BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN QUỐC BẢO
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8 38 01 02
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK - NĂM 2023
Công trình được hoàn thành tại HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh
Phản biện 1: TS. Nguyễn Thu An, Học viện Hành chính Quốc gia
Phản biện 2: TS. Nguyễn Mạnh Hùng, Trường Đại học Luật Hà Nội
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Thời gian: Vào hồi 09 giờ 30 phút, ngày 03 tháng 6 năm 2023.
Địa điểm: Phòng họp 208 - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Phân
viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên.
Địa chỉ: 02 Trương Quang Tuân, P. Tân Lập, Tp. Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk.
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc
gia hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành
chính Quốc gia
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền của phụ nữ và trẻ em là một bộ phận cấu thành không thể
tách rời trong toàn bộ các quyền con người. Trong các quyền của phụ nữ và
trẻ em, quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình là
rất quan trọng, vì đây là những lĩnh vực có thể gây ra nhiều bất công và bạo
lực đối với họ. Trong lĩnh vực hôn nhân, phụ nữ và trẻ em có quyền được
tự do lựa chọn đối tác sống và không bị ép buộc vào hôn nhân. Họ cũng có
quyền được xác định vị trí và vai trò của mình trong hôn nhân, không bị
phân biệt đối xử, bị bạo lực hoặc bị buộc phải chấp nhận các quyết định
không tốt đối với mình. Ngoài ra, phụ nữ và trẻ em cần được bảo vệ khỏi
các hình thức bạo lực gia đình, bao gồm bạo lực về tinh thần, vật chất và
tình dục.
Do những điều kiện chủ quan và khách quan, việc bảo đảm quyền
của phụ nữ và trẻ em về HN&GĐ trong hoạt động tố tụng của TAND vẫn
còn không ít bất cập, hạn chế. Quyền về HN&GĐ của phụ nữ trong một số
trường hợp vẫn bị xâm phạm, nhất là quyền về tài sản. Quyền của trẻ em về
chăm sóc, nuôi dưỡng và cấp dưỡng còn chưa được quan tâm đúng mức.
Việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải
pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em về HN&GĐ tại TAND nói
chung, TAND huyện Ea H’leo nói riêng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa
lớn. Đó cũng chính là lý do học viên chọn đề tài “Quyền của phụ nữ và trẻ
em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân
dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Qua khảo sát cho thấy quyền của phụ nữ, trẻ em và quyền của phụ
nữ, trẻ em trong vụ việc HN&GĐ được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý
1
quan tâm, thể hiện ở số lượng và chất lượng các công trình. Các công trình
tiếp cận ở nhiều giác độ pháp luật, bảo đảm quyền, đề xuất nhiều giải pháp
tổng thể đến chi tiết. Tuy nhiên qua khảo sát cũng cho thấy chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách trực diện, có hệ thống về quyền của phụ nữ,
trẻ em và quyền của phụ nữ, trẻ em trong vụ việc HN&GĐ tại một địa
phương cụ thể như Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk, trong
khi đây là địa phương có tình hình khá phức tạp, có nhiều vấn đề về lý luận
và thực tiễn cần được làm sáng tỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đưa ra những giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ
em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea
H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thêm cơ sở lý luận về quyền của phụ nữ và trẻ em trong
giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND.
- Nêu và đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp chung và giải
pháp cụ thể nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các
vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền của phụ nữ, trẻ em trong giải quyết các
vụ việc HN&GĐ tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: 05 năm (từ năm 2018 đến hết năm 2022).
- Về không gian: Huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
- Về nội dung: Thuận tình ly hôn và vụ án ly hôn khi có tranh chấp
xảy ra thuộc thẩm quyền của TAND huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
2
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước về nhà nước, pháp luật nói chung, về quyền của phụ nữ và
trẻ em nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể trong khi thực hiện đề tài là: Phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê và các phương pháp khác có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Luận văn củng cố thêm một số vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ
và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND, bổ sung những
nhận định về thực trạng và đề xuất, chi tiết một số giải pháp bảo đảm quyền
của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND nói
chung.
Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu xuất phát từ lý luận và thực tiễn của
luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những nhà lãnh đạo, quản lý của
TAND huyện Ea H’leo; là tài liệu tham khảo cho sinh viên, người nghiên
cứu về quyền của phụ nữ và trẻ em trong HN&GĐ, nhất là những nội dung
thực tiễn tại địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
3
Chương 1. Cơ sở lý luận, pháp lý về quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân.
Chương 2. Thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết
vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk
Lắk.
Chương 3. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong
giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân huyện Ea
H’leo, tỉnh Đắk Lắk.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ
EM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ
việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
- Khái niệm phụ nữ và trẻ em
Phụ nữ là một thuật ngữ để chỉ các con người nữ giới, có đặc điểm
sinh lý và tâm lý khác biệt so với nam giới.
Theo Luật Trẻ em của Việt Nam năm 2016, Trẻ em là người dưới
16 tuổi (Điều 1). Như vậy trong phạm vi luận văn nay, tác giả nhận thức trẻ
em là người dưới 16 tuổi.
- Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em
Trong lĩnh vực HN&GĐ, có thể hiểu, quyền của người phụ nữ là
quyền bình đẳng, có cơ hội hưởng các quyền ngang nhau với nam giới trong
mối quan hệ giữa vợ, chồng và giữa các thành viên trong gia đình trên cơ
sở nguyên tắc dân chủ, công bằng, tôn trọng lẫn nhau trong các mối quan
hệ ở phạm vi gia đình, xã hội và quyền ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho
phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp công sức và thụ
hưởng thành quả trong cuộc sống gia đình, xã hội.
Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn
lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm bảo đảm cho trẻ
em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn, mà
các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển của
chính mình. Quyền trẻ em là một bộ phận không thể thiếu của quyền con
người.
5
- Khái niệm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc
HN&GĐ tại TAND
Theo Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, có hai nhóm vụ việc HN&GĐ
thuộc thẩm quyền của TAND: Những tranh chấp về HN&GĐ thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án (Điều 28), gồm 8 trường hợp, ví dụ như ly hôn;
những yêu cầu về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều
29), gồm 11 trường hợp, ví dụ như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn,
thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ
việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân
Thứ nhất, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hiện thực hoá các
nguyên tắc của Hiến pháp và pháp luật.
Thứ hai, quyền phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc HN&GĐ
có ý nghĩa bảo đảm cho họ có phương tiện để bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
Thứ ba, các quyền phụ nữ và trẻ em được pháp luật ghi nhận có ý
nghĩa bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được thống nhất, khách quan,
nhanh chóng và đúng đắn.
1.1.3. Vai trò của Toà án nhân dân trong việc bảo vệ quyền của
phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình
1.1.3.1. Khái quát về Tòa án nhân dân
Vị trí, chức năng của TAND.
Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ trật tự xã hội.
TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của
mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm
6
chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý
thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác
Cơ cấu tổ chức của TAND: TAND tối cao; TAND cấp cao; TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương; Toà án quân sự.
1.1.3.2. Vai trò của Tòa án nhân dân bảo vệ quyền của phụ nữ và
trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
- Tòa án giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ quyền của phụ nữ và
trẻ em đối với mọi người dân trong xã hội.
- Tòa án đưa ra các phán quyết công bằng để bảo vệ quyền của phụ
nữ và trẻ em.
- Quyền phụ nữ và trẻ em thông qua hoạt động giải quyết vụ việc
hôn nhân và gia đình bằng Tòa án chịu sự chi phối toàn diện của pháp luật.
- Quyền của phụ nữ và trẻ em thông qua hoạt động giải quyết các
vụ việc HN&GĐ của Toà án được thực hiện công khai, độc lập và đảm bảo
công bằng.
1.2. Nội dung cơ bản quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
1.2.1. Các quyền cơ bản của phụ nữ trong giải quyết các vụ việc
hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
Thứ nhất, quyền ly hôn.
Thứ hai, quyền được nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu thay đổi
người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Thứ ba, quyền yêu cầu xác định cha cho con hoặc xác định con
cho cha, mẹ.
Thứ tư, quyền về tài sản khi ly hôn.
1.2.2. Các quyền cơ bản của trẻ em trong giải quyết các vụ việc
hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
7
Một là, quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em.
Hai là, quyền được cấp dưỡng.
Ba là, quyền về tài sản.
1.3. Các yếu tố cơ bản bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
1.3.1. Bảo đảm về chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc bảo vệ và đảm bảo quyền lợi,
lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em là một trong những mục tiêu hàng
đầu của đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa. Trong các chương trình, chiến lược, chính sách và pháp luật,
Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ và đảm bảo
quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là những người nghèo, khó khăn,
thiểu năng và bị kém may mắn trong cuộc sống.
1.3.2. Bảo đảm về pháp lý
Tôn trọng nguyện vọng, quyền lợi và tình trạng của phụ nữ và trẻ
em trong quá trình xét xử;
Đảm bảo quyền tham gia và đại diện bằng luật sư cho các bên liên
quan, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em;
Có sự tham gia của chuyên gia tâm lý và xã hội để đánh giá tình
trạng của phụ nữ và trẻ em, đồng thời đưa ra các giải pháp phù hợp để bảo
vệ quyền lợi của họ;
Bảo đảm quyền được nghe và tham gia trong quá trình giải quyết
vụ việc của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trong các vụ việc liên quan đến
HN&GĐ;
Xử lý các vụ việc một cách minh bạch, công bằng, nhanh chóng
và hiệu quả để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em;
Đảm bảo sự tôn trọng và sự an toàn của phụ nữ và trẻ em trong quá
trình xét xử và sau khi xét xử.
8
1.3.3. Bảo đảm về nhận thức
Nhận thức về quyền của phụ nữ và trẻ em trong các vụ việc
HN&GĐ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm văn hóa, tôn giáo,
giáo dục và cảnh báo từ các tổ chức và chính phủ. Mặc dù các nước và vùng
lãnh thổ có những tiến bộ khác nhau trong việc tăng cường nhận thức về
quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong HN&GĐ, nhưng vấn đề này đang
được coi là một vấn đề quan trọng trên toàn cầu.
Ở Việt Nam, qua nghiên cứu trực tiếp các hồ sơ án HN&GĐ thì
thấy đa số vụ việc là ly hôn. Nguyên nhân phần lớn và sâu xa dẫn tới tình
trạng ly hôn ngày càng gia tăng, đặc biệt với các cặp vợ chồng trẻ là do họ
thiếu kỹ năng sống. Trong khi đó nhận thức về cuộc sống gia đình, ý nghĩa
của hôn nhân và tình yêu còn hời hợt đã khiến họ không đủ bản lĩnh và kỹ
năng giải quyết, vượt qua các mâu thuẫn, dẫn đến ly hôn. Chiếm một phần
trong số các cặp ly hôn là do họ kết hôn ngoài ý muốn khi những hiểu biết
về kiến thức giới tính có phần hạn chế.
1.3.4. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án nhân dân
Đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân (TAND) là công việc hệ
trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác của tòa án, khắc phục
những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của
tình hình mới, bắt kịp các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới. Đặc biệt, việc
này có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến việc bảo đảm quyền của phụ nữ
và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ. Việc đổi mới, kiện toàn, tinh gọn tổ
chức bộ máy là công việc khó, tác động trực tiếp đến nhiều đối tượng, do
đó, đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao, thống nhất về tư tưởng, nhận
thức, hành động trong toàn hệ thống tòa án và sự đồng thuận của xã hội.
Tiểu kết chương 1
9
Chương 2
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và công tác xét xử
các vụ việc hôn nhân và gia đình trên địa bàn huyện Ea H’leo
2.1.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Ea H’leo
Ea H'Leo là huyện cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Đắk Lắk, cách trung
tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 80km, được thành lập theo Quyết
định số: 110/QĐ-HĐBT, ngày 03/4/1980 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ). Đặc biệt do trình độ nhận thức của người dân địa phương nói
chung, của phụ nữ và trẻ em nói riêng còn thấp nên việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ cũng có
những hạn chế lớn.
2.1.2. Khái quát công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình
trên địa bàn huyện Ea H’leo
2.1.2.1. Khái quát về Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
TAND huyện Ea H’leo được thành lập vào năm 1980. Hết năm
2022, TAND huyện Ea H’leo hiện có 21 cán bộ, công chức và người lao
động. TAND huyện Ea H’Leo nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của
pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã
được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản
án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng
hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản,
quyền nhân thân.
2.1.2.2. Công tác thụ lý các vụ việc hôn nhân và gia đình
10
Trong 5 năm gần đây, số lượng án HN&GĐ mà TAND huyện Ea
H’leo thụ lý có chiều hướng giảm dần qua từng năm. Cụ thể năm 2018 là
441 vụ việc, đến năm 2021 là 403 vụ việc, giảm 38 vụ việc. Có thể thấy,
nhìn chung người dân đã có nhận thức trong việc chấp hành pháp luật, giữ
gìn được hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, vụ việc về HN&GĐ chiếm tỷ lệ
cao trở lại trong tổng số các vụ việc dân sự Tòa án đã thụ lý và giải quyết,
đơn cử vào năm 2022.
2.1.2.3. Công tác hoà giải các vụ việc hôn nhân và gia đình
TAND huyện Ea H’leo luôn coi trọng công tác hòa giải để đảm
bảo quyền lợi tốt nhất cho người dân và tiết kiệm được thời gian giải quyết
án. Một ưu điểm quan trọng đó là các vụ việc hòa giải đều đảm bảo nguyên
tắc bảo vệ quyền của người phụ nữ và trẻ em. Trong 5 năm, có 2.112 vụ
việc HN&GĐ được giải quyết, 1.858 vụ việc được hoà giải chiếm trung
bình gần 88%.
2.1.2.4. Công tác xét xử các vụ việc hôn nhân, gia đình
Trong 5 năm, có 238 vụ việc HN&GĐ được đưa ra xét xử, chỉ có
30 vụ việc được hoà giải chiếm tỷ lệ trung bình 12,6%. Mặc dù số lượng vụ
án tranh chấp HN&GĐ phải đưa ra xét xử không nhiều nhưng các vụ án
này đều mang tính chất phức tạp cao, liên quan đến nhiều quyền lợi quan
trọng của các đương sự, hoặc là những vụ án mà đương sự không hợp tác
với Tòa án để giải quyết, buộc phải đưa ra xét xử.
2.2. Tình hình thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea
H’leo
2.2.1. Tình hình thực hiện quyền của phụ nữ trong giải quyết
các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
2.2.1.1. Về thực hiện quyền ly hôn
11
Thứ nhất, người vợ có quyền được yêu cầu ly hôn trong cả hai
trường hợp: Thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên vợ yêu cầu.
- Trường hợp có căn cứ về việc chồng có hành vi bạo lực gia đình:
Hành vi bạo lực gia đình đa số do người chồng thực hiện, ảnh hưởng đến
sức khỏe, làm rạn nứt quan hệ tình cảm trong thời kỳ hôn nhân.
- Trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng:
Hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là một trong
những căn cứ để TAND huyện xem xét giải quyết việc ly hôn.
Thứ hai, về trường hợp cha mẹ, người thân thích khác trong gia
đình có quyền yêu cầu TAND huyện giải quyết ly hôn: Nhìn chung hầu như
không có trường hợp nào xảy ra trên địa bàn huyện.
Thứ ba, việc hạn chế về quyền yêu cầu ly hôn của người chồng
theo quy định của khoản 3 Điều 51 của Luật HN&GĐ năm 2014: TAND
huyện đã nghiên cứu, áp dụng nhiều quy định pháp luật bảo đảm quyền làm
mẹ của người vợ được bảo đảm một cách vững chắc hơn trong một số vụ
án (dù không nhiều). Việc này hiện thực hoá nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và
trẻ em, tạo điều kiện cho người phụ nữ thực hiện tốt thiên chức của mình.
Bên cạnh những ưu điểm, quyền ly hôn của phụ nữ trong các vụ
việc HN&GĐ tại địa phương cũng còn một số bất cập:
Một là, thực tiễn xét xử tại địa phương cũng cho thấy, phụ nữ còn
gặp một số khó khăn trong quá trình ly hôn, đặc biệt những vụ việc mà phụ
nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Hai là, hòa giải đang là rào cản trong một số vụ án ly hôn do phụ
nữ, nhất là vụ án mà phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình đứng đơn. Đề nghị
không tiến hành hòa giải của nạn nhân bạo lực gia đình chưa thực sự được
chú ý, gây tâm lý căng thẳng và nguy cơ mất an toàn cho phụ nữ khi phải
gặp mặt trực tiếp người gây bạo lực tại tòa. Cá biệt có những vụ, Tòa tiến
12
hành hòa giải nhiều lần để thuyết phục nạn nhân chuyển quyền nuôi con
cho bố dù đứa trẻ dưới 3 tuổi.
Ba là, thời gian theo đuổi vụ án ly hôn thường làm trầm trọng hơn
tình trạng của nạn nhân là phụ nữ. Các quy định về thời gian giải quyết một
vụ ly hôn theo thủ tục tố tụng dân sự hiện nay là quá dài. Từ khi nguyên
đơn được nhận và xử lý đơn đến khi nhận được thông báo đơn của mình đã
được thụ lý là 15 ngày (Điều 191, Điều 196 của Bộ luật Tố tụng dân sự
2015). Thời hạn chuẩn bị xét xử là 04 hoặc 06 tháng. Khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử có thể cũng phải chờ đến gần 02 tháng (Điều 203 của Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015), đó là chưa kể trường hợp vụ án rơi vào tình trạng
phải tạm đình chỉ.
2.2.1.2. Quyền được nuôi con sau khi ly hôn
Trong thực tiễn xét xử tại TAND huyện Ea H’leo đối với những
vụ án tranh chấp nuôi con chung, Hội đồng xét xử tuân thủ nguyên tắc “bảo
vệ phụ nữ”. Do đó, hầu hết các vụ án ly hôn khi tranh chấp quyền nuôi con,
Hội đồng xét xử thường quyết định giao con chung cho người vợ (người vợ
được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn), đặc biệt đối với con chung là bé gái,
vì việc giao cho mẹ chăm sóc bé gái sẽ thuận lợi hơn trong quá trình phát
triển tâm sinh lý sau này.
2.2.1.3. Quyền về tài sản khi ly hôn
TAND huyện Ea H’leo cơ bản đã bảo vệ quyền sở hữu tài sản của
người vợ theo nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn. Toà án đã áp dụng Luật
HN&GĐ năm 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành để tạo cơ
sở pháp lý để giải quyết những tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly
hôn tại địa phương, nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự, đặc biệt là người phụ nữ, bởi vì
khi ly hôn họ là đối tượng có phần gặp nhiều khó khăn hơn (người dân tộc
thiểu số, không biết chữ, không có việc làm…. Tuy nhiên, để đảm bảo việc
13
phân chia tài sản chung của vợ chồng được thực hiện công bằng, phù hợp
với thực tế, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, khi ly hôn thì tài sản chung
của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng Toà án tính đến các yếu
tố như công sức đóng góp trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản
chung để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia.
2.2.2. Tình hình thực hiện quyền của trẻ em trong giải quyết các
vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo
2.2.2.1. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của trẻ em
Thời gian qua, trên địa bàn huyện Ea H’leo, khi quyết định ly
hôn, đa số các cặp vợ chồng đều đã xác định tình cảm không còn,
không thể tiếp tục cùng nhau chung sống và xây dựng gia đình ấm no,
hạnh phúc. Một số cặp vợ chồng thỏa thuận kết thúc cuộc hôn nhân
trong hòa bình. Song không ít các cặp đôi tìm mọi cách để gây căng
thẳng, đau khổ cho nhau, trừng phạt nhau vì cho rằng đối phương có
lỗi làm cho hôn nhân tan vỡ, trong đó bao gồm cả việc tranh chấp tài
sản, con cái, mức cấp dưỡng nuôi con chung. Có rất nhiều vụ án mà
việc tranh chấp nuôi con kéo dài hàng năm, thậm chí một vài năm.
Nhiều vụ xảy ra ẩu đả phải nhờ chính quyền, cơ quan công an và một
số cơ quan, đoàn thể tham gia, can thiệp cũng như sự tham gia bền bỉ
của các Luật sư.
2.2.2.2. Quyền cấp dưỡng của trẻ em
Thực tiễn giải quyết tại Tòa án huyện Ea H’leo trước đây và
hiện tại thường vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn
số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là “Toà án phải
xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người
phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói
riêng của người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi
dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối
14
thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người
con”. Tuy nhiên, khi đọc và nghiên cứu một số bản án, quyết định Tòa án
huyện Ea H’leo về phần mức cấp dưỡng cho con và thấy rằng các đương
sự thỏa thuận và Tòa án quyết định mức cấp dưỡng nói chung còn rất thấp,
chủ yếu thỏa thuận và ấn định mức cấp dưỡng 500.000đ/tháng/con chung,
1.000.000đ/tháng/con chung hoặc bằng một tháng lương tối thiểu là
1.490.000đ/tháng/con chung ... Với mức cấp dưỡng như vậy thì có đáp ứng
đủ nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng hay không trong bối cảnh
kinh tế xã hội như hiện nay.
2.2.2.3. Quyền tài sản của trẻ em
Thời gian qua, tại TAND huyện Ea H’leo các vụ việc HN&GĐ
liên quan đến quyền tài sản của con chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong các vụ việc
HN&GĐ. Các vụ việc liên quan đến quyền tài sản của con khi bố mẹ ly hôn
nhìn chung được bảo đảm. Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với
nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường
hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem
xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý.
2.3. Đánh giá về thực trạng quyền của phụ nữ và trẻ em trong
giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện
Ea H’leo
2.3.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, có thể thấy số vụ việc về HN&GĐ mà TAND huyện Ea
H’leo thụ lý và giải quyết là rất lớn, trong đó chủ yếu là tranh chấp về ly
hôn. Một ưu điểm lớn trong công tác thụ lý các vụ việc HN&GĐ của TAND
huyện Ea H’leo đó là không có đơn thư khiếu nại, tố cáo nào về hành vi
vi phạm quyền của phụ nữ và trẻ em của cán bộ công chức trong đơn vị.
15
Thứ hai, dù là huyện miền núi, địa bàn rộng, dân cư sống thưa thớt,
rải rác ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, đặc biệt người đồng bào
dân tộc thiểu số phần lớn không am hiểu pháp luật, vẫn còn sử dụng các
luật tục lạc hậu để giải quyết các tranh chấp, các vi phạm pháp luật nhưng
việc giải quyết, xét xử các vụ việc nói chung, HN&GĐ nói riêng được quan
tâm, bảo đảm chất lượng.
Thứ ba, mặc dù rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, khó
khăn về điều kiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ nhưng Tòa án nhân dân
huyện Ea H’Leo đã cố gắng triển khai công tác ứng dụng công nghệ thông
tin, áp dụng các phần mềm vào công tác, hoạt động của Tòa án nhằm đạt
hiệu quả công tác tốt nhất.
Thứ tư, cán bộ công chức TAND huyện Ea H’Leo đã giúp đỡ,
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước tới đồng bào buôn kết nghĩa, vận động nhân dân làm theo Hiến pháp
và pháp luật, đặc biệt hướng tới đối tượng phụ nữ.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1.1. Hạn chế
- Trong một số vụ việc, quyền của phụ nữ và trẻ em chưa được bảo
đảm trong các vụ việc HN&GĐ, nhất là các quyền lợi về tài sản, quyền
chăm sóc nuôi dưỡng con cái của phụ nữ; quyền về cấp dưỡng của trẻ em.
- Vẫn còn một số bản án, quyết định của TAND huyện Ea H’Leo
quyền của phụ nữ và trẻ em bị sửa do những sai sót, trong đó không ít bản
án có những sai phạm khá nghiêm trọng. Vì thế, một số quyền lợi của người
phụ nữ và trẻ em sẽ không được hoặc khó khôi phục.
- Còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử và còn khá nhiều vụ án
tạm đình chỉ chưa giải quyết dứt điểm.
16
- Còn hạn chế trong việc thu thập tài liệu chứng cứ vụ án, còn vi
phạm thủ tục tố tụng trong điều tra, thiết lập hồ sơ vụ án khiến cho vụ án bị
xét xử lại nhiều lần, ảnh hưởng đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
2.3.2.1.2. Nguyên nhân
Một là, hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em
trong các vụ việc HN&GĐ còn bất cập.
Thứ hai, trình độ, năng lực của các chức danh tư pháp thuộc hệ
thống TAND huyện Ea H’Leo còn hạn chế, chưa đồng đều.
Thứ ba, hoạt động của TAND trong giải quyết các vụ việc
HN&GĐ tại huyện Ea H’Leo còn gặp nhiều bất cập, hạn chế.
Thứ tư, trình độ văn hoá, hiểu biết pháp luật của phụ nữ và trẻ em
ở vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn còn thấp.
Tiểu kết chương 2
17
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Sự cần thiết phải bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
huyện Ea H’leo
Thứ nhất, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết
các vụ việc HN&GĐ là hiện thực hoá quyền con người, quyền công dân đã
được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm về thể chất và tinh thần, phụ nữ và
trẻ em là đối tượng cần được pháp luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ.
Thứ ba, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các
vụ việc HN&GĐ tạo cơ sở tôn trọng và thúc đẩy bình đẳng giới.
Thứ tư, bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các
vụ việc HN&GĐ là cơ sở tạo môi trường lành mạnh cho gia đình và xã hội.
Thứ năm, xuất phát từ thực tiễn bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ
em trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’leo vẫn
còn những hạn chế, bất cập.
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải
quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea
H’leo, tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật nhằm đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết vụ việc
hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân
Thứ nhất, đề nghị sửa đổi các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em:
18
i) Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của đương sự để rõ hơn quyền bình đẳng
của phụ nữ trong tố tụng dân sự;
ii) Cần sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền bình đẳng
của đương sự trong tố tụng dân sự.
Thứ hai, sửa đổi một số nội dung của Luật HN&GĐ năm 2014:
Về vấn đề ly hôn: Cần có quy định, hướng dẫn cụ thể hơn về
những nội dung có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, như “thật sự tự
nguyện ly hôn”, “vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng”, “người mẹ không đủ điều kiện”… để tránh việc áp dụng không
thống nhất, phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền,
như thẩm phán, kiểm sát viên.
Vấn đề ly thân: Luật HN&GĐ chưa quy định về chế định ly
thân nhưng thực tế hiện tượng này vẫn xảy ra. Do đó, đề nghị nghiên
cứu ghi nhận chế định ly thân trong Luật.
Về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em: Cần hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quyền, bảo đảm sự toàn diện, đồng bộ, thống nhất của các
luật chuyên ngành.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật và thực hiện bảo vệ quyền lợi trẻ
em, nhất là nguy cơ bị xâm hại. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật về bảo vệ trẻ em, phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm bạo
lực, xâm hại/xâm hại tình dục trẻ em.
3.2.2. Giải pháp cụ thể bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em
trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại Toà án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk
19
3.2.2.1. Nâng cao nhận thức của phụ nữ, trẻ em và nhân dân về
quyền của phụ nữ và trẻ em trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia
đình
Để khắc phục được tình trạng trên, các cơ quan, đoàn thể cần tăng
cường, quan tâm hơn nữa, để phát huy tối đa vai trò trong việc tư vấn về
hôn nhân gia đình, tuyên truyền giáo dục gia đình, hỗ trợ phụ nữ kiến thức
phòng, chống bạo lực gia đình nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ hạnh phúc.
3.2.2.2. Nâng cao năng lực và đổi mới hoạt động của Toà án nhân
dân huyện Ea H’leo trong giải quyết các vụ việc hôn nhân, gia đình
Một là, nâng cao năng lực các chức danh tư pháp thuộc TAND
nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của phụ nữ, trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ.
Hai là, bảo đảm số lượng biên chế để TAND huyện đáp ứng tốt
yêu cầu, nhiệm vụ. Các đề án đều xác định nguyên tắc phân bổ biên chế
trong hệ thống TAND phải căn cứ vào: Vị trí việc làm; quy mô dân số, diện
tích tự nhiên; quy mô phát triển kinh tế - xã hội; tình hình vi phạm pháp luật
và tội phạm; số lượng, tính chất phức tạp của các loại vụ, việc thuộc thẩm
quyền giải quyết; chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật giao thêm cho tòa án.
Ba là, tăng cường công tác hòa giải trong các vụ việc HN&GĐ.
Trong công tác giải quyết vụ việc HN&GĐ, TAND huyện Ea H’Leo cần
coi trọng nguyên tắc: “Một vụ việc chỉ được giải quyết dứt điểm và có hiệu
quả cao thông qua hòa giải”.
Bốn là, đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực
chất, đảm bảo dân chủ, công khai đúng quy định của pháp luật để từ đó,
nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, góp phần không để xảy ra
án sai, án bị hủy, bị cải sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
Năm là, thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động, nội quy, quy chế
hoạt động của cơ quan.
20
Sáu là, tăng cường hướng dẫn công tác xét xử, kiểm tra, kiểm soát
hoạt động tố tụng về HN&GĐ liên quan đến quyền của phụ nữ và trẻ em.
3.2.2.3. Tăng cường phối hợp liên ngành ở địa phương trong giải
quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
- Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ án, các việc dân sự,
TAND huyện Ea H’Leo cần thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự, hướng dẫn đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp
chứng cứ, chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp
cần thiết theo quy định của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan
hữu quan.
- TAND huyện Ea H’Leo cần tăng cường các phiên tòa rút kinh
nghiệm.
- Cần tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo
của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Lãnh đạo đơn
vị đã tổ chức quán triệt và việc triển khai tổ chức phiên tòa trực tuyến theo
đúng quy định của pháp luật như: Phố hợp liên ngành giữa Tòa án, Viện
kiểm sát, mua sắm trang thiết bị, chuẩn bị đường truyền, kỹ thuật...
3.2.2.4. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi của bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân trong giải quyết các vụ việc hôn
nhân và gia đình
Một là, việc xác minh điều kiện thi hành bản án, quyết định của
TAND về HN&GĐ phải được tiến hành và được áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành trước khi xét xử; nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, trốn
trách việc thi hành án; khắc phục một phần tình trạng bản án, quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật chỉ có ý nghĩa trên giấy nhưng không đủ
điều kiện để thi hành trong thực tế.
Hai là, bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo thủ tục
thi hành án dân sự cần bổ sung phần chỉ dẫn cho người được thi hành án
21
dân sự. Khắc phục tình trạng người được thi hành án không biết cơ quan thi
hành án dân sự nào có thẩm quyền tổ chức thi hành; không biết làm đơn
yêu cầu thi hành án và nội dung chính của đơn yêu cầu thi hành án dân sự
gồm những phần gì; không biết quyền và nghĩa vụ xác minh điều kiện thi
hành án.
Ba là, biện pháp khuyến khích người phải thi hành bản án, quyết
định của TAND về HN&GĐ tự nguyện thi hành phải được tiến hành khi
Toà tuyên án và được ghi trong án văn. Thực tiễn công tác thi hành án các
vụ việc HN&GĐ tại địa phương cho thấy, nếu đương sự tự nguyện thi hành,
không phải tổ chức cưỡng chế thi hành sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian,
tiền của, công sức của Chấp hành viên, Cơ quan thi hành án dân sự và các
cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án dân sự; thắt chặt
được mối quan hệ đoàn kết giữa các đương sự và nêu cao được ý thức chấp
hành pháp luật của công dân.
Bốn là, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức nơi
người phải thi hành bản án, quyết định của TAND về HN&GĐ cư trú, công
tác, có trụ sở hoặc có tài sản trong thi hành án dân sự.
3.2.2.5. Đổi mới cải cách hành chính, bảo đảm cơ sở vật chất, áp
dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
Thứ nhất, TAND huyện Ea H’Leo cần đổi mới, cải cách thủ tục
hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho nhân dân khi có công việc liên quan đến Tòa án.
Thứ hai, mặc dù rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, khó
khăn về điều kiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ nhưng TAND huyện Ea
H’Leo cần cố gắng triển khai, hoàn thiện công tác ứng dụng công nghệ
thông tin, áp dụng các phần mềm (03) do TAND tối cao triển khai vào công
tác, hoạt động của Tòa án nhằm đạt hiệu quả công tác tốt nhất. Ngoài ra cần
thực hiện, công khai minh bạch các hoạt động của Tòa án. Trang bị máy
22
tính cho Thẩm phán, Thư ký....để thực hiện tác nghiệp tại phiên tòa, kết nối
mạng Internet để thực hiện việc truy cập thông tin, văn bản pháp luật phục
vụ công tác.
3.2.2.6. Các giải pháp bảo đảm việc làm, kinh tế cho phụ nữ; bảo
đảm giáo dục cho trẻ em trên địa bàn huyện Ea H’Leo
Đầu tiên, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ, trẻ em là ưu tiên hàng
đầu. Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết
thực, kết hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham
gia. Đối với những nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần
đầu tư thêm để các em có thể theo đến hết bậc trung học và học cao lên và
tránh không bị rơi vào vòng tái mù như các thế hệ phụ nữ đi trước.
Hai là, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho phụ nữ trên địa bàn
huyện Ea H’Leo; tiếp tục tổ chức các hội chợ tư vấn, giới thiệu việc làm.
Ba là, tiếp tục có các chính sách hỗ trợ vốn vay cho phụ nữ.
Bốn là, tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ
năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó
và kế hoạch hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh
phúc.
Tiểu kết chương 3
23
KẾT LUẬN
Bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em là hoạt động mang tính thường
xuyên, liên tục, nó vừa mang tính phòng ngừa và vừa mang tính tự vệ nhằm
chống lại, loại trừ những hành vi xâm hại quyền của phụ nữ và trẻ em, đồng
thời đảm bảo cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng và được thực hiện trong
đời sống xã hội.
Từ thực trạng đó, cần có các giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ
và trẻ em trong các vụ việc HN&GĐ tại TAND huyện Ea H’Leo. Ở phương
diện chung, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của phụ nữ và trẻ
em trong các vụ việc HN&GĐ nói chung, quyền của phụ nữ và trẻ em trong
các vụ việc HN&GĐ tại TAND nói riêng cả ở phương diện pháp luật nội
dung và pháp luật thủ tục. Đối với huyện Ea H’Leo, cần chú trọng nâng cao
nhận thức nói chung, nhận thức pháp luật nói riêng cho phụ nữ và trẻ em để
thực hiện tốt quyền của mình; bên cạnh đó, giải quyết tốt gốc rễ của vấn đề
là vấn đề tư tưởng, phong tục, kinh tế, việc làm của phụ nữ và trẻ em. Đối
với hệ thống toà án, cần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND huyện Ea
H’Leo để đảm bảo năng lực giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách đúng
pháp luật, chính xác và khách quan. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp các
cơ quan, đơn vị trong quá trình giải quyết các vụ việc HN&GĐ, bảo đảm
thực thi các quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật cũng như hiệu quả thi
hành án tại địa phương.
Việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp trên cần sự vào
cuộc mạnh mẽ, quyết liệt của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
Nhân dân và đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của phụ nữ và trẻ em nhằm xây
dựng một đất nước, một địa phương phát triển về kinh tế, ổn định về xã hội,
bảo đảm các quyền con người.
24