BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN QUỐC BẢO

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ

VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK, NĂM 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN QUỐC BẢO

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ

VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

ĐẮK LẮK, NĂM 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng

tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công

bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm

hiểu, phân tích một cách trung thực với sự kế thừa học hỏi, khách quan và phù

hợp với thực tiễn của Việt Nam.

Đắk Lắk, ngày 30 tháng 6 năm 2023

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Quốc Bảo

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô giáo của Học

viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác giả trong thời gian

học tập và nghiên cứu tại Học viện.

Học viên xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh đã

quan tâm, giúp đỡ tận tình, hướng dẫn và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận

văn. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tòa án nhân

dân huyện Ea H’leo và các cơ quan liên quan đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong

thời gian nghiên cứu, điều tra, thu thập số liệu cần thiết để tôi có thể hoàn thành

luận văn của mình.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn người dân và bạn bè, đồng nghiệp đã quan

tâm, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận

văn.

Xin chân thành cảm ơn.

MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HỘP

MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN .......................................................... 8 1.1. Khái niệm, ý nghĩa quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân ................................................ 8 1.2. Nội dung cơ bản quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân ...................................... 17 1.3. Các yếu tố cơ bản bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân ........................... 28 Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 34 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK .......... 35 2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình trên địa bàn huyện Ea H’leo .......................................... 35 2.2. Tình hình thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo .................... 39 2.3. Đánh giá về thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo ....... 53 Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 59 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK .......... 60 3.1. Sự cần thiết phải bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo . 60 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk62 Tiểu kết chương 3 ................................................................................... 80 KẾT LUẬN ............................................................................................. 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 83 PHỤ LỤC................................................ Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

1 BLDS Bộ luật dân sự

2 HNGĐ Hôn nhân, gia đình

3 HN&GĐ Hôn nhân và gia đình

4 TAND Toà án nhân dân

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HỘP

STT Tên biểu đồ, hộp Trang

1. Biểu đồ 2.1. Số vụ việc HNGĐ tại TAND huyện Ea H’leo 37

giai đoạn 2018-2022

2. Biểu đồ 2.2. Kết quả hòa giải trong trong giai đoạn chuẩn bị 38

xét xử các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-2022

39 3. Biểu đồ 2.3. Kết quả xét xử các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-

2022

43-44 4. Hộp 2.1. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo bảo

vệ tốt quyền được nuôi con của phụ nữ

46-47 5. Hộp 2.2. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo đã bảo

vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản

47-48 6. Hộp 2.3. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo chưa

bảo vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản

49 7. Hộp 2.4. Ví dụ điển hình về việc cha mẹ thoả thuận được về

việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quyền của phụ nữ và trẻ em là một bộ phận cấu thành không thể tách rời

trong toàn bộ các quyền con người. Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là vô

cùng quan trọng trong xã hội. Phụ nữ và trẻ em thường là những nhóm dễ bị

bạo lực, lạm dụng và kỳ thị trong nhiều quốc gia trên thế giới. Việc bảo vệ

quyền của họ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng và bình

đẳng trong xã hội. Bảo vệ quyền của phụ nữ bao gồm việc đảm bảo quyền lợi

của họ trong các lĩnh vực như giáo dục, lao động, tài chính và chính trị. Điều

này cũng bao gồm bảo vệ phụ nữ trước các hình thức bạo lực, bao gồm cả bạo

lực gia đình, quấy rối tình dục, và sự kỳ thị.

Trong các quyền của phụ nữ và trẻ em, quyền của phụ nữ và trẻ em trong

lĩnh vực hôn nhân và gia đình là rất quan trọng, vì đây là những lĩnh vực có thể

gây ra nhiều bất công và bạo lực đối với họ. Trong lĩnh vực hôn nhân, phụ nữ

và trẻ em có quyền được tự do lựa chọn đối tác sống và không bị ép buộc vào

hôn nhân. Họ cũng có quyền được xác định vị trí và vai trò của mình trong hôn

nhân, không bị phân biệt đối xử, bị bạo lực hoặc bị buộc phải chấp nhận các

quyết định không tốt đối với mình. Ngoài ra, phụ nữ và trẻ em cần được bảo vệ

khỏi các hình thức bạo lực gia đình, bao gồm bạo lực về tinh thần, vật chất và

tình dục. Trong lĩnh vực gia đình, phụ nữ và trẻ em cũng cần được bảo vệ khỏi

bạo lực và lạm dụng từ các thành viên khác trong gia đình, bao gồm cha mẹ,

anh chị em và họ hàng. Họ cũng có quyền được phát triển và học hỏi, và không

được ép buộc vào các trách nhiệm gia đình quá nặng nề và không phù hợp với

tuổi tác của mình.

Ea H’leo là một huyện của tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua việc bảo vệ các

quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực HN&GĐ tại Toà án nhân dân

(TAND) huyện Ea H’leo đã có những chuyển biến tích cực. Các tranh chấp về

1

HN&GĐ tại địa phương chủ yếu là các yêu cầu ly hôn, chia tài sản chung và

công nợ của vợ chồng, cấp dưỡng nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con

sau ly hôn. Nhìn chung, TAND và các chức danh tư pháp thuộc TAND đã áp

dụng pháp luật, bảo vệ quyền của phụ nữ về quyền ly hôn, quyền tài sản, quyền

nuôi con; trẻ em được bảo vệ để có quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng và

các quyền khác có liên quan.

Tuy vậy, do những điều kiện chủ quan và khách quan, việc bảo đảm

quyền của phụ nữ và trẻ em về HNGĐ trong hoạt động tố tụng của TAND vẫn

còn không ít bất cập, hạn chế. Quyền về HNGĐ của phụ nữ trong một số trường

hợp vẫn bị xâm phạm, nhất là quyền về tài sản. Quyền của trẻ em về chăm sóc,

nuôi dưỡng và cấp dưỡng còn chưa được quan tâm đúng mức. Còn một số bản

án, quyết định của TAND huyện Ea H’leo về HNGĐ vẫn có những điểm chưa

đúng pháp luật, chưa hợp lý, bị TAND cấp trên huỷ một số nội dung.

Đứng trước thực trạng trên và đặt trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất

các giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em về HNGĐ tại TAND nói

chung, TAND huyện Ea H’leo nói riêng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa lớn.

Đó cũng chính là lý do học viên chọn đề tài “Quyền của phụ nữ và trẻ em

trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện

Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành

chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Các công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và trẻ em.

Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và

trẻ em ở các cấp độ khác nhau, tiêu biểu như:

- Sách “Kinh nghiệm điển hình về thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ

và trẻ em trong ASEAN” của Uỷ ban thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và

2

trẻ em ASEAN (ACWC).

- Sách “Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lí quốc tế

và pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Sĩ Dũng, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003.

- Sách “Hỏi - đáp về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế

và pháp luật Việt Nam”, Nxb Văn hoá dân tộc 2022. Cuốn sách tập hợp các câu

hỏi và trả lời về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế và pháp

luật Việt Nam.

- Luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ

ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vương Vân Huyền, Khoa Luật, Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2014. Thông qua phân tích thực trạng pháp luật, luận văn đã hướng

tới đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam

trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền.

Các công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND.

- "Quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ ly hôn tại Tòa án

nhân dân" - một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Luật

Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong

quá trình giải quyết các vụ ly hôn.

- "Đánh giá vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ

em trong giải quyết vụ ly hôn tại Tòa án nhân dân" - một nghiên cứu của các

nhà nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Hà Nội, tập trung vào vai trò của luật sư

trong bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ ly hôn.

- "Quyền lợi của trẻ em trong các vụ ly hôn có tranh chấp tại Tòa án

nhân dân" - một báo cáo của Tổ chức Liên Hợp Quốc (UN), tập trung vào

quyền lợi của trẻ em trong quá trình giải quyết các vụ ly hôn có tranh chấp.

- "Sự phân cấp giới trong quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong vụ ly hôn

tại Tòa án nhân dân" - nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học

3

Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào sự phân

cấp giới và ảnh hưởng của nó đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết các vụ ly hôn.

Các công trình nghiên cứu về quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

- "Đánh giá hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em

trong giải quyết các vụ việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk" - một

nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào việc đánh giá hiệu quả công

tác bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HNGĐ

tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Một số bài báo: "Nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ

em trong các vụ việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk" - của Nguyễn

Thị Quỳnh, cộng tác viên của Tạp chí Luật Học, tập trung vào các giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong các vụ

việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; "Pháp luật bảo vệ quyền lợi của

phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HNGĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk"

của Nguyễn Thị Thanh Thủy, cộng tác viên của Tạp chí Khoa học Pháp lý, tập

trung vào việc phân tích các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và

trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Nhận xét:

Qua khảo sát cho thấy quyền của phụ nữ, trẻ em và quyền của phụ nữ,

trẻ em trong vụ việc HN&GĐ được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm,

thể hiện ở số lượng và chất lượng các công trình. Các công trình tiếp cận ở

nhiều giác độ: pháp luật, bảo đảm quyền, đề xuất nhiều giải pháp tổng thể đến

chi tiết.

Tuy nhiên qua khảo sát cũng cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu

4

một cách trực diện, có hệ thống về quyền của phụ nữ, trẻ em và quyền của phụ

nữ, trẻ em trong vụ việc HN&GĐ tại một địa phương cụ thể như Tòa án nhân

dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk trong khi đây là địa phương có tình hình khá

phức tạp, có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ. Vì là

đề tài này được thực hiện có dựa trên việc tham khảo, tiếp thu có chọn lọc

những kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó và vẫn đảm bảo tính mới,

không trùng lặp.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn đưa ra những giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em

trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh

Đắk Lắk.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ thêm cơ sở lý luận về quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND.

- Nêu và đánh giá thực trạng quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các

vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo thời gian qua; kết quả,

hạn chế và nguyên nhân.

- Trên cơ sở thực trạng, nguyên nhân ở trên, luận văn đề ra các giải pháp

chung và giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu quyền của phụ nữ, trẻ em trong giải quyết các vụ

việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: 05 năm (từ năm 2018 đến hết năm 2022).

5

- Về không gian: Huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.

- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quyền phụ nữ và

trẻ em trong giải quyết vụ việc HN&GĐ là thuận tình ly hôn và vụ án ly hôn

khi có tranh chấp xảy ra thuộc thẩm quyền của TAND huyện Ea H’leo, tỉnh

Đắk Lắk.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ

trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước

về nhà nước, pháp luật nói chung, về quyền của phụ nữ và trẻ em nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu

cụ thể trong khi thực hiện đề tài là: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng

hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và các

phương pháp khác có liên quan.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa lý luận

Luận văn củng cố thêm một số vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ và

trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND, bổ sung những nhận

định về thực trạng và đề xuất, chi tiết một số giải pháp bảo đảm quyền của phụ

nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND nói chung.

Ý nghĩa thực tiễn

Những kết quả nghiên cứu xuất phát từ lý luận và thực tiễn của luận văn

có thể là tài liệu tham khảo cho những nhà lãnh đạo, quản lý của TAND huyện

Ea H’leo; là tài liệu tham khảo cho sinh viên, người nghiên cứu về quyền của

phụ nữ và trẻ em trong HN&GĐ, nhất là những nội dung thực tiễn tại địa

6

phương.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận, pháp lý về quyền của phụ nữ và trẻ em trong

giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân.

Chương 2. Thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ

việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh

Đắk Lắk.

7

Chương 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM

TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA

ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, ý nghĩa quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết

vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân

1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc

hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân

Khái niệm phụ nữ và trẻ em

Phụ nữ là một thuật ngữ để chỉ các con người nữ giới, có đặc điểm sinh

lý và tâm lý khác biệt so với nam giới. Điều này thường được xác định bởi

những đặc trưng sinh lý như có bộ phận sinh dục nữ và khả năng mang thai,

sinh sản, cùng với các đặc điểm tâm lý như tình mẫu tử, quan tâm đến gia đình

và trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, giới tính và vai trò xã hội của phụ nữ có thể

khác nhau trong các văn hóa và lịch sử khác nhau trên thế giới. Thời gian gần

đây, từ điển tiếng Việt đã bổ sung cập nhật định nghĩa mới về “phụ nữ”, bên

cạnh các định nghĩa cũ. Nguyên văn của dòng khái niệm mới này là: “Phụ nữ

là một người trưởng thành đang sống như phụ nữ và xác định mình là nữ giới

cho dù lúc sinh ra họ được cho là mang giới tính khác” [38].

Trên thế giới, theo Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa

thành niên bị tước quyền tự do, được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua

ngày 14/12/1992 quy định: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [16].

Vậy khái niệm người chưa thành niên và trẻ em đồng nhất với nhau về độ tuổi.

Điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng quy định “trẻ em có nghĩa

là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng

với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”.

Khái niệm "trẻ em" ở Việt Nam thường được sử dụng để chỉ các con

8

người ở độ tuổi dưới 16 tuổi, tuy nhiên đôi khi phân loại độ tuổi trẻ em có thể

khác nhau tùy vào từng quốc gia và văn hóa. Khái niệm trẻ em và độ tuổi của

trẻ em quy định khác nhau, không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng

chéo nhau trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam. Khái niệm người

chưa thành niên cũng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau,

tồn tại cả hai khái niệm là khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Hiện

nay, theo Luật Trẻ em của Việt Nam năm 2016, Trẻ em là người dưới 16 tuổi

(Điều 1). Như vậy trong phạm vi luận văn nay, tác giả nhận thức trẻ em là người

dưới 16 tuổi.

Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em

Theo từ điển tiếng Việt, quyền được hiểu là điều mà pháp luật hoặc xã

hội công nhận cho họ được hưởng, được làm, được đòi hỏi [19]. Chiếm hơn

một nửa trong xã hội nhưng phụ nữ lại là đối tượng dễ bị tổn thương và chịu

nhiều thiệt thòi nhất. Phụ nữ luôn bị thiệt thòi nhiều nhất về sức khỏe, giáo dục,

đào tạo, cơ hội việc làm và những nhu cầu khác, vì thế quyền của phụ nữ luôn

được quan tâm. Khi xã hội phát triển, quyền của phụ nữ là một bộ phận tất yếu

của quyền con người. Phụ nữ có đầy đủ các quyền con người như quyền được

sống, quyền tự do, quyền bình đẳng với nam giới. Trong cuốn Bách khoa toàn

thư thế giới về phụ nữ: Những vấn đề và tri thức toàn cầu về phụ nữ được xuất

bản năm 2000, tập thể nhóm tác giả Charlotte Bunch và Samantha Frost trong

phần viết “Giới thiệu về các quyền con người của phụ nữ” đã chỉ ra: “Quyền

con người của phụ nữ là một thuật ngữ để chỉ các quyền của phụ nữ với tư cách

là một con người và được xem xét thông qua lăng kính giới. Theo đó, quyền

con người của phụ nữ được xem là tất cả các quyền con người mà nhân loại

tiến bộ thừa nhận và có thêm những quyền mang đặc thù giới nữ” [39].

Người phụ nữ với những đặc điểm gắn liền với giới tính tự nhiên thì

ngoài quyền con người nói chung, họ còn có những quyền gắn liền với thiên

9

chức của mình như quyền làm mẹ, quyền được bảo vệ với tư cách là nhóm

người dễ bị tổn thương. Tiếp cận theo hướng này (nghĩa hẹp), quyền phụ nữ

bao gồm quyền bình đẳng (bảo đảm ngang quyền và cơ hội so với nam giới) và

quyền ưu tiên (tạo điều kiện thuận lợi hơn so với nam giới do đặc điểm giới

tính tự nhiên và do thuộc nhóm dễ bị tổn thương). Trong lĩnh vực HN&GĐ, có

thể hiểu, quyền của người phụ nữ là quyền bình đẳng, có cơ hội hưởng các

quyền ngang nhau với nam giới trong mối quan hệ giữa vợ, chồng và giữa các

thành viên trong gia đình trên cơ sở nguyên tắc dân chủ, công bằng, tôn trọng

lẫn nhau trong các mối quan hệ ở phạm vi gia đình, xã hội và quyền ưu tiên tạo

điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp

công sức và thụ hưởng thành quả trong cuộc sống gia đình, xã hội. Các quyền

của phụ nữ trong HN&GĐ được tôn trọng, được bảo vệ và bảo đảm thực hiện

bằng hệ thống các quy định của pháp luật về HN&GĐ.

Từ những phân tích trên có thể hiểu, quyền của phụ nữ là tập hợp những

khả năng pháp luật mỗi quốc gia công nhận cho người phụ nữ được hưởng,

được làm và được đòi hỏi. Việc hiểu rõ những quyền này nhằm ngăn chặn tình

trạng bất bình đẳng giới trong mỗi chúng ta.

Khái niệm "quyền trẻ em" là một khái niệm phức tạp và rộng lớn, bao

gồm các quyền cơ bản và quan trọng nhất của trẻ em trong đời sống và phát

triển của mình. Đây là một khái niệm đặc biệt quan trọng và được nhiều tổ chức

và chính phủ trên toàn thế giới quan tâm đến và bảo vệ. Quyền trẻ em cũng là

một nhóm quyền nằm trong nhóm quyền của con người. Trẻ em là đối tượng

đặc biệt và dễ bị tổn thương. Quyền trẻ em là những quyền con người được áp

dụng dành riêng cho trẻ em, ở mỗi độ tuổi khác nhau thì trẻ em được hưởng

quyền và nghĩa vụ khác nhau. Việc xem xét quy định và thực hiện quyền trẻ

em phải xuất phát từ quan điểm của trẻ em, vì vậy quyền trẻ em là những đặc

lợi mà trẻ em được hưởng theo quy định của pháp luật.

10

Như vậy có thể hiểu, quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để

được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm bảo

đảm cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người

lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển

của chính mình. Quyền trẻ em là một bộ phận không thể thiếu của quyền con

người.

Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc

HN&GĐ tại TAND

Nghiên cứu vụ việc HN&GĐ phải đi từ vụ việc dân sự. Đây là hai khái

niệm khác nhau nhưng thường đi cùng nhau nên rất dễ nhầm lẫn. Theo pháp

luật dân sự, vụ án dân sự là việc giải quyết tranh chấp về các vấn đề dân sự giữa

cá nhân, tổ chức này với cá nhân, tổ chức khác; có nguyên đơn và bị đơn; Tòa

án giải quyết trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của người có quyền và buộc người có

nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Bản chất của vụ án dân sự là có tranh chấp xảy ra.

Việc dân sự là việc riêng của cá nhân, tổ chức, không có nguyên đơn, bị

đơn mà chỉ có người yêu cầu Tòa án giải quyết, từ yêu cầu của đương sự, Tòa

án công nhận quyền và nghĩa vụ cho họ. Bản chất của việc dân sự là không có

tranh chấp xảy ra.

Vụ việc HN&GĐ là một mảng, một lĩnh vực của pháp luật dân sự. Vụ

việc HN&GĐ là những vấn đề pháp lý liên quan đến các mối quan hệ gia đình,

tiêu biểu như hôn nhân, giám hộ con cái, chăm sóc người già, chia tài sản và

quyền nuôi con… Các vụ việc HN&GĐ có thể làm nảy sinh những xung đột

giữa các thành viên trong gia đình, gây ra sự mất mát về tài sản và đôi khi làm

suy yếu tình cảm giữa các bên liên quan. Vụ việc này thường đòi hỏi sự can

thiệp của pháp luật để giải quyết các tranh chấp, tìm kiếm sự công bằng và bảo

vệ quyền lợi của các bên.

Việc bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ rất

11

quan trọng vì họ thường là những bên yếu đuối và dễ bị tổn thương trong các

mối quan hệ gia đình. Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc

HN&GĐ là cần thiết để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong các mối quan

hệ gia đình, bảo vệ những người yếu đuối khỏi bạo lực và lạm dụng và đảm

bảo an toàn và sự phát triển của trẻ em. Nó cũng đóng vai trò quan trọng trong

việc xây dựng một xã hội văn minh, trách nhiệm và đầy đủ nhân quyền.

Theo Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, có hai nhóm vụ việc HN&GĐ thuộc

thẩm quyền của TAND: Những tranh chấp về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải

quyết của Tòa án (Điều 28), gồm 8 trường hợp, ví dụ như ly hôn; những yêu

cầu về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 29), gồm 11

trường hợp, ví dụ như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi

con, chia tài sản khi ly hôn.

Từ các phân tích trên có thể hiểu, quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết vụ việc HN&GĐ tại TAND là tập hợp những khả năng pháp luật mỗi

quốc gia công nhận cho người phụ nữ và trẻ em được hưởng, được làm và được

đòi hỏi trong quá trình giải quyết các vụ việc về HN&GĐ tại TAND theo quy

định của pháp luật nhằm bảo vệ, bảo đảm cho phụ nữ và trẻ em được phát triển

công bằng, toàn diện và góp phần ổn định xã hội.

1.1.2. Ý nghĩa của quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn

nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân

Thứ nhất, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hiện thực hoá các nguyên

tắc của Hiến pháp và pháp luật. Bảo vệ phụ nữ và trẻ em được khẳng định trong

đạo luật cao nhất của Nhà nước ta, là tư tưởng chỉ đạo trong hệ thống pháp luật

Việt Nam, do đó là nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ. Phụ nữ và trẻ em nói

chung cần được bảo vệ, đặc biệt là các bà mẹ đơn thân.

Xuất phát từ đặc điểm về thể chất và tinh thần, phụ nữ và trẻ em là đối

tượng cần được pháp luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Đặc biệt, khi làm mẹ,

12

người phụ nữ phải thực hiện thiên chức của mình là nuôi con bằng sữa mẹ. Trên

cơ sở lý luận và nghiên cứu thực nghiệm, các nhà tâm lý học và giáo dục học

đã kết luận rằng ảnh hưởng của người mẹ đối với tình cảm, nhân cách và sự

nghiệp của con lớn hơn rất nhiều so với người cha. Vì vậy, bảo vệ bà mẹ nhằm

đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó và có ý nghĩa

rất lớn trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Bảo vệ bà mẹ

và trẻ em là trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Nhà nước, xã hội,

và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện

tốt chức năng cao quý của người mẹ.

Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cụ thể hóa trong các chế định

của Luật HN&GĐ, bao gồm: Chế định hôn nhân; quyền và nghĩa vụ vợ chồng;

quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con; xác định cha, mẹ, con; ly hôn. Như vậy,

nguyên tắc bà mẹ và trẻ em là nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em

trong mọi hoàn cảnh, nhưng đặc biệt vẫn là việc bảo vệ và giúp đỡ các bà mẹ

đơn thân, tạo điều kiện cho họ thực hiện tốt các chức năng của người mẹ, đồng

thời bảo vệ và chăm sóc những đứa trẻ sinh ra không trên cơ sở hôn nhân.

Thứ hai, quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc HN&GĐ có ý

nghĩa bảo đảm cho họ có phương tiện để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp

của mình khi tham gia tố tụng tại Tòa án. Với các quyền năng được pháp luật

trao cho họ, cho phép các chủ thể có thể sử dụng quyền năng đó như một công

cụ hữu hiệu để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Khi xét thấy quyền

và lợi ích bị xâm phạm thì vợ có quyền khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để

yêu cầu giải quyết. Quyền khởi kiện, quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về

HN&GĐ là quyền tố tụng rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, nó là

cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng và cũng là tiền đề cho các

quyền tố tụng khác.

Quyền của phụ nữ và trẻ em đóng một vai trò đặc biệt quan trọng khi

13

tham gia vào quan hệ pháp luật trong vụ án HN&GĐ. Đây là cơ sở pháp lý

quan trọng để phụ nữ và trẻ em có thể sử dụng để đòi hỏi công lý, sự công bằng,

là cơ sở để người tiến hành tố tụng ý thức được bổn phận phải tôn trọng và bảo

đảm các quyền căn bản này. Ngoài ra, sự ghi nhận của pháp luật tố tụng dân sự

về các quyền cơ bản này còn thể hiện được bản chất của một Nhà nước của dân,

do dân và vì dân trong lĩnh vực tư pháp dân sự.

Thứ ba, các quyền phụ nữ và trẻ em được pháp luật ghi nhận có ý nghĩa

bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được thống nhất, khách quan, nhanh chóng

và đúng đắn. Các quyền được ghi nhận bảo đảm Tòa án có thể bảo vệ hiệu quả

quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người

dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ tố tụng dân sự nói riêng.

Phụ nữ, trẻ em được quyền yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích của mình và họ

có quyền khởi kiện để Tòa án có thẩm quyền giải quyết bảo vệ quyền lợi chính

đáng của mình. Khi có yêu cầu, Tòa án xem xét và đưa ra xét xử bằng một bản

án, quyết định chính xác, khách quan thì người dân sẽ tin tưởng vào pháp luật

và họ coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Cũng từ đó mà pháp luật được tôn trọng, pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày càng

được củng cố và tăng cường. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, cải

cách tư pháp vẫn được duy trì và là một yêu cầu không thể thiếu trong công

cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của Việt Nam theo tinh thần

của Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ quyền

con người, quyền công dân. Quy định quyền của phụ nữ, trẻ em tại Tòa án nhằm

hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng pháp luật giải quyết vụ án liên quan

đến tranh chấp HN&GĐ.

1.1.3. Vai trò của Toà án nhân dân trong việc bảo vệ quyền của phụ

nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình

1.1.3.1. Khái quát về Tòa án nhân dân

14

Vị trí, chức năng của TAND

Tòa án nhân dân là cơ quan có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống

bộ máy nhà nước với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công

lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ trật tự xã hội.

Chức năng, nhiệm vụ của TAND được Hiến định tại Điều 102 của Hiến

pháp năm 2013: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa

án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp

hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh

phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”. Quy định này đã được cụ

thể hóa rõ ràng hơn trong Điều 2 của Luật tổ chức TAND năm 2014 về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân. Theo đó, TAND là cơ quan

xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án

hình sự, dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và

giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách

quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng;

căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có

tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về

quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân của các bên liên quan trong các

vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Bản án, quyết định của TAND có

hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm

chỉnh chấp hành.

Cơ cấu tổ chức của TAND

Theo Luật tổ chức TAND năm 2014, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam có các toà án sau đây:

15

- TAND tối cao;

- TAND cấp cao;

- TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;

- Toà án quân sự được tổ chức trong quân đội gồm có Tòa án quân sự

trung ương, các tòa án quân sự quân khu và tương đương, các tòa án quân sự

khu vực.

1.1.3.2. Vai trò của Tòa án nhân dân bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em

trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình

Vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là những hoạt

động của Tòa án được thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng nhằm

chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm đến quyền của phụ nữ và trẻ em, để giữ

gìn cho lợi ích, nhu cầu và năng lực cả người phụ nữ và trẻ em được nguyên vẹn,

an toàn, góp phần củng cố niềm tin của người dân vào công lý, nâng cao tính

minh bạch, sự bình đẳng của pháp luật, sức mạnh và uy tín của bộ máy Nhà

nước, tính nhân đạo và dân chủ của Nhà nước pháp quyền.

Với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, là cơ quan

duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt quan hệ hôn nhân và ra phán quyết về

hậu quả pháp lý gắn liền với sự kiện ly hôn như các vấn đề con chung, cấp

dưỡng nuôi con chung và tài sản chung …, việc bảo đảm quyền của phụ nữ và

trẻ em khi ly hôn phụ thuộc rất lớn vào phán quyết của Tòa án. Các vai trò tiêu

biểu như:

- Tòa án giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em

đối với mọi người dân trong xã hội.

- Tòa án đưa ra các phán quyết công bằng để bảo vệ quyền của phụ nữ

và trẻ em.

- Quyền phụ nữ và trẻ em thông qua hoạt động giải quyết vụ việc

16

HN&GĐ bằng Tòa án chịu sự chi phối toàn diện của pháp luật.

- Quyền của phụ nữ và trẻ em thông qua hoạt động giải quyết các vụ việc

HN&GĐ của Toà án được thực hiện công khai, độc lập và đảm bảo công bằng.

1.2. Nội dung cơ bản quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết

các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân

Pháp luật về HN&GĐ nước ta đã có vai trò to lớn trong việc bảo vệ các

quyền phụ nữ và trẻ em. Luật HN&GĐ năm 2014 đã xác định các nguyên tắc

cơ bản: Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em,

không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, con trai và con gái, con đẻ

và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú. Luật HN&GĐ nghiêm cấm

mọi hành vi ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em và

các thành viên khác trong gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu,

trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con, giáo

dục con cái phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Quyền và lợi

ích của trẻ em còn được thể hiện trong các quy định của chế định con nuôi trên

nguyên tắc khuyến khích việc nhận trẻ em có hoàn cảnh khó khăn làm con nuôi,

nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để thực hiện những hành vi vi phạm

đạo đức và pháp luật.

Bên cạnh quyền và nghĩa vụ nhân thân, trẻ em còn có quyền và nghĩa vụ

tài sản. BLDS Việt Nam đã có những quy định bảo vệ quyền trẻ em thông qua

các cơ sở pháp lý như: Xác định chế định về năng lực chủ thể pháp luật dân sự

của người chưa thành niên, chế định giám hộ; chế định thừa kế với việc bảo vệ

quyền lợi cho trẻ em là con nuôi…. Người chưa thành niên bình đẳng so với

các cá nhân khác trong năng lực pháp luật dân sự. Theo quy định của BLDS

năm 2015, mọi giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi đều do người đại diện

theo pháp luật xác lập, thực hiện và chịu trách nhiệm. Người từ đủ 6 tuổi đến

chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự hạn chế; người chưa thành niên

17

dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường hoàn toàn

thiệt hại. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho việc nhận trẻ mồ côi, trẻ

bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi; “nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi

để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục mua bán trẻ em hoặc vì lợi ích trục

lợi khác”.

1.2.1. Các quyền cơ bản của phụ nữ trong giải quyết các vụ việc hôn

nhân và gia đình tại Toà án nhân dân

Phụ nữ có những quyền cơ bản trong việc giải quyết các vụ việc

HN&GĐ, đặc biệt là trong bối cảnh pháp luật Việt Nam đang ngày càng tôn

trọng và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Những quyền này bao gồm cả quyền

nhân thân và quyền tài sản. Quyền của phụ nữ trong giải quyết các vụ việc

HN&GĐ tại TAND có phạm vi hẹp hơn quyền của họ trong quan hệ HN&GĐ.

Các quyền này có cơ sở pháp lý là Luật HN&GĐ năm 2014, BLDS năm 2015,

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có

liên quan.

Thứ nhất, quyền ly hôn. Người phụ nữ được gắn liền với thiên chức làm

mẹ hay quyền làm mẹ. Quyền làm mẹ của người phụ nữ cần phải được ghi nhận

và bảo vệ không chỉ dưới góc độ xã hội mà còn dưới góc độ pháp luật. Dưới

góc độ xã hội, quyền làm mẹ là quyền nhân thân gắn liền với phụ nữ, gắn liền

với người vợ. Quyền làm mẹ là quyền được sinh con, được có con (trong trường

hợp nhận con nuôi), được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người mẹ.

Dưới góc độ pháp luật, quyền làm mẹ cũng cần được bảo vệ thông qua các quy

định của pháp luật. Trong trường hợp ly hôn, quyền làm mẹ của người phụ nữ

cũng phải được ghi nhận và bảo vệ. Mang thai và sinh con là quá trình người

phụ nữ phải chịu bao vất vả, và đứa con chính là sự gắn bó máu thịt với người

mẹ. Do vậy, pháp luật cần phải bảo vệ người mẹ khi ly hôn thông qua việc hạn

chế quyền ly hôn của người chồng trong những trường hợp nhất định.

18

Theo khoản 14 Điều 3 của Luật HN&GĐ năm 2014, ly hôn là việc chấm

dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Pháp luật hiện hành trao cho vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa

án giải quyết ly hôn; thận chí cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu

Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc

bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời

là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng

nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Thực tế, người phụ nữ

khi mang thai cần phải đảm bảo tốt với sức khỏe cũng như tinh thần để sinh

con ra được khỏe mạnh. Ly hôn thường để lại cho người phụ nữ gánh nặng về

mặt tâm lý. Hậu quả xã hội của ly hôn tác động đến cuộc sống của người phụ

nữ, làm cho họ không đảm bảo sức khỏe sinh sản” để mang thai và làm mẹ an

toàn. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể: “Chồng không có quyền yêu

cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi

con dưới 12 tháng tuổi”.

Với quy định trên, quyền làm mẹ của người vợ đã được đảm bảo một

cách vững chắc hơn. Theo đó, trong trường hợp người vợ đang mang thai hoặc

sinh con thì người chồng không được quyền ly hôn. Trong thời kỳ mang thai,

người phụ nữ rất cần sự chăm sóc của người thân bên cạnh mình, đặc biệt người

chồng là người gần gũi nhất với người vợ. Do vậy, nếu khi người vợ đang mang

thai mà người chồng yêu cầu ly hôn thì sẽ tác động rất lớn đến tâm lý và sức

khỏe của người vợ. Tác động này được nhìn nhận dưới tác động vật chất và tác

động về tinh thần.

Nếu người chồng ly hôn thì người vợ sẽ bị ảnh hưởng xấu đến tinh thần,

tình cảm không chỉ đối với bản thân người vợ mà còn đối với cả đứa trẻ chưa

sinh. Thêm vào đó, người vợ cũng sẽ không nhận được sự ủng hộ về vật chất

từ người chồng trong thời điểm này là một thiệt thòi lớn. Điều này sẽ làm ảnh

19

hưởng xấu tới cả người vợ khi mang thai và ảnh hưởng xấu đến thai nhi.

Điều này được áp dụng ngay cả trong trường hợp người vợ đang mang

thai với người khác hoặc bố của đứa trẻ là ai thì người chồng vẫn bị hạn chế

quyền ly hôn. Từ đó cho thấy trong trường hợp người chồng phát hiện vợ ngoại

tình và đứa con vợ mình đang mang thai, mới sinh hay dưới 12 tháng tuổi không

phải là con của mình thì người chồng vẫn bị hạn chế quyền ly hôn tức là không

được quyền yêu cầu Tòa án cho ly hôn.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng ghi nhận việc người chồng không có quyền

yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi dù

cho đó là con đẻ của cả hai vợ chồng hoặc là con nuôi của hai vợ chồng. Quy

định này cũng nhằm đảm bảo cho người mẹ được ổn định trong việc nuôi con

nhỏ, đảm bảo quyền làm mẹ khi được nuôi con nhỏ.

Thứ hai, quyền được nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu thay đổi người

trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Là người sinh ra con, cha và mẹ đều có các

quyền và nghĩa vụ đối với con cái. Cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thương yêu con,

tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành

mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình,

công dân có ích cho xã hội. Cha, mẹ phải trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất

năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản

để tự nuôi mình. Đối với người mẹ, trong quan hệ HN&GĐ tại Toà án, người

mẹ có các quyền cơ bản như:

- Quyền được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly

hôn: Sau khi ly hôn, phụ nữ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi

dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi

dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

người vợ và chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của

20

mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa

án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi

mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của

con. Nếu con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường

hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,

giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

- Quyền được yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

Người mẹ có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải

quyết khi có một trong các căn cứ:

i) cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù

hợp với lợi ích của con;

ii) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom,

chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con

phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

Thứ ba, quyền yêu cầu xác định cha cho con hoặc xác định con cho cha,

mẹ. Đây là quyền của phụ nữ khi người cha không công nhận con của mình

hoặc người con không công nhận một người là cha hoặc mẹ của mình. Theo

quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 thì con sinh ra trong thời kỳ hôn

nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ

chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn

nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra

trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ

chồng. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và

phải được Tòa án xác định.

Bên cạnh đó, cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã

chết (Khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2014).

Thứ tư, quyền về tài sản khi ly hôn. Khi ly hôn, một trong những vấn đề

21

các bên quan tâm và cũng là vấn đề phức tạp nhất hiện nay là phân chia tài sản.

Theo tinh thần của Điều 33 của Luật HN&GĐ năm 2014 thì tài sản chung của

vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản

xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp

khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40

của Luật HN&GĐ năm 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc

được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của

vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho

riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Bên cạnh đó, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất,

được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ

chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng

đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản

chung.

Trong tố tụng dân sự tại toà án, phụ nữ (vợ) có các quyền về tài sản như:

- Quyền yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung khi ly hôn;

chia tài sản sau khi ly hôn.

- Yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (không

thuộc trường hợp ly hôn).

Một trong những khó khăn, phức tạp trong việc giải quyết các vụ việc

HN&GD có liên quan đến tài sản hiện nay đó là tài sản của vợ chồng nằm

chung trong tài sản của gia đình và chia quyền sử dụng đất khi ly hôn.

Điều chỉnh về vấn đề này, Luật HN&GĐ năm 2014 (Điều 61) đã quy

định về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình, cụ thể:

Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của

vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ

22

hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ

vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối

tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần

trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa

thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ

chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì

khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để

chia theo quy định tại Điều 59 của Luật HN&GĐ năm 2014.

Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn thì quyền sử dụng

đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. Việc chia

quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được phân chia

theo Điều 62 của Luật HN&GĐ năm 2014.

Ngoài ra, phụ nữ còn có các quyền khác được pháp luật ghi nhận như:

Quyền yêu cầu nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ

chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật; quyền

yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; quyền yêu cầu hạn chế quyền của cha,

mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn…

Tuy nhiên các quyền này ít xảy ra trong thực tiễn so với bốn quyền đã nêu ở

trên.

1.2.2. Các quyền cơ bản của trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn

nhân và gia đình tại Toà án nhân dân

Với đặc trưng là người chưa đủ năng lực hành vi dân sự, trẻ em thực hiện

các quyền của mình thông qua cha, mẹ, người thân thích hoặc các cơ quan,

đoàn thể mà không thể tự mình yêu cầu bảo vệ các quyền của mình một cách

độc lập.

Một là, quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em. Đây là một quyền

23

quan trọng của trẻ em, được ghi nhận trong Công ước Liên hiệp quốc về quyền

trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Child) [16]. Dựa vào văn bản

pháp lý này, các quốc gia thành viên phải tôn trọng ghi nhận quyền được chăm

sóc, nuôi dưỡng của trẻ em trong hệ thống pháp luật và bảo đảm thực hiện một

cách nghiêm túc. Gia đình là môi trường đầu tiên và tiền đề để nuôi dưỡng,

hình thành nhân cách, trí tuệ và tinh thần cho trẻ em. Khẳng định trách nhiệm

của gia đình tại khoản 2 Điều 58 của Hiến pháp 2013 “Nhà nước, xã hội và gia

đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trẻ em”. Quy định này được lập

lại tại khoản 1 Điều 98 của Luật Trẻ em 2016 “Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em

và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi

dưỡng, quản lý, giáo dục trẻ em; dành điều kiện tốt nhất theo khả năng cho sự

phát triển liên tục, toàn diện của trẻ em”. Cha mẹ và các thành viên phải có

trách nhiệm chính trong sự phát triển của trẻ em cũng như bảo đảm các quyền

cho trẻ, đặc biệt là quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em.

Quyền được cha mẹ trông nom chăm sóc giáo dục sau khi ly hôn: Theo

Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định quyền được trông nom chăm sóc

giáo dục của con sau khi ly hôn.

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,

nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành

vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình

theo quy định của Luật này, BLDS và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của

mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa

án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi

mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của

con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường

24

hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,

giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con."

Theo đó về nguyên tắc thì quyền nuôi con sau khi ly hôn sẽ do hai vợ

chồng tự thỏa thuận với nhau, trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ

giao con cho một người trực tiếp nuôi dưỡng dựa trên các nguyên tắc sau:

- Đối với con dưới 36 tháng tuổi sẽ do người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng,

trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để nuôi dưỡng con.

- Đối với con từ 7 tuổi trở lên thì phải hỏi ý kiến của con.

- Trường hợp khác, Tòa án sẽ ấn định cho một người dựa trên các căn cứ

như điều kiện về vật chất và điều kiện về tinh thần để giao con cho một người

trực tiếp nuôi dưỡng. Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện

học tập… mà mỗi bên dành cho con, yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ

ở của cha mẹ; Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ,

giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi giải trí, trình

độ học vấn… của cha mẹ.

Điều 81 của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: Sau khi ly hôn, người

không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được

cản trở. Đây là một trong những quyền quan trọng của người không trực tiếp

nuôi con. Tuy nhiên, trong trường hợp người này lạm dụng việc thăm nom để

gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì

người trực tiếp nuôi dưỡng đứa trẻ có trách nhiệm bảo vệ con trước những nguy

cơ đến từ người không trực tiếp nuôi con. Theo đó, người không trực tiếp nuôi

con nếu lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến con

đều là hành vi, vi phạm pháp luật, khi đó, người trực tiếp nuôi con có thể yêu

cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.

Ngoài ra, trẻ em còn được quyền lựa chọn người trực tiếp nuôi dưỡng

sau khi cha mẹ ly hôn: Căn cứ theo khoản 3 Điều 84 của Luật HN&GĐ năm

25

2014 thì việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của

con từ đủ 07 tuổi trở lên. Như vậy, khi con từ 7 tuổi trở lên, cha hoặc mẹ muốn

thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét đến nguyện vọng của con.

Hai là, quyền được cấp dưỡng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của

Luật HN&GĐ năm 2014: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp

dưỡng cho con. Pháp luật quy định cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn nhằm bảo

đảm cho đứa trẻ có cuộc sống ổn định, cấp dưỡng được coi là bù đắp phần nào

cho đứa trẻ khi gia đình tan vỡ, thiếu đi sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc

mẹ là tổn thất vô cùng lớn đối với trẻ. Nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con được

bảo đảm ngay cả trong trường hợp cha mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với

con chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 116 Luật HN&GĐ năm 2014, mức

cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc

người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế

của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp

dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường

hợp cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa

vụ cấp dưỡng thì người còn lại đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa

án buộc người kia thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Nếu cha mẹ cố tình

không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.

Điều 186 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp

dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà

mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn

tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng

nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về

một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc

trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt

cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

26

Ba là, quyền về tài sản. Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền

khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật (Điều 20 Luật trẻ em năm

2016). Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể về vấn đề này như sau:

- Quyền có tài sản riêng của con: Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản

riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu

nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và

thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng

là tài sản riêng của con.

Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ

chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu

cầu thiết yếu của gia đình.

- Quản lý tài sản riêng của con: Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình

quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý. Tài sản riêng của con dưới 15

tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy

quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của con do

cha mẹ hoặc người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở

lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp cha

mẹ và con có thỏa thuận khác.

Bên cạnh đó, cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường

hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của BLDS; người tặng

cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định

người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp

luật.

Trong trường hợp cha mẹ đang quản lý tài sản riêng của con chưa thành

niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà con được giao cho

người khác giám hộ thì tài sản riêng của con được giao lại cho người giám hộ

quản lý theo quy định của BLDS.

27

- Định đoạt tài sản riêng của trẻ em: Tại Điều 21 của BLDS 2015 quy

định: Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo

pháp luật của người đó xác lập, thực hiện. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ

mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện

theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng

ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám

tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan

đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy

định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Theo đó, Điều 77 Luật HN&GĐ 2014 quy định cụ thể về việc định đoạt

tài sản riêng của con chưa thành niên như sau:

i) trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con

dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ

09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con;

ii) con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng,

trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền

sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản

của cha mẹ hoặc người giám hộ.

1.3. Các yếu tố cơ bản bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong

giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân

1.3.1. Bảo đảm về chính trị

Bảo đảm chính trị ở các nước nói chung, Việt Nam nói riêng là cơ sở

chính trị quan trọng, tạo nền tảng để xây dựng hệ thống pháp luật và tổ chức

các hoạt động bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em, trong đó có quyền của phụ

nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ. Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc bảo

vệ và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em là một trong những

mục tiêu hàng đầu của đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng và bảo vệ chế

28

độ xã hội chủ nghĩa. Trong các chương trình, chiến lược, chính sách và pháp

luật, Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ và đảm bảo

quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là những người nghèo, khó khăn, thiểu

năng và bị kém may mắn trong cuộc sống.

Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ: “Phát huy truyền thống,

tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp

phụ nữ. Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng

cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kĩ năng cho phụ nữ

có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện

và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng

giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo

lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em” [5].

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh về quyền của phụ nữ và trẻ

em trong các chính sách và pháp luật liên quan đến HN&GĐ, giáo dục, sức

khỏe và phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước cũng khuyến khích phụ

nữ và trẻ em tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa,

và đảm bảo quyền được đào tạo, phát triển và tiếp cận tài nguyên nhân lực, giáo

dục, y tế, chăm sóc và bảo vệ.

Đảng và Nhà nước cũng tôn trọng và bảo vệ các giá trị văn hóa, truyền

thống và phong tục tập quán của dân tộc, nhưng đồng thời cũng đảm bảo sự

công bằng, bình đẳng và phát triển cho tất cả mọi thành viên trong xã hội, đặc

biệt là phụ nữ và trẻ em.

1.3.2. Bảo đảm về pháp lý

Bảo đảm pháp lý có tác động trực tiếp đến quyền của phụ nữ và trẻ em

quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại TAND. Để bảo đảm quyền của phụ

nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND, pháp luật cần

29

phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản như:

i) tôn trọng nguyện vọng, quyền lợi và tình trạng của phụ nữ và trẻ em

trong quá trình xét xử;

ii) đảm bảo quyền tham gia và đại diện bằng luật sư cho các bên liên

quan, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em;

iii) có sự tham gia của chuyên gia tâm lý và xã hội để đánh giá tình trạng

của phụ nữ và trẻ em, đồng thời đưa ra các giải pháp phù hợp để bảo vệ quyền

lợi của họ;

iv) bảo đảm quyền được nghe và tham gia trong quá trình giải quyết vụ

việc của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trong các vụ việc liên quan đến HN&GĐ;

v) xử lý các vụ việc một cách minh bạch, công bằng, nhanh chóng và

hiệu quả để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em được bảo vệ đầy đủ;

vi) đảm bảo sự tôn trọng và sự an toàn của phụ nữ và trẻ em trong quá

trình xét xử và sau khi xét xử.

Luật HN&GĐ năm 2014 khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng.

Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt

chức năng cao quý của mình; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực

hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau,…Nam, nữ

có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ

một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ HN&GĐ,

bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.

Trong Luật Trẻ em năm 2016 quy định các quyền của trẻ em, nhằm đảm

bảo trẻ em được phát triển tốt nhất, cụ thể: Được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới

tính theo quy định của pháp luật; quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được

chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu;

quyền về tài sản; quyền được sống chung với cha, mẹ; quyền được đoàn tụ, liên

hệ và tiếp xúc với cha, mẹ...

30

1.3.3. Bảo đảm về nhận thức

Nhận thức về quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ

phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm văn hóa, tôn giáo, giáo dục và

cảnh báo từ các tổ chức và chính phủ. Mặc dù các nước và vùng lãnh thổ có

những tiến bộ khác nhau trong việc tăng cường nhận thức về quyền lợi của phụ

nữ và trẻ em trong HN&GĐ, nhưng vấn đề này đang được coi là một vấn đề

quan trọng trên toàn cầu.

Ở Việt Nam, qua nghiên cứu trực tiếp các hồ sơ án HN&GĐ thì thấy đa

số vụ việc là ly hôn. Nguyên nhân phần lớn và sâu xa dẫn tới tình trạng ly hôn

ngày càng gia tăng, đặc biệt với các cặp vợ chồng trẻ là do họ thiếu kỹ năng

sống. Họ bước vào cuộc sống hôn nhân khi tuổi đời còn quá trẻ, chưa có sự

chuẩn bị về tâm lý, kinh tế, sức khỏe và những hiểu biết cần thiết cho cuộc sống

gia đình, quá đề cao cái tôi của bản thân, ít quan tâm đến chồng hoặc vợ, khiến

phần lớn các cặp vợ chồng trẻ nảy sinh mâu thuẫn ngay từ những tháng đầu,

năm đầu của cuộc hôn nhân. Trong khi đó nhận thức về cuộc sống gia đình, ý

nghĩa của hôn nhân và tình yêu còn hời hợt đã khiến họ không đủ bản lĩnh và

kỹ năng giải quyết, vượt qua các mâu thuẫn, dẫn đến ly hôn. Chiếm một phần

trong số các cặp ly hôn là do họ kết hôn ngoài ý muốn khi những hiểu biết về

kiến thức giới tính có phần hạn chế.

Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác như: Do tư tưởng lạc hậu, người

vợ không sinh được con trai nên người chồng ngoại tình hoặc ly hôn để lấy vợ

mới với mục đích có con “nối dõi tông đường”; vấn đề về bạo lực gia đình, tệ

nạn xã hội; vợ chồng bất hòa, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do nhận thức về

xã hội, pháp luật chưa đầy đủ, thậm chí nhiều trường hợp người chồng nghiện

ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè … dẫn đến người vợ không chịu được phải ly

hôn. Nhiều vụ án được TAND đưa ra xét xử là do người chồng đang trong thời

gian thụ lý án vì có hành vi vi phạm pháp luật. Có những vụ ly hôn, người vợ

31

là nguyên đơn nhưng phải viết đơn đề nghị Tòa bảo vệ mình khi tham dự phiên

tòa vì thường xuyên bị người chồng đe dọa, đánh đập do thường xuyên dùng

ma tuý; vấn đề bạo lực gia đình xảy ra cũng xuất phát phần lớn từ người chồng

dùng ma túy tổng hợp bị ảo giác, về đánh dọa vợ con.

Trong những năm gần đây, có nhiều nỗ lực để nâng cao nhận thức về các

vấn đề này, bao gồm cả việc đưa ra chính sách và luật pháp để bảo vệ quyền

lợi của phụ nữ và trẻ em. Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước và xã hội đang cố gắng

tăng cường giáo dục và tuyên truyền để nâng cao nhận thức về các vấn đề liên

quan đến phụ nữ và trẻ em trong HN&GĐ.

1.3.4. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án nhân dân

Đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân là công việc hệ trọng, quyết

định đến chất lượng, hiệu quả công tác của Tòa án, khắc phục những hạn chế,

bất cập trong thực tiễn, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của tình hình mới, bắt

kịp các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới. Đặc biệt, việc này có ảnh hưởng trực

tiếp, quyết định đến việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc

HN&GĐ. Việc đổi mới, kiện toàn, tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc khó,

tác động trực tiếp đến nhiều đối tượng, do đó, đòi hỏi phải có quyết tâm chính

trị cao, thống nhất về tư tưởng, nhận thức, hành động trong toàn hệ thống tòa

án và sự đồng thuận của xã hội.

Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, hệ thống TAND đã không

ngừng đổi mới cả về tổ chức và hoạt động để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao,

nhiệm vụ ngày càng nặng nề đặt ra trong các giai đoạn cách mạng của đất nước.

Địa vị pháp lý của tòa án được khẳng định là trung tâm của hoạt động tư pháp;

tổ chức bộ máy dần được hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ được tăng cường;

chất lượng, hiệu quả công tác không ngừng được nâng cao, hoàn thành tốt các

chỉ tiêu, yêu cầu Quốc hội đề ra. Đội ngũ thẩm phán, cán bộ tòa án dần được

củng cố về số lượng và nâng cao chất lượng; cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm

32

có bước cải thiện đáng kể. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng

gắn với xây dựng TAND trong sạch, vững mạnh trong thời gian gần đây theo

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI và XII) đã nâng cao vị thế, uy tín

của tòa án và góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước

có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay.

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân

dân thời gian qua đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, như tổ chức bộ máy ở một

số tòa án có chỗ chưa thực sự khoa học, thiếu đồng bộ, chưa sát thực tiễn; biên

chế thiếu nhiều so với yêu cầu, nhiệm vụ; đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp

còn thiếu, cơ cấu không hợp lý, chuyên gia đầu ngành còn ít; một số cán bộ hạn

chế về trình độ, năng lực; công tác hành chính tư pháp, ứng dụng công nghệ

thông tin vào hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu; chính sách tiền lương còn bất

cập; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của tòa án chưa thực sự đáp ứng tốt

yêu cầu, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, tình hình quốc tế hiện nay có nhiều diễn biến

mới, phức tạp, khó dự báo; đất nước đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ, nhưng

cũng phải đối diện với những khó khăn, thách thức mới. Bối cảnh đó đặt ra

nhiều yêu cầu mới đối với hệ thống TAND.

33

Tiểu kết chương 1

Như vậy, về bản chất, quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ

việc HN&GĐ tại TAND là tập hợp những khả năng pháp luật mỗi quốc gia

công nhận cho người phụ nữ và trẻ em được hưởng, được làm và được đòi hỏi

trong quá trình giải quyết các vụ việc về HN&GĐ tại TAND theo quy định của

pháp luật nhằm bảo vệ, bảo đảm cho phụ nữ và trẻ em được phát triển công

bằng, toàn diện và góp phần ổn định xã hội. Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ

em là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm cho quyền con người

được thực hiện trong đời sống xã hội, cho nên Nhà nước đặc biệt coi trọng hoạt

động bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em. Nhà nước bảo vệ quyền của phụ nữ

và trẻ em bằng nhiều cách thức, biện pháp khác nhau và được thực hiện bởi

nhiều thiết chế quyền lực Nhà nước.

Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND có nội

dung đa dạng, nhưng tập trung vào một số quyền cơ bản và phổ biến ở Việt

Nam như: Quyền ly hôn, quyền chăm sóc nuôi dưỡng con cái, quyền tài sản

của phụ nữ; quyền được chăm sóc, giáo dục, quyền cấp dưỡng và quyền tài sản

của trẻ em. Các quyền này có mối quan hệ mật thiết ở cả góc độ nội dung và

hình thức. Để hiện thực hoá các quyền này cần có nhiều bảo đảm, trong đó đặc

biệt chú ý tới bảo đảm về chính trị, pháp lý, nhận thức và năng lực của cơ quan

xét xử (TAND).

34

Chương 2.

THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI

QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TOÀ ÁN

NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và công tác xét xử các vụ

việc hôn nhân và gia đình trên địa bàn huyện Ea H’leo

2.1.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Ea H’leo

Ea H'Leo là huyện cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm

thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 80km, được thành lập theo Quyết định số:

110/QĐ-HĐBT, ngày 03/4/1980 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ),

trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Búk. Diện tích tự nhiên 133.409ha, dân số

khoảng trên 147.414 người, với 29 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó

dân tộc thiểu số chiếm khoảng 41%. Toàn huyện có 11 xã và 01 thị trấn với

176 thôn, buôn, tổ dân phố, trong đó có 48 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại

chỗ [40].

Do vị trí địa lý đặc thù, diện tích rộng lớn, các thành phần dân tộc đa

dạng, trình độ nhận thức pháp luật khác nhau nên khi tiến hành giải quyết các

vụ án HN&GĐ thường gặp khó khăn do thời gian triệu tập phải kéo dài, việc

hợp tác với cơ quan tố tụng còn hạn chế, một số vụ án các đương sự là người

địa phương nhưng đã đi làm ăn sinh sống ở nơi khác, một số trường hợp khi

khởi kiện không xác định được địa chỉ cụ thể của người bị kiện, sau khi khởi

kiện thường phó mặc cho cơ quan tiến hành tố tụng, việc giải quyết vụ án gặp

nhiều phức tạp. Đặc biệt do trình độ nhận thức của người dân địa phương nói

chung, của phụ nữ và trẻ em nói riêng còn thấp nên việc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ cũng có những hạn

chế lớn.

35

2.1.2. Khái quát công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình trên

địa bàn huyện Ea H’leo

2.1.2.1. Khái quát về Toà án nhân dân huyện Ea H’leo

TAND huyện Ea H’leo được thành lập vào năm 1980 sau khi huyện

Ea H’leo được thành lập theo quyết định số: 110-CP ngày 3/4/1980 của Hội đồng

chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hết năm 2022, TAND

huyện Ea H’leo hiện có 21 cán bộ, công chức và người lao động, gồm có: 14

nam và 07 nữ. Trong đó: Chức danh quản lý gồm: 01 Chánh án, 02 Phó Chánh

án; chức danh chuyên môn gồm: 10 Thẩm phán; 06 Thư ký; 01 kế toán và 01

văn thư; 03 hợp đồng lao động không xác định thời hạn gồm: 01 nhân viên phục

vụ, 01 bảo vệ và 01 lái xe. Ngoài ra, TAND huyện Ea H’leo còn có 20 Hội thẩm

nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử theo quy định của pháp luật [36].

Về trình độ học vấn: Hiện nay, 17 cán bộ, công chức có trình độ Đại học,

trong đó có 05 công chức có trình độ thạc sĩ và 12 công chức có trình độ cử

nhân. Về trình độ lý luận: Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo có 02 người có trình

độ Cao cấp lý luận chính trị, 16 người đạt trình độ lý luận chính trị từ trung cấp

hoặc tương đương trung cấp lý luận chính trị và có 19 người là Đảng viên Đảng

Cộng sản Việt Nam [36].

TAND huyện Ea H’Leo nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao

động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem

xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong

quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có

tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư

pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.

2.1.2.2. Công tác thụ lý các vụ việc hôn nhân và gia đình

Trong những năm qua, TAND huyện Ea H’leo đã thụ lý giải quyết các

36

tranh chấp về HN&GĐ được như sau:

500

463

457

441

437

432

450

423

413

407

403

393

400

350

300

250

c ệ i v ụ V

200

150

100

50

18

10

6

6

5

0

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2021

Năm 2022

Năm 2020 Năm

Thụ lý

Giải quyết

Còn lại

(Nguồn: [32],[33],[34],[35],[36] )

Biểu đồ 2.1. Số vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo

giai đoạn 2018-2022

Như vậy, trong 5 năm gần đây, số lượng án HN&GĐ mà TAND huyện

Ea H’leo thụ lý có chiều hướng giảm dần qua từng năm. Cụ thể năm 2018 là

441 vụ việc, đến năm 2021 là 403 vụ việc, giảm 38 vụ việc. Có thể thấy, nhìn

chung người dân đã có nhận thức trong việc chấp hành pháp luật, giữ gìn được

hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, vụ việc về HN&GĐ chiếm tỷ lệ cao trở lại trong

tổng số các vụ việc dân sự Tòa án đã thụ lý và giải quyết, đơn cử vào năm 2022.

Đồng thời, trong tổng số các vụ việc HN&GĐ mà Tòa án giải quyết, đa phần

là các vụ việc ly hôn, trong đó trường hợp người vợ đứng đơn ly hôn chiếm đến

hơn 50%, trường hợp có con dưới 18 tuổi là gần 60% [32],[33],[34],[35],[36].

37

2.1.2.3. Công tác hoà giải các vụ việc hôn nhân và gia đình

92

500

457

91

450

432

91

423

407

395

393

390

90

400

90 380

350

343

89

350

88

300

87

250

87

ệ l ỷ T

c ệ i v ụ V

86

200

86

85

150

85

84

100

83

50

82

0

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2021

Năm 2022

Năm 2020 Năm

Vụ việc giải quyết

Vụ việc hoà giải thành

Tỷ lệ hoà giải thành (%)

(Nguồn: [32],[33],[34],[35],[36] )

Biểu đồ 2.2. Kết quả hòa giải trong trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-2022

TAND huyện Ea H’leo luôn coi trọng công tác hòa giải để đảm bảo

quyền lợi tốt nhất cho người dân và tiết kiệm được thời gian giải quyết án. Một

ưu điểm quan trọng đó là các vụ việc hòa giải đều đảm bảo nguyên tắc bảo vệ

quyền của người phụ nữ và trẻ em. Trong 5 năm, có 2.112 vụ việc HN&GĐ

được giải quyết, 1.858 vụ việc được hoà giải chiếm trung bình gần 88%.

2.1.2.4. Công tác xét xử các vụ việc hôn nhân, gia đình

38

70

25

60

60

20

20

50

47

50

42

39

15

40

14

12

ệ l ỷ T

30

c ệ i v ụ V

10

10

8

20

5

8

7

10

6

5

4

0

0

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2021

Năm 2022

Năm 2020 Năm

Vụ việc đưa ra xét xử

Vụ việc hoà giải thành trong quá trình xét xử

Tỷ lệ hoà giải thành trong quá trình xét xử (%)

(Nguồn: [32],[33],[34],[35],[36] )

Biểu đồ 2.3. Kết quả xét xử các vụ việc HNGĐ giai đoạn 2018-2022

Như vậy, trong 5 năm, có 238 vụ việc HN&GĐ được đưa ra xét xử, chỉ

có 30 vụ việc được hoà giải chiếm tỷ lệ trung bình 12,6%. Mặc dù số lượng vụ

án tranh chấp HN&GĐ phải đưa ra xét xử không nhiều nhưng các vụ án này

đều mang tính chất phức tạp cao, liên quan đến nhiều quyền lợi quan trọng của

các đương sự, hoặc là những vụ án mà đương sự không hợp tác với Tòa án để

giải quyết, buộc phải đưa ra xét xử.

2.2. Tình hình thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các

vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo

Thời gian qua, tại TAND huyện Ea H’leo các tranh chấp về HN&GĐ

chủ yếu là các yêu cầu ly hôn, chia tài sản chung của vợ chồng, cấp dưỡng nuôi

con, thay đổi quyền nuôi con. Hầu hết các vụ án liên quan đến tranh chấp

39

HN&GĐ liên quan đến quyền sử dụng đất, chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn

đều có tính chất phức tạp, quá trình giải quyết còn gặp phải những khó khăn

nhất định liên quan đến thu thập chứng cứ, thái độ bất hợp tác của đương sự...

Trước tình hình đó, TAND huyện Ea H’leo đã áp dụng nhiều giải pháp

đồng bộ để đẩy nhanh tiến độ chất lượng giải quyết, xét xử các loại án, đồng

thời cũng nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, ban hành các bản

án, quyết định đúng pháp luật, đúng thời hạn, không có bản án hay quyết định

tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác Thi hành án. Trong công tác

giải quyết các loại án này, đơn vị luôn chú trọng và làm tốt công tác hòa giải

để giảm bớt căng thẳng giữa các bên đương sự, hàn gắn mâu thuẫn trong nhân

dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án, kết quả tỷ lệ

hòa giải thành chiếm tỷ lệ khá cao.

2.2.1. Tình hình thực hiện quyền của phụ nữ trong giải quyết các vụ

việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo

2.2.1.1. Về thực hiện quyền ly hôn

Thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, pháp luật HN&GĐ

nước ta đảm bảo quyền tự do ly hôn, việc ly hôn ảnh hưởng đến lợi ích của các

bên. Trên thực tế tại huyện Ea H’leo, số vụ việc phụ nữ chủ động ly hôn nhiều

hơn, khi ly hôn thì người phụ nữ cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn, do đó rất cần

bảo vệ quyền của phụ nữ trong hôn nhân. Thực tế tại địa phương, quyền yêu

cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, người vợ có quyền được yêu cầu ly hôn trong cả hai trường

hợp: Thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên vợ yêu cầu. Việc ly hôn do một

bên vợ yêu cầu được thực hiện quy định tại Điều 56 của Luật HN&GĐ năm

2014, khi có yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng, TAND huyện đã tiến hành xác

định tình trạng quan hệ hôn nhân và áp dụng các căn cứ để giải quyết, cụ thể:

40

- Trường hợp có căn cứ về việc chồng có hành vi bạo lực gia đình: Hành

vi bạo lực gia đình đa số do người chồng thực hiện, ảnh hưởng đến sức khỏe,

làm rạn nứt quan hệ tình cảm trong thời kỳ hôn nhân.

- Trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: Hành

vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là một trong những căn

cứ để TAND huyện xem xét giải quyết việc ly hôn.

Khi có một trong những căn cứ trên dẫn đến quan hệ hôn nhân lâm vào

tình trạng trầm trọng (người chồng không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc

người vợ,...), đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt

được thì TAND huyện quyết định giải quyết ly hôn. Như vậy, TAND huyện đã

áp dụng các quy định của luật để bảo vệ được người phụ nữ, giải thoát cho họ

trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc. TAND huyện đã áp dụng Luật HN&GĐ

năm 2014 để công nhận và bảo đảm quyền tự do ly hôn chính đáng của người

vợ mà không phụ thuộc vào ý chí của người chồng hay của người khác đảm

bảo được quyền bình đẳng của người vợ trong việc thực hiện quyền ly hôn.

Thứ hai, về trường hợp cha mẹ, người thân thích khác trong gia đình có

quyền yêu cầu TAND huyện giải quyết ly hôn: Nhìn chung hầu như không có

trường hợp nào xảy ra trên địa bàn huyện.

Thứ ba, việc hạn chế về quyền yêu cầu ly hôn của người chồng theo quy

định của khoản 3 Điều 51 của Luật HN&GĐ năm 2014: TAND huyện đã

nghiên cứu, áp dụng nhiều quy định pháp luật bảo đảm quyền làm mẹ của người

vợ được bảo đảm một cách vững chắc hơn trong một số vụ án (dù không nhiều).

Việc này hiện thực hiện hoá nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, tạo điều kiện

cho người phụ nữ thực hiện tốt thiên chức của mình.

Bên cạnh những ưu điểm, quyền ly hôn của phụ nữ trong các vụ việc

HN&GĐ tại địa phương cũng còn một số bất cập:

Một là, thực tiễn xét xử tại địa phương cũng cho thấy, phụ nữ còn gặp

41

một số khó khăn trong quá trình ly hôn, đặc biệt những vụ việc mà phụ nữ là

nạn nhân của bạo lực gia đình. Trên thực tế, một số vụ án ly hôn Tòa án chưa

xem xét thỏa đáng lý do phụ nữ bị bạo lực gia đình là một trong những căn cứ

cho ly hôn và các thủ tục ly hôn chưa thực sự hỗ trợ phụ nữ là nạn nhân bạo lực

gia đình. Nhiều trường hợp nộp hồ sơ ly hôn không được chấp nhận do thiếu

giấy tờ hoặc giấy tờ đang bị người chồng giữ.

Hai là, hòa giải đang là rào cản trong một số vụ án ly hôn do phụ nữ,

nhất là vụ án mà phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình đứng đơn. Đề nghị không

tiến hành hòa giải của nạn nhân bạo lực gia đình chưa thực sự được chú ý, gây

tâm lý căng thẳng và nguy cơ mất an toàn cho phụ nữ khi phải gặp mặt trực

tiếp người gây bạo lực tại tòa. Cá biệt có những vụ, Tòa tiến hành hòa giải nhiều

lần để thuyết phục nạn nhân chuyển quyền nuôi con cho bố dù đứa trẻ dưới 3

tuổi. Nhiều trường hợp phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình phải cân nhắc để

ra quyết định ly hôn vì có thể bị mất quyền nuôi con do không có việc làm ổn

định, không có nghề nghiệp, bị phụ thuộc kinh tế. Trong một số vụ án ly hôn,

người chồng được cho là có điều kiện hơn về kinh tế so với vợ, Toà xử cho

chồng được nuôi con nhưng chưa thực sự quan tâm đến các điều kiện đảm bảo

an toàn cho đứa trẻ, nhất là khi người bố đã có hành vi bạo hành với vợ. Do

vậy, phụ nữ phải gửi đơn đến Hội Liên hiệp Phụ nữ địa phương đề nghị can

thiệp thay đổi quyền nuôi con khi phát hiện bố có hành vi bạo lực đối với con.

Ba là, thời gian theo đuổi vụ án ly hôn thường làm trầm trọng hơn tình

trạng của nạn nhân là phụ nữ. Các quy định về thời gian giải quyết một vụ ly

hôn theo thủ tục tố tụng dân sự hiện nay là quá dài. Từ khi nguyên đơn được

nhận và xử lý đơn đến khi nhận được thông báo đơn của mình đã được thụ lý

là 15 ngày (Điều 191, Điều 196 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Thời hạn

chuẩn bị xét xử là 04 hoặc 06 tháng. Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử có

42

thể cũng phải chờ đến gần 02 tháng (Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự

2015), đó là chưa kể trường hợp vụ án rơi vào tình trạng phải tạm đình chỉ.

2.2.1.2. Quyền được nuôi con sau khi ly hôn

Trong các vụ án tranh chấp ly hôn, ngoài việc các bên đương sự xin ly

hôn, tranh chấp chia tài sản chung, nợ chung thì tranh chấp quyền nuôi con

cũng là dạng tranh chấp trong hầu hết các quan hệ hôn nhân mà Tòa án thụ lý,

giải quyết, bởi cả cha và mẹ đều mong muốn là người trực tiếp nuôi dưỡng con

chung khi các bên ly hôn. Trong thực tiễn xét xử tại TAND huyện Ea H’leo đối

với những vụ án tranh chấp nuôi con chung, Hội đồng xét xử tuân thủ nguyên

tắc “bảo vệ phụ nữ”. Do đó, hầu hết các vụ án ly hôn khi tranh chấp quyền nuôi

con, Hội đồng xét xử thường quyết định giao con chung cho người vợ (người

vợ được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn), đặc biệt đối với con chung là bé gái,

vì việc giao cho mẹ chăm sóc bé gái sẽ thuận lợi hơn trong quá trình phát triển

tâm sinh lý sau này. Việc này phù hợp với quy định pháp luật HN&GĐ, cha mẹ

có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung

chưa thành niên, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về

thể chất, trí tuệ, đạo đức. Do đó, khi xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về

nuôi con chung, tùy từng trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, Hội đồng xét

xử đã xem xét, cân nhắc quyết định giao con chung cho người nuôi dưỡng trên

cơ sở đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của trẻ, tránh làm xáo trộn môi trường

sống cũng như ảnh hưởng đến tâm lý phát triển bình thường của trẻ sau này.

Hộp 2.1. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo bảo vệ tốt quyền

được nuôi con của phụ nữ

Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 48/2019/HNGĐ-ST ngày

02/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo [Xem Phụ lục 1] giữa

nguyên đơn: Bà Phan Thị V - sinh năm 1982; địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn

E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D - sinh năm 1973, địa

43

chỉ: Thôn N, xã K, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Bản án sơ thẩm đã tuyên: Giao cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày

28/6/2011 cho bà Phan Thị V trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và

giáo dục cho đến khi đủ tuổi 18 tuổi

Không đồng tình với bản án sơ thẩm, ông D đã kháng cáo về phần nuôi

con chung và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho ông được

quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày 28/6/2011 đến

tuổi trưởng thành, vì bà V là người chủ động xin ly hôn và bà V không có

nhân cách và đạo đức, nên không thể giao con cho bà V nuôi được.

Bản án phúc thẩm số: 01/2020/HNGĐ-PT ngày: 20/01/2020 của TAND

tỉnh Đắk Lắk [Xem Phụ lục 1] đã tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị

đơn ông Nguyễn Văn D; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 48/2019/HNGĐ-ST

ngày 02/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk về phần

nuôi con chung.

Mặc dù đã có các quy định pháp luật điều chỉnh rất cụ thể về vấn đề tranh

chấp giành quyền nuôi con, nhưng thực tiễn giải quyết các vụ án về ly hôn có

tranh chấp con chung tại địa phương cũng cho thấy việc giải quyết tranh chấp

nuôi con khá phức tạp, vì nó liên quan đến việc đánh giá, xác minh, chứng minh

điều kiện thực tế của từng người, mong muốn của trẻ (nếu con trên 07 tuổi), rồi

việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc thi hành án giao con cho bên được

trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng còn nhiều khó khăn, bất cập do đương sự là vợ

hoặc chồng không hợp tác, chuyển chỗ ở gây khó khăn cho công tác thi hành

án. Trên thực tế vẫn có trường hợp Hội đồng xét xử quyết định giao quyền nuôi

con chung là bé gái cho cha nuôi dưỡng, chăm sóc là chưa thực sự “thấu tình,

đạt lý”.

2.2.1.3. Quyền về tài sản khi ly hôn

- TAND huyện Ea H’leo cơ bản đã bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người

44

vợ theo nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn. Toà án đã áp dụng Luật HN&GĐ

năm 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành để tạo cơ sở pháp lý để

giải quyết những tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại địa phương,

nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho

các đương sự, đặc biệt là người phụ nữ, bởi vì khi ly hôn họ là đối tượng có

phần gặp nhiều khó khăn hơn (người dân tộc thiểu số, không biết chữ, không

có việc làm…). Toà án đã thực hiện theo nguyên tắc chung, tài sản của vợ

chồng được chia đôi cho hai người, trên cơ sở của nguyên tắc vợ, chồng có

quyền bình đẳng trong việc hưởng các quyền dân sự nói chung và quyền sở hữu

tài sản nói riêng, trong trường hợp không có thỏa thuận phân chia tài sản, khi

ly hôn, tài sản chung của vợ chồng được chia theo nguyên tắc chia đôi. Việc

này là hoàn toàn hợp lý vì hình thức sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu

chung hợp nhất, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản

này.

Tuy nhiên, để đảm bảo việc phân chia tài sản chung của vợ chồng được

thực hiện công bằng, phù hợp với thực tế, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ,

khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng

Toà án đã tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng

được chia:

i) Hoàn cảnh gia đình của các bên, theo đó, nếu khi ly hôn mà người vợ

khó khăn thì Tòa án xem xét chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc

được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ

nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ;

ii) công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển

khối tài sản chung, là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình

và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản

chung; trường hợp người phụ nữ không ra ngoài làm việc mà chỉ ở nhà nội trợ,

45

chăm sóc con cái tuy không trực tiếp tạo ra thu nhập do đó cần xem xét tới công

sức đóng góp của người vợ, điều này khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và

chồng;

iii) bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ, chồng trong hoạt động sản xuất,

kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu

nhập (nhất là đất rẫy trồng cà phê, tiêu…). Trường hợp quyền sử dụng đất là

tài sản chung của vợ chồng thì không phân biệt là do vợ hay do người chồng

tạo lập ra, khi ly hôn vợ chồng đều được hưởng phần bằng nhau giá trị quyền

sử dụng đất. Việc này đã bảo vệ quyền sử dụng đất của người vợ trong trường

hợp khi ly hôn người chồng tự ý thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền

sử dụng đất thuộc sở hữu chung này.

iv) lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi

của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản dẫn đến ly

hôn.

- Toà án đã bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ trong quan hệ giao

dịch với người thứ ba theo quy định của pháp luật; quyền và nghĩa vụ tài sản

của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn nếu các bên

không có thỏa thuận khác.

Hộp 2.2. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo đã bảo vệ tốt

quyền của phụ nữ về tài sản

Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 01/2019/HNGĐ-ST ngày 24

tháng 01 năm 2019 của TAND huyện Ea H’Leo [Xem Phụ lục 2] giữa

nguyên đơn: Bà Dương Thị H – Sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện

E, tỉnh Đắk Lắk; bị đơn: Ông Võ Văn P – Sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn B,

xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk và một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên

quan khác.

Bản án sơ thẩm đã tuyên: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà

46

Dương Thị H và ông Võ Văn P. Bà H, ông P được phân chia một số tài sản:

Tổng giá trị các tài sản bà H được nhận là: (157.517.216 đồng + 24.201.000

đồng) = 181.718.216 đồng. Nhưng thực tế bà H được chia là (78.758.608

đồng + 12.100.500 đồng + 61.066.960 đồng + 180.000.000 đồng) =

331.926.068 đồng. Tổng giá trị các tài sản ông P được nhận là: (152.667.400

đồng + 360.000.000 đồng) = 512.667.400 đồng. Nhưng thực tế ông P được

chia là (78.758.608 đồng + 12.100.500 đồng + 91.600.440 đồng +

180.000.000 đồng) = 362.459.548 đồng. Như vậy, phần giá trị tài sản ông P

được nhận nhiều hơn phần tài sản ông P được chia, phần giá trị tài sản bà H

được nhận ít hơn phần tài sản bà H được chia. Nên ông P có trách nhiệm trả

cho bà H phần chênh lệch tài sản được chia là (512.667.400 đồng –

362.459.548 đồng) = 150.207.852 đồng.

Không đồng tình với bản án sơ thẩm, ông P đã kháng cáo. Bản án phúc

thẩm số: 17/2019/HNGĐ-PT ngày: 29-5-2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk

[Xem Phụ lục 2] đã tuyên “Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn P

– Giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 01/2019/HNGĐ-ST ngày

24/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo”.

Tuy nhiên, trong thực tế xét xử cũng có một số vụ việc, vì các nguyên

nhân chủ quan và khách quan, việc xét xử một số vụ việc của TAND huyện

Ea H’leo chưa bảo vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản.

Hộp 2.3. Ví dụ điển hình về việc TAND huyện Ea H’leo chưa bảo

vệ tốt quyền của phụ nữ về tài sản

Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 28/2018/HNGĐ - ST ngày

28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo [Xem Phụ lục 3] giữa nguyên

đơn: Bà Nguyễn Thị H – Sinh năm 1966. Trú tại: T3, xã CM, huyện EH, tỉnh

Đắk Lắk. Bị đơn: Ông Trần Văn Ng – Sinh năm 1967. Trú tại: TĐV, xã NH,

huyện TN, tỉnh Quảng Ngãi. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm

47

bà B và một số người khác.

Bản án sơ thẩm đã chia cho bà H, ông Ng một số đất, nhà ở và tài sản

liên quan. Ông Trần Văn Ng thực tế được nhận số tài sản giá trị là

339.897.000 đồng mà giá trị tài sản ông được chia là 284.092.500 đồng, còn

bà H thực tế được nhận số tài sản trị giá 110.000.000 đồng mà giá trị tài sản

bà được chia là 165.804.500 đồng. Như vậy, số tài sản ông Ng được chia

nhiều hơn số tài sản bà H được chia là 55.804.500 đồng.

Không đồng tình với bản án sơ thẩm, ông Ng, bà B đã kháng cáo. Bản

án phúc thẩm số: 06/2018/HNGĐ-PT ngày 23-3-2018 của TAND tỉnh Đắk

Lắk [Xem Phụ lục 3] đã tuyên chấp nhận đơn kháng cáo của ông Trần Văn

Ng và bà Phan Thị B; sửa bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số

28/2017/HNGD-ST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo,

tỉnh Đắk Lắk: Tổng giá trị tài sản mà bà Phan Thị B được hưởng là:

147.860.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà ông Trần Văn Ng được hưởng là:

180.590.500 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thị H được hưởng là:

121.446.500 đồng.

Như vậy, bản án phúc thẩm đã khắc phục một số hạn chế, khiếm khuyết

của bản án sơ thẩm, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của bà H, B so với bản án sơ

thẩm.

2.2.2. Tình hình thực hiện quyền của trẻ em trong giải quyết các vụ

việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo

2.2.2.1. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của trẻ em

Thời gian qua, trên địa bàn huyện Ea H’leo, khi quyết định ly hôn, đa số

các cặp vợ chồng đều đã xác định tình cảm không còn, không thể tiếp tục cùng

nhau chung sống và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Một số cặp vợ chồng

thỏa thuận kết thúc cuộc hôn nhân trong hòa bình. Song không ít các cặp đôi

tìm mọi cách để gây căng thẳng, đau khổ cho nhau, trừng phạt nhau vì cho rằng

48

đối phương có lỗi làm cho hôn nhân tan vỡ, trong đó bao gồm cả việc tranh

chấp tài sản, con cái, mức cấp dưỡng nuôi con chung. Có rất nhiều vụ án mà

việc tranh chấp nuôi con kéo dài hàng năm, thậm chí một vài năm. Nhiều vụ

xảy ra ẩu đả phải nhờ chính quyền, cơ quan công an và một số cơ quan, đoàn

thể tham gia, can thiệp cũng như sự tham gia bền bỉ của các Luật sư.

Hộp 2.4. Ví dụ điển hình về việc cha mẹ thoả thuận được về việc

chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em

Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 94/2022/HNGĐ-ST Ngày: 15 -

11 - 2022 của TAND huyện Ea H’Leo [Xem Phụ lục 4] giữa nguyên đơn anh

Nguyễn Văn S, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện H, bị đơn chị

Đỗ Thị T, địa chỉ Thôn A, xã E, huyện H.

Bản án sơ thẩm đã tuyên: Về con chung, Anh chị có 04 người con

chung là các cháu: Nguyễn Thị Diệu N, sinh ngày 29/10/2005; Nguyễn Thị

Hải Y, sinh ngày 08/9/2007; Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 26/4/2009;

Nguyễn Ngọc Trường S1, sinh ngày 30/5/2014;

Hiện nay, cả hai con chung đang do anh S chăm sóc, nuôi dưỡng, anh

S cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng 04 con chung, còn chị T trong quá

trình giải quyết vụ án không ghi nhận được ý kiến của chị T nên cần giao 04

con chung cho anh S nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng: Anh Nguyễn Văn S không yêu cầu nên không giải

quyết.

Tuy nhiên, một số vụ án thực tế tranh chấp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo

dục con căng thẳng thường vì một số lý do chính như: Vì quá yêu thương, lo

lắng con; vì cho rằng, đối phương không đủ điều kiện vật chất, hay không đủ

tư cách, phẩm giá để nuôi dưỡng và chăm sóc con; do quá đề cao quyền nuôi

con của bản thân mà không cân nhắc nhu cầu thực sự của trẻ; do tác động của

49

gia đình, người thân với quan niệm “giao con cho người khác là mất con, mất

người nối dõi”, do đối phương gây khó khăn, cản trở việc thăm nom con…

Căng thẳng do tranh chấp ai là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con

thường đồng thời kéo theo căng thẳng trong tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con.

Có người nhận nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng nhằm chứng minh mình có

thừa điều kiện để chăm lo cho con đủ đầy, nhưng cũng có người đưa ra mức

cấp dưỡng cao để nhằm làm gây áp lực cho bên kia. Có những vụ chỉ yêu cầu

cấp dưỡng trên dưới 01 triệu đồng/tháng/cháu nhưng cũng rất nhiều vụ tranh

chấp yêu cầu cấp dưỡng hàng chục triệu đồng/tháng/cháu… Hầu hết các tranh

chấp căng thẳng đều có nguyên nhân là do pháp luật chưa có quy định thật chi

tiết, phù hợp với một số trường hợp cụ thể; tuy nhiên cũng không loại trừ

nguyên nhân do các bên tranh chấp chưa hiểu đúng quy định của pháp luật,

không quan tâm đúng mức nhu cầu tình cảm, lợi ích thực sự của con, dẫn đến

tranh chấp kéo dài, gây khó khăn, tổn thương cho cả đôi bên và con cái.

2.2.2.2. Quyền cấp dưỡng của trẻ em

Thực tiễn giải quyết tại Tòa án huyện Ea H’leo trước đây và hiện tại

thường vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số

24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là “Toà án phải xem xét

đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp

phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người

nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối

thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định

tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con”.

Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho con

sau khi bố mẹ ly hôn nên để xác định mức cấp dưỡng cụ thể, Tòa án thường

căn cứ vào chứng từ, hóa đơn... liên quan đến chi phí hợp lý để nuôi dưỡng,

50

chăm sóc con và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Tuy nhiên, khi đọc và nghiên cứu một số bản án, quyết định Tòa án huyện

Ea H’leo về phần mức cấp dưỡng cho con và thấy rằng các đương sự thỏa thuận

và Tòa án quyết định mức cấp dưỡng nói chung còn rất thấp, chủ yếu thỏa thuận

và ấn định mức cấp dưỡng 500.000đ/tháng/con chung, 1.000.000đ/tháng/con

chung hoặc bằng một tháng lương tối thiểu là 1.490.000đ/tháng/con chung ...

Với mức cấp dưỡng như vậy thì có đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu của người

được cấp dưỡng hay không trong bối cảnh kinh tế xã hội như hiện nay. Bên

cạnh đó, nhiều vụ việc khi xác định mức cấp dưỡng cho con chưa tương xứng

với khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tòa án ấn định mức cấp

dưỡng chỉ xem xét thu nhập, khả năng của người có nghĩa vụ mà không xem

xét tới nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Trẻ em là đối tượng dễ bị

tổn thương, trẻ em rất cần được quan tâm, hỗ trợ kịp thời, đúng lúc.

Hiện nay bảo vệ quyền trẻ em phải tập trung bảo đảm quyền được sống

còn và quyền được phát triển của trẻ em: Bao gồm quyền của trẻ em được sống

cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại

và phát triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm

sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời; Những điều kiện

để trẻ em có thể phát triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc

học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động văn hóa, tiếp nhận thông tin, tự do tư

tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông

của cha mẹ để có thể phát triển hài hòa. Vì vậy, khi giải quyết Tòa án nên mạnh

dạn ấn định mức cấp dưỡng nuôi con phù hợp với mức đáp ứng nhu cầu thiết

yếu để con có điều kiện vật chất, tinh thần tốt hơn phù hợp với xu thế phát triển

của tình hình kinh tế chính trị đất nước Việt Nam nói riêng và toàn thế giới nói

chung.

Về phương thức cấp dưỡng, pháp luật quy định 02 hình thức: Cấp dưỡng

51

định kỳ và cấp dưỡng một lần. Việc cấp dưỡng trong các vụ việc HN&GĐ tại

TAND huyện Ea H’leo chủ yếu được thực hiện theo phương thức cấp dưỡng

theo định kỳ. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên

trong gia đình được quy định rất mềm dẻo, linh hoạt được quy định tại Điều

117 của Luật HN&GĐ 2014 tạo điều kiện cho các bên lựa chọn phương thức

dễ dàng, thuận lợi, phù hợp nhất trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Các

bên được thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc tài sản theo phương

thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm. Việc lựa chọn phương

thức nào trước hết dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, nếu các bên không thỏa

thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết căn cứ vào mức thu nhập của người

có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của người

được cấp dưỡng trừ trường hợp cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ ly hôn theo

Nghị quyết: 02/2000 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, khi các bên không

thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng

tháng.

2.2.2.3. Quyền tài sản của trẻ em

Thời gian qua, tại TAND huyện Ea H’leo các vụ việc HN&GĐ liên quan

đến quyền tài sản của con chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong các vụ việc HN&GĐ.

Các vụ việc liên quan đến quyền tài sản của con khi bố mẹ ly hôn nhìn chung

được bảo đảm. Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn

bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng

không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc

áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy

từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý.

Khi cha mẹ ly hôn về nguyên tắc phân chia tài sản chỉ tiến hành chia tài

sản chung của vợ chồng. Việc con có được chia tài sản hay không phụ thuộc

vào thỏa thuận của cha mẹ. Cha mẹ có thể thỏa thuận thống nhất cho con hưởng

52

một phần tài sản. Nếu xác định là tài sản chung của gia đình thì sẽ được chia

phù hợp với công sức đóng góp của con trong quá trình tạo lập, duy trì và phát

triển tài sản. Chỉ phân chia phần tài sản của riêng vợ chồng mà không liên quan

đến con cái.

Cụ thể:

- Trường hợp 1: Bố mẹ thỏa thuận về việc để lại tài sản cho con. Trường

hợp cả hai cùng thỏa thuận thống nhất chia tài sản của mình cho con cái sau ly

hôn thì con cái có quyền được hưởng tài sản. Trường hợp không thể thỏa thuận

hay có tranh chấp thì Tòa án sẽ chia dựa trên tình hình thực tế và quy định của

pháp luật theo quy định tại Điều 59 của Luật HN&GĐ.

- Trường hợp 2: Con cái là đồng sở hữu chung tài sản với bố mẹ. Trong

trường hợp tài sản chung của hộ gia đình và con có tên trong sổ hộ khẩu tại thời

điểm xác lập quyền đối với tài sản đó hoặc có tên trong danh sách những người

đồng sử dụng, sở hữu. Khi vợ chồng ly hôn và tiến hành việc chia tài sản chung,

trong đó có tài sản của hộ gia đình thì con cũng được chia phần tài sản tương

ứng với phần quyền của con trong khối tài sản đó. Nếu tài sản có ghi nhận công

sức của con cái trong quá trình tạo lập, duy trì và phát triển thì khi xử lý tài sản

cũng vẫn phải đảm bảo quyền và lợi ích của con đối với tài sản đó.

Khi mua hoặc được nhận tặng cho, thừa kế chung. Việc con cái và cha

mẹ cùng mua hoặc được nhận tặng cho, thừa kế tài sản chung thì con cũng sẽ

có quyền và nghĩa vụ như cha mẹ đối với tài sản đó. Vì vậy, khi bố mẹ ly hôn

thì con cái vẫn sẽ được phân chia tài sản đó. Tài sản thuộc sở hữu của con sẽ

vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của con, không chia khi bố mẹ ly hôn.

2.3. Đánh giá về thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo

2.3.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất, có thể thấy số vụ việc về HN&GĐ mà TAND huyện Ea H’leo

53

thụ lý và giải quyết là rất lớn, trong đó chủ yếu là tranh chấp về ly hôn. Ngoài

ra, TAND huyện Ea H’leo cũng thụ lý các loại án tranh chấp về người trực tiếp

nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn; tranh chấp về nuôi

con, chia tài sản. . . .

Mặc dù số lượng lớn án sơ thẩm về HN&GĐ ở TAND huyện Ea H’leo

nhưng đa phần các vụ việc đều được giải quyết đúng thời hạn luật định, các bản

án, quyết định được ban hành là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp

luật. Để đạt được kết quả này, các Thẩm phán, Thư ký cũng như các cán bộ hỗ

trợ khác của TAND huyện Ea H’leo phải cố gắng rất nhiều.

Một ưu điểm lớn trong công tác thụ lý các vụ việc HN&GĐ của TAND

huyện Ea H’leo đó là không có đơn thư khiếu nại, tố cáo nào về hành vi vi

phạm quyền của phụ nữ và trẻ em của cán bộ công chức trong đơn vị. Điều này

khẳng định TAND huyện Ea H’leo đã bảo vệ một trong những quyền nhân thân

quan trọng của phụ nữ đó là quyền được ly hôn, người phụ nữ được giải phóng

khỏi mối quan hệ hôn nhân bế tắc mà ở đó mục đích hôn nhân không đạt được

và họ không muốn duy trì đời sống hôn nhân.

Thứ hai, dù là huyện miền núi, địa bàn rộng, dân cư sống thưa thớt, rải

rác ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, đặc biệt người đồng bào dân tộc

thiểu số phần lớn không am hiểu pháp luật, vẫn còn sử dụng các luật tục lạc

hậu để giải quyết các tranh chấp, các vi phạm pháp luật nhưng việc giải quyết,

xét xử các vụ việc nói chung, HN&GĐ nói riêng được quan tâm, bảo đảm chất

lượng. Hàng tuần, hàng tháng, các Thẩm phán phải báo cáo kết quả công việc,

các khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án cho các Phó Chánh án

phụ trách để tham mưu cho Chánh án về công tác chuyên môn, qua đó Tòa án

đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hướng dẫn đương

sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, chủ động xác minh, thu thập

chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật, chủ

54

động liên hệ làm việc trực tiếp với các cơ quan chức năng đang quản lý, lưu

giữ các nguồn chứng cứ để thu thập theo quy định của pháp luật làm căn cứ cho

việc giải quyết vụ án, chứ không thông qua con đường công văn làm kéo dài

thời gian giải quyết vụ án; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm

giải quyết án đạt chất lượng và tiến độ cao.

Thứ ba, mặc dù rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, khó khăn

về điều kiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ nhưng Tòa án nhân dân huyện

Ea H’Leo đã cố gắng triển khai công tác ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng

các phần mềm (03) do TAND tối cao triển khai vào công tác, hoạt động của

Tòa án nhằm đạt hiệu quả công tác tốt nhất. Ngoài ra còn thực hiện, công khai

minh bạch các hoạt động của Tòa án. Trang bị máy tính cho Thẩm phán, Thư

ký.... để thực hiện tác nghiệp tại phiên tòa, kết nối mạng Internet để thực hiện

việc truy cập thông tin, văn bản pháp luật phục vụ công tác. Qua đó, 100% cán

bộ công chức trong đơn vị đều sử dụng thành thạo và khai thác tốt các hệ thống,

chương trình phần mềm để phục vụ công tác.

Thứ tư, cán bộ công chức TAND huyện Ea H’Leo đã giúp đỡ, tuyên

truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tới đồng

bào buôn kết nghĩa, vận động nhân dân làm theo Hiến pháp và pháp luật, đặc

biệt hướng tới đối tượng phụ nữ. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo kết nghĩa

với buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ là buôn Krái, xã Ea Sol, huyện

Ea H’Leo. Cán bộ công chức TAND huyện Ea H’Leo đã giúp đỡ, tuyên truyền

các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tới đồng bào

buôn kết nghĩa, vận động nhân dân làm theo Hiến pháp và pháp luật.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

- Trong một số vụ việc, quyền của phụ nữ và trẻ em chưa được bảo đảm

55

trong các vụ việc HN&GĐ, nhất là các quyền lợi về tài sản, quyền chăm sóc

nuôi dưỡng con cái của phụ nữ; quyền về cấp dưỡng của trẻ em.

- Vẫn còn một số bản án, quyết định của TAND huyện Ea H’Leo quyền

của phụ nữ và trẻ em bị sửa do những sai sót, trong đó không ít bản án có những

sai phạm khá nghiêm trọng. Vì thế, một số quyền lợi của người phụ nữ và trẻ

em sẽ không được hoặc khó khôi phục.

- Còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử và còn khá nhiều vụ án tạm

đình chỉ chưa giải quyết dứt điểm. Một trong những yêu cầu cơ bản nhằm bảo

đảm hoạt động xét xử bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hoạt động xét xử

được tiến hành kịp thời và đúng thời hạn luật định. Bên cạnh việc trừng phạt

hành vi vi phạm pháp luật dân sự xâm hại quyền của phụ nữ và trẻ em thì hoạt

động xét xử của Tòa án còn nhằm khôi phục những quyền lợi của người phụ

nữ và trẻ em do hành vi xâm phạm hạn chế, tước bỏ. Xét xử không kịp thời

hoặc xét xử kéo dài không chỉ không bảo vệ được quyền lợi của phụ nữ và trẻ

em, mà còn gây ra thiệt hại quyền, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần của các

đương sự.

- Còn hạn chế trong việc thu thập tài liệu chứng cứ vụ án, còn vi phạm

thủ tục tố tụng trong điều tra, thiết lập hồ sơ vụ án khiến cho vụ án bị xét xử lại

nhiều lần, ảnh hưởng đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Một là, hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em trong các

vụ việc HN&GĐ còn bất cập:

- Chưa đủ sự bảo vệ cho phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ.

Ví dụ, các trường hợp bạo lực gia đình đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng

và pháp luật vẫn chưa đủ để bảo vệ các nạn nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

- Các quy định pháp luật về việc giải quyết tranh chấp HN&GĐ chưa

đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của xã hội hiện nay. Điều này có thể dẫn

56

đến những tranh chấp kéo dài, gây tổn thương đến các bên liên quan.

- Các quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong hôn nhân chưa

thực sự minh bạch và công bằng. Trong một số trường hợp, phụ nữ và trẻ em

vẫn chưa được bảo vệ đúng mức.

- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em chủ yếu dừng lại ở việc

khẳng định quyền của trẻ em và bổn phận cơ bản của cha mẹ, gia đình, xã hội

và các cơ quan nhà nước. Các quy định mang tính nguyên tắc, định hướng

chung chung, thiếu cụ thể. Sự tản mạn, thiếu thống nhất của các văn bản luật

về quyền dẫn đến khó khăn áp dụng trên thực tế. Các luật có liên quan không

đồng bộ, đầy đủ nên dẫn tới việc giải quyết chưa có cơ sở pháp lý cũng như

không có quy định pháp lý chế tài để xử lý khi vi phạm.

Thứ hai, trình độ, năng lực của các chức danh tư pháp thuộc hệ thống

TAND huyện Ea H’Leo còn hạn chế, chưa đồng đều. Hệ thống tư pháp và các

chức danh thuộc TAND đang phát triển tại huyện Ea H’Leo, tuy nhiên trình độ

và năng lực của các chức danh tư pháp vẫn còn hạn chế và chưa đồng đều. Một

số nguyên nhân dẫn đến trình độ và năng lực của các chức danh tư pháp chưa

đạt yêu cầu bao gồm hạn chế về giáo dục và đào tạo, do ở vùng dân tộc thiểu

số. Việc thiếu đồng đều về trình độ và năng lực của các chức danh tư pháp có

thể gây ra sự chênh lệch trong quyết định của TAND huyện Ea H’Leo và ảnh

hưởng đến sự công bằng và hiệu quả của hệ thống tư pháp.

Vì vậy, cần phải có những biện pháp để cải thiện trình độ và năng lực

của các chức danh tư pháp, như đầu tư vào đào tạo và nâng cao kiến thức chuyên

môn, đánh giá và kiểm tra chất lượng đối với các chức danh tư pháp và cải thiện

điều kiện làm việc của họ. Điều này sẽ giúp đảm bảo sự công bằng và hiệu quả

của hệ thống tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Thứ ba, hoạt động của TAND trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại

huyện Ea H’Leo còn gặp nhiều bất cập, hạn chế, bao gồm:

57

- Thời gian giải quyết kéo dài: Thời gian giải quyết các vụ án HN&GĐ

thường rất dài, kéo dài đến nhiều năm. Điều này gây ra nhiều bất tiện và khó

khăn cho các bên liên quan và ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của họ.

- Chưa phát huy hết giá trị của công tác hoà giải.

- Cơ sở vật chất và việc ứng dụng công nghệ thông tin của TAND còn

gặp nhiều hạn chế. Toà án huyện vẫn đang sử dụng các thiết bị, phần mềm,

phương tiện làm việc cũ kỹ, thiếu hiện đại và không đáp ứng được nhu cầu sử

dụng. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết các vụ án, làm

giảm hiệu quả của hoạt động của toà án. Việc ứng dụng công nghệ thông tin

trong các hoạt động của toà án vẫn còn chưa được triển khai đầy đủ.

- Cơ chế phối hợp chưa hiệu quả giữa các cơ quan như TAND, Viện

Kiểm sát nhân dân và các cơ quan, tổ chức trên địa bàn huyện Ea H’Leo.

Thứ tư, trình độ văn hoá, hiểu biết pháp luật của phụ nữ và trẻ em ở vùng

dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn còn thấp. Ở các vùng dân tộc thiểu số

và kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá và hiểu biết pháp luật của phụ nữ và trẻ

em thường rất thấp do nhiều yếu tố khác nhau như hạn chế trong việc tiếp cận

giáo dục, nghèo đói, và thiếu nhận thức về quyền lợi của mình.

Ở những vùng này, có thể tồn tại những thực trạng văn hóa và truyền

thống gây phân biệt đối xử đối với phụ nữ và trẻ em, chẳng hạn như hôn nhân

sớm và giới hạn quyền tiếp cận giáo dục cho các bé gái. Điều này có thể dẫn

đến sự thiếu nhận thức về quyền lợi và bảo vệ pháp lý của họ. Hơn nữa, sự thiếu

hụt trong việc tiếp cận các dịch vụ và thông tin pháp lý ở các vùng này cũng

khiến cho phụ nữ và trẻ em gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công lý và bảo

vệ quyền lợi của mình.

58

Tiểu kết chương 2

Như vậy, thời gian qua, nhìn chung các vụ việc về HN&GĐ đã được

TAND huyện Ea H’Leo giải quyết cơ bản bảo đảm đúng thời hạn luật định, áp

dụng đúng pháp luật, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương

sự (nhất là phụ nữ và trẻ em), góp phần tạo ra môi trường pháp lý an toàn, đảm

bảo an toàn trật tự xã hội góp phần vào việc phát triển kinh tế tại địa phương.

Bên cạnh đó, TAND huyện Ea H’Leo đã áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ để

đẩy nhanh tiến độ chất lượng giải quyết, xét xử các loại án, đồng thời cũng nâng

cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, ban hành các bản án, quyết định

đúng pháp luật, đúng thời hạn, không có bản án hay quyết định tuyên không rõ

ràng gây khó khăn cho công tác Thi hành án.

Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, việc bảo đảm quyền của phụ

nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện còn một số hạn chế,

bất cập. Quyền về HN&GĐ của phụ nữ trong một số trường hợp vẫn bị xâm

phạm, nhất là quyền về tài sản. Quyền của trẻ em về chăm sóc, nuôi dưỡng và

cấp dưỡng còn chưa được quan tâm đúng mức. Còn một số bản án, quyết định

của TAND huyện Ea H’leo về HN&GĐ vẫn có những điểm chưa đúng pháp

luật, chưa hợp lý, bị toà án cấp trên huỷ một số nội dung. Việc nhận thức đúng

và đầy đủ các hạn chế và nguyên nhân trên sẽ là cơ sở để đề ra các giải pháp

bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND

huyện Ea H’Leo trong thời gian tới.

59

Chương 3.

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG

GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TOÀ ÁN

NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. Sự cần thiết phải bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong

giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện

Ea H’leo, tỉnh Đắk Lăk

Việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc

HN&GĐ tại TAND nói chung, TAND huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk là vô

cùng cần thiết, bởi vì:

Thứ nhất, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ

việc HN&GĐ là hiện thực hoá quyền con người, quyền công dân đã được Hiến

pháp và pháp luật ghi nhận. Trong các vụ việc HN&GĐ, phụ nữ và trẻ em

thường là những bên yếu thế và dễ bị tổn thương. Vì vậy, bảo đảm quyền của

họ trong việc giải quyết các vụ việc này là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi

và lợi ích của họ. Bảo vệ bà mẹ và trẻ em được khẳng định trong đạo luật cao

nhất của Nhà nước ta, là tư tưởng chỉ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam,

do đó là nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ. Bà mẹ và trẻ em nói chung cần

được bảo vệ, đặc biệt là các bà mẹ đơn thân.

Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm về thể chất và tinh thần, phụ nữ và trẻ em

là đối tượng cần được pháp luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Đặc biệt, khi làm

mẹ, người phụ nữ phải thực hiện thiên chức của mình là nuôi con bằng sữa mẹ.

Trên cơ sở lý luận và nghiên cứu thực nghiệm, các nhà tâm lý học và giáo dục

học đã kết luận rằng ảnh hưởng của người mẹ đối với tình cảm, nhân cách và

sự nghiệp của con lớn hơn rất nhiều so với người cha. Vì vậy, bảo vệ bà mẹ

nhằm đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó và có ý

60

nghĩa rất lớn trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Bảo vệ

bà mẹ và trẻ em là trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Nhà nước,

xã hội, và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ

thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.

Thứ ba, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc

HN&GĐ tạo cơ sở tôn trọng và thúc đẩy bình đẳng giới. Bảo đảm quyền của

phụ nữ trong các vụ việc HN&GĐ là một cách để thể hiện tôn trọng và thúc

đẩy bình đẳng giới. Các quyền lợi của phụ nữ cần được bảo vệ đầy đủ và chính

đáng, không được phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Tham gia tố tụng dân sự,

đương sự nào trong vụ việc dân sự cũng luôn có nhu cầu cần được Tòa án bảo

vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Tuy nhiên, nếu pháp luật tố tụng dân

sự chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền bình đẳng của đương sự thì rất có thể

quyền này sẽ không được thực hiện hoặc được thực hiện không hiệu quả bởi

quyền này không chỉ phụ thuộc vào đương sự có thực hiện hay không mà còn

phụ thuộc vào các chủ thể có liên quan như Tòa án, Viện kiểm sát, các cá nhân,

cơ quan, tổ chức khác trong xã hội... Như vậy, để có thể bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của đương sự, pháp luật tố tụng dân sự cần có các quy định về bảo

đảm quyền bình đẳng của đương sự từ phía Tòa án, Viện kiểm sát và các chủ

thể khác có liên quan.

Thứ tư, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc

HN&GĐ là cơ sở tạo môi trường lành mạnh cho gia đình và xã hội: Việc bảo

đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ có thể

tạo ra một môi trường lành mạnh cho gia đình và xã hội. Khi các vụ việc này

được giải quyết một cách công bằng và hiệu quả, có thể giúp giảm bớt căng

thẳng và xung đột trong gia đình, đồng thời tăng cường sự ổn định của xã hội.

Thứ năm, xuất phát từ thực tiễn bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em

trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo vẫn còn những

61

hạn chế, bất cập. Vấn đề bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong các vụ tranh chấp quyền

lợi về HN&GĐ trên thực tế ngày càng phức tạp, khó khăn. Thiếu hiểu biết về

luật pháp, không có thói quen cũng như khả năng sử dụng luật pháp để bảo vệ

quyền lợi của bản thân và các con là nguyên nhân dẫn đến việc chị em phụ nữ

phải chịu nhiều thiệt thòi trong các vụ án ly hôn, tranh chấp tài sản. Rõ ràng,

việc giáo dục, phổ biến pháp luật để chị em ý thức được về quyền lợi cũng như

những quy định của pháp luật bảo vệ họ là vô cùng cần thiết nhưng vẫn chưa

được quan tâm đúng mức. Nhất là ở khu vực Tây Nguyên, do chịu ảnh hưởng

của văn hóa địa phương, nhiều chị em vẫn sống theo mẫu hình truyền thống,

hy sinh vì chồng, con, gia đình, mà quên đi quyền lợi của bản thân. Đặc biệt là

phụ nữ nông thôn, nghèo, ở vùng sâu, vùng xa… ít có điều kiện tiếp cận nâng

cao nhận thức về pháp luật nên thường phải chịu thiệt thòi.

3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết

vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh

Đắk Lắk

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

nhằm đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân

và gia đình tại Toà án nhân dân

Thứ nhất, đề nghị sửa đổi các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhằm

bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em:

Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

về quyền và nghĩa vụ của đương sự để rõ hơn quyền bình đẳng của phụ nữ trong

tố tụng dân sự. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Điều 70 của Bộ luật Tố

tụng dân sự năm 2015 để khẳng định rõ hơn quyền bình đẳng của đương sự là

phụ nữ trong tố tụng dân sự. Bổ sung điều luật quy định về quyền, nghĩa vụ của

đương sự trong việc dân sự để đương sự trong việc dân sự bình đẳng với đương

sự trong vụ án dân sự. Bổ sung quyền đưa ra yêu cầu của bị đơn tại Điều 72

62

của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để bảo đảm hơn nữa quyền bình đẳng

giữa bị đơn với các đương sự khác. Bổ sung nội dung Điều 112 của Bộ luật Tố

tụng dân sự năm 2015 để nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm

quyền bình đẳng giữa các đương sự khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời. Bổ sung quy định tại Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

về thời hạn Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự để nâng

cao trách nhiệm của Tòa án phải tiếp tục giải quyết vụ án.

Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

năm 2015 về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền bình

đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự. Bên cạnh chức năng kiểm sát của Viện

kiểm sát tại phiên tòa xét xử, cần tăng cường sự kiểm sát của Viện kiểm sát

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là giải pháp phù hợp để bảo đảm quyền bình

đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự. Khoản 2 Điều 97 của Bộ luật Tố tụng

dân sự năm 2015 đã quy định rõ Tòa án có thể thu thập chứng cứ bằng các biện

pháp cụ thể nhưng chưa có quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ mà

Viện kiểm sát được tiến hành. Viện kiểm sát cũng là một cơ quan tiến hành tố

tụng dân sự như Tòa án nên sẽ là phù hợp nếu Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

bổ sung quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát thu thập tài liệu,

chứng cứ bằng các biện pháp được quy định tại khoản 2 Điều 97 của Bộ luật

Tố tụng dân sự năm 2015” [42].

Ngoài ra, sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

về trách nhiệm của cơ quan tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm quyền bình

đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự. Bổ sung nội dung của nguyên tắc trách

nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền,

đồng thời, nghiên cứu bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền phải có trách nhiệm phối hợp với Tòa án ban hành bộ tập quán dùng làm

căn cứ để giải quyết vụ án trong trường hợp chưa có luật áp dụng.

63

Thứ hai, sửa đổi một số nội dung của Luật HN&GĐ năm 2014:

Về vấn đề ly hôn: Cần có quy định, hướng dẫn cụ thể hơn về những nội

dung có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, như “thật sự tự nguyện ly hôn”,

“vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”, “người mẹ không đủ

điều kiện”… để tránh việc áp dụng không thống nhất, phụ thuộc vào đánh giá

chủ quan của người có thẩm quyền, như thẩm phán, kiểm sát viên. Cần có cơ

chế pháp lý để bảo vệ hiệu quả hơn quyền, lợi ích của các bên liên quan trong

thực hiện quyền lưu cư của vợ chồng khi ly hôn; quyền của con dâu, con rể khi

sống chung với gia đình nhà chồng, nhà vợ; quyền của cha, mẹ không trực tiếp

nuôi con; quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con…

Vấn đề ly thân: Luật HN&GĐ chưa quy định về chế định ly thân nhưng

thực tế hiện tượng này vẫn xảy ra. Do đó, đề nghị nghiên cứu ghi nhận chế định

ly thân trong Luật. Việc quy định chế định ly thân sẽ bảo đảm tốt hơn quyền

lợi của các con, các thành viên khác trong gia đình; minh bạch hóa các giao

dịch dân sự, kinh tế do một bên vợ, chồng thực hiện... Bên cạnh đó, ly thân còn

là một biện pháp giúp các bên vợ, chồng tránh tình trạng bạo lực gia đình, tạo

điều kiện cho vợ chồng có thời gian để cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tiến tới

quyết định ly hôn... Trường hợp chưa ghi nhận chế định độc lập về ly thân thì

cần nghiên cứu bổ sung ly thân là một căn cứ cho ly hôn [43].

Về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em: Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về

quyền, bảo đảm sự toàn diện, đồng bộ, thống nhất của các luật chuyên ngành.

Loại bỏ sự mâu thuẫn, chồng chéo cũng như các quy định pháp luật cần cụ thể,

đảm bảo tính khả thi của cả hệ thống pháp luật. Những quy định trong văn bản

luật về quyền cần định tính hơn chứ không dừng lại ở nguyên tắc hay định

hướng chung chung như hiện nay. Bổ sung các quy định biện pháp xử lý đối

với hành vi vi phạm nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với cha mẹ, gia đình,

nhà trường trên cả phương diện hành chính và hình sự. Các quy định của pháp

64

luật quốc gia phải trên cơ sở phù hợp với các quy định Công ước, phong tục

tập quán dân tộc cũng như trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì

vậy, tình trạng trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn còn khá phổ biến. Do đó,

pháp luật cần có chế tài nghiêm khắc hơn cũng như kiên quyết xử lý đối với

những người có hành vi vi phạm vấn đề này. Nhà nước cần đẩy mạnh tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục cho người dân về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối

với con khi ly hôn, để người cha, người mẹ tự nguyện thực hiện các quyền và

nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của con khi cha mẹ ly hôn.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật và thực hiện bảo vệ quyền lợi trẻ em, nhất

là nguy cơ bị xâm hại. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về bảo

vệ trẻ em, phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm bạo lực, xâm hại/xâm hại tình

dục trẻ em. Trước hết là các quy định về giám định pháp y trong pháp luật về

giám định tư pháp để bảo đảm các vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em

được điều tra nhanh chóng, thu thập kịp thời, đầy đủ bằng chứng; tăng quyền

yêu cầu giám định cho cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em; có sự phối hợp giữa

công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân với thu thập, cung cấp chứng cứ xâm hại trẻ

em cho quá trình tư pháp. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về tố tụng hình sự để bảo

đảm việc điều tra, xét xử vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em

không có nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em là nạn nhân. Sửa đổi, bổ sung pháp

luật xử lý vi phạm hành chính để tăng mức xử phạt hành chính hành vi bạo lực

đối với trẻ em. Quy định chế tài xử lý việc phản ánh vụ việc bạo lực, xâm hại,

xâm hại tình dục trẻ em trên các phương tiện thông tin đại chúng vi phạm quyền

bí mật đời sống riêng tư của trẻ em.

Bên cạnh đó, triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp

năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, Luật HN&GĐ năm 2014… và các văn bản

hướng dẫn thực hiện; ưu tiên bố trí nguồn lực để bảo đảm việc hỗ trợ, can thiệp

65

cho trẻ em khi bị bạo lực, xâm hại… Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng

bảo vệ trẻ em, đặc biệt về phòng ngừa xâm hại tình dục và bạo lực đối với trẻ

em cho cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ, người trực tiếp làm việc với trẻ

em và kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình trước các nguy cơ bị xâm hại cho trẻ

em.

Ngoài ra, các bộ, ban, ngành, địa phương… cần nghiêm túc thực hiện

Chỉ thị số: 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng

cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em (Chỉ thị số 18/CT-TTg),

thường xuyên kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện quy định

của pháp luật về bảo vệ trẻ em và Chỉ thị số: 18/CT-TTg [14]. Bộ Công an, Tòa

án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao rà soát hồ sơ, vụ việc

bạo lực, xâm hại trẻ em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài; tiếp

nhận, giải quyết kịp thời, xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em;

kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi bao che, chậm trễ, cố

tình kéo dài hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em.

3.2.2. Giải pháp cụ thể bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải

quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo,

tỉnh Đắk Lắk

3.2.2.1. Nâng cao nhận thức của phụ nữ, trẻ em và Nhân dân về quyền

của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình

Việc nâng cao nhận thức của phụ nữ, trẻ em và Nhân dân về quyền của

phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ là rất quan trọng để đảm

bảo quyền lợi và sự bảo vệ cho họ. Trong các vụ việc tại TAND huyện

Ea H’leo, lý do dẫn đến hôn nhân đổ vỡ phần lớn là do hành vi bạo lực, vi phạm

pháp luật của người chồng, gây ảnh hưởng đến tinh thần của người vợ và trẻ

em trong gia đình. Người vợ đều là người cố gắng chịu đựng để mong hàn gắn,

nhưng tâm lý cam chịu không thể giúp hôn nhân có thể hoà hợp. Hành vi bạo

66

lực gia đình, trẻ em là vi phạm pháp luật hôn nhân gia đình, vi phạm quyền con

người, làm tổn hại đến hạnh phúc gia đình.

Để khắc phục được tình trạng trên, các cơ quan, đoàn thể cần tăng cường,

quan tâm hơn nữa, để phát huy tối đa vai trò trong việc tư vấn về hôn nhân gia

đình, tuyên truyền giáo dục gia đình, hỗ trợ phụ nữ kiến thức phòng, chống bạo

lực gia đình nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc theo

quy định tại khoản 4 Điều 3 của Luật hôn nhân gia đình 2014 và khoản 1 Điều

1 Điều lệ Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam. Thông qua các hoạt động tuyên

truyền, truyền thông, phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các ngành chức

năng trong việc tổ chức thực hiện tốt Luật Phòng chống bạo lực gia đình.

Đồng thời tăng cường nắm tình hình các gia đình tại địa bàn thông qua

hoạt động của tổ chức Hội phụ nữ kết hợp công tác quản lý nhân khẩu của chính

quyền địa phương để kịp thời phát hiện dấu hiệu, nguy cơ bạo lực gia đình để

tuyên truyền, vận động, làm rõ một trong những nguyên nhân chính của bạo

lực gia đình là sự bất bình đẳng giới, là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, từ đó

giúp cho người chồng, người vợ khắc phục những tồn tại, thay đổi nhận thức,

hành vi trong ứng xử về gia đình.

Đặc biệt, một trong những hình thức có hiệu quả trong công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến đối tượng là phụ nữ, trẻ em là việc tổ

chức xây dựng các mô hình Câu lạc bộ pháp luật như: Câu lạc bộ “Phụ nữ với

pháp luật”, trong đó, Hội Phụ nữ đã phối hợp với cơ quan Tư pháp các cấp

thành lập các Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” tại các xã, thị trấn trên địa bàn

huyện. Tuỳ theo nhu cầu và điều kiện thực tế, các Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp

luật” xây dựng nội dung sinh hoạt phù hợp với tình hình địa phương để tuyên

truyền, trợ giúp pháp lý cho hội viên các vấn đề về: Dân sự, hôn nhân và gia

đình, bạo lực gia đình, bình đẳng giới, chính sách đối với người có công, trẻ

em... Với hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú, nội dung sinh hoạt thiết thực,

67

bổ ích gần gũi với thực tế cuộc sống, không khí sinh hoạt vui tươi, cởi mở...

các thành viên trong Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” cùng trao đổi, thảo luận,

chia sẻ về những kinh nghiệm thực tế cuộc sống, từ đó chuyển tải các chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách dễ

hiểu, dễ nhớ, thu hút đông đảo hội viên, phụ nữ tham gia.

Qua hoạt động Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”, giúp các thành viên

nâng cao hiểu biết pháp luật để thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, thiên chức của

người vợ, người mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Các hội viên của Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” là những nhân tố gương

mẫu chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà

nước và các quy định của địa phương. Là những tuyên truyền viên tích cực

tham gia tuyên truyền pháp luật đến với người dân. Từ đó, góp phần nâng cao

trình độ hiểu biết, nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ để có thể

tự bảo vệ mình và con cái.

3.2.2.2. Nâng cao năng lực và đổi mới hoạt động của Toà án nhân dân

huyện Ea H’leo trong giải quyết các vụ việc hôn nhân, gia đình

Một là, nâng cao năng lực các chức danh tư pháp thuộc TAND nhằm bảo

vệ tốt hơn quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ. Xét cho

cùng, chất lượng hoạt động xét xử và uy tín của tòa án là do cán bộ tòa án, nhất

là đội ngũ Thẩm phán quyết định. Thẩm phán vinh dự được giao nhiệm vụ bảo

vệ, thực thi công lý, nhưng cũng phải chịu rất nhiều áp lực, khó khăn, vất vả

trên con đường đi tìm sự thật mà trong nhiều trường hợp được che giấu rất tinh

vi và chuyên nghiệp. Quá trình mang lại công lý, công bằng cho xã hội, Thẩm

phán phải đối mặt với cả rủi ro, nguy hiểm, thậm chí là những cám dỗ vật chất.

Vì vậy, đổi mới tổ chức bộ máy phải gắn với việc không ngừng nâng cao chất

lượng và bản lĩnh của đội ngũ cán bộ, thẩm phán để họ vượt qua được khó khăn,

thách thức và hoàn thành tốt sứ mệnh được giao.

68

Thời gian tới, TAND huyện phải tiếp tục tăng cường xây dựng và chỉnh

đốn Đảng; thực hiện nghiêm các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII), gắn với thực hiện Chỉ thị số: 05-CT/TW,

của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh”. Đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu

quả hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Tăng cường giáo dục chính

trị, tư tưởng; tổ chức thực hiện Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán

một cách thực chất, đồng thời áp dụng nghiêm các quy định về xử lý các chức

danh tư pháp trong TAND.

Hai là, bảo đảm số lượng biên chế để TAND huyện đáp ứng tốt yêu cầu,

nhiệm vụ. Qua thực tiễn hoạt động cho thấy, biên chế của TAND thiếu rất nhiều

so với yêu cầu, nhiệm vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác nói

chung, xét xử các vụ vụ HN&GĐ nói riêng. Trước sự phát triển kinh tế - xã

hội, tính chất các loại vụ, việc ngày càng phức tạp, phát sinh nhiều loại tranh

chấp về HN&GĐ. Để khẩn trương khắc phục những bất cập, khó khăn nêu trên,

Ban cán sự đảng TAND tối cao đã triển khai xây dựng Đề án vị trí việc làm,

Đề án đổi mới tổ chức bộ máy TAND và một số đề án khác để trình cấp có

thẩm quyền. Các đề án đều xác định nguyên tắc phân bổ biên chế trong hệ thống

TAND phải căn cứ vào: Vị trí việc làm; quy mô dân số, diện tích tự nhiên; quy

mô phát triển kinh tế - xã hội; tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm; số

lượng, tính chất phức tạp của các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền giải quyết;

chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật giao thêm cho tòa án [44].

Ba là, tăng cường công tác hòa giải trong các vụ việc HN&GĐ. Trong

công tác giải quyết vụ việc HN&GĐ, TAND huyện Ea H’Leo cần coi trọng

nguyên tắc: “Một vụ việc chỉ được giải quyết dứt điểm và có hiệu quả cao thông

qua hòa giải”. Vụ án hòa giải thành sẽ tạo ra hiệu quả pháp lý tốt vì các bên đã

tự nguyện thỏa thuận hòa giải thì họ sẽ tôn trọng và thực hiện, từ đó góp phần

69

tăng cường sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Đây là phương thức giải quyết

vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của đương sự; nếu việc hòa giải

thành công sẽ mang lại hiệu quả cao, góp phần giảm kinh phí giải quyết tranh

chấp cho cả Nhà nước và các đương sự. Do vậy, kiên trì hòa giải là một biện

pháp quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và chỉ khi nào không

còn khả năng hòa giải mới phải đưa vụ án ra xét xử.

Để đạt được ý nghĩa của công tác hòa giải trong công tác giải quyết án,

Chánh án TAND huyện cần tiếp tục chỉ đạo các Thẩm phán phải đặc biệt chú

trọng học hỏi để nâng cao kỹ năng, phương pháp hòa giải hòa giải theo quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong tổng số án đã giải quyết, thông thường

các vụ án phải đưa ra xét xử là những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự hoặc liên quan đến

nhiều cơ quan, tổ chức. Từ kết quả hòa giải đạt tỷ lệ cao trong số các vụ

HN&GĐ sẽ góp phần làm ổn định, lành mạnh hóa đời sống xã hội, môi trường

kinh doanh tại địa phương.

Bốn là, đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất,

đảm bảo dân chủ, công khai đúng quy định của pháp luật. TAND huyện

Ea H’Leo cần thực hiện nhiều biện pháp thiết thực và hiệu quả nhằm nâng cao

chất lượng tranh tụng tại phiên tòa như phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân

huyện, Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tổ chức nhiều phiên

toà dân sự, HN&GĐ rút kinh nghiệm cho thẩm phán, qua đó nâng cao nghiệp

vụ chuyên môn cho các Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong công tác

điều hành, xử lý tình huống diễn ra tại phiên tòa. Để từ đó, nâng cao chất lượng

tranh tụng tại các phiên tòa, góp phần không để xảy ra án sai, án bị hủy, bị cải

sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán.

Năm là, thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động, nội quy, quy chế hoạt

70

động của cơ quan. Để thực hiện tốt về nhiệm vụ công tác, ngoài các giải pháp

nêu trên, TAND huyện Ea H’Leo cần thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động,

theo đó, lãnh đạo đơn vị tổ chức giao ban, hội ý Thẩm phán vào thứ 2 hàng tuần

để báo cáo, triển khai các nhiệm vụ công tác trong tuần, góp ý về các vướng

mắc đối với các vụ án có vướng mắc về mặt chuyên môn, nghiệp vụ... Ngoài

ra hàng tháng, Thẩm phán phải báo cáo với Chánh án số lượng án đã giải quyết,

số án còn tồn đọng chưa giải quyết, nguyên nhân và hướng khắc phục, phương

hướng, giải pháp để đẩy nhanh tiến độ giải quyết. Đặc biệt, đối với cán bộ công

chức cơ quan phải luôn chấp hành kỷ luật lao động, không đi muộn về sớm, đi

báo việc về báo công, qua đó giúp cho lãnh đạo cơ quan quản lý, điều hành tốt

về mọi mặt hoạt động của đơn vị.

Sáu là, tăng cường hướng dẫn công tác xét xử, kiểm tra, kiểm soát hoạt

động tố tụng về HN&GĐ liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em. Trước

tiên, cần có sự đào tạo và huấn luyện cho các cán bộ xét xử, kiểm tra và kiểm

soát hoạt động tố tụng liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em. Những người

này cần được trang bị kiến thức chuyên môn và kỹ năng về tư vấn, hỗ trợ và

bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án liên quan đến HN&GĐ và

quyền của trẻ em. Cần có các quy trình và hướng dẫn rõ ràng và chi tiết về các

vấn đề liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án liên quan đến

HN&GĐ và quyền của trẻ em. Những quy trình này cần đảm bảo tính minh

bạch và công bằng trong quá trình tố tụng, và đảm bảo rằng các quyền và lợi

ích của phụ nữ và trẻ em được bảo vệ.

Bên cạnh đó, cần có các cơ chế kiểm soát và giám sát hoạt động tố tụng

để đảm bảo tính hiệu quả và đúng đắn của quá trình xét xử và tuyên án. Những

cơ chế này cần đảm bảo tính độc lập và khách quan của các cơ quan giám sát,

và đảm bảo rằng các quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em được đảm bảo.

71

Ngoài ra, cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và tổ

chức xã hội để đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án liên quan

đến HN&GĐ và quyền của trẻ em. Các tổ chức này cần hỗ trợ và tư vấn cho

các nạn nhân, đồng thời đảm bảo rằng các quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ

em được bảo vệ trong quá trình tố tụng.

3.2.2.3. Tăng cường phối hợp liên ngành ở địa phương trong giải quyết

các vụ việc hôn nhân và gia đình

- Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ án, các việc dân sự, TAND

huyện Ea H’Leo cần thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự,

hướng dẫn đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, chủ động

xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định

của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan.

- TAND huyện Ea H’Leo cần tăng cường các phiên tòa rút kinh nghiệm.

Trong công tác xét xử lưu động, TAND huyện Ea H’Leo cần phối hợp chặt chẽ

với các cơ quan hữu quan như Công an huyện, Viện kiểm sát nhân dân huyện

lên kế hoạch chi tiết, để cho việc xét xử đảm bảo được tính trang nghiêm của

phiên tòa, lựa chọn những vụ án có tính trọng điểm, có ảnh hưởng lớn đến tình

hình bảo vệ quyền lợi phụ nữ, trẻ em ở địa phương.

- Cần tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của

Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Lãnh đạo đơn vị đã tổ

chức quán triệt và việc triển khai tổ chức phiên tòa trực tuyến theo đúng quy

định của pháp luật như: Phố hợp liên ngành giữa Tòa án, Viện kiểm sát, mua

sắm trang thiết bị, chuẩn bị đường truyền, kỹ thuật...

- TAND huyện Ea H’Leo cần tiếp tục tham mưu cho Thường trực huyện

ủy về tầm quan trọng của công tác xét xử các vụ án liên quan đến chức vụ, các

vụ án có tính chất phức tạp, liên quan đến tình hình an ninh chính trị tại địa

72

phương nên đã nhận được sự quan tâm sát sao của Thường trực huyện ủy, qua

đó có văn bản chỉ đạo cho các cơ quan, ban ngành phối hợp chặt chẽ với Tòa

án, Hội đồng nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân huyện bố trí một phần ngân

sách hỗ trợ, Phòng văn hóa thông tin cử phóng viên đưa tin....do vậy công tác

xét xử các loại vụ án này luôn đạt được kết quả tuyên truyền Pháp luật rất cao.

Đặc biệt, đối với các vụ án có tính chất điển hình, được dư luận xã hội

quan tâm, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự và chính trị tại địa phương,

như bạo lực gia đình, các hủ tục lạc hậu, xâm phạm quyền con người và các vụ

việc HN&GĐ khác đang nổi lên là vấn đề nhức nhối tại địa phương nói riêng

và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói chung; làm cho nhân dân hết sức lo lắng, ảnh

hưởng đến tài sản, và đặc biệt gây ra hậu quả lâu dài cho việc phát triển kinh tế

của người nông dân.

3.2.2.4. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi của bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân trong giải quyết các vụ việc hôn nhân

và gia đình

Điều 106 của Hiến pháp năm 2013 đã xác định: Bản án, quyết định của

Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn

trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đối

với vụ việc HN&GĐ, quyền của phụ nữ, trẻ em chỉ có thể hiện thực hoá nếu

như bản án, quyết định của TAND được thực thi nghiêm chỉnh; ngược lại,

quyền của họ sẽ bị xâm phạm, hình thức.

Một là, việc xác minh điều kiện thi hành bản án, quyết định của TAND

về HN&GĐ phải được tiến hành và được áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành

trước khi xét xử; nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, trốn trách việc thi

hành án; khắc phục một phần tình trạng bản án, quyết định của Toà án có hiệu

lực pháp luật chỉ có ý nghĩa trên giấy nhưng không đủ điều kiện để thi hành

trong thực tế.

73

Hai là, bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo thủ tục thi hành

án dân sự cần bổ sung phần chỉ dẫn cho người được thi hành án dân sự. Khắc

phục tình trạng người được thi hành án không biết cơ quan thi hành án dân sự

nào có thẩm quyền tổ chức thi hành; không biết làm đơn yêu cầu thi hành án

và nội dung chính của đơn yêu cầu thi hành án dân sự gồm những phần gì;

không biết quyền và nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án.

Vì vậy bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo thủ tục thi hành

án dân sự cần bổ sung phần chỉ dẫn cho người được thi hành án dân sự: Theo

bản án, quyết định… người được thi hành án có quyền thoả thuận về thi hành

án … có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự … tổ chức thi hành. Đơn

yêu cầu thi hành án dân sự phải có các nội dung chính là: Họ, tên, địa chỉ của

người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; họ, tên, địa chỉ của

người được thi hành án, người phải thi hành án; nội dung yêu cầu thi hành án;

thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

Trường hợp người được thi hành án không có thông tin về tài sản hoặc điều

kiện thi hành án của người phải thi hành án để ghi vào đơn yêu cầu thi hành án;

thì có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi

hành án. Nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà

không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án

thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh và phải chịu các chi phí

xác minh theo quy định tại Điều 73 của Luật thi hành án dân sự [21].

Ba là, biện pháp khuyến khích người phải thi hành bản án, quyết định

của TAND về HN&GĐ tự nguyện thi hành phải được tiến hành khi Toà tuyên

án và được ghi trong án văn. Thực tiễn công tác thi hành án các vụ việc

HN&GĐ tại địa phương cho thấy, nếu đương sự tự nguyện thi hành, không phải

tổ chức cưỡng chế thi hành sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, tiền của, công

sức của Chấp hành viên, Cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức

74

có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án dân sự; thắt chặt được mối quan hệ

đoàn kết giữa các đương sự và nêu cao được ý thức chấp hành pháp luật của

công dân. Cho nên, không chờ đến khi bản án, quyết định có hiệu lực và có

quyết định thi hành án dân sự thì Nhà nước mới khuyến khích tự nguyện thi

hành, mà biện pháp khuyến khích này nên được tiến hành khi Toà tuyên án và

được ghi trong án văn “Nếu người phải thi hành án dân sự tự nguyện thi hành

sớm thì không phải chịu lãi suất cơ bản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước

tương ứng số tiền và thời gian chậm thi hành án; không bị áp dụng biện pháp

bảo đảm, biện pháp cưỡng chế và phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án theo

quy định tại Điều 66, Điều 71 và Điều 73 của Luật thi hành án dân sự”.

Bốn là, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức nơi người

phải thi hành bản án, quyết định của TAND về HN&GĐ cư trú, công tác, có

trụ sở hoặc có tài sản trong thi hành án dân sự. Luật thi hành án dân sự năm

2008 (sửa đổi) có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp

xã (Điều 175); nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức được giao theo dõi,

quản lý người đang chấp hành hình phạt tù (Điều 180) đã góp phần tháo gỡ

được nhiều khó khăn, vướng mắc, giảm được nhiều việc thi hành án tồn đọng,

so với thời kỳ áp dụng Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Trong thực tiễn

đã có nhiều cơ quan, tổ chức nơi có người phải thi hành án cư trú, công tác,

mặc dù không có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án dân sự,

nhưng các cơ quan, tổ chức này đã tôn trọng bản án, quyết định của Toà án,

tích cực tác động, giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi

hành. Ngược lại, cũng có một số cơ quan, tổ chức nơi có người phải thi hành

án không quan tâm hoặc tác động ngược, giúp người phải thi hành án trốn tránh

việc thi hành án, làm cho việc thi hành án thêm phức tạp, khó thi hành.

Vì vậy, bổ sung các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ

chức nơi có người phải thi hành án cư trú, công tác cùng phối hợp thực hiện

75

các biện pháp thi hành án dân sự là cần thiết. Ngay sau khi bản án, quyết định

có hiệu lực thi hành do Toà án chuyển đến, thủ trưởng cơ quan, tổ chức, Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, có trụ

sở hoặc có tài sản, có trách nhiệm phối hợp với Chấp hành viên và Cơ quan thi

hành án dân sự trong các việc: Thông báo về thi hành án, khuyến khích tự

nguyện thi hành, xác minh điều kiện thi hành án và áp dụng biện pháp bảo đảm,

biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Nếu người phải thi hành án chưa chấp

hành xong nghĩa vụ dân sự theo án đã tuyên mà có đăng ký biến động nơi cư

trú, công tác hoặc chuyển nhượng, chứng thực chuyển dịch tài sản… thì thông

báo ngay cho cơ quan thi hành án dân sự biết để kịp thời áp dụng biện pháp bảo

đảm thi hành án.

3.2.2.5. Đổi mới cải cách hành chính, bảo đảm cơ sở vật chất, áp dụng

công nghệ thông tin trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình

Thứ nhất, TAND huyện Ea H’Leo cần đổi mới, cải cách thủ tục hành

chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân

dân khi có công việc liên quan đến Tòa án. Đối với án Dân sự, HN&GĐ của

TAND huyện tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp trong những năm qua.

Bên cạnh đó, là huyện miền núi, địa bàn rộng, dân cư sống thưa thớt, rải rác ở

vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, đặc biệt người đồng bào dân tộc thiểu

số phần lớn không am hiểu pháp luật, vẫn còn sử dụng các luật tục lạc hậu để

giải quyết các tranh chấp, các vi phạm pháp luật. Trước tình hình đó, TAND

huyện Ea H’Leo cần đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính

để tạo điều kiện tốt nhất, đơn giản và nhanh nhất cho nhân dân khi khởi kiện

hoặc các việc khác liên quan đến thẩm quyền của Tòa án.

Để thực hiện tốt điều này, Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo cần thành

lập Tổ Hành chính tư pháp thuộc Văn phòng Tòa án, trực tiếp nhận đơn khởi kiện

qua công tác tiếp dân hoặc từ cán bộ văn thư, vào sổ nhận đơn, cấp giấy báo nhận

76

đơn cho người khởi kiện. Trong thời hạn luật định, Tổ Hành chính tư pháp phải ra

thông báo thụ lý đơn nếu hồ sơ đầy đủ, chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm

quyền nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác, trả lại đơn khởi

kiện hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành phân loại đơn khiếu

nại, tố cáo, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của đơn vị nào sẽ chuyển trực tiếp

đơn vị đó; tiếp nhận vào sổ thụ lý hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang; đối với

công tác tiếp dân, Tổ Hành chính tư pháp trực tiếp thực hiện.

Hàng tuần cần có lịch phân công lãnh đạo, cán bộ tiếp nhận, giải quyết

yêu cầu của công dân. Bộ phận này cũng tham mưu cho Chánh án trong công

tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo. Trong việc giải quyết, xét xử các vụ việc

HN&GĐ, yêu cầu hàng tuần, hàng tháng, các Thẩm phán phải báo cáo kết quả

công việc, các khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án cho các Phó

Chánh án phụ trách để tham mưu cho Chánh án về công tác chuyên môn, qua

đó Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hướng

dẫn đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, chủ động xác

minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định của

pháp luật, chủ động liên hệ làm việc trực tiếp với các cơ quan chức năng đang

quản lý, lưu giữ các nguồn chứng cứ để thu thập theo quy định của pháp luật

làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, chứ không thông qua con đường công văn

làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án; tăng cường phối hợp với các cơ quan

hữu quan nhằm giải quyết án đạt chất lượng và tiến độ cao.

Thứ hai, mặc dù rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, khó khăn

về điều kiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ nhưng TAND huyện Ea H’Leo

cần cố gắng triển khai, hoàn thiện công tác ứng dụng công nghệ thông tin, áp

dụng các phần mềm (03) do TAND tối cao triển khai vào công tác, hoạt động

của Tòa án nhằm đạt hiệu quả công tác tốt nhất. Ngoài ra cần thực hiện, công

khai minh bạch các hoạt động của Tòa án. Trang bị máy tính cho Thẩm phán,

77

Thư ký....để thực hiện tác nghiệp tại phiên tòa, kết nối mạng Internet để thực

hiện việc truy cập thông tin, văn bản pháp luật phục vụ công tác. Yêu cầu 100%

cán bộ công chức trong đơn vị phải sử dụng thành thạo và khai thác tốt các hệ

thống, chương trình phần mềm để phục vụ công tác.

3.2.2.6. Các giải pháp bảo đảm việc làm, kinh tế cho phụ nữ; bảo đảm

giáo dục cho trẻ em trên địa bàn huyện Ea H’Leo

Với điều kiện của một huyện có có 176 thôn buôn, trong đó có 48 buôn

đồng bào dân tộc thiểu số, dân tộc thiểu số chiếm 41%, điều kiện kinh tế còn

nghèo, nghề nghiệp của phụ nữ chủ yếu là làm nương rẫy, trồng cây lâu năm

nên việc bảo đảm việc làm, kinh tế cho phụ nữ; giáo dục cho trẻ em là vấn đề

gốc rễ cho việc nâng cao nhận thức, củng cố địa vị và cơ sở để bảo vệ các quyền

của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ.

Đầu tiên, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ, trẻ em là ưu tiên hàng đầu.

Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết thực, kết

hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham gia. Đối với

những nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần đầu tư thêm để

các em có thể theo đến hết bậc trung học và học cao lên và tránh không bị rơi

vào vòng tái mù như các thế hệ phụ nữ đi trước. Thực hiện nghiên cứu toàn

diện hơn về tỷ lệ mù chữ trong phụ nữ, trẻ em để có thể đưa ra những giải pháp

xóa mù phù hợp và tăng cường sự tham gia của phụ nữ, trẻ em trong việc tiếp

cận các cơ hội cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Thực hiện nghiên cứu tổng

thể hơn về bối cảnh dễ bị tổn thương của phụ nữ, trẻ em để có thể đưa ra những

khuyến nghị và thiết kế những chính sách phù hợp với nhu cầu của phụ nữ, trẻ

em, tăng cường khả năng chống đỡ của họ trước các vấn đề toàn cầu hóa, biến

đổi khí hậu, những hiện tượng xã hội như nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em... Đây

là những vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay, cần có giải pháp cơ bản đồng bộ

78

trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.

Hai là, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho phụ nữ trên địa bàn huyện

Ea H’Leo; tiếp tục tổ chức các hội chợ tư vấn, giới thiệu việc làm. Trung tâm

Dịch vụ việc làm cần tư vấn các thông tin việc làm đang có nhu cầu tuyển dụng

trong tỉnh, ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động; tư vấn, phổ biến các chính sách

hỗ trợ vay vốn đi làm việc ở nước ngoài; thông tin chi tiết về các thị trường

xuất khẩu lao động thông qua các kênh như: Trung tâm lao động ngoài nước,

các doanh nghiệp được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp phép đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Ba là, tiếp tục có các chính sách hỗ trợ vốn vay cho phụ nữ. Thời gian

qua, trên địa bàn huyện Ea H’Leo nhiều hội viên phụ nữ thoát nghèo nhờ nguồn

vốn vay từ Ngân hàng chính sách từ thực hiện Chương trình ủy thác, đưa nguồn

vốn của Chính phủ đến với hội viên, phụ nữ nghèo và cận nghèo, thực hiện mục

tiêu của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam về “Không để phụ nữ nào

bị bỏ lại phía sau”. Đây là tiền đề giúp nhiều hội viên, phụ nữ nghèo, cận nghèo

tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội đã tạo tiền

đề, bước ngoặt cho sự thay đổi cuộc sống của nhiều chị em.

Bốn là, tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ năng

cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó và kế hoạch

hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc theo

Chương trình xây dựng hình tượng người phụ nữ Việt Nam nói chung trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế

“có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống

văn hoá, có lòng nhân hậu, tích cực lao động sản xuất, sáng tạo, xây dựng gia

đình hạnh phúc”.

79

Tiểu kết chương 3

Từ việc nhận thức đầy đủ, chính xác hạn chế và nguyên nhân của hạn

chế về quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện

Ea H’Leo sẽ là cơ sở để đề ra các giải pháp bảo đảm quyền này trên thực tế.

Các giải pháp cần quan tâm trước hết là hoàn thiện hệ thống pháp luật về

quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ nói chung, quyền của

phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND nói riêng cả ở phương

diện pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục. Đối với huyện Ea H’Leo, cần chú

trọng nâng cao nhận thức nói chung, nhận thức pháp luật nói riêng cho phụ nữ

và trẻ em để thực hiện tốt quyền của mình; bên cạnh đó, giải quyết tốt gốc rễ

của vấn đề là vấn đề tư tưởng, phong tục, kinh tế, việc làm của phụ nữ và trẻ

em. Đối với hệ thống toà án, cần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND

huyện Ea H’Leo để đảm bảo năng lực giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách

đúng pháp luật, chính xác và khách quan. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp

các cơ quan, đơn vị trong quá trình giải quyết các vụ việc HN&GĐ, bảo đảm

thực thi các quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật cũng như hiệu quả thi hành

án tại địa phương.

80

KẾT LUẬN

Quyền của phụ nữ và trẻ em là một bộ phận cấu thành không thể tách rời

trong toàn bộ các quyền con người. Các quyền con người của cả hai nhóm này

đều có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm, trong đó có quyền của phụ

nữ và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND.

Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hoạt động mang tính thường xuyên,

liên tục, nó vừa mang tính phòng ngừa và vừa mang tính tự vệ nhằm chống lại,

loại trừ những hành vi xâm hại quyền của phụ nữ và trẻ em, đồng thời đảm bảo

cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng và được thực hiện trong đời sống xã hội.

Bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ xuất phát

từ nhu cầu thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà trực

tiếp nhất là Hiến pháp năm 2013, đồng thời, cần phải có sự tương thích giữa

pháp luật quốc tế với pháp luật quốc gia trong sự nghiệp đấu tranh bảo đảm

bình đẳng giới. Thời gian qua, việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong

các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’Leo đã có những chuyển biến tích

cực từ nhận thức đến công tác hoà giải và xét xử. Tuy vậy, không ít khó khăn,

vướng mắc đã nảy sinh làm cho việc bảo đảm các quyền này trên thực tế chưa

đạt được mong muốn.

Từ thực trạng đó, cần có các giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ

em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’Leo. Ở phương diện

chung, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của phụ nữ và trẻ em trong

các vụ việc HN&GĐ nói chung, quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc

HN&GĐ tại TAND nói riêng cả ở phương diện pháp luật nội dung và pháp luật

thủ tục. Đối với huyện Ea H’Leo, cần chú trọng nâng cao nhận thức nói chung,

nhận thức pháp luật nói riêng cho phụ nữ và trẻ em để thực hiện tốt quyền của

mình; bên cạnh đó, giải quyết tốt gốc rễ của vấn đề là vấn đề tư tưởng, phong

tục, kinh tế, việc làm của phụ nữ và trẻ em. Đối với hệ thống toà án, cần đổi

81

mới tổ chức và hoạt động của TAND huyện Ea H’Leo để đảm bảo năng lực

giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách đúng pháp luật, chính xác và khách

quan. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp các cơ quan, đơn vị trong quá trình

giải quyết các vụ việc HN&GĐ, bảo đảm thực thi các quyết định, bản án có

hiệu lực pháp luật cũng như hiệu quả thi hành án tại địa phương.

Việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp trên cần sự vào cuộc

mạnh mẽ, quyết liệt của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, Nhân dân

và đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của phụ nữ và trẻ em nhằm xây dựng một đất

nước, một địa phương phát triển về kinh tế, ổn định về xã hội, bảo đảm các

quyền con người.

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ

chính trị về một số nhiệm vụ trong công tác tư pháp trong thời gian tới.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố

tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Luật học, trường Đại học luật Hà Nội.

4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NQ-CP ngày 31/12/2014 Quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình

năm 2014, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

6. Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật

Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật

học, trường Đại học luật Hà Nội.

7. Trần Thị Huệ (2014), “Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo

vệ quyền lợi của phụ nữ”, Đặc san Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội.

8. Chu Mạnh Hùng (2004), “Quyền của phụ nữ trong Hiến pháp Việt Nam”,

Đặc san Phụ nữ, số tháng 3/2004, Trường Đại học Luật Hà Nội.

9. Nguyễn Thu Hường (2014), Áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong

việc giải quyết án Hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên,

Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học luật Hà Nội.

10. Cao Mai Hoa (2012), Ly hôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận

văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Lan (2017), Chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn, Luận

văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội.

12. Nguyễn Thị Lan (2004), “Quyền của phụ nữ theo quy định của Luật hôn

83

nhân và gia đình năm 2000”, Đặc san Phụ nữ, số tháng 3/2004, Trường

Đại học Luật Hà Nội.

13. Nguyễn Ngọc Kiện (2005), “Các quy định của Hiến pháp nước ta về

quyền của phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao.

14. Phan Thị Luyện (2017), “Đảm bảo quyền của phụ nữ trong thực hiện pháp

luật về bình đẳng giới ở nước ta hiện nay”, Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ,

Hà Nội.

15. Tưởng Duy Lượng (2002), Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt

Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

16. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em.

17. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), Căn cứ ly hôn theo luật Hôn nhân và gia

đình, Trường Đại học Luật Hà Nội.

18. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Các văn kiện quốc tế về quyền con

người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nhà xuất bản khoa học xã hội (2000), Từ điển tiếng Việt.

20. Lường Ánh Nhàn (2016), Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn

nhân và gia đình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

21. Võ Thuần Nho (2013), “Bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được

chấp hành trên thực tế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 11(243), tháng

6/2013.

22. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

23. Quốc hội (2015), Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.

24. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

26. Quốc hội (2015), Luật Trẻ em, Hà Nội.

84

27. Hoàng Đình Thanh (2013), Giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia

đình của tòa án nhân dân, Đại học Quốc gia Hà Nội.

28. Hà Thị Thúy (2017), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự -

Phân tích từ các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự, Luận văn thạc

sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội

29. Lã Thị Tuyền (2014), Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật luật hôn

nhân và gia đình 2014, Đại học Luật Hà Nội

30. Lê Thế Tài (2005), “Quyền của phụ nữ trong pháp luật quốc tế và pháp

luật Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.

31. Toà án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 24/1999/KHXX ngày

17/3/1999 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy

định của Luật hôn nhân và gia đình.

32. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm

2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019.

33. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm

2019 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2020.

34. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm

2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2021.

35. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2021), Báo cáo tổng kết công tác năm

2021 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2022.

36. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo (2022), Báo cáo tổng kết công tác năm

2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023.

37. Hoàng Thị Hải Yến (2016), “Một số ý kiến về hạn chế quyền yêu cầu ly

hôn của người chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí

Dân chủ và Pháp luật, số 9, 2016.

38. Nhà xuất bản khoa học xã hội (2000), Từ điển tiếng Việt.

39. Luận án tiến sỹ về “vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con

85

người ở Việt Nam hiện nay” bảo vệ năm 2013 của Đặng Công Cường tại Trường

đại học Luật Hà Nội.

40. Luận văn về “vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở

Việt Nam hiện nay” bảo vệ năm 2014 của Phan Thị Sánh tại Khoa luật - Đại

học quốc gia Hà Nội.

41. Luận văn về “vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở

Việt Nam” bảo vệ năm 2014 của Trương Thị Thùy Dung tại Khoa luật - Đại học

quốc gia Hà Nội.

42. Luận văn về “vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong bảo vệ

quyền con người từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” bảo vệ năm 2016 của Huỳnh Ngọc

Hoàng Hải tại Học viện Hành chính quốc gia.

43. Sách “Kinh nghiệm điển hình về thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ

và trẻ em trong ASEAN” của Uỷ ban thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và

trẻ em ASEAN (ACWC).

44. Sách “Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lí quốc tế và

pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Sĩ Dũng, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003.

45. Sách “Hỏi - đáp về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế

và pháp luật Việt Nam”, Nxb Văn hoá dân tộc 2022. Cuốn sách tập hợp các câu

hỏi và trả lời về quyền của phụ nữ và trẻ em theo Công ước quốc tế và pháp

luật Việt Nam.

46. Luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở

Việt Nam hiện nay” của tác giả Vương Vân Huyền, Khoa Luật, Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2014.

Website: 47. https://phunuvietnam.vn/tu-dien-cambridge-cap-nhat-dinh-nghia-moi-ve-

phu-nu-la-nhung-nguoi-xac-dinh-minh-la-nu-gioi-du-sinh-ra-mang-gioi-

tinh-khac-20221226224444625.htm

86

48. https://luanvanpdf.com/van-de-bao-ve-quyen-cua-phu-nu-va-tre-em-gai-

bang-phap-luat-hinh-su/

49. https://eahleo.daklak.gov.vn/gioi-thieu-chung-3.html

50. http://qldg.thutuchanhchinh.vn/bao-ve-quyen-binh-dang-cua-phu-nu-

theo-phap-luat-to-tung-dan-su-viet-nam-1

51. https://lsvn.vn/mot-so-bat-cap-cua-luat-hon-nhan-va-gia-dinh-nam-

2014.html

52. https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/ca/chi-

tiet?dDocName=TAND185785

87