BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN QUỐC BẢO
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK, NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN QUỐC BẢO
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH
ĐẮK LẮK, NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công
bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm
hiểu, phân tích một cách trung thực với sự kế thừa học hỏi, khách quan và phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Đắk Lắk, ngày 30 tháng 6 năm 2023
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Quốc Bảo
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô giáo của Học
viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác giả trong thời gian
học tập và nghiên cứu tại Học viện.
Học viên xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh đã
quan tâm, giúp đỡ tận tình, hướng dẫn và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận
văn. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tòa án nhân
dân huyện Ea H’leo và các cơ quan liên quan đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong
thời gian nghiên cứu, điều tra, thu thập số liệu cần thiết để tôi có thể hoàn thành
luận văn của mình.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn người dân và bạn bè, đồng nghiệp đã quan
tâm, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận
văn.
Xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HỘP
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN .......................................................... 8 1.1. Khái niệm, ý nghĩa quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân ................................................ 8 1.2. Nội dung cơ bản quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân ...................................... 17 1.3. Các yếu tố cơ bản bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân ........................... 28 Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 34 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK .......... 35 2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình trên địa bàn huyện Ea H’leo .......................................... 35 2.2. Tình hình thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo .................... 39 2.3. Đánh giá về thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo ....... 53 Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 59 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK .......... 60 3.1. Sự cần thiết phải bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo . 60 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk62 Tiểu kết chương 3 ................................................................................... 80 KẾT LUẬN ............................................................................................. 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 83 PHỤ LỤC................................................ Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 BLDS Bộ luật dân sự
2 HNGĐ Hôn nhân, gia đình
3 HN&GĐ Hôn nhân và gia đình
4 TAND Toà án nhân dân
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HỘP
STT Tên biểu đồ, hộp Trang
1. Biểu đồ 2.1. Số vụ việc HNGĐ tại TAND huyện Ea H’leo 37
giai đoạn 2018-2022
2. Biểu đồ 2.2. Kết quả hòa giải trong trong giai đoạn chuẩn bị 38
xét xử các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-2022
39 3. Biểu đồ 2.3. Kết quả xét xử các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-
2022
43-44 4. Hộp 2.1. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo bảo
vệ tốt quyền được nuôi con của phụ nữ
46-47 5. Hộp 2.2. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo đã bảo
vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản
47-48 6. Hộp 2.3. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo chưa
bảo vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản
49 7. Hộp 2.4. Ví dụ điển hình về việc cha mẹ thoả thuận được về
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền của phụ nữ và trẻ em là một bộ phận cấu thành không thể tách rời
trong toàn bộ các quyền con người. Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là vô
cùng quan trọng trong xã hội. Phụ nữ và trẻ em thường là những nhóm dễ bị
bạo lực, lạm dụng và kỳ thị trong nhiều quốc gia trên thế giới. Việc bảo vệ
quyền của họ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng và bình
đẳng trong xã hội. Bảo vệ quyền của phụ nữ bao gồm việc đảm bảo quyền lợi
của họ trong các lĩnh vực như giáo dục, lao động, tài chính và chính trị. Điều
này cũng bao gồm bảo vệ phụ nữ trước các hình thức bạo lực, bao gồm cả bạo
lực gia đình, quấy rối tình dục, và sự kỳ thị.
Trong các quyền của phụ nữ và trẻ em, quyền của phụ nữ và trẻ em trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình là rất quan trọng, vì đây là những lĩnh vực có thể
gây ra nhiều bất công và bạo lực đối với họ. Trong lĩnh vực hôn nhân, phụ nữ
và trẻ em có quyền được tự do lựa chọn đối tác sống và không bị ép buộc vào
hôn nhân. Họ cũng có quyền được xác định vị trí và vai trò của mình trong hôn
nhân, không bị phân biệt đối xử, bị bạo lực hoặc bị buộc phải chấp nhận các
quyết định không tốt đối với mình. Ngoài ra, phụ nữ và trẻ em cần được bảo vệ
khỏi các hình thức bạo lực gia đình, bao gồm bạo lực về tinh thần, vật chất và
tình dục. Trong lĩnh vực gia đình, phụ nữ và trẻ em cũng cần được bảo vệ khỏi
bạo lực và lạm dụng từ các thành viên khác trong gia đình, bao gồm cha mẹ,
anh chị em và họ hàng. Họ cũng có quyền được phát triển và học hỏi, và không
được ép buộc vào các trách nhiệm gia đình quá nặng nề và không phù hợp với
tuổi tác của mình.
Ea H’leo là một huyện của tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua việc bảo vệ các
quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực HN&GĐ tại Toà án nhân dân
(TAND) huyện Ea H’leo đã có những chuyển biến tích cực. Các tranh chấp về
1
HN&GĐ tại địa phương chủ yếu là các yêu cầu ly hôn, chia tài sản chung và
công nợ của vợ chồng, cấp dưỡng nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con
sau ly hôn. Nhìn chung, TAND và các chức danh tư pháp thuộc TAND đã áp
dụng pháp luật, bảo vệ quyền của phụ nữ về quyền ly hôn, quyền tài sản, quyền
nuôi con; trẻ em được bảo vệ để có quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng và
các quyền khác có liên quan.
Tuy vậy, do những điều kiện chủ quan và khách quan, việc bảo đảm
quyền của phụ nữ và trẻ em về HNGĐ trong hoạt động tố tụng của TAND vẫn
còn không ít bất cập, hạn chế. Quyền về HNGĐ của phụ nữ trong một số trường
hợp vẫn bị xâm phạm, nhất là quyền về tài sản. Quyền của trẻ em về chăm sóc,
nuôi dưỡng và cấp dưỡng còn chưa được quan tâm đúng mức. Còn một số bản
án, quyết định của TAND huyện Ea H’leo về HNGĐ vẫn có những điểm chưa
đúng pháp luật, chưa hợp lý, bị TAND cấp trên huỷ một số nội dung.
Đứng trước thực trạng trên và đặt trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất
các giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em về HNGĐ tại TAND nói
chung, TAND huyện Ea H’leo nói riêng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa lớn.
Đó cũng chính là lý do học viên chọn đề tài “Quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện
Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành
chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Các công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và trẻ em.
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và
trẻ em ở các cấp độ khác nhau, tiêu biểu như:
- Sách “Kinh nghiệm điển hình về thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ
và trẻ em trong ASEAN” của Uỷ ban thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và
2
trẻ em ASEAN (ACWC).
- Sách “Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lí quốc tế
và pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Sĩ Dũng, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003.
- Sách “Hỏi - đáp về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế
và pháp luật Việt Nam”, Nxb Văn hoá dân tộc 2022. Cuốn sách tập hợp các câu
hỏi và trả lời về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế và pháp
luật Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vương Vân Huyền, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2014. Thông qua phân tích thực trạng pháp luật, luận văn đã hướng
tới đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền.
Các công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND.
- "Quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ ly hôn tại Tòa án
nhân dân" - một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong
quá trình giải quyết các vụ ly hôn.
- "Đánh giá vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em trong giải quyết vụ ly hôn tại Tòa án nhân dân" - một nghiên cứu của các
nhà nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Hà Nội, tập trung vào vai trò của luật sư
trong bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ ly hôn.
- "Quyền lợi của trẻ em trong các vụ ly hôn có tranh chấp tại Tòa án
nhân dân" - một báo cáo của Tổ chức Liên Hợp Quốc (UN), tập trung vào
quyền lợi của trẻ em trong quá trình giải quyết các vụ ly hôn có tranh chấp.
- "Sự phân cấp giới trong quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong vụ ly hôn
tại Tòa án nhân dân" - nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học
3
Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào sự phân
cấp giới và ảnh hưởng của nó đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ ly hôn.
Các công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
- "Đánh giá hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết các vụ việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk" - một
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào việc đánh giá hiệu quả công
tác bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HNGĐ
tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Một số bài báo: "Nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em trong các vụ việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk" - của Nguyễn
Thị Quỳnh, cộng tác viên của Tạp chí Luật Học, tập trung vào các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong các vụ
việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; "Pháp luật bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk"
của Nguyễn Thị Thanh Thủy, cộng tác viên của Tạp chí Khoa học Pháp lý, tập
trung vào việc phân tích các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và
trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Nhận xét:
Qua khảo sát cho thấy quyền của phụ nữ, trẻ em và quyền của phụ nữ,
trẻ em trong vụ việc HN&GĐ được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm,
thể hiện ở số lượng và chất lượng các công trình. Các công trình tiếp cận ở
nhiều giác độ: pháp luật, bảo đảm quyền, đề xuất nhiều giải pháp tổng thể đến
chi tiết.
Tuy nhiên qua khảo sát cũng cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu
4
một cách trực diện, có hệ thống về quyền của phụ nữ, trẻ em và quyền của phụ
nữ, trẻ em trong vụ việc HN&GĐ tại một địa phương cụ thể như Tòa án nhân
dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk trong khi đây là địa phương có tình hình khá
phức tạp, có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ. Vì là
đề tài này được thực hiện có dựa trên việc tham khảo, tiếp thu có chọn lọc
những kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó và vẫn đảm bảo tính mới,
không trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đưa ra những giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh
Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thêm cơ sở lý luận về quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND.
- Nêu và đánh giá thực trạng quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các
vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo thời gian qua; kết quả,
hạn chế và nguyên nhân.
- Trên cơ sở thực trạng, nguyên nhân ở trên, luận văn đề ra các giải pháp
chung và giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền của phụ nữ, trẻ em trong giải quyết các vụ
việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: 05 năm (từ năm 2018 đến hết năm 2022).
5
- Về không gian: Huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quyền phụ nữ và
trẻ em trong giải quyết vụ việc HN&GĐ là thuận tình ly hôn và vụ án ly hôn
khi có tranh chấp xảy ra thuộc thẩm quyền của TAND huyện Ea H’leo, tỉnh
Đắk Lắk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ
trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
về nhà nước, pháp luật nói chung, về quyền của phụ nữ và trẻ em nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể trong khi thực hiện đề tài là: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và các
phương pháp khác có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Luận văn củng cố thêm một số vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ và
trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND, bổ sung những nhận
định về thực trạng và đề xuất, chi tiết một số giải pháp bảo đảm quyền của phụ
nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND nói chung.
Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu xuất phát từ lý luận và thực tiễn của luận văn
có thể là tài liệu tham khảo cho những nhà lãnh đạo, quản lý của TAND huyện
Ea H’leo; là tài liệu tham khảo cho sinh viên, người nghiên cứu về quyền của
phụ nữ và trẻ em trong HN&GĐ, nhất là những nội dung thực tiễn tại địa
6
phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận, pháp lý về quyền của phụ nữ và trẻ em trong
giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân.
Chương 2. Thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ
việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh
Đắk Lắk.
7
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết
vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc
hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
Khái niệm phụ nữ và trẻ em
Phụ nữ là một thuật ngữ để chỉ các con người nữ giới, có đặc điểm sinh
lý và tâm lý khác biệt so với nam giới. Điều này thường được xác định bởi
những đặc trưng sinh lý như có bộ phận sinh dục nữ và khả năng mang thai,
sinh sản, cùng với các đặc điểm tâm lý như tình mẫu tử, quan tâm đến gia đình
và trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, giới tính và vai trò xã hội của phụ nữ có thể
khác nhau trong các văn hóa và lịch sử khác nhau trên thế giới. Thời gian gần
đây, từ điển tiếng Việt đã bổ sung cập nhật định nghĩa mới về “phụ nữ”, bên
cạnh các định nghĩa cũ. Nguyên văn của dòng khái niệm mới này là: “Phụ nữ
là một người trưởng thành đang sống như phụ nữ và xác định mình là nữ giới
cho dù lúc sinh ra họ được cho là mang giới tính khác” [38].
Trên thế giới, theo Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa
thành niên bị tước quyền tự do, được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua
ngày 14/12/1992 quy định: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [16].
Vậy khái niệm người chưa thành niên và trẻ em đồng nhất với nhau về độ tuổi.
Điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng quy định “trẻ em có nghĩa
là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Khái niệm "trẻ em" ở Việt Nam thường được sử dụng để chỉ các con
8
người ở độ tuổi dưới 16 tuổi, tuy nhiên đôi khi phân loại độ tuổi trẻ em có thể
khác nhau tùy vào từng quốc gia và văn hóa. Khái niệm trẻ em và độ tuổi của
trẻ em quy định khác nhau, không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng
chéo nhau trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam. Khái niệm người
chưa thành niên cũng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau,
tồn tại cả hai khái niệm là khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Hiện
nay, theo Luật Trẻ em của Việt Nam năm 2016, Trẻ em là người dưới 16 tuổi
(Điều 1). Như vậy trong phạm vi luận văn nay, tác giả nhận thức trẻ em là người
dưới 16 tuổi.
Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em
Theo từ điển tiếng Việt, quyền được hiểu là điều mà pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho họ được hưởng, được làm, được đòi hỏi [19]. Chiếm hơn
một nửa trong xã hội nhưng phụ nữ lại là đối tượng dễ bị tổn thương và chịu
nhiều thiệt thòi nhất. Phụ nữ luôn bị thiệt thòi nhiều nhất về sức khỏe, giáo dục,
đào tạo, cơ hội việc làm và những nhu cầu khác, vì thế quyền của phụ nữ luôn
được quan tâm. Khi xã hội phát triển, quyền của phụ nữ là một bộ phận tất yếu
của quyền con người. Phụ nữ có đầy đủ các quyền con người như quyền được
sống, quyền tự do, quyền bình đẳng với nam giới. Trong cuốn Bách khoa toàn
thư thế giới về phụ nữ: Những vấn đề và tri thức toàn cầu về phụ nữ được xuất
bản năm 2000, tập thể nhóm tác giả Charlotte Bunch và Samantha Frost trong
phần viết “Giới thiệu về các quyền con người của phụ nữ” đã chỉ ra: “Quyền
con người của phụ nữ là một thuật ngữ để chỉ các quyền của phụ nữ với tư cách
là một con người và được xem xét thông qua lăng kính giới. Theo đó, quyền
con người của phụ nữ được xem là tất cả các quyền con người mà nhân loại
tiến bộ thừa nhận và có thêm những quyền mang đặc thù giới nữ” [39].
Người phụ nữ với những đặc điểm gắn liền với giới tính tự nhiên thì
ngoài quyền con người nói chung, họ còn có những quyền gắn liền với thiên
9
chức của mình như quyền làm mẹ, quyền được bảo vệ với tư cách là nhóm
người dễ bị tổn thương. Tiếp cận theo hướng này (nghĩa hẹp), quyền phụ nữ
bao gồm quyền bình đẳng (bảo đảm ngang quyền và cơ hội so với nam giới) và
quyền ưu tiên (tạo điều kiện thuận lợi hơn so với nam giới do đặc điểm giới
tính tự nhiên và do thuộc nhóm dễ bị tổn thương). Trong lĩnh vực HN&GĐ, có
thể hiểu, quyền của người phụ nữ là quyền bình đẳng, có cơ hội hưởng các
quyền ngang nhau với nam giới trong mối quan hệ giữa vợ, chồng và giữa các
thành viên trong gia đình trên cơ sở nguyên tắc dân chủ, công bằng, tôn trọng
lẫn nhau trong các mối quan hệ ở phạm vi gia đình, xã hội và quyền ưu tiên tạo
điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp
công sức và thụ hưởng thành quả trong cuộc sống gia đình, xã hội. Các quyền
của phụ nữ trong HN&GĐ được tôn trọng, được bảo vệ và bảo đảm thực hiện
bằng hệ thống các quy định của pháp luật về HN&GĐ.
Từ những phân tích trên có thể hiểu, quyền của phụ nữ là tập hợp những
khả năng pháp luật mỗi quốc gia công nhận cho người phụ nữ được hưởng,
được làm và được đòi hỏi. Việc hiểu rõ những quyền này nhằm ngăn chặn tình
trạng bất bình đẳng giới trong mỗi chúng ta.
Khái niệm "quyền trẻ em" là một khái niệm phức tạp và rộng lớn, bao
gồm các quyền cơ bản và quan trọng nhất của trẻ em trong đời sống và phát
triển của mình. Đây là một khái niệm đặc biệt quan trọng và được nhiều tổ chức
và chính phủ trên toàn thế giới quan tâm đến và bảo vệ. Quyền trẻ em cũng là
một nhóm quyền nằm trong nhóm quyền của con người. Trẻ em là đối tượng
đặc biệt và dễ bị tổn thương. Quyền trẻ em là những quyền con người được áp
dụng dành riêng cho trẻ em, ở mỗi độ tuổi khác nhau thì trẻ em được hưởng
quyền và nghĩa vụ khác nhau. Việc xem xét quy định và thực hiện quyền trẻ
em phải xuất phát từ quan điểm của trẻ em, vì vậy quyền trẻ em là những đặc
lợi mà trẻ em được hưởng theo quy định của pháp luật.
10
Như vậy có thể hiểu, quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để
được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm bảo
đảm cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người
lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển
của chính mình. Quyền trẻ em là một bộ phận không thể thiếu của quyền con
người.
Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc
HN&GĐ tại TAND
Nghiên cứu vụ việc HN&GĐ phải đi từ vụ việc dân sự. Đây là hai khái
niệm khác nhau nhưng thường đi cùng nhau nên rất dễ nhầm lẫn. Theo pháp
luật dân sự, vụ án dân sự là việc giải quyết tranh chấp về các vấn đề dân sự giữa
cá nhân, tổ chức này với cá nhân, tổ chức khác; có nguyên đơn và bị đơn; Tòa
án giải quyết trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của người có quyền và buộc người có
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Bản chất của vụ án dân sự là có tranh chấp xảy ra.
Việc dân sự là việc riêng của cá nhân, tổ chức, không có nguyên đơn, bị
đơn mà chỉ có người yêu cầu Tòa án giải quyết, từ yêu cầu của đương sự, Tòa
án công nhận quyền và nghĩa vụ cho họ. Bản chất của việc dân sự là không có
tranh chấp xảy ra.
Vụ việc HN&GĐ là một mảng, một lĩnh vực của pháp luật dân sự. Vụ
việc HN&GĐ là những vấn đề pháp lý liên quan đến các mối quan hệ gia đình,
tiêu biểu như hôn nhân, giám hộ con cái, chăm sóc người già, chia tài sản và
quyền nuôi con… Các vụ việc HN&GĐ có thể làm nảy sinh những xung đột
giữa các thành viên trong gia đình, gây ra sự mất mát về tài sản và đôi khi làm
suy yếu tình cảm giữa các bên liên quan. Vụ việc này thường đòi hỏi sự can
thiệp của pháp luật để giải quyết các tranh chấp, tìm kiếm sự công bằng và bảo
vệ quyền lợi của các bên.
Việc bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ rất
11
quan trọng vì họ thường là những bên yếu đuối và dễ bị tổn thương trong các
mối quan hệ gia đình. Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc
HN&GĐ là cần thiết để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong các mối quan
hệ gia đình, bảo vệ những người yếu đuối khỏi bạo lực và lạm dụng và đảm
bảo an toàn và sự phát triển của trẻ em. Nó cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc xây dựng một xã hội văn minh, trách nhiệm và đầy đủ nhân quyền.
Theo Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, có hai nhóm vụ việc HN&GĐ thuộc
thẩm quyền của TAND: Những tranh chấp về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án (Điều 28), gồm 8 trường hợp, ví dụ như ly hôn; những yêu
cầu về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 29), gồm 11
trường hợp, ví dụ như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi
con, chia tài sản khi ly hôn.
Từ các phân tích trên có thể hiểu, quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết vụ việc HN&GĐ tại TAND là tập hợp những khả năng pháp luật mỗi
quốc gia công nhận cho người phụ nữ và trẻ em được hưởng, được làm và được
đòi hỏi trong quá trình giải quyết các vụ việc về HN&GĐ tại TAND theo quy
định của pháp luật nhằm bảo vệ, bảo đảm cho phụ nữ và trẻ em được phát triển
công bằng, toàn diện và góp phần ổn định xã hội.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn
nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân
Thứ nhất, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hiện thực hoá các nguyên
tắc của Hiến pháp và pháp luật. Bảo vệ phụ nữ và trẻ em được khẳng định trong
đạo luật cao nhất của Nhà nước ta, là tư tưởng chỉ đạo trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, do đó là nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ. Phụ nữ và trẻ em nói
chung cần được bảo vệ, đặc biệt là các bà mẹ đơn thân.
Xuất phát từ đặc điểm về thể chất và tinh thần, phụ nữ và trẻ em là đối
tượng cần được pháp luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Đặc biệt, khi làm mẹ,
12
người phụ nữ phải thực hiện thiên chức của mình là nuôi con bằng sữa mẹ. Trên
cơ sở lý luận và nghiên cứu thực nghiệm, các nhà tâm lý học và giáo dục học
đã kết luận rằng ảnh hưởng của người mẹ đối với tình cảm, nhân cách và sự
nghiệp của con lớn hơn rất nhiều so với người cha. Vì vậy, bảo vệ bà mẹ nhằm
đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó và có ý nghĩa
rất lớn trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Bảo vệ bà mẹ
và trẻ em là trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Nhà nước, xã hội,
và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện
tốt chức năng cao quý của người mẹ.
Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cụ thể hóa trong các chế định
của Luật HN&GĐ, bao gồm: Chế định hôn nhân; quyền và nghĩa vụ vợ chồng;
quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con; xác định cha, mẹ, con; ly hôn. Như vậy,
nguyên tắc bà mẹ và trẻ em là nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em
trong mọi hoàn cảnh, nhưng đặc biệt vẫn là việc bảo vệ và giúp đỡ các bà mẹ
đơn thân, tạo điều kiện cho họ thực hiện tốt các chức năng của người mẹ, đồng
thời bảo vệ và chăm sóc những đứa trẻ sinh ra không trên cơ sở hôn nhân.
Thứ hai, quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc HN&GĐ có ý
nghĩa bảo đảm cho họ có phương tiện để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi tham gia tố tụng tại Tòa án. Với các quyền năng được pháp luật
trao cho họ, cho phép các chủ thể có thể sử dụng quyền năng đó như một công
cụ hữu hiệu để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Khi xét thấy quyền
và lợi ích bị xâm phạm thì vợ có quyền khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để
yêu cầu giải quyết. Quyền khởi kiện, quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về
HN&GĐ là quyền tố tụng rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, nó là
cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng và cũng là tiền đề cho các
quyền tố tụng khác.
Quyền của phụ nữ và trẻ em đóng một vai trò đặc biệt quan trọng khi
13
tham gia vào quan hệ pháp luật trong vụ án HN&GĐ. Đây là cơ sở pháp lý
quan trọng để phụ nữ và trẻ em có thể sử dụng để đòi hỏi công lý, sự công bằng,
là cơ sở để người tiến hành tố tụng ý thức được bổn phận phải tôn trọng và bảo
đảm các quyền căn bản này. Ngoài ra, sự ghi nhận của pháp luật tố tụng dân sự
về các quyền cơ bản này còn thể hiện được bản chất của một Nhà nước của dân,
do dân và vì dân trong lĩnh vực tư pháp dân sự.
Thứ ba, các quyền phụ nữ và trẻ em được pháp luật ghi nhận có ý nghĩa
bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được thống nhất, khách quan, nhanh chóng
và đúng đắn. Các quyền được ghi nhận bảo đảm Tòa án có thể bảo vệ hiệu quả
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người
dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ tố tụng dân sự nói riêng.
Phụ nữ, trẻ em được quyền yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích của mình và họ
có quyền khởi kiện để Tòa án có thẩm quyền giải quyết bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình. Khi có yêu cầu, Tòa án xem xét và đưa ra xét xử bằng một bản
án, quyết định chính xác, khách quan thì người dân sẽ tin tưởng vào pháp luật
và họ coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Cũng từ đó mà pháp luật được tôn trọng, pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày càng
được củng cố và tăng cường. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, cải
cách tư pháp vẫn được duy trì và là một yêu cầu không thể thiếu trong công
cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của Việt Nam theo tinh thần
của Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ quyền
con người, quyền công dân. Quy định quyền của phụ nữ, trẻ em tại Tòa án nhằm
hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng pháp luật giải quyết vụ án liên quan
đến tranh chấp HN&GĐ.
1.1.3. Vai trò của Toà án nhân dân trong việc bảo vệ quyền của phụ
nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình
1.1.3.1. Khái quát về Tòa án nhân dân
14
Vị trí, chức năng của TAND
Tòa án nhân dân là cơ quan có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống
bộ máy nhà nước với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ trật tự xã hội.
Chức năng, nhiệm vụ của TAND được Hiến định tại Điều 102 của Hiến
pháp năm 2013: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa
án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh
phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”. Quy định này đã được cụ
thể hóa rõ ràng hơn trong Điều 2 của Luật tổ chức TAND năm 2014 về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân. Theo đó, TAND là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và
giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách
quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng;
căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có
tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về
quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân của các bên liên quan trong các
vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Bản án, quyết định của TAND có
hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm
chỉnh chấp hành.
Cơ cấu tổ chức của TAND
Theo Luật tổ chức TAND năm 2014, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có các toà án sau đây:
15
- TAND tối cao;
- TAND cấp cao;
- TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;
- Toà án quân sự được tổ chức trong quân đội gồm có Tòa án quân sự
trung ương, các tòa án quân sự quân khu và tương đương, các tòa án quân sự
khu vực.
1.1.3.2. Vai trò của Tòa án nhân dân bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
Vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là những hoạt
động của Tòa án được thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng nhằm
chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm đến quyền của phụ nữ và trẻ em, để giữ
gìn cho lợi ích, nhu cầu và năng lực cả người phụ nữ và trẻ em được nguyên vẹn,
an toàn, góp phần củng cố niềm tin của người dân vào công lý, nâng cao tính
minh bạch, sự bình đẳng của pháp luật, sức mạnh và uy tín của bộ máy Nhà
nước, tính nhân đạo và dân chủ của Nhà nước pháp quyền.
Với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, là cơ quan
duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt quan hệ hôn nhân và ra phán quyết về
hậu quả pháp lý gắn liền với sự kiện ly hôn như các vấn đề con chung, cấp
dưỡng nuôi con chung và tài sản chung …, việc bảo đảm quyền của phụ nữ và
trẻ em khi ly hôn phụ thuộc rất lớn vào phán quyết của Tòa án. Các vai trò tiêu
biểu như:
- Tòa án giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em
đối với mọi người dân trong xã hội.
- Tòa án đưa ra các phán quyết công bằng để bảo vệ quyền của phụ nữ
và trẻ em.
- Quyền phụ nữ và trẻ em thông qua hoạt động giải quyết vụ việc
16
HN&GĐ bằng Tòa án chịu sự chi phối toàn diện của pháp luật.
- Quyền của phụ nữ và trẻ em thông qua hoạt động giải quyết các vụ việc
HN&GĐ của Toà án được thực hiện công khai, độc lập và đảm bảo công bằng.
1.2. Nội dung cơ bản quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết
các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
Pháp luật về HN&GĐ nước ta đã có vai trò to lớn trong việc bảo vệ các
quyền phụ nữ và trẻ em. Luật HN&GĐ năm 2014 đã xác định các nguyên tắc
cơ bản: Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em,
không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, con trai và con gái, con đẻ
và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú. Luật HN&GĐ nghiêm cấm
mọi hành vi ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em và
các thành viên khác trong gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu,
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con, giáo
dục con cái phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Quyền và lợi
ích của trẻ em còn được thể hiện trong các quy định của chế định con nuôi trên
nguyên tắc khuyến khích việc nhận trẻ em có hoàn cảnh khó khăn làm con nuôi,
nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để thực hiện những hành vi vi phạm
đạo đức và pháp luật.
Bên cạnh quyền và nghĩa vụ nhân thân, trẻ em còn có quyền và nghĩa vụ
tài sản. BLDS Việt Nam đã có những quy định bảo vệ quyền trẻ em thông qua
các cơ sở pháp lý như: Xác định chế định về năng lực chủ thể pháp luật dân sự
của người chưa thành niên, chế định giám hộ; chế định thừa kế với việc bảo vệ
quyền lợi cho trẻ em là con nuôi…. Người chưa thành niên bình đẳng so với
các cá nhân khác trong năng lực pháp luật dân sự. Theo quy định của BLDS
năm 2015, mọi giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi đều do người đại diện
theo pháp luật xác lập, thực hiện và chịu trách nhiệm. Người từ đủ 6 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự hạn chế; người chưa thành niên
17
dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường hoàn toàn
thiệt hại. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho việc nhận trẻ mồ côi, trẻ
bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi; “nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi
để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục mua bán trẻ em hoặc vì lợi ích trục
lợi khác”.
1.2.1. Các quyền cơ bản của phụ nữ trong giải quyết các vụ việc hôn
nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
Phụ nữ có những quyền cơ bản trong việc giải quyết các vụ việc
HN&GĐ, đặc biệt là trong bối cảnh pháp luật Việt Nam đang ngày càng tôn
trọng và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Những quyền này bao gồm cả quyền
nhân thân và quyền tài sản. Quyền của phụ nữ trong giải quyết các vụ việc
HN&GĐ tại TAND có phạm vi hẹp hơn quyền của họ trong quan hệ HN&GĐ.
Các quyền này có cơ sở pháp lý là Luật HN&GĐ năm 2014, BLDS năm 2015,
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan.
Thứ nhất, quyền ly hôn. Người phụ nữ được gắn liền với thiên chức làm
mẹ hay quyền làm mẹ. Quyền làm mẹ của người phụ nữ cần phải được ghi nhận
và bảo vệ không chỉ dưới góc độ xã hội mà còn dưới góc độ pháp luật. Dưới
góc độ xã hội, quyền làm mẹ là quyền nhân thân gắn liền với phụ nữ, gắn liền
với người vợ. Quyền làm mẹ là quyền được sinh con, được có con (trong trường
hợp nhận con nuôi), được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người mẹ.
Dưới góc độ pháp luật, quyền làm mẹ cũng cần được bảo vệ thông qua các quy
định của pháp luật. Trong trường hợp ly hôn, quyền làm mẹ của người phụ nữ
cũng phải được ghi nhận và bảo vệ. Mang thai và sinh con là quá trình người
phụ nữ phải chịu bao vất vả, và đứa con chính là sự gắn bó máu thịt với người
mẹ. Do vậy, pháp luật cần phải bảo vệ người mẹ khi ly hôn thông qua việc hạn
chế quyền ly hôn của người chồng trong những trường hợp nhất định.
18
Theo khoản 14 Điều 3 của Luật HN&GĐ năm 2014, ly hôn là việc chấm
dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Pháp luật hiện hành trao cho vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết ly hôn; thận chí cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời
là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Thực tế, người phụ nữ
khi mang thai cần phải đảm bảo tốt với sức khỏe cũng như tinh thần để sinh
con ra được khỏe mạnh. Ly hôn thường để lại cho người phụ nữ gánh nặng về
mặt tâm lý. Hậu quả xã hội của ly hôn tác động đến cuộc sống của người phụ
nữ, làm cho họ không đảm bảo sức khỏe sinh sản” để mang thai và làm mẹ an
toàn. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể: “Chồng không có quyền yêu
cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi
con dưới 12 tháng tuổi”.
Với quy định trên, quyền làm mẹ của người vợ đã được đảm bảo một
cách vững chắc hơn. Theo đó, trong trường hợp người vợ đang mang thai hoặc
sinh con thì người chồng không được quyền ly hôn. Trong thời kỳ mang thai,
người phụ nữ rất cần sự chăm sóc của người thân bên cạnh mình, đặc biệt người
chồng là người gần gũi nhất với người vợ. Do vậy, nếu khi người vợ đang mang
thai mà người chồng yêu cầu ly hôn thì sẽ tác động rất lớn đến tâm lý và sức
khỏe của người vợ. Tác động này được nhìn nhận dưới tác động vật chất và tác
động về tinh thần.
Nếu người chồng ly hôn thì người vợ sẽ bị ảnh hưởng xấu đến tinh thần,
tình cảm không chỉ đối với bản thân người vợ mà còn đối với cả đứa trẻ chưa
sinh. Thêm vào đó, người vợ cũng sẽ không nhận được sự ủng hộ về vật chất
từ người chồng trong thời điểm này là một thiệt thòi lớn. Điều này sẽ làm ảnh
19
hưởng xấu tới cả người vợ khi mang thai và ảnh hưởng xấu đến thai nhi.
Điều này được áp dụng ngay cả trong trường hợp người vợ đang mang
thai với người khác hoặc bố của đứa trẻ là ai thì người chồng vẫn bị hạn chế
quyền ly hôn. Từ đó cho thấy trong trường hợp người chồng phát hiện vợ ngoại
tình và đứa con vợ mình đang mang thai, mới sinh hay dưới 12 tháng tuổi không
phải là con của mình thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền ly hôn tức là không
được quyền yêu cầu Tòa án cho ly hôn.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng ghi nhận việc người chồng không có quyền
yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi dù
cho đó là con đẻ của cả hai vợ chồng hoặc là con nuôi của hai vợ chồng. Quy
định này cũng nhằm đảm bảo cho người mẹ được ổn định trong việc nuôi con
nhỏ, đảm bảo quyền làm mẹ khi được nuôi con nhỏ.
Thứ hai, quyền được nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Là người sinh ra con, cha và mẹ đều có các
quyền và nghĩa vụ đối với con cái. Cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thương yêu con,
tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành
mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình,
công dân có ích cho xã hội. Cha, mẹ phải trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình. Đối với người mẹ, trong quan hệ HN&GĐ tại Toà án, người
mẹ có các quyền cơ bản như:
- Quyền được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly
hôn: Sau khi ly hôn, phụ nữ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
người vợ và chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của
20
mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa
án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con. Nếu con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường
hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
- Quyền được yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
Người mẹ có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải
quyết khi có một trong các căn cứ:
i) cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù
hợp với lợi ích của con;
ii) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con
phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
Thứ ba, quyền yêu cầu xác định cha cho con hoặc xác định con cho cha,
mẹ. Đây là quyền của phụ nữ khi người cha không công nhận con của mình
hoặc người con không công nhận một người là cha hoặc mẹ của mình. Theo
quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 thì con sinh ra trong thời kỳ hôn
nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ
chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn
nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra
trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ
chồng. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và
phải được Tòa án xác định.
Bên cạnh đó, cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã
chết (Khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2014).
Thứ tư, quyền về tài sản khi ly hôn. Khi ly hôn, một trong những vấn đề
21
các bên quan tâm và cũng là vấn đề phức tạp nhất hiện nay là phân chia tài sản.
Theo tinh thần của Điều 33 của Luật HN&GĐ năm 2014 thì tài sản chung của
vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40
của Luật HN&GĐ năm 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Bên cạnh đó, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất,
được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ
chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản
chung.
Trong tố tụng dân sự tại toà án, phụ nữ (vợ) có các quyền về tài sản như:
- Quyền yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung khi ly hôn;
chia tài sản sau khi ly hôn.
- Yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (không
thuộc trường hợp ly hôn).
Một trong những khó khăn, phức tạp trong việc giải quyết các vụ việc
HN&GD có liên quan đến tài sản hiện nay đó là tài sản của vợ chồng nằm
chung trong tài sản của gia đình và chia quyền sử dụng đất khi ly hôn.
Điều chỉnh về vấn đề này, Luật HN&GĐ năm 2014 (Điều 61) đã quy
định về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình, cụ thể:
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của
vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ
22
hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ
vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối
tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần
trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ
chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì
khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để
chia theo quy định tại Điều 59 của Luật HN&GĐ năm 2014.
Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn thì quyền sử dụng
đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. Việc chia
quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được phân chia
theo Điều 62 của Luật HN&GĐ năm 2014.
Ngoài ra, phụ nữ còn có các quyền khác được pháp luật ghi nhận như:
Quyền yêu cầu nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật; quyền
yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; quyền yêu cầu hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn…
Tuy nhiên các quyền này ít xảy ra trong thực tiễn so với bốn quyền đã nêu ở
trên.
1.2.2. Các quyền cơ bản của trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn
nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
Với đặc trưng là người chưa đủ năng lực hành vi dân sự, trẻ em thực hiện
các quyền của mình thông qua cha, mẹ, người thân thích hoặc các cơ quan,
đoàn thể mà không thể tự mình yêu cầu bảo vệ các quyền của mình một cách
độc lập.
Một là, quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em. Đây là một quyền
23
quan trọng của trẻ em, được ghi nhận trong Công ước Liên hiệp quốc về quyền
trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Child) [16]. Dựa vào văn bản
pháp lý này, các quốc gia thành viên phải tôn trọng ghi nhận quyền được chăm
sóc, nuôi dưỡng của trẻ em trong hệ thống pháp luật và bảo đảm thực hiện một
cách nghiêm túc. Gia đình là môi trường đầu tiên và tiền đề để nuôi dưỡng,
hình thành nhân cách, trí tuệ và tinh thần cho trẻ em. Khẳng định trách nhiệm
của gia đình tại khoản 2 Điều 58 của Hiến pháp 2013 “Nhà nước, xã hội và gia
đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trẻ em”. Quy định này được lập
lại tại khoản 1 Điều 98 của Luật Trẻ em 2016 “Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em
và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, quản lý, giáo dục trẻ em; dành điều kiện tốt nhất theo khả năng cho sự
phát triển liên tục, toàn diện của trẻ em”. Cha mẹ và các thành viên phải có
trách nhiệm chính trong sự phát triển của trẻ em cũng như bảo đảm các quyền
cho trẻ, đặc biệt là quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em.
Quyền được cha mẹ trông nom chăm sóc giáo dục sau khi ly hôn: Theo
Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định quyền được trông nom chăm sóc
giáo dục của con sau khi ly hôn.
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
theo quy định của Luật này, BLDS và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của
mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa
án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường
24
hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con."
Theo đó về nguyên tắc thì quyền nuôi con sau khi ly hôn sẽ do hai vợ
chồng tự thỏa thuận với nhau, trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ
giao con cho một người trực tiếp nuôi dưỡng dựa trên các nguyên tắc sau:
- Đối với con dưới 36 tháng tuổi sẽ do người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng,
trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để nuôi dưỡng con.
- Đối với con từ 7 tuổi trở lên thì phải hỏi ý kiến của con.
- Trường hợp khác, Tòa án sẽ ấn định cho một người dựa trên các căn cứ
như điều kiện về vật chất và điều kiện về tinh thần để giao con cho một người
trực tiếp nuôi dưỡng. Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện
học tập… mà mỗi bên dành cho con, yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ
ở của cha mẹ; Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ,
giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi giải trí, trình
độ học vấn… của cha mẹ.
Điều 81 của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: Sau khi ly hôn, người
không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được
cản trở. Đây là một trong những quyền quan trọng của người không trực tiếp
nuôi con. Tuy nhiên, trong trường hợp người này lạm dụng việc thăm nom để
gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi dưỡng đứa trẻ có trách nhiệm bảo vệ con trước những nguy
cơ đến từ người không trực tiếp nuôi con. Theo đó, người không trực tiếp nuôi
con nếu lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến con
đều là hành vi, vi phạm pháp luật, khi đó, người trực tiếp nuôi con có thể yêu
cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.
Ngoài ra, trẻ em còn được quyền lựa chọn người trực tiếp nuôi dưỡng
sau khi cha mẹ ly hôn: Căn cứ theo khoản 3 Điều 84 của Luật HN&GĐ năm
25
2014 thì việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của
con từ đủ 07 tuổi trở lên. Như vậy, khi con từ 7 tuổi trở lên, cha hoặc mẹ muốn
thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét đến nguyện vọng của con.
Hai là, quyền được cấp dưỡng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của
Luật HN&GĐ năm 2014: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con. Pháp luật quy định cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn nhằm bảo
đảm cho đứa trẻ có cuộc sống ổn định, cấp dưỡng được coi là bù đắp phần nào
cho đứa trẻ khi gia đình tan vỡ, thiếu đi sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc
mẹ là tổn thất vô cùng lớn đối với trẻ. Nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con được
bảo đảm ngay cả trong trường hợp cha mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với
con chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 116 Luật HN&GĐ năm 2014, mức
cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc
người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế
của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp
dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường
hợp cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa
vụ cấp dưỡng thì người còn lại đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa
án buộc người kia thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Nếu cha mẹ cố tình
không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.
Điều 186 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp
dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà
mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn
tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt
cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
26
Ba là, quyền về tài sản. Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền
khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật (Điều 20 Luật trẻ em năm
2016). Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể về vấn đề này như sau:
- Quyền có tài sản riêng của con: Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản
riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu
nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và
thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng
là tài sản riêng của con.
Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ
chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu
cầu thiết yếu của gia đình.
- Quản lý tài sản riêng của con: Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình
quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý. Tài sản riêng của con dưới 15
tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy
quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của con do
cha mẹ hoặc người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở
lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp cha
mẹ và con có thỏa thuận khác.
Bên cạnh đó, cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường
hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của BLDS; người tặng
cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định
người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp
luật.
Trong trường hợp cha mẹ đang quản lý tài sản riêng của con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà con được giao cho
người khác giám hộ thì tài sản riêng của con được giao lại cho người giám hộ
quản lý theo quy định của BLDS.
27
- Định đoạt tài sản riêng của trẻ em: Tại Điều 21 của BLDS 2015 quy
định: Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo
pháp luật của người đó xác lập, thực hiện. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ
mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện
theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan
đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy
định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Theo đó, Điều 77 Luật HN&GĐ 2014 quy định cụ thể về việc định đoạt
tài sản riêng của con chưa thành niên như sau:
i) trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con
dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ
09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con;
ii) con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng,
trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản
của cha mẹ hoặc người giám hộ.
1.3. Các yếu tố cơ bản bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong
giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
1.3.1. Bảo đảm về chính trị
Bảo đảm chính trị ở các nước nói chung, Việt Nam nói riêng là cơ sở
chính trị quan trọng, tạo nền tảng để xây dựng hệ thống pháp luật và tổ chức
các hoạt động bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em, trong đó có quyền của phụ
nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ. Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc bảo
vệ và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em là một trong những
mục tiêu hàng đầu của đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng và bảo vệ chế
28
độ xã hội chủ nghĩa. Trong các chương trình, chiến lược, chính sách và pháp
luật, Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ và đảm bảo
quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là những người nghèo, khó khăn, thiểu
năng và bị kém may mắn trong cuộc sống.
Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ: “Phát huy truyền thống,
tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp
phụ nữ. Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng
cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kĩ năng cho phụ nữ
có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện
và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng
giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo
lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em” [5].
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh về quyền của phụ nữ và trẻ
em trong các chính sách và pháp luật liên quan đến HN&GĐ, giáo dục, sức
khỏe và phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước cũng khuyến khích phụ
nữ và trẻ em tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa,
và đảm bảo quyền được đào tạo, phát triển và tiếp cận tài nguyên nhân lực, giáo
dục, y tế, chăm sóc và bảo vệ.
Đảng và Nhà nước cũng tôn trọng và bảo vệ các giá trị văn hóa, truyền
thống và phong tục tập quán của dân tộc, nhưng đồng thời cũng đảm bảo sự
công bằng, bình đẳng và phát triển cho tất cả mọi thành viên trong xã hội, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em.
1.3.2. Bảo đảm về pháp lý
Bảo đảm pháp lý có tác động trực tiếp đến quyền của phụ nữ và trẻ em
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại TAND. Để bảo đảm quyền của phụ
nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND, pháp luật cần
29
phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản như:
i) tôn trọng nguyện vọng, quyền lợi và tình trạng của phụ nữ và trẻ em
trong quá trình xét xử;
ii) đảm bảo quyền tham gia và đại diện bằng luật sư cho các bên liên
quan, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em;
iii) có sự tham gia của chuyên gia tâm lý và xã hội để đánh giá tình trạng
của phụ nữ và trẻ em, đồng thời đưa ra các giải pháp phù hợp để bảo vệ quyền
lợi của họ;
iv) bảo đảm quyền được nghe và tham gia trong quá trình giải quyết vụ
việc của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trong các vụ việc liên quan đến HN&GĐ;
v) xử lý các vụ việc một cách minh bạch, công bằng, nhanh chóng và
hiệu quả để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em được bảo vệ đầy đủ;
vi) đảm bảo sự tôn trọng và sự an toàn của phụ nữ và trẻ em trong quá
trình xét xử và sau khi xét xử.
Luật HN&GĐ năm 2014 khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng.
Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt
chức năng cao quý của mình; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực
hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau,…Nam, nữ
có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ HN&GĐ,
bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.
Trong Luật Trẻ em năm 2016 quy định các quyền của trẻ em, nhằm đảm
bảo trẻ em được phát triển tốt nhất, cụ thể: Được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới
tính theo quy định của pháp luật; quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được
chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu;
quyền về tài sản; quyền được sống chung với cha, mẹ; quyền được đoàn tụ, liên
hệ và tiếp xúc với cha, mẹ...
30
1.3.3. Bảo đảm về nhận thức
Nhận thức về quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm văn hóa, tôn giáo, giáo dục và
cảnh báo từ các tổ chức và chính phủ. Mặc dù các nước và vùng lãnh thổ có
những tiến bộ khác nhau trong việc tăng cường nhận thức về quyền lợi của phụ
nữ và trẻ em trong HN&GĐ, nhưng vấn đề này đang được coi là một vấn đề
quan trọng trên toàn cầu.
Ở Việt Nam, qua nghiên cứu trực tiếp các hồ sơ án HN&GĐ thì thấy đa
số vụ việc là ly hôn. Nguyên nhân phần lớn và sâu xa dẫn tới tình trạng ly hôn
ngày càng gia tăng, đặc biệt với các cặp vợ chồng trẻ là do họ thiếu kỹ năng
sống. Họ bước vào cuộc sống hôn nhân khi tuổi đời còn quá trẻ, chưa có sự
chuẩn bị về tâm lý, kinh tế, sức khỏe và những hiểu biết cần thiết cho cuộc sống
gia đình, quá đề cao cái tôi của bản thân, ít quan tâm đến chồng hoặc vợ, khiến
phần lớn các cặp vợ chồng trẻ nảy sinh mâu thuẫn ngay từ những tháng đầu,
năm đầu của cuộc hôn nhân. Trong khi đó nhận thức về cuộc sống gia đình, ý
nghĩa của hôn nhân và tình yêu còn hời hợt đã khiến họ không đủ bản lĩnh và
kỹ năng giải quyết, vượt qua các mâu thuẫn, dẫn đến ly hôn. Chiếm một phần
trong số các cặp ly hôn là do họ kết hôn ngoài ý muốn khi những hiểu biết về
kiến thức giới tính có phần hạn chế.
Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác như: Do tư tưởng lạc hậu, người
vợ không sinh được con trai nên người chồng ngoại tình hoặc ly hôn để lấy vợ
mới với mục đích có con “nối dõi tông đường”; vấn đề về bạo lực gia đình, tệ
nạn xã hội; vợ chồng bất hòa, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do nhận thức về
xã hội, pháp luật chưa đầy đủ, thậm chí nhiều trường hợp người chồng nghiện
ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè … dẫn đến người vợ không chịu được phải ly
hôn. Nhiều vụ án được TAND đưa ra xét xử là do người chồng đang trong thời
gian thụ lý án vì có hành vi vi phạm pháp luật. Có những vụ ly hôn, người vợ
31
là nguyên đơn nhưng phải viết đơn đề nghị Tòa bảo vệ mình khi tham dự phiên
tòa vì thường xuyên bị người chồng đe dọa, đánh đập do thường xuyên dùng
ma tuý; vấn đề bạo lực gia đình xảy ra cũng xuất phát phần lớn từ người chồng
dùng ma túy tổng hợp bị ảo giác, về đánh dọa vợ con.
Trong những năm gần đây, có nhiều nỗ lực để nâng cao nhận thức về các
vấn đề này, bao gồm cả việc đưa ra chính sách và luật pháp để bảo vệ quyền
lợi của phụ nữ và trẻ em. Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước và xã hội đang cố gắng
tăng cường giáo dục và tuyên truyền để nâng cao nhận thức về các vấn đề liên
quan đến phụ nữ và trẻ em trong HN&GĐ.
1.3.4. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án nhân dân
Đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân là công việc hệ trọng, quyết
định đến chất lượng, hiệu quả công tác của Tòa án, khắc phục những hạn chế,
bất cập trong thực tiễn, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của tình hình mới, bắt
kịp các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới. Đặc biệt, việc này có ảnh hưởng trực
tiếp, quyết định đến việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc
HN&GĐ. Việc đổi mới, kiện toàn, tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc khó,
tác động trực tiếp đến nhiều đối tượng, do đó, đòi hỏi phải có quyết tâm chính
trị cao, thống nhất về tư tưởng, nhận thức, hành động trong toàn hệ thống tòa
án và sự đồng thuận của xã hội.
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, hệ thống TAND đã không
ngừng đổi mới cả về tổ chức và hoạt động để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao,
nhiệm vụ ngày càng nặng nề đặt ra trong các giai đoạn cách mạng của đất nước.
Địa vị pháp lý của tòa án được khẳng định là trung tâm của hoạt động tư pháp;
tổ chức bộ máy dần được hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ được tăng cường;
chất lượng, hiệu quả công tác không ngừng được nâng cao, hoàn thành tốt các
chỉ tiêu, yêu cầu Quốc hội đề ra. Đội ngũ thẩm phán, cán bộ tòa án dần được
củng cố về số lượng và nâng cao chất lượng; cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm
32
có bước cải thiện đáng kể. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
gắn với xây dựng TAND trong sạch, vững mạnh trong thời gian gần đây theo
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI và XII) đã nâng cao vị thế, uy tín
của tòa án và góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân
dân thời gian qua đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, như tổ chức bộ máy ở một
số tòa án có chỗ chưa thực sự khoa học, thiếu đồng bộ, chưa sát thực tiễn; biên
chế thiếu nhiều so với yêu cầu, nhiệm vụ; đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp
còn thiếu, cơ cấu không hợp lý, chuyên gia đầu ngành còn ít; một số cán bộ hạn
chế về trình độ, năng lực; công tác hành chính tư pháp, ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu; chính sách tiền lương còn bất
cập; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của tòa án chưa thực sự đáp ứng tốt
yêu cầu, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, tình hình quốc tế hiện nay có nhiều diễn biến
mới, phức tạp, khó dự báo; đất nước đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ, nhưng
cũng phải đối diện với những khó khăn, thách thức mới. Bối cảnh đó đặt ra
nhiều yêu cầu mới đối với hệ thống TAND.
33
Tiểu kết chương 1
Như vậy, về bản chất, quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ
việc HN&GĐ tại TAND là tập hợp những khả năng pháp luật mỗi quốc gia
công nhận cho người phụ nữ và trẻ em được hưởng, được làm và được đòi hỏi
trong quá trình giải quyết các vụ việc về HN&GĐ tại TAND theo quy định của
pháp luật nhằm bảo vệ, bảo đảm cho phụ nữ và trẻ em được phát triển công
bằng, toàn diện và góp phần ổn định xã hội. Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ
em là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm cho quyền con người
được thực hiện trong đời sống xã hội, cho nên Nhà nước đặc biệt coi trọng hoạt
động bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em. Nhà nước bảo vệ quyền của phụ nữ
và trẻ em bằng nhiều cách thức, biện pháp khác nhau và được thực hiện bởi
nhiều thiết chế quyền lực Nhà nước.
Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND có nội
dung đa dạng, nhưng tập trung vào một số quyền cơ bản và phổ biến ở Việt
Nam như: Quyền ly hôn, quyền chăm sóc nuôi dưỡng con cái, quyền tài sản
của phụ nữ; quyền được chăm sóc, giáo dục, quyền cấp dưỡng và quyền tài sản
của trẻ em. Các quyền này có mối quan hệ mật thiết ở cả góc độ nội dung và
hình thức. Để hiện thực hoá các quyền này cần có nhiều bảo đảm, trong đó đặc
biệt chú ý tới bảo đảm về chính trị, pháp lý, nhận thức và năng lực của cơ quan
xét xử (TAND).
34
Chương 2.
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TOÀ ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và công tác xét xử các vụ
việc hôn nhân và gia đình trên địa bàn huyện Ea H’leo
2.1.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Ea H’leo
Ea H'Leo là huyện cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm
thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 80km, được thành lập theo Quyết định số:
110/QĐ-HĐBT, ngày 03/4/1980 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ),
trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Búk. Diện tích tự nhiên 133.409ha, dân số
khoảng trên 147.414 người, với 29 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó
dân tộc thiểu số chiếm khoảng 41%. Toàn huyện có 11 xã và 01 thị trấn với
176 thôn, buôn, tổ dân phố, trong đó có 48 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại
chỗ [40].
Do vị trí địa lý đặc thù, diện tích rộng lớn, các thành phần dân tộc đa
dạng, trình độ nhận thức pháp luật khác nhau nên khi tiến hành giải quyết các
vụ án HN&GĐ thường gặp khó khăn do thời gian triệu tập phải kéo dài, việc
hợp tác với cơ quan tố tụng còn hạn chế, một số vụ án các đương sự là người
địa phương nhưng đã đi làm ăn sinh sống ở nơi khác, một số trường hợp khi
khởi kiện không xác định được địa chỉ cụ thể của người bị kiện, sau khi khởi
kiện thường phó mặc cho cơ quan tiến hành tố tụng, việc giải quyết vụ án gặp
nhiều phức tạp. Đặc biệt do trình độ nhận thức của người dân địa phương nói
chung, của phụ nữ và trẻ em nói riêng còn thấp nên việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ cũng có những hạn
chế lớn.
35
2.1.2. Khái quát công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình trên
địa bàn huyện Ea H’leo
2.1.2.1. Khái quát về Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
TAND huyện Ea H’leo được thành lập vào năm 1980 sau khi huyện
Ea H’leo được thành lập theo quyết định số: 110-CP ngày 3/4/1980 của Hội đồng
chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hết năm 2022, TAND
huyện Ea H’leo hiện có 21 cán bộ, công chức và người lao động, gồm có: 14
nam và 07 nữ. Trong đó: Chức danh quản lý gồm: 01 Chánh án, 02 Phó Chánh
án; chức danh chuyên môn gồm: 10 Thẩm phán; 06 Thư ký; 01 kế toán và 01
văn thư; 03 hợp đồng lao động không xác định thời hạn gồm: 01 nhân viên phục
vụ, 01 bảo vệ và 01 lái xe. Ngoài ra, TAND huyện Ea H’leo còn có 20 Hội thẩm
nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử theo quy định của pháp luật [36].
Về trình độ học vấn: Hiện nay, 17 cán bộ, công chức có trình độ Đại học,
trong đó có 05 công chức có trình độ thạc sĩ và 12 công chức có trình độ cử
nhân. Về trình độ lý luận: Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo có 02 người có trình
độ Cao cấp lý luận chính trị, 16 người đạt trình độ lý luận chính trị từ trung cấp
hoặc tương đương trung cấp lý luận chính trị và có 19 người là Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam [36].
TAND huyện Ea H’Leo nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao
động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem
xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong
quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có
tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư
pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.
2.1.2.2. Công tác thụ lý các vụ việc hôn nhân và gia đình
Trong những năm qua, TAND huyện Ea H’leo đã thụ lý giải quyết các
36
tranh chấp về HN&GĐ được như sau:
500
463
457
441
437
432
450
423
413
407
403
393
400
350
300
250
c ệ i v ụ V
200
150
100
50
18
10
6
6
5
0
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2021
Năm 2022
Năm 2020 Năm
Thụ lý
Giải quyết
Còn lại
(Nguồn: [32],[33],[34],[35],[36] )
Biểu đồ 2.1. Số vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo
giai đoạn 2018-2022
Như vậy, trong 5 năm gần đây, số lượng án HN&GĐ mà TAND huyện
Ea H’leo thụ lý có chiều hướng giảm dần qua từng năm. Cụ thể năm 2018 là
441 vụ việc, đến năm 2021 là 403 vụ việc, giảm 38 vụ việc. Có thể thấy, nhìn
chung người dân đã có nhận thức trong việc chấp hành pháp luật, giữ gìn được
hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, vụ việc về HN&GĐ chiếm tỷ lệ cao trở lại trong
tổng số các vụ việc dân sự Tòa án đã thụ lý và giải quyết, đơn cử vào năm 2022.
Đồng thời, trong tổng số các vụ việc HN&GĐ mà Tòa án giải quyết, đa phần
là các vụ việc ly hôn, trong đó trường hợp người vợ đứng đơn ly hôn chiếm đến
hơn 50%, trường hợp có con dưới 18 tuổi là gần 60% [32],[33],[34],[35],[36].
37
2.1.2.3. Công tác hoà giải các vụ việc hôn nhân và gia đình
92
500
457
91
450
432
91
423
407
395
393
390
90
400
90 380
350
343
89
350
88
300
87
250
87
ệ l ỷ T
c ệ i v ụ V
86
200
86
85
150
85
84
100
83
50
82
0
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2021
Năm 2022
Năm 2020 Năm
Vụ việc giải quyết
Vụ việc hoà giải thành
Tỷ lệ hoà giải thành (%)
(Nguồn: [32],[33],[34],[35],[36] )
Biểu đồ 2.2. Kết quả hòa giải trong trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-2022
TAND huyện Ea H’leo luôn coi trọng công tác hòa giải để đảm bảo
quyền lợi tốt nhất cho người dân và tiết kiệm được thời gian giải quyết án. Một
ưu điểm quan trọng đó là các vụ việc hòa giải đều đảm bảo nguyên tắc bảo vệ
quyền của người phụ nữ và trẻ em. Trong 5 năm, có 2.112 vụ việc HN&GĐ
được giải quyết, 1.858 vụ việc được hoà giải chiếm trung bình gần 88%.
2.1.2.4. Công tác xét xử các vụ việc hôn nhân, gia đình
38
70
25
60
60
20
20
50
47
50
42
39
15
40
14
12
ệ l ỷ T
30
c ệ i v ụ V
10
10
8
20
5
8
7
10
6
5
4
0
0
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2021
Năm 2022
Năm 2020 Năm
Vụ việc đưa ra xét xử
Vụ việc hoà giải thành trong quá trình xét xử
Tỷ lệ hoà giải thành trong quá trình xét xử (%)
(Nguồn: [32],[33],[34],[35],[36] )
Biểu đồ 2.3. Kết quả xét xử các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-2022
Như vậy, trong 5 năm, có 238 vụ việc HN&GĐ được đưa ra xét xử, chỉ
có 30 vụ việc được hoà giải chiếm tỷ lệ trung bình 12,6%. Mặc dù số lượng vụ
án tranh chấp HN&GĐ phải đưa ra xét xử không nhiều nhưng các vụ án này
đều mang tính chất phức tạp cao, liên quan đến nhiều quyền lợi quan trọng của
các đương sự, hoặc là những vụ án mà đương sự không hợp tác với Tòa án để
giải quyết, buộc phải đưa ra xét xử.
2.2. Tình hình thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các
vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
Thời gian qua, tại TAND huyện Ea H’leo các tranh chấp về HN&GĐ
chủ yếu là các yêu cầu ly hôn, chia tài sản chung của vợ chồng, cấp dưỡng nuôi
con, thay đổi quyền nuôi con. Hầu hết các vụ án liên quan đến tranh chấp
39
HN&GĐ liên quan đến quyền sử dụng đất, chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
đều có tính chất phức tạp, quá trình giải quyết còn gặp phải những khó khăn
nhất định liên quan đến thu thập chứng cứ, thái độ bất hợp tác của đương sự...
Trước tình hình đó, TAND huyện Ea H’leo đã áp dụng nhiều giải pháp
đồng bộ để đẩy nhanh tiến độ chất lượng giải quyết, xét xử các loại án, đồng
thời cũng nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, ban hành các bản
án, quyết định đúng pháp luật, đúng thời hạn, không có bản án hay quyết định
tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác Thi hành án. Trong công tác
giải quyết các loại án này, đơn vị luôn chú trọng và làm tốt công tác hòa giải
để giảm bớt căng thẳng giữa các bên đương sự, hàn gắn mâu thuẫn trong nhân
dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án, kết quả tỷ lệ
hòa giải thành chiếm tỷ lệ khá cao.
2.2.1. Tình hình thực hiện quyền của phụ nữ trong giải quyết các vụ
việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
2.2.1.1. Về thực hiện quyền ly hôn
Thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, pháp luật HN&GĐ
nước ta đảm bảo quyền tự do ly hôn, việc ly hôn ảnh hưởng đến lợi ích của các
bên. Trên thực tế tại huyện Ea H’leo, số vụ việc phụ nữ chủ động ly hôn nhiều
hơn, khi ly hôn thì người phụ nữ cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn, do đó rất cần
bảo vệ quyền của phụ nữ trong hôn nhân. Thực tế tại địa phương, quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, người vợ có quyền được yêu cầu ly hôn trong cả hai trường
hợp: Thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên vợ yêu cầu. Việc ly hôn do một
bên vợ yêu cầu được thực hiện quy định tại Điều 56 của Luật HN&GĐ năm
2014, khi có yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng, TAND huyện đã tiến hành xác
định tình trạng quan hệ hôn nhân và áp dụng các căn cứ để giải quyết, cụ thể:
40
- Trường hợp có căn cứ về việc chồng có hành vi bạo lực gia đình: Hành
vi bạo lực gia đình đa số do người chồng thực hiện, ảnh hưởng đến sức khỏe,
làm rạn nứt quan hệ tình cảm trong thời kỳ hôn nhân.
- Trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: Hành
vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là một trong những căn
cứ để TAND huyện xem xét giải quyết việc ly hôn.
Khi có một trong những căn cứ trên dẫn đến quan hệ hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng (người chồng không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc
người vợ,...), đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt
được thì TAND huyện quyết định giải quyết ly hôn. Như vậy, TAND huyện đã
áp dụng các quy định của luật để bảo vệ được người phụ nữ, giải thoát cho họ
trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc. TAND huyện đã áp dụng Luật HN&GĐ
năm 2014 để công nhận và bảo đảm quyền tự do ly hôn chính đáng của người
vợ mà không phụ thuộc vào ý chí của người chồng hay của người khác đảm
bảo được quyền bình đẳng của người vợ trong việc thực hiện quyền ly hôn.
Thứ hai, về trường hợp cha mẹ, người thân thích khác trong gia đình có
quyền yêu cầu TAND huyện giải quyết ly hôn: Nhìn chung hầu như không có
trường hợp nào xảy ra trên địa bàn huyện.
Thứ ba, việc hạn chế về quyền yêu cầu ly hôn của người chồng theo quy
định của khoản 3 Điều 51 của Luật HN&GĐ năm 2014: TAND huyện đã
nghiên cứu, áp dụng nhiều quy định pháp luật bảo đảm quyền làm mẹ của người
vợ được bảo đảm một cách vững chắc hơn trong một số vụ án (dù không nhiều).
Việc này hiện thực hiện hoá nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, tạo điều kiện
cho người phụ nữ thực hiện tốt thiên chức của mình.
Bên cạnh những ưu điểm, quyền ly hôn của phụ nữ trong các vụ việc
HN&GĐ tại địa phương cũng còn một số bất cập:
Một là, thực tiễn xét xử tại địa phương cũng cho thấy, phụ nữ còn gặp
41
một số khó khăn trong quá trình ly hôn, đặc biệt những vụ việc mà phụ nữ là
nạn nhân của bạo lực gia đình. Trên thực tế, một số vụ án ly hôn Tòa án chưa
xem xét thỏa đáng lý do phụ nữ bị bạo lực gia đình là một trong những căn cứ
cho ly hôn và các thủ tục ly hôn chưa thực sự hỗ trợ phụ nữ là nạn nhân bạo lực
gia đình. Nhiều trường hợp nộp hồ sơ ly hôn không được chấp nhận do thiếu
giấy tờ hoặc giấy tờ đang bị người chồng giữ.
Hai là, hòa giải đang là rào cản trong một số vụ án ly hôn do phụ nữ,
nhất là vụ án mà phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình đứng đơn. Đề nghị không
tiến hành hòa giải của nạn nhân bạo lực gia đình chưa thực sự được chú ý, gây
tâm lý căng thẳng và nguy cơ mất an toàn cho phụ nữ khi phải gặp mặt trực
tiếp người gây bạo lực tại tòa. Cá biệt có những vụ, Tòa tiến hành hòa giải nhiều
lần để thuyết phục nạn nhân chuyển quyền nuôi con cho bố dù đứa trẻ dưới 3
tuổi. Nhiều trường hợp phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình phải cân nhắc để
ra quyết định ly hôn vì có thể bị mất quyền nuôi con do không có việc làm ổn
định, không có nghề nghiệp, bị phụ thuộc kinh tế. Trong một số vụ án ly hôn,
người chồng được cho là có điều kiện hơn về kinh tế so với vợ, Toà xử cho
chồng được nuôi con nhưng chưa thực sự quan tâm đến các điều kiện đảm bảo
an toàn cho đứa trẻ, nhất là khi người bố đã có hành vi bạo hành với vợ. Do
vậy, phụ nữ phải gửi đơn đến Hội Liên hiệp Phụ nữ địa phương đề nghị can
thiệp thay đổi quyền nuôi con khi phát hiện bố có hành vi bạo lực đối với con.
Ba là, thời gian theo đuổi vụ án ly hôn thường làm trầm trọng hơn tình
trạng của nạn nhân là phụ nữ. Các quy định về thời gian giải quyết một vụ ly
hôn theo thủ tục tố tụng dân sự hiện nay là quá dài. Từ khi nguyên đơn được
nhận và xử lý đơn đến khi nhận được thông báo đơn của mình đã được thụ lý
là 15 ngày (Điều 191, Điều 196 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Thời hạn
chuẩn bị xét xử là 04 hoặc 06 tháng. Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử có
42
thể cũng phải chờ đến gần 02 tháng (Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự
2015), đó là chưa kể trường hợp vụ án rơi vào tình trạng phải tạm đình chỉ.
2.2.1.2. Quyền được nuôi con sau khi ly hôn
Trong các vụ án tranh chấp ly hôn, ngoài việc các bên đương sự xin ly
hôn, tranh chấp chia tài sản chung, nợ chung thì tranh chấp quyền nuôi con
cũng là dạng tranh chấp trong hầu hết các quan hệ hôn nhân mà Tòa án thụ lý,
giải quyết, bởi cả cha và mẹ đều mong muốn là người trực tiếp nuôi dưỡng con
chung khi các bên ly hôn. Trong thực tiễn xét xử tại TAND huyện Ea H’leo đối
với những vụ án tranh chấp nuôi con chung, Hội đồng xét xử tuân thủ nguyên
tắc “bảo vệ phụ nữ”. Do đó, hầu hết các vụ án ly hôn khi tranh chấp quyền nuôi
con, Hội đồng xét xử thường quyết định giao con chung cho người vợ (người
vợ được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn), đặc biệt đối với con chung là bé gái,
vì việc giao cho mẹ chăm sóc bé gái sẽ thuận lợi hơn trong quá trình phát triển
tâm sinh lý sau này. Việc này phù hợp với quy định pháp luật HN&GĐ, cha mẹ
có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung
chưa thành niên, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về
thể chất, trí tuệ, đạo đức. Do đó, khi xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về
nuôi con chung, tùy từng trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, Hội đồng xét
xử đã xem xét, cân nhắc quyết định giao con chung cho người nuôi dưỡng trên
cơ sở đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của trẻ, tránh làm xáo trộn môi trường
sống cũng như ảnh hưởng đến tâm lý phát triển bình thường của trẻ sau này.
Hộp 2.1. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo bảo vệ tốt quyền
được nuôi con của phụ nữ
Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 48/2019/HNGĐ-ST ngày
02/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo [Xem Phụ lục 1] giữa
nguyên đơn: Bà Phan Thị V - sinh năm 1982; địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn
E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D - sinh năm 1973, địa
43
chỉ: Thôn N, xã K, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Bản án sơ thẩm đã tuyên: Giao cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày
28/6/2011 cho bà Phan Thị V trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và
giáo dục cho đến khi đủ tuổi 18 tuổi
Không đồng tình với bản án sơ thẩm, ông D đã kháng cáo về phần nuôi
con chung và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho ông được
quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày 28/6/2011 đến
tuổi trưởng thành, vì bà V là người chủ động xin ly hôn và bà V không có
nhân cách và đạo đức, nên không thể giao con cho bà V nuôi được.
Bản án phúc thẩm số: 01/2020/HNGĐ-PT ngày: 20/01/2020 của TAND
tỉnh Đắk Lắk [Xem Phụ lục 1] đã tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn ông Nguyễn Văn D; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 48/2019/HNGĐ-ST
ngày 02/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk về phần
nuôi con chung.
Mặc dù đã có các quy định pháp luật điều chỉnh rất cụ thể về vấn đề tranh
chấp giành quyền nuôi con, nhưng thực tiễn giải quyết các vụ án về ly hôn có
tranh chấp con chung tại địa phương cũng cho thấy việc giải quyết tranh chấp
nuôi con khá phức tạp, vì nó liên quan đến việc đánh giá, xác minh, chứng minh
điều kiện thực tế của từng người, mong muốn của trẻ (nếu con trên 07 tuổi), rồi
việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc thi hành án giao con cho bên được
trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng còn nhiều khó khăn, bất cập do đương sự là vợ
hoặc chồng không hợp tác, chuyển chỗ ở gây khó khăn cho công tác thi hành
án. Trên thực tế vẫn có trường hợp Hội đồng xét xử quyết định giao quyền nuôi
con chung là bé gái cho cha nuôi dưỡng, chăm sóc là chưa thực sự “thấu tình,
đạt lý”.
2.2.1.3. Quyền về tài sản khi ly hôn
- TAND huyện Ea H’leo cơ bản đã bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người
44
vợ theo nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn. Toà án đã áp dụng Luật HN&GĐ
năm 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành để tạo cơ sở pháp lý để
giải quyết những tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại địa phương,
nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
các đương sự, đặc biệt là người phụ nữ, bởi vì khi ly hôn họ là đối tượng có
phần gặp nhiều khó khăn hơn (người dân tộc thiểu số, không biết chữ, không
có việc làm…). Toà án đã thực hiện theo nguyên tắc chung, tài sản của vợ
chồng được chia đôi cho hai người, trên cơ sở của nguyên tắc vợ, chồng có
quyền bình đẳng trong việc hưởng các quyền dân sự nói chung và quyền sở hữu
tài sản nói riêng, trong trường hợp không có thỏa thuận phân chia tài sản, khi
ly hôn, tài sản chung của vợ chồng được chia theo nguyên tắc chia đôi. Việc
này là hoàn toàn hợp lý vì hình thức sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu
chung hợp nhất, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản
này.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc phân chia tài sản chung của vợ chồng được
thực hiện công bằng, phù hợp với thực tế, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ,
khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng
Toà án đã tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng
được chia:
i) Hoàn cảnh gia đình của các bên, theo đó, nếu khi ly hôn mà người vợ
khó khăn thì Tòa án xem xét chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc
được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ
nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ;
ii) công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung, là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình
và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung; trường hợp người phụ nữ không ra ngoài làm việc mà chỉ ở nhà nội trợ,
45
chăm sóc con cái tuy không trực tiếp tạo ra thu nhập do đó cần xem xét tới công
sức đóng góp của người vợ, điều này khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và
chồng;
iii) bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ, chồng trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu
nhập (nhất là đất rẫy trồng cà phê, tiêu…). Trường hợp quyền sử dụng đất là
tài sản chung của vợ chồng thì không phân biệt là do vợ hay do người chồng
tạo lập ra, khi ly hôn vợ chồng đều được hưởng phần bằng nhau giá trị quyền
sử dụng đất. Việc này đã bảo vệ quyền sử dụng đất của người vợ trong trường
hợp khi ly hôn người chồng tự ý thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền
sử dụng đất thuộc sở hữu chung này.
iv) lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi
của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản dẫn đến ly
hôn.
- Toà án đã bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ trong quan hệ giao
dịch với người thứ ba theo quy định của pháp luật; quyền và nghĩa vụ tài sản
của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn nếu các bên
không có thỏa thuận khác.
Hộp 2.2. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo đã bảo vệ tốt
quyền của phụ nữ về tài sản
Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 01/2019/HNGĐ-ST ngày 24
tháng 01 năm 2019 của TAND huyện Ea H’Leo [Xem Phụ lục 2] giữa
nguyên đơn: Bà Dương Thị H – Sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện
E, tỉnh Đắk Lắk; bị đơn: Ông Võ Văn P – Sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn B,
xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk và một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan khác.
Bản án sơ thẩm đã tuyên: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà
46
Dương Thị H và ông Võ Văn P. Bà H, ông P được phân chia một số tài sản:
Tổng giá trị các tài sản bà H được nhận là: (157.517.216 đồng + 24.201.000
đồng) = 181.718.216 đồng. Nhưng thực tế bà H được chia là (78.758.608
đồng + 12.100.500 đồng + 61.066.960 đồng + 180.000.000 đồng) =
331.926.068 đồng. Tổng giá trị các tài sản ông P được nhận là: (152.667.400
đồng + 360.000.000 đồng) = 512.667.400 đồng. Nhưng thực tế ông P được
chia là (78.758.608 đồng + 12.100.500 đồng + 91.600.440 đồng +
180.000.000 đồng) = 362.459.548 đồng. Như vậy, phần giá trị tài sản ông P
được nhận nhiều hơn phần tài sản ông P được chia, phần giá trị tài sản bà H
được nhận ít hơn phần tài sản bà H được chia. Nên ông P có trách nhiệm trả
cho bà H phần chênh lệch tài sản được chia là (512.667.400 đồng –
362.459.548 đồng) = 150.207.852 đồng.
Không đồng tình với bản án sơ thẩm, ông P đã kháng cáo. Bản án phúc
thẩm số: 17/2019/HNGĐ-PT ngày: 29-5-2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk
[Xem Phụ lục 2] đã tuyên “Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn P
– Giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 01/2019/HNGĐ-ST ngày
24/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo”.
Tuy nhiên, trong thực tế xét xử cũng có một số vụ việc, vì các nguyên
nhân chủ quan và khách quan, việc xét xử một số vụ việc của TAND huyện
Ea H’leo chưa bảo vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản.
Hộp 2.3. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo chưa bảo
vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản
Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 28/2018/HNGĐ - ST ngày
28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo [Xem Phụ lục 3] giữa nguyên
đơn: Bà Nguyễn Thị H – Sinh năm 1966. Trú tại: T3, xã CM, huyện EH, tỉnh
Đắk Lắk. Bị đơn: Ông Trần Văn Ng – Sinh năm 1967. Trú tại: TĐV, xã NH,
huyện TN, tỉnh Quảng Ngãi. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm
47
bà B và một số người khác.
Bản án sơ thẩm đã chia cho bà H, ông Ng một số đất, nhà ở và tài sản
liên quan. Ông Trần Văn Ng thực tế được nhận số tài sản giá trị là
339.897.000 đồng mà giá trị tài sản ông được chia là 284.092.500 đồng, còn
bà H thực tế được nhận số tài sản trị giá 110.000.000 đồng mà giá trị tài sản
bà được chia là 165.804.500 đồng. Như vậy, số tài sản ông Ng được chia
nhiều hơn số tài sản bà H được chia là 55.804.500 đồng.
Không đồng tình với bản án sơ thẩm, ông Ng, bà B đã kháng cáo. Bản
án phúc thẩm số: 06/2018/HNGĐ-PT ngày 23-3-2018 của TAND tỉnh Đắk
Lắk [Xem Phụ lục 3] đã tuyên chấp nhận đơn kháng cáo của ông Trần Văn
Ng và bà Phan Thị B; sửa bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số
28/2017/HNGD-ST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo,
tỉnh Đắk Lắk: Tổng giá trị tài sản mà bà Phan Thị B được hưởng là:
147.860.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà ông Trần Văn Ng được hưởng là:
180.590.500 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thị H được hưởng là:
121.446.500 đồng.
Như vậy, bản án phúc thẩm đã khắc phục một số hạn chế, khiếm khuyết
của bản án sơ thẩm, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của bà H, B so với bản án sơ
thẩm.
2.2.2. Tình hình thực hiện quyền của trẻ em trong giải quyết các vụ
việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
2.2.2.1. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của trẻ em
Thời gian qua, trên địa bàn huyện Ea H’leo, khi quyết định ly hôn, đa số
các cặp vợ chồng đều đã xác định tình cảm không còn, không thể tiếp tục cùng
nhau chung sống và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Một số cặp vợ chồng
thỏa thuận kết thúc cuộc hôn nhân trong hòa bình. Song không ít các cặp đôi
tìm mọi cách để gây căng thẳng, đau khổ cho nhau, trừng phạt nhau vì cho rằng
48
đối phương có lỗi làm cho hôn nhân tan vỡ, trong đó bao gồm cả việc tranh
chấp tài sản, con cái, mức cấp dưỡng nuôi con chung. Có rất nhiều vụ án mà
việc tranh chấp nuôi con kéo dài hàng năm, thậm chí một vài năm. Nhiều vụ
xảy ra ẩu đả phải nhờ chính quyền, cơ quan công an và một số cơ quan, đoàn
thể tham gia, can thiệp cũng như sự tham gia bền bỉ của các Luật sư.
Hộp 2.4. Ví dụ điển hình về việc cha mẹ thoả thuận được về việc
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em
Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 94/2022/HNGĐ-ST Ngày: 15 -
11 - 2022 của TAND huyện Ea H’Leo [Xem Phụ lục 4] giữa nguyên đơn anh
Nguyễn Văn S, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện H, bị đơn chị
Đỗ Thị T, địa chỉ Thôn A, xã E, huyện H.
Bản án sơ thẩm đã tuyên: Về con chung, Anh chị có 04 người con
chung là các cháu: Nguyễn Thị Diệu N, sinh ngày 29/10/2005; Nguyễn Thị
Hải Y, sinh ngày 08/9/2007; Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 26/4/2009;
Nguyễn Ngọc Trường S1, sinh ngày 30/5/2014;
Hiện nay, cả hai con chung đang do anh S chăm sóc, nuôi dưỡng, anh
S cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng 04 con chung, còn chị T trong quá
trình giải quyết vụ án không ghi nhận được ý kiến của chị T nên cần giao 04
con chung cho anh S nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng: Anh Nguyễn Văn S không yêu cầu nên không giải
quyết.
Tuy nhiên, một số vụ án thực tế tranh chấp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con căng thẳng thường vì một số lý do chính như: Vì quá yêu thương, lo
lắng con; vì cho rằng, đối phương không đủ điều kiện vật chất, hay không đủ
tư cách, phẩm giá để nuôi dưỡng và chăm sóc con; do quá đề cao quyền nuôi
con của bản thân mà không cân nhắc nhu cầu thực sự của trẻ; do tác động của
49
gia đình, người thân với quan niệm “giao con cho người khác là mất con, mất
người nối dõi”, do đối phương gây khó khăn, cản trở việc thăm nom con…
Căng thẳng do tranh chấp ai là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con
thường đồng thời kéo theo căng thẳng trong tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con.
Có người nhận nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng nhằm chứng minh mình có
thừa điều kiện để chăm lo cho con đủ đầy, nhưng cũng có người đưa ra mức
cấp dưỡng cao để nhằm làm gây áp lực cho bên kia. Có những vụ chỉ yêu cầu
cấp dưỡng trên dưới 01 triệu đồng/tháng/cháu nhưng cũng rất nhiều vụ tranh
chấp yêu cầu cấp dưỡng hàng chục triệu đồng/tháng/cháu… Hầu hết các tranh
chấp căng thẳng đều có nguyên nhân là do pháp luật chưa có quy định thật chi
tiết, phù hợp với một số trường hợp cụ thể; tuy nhiên cũng không loại trừ
nguyên nhân do các bên tranh chấp chưa hiểu đúng quy định của pháp luật,
không quan tâm đúng mức nhu cầu tình cảm, lợi ích thực sự của con, dẫn đến
tranh chấp kéo dài, gây khó khăn, tổn thương cho cả đôi bên và con cái.
2.2.2.2. Quyền cấp dưỡng của trẻ em
Thực tiễn giải quyết tại Tòa án huyện Ea H’leo trước đây và hiện tại
thường vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số
24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là “Toà án phải xem xét
đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp
phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người
nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối
thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định
tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con”.
Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho con
sau khi bố mẹ ly hôn nên để xác định mức cấp dưỡng cụ thể, Tòa án thường
căn cứ vào chứng từ, hóa đơn... liên quan đến chi phí hợp lý để nuôi dưỡng,
50
chăm sóc con và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tuy nhiên, khi đọc và nghiên cứu một số bản án, quyết định Tòa án huyện
Ea H’leo về phần mức cấp dưỡng cho con và thấy rằng các đương sự thỏa thuận
và Tòa án quyết định mức cấp dưỡng nói chung còn rất thấp, chủ yếu thỏa thuận
và ấn định mức cấp dưỡng 500.000đ/tháng/con chung, 1.000.000đ/tháng/con
chung hoặc bằng một tháng lương tối thiểu là 1.490.000đ/tháng/con chung ...
Với mức cấp dưỡng như vậy thì có đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng hay không trong bối cảnh kinh tế xã hội như hiện nay. Bên
cạnh đó, nhiều vụ việc khi xác định mức cấp dưỡng cho con chưa tương xứng
với khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tòa án ấn định mức cấp
dưỡng chỉ xem xét thu nhập, khả năng của người có nghĩa vụ mà không xem
xét tới nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Trẻ em là đối tượng dễ bị
tổn thương, trẻ em rất cần được quan tâm, hỗ trợ kịp thời, đúng lúc.
Hiện nay bảo vệ quyền trẻ em phải tập trung bảo đảm quyền được sống
còn và quyền được phát triển của trẻ em: Bao gồm quyền của trẻ em được sống
cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại
và phát triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm
sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời; Những điều kiện
để trẻ em có thể phát triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc
học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động văn hóa, tiếp nhận thông tin, tự do tư
tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông
của cha mẹ để có thể phát triển hài hòa. Vì vậy, khi giải quyết Tòa án nên mạnh
dạn ấn định mức cấp dưỡng nuôi con phù hợp với mức đáp ứng nhu cầu thiết
yếu để con có điều kiện vật chất, tinh thần tốt hơn phù hợp với xu thế phát triển
của tình hình kinh tế chính trị đất nước Việt Nam nói riêng và toàn thế giới nói
chung.
Về phương thức cấp dưỡng, pháp luật quy định 02 hình thức: Cấp dưỡng
51
định kỳ và cấp dưỡng một lần. Việc cấp dưỡng trong các vụ việc HN&GĐ tại
TAND huyện Ea H’leo chủ yếu được thực hiện theo phương thức cấp dưỡng
theo định kỳ. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên
trong gia đình được quy định rất mềm dẻo, linh hoạt được quy định tại Điều
117 của Luật HN&GĐ 2014 tạo điều kiện cho các bên lựa chọn phương thức
dễ dàng, thuận lợi, phù hợp nhất trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Các
bên được thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc tài sản theo phương
thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm. Việc lựa chọn phương
thức nào trước hết dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, nếu các bên không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết căn cứ vào mức thu nhập của người
có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng trừ trường hợp cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ ly hôn theo
Nghị quyết: 02/2000 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, khi các bên không
thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng
tháng.
2.2.2.3. Quyền tài sản của trẻ em
Thời gian qua, tại TAND huyện Ea H’leo các vụ việc HN&GĐ liên quan
đến quyền tài sản của con chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong các vụ việc HN&GĐ.
Các vụ việc liên quan đến quyền tài sản của con khi bố mẹ ly hôn nhìn chung
được bảo đảm. Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn
bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng
không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc
áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy
từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý.
Khi cha mẹ ly hôn về nguyên tắc phân chia tài sản chỉ tiến hành chia tài
sản chung của vợ chồng. Việc con có được chia tài sản hay không phụ thuộc
vào thỏa thuận của cha mẹ. Cha mẹ có thể thỏa thuận thống nhất cho con hưởng
52
một phần tài sản. Nếu xác định là tài sản chung của gia đình thì sẽ được chia
phù hợp với công sức đóng góp của con trong quá trình tạo lập, duy trì và phát
triển tài sản. Chỉ phân chia phần tài sản của riêng vợ chồng mà không liên quan
đến con cái.
Cụ thể:
- Trường hợp 1: Bố mẹ thỏa thuận về việc để lại tài sản cho con. Trường
hợp cả hai cùng thỏa thuận thống nhất chia tài sản của mình cho con cái sau ly
hôn thì con cái có quyền được hưởng tài sản. Trường hợp không thể thỏa thuận
hay có tranh chấp thì Tòa án sẽ chia dựa trên tình hình thực tế và quy định của
pháp luật theo quy định tại Điều 59 của Luật HN&GĐ.
- Trường hợp 2: Con cái là đồng sở hữu chung tài sản với bố mẹ. Trong
trường hợp tài sản chung của hộ gia đình và con có tên trong sổ hộ khẩu tại thời
điểm xác lập quyền đối với tài sản đó hoặc có tên trong danh sách những người
đồng sử dụng, sở hữu. Khi vợ chồng ly hôn và tiến hành việc chia tài sản chung,
trong đó có tài sản của hộ gia đình thì con cũng được chia phần tài sản tương
ứng với phần quyền của con trong khối tài sản đó. Nếu tài sản có ghi nhận công
sức của con cái trong quá trình tạo lập, duy trì và phát triển thì khi xử lý tài sản
cũng vẫn phải đảm bảo quyền và lợi ích của con đối với tài sản đó.
Khi mua hoặc được nhận tặng cho, thừa kế chung. Việc con cái và cha
mẹ cùng mua hoặc được nhận tặng cho, thừa kế tài sản chung thì con cũng sẽ
có quyền và nghĩa vụ như cha mẹ đối với tài sản đó. Vì vậy, khi bố mẹ ly hôn
thì con cái vẫn sẽ được phân chia tài sản đó. Tài sản thuộc sở hữu của con sẽ
vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của con, không chia khi bố mẹ ly hôn.
2.3. Đánh giá về thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
2.3.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, có thể thấy số vụ việc về HN&GĐ mà TAND huyện Ea H’leo
53
thụ lý và giải quyết là rất lớn, trong đó chủ yếu là tranh chấp về ly hôn. Ngoài
ra, TAND huyện Ea H’leo cũng thụ lý các loại án tranh chấp về người trực tiếp
nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn; tranh chấp về nuôi
con, chia tài sản. . . .
Mặc dù số lượng lớn án sơ thẩm về HN&GĐ ở TAND huyện Ea H’leo
nhưng đa phần các vụ việc đều được giải quyết đúng thời hạn luật định, các bản
án, quyết định được ban hành là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp
luật. Để đạt được kết quả này, các Thẩm phán, Thư ký cũng như các cán bộ hỗ
trợ khác của TAND huyện Ea H’leo phải cố gắng rất nhiều.
Một ưu điểm lớn trong công tác thụ lý các vụ việc HN&GĐ của TAND
huyện Ea H’leo đó là không có đơn thư khiếu nại, tố cáo nào về hành vi vi
phạm quyền của phụ nữ và trẻ em của cán bộ công chức trong đơn vị. Điều này
khẳng định TAND huyện Ea H’leo đã bảo vệ một trong những quyền nhân thân
quan trọng của phụ nữ đó là quyền được ly hôn, người phụ nữ được giải phóng
khỏi mối quan hệ hôn nhân bế tắc mà ở đó mục đích hôn nhân không đạt được
và họ không muốn duy trì đời sống hôn nhân.
Thứ hai, dù là huyện miền núi, địa bàn rộng, dân cư sống thưa thớt, rải
rác ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, đặc biệt người đồng bào dân tộc
thiểu số phần lớn không am hiểu pháp luật, vẫn còn sử dụng các luật tục lạc
hậu để giải quyết các tranh chấp, các vi phạm pháp luật nhưng việc giải quyết,
xét xử các vụ việc nói chung, HN&GĐ nói riêng được quan tâm, bảo đảm chất
lượng. Hàng tuần, hàng tháng, các Thẩm phán phải báo cáo kết quả công việc,
các khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án cho các Phó Chánh án
phụ trách để tham mưu cho Chánh án về công tác chuyên môn, qua đó Tòa án
đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hướng dẫn đương
sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, chủ động xác minh, thu thập
chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật, chủ
54
động liên hệ làm việc trực tiếp với các cơ quan chức năng đang quản lý, lưu
giữ các nguồn chứng cứ để thu thập theo quy định của pháp luật làm căn cứ cho
việc giải quyết vụ án, chứ không thông qua con đường công văn làm kéo dài
thời gian giải quyết vụ án; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm
giải quyết án đạt chất lượng và tiến độ cao.
Thứ ba, mặc dù rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, khó khăn
về điều kiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ nhưng Tòa án nhân dân huyện
Ea H’Leo đã cố gắng triển khai công tác ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng
các phần mềm (03) do TAND tối cao triển khai vào công tác, hoạt động của
Tòa án nhằm đạt hiệu quả công tác tốt nhất. Ngoài ra còn thực hiện, công khai
minh bạch các hoạt động của Tòa án. Trang bị máy tính cho Thẩm phán, Thư
ký.... để thực hiện tác nghiệp tại phiên tòa, kết nối mạng Internet để thực hiện
việc truy cập thông tin, văn bản pháp luật phục vụ công tác. Qua đó, 100% cán
bộ công chức trong đơn vị đều sử dụng thành thạo và khai thác tốt các hệ thống,
chương trình phần mềm để phục vụ công tác.
Thứ tư, cán bộ công chức TAND huyện Ea H’Leo đã giúp đỡ, tuyên
truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tới đồng
bào buôn kết nghĩa, vận động nhân dân làm theo Hiến pháp và pháp luật, đặc
biệt hướng tới đối tượng phụ nữ. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo kết nghĩa
với buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ là buôn Krái, xã Ea Sol, huyện
Ea H’Leo. Cán bộ công chức TAND huyện Ea H’Leo đã giúp đỡ, tuyên truyền
các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tới đồng bào
buôn kết nghĩa, vận động nhân dân làm theo Hiến pháp và pháp luật.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
- Trong một số vụ việc, quyền của phụ nữ và trẻ em chưa được bảo đảm
55
trong các vụ việc HN&GĐ, nhất là các quyền lợi về tài sản, quyền chăm sóc
nuôi dưỡng con cái của phụ nữ; quyền về cấp dưỡng của trẻ em.
- Vẫn còn một số bản án, quyết định của TAND huyện Ea H’Leo quyền
của phụ nữ và trẻ em bị sửa do những sai sót, trong đó không ít bản án có những
sai phạm khá nghiêm trọng. Vì thế, một số quyền lợi của người phụ nữ và trẻ
em sẽ không được hoặc khó khôi phục.
- Còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử và còn khá nhiều vụ án tạm
đình chỉ chưa giải quyết dứt điểm. Một trong những yêu cầu cơ bản nhằm bảo
đảm hoạt động xét xử bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hoạt động xét xử
được tiến hành kịp thời và đúng thời hạn luật định. Bên cạnh việc trừng phạt
hành vi vi phạm pháp luật dân sự xâm hại quyền của phụ nữ và trẻ em thì hoạt
động xét xử của Tòa án còn nhằm khôi phục những quyền lợi của người phụ
nữ và trẻ em do hành vi xâm phạm hạn chế, tước bỏ. Xét xử không kịp thời
hoặc xét xử kéo dài không chỉ không bảo vệ được quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em, mà còn gây ra thiệt hại quyền, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần của các
đương sự.
- Còn hạn chế trong việc thu thập tài liệu chứng cứ vụ án, còn vi phạm
thủ tục tố tụng trong điều tra, thiết lập hồ sơ vụ án khiến cho vụ án bị xét xử lại
nhiều lần, ảnh hưởng đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Một là, hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em trong các
vụ việc HN&GĐ còn bất cập:
- Chưa đủ sự bảo vệ cho phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ.
Ví dụ, các trường hợp bạo lực gia đình đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng
và pháp luật vẫn chưa đủ để bảo vệ các nạn nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
- Các quy định pháp luật về việc giải quyết tranh chấp HN&GĐ chưa
đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của xã hội hiện nay. Điều này có thể dẫn
56
đến những tranh chấp kéo dài, gây tổn thương đến các bên liên quan.
- Các quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong hôn nhân chưa
thực sự minh bạch và công bằng. Trong một số trường hợp, phụ nữ và trẻ em
vẫn chưa được bảo vệ đúng mức.
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em chủ yếu dừng lại ở việc
khẳng định quyền của trẻ em và bổn phận cơ bản của cha mẹ, gia đình, xã hội
và các cơ quan nhà nước. Các quy định mang tính nguyên tắc, định hướng
chung chung, thiếu cụ thể. Sự tản mạn, thiếu thống nhất của các văn bản luật
về quyền dẫn đến khó khăn áp dụng trên thực tế. Các luật có liên quan không
đồng bộ, đầy đủ nên dẫn tới việc giải quyết chưa có cơ sở pháp lý cũng như
không có quy định pháp lý chế tài để xử lý khi vi phạm.
Thứ hai, trình độ, năng lực của các chức danh tư pháp thuộc hệ thống
TAND huyện Ea H’Leo còn hạn chế, chưa đồng đều. Hệ thống tư pháp và các
chức danh thuộc TAND đang phát triển tại huyện Ea H’Leo, tuy nhiên trình độ
và năng lực của các chức danh tư pháp vẫn còn hạn chế và chưa đồng đều. Một
số nguyên nhân dẫn đến trình độ và năng lực của các chức danh tư pháp chưa
đạt yêu cầu bao gồm hạn chế về giáo dục và đào tạo, do ở vùng dân tộc thiểu
số. Việc thiếu đồng đều về trình độ và năng lực của các chức danh tư pháp có
thể gây ra sự chênh lệch trong quyết định của TAND huyện Ea H’Leo và ảnh
hưởng đến sự công bằng và hiệu quả của hệ thống tư pháp.
Vì vậy, cần phải có những biện pháp để cải thiện trình độ và năng lực
của các chức danh tư pháp, như đầu tư vào đào tạo và nâng cao kiến thức chuyên
môn, đánh giá và kiểm tra chất lượng đối với các chức danh tư pháp và cải thiện
điều kiện làm việc của họ. Điều này sẽ giúp đảm bảo sự công bằng và hiệu quả
của hệ thống tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Thứ ba, hoạt động của TAND trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại
huyện Ea H’Leo còn gặp nhiều bất cập, hạn chế, bao gồm:
57
- Thời gian giải quyết kéo dài: Thời gian giải quyết các vụ án HN&GĐ
thường rất dài, kéo dài đến nhiều năm. Điều này gây ra nhiều bất tiện và khó
khăn cho các bên liên quan và ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của họ.
- Chưa phát huy hết giá trị của công tác hoà giải.
- Cơ sở vật chất và việc ứng dụng công nghệ thông tin của TAND còn
gặp nhiều hạn chế. Toà án huyện vẫn đang sử dụng các thiết bị, phần mềm,
phương tiện làm việc cũ kỹ, thiếu hiện đại và không đáp ứng được nhu cầu sử
dụng. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết các vụ án, làm
giảm hiệu quả của hoạt động của toà án. Việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong các hoạt động của toà án vẫn còn chưa được triển khai đầy đủ.
- Cơ chế phối hợp chưa hiệu quả giữa các cơ quan như TAND, Viện
Kiểm sát nhân dân và các cơ quan, tổ chức trên địa bàn huyện Ea H’Leo.
Thứ tư, trình độ văn hoá, hiểu biết pháp luật của phụ nữ và trẻ em ở vùng
dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn còn thấp. Ở các vùng dân tộc thiểu số
và kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá và hiểu biết pháp luật của phụ nữ và trẻ
em thường rất thấp do nhiều yếu tố khác nhau như hạn chế trong việc tiếp cận
giáo dục, nghèo đói, và thiếu nhận thức về quyền lợi của mình.
Ở những vùng này, có thể tồn tại những thực trạng văn hóa và truyền
thống gây phân biệt đối xử đối với phụ nữ và trẻ em, chẳng hạn như hôn nhân
sớm và giới hạn quyền tiếp cận giáo dục cho các bé gái. Điều này có thể dẫn
đến sự thiếu nhận thức về quyền lợi và bảo vệ pháp lý của họ. Hơn nữa, sự thiếu
hụt trong việc tiếp cận các dịch vụ và thông tin pháp lý ở các vùng này cũng
khiến cho phụ nữ và trẻ em gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công lý và bảo
vệ quyền lợi của mình.
58
Tiểu kết chương 2
Như vậy, thời gian qua, nhìn chung các vụ việc về HN&GĐ đã được
TAND huyện Ea H’Leo giải quyết cơ bản bảo đảm đúng thời hạn luật định, áp
dụng đúng pháp luật, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự (nhất là phụ nữ và trẻ em), góp phần tạo ra môi trường pháp lý an toàn, đảm
bảo an toàn trật tự xã hội góp phần vào việc phát triển kinh tế tại địa phương.
Bên cạnh đó, TAND huyện Ea H’Leo đã áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ để
đẩy nhanh tiến độ chất lượng giải quyết, xét xử các loại án, đồng thời cũng nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, ban hành các bản án, quyết định
đúng pháp luật, đúng thời hạn, không có bản án hay quyết định tuyên không rõ
ràng gây khó khăn cho công tác Thi hành án.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, việc bảo đảm quyền của phụ
nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện còn một số hạn chế,
bất cập. Quyền về HN&GĐ của phụ nữ trong một số trường hợp vẫn bị xâm
phạm, nhất là quyền về tài sản. Quyền của trẻ em về chăm sóc, nuôi dưỡng và
cấp dưỡng còn chưa được quan tâm đúng mức. Còn một số bản án, quyết định
của TAND huyện Ea H’leo về HN&GĐ vẫn có những điểm chưa đúng pháp
luật, chưa hợp lý, bị toà án cấp trên huỷ một số nội dung. Việc nhận thức đúng
và đầy đủ các hạn chế và nguyên nhân trên sẽ là cơ sở để đề ra các giải pháp
bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND
huyện Ea H’Leo trong thời gian tới.
59
Chương 3.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TOÀ ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Sự cần thiết phải bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong
giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện
Ea H’leo, tỉnh Đắk Lăk
Việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc
HN&GĐ tại TAND nói chung, TAND huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk là vô
cùng cần thiết, bởi vì:
Thứ nhất, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ
việc HN&GĐ là hiện thực hoá quyền con người, quyền công dân đã được Hiến
pháp và pháp luật ghi nhận. Trong các vụ việc HN&GĐ, phụ nữ và trẻ em
thường là những bên yếu thế và dễ bị tổn thương. Vì vậy, bảo đảm quyền của
họ trong việc giải quyết các vụ việc này là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi
và lợi ích của họ. Bảo vệ bà mẹ và trẻ em được khẳng định trong đạo luật cao
nhất của Nhà nước ta, là tư tưởng chỉ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
do đó là nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ. Bà mẹ và trẻ em nói chung cần
được bảo vệ, đặc biệt là các bà mẹ đơn thân.
Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm về thể chất và tinh thần, phụ nữ và trẻ em
là đối tượng cần được pháp luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Đặc biệt, khi làm
mẹ, người phụ nữ phải thực hiện thiên chức của mình là nuôi con bằng sữa mẹ.
Trên cơ sở lý luận và nghiên cứu thực nghiệm, các nhà tâm lý học và giáo dục
học đã kết luận rằng ảnh hưởng của người mẹ đối với tình cảm, nhân cách và
sự nghiệp của con lớn hơn rất nhiều so với người cha. Vì vậy, bảo vệ bà mẹ
nhằm đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó và có ý
60
nghĩa rất lớn trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Bảo vệ
bà mẹ và trẻ em là trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Nhà nước,
xã hội, và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ
thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
Thứ ba, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc
HN&GĐ tạo cơ sở tôn trọng và thúc đẩy bình đẳng giới. Bảo đảm quyền của
phụ nữ trong các vụ việc HN&GĐ là một cách để thể hiện tôn trọng và thúc
đẩy bình đẳng giới. Các quyền lợi của phụ nữ cần được bảo vệ đầy đủ và chính
đáng, không được phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Tham gia tố tụng dân sự,
đương sự nào trong vụ việc dân sự cũng luôn có nhu cầu cần được Tòa án bảo
vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Tuy nhiên, nếu pháp luật tố tụng dân
sự chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền bình đẳng của đương sự thì rất có thể
quyền này sẽ không được thực hiện hoặc được thực hiện không hiệu quả bởi
quyền này không chỉ phụ thuộc vào đương sự có thực hiện hay không mà còn
phụ thuộc vào các chủ thể có liên quan như Tòa án, Viện kiểm sát, các cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác trong xã hội... Như vậy, để có thể bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự, pháp luật tố tụng dân sự cần có các quy định về bảo
đảm quyền bình đẳng của đương sự từ phía Tòa án, Viện kiểm sát và các chủ
thể khác có liên quan.
Thứ tư, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc
HN&GĐ là cơ sở tạo môi trường lành mạnh cho gia đình và xã hội: Việc bảo
đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ có thể
tạo ra một môi trường lành mạnh cho gia đình và xã hội. Khi các vụ việc này
được giải quyết một cách công bằng và hiệu quả, có thể giúp giảm bớt căng
thẳng và xung đột trong gia đình, đồng thời tăng cường sự ổn định của xã hội.
Thứ năm, xuất phát từ thực tiễn bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo vẫn còn những
61
hạn chế, bất cập. Vấn đề bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong các vụ tranh chấp quyền
lợi về HN&GĐ trên thực tế ngày càng phức tạp, khó khăn. Thiếu hiểu biết về
luật pháp, không có thói quen cũng như khả năng sử dụng luật pháp để bảo vệ
quyền lợi của bản thân và các con là nguyên nhân dẫn đến việc chị em phụ nữ
phải chịu nhiều thiệt thòi trong các vụ án ly hôn, tranh chấp tài sản. Rõ ràng,
việc giáo dục, phổ biến pháp luật để chị em ý thức được về quyền lợi cũng như
những quy định của pháp luật bảo vệ họ là vô cùng cần thiết nhưng vẫn chưa
được quan tâm đúng mức. Nhất là ở khu vực Tây Nguyên, do chịu ảnh hưởng
của văn hóa địa phương, nhiều chị em vẫn sống theo mẫu hình truyền thống,
hy sinh vì chồng, con, gia đình, mà quên đi quyền lợi của bản thân. Đặc biệt là
phụ nữ nông thôn, nghèo, ở vùng sâu, vùng xa… ít có điều kiện tiếp cận nâng
cao nhận thức về pháp luật nên thường phải chịu thiệt thòi.
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết
vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh
Đắk Lắk
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
nhằm đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân
và gia đình tại Toà án nhân dân
Thứ nhất, đề nghị sửa đổi các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhằm
bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em:
Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về quyền và nghĩa vụ của đương sự để rõ hơn quyền bình đẳng của phụ nữ trong
tố tụng dân sự. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Điều 70 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 để khẳng định rõ hơn quyền bình đẳng của đương sự là
phụ nữ trong tố tụng dân sự. Bổ sung điều luật quy định về quyền, nghĩa vụ của
đương sự trong việc dân sự để đương sự trong việc dân sự bình đẳng với đương
sự trong vụ án dân sự. Bổ sung quyền đưa ra yêu cầu của bị đơn tại Điều 72
62
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để bảo đảm hơn nữa quyền bình đẳng
giữa bị đơn với các đương sự khác. Bổ sung nội dung Điều 112 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 để nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm
quyền bình đẳng giữa các đương sự khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Bổ sung quy định tại Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về thời hạn Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự để nâng
cao trách nhiệm của Tòa án phải tiếp tục giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền bình
đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự. Bên cạnh chức năng kiểm sát của Viện
kiểm sát tại phiên tòa xét xử, cần tăng cường sự kiểm sát của Viện kiểm sát
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là giải pháp phù hợp để bảo đảm quyền bình
đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự. Khoản 2 Điều 97 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đã quy định rõ Tòa án có thể thu thập chứng cứ bằng các biện
pháp cụ thể nhưng chưa có quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ mà
Viện kiểm sát được tiến hành. Viện kiểm sát cũng là một cơ quan tiến hành tố
tụng dân sự như Tòa án nên sẽ là phù hợp nếu Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
bổ sung quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát thu thập tài liệu,
chứng cứ bằng các biện pháp được quy định tại khoản 2 Điều 97 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015” [42].
Ngoài ra, sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về trách nhiệm của cơ quan tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm quyền bình
đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự. Bổ sung nội dung của nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền,
đồng thời, nghiên cứu bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải có trách nhiệm phối hợp với Tòa án ban hành bộ tập quán dùng làm
căn cứ để giải quyết vụ án trong trường hợp chưa có luật áp dụng.
63
Thứ hai, sửa đổi một số nội dung của Luật HN&GĐ năm 2014:
Về vấn đề ly hôn: Cần có quy định, hướng dẫn cụ thể hơn về những nội
dung có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, như “thật sự tự nguyện ly hôn”,
“vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”, “người mẹ không đủ
điều kiện”… để tránh việc áp dụng không thống nhất, phụ thuộc vào đánh giá
chủ quan của người có thẩm quyền, như thẩm phán, kiểm sát viên. Cần có cơ
chế pháp lý để bảo vệ hiệu quả hơn quyền, lợi ích của các bên liên quan trong
thực hiện quyền lưu cư của vợ chồng khi ly hôn; quyền của con dâu, con rể khi
sống chung với gia đình nhà chồng, nhà vợ; quyền của cha, mẹ không trực tiếp
nuôi con; quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con…
Vấn đề ly thân: Luật HN&GĐ chưa quy định về chế định ly thân nhưng
thực tế hiện tượng này vẫn xảy ra. Do đó, đề nghị nghiên cứu ghi nhận chế định
ly thân trong Luật. Việc quy định chế định ly thân sẽ bảo đảm tốt hơn quyền
lợi của các con, các thành viên khác trong gia đình; minh bạch hóa các giao
dịch dân sự, kinh tế do một bên vợ, chồng thực hiện... Bên cạnh đó, ly thân còn
là một biện pháp giúp các bên vợ, chồng tránh tình trạng bạo lực gia đình, tạo
điều kiện cho vợ chồng có thời gian để cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tiến tới
quyết định ly hôn... Trường hợp chưa ghi nhận chế định độc lập về ly thân thì
cần nghiên cứu bổ sung ly thân là một căn cứ cho ly hôn [43].
Về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em: Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quyền, bảo đảm sự toàn diện, đồng bộ, thống nhất của các luật chuyên ngành.
Loại bỏ sự mâu thuẫn, chồng chéo cũng như các quy định pháp luật cần cụ thể,
đảm bảo tính khả thi của cả hệ thống pháp luật. Những quy định trong văn bản
luật về quyền cần định tính hơn chứ không dừng lại ở nguyên tắc hay định
hướng chung chung như hiện nay. Bổ sung các quy định biện pháp xử lý đối
với hành vi vi phạm nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với cha mẹ, gia đình,
nhà trường trên cả phương diện hành chính và hình sự. Các quy định của pháp
64
luật quốc gia phải trên cơ sở phù hợp với các quy định Công ước, phong tục
tập quán dân tộc cũng như trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì
vậy, tình trạng trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn còn khá phổ biến. Do đó,
pháp luật cần có chế tài nghiêm khắc hơn cũng như kiên quyết xử lý đối với
những người có hành vi vi phạm vấn đề này. Nhà nước cần đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục cho người dân về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối
với con khi ly hôn, để người cha, người mẹ tự nguyện thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của con khi cha mẹ ly hôn.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật và thực hiện bảo vệ quyền lợi trẻ em, nhất
là nguy cơ bị xâm hại. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về bảo
vệ trẻ em, phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm bạo lực, xâm hại/xâm hại tình
dục trẻ em. Trước hết là các quy định về giám định pháp y trong pháp luật về
giám định tư pháp để bảo đảm các vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em
được điều tra nhanh chóng, thu thập kịp thời, đầy đủ bằng chứng; tăng quyền
yêu cầu giám định cho cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em; có sự phối hợp giữa
công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân với thu thập, cung cấp chứng cứ xâm hại trẻ
em cho quá trình tư pháp. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về tố tụng hình sự để bảo
đảm việc điều tra, xét xử vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em
không có nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em là nạn nhân. Sửa đổi, bổ sung pháp
luật xử lý vi phạm hành chính để tăng mức xử phạt hành chính hành vi bạo lực
đối với trẻ em. Quy định chế tài xử lý việc phản ánh vụ việc bạo lực, xâm hại,
xâm hại tình dục trẻ em trên các phương tiện thông tin đại chúng vi phạm quyền
bí mật đời sống riêng tư của trẻ em.
Bên cạnh đó, triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp
năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, Luật HN&GĐ năm 2014… và các văn bản
hướng dẫn thực hiện; ưu tiên bố trí nguồn lực để bảo đảm việc hỗ trợ, can thiệp
65
cho trẻ em khi bị bạo lực, xâm hại… Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng
bảo vệ trẻ em, đặc biệt về phòng ngừa xâm hại tình dục và bạo lực đối với trẻ
em cho cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ, người trực tiếp làm việc với trẻ
em và kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình trước các nguy cơ bị xâm hại cho trẻ
em.
Ngoài ra, các bộ, ban, ngành, địa phương… cần nghiêm túc thực hiện
Chỉ thị số: 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng
cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em (Chỉ thị số 18/CT-TTg),
thường xuyên kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện quy định
của pháp luật về bảo vệ trẻ em và Chỉ thị số: 18/CT-TTg [14]. Bộ Công an, Tòa
án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao rà soát hồ sơ, vụ việc
bạo lực, xâm hại trẻ em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài; tiếp
nhận, giải quyết kịp thời, xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em;
kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi bao che, chậm trễ, cố
tình kéo dài hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em.
3.2.2. Giải pháp cụ thể bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo,
tỉnh Đắk Lắk
3.2.2.1. Nâng cao nhận thức của phụ nữ, trẻ em và Nhân dân về quyền
của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
Việc nâng cao nhận thức của phụ nữ, trẻ em và Nhân dân về quyền của
phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ là rất quan trọng để đảm
bảo quyền lợi và sự bảo vệ cho họ. Trong các vụ việc tại TAND huyện
Ea H’leo, lý do dẫn đến hôn nhân đổ vỡ phần lớn là do hành vi bạo lực, vi phạm
pháp luật của người chồng, gây ảnh hưởng đến tinh thần của người vợ và trẻ
em trong gia đình. Người vợ đều là người cố gắng chịu đựng để mong hàn gắn,
nhưng tâm lý cam chịu không thể giúp hôn nhân có thể hoà hợp. Hành vi bạo
66
lực gia đình, trẻ em là vi phạm pháp luật hôn nhân gia đình, vi phạm quyền con
người, làm tổn hại đến hạnh phúc gia đình.
Để khắc phục được tình trạng trên, các cơ quan, đoàn thể cần tăng cường,
quan tâm hơn nữa, để phát huy tối đa vai trò trong việc tư vấn về hôn nhân gia
đình, tuyên truyền giáo dục gia đình, hỗ trợ phụ nữ kiến thức phòng, chống bạo
lực gia đình nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc theo
quy định tại khoản 4 Điều 3 của Luật hôn nhân gia đình 2014 và khoản 1 Điều
1 Điều lệ Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam. Thông qua các hoạt động tuyên
truyền, truyền thông, phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các ngành chức
năng trong việc tổ chức thực hiện tốt Luật Phòng chống bạo lực gia đình.
Đồng thời tăng cường nắm tình hình các gia đình tại địa bàn thông qua
hoạt động của tổ chức Hội phụ nữ kết hợp công tác quản lý nhân khẩu của chính
quyền địa phương để kịp thời phát hiện dấu hiệu, nguy cơ bạo lực gia đình để
tuyên truyền, vận động, làm rõ một trong những nguyên nhân chính của bạo
lực gia đình là sự bất bình đẳng giới, là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, từ đó
giúp cho người chồng, người vợ khắc phục những tồn tại, thay đổi nhận thức,
hành vi trong ứng xử về gia đình.
Đặc biệt, một trong những hình thức có hiệu quả trong công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến đối tượng là phụ nữ, trẻ em là việc tổ
chức xây dựng các mô hình Câu lạc bộ pháp luật như: Câu lạc bộ “Phụ nữ với
pháp luật”, trong đó, Hội Phụ nữ đã phối hợp với cơ quan Tư pháp các cấp
thành lập các Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” tại các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện. Tuỳ theo nhu cầu và điều kiện thực tế, các Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp
luật” xây dựng nội dung sinh hoạt phù hợp với tình hình địa phương để tuyên
truyền, trợ giúp pháp lý cho hội viên các vấn đề về: Dân sự, hôn nhân và gia
đình, bạo lực gia đình, bình đẳng giới, chính sách đối với người có công, trẻ
em... Với hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú, nội dung sinh hoạt thiết thực,
67
bổ ích gần gũi với thực tế cuộc sống, không khí sinh hoạt vui tươi, cởi mở...
các thành viên trong Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” cùng trao đổi, thảo luận,
chia sẻ về những kinh nghiệm thực tế cuộc sống, từ đó chuyển tải các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách dễ
hiểu, dễ nhớ, thu hút đông đảo hội viên, phụ nữ tham gia.
Qua hoạt động Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”, giúp các thành viên
nâng cao hiểu biết pháp luật để thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, thiên chức của
người vợ, người mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Các hội viên của Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” là những nhân tố gương
mẫu chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước và các quy định của địa phương. Là những tuyên truyền viên tích cực
tham gia tuyên truyền pháp luật đến với người dân. Từ đó, góp phần nâng cao
trình độ hiểu biết, nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ để có thể
tự bảo vệ mình và con cái.
3.2.2.2. Nâng cao năng lực và đổi mới hoạt động của Toà án nhân dân
huyện Ea H’leo trong giải quyết các vụ việc hôn nhân, gia đình
Một là, nâng cao năng lực các chức danh tư pháp thuộc TAND nhằm bảo
vệ tốt hơn quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ. Xét cho
cùng, chất lượng hoạt động xét xử và uy tín của tòa án là do cán bộ tòa án, nhất
là đội ngũ Thẩm phán quyết định. Thẩm phán vinh dự được giao nhiệm vụ bảo
vệ, thực thi công lý, nhưng cũng phải chịu rất nhiều áp lực, khó khăn, vất vả
trên con đường đi tìm sự thật mà trong nhiều trường hợp được che giấu rất tinh
vi và chuyên nghiệp. Quá trình mang lại công lý, công bằng cho xã hội, Thẩm
phán phải đối mặt với cả rủi ro, nguy hiểm, thậm chí là những cám dỗ vật chất.
Vì vậy, đổi mới tổ chức bộ máy phải gắn với việc không ngừng nâng cao chất
lượng và bản lĩnh của đội ngũ cán bộ, thẩm phán để họ vượt qua được khó khăn,
thách thức và hoàn thành tốt sứ mệnh được giao.
68
Thời gian tới, TAND huyện phải tiếp tục tăng cường xây dựng và chỉnh
đốn Đảng; thực hiện nghiêm các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII), gắn với thực hiện Chỉ thị số: 05-CT/TW,
của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”. Đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Tăng cường giáo dục chính
trị, tư tưởng; tổ chức thực hiện Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán
một cách thực chất, đồng thời áp dụng nghiêm các quy định về xử lý các chức
danh tư pháp trong TAND.
Hai là, bảo đảm số lượng biên chế để TAND huyện đáp ứng tốt yêu cầu,
nhiệm vụ. Qua thực tiễn hoạt động cho thấy, biên chế của TAND thiếu rất nhiều
so với yêu cầu, nhiệm vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác nói
chung, xét xử các vụ vụ HN&GĐ nói riêng. Trước sự phát triển kinh tế - xã
hội, tính chất các loại vụ, việc ngày càng phức tạp, phát sinh nhiều loại tranh
chấp về HN&GĐ. Để khẩn trương khắc phục những bất cập, khó khăn nêu trên,
Ban cán sự đảng TAND tối cao đã triển khai xây dựng Đề án vị trí việc làm,
Đề án đổi mới tổ chức bộ máy TAND và một số đề án khác để trình cấp có
thẩm quyền. Các đề án đều xác định nguyên tắc phân bổ biên chế trong hệ thống
TAND phải căn cứ vào: Vị trí việc làm; quy mô dân số, diện tích tự nhiên; quy
mô phát triển kinh tế - xã hội; tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm; số
lượng, tính chất phức tạp của các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền giải quyết;
chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật giao thêm cho tòa án [44].
Ba là, tăng cường công tác hòa giải trong các vụ việc HN&GĐ. Trong
công tác giải quyết vụ việc HN&GĐ, TAND huyện Ea H’Leo cần coi trọng
nguyên tắc: “Một vụ việc chỉ được giải quyết dứt điểm và có hiệu quả cao thông
qua hòa giải”. Vụ án hòa giải thành sẽ tạo ra hiệu quả pháp lý tốt vì các bên đã
tự nguyện thỏa thuận hòa giải thì họ sẽ tôn trọng và thực hiện, từ đó góp phần
69
tăng cường sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Đây là phương thức giải quyết
vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của đương sự; nếu việc hòa giải
thành công sẽ mang lại hiệu quả cao, góp phần giảm kinh phí giải quyết tranh
chấp cho cả Nhà nước và các đương sự. Do vậy, kiên trì hòa giải là một biện
pháp quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và chỉ khi nào không
còn khả năng hòa giải mới phải đưa vụ án ra xét xử.
Để đạt được ý nghĩa của công tác hòa giải trong công tác giải quyết án,
Chánh án TAND huyện cần tiếp tục chỉ đạo các Thẩm phán phải đặc biệt chú
trọng học hỏi để nâng cao kỹ năng, phương pháp hòa giải hòa giải theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong tổng số án đã giải quyết, thông thường
các vụ án phải đưa ra xét xử là những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự hoặc liên quan đến
nhiều cơ quan, tổ chức. Từ kết quả hòa giải đạt tỷ lệ cao trong số các vụ
HN&GĐ sẽ góp phần làm ổn định, lành mạnh hóa đời sống xã hội, môi trường
kinh doanh tại địa phương.
Bốn là, đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất,
đảm bảo dân chủ, công khai đúng quy định của pháp luật. TAND huyện
Ea H’Leo cần thực hiện nhiều biện pháp thiết thực và hiệu quả nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng tại phiên tòa như phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân
huyện, Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tổ chức nhiều phiên
toà dân sự, HN&GĐ rút kinh nghiệm cho thẩm phán, qua đó nâng cao nghiệp
vụ chuyên môn cho các Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong công tác
điều hành, xử lý tình huống diễn ra tại phiên tòa. Để từ đó, nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa, góp phần không để xảy ra án sai, án bị hủy, bị cải
sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
Năm là, thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động, nội quy, quy chế hoạt
70
động của cơ quan. Để thực hiện tốt về nhiệm vụ công tác, ngoài các giải pháp
nêu trên, TAND huyện Ea H’Leo cần thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động,
theo đó, lãnh đạo đơn vị tổ chức giao ban, hội ý Thẩm phán vào thứ 2 hàng tuần
để báo cáo, triển khai các nhiệm vụ công tác trong tuần, góp ý về các vướng
mắc đối với các vụ án có vướng mắc về mặt chuyên môn, nghiệp vụ... Ngoài
ra hàng tháng, Thẩm phán phải báo cáo với Chánh án số lượng án đã giải quyết,
số án còn tồn đọng chưa giải quyết, nguyên nhân và hướng khắc phục, phương
hướng, giải pháp để đẩy nhanh tiến độ giải quyết. Đặc biệt, đối với cán bộ công
chức cơ quan phải luôn chấp hành kỷ luật lao động, không đi muộn về sớm, đi
báo việc về báo công, qua đó giúp cho lãnh đạo cơ quan quản lý, điều hành tốt
về mọi mặt hoạt động của đơn vị.
Sáu là, tăng cường hướng dẫn công tác xét xử, kiểm tra, kiểm soát hoạt
động tố tụng về HN&GĐ liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em. Trước
tiên, cần có sự đào tạo và huấn luyện cho các cán bộ xét xử, kiểm tra và kiểm
soát hoạt động tố tụng liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em. Những người
này cần được trang bị kiến thức chuyên môn và kỹ năng về tư vấn, hỗ trợ và
bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án liên quan đến HN&GĐ và
quyền của trẻ em. Cần có các quy trình và hướng dẫn rõ ràng và chi tiết về các
vấn đề liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án liên quan đến
HN&GĐ và quyền của trẻ em. Những quy trình này cần đảm bảo tính minh
bạch và công bằng trong quá trình tố tụng, và đảm bảo rằng các quyền và lợi
ích của phụ nữ và trẻ em được bảo vệ.
Bên cạnh đó, cần có các cơ chế kiểm soát và giám sát hoạt động tố tụng
để đảm bảo tính hiệu quả và đúng đắn của quá trình xét xử và tuyên án. Những
cơ chế này cần đảm bảo tính độc lập và khách quan của các cơ quan giám sát,
và đảm bảo rằng các quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em được đảm bảo.
71
Ngoài ra, cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và tổ
chức xã hội để đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án liên quan
đến HN&GĐ và quyền của trẻ em. Các tổ chức này cần hỗ trợ và tư vấn cho
các nạn nhân, đồng thời đảm bảo rằng các quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ
em được bảo vệ trong quá trình tố tụng.
3.2.2.3. Tăng cường phối hợp liên ngành ở địa phương trong giải quyết
các vụ việc hôn nhân và gia đình
- Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ án, các việc dân sự, TAND
huyện Ea H’Leo cần thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự,
hướng dẫn đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, chủ động
xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định
của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan.
- TAND huyện Ea H’Leo cần tăng cường các phiên tòa rút kinh nghiệm.
Trong công tác xét xử lưu động, TAND huyện Ea H’Leo cần phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan hữu quan như Công an huyện, Viện kiểm sát nhân dân huyện
lên kế hoạch chi tiết, để cho việc xét xử đảm bảo được tính trang nghiêm của
phiên tòa, lựa chọn những vụ án có tính trọng điểm, có ảnh hưởng lớn đến tình
hình bảo vệ quyền lợi phụ nữ, trẻ em ở địa phương.
- Cần tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Lãnh đạo đơn vị đã tổ
chức quán triệt và việc triển khai tổ chức phiên tòa trực tuyến theo đúng quy
định của pháp luật như: Phố hợp liên ngành giữa Tòa án, Viện kiểm sát, mua
sắm trang thiết bị, chuẩn bị đường truyền, kỹ thuật...
- TAND huyện Ea H’Leo cần tiếp tục tham mưu cho Thường trực huyện
ủy về tầm quan trọng của công tác xét xử các vụ án liên quan đến chức vụ, các
vụ án có tính chất phức tạp, liên quan đến tình hình an ninh chính trị tại địa
72
phương nên đã nhận được sự quan tâm sát sao của Thường trực huyện ủy, qua
đó có văn bản chỉ đạo cho các cơ quan, ban ngành phối hợp chặt chẽ với Tòa
án, Hội đồng nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân huyện bố trí một phần ngân
sách hỗ trợ, Phòng văn hóa thông tin cử phóng viên đưa tin....do vậy công tác
xét xử các loại vụ án này luôn đạt được kết quả tuyên truyền Pháp luật rất cao.
Đặc biệt, đối với các vụ án có tính chất điển hình, được dư luận xã hội
quan tâm, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự và chính trị tại địa phương,
như bạo lực gia đình, các hủ tục lạc hậu, xâm phạm quyền con người và các vụ
việc HN&GĐ khác đang nổi lên là vấn đề nhức nhối tại địa phương nói riêng
và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói chung; làm cho nhân dân hết sức lo lắng, ảnh
hưởng đến tài sản, và đặc biệt gây ra hậu quả lâu dài cho việc phát triển kinh tế
của người nông dân.
3.2.2.4. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi của bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân trong giải quyết các vụ việc hôn nhân
và gia đình
Điều 106 của Hiến pháp năm 2013 đã xác định: Bản án, quyết định của
Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đối
với vụ việc HN&GĐ, quyền của phụ nữ, trẻ em chỉ có thể hiện thực hoá nếu
như bản án, quyết định của TAND được thực thi nghiêm chỉnh; ngược lại,
quyền của họ sẽ bị xâm phạm, hình thức.
Một là, việc xác minh điều kiện thi hành bản án, quyết định của TAND
về HN&GĐ phải được tiến hành và được áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
trước khi xét xử; nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, trốn trách việc thi
hành án; khắc phục một phần tình trạng bản án, quyết định của Toà án có hiệu
lực pháp luật chỉ có ý nghĩa trên giấy nhưng không đủ điều kiện để thi hành
trong thực tế.
73
Hai là, bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo thủ tục thi hành
án dân sự cần bổ sung phần chỉ dẫn cho người được thi hành án dân sự. Khắc
phục tình trạng người được thi hành án không biết cơ quan thi hành án dân sự
nào có thẩm quyền tổ chức thi hành; không biết làm đơn yêu cầu thi hành án
và nội dung chính của đơn yêu cầu thi hành án dân sự gồm những phần gì;
không biết quyền và nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án.
Vì vậy bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo thủ tục thi hành
án dân sự cần bổ sung phần chỉ dẫn cho người được thi hành án dân sự: Theo
bản án, quyết định… người được thi hành án có quyền thoả thuận về thi hành
án … có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự … tổ chức thi hành. Đơn
yêu cầu thi hành án dân sự phải có các nội dung chính là: Họ, tên, địa chỉ của
người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; họ, tên, địa chỉ của
người được thi hành án, người phải thi hành án; nội dung yêu cầu thi hành án;
thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Trường hợp người được thi hành án không có thông tin về tài sản hoặc điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án để ghi vào đơn yêu cầu thi hành án;
thì có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi
hành án. Nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà
không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh và phải chịu các chi phí
xác minh theo quy định tại Điều 73 của Luật thi hành án dân sự [21].
Ba là, biện pháp khuyến khích người phải thi hành bản án, quyết định
của TAND về HN&GĐ tự nguyện thi hành phải được tiến hành khi Toà tuyên
án và được ghi trong án văn. Thực tiễn công tác thi hành án các vụ việc
HN&GĐ tại địa phương cho thấy, nếu đương sự tự nguyện thi hành, không phải
tổ chức cưỡng chế thi hành sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, tiền của, công
sức của Chấp hành viên, Cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức
74
có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án dân sự; thắt chặt được mối quan hệ
đoàn kết giữa các đương sự và nêu cao được ý thức chấp hành pháp luật của
công dân. Cho nên, không chờ đến khi bản án, quyết định có hiệu lực và có
quyết định thi hành án dân sự thì Nhà nước mới khuyến khích tự nguyện thi
hành, mà biện pháp khuyến khích này nên được tiến hành khi Toà tuyên án và
được ghi trong án văn “Nếu người phải thi hành án dân sự tự nguyện thi hành
sớm thì không phải chịu lãi suất cơ bản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
tương ứng số tiền và thời gian chậm thi hành án; không bị áp dụng biện pháp
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế và phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại Điều 66, Điều 71 và Điều 73 của Luật thi hành án dân sự”.
Bốn là, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức nơi người
phải thi hành bản án, quyết định của TAND về HN&GĐ cư trú, công tác, có
trụ sở hoặc có tài sản trong thi hành án dân sự. Luật thi hành án dân sự năm
2008 (sửa đổi) có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp
xã (Điều 175); nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức được giao theo dõi,
quản lý người đang chấp hành hình phạt tù (Điều 180) đã góp phần tháo gỡ
được nhiều khó khăn, vướng mắc, giảm được nhiều việc thi hành án tồn đọng,
so với thời kỳ áp dụng Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Trong thực tiễn
đã có nhiều cơ quan, tổ chức nơi có người phải thi hành án cư trú, công tác,
mặc dù không có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án dân sự,
nhưng các cơ quan, tổ chức này đã tôn trọng bản án, quyết định của Toà án,
tích cực tác động, giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi
hành. Ngược lại, cũng có một số cơ quan, tổ chức nơi có người phải thi hành
án không quan tâm hoặc tác động ngược, giúp người phải thi hành án trốn tránh
việc thi hành án, làm cho việc thi hành án thêm phức tạp, khó thi hành.
Vì vậy, bổ sung các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ
chức nơi có người phải thi hành án cư trú, công tác cùng phối hợp thực hiện
75
các biện pháp thi hành án dân sự là cần thiết. Ngay sau khi bản án, quyết định
có hiệu lực thi hành do Toà án chuyển đến, thủ trưởng cơ quan, tổ chức, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, có trụ
sở hoặc có tài sản, có trách nhiệm phối hợp với Chấp hành viên và Cơ quan thi
hành án dân sự trong các việc: Thông báo về thi hành án, khuyến khích tự
nguyện thi hành, xác minh điều kiện thi hành án và áp dụng biện pháp bảo đảm,
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Nếu người phải thi hành án chưa chấp
hành xong nghĩa vụ dân sự theo án đã tuyên mà có đăng ký biến động nơi cư
trú, công tác hoặc chuyển nhượng, chứng thực chuyển dịch tài sản… thì thông
báo ngay cho cơ quan thi hành án dân sự biết để kịp thời áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án.
3.2.2.5. Đổi mới cải cách hành chính, bảo đảm cơ sở vật chất, áp dụng
công nghệ thông tin trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
Thứ nhất, TAND huyện Ea H’Leo cần đổi mới, cải cách thủ tục hành
chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân
dân khi có công việc liên quan đến Tòa án. Đối với án Dân sự, HN&GĐ của
TAND huyện tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp trong những năm qua.
Bên cạnh đó, là huyện miền núi, địa bàn rộng, dân cư sống thưa thớt, rải rác ở
vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, đặc biệt người đồng bào dân tộc thiểu
số phần lớn không am hiểu pháp luật, vẫn còn sử dụng các luật tục lạc hậu để
giải quyết các tranh chấp, các vi phạm pháp luật. Trước tình hình đó, TAND
huyện Ea H’Leo cần đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính
để tạo điều kiện tốt nhất, đơn giản và nhanh nhất cho nhân dân khi khởi kiện
hoặc các việc khác liên quan đến thẩm quyền của Tòa án.
Để thực hiện tốt điều này, Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo cần thành
lập Tổ Hành chính tư pháp thuộc Văn phòng Tòa án, trực tiếp nhận đơn khởi kiện
qua công tác tiếp dân hoặc từ cán bộ văn thư, vào sổ nhận đơn, cấp giấy báo nhận
76
đơn cho người khởi kiện. Trong thời hạn luật định, Tổ Hành chính tư pháp phải ra
thông báo thụ lý đơn nếu hồ sơ đầy đủ, chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm
quyền nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác, trả lại đơn khởi
kiện hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành phân loại đơn khiếu
nại, tố cáo, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của đơn vị nào sẽ chuyển trực tiếp
đơn vị đó; tiếp nhận vào sổ thụ lý hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang; đối với
công tác tiếp dân, Tổ Hành chính tư pháp trực tiếp thực hiện.
Hàng tuần cần có lịch phân công lãnh đạo, cán bộ tiếp nhận, giải quyết
yêu cầu của công dân. Bộ phận này cũng tham mưu cho Chánh án trong công
tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo. Trong việc giải quyết, xét xử các vụ việc
HN&GĐ, yêu cầu hàng tuần, hàng tháng, các Thẩm phán phải báo cáo kết quả
công việc, các khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án cho các Phó
Chánh án phụ trách để tham mưu cho Chánh án về công tác chuyên môn, qua
đó Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hướng
dẫn đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, chủ động xác
minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định của
pháp luật, chủ động liên hệ làm việc trực tiếp với các cơ quan chức năng đang
quản lý, lưu giữ các nguồn chứng cứ để thu thập theo quy định của pháp luật
làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, chứ không thông qua con đường công văn
làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án; tăng cường phối hợp với các cơ quan
hữu quan nhằm giải quyết án đạt chất lượng và tiến độ cao.
Thứ hai, mặc dù rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, khó khăn
về điều kiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ nhưng TAND huyện Ea H’Leo
cần cố gắng triển khai, hoàn thiện công tác ứng dụng công nghệ thông tin, áp
dụng các phần mềm (03) do TAND tối cao triển khai vào công tác, hoạt động
của Tòa án nhằm đạt hiệu quả công tác tốt nhất. Ngoài ra cần thực hiện, công
khai minh bạch các hoạt động của Tòa án. Trang bị máy tính cho Thẩm phán,
77
Thư ký....để thực hiện tác nghiệp tại phiên tòa, kết nối mạng Internet để thực
hiện việc truy cập thông tin, văn bản pháp luật phục vụ công tác. Yêu cầu 100%
cán bộ công chức trong đơn vị phải sử dụng thành thạo và khai thác tốt các hệ
thống, chương trình phần mềm để phục vụ công tác.
3.2.2.6. Các giải pháp bảo đảm việc làm, kinh tế cho phụ nữ; bảo đảm
giáo dục cho trẻ em trên địa bàn huyện Ea H’Leo
Với điều kiện của một huyện có có 176 thôn buôn, trong đó có 48 buôn
đồng bào dân tộc thiểu số, dân tộc thiểu số chiếm 41%, điều kiện kinh tế còn
nghèo, nghề nghiệp của phụ nữ chủ yếu là làm nương rẫy, trồng cây lâu năm
nên việc bảo đảm việc làm, kinh tế cho phụ nữ; giáo dục cho trẻ em là vấn đề
gốc rễ cho việc nâng cao nhận thức, củng cố địa vị và cơ sở để bảo vệ các quyền
của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ.
Đầu tiên, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ, trẻ em là ưu tiên hàng đầu.
Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết thực, kết
hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham gia. Đối với
những nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần đầu tư thêm để
các em có thể theo đến hết bậc trung học và học cao lên và tránh không bị rơi
vào vòng tái mù như các thế hệ phụ nữ đi trước. Thực hiện nghiên cứu toàn
diện hơn về tỷ lệ mù chữ trong phụ nữ, trẻ em để có thể đưa ra những giải pháp
xóa mù phù hợp và tăng cường sự tham gia của phụ nữ, trẻ em trong việc tiếp
cận các cơ hội cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Thực hiện nghiên cứu tổng
thể hơn về bối cảnh dễ bị tổn thương của phụ nữ, trẻ em để có thể đưa ra những
khuyến nghị và thiết kế những chính sách phù hợp với nhu cầu của phụ nữ, trẻ
em, tăng cường khả năng chống đỡ của họ trước các vấn đề toàn cầu hóa, biến
đổi khí hậu, những hiện tượng xã hội như nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em... Đây
là những vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay, cần có giải pháp cơ bản đồng bộ
78
trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.
Hai là, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho phụ nữ trên địa bàn huyện
Ea H’Leo; tiếp tục tổ chức các hội chợ tư vấn, giới thiệu việc làm. Trung tâm
Dịch vụ việc làm cần tư vấn các thông tin việc làm đang có nhu cầu tuyển dụng
trong tỉnh, ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động; tư vấn, phổ biến các chính sách
hỗ trợ vay vốn đi làm việc ở nước ngoài; thông tin chi tiết về các thị trường
xuất khẩu lao động thông qua các kênh như: Trung tâm lao động ngoài nước,
các doanh nghiệp được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp phép đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Ba là, tiếp tục có các chính sách hỗ trợ vốn vay cho phụ nữ. Thời gian
qua, trên địa bàn huyện Ea H’Leo nhiều hội viên phụ nữ thoát nghèo nhờ nguồn
vốn vay từ Ngân hàng chính sách từ thực hiện Chương trình ủy thác, đưa nguồn
vốn của Chính phủ đến với hội viên, phụ nữ nghèo và cận nghèo, thực hiện mục
tiêu của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam về “Không để phụ nữ nào
bị bỏ lại phía sau”. Đây là tiền đề giúp nhiều hội viên, phụ nữ nghèo, cận nghèo
tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội đã tạo tiền
đề, bước ngoặt cho sự thay đổi cuộc sống của nhiều chị em.
Bốn là, tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ năng
cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó và kế hoạch
hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc theo
Chương trình xây dựng hình tượng người phụ nữ Việt Nam nói chung trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế
“có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống
văn hoá, có lòng nhân hậu, tích cực lao động sản xuất, sáng tạo, xây dựng gia
đình hạnh phúc”.
79
Tiểu kết chương 3
Từ việc nhận thức đầy đủ, chính xác hạn chế và nguyên nhân của hạn
chế về quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện
Ea H’Leo sẽ là cơ sở để đề ra các giải pháp bảo đảm quyền này trên thực tế.
Các giải pháp cần quan tâm trước hết là hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ nói chung, quyền của
phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND nói riêng cả ở phương
diện pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục. Đối với huyện Ea H’Leo, cần chú
trọng nâng cao nhận thức nói chung, nhận thức pháp luật nói riêng cho phụ nữ
và trẻ em để thực hiện tốt quyền của mình; bên cạnh đó, giải quyết tốt gốc rễ
của vấn đề là vấn đề tư tưởng, phong tục, kinh tế, việc làm của phụ nữ và trẻ
em. Đối với hệ thống toà án, cần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND
huyện Ea H’Leo để đảm bảo năng lực giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách
đúng pháp luật, chính xác và khách quan. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp
các cơ quan, đơn vị trong quá trình giải quyết các vụ việc HN&GĐ, bảo đảm
thực thi các quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật cũng như hiệu quả thi hành
án tại địa phương.
80
KẾT LUẬN
Quyền của phụ nữ và trẻ em là một bộ phận cấu thành không thể tách rời
trong toàn bộ các quyền con người. Các quyền con người của cả hai nhóm này
đều có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm, trong đó có quyền của phụ
nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND.
Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hoạt động mang tính thường xuyên,
liên tục, nó vừa mang tính phòng ngừa và vừa mang tính tự vệ nhằm chống lại,
loại trừ những hành vi xâm hại quyền của phụ nữ và trẻ em, đồng thời đảm bảo
cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng và được thực hiện trong đời sống xã hội.
Bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ xuất phát
từ nhu cầu thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà trực
tiếp nhất là Hiến pháp năm 2013, đồng thời, cần phải có sự tương thích giữa
pháp luật quốc tế với pháp luật quốc gia trong sự nghiệp đấu tranh bảo đảm
bình đẳng giới. Thời gian qua, việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong
các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’Leo đã có những chuyển biến tích
cực từ nhận thức đến công tác hoà giải và xét xử. Tuy vậy, không ít khó khăn,
vướng mắc đã nảy sinh làm cho việc bảo đảm các quyền này trên thực tế chưa
đạt được mong muốn.
Từ thực trạng đó, cần có các giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ
em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’Leo. Ở phương diện
chung, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của phụ nữ và trẻ em trong
các vụ việc HN&GĐ nói chung, quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc
HN&GĐ tại TAND nói riêng cả ở phương diện pháp luật nội dung và pháp luật
thủ tục. Đối với huyện Ea H’Leo, cần chú trọng nâng cao nhận thức nói chung,
nhận thức pháp luật nói riêng cho phụ nữ và trẻ em để thực hiện tốt quyền của
mình; bên cạnh đó, giải quyết tốt gốc rễ của vấn đề là vấn đề tư tưởng, phong
tục, kinh tế, việc làm của phụ nữ và trẻ em. Đối với hệ thống toà án, cần đổi
81
mới tổ chức và hoạt động của TAND huyện Ea H’Leo để đảm bảo năng lực
giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách đúng pháp luật, chính xác và khách
quan. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp các cơ quan, đơn vị trong quá trình
giải quyết các vụ việc HN&GĐ, bảo đảm thực thi các quyết định, bản án có
hiệu lực pháp luật cũng như hiệu quả thi hành án tại địa phương.
Việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp trên cần sự vào cuộc
mạnh mẽ, quyết liệt của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, Nhân dân
và đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của phụ nữ và trẻ em nhằm xây dựng một đất
nước, một địa phương phát triển về kinh tế, ổn định về xã hội, bảo đảm các
quyền con người.
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
chính trị về một số nhiệm vụ trong công tác tư pháp trong thời gian tới.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố
tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Luật học, trường Đại học luật Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NQ-CP ngày 31/12/2014 Quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
6. Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật
Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật
học, trường Đại học luật Hà Nội.
7. Trần Thị Huệ (2014), “Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ”, Đặc san Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
8. Chu Mạnh Hùng (2004), “Quyền của phụ nữ trong Hiến pháp Việt Nam”,
Đặc san Phụ nữ, số tháng 3/2004, Trường Đại học Luật Hà Nội.
9. Nguyễn Thu Hường (2014), Áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong
việc giải quyết án Hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên,
Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học luật Hà Nội.
10. Cao Mai Hoa (2012), Ly hôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Lan (2017), Chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội.
12. Nguyễn Thị Lan (2004), “Quyền của phụ nữ theo quy định của Luật hôn
83
nhân và gia đình năm 2000”, Đặc san Phụ nữ, số tháng 3/2004, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
13. Nguyễn Ngọc Kiện (2005), “Các quy định của Hiến pháp nước ta về
quyền của phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
14. Phan Thị Luyện (2017), “Đảm bảo quyền của phụ nữ trong thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới ở nước ta hiện nay”, Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ,
Hà Nội.
15. Tưởng Duy Lượng (2002), Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt
Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em.
17. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), Căn cứ ly hôn theo luật Hôn nhân và gia
đình, Trường Đại học Luật Hà Nội.
18. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Các văn kiện quốc tế về quyền con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nhà xuất bản khoa học xã hội (2000), Từ điển tiếng Việt.
20. Lường Ánh Nhàn (2016), Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn
nhân và gia đình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
21. Võ Thuần Nho (2013), “Bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được
chấp hành trên thực tế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 11(243), tháng
6/2013.
22. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
23. Quốc hội (2015), Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2015), Luật Trẻ em, Hà Nội.
84
27. Hoàng Đình Thanh (2013), Giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia
đình của tòa án nhân dân, Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. Hà Thị Thúy (2017), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự -
Phân tích từ các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
29. Lã Thị Tuyền (2014), Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật luật hôn
nhân và gia đình 2014, Đại học Luật Hà Nội
30. Lê Thế Tài (2005), “Quyền của phụ nữ trong pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
31. Toà án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 24/1999/KHXX ngày
17/3/1999 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Luật hôn nhân và gia đình.
32. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm
2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019.
33. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm
2019 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2020.
34. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm
2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2021.
35. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2021), Báo cáo tổng kết công tác năm
2021 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2022.
36. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2022), Báo cáo tổng kết công tác năm
2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023.
37. Hoàng Thị Hải Yến (2016), “Một số ý kiến về hạn chế quyền yêu cầu ly
hôn của người chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 9, 2016.
38. Nhà xuất bản khoa học xã hội (2000), Từ điển tiếng Việt.
39. Luận án tiến sỹ về “vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con
85
người ở Việt Nam hiện nay” bảo vệ năm 2013 của Đặng Công Cường tại Trường
đại học Luật Hà Nội.
40. Luận văn về “vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở
Việt Nam hiện nay” bảo vệ năm 2014 của Phan Thị Sánh tại Khoa luật - Đại
học quốc gia Hà Nội.
41. Luận văn về “vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở
Việt Nam” bảo vệ năm 2014 của Trương Thị Thùy Dung tại Khoa luật - Đại học
quốc gia Hà Nội.
42. Luận văn về “vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong bảo vệ
quyền con người từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” bảo vệ năm 2016 của Huỳnh Ngọc
Hoàng Hải tại Học viện Hành chính quốc gia.
43. Sách “Kinh nghiệm điển hình về thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ
và trẻ em trong ASEAN” của Uỷ ban thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và
trẻ em ASEAN (ACWC).
44. Sách “Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lí quốc tế và
pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Sĩ Dũng, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003.
45. Sách “Hỏi - đáp về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế
và pháp luật Việt Nam”, Nxb Văn hoá dân tộc 2022. Cuốn sách tập hợp các câu
hỏi và trả lời về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế và pháp
luật Việt Nam.
46. Luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Vương Vân Huyền, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2014.
Website: 47. https://phunuvietnam.vn/tu-dien-cambridge-cap-nhat-dinh-nghia-moi-ve-
phu-nu-la-nhung-nguoi-xac-dinh-minh-la-nu-gioi-du-sinh-ra-mang-gioi-
tinh-khac-20221226224444625.htm
86
48. https://luanvanpdf.com/van-de-bao-ve-quyen-cua-phu-nu-va-tre-em-gai-
bang-phap-luat-hinh-su/
49. https://eahleo.daklak.gov.vn/gioi-thieu-chung-3.html
50. http://qldg.thutuchanhchinh.vn/bao-ve-quyen-binh-dang-cua-phu-nu-
theo-phap-luat-to-tung-dan-su-viet-nam-1
51. https://lsvn.vn/mot-so-bat-cap-cua-luat-hon-nhan-va-gia-dinh-nam-
2014.html
52. https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/ca/chi-
tiet?dDocName=TAND185785