- KST-CT TƯ có chức năng nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ về
truyền thông giáo dục sức khoẻ; chỉ đạo chuyên môn tuyến dưới trong phạm
vi toàn quốc, trực tiếp chỉ đạo chuyên môn tại 28 tỉnh thành phố phía Bắc về
sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng.
2.1.2.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu về Sốt rét bao gồm: Dịch tễ học, các kỹ thuật chẩn đoán,
lâm sàng, điều trị và các biện pháp phòng chống.
- Nghiên cứu về các bệnh ký sinh trùng khác bao gồm: Dịch tễ học, các kỹ
thuật chẩn đoán lâm sàng, điều trị, các loại thuốc và các biện pháp phòng chống.
Chỉ đạo tuyến
- Giúp Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật, kế hoạch
bệnh sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh
cho người trong phạm vi toàn quốc, trực tiếp chỉ đạo chuyên ngành tại 28
tỉnh, thành phố phía Bắc.
- Xây dựng kế hoạch, chương trình, dự án phòng chống bệnh sốt rét, các
bệnh do ký sinh trùng khác và côn trùng truyền bệnh do Bộ Y tế quản lý cho các
tỉnh để trình Bộ Y tế phê duyệt và tổ chức thực hiện sau khi đã được phê duyệt.
- Theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện các nội dung nêu trên
phạm vi cả nước. Trực tiếp theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả tại 28 tỉnh,
thành phố phía Bắc.
Đào tạo
- Tổ chức đào tạo và đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ chuyên môn
kỹ thuật chuyên ngành sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh cho các
tuyến theo quy định của pháp luật.
32
- Tham gia đào tạo đại học về chuyên ngành sốt rét, ký sinh trùng và côn
trùng truyền bệnh cho các tuyến theo quy định của pháp luật.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy
Cơ cấu tổ chức của VSR- KST-CT TƯ hiện tại có Ban lãnh đạo gồm
Viện trưởng và các Phó Viện trưởng; 05 phòng chức năng, 07 khoa chuyên
môn; đơn vị trực thuộc Viện gồm có Trường Cao đẳng y tế Đặng Văn Ngữ và
Trung tâm phòng chống côn trùng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của VSR- KST-CT TƯ được thể hiện theo sơ đồ
2.1 dưới đây.
Sơ đồ 2.1.Cơ cấu tổ chức của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng
trung ương
VIỆN TRƯỞNG
Phó viện trưởng phụ trách chuyên môn
Phó viện trưởng phụ trách Hậu cần
g n ù r t
h n à g n
N V Đ ế t y g n ẳ đ o a C
g n ù r t n ô C a o h K
g n ù r t h n i s ý K a o h K
t é r t ố S ễ t h c ị D a o h K
ộ b n á c c ứ h c ổ T g n ò h P
ử t n â h p c ọ h h n i S a o h K
n á o t ế k h n í h c i à T g n ò h P
m ệ i h g n c ự h T a ó H a o h K
c ọ h a o h k ý l n ả u Q g n ò h P
p ợ h g n ổ t h c ạ o h ế k g n ò h P
ị r t u ề i đ u ứ c n ê i h g N a o h K
n ê y u h c h n ệ b m á h K a o h K
ị r t n ả u q h n í h c h n à H g n ò h P
T C g n ố h c g n ò h P m â t g n u r T
g n ờ ư r T
Lãnh đạo bệnh viện: gồm có
- 01 Viện trưởng: Phụ trách chung, chịu trách nhiệm trước Bộ y tế về
toàn bộ hoạt động và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Viện; làm chủ
33
tài khoản, trực tiếp chỉ đạo công tác tổ chức cán bộ, công tác tài chính và đầu
tư xây dựng cơ bản.
- 02 Phó Viện trưởng:
Phó Viện trưởng phụ trách kinh tế: Giúp Viện trưởng điều hành công tác
tài chính, công nghệ thông tin; quản lý điều hành xe ô tô, công tác bảo vệ
thường trực; tổ chức phục vụ hội nghị, công tác hành chính lễ tân,…
Phó Viện trưởng phụ trách chuyên môn: Giúp Viện trưởng điều hành
công tác chuyên môn về chỉ đạo tuyến, phòng chống dịch, đào tạo và công tác
khám chữa bệnh.
Tình hình nhân lực của VSR- KST-CT TƯ năm 2018.
Phân loại cán bộ - viên chức Biên chế Hợp đồng
- Phó Giáo sư, tiến sĩ, Tổng số 21 21
chuyên khoa II
- Thạc sĩ, chuyên khoa I 44 44
- Đại học 104 103 1
- Cao đẳng 20 20
- Trung cấp 47 43 4
- Cán bộ y tế khác 24 9 15
Tổng cộng 260 240 20
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2018 của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung ương
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương
2.2.1. Hiện trạng tài sản công
VSR- KST-CT TƯ là viện đầu ngành về phòng chống các bệnh về côn
trùng và ký sinh trùng. Là đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế, nên
cơ cấu tài sản của đơn vị mang tính đặc thù là những máy móc, thiết bị y tế
34
phục vụ nghiên cứu và chăm sóc sức khỏe người dân. Đặc điểm của những
loại tài sản này là những thiết bị mang tính hiện đại để có thể đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu khám chữa bệnh, xu hướng xã hội hóa ngành y tế.
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tài sản công của Viện thời điểm 31/12/2018
Nguồn: Báo cáo tài sản năm 2018 của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương
Tính đến 31/12/2018, TSC của VSR- KST-CT TƯ có giá trị 554.861
triệu đồng. Trong đó tài sản hữu hình là 265.207 triệu đồng chiếm 48%, tài
sản vô hình là 289.654 triệu đồng chiếm 52% bao gồm quyền sử dụng đất là
chủ yếu và phần mềm quản lý chiếm tỷ trọng nhỏ (288 triệu đồng).
35
Bảng 2.1: Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của Viện giai đoạn 2014-2018
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
STT
Chỉ tiêu
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
1
Nhà cửa, vật kiến trúc
144.616
70,02%
145.516
64,41%
145.676
62,20%
162.509
60,87%
162.715
61,49%
2
Máy móc, thiết bị
58.218
28,19%
75.828
33,57%
83.012
35,44%
98.309
36,82%
96.429
36,44%
3
Phương tiện vận tải
1.992
0,96%
1.992
0,88%
1.992
0,85%
1.314
0,49%
740
0,28%
4
Thiết bị dụng cụ quản lý
1.722
0,83%
2.576
1,14%
3.532
1,51%
4.862
1,82%
4.749
1,79%
Tổng cộng
206.548
100%
225.912
100%
234.212
100%
266.994
100%
264.633
100%
Nguồn: Báo cáo tăng giảm tài sản hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
36
Đối với tài sản là đất, trụ sở làm việc, VSR- KST-CT TƯ có 2 cơ sở. Cơ
sở 1 có diện tích 20.514 m2 tại địa chỉ số 245 Lương Thế Vinh, Phường Trung
Văn, Quận Nam Từ Liêm, Hà nội. Toàn bộ diện tích này đã có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Diện tích này được sử dụng vào mục đích xây dựng trụ sở
làm việc và các công trình kiến trúc khác bao gồm 09 khu nhà là nơi nhà làm
việc của các phòng chức năng và các khoa chuyên môn, khu nhà Trường cao
đẳng Đặng Văn Ngữ là nơi đào tạo sinh viên, khu nhà khám chữa bệnh để khám
và điều trị cho bệnh nhân và các khu nhà 2 tầng phục vụ chuyên môn khác như:
nhà kho, nhà nuôi côn trùng, nhà nuôi súc vật…Ngoài hai tòa nhà được xây
dựng đầu tư mới từ năm 2014-2017 là tòa nhà làm việc của các phòng chức năng
và tòa nhà phục vụ khám chữa bệnh, còn lại các khu nhà của Viện là nhà 2 tầng
được xây dựng từ những năm 1990 nên hầu như đã xuống cấp.
Cơ sở 2 của Viện có diện tích 5.338.m2 - tại thôn Yên Thái, xã Đông
Yên, Quốc Oai, Hà Nội. Đây là khu nhà cấp IV dùng để làm kho bảo quản
hóa chất. Diện tích này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nhóm tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc: chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản
cố định hữu hình. Do phần lớn các khu làm việc là nhà cấp III, cấp IV được xây
dựng vào những năm của thập kỷ 90 nên về giá trị đã hao mòn gần hết và hiện
trạng sử dụng đã xuống cấp. Sau khi tòa nhà làm việc được đầu tư, xây mới và
đưa vào sử dụng vào năm 2014, Viện tiếp tục tiến hành sửa chữa, nâng cấp và
xây mới một số hạng mục, công trình khác. Đặc biệt là khu nhà Khám chữa bệnh
được đưa vào sử dụng làm giá trị của nhóm tài sản này tiếp tục tăng lên đạt
162.715 triệu đồng vào năm 2018. Mặc dù, nhóm tài sản này có tăng về giá trị
qua các năm nhưng tỷ trọng của khối tài sản này không tăng mà thậm chí còn
giảm (từ 74,02% xuống còn 61,49%) là do cùng với sự đầu tư về cơ sở hạ tầng,
là sự đầu tư đồng bộ về máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại để mở rộng, nâng
cao chất lượng khám và điều trị của khoa khám bệnh chuyên ngành.
Nhóm tài sản là máy móc thiết bị y tế: giá trị của khối tài sản này tăng
đều qua các năm, đạt giá trị từ 58.218 triệu đồng chiếm 28,19 % (năm 2014)
37
tăng lên 96.429 triệu đồng chiếm 36,44% (năm 2018) trong tổng số tài sản cố
định hữu hình. Năm 2015, sau khi Viện đưa tòa nhà làm việc của các phòng
chức năng và các khoa chuyên môn vào khai thác sử dụng với các phòng làm
việc và phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO thì giá trị máy móc thiết bị y tế
tăng 17.610 triệu đồng làm tổng giá trị máy móc thiết bị đạt 75.828 triệu
đồng.Với mục đích mở rộng và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh phục vụ
nhân dân, Viện tiếp tục đầu tư và mua sắm trang thiết bị máy móc trong
những năm tiếp theo. Đến năm 2017, tòa nhà 5 tầng phục vụ việc khám chữa
bệnh được đưa vào sử dụng. Do đó, giá trị tài sản là máy móc thiết bị tiếp tục
tăng với giá trị 15.297 triệu đồng làm tăng tổng giá trị lên 98.309 triệu đồng.
Đến năm 2018, giá trị khối tài sản này là 96.429 triệu đồng chiếm 36,44%. Có
sự giảm về giá trị và tỷ trọng là do nhiều máy móc thiết bị y tế đều đã cũ kỹ,
lạc hậu, phần lớn đều đã hết hao mòn, hỏng hóc và được thay thế sửa chữa
nhiều lần. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng không cao nên đã được thanh lý.
Nhóm tài sản là phương tiện vận tải: số tài sản này chiếm tỷ trọng rất
nhỏ, khoảng 0,5% tổng giá trị tài sản hữu hình và không có sự biến động
nhiều qua các năm. Hiện có 02 xe 7 chỗ phục vụ công tác chung. Các xe này
đều sản xuất năm 1995 và đã hao mòn hết giá trị.
Nhóm tài sản là thiết bị dụng cụ quản lý: cũng không có nhiều biến động
và chiếm tỷ trọng không lớn, dưới 1%. Số tài sản này chủ yếu là hệ thống
điều hòa, máy tính, máy in, máy động lực và các loại máy móc thiết bị khác…
2.2.2. Tình hình quản lý trong quá trình hình thành tài sản
2.2.2.1. Lập kế hoạch về đầu tư XDCB, mua sắm tài sản công
Công tác lập kế hoạch là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý
sử dụng tài sản vì nó là công tác khởi đầu khi tài sản được sử dụng tại đơn vị.
Công tác này có đúng và chính xác thì sẽ góp phần tiết kiệm ngân sách cho
nhà nước là rất lớn.
Nhìn chung, đây là nội dung quan trọng trong công tác quản lý sử dụng
tài sản vì nó là công tác khởi đầu khi tài sản được sử dụng tại đơn vị. Những
38
quyết định ban đầu có đúng đắn thì sẽ góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước.
Nếu quản lý công tác này không tốt, không có sự phân tích kỹ lưỡng trong
việc lựa chọn phương án mua sắm sẽ làm cho tài sản không phát huy được tác
dụng để phục vụ quá trình hoạt động của đơn vị có hiệu quả.
Hàng năm, việc lập dự toán đầu tư XDCB và mua sắm TSC được thực
hiện như sau:
- Về đầu tư XDCB: Phòng Hành chính quản trị lập danh mục đầu tư
XDCB, tính toán và dự kiến kinh phí đầu tư XDCB.
- Về mua sắm tài sản công: Các khoa chuyên môn và ban phòng chức
năng lập danh sách nhu cầu về số lượng, chủng loại, yêu cầu kỹ thuật của máy
móc thiết bị, sau đó gửi cho phòng Kế hoạch tổng hợp để lập dự toán chi tiết
cho từng loại tài sản.
Ngoài ra, việc xây dựng danh mục đầu tư XDCB, mua sắm TSC còn phải
dựa trên các tiêu chuẩn, định mức căn cứ vào Quyết định số 50/2017/QĐ-TTg
ngày 31/12/2017 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử
dụng máy móc, thiết bị, Nghị định số 152/2017/NĐ-CP ngày 27/12/2017 của
chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức trụ sở làm việc.
Dựa vào nguồn ngân sách được cấp trên giao, Phòng kế hoạch tổng hợp
sẽ xác định những danh mục đầu tư XDCB, tài sản cần ưu tiên mua sắm, lập
dự toán ngân sách (bao gồm giá trị tài sản, số lượng tài sản và các chi phí
khác có liên quan). Sau khi lãnh đạo Viện ký duyệt, hồ sơ được gửi đến Vụ
Kế hoạch tài chính- Bộ y tế phê duyệt.
Trường hợp mua sắm chưa có trong kế hoạch dự toán hàng năm sẽ phải
trình lãnh đạo cấp trên theo phân cấp quản lý là Bộ y tế để xin chủ trương và
phê duyệt bổ sung dự toán mua sắm theo quy định.
Việc mua sắm TSC cũng phải thực hiện nghiêm túc theo quy Luật đấu
thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 của Quốc hội 13, Nghị định số
63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.Việc mua sắm tài sản do Phòng
39
kế hoạch tổng hợp đảm nhiệm. Căn cứ vào kế hoạch mua sắm tài sản đã được
duyệt, Phòng kế hoạch tổng sẽ áp dụng các hình thức mua sắm theo quy định:
xây dựng kế hoạch đấu thầu, tổ chức đầu thầu hoặc chỉ định thầu, thương thảo
ký kết hợp đồng kinh tế.
2.2.2.2. Tình hình phân bổ ngân sách cho đầu tư, mua sắm tài sản công
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương có chức năng chính
là nghiên cứu khoa học và chỉ đạo tuyến trong việc phòng chống bệnh sốt rét
và các bệnh về ký sinh trùng. Tuy nhiên, những năm gần đây, để bắt kịp xu
hướng phát triển và yêu cầu ngày càng cao của xã hội, dần hướng đến việc
nâng cao đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của dân nhân, Viện đã tiến hành
đầu tư XDCB, mua sắm trang thiết bị hiện đại với số lượng lớn. Vì vậy nguồn
vốn NSNN đầu tư cho Viện tăng trong những năm qua.
Biểu đồ 2.2: Nguồn vốn NSNN giai đoạn 2014-2018
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung ương
40
Qua biểu đồ trên ta thấy tổng nguồn vốn cho hoạt động đầu tư XDCB,
mua sắm, sửa chữa TSC ổn định qua các năm. Năm 2014, tổng nguồn vốn là
20.595 triệu đồng, đến năm 2018 là 23.705 triệu đồng, tăng 3.110 triệu đồng.
Biểu đồ 2.3: Nguồn vốn đầu tư phát triển sự nghiệp giai đoạn 2014-2018
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung ương
Qua biểu đồ cho thấy, tình hình sử dụng nguồn vốn từ quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp tăng qua các năm, đặc biệt vào năm 2018 đạt 1.903 triệu
đồng. Như vậy, ngoài việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, Viện đã dần
chủ động trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính khác.
41
Biểu đồ 2.4 Biểu đồ so sánh cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 2014-2018
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung ương
VSR- KST-CT TƯ là ĐVSN công lập trong ngành y tế (đơn vị dự toán
cấp II) nên nguồn thu tại Viện chủ yếu là từ Ngân sách Nhà nước. Còn lại là
nguồn vốn viện trợ, tài trợ nước ngoài, chiếm khoảng 1%. Đây là khoản kinh
phí nhà tài trợ nước ngoài cho phép Viện mua một số máy móc, thiết bị để
thực hiện đề tài, dự án hoặc Viện nhận trực tiếp viện trợ bằng hàng. Ngoài ra,
Viện còn sử dụng nguồn kinh phí phát triển hoạt động sự nghiệp cho việc sửa
chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn này tăng đều qua các năm, chiếm tỷ
trọng từ 1,71% tăng lên 4,36% vào năm 2018 cho thấy Viện đã chủ động
trong việc sử dụng các nguồn vốn khác nhau chứ không bị động phụ thuộc
vào nguồn ngân sách nhà nước cấp.
42
Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn cho đầu tư XDCB, nâng cấp và sửa chữa cơ sở hạ tầng giai đoạn 2014-2018
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
STT
Chỉ tiêu
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
1
Nguồn kinh phí
15.833
100%
22.103
100%
15.628
100%
19.928
19.024
100%
100%
Chi thường xuyên
689
4,35%
475
2,15%
610
3,90%
968
1.231
4,86%
6,47%
Chi không thường xuyên
14.785
93,38%
21.160
95,73%
14.410
92,21%
18.790
94,29%
16.700
87,78%
Quỹ phát triển hoạt động SN
359
2,27%
468
2,12%
608
3,89%
170
1.093
0,85%
5,75%
2
Tình hình sử dụng
100%
100%
100%
100%
100%
94,29%
87,78%
Đầu tư, xây mới
93,38%
95,73%
92,21%
15.833 14.785 1.048
22.103 21.160 943
15.628 14.410 1.218
19.928 18.790 1.138
19.024 16.700 2.324
5,71%
12,22%
7,79%
6,62%
4,27%
Nâng cấp, sửa chữa Nguồn: Báo cáo tài chính hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
Qua số liệu được thể hiện ở bảng 2.2 ta thấy: Nguồn ngân sách nhà nước cấp hàng năm chủ yếu là dành cho đầu tư XDCB.
Nguồn ngân sách chi không thường xuyên được sử dụng để đầu tư mới các công trình XDCB. Nguồn chi không thường xuyên
chiểm tỷ trọng lớn, từ 87,78% đến 95,73%. Còn lại nguồn chi thường xuyên chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ từ 2,15% đến 6,47% và
43
nguồn quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp chiếm từ 0% đến 5,57% dùng để chi cho việc nâng cấp, sửa chữa cơ sở hạ tầng.
2.2.2.3. Tình hình đầu tư XDCB, mua sắm tài sản công
Bảng 2.3: Tình hình đầu tư XDCB, mua sắm TSC giai đoạn 2014-2018
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
STT
Chỉ tiêu
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
Giá trị Tỷ trọng
1
Nhà cửa, vật kiến trúc
131.177
91,93%
900
4,39%
200
1,67%
20.746
54,25%
1.037
20,34%
2
Máy móc, thiết bị
9.121
6,39%
17.877
87,17%
10.218
85,41%
15.551
40,67%
3.668
71,95%
3
Phương tiện vận tải
0
0,00%
0
0,00%
0
0,00%
0
0,00%
0
0,00%
4
Thiết bị dụng cụ quản lý
2.389
1,67%
1.731
8,44%
1.546
12,92%
1.942
5,08%
393
7,71%
Tổng cộng
142.687
100%
20.508
100%
11.964
100%
38.239
100%
5.098
100%
Nguồn: Báo cáo tăng giảm tài sản hằng năm của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
44
- Về công tác xây dựng cơ bản đã thực hiện
Năm 2014, giá trị quyết toán công trình tòa nhà làm việc 11 tầng của các
phòng chức năng và khoa chuyên môn là 131.177 triệu đồng, chiếm 91,93 %
tổng số tài sản tăng trong năm.
Năm 2015, Viện tiếp tục đầu tư xây mới tòa nhà 5 tầng dùng để khám và
chữa bệnh. Mặc dù nguồn kinh phí cho đầu tư XDCB ổn định qua các năm
nhưng giá trị của công trình XDCB tăng không lớn, 900 triệu đồng là do các
công trình có nhiều hạng mục, giá trị từng hạng mục chỉ được quyết toán giữa
chủ đầu tư và nhà thầu. Sau khi tổng giá trị quyết toán công trình hoàn thành
đưa vào sử dụng được Bộ y tế phê duyệt Viện mới tiến hành ghi tăng giá trị
tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc…Vì vậy giá trị tăng trong hai năm này chủ
yếu là do các hạng mục sửa chữa, nâng cấp tường rào, sân vườn và các hạng
mục khác.
Năm 2016, giá trị đầu tư XDCB tăng 200 triệu là do sửa chữa, nâng cấp
cơ sở hạ tầng. Một số hạng mục sửa chữa được thực hiện trong hai năm 2016
và 2017 nên chưa được quyết toán.
Năm 2017, sau 3 năm đầu tư xây dựng, tòa nhà 5 tầng dùng để khám và
chữa bệnh và các hạng mục công trình khác đã hoàn thành và được quyết toán
với tổng giá trị 20.476 triệu đồng. Để thực hiện đề án thành lập Bệnh viện
Đặng Văn Ngữ và trường Cao đẳng y tế Đặng Văn Ngữ, Viện tiếp tục đầu tư
xây mới tòa nhà 7 tầng phục vụ khám chữa bệnh và tòa nhà giảng đường 3
tầng phục vụ công tác giảng dạy.
Năm 2018, giá trị đầu tư XDCB tăng 1.307 triệu đồng là do giá trị sửa
chữa, nâng cấp khu ký túc xá cho học sinh, sinh viên.
Như vậy, trong giai đoạn 2014- 2018, có thể thấy Viện đã chú trọng việc
đầu tư xây mới, nâng cấp và sửa chữa nhiều hạng mục công trình đáp ứng
được yêu cầu về tiến độ, đảm bảo chất lượng, quy mô và công năng sử dụng.
45
Năm tòa nhà được đầu tư xây mới, bốn tòa nhà được hoàn thiện đưa vào sử
dụng đã đáp ứng được yêu cầu hoạt động cũng như yêu cầu phát triển của
Viện trong giai đoạn 2020-2025.
Khi dự án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, vật kiến trúc… hoàn thành
đưa vào sử dụng, Ban quản lý dự án có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán
vốn đầu tư gửi Vụ kế hoạch tài chính - Bộ y tế thẩm định, phê duyệt quyết
toán công trình. Việc quyết toán vốn đầu tư dự án là việc tập hợp toàn bộ các
khoản chi phí hợp lệ, hợp pháp nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư và các
bản thuyết minh báo cáo của dự án được tổng hợp trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt, nhằm phản ánh tình hình vốn NSNN được đầu tư thực tế vào công
trình, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư.
Việc đầu tư XDCB được thực hiện trên cơ sở kế hoạch và dự án được
duyệt, sử dụng vốn đầu tư XDCB đảm bảo đúng mục đích. Do chi phí rất lớn
và tồn tại nhiều năm, ảnh hưởng lớn đến cảnh quan chung, không thể chốc lát
phá dỡ, di dời, cho nên để đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả việc xây dựng công
trình phải theo thiết kế; bảo đảm mỹ quan công trình, bảo vệ môi trường. Việc
đầu tư XDCB được quản lý chặt chẽ cả về chất lượng, tiến độ, an toàn lao
động, hiệu quả sử dụng vốn, chống lãng phí, thất thoát và các tiêu cực khác
trong xây dựng, cả về trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng, từ khâu chuẩn bị đầu
tư, thực hiện đầu tư đến khâu kết thúc đầu tư.
Sau khi lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư gửi Vụ kế hoạch tài chính- Bộ
y tế thẩm định, phê duyệt quyết toán công trình, phòng Tài chính kế toán mới
ghi tăng giá trị tài sản. Vì vậy, một số công trình thực tế đã được đưa vào khai
thác sử dụng nhưng năm sau mới được ghi tăng trong sổ sách.
- Về việc đầu tư, mua sắm tài sản khác
Để thực hiện đề án thành lập Bệnh viện Đặng Văn Ngữ và trường Cao
đẳng y tế Đặng Văn Ngữ, cùng với việc mở rộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, số
46
lượng và giá trị máy móc, thiết bị y tế trong 3 năm 2015 là: 17.877 triệu đồng,
năm 2016 là 10.218 triệu đồng và 2017 là 15.551 triệu đồng nâng tổng giá trị
của nhóm tài sản này lên 96.429 triệu đồng vào năm 2018. Với tài sản là
phương tiện vận tải, Viện không đầu tư mua mới trong các năm qua vì số
lượng xe đã đáp ứng đủ theo tiêu chuẩn sử dụng xe công. Với tài sản là thiết
bị quản lý, giá trị tài sản được đầu tư mua mới chủ yếu là thiết bị văn phòng
như điều hòa, bàn ghế, tủ tài liệu được trang bị đồng bộ khi các tòa nhà làm
việc được đưa vào khai thác, sử dụng.
Đối với việc mua sắm tài sản công: Việc quyết định danh mục và số
lượng mua sắm tài sản được tuân thủ theo đúng Quyết định số 50/2017/QĐ-
TTg ngày 31/12/2017 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu chuẩn, định
mức sử dụng máy móc, thiết bị. Quy trình mua sắm tài sản được thực hiện theo
Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 của Quốc hội 13; Nghị định số
63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu; Thông tư số 58/2016/TT-BTC ngày
29/3/2016 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm tài
sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan Nhà nước bằng vốn Nhà
nước, các văn bản của Bộ Y tế và hướng dẫn tài chính của Viện.
Trước hết, Viện sẽ thành lập tổ đấu thầu, trong đó bao gồm đại diện lãnh
đạo các Phòng Kế hoạch tổng hợp, Hành chính quản trị, Tổ chức cán bộ và
Tài chính kế toán. Khi mua sắm TSCĐ bằng các nguồn vốn này đều phải
được chấp hành theo đúng dự toán được Bộ Y tế đã duyệt.
Sau khi dự toán chi về mua sắm tài sản được Bộ y tế phê duyệt, việc mua
sắm tài sản được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào đặc
điểm, tính chất của tài sản và yêu cầu quản lý của nhà nước trong từng thời
kỳ. Các hình thức mua sắm tài sản hiện nay gồm:
* Mua sắm tài sản thông qua đấu thầu gồm 2 loại:
47
- Đấu thầu rộng rãi
- Đấu thầu hạn chế
* Mua sắm không phải đấu thầu gồm:
- Chào hàng cạnh tranh
- Mua sắm trực tiếp
- Chỉ định thầu
2.2.3. Quản lý quá trình sử dụng tài sản công
2.2.3.1. Ghi sổ và báo cáo tình hình biến động tài sản
Các đơn vị ĐVSN công lập được giao trực tiếp sử dụng tài sản là nhà,
đất, các công trình xây dựng khác gắn liền với đất, phương tiện vận tải và các
tài sản khác theo quy định của Nhà nước phải đăng ký; có trách nhiệm thực
hiện việc đăng ký, sử dụng tài sản với cơ quan có chức năng quản lý tài sản
theo quy định hiện hành, ngay sau khi hoàn thành việc đầu tư XDCB, mua
sắm tài sản hoặc tiếp nhận tài sản để đưa vào sử dụng. Hàng năm,Viện lập
báo cáo tình hình tăng giảm đối với tài sản là nhà, đất, các công trình xây
dựng khác gắn liền với đất, phương tiện vận tải và các loại tài sản khác có giá
trị trên 500 triệu đồng gửi đơn vị chủ quản là Vụ kế hoạch tài chính - Bộ Y tế.
Việc quản lý TSC được phân loại thống kê và đánh mã số theo nhóm,
chủng loại tài sản. Mã số tài sản sẽ được dán vào tài sản và ghi vào hồ sơ, sổ
theo dõi tải sản cố định của đơn vị. Việc ghi tăng, ghi giảm tài sản phải có
chứng từ theo quy định hiện hành.
Thứ hai, việc điều chuyển tài sản giữa các đơn vị sử dụng phải có quyết
định của Viện trưởng và có biên bản bàn giao tài sản do phòng Kế hoạch tổng
hợp lập và được lưu tại, phòng Kế hoạch tổng hợp, Phòng Tài chính kế toán
và tại các đơn vị quản lý sử dụng có tài sản điều chuyển đi và điều chuyển
đến, là cơ sở để phòng Phòng Tài chính kế toán ghi tăng, ghi giảm tài sản
tương ứng trong biên bản kiểm kê.
48
Thứ ba, hồ sơ quản lý tài sản gồm:
- Quyết định giao nhận tài sản cho đơn vị sử dụng;
- Hóa đơn tài chính + hợp đồng
- Biên bản giao nhận tài sản;
- Các hồ sơ khác liên quan như: Hồ sơ tăng, giảm tài sản;
- Sổ theo dõi tài sản;
- Báo cáo tổng hợp tình hình tăng giảm tài sản.
2.2.3.2. Xây dựng và ban hành nội quy, quy chế quản lý, sử dụng tài sản công
Để quản lý, sử dụng số lượng và giá trị một cách có hiệu quả, Viện đã
ban hành Quy chế quản lý và sử dụng TSC theo quyết định số 1278/ QĐ -
VSR ngày 21/6/2017 của Viện trưởng VSR- KST-CT TƯ đảm bảo các yêu
cầu sau:
Thứ nhất, tất cả các loại TSC do VSR- KST-CT TƯ quản lý và sử dụng
được quản lý tập trung, thống nhất và phân công, phân cấp cho các Khoa,
Phòng, Trường, Trung tâm, cá nhân quản lý. Tổ chức hệ thống sổ sách theo
dõi chặt chẽ, định kỳ, được tổ chức kiểm kê vào 0h ngày 01 tháng 01 hàng
năm theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, sử dụng tài sản đúng mục đích, tiêu chuẩn định mức, chế độ,
đảm bảo công bằng, hiệu quả và tiết kiệm.
Thứ ba, tài sản thuộc phạm vi của Viện quản lý được giao cụ thể đến
từng Khoa, Phòng, Trường, Trung tâm, cá nhân chịu trách nhiệm quản lý.
Việc giao, nhận tài sản do Viện trưởng ký quyết định và khi bàn giao thực tế
phải có biên bản giao, nhận theo mẫu quy định.
Thứ tư, thực hiện việc bàn giao tài sản theo quy định khi có sự thay đổi
về nhân sự đối với chức danh lãnh đạo của Viện và của Khoa, Phòng, Trường,
Trung tâm.
Thứ năm, tài sản được giữ gìn, bảo quản, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa và
bảo vệ theo chế độ quy định của Nhà nước và theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
49
Thứ sáu, việc quản lý, sử dụng tài sản được thực hiện công khai, minh
bạch. Mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước được xử
lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Thứ bảy, hồ sơ tài sản được bảo quản và lưu trữ theo quy định. Trường
hợp để xảy ra mất mát, hư hỏng do lỗi khoa, phòng, cá nhân được giao quản
lý, sử dụng phải bồi thường và xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân.
50
2.2.3.3. Mức độ đáp ứng nhu cầu máy móc thiết bị
Bảng 2.4: Số lượng tài sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của Viện năm 2018 Số lượng (chiếc) STT Nội dung
Xe ô tô 1 2
Máy tính để bàn 2 208
Máy tính xách tay 3 48
Máy in 4 60
Máy fax 5 3
Máy photo 6 19
Bàn làm việc theo chức danh 7 17
Máy điều hòa 8 189
Máy chiếu 9 37
Tủ lạnh 10 37
Máy giặt 11 4
Thiết bị thông tin liên lạc 12 5
Bàn làm việc 13 234
Tủ tài liệu 14 83
15 167 Máy móc thiết bị y tế
Tổng hợp số liệu từ sổ tài sản cố định của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung ương năm 2018
Đối với phương tiện vận tải, Viện được trang bị 02 xe ô tô dùng cho
phục vụ công tác chung.
Đối với tài sản là thiết bị văn phòng, mỗi khoa phòng được trang bị 01
máy chiếu được lắp đặt tại phòng họp của đơn vị; 01 máy photocopy. Mỗi cán
bộ từ cấp phó phòng trở lên được trang bị 01 máy tính xách tay và cấp trưởng
phòng trở lên được trang bị 01 bàn làm việc theo chức danh. Số lượng máy
51
tính để bàn là 208 và 60 máy in, 234 bàn làm việc, 83 tủ tài liệu trên tổng số
260 cán bộ.
2.2.3.4. Công tác kiểm kê
Định kỳ hàng năm, phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Tài chính kế toán
phối hợp tiến hành kiểm kê một lần vào thời điểm 0h ngày 1 tháng 1 hàng
năm để xác định rõ số lượng tài sản, trang thiết bị thuộc phạm vi quản lý.
Phương pháp kiểm kê là thống kê đo đếm, căn cứ dựa trên kết quả kiểm kê
của năm trước đã đối chiếu với sổ sách kế toán và so sánh với kết quả kiểm kê
thực tế ở từng khoa phòng, cá nhân đang sử dụng.
Công tác kiểm kê diễn ra như sau:
Cuối niên độ kế toán, Viện trưởng quyết định thành lập hội đồng kiểm
kê tài sản. Hội đồng kiểm kê gồm có:
- Chủ tịch Hội đồng kiểm kê: Viện trưởng
- Phó chủ tịch Hội đồng: Phó Viện trưởng phụ trách kinh tế
- Các thành viên bao gồm:
+ Kế toán trưởng
+ Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp
+ Trưởng phòng Hành chính quản trị
+ Trưởng phòng Tổ chức cán bộ
+ Trưởng ban thanh tra nhân dân
+ Các cán bộ theo dõi tài sản phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Tài chính
kế toán
Công tác kiểm kê tài sản thực hiện theo qui định hiện hành. Các thành
viên trong Hội đồng kiểm kê tới từng phòng làm việc của các đơn vị sử dụng
kiểm kê thực tế và tiến hành dán tem kiểm kê lên từng tài sản. Phòng Tài
chính kế toán sẽ tập hợp biên bản kiểm kê của các khoa, phòng, trường, Trung
tâm và lập báo cáo kiểm kê tổng hợp và trình lãnh đạo Viện. Căn cứ vào báo
52
cáo, nếu có sự chênh lệch giữa thực tế kiểm kê và sổ sách ghi chép thì sẽ tìm
nguyên nhân để xử lý.
Tuy nhiên thực tế do đặc thù tài sản với số lượng lớn và đa dạng về
chủng loại nên công tác kiểm kê gặp rất nhiều khó khăn. Hội đồng kiểm kê
hầu như chỉ căn cứ vào báo cáo của các cán bộ trực tiếp kiểm kê và bộ phận
phụ trách quản lý tài sản.
Công tác kiểm kê tài sản được thực hiện định kỳ hàng năm khi kết thúc
năm tài chính. Tuy nhiên công tác kiểm kê chỉ dừng lại ở việc đo đếm tài sản
về số lượng mà chưa đánh giá được thực trạng, cơ cấu, các nguồn vốn hình
thành tài sản do đơn vị đang quản lý, sử dụng.
2.2.3.5. Quản lý quá trình nâng cấp, sửa chữa tài sản công
Trong quá trình sử dụng tài sản, các máy móc thiết bị của Viện được
thực hiện bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định
mức kinh tế - kỹ thuật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc
theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Đối với tài sản thiết bị chuyên dùng chưa
có chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa thì
lãnh đạo trực tiếp sử dụng tài sản đề xuất chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế
- kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa tài sản Nhà nước thuộc phạm vi quản lý và
trình Viện trưởng xem xét.
Khi tài sản cố định bị hỏng phải bảo dưỡng, sửa chữa thì lãnh đạo các
khoa, phòng, Trường, Trung tâm quản lý, sử dụng tài sản đó có trách nhiệm
báo cáo về các phòng chức năng để có kế hoạch sửa chữa.
Phòng Kế hoạch tổng hợp phụ trách việc sửa chữa, bảo trì những máy
móc, thiết bị y tế.
Phòng Hành chính quản trị có chức năng tham mưu lãnh đạo Viện trong
công tác quy hoạch: Lập kế hoạch đầu tư và quản lý, theo dõi các công trình
XDCB, quản lý sử dụng cơ sở vật chất trong cơ quan; quản lý và giám sát việc
53
sữa chữa thường xuyên các công trình nhà cửa - vật kiến trúc, hệ thống điện -
nước - điện thoại, thang máy; quản lý các phòng làm việc dùng chung, phục vụ
các nhu cầu quản lý và điều hành phương tiện vận tải. Việc sửa chữa, bảo trì
những tài sản này do phòng Hành chính quản trị đảm nhiệm.
Việc sử dụng đúng mục đích và tiến hành duy tu, sửa chữa định kỳ giúp
làm tăng độ bền của các máy móc thiết bị có tần suất sử dụng lớn. Đồng thời
giúp tiết kiệm năng lượng. Kinh phí bảo dưỡng, sửa chữa tài sản được thanh
toán từ nguồn kinh phí theo kế hoạch (dự toán NSNN giao từ đầu năm).
Tuy nhiên, do nguồn kinh phí hạn chế nên việc bảo dưỡng định kỳ còn hạn
chế. Đặc biệt, chỉ được thực hiện ở nhóm tài sản là nhà cửa, thiết bị vận tải, máy
điều hòa mà chưa chú trọng đối với nhóm tài sản là máy móc thiết bị y tế.
2.2.4. Quản lý trong quá trình tính hao mòn và thanh lý tài sản
2.2.4.1. Tỷ lệ hao mòn tài sản cố định
Thời gian sử dụng và tỷ lệ hao mòn tài sản cố định hữu hình thực hiện
theo quy định tại Phụ lục số 01 ban hành kèm theo Thông tư số 45/2018/TT-
BTC ngày 07/5/2018 của Bộ Tài chính quy định chế độ quản lý, tính hao
mòn, khấu hao TSCĐ.
Do Viện là ĐVSN công lập có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường
xuyên ở mức 25%, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp, nên nguồn
kinh phí đầu tư, mua sắm tài sản chủ yếu là nguồn ngân sách Nhà nước. Vì
vậy, tài sản tại Viện chỉ được tính hao mòn theo từng năm mà không áp dụng
hình thức tính khấu hao.
2.2.4.2. Tình hình thanh lý tài sản cố định
Cuối năm, phòng Tài chính kế toán thực hiện tính hao mòn tài sản cố định
theo tỷ lệ quy định; đối với tài sản cố định tính hao mòn hết giá trị nhưng vẫn
còn sử dụng được, đơn vị vẫn tiếp tục quản lý theo quy định của pháp luật.
54
Tài sản sau quá trình sử dụng hết hao mòn, bị mất hoặc bị hư hỏng không
khắc phục được nữa được tiến hành thanh lý để loại ra ngoài sổ sách kế toán.
-Về điều kiện để được thanh lý tài sản:
+ Đã sử dụng vượt quá thời gian sử dụng theo chế độ quy định mà không
thể tiếp tục sử dụng.
+ Bị hư hỏng không thể sử dụng được hoặc việc sửa chữa không có hiệu quả.
- Thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản: Viện trưởng ra quyết định
thanh lý đối với những tài sản là máy móc thiết bị có giá trị dưới 500 triệu
đồng. Đối với tài sản là nhà, đất, các công trình xây dựng khác gắn liền với
đất, phương tiện vận tải và các loại tài sản khác có giá trị trên 500 triệu đồng trình
Bộ y tế phê duyệt. Hồ sơ đề nghị thanh lý tài sản lên cơ quan cấp trên gồm:
- Quy trình thanh lý tài sản:
+ Đề xuất của các Khoa, phòng, Trường, Trung tâm
+ Hội đồng thẩm định kiểm tra, xác định hiện trạng tài sản được đề xuất
+ Hội đồng thanh lý dựa trên biên bản thẩm định của tổ thẩm định ra
quyết định danh mục tài sản đủ điều kiện thanh lý.
+ Tiến hành thanh lý theo quy định
Hội đồng thanh lý tài sản sẽ tiến hành tổ chức việc thanh lý tài sản theo
đúng trình tự, thủ tục quy định trong chế độ quản lý tài chính của Nhà nước
và của đơn vị quản lý cấp trên.
Phương thức thanh lý tài sản được đề xuất là hình thức bán đấu giá công
khai trọn gói (gồm máy móc thiết bị và công cụ dụng cụ). Quyết định thanh lý
tài sản và danh mục tài sản thanh lý được thông báo tới từng cá nhân trong cơ
quan thông mạng nội bộ để đảm bảo tính công khai, minh bạch.
55
Bảng 2.5: Tình hình thanh lý tài sản giai đoạn 2014-2018
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 2015
STT Chỉ tiêu Năm 2014 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
1 Nhà cửa, vật kiến trúc - 39 3.913 831
2 Máy móc, thiết bị 567 267 3.034 254 5.548
3 Phương tiện vận tải 678 574
Thiết bị dụng cụ quản
667 877 590 612 506 4 lý
Tổng cộng 1.234 1.144 3.663 5.457 7.459
Nguồn: Báo cáo tài sản của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng
Trung ương
Trong giai đoạn 2014- 2018 tình hình thanh lý tài sản như sau:
Nhóm tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc: Từ năm 2016- 2018 các tòa nhà
cũ được thanh lý để giải phóng mặt bằng nhằm phục công tác đầu tư xây dựng
tòa nhà 5 tầng phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, tòa nhà 3 tầng
là giảng đường của Trường Cao đẳng y tế Đặng Văn Ngữ, tòa nhà kho 2 tầng
có đủ điều kiện đáp ứng việc bảo quản hóa chất, thuốc men, vật tư.
Nhóm máy móc thiết bị y tế: Cùng với việc mở rộng và nâng cao chất
lượng dịch vụ khám chữa bệnh cũng như nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
Viện đã trang bị nhiều máy móc, thiết bị y tế hiện đại. Đặc biệt là khi tòa nhà
5 tầng phục vụ khám chữa bệnh được đưa vào sử dụng, trang thiết bị y tế của
khoa tăng cả về số lượng và giá trị. Vì thế, những máy móc sử dụng đã lâu,
không còn hiệu quả được đề xuất thanh lý.
56
Nhóm phương tiện vận tải: Năm 2017,Viện đã tiến hành thanh lý 02 xe ô
tô 7 chỗ hiệu MITSUBISHI Nhật bản được đưa vào sử dụng năm 1995 trị giá
678 triệu đồng. Năm 2018, Viện tiếp tục thanh lý 02 xe 9 chỗ hiệu NISSAN
Nhật bản sử dụng từ năm 1995 trị giá 574 triệu đồng. 02 xe này được sử dụng
trong nhiều năm, chủ yếu đi đường đèo núi, tiêu hao nhiều nhiên liệu, được
sửa chữa, bảo trì nhiều lần nhưng hiệu quả sử dụng không cao. Theo khuyến
cáo của nhà sản xuất và để đảm bảo tính an toàn, viện đã cho thanh lý số
phương tiện trên.
Nhóm thiết bị dụng cụ quản lý: Từ năm 2014-2018, viện đã thực hiện
đầu tư mua sắm nhiều máy móc thiết bị như máy tính, máy in, bàn làm việc…
đáp ứng nhu nâng cao chất lượng quản lý và điều kiện làm việc của cán bộ
viên chức. Các máy móc, thiết bị đã cũ kỹ, lạc hậu, được sửa chữa nhiều lần
được tiến hành thanh lý. Đồng thời, các tòa nhà được giải phóng mặt bằng
phục vụ các công trình đầu tư XDCB nên một số điều hòa, quạt gió không
còn sử dụng được cũng đã được thanh lý.
57
Bảng 2.6: Số lượng tài sản thanh lý tài sản năm 2018
STT Nội dung Số lượng (chiếc)
1 Nhà cấp III 1
2 Máy tính để bàn 23
3 Máy tính xách tay 2
4 Máy in 7
5 Máy fax 1
6 Máy photo 5
7 Tủ lạnh 2
8 Máy điều hòa 11
9 Máy móc thiết bị y tế 67
10 Thiết bị mạng truyền thông 1
11 Máy móc, thiết bị quản lý khác 12
Nguồn: Báo cáo tài sản năm 2018 của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương
2.3.1. Những kết quả đạt được
Quy mô TSC của Viện những năm qua không ngừng được mở rộng. Do
đó, năng lực khám chữa bệnh, đào tạo chuyên môn và công tác chỉ đạo tuyến
ngày càng được nâng cao, góp phần phát triển lĩnh vực y tế dự phòng.
Trong quá trình thực hiện mua sắm, các khoa, phòng, Trường, Trung tâm
và các bộ phận liên quan đã phối hợp rất chặt chẽ trong việc quản lý hồ sơ
liên quan đến việc hình thành tài sản. Kế hoạch mua sắm được thực hiện đúng
tiến độ, đảm bảo không gây lãng phí ngân sách nhà nước.
Nhìn chung, công tác quản lý mua sắm tài sản của Viện trong những
năm tương đối tốt. Tài sản được quản lý, sử dụng đúng mục đích, không sử
58
dụng tài sản nhà nước để cho thuê, cho mượn hoặc chuyển sang kinh doanh
trái với quy định. Từng bước tăng cường công tác quản lý chặt chẽ nêu cao
tinh thần tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát; sử dụng tài sản có hiệu quả.
Quy trình mua sắm tài sản đảm bảo đúng theo quy định của Nhà nước
(Luật đầu tư, Luật xây dựng, …), áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu để
mua sắm tài sản theo quy định; đối với tài sản phải mua sắm theo hình thức
chào hàng cạnh tranh hoặc đấu thầu thì thủ tục phê duyệt kế hoạch đấu thầu,
xây dựng hồ sơ mời thầu, lựa chọn nhà thầu…đảm bảo theo thẩm quyền quy
định và phân cấp việc mua sắm tài sản đảm bảo yêu cầu thiết thực, hiệu quả
và tiết kiệm
2.3.2. Những hạn chế và tồn tại.
- Trong kế hoạch mua sắm tài sản, VSR-KST-CT TƯ chưa đặt ra được
kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn từ đó có những chiến lược phát triển cụ
thể. Công tác mua sắm còn nhiều bị động, phụ thuộc vào nguồn ngân sách
Nhà nước cấp. Điều này cũng cho thấy trình độ quản lý, lập kế hoạch đơn vị
còn chưa thực sự được quan tâm triệt để.
- Hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC làm căn cứ mua sắm tài
sản chưa đầy đủ. Các tài sản là thiết bị văn phòng như máy vi tính, bàn ghế, tủ
làm việc chưa có quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng cụ thể, dẫn đến việc
mua sắm một số tài sản còn lãng phí và dư thừa so với nhu cầu sử dụng, nhất
là những tài sản phục vụ công tác là thiết bị văn phòng (máy tính, máy in...).
Việc xây dựng, mua sắm tài sản chưa được chú trọng thực hiện đúng theo tiêu
chuẩn, định mức của Nhà nước quy định mà tuỳ thuộc vào khả năng nguồn
kinh phí của đơn vị.
- Do đặc thù tài sản đa dạng về chủng loại nên công tác kiểm kê gặp rất
nhiều khó khăn. Hội đồng kiểm kê hầu như chỉ căn cứ vào báo cáo của tổ kiểm
kê và bộ phận quản lý tài sản để tổng hợp báo cáo. Công tác kiểm kê chỉ dừng
59
lại ở việc đo đếm tài sản về số lượng mà chưa đánh giá được thực trạng, cơ
cấu, các nguồn vốn hình thành tài sản do đơn vị đang quản lý, sử dụng. Công
tác quản lý hồ sơ, lưu trữ từng loại tài sản tại các khoa, phòng, trường, Trung
tâm chưa theo dõi chi tiết lý lịch tài sản, nguồn kinh phí mua sắm và vị trí lắp
đặt tài sản; công tác quản lý và quá trình sử dụng tài sản của một số cá nhân,
bộ phận chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa nắm bắt được tình hình sử
dụng tài sản kịp thời. Do vậy khó khăn trong việc tổng hợp, đánh giá tài sản
để xử lý và mua sắm tài sản mới. Một số tài sản hư hỏng không còn sử dụng
được hoặc nếu có sửa chữa thì chi phí cao mà hiệu quả sử dụng thấp, tài sản
không còn nhu cầu sử dụng, tài sản thu hồi khi tiến hành phá dỡ để xây dựng,
cải tạo, sửa chữa công trình hầu như chưa có báo cáo đánh giá cụ thể về số vật
tư, tài sản thu hồi của từng công trình và lập hồ sơ đề nghị xử lý theo quy
định. Một số tài sản tại các đơn vị đã mất nhưng chưa xác định rõ nguyên
nhân, quy trách nhiệm cá nhân và biện pháp xử lý, đồng thời vẫn được các
đơn vị theo dõi và tính hao mòn trên sổ kế toán.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Viện còn chưa được thường xuyên, chế
tài xử phạt vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản chưa đủ mạnh, trách
nhiệm chưa rõ ràng giữa các chủ thể, dẫn đến sử dụng tài sản còn tuỳ tiện.
Hiện nay do công tác quản lý tài sản tại các đơn vị còn lỏng lẻo, nhiều tài sản
mất nhưng không kiên quyết xử lý vẫn theo dõi trên sổ sách, tài sản các dự án
tài trợ đã kết thúc nhưng không bàn giao, không theo dõi trên sổ sách của đơn
vị, việc sử dụng tài sản còn lãng phí,.. do vậy thời gian tới Viện cần có bộ
phận riêng chuyên theo dõi tình hình quản lý tài sản để có điều kiện tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm minh các sai phạm.
- Hệ thống thông tin phục vụ quản lý TSC tại Viện còn hạn chế, thể hiện
ở nhiều yếu tố, trước hết là không đầy đủ, không đồng bộ, không chính xác và
không kịp thời. Hệ thống cơ sở dữ liệu về TSC còn phân tán; chưa hình thành
60
được một hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung để đáp ứng có hiệu quả các yêu
cầu về số liệu, thông tin cho quá trình quản lý, điều hành cũng như cho công
tác phân tích, dự báo nhu cầu về tài sản. Cơ sở dữ liệu tài sản của viện còn
chưa bao quát được hết các loại tài sản, chưa có thông tin về những tài sản có
giá trị dưới 500 triệu đồng/1đơn vị tài sản, là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn về
số lượng và tổng giá trị trong tổng cơ cấu về tài sản của viện. Vai trò hỗ trợ
của CNTT đối với yêu cầu tăng cường công khai, minh bạch và thúc đẩy trách
nhiệm giải trình trong quản lý, sử dụng TSC trên một số phương diện vẫn còn
hạn chế (ví dụ như về hình thức, phạm vi và thời điểm công khai các số liệu
về tài sản…). Công tác thống kê, báo cáo về TSNN tại các đơn vị dự toán
trực thuộc hầu hết chưa được quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, kịp
thời và còn mang tính hình thức, chưa phản ánh thực tế tình hình quản lý, sử
dụng đảm bảo quy định, dẫn tới thông tin về tài sản không đảm bảo đầy đủ và
chính xác để phục vụ cho công tác quản lý.
- Tài sản chỉ thực hiện việc tính hao mòn hàng năm, mà không được
trích khấu hao tài sản, nên giá trị tài sản không được bảo toàn. Do đó, tài sản
dù được đưa vào sử dụng hay không đưa vào sử dụng thì giá trị tài sản cũng
bị hao mòn theo năm, tháng. Giá trị thu hồi sau thanh lý tài sản thường nhỏ
hơn rất nhiều so với giá trị đầu tư, mua sắm tài sản ban đầu, nên không tái tạo
được tài sản ban đầu. Vì thế, khi đầu tư, mua sắm mới tài sản nhà nước, các
đơn vị đều phải sử dụng bằng nguồn NSNN cấp.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại.
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Viện là ĐVSN công lập có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường
xuyên ở mức 25%, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp, nên nguồn
kinh phí đầu tư, mua sắm tài sản chủ yếu là nguồn ngân sách Nhà nước cấp.
Vì vậy, nguồn vốn đầu tư cho XDCB và mua sắm tài sản công phụ thuộc chủ
61
yếu vào ngân sách này mà chưa khai thác được các nguồn vốn khác như quỹ
đầu tư phát triển sự nghiệp hoặc từ việc liên doanh, liên kết...Việc đẩu tư, sử
dụng tài sản còn quá trông chờ vào ngân sách, chưa thực sự năng động, linh
hoạt trong việc áp dụng các cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực khác
để phát triển TSC. Kinh phí đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản của viện hầu
hết từ ngân sách nhà nước, và kinh phí khác cũng có nguồn gốc ngân sách nhà
nước (từ học phí, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp). Trong khi đó nguồn
lực ngân sách nhà nước có hạn, nguồn thu của viện không nhiều nên hiện nay
số lượng và chất lượng TSC của viện còn chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ được giao.
- Trong nhiều năm, lãnh đạo viện chưa chú trọng công tác quản lý tài sản tại
đơn vị. Quy chế quản lý và sử dụng tài sản kèm theo quyết định số 1278/ QĐ -
VSR ngày 21/6/2017 mới được ban hành năm 2017, chưa xây dựng các tiêu
chuẩn định mức cho các khoa phòng theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể.
- Trình độ cán bộ tham gia công tác quản lý có vai trò rất lớn trong việc
nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản tại đơn vị. Do chưa có bộ máy
quản lý tài sản riêng biệt, cán bộ làm kiêm nhiệm, thường xuyên luân chuyển
công việc nên chất lượng, hiệu quả công tác quản lý tài sản công chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu.Trình độ và ý thức của cán bộ quản lý tại các khoa phòng chưa
cao nên việc bảo quản, sử dụng và quản lý còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý tài
sản ở từng khoa, phòng, trường, Trung tâm hiện nay vẫn còn rất lỏng lẻo. Thực tế
cho thấy, hiệu quả sử dụng của các máy móc thiết bị y tế còn thấp là do trình độ
của bác sỹ, điều dưỡng hay kỹ thuật viên sử dụng thiết bị đó chỉ quan tâm đến việc
khai thác, sử dụng các máy móc thiết bị mà chưa chú trọng đến công tác duy tu,
bảo dưỡng, hiệu kiểm, hiệu chỉnh...Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất
lượng của công tác kiểm kê.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về quản lý, sử dụng TSC của
62
viện còn chưa được quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, đầy đủ.
Trong nhiều năm qua chưa tổ chức thanh tra, kiểm tra chuyên đề về quản lý,
sử dụng TSC. Các vi phạm trong quản lý, sử dụng TSC được phát hiện qua
kiểm tra được xử lý không kiên quyết, không dứt điểm hoặc xử lý còn mang
tính hình thức, hành chính nên không có tác dụng răn đe. Nhận thức về vai
trò, vị trí của công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung và công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quản lý TSC nói riêng còn chưa đầy đủ
- Viện chưa triển khai được các ứng dụng CNTT để nâng cao hiệu quả
công tác. Số liệu về tài sản được tập hợp trên cơ sở báo cáo của các đơn vị sử
dụng tài sản chủ yếu mang tính định tính, tương đối, không đầy đủ các thông
tin về tài sản và chưa được kiểm tra nên viện chưa đánh giá được một cách
đầy đủ,chính xác về số lượng, chất lượng, bản chất của tài sản và sử dụng tài
sản tại từng đơn vị trực tiếp, sử dụng tài sản, do đó công tác quản lý tài sản
hiện nay còn mang nặng tính sự vụ, chưa có điều kiện để thực hiện các biện
pháp quản lý mang tính tổng thể như sắp xếp lại, điều chuyển tài sản một cách
hợp lý hoặc đánh giá được hiệu quả sử dụng tài sản của từng đơn vị trực tiếp
quản lý, sử dụng tài sản. Trong thời gian qua, cùng với việc hoàn thiện tổ
chức, nâng cao năng lực để đảm bảo quản lý TSC đảm bảo tuân thủ các quy
định của Nhà nước, viện đã chú trọng xây dựng hệ thống thông tin, ứng dụng
CNTT phục vụ công tác quản lý, nhiều dự án CNTT phục vụ quản lý tài chính
nói chung và quản lý TSC nói riêng đã xây dựng, triển khai thực hiện tại các
đơn vị dự toán trực tiếp quản lý, sử dụng TSC, nhất là các phần mềm ứng
dụng: Phần mềm kế toán, phần mềm quản lý tài sản, Việc triển khai các dự án
ứng dụng CNTT này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách
hành chính, tăng cường tính công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả, hiệu
lực công tác quản lý TSC. Tuy nhiên, những kết quả này chỉ là bước đầu, việc
63
ứng dụng CNTT trong quản lý tài chính nói chung và quản lý TSC nói riêng
vẫn còn nhiều hạn chế
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Trong giai đoạn 2014 -2018, Nhà nước thay đổi nhiều cơ chế, chính sách
về quản lý đầu tư XDCB và mua sắm tài sản công nhằm thắt chặt chi tiêu
công, giảm lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, trong khi văn bản chỉ đạo của các
cấp còn thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, nhiều văn bản chưa kịp triển khai đã
có văn bản khác thay thế, làm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình quản lý TSC.
Thực tiễn công tác quản lý TSC đã được cụ thể hóa tại Nghị định số
151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Thông tư số 144/2017/TT-BTC ngày
29/12/2017 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung Nghị định số
151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính Phủ; Quyết định số
50/2017/QĐ-TTg ngày 31/12/2017 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu
chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị. Từ đó Nhà nước xây dựng tiêu
chuẩn, định mức: nhà làm việc, phương tiện đi lại, tiêu chuẩn, định mức sử
dụng máy móc, thiết bị trong các ĐVSN công lập.
Bộ Y tế đã thực hiện phân cấp thẩm quyền quyết định mua sắm, sửa
chữa lớn, tài sản từ kinh phí thường xuyên và các quỹ các các đơn vị hành
chính, sự nghiệp trực thuộc Bộ Y tế tại Quyết định số 1232/QĐ-BYT ngày
08/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Bộ Y tế đã thực hiện phân cấp thẩm quyền quyết định thanh lý là nhà
cửa, vật kiến trúc, phương tiện vận tải và máy móc thiết bị có giá trị từ 500
triệu đồng trở lên.
64
Tiểu kết chương 2
Dựa trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp từ các báo cáo tài chính, báo cáo
kê khai tài sản nhà nước hàng năm và nguồn dữ liệu sơ cấp được thu thập
thông qua điều tra khảo sát, sử dụng bảng biểu từ các báo cáo tổng hợp liên
quan đến TSC trong giai đoạn 2014 - 2018 của VSR-KST-CT TƯ để đề cập
đến các nội dung như: Tài sản thuộc phạm vi quản lý của Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương; nguồn kinh phí cho đầu tư XDCB, mua
sắm TSC, tình hình đầu tư xây dựng trụ sở, tình hình mua sắm máy móc, thiết
bị y tế; công tác lập kế hoạch, tổ chức thực hiện việc đầu tư, mua sắm tài sản;
công tác kiểm tra giám sát quản lý TSC.
Từ các số liệu thu thập được, có thể đánh giá một cách khách quan nhất
về thực trạng công tác quản lý TSC tại VSR-KST-CT TƯ giai đoạn 2014-
2018. Đồng thời chỉ ra những điểm hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong
công tác quản lý TSC tại VSR-KST-CT TƯ. Và đây sẽ là căn cứ để tác giả
đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện công tác quản lý TSC tại
VSR-KST-CT TƯ trong phần tiếp theo của luận văn.
65
Chương 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ SÍNH TRÙNG - CÔN
TRÙNG TRUNG ƯƠNG
3.1. Định hướng phát triển và định hướng quản lý tài sản công tại
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
3.1.1. Định hướng phát triển chung của ngành y tế đến năm 2025
Thực hiện chiến lược chăm sóc và nâng cao sức khỏe toàn dân. Ngành y
tế đã được Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2020 - 2025 tại Quyết định số 122/QĐ-
TTg ngày 10/01/2013 trên quan điểm:
Nhà nước thống nhất quản lý vĩ mô, định hướng phát triển sự nghiệp
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân thông qua hệ thống pháp
luật và chính sách; điều tiết, phân bổ nguồn lực; quản lý chất lượng dịch vụ y
tế và giá dịch vụ y tế.
Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong các đơn vị y tế gắn với việc
thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân để nhanh chóng thích ứng với thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động của ngành y tế.
Chiến lược nhằm mục tiêu chung là bảo đảm mọi người dân được hưởng
các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch
vụ y tế có chất lượng. Người dân được sống trong cộng đồng an toàn, phát
triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật, nâng cao thể lực,
tăng tuổi thọ, nâng cao chất lượng dân số.
3.1.2. Định hướng phát triển của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương
Trong quy hoạch tổng thể phát triển VSR-KST-CT TƯ giai đoạn 2020 –
2025, mục tiêu xây dựng Viện trở thành đơn vị đầu ngành về nghiên cứu khoa
66
học, đào tạo, chỉ đạo tuyến và khám, chữa bệnh trong lĩnh vực sốt rét, các
bệnh ký sinh trùng, bệnh do côn trùng truyền và các bệnh nhiệt đới liên quan
đạt trình độ ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân trong thời kỳ mới, hoàn thành
các nhiệm vụ chính trị được Bộ Y tế giao, góp phần bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân.
3.1.3. Định hướng hoàn thiện cơ chế quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai
thực hiện các cơ chế chính sách quản lý tài sản trong đơn vị. Thực hiện việc
giám sát và kiểm soát việc quản lý và sử dụng trên tiêu chí tiết kiệm, chống
lãng phí đối với tài sản sử dụng cho hành chính, quản lý và hiệu quả đối với
tài sản phục vụ cho công tác chuyên môn gắn với trách nhiệm đối với tập thể.
Thực hiện kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất về tình hình quản lý và sử
dụng tài sản tại các đơn vị.
Thực hiện việc theo dõi, quản lý TSC trên cơ sở đăng ký tài sản, kiểm tra
tình trạng tài sản, tính toán mức hao mòn. Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu
phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản.
3.2. Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng tài sản
công tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
3.2.1. Hoàn thiện công tác lập kế hoạch quản lý tài sản công
Tăng cường chủ động, linh hoạt, có các kế hoạch đầu tư, mua sắm tài sản
trong dài, trung và ngắn hạn đảm bảo tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí;
cần chấp hành nghiêm Quy chế quản lý tài sản, Quy chế công khai, minh bạch
tài chính, công khai mua sắm tài sản, phát huy dân chủ của cán bộ, công chức
trong việc giám sát hoạt động đầu tư, mua sắm tài sản.
Trước khi lập dự toán mua sắm tài sản, trang thiết bị làm việc, Viện cần
tổ chức, rà soát, bố trí sắp xếp lại tài sản, trang thiết bị làm việc hiện có tại
67
đơn vị theo tiêu chuẩn, định mức, nhất là các thiết bị tin học, để lập danh mục
mua sắm tài sản và lập dự toán mua sắm đảm bảo sát với thực tế.
Việc xây dựng dự toán mua sắm tài sản được tập trung và đảm bảo theo
tiêu chuẩn, định mức Nhà nước quy định; gắn các khâu quản lý lập dự toán,
thanh quyết toán kinh phí về đầu tư, mua sắm, sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng
tài sản, góp phần nâng cao hiệu quả sau đầu tư, mua sắm.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trong hoạt động đấu thầu mua sắm, đầu
tư xây dựng cơ bản, đẩy nhanh tiến độ quyết toán các dự án, công trình hoàn
thành, nâng cao hiệu quả vốn NSNN.
Do tác động mạnh của nền kinh tế, nên cơ chế quản lý đầu tư, mua sắm
tài sản nhà nước có sự thay đổi thường xuyên. Hơn nữa, sự đa dạng của hoạt
động đầu tư XDCB và sự phức tạp của hồ sơ tài liệu đầu tư, mua sắm tài sản...
Đòi hỏi cán bộ làm công tác quản lý tài sản phải luôn nâng cao năng lực, học
tập, bồi dưỡng cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, về các kỹ năng
quản lý, quy trình quản lý vốn, quản lý dự án, quản lý quá trình mua sắm... Nâng
cao năng lực, trách nhiệm, trình độ quản lý của các tổ chức, cá nhân liên quan
đến việc đề xuất chủ trương đầu tư, mua sắm tài sản; quyết định đầu tư, mua sắm
tài sản; lập, thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án đầu tư, mua sắm...
Trong thời gian tới, Viện cần có quy định cụ thể đối với việc trích lập, sử
dụng các nguồn quỹ ngoài ngân sách cấp hàng năm, Quỹ phát triển hoạt động
sự nghiệp để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của đơn vị.
Bên cạnh đó, viện cũng cần nghiên cứu các cơ chế, chính sách có liên quan của
Nhà nước để huy động các nguồn lực xã hội nhằm phát triển TSC, đặc biệt trong
điều kiện TSC còn thiếu, xuống cấp, chưa đồng bộ, cơ chế quản lý tài sản còn
hạn chế thì mô hình hợp tác công - tư với phương thức “đầu tư - sử dụng công”
và “đầu tư công - quản lý tư” là thích hợp. Tuy nhiên, đây là mô hình đầu tư
mới, hiện nay mới được triển khai ở một số địa phương nên cần phải có lộ trình
68
tổ chức thích hợp và sự hỗ trợ về cơ sở pháp lý, cách thức thực hiện của các
cơ quan quản lý Nhà nước.
Đổi mới hình thức đầu tư, mua sắm tài sản nhà nước phải đồng bộ với
đổi mới hoạt động của ngành, có phân theo lộ trình thích hợp để đảm bảo
nguồn kinh phí được giao. Đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong
quản lý, sử dụng nguồn kinh phí đầu tư, thúc đẩy đổi mới toàn diện từ hạ tầng
cơ để đến việc tăng cường tài sản để đáp ứng công việc chuyên môn. Lấy việc
thực hiện mục tiêu chiến lược của ngành đến năm 2025 làm tiêu chuẩn cao
nhất để đầu tư, trang bị tài sản của quá trình phát triển.
Đổi mới hình thức đầu tư, mua sắm tài sản phân tán sang phương thức
đầu tư, mua sắm tài sản tập trung để nâng cao vai trò trách nhiệm của người
có thầm quyền, chống thất thoát, lãng phí thời gian, kinh phí của Nhà nước.
Tuy nhiên, mua sắm những tài sản nhỏ, sửa chữa nhỏ tài sản, công cụ
dụng cụ cần thực hiện theo phân cấp quản lý và sử dụng các hình thức mua
sắm tập trung hoặc phân tán cho phù hợp.
Lãnh đạo Viện cần quan tâm củng cố, xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực; xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý
có tính chuyên nghiệp, chuyên sâu. Đồng thời, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
trong quản lý TSC; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho
cán bộ quản lý; thường xuyên tổ chức các khoá tập huấn nghiệp vụ, cập nhật
kiến thức mới về quản lý tài sản.
Nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý là
một trong những giải pháp quan trọng giúp đơn vị tăng cường khả năng quản
lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Đây là đội ngũ quan trọng, là những
người trực tiếp tham gia vào hệ thống quản lý tài sản. Nhận thức được điều
này, đơn vị cần:
- Không ngừng nâng cao trình độ quản lý nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,
69
mặt khác phải tạo cơ hội cho cán bộ tự phấn đấu vươn lên. Đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ, công chức quản lý tài sản là hoạt động nhằm nâng cao năng lực,
cung cấp kiến thức và kỹ năng quản lý cụ thể để bù đắp những thiếu hụt trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ.
- Chăm lo công tác đào tạo mọi mặt : đào tạo nâng cao, đào tạo lại, đào
tạo bổ xung, đào tạo chuyên ngành cho cán bộ kỹ thuật cho phù hợp với điều
kiện máy móc trang thiết bị ngày càng tiên tiến và hiện đại. Cần đặt ra yêu
cầu là phải thường xuyên cập nhật thông tin về chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước, hệ thống pháp luật về quản lý tài sản và các công nghệ
mới, hiện đại mà đơn vị chưa có điều kiện đầu tư để có thể tham mưu cho ban
lãnh đạo khi tiến hành đổi mới tài sản Tuy nhiên, năng lực trình độ chuyên
môn của một bộ phận cán bộ quản lý còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
quản lý trong tình hình mới. Vì vậy, việc nâng cao năng lực, trình độ của đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý, sử dụng tài sản là hết sức cần thiết, yêu cầu
bản thân mỗi cán bộ quản lý phải tập trung nỗ lực, ý thức trách nhiệm, tự giác
học tập nâng cao trình độ chuyên môn về quản lý TSC.
3.2.2. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật
Cần xây dựng một hệ thống quản lý tài sản mang tính quy chuẩn và phục
vụ tốt nhất cho công tác quản lý. Căn cứ pháp lý, chính sách, hệ thống tiêu
chuẩn, định mức sử dụng tài sản chính là căn cứ đánh giá việc quản lý, sử
dụng tài sản của từng đơn vị tiết kiệm hay lãng phí. Do vậy, cần tiếp tục hoàn
thiện các căn cứ pháp lý, chính sách hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
sản. Ban hành quy định quản lý, sử dụng tài sản nhà nước trên cơ sở văn bản
pháp quy của Nhà nước, làm rõ các chế độ, tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC.
Nâng cao vai trò trách nhiệm của người sử dụng trong quá trình sử dụng
tài sản; tuân thủ đầy đủ Quy chế quản lý và sử dụng tài sản; Quy định về tiêu
chuẩn, định mức sử dụng tài sản nhà nước; đảm bảo thiết thực, tiết kiệm, hiệu
quả, chống lãng phí. Việc quản lý, sử dụng tài sản được thực hiện công khai,
70
minh bạch. Mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước
được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Hồ sơ tài sản
được bảo quản và lưu trữ theo quy định. Trường hợp để xảy ra mất mát, hư
hỏng do lỗi khoa, phòng, cá nhân được giao quản lý, sử dụng phải bồi thường
và xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân trực tiếp quản lý, sử dụng; đồng thời là
thước đo để đánh giá việc sử dụng TSC của từng đơn vị, vì vậy Luật thực
hành tiết kiệm chống lãnh phí (năm 2013) xác định: “Đối với việc quản lý, sử
dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, TSC, lao động, thời gian lao động
trong khu vực nhà nước và tài nguyên ở những lĩnh vực đã có định mức, tiêu
chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì tiết kiệm là
việc sử dụng ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng vẫn đạt
được mục tiêu đã định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng
đạt cao hơn mục tiêu đã định. Lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà
nước, vốn nhà nước, TSC, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà
nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục
tiêu đã định”. Ngoài ra tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC còn là công cụ để
thực hiện kiểm tra, giám sát việc sử dụng TSC của các đơn vị, cá nhân trực
tiếp quản lý, sử dụng tài sản.
Với chức năng, nhiệm vụ và hoạt động đặc thù của viện thì việc áp dụng
các tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý TSC như các ĐVSN công lập thông
thường như hiện nay là chưa hợp lý, chưa đầy đủ. Vì vậy, viện cần nghiên
cứu, báo cáo các cơ quan có thẩm quyền ban hành bổ sung những tiêu chuẩn
định mức, chế độ về TSC phù hợp với hoạt động đặc thù của mình như:
Thứ nhất là hoàn thiện, bổ sung tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC giao
cho các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng, phù hợp với quy định của Nhà nước
và đặc thù hoạt động, yêu cầu công tác của viện.
71
Thứ hai là xây dựng bổ sung những tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản
chưa được quy định như: tiêu chuẩn, định mức trang bị tài sản, các tiêu chuẩn,
định mức trang bị về TSC phải được quy định cụ thể về chủng loại, quy cách
và chất lượng của tài sản nhằm thống nhất trang bị tài sản trong tất cả các đơn
vị, tránh tình trạng tùy tiện trong mua sắm tài sản gây lãng phí và bất công
bằng giữa các đơn vị cùng có chức năng nhiệm vụ thực hiện như nhau và
giữa cán bộ công chức làm việc ở các đơn vị khác nhau.
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác kiểm kê
Nâng cao chất lượng của công tác kiểm kê tài sản để phản ánh được tình
hình sử dụng tài sản: tài sản đang sử dụng, tài sản chưa cần, tài sản không cần
dùng, tài sản hư hỏng hoặc tài sản đã hết thời gian sử dụng. Từ đó các lãnh đạo
Viện có kế hoạch mua mới, điều chuyển giữa các khoa phòng, thanh lý tài sản
cho phù hợp. Thực hiện nghiêm công tác kiểm kê, tính khấu hao tài sản hàng
năm. Thông qua công tác kiểm kê và tính hao mòn tài sản để đánh giá số lượng
và chất lượng tài sản hiện có tại các khoa, phòng, Trường, Trung tâm. Qua đó
xác định tài sản thừa, thiếu và tìm nguyên nhân để xử lý theo chế độ quy định.
Cơ chế quản lý, sử dụng tài sản là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có sự
quản lý chặt chẽ để phát huy tác dụng hiệu quả sử dụng TSC.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát quản lý tài sản công
Kiểm kê tài sản hàng năm là yêu cầu bắt buộc nhằm xác định số lượng,
chất lượng; giá trị của tài sản, nguồn vốn hiện có tại thời điểm kiểm kê để
kiểm tra để đối chiếu với số liệu trong sổ kế toán. Qua dó, xác định tài sản
thừa, thiếu tìm nguyên nhân để quy trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản của
các tổ chức và cá nhân có liên quan.
Lãnh đạo Viện cần quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra,
giám sát trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa
lớn nhà cửa, vật kiển trúc; quá trình mua sắm tài sản để đẩy nhanh tiến độ
72
thực hiện, giải ngân vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ đúng các quy trình quy định
về đầu tư, mua sắm tài sản góp phần chấp hành tốt dự toán NSNN được giao
hàng năm.
Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, giám sát quá trình đầu tư, mua sắm
tài sản của đơn vị; kiểm soát chặt chẽ các nội dung chi, quản lý giá cả hàng
hoá; thực hiện nghiêm quy trình lập, trình thẩm định và phê duyệt danh mục
mua sắm TSC; nắm bắt tài sản hiện có, sớm phát hiện sử dụng tài sản sai mục
đích, vượt định mức hoặc tài sản không có nhu cầu sử dụng…để thu hồi, sắp
xếp lại tài sản, điều chuyển tài sản từ nơi thừa đến nơi thiếu hoặc bán, thanh
lý tài sản nhằm quản lý, sử dụng TSC tiết kiệm, hiệu quả.
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai
thực hiện các cơ chế chính sách quản lý tài sản trong đơn vị. Thực hiện việc giám
sát và kiểm soát việc quản lý và sử dụng trên tiêu chí tiết kiệm, chống lãng phí đối
với tài sản sử dụng cho hành chính, quản lý và hiệu quả đối với tài sản phục vụ
cho công tác chuyên môn gắn với trách nhiệm đối với tập thể, cá nhân.
Thực hiện kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất về tình hình quản lý và sử
dụng tài sản tại các đơn vị.
Thực hiện việc theo dõi, quản lý TSC trên cơ sở đăng ký tài sản, kiểm tra
tình trạng tài sản, tính toán mức hao mòn. Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu
phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát cần chú trọng về quản lý, sử
dụng tài sản được thực hiện tập trung một số nội dung cụ thể như: việc quản
lý và sử dụng nguồn vốn, tài sản nhà nước; chế độ tiêu chuẩn, định mức tài
chính và việc giám sát đối với quá trình đầu tư, mua sắm tài sản theo quy định
để trang bị tài sản phục vụ cho công tác chuyên môn; việc chấp hành quy định
của pháp luật về đầu tư, mua sắm cũng như việc tuân thủ các quyết định của
cấp có thầm quyền và quyết định về phân cấp quản lý tài sản...
73
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cần được thực hiện theo đúng định
hướng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về các hoạt động của đơn vị,
trong đó có việc giám sát đánh giá hoạt động TSC, đây là một trong những
công cụ quan trọng.
Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát để xem xét, đánh giá và làm rõ
việc chấp hành, tuân thủ các quy định của pháp luật, việc thực hiện quyết định
của cấp có thầm quyền về đầu tư XDCB và sửa chữa, mua sắm tài sản nhà
nước; đồng thời qua đó giúp cho lãnh đạo và cơ quan quản lý cấp trên nắm
bắt, phân tích, đánh giá và xác định được tính hiệu quả việc sử dụng nguồn
vốn đầu tư và kinh phí mua sắm tài sản nhà nước, giúp đơn vị tăng cường
năng lực công tác quản lý, sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn được chặt chẽ hơn.
3.2.5. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong việc quản lý TSC
Một trong những tồn tại lớn nhất trong công tác quản lý, sử dụng TSC
của viện là chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ, thống nhất về TSC để nắm chắc
chủng loại, số lượng, chất lượng, giá trị TSC của từng đơn vị và trong phạm
vi cả viện, trên cơ sở đó cung cấp dữ liệu cho công tác dự báo xây dựng chiến
lược, kế hoạch phát triển TSC cũng như phục vụ quản lý, điều hành. Việc
thực hiện chế độ báo cáo của các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản
không kịp thời, đầy đủ, chính xác do chưa có công cụ hỗ trợ.
Với mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý TSC, bên cạnh việc hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ chuyên môn, trong đó nhiệm vụ quản lý tài chính và
quản trị tài sản, thì việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng công
nghệ quản lý hiện đại trong việc quản lý TSC là một điều kiện quan trọng
không thể thiếu được trong việc hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng TSC.
Trước mắt, Viện các cấp cần rà soát, chuẩn hóa dữ liệu về quản lý TSC theo
chương trình Quản lý tài sản để bảo đảm đầy đủ, chính xác, phục vụ kịp thời
74
cho công tác báo cáo. Đồng thời, cần khai thác ứng dụng phần mềm kế toán
để thuận lợi cho việc trích hao mòn hàng năm.
Việc ứng dụng CNTT cần phải được đẩy mạnh trên nhiều phương diện,
một mặt phải xử lý được những hạn chế hiện nay. Mặt khác phải đáp ứng
được các yêu cầu mới đặt ra trong quản lý TSC, qua đó phát huy tối đa hiệu
quả của CNTT trong công tác quản lý, sử dụng TSC, phù hợp với xu hướng
về cải cách quản lý TSC và ứng dụng CNTT. Mục tiêu cụ thể của việc xây
dựng hệ thống CNTT phục vụ quản lý TSC của viện cần hướng tới như sau:
- Đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong định hướng quản lý TSC thời
gian tới và phù hợp các định hướng cải cách hành chính, quản lý tài chính
của Viện.
- Góp phần tăng cường công khai, minh bạch thông tin về quản lý, sử
dụng TSC theo quy định (phạm vi thông tin công khai, tính toàn diện của
thông tin công khai và hình thức công khai, đảm bảo tính kịp thời, dễ hiểu,
dễ so sánh…); đồng thời, góp phần thúc đẩy thực hiện trách nhiệm giải trình
của các đơn vị trong quản lý, khai thác, sử dụng tài sản.
- Khắc phục sự phân tán về nguồn dữ liệu TSC, từng bước hình thành
kho dữ liệu tập trung, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu về thông tin, dữ liệu phục
vụ cho công tác quản lý điều hành.
- Góp phần đảm bảo được tính kết nối, tích hợp thông tin, dữ liệu trong
toàn bộ hệ thống Viện đối với toàn bộ quy trình quản lý TSC.
Trên cơ sở các nội dung và yêu cầu về quản lý TSC, Viện cần xây dựng
dự án tổng thể ứng dụng CNTT vào quản lý cả hệ thống, nhằm giảm thiểu chi
phí quản lý thủ công và tăng khả năng trao đổi thông tin. Để tránh ách tắc, kế
hoạch ứng dụng CNTT cần xây dựng một cách cụ thể, chi tiết về công việc,
tiến độ và kết quả cũng như trách nhiệm của người quản lý.
3.3. Một số kiến nghị
75
3.3.1 Đối với Bộ y tế
Thứ nhất, cần chú trọng hơn nữa đến công tác xây dựng các quy chế
quản lý nói chung cũng như quy chế quản lý tài sản nói riêng. Trên cơ sở đó
sớm chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị thực hiện và tiến hành kiểm tra, kiểm soát
thường xuyên, liên tục để đảm bảo công tác quản lý và sử dụng tài sản đúng
quy định và đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để
có thể đáp ứng được nhu cầu quản lý tài sản và đặc thù trong toàn ngành.
Thứ ba, đề nghị Bộ y tế cần có cơ chế đầu tư hợp lý về TSC đối với Viện
để có nguồn lực TSC đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng
thời là tiền đề Viện có các biện pháp hợp lý để tổ chức quản lý đối với tài sản
được giao quản lý, sử dụng.
3.3.2 Đối với các Bộ, ban ngành khác
Đối với Bộ tài chính tiếp tục thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý
TSC và nâng cấp cơ sở dữ liệu về TSC, bảo đảm từng bước cơ sở dữ liệu có
đầy đủ thông tin về TSC. Trong đó, đối với TSC tại ĐVSN công lập cần bổ
sung thông tin về tài sản thương hiệu, tài sản cố định; thông tin về khai thác
TSC như: Tài sản được hình thành từ vốn huy động, tài sản được hình thành
qua liên doanh, liên kết hoặc đầu tư theo hình thức PPP, kết quả từ việc sử
dụng tài sản vào mục đích kinh doanh dịch vụ... Đồng thời tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về quản
lý, sử dụng TSC; nâng cao hiệu quả xử lý TSC tại ĐVSN công lập theo
hướng công khai, minh bạch, ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện và
kiểm soát việc xử lý TSC, sử dụng các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến
TSC trong việc xác định giá trị tài sản, lựa chọn nhà đầu tư, nhà cung cấp, tổ
chức đấu giá tài sản có quyết định bán, thanh lý.
76
Các cơ quan quản lý nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ
chế, chính sách trong quản lý TSC nhằm khắc phục những bất cập trong triển
khai thực tế; trong đó ngoài việc xác định hệ thống tiêu chuẩn, định mức về
TSC được xây dựng thống nhất cho các cơ quan nhà nước.
ĐVSN trong cả nước thì cần cân nhắc, tính đến các tiêu chuẩn, định mức
áp dụng cho các Bộ, ngành, địa phương có tính đặc thù về nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, địa bàn hoạt động để đảm bảo sự linh hoạt, chủ động của các cơ
quan, đơn vị này trong thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà nước trong quản
lý TSC.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần ban hành cơ chế tài chính riêng, phù
hợp với đặc thù về tổ chức và hoạt động của viện. Đây cũng là một điều kiện
hết sức quan trọng để hoàn thiện quản lý TSC do mối quan hệ không thể tách
rời giữa sự hình thành và quản lý TSC với quản lý tài chính công. Nhà nước
cần có cơ chế đầu tư hợp lý về TSC để có nguồn lực TSC đáp ứng yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ được giao.
77
KẾT LUẬN
Quản lý tài TSC là một trong những nội dung lớn của quản lý tài chính
công. Hiệu quả của quản lý TSC là thước đo hiệu quả quản lý kinh tế và hành
chính nói chung. Việc tổ chức hệ thống quản lý tài sản tốt sẽ thường xuyên
theo dõi, nắm chắc tình hình tăng giảm tài sản về số lượng, giá trị, tình hình
sử dụng đầy đủ, hợp lý. Hoàn thiện công tác quản lý mua sắm TSC tại ĐVSN
công lập là một trong những nội dung quan trọng. Hiệu quả của việc quản lý
là thước đo hiệu quả quản lý kinh tế và quản lý nhà nước nói chung, ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Từ các số liệu thu thập được, luận văn đánh giá một cách khách quan
nhất về thực trạng công tác quản lý TSC tại VSR-KST-CT TƯ giai đoạn
2014-2018. Kết quả chính của luận văn gồm:
- Hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về TSC và quản lý TSC trong các
ĐVSN công lập; xác định vai trò, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung quản lý
TSC trong các ĐVSN công lập; tìm hiểu kinh nghiệm quản lý TSC tại một số
quốc gia trên thế giới để tìm ra những điểm có thể vận dụng cho Việt Nam.
-Từ số liệu thực tế về thực trạng quản lý và sử dụng TSC tại VSR-KST-
CT TƯ, luận văn chỉ ra những nguyên nhân và những điểm còn tồn tại, bất
cập trong quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung
ương trong giai đoạn 2014-2018.
- Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý
TSC tại VSR-KST-CT TƯ, luận văn đã đề xuất những giải pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý TSC VSR-KST-CT TƯ trong thời gian tới.
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2016), Thông tư 58/2016/TT-BTC về việc hướng dẫn thực
hiện đấu thầu mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của
cơ quan Nhà nước bằng vốn Nhà nước, ban hành ngày 29/3/2016, Hà nội.
2. Bộ Tài chính (2017), Thông tư 144/2017/TT-BTC hướng dẫn một số nội
dung Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính Phủ, ban
hành ngày 29/12/2017 Hà nội
3. Chính phủ (2014), Nghị định 167/2017/NĐ-CP quy định việc sắp xếp, xử
lý tài sản công, ban hành ngày 31/12/2017, Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, ban hành ngày
26/6/2014, Hà Nội
5. Chính phủ (2017), Nghị định số 151/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, ban hành ngày 26/12/2017,Hà
Nội.
6. Chính phủ (2017), Nghị định số 152/2017/NĐ-CP quy định tiêu chuẩn,
định mức trụ sở làm việc, ban hành ngày 27/12/2017, Hà Nội.
7. Hoàng Thu Thủy (2018), Quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt
Đức, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH.
8. Nguyễn Quang Hạnh ( 2012), Kinh nghiệm của quốc tế về quản lý, sử dụng
tài sản Nhà nước, NXB Lao động.
9. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), Cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành
chính sự nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ. Đại học Kinh tế Quốc dân
10. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật kế toán,
số 81/2015/QH13. Hà Nội.
11. Phan Hữu Nghị (2009), Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành
chính Nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân.
79
12. Phạm Đức Phong (2003), Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản nhà nước
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp.
Hà Nội.
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật đấu
thầu, số 43/2013/QH13. Hà Nội.
15. hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật dân sự, số
91/2015/QH13. Hà Nội.
16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Quản
lý, sử dụng tài sản công, số 15/2017/QH14. Hà Nội.
17. Nguyễn Hồng Sơn và Phan Huy Đường (2013), Giáo trình Khoa học
Quản lý. Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 32/2015/QĐ-TTg quy định tiêu
chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô trong cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, ban hành ngày 04/8/2015, Hà Nội.
19. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 50/2017/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết
bị, ban hành ngày 31/12/2017, Hà Nội.
20. Trần Văn Giao (2011), Giáo trình tài chính công và công sản, Học viện
hành chính quốc gia.
21. Trần Đức Thắng (2011), Khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai tại Việt
Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính, Hà Nội.
22. Tưởng Quốc Công (2018), Quản lý tài sản công tại hệ thống Toà án
nhân dân ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH.
80