BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM
--- oOo ---
LÊ NGUYỄN SƠN VŨ
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ VÀ RỦI RO PHÁ SẢN
CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM
--- oOo ---
LÊ NGUYỄN SƠN VŨ
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ VÀ RỦI RO PHÁ SẢN
CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân Hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Hay Sinh
Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi.
Các thông tin dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung
trích dẫn đều có ghi nguồn gốc và các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công
bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
TP.HCM, tháng 09 năm 2013
Học viên
LÊ NGUYỄN SƠN VŨ
Mục lục
TÓM TẮT ...................................................................................................................................... 1
1. GIỚI THIỆU .......................................................................................................................... 2
1.1. Sự cần thiết của bài nghiên cứu .................................................................................... 2
1.2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 3
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4
1.4. Nền tảng bài nghiên cứu ................................................................................................ 4
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................... 5
1.6. Bố cục bài nghiên cứu .................................................................................................... 5
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY .......................................................... 6
2.1. Các nghiên cứu về lý thuyết .......................................................................................... 6
2.2. Các nghiên cứu về thực nghiệm .................................................................................... 8
2.2.1. Mô hình đầu tƣ và chính sách tài chính của công ty ........................................... 8
2.2.2. Chỉ số tài chính và khả năng dự báo phá sản công ty ....................................... 13
2.2.3. Mô hình đầu tƣ và rủi ro phá sản công ty .......................................................... 19
3. THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ VÀ KHẢ NĂNG PHÁ SẢN CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................................. 24
3.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012 ......................................... 25
3.2. Thực trạng đầu tƣ và khả năng phá sản các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012 .................................................................... 27
4. NGUỒN DỮ LIỆU, PHƢƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ......................... 43
4.1. Nguồn dữ liệu và chọn mẫu ......................................................................................... 44
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................. 46
4.3. Mô hình nghiên cứu ..................................................................................................... 47
4.4. Lựa chọn các biến ......................................................................................................... 48
4.5. Các căn cứ và giả định ban đầu .................................................................................. 51
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................................................. 52
5.1. Thông kê mô tả các nhân tố tác động đến quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam ...................................... 53
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
5.1.1. Thống kê mô tả các nhân tố ................................................................................. 53
5.1.1.1.
Thống kê mô tả các nhân tố tác động đến quyết định đầu tƣ ....................... 53
5.1.1.2.
Thống kê mô tả các nhân tố tác động đến rủi ro phá sản công ty ................ 55
Thống kê mô tả các nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa quyết định
5.1.1.3. đầu tƣ và rủi ro phá sản công ty ......................................................................................... 59
5.2. Kết quả nghiên cứu về quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam ................................................................. 62
5.2.1. Kết quả nghiên cứu về quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2004 -2012 ..................... 62
5.2.1.1. Kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến quyết định đầu tƣ ............ 63
5.2.1.2. Kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến rủi ro phá sản công ty ..... 66
5.2.1.3. Ƣớc lƣợng xác suất phá sản các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2004 -2012 .................................................................... 71
5.2.1.4. Kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản công ty ..................................................................................................................... 72
5.2.2. Kết quả nghiên cứu về sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến mối quan hệ giữa quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản công ty. ...... 76
6. KẾT LUẬN........................................................................................................................... 80
6.1. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu đạt đƣợc ............................................................... 81
6.2. Hạn chế của bài nghiên cứu ......................................................................................... 87
6.3. Hƣớng nghiên cứu trong tƣơng lai ............................................................................. 88
Tài liệu tham khảo ...................................................................................................................... 89
Phụ lục........................................................................................................................................... 92
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
1
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố tài chính có tác động đến quyết
định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị trường Chứng khoán
Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012, bằng cách sử dụng phương pháp phân tích định
lượng cho ba mô hình nghiên cứu là: mô hình hàm đầu tư, mô hình dự báo phá sản
công ty, và mô hình đầu tư có thêm nhân tố phá sản. Người viết sử dụng năm cách
ước lượng là: bình phương bé nhất thông thường, cố định, ngẫu nhiên, khoản giữa
và chênh lệch bậc nhất để ước lượng các mô hình này. Mẫu khảo sát là các công ty
niêm yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012, được phân
chia thành năm ngành để nghiên cứu thêm là: ngành Chứng khoán, ngành Bất động
sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – đồ uống và ngành
Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm toàn bộ mẫu
khảo sát cho thấy: các nhân tố mức độ đầu tư mới, dòng tiền và doanh thu giai đoạn
này có tác động đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau. Các nhân tố quy mô công ty,
vốn lưu động trên tổng tài sản, khả năng thanh toán ngắn hạn, tỷ suất sinh lợi trên
tổng tài sản, thu nhập ròng âm hai năm gần đây, nợ phải trả vượt tổng tài sản và tốc
độ tăng trưởng thu nhập ròng có tác động đến rủi ro phá sản công ty – thể hiện qua
chỉ số dự báo phá sản công ty. Đến lược rủi ro phá sản công ty được ước lượng từ
chỉ số dự báo phá sản, thể hiện qua xác suất tồn tại giai đoạn này đã tác động mạnh
vượt trội đến quyết định đầu tư mới giai đoạn sau của các công ty. Kết quả việc ước
lượng xác suất phá sản các công ty niêm yết cao cho thấy nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn này rất mong manh giữ sự tồn tại và phá sản, giải thể hay ngừng
hoạt động. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng đưa ra bằng chứng thực nghiệm về sự tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến rủi ro phá sản ảnh
hưởng đến mức độ đầu tư mới công ty ở giai đoạn trước và sau khủng hoảng.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
2
1. GIỚI THIỆU
1.1. Sự cần thiết của bài nghiên cứu
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới công bố tháng 12/07/2013, Việt Nam
là nền kinh tế lớn thứ 42 trên thế giới xét theo tổng GDP tính theo ngang giá sức
mua năm 2012, là quốc gia có môi trường kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, mặc dù
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh nhưng Việt Nam vẫn là một
trong các nơi đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, thách thức
đặt ra sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã tác động đến nền
kinh tế Việt Nam, khi mà tăng trưởng kinh tế chậm và kéo dài nhất trong những
năm gần đây. Tỷ lệ đầu tư trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giảm, chỉ số sức
sản xuất (PMI) giảm và bán lẻ tăng chậm. Nhập khẩu của khu vực trong nước giảm
cho thấy nhu cầu thấp đối với máy móc thiết bị và hàng hóa trung gian, cũng như
tiêu dùng cá nhân yếu. Tình hình tài khóa không mấy thuận lợi, cải cách chậm, quá
trình đổi mới bắt đầu nhưng chưa được thực hiện quyết liệt. Bên cạnh đó, theo
phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) ngày 18/4/2013, đã công bố
năm 2012 có 58.128 doanh nghiệp phá sản. Bên cạnh đó, theo số liệu của Cục Quản
lý Đăng ký kinh doanh ngày 10/09/2013, trong hai năm qua (2011 và 2012), có
khoảng 18.000 đến 19.000 doanh nghiệp tiến hành làm thủ tục giải thể. Tám tháng
đầu năm 2013, cả nước có khoảng 39.420 doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt
động, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, số doanh nghiệp khó khăn phải
ngừng hoạt động lên tới gần 33.400 đơn vị, gấp 5,5 lần số doanh nghiệp đã hoàn
thành thủ tục giải thể. Trong khi đó, tinh hình hủy niêm yết trên thị trường Chứng
khoán Việt Nam theo nghị định chính phủ số 58/2012/NĐ-CP, ban hành ngày
20/07/2012 và có hiệu lực ngày 15/09/2012 như sau: toàn bộ mẫu khảo sát trong
giai đoạn 2004 – 2012 có 12,35% công ty hủy niêm yết. Trong đó, ngành Xây dựng
và Vật liệu xây dựng là 16,84%; ngành Thực phẩm và đồ uống là 15,38%; ngành
Chứng khoán là 28,13%; ngành Bất động sản là 12,5%; ngành Hàng tiêu dùng cá
nhân và gia đình là 8,33%; và các ngành khác là 8,15%.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
3
Do đó, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc nghiên cứu các nhân tố tài chính
có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên
thị trường Chứng khoán Việt Nam là vấn đề rất được quan tâm. Ngoài ra, cũng cần
tìm hiểu xem các mô hình nghiên cứu về quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các
công ty đã được xây dựng tại các quốc gia phát triển hoạt động như thế nào tại Việt
Nam, và liệu cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 có làm thay đổi ảnh hưởng của
các nhân tố đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty hay không. Một
phân tích so sánh về mức độ và xu hướng tác động của các nhân tố đến quyết định
đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty trước và sau khủng hoảng sẽ cung cấp sự
hiểu biết sâu sắc hơn về việc thiết lập các quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của
các công ty tại Việt Nam.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Bài nghiên cứu nhằm mục đích cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các
nhân tố tác động đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012. Theo đó, bài nghiên
cứu kỳ vọng trả lời cho ba câu hỏi sau đây:
Thứ nhất, các nhân tố nào có tác động đến quyết định đầu tư của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2003 – 2012, đồng
thời sử dụng mô hình nghiên cứu gì để nhận biết ?
Thứ hai, các nhân tố nào có tác động đến rủi ro phá sản của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2003 – 2012, đồng
thời sử dụng mô hình nghiên cứu gì để nhận biết ?
Thứ ba, có tồn tại hay không mối quan hệ giữa quyết định đầu tư và rủi ro
phá sản của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai
đoạn 2003 – 2012? Bên cạnh đó, người viết cũng nghiên cứu sự tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có tác động đến mối quan hệ này hay
không, đồng thời sử dụng mô hình nghiên cứu gì để nhận biết ?
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
4
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam, bao gồm hai sàn giao dịch là HOSE và HNX, từ năm 2003 đến 2012.
Bên cạnh việc nghiên cứu toàn bộ mẫu khảo sát, người viết cũng tiến hành phân loại
và chọn năm ngành quan trọng và có ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế để nghiên
cứu chi tiết là: ngành Chứng khoán, ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật
liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia
đình.
1.4. Nền tảng bài nghiên cứu
Một vấn đề được đặt ra là các nhân tố nào tác động đến quyết định đầu tư
của công ty, rủi ro phá sản công ty chịu sự tác động của những nhân tố nào và mức
độ tác động của rủi ro phá sản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của công ty như
thế nào. Một nghiên cứu nền tảng của Stephen Bond và Costas Meghir (1993) về
đầu tư và chính sách tài chính của công ty Anh Quốc cho thấy rằng mối tương quan
thuận giữa tỷ lệ đầu tư của giai đoạn này so với giai đoạn trước đó. Đầu tư hiện tại
có tương quan thuận với dòng tiền, đồng thời nó có tương quan nghịch với nợ vay
dài hạn và phụ thuộc vào việc thanh toán cổ tức và phát hành cổ phần mới của giai
đoạn trước đó. Một nghiên cứu khác của James A.Ohlson (1980) về dự báo phá sản
công ty Hoa Kỳ cho thấy rằng các nhân tố cấu trúc tài chính, tính hiệu quả và tính
thanh khoản là các nhân tố quan trọng trong việc đánh giá khả năng phá sản công
ty. Cấu trúc tài chính được thể hiện qua đòn bẩy tài chính mà càng lớn nguy cơ phá
sản càng cao, trong khi đó các yếu tố về quy mô công ty, tính hiệu quả và tính thanh
khoản càng lớn thì nguy cơ phá sản càng thấp. John K. Wald (2004) và Kai
Kirchesch (2004) thực hiện việc thêm nhân tố phá sản được ước lượng từ mô hình
dự báo phá sản của James A.Ohlson (1980) vào mô hình đầu tư của Stephen Bond
và Costas Meghir (1993) để nghiên cứu rủi ro phá sản có tác động đến hành vi đầu
tư của các công ty Hoa Kỳ hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác động của rủi
ro phá sản thể hiện qua xác suất tồn tại lên hành vi đầu tư là có ý nghĩa thống kê.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
5
Bên cạnh đó, một câu hỏi khác đặt ra là với những kết quả đạt được từ các mô hình
nghiên cứu trên thực hiện tại các quốc gia phát triển có thể áp dụng các mô hình
nghiên cứu đó cho các quốc gia khác – bao gồm các nước đang phát triển như Việt
Nam hay không?
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, phân tích mô
hình hồi quy tuyến tính đa biến bằng năm phương pháp ước lượng là: bình phương
bé nhất thông thường, cố định, ngẫu nhiên, khoản giữa và chênh lệch bậc nhất cho
ba mô hinh nghiên cứu sau: (1) mô hình đầu tư và chính sách tài chính của công ty
của Stephen Bond và Costas Meghir (1993), (2) mô hình dự báo phá sản của James
A.Ohlson (1980), và (3) mô hình đầu tư có thêm nhân tố phá sản của John K. Wald
(2004) để trả lời cho ba câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra.
1.6. Bố cục bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu được tổ chức thành năm phần chính như sau:
Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây.
Phần 3: Nguồn dữ liêu, phương pháp và mô hình nghiên cứu.
Phần 4: Nội dung và các kết quả nghiên cứu.
Phần 5: Kết luận cho bài nghiên cứu tương ứng với năm câu hỏi nghiên
cứu, những hạn chế của bài nghiên cứu và những hướng nghiên cứu trong
tương lai.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
6
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY
2.1. Các nghiên cứu về lý thuyết
Trong phần này, người viết giới thiệu một số lý thuyết về quyết định đầu tư
và rủi ro phá sản công ty trên thế giới như sau:
Trước tiên là lý thuyết của Modigliani và Miller (1985) về chích sách đầu tư
thể hiện ở định đề I, nhóm tác giả cho rằng trong thị trường hoàn hảo thì chính sách
đầu tư của công ty không chịu tác động bởi quyết định tài trợ. Tuy nhiên, trong thực
tế tồn tại các vấn đề như thông tin bất cân xứng, chi phí đại diện,... nên quyết định
đầu tư thực sự chịu tác động bởi quyết định tài trợ, và đã làm xuất hiện vấn đề đầu
tư dưới mức hay đầu tư vượt mức. Theo nghiên cứu của Myer (1977), tác giả kết
luận chính những mâu thuẫn giữa nhóm các cổ đông, nhà quản lý và các trái chủ
trong một công ty có sử dụng nợ vay có thể làm giảm động cơ đầu tư vào những cơ
hội kinh doanh của các dự án có NPV dương vì lo sợ những lợi ích từ các dự án sẽ
thuộc về trái chủ, điều này đã dẫn đến vấn đề đầu tư dưới mức.
Theo Jensen (1986), các giám đốc vì lợi ích bản thân thường có xu hướng
mở rộng quy mô của công ty thậm chí là thực hiện cả những dự án gây hại đến lợi
ích của cổ đông, dẫn đến ―đầu tư quá mức‖ (over-investment). Trong trường hợp
này nếu sử dụng nợ vay sẽ giúp hạn chế vấn đề đầu tư quá mức.
Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn giải thích vì sao các doanh nghiệp thường
được tài trợ một phần bằng nợ vay, một phần bằng vốn cổ phần. Một lý do lớn
khiến các doanh nghiệp không thể tài trợ hoàn toàn bằng nợ vay khi thực hiện quyết
định đầu tư là vì, bên cạnh sự hiện hữu lợi ích tấm chắn thuế từ nợ, việc sử dụng tài
trợ bằng nợ cũng phát sinh nhiều chi phí, điển hình nhất là các chi phí kiệt quệ tài
chính và chi phí phá sản. Kiệt quệ tài chính sẽ xảy ra khi doanh nghiệp không thể
đảm bảo thực hiện các điều khoản đã cam kết với chủ nợ hay thực hiện một cách
khó khăn. Độ lớn của chi phí kiệt quệ tài chính phụ thuộc vào xác suất xảy ra kiệt
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
7
quệ tài chính và độ lớn của các chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu khi kiệt quệ
tài chính xảy ra. Kiệt quệ tài chính bao gồm nguy cơ phá sản và sự phá sản
Lý thuyết trật tự phân hạng của Myers (1984) cho rằng các nhà quản lý của
công ty có xu hướng tài trợ cho các dự án đầu tư mới bằng nguồn vốn nội bộ mà
chủ yếu là lợi nhuận chưa phân phối sẽ được ưu tiên trước, trong trường hợp phải sử
dụng nguồn tài trợ bên ngoài, trật tự phân hạng sẽ là: nợ, chứng khoán chuyển đổi,
cổ phiếu ưu đãi và cuối cùng là cổ phiếu thường. Bởi vì các nhà quản lý có nhiều
thông tin hơn những nhà đầu tư bên ngoài, vì vậy những nhà đầu tư bên ngoài yêu
cầu một mức tỷ suất sinh lợi cao hơn khi công ty phát hành chứng khoán và điều
này làm cho chi phí của các nguồn tài trợ bên ngoài cao hơn. Ưu điểm của tài trợ
nội bộ là không làm phát sinh các chi phí phát hành chứng khoán và không cần
công bố các thông tin của công ty. Việc nắm giữ cổ phần thường gắn liền với nắm
giữ quyền kiểm soát, Do đó, trật tự phân hạng này cũng phản ánh những động cơ
của công ty trong việc duy trì quyền kiểm soát công ty và sẵn sàng tránh các phản
ứng tiêu cực của thị trường trước một thông báo phát hành vốn cổ phần mới. Bên
cạnh đó, do bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tư và nội bộ công ty, nếu công ty
tài trợ cho dự án mới bằng cách phát hành vốn cổ phần, vốn cổ phần có thể bị thị
trường định giá thấp.
Lý thuyết tín hiệu của Ross (1977), Lyland và Pyle (1977) cho rằng quyết
định về cấu trúc vốn của công ty có thể truyền tải các thông tin bên trong công ty
cho các nhà đầu tư bên ngoài. Do các nhà quản trị công ty thường có đầy đủ thông
tin về triển vọng của doanh nghiệp hơn là những nhà đầu tư bên ngoài nên nếu công
ty có triển vọng hoạt động tốt, các nhà quản trị sẽ không muốn chia sẻ lợi nhuận với
những người chủ sở hữu mới. Ngược lại, khi triển vọng hoạt động trong tương lai
không tốt, họ lại muốn chia sẻ những rủi ro này với những người chủ sở hữu mới.
Do đó, đối với các nhà đầu tư bên ngoài, việc một doanh nghiệp công bố phát hành
thêm cổ phiếu đồng nghĩa với việc triển vọng của doanh nghiệp không được tốt, vì
vậy những nhà đầu tư bên ngoài yêu cầu một mức tỷ suất sinh lợi cao hơn khi công
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
8
ty phát hành chứng khoán và điều này làm cho chi phí của các nguồn tài trợ bên
ngoài cao hơn.
2.2. Các nghiên cứu về thực nghiệm
Trong phần này, người viết tóm tắt các kết quả nghiên cứu chính của một số
nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện trên thế giới.
2.2.1. Mô hình đầu tƣ và chính sách tài chính của công ty
Chúng ta bắt đầu với nghiên cứu nền tảng của Stephen Bond và Costas
Meghir (1993) về “Mô hình đầu tư động và chính sách tài chính của công ty”.
Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả chứng minh độ nhạy cảm của đầu tư lên
quỹ nội bộ sẳn có bằng cách sử dụng phương pháp trật tự phân hạn tài chính. Một
câu hỏi mở là chi tiêu đầu tư của công ty có nhạy cảm đến các quỹ nội bộ sẳn có
như thu nhập gữi lại hay không. Đây là một câu hỏi quan trọng bởi vì cách tác động
của đầu tư đến biến động trong lợi nhuận có phải chủ yếu phụ thuộc vào chi tiêu
vốn hay không. Ngoài ra, sự tác động của thuế lên đầu tư là khác nhau đối với các
công ty thiếu tiền mặt và sự hiện diện của các ràng buộc tài chính có thể thúc đẩy
các hoạt động kiểm soát đầu tư không hiệu quả đi theo chiều hướng khác.
Mô hình trật tự phân hạn tài chính giả định chi phí tài trợ nội bộ thấp hơn chi
phí tài trợ bên ngoài cho đầu tư, đồng thời nó cũng hàm ý rằng quyết định đầu tư và
quyết định tài trợ không hoàn toàn độc lập nhau như các mô hình đầu tư cổ điển và
dự báo rằng bất kỳ giai đoạn nào cũng có các công ty mà việc chi tiêu vốn của họ
cũng bị ràng buộc bởi quỹ nội bộ sẳn có. Nhóm tác giả mô tả các kết quả thực
nghiệm của phương pháp này cho mô hình đầu tư động và kiểm định các kết quả
này bằng cách sử dụng dữ liệu công ty. Mô hình mà các tác giả ước lượng dựa vào
phương trình Euler cho việc tối ưu vốn tích lũy với sự hiện diện của chi phí điều
chỉnh. Mô hình lý thuyết cho phép tài trợ nợ và tài sản tài chính. Nghiên cứu thực
nghiệm sử dụng dữ liệu kiểu bảng không cân bằng của các công ty Anh trong giai
đoạn 1974 – 1986 gồm 626 công ty sản xuất với 5941 số quan sát để ước lượng mô
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
9
hình đầu tư động bằng cách sử dụng phương pháp GMM kiểu tác động cố định
(fixed effects) và kiểm định các kết quả thu được.
Bond và Meghir xem xét giá trị công ty tại thời điểm t không có sự hiện diện
của thuế, đồng thời giả định rằng thông tin cân xứng và mục tiêu của công ty là tối
, ( )-+
đa hóa giá trị tài sản biên cho cổ đông như sau:
* ( ) ( )
Trong đó, V là giá trị công ty, (.) là hàm thu nhập với ba biến số là vốn K,
chi phí L và đầu tư I; và E[.] là biến điều kiện thông tin tại thời điểm bắt đầu t, đó là
t+1 = 1/(1+rt) với rt là tỷ suất sinh lợi yêu cầu danh nghĩa.
lãi suất tương lai, giá đầu vào và đầu ra, và yếu tố công nghệ; β là tỷ suất chiết khấu, βI
Xuất phát từ phương trình cơ bản trên, Bond và Meghir đã xây dựng mô hình
hàm đầu tư động gọi là mô hình BM, mô tả mối quan hệ giữa tổng đầu tư mới tăng
thêm của thời kỳ này với giá trị ròng của đầu tư mới, dòng tiền, doanh thu và nợ vay
dài hạn của thời kỳ trước đó, hàm đầu tư động như sau:
( ) ) ) ( ( ( ( ( ) ) )
Trong đó, I: mức độ đầu tư mới của công ty i tại thời điểm t – là giá trị tăng
thêm toàn bộ tài sản cố định của công ty, K: giá trị tài sản cố định – là các tài sản sử
dụng hơn một năm trong quá trình sản xuất, C: dòng tiền, bằng khấu hao tài sản cố
định cộng với lợi nhuận hoạt động trước thuế, lãi vay và cổ tức ưu đãi, Y: tổng
doanh thu, B: tổng nợ vay dài hạn, : hệ sồ hồi qui.
Ngoài các chỉ số trên, Bond và Meghir còn đưa vào hai chỉ số khác vào mô
hình là chỉ số thanh toán cổ tức (D) trên vốn cổ phần (K) và chỉ số cổ phần phát
hành mới (N) trên vốn cổ phần (K), mẫu khảo sát là mẫu con chứa những công ty
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
10
thanh toán cổ tức dương và phát hành cổ phần mới trong hai giai đoạn hoạt động
thành công, hàm đầu tư động mới như sau:
/ / / / / . . . . .
/ / / . . .
Kết quả ước lượng cho toàn bộ mẫu chỉ ra rằng, mối tương quan thuận giữa
tỷ lệ đầu tư của giai đoạn này so với giai đoạn trước đó. Đầu tư hiện tại có tương
quan thuận với dòng tiền, thậm chí khi chúng ta kiểm soát tổng doanh thu (cạnh
tranh không hoàn hảo) và nợ (chi phí phá sản), đồng thời nó có tương quan nghịch
với nợ vay dài hạn và phụ thuộc vào việc thanh toán cổ tức và phát hành cổ phần
mới.
Tách mẫu lớn thành các mẫu con để thực hiện mô hình hồi quy để giải thích
độ nhạy vượt trội của đầu tư lên các biến số tài chính. Kết quả ước lượng các mẫu
con cho thấy có sự khác biệt quan trọng trong hành vi đầu tư của các nhóm công ty
thuộc các mẫu con được phân chia theo các chính sách tài chính của họ. Khi nhóm
tác giả loại bỏ các công ty thanh toán cổ tức thấp và thanh toán cổ tức bằng 0, họ
tìm thấy rằng độ nhạy vượt trội của đầu tư lên dòng tiền và các biến số tài chính
khác là giảm. Tuy nhiên, việc phân tách mẫu hàm ý rằng mô hồi quy là ít thông tin
hơn nghĩa là ít chính xác hơn.
Một vấn đề với mô hình trật tự phân hạn tài chính ban đầu là nó dự báo rằng
các công ty không đồng thời thanh toán cổ tức và phát hành cổ phần mới. Dự báo
này là không chính xác với mẫu 626 công ty sản xuất ở Anh. Khi các công ty này
phát hành cổ phần thì họ luôn thanh toán cổ tức trong cùng năm tài chính, chỉ có 7%
công ty thanh toán cổ tứ bằng 0.
Nghiên cứu của Karen Mills, Steven Morling và Warren Tease (1994) về
“Sự tác động các yếu tố tài chính lên đầu tư của công ty”. Trong bài nghiên cứu
này, nhóm tác giả sử dụng phân tích dữ liệu kiểu bảng để kiểm tra sự tác động của
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
11
các yếu tố tài chính lên quyết định đầu tư của các công ty Úc không thuộc lĩnh vực
tài chính trong giai đoạn 1982 – 1992. Nhóm tác giả sử dụng mô hình lấy từ kết quả
nghiên cứu của Devereux và Schiantarelli (1989) như sau:
( ) ) ( ) ( ) (
) (
Trong đó, I: đầu tư, K: vốn cổ phần, C: dòng tiền mặt, L: tài sản tài chính
lỏng, D: nợ dài hạn, s: doanh thu và q: Tobin q – được tính như sau:
Với V: giá trị thị trường vốn cổ phần, B: giá trị thị trường của nợ, F: giá trị
thị trường của tài sản tài chính, K: giá trị thay thế vốn cổ phần, và N: giá trị thị
trường hàng tồn kho.
Kết quả ước lượng cho thấy hệ số hồi quy Tobin q và doanh thu có những tín
hiệu mong đợi và chúng có ý nghĩa với mức 5% và 1% tương ứng, doanh thu có ý
nghĩa quan trọng. Hệ số dòng tiền mặt và tài sản tài chính lỏng có những tín hiệu
mong đợi với mức ý nghĩa 1% chỉ ra rằng dòng tiền là nhân tố quan trọng tác động
lên đầu tư và tài sản tài chính lỏng mặt dù là có ý nghĩa nhưng có sự tác động ít
hơn, dòng tiền không chỉ cung cấp nguồn tài chính cho công ty mà còn thể hiện
ràng buộc thanh khoản. Hệ số hồi quy nợ cũng có tín hiệu mong đợi với mức ý
nghĩa 5% cho thấy rằng cấu trúc vốn có tác động đến hành vi đầu tư. Với mức nợ
cao hơn làm gia tăng xác suất kiệt quệ tài chính và tăng nhu cầu tăng tỷ suất chiết
khấu bởi các nhà cung cấp vốn tiềm năng, mặc dù tác động không lớn, nhưng nó
vẫn là nhân tố dự báo tiềm năng quan trọng cho nhiều công ty.
Cuối cùng, nhóm tác giả kết luận có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố
tài chính lên quyết định đầu tư. Đòn bẩy tài chính, dòng tiền mặt nội bộ tạo ra, cổ
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
12
phần tiền mặt và các tài sản tài chính lỏng là các yếu tố quan trọng tác động lên
hành vi đầu tư, đặc biệt là các công ty nhỏ, các công ty có đòn bẩy tài chính cao và
các công ty có tỷ số thu nhập giữ lại cao
Nghiên cứu của Ignacio Hernando và André Tiomo (2002) về “Ràng buộc
tài chính và đầu tư trong các công ty Pháp và Tây Ban Nha: một sự so sánh sử
dụng dữ liệu công ty”. Mục đích của bài nghiên cứu là phân tích các quyết định đầu
tư của công ty ở Pháp và Tây Ban Nha, tập trung vào các ràng buộc tài chính trong
việc giải thích hành vi đầu tư, bằng cách sử dụng hai bảng dữ liệu được tập hợp từ
các báo cáo kế toán của hai nhóm công ty của hai quốc gia này, trong giai đoạn
1991 – 1999. Bài nghiên cứu dựa vào mô hình hàm đầu tư động và chính sách tài
chính công ty của Bond và Meghir (1994) để kiểm định sự tồn tại của ràng buộc
thanh khoản lên hành vi đầu tư, nhóm tác giả đã kiểm định độ nhạy vượt trội của
đầu tư lên dòng tiền bằng cách sử dụng mô hình phương trình chuẩn Euler. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng có sự khác biệt đáng kể trong hành vi đầu tư được liên kết
chặt chẽ với tình hình tài chính của các công ty. Đặc biệt, các bằng chứng tìm thấy
là phù hợp với chi phí đầu tư của các công ty trả cổ tức bằng không bị ràng buộc bởi
khả năng của quỹ tài chính nội bộ.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Trang và Trang Thúy Quyên (2013) về
“Mối quan hệ giữa sử dụng đòn bẩy tài chính và quyết định đầu tư”. Bài nghiên
cứu nhằm kiểm định đòn bẩy tài chính có tác động đến quyết định đầu tư của doanh
nghiệp hay không. Nhóm tác giả sử dụng mẫu gồm 264 công ty niêm yết trước năm
2010 trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội (HNX), thời kỳ phân tích giai đoạn 2009-2011. Nhóm tác giả sử
dụng mô hình nghiên cứu của Mohun Prasadising Odit, Hemant B. Chittoo (2008)
để kiểm tra tác động của đòn bẩy lên đầu tư như sau:
) ( ) (
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
13
Trong đó, Iit: đầu tư thuần của công ty i ở thời điểm t; Kit: tài sản cố định hữu
hình thuần; CFit: dòng tiền công ty i thời điểm t; Qit: biến Tobin’s Q, đại diện cho
cơ hội tăng trưởng của công ty, Q = (Tổng nợ + giá thị trường của cổ phần thường +
giá thị trường ước tính của cổ phần ưu đãi) / (Giá trị sổ sách của tài sản); LEVit: đại
diện cho đòn bẩy của công ty, tỉ lệ của tổng nợ dài hạn và ngắn hạn trên tổng tài
sản; SALEit: đại diện cho tăng trưởng doanh thu; ROAit: biến tỉ suất sinh lợi trên tài
sản; LIQit: đại diện cho tính thanh khoản.
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng được hồi quy theo 3 cách: pooling,
random effect (hiệu ứng ngẫu nhiên) và fixed effect (hiệu ứng cố định). Để tìm hiểu
xem phương pháp hồi quy nào là phù hợp nhất trong ba phương pháp trên, nhóm tác
giả sử dụng hai kiểm định là Lagrangian Multiplier (LM test, Breusch và Pagan,
1980) và kiểm định Hausman (Hausman, 1978). Kết quả nghiên cứu cho thấy việc
sử dụng đòn bẩy tài chính có tác động thuận chiều lên quyết định đầu tư đối với
toàn bộ công ty trong mẫu và các công ty tăng trưởng cao trong mẫu. Tuy nhiên, đối
với các công ty tăng trưởng thấp, đòn bẩy tài chính lại có tác động nghịch chiều lên
đầu tư.
2.2.2. Chỉ số tài chính và khả năng dự báo phá sản công ty
Nghiên cứu của Edward I.Altman (1968) về “Chỉ số tài chính, phân tích
đa thức và dự báo phá sản công ty”. Mục đích của bài nghiên cứu là đánh giá kỹ
thuật phân tích tỷ số bằng cách sử dụng mô hình phân tích đa thức (MDA) để phân
tích, dự báo phá sản công ty thông qua việc khảo sát các chỉ số kinh tế và tài chính.
Phân tích đa thức là một kỹ thuật thống kê sử dụng để phân loại các quan sát thành
một hay nhiều nhóm phụ thuộc vào đặc tính riêng của biến quan sát, nó giải quyết
vấn đề phân loại các quan sát để thực hiện phân tích các biến phụ thuộc hơn là kiểm
định đặc tính của các biến quan sát. Hàm đa thức có dạng:
Z = v1x1 + v2x2 + … + vnxn
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
14
Trong đó, Z là điểm số của đa thức hay giá trị được sử dụng để phân loại đối
tượng, vi là các hệ số của đa thức và xi là các biến độc lập.
Mẫu khảo sát ban đầu gồm 66 công ty được chia thành hai nhóm với mỗi
nhóm là 33 công ty. Nhóm thứ nhất là nhóm các công ty phá sản theo Chương X
của Luật Phá sản Hoa Kỳ trong giai đoạn 1946 – 1965 và nhóm thứ hai là nhóm các
công ty không phá sản trong cùng thời kỳ và vẫn tồn tại trong năm 1966.
Altman xem xét 22 biến tỷ số tài chính tiềm năng để phân tích, các biến tỷ số
này được phân loại thành 5 nhóm biến tỷ số chuẩn bao gồm: tỷ số về tính thanh
khoản, tỷ số về lợi nhuận, tỷ số về đòn bẩy tài chính, tỷ số về khả năng thanh toán
nợ, và tỷ số về hoạt động. Các nhóm biến tỷ số này được chọn dựa vào các cơ sở
sau: (1) các nghiên cứu đã công bố trước đó, (2) sự phù hợp tiềm năng với bài
nghiên cứu và (3) vài biến tỷ số mới được tạo ra trong bài nghiên cứu. Từ danh sách
22 biến tỷ số tài chính ban đầu, Altman chọn ra năm biến tỷ số để đưa vào mô hình
thực hiện dự báo khả năng phá sản công ty. Kết quả ước lượng hàm đa thức như
sau:
Z_Score = 0.12X1 + 0.014X2 + 0.033X3 + 0.006X4 + 0.999X5
Trong đó, X1 = (Vốn lưu động / Tổng tài sản), X2 = (Thu nhập giữ lại / Tổng
tài sản), X3 = (Thu nhập trước lãi vay và thuế / Tổng tài sản), X4 = (Giá trị thị
trường của vốn cổ phần / Giá trị sổ sách của tổng nợ vay), X5 = (Doanh thu / Tổng
tài sản). Z_Score là chỉ số tổng thể dự báo phá sản trong vòng 1 năm, Z_Score = 1
nếu công ty phá sản năm tới và bằng 0 ngược lại, giá trị Z_Score càng lớn thì khả
năng tồn tại của công ty càng cao.
Kết quả ước lượng chỉ ra rằng, tất cả các công ty có điểm số Z_Score lớn hơn
2.99 thuộc nhóm các công ty không phá sản, nghĩa là rơi vào vùng không phá sản,
trong khi các công ty có điểm số Z_Score thấp hơn 1.81 thuộc các nhóm các công ty
phá sản, chúng nằm trong vùng phá sản, các công ty có điểm số Z_Score từ 2.99
đến 1.81 thuộc vùng ―chưa xác định‖ hay vùng ―xám‖ vì tính nhạy cảm của sai sót
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
15
trong cách phân loại công ty. Mô hình phân tích đa thức các tỷ số cực kỳ chính xác
trong việc dự báo phá sản công ty, nó dự báo đúng 94% mẫu khảo sát ban đầu và
với 95% tất cả các công ty nằm trong nhóm phá sản và không phá sản. Tuy nhiên,
giới hạn của bài nghiên cứu là chỉ khảo sát các công ty sản xuất lớn (dựa vào quy
mô tài sản) và có sai sót trong việc phân loại công ty thuộc nhóm phá sản và không
phá sản.
Nghiên cứu của James A.Ohlson (1980) về “Chỉ số tài chính và khả năng
dự báo phá sản”. Bài nghiên cứu trình bày các kết quả nghiên cứu định lượng dự
báo sự thất bại của công ty như là bằng chứng cho các sự kiện phá sản. Những phát
hiện chính của bài nghiên cứu có thể được tóm tắt một cách ngắn gọn như sau: đầu
tiên, khả năng nhận diện bốn nhóm nhân tố quan trọng được thống kê có tác động
đến xác suất thất bại của công ty (trong vòng một năm), đó là: (1) quy mô công ty,
(2) cấu trúc tài chính, (3) tính hiệu quả, và (4) tính thanh khoản. Thứ hai, những
nghiên cứu trước đó đã phóng đại sức mạnh của các mô hình dự báo phá sản và các
kiểm định của nó. Một vấn đề nữa là các nhân tố dự báo (các chỉ số tài chính) lấy từ
các báo cáo tài chính được công bố sau ngày phá sản, sau đó bằng chứng chỉ ra rằng
các nhân tố này sẽ ―dự báo‖ phá sản.
Tác giả sử dụng mô hình logarit để xây dựng mô hình dự báo phá sản công ty
như sau: đặt Xi là vector các nhân tố dự báo cho quan sát thứ i, đặt β là vector các
tham số chưa biết, và đặt P(Xi, β) là xác suất phá sản của Xi và β, P là hàm xác suất
với 0 ≤ P ≤ 1. Logarit các khả năng có thể xảy ra của bất kỳ kết quả cụ thể trong
không gian mẫu gồm các công ty phá sản (S1) với các công ty không phá sản (S2),
mô hình xác suất phá sản như sau:
( ) ∑ ( ) ∑ ( ( ))
Xuất phát từ phương trình trên, Ohlson đã ước lượng mô hình kinh tế lượng
dự báo khả năng phá sản công ty bằng các chỉ số tài chính với ba mô hình: mô hình
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
16
1 dự báo phá sản trong vòng một năm, mô hình 2 dự báo phá sản trong vòng hai
năm và mô hình 3 dự báo phá sản trong vòng một hoặc hai năm, trong đó mô hình
được biết đến nhiều nhất là mô hình 1 với bốn nhóm nhân tố cơ bản ở trên được mô
tả bởi chín biến số kế toán tác động đến khả năng phá sản trong vòng một năm. Sử
dụng dữ liệu trong gia đoạn 1970 – 1976 với 105 công ty phá sản (trong đó có 18
công ty, chiếm 17% có báo cáo tài chính bị tiết lộ trong năm tài chính trước ngày
công bố phá sản) và 2058 công ty không phá sản phân loại theo chương X và XI của
Luật Phá sản Hoa Kỳ, kết quả ước lượng mô hình 1 như sau:
Oscorei
t +
t = – 1.32 – 0.407SISEi t – 2.37CFTLi
t – 1.72NITAi
t + 6.03TLTAi t – 1.83INTWOi
t – 1.43WCTAi t + 0.285OENEGi
t –
0.076CLCAi 0.521CHINi
t
t = log (Tổng tài sản / Chỉ số mức giá GNP), TLTAi
t = (Tổng
t = (Vốn lưu động / Tổng tài sản), CLCAi
t = (Nợ
t = (Thu nhập ròng / Tổng tài sản), CFTLi
t =
t = 1 nếu thu nhập ròng là
t = 1 nếu tổng nợ phải trả t - NIi
t-1) / (|NIi
t| + |NIi
t-1|)
t là thu nhập ròng trong giai đoạn gần đây nhất, Oscore là chỉ số tổng thể dự
Trong đó, SISEi
t = 1 nếu công ty phá sản trong năm tiếp theo
nợ phải trả / Tổng tài sản), WCTAi ngắn hạn / Tài sản ngắn hạn), NITAi (Quỹ được lập từ hoạt động / Tổng nợ phải trả), INTWOi âm cho hai năm gần đây và bằng 0 nếu ngược lại, OENEGi vượt tổng tài sản và bằng 0 nếu ngược lại, CHINi t = (NIi với NIi báo phá sản trong vòng 1 năm, Oscorei
và bằng 0 nếu ngược lại. Chỉ số Oscore càng lớn thì rủi ro phá sản công ty càng cao
và ngược lại.
Kết quả ước lượng cả ba mô hình cho thấy chỉ có ba hệ số của các biến
WCTA, CLCA và INTWO có thông kê t-statistics đồng thời nhỏ hơn 2 ở cả ba mô
hình, các hệ số còn lại có thông kê t-statistics khá lớn. Nhân tố quy mô công ty
(SIZE) là một nhân tố dự báo quan trọng mặc dù nó có t-statistics lớn hơn 2. Nhân
tố cấu trúc tài chính (TLTA), tính hiệu quả (NITA hoặc FUTL) và tính thanh khoản
(WCTA và/ hoặc CLCA) cũng là các nhân tố quan trọng trong việc đánh giá khả
năng phá sản công ty. Cấu trúc tài chính được thể hiện qua đòn bẩy tài chính mà
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
17
càng lớn nguy cơ phá sản càng cao, trong khi đó các yếu tố về quy mô công ty, tính
hiệu quả và tính thanh khoản càng lớn thì nguy cơ phá sản càng thấp. Ngoài các chỉ
số tài chính trên, tác giả mở rộng mô hình 1 bằng cách thêm vào hai chỉ số mới là
chỉ số lợi nhuận biên được tính bởi quỹ từ hoạt động chia cho tổng doanh thu và chỉ
số tài sản được tính bởi tài sản vô hình cộng với chệnh lệch thừa hoặc thiếu tài sản
chia cho tổng tài sản. Kết quả ước lượng cho thấy các biến này có ý nghĩa quan
trọng trong việc dự báo phá sản doanh.
Nghiên cứu của Ben Chin-Fook Yap, David Gun-Fie Yong và Wai-Ching
Poon (2010) về “Tỷ số tài chính và phân tích biểu thức đa biến dự báo sự thất bại
của các công ty Malaysia”. Mục đích của bài nghiên cứu là phát triển một mô hình
để cải thiện khả năng tiên đoán sự thất bại cho các công ty sau khoảng thời gian cơ
cấu lại với điều kiện tài chính, kinh doanh và hoạt động khác nhau trong bối cảnh
của Malaysia. Tổng cộng có 64 công ty được phân tích với 16 chỉ tiêu tài chính.
Một hàm đa thức được xây dựng để phân tích (MDA) với 07 tỷ số tài chính được
tìm thấy là có ý nghĩa thống kê trong việc dự báo với tỷ lệ chính xác cao từ 88%
đến 94% cho mỗi năm năm trước khi công ty thất bại. Bảy tỷ số tài chính đó là: quỹ
trên tổng nợ phải trả (FFTL), dòng tiền trên tổng nợ dài hạn (CFTD), tổng nợ dài
hạn trên tổng tài sản (TDTA), vốn lưu động trên tổng tài sản (WCTA), thu nhập giữ
lại trên tổng tài sản (RETA), thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT) và thu nhâp ròng
trên doanh thu (NIS). Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng ngay cả với các công cụ
thống kê tiên tiến phổ biến hơn được sử dụng gần đây, MDA vẫn còn là một công
cụ thống kê mạnh và rất đáng tin cậy.
Nghiên cứu của Pranee Leksrisakul và Michael Evans (2005) về “Mô
hình phá sản công ty ở Thái Lan – Sử dụng phân tích biệt thức đa biến”. Nghiên
cứu này cung cấp bằng chứng mới về việc sử dụng phương pháp phân tích biệt thức
đa biến (MDA) có thể được chọn như là một công cụ để dự đoán sự thất bại của
công ty niêm yết ở Thái Lan. Nguồn dữ liệu được sử dụng là các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Thái Lan (SET) trong khoảng thời gian 1997-2002. Các
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
18
biến tài chính lấy từ mô hình dự báo phá sản của Altman (1968). Kết quả nghiên
cứu cho thấy, các biến số về lợi nhuận, đòn bẩy tài chính, chất lượng tài sản và tính
thanh khoản có tác động đến khả năng dự báo phá sản công ty và tất cả chúng đều
có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, các kết quả kiểm định cho thấy rằng các chỉ tiêu
tài chính của các công ty phá sản có sự khác biệt có ý nghĩa so với các công ty
không phá sản, các tỷ số tài chính về lợi nhuận, tính thanh khoản và chất lượng tài
sản của các công ty phá sản thấp hơn so với các công ty không phá sản, nhưng tỷ lệ
đòn bẩy có xu hướng ngược lại giữa hai nhóm công ty này.
Nghiên cứu của Evridiki Neophytou, Andreas Charitou và Chris
Charalambous (2000) về “Dự báo thất bại công ty – bằng chứng thực nghiệm từ
Anh”. Mục đích chính của bài viết này là phát triển mô hình phân loại các công ty
công nghiệp thất bại cho Vương quốc Anh, bằng cách sử dụng hai kỹ thuật phân
tích logit và mạng thần kinh (Neural Networks). Bộ dữ liệu bao gồm 51 cặp các
công ty công nghiệp thất bại và không thất bại ở Anh trong giai đoạn 1988 – 1997.
Mô hình dự báo được phát triển cho đến ba năm trước khi sự kiện thất bại xảy ra.
Kết quả cho thấy một mô hình bao gồm ba biến tài chính là khả năng sinh lời, dòng
tiền hoạt động và biến đòn bẩy tài chính có thể giải thích chính xác tổng thể 83%
khả năng thất bại công ty trước một năm. Mô hình của tác giả có thể hỗ trợ các nhà
quản lý, các cổ đông, các tổ chức tài chính, kiểm toán viên tại Anh dự báo khủng
hoảng tài chính.
Nghiên cứu của Ming Xu và Chu Zhang (2008) về “Dự báo phá sản:
trường hợp các công ty niêm yết Nhật Bản”. Bài nghiên cứu dự báo phá sản của
các công ty niêm yết ở Nhật Bản giai đoạn 1992 – 2005. Nhóm tác giả cho thấy
rằng các biện pháp truyền thống như chỉ số Zscore của Altman (1968), Oscore của
Ohlson (1980) và định giá quyền chọn trước đây được phát triển cho thị trường Mỹ,
cũng rất hữu ích cho thị trường Nhật Bản. Hơn nữa, sức mạnh dự báo mạnh đáng kể
khi các biện pháp này được kết hợp. Kết quả cho thấy dự báo phá sản dựa trên
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
19
phương pháp định giá quyền chọn thành công hơn các phương pháp dựa vào các
biến kế toán.
Nghiên cứu của Hay Sinh (2003) về ―Ước tính xác suất phá sản trong thẩm
định giá trị doanh nghiệp‖. Theo tác giả, xác suất phá sản là một tham số tài chính
có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị công ty. Tuy nhiên khi thẩm định giá bằng các
phương pháp thuộc cách tiếp cận dòng tiền, xác xuất phá sản chưa được ước tính là
một tham số độc lập mà thường được thể hiện trong tỉ suất chiết khấu. Trong khi đó,
phương pháp giá trị hiện tại có điều chỉnh (APV) đã có cách tiếp cận mới hơn khi
tách tác động biên của nợ vay và ước tính xác suất phá sản như một tham số độc
lập. Về ý tưởng, APV tỏ ra khá hiệu quả, nhưng tại Việt Nam, phương pháp này vẫn
chưa được thẩm định viên quan tâm vì vướng phải nhiều khó khăn trong việc ước
tính xác suất phá sản. Do đó, bài nghiên cứu của tác giả nhằm mục đích thiết lập các
phương pháp ước tính xác suất phá sản của một công ty để phương pháp giá trị hiện
tại có điều chỉnh (APV) ngày càng được áp dụng rộng rãi, góp phần làm đa dạng
hóa các phương pháp trong hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp tại Việt Nam
hiện nay. Tác giả đã đưa ra hai phương pháp ước tính xác suất phá sản của một
công ty là: (1) dựa vào chỉ số Z‖ điều chỉnh của Altman (1968) và (2) dựa vào hệ
thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ của các ngân hàng thương mạiTheo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành, đồng thời tác giả cũng thực hiện minh họa cho Công ty cổ phần Công nghiệp
Cao su Miền Nam – CASUMINA
2.2.3. Mô hình đầu tƣ và rủi ro phá sản công ty
Nghiên cứu của John K. Wald (2004) về “Thêm nhân tố phá sản vào mô
hình đầu tư”. Bài nghiên cứu bắt đầu bằng câu hỏi liệu rủi ro phá sản có tác động
đến hành vi đầu tư của công ty hay không. Nếu tác động của rủi ro phá sản lên đầu
tư là có ý nghĩa, thì các phát hiện thực nghiệm trước đó về tràng buộc thanh khoản
tác động lên đầu tư có thể bị thay thế bằng các phát hiện về rủi ro phá sản tác động
lên đầu tư. Tác giả đã mở rộng mô hình đầu tư BM của Bond và Meghir (1994)
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
20
bằng cách thêm vào nhân tố phá sản phá sản để làm sáng tỏ vấn đề này như sau: đặt ̃ là cổ tức tại thời điểm t, βt là tỷ suất chiết khấu tại thời điểm t, và ̃ là xác suất
công ty tồn tại từ thời điểm t-1 đến t. Tối đa hóa giá trị vốn cổ phần M0 bằng cách
chiết khấu giá trị dòng cổ tức của công ty, phương trình tối đa hóa giá trị công ty
được viết như sau:
∑ [∏ ̃ ] ̃
{ }
là các biến ngẫu nhiên. Xuất phát từ
Trong đó, xác suất tồn tại ̃ và cổ tức ̃
phương trình trên, Wald đã xây dựng mô hình hàm đầu tư có thêm yếu tố rủi ro phá
sản công ty như sau:
/ / / / / . . . . .
Trong đó, I: mức độ đầu tư của công ty i tại thời điểm t – là giá trị tăng thêm
toàn bộ tài sản cố định hữu hình của công ty, K: giá trị tài sản cố định hữu hình. Tài
sản cố định hữu hình là các tài sản sử dụng hơn một năm trong quá trình sản xuất,
Y: tổng doanh thu, M: giá trị thị trường vốn cổ phần trong một năm, d: cổ tức trong
một năm, E: vốn cổ phần (E = Mt-1 – dt-1), S: xác suất tồn tại công ty (S = 1 – POscore
, với POscore là xác suất phá sản được ước lượng từ mô hình dự báo phá sản của James A. Ohlson – 1980, POscore = [1+e-Oscore ]-1), và : hệ sồ hồi qui; vt là biến giả
mô tả sự tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô theo thời gian, ai là biến giả đặc
trưng công ty và ei,t là sai số. Bằng cách lấy 1 chia cho để ước lượng tốt hơn sự
tác động của rủi ro phá sản lên đầu tư, mô hình hàm đầu tư mới như sau:
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
21
/ / / / / . . . . .
Để ước lượng hai mô hình trên, tác giả sử dụng dữ liệu của các công ty Hoa
Kỳ giai đoạn 1969 đến 2003 với bốn kết quả ước lượng đạt được cho thấy tác động
của rủi ro phá sản lên hành vi đầu tư là có ý nghĩa (với mức ý nghĩa 1% cho ba mô
hình hồi quy và mức ý nghĩa 5% cho mô hình hồi quy còn lại), với hệ số hồi quy
biến đổi từ 0.242 đến 0.596. Ước lượng đồng thời rủi ro phá sản trong mô hình hồi
quy 1 và 3 cho thấy xác suất tồn tại tăng thêm 1% sẽ tương ứng với đầu tư tăng
thêm 7.4%. Hệ số hồi quy nhỏ hơn trong mô hình hồi quy 2 và 4 cho thấy đầu tư
tăng thêm 2.4% hoặc 5.2% sẽ làm tăng 1% xác suất tồn tại. Kết quả này đề nghị cơ
chế khác giữa việc đánh đổi giá trị công ty và lợi ích tấm chắn thuế từ việc vay nợ,
đó là công ty có lợi lớn hơn do tấm chắn thuế mang lại nhưng bớt đi lợi nhuận từ
các cơ hội đầu tư và do đó, Myers (1977) cho rằng vấn đề đầu tư dưới chuẩn xuất
hiện như là một nhân tố quan trọng trong quyết định đầu tư của công ty.
Nghiên cứu của Kai Kirchesch (2004) về “Rủi ro tài chính, khả năng phá
sản, và hành vi đầu tư của công ty”. Bài nghiên cứu nổ lực mở rộng các nghiên
cứu trước đó về ràng buộc tài chính lên quyết định đầu tư bằng cách xây dựng mối
liên hệ giữa quyết định đầu tư và rủi ro tài chính công ty. Vì vậy, mục đích của bài
nghiên cứu là ước lượng thực nghiệm hàm đầu tư để giải thích một cách rõ ràng rủi
ro phá sản như là thước đo hoàn chỉnh cho rủi ro tài chính của công ty. Do đó,
những rủi ro phá sản được giới thiệu trong các lý thuyết đầu tư cổ điển thay đổi tính
toán việc tối đa hóa lợi nhuận công ty mà doanh thu tương lai mong đợi sẽ bị đặt
nặng với xác suất tồn tại công ty. Kết quả xây dựng hàm đầu tư chứa đựng xác suất
tồn tại công ty sẽ được kiểm tra qua dữ liệu bảng cân đối kế toán của các công ty
Đức trong giai đoạn 1987 đến 1998 bằng các phương pháp ước lượng OLS, FE,
WITHIN, và GMM. Các công ty được phân loại theo quy mô được đo lường bằng
doanh thu.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
22
Mô hình hành vi đầu tư công ty với thông tin bất cân xứng và rủi ro tài chính
là tối đa hóa thu nhập công ty trước thuế và lãi vay (EBIT) được định nghĩa như là
doanh thu từ việc sản xuất hàng hóa dịch vụ trừ đi chi phí lao động và chi phí sử
dụng vốn điều chỉnh như sau:
EBITi
t = pi
tF(Ki
t, Li
t) – wtLi
t – ptG(Ii
t, Ki
t)
t) làm hàm doanh thu theo các yếu tố đầu vào là vốn K và
t, Li lao động L của công ty i tại thời điểm t, G(Ii
t, Ki
t) là hàm chi phí sử dụng vốn điều
Trong đó, F(Ki
chỉnh theo đầu tư I và vốn K của công ty i tại thời điểm t, wt là tỷ lệ tiền lương đồng
nhất cho tất cả công ty và pt là giá hàng hóa và dịch vụ đầu ra. Xuất phát từ phương
trình trên, Kai Kirchesch đã xây dựng mô hình hàm hành vi đầu tư có thêm yếu tố
/ . . /
/ . ) . ( /
/ . .
/
xác suất tồn tại công ty như sau:
Trong đó, I: mức độ đầu tư mới của công ty i tại thời điểm t – là giá trị tăng
thêm toàn bộ tài sản cố định của công ty, K: giá trị tài sản cố định – tài sản cố định
là các tài sản sử dụng hơn một năm trong quá trình sản xuất, C: dòng tiền, bằng
khấu hao tài sản cố định cộng với lợi nhuận hoạt động trước thuế, lãi vay và cổ tức
ưu đãi, Y: tổng doanh thu, B: tổng nợ vay dài hạn, D: cổ tức (bằng thu nhập ròng
trừ thu nhập giữ lại), S: xác suất tồn tại được tính như sau: S = 1 – POscore với POscore
là xác suất phá sản công ty được ước lượng từ mô hình dự báo phá sản của James A. Ohlson (1980): POscore = [1+e-Oscore ]-1, và : hệ sồ hồi qui.
Kết quả ước lượng cho thấy, hệ số hồi quy của các biến chỉ số đầu tư (α1) và
đầu tư bình phương (α2) có những tín hiệu mong đợi, giá trị của chúng phù hợp với
những nghiên cứu trước đó. Giá trị cao hơn của các biến tỷ số đầu tư này của các
công ty lớn có thể chỉ ra rằng công ty đầu tư liên tục làm gia tăng quy mô công ty,
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
23
trong khi đó các công ty nhỏ có xu hướng đầu tư gián đoạn. Hệ số sản lượng đầu ra
(α3) của tất cả các công ty hiển thị giá trị dương. Sự tác động của chi phí lao động
lên đầu tư (α4) thể hiện giá trị dương đã chứng minh là có ý nghĩa và cao hơn đối
với các công ty lớn hơn. Hệ số của biến tỷ số nợ (α5) thể hiện giá trị âm cho thấy
mối quan hệ nghịch giữa tài trợ nợ và đầu tư, thường giá trị α5 cao hơn hoặc với
mức ý nghĩa cao hơn của các công ty nhỏ là biểu hiện xấu cho vấn đề thông tin trên
thị trường vốn đối với các công ty này. Hệ số α6 rất nhỏ và không có ý nghĩa. Hệ số
α7 mô tả sự tác động của rủi ro tài chính thể hiện xác suất phá sản công ty lên hành
vi đầu tư. Trong khi mô hình không cung cấp mối quan hệ rõ ràng giữa xác suất phá
sản công ty và mức độ đầu tư mà nó giả định rằng mối quan hệ này là nghịch tương
ứng với sự tác động thuận của xác suất tồn tại lên đầu tư. Cuối cùng, tác giả kết luận
xác suất tồn tại là thước đo của các mô hình dự báo phá sản là phù hợp để giải thích
mối quan hệ giữa đầu tư và rủi ro tài chính công ty. Kết quả cho thấy có một số
nhóm công ty có độ nhạy cảm đầu tư cao với xác suất tồn tại hơn những nhóm công
ty khác.
Tóm lại, qua các nghiên cứu đã thực hiện trước đây đã cho thấy rằng: có sự
tồn tại các nhân tố tài chính tác động đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản công
ty, cũng như mối quan hệ giữa quyết định đầu tư và rủi ro phá sản ở những mức độ
khác nhau tương ứng với những quốc gia khác nhau và các thời kỳ khác nhau. Từ
những nghiên cứu này, người viết tiến hành lựa chọn mô hình nghiên cứu dựa trên
tính phổ biến và khả năng thu nhập dữ liệu cho mô hình để thực hiện các nghiên
cứu cho Việt Nam. Theo đó, người viết chọn ba mô hình nghiên cứu sau:
Thứ nhất, mô hình đầu tư và chính sách tài chính của công ty của Stephen
Bond và Costas Meghir (1993), để trả lời cho câu hỏi về các nhân tố tác động đến
quyết định đầu tư của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ hai, mô hình dự báo phá sản của James A.Ohlson (1980), để trả lời cho
câu hỏi về các nhân tố tác động đến rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
24
Thứ ba, mô hình đầu tư có thêm nhân tố phá sản của John K. Wald (2004),
để trả lời cho câu hỏi về mối quan hệ giữa quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2003 –
2012, đồng thời nghiên cứu sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008 đến mối quan hệ này.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
25
3. THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ VÀ KHẢ NĂNG PHÁ SẢN CÁC CÔNG TY
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 bắt nguồn từ khủng hoảng cho vay tín
dụng nhà đất dưới chuẩn tại Mỹ (tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản
không đủ đảm bảo trả nợ) vào tháng 7 năm 2007 và lên tới đỉnh điểm vào tháng 10
năm 2008, lan sang thị trường tài chính và rồi tới kinh tế toàn cầu, khi một loạt định
chế tài chính lớn của Mỹ bị phá sản hay đứng trước bờ vực phá sản như hai tổ chức
cho vay thế chấp lớn của Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac bị quốc hữu hóa vào
ngày 07/09/2008. Sau đó, lần lượt Lehman Brothers, Washington Mutual tuyên bố
phá sản, Merill Lynch bị Bank of America mua lại, còn AIG phải nhận hàng chục tỷ
USD cứu trợ từ Chính phủ Mỹ. Trong năm 2009, có 140 ngân hàng ở Mỹ bị phá
sản, GDP nước này cũng tăng trưởng âm 2,8%. Hai tập đoàn sản xuất ôtô lớn là
General Motors (GM) và Chrysler nộp đơn xin bảo hộ phá sản trong cùng năm đó.
Cuộc chiến nâng trần nợ công năm 2011 còn khiến Mỹ lần đầu tiên bị hạ xếp hạng
tín nhiệm. Cuộc khủng hoảng đã đẩy nền kinh tế thế giới rơi vào cuộc suy thoái
trầm trọng nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, đã làm chao đảo thị trường chứng
khoán toàn cầu, tỷ giá biến động, tổng cầu suy giảm dẫn tới giảm sản lượng sản
xuất công nghiệp, thương mại quốc tế, dòng vốn đầu tư quốc tế, và tiêu dùng. Tốc
độ tăng GDP toàn cầu giảm mạnh và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Tại Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và có xu hướng giảm, tình
trạng bất ổn kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ giảm, rủi ro
hệ thống tài chính ngân hàng gia tăng và sức mua kém, cụ thể như sau:
Giai đoạn 2002 - 2007, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt
7,8%. Với việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tốc độ
tăng trưởng GDP lên tới gần 8,5%. Khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra từ năm
2008, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
26
luôn thấp hơn 7% và có xu hướng giảm, năm 2012 chỉ đạt 5,03%, chưa bằng hai
phần ba so với mức trước khi khủng hoảng.
Vấn đề kiểm soát lạm phát, đỉnh điểm của lạm phát là năm 2008 lên tới gần
20% và duy trì ở hai con số năm 2010 và 2011 đã ảnh hưởng xấu đến môi trường
kinh doanh tại Việt Nam và giá trị tiền đồng. Từ năm 2012, Chính phủ thực hiện
chính sách thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng
đã giảm về một con số, nhưng những hệ quả như tăng trưởng tín dụng thấp, vốn đầu
tư toàn xã hội suy giảm. Ngoài ra lạm phát thấp trong thời gian qua chủ yếu do sức
cầu kiệt quệ, rủi ro tăng giá vẫn luôn hiện hữu.
Vốn đầu tư toàn xã hội giảm, chính sách thắt chặt đầu tư công để kiểm soát
lạm phát dẫn tới tỷ lệ đầu tư trên GDP liên tục suy giảm 3 năm qua, xuống dưới
30% GDP trong nửa đầu năm 2013 so với mức trên 40% GDP trước đó. Các giải
pháp đưa ra thời gian qua như giãn, giảm thuế, cho vay hỗ trợ mua nhà, hay ngay cả
chương trình xử lý nợ xấu của Công ty VAMC vẫn chưa thấy tác dụng.
Sản xuất công nghiệp giảm dần do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
sức mua trong nước và nhu cầu xuất khẩu giảm, tồn kho lớn. Đến năm 2012, tăng
trưởng nhóm ngành công nghiệp thấp khi chỉ số sản xuất công nghiệp tăng dưới 5%.
Nhiều ngành công nghiệp chủ chốt như khai khoáng, chế tạo, sắt thép gặp khó khăn,
thể hiện qua những con số tồn kho cao của toàn ngành. Chính phủ đã phải đưa ra
nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng như hạ lãi suất, tạo điều
kiện giảm hàng tồn kho cho doanh nghiệp... do đó, sản xuất công nghiệp của Việt
Nam 8 tháng đầu năm 2013 đã tăng nhẹ, song vẫn còn ở mức rất thấp.
Khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong những năm
kinh tế thế giới biến động đã giảm sút rất rõ rệt. Từ mức gần 72 tỷ USD năm 2008,
đến nay trung bình chỉ còn khoảng 13 tỷ USD mỗi năm. Bên cạnh đó, những trở
ngại lớn trong việc thu hút đầu ngày càng bộc lộ như chất lượng lao động thấp,
chính sách thu hút đầu tư còn nhiều điểm hạn chế.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
27
Sức mua trên thị trường suy yếu và số lượng công ty giải thể hay phá sản
tăng lên. Trước khủng hoảng kinh tế, tổng mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tăng
mạnh và đạt tới 31%, nhưng khi tăng trưởng kinh tế suy giảm và thị trường xuất
khẩu bị thu hẹp, tốc độ tăng chỉ tiêu này liên tục giảm từ năm 2010 đến nay, nó
phản ánh sức cầu ngày càng giảm và khó khăn lớn nhất của các công ty lúc này
không còn là vấn đề lãi suất mà là sức mua của thị trường. Từ năm 2010, số lượng
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới lần đầu tiên có xu hướng giảm trong khi số
lượng doanh nghiệp phá sản hay giải thể tăng lên.
Trên thị trường chứng khoán, tính thanh khoản thị trường kém, chỉ số VN-
index giảm liên tục và xuống dưới mức 350 điểm. Thị trường bất động sản – xây
dựng – vật liệu xây dựng gặp rất nhiều khó khăn như hàng tồn kho quá lớn, nợ vay
tăng mạnh, tính thanh khoản thị trường thấp. Trong khi đó, sức mua trên thị trường
hàng tiêu dùng kém, có xu hướng giảm, và các công ty hoạt động trên thị trường
này khó tiếp cận với nguồn tín dụng để phát triển sản xuất.
3.2. Thực trạng đầu tƣ và khả năng phá sản các công ty niêm yết trên thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012
Dựa trên hệ thống phân ngành ICB (Industry classification benchmark), là hệ
thống phân ngành phát triển bởi Dow Jones và FTSE, được phát triển và đưa vào áp
dụng từ năm 2006 với 10 nhóm ngành lớn, 19 nhóm ngành, 41 ngành và 114 phân
ngành nhỏ, người viết tiến hành phân loại 737 công ty được khảo sát thành ba nhóm
ngành lớn là: nhóm ngành Tài chính, nhóm ngành Công nghiệp và nhóm ngành
Hàng tiêu dùng. Từ ba nhóm ngành lớn này, người viết tiếp tục phân loại thành năm
ngành để nghiên cứu là: ngành Chứng khoán và ngành Bất động sản, thuộc nhóm
ngành Tài chính; ngành Xây dựng và Vật liệu xây dựng thuộc nhóm ngành Công
nghiệp; ngành Thực phẩm và Đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình
thuộc nhóm ngành Hàng tiêu dùng. Người viết đã thực hiện phân tích thống kê số
liệu các chỉ tiêu kế toán cấu thành các nhân tố trong các mô hình nghiên cứu để
đánh giá về thực trạng các công ty niêm yết theo thời gian từ năm 2003 đến năm
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
28
2012 và theo từng ngành, trong đó chi tiết theo từng thời kỳ trước và sau khủng
hoảng tài chính năm 2008.
Dữ liệu khảo sát được trình bày trong bảng 4.1 và bảng 4.2 – phụ lục 4, các
biểu đồ 4.1, 4.2 và 4.3 – phụ lục 1, cho thấy số lượng công ty niêm yết tăng dần
theo thời gian và cao nhất là năm 2010, sau đó giảm nhẹ dần do sự tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Toàn bộ mẫu khảo sát có 737 công ty niêm yết,
trong đó có 91 công ty bị hủy niêm yết theo nghị định số 58/2012/NĐ-CP của
Chính phủ, tỷ lệ bị hủy niêm yết toàn bộ mẫu là 12,35%. Số lượng công ty niêm yết
trước khủng hoảng tài chính là 427 công ty, số lượng công ty niêm yết sau khủng
hoảng và toàn bộ mẫu là 737 công ty. Số lượng công ty niêm yết của từng ngành
khảo sát trước và sau khủng hoảng là như nhau. Các công ty bị hủy niêm yết chủ
yếu xuất hiện ở giai đoạn sau khủng hoảng với 91 công ty khi mà nghị định số
58/2012/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực, trong khi đó, chỉ có duy nhất một công
ty thuộc ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng bị hủy niêm yết trước khủng hoảng
2008 nếu áp dụng nghị định số 58/2012/NĐ-CP của Chính phủ tại thời điểm đó,
chiếm tỷ lệ rất thấp là 0.51%.
Trong năm ngành khảo sát, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có số lượng
công ty niêm yết và bị hủy niêm yết cao nhất, gồm 196 công ty niêm yết và 33 bị
công ty hủy niêm yết, chiếm tỷ lệ 16,84% so với toàn ngành. Ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình có số lượng công ty niêm yết và bị hủy niêm yết thấp nhất,
gồm 24 công ty niêm yết và 2 công ty bị hủy niêm yết, chiếm tỷ lệ 8,33% so với
toàn ngành. Mặt khác, nếu xem xét về tỷ lệ bị hủy niêm yết, ngành Chứng khoán có
tỷ lệ bị hủy niêm yết cao nhất là 28,13%. Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình
có tỷ lệ hủy niêm yết thấp nhất là 8,33%. Trong năm ngành khảo sát, có bốn ngành
có tỷ lệ bị hủy niêm yết lớn hơn tỷ lệ hủy niêm yết toàn bộ mẫu và được sắp xếp
theo thứ tự tăng dần là: ngành Bất động sản (12,50%), ngành Thực phẩm – đồ uống
(15,38%), ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng (16,84%) và ngành Chứng khoán
(28,13%). Chỉ có một ngành có tỷ lệ bị hủy niêm yết nhỏ hơn so với tỷ lệ bị hủy
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
29
niêm yết toàn bộ mẫu là ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình. Các ngành khác
trong mẫu khảo sát có 356 công ty niêm yết và 29 công ty bị hủy niêm yết, tỷ lệ bị
hủy niêm yết là 8,15%, tỷ lệ này nhỏ hơn so với tỷ lệ bị hủy niêm yết toàn bộ mẫu.
Các kết quả thống kê được trình bày trong các biểu đồ ở phụ lục 1, từ biểu đồ
số 4.4 đến biểu đồ số 4.16, mô tả thực trạng đầu tư và khả năng phá sản các công ty
niêm yết, nó được thể hiện qua tình hình biến động các chỉ tiêu kế toán cấu thành
các nhân tố trong các mô hình nghiên cứu. Nhìn chung độ biến động của các chỉ
tiêu kế toán là lớn do một phần sự biến động số lượng các công ty niêm yết tăng
hàng năm trong mẫu khảo sát, cụ thể như sau:
Tình hình biến động tài sản cố định: Xem xét toàn bộ mẫu khảo sát, tổng
giá trị tài sản cố định lũy kế của các công ty niêm yết liên tục tăng hàng năm trước
khủng hoảng cũng như sau khủng hoảng, từ 50.574 triệu đồng năm 2003 (chỉ có hai
công ty niêm yết trong mẫu khảo sát) tăng lên đến 316.527.675 triệu đồng năm
2012 (có 692 công ty niêm yết trong mẫu khảo sát), giá trị trung bình lũy kế của
tổng tài sản cố định toàn bộ mẫu đạt 144.171.600 triệu đồng, có hai thời điểm giá trị
tổng tài sản lũy kế tăng mạnh, đó là trước khi khủng hoảng xảy ra, từ năm 2007 đến
2008, tốc độ tăng rất mạnh là 60,65%; và sau khi khủng hoảng xảy ra, từ năm 2009
đến 2010, tốc độ tăng 28,81%.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Xây dựng – Vật liệu xây
dựng có tổng giá trị lũy kế và tốc độ tăng tài sản cố định hàng năm vượt trội so với
bốn ngành còn lại trong mẫu khảo sát, kế đến là ngành Thực phẩm – đồ uống và
ngành Bất động sản. Hai ngành còn lại là Chứng khoán và Hàng tiêu dùng cá nhân
– gia đình có tổng giá trị lũy kế và tốc độ tăng tài sản cố định hàng năm nhỏ hơn rất
nhiều. Cụ thể như sau: giá trị trung bình tổng tài sản lũy kế của ngành Xây dựng –
Vật liệu xây dựng từ năm 2003 đến 2012 bao gồm 196 công ty niêm yết đạt mức
cao nhất là 31.698.864 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 21,98% so với giá trị trung bình tổng
tài sản lũy kế toàn bộ mẫu khảo sát. Xếp thứ hai là ngành Bất động sản với tỷ lệ
11,06%, thứ ba là ngành Thực phẩm – đồ uống với tỷ lệ 9,88%. Hai ngành còn lại là
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
30
Chứng khoán và Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình chiếm tỷ lệ rất thấp, lần lượt là
2,12% và 0,95%.
Tình hình biến động đầu tư mới tài sản cố định: giá trị đầu tư mới tài sản
cố định của toàn bộ mẫu khảo sát có xu hướng tăng mạnh từ năm 2004 đến 2010,
sau đó có xu hướng giảm mạnh từ năm 2010 đến 2012. Giá trị trung bình đầu tư
mới tài sản cố định toàn giai đoạn đạt 25.099.096 triệu đồng và cao nhất là
59.264.257 triệu đồng vào năm 2010. Có hai lần tăng mạnh đầu tư mới tài sản cố
định là: trước khi khủng hoảng xảy ra từ năm 2007 đến 2008 tăng cực mạnh với
159,83%, và ngay sau khi khủng khoảng xảy ra từ năm 2008 đến 2010 tiếp tục tăng
mạnh với 54,97%. Sau ba năm xảy ra cuộc khủng hoảng, nó đã tác động đến hoạt
động đầu tư mới tài sản cố định, giá trị đầu tư mới tài sản cố định của toàn bộ mẫu
đạt cao nhất năm 2010 và đã giảm liên tục hai năm sau đó, từ năm 2010 đến 2011
giảm xuống còn 42.528.827 triệu đồng, và năm 2012 tiếp tục giảm còn 26.305.085
triệu, tốc độ giảm lần lượt là 28,23% và 38,15%.
Ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có sự biến động mạnh nhất trong năm
ngành khảo sát về giá trị và tốc độ thay đổi đầu tư mới trước và sau ba năm xảy ra
khủng hoảng kinh tế, giá trị trung bình đầu tư mới tài sản cố định của toàn ngành
đạt 5.108.080 triệu đồng, chiếm 20,35% giá trị trung bình đầu tư mới tài sản cố định
của toàn bộ mẫu. Giá trị đầu tư mới tài sản cố định của ngành này tăng mạnh từ
năm 2007 đạt 2.708.730 triệu đồng, đến năm 2008 đạt 7.592.380 triệu đồng, tăng
180,29%. Sau khi khủng hoảng xảy ra, giá trị đầu tư mới tài sản cố định của nó tiếp
tục tăng mạnh từ 8.254.499 triệu đồng năm 2009 lên cao nhất là 15.909.903 triệu
đồng năm 2010, tăng 92,74%, sau đó giảm mạnh liên tục ba năm liên tiếp từ năm
2010 đến 2012, tốc độ giảm trung bình là 64,56%. Trong khi đó, ngành Bất động
sản và ngành Thực phẩm – Đồ uống cũng có sự biến động phức tạp, tuy nhiên mức
độ biến động và giá tri đầu tư mới thấp hơn ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng.
Giá trị trung bình đầu tư mới tài sản cố định của hai ngành này lần lượt là 4.058.954
triệu đồng và 3.879.597 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 16,17% và 15,46% giá trị trung bình
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
31
đầu tư mới tài sản cố định của toàn bộ mẫu. Hai ngành còn lại là ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình có mức độ biến động ổn định và giá trị đầu tư tài sản cố
định mới thấp nhất; ngành Chứng khoán cũng có những biến động tương tự nhưng
có sự biến động tăng mạnh đầu tư mới vào năm 2009 và chỉ đạt cao nhất 1.955.074
triệu đồng.
Tình hình biến động dòng tiền: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho
thấy: dòng tiền tăng liên tục trước khủng hoảng cũng như sau khủng hoảng và đạt
cao nhất năm 2011 là 100.725.148 triệu đồng, sau đó giảm năm 2012, giá trị trung
bình dòng tiền cho toàn giai đoạn khảo sát đạt 53.909.846 triệu đồng, tốc độ tăng
dòng tiền bình quân là 46,11%. Trong đó, giai đoạn 2005 – 2006 đặc biệt tăng mạnh
đạt 198,66% và giai đoạn 2011 – 2012 giảm 6,22%. Tốc độ tăng dòng tiền toàn bộ
mẫu lớn là một phần do số lượng các công ty niêm yết tăng hàng năm trong mẫu
khảo sát.
Ngành Thực phẩm – đồ uống có giá trị dòng tiền và sự biến động tăng cực
mạnh ở trước thời điểm khủng hoảng xảy ra, năm 2005 giá trị tổng dòng tiền của
ngành là 1.456.538 triệu đồng, đến năm 2008 đạt 23.454.575 triệu đồng và sau đó
một năm đạt giá trị cao nhất trong giai đoạn khảo sát là 24.347.752 triệu đồng, tốc
độ tăng trung bình là 23,51%. Sau khi khủng hoảng xảy ra, từ năm 2009 dòng tiền
của ngành này giảm mạnh từ 24.347.752 triệu đồng xuống còn 10.230.558 triệu
đồng năm 2010 và sau đó có xung hướng tăng dần và đạt 13.299.554 triệu đồng
năm 2012 nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với giai đoạn trước khủng hoảng, tốc độ
giảm trung bình là 9,82%. Giá trị trung bình của dòng tiền trong giai đoạn khảo sát
là 11.585.371 triệu đồng, chiếm 21,49% so với toàn bộ mẫu.
Ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Bất động sản cũng có giá trị
dòng tiền và sự biến động tăng mạnh ở trước thời điểm khủng hoảng xảy ra nhưng
mức độ nhấp hơn so với ngành Thực phẩm – Đồ uống và cao hơn hai ngành Chứng
khoán và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình. Giá trị trung bình dòng tiền của
hai ngành lần lượt là 5.651.043 triệu đồng và 4.886.376 triệu đồng, chiếm tỷ lệ
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
32
tương ứng là 10,48% và 9,06% giá trị trung bình dòng tiền của toàn bộ mẫu. Xu
hướng biến động tăng dòng tiền tiếp tục duy trì sau khủng hoảng, ngành Bất động
sản đạt cao nhất là 12.541.368 triệu đồng vào năm 2010 và ngành Xây dựng – Vật
liệu xây dựng đạt cao nhất là 12.013.626 triệu đồng vào năm 2011, sau đó cả hai
ngành đều có xu hướng giảm dần.
Dòng tiền của ngành Chứng khoán có những biến động phức tạp và có
những lúc bị âm, cụ thể là dòng tiền tăng năm 2007, giảm mạnh năm 2008 và bị âm
1.646.054 triệu đồng, sau đó tăng mạnh năm 2009 đạt giá trị cao nhất là 3.315.368
triệu đồng, rồi giảm liên tiếp hai năm 2010 và bị âm năm 2011 là 2.642.653 triệu
đồng. Giá trị trung bình dòng tiền của ngành chỉ đạt 417.137 triệu đồng và chiếm tỷ
lệ 0,77% giá trị trung bình dòng tiền của toàn bộ mẫu khảo sát. Trong khi đó, ngành
Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có sự biến động dòng tiền ổn định và có xu
hướng tăng nhẹ trước năm 2011, đạt giá trị cao nhất là 2.104.438 triệu đồng vào
năm 2011 và giảm nhẹ năm sau đó, giá trị trung bình dòng tiền đạt 1.226.418 triệu
đồng, chỉ chiếm tỷ lệ 2,27% giá trị trung bình dòng tiền của toàn bộ mẫu khảo sát.
Tình hình biến động doanh thu: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho
thấy: doanh thu tăng liên tục trước và sau ba năm khủng hoảng kinh tế xảy ra, sau
đó giảm dần. Giá trị trung bình doanh thu đạt 433.278.573 triệu đồng và đạt cao
nhất là 965.742.169 triệu đồng vào năm 2011, tốc độ tăng doanh thu bình quân là
37,04% và giảm 4,65% vào năm 2012. Tốc độ tăng doanh thu toàn bộ mẫu lớn là
một phần do số lượng các công ty niêm yết tăng hàng năm trong mẫu khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Xây dựng – Vật liệu xây
dựng có tổng doanh thu toàn ngành và tốc độ tăng trưởng mạnh nhất. Năm 2005
tổng doanh thu của ngành là 14.982.837 triệu đồng, tăng liên tục trước cũng như sau
khủng hoảng, đạt tối đa 132.180.581 triệu đồng vào năm 2011, và giảm năm 2012
còn 119.021.777 triệu đồng. Giá trị trung bình doanh thu của ngành đạt 60.698.947
triệu đồng, chiếm tỷ lệ 14,00% giá trị trung bình doanh thu của toàn bộ mẫu và tốc
độ trung bình tăng trưởng doanh thu là 37,66%%. Xếp thứ hai về tổng doanh thu và
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
33
tăng trưởng doanh thu là ngành Thực phẩm – Đồ uống, cũng có những biến động
tương tự như ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng nhưng mức độ thấp hơn. Giá trị
trung bình doanh thu của ngành này đạt 54.374.965,1triệu đồng, chiếm tỷ lệ 12,54%
giá trị trung bình doanh thu của toàn bộ mẫu và tốc độ trung bình tăng trưởng doanh
thu là 30,56%.
Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình và ngành Bất động sản có tổng
doanh thu toàn ngành và tốc độ tăng trưởng thấp hơn ngành Thực phẩm – Đồ uống
nhưng cao hơn ngành Chứng khoán. Giá trị trung bình doanh thu của hai ngành này
lần lượt là 18.947.635,88 triệu đồng và 18.814.338,38 triệu đồng, chiếm tỷ lệ tương
ứng là 4,37% và 4,34% giá trị trung bình doanh thu của toàn bộ mẫu và tốc độ trung
bình tăng trưởng doanh thu tương ứng là 31,78% và 60,38%. Ngành Chứng khoán
có tổng doanh thu toàn ngành và tốc độ tăng trưởng thấp nhất, giá trị trung bình
doanh thu của ngành này là 6.570.653,778 triệu đồng, đạt cao nhất là 15.114.740
triệu đồng vào năm 2010.
Tình hình biến động nợ dài hạn: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát
cho thấy: nợ dài hạn của toàn bộ mẫu liên tục tăng trước và ba năm sau khủng
hoảng, và đạt cao nhất năm 2011 là 451.633.557 triệu đồng, sau đó giảm năm 2012,
giá trị trung bình nợ dài hạn cho toàn giai đoạn khảo sát đạt 177.384.732 triệu đồng,
tốc độ tăng nợ dài hạn bình quân là 63,96%, đặc biệt có hai lần tăng mạnh trong
giai đoạn sau khủng hoảng là giai đoạn 2008 – 2009 tăng 91,53% và giai đoạn 2010
– 2011 tăng 31,11%. Tốc độ tăng nợ dài hạn toàn bộ mẫu lớn là một phần do số
lượng các công ty niêm yết tăng mạnh ở một số năm trong mẫu khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, nợ dài hạn của ba ngành Xây
dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Bất động sản và ngành Chứng khoán liên tục tăng
mạnh ở giai đoạn trước cũng như sau khủng hoảng, đặc biệt ngành Bất động sản có
nợ dài hạn tăng vượt trội vào năm 2012 và cũng là ngành có nợ dài hạn bình quân
lớn nhất trong năm ngành khảo sát, xếp thứ hai là ngành Bất động sản và thứ ba là
ngành Chứng khoán. Giá trị trung bình nợ dài hạn của ba ngành này tương ứng là
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
34
26.212.274,5 triệu đồng, 24.537.071,63 triệu đồng và 16.450.575,63 triệu đồng,
chiếm tỷ lệ tương ứng là 14,78%, 13,83% và 9,27% so với nợ dài hạn trung bình
của toàn bộ mẫu. Ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có nợ dài hạn tăng liên tục
và giảm nhẹ ở năm cuối giai đoạn khảo sát. Trước khi khủng hoảng xảy ra, ngành
này có một lần tăng mạnh nợ dài hạn ngay năm 2008, đạt 47.74%. Sau khi khủng
hoảng xảy ra, ngành này tiếp tục có thêm một lần tăng mạnh nợ dài hạn năm 2010
là 31,03% và năm 2012 giảm nhẹ 2,35%. Tốc độ tăng nợ dài hạn trung bình là
62,97%, đạt cao nhất năm 2011 là 42.048.065 triệu đồng. Ngành Bất động sản có nợ
dài hạn tăng liên tục trong cả giai đoạn khảo sát và đạt cao nhất năm 2012 là
60.428.931 triệu đồng. Ngành Chứng khoán có biến động phức tạp hơn, tăng mạnh
năm 2006, giảm mạnh năm 2007, tăng liên tục bốn năm tiếp theo và đạt cao nhất ở
năm 2011 là 35.021.190 triệu đồng, qua năm 2012 giảm xuống còn 28.115.388 triệu
đồng.
Trong khi đó, ngành Thực phẩm – đồ uống có tổng nợ dài hạn rất thấp, trung
bình nợ dài hạn đạt 4.822.942,3 triệu đồng, chiếm 2,72% tổng nợ dài hạn của toàn
bộ mẫu, tốc độ gia tăng nợ là 64,78%, có xu hướng tăng dần từ năm 2009 đến 2012
và đạt cao nhất là 16.794.110 triệu đồng nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với nợ dài
hạn của ba ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành
Chứng khoán, điều này cho thấy nguồn vốn của nền kinh tế đã có sự chuyển hướng
phân bổ cho lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia
đình có tổng nợ dài hạn và tốc độ gia tăng nợ rất thấp và ổn định, trung bình nợ dài
hạn toàn ngành đạt 972.044,25 triệu đồng, chiếm 0,55% tổng nợ dài hạn của toàn bộ
mẫu, thấp hơn cả ngành Thực phẩm – đồ uống.
Như vậy, nguồn lực tài chính đã được phân bổ mạnh vào ba ngành Xây dựng
– Vật liệu xây dựng, ngành Bất động sản và ngành Chứng khoán hơn hai ngành còn
lại là ngành Thực phẩm – Đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình
trong giai đoạn khảo sát, nghĩa là các tổ chức tín dụng đã câp vốn cho ba ngành Bất
động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng khoán nhiều hơn
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
35
hai ngành còn lại là ngành Thực phẩm – Đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân
– gia đình, điều này làm thay đổi dòng chảy nguồn vốn của nền kinh tế, nó chảy vào
nhóm ngành tài chính và công nghiệp xây dựng nhiều hơn nhóm ngành sản xuất
kinh doanh, điều này đã tạo ra sự mất cân đối tín dụng trong nền kinh tế.
Tình hình biến động tổng tài sản: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát
cho thấy: tổng tài sản của toàn bộ mẫu liên tục tăng trước và sau khủng hoảng, và
đạt cao nhất năm 2012 là 2.797.620.739 triệu đồng, giá trị trung bình tổng tài sản
cho toàn giai đoạn khảo sát đạt 1.277.075.673 triệu đồng, đặc biệt tăng mạnh
31,98% ngay xảy ra khủng hoảng năm 2008 và tiếp tục tăng mạnh năm sau đó là
34,37%.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, tổng tài sản của ba ngành Bất
động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng khoán tăng liên tục
trong cả giai đoạn khảo sát, cũng như trước và sau khủng hoảng. Ngành Bất động
sản có tổng tài sản bình quân lớn nhất trong năm ngành khảo sát, xếp thứ hai là
ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và thứ ba là ngành Chứng khoán, giá trị trung
bình tổng tài sản của ba ngành này lần lượt là 96.837.673,63 triệu đồng,
91.880.136,8 triệu đồng và 75.602.045,89 triệu đồng, chiếm tỷ lệ tương ứng là
7,58%, 7,19% và 5,92% so với tổng tài sản trung bình của toàn bộ mẫu.Trong khi
đó, ngành Thực phẩm – đồ uống có tổng tài sản thấp hơn, trung bình tổng tài sản đạt
48.105.786,9 triệu đồng, chiếm 3,77% tổng tài sản toàn bộ mẫu, có xu hướng tăng
dần và đạt cao nhất là 121.094.166 triệu đồng năm 2012 nhưng vẫn thấp hơn rất
nhiều so với tổng tài sản của ba ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu
xây dựng và ngành Chứng khoán. Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có tổng
tài sản và tốc độ gia tài sản thấp và ổn định nhất, trung bình tổng tài sản toàn ngành
đạt 11.962.294,75 triệu đồng, chiếm 0,94% tổng tài sản toàn bộ mẫu, thấp hơn cả
ngành Thực phẩm – đồ uống và tốc độ tăng tài sản bình quân là 35,36%.
Tình hình biến động tổng nợ phải trả: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo
sát cho thấy: tổng nợ phải trả của toàn bộ mẫu liên tục tăng trước và sau khủng
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
36
hoảng, và đạt cao nhất năm 2011 là 2.248.921.875 triệu đồng, sau đó giảm nhẹ năm
2012, giá trị trung bình tổng nợ phải trả cho toàn giai đoạn khảo sát đạt
1.017.339.546 triệu đồng, đặc biệt tăng mạnh trong giai đoạn sau khủng hoảng,
mạnh nhất là giai đoạn 2008 – 2009 tăng 58,44%, qua năm 2012 giảm nhẹ 1,12%.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, tổng nợ phải trả của hai ngành
Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Bất động sản tăng liên tục trong cả giai
đoạn khảo sát. Ngành Xây dựng có tổng nợ phải trả bình quân lớn nhất trong năm
ngành khảo sát, xếp thứ hai là ngành Bất động sản và thứ ba là ngành Chứng khoán,
giá trị trung bình tổng nợ phải trả của ba ngành này tương ứng là 66.234.012,4 triệu
đồng, 57.533.711 triệu đồng và 56.475.670,33 triệu đồng, chiếm tỷ lệ tương ứng là
6,51%, 5,66% và 5,55% so với tổng nợ phải trả của trung bình của toàn bộ mẫu.
Trước khi khủng hoảng xảy ra, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có một lần
tăng mạnh tổng nợ phải trả ngay năm 2008, đạt 43,20%. Sau khi khủng hoảng xảy
ra, ngành này tiếp tục có thêm một lần tăng mạnh tổng nợ phải trả năm 2010 là
30,38% và năm 2012 tăng nhẹ 2,22%, đạt cao nhất năm 2012 là 42.048.065 triệu
đồng. Ngành Bất động sản có tổng nợ phải trả đạt cao nhất năm 2012 là
126.766.264 triệu đồng. Ngành Chứng khoán có biến động phức tạp hơn, tăng năm
2006, giảm năm 2007, tăng liên tục bốn năm tiếp theo và đạt cao nhất ở năm 2011
là 105.427.706 triệu đồng, qua năm 2012 giảm nhẹ 1,12% xuống còn 104.247.156
triệu đồng.
Trong khi đó, ngành Thực phẩm – đồ uống có tổng nợ phải trả thấp, trung
bình tổng nợ phải trả đạt 22.120.477,1 triệu đồng, chiếm 2,17% tổng nợ phải trả
toàn bộ mẫu, có xu hướng tăng dần và đạt cao nhất là 58.950.792 triệu đồng năm
2012 nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với tổng nợ phải trả của ba ngành Bất động
sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng khoán, điều này cho thấy
nguồn vốn của nền kinh tế đã có sự chuyển hướng phân bổ cho lĩnh vực sản xuất
hàng tiêu dùng. Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có tổng nợ phải trả và tốc
độ gia tăng nợ rất thấp và ổn định, trung bình tổng nợ phải trả toàn ngành đạt
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
37
6.650.894,5 triệu đồng, chiếm 0,65% tổng nợ phải trả toàn bộ mẫu, thấp hơn cả
ngành Thực phẩm – đồ uống.
Như vậy, cũng tương tự như sự biến động nợ dài hạn, tổng nợ phải trả đã cho
thấy nguồn lực tài chính đã được phân bổ mạnh vào ba ngành Bất động sản, ngành
Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng khoán hơn hai ngành còn lại là
ngành Thực phẩm – Đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình trong giai
đoạn khảo sát.
Tình hình biến động vốn lưu động: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát
cho thấy: vốn lưu động ổn định trước khi khủng hoảng xảy ra, khi khủng hoảng xảy
ra, vốn lưu động đã giảm cực mạnh và bị âm 78.732.613 triệu đồng vào năm 2008.
Sau khủng hoảng, vốn lưu động tăng mạnh và đạt cao nhất là 192.173.945 triệu
đồng vào năm 2011, sau đó giảm mạnh vào năm 2012 chỉ còn 102.428.188 triệu
đồng. Giá trị trung bình vốn lưu động của toàn bộ mẫu trong giai đoạn khảo đạt
56.438.243,5 triệu đồng.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Bất động sản có sự biến
động mạnh và giá trị vốn lưu động lớn nhất. Giá trị trung bình vốn lưu động của
ngành này là 25.997.182,5 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 46,06% so với vốn lưu động
trung bình của toàn bộ mẫu, đạt cao nhất 54.169.281 triệu đồng vào năm 2012. Sau
khủng hoảng tài chính có một đợt tăng mạnh vào năm 2010 với tốc độ tăng là
65,22%, sau đó giảm mạnh năm 2011 với tốc độ 17% so với năm trước và tăng
mạnh 33,32% năm 2012 .
Ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Thực phẩm – đồ uống có sự
biến động và giá trị vốn lưu động tăng liên tục từ năm 2006 đến 2010. Sang năm
2011, giá trị vốn lưu động của ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng giảm trong khi
ngành Thực phẩm – đồ uống tăng, đến năm 2012 giá trị vốn lưu động của cả hai
ngành này đều giảm. Giá trị trung bình vốn lưu động của cả hai ngành này lần lượt
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
38
là 6.975.693,2 triệu đồng và 9.440.581,2 triệu đồng, chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,36%
và 9,44% so với vốn lưu động trung bình của toàn bộ mẫu.
Ngành Chứng khoán có giá trị vốn lưu động tăng ổn định trước khủng hoảng,
sau khủng hoảng giảm năm 2009, tăng năm 2010, duy trì tương đối năm 2011 và
giảm năm 2012. Giá trị trung bình vốn lưu động của toàn ngành đạt 9.178.811.333
triệu đồng, chiếm tỷ lệ 16,26% so với vốn lưu động trung bình của toàn bộ mẫu.
Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có tổng tài sản và tốc độ gia tổng tài sản
rất thấp và ổn định, trung bình tổng vốn lưu động toàn ngành đạt 2.030.013,375
triệu đồng, chiếm 3,6% vốn lưu động toàn bộ mẫu.
Tình hình biến động nợ ngắn hạn: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát
cho thấy: nợ ngắn hạn của toàn bộ mẫu liên tục tăng trước và sau khủng hoảng, và
đạt cao nhất năm 2012 là 1.850.507.251 triệu đồng, giá trị trung bình nợ ngắn hạn
cho toàn giai đoạn khảo sát đạt 829.368.356,7 triệu đồng, đặc biệt tăng mạnh trong
giai đoạn sau khủng hoảng, mạnh nhất là giai đoạn 2009 – 2010 tăng 37,93%.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, nợ ngắn hạn của hai ngành Xây
dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Bất động sản tăng liên tục trong cả giai đoạn
khảo sát. Ngành Xây dựng có tổng nợ phải trả bình quân lớn nhất trong năm ngành
khảo sát, xếp thứ hai là ngành Chứng khoán và thứ ba là ngành Bất động sản, giá trị
trung bình nợ ngắn hạn của ba ngành này tương ứng là 45.263.181,2 triệu đồng,
41.852.936,44 triệu đồng và 32.996.639,25 triệu đồng, chiếm tỷ lệ tương ứng là
5,46%, 5,05% và 3,98% so với nợ ngắn hạn trung bình của toàn bộ mẫu. Ngành
Xây dựng – Vật liệu xây dựng có tốc độ nợ ngắn hạn tăng mạnh hàng năm, ngoại
trừ năm cuối giai đoạn khảo sát có tốc độ tăng giảm mạnh còn 4,15%, tốc độ tăng
nợ ngắn hạn bình quân đạt 45,96%. Ngành Bất động sản có nợ ngắn hạn đạt cao
nhất năm 2012 là 66.337.337 triệu đồng, tốc độ tăng nợ ngắn hạn bình quân đạt
62,07%. Ngành Chứng khoán có biến động phức tạp hơn, tăng năm 2006, giảm nhẹ
năm 2007, tăng liên tục ba năm tiếp theo, giảm năm 2011 và tăng cao nhất năm
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
39
2012 đạt 76.131.765 triệu đồng. Tốc độ tăng nợ ngắn hạn lớn là một phần do số
lượng các công ty niêm yết tăng mạnh ở một số năm trong mẫu khảo sát.
Trong khi đó, ngành Thực phẩm – đồ uống có nợ ngắn hạn thấp hơn, trung
bình tổng nợ phải trả đạt 17.296.858,3 triệu đồng, chiếm 2,09% tổng nợ ngắn hạn
toàn bộ mẫu, có xu hướng tăng dần và đạt cao nhất là 42.156.686 triệu đồng năm
2012 nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với nợ ngắn hạn của ba ngành Xây dựng –
Vật liệu xây dựng, ngành Chứng khoán và ngành Bất động sản, điều này cho thấy
nguồn vốn của nền kinh tế đã có sự chuyển hướng phân bổ cho lĩnh vực sản xuất
hàng tiêu dùng. Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có nợ ngắn hạn và tốc độ
gia tăng nợ rất thấp và ổn định, trung bình nợ ngắn hạn toàn ngành đạt 5.678.848.75
triệu đồng, chiếm 0,68% tổng nợ ngắn hạn toàn bộ mẫu, thấp hơn cả ngành Thực
phẩm – đồ uống.
Như vậy, cũng tương tự như sự biến động nợ dài hạn và tổng nợ phải trả, kết
quả thống kê nợ ngắn hạn đã cho thấy nguồn lực tài chính đã được phân bổ mạnh
vào ba ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng
khoán hơn hai ngành còn lại là ngành Thực phẩm – Đồ uống và ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình trong giai đoạn khảo sát.
Tình hình biến động tài sản ngắn hạn: kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo
sát cho thấy: tài sản ngắn hạn của toàn bộ mẫu liên tục tăng trước và sau khủng
hoảng, đạt cao nhất năm 2011 là 1.959.069.039 triệu đồng, sau đó giảm nhẹ năm
2012, giá trị trung bình tài sản ngắn hạn cho toàn giai đoạn khảo sát đạt
885.806.600,2 triệu đồng, tốc độ tăng tài sản ngắn hạn trung bình là 48,67%, đặc
biệt tăng mạnh trong giai đoạn sau khủng hoảng, mạnh nhất là giai đoạn 2008 –
2009 tăng 54,30%, qua năm 2012 giảm nhẹ 0.31%. Tốc độ tăng tài sản ngắn hạn
toàn bộ mẫu lớn là một phần do số lượng các công ty niêm yết tăng mạnh ở một số
năm trong mẫu khảo sát.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
40
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, tài sản ngắn hạn của hai ngành
Bất động sản và ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng tăng liên tục trong cả giai
đoạn khảo sát. Ngành Bất động sản có tài sản ngắn hạn bình quân lớn nhất trong
năm ngành khảo sát, xếp thứ hai là ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và thứ ba
là ngành Chứng khoán, giá trị trung bình tài sản ngắn hạn của ba ngành này lần lượt
là 58.993.821,75 triệu đồng, 52.238.874,4 triệu đồng và 51.031.747,78 triệu đồng,
chiếm tỷ lệ tương ứng là 6,66%, 5,9% và 5,76% so với tài sản ngắn hạn trung bình
của toàn bộ mẫu. Cả hai ngành Bất động sản và ngành Xây dựng – Vật liệu xây
dựng đều đạt giá trị tài sản ngắn hạn cao nhất vào năm 2012 lần lượt là 120.506.618
triệu đồng và 112.794.336 triệu đồng. Ngành Chứng khoán có sự biến động tài sản
ngắn hạn phức tạp hơn, tăng năm 2006, giảm năm 2007, tăng liên tục ba năm tiếp
theo và đạt cao nhất ở năm 2010 là 93.213.366 triệu đồng, sau đó giảm liên tiếp hai
năm tiêp theo với tốc độ là 4,82% năm 2011 và 2,61% năm 2012.
Trong khi đó, ngành Thực phẩm – đồ uống có tài sản ngắn hạn thấp hơn,
trung bình tài sản ngắn hạn toàn ngành đạt 26.737.439,5 triệu đồng, chiếm 3,02%
tài sản ngắn hạn toàn bộ mẫu, có xu hướng tăng dần và đạt cao nhất là 62.711.909
triệu đồng năm 2011 nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với tài sản ngắn hạn của ba
ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng khoán,
sau đó giảm 2,50% năm 2012. Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có tài sản
ngắn hạn và tốc độ gia tăng tài sản ngắn hạn thấp và ổn định, trung bình tài sản
ngắn hạn toàn ngành đạt 7.708.862,125 triệu đồng, chiếm 0,87% tài sản ngắn hạn
toàn bộ mẫu, thấp hơn cả ngành Thực phẩm – đồ uống.
Tình hình biến động thu nhập ròng: giá trị thu nhập ròng của toàn bộ mẫu
khảo sát có xu hướng tăng liên tục trước và sau hai năm khủng hoảng, đặt biệt tăng
mạnh năm 2009, đạt cao nhất năm 2010 là 77.926.720 triệu đồng. Sau ba năm xảy
ra cuộc khủng hoảng, nó đã tác động đến thu nhập ròng với sự giảm dần liên tục hai
năm 2010 và 2012, giá trị thu nhập ròng của toàn bộ mẫu đạt cao nhất năm 2010 và
đã giảm liên tục từ năm 2010 đến 2011 giảm xuống còn 70.649.076 triệu đồng, và
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
41
năm 2012 tiếp tục giảm còn 64.162.917 triệu đồng, tốc độ giảm lần lượt là 9,33% và
9,18%. Giá trị trung bình thu nhập ròng toàn giai đoạn đạt 37.104.723,2 triệu đồng.
Thu nhập ròng của hai ngành Bất động sản và ngành Xây dựng – Vật liệu
xây dựng có xu hướng tăng liên tục trước và sau hai năm khủng hoảng, đạt cao nhất
năm 2010 với giá trị thu nhập ròng lần lượt là 12,791,255 triệu đồng và 6,713,658
triệu đồng, sau đó tiếp tục giảm năm 2011 với giá trị thu nhập ròng còn lần lượt là
4,154,317 triệu đồng và 3,826,305 triệu đồng. Sang năm 2012 tiếp tục có sự giảm
mạnh thu nhập ròng của hai ngành này, ngành Bất động sản giảm còn 2.617.086
triệu đồng và ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng giảm mạnh còn 267.837 triệu
đồng. Giá trị trung bình thu nhập ròng của hai ngành này lần lượt là 4.565.122 triệu
đồng và 2.550.364,9 triệu đồng, xếp thứ hai và ba trong năm ngành khảo sát, và
chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,30% và 6,87% so với giá trị trung bình thu nhập ròng toàn
bộ mẫu.
Ngành Thực phẩm – đồ uống có sự biến động thu nhập ròng phức tạp, tăng
48,34% năm 2007, giảm 27,47% năm 2008, tăng hai năm liên tục sau đó và đạt cao
nhất 2011 là 10.686.499 triệu đồng, sau đó giảm nhẹ 2,32% năm 2012 còn
10.438.741 triệu đồng. Giá trị trung bình thu nhập ròng của ngành này là
5.932.327,125 triệu đồng, cao nhất trong năm ngành khảo sát, chiếm tỷ lệ lần lượt là
15,99% so với giá trị trung bình thu nhập ròng toàn bộ mẫu. Tương tự, ngành
Chứng khoán cũng có sự biến động về thu nhập ròng phức tạp, tăng 2007, giảm
mạnh và âm 2008 là 1.671.326 triệu đồng, tăng cực mạnh và đạt cao nhất 2009 là
4.100.704 triệu đồng, giảm liên tiếp hai năm 2010 và âm 2011 là -1.064.289 triệu
đồng, sau đó tăng 2012. Giá trị trung bình thu nhập ròng của ngành này là
984.489,625 triệu đồng, xếp thứ tư trong năm ngành khảo sát, chiếm tỷ lệ lần lượt là
2,65% so với giá trị trung bình thu nhập ròng toàn bộ mẫu. Ngành Hàng tiêu dùng
cá nhân – gia đình có thu nhập ròng và tốc độ gia tăng thu nhập ròng thấp và ổn
định, trung bình thu nhập ròng toàn ngành xếp thấp nhất trong năm ngành khảo sát,
đạt 811.208,875 triệu đồng, chiếm 2,19% thu nhập ròng toàn bộ mẫu, giảm 2012.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
42
Tình hình biến động quỹ được lập từ hoạt động: quỹ lập từ hoạt động của
toàn bộ mẫu được trích lập thấp giai đoạn trước khủng hoảng 2006 – 2007. Khi
khủng hoảng xảy ra năm 2008, quỹ lập từ hoạt động được trích lập mạnh và đạt cao
nhất năm 2009 là 3.309.910 triệu đồng, sau đó giảm mạnh và có xu hướng giảm dần
từ năm 2010 đến 2012. Giá trị trung bình quỹ lập từ hoạt động là 780.523,1 triệu
đồng. Cả bốn ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – đồ uống,
ngành Bất động sản, và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có sự biến động
quỹ lập từ hoạt động tương tự toàn bộ mẫu. Giá trị trung bình quỹ lập từ hoạt động
của bốn ngành này được xếp theo thứ tự giảm dần lần lượt là 248.718,50 triệu đồng,
79.678,70 triệu đồng, 52.188,50 triệu đồng và 28.423,75 triệu đồng, chiếm tỷ lệ lần
lượt là 31,78%, 10,21%, 6,69% và 3,64% so với trung bình quỹ lập từ hoạt động
của toàn bộ mẫu.
Tình hình biến động tổng vốn chủ sỡ hữu: kết quả thống kê toàn bộ mẫu
khảo sát cho thấy: tổng vốn chủ sỡ hữu của toàn bộ mẫu liên tục tăng trước và sau
khủng hoảng, và đạt cao nhất năm 2012 là 531.970.560 triệu đồng, giá trị trung
bình tổng vốn chủ sở hữu cho toàn giai đoạn khảo sát đạt 245.317.935,1 triệu đồng,
tốc độ tăng trung bình là 46,73%, tăng mạnh trong giai đoạn sau khủng hoảng là
31,88% vào năm 2010.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, tổng vốn chủ sở hữu của bốn
ngành Bất động sản, ngành Thực phẩm – đồ uống, ngành Xây dựng – Vật liệu xây
dựng và ngành Chứng khoán tăng liên tục trước và sau hai năm khủng hoảng.
Ngành Bất động sản có tổng vốn chủ sở hữu bình quân lớn nhất trong năm ngành
khảo sát, xếp thứ hai là ngành Thực phẩm – đồ uống, thứ ba là ngành Xây dựng –
Vật liệu xây dựng và thứ tư là ngành Chứng khoán, giá trị trung bình tổng vốn chủ
sở hữu của bốn ngành này lần lượt là 36754395.88 triệu đồng, 24293682.9 triệu
đồng, 23299734.5 triệu đồng và 18584214.78 triệu đồng, chiếm tỷ lệ lần lượt là
14,98%, 9,90%, 9,50% và 7,58% so với tổng vốn chủ sở hữu trung bình của toàn bộ
mẫu.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
43
Cả ba ngành Bất động sản, ngành Thực phẩm – đồ uống và ngành Xây dựng
– Vật liệu xây dựng đều có xu hướng tiếp tục tăng sau năm 2010 và đạt giá trị tổng
vốn chủ sở hữu cao nhất vào năm 2012 lần lượt là 68.322.417 triệu đồng,
55.758.194 triệu đồng và 47.059.194 triệu đồng. Trong khi đó, ngành Chứng khoán
có xu hướng giảm tổng vốn chủ sở hữu sau năm 2010, giảm liên tiếp hai năm là
5,33% năm 2011 và 3,36% năm 2012.
Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có tổng vốn chủ sở hữu và tốc độ
gia tăng tổng vốn chủ sở hữu thấp và ổn định, trung bình tổng vốn chủ sở hữu toàn
ngành đạt 5.236.539,125 triệu đồng, thấp nhất trong năm ngành khảo sát, chiếm
2,13% tổng vốn chủ sở hữu toàn bộ mẫu.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
44
4. NGUỒN DỮ LIỆU, PHƢƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn dữ liệu và chọn mẫu
Sau khi nghiên cứu các bài nghiên cứu trước đây của các tác giả trong và
ngoài nước, người viết đã tiến hành lựa chọn các mô hình nghiên cứu. Từ các mô
hình nghiên cứu được chọn này, người viết tiến hành thu thập dư liệu nghiên cứu.
Nguồn dữ liệu lấy từ hệ thống báo cáo tài chính đã kiểm toán của các công ty
đã niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (sàn HOSE và HNX) từ năm
2003 đến 2012 gồm 744 công ty được chia thành 20 nhóm ngành nghề, bao gồm
các công ty tài chính và phi tài chính. Tuy nhiên, dữ liệu thu thập và tập hợp không
đầy đủ cho tất cả các năm của các công ty trong mẫu khảo sát.
Mẫu được chọn từ nguồn dữ liệu này bao gồm 737 công ty và phân chia
thành năm ngành để nghiên cứu chi tiết là: ngành Chứng khoán, ngành Bất động
sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – đồ uống và ngành
Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình. Ý nghĩa của việc chọn năm ngành kinh tế này là
do đây là những ngành kinh tế thiết yếu, quan trọng, có những biến động phức tạp
và tác động mạnh đến toàn nền kinh tế trong giai đoạn nghiên cứu. Mục đích của sự
phân chia này là nhằm nghiên cứu các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư và rủi
ro phá sản công ty giữa các ngành được chọn và toàn bộ mẫu khảo sát, cũng như sự
phân bổ nguồn lực tài chính và khả năng tác động của nhân tố rủi ro phá sản đến
hành vi đầu tư mới của các công ty giữa các ngành với nhau, và so sánh với toàn bộ
mẫu. Bên cạnh việc phân loại theo ngành, người viết cũng phân loại mẫu khảo sát
theo thời gian, tương ứng với hai thời kỳ trước và sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008, nhằm mục đích nghiên cứu sự tác động của cuộc khủng hoảng đến mức
độ tác động của nhân tố xác suất phá sản ảnh hưởng đến mức độ đầu tư mới công
ty. Dữ liệu mẫu được tập hợp và cập nhật vào cơ sỡ dữ liệu đến ngày 19/06/2013.
Dữ liệu được tập hợp và tổ chức thành kiểu dữ liệu bảng có cấu trúc, vì có
các quan sát bị hỏng ở một số thời kỳ nên đây là bảng dữ liệu không cân bằng. Dữ
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
45
liệu báo cáo tài chính được tính bằng đơn vị tính triệu đồng. Vì các mô hình phân
tích đều sử dụng các tỷ số tài chính từ báo cáo tài chính để làm biến giải thích nên
đơn vị tính bằng triều đồng của số liệu báo cáo tài chính hầu như không ảnh hưởng
đến kết quả các hệ số ước lượng của các biến giải thích trong các mô hình nghiên
cứu.
Chỉ tiêu Mã Chuỗi Chỉ tiêu tổng Chỉ tiêu 2 Chỉ tiêu n 1 (Biến công thời gian thể (Biến (Biến độc … (Biến độc độc lập ty phát sinh phụ thuộc) lập 3) lập n) 1)
… t11 Y11 a11 b11 n11 C1
… t12 Y12 a12 b12 n12 C1
… … … … … … …
… t1t Y1t a1t b1t n1t C1
… … … … … … …
… … … … … … …
… tm1 Ym1 am1 bm1 nm1 Cm
… tm2 Ym2 am2 bm2 nm2 Cm
… … … … … … …
… tmt Ymt amt bmt nmt Cm
Bảng 3.1: Cấu trúc dữ liệu bảng
Tổng sản lượng quốc gia GNP được lấy từ nguồn Tổng cục thống kê Việt
Nam, giá trị của nó tương đương với giá trị của GNI – tổng thu nhập quốc gia. Tuy
nhiên, người ta phân biệt chúng là do cách thức tiếp cận dựa trên các cơ sở khác
nhau. GNP dựa trên cơ sở sản xuất ra sản phẩm mới, còn GNI dựa trên cơ sở thu
nhập của công dân. Năm 2008 được chọn làm năm gốc để phân tích mức độ biến
động của GNP, vì năm 2008 làm năm Việt Nam bắt đầu chịu tự tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu, chọn năm này làm năm gốc để đánh giá mức độ
biến động của GNP trước và sau khủng hoảng tài chính, từ đó đánh giá mức độ thay
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
46
đổi quy mô công ty trước và sau khủng hoảng. Dữ liệu này phục vụ cho việc ước
lượng hệ số quy mô công ty (SIZE) trong mô hình tỷ số tài chính và khả năng dự
báo phá sản công ty của Ohlson (1980).
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, phân tích mô
hình hồi quy tuyến tính đa biến. Mô hình tuyến tính đa biến cho kiểu dữ liệu bảng
không cân bằng được ước lượng bằng năm phương pháp là bình phương bé nhất
thông thường, cố định, ngẫu nhiên, khoản giữa và chênh lệch bậc nhất, tuy nhiên
không phải tất cả các phương pháp đều thực hiện được cho cùng một bảng dữ liệu
và phương pháp ước lượng ngẫu nhiên chỉ thực hiện được cho bảng dữ liệu cân bằng1. Nếu mô hình ước lượng có tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến thì bỏ qua vì mô
hình hồi quy chỉ dùng cho mục đích dự báo chứ không phải kiểm định.
Để làm rõ thực trạng quyết định đầu tư và rủi ro phá sản các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, người viết sử dụng các phương pháp thống
kê, so sánh và phân tích số liệu chi tiết theo ngành nghề và theo thời gian. Để phân
tích mối tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập trong các mô hình
nghiên cứu, người viết tiến hành ước lượng các tham số hồi quy bằng năm phương
pháp bình ước lượng nêu trên, cụ thể như sau:
Trước tiên, người viết thực hiện phân tích thống kê số liệu các chỉ tiêu kế
toán cấu thành các nhân tố trong các mô hình nghiên cứu để đánh giá về thực trạng
các công ty niêm yết theo thời gian từ năm 2003 đến năm 2012 và theo từng ngành,
trong đó chi tiết theo từng thời kỳ trước và sau khủng hoảng tài chính năm 2008.
Thứ hai, người viết thực hiện ước lượng và phân tích hồi quy các mô hình
nghiên cứu về quyết định đầu tư và rủi ro phá sản các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam cho toàn bộ mẫu khảo sát, chi tiết theo năm ngành
1 Mô hình tuyến tính cho dữ liệu bảng - Yves Croissant và Giovanni Millo
nghề đã chọn giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2012, nhằm trả lời cho ba câu hỏi
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
47
nghiên cứu là: (1) câu hỏi về các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư của các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam; (2) câu hỏi về các nhân tố
tác động đến rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam; (3) câu hỏi về mối quan hệ giữa quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2003 –
2012, và sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có tác
động đến mối quan hệ giữa quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ ba, người viết chia giai đoạn nghiên cứu thành hai thời kỳ nhỏ hơn là:
thời kỳ trước cuộc khủng hoảng tài chính năm toàn cầu năm 2008 (gồm bốn năm, từ
2004 đến 2007) và thời kỳ sau khủng hoảng (gồm năm năm từ năm 2008 đến 2012).
Người viết tiếp tục phân tích hồi quy cho từng thời kỳ và tiến hành so sánh sự thay
đổi trong ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư và rủi ro phá
sản các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giữa để trả lời cho
câu hỏi về việc có hay không sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
đến nhân tố xác suất phá sản ảnh hưởng đến mức độ đầu tư mới công ty.
Người viết sử dụng hệ quản trị cơ sỡ dữ liệu Microsoft SQL Server 2012 để
quản lý dữ liệu báo cáo tài chính của 737 công ty từ năm 2003 đến 2012 trong mẫu
khảo sát nhằm mục đích tổng hợp và xử lý tính toán các chỉ tiêu kế toán cấu thành
các nhân tố trong các mô hình nghiên cứu, đây chính là nguồn dữ liệu đã qua xử lý
làm dữ liệu đầu vào đưa vào phần mềm phân tích kinh tế lượng R – 3.0 để ước
lượng mô hình hồi quy đa biến. Bên cạnh đó, nhằm hỗ trợ cho việc thống kê và
phân tích số liệu, người viết sử dụng thêm phần mềm Microsoft Excel 2010.
4.3. Mô hình nghiên cứu
Người viết sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến để nghiên cứu các
nhân tố tác động đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản các công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012 bằng cách áp dụng các mô
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
48
hình nghiên cứu thực nghiệm trước đó, bao gồm mô hình đầu tư động và chính sách
tài chính công ty của Stephen Bond và Costas Meghir (1994), mô hình dự báo phá
sản công ty bằng các chỉ số tài chính của James A.Ohlson (1980), và mô hình đầu tư
động có thêm rủi ro phá sản công ty của John K. Wald (2004). Các tác giả đã xây
dựng các mô hình nghiên cứu này bằng cách sử dụng các mô hình toán ứng dụng
trong tài chính, cả ba mô hình này đều có dạng là các biểu thức đa biến và cũng
chính là mô hình mà người viết sử dụng trong bài nghiên cứu này, nó có dạng như
sau:
Y = α + β1X1 + β2X2 + … + βnXn
Trong đó, Y là điểm số của đa thức hay là chỉ số dự báo tổng thể về một đối
tượng nào đó, nó được gọi là biến phụ thuộc; α là hằng số; βi là hệ số; và Xi là các
biến độc lập, với i là số nguyên có giá trị từ 1 đến n.
4.4. Lựa chọn các biến
Từ những kết quả nghiên cứu đã thực hiện trước đây được trình bày trong
phần 2 – ―Tổng quan các nghiên cứu trước đây‖ cùng với việc lựa chọn mô hình
nghiên cứu ở trên, người viết đã tiến hành lựa chọn và xây dựng các biến số là các
tỷ số tài chính để thực hiện nghiên cứu các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư
và rủi ro phá sản công ty thông qua ba mô hình nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, về mô hình đầu tư của Stephen Bond và Costas Meghir (1994):
biến phụ thuộc là mức độ đầu tư mới giai đoạn sau – IKt. Dưới đây là danh sách
các biến độc lập và cách tính toán các biến này:
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
49
Ký STT Tên biến Cách tính hiệu
IK = (It+1 – It)/Kt , với It+1: giá trị tài sản cố
Mức độ đầu tư mới giai định giai đoạn sau; It: giá trị tài sản cố định 1 IK đoạn này giai đoạn này; K: giá trị tài sản cố định giai
đoạn này
Mức độ đầu tư mới giai 2 IK2 IK2 = IK2 đoạn này bình phương
CK = C/K, với C: dòng tiền, được tính như
sau:
C = (Doanh thu thuần – giá vốn hàng bán – 3 Dòng tiền giai đoạn này CK chi phí bán hàng – chi phí quản lý – chi phí
khác + thu nhập khác);
K: giá trị tài sản cố định giai đoạn này
YK = Y/K, với Y: tổng doanh thu; K: giá trị 4 Doanh thu giai đoạn này YK
tài sản cố định giai đoạn này BK2 = (B/K)2, với B: nợ dài hạn; K: giá trị Nợ dài hạn giai đoạn 5 BK2 này bình phương tài sản cố định giai đoạn này
Bảng 3.2: Danh sách các biến độc lập của mô hình đầu tư và chính sách tài
chính công ty
Thứ hai, về mô hình dự báo khả năng phá sản công ty bằng các chỉ số tài
chính của James A.Ohlson (1980): biến phụ thuộc là chỉ số tổng thể dự báo phá sản
công ty trong vòng một năm – Oscore. Dưới đây là danh sách các biến độc lập và
cách tính toán các biến này:
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
50
Ký STT Tên biến Cách tính hiệu
SISE = log (Tổng tài sản / Chỉ số mức giá 1 Quy mô công ty SISE GNP)
Tổng nợ phải trả trên 2 TLTA TLTA = (Tổng nợ phải trả / Tổng tài sản) tổng tài sản
Vốn lưu động trên tổng 3 WCTA WCTA = (Vốn lưu động / Tổng tài sản) tài sản
Khả năng thanh khoản 4 CLCA CLCA = (Nợ ngắn hạn / Tài sản ngắn hạn) ngắn hạn
Tủy suất sinh lợi trên 5 NITA NITA = (Thu nhập ròng / Tổng tài sản) tổng tài sản
Quỹ được lập từ hoạt CFTL = (Quỹ được lập từ hoạt động / Tổng 6 động trên tổng nợ phải CFTL nợ phải trả) trả
Thu nhập ròng âm hai INTW INTWO = 1 nếu thu nhập ròng là âm cho hai 7 năm gần đây năm gần đây và bằng 0 nếu ngược lại O
t = (NIi
t - NIi
t| + |NIi
t-1|) với
Tổng nợ phải trả vượt OENE OENEG = 1 nếu tổng nợ phải trả vượt tổng 8 tổng tài sản G
t là thu nhập ròng trong giai đoạn gần đây
Tốc độ tăng trưởng thu 9 tài sản và bằng 0 nếu ngược lại CHINi t-1) / (|NIi NIi CHIN nhập ròng nhất
Bảng 3.3: Danh sách các biến độc lập của mô hình dự báo khả năng phá sản
công ty
Thứ ba, về mô hình đầu tư động có thêm nhân tố rủi ro phá sản công ty của
John K. Wald (2004): biến phụ thuộc là mức độ đầu tư mới giai đoạn sau – IKt.
Dưới đây là danh sách các biến độc lập và cách tính toán các biến này:
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
51
Ký STT Tên biến Cách tính hiệu
IK = (It+1 – It)/Kt , với It+1: giá trị tài sản cố
Mức độ đầu tư mới giai định giai đoạn sau; It: giá trị tài sản cố định 1 IK đoạn này giai đoạn này; K: giá trị tài sản cố định giai
đoạn này
Mức độ đầu tư mới giai 2 IK2 IK2 = IK2 đoạn này bình phương
YK = Y/K, với Y: tổng doanh thu; K: giá trị 3 Doanh thu giai đoạn này YK tài sản cố định giai đoạn này
Tổng vốn chủ sở hữu EK = E/K, với E: tổng vốn chủ sở hữu; K: 4 EK giai đoạn này giá trị tài sản cố định giai đoạn này
S = 1 – POscore , với POscore là xác suất phá sản
Xác suất tồn tại công ty 5 S giai đoạn này
được ước lượng từ mô hình dự báo phá sản của James A. Ohlson – 1980, POscore = [1+e- Oscore ]-1
Bảng 3.4: Danh sách các biến độc lập của mô hình đầu tư động có thêm
nhân tố rủi ro phá sản công ty
4.5. Các căn cứ và giả định ban đầu
Căn cứ vào điều 60 về việc hủy bỏ niêm yết của nghị định chính phủ số
58/2012/NĐ-CP, ban hành ngày 20/07/2012 và có hiệu lực ngày 15/09/2012, các
công ty niêm yết có kết quả sản xuất, kinh doanh bị thua lỗ trong 03 năm liên tục
hoặc tổng số lỗ luỹ kế vượt quá số vốn điều lệ thực góp trong báo cáo tài chính
kiểm toán năm gần nhất trước thời điểm xem xét thì hủy niêm yết. Giả định các
công ty này sẽ hủy niêm yết ngay năm sau của năm kiểm toán gần nhất.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
52
Giả định tiếp theo là các công ty niêm yết có kết quả sản xuất, kinh doanh bị
thua lỗ trong 03 năm liên tục hoặc tổng số lỗ luỹ kế vượt quá số vốn điều lệ thực
góp thì đang gặp khó khăn về tài chính và tồn tại nguy cơ phá sản.
Mục đích của các giả định trên là để xác định chỉ số Osore tổng thể dự báo
phá sản trong vòng 01 năm trong mô hình dự báo khả năng phá sản công ty của
James A. Ohlson (1980).
Khi phân tích sự tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc, chúng ta
chỉ xem xét tính động của các yêu tố đang phân tích, còn các yếu tố khác trong mô
hình phân tích được giả định là không thay đổi.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
53
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5.1. Thông kê mô tả các nhân tố tác động đến quyết định đầu tƣ và rủi ro phá
sản của các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
5.1.1. Thống kê mô tả các nhân tố
Trên cơ sở tính toán và thống kê dữ liệu các chỉ tiêu kế toán trong mẫu khảo
sát, người viết đã thực hiện thống kê số liệu về các nhân tố trong các mô hình
nghiên cứu theo thời gian từ năm 2003 đến năm 2012, trong đó chi tiết theo từng
ngành, và chi tiết theo từng giai đoạn trước và sau khủng hoảng.
5.1.1.1. Thống kê mô tả các nhân tố tác động đến quyết định đầu tƣ
Theo các kết quả thống kê được trình bày trong các biểu đồ ở phụ lục 2, từ
biểu đồ số 4.17 đến biểu đồ số 4.20, mô tả sự biến động các nhân tố tỷ số tài chính
trong mô hình nghiên cứu hàm đầu tư và chính sách tài chính công ty, cụ thể như
sau:
Nhân tố mức độ đầu tư mới (IK): nhân tố này được tính toán bằng tỷ số tài
chính giữa giá trị đầu tư mới tài sản cố định tăng thêm trong kỳ chia cho tổng giá trị
tài sản cố định trong kỳ. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị
trung bình mức độ đầu tư mới cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là -
0,0572, trong đó cao nhất là 0,1636 vào năm 2004 và giá trị thấp nhất là -0,6394
vào năm 2009. Xu hướng biến động của mức độ đầu tư mới giảm dần, bắt đầu từ
năm 2004 giảm dần đến bằng 0 năm 2007, sau đó tiếp tục giảm và bị âm giai đoạn
sau khủng hoảng 2008 – 2012, trong đó giảm cực mạnh năm 2009, ngay sau một
năm xảy ra khủng hoảng.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình mức độ đầu tư
mới của hai ngành Chứng khoán và ngành Bất động sản có xu hướng giảm rất
mạnh. Trong khi đó, giá trị trung bình mức độ đầu tư mới của ba ngành còn lại là
cũng có xu hướng giảm nhưng tốc độ giảm nhỏ hơn nhiều so với hai ngành kia. Giá
trị trung bình mức độ đầu tư mới xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Hàng tiêu dùng
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
54
cá nhân – gia đình là 0,1222; ngành Thực phẩm – đồ uống là 0,1206; ngành Chứng
khoán là 0,0693; ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng là 0,0489; và ngành Bất động
sản là -0,2481.
Nhân tố tỷ số dòng tiền (CK): nhân tố này được tính toán bằng tỷ số tài
chính giữa dòng tiền trong kỳ chia cho tổng giá trị tài sản cố định trong kỳ, trong đó
dòng tiền được tính toán như sau: trong kỳ, lấy doanh thu thuần trừ giá vốn hàng
bán, trừ chi phí bán hàng, trừ chi phí quản lý, trừ chi phí khác, và cộng thu nhập
khác. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình tỷ số dòng
tiền cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 0,7996, trong đó cao nhất là
2,4295 vào năm 2004 và giá trị thấp nhất là -2,0542 vào năm 2011. Xu hướng biến
động của tỷ số dòng tiền liên tục giảm dần, bắt đầu từ năm 2003 giảm dần đến bằng
0 năm 2010, sau đó tiếp tục giảm và bị âm giai đoạn sau khủng hoảng 2011 – 2012.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tỷ số dòng tiền
của ngành Chứng khoán có xu hướng giảm rất mạnh. Trong khi đó, giá trị trung
bình tỷ số dòng tiền của bốn ngành còn lại là cũng có xu hướng giảm nhưng tốc độ
giảm nhỏ hơn rất nhiều so với ngành Chứng khoán. Giá trị trung bình tỷ số dòng
tiền xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Bất động sản là 2,4147; ngành Chứng khoán
là 2,0723; ngành Thực phẩm – đồ uống là 1,8825; ngành Hàng tiêu dùng cá nhân –
gia đình là 1,1535; và ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng là 0,8481.
Nhân tố tỷ số doanh thu (YK): nhân tố này được tính toán bằng tỷ số tài
chính giữa doanh thu trong kỳ chia cho tổng giá trị tài sản cố định trong kỳ. Kết quả
thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình tỷ số doanh thu cả giai
đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 18,1425, trong đó cao nhất là 36,3059
vào năm 2004 và giá trị thấp nhất là 9,6323 vào năm 2005. Xu hướng biến động của
tỷ số doanh thu liên tục giảm mạnh, bắt đầu từ năm 2003 giảm dần đến năm 2012
và luôn dương trong cả giai đoạn khảo sát.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
55
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tỷ số doanh
thu của hai ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng khoán có xu
hướng giảm rất mạnh. Trong khi đó, giá trị trung bình tỷ số doanh thu của ba ngành
còn lại là cũng có xu hướng giảm nhưng tốc độ giảm nhỏ hơn rất nhiều so với hai
ngành kia. Giá trị trung bình tỷ số doanh thu xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành
Chứng khoán là 19,5378; ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng là 14,3045; ngành
Bất động sản là 13,5433; ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình là 11,2078; và
ngành Thực phẩm – đồ uống là 9,5866.
Nhân tố tỷ số nợ vay dài hạn (BK2): nhân tố này được tính toán bằng bình
phương tỷ số tài chính giữa nợ dài hạn trong kỳ chia cho tổng giá trị tài sản cố định
trong kỳ. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình của
bình phương tỷ số nợ dài hạn cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là
244,1933, trong đó cao nhất là 969,9014 vào năm 2010 và giá trị thấp nhất là
0.0274 vào năm 2004. Xu hướng biến động của tỷ số nợ dài hạn gần như không
thay đổi trong cả giai đoạn khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình của bình
phương tỷ số nợ dài hạn của hai ngành Bất động sản và ngành Chứng khoán có xu
hướng giảm mạnh. Trong khi đó, giá trị trung bình của tỷ số này cho ba ngành còn
lại là có xu hướng biến động rất thấp. Giá trị trung bình của bình phương tỷ số nợ
dài hạn xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Bất động sản là 14668,41; ngành Chứng
khoán là 4677,70; ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng là 33,96; ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình là 1,0105; và ngành Thực phẩm – đồ uống là 0,1042.
5.1.1.2. Thống kê mô tả các nhân tố tác động đến rủi ro phá sản công ty
Theo các kết quả thống kê được trình bày trong các biểu đồ ở phụ lục 2, từ
biểu đồ số 4.21 đến biểu đồ số 4.27, mô tả sự biến động các nhân tố tỷ số tài chính
trong mô hình nghiên cứu dự báo phá sản công ty, cụ thể như sau:
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
56
Nhân tố quy mô công ty (SIZE): nhân tố này được tính toán bằng logarit
giữa tổng tài sản trong kỳ chia cho chỉ số mức giá GNP trong kỳ. Kết quả thống kê
toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình quy mô công ty cả giai đoạn khảo
sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 7,9756, trong đó cao nhất là 8,2947 vào năm 2007
và giá trị thấp nhất là 7,4371 vào năm 2005. Xu hướng biến động của quy mô công
ty tăng dần nhưng không mạnh trong cả giai đoạn khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình quy mô công
ty của ngành ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có xu hướng tăng. Trong khi đó,
giá trị trung bình quy mô công ty cho bốn ngành còn lại là có xu hướng biến động
rất thấp. Giá trị trung bình quy mô công ty xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Bất
động sản là 8,8024; ngành Chứng khoán là 8,7990; ngành Thực phẩm – đồ uống là
8,2987; ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình là 8,0094; và ngành Xây dựng –
Vật liệu xây dựng là 7,4931.
Nhân tố tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản (TLTA): nhân tố này được tính toán
bằng tỷ số tài chính giữa tổng nợ trong kỳ chia cho tổng tài sản trong kỳ. Kết quả
thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình tỷ số tổng nợ trên tổng tài
sản cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 0,5394, trong đó cao nhất là
0,6126 vào năm 2004 và giá trị thấp nhất là 0,5159 vào năm 2010. Xu hướng biến
động của tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản giảm dần nhưng không mạnh trong cả giai
đoạn khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tỷ số tổng nợ
trên tổng tài sản của ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có xu hướng tăng. Trong
khi đó, giá trị trung bình tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản cho bốn ngành còn lại là có
xu hướng giảm, với ngành Chứng khoán giảm mạnh nhất. Giá trị trung bình tỷ số
tổng nợ trên tổng tài sản xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Xây dựng – Vật liệu
xây dựng là 0,6075; ngành Bất động sản là 0,5689; ngành Thực phẩm – đồ uống là
0,5405; ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình là 0,5268; ngành Chứng khoán là
0,5166.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
57
Nhân tố vốn lưu động trên tổng tài sản (WCTA): nhân tố này được tính
toán bằng tỷ số tài chính giữa vốn lưu động trong kỳ chia cho tổng tài sản trong kỳ.
Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình tỷ số vốn lưu
động trên tổng tài sản cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 0,2121,
trong đó cao nhất là 0,3323 vào năm 2004 và giá trị thấp nhất là 0,1680 vào năm
2006. Xu hướng biến động của tỷ số vốn lưu động trên tổng tài sản giảm dần nhưng
không mạnh trong cả giai đoạn khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tỷ số vốn lưu
động trên tổng tài sản của ngành Chứng khoán, ngành Bất động sản và ngành Hàng
tiêu dùng cá nhân – gia đình có xu hướng tăng. Ngược lại, giá trị trung bình tỷ số
này cho ngành ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có xu hướng giảm mạnh, trong
khi đó ngành Thực phẩm – đồ uống có xu hướng ít biến động. Giá trị trung bình tỷ
số vốn lưu động trên tổng tài sản xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Chứng khoán
là 0,3344; ngành Bất động sản là 0,2412; ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng là
0,2361; ngành Thực phẩm – đồ uống là 0,1824; và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân –
gia đình là 0,1709.
Nhân tố khả năng thanh toán ngắn hạn (CLCA): nhân tố này được tính
toán bằng tỷ số tài chính giữa nợ ngắn hạn trong kỳ chia cho tài sản ngắn hạn trong
kỳ. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình tỷ số khả
năng thanh toán ngắn hạn cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là
0,7541, trong đó cao nhất là 0,8403 vào năm 2006 và giá trị thấp nhất là 0,6400 vào
năm 2004. Xu hướng biến động của tỷ số khả năng thanh toán ngắn hạn tăng dần
nhưng không mạnh trong cả giai đoạn khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tỷ số khả năng
thanh toán ngắn hạn của ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có xu hướng tăng.
Ngược lại, giá trị trung bình tỷ số này cho ngành Bất động sản, ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình, và ngành Chứng khoán có xu hướng giảm, trong khi đó
ngành Thực phẩm – đồ uống có xu hướng ít biến động. Giá trị trung bình tỷ số khả
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
58
năng thanh toán ngắn hạn xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Bất động sản là
0,8190; ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình là 0,7880; ngành Xây dựng – Vật
liệu xây dựng là 0,7713; ngành Thực phẩm – đồ uống là 0,7588; ngành Chứng
khoán là 0,6130.
Nhân tố tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (NITA): nhân tố này được tính
toán bằng tỷ số tài chính giữa thu nhập ròng trong kỳ chia cho tổng tài sản trong kỳ
hay còn gọi là ROA. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung
bình tỷ số tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến
năm 2012 là 0,0704, trong đó cao nhất là 0,0928 vào năm 2004 và giá trị thấp nhất
là 0,0302 vào năm 2012. Xu hướng biến động của tỷ số tỷ suất sinh lợi trên tổng tài
sản cả giai đoạn khảo sát giảm mạnh nhưng luôn dương trong cả giai đoạn khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tỷ số số tỷ suất
sinh lợi trên tổng tài sản của bốn ngành ngành là ngành Chứng khoán, ngành Xây
dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Bất động sản và ngành Thực phẩm – đồ uống có
xu hướng giảm, trong đó ngành Chứng khoán giảm mạnh nhất. Trong khi đó, ngành
Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có xu hướng ít biến động. Giá trị trung bình tỷ số
tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Thực phẩm – đồ
uống là 0,0827; ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình là 0,0807; ngành Xây
dựng – Vật liệu xây dựng là 0,0586; ngành Bất động sản là 0,0577; ngành Chứng
khoán là 0,0047.
Nhân tố tỷ số quỹ được lập từ hoạt động trên tổng nợ phải trả (CFTL):
nhân tố này được tính toán bằng tỷ số tài chính giữa quỹ được lập từ hoạt động
trong kỳ chia cho tổng nợ phải trả trong kỳ. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát
cho thấy: giá trị trung bình của tỷ số quỹ được lập từ hoạt động trên tổng nợ phải trả
cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 0,0049, trong đó cao nhất là
0,0224 vào năm 2008 và giá trị thấp nhất là - 0,0018 vào năm 2004. Xu hướng biến
động của tỷ số quỹ được lập từ hoạt động trên tổng nợ phải trả tăng dần nhưng rất
yếu.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
59
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tỷ số quỹ được
lập từ hoạt động trên tổng nợ phải trả của bốn ngành là ngành Xây dựng – Vật liệu
xây dựng, ngành Bất động sản, ngành Thực phẩm – đồ uống và ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình có xu hướng giảm. Trong khi đó, ngành Chứng khoán có
xu hướng tăng mạnh. Giá trị trung bình tỷ số quỹ được lập từ hoạt động trên tổng nợ
phải trả xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Thực phẩm – đồ uống là 0,0107; ngành
Chứng khoán là 0,0065; ngành Bất động sản là 0,0047; ngành Hàng tiêu dùng cá
nhân – gia đình là 0,0045; ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng là 0,0039.
Nhân tố tố tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng (CHIN): nhân tố này được
tính toán bằng tỷ số giữa hiệu thu nhập ròng tăng thêm kỳ này so với kỳ trước chia
cho tổng giá trị tuyệt đối của thu nhập ròng tăng thêm kỳ này và giá trị tuyệt đối của
thu nhập ròng tăng thêm kỳ trước. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy:
giá trị trung bình tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng cả giai đoạn khảo sát từ năm
2003 đến năm 2012 là 0,1267, trong đó cao nhất là 0,5301 vào năm 2005 và giá trị
thấp nhất là -0,2145 vào năm 2011. Xu hướng biến động của tốc độ tăng trưởng thu
nhập ròng giảm mạnh, bắt đầu từ năm 2004 giảm dần đến bằng 0 năm 2010, sau đó
tiếp tục giảm và bị âm giai đoạn sau khủng hoảng 2011 – 2012.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, giá trị trung bình tốc độ tăng
trưởng thu nhập ròng của cả năm ngành đều có xu hướng giảm, với ngành Chứng
khoán có xu hướng giảm mạnh nhất. Giá trị trung bình tốc độ tăng trưởng thu nhập
ròng xếp theo thứ tự giảm dần là: ngành Chứng khoán là 0,2227; ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình là 0,0957; ngành Bất động sản là 0,0945; ngành Xây dựng
– Vật liệu xây dựng là 0,0825; ngành Thực phẩm – đồ uống là 0,0260.
5.1.1.3. Thống kê mô tả các nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa quyết định
đầu tƣ và rủi ro phá sản công ty
Theo các kết quả thống kê được trình bày trong các biểu đồ ở phụ lục 2, từ
biểu đồ số 4.28 đến biểu đồ số 4.31, mô tả sự biến động các nhân tố tỷ số tài chính
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
60
trong mô hình nghiên cứu hàm đầu tư có thêm nhân tố phá sản công ty, cụ thể như
sau:
Nhân tố tỷ số vốn chủ sở hữu (EK): nhân tố này được tính toán bằng tỷ số
tài chính tổng vốn chủ sở hữu chia cho tổng tài sản trong kỳ. Kết quả thống kê toàn
bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình của tỷ số vốn chủ sở hữu cả giai đoạn
khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 25,31, trong đó cao nhất là 89,5294 triệu
đồng vào năm 2011 và giá trị thấp nhất là 5,1964 triệu đồng vào năm 2006. Xu
hướng biến động của tỷ số vốn chủ sở hữu gần như không thay đổi trong cả giai
đoạn khảo sát.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Chứng khoán có sự biến
động tỷ số vốn chủ sở hữu mạnh nhất. Năm 2004, tỷ số vốn chủ sở hữu toàn ngành
này là -0,6372, tăng nhẹ đến năm 2007 đạt 69,5839, sau đó tăng cực mạnh vào năm
2008 – là năm xảy ra khủng hoảng và đạt 2203,7588 , sang năm 2009 chỉ số này
giảm cực mạnh còn 41,5882, và tăng nhẹ vào các năm tiếp theo. Xu hướng biến
động tỷ số vốn chủ sở hữu của ngành này tăng nhẹ trước cũng như sau khủng
hoảng, với mưc độ tăng yếu. Giá trị tỷ số vốn chủ sở hữu trung bình của ngành là
281,5770, lớn hơn rất nhiều so với toàn bộ mẫu. Các ngành còn lại có mức độ biến
động thấp hơn và có cùng xu hướng biến động với toàn bộ mẫu khảo sát, trong đó
giá trị trung bình tỷ số vốn chủ sở hữu của ba ngành Xây dựng – vật liệu xây dựng,
ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình và ngành Thực phẩm đồ ương là nhỏ hơn
so với toàn bộ mẫu, các ngành còn lại đều có gia trị trung bình Oscore lớn hơn so
với toàn bộ mẫu.
Nhân tố chỉ số dự báo phá sản công ty (Oscore): nhân tố này được tính toán
từ kết quả ước lượng mô hình dự báo phá sản công ty bằng phương pháp ước lượng
khoản giữa tính cho toàn bộ mẫu khảo sát. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát
cho thấy: giá trị trung bình của chỉ số dự báo phá sản Oscore cả giai đoạn khảo sát
từ năm 2003 đến năm 2012 là 0,0610, trong đó cao nhất là 0,1684 vào năm 2011 và
giá trị thấp nhất là -0,0415 vào năm 2005. Xu hướng biến động của chỉ số dự báo
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
61
phá sản tăng mạnh dần, bắt đầu âm từ năm 2004 tăng dần đến bằng 0 năm 2005, sau
đó tăng mạnh liên tục giai đoạn trước cũng như sau khủng hoảng.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Chứng khoán có sự biến
động Oscore mạnh nhất. Năm 2005, chỉ số dự báo phá sản Oscore toàn ngành này là
-0,1273, tăng mạnh năm 2006 đạt 0,1371, giảm nhẹ năm 2007, sau đó tăng cực
mạnh vào năm 2008 – là năm xảy ra khủng hoảng và đạt 0,5704, sang năm 2009 chỉ
số này giảm mạnh còn 0,0250, và lại tăng mạnh vào năm 2011 đạt 0,4433. Xu
hướng biến động chỉ số dự báo phá sản của ngành này tăng mạnh dần, bắt đầu âm từ
năm 2004 tăng dần đến bằng 0 năm 2005, sau đó tăng mạnh liên tục giai đoạn trước
cũng như sau khủng hoảng. Giá trị Oscore trung bình của ngành là 0,2025, lơn hơn
rất nhiều so với toàn bộ mẫu. Các ngành còn lại có mức độ biến động thấp hơn và
có cùng xu hướng biến động với toàn bộ mẫu khảo sát, trong đó chỉ có gia trị trung
bình Oscore của ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình là nhỏ hơn so với toàn bộ
mẫu, các ngành còn lại đều có giá trị trung bình Oscore lớn hơn so với toàn bộ mẫu.
Nhân tố xác suất phá sản (POscore): nhân tố này được tính toán như sau: POscore= [1+e-Oscore]-1, với Oscore được tính toán từ kết quả ước lượng mô hình dự báo phá sản công ty bằng phương pháp ước lượng khoản giữa tính cho toàn bộ mẫu
khảo sát. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình xác
suất phá sản cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 51,49%, trong đó
cao nhất là 54,11% vào năm 2011 và giá trị thấp nhất là 48,96% vào năm 2005. Xu
hướng biến động của xác suất phá sản tăng dần nhưng mức độ tăng thấp và cùng
chiều với xu hướng biến động chỉ số dự báo phá sản Oscore.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Chứng khoán có sự biến
động xác suất phá sản POscore mạnh nhất. Năm 2005, POscore toàn ngành này là
0,4682, tăng mạnh năm 2006 đạt 0,5338, giảm nhẹ năm 2007, sau đó tăng cực mạnh
vào năm 2008 – là năm xảy ra khủng hoảng và đạt 0,6342, sang năm 2009 POscore
giảm mạnh còn 0,5061, và lại tăng mạnh vào năm 2011 đạt 0,6064. Xu hướng biến
động POscore của ngành này tăng mạnh dần liên tục giai đoạn trước cũng như sau
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
62
khủng hoảng. POscore trung bình của ngành này0,5484, lớn hơn toàn bộ mẫu khảo
sát. Các ngành còn lại có mức độ biến động thấp hơn và có cùng xu hướng biến
động với toàn bộ mẫu khảo sát, trong đó chỉ có gia trị trung bình POscore của ngành
Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình là nhỏ hơn so với toàn bộ mẫu, các ngành còn lại
đều có gia trị trung bình POscore lớn hơn so với toàn bộ mẫu.
Nhân tố xác suất tồn tại công ty (S): nhân tố này được tính toán như sau: S
= 1 –POscore. Kết quả thống kê toàn bộ mẫu khảo sát cho thấy: giá trị trung bình xác
suất tồn tại cả giai đoạn khảo sát từ năm 2003 đến năm 2012 là 48,51%, trong đó
cao nhất là 51,03% vào năm 2005 và giá trị thấp nhất là 45,89% vào năm 2011. Xu
hướng biến động xác suất tồn tại giảm dần và ngược chiều với xu hướng biến động
chỉ số dự báo phá sản Oscore và xác suất phá sản POscore.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Chứng khoán có sự biến
động xác suất tồn tại S mạnh nhất. Năm 2005, giá trị S toàn ngành này là 0,5318,
giảm mạnh năm 2006 đạt 0,4662, tăng nhẹ năm 2007, sau đó giảm cực mạnh vào
năm 2008 – là năm xảy ra khủng hoảng còn 0,3658, sang năm 2009 giá trị S tăng
mạnh đạt 0,4939, và lại giảm mạnh vào năm 2011 đạt 0,3936. Xu hướng biến động
giá trị S của ngành này giảm mạnh dần liên tục ở giai đoạn trước cũng như sau
khủng hoảng. Giá trị S trung bình của ngành này 0,4516, nhỏ hơn toàn bộ mẫu khảo
sát. Các ngành còn lại có mức độ biến động thấp hơn và có cùng xu hướng biến
động với toàn bộ mẫu khảo sát, trong đó chỉ có giá trị S trung bình của ngành Hàng
tiêu dùng cá nhân – gia đình là lớn hơn so với toàn bộ mẫu, các ngành còn lại đều
có gia trị S trung bình nhỏ hơn so với toàn bộ mẫu.
5.2. Kết quả nghiên cứu về quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản của các công
ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
5.2.1. Kết quả nghiên cứu về quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản của các công
ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2004 -2012
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
63
Dựa vào ba mô hình nghiên cứu của Bond & Meghir (1994) về mô hình đầu
tư động và chính sách tài chính công ty, A. Ohlson (1980) về tỷ số tài chính và khả
năng dự báo phả sản công ty và K. Wald (2004) về mô hình đầu tư có thêm nhân tố
phá sản, tất cả đã được trình bày ở phần phương pháp và mô hình nghiên cứu, người
viết thực hiện ước lượng các tham số hồi quy của ba mô hình này bằng năm phương
pháp là bình phương bé nhất thông thường, cố định, ngẫu nhiên, khoản giữa và
chênh lệch bậc nhất. Các bảng 4.3, 4.4, 4.5, 4.6 trong phần Phụ lục 5 trình bày kết
quả ước lượng các tham số của ba mô hình và các biểu đồ từ 4.32 đến 4.35 trong
phần phụ lục 3 mô tả sự tác động các nhân tố trong mô hình nghiên cứu. Sau đây là
kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho cả gia đoạn
khảo sát.
5.2.1.1. Kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến quyết định đầu tƣ
Bảng 4.3 trình bày kết quả ước lượng hàm đầu tư và chính sách tài chính
doanh nghiệp cho 736 công ty niêm yết và phân chia thành năm ngành nghề. Mô
hình này được ước lượng bằng năm phương pháp là bình phương bé nhất thông
thường, cố định, ngẫu nhiên, khoản giữa và chênh lệch bậc nhất. Nhìn chung, mức
độ đầu tư mới giai đoạn sau của công ty chịu sự tác động của các nhân tố về mức độ
đầu tư mới giai đoạn này, nhân tố dòng tiền và doanh thu.Nhân tố nợ dài hạn của
giai đoạn này gần như không có tác động đến mức độ đầu tư mới của giai đoạn sau
nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả phân tích cụ thể các nhân tố trong mô
hình cho toàn bộ mẫu và năm ngành khảo sát như sau:
Nhân tố tỷ số mức độ đầu tư mới (I/K): kết quả ước bằng phương pháp
khoản giữa cho thấy rằng: có mối tương quan thuận giữa nhân tố mức độ đầu tư mới
của giai đoạn này so với giai đoạn sau cho toàn bộ mẫu, ngành Chứng khoán, ngành
Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – Đồ uống và ngành Hàng tiêu
dùng cá nhân – gia đình với hệ số hồi quy tương ứng là 0.3234, 1.3115, 0.5781,
0.5693 và 0.4857. Đây là nhân tố tác động mạnh nhất đến mức độ đầu tư của giai
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
64
đoạn sau với mức ý nghĩa thống kê nhỏ hơn 5%, ngoại trừ ngành Chứng khoán có
mức ý nghĩa thông kê 10%, và là ngành chịu sự tác động mạnh nhất từ yếu tố này,
mức độ tác động lớn hơn rất nhiều so với toàn bộ mẫu. Trong khi đó, mức độ tác
động của nhân tố này đến ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm
– đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình lớn hơn so với toàn bộ mẫu.
Ngược lại, ngành Bất động sản có mối tương quan nghịch giữa tỷ số mức độ đầu tư
mới của giai đoạn này so với giai đoạn sau với hệ số hồi quy là -0.1017 nhưng
không có ý nghĩa thống kê.
Với phương pháp ước lượng chênh lệch bậc nhất, kết quả ước lượng hoàn
toàn ngược với phương pháp ước lượng khoản giữa. Nhân tố mức độ đầu tư mới
của giai đoạn này có mối tương quan nghịch với mức độ đầu tư mới của giai đoạn sau cho toàn bộ mẫu và các ngành nghề khảo sát. Tuy nhiên, hệ số R2 của phương
pháp này nhỏ hơn rất nhiều so với phương pháp ước lượng khoản giữa nên khả năng
giải thích của mô hình này kém hơn mặc dù nhiều hệ số hồi quy của nó cũng có ý nghĩa thống kê. Các phương pháp ước lượng khác có hệ số R2 rất thấp và cũng có
một vài hệ số hồi quy có ý nghĩa thông kê nên không xem xét.
Nhân tố dòng tiền (C/K): với phương pháp ước lượng khoản giữa (hệ số R2
lớn nhất), xem xét toàn bộ mẫu, nhân tố dòng tiền của giai đoạn này có mối tương
quan thuận với mức độ đầu tư của giai đoạn sau, có hệ số hồi quy là 0.0341 và có ý
nghĩa thống kê 0.1%. Trong khi đó, các hệ số hồi quy của các ngành nghề khảo sát
lại không có ý nghĩa thống kê.
Tuy nhiên, với hệ số R2 nhỏ hơn, nhưng phương pháp ước lượng bình
phương bé nhất cho hai ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Thực phẩm
– Đồ uống cho thấy rằng: có mối tương quan thuận giữa nhân tố dòng tiền giai đoạn
này với mức độ đầu tư mới của giai đoạn sau, với các hệ số hồi quy tương ứng là
0.0218 và 0.0259 và có mức ý nghĩa thống kê 5%, mức tác động này mạnh hơn so
với toàn bộ mẫu. Trong khi đó ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có mối
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
65
tương quan nghịch giữa nhân tố dòng tiền giai đoạn này với mức độ đầu tư mới giai
đoạn sau và có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, có mối tương quan thuận giữa khả năng tạo ra tiền từ tài sản đầu tư
giai đoạn này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau cho toàn bộ mẫu, ngành Xây
dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Thực phẩm – Đồ uống và có ý nghĩa thống kê.
Ngược lại, ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có sự tác động nghịch trong
mối tương quan này và có ý nghĩa thống kê.
Nhân tố doanh thu (Y/K): xem xét toàn bộ mẫu với phương pháp ước lượng
khoản giữa cho thấy rằng: nhân tố doanh thu giai đoạn này có mối tương quan
nghịch với mức độ đầu tư mới của giai đoạn sau, có hệ số hồi quy là -0.0056 và có
mức ý nghĩa thống kê mạnh là 0.1%. Trong khi các ngành nghề khảo sát có mối
tương quan này không có ý nghĩa thống kê.
Bằng phương pháp ước lượng chênh lệch bậc nhất, nhân tố doanh thu giai
đoàn này có mối tương quan thuận với mức độ đầu tư mới giai đoạn sau cho ba
ngành là ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – Đồ uống và
ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình với hệ số hồi quy tương ứng là 0.0158,
0.0221 và 0.0166 và đều có ý nghĩa thống kê. Mức độ tác động của nhân tố này đến
ba ngành này đều lớn hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát và ngành Thực phẩm – đồ
uống chịu sự tác động mạnh nhất.
Như vậy, số vòng quay tài sản giai đoạn này có tác động nghịch đến mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau cho toàn bộ mẫu khảo sát và có ý nghĩa thống kê. Ngược
lại, đối với các ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – Đồ uống
và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình thì sự tác động này là thuận và cũng có
ý nghĩa thống kê.
Nhân tố nợ vay dài hạn bình phương (B/K)2: đối với toàn bộ mẫu, ngành
Chứng khoán, và ngành Bất động sản, nhân tố nợ vay dài hạn giai đoạn này không
tác động đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau cho tất cả các phương pháp ước
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
66
lượng nhưng không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, các ngành khảo sát còn lại
chịu sự tác động của nhân tố này đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau nhưng cũng
không có ý nghĩa thống kê với tất cả phương pháp ước lượng. Điều này hàm ý rằng,
đối với toàn bộ mẫu, ngành Chứng khoán, và ngành Bất động sản: tài sản công ty
được hình thành từ nguồn vay nợ hay hành vi đầu tư vào tài sản cố định bằng nguồn
tài trợ nợ của giai đoạn này không có tác động đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau
nhưng không có ý nghĩa thống kê, do đó rủi ro tài chính cũng không rõ ràng. Các
ngành còn lại chịu sự tác động của nhân tố này nhưng cũng không có ý nghĩa thống
kê.
5.2.1.2. Kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến rủi ro phá sản công ty
Bảng 4.4 trình bày kết quả ước lượng mô hình dự báo phá sản công ty bằng
các chỉ số tài chính cho 737 công ty niêm yết và phân chia thành năm ngành nghề.
Mô hình này được ước lượng bằng bốn phương pháp là bình phương bé nhất thông
thường, cố định, ngẫu nhiên và khoản giữa. Nhìn chung, rủi ro phá sản công ty thể
hiện bởi chỉ số dự báo phá sản Oscore chịu sự tác động của các nhân tố về tính
thanh khoản ngắn hạn, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, thu nhập ròng âm hai năm
gần đây, nợ phải trả vượt tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng thu nhu nhập ròng. Các
nhân tố khác có tác động đển rủi ro phá sản công ty nhưng không có ý nghĩa thống
kê. Kết quả phân tích cụ thể các nhân tố trong mô hình cho toàn bộ mẫu và năm
ngành khảo sát như sau:
Nhân tố quy mô doanh nghiệp (SIZE): nhân tố quy mô công ty có tác động
đến rủi ro phá sản công ty nhưng không có ý nghĩa thống kê với tất cả phương pháp
ước lượng cho toàn bộ mẫu và bốn ngành nghề khảo sát là ngành Chứng khoán,
ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Thực phẩm –
đồ uống. Kết quả này hoàn toàn ngược với kết quả nghiên cứu của Jame A.Ohlson,
tác giả đã cho rằng nhân tố quy mô doanh nghiệp là một nhân tố dự báo khả năng
phá sản quan trọng. Trong khi đó, ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có mối
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
67
tương quan nghịch giữa quy mô công ty với rủi ro phá sản công ty và có ý nghĩa
thống kê với tất cả phương pháp ước lượng.
Nhân tố tỷ số Tổng nợ phải trả / Tổng tài sản (TLTA): với phương pháp
ước lượng khoản giữa, nhân tố tổng nợ phải trả trên tổng tài sản giai đoạn này có
mối tương quan nghịch với mức độ đầu tư mới giai đoạn sau cho toàn bộ mẫu và
các ngành nghề khảo sát, tuy nhiên nó không có ý nghĩa thống kê. Khi xem xét các
phương pháp ước lượng còn lại, nhân tố này cũng có tác động đến rủi ro phá sản
công ty nhưng cũng không có ý nghĩa thống kê cho toàn bộ mẫu và các ngành nghề
khảo sát. Điều này hàm ý rằng, tài sản công ty được hình thành từ nguồn vay nợ hay
hành vi đầu tư vào tài sản cố định bằng nguồn tài trợ nợ của công ty có tác động đến
rủi ro phá sản công ty nhưng không có ý nghĩa thống kê, do đó rủi ro tài chính cũng
không rõ ràng.
Nhân tố tỷ số Vốn lưu động / Tổng tài sản (WCTA): với phương pháp ước lượng khoản giữa (có hệ số R2 lớn nhất), chỉ có ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia
đình có mối tương quan thuận giữa nhân tố vốn lưu động trên tổng tài sản đến rủi ro
phá sản công ty và có ý nghĩa thống kê 5% với hệ số hồi quy là 1.8484, đây là
ngành chịu sự tác động mạnh nhất từ nhân tố này. Các ngành nghề khác cũng có tác
động nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Với hệ số R2 nhỏ hơn, kết quả phương pháp ước lượng ngẫu nhiên cho thấy
rằng: có mối tương quan thuận giữa nhân tố vốn lưu động trên tổng tài sản và rủi ro
phá sản công ty cho ngành Bất động sản và có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó,
ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có mối tương quan nghịch và cũng có ý nghĩa
thống kê.
Như vậy, tính thanh khoản có tác động đến rủi ro phá sản công ty cho toàn
bộ mẫu khảo sát nhưng không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, các ngành Hàng
tiêu dùng cá nhân – gia đình và ngành Bất động sản chịu sự tác động thuận của
nhân tố này đền rủi ro phá sản, đặc biệt ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
68
chịu sự tác động mạnh nhất. Ngược lại, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng chịu
sự tác động nghịch của nhân tố này đến rủi ro phá sản công ty.
Nhân tố tỷ số Nợ ngắn hạn / Tài sản ngắn hạn (CLCA): xem xét toàn bộ
mẫu, ngành Bất động sản và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình cho thấy rằng
có mối tương quan thuận giữa nhân tố tỷ số nợ ngắn hạn trên tài sản ngắn hạn và rủi
ro phá sản công ty với tất cả phương pháp ước lượng, tuy nhiên chỉ có kết quả
phương pháp ước lượng khoản giữa cho ra hệ số hồi quy không có ý nghĩa thống kê,
các phương pháp ước lượng còn lại đều có kết quả có ý nghĩa thống kê. Trong đó,
cả hai ngành Bất động sản và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình chịu sự tác
động của nhân tố này đến rủi ro phá sản công ty là mạnh hơn so với toàn bộ mẫu
khảo sát và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình chịu sự tác động mạnh nhất từ
yếu tố này.Trong khi kết quả của các phương pháp và các ngành còn lại không có ý
nghĩa thống kê.
Như vậy, kết quả ước lượng cho thấy khả năng thanh toán ngắn hạn có tác
động đến rủi ro phá sản công ty cho toàn bộ mẫu khảo sát, ngành Bất động sản và
ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình và thứ tự tác động tương ứng tăng dần.
Nhân tố tỷ số Thu nhập ròng / Tổng tài sản (NITA): bằng phương pháp ước lượng khoản giữa (có hệ số R2 lớn nhất), nhân tố thu nhập ròng trên tổng tài sản
có mối tương quan nghịch với rủi ro phá sản công ty cho toàn bộ mẫu, ngành Xây
dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – Đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng
cá nhân – gia đình và tất cả đều có ý nghĩa thống kê. Cả ba ngành này chịu sự tác
động từ nhân tố này mạnh hơn so với toàn bộ mẫu, trong đó, ngành Thực phẩm –
Đồ uống chịu sự tác động mạnh nhất. Trong khi đó, kết quả ươc lượng hai ngành
còn lại không có ý nghĩa thống kê.
Với hệ số R2 nhỏ hơn, phương pháp ước lượng ngẫu nhiên cho ngành Bất
động sản cũng cho thấy mối tương quan nghịch giữa nhân tố thu nhập ròng trên
tổng tài sản với rủi ro phá sản công ty có hệ số hồi quy là -0.6269 với mức ý nghĩa
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
69
thống kê 5%.Trong khi đó, ngành Chứng khoán cũng chịu sự tác động của nhân tố
này nhưng không có ý nghĩa thống kê với tất cả phương pháp ước lượng.
Như vậy, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản có tác động nghịch đến rủi ro phá
sản công ty cho toàn bộ mẫu và 4 ngành khảo sát và có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ
ngành Chứng khoán.
Nhân tố tỷ số Quỹ được lập từ hoạt động / Tổng nợ phải trả (CFTL): với phương pháp ước lượng khoản giữa (có hệ số R2 lớn nhất), quỹ lập từ hoạt động
trên tổng nợ phải trả có tác động đến rủi ro phá sản công ty, trong đó ngành Chứng
khoán chịu sự tác động thuận mạnh nhất sau đó đến ngành Hàng tiêu dùng cá nhân
– gia đình, sự tác động này lớn hơn rất nhiều so với toàn bộ mẫu. Tuy nhiên, kết quả
này không có ý nghĩa thống kê cho toàn bộ mẫu cũng như các ngành nghề khỏa sát,
và các phương pháp ước lượng còn lại cũng vậy.
Nhân tố thu nhập ròng âm hai năm gần đây (INTWO): với phương pháp ước lượng khoản giữa (có hệ số R2 lớn nhất) cho thấy rằng có mối tương quan thuận
giữa nhân tố thu nhập ròng âm hai năm gần đây và rủi ro phá sản công ty và có ý
nghĩa thống kê cho toàn bộ mẫu, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực
phẩm – Đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình. Cả ba ngành này chịu
sự tác động của nhân tố này mạnh hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát, trong đó ngành
Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình chịu sự tác động mạnh nhất.
Với hệ số R2 nhỏ hơn, phương pháp ước lượng ngẫu nhiên cho ngành Chứng
khoán cũng cho thấy mối tương quan thuận giữa nhân tố thu nhập ròng âm hai năm
gần đây và rủi ro phá sản công ty và có ý nghĩa thống kê, mức tác động này cũng
mạnh hơn so với toàn bộ mẫu. Trong khi đó, ngành Bất động sản cũng chịu sự tác
động của nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê với tất cả phương pháp ước
lượng.
Như vậy, nhân tố thu nhập ròng âm hai năm gần đây có mối tương quan
thuận với rủi ro phá sản công ty và có ý nghĩa thông kê cho toàn bộ mẫu, ngành Xây
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
70
dựng – Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm – Đồ uống, ngành Hàng tiêu dùng cá
nhân – gia đình và ngành Chứng khoán, mức độ tác động của nhân tố này đến các
ngành nghề mạnh hơn so với toàn bộ mẫu. Trong khi đó, ngành Bất động sản chịu
sự tác động của nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Nhân tố tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản (OENEG): với phương pháp ước lượng khoản giữa (có hệ số R2 lớn nhất) cho thấy rằng có mối tương quan thuận
giữa nhân tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản và rủi ro phá sản công ty và có ý nghĩa
thống kê cho toàn bộ mẫu, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Thực
phẩm – Đồ uống, hai ngành này chịu sự tác động của nhân tố này yếu hơn so vơi
toàn bộ mẫu khảo sát. Trong khi đó, ngành Chứng khoán cũng chịu sự tác động
thuận của nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê với tất cả phương pháp ước
lượng. Đặc biệt, nhân tố này là hằng số đối với hai ngành Bất động sản và ngành
Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình, do đó bị rút ra khỏi mô hình, và xem như nhân
tố này không tác động đến rủi ro phá sản các công ty thuộc hai ngành này.
Nhân tố tỷ số tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng (CHIN): xem xét toàn bộ mẫu, với phương pháp ước lượng khoản giữa (có hệ số R2 lớn nhất) cho thấy rằng
có mối tương quan nghịch giữa nhân tố tốc độ tăng trưởng nhu nhập ròng với rủi ro
phá sản công ty với hệ số hồi quy là -0.1901 và mức ý nghĩa thống kê là 1%. Trong
khi đó, các ngành Chứng khoán, ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu
xây dựng và ngành Thực phẩm – Đồ uống cũng có mối tương quan này nhưng
không có ý nghĩa thống kê. Ngược lại, ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình
chịu sự tác động thuận của nhân tố này đến rủi ro phá sản công ty nhưng cũng
không có ý nghĩa thống kê.
Với phương pháp ươc lượng ngẫu nhiên (có hệ số R2 nhỏ hơn), cho thấy rằng
ngành Thực phẩm – Đồ uống chịu sự tác động thuận của nhân tố tốc độ tăng trưởng
nhu nhập ròng đến rủi ro phá sản công ty với hệ số hồi quy là 0.0917 và có ý nghĩa
thống kê là 5%. Trong khi đó, toàn bộ mẫu khảo sát và các ngành nghề còn lại đều
chịu sự tác động của nhân tố này nhưng cũng không có ý nghĩa thống kê. Mặt khác,
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
71
xem xét ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình bằng phương pháp ước lượng cố
định cho thấy rằng: có mối tương quan thuận giữa nhân tố tốc độ tăng trưởng nhu
nhập ròng đến rủi ro phá sản công ty với hệ số hồi quy là 0.0676 và có ý nghĩa
thống kê là 5%.
Như vậy, toàn bộ mẫu chịu sự tác động nghịch của nhân tố tốc độ tăng
trưởng nhu nhập ròng đến rủi ro phá sản công ty. Ngược lại, hai ngành Thực phẩm
– Đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình chịu sự tác động thuận của
nhân tố này đến rủi ro phá sản công ty và tất cả đều có ý nghĩa thống kê. Trong khi
đó, các ngành còn lại cũng chịu sự tác động của nhân tố này đến rủi ro phá sản công
ty nhưng tất cả đều không có ý nghĩa thống kê.
5.2.1.3. Ƣớc lƣợng xác suất phá sản các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng
khoán Việt Nam giai đoạn 2004 -2012
Theo hai nghiên cứu độc lập của John K. Wald (2004) và Kai Kirchesch
(2004), rủi ro phá sản công ty được ước lượng bằng xác suất phá sản POscore được tính toán như sau: POscore= [1+e-Oscore]-1, với Oscore được tính toán từ kết quả ước
lượng mô hình dự báo phá sản công ty của James A.Ohlson (1980).
Đầu tiên, người viết thực hiện ước lượng chỉ số dự báo phá sản tổng thể
Oscore bằng bốn phương pháp là bình phương bé nhất thông thường, cố định, ngẫu
nhiên và khoản giữa. Sau đó, người viết chọn mô hình ước lượng tốt nhất có thể, đó là mô hình ước lượng có hệ số giải thích mô hình R2 cao nhất có thể, đồng thời mô
hình đó có nhiều hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê nhiều nhất, nghĩa là p-value của
mô hình nhỏ hơn so với các mô hình ước lượng khác. Mô hình dự báo phá sản công
ty như sau:
t –0.0491WCTAi
t + +0.4038INTWOi
t = 0.1671 + 0.0034SISEi – t
t
t – 0.0898TLTAi 0.1722CFTLi t
t
Oscorei 0.0064CLCAi +2.4980OENEGi –0.9309NITAi t – 0.1901CHINi
t
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
72
Với mô hình dự báo phá sản như trên, người viết thực hiện tính toán chỉ số
dự báo phá sản Oscore cho 735 công ty trong giai đoạn 2003 – 2012. Từ giá trị
Oscore có được, người viết tinh toán xác suất phá sản cho các công ty này, đồng
thời tính giá trị xác suất phá sản trung bình theo năm cho toàn bộ mẫu và năm
ngành khảo sát.
Với Oscore được tính toán cho toàn bộ mẫu khảo sát bằng phương pháp ước lượng khoản giữa (có hệ số R2 lớn nhất và bằng 33,48%), kết quả thống kê cho
thấy: xác suất phá sản bình quân của toàn bộ mẫu trong giai đoạn 2003 – 2012 là
51,49%. Xác suất phá sản bình quân của các ngành Chứng khoán cao nhất là
54,84%, kế đến là các ngành Xây dựng – vật liệu xây dựng là 51,77%, ngành Thực
phẩm – đồ uống và 51,75% và ngành Bất động sản là 51,50% lớn hơn so với toàn
bộ mẫu, trong khi đó ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có xác suất phá sản
bình quân nhỏ nhất là 51,16%.
Như vậy, xác suất phá sản trung bình của toàn bộ mẫu và năm ngành khảo
sát trong giai đoạn 2003 – 2012 nằm trong khoản từ 51,16% đến 54,84%, điều này
cho thấy nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này rất mong manh giữ sự tồn tại và
phá sản, giải thể hay ngừng hoạt động. Mặt khác, theo báo cáo của phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam ngày 03/06/2013: nền kinh tế khủng hoảng đã làm
cho số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động, phá sản ngày một tăng lên. Cụ thể
năm 2010 con số doanh nghiệp ngừng hoạt động, phá sản là 43.000; năm 2011 là
53.000; năm 2012 trên 54.000; những tháng đầu năm 2013, mỗi tháng có 4.900 -
5.000 và nâng tổng số đến nay là 20.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động, phá sản.
Điều này đã phản ảnh xác suất phá sản trung bình rất cao của các doanh nghiệp
trong mẫu khảo sát.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
73
5.2.1.4. Kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyết định đầu tƣ và rủi ro
phá sản công ty
Bảng 4.5 và bảng 4.6 trình bày kết quả ước lượng hàm đầu tư có thêm nhân
tố phá sản cho 735 công ty niêm yết và phân chia thành năm ngành nghề. Mô hình
này được ước lượng bằng bốn phương pháp là bình phương bé nhất thông thường,
cố định, ngẫu nhiên và khoản giữa. Nhìn chung, khi thêm nhân tố rủi ro phá sản
công ty mà nó được thể hiện bằng xác suất tồn tại vào mô hình hàm đầu tư, chúng ta
thấy rằng: nhân tố xác suất tồn tại giai đoạn này là nhân tố tác động mạnh vượt trội
đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau theo tương quan thuận cho toàn bộ mẫu,
ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Thực phẩm –
Đồ uống. Trong khi đó, ngành Chứng khoán cũng chịu sự tác động này nhưng với
mức ý nghĩa thống kê thấp và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình cũng chịu
sự tác động này nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả phân tích cụ thể các
nhân tố trong mô hình cho toàn bộ mẫu và năm ngành khảo sát như sau:
Nhân tố tỷ số mức độ đầu tư mới (I/K): bằng phương pháp ước lượng cố định (có hệ số R2 lớn nhất) cho toàn bộ mẫu, kết quả ước lượng cho thấy rằng có
mối tương quan nghịch giữa nhân tố mức độ đầu tư mới giai đoạn này và mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau với hệ số hồi quy là -0.1325 và có ý nghĩa thống kê 0.1%.
Ngược lại, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng có mối tương quan thuận giữa nhân
tố mức độ đầu tư mới giai đoạn này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau với hệ số
hồi quy là 0.2212 và cũng có ý nghĩa thống kê 0.1%.
Cũng tương tự như kết quả ước lượng của mô hình hàm đầu tư và chính sách
tài chính công ty ở trên, bằng phương pháp ước lượng ngẫu nhiên cho toàn bộ mẫu,
kết quả ước lượng cũng cho thấy rằng có mối tương quan thuận giữa nhân tố mức
độ đầu tư mới giai đoạn này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau cho toàn bộ mẫu
khảo sát, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân –
gia đình và tất cả đều có ý nghĩa thống kê, hai ngành này chịu sự tác động từ nhân
tố này mạnh hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát, trong đó, ngành Hàng tiêu dùng cá
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
74
nhân – gia đình chịu sự tác động mạnh nhất. Trong khi đó, các ngành còn lại cũng
chịu sự tác động từ nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thông kê.
Nhân tố doanh thu (Y/K): bằng phương pháp ước lượng cố định (có hệ số R2 lớn nhất) cho thấy rằng: có mối tương quan thuận giữa nhân tố doanh thu giai
đoạn này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau cho ngành Xây dựng – Vật liệu xây
dựng và ngành Thực phẩm – Đồ uống với hệ số hồi quy lần lượt là 0,0151 và
0,0302, chúng đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa tương ứng là 0,1% và 1%.
Trong khi đó, toàn bộ mẫu và các ngành còn lại cũng chịu sự tác động từ nhân tố
này nhưng không có ý nghĩa thống kê, hoặc có ý nghĩa thống kê nhưng mức ý nghĩa
yếu hơn với tất cả phương pháp ước lượng.
Nhân tố tổng vốn chủ sở hữu (E/K): bằng phương pháp ước lượng cố định (có hệ số R2 lớn nhất) cho thấy rằng: có mối tương quan thuận giữa nhân tố tổng
vốn chủ sở hữu giai đoạn này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau và có ý nghĩa
thống kê cho toàn bộ mẫu khảo sát và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình với
hệ số hồi quy lần lượt là 0,0036 và 0,0298 với mức ý nghĩa thống kê là 0,1% và 5%.
Trong đó, ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình chịu sự tác động từ nhân tố này
mạnh hơn so với toàn bộ mẫu. Trong khi đó, các ngành còn lại cũng chịu sự tác
động từ nhân tố này nhưng kết quả ước lượng không có ý nghĩa thống kê.
Nhân tố xác suất tồn tại công ty (S): Mô hình không cung cấp một mối quan
hệ rõ ràng giữa xác suất phá sản và mức độ đầu tư mới của công ty, nhưng nó thể
hiền rằng mối quan hệ này là nghịch tương ứng với sự tác động thuận của xác suất
tồn tại lên mức độ đầu tư mới của công ty và ngược lại. Xác suất tồn tại công ty
được tính từ xác suất phá sản công ty dựa vào chỉ số dự báo phá sản Oscore như đã
trình bày ở trên, có hai cách tính toán chỉ số Oscore là: chỉ số này được tính toán
trên toàn bộ mẫu khảo sát hoặc được tính toán riêng cho từng ngành. Chúng ta xem
xét cách tính Oscore trên toàn bộ mẫu khảo sát trước.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
75
Xem xét toàn bộ mẫu khảo sát với tất cả phương pháp ước lượng, cho thấy
rằng: có mối tương quan thuận giữa xác suất tồn tại công ty giai đoạn này và mức
độ đầu tư mới giai đoạn sau, tất cả đều có mức ý nghĩa thống kê mạnh là 0.1%
ngoại trừ phương pháp ước lượng khoản giữa không có ý nghĩa thống kê. Mức độ
tác động của nhân tố này là mạnh vượt trội so với các nhân tố khác trong mô hình.
Khi xem xét từng ngành, chỉ có hai ngành là Xây dựng – Vật liệu xây dựng
(sử dụng phương pháp ước lượng cố định) và ngành Thực phẩm – Đồ uống (sử
dụng phương pháp ước lượng ngẫu nhiên) chịu sự tác động thuận của nhân tố xác
suất tồn tại công ty giai đoạn này đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau và có ý
nghĩa thống kê. Trong đó, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng chịu sự tác động
của nhân tố này yếu hơn so với toàn bộ mẫu, ngược lại, ngành Thực phẩm – Đồ
uống chịu sự tác động mạnh hơn so với toàn bộ mẫu. Với phương pháp ước lượng
bình phương bé nhất, ngành Chứng khoán cũng chịu sự tác động thuận từ nhân tố
này nhưng có mức ý nghĩa thống kê 10%. Các ngành còn lại cũng chịu sự tác động
của nhân tố này đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau nhưng không có ý nghĩa
thống kê với tất cả phương pháp ước lượng.
Khi chỉ số dự báo phá sản Oscore được tính toán riêng cho từng ngành, kết quả ước lượng bằng phương pháp cố định (có hệ số R2 lớn nhất) cho ngành Bất
động sản cho thấy rằng: có mối tương quan thuận giữa nhân tố xác suất tồn tại công
ty giai đoạn này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau với hệ số hồi quy là 44.4830
và mức ý nghĩa thống kê 1%, mức tác động này mạnh hơn rất nhiều so với toàn bộ
mẫu khảo sát. Điều này hàm ý rằng: chính các quyết định đầu tư và tài trợ của các
công ty hoạt động trong ngành Bất động sản đã tạo ra cho ngành này có chỉ số dự
báo phá sản Oscore rất cao, dẫn đến rủi ro phá sản cao, do đó xác suất tồn tại thấp,
và một khi đã tồn tại, các công ty này vẫn tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô hoạt
động vì kỳ vọng tỷ suất sinh lợi cao từ thị trường này mang lại. Kết quả ước lượng
cho các ngành khác cũng không có sự khác biệt lớn so với cách tính chỉ số Oscore
trên toàn bộ mẫu khảo sát.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
76
Như vậy, nếu chỉ số dự báo phá sản Oscore được tính trên toàn bộ mẫu khảo
sát, nhân tố xác suất tồn tại công ty giai đoạn này có tác động thuận đến mức độ đầu
tư mới giai đoạn sau cho toàn bộ mẫu, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và
ngành Thực phẩm – Đồ uống và đều có ý nghĩa thống kê, trong khi các ngành khác
cũng chịu sự tác động của nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê. Nếu chỉ số
dự báo phá sản Oscore được tính riêng cho từng ngành khảo sát, chúng ta thấy có
thêm ngành Bất động sản cũng chịu sự tác động thuận từ nhân tố này đến mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau của công ty, và đồng thời đây cũng là ngành chịu sự tác
động vượt trội từ nhân tố này so với các ngành nghề khác và toàn bộ mẫu khảo sát.
5.2.2. Kết quả nghiên cứu về sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008 đến mối quan hệ giữa quyết định đầu tƣ và rủi ro phá sản công
ty.
Bảng 4.7 trong phần Phụ lục 5, trình bày kết quả ước lượng hàm đầu tư có
thêm nhân tố phá sản cho 735 công ty niêm yết và phân chia thành năm ngành nghề,
trong đó chi tiết cho hai giai đoạn trước và sau khủng hoảng tài chính 2008. Mô
hình này được ước lượng bằng hai phương pháp là bình phương bé nhất thông
thường và phương pháp cố định. Nhìn chung, khi tách mẫu khảo sát thành hai mẫu
con tương ứng với hai thời kỳ trước và sau khủng hoảng 2008, kết quả ước lượng
hàm đầu tư có thêm nhân tố xác suất phá sản mà nó được thể hiện bằng xác suất tồn
tại, chúng ta thấy rằng: ở giai đoạn sau khủng hoảng, các nhân tố xác suất tồn tại,
mức độ đầu tư mới, và tổng vốn chủ sở hữu của giai đoạn này có tác động đến mức
độ đầu tư mới giai đoạn sau theo tương quan thuận cho toàn bộ mẫu khảo sát ở với
mức độ tác động nhỏ hơn so với toàn giai đoạn khảo sát, trong đó nhân tố xác suất
tồn tại giai đoạn này là nhân tố tác động mạnh vượt trội. Trong khi đó, ở giai đoạn
trước khủng hoảng, nhân tố mức độ đầu tư mới giai đoạn này có tác động nghịch và
nhân tố doanh thu giai đoạn này có tác động thuận đến mức độ đầu tư mới giai đoạn
sau.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
77
Ở giai đoạn sau khủng hoảng, các ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và
ngành Thực phẩm – đồ uống chịu sự tác động thuận của nhân tố xác suất tồn tại giai
đoạn này đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau, trong đó ngành Xây dựng – Vật liệu
xây dựng còn chịu sự tác động thuận của hai nhân tố mức độ đầu tư mới và doanh
thu giai đoạn này lên mức độ đầu tư mới giai đoạn sau. Trong khi đó, các ngành
Chứng khoán, ngành Bất động sản, và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình
chịu sự tác động của nhân tố xác suất tồn tại giai đoạn này đến mức độ đầu tư mới
giai đoạn sau nhưng mức ý nghĩa thống kê yếu là 10%. Kết quả phân tích cụ thể các
nhân tố trong mô hình cho toàn bộ mẫu và năm ngành khảo sát chi tiết trước và sau
khủng hoảng tài chính 2008 như sau:
Nhân tố tỷ số mức độ đầu tư mới (I/K): bằng phương pháp ước lượng cố định (có hệ số R2 lớn nhất) cho toàn bộ mẫu, kết quả ước lượng cho thấy rằng có
mối tương quan nghịch giữa nhân tố mức độ đầu tư mới giai đoạn này và mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau cho cả hai giai đoạn trước và sau khủng hoảng với hệ số
hồi quy lần lượt là -0,5500 và -0,1533 và cùng có mức ý nghĩa thống kê 0.1%. Mức
độ tác động của nhân tố này ở cả hai giai đoạn trước và sau khủng hoảng đều mạnh
hơn so với cả giai đoạn khảo sát.
Bằng phương pháp ước lượng cố định, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng
có mối tương quan thuận giữa nhân tố mức độ đầu tư mới giai đoạn này với mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau với hệ số hồi quy là 0,2179 và có ý nghĩa thống kê 0.1%
cho giai đoạn sau khủng hoảng, giai đoạn trước khủng hoảng cũng chịu sự tác động
của nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, với phương pháp ước lượng bình phương bé nhất thông thường, có hệ số R2 nhỏ hơn, cũng cho thấy có
mối tương quan thuận giữa nhân tố mức độ đầu tư mới giai đoạn này và mức độ đầu
tư mới giai đoạn sau với hệ số hồi quy là 0,4389 và cũng có ý nghĩa thống kê 1%
cho giai đoạn trước khủng hoảng. Mức độ tác động của nhân tố này ở giai đoạn sau
khủng hoảng yếu hơn so với cả giai đoạn khảo sát. Ngược lại, mức độ tác động của
nhân tố này ở giai đoạn trước khủng hoảng mạnh hơn so với cả giai đoạn khảo sát.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
78
Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình cũng có mối quan hệ này là tương quan
thuận cho giai đoạn sau khủng hoảng với hệ số hồi quy là 0,3573 và có ý nghĩa
thống kê 1%, mức độ tác động mạnh hơn so với cả giai đoạn khảo sát. Ở giai đoạn
trước khủng hoảng, ngành này chịu sự tác động nghịch của nhân tố này nhưng
không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, các ngành còn lại cũng chịu sự tác động
từ nhân tố này nhưng cũng không có ý nghĩa thống kê.
Nhân tố doanh thu (Y/K): phương pháp ước lượng bình phương bé nhất
thông thường ở giai đoạn trước khủng hoảng cho toàn bộ mẫu, cho thấy có mối
tương quan thuận giữa nhân tố doanh thu giai đoạn này và mức độ đầu tư mới giai
đoạn sau với hệ số hồi quy là 0,0009 và có ý nghĩa thống kê 5%. Trong khi đó, ở
giai đoạn sau khủng hoảng cũng có mối tương quan thuận này nhưng không có ý nghĩa thống kê. Bằng phương pháp ước lượng cố định (có hệ số R2 lớn nhất) cho
thấy rằng: ở giai đoạn sau khủng hoảng, có mối tương quan thuận giữa nhân tố
doanh thu giai đoạn này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau cho ngành Xây dựng –
Vật liệu xây dựng và ngành Thực phẩm – Đồ uống với hệ số hồi quy lần lượt là
0,0135 và 0,0083, và chúng đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa tương ứng là
1% và 5%, đồng thời mức độ tác động của nhân tố này đến hai ngành này đều mạnh
hơn so với toàn giai đoạn. Trong khi đó, các ngành còn lại cũng chịu sự tác động từ
nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Nhân tố tổng vốn chủ sở hữu (E/K): bằng phương pháp ước lượng cố định (có hệ số R2 lớn nhất) cho thấy rằng: toàn bộ mẫu ở giai đoạn sau khủng hoảng có
mối tương quan thuận giữa nhân tố tổng vốn chủ sở hữu giai đoạn này và mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau và có ý nghĩa thống kê 1% với hệ số hồi quy là 0,0038,
mức độ tác động mạnh hơn so với toàn giai đoạn, ở giai đoạn trước khủng hoảng
cũng chịu sự tác động của nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê. Trong khi
đó, ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình ở giai đoạn trước khủng hoảng cũng
có mối tương quan thuận giữa nhân tố tổng vốn chủ sở hữu giai đoạn này và mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau và có ý nghĩa thống kê 5% với hệ số hồi quy là 0,041467,
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
79
mức độ tác động mạnh hơn so với toàn giai đoạn, ở giai đoạn sau khủng hoảng cũng
chịu sự tác động của nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê. Các ngành còn
lại cũng chịu sự tác động từ nhân tố này nhưng kết quả ước lượng không có ý nghĩa
thống kê.
Nhân tố xác suất tồn tại công ty (S): xác suất tồn tại công ty được tính từ
chỉ số dự báo phá sản Oscore trên toàn bộ mẫu khảo sát. Xem xét toàn bộ mẫu khảo
sát, ở giai đoạn sau khủng hoảng với cả hai phương pháp ước lượng, cho thấy rằng:
có mối tương quan thuận giữa xác suất tồn tại công ty giai đoạn này và mức độ đầu
tư mới giai đoạn sau và có mức ý nghĩa thống kê mạnh là 1% với hệ số hồi quy là
8,5461. Mức độ tác động của nhân tố này là mạnh vượt trội so với các nhân tố khác
trong mô hình và tác động mạnh hơn so với toàn giai đoạn. Trong khi đó, ở giai
đoạn trước khủng hoảng, mức độ đầu tư mới giai đoạn sau chịu sự tác động nghịch
từ nhân tố này nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Khi xem xét từng ngành ở giai đoạn sau khủng hoảng, chỉ có hai ngành là
Xây dựng – Vật liệu xây dựng (sử dụng phương pháp ước lượng cố định) và ngành
Thực phẩm – Đồ uống (sử dụng phương pháp ước lượng ngẫu nhiên) chịu sự tác
động thuận của nhân tố xác suất tồn tại công ty giai đoạn này đến mức độ đầu tư
mới giai đoạn sau và có ý nghĩa thống kê. Trong đó, ngành Xây dựng – Vật liệu xây
dựng chịu sự tác động của nhân tố này yếu hơn so với toàn bộ mẫu với hệ số hồi
quy là 7,9393 và mức ý nghĩa thống kê là 1%. Ngược lại, ngành Thực phẩm – Đồ
uống chịu sự tác động mạnh hơn so với toàn bộ mẫu với hệ số hồi quy là 3,1694 và
mức ý nghĩa thống kê là 5%. Trong khi đó, ở giai đoạn trước khủng hoảng, mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau của ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng (sử dụng phương
pháp ước lượng cố định) chịu sự tác động mạnh hơn so với toàn bộ mẫu của nhân tố
xác suất tồn tại công ty giai đoạn này, nhưng có ý nghĩa thống kê yếu là 10%.
Ngược lại, mối tương quan nghịch giữa nhân tố xác suất tồn tại công ty giai đoạn
này và mức độ đầu tư mới giai đoạn sau ở giai đoạn trước khủng hoảng của ngành
Thực phẩm – đồ uống không có ý nghĩa thống kê.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
80
Ở giai đoạn sau khủng hoảng, các ngành Chứng khoán, ngành Bất động sản
và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình cũng chịu sự tác động của nhân tố xác
suất tồn tại công ty giai đoạn này đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau nhưng có ý
nghĩa thống kê yếu 10%. Ở giai đoạn trước khủng hoảng, sự tác động đó đến ba
ngành này đều không có ý nghĩa thống kê.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
81
6. KẾT LUẬN
6.1. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu đạt đƣợc
Bài nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng thực nghiệm về sự tác động của
các nhân tố tỷ số tài chính đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012. Bên cạnh
việc nghiên cứu 737 công ty trong toàn bộ mẫu khảo sát, người viết còn phân loại
các công ty trong mẫu khảo sát thành năm ngành để thực hiện nghiên cứu thêm là
ngành Chứng khoán, ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng,
ngành Thực phẩm – đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình. Ngoài ra,
bài viết cũng nghiên cứu sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008 đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam bằng cách tách mẫu khảo sát thành hai mẫu con
tương ứng với hai thời kỳ trước và sau khủng hoảng. Dưới đây là tóm lược các kết
quả đã nghiên cứu theo hướng trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra trước đó.
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến
quyết định đầu tư mới của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn 2003 – 2012 , bằng mô hình đầu tư và chính sách tài chính của
công ty của Stephen Bond và Costas Meghir (1993) như sau:
Khi xem xét toàn bộ mẫu khảo sát, kết quả ước lượng cho thấy rằng, mức độ
đầu tư mới giai đoạn sau của các công ty niêm yết chịu sự tác động thuận của các
nhân tố về mức độ đầu tư mới và nhân tố dòng tiền giai đoạn này; và đồng thời chịu
sự tác động nghịch của nhân tố doanh thu giai đoạn này và tất cả đều có ý nghĩa
thống kê. Trong khi đó, nhân tố nợ vay dài hạn giai đoạn này không tác động đến
mức độ đầu tư mới giai đoạn sau nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Xây dựng – vật liệu xây
dựng và ngành Thực phẩm – đồ uống cùng có mối tương quan thuận giữa ba nhân
tố mức độ đầu tư mới, dòng tiền và doanh thu giai đoạn này với mức độ đầu tư mới
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
82
giai đoạn sau, trong đó, hai nhân tố mức độ đầu tư mới và doanh thu giai đoạn này
có sự tác động mạnh hơn đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau so với toàn bộ mẫu
khảo sát. Cả hai ngành này đều chịu sự tác động của nhân tố nợ vay dài hạn nhưng
không có ý nghĩa thống kê. Đối với ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình cũng
có mối tương quan thuận giữa hai nhân tố mức độ đầu tư mới và doanh thu giai
đoạn này với mức độ đầu tư mới giai đoạn sau, cả hai nhân tố này có sự tác động
mạnh hơn đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau so với toàn bộ mẫu khảo sát. Ngược
lại, nhân tố dòng tiền giai đoạn này có mối tương quan nghịch với mức độ đầu tư
mới giai đoạn sau. Ngành này cũng chịu sự tác động của nhân tố nợ vay dài hạn
nhưng cũng không có ý nghĩa thống kê.Hai ngành còn lại là ngành Chứng khoán và
ngành Bất động sản cũng chịu sự tác động của tất cả các nhân tố này nhưng tất cả
đều không có ý nghĩa thống kê.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến rủi ro
phá sản công ty bằng mô hình dự báo phá sản của James A.Ohlson (1980), thể hiện
bởi chỉ số dự báo phá sản Oscore như sau: khi xem xét toàn bộ mẫu khảo sát, có
mối tương quan thuận giữa ba nhân tố về tính thanh khoản ngắn hạn, thu nhập ròng
âm hai năm gần đây và nợ phải trả vượt tổng tài sản với chỉ số dự báo phá sản
Oscore; và đồng thời hai nhân tố tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tốc độ tăng
trưởng thu nhu nhập ròng có mối tương quan nghịch với chỉ số dự báo phá sản
Oscore, và tất cả đều có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, bốn nhân tố còn lại là quy
mô doanh nghiệp, tổng nợ trên tổng tài sản, vốn lưu động trên tổng tài sản và quỹ
được lập từ hoạt động trên tổng nợ phải trả cũng có tác động đến chỉ số dự báo phá
sản Oscore nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát, ngành Chứng khoán chịu sự tác
động duy nhất một nhân tố trong mô hình nghiên cứu là nhân tố thu nhập ròng hai
năm gần đây âm, nó có mối tương quan thuận với chỉ số dự báo phá sản Oscore và
có ý nghĩa thống kê, mức độ tác động của nó mạnh hơn so với toàn bộ mẫu khảo
sát.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
83
Ngành Bất động sản có mối tương quan thuận giữa hai nhân tố là vốn lưu
động trên tổng tài sản và khả năng thanh toán ngắn hạn với chỉ số dự báo phá sản
Oscore và có ý nghĩa thống kê, trong đó mức độ tác động của nhân tố khả năng
thanh toán ngắn hạn mạnh hơn so với toàn bộ mẫu; ngược lại, nhân tố tỷ suất sinh
lợi trên tổng tài sản có mối tương quan nghịch với chỉ số dự báo phá sản Oscore và
có ý nghĩa thống kê, mức độ tác động của nó mạnh hơn so với toàn bộ mẫu khảo
sát.
Ngành Xây dựng – vật liệu xây dựng có mối tương quan thuận giữa hai nhân
tố là thu nhập ròng âm hai năm gần đây và tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản với chỉ
số dự báo phá sản Oscore và có ý nghĩa thống kê, trong đó mức độ tác động của
nhân tố thu nhập ròng âm hai năm gần đây mạnh hơn so với toàn bộ mẫu, và nhân
tố tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản tác động yếu hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát;
ngược lại, hai nhân tố vốn lưu động trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài
sản có mối tương quan nghịch với chỉ số dự báo phá sản Oscore và có ý nghĩa thống
kê, mức độ tác động của nhân tố tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản mạnh hơn so với
toàn bộ mẫu khảo sát.
Ngành Thực phẩm – đồ uống có mối tương quan thuận giữa ba nhân tố là thu
nhập ròng âm hai năm gần đây, tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản và tốc độ tăng
trưởng thu nhập ròng với chỉ số dự báo phá sản Oscore và có ý nghĩa thống kê,
trong đó mức độ tác động của nhân tố thu nhập ròng âm hai năm gần đây mạnh hơn
so với toàn bộ mẫu, và nhân tố tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản tác động yếu hơn
so với toàn bộ mẫu khảo sát; ngược lại, nhân tố tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản có
mối tương quan nghịch với chỉ số dự báo phá sản Oscore và có ý nghĩa thống kê,
mức độ tác động của nhân tố này mạnh hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát.
Ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình có mối tương quan thuận giữa bốn
nhân tố là vốn lưu động trên tổng tài sản, khả năng thanh toán ngắn hạn, thu nhập
ròng âm hai năm gần đây, và tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng với chỉ số dự báo
phá sản Oscore và có ý nghĩa thống kê. Trong đó, mức độ tác động của hai nhân tố
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
84
khả năng thanh toán ngắn hạn và thu nhập ròng âm hai năm gần đây mạnh hơn so
với toàn bộ mẫu; ngược lại, hai nhân tố là quy mô công ty và tỷ suất sinh lợi trên
tổng tài sản có mối tương quan nghịch với chỉ số dự báo phá sản Oscore và có ý
nghĩa thống kê, mức độ tác động của nhân tố tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản mạnh
hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quyết định đầu
tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
trong giai đoạn 2003 – 2012 và sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008 đến mối quan hệ này , bằng mô hình đầu tư có thêm nhân tố phá sản
của John K. Wald (2004) như sau:
Mặt dù mô hình nghiên cứu không cung cấp một mối quan hệ rõ ràng giữa
xác suất phá sản và mức độ đầu tư mới của công ty, nhưng nó thể hiện rằng mối
quan hệ này là nghịch tương ứng với sự tác động thuận của xác suất tồn tại lên mức
độ đầu tư mới của công ty và ngược lại. Khi thêm nhân tố rủi ro phá sản công ty mà
nó được thể hiện bằng xác suất tồn tại vào mô hình hàm đầu tư, kết quả thực
nghiệm cho thấy: nhân tố xác suất tồn tại giai đoạn này là nhân tố tác động mạnh
vượt trội đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau theo tương quan thuận cho toàn bộ
mẫu khảo sát, ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành
Thực phẩm – Đồ uống. Trong khi đó, ngành Chứng khoán cũng chịu sự tác động
này nhưng với mức ý nghĩa thống kê thấp đối với chỉ số Oscore được tính cho toàn
mẫu khảo sát; và ngược lại, khi chỉ số Oscore được tính riêng cho từng ngành thì
nhân tố xác suất tồn tại giai đoạn này tác động rất mạnh đến mức độ đầu tư mới giai
đoạn sau và có ý nghĩa thống kê; ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình cũng
chịu sự tác động này nhưng không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, nhân tố vốn chủ
sở hữu cũng có sự tác động thuận đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau và có ý
nghĩa thống kê cho toàn bộ mẫu khảo sát và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia
đình.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
85
Sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến mức độ
tác động của nhân tố xác suất phá sản thể hiện qua xác suất tồn tại ảnh hưởng đến
mức độ đầu tư mới công ty, cụ thể như sau: ở giai đoạn sau khủng hoảng, nhân tố
xác suất tồn tại của giai đoạn này tác động mạnh vượt trội đến mức độ đầu tư mới
giai đoạn sau theo tương quan thuận cho toàn bộ mẫu khảo sát, với mức độ tác động
nhỏ hơn so với toàn giai đoạn khảo sát. Trong khi đó, ở giai đoạn trước khủng
hoảng, nhân tố này cũng có tác động đến mức độ đầu tư mới giai đoạn sau nhưng
không có ý nghĩa thống kê.
Khi xem xét từng ngành trong mẫu khảo sát ở giai đoạn sau khủng hoảng,
các ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Thực phẩm – đồ uống chịu sự
tác động thuận của nhân tố xác suất tồn tại giai đoạn này đến mức độ đầu tư mới
giai đoạn sau, với mức độ mạnh hơn so với toàn giai đoạn khảo sát. Trong khi đó,
các ngành Chứng khoán, ngành Bất động sản, và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân –
gia đình chịu sự tác động của nhân tố xác suất tồn tại giai đoạn này đến mức độ đầu
tư mới giai đoạn sau nhưng không rõ ràng, mức ý nghĩa thống kê yếu là 10%. Ở giai
đoạn trước khủng hoảng, chỉ có duy nhất ngành Xây dựng – vật liệu xây dựng chịu
sự tác động thuận của nhân tố xác suất tồn tại giai đoạn này đến mức độ đầu tư mới
giai đoạn sau , với mức độ tác động yếu hơn so với toàn giai đoạn khảo sát.
Bên cạnh đó, bài viết đã ước lượng xác suất phá sản để phục vụ cho việc
nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quyết định đầu tư và rủi ro phá sản
của các công ty niêm yết cũng như năm ngành kinh tế được chọn nghiên cứu trong
mẫu khảo sát giai đoạn 2003 – 2012 như sau:
Xác suất phá sản POscore được tính toán như sau: POscore= [1+e-Oscore]-1, với
Oscore được tính toán từ kết quả ước lượng mô hình dự báo phá sản công ty. Với
Oscore được tính cho toàn bộ mẫu khảo sát bằng phương pháp ước lượng khoản
giữa, kết quả ước lượng cho thấy: xác suất phá sản bình quân của các công ty niên
yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012 trong khoản từ
51% đến 55%. Cụ thể là, xác suất phá sản bình quân của toàn bộ mẫu trong giai
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
86
đoạn 2003 – 2012 là 51,49%. Xác suất phá sản bình quân của các ngành Chứng
khoán cao nhất là 54,84%, ngành Xây dựng – vật liệu xây dựng là 51,77%, ngành
Thực phẩm – đồ uống là 51,75%, và ngành Bất động sản là 51,50%, cả bốn ngành
ngày có xác suất phá sản đều lớn hơn so với toàn bộ mẫu, trong khi đó ngành Hàng
tiêu dùng cá nhân – gia đình có xác suất phá sản bình quân nhỏ nhất là 51,16%, thấp
hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn này rất mong manh giữ sự tồn tại và phá sản, giải thể hay ngừng hoạt động.
Ngoài ra, kết quả thống kê cho thấy nguồn lực tài chính được phân bổ mạnh
vào các ngành Bất động sản, ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng và ngành Chứng
khoán, và đồng thời phân bổ ít hơn rất nhiều vào các ngành Thực phẩm – Đồ uống
và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình thể hiện qua các chỉ tiêu kế toán liên
quan đến nợ mà nó cấu thành các nhân tố trong mô hình nghiên cứu dự báo phá sản,
đó là: nhân tố tổng nợ phải trả trên tổng tài sản (TLTA), nợ ngắn hạn trên tài sản
ngắn hạn hay tính thanh khoản ngắn hạn (CLCA), quỹ được lập từ hoạt động trên
tổng nợ phải trả (CFTL) và tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản (OENEG). Kết quả
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy:
Đối với nhóm ngành được phân bổ nguồn lực tài chính mạnh, ngành Bất
động sản chịu sự tác động thuận của nhân tố tính thanh khoản ngắn hạn (mạnh hơn
so với toàn bộ mẫu), ngành Xây dựng – vật liệu xây dựng chịu sự tác động thuận
của nhân tố tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản (yếu hơn so với toàn bộ mẫu) và
ngành Chứng khoán không chịu sự tác động của bất kỳ nhân tố nợ nào đến rủi ro
phá sản công ty. Đến lược rủi ro phá sản thể hiện qua xác suất tồn tại công ty đã tác
động thuận rất mạnh đến hành vi đầu tư mới của các công ty thuộc ngành Bất động
sản (mức độ tác động lớn hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát) và ngành Xây dựng –
vật liệu xây dựng (mức độ tác động nhỏ hơn so với toàn bộ mẫu khảo sát). Trong
khi đó, ngành Chứng khoán cũng chịu sự tác động này nhưng không rõ ràng.
Đối với nhóm ngành được phân bổ nguồn lực tài chính yếu hơn, ngành Hàng
tiêu dùng cá nhân – gia đình chịu sự tác động thuận của nhân tố tính thanh khoản
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
87
ngắn hạn (mạnh hơn so với toàn bộ mẫu) và ngành Thực phẩm – Đồ uống chịu sự
tác động thuận của nhân tố tổng nợ phải trả vượt tổng tài sản (yếu hơn so với toàn
bộ mẫu) đến rủi ro phá sản công ty. Đến lược rủi ro phá sản thể hiện qua xác suất
tồn tại công ty đã tác động thuận rất mạnh đến hành vi đầu tư mới của các công ty
thuộc ngành Thực phẩm – đồ uống (mức độ tác động lớn hơn so với toàn bộ mẫu
khảo sát). Trong khi đó, ngành Hàng tiêu dùng cá nhân – gia đình cũng chịu sự tác
động này nhưng không có ý nghĩa thống kê.
6.2. Hạn chế của bài nghiên cứu
Bên cạnh những kết quả đạt được, bài nghiên cứu còn tồn tại một số hạn chế
như sau:
Về đối tượng nghiên cứu: bài nghiên cứu chỉ nghiên cứu các công ty niêm
yết hiện hữu và các công ty hủy bỏ niêm yết theo nghị định số 58/2012/NĐ-CP của
chính phủ, không xem xét các công ty chưa niêm yết, các công ty hủy bỏ niêm yết
tự nguyện và các công ty hủy bỏ niêm yết để sáp nhập. Mặc dù là toàn bộ mẫu khảo
sát có 737 công ty niêm yết là lớn so với tổng số công ty đang niêm yết trên thị
trường và thời gian dài (2003 - 2012), nhưng khi phân tách mẫu lớn thành các mẫu
con theo ngành nghề đã làm cho số lượng công ty trong các mẫu con giảm mạnh và
bảng dữ liệu mất cân bằng lớn, do đó làm giảm mức độ chính xác của các kết quả
hồi quy của các mô hình. Bênh cạnh đó, ngoài việc phân loại các công ty theo năm
ngành nghề, cũng cần phải phân loại các công ty niêm yết theo quy mô.
Về giai đoạn nghiên cứu: bài nghiên cứu tập hợp dữ liệu các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian 10 năm, từ năm 2003 đến
2012, được xem là khá dài, tuy nhiên so với một số nghiên cứu trên thế giới, đây
cũng là một hạn chế của bài nghiên cứu.
Về số liệu sử dụng để tính toán các biến trong mô hình: khi tính toán các tỷ
số tài chính là các biến trong các mô hình nghiên cứu, người viết sử dụng giá trị sổ
sách trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết để thực hiện các tính toán này,
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
88
do số liệu về giá trị thị trường gần như không thể thu thập tại Việt Nam với đặc thù
là sự giới hạn của dữ liệu công bố cũng như tính chưa hoàn thiện của các số liệu thị
trường.
Về mô hình nghiên cứu: bài nghiên cứu chỉ áp dụng lại các mô hình nghiên
cứu định lượng của các tác giả đã nghiên cứu trước đó để phân tích cho các công ty
đã niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2003 – 2012 và không phát triển hay xây
dựng thêm mô hình. Trong mô hình đầu tư động và chính sách tài chính công ty của
Bond và Meghir (1994), không đưa vào tỷ số thanh toán cổ tức và phát hành cổ
phần mới vì tập hợp số liệu không đầy đủ cho toàn bộ mẫu và các mẫu con.
6.3. Hƣớng nghiên cứu trong tƣơng lai
Từ những kết quả đã đạt được cũng như các hạn chế trong bài nghiên cứu,
sau đây là một số hướng nghiên cứu có thể thực hiện trong tương lai:
Mở rộng đối tượng nghiên cứu, bao gồm các công ty niêm yết và chưa niêm
yết trên thị trường Việt Nam. Mở rộng phạm vi các công ty hủy niêm yết, ngoài
công ty hủy niêm yết theo nghị định số 58/2012/NĐ-CP của chính phủ, cần xem xét
các công ty hủy bỏ niêm yết tự nguyện và các công ty hủy bỏ niêm yết để sáp nhập.
Bênh cạnh đó, cũng cần phân loại các công ty niêm yết theo quy mô công ty, gồm
công ty có quy mô nhỏ, vừa và lớn theo các chỉ tiêu phân loại như: giá trị tài sản cố
định, doanh thu hay lợi nhuận. Mặt khác, chúng ta có thể mở rộng thị trường nghiên
cứu, ngoài các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chúng ta
nghiên cứu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán các nước Đông Nam
Á, hay rộng hơn là các nước Châu Á và so sánh các kết quả đạt được.
Khi tính toán các tỷ số tài chính là các biến trong các mô hình nghiên cứu,
ngoài việc tính toán dựa trên giá trị sổ sách trên báo cáo tài chính của các công ty
niêm yết, cũng cần tính toán bằng giá trị thị trường và tiến hành phân tích, so sánh
kết quả đạt được.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
89
Ngoài việc ước lượng chỉ số dự báo phá sản Oscore bằng mô hình của James
A.Ohlson (1980) để tính xác suất phá sản, chúng ta cũng có thể tính chỉ số dự báo
phá sản bằng các mô hình khác như mô hình của Zscore của Edward I.Altman
(1968), mô hình dự báo phá sản bằng phương pháp ngẫu nhiên của Jan Klobucnik
và Soenke Sievers (2003) hay sử dụng lý thuyết định giá quyền chọn của Ming Xu
và Chu Zhang (2008) để tính xác suất phá sản công ty. Bên cạnh đó, chúng ta còn
có thể đưa vào nhân tố thanh toán cổ tức và phát hành cổ phần mới vào mô hình
hàm đầu tư động và chính sách tài chính công ty hay mô hình hàm đầu tư có thêm
nhân tố phá sản. Yếu tố tồn kho của công ty cũng làm giảm khả năng thanh khoản,
tăng rủi ro phá sản công ty, do đó cần đưa nhân tố này vào mô hình nghiên cứu.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
90
Tài liệu tham khảo
Ben Chin-Fook Yap, David Gun-Fie Yong and Wai-Ching Poon, 2010. How Well Do Financial Ratios and Multiple Discriminant Analysis Predict Company Failures in Malaysia. International Research Journal of Finance and Economics, Issue 54 (2010).
Cổ phiếu 68, 2013. Báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012. http://www.cophieu68.com. [Ngày truy cập 19 tháng 06 năm 2013].
Edward I.Altman, 1968. Financial Ratios, Discriminant Analysis and the Prediction of Corporate Bankruptcy. The Journal of Finance, Vol. 23, No. 4. (Sep., 1968), pp. 589-609.
Evridiki Neophytou, Andreas Charitou and Chris Charalambous, 2000. Predicting Corporate Failure: Empirical Evidence for the UK. Journal of Accounting Literature, vol. 2 1983
Hay Sinh, 2013. Ước tính xác suất phá sản trong thẩm định giá trị doanh nghiệp. Phát triển & Hội nhập, Số 8 (18), 52 – 57.
Ignacio Hernando and André Tiomo, 2002. Financial constraints and investment in France and Spain: a comparison using firm level data. Banco de España — Servicio de Estudios Documento de Trabajo n.º 0214.
the ProbabilisticPrediction of
James A.Ohlson, 1980. FinancialRatios and Bankruptcy. Journal of Accounting Research, Vol.18N.
John K. Wald, 2004. Adding Bankruptcy to Models of Investment. SSRN, 210128
Kai Kirchesch, 2004. Financial Risks, Bankruptcy Probabilities, and the Investment Behaviour of Enterprises. HWWA Discussion Paper, 299
Karen Mills, Steven Morling and Warren Tease, 1994. The influence of financial factors on corporate investment. Research Discussion Paper, 9402
Ming Xu and Chu Zhang, 2008. Bankruptcy prediction: the case of Japanese listed companies. Rev Account Stud, 14, 534–558.
Nghị định chính phủ số 58/2012/NĐ-CP, 20/07/2012. Về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán.
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
91
Nguyễn Thị Ngọc Trang và Trang Thúy Quyên, 2013. Mối quan hệ giữa sử dụng đòn bẩy tài chính và quyết định đầu tư. Phát triển & Hội nhập, Số 9 (19), 10 – 15
Pranee Leksrisakul and Michael Evans, 2005. Model of Corporate Bankruptcy in Thailand Using Multiple Discriminant Analysis. Journal of Economic and Social Policy, Volume 10.
Stephen Bond and Costas Meghir, 1994. Dynamic Investment Models and the Firm's Financial Policy. The Review of Economic Studies, Volume 61, Issue 2 (Apr., 1994), 197-222
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
92
Phụ lục Phụ lục 1: Biểu đồ mô tả các chỉ tiêu kế toán cấu thành các nhân tố trong các mô hình nghiên cứu
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
93
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
94
Phụ lục 2: Biểu đồ mô tả sự biến động các nhân tố trong các mô hình nghiên cứu
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
95
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
96
Phụ lục 3: Biểu đồ mô tả sự tác động các nhân tố trong các mô hình nghiên cứu
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
97
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
98
Phụ lục 4: Các bảng thống kê dữ liệu
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
260 443 583 698 727 731 723 692 2 6
Bảng 4.1: Số lƣợng công ty niêm yết hiện hữu theo thời gian Năm Số lƣợng công ty niêm yết Ghi chú: tổng số công ty trong mẫu khảo sát là 737 công ty, lớn hơn số lượng công ty niêm yết hiện hữu theo thời gian vì hàng năm có những công ty mới niêm yết nhưng cũng có một số công ty hủy niêm yết.
Bảng 4.2: Số lƣợng công ty niêm yết và hủy niêm yết trong giai đoạn khảo sát
Trƣớc 2008 Từ sau 2008
STT Ngành
Số lƣợng niêm yết Toàn giai đoạn 2004 - 2012 Số lƣợng hủy niêm yết Số lƣợng hủy niêm yết Số lƣợng hủy niêm yết
1 Toàn bộ mẫu Tỷ trọng theo ngành (%) 12.35 1/427 737 91 Tỷ trọng theo ngành (%) 0.23 Tỷ trọng theo ngành (%) 91 12.36
2 196 33 16.84 0.51 33 16.84 1
3 65 10 15.38 0 10 15.38 0
Xây dựng và Vật liệu xây dựng Thực phẩm và đồ uống 4 Chứng khoán 5 Bất động sản 32 64 9 8 28.13 12.50 0 0 9 28.13 8 12.50 0 0
6 24 2 8.33 0 2 8.33 0
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình 7 Khác 356 29 8.15 0 29 8.15 0
Phụ lục 5: Các bảng kết quả ước lượng mô hình
Bảng 4.3: Ƣớc lƣợng mô hình hàm đầu tƣ và chính sách tài chính doanh nghiệp
Giai đoạn 2004 – 2012, 736 công ty niêm yết, 3385 số quan sát
Biến phụ thuộc (I/K)-
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [736, 3385]
i,t+1
Nhóm ngành Công nghiệp
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
99
Biến dự báo
Chứng khoán [32,124]
Bất động sản [64,273]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [194,883]
Thực phẩm và đồ uống [65,320]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,122]
0.0477 0.3058 ** -0.1063 -0.0264 * 0.0063 *
-0.4251 * 0.3869 0.3955 0.0070 0.0045
-0.4574 * -0.3300 -0.0171 0.0217 0.0028
-0.0478 -0.0406 0.2310 *** 0.0480 0.0387 *** 0.0074 0.0218 * 0.0015
0.0259 * 0.0051
i,
Bình phƣơn g bé nhất
-0.0236 (I/K)i,t 0.0142 (I/K)2 i,t 0.0001 (C/K)i,t 0.0023 (Y/K)i,t -0.0001 (B/K)2 t
R2
-0.0430 0.0483 0.0348 0.0341
-0.0335 0.0319 0.0988 0.0939 0.3184 ** -0.1449 -0.0231 . 0.0059 *
0.0000 0.3573 0.0450 0.0429 0.0409 0.2363 0.0041 0.0025
0.0000 0.7081 0.0109 0.0107 -0.3489 -0.0182 0.0118 0.0040
0.0005 0.0000 0.0307 0.0305 0.2178 *** 0.0352 0.0374 *** 0.0050 0.0194 . 0.0190 . 0.0050 0.0015
Cố định
i,
0.0000 p-value 0.6084 0.0011 Adj.R2 0.0011 (I/K)i,t 0.0125 (I/K)2 i,t 0.0001 (C/K)i,t 0.0020 (Y/K)i,t -0.0001 (B/K)2 t
R2
-0.0360 0.0313 0.1033 0.0940 0.0477 0.3058 ** -0.1063 -0.0264 * 0.0063 *
0.0000 0.9496 0.0101 0.0091
0.0000 0.7073 0.0111 0.0107 -0.4574 * -0.3300 -0.0171 0.0217 0.0028
-0.0470 0.0005 0.2043 0.0002 0.0231 0.0275 0.0222 0.0271 -0.0239 0.0298 0.2191 *** 0.0351 0.0375 *** 0.0049 0.0194 . 0.0195 * 0.0050 0.0015
Ngẫu nhiên
i,
0.0000 p-value 0.6130 0.0011 Adj.R2 0.0011 0.0333 (I/K)i,t 0.0125 (I/K)2 i,t 0.0001 (C/K)i,t 0.0020 (Y/K)i,t -0.0001 (B/K)2 t
R2
0.0000 p-value 0.6087 0.0011 Adj.R2 0.0011 -0.0220
-0.4522 *
-0.0475 0.1895 0.0234 0.0229 -0.0026
-0.0335 0.0319 0.0988 0.0939 0.0779 . 0.4857 * -0.5228 -0.0153
0.0000 0.70813 0.0109 0.0107 -0.3018 -0.1017 -0.0427 . 0.0329
0.0005 0.000139 0.0281 0.0279 -0.0324 0.5781 *** 0.5693 ** -0.1148 . -0.0099 -0.0143 0.0244 .
(I/K)i,t 0.3234 *** 1.3115 . (I/K)2 i,t 0.0013 *** 0.2071 -0.0011 (C/K)i,t 0.0341 ***
Khoản g giữa
(Y/K)i,t
0.0051 0.0000
0.0002 0.0000
-0.0009 0.0002
0.0045 -0.0333
0.0022 0.0241
(B/K)2
-0.0056 *** i, 0.0000
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
100
Bảng 4.3: Ƣớc lƣợng mô hình hàm đầu tƣ và chính sách tài chính doanh nghiệp
Giai đoạn 2004 – 2012, 736 công ty niêm yết, 3385 số quan sát
Biến phụ thuộc (I/K)-
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
i,t+1
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [736, 3385]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,124]
Bất động sản [64,273]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [194,883]
Thực phẩm và đồ uống [65,320]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,122]
t
R2
p-value < 2.22e-16 0.4345 0.1620 0.1316
0.0123 0.2177 0.1972
< 2.22e-16 0.5444 0.5276
0.0000 0.4221 0.3831
0.1139 0.3674 0.2755
-0.3933 *
-0.3559
-0.0718 *
-0.1158 *
-0.0407
(I/K)i,t
-0.2363
-0.6182 **
-0.0830
-0.2979 *
-0.0837
(I/K)2
i,t
0.1182 Adj.R2 0.1172 -0.1099 *** -0.1758 *** -0.0005 ***
-0.0112 -0.0018 0.0137
0.0912 *** 0.0344 -0.0060 -0.0030 0.0158 *** 0.0221 **
0.1686 -0.0611 . 0.0166 ***
Chênh lệch bậc nhất
i,
0.0000
0.2817 -0.0008 (C/K)i,t -0.0018 (Y/K)i,t 0.0017 *** 0.0158 (B/K)2 t
R2
0.0000 p-value < 2.22e-16 0.3740 0.0594 0.0555
0.0000 0.0000 0.1342 0.1303
0.1470 -0.0003 < 2.22e-16 0.0000 0.2575 0.2982 0.2515 0.2956
-0.0208 0.0003 0.2215 0.2079
0.0596 Adj.R2 0.0595
(***) / (**) / (*) / (.) là các mức ý nghĩa thống kê tương ứng với 0.001 / 0.01 / 0.05 / 0.1
[n, N]: n là số lượng công ty, N là số quan sát
Ghi chú: - - pe-x = p*10-x -
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
101
Bảng 4.4: Ƣớc lƣợng mô hình hàm dự báo phá sản công ty
Giai đoạn 2004 – 2012, 737 công ty niêm yết, 4080 số quan sát
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
Biến phụ thuộc Oi t
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [737, 4080]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,155]
Bất động sản [64,333]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [194,1058]
Thực phẩm và đồ uống [65,383]
0.0955 *** 0.0894
-0.1830
0.1562 *
0.0569
SIZEi t
0.0126 -0.0896
TLTAi WCTAi CLCAi
0.0002 t 0.0098 t -0.0116 t 0.0224 *
0.0400 -0.2249 -0.2461 -0.2112
0.0153 0.0492 0.3613 *** -0.2466 ** 0.1006 **
-0.0314
NITAi t
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,146] 0.2837 * -0.0623 *** 0.0565 0.5652 *** 0.2104 * -0.6619 *** 0.5688
-0.6269 * -0.1113
-0.4872 ** 0.1409
-0.5751 *** 0.2774 -0.6184 -0.0336
0.0097 -0.0195 0.0790 0.0572 -1.1561 *** 0.0240
Bình phƣơn g bé nhất
0.5119 *** 0.5655 *** 0.1308
0.5385 *** 0.7571 *** 0.8511 ***
0.0513 .
t 0.0142
R2
CFTLi t INTWOi t OENEGi 0.4322 *** 0.4946 t CHINi -0.0326 p-value < 2.22e-16 0.0000 0.3223 0.3015
0.2639 Adj.R2 0.2632
0.0069 0.0092 0.0603 0.0586
-0.0597 0.5830 *** 0.0024 0.0917 ** < 2.22e-16 < 2.22e-16 < 2.22e-16 0.2554 0.2529
0.5237 0.5100
SIZEi t
TLTAi WCTAi CLCAi
-0.0005 t 0.0073 t -0.0108 t 0.0224 *
0.0309 -0.2440 -0.2904 -0.2316
0.0138 0.0450 0.3517 ** 0.0959 *
0.0114 -0.0966 -0.2426 ** -0.0319
NITAi t
Cố định
0.7789 0.7309 -0.0628 *** 0.0643 0.5901 *** 0.2336 ** -0.6845 *** 0.9802
-0.6681 * -0.1325
-0.5500 ** 0.0038
-0.5946 *** 0.2351 -0.7573 -0.0594
0.0099 -0.0050 0.0760 0.0602 -1.1322 *** 0.0275
0.5073 *** 0.5408 *** 0.1265
0.5301 *** 0.7439 *** 0.8426 ***
0.0676 *
t 0.0042
CFTLi t INTWOi t OENEGi 0.4491 *** 0.5391 t CHINi -0.0661 p-value < 2.22e-16 0.0000
-0.0112 0.0107
-0.0413 0.6075 *** -0.0126 0.0762 * < 2.22e-16 < 2.22e-16 < 2.22e-16
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
102
Bảng 4.4: Ƣớc lƣợng mô hình hàm dự báo phá sản công ty
Giai đoạn 2004 – 2012, 737 công ty niêm yết, 4080 số quan sát
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
Biến phụ thuộc Oi t
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [737, 4080]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,155]
Bất động sản [64,333]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [194,1058]
Thực phẩm và đồ uống [65,383]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,146]
R2
0.2658 Adj.R2 0.2646
0.3213 0.2861 0.0955 *** 0.0894
0.0602 0.0574 -0.1830
0.2581 0.2537 0.1562 *
0.5266 0.5046 0.0569
SIZEi t
0.0126 -0.0896
TLTAi WCTAi CLCAi
0.0400 -0.2249 -0.2461 -0.2112
0.0153 0.0492 0.3613 *** -0.2466 ** 0.1006 **
-0.0314
0.0002 t 0.0098 t -0.0116 t 0.0224 *
NITAi t
0.7854 0.7047 0.2837 * -0.0623 *** 0.0565 0.5652 *** 0.2104 * -0.6619 *** 0.5688
0.0097 -0.0195 0.0790 0.0572 -1.1561 *** 0.0240
-0.6269 * -0.1113
-0.4872 ** 0.1409
-0.5751 *** 0.2774 -0.6184 -0.0336
Ngẫu nhiên
0.5119 *** 0.5655 *** 0.1308
0.5385 *** 0.7571 *** 0.8511 ***
t 0.0142
0.0513 .
R2
0.2639 Adj.R2 0.2632
0.1671 *
CFTLi t INTWOi t OENEGi 0.4322 *** 0.4946 t CHINi -0.0326 p-value < 2.22e-16 0.0000 0.3223 0.3015 1.0628 0.0269 -0.0829 -1.2637 -1.2272 -0.9309 *** 0.5365 9.2182 -0.1722
0.0069 0.0092 0.0603 0.0586 -0.2120 0.0142 -0.0366 0.5284 0.2430 . -1.4070 -1.4244
-0.0597 0.5830 *** 0.0024 0.0917 * < 2.22e-16 < 2.22e-16 < 2.22e-16 0.2554 0.2529 0.1497 0.0269 -0.1582 -0.2246 -0.0875 -1.1453 * 1.7330
0.5237 0.5100 0.0635 0.0131 -0.3423 0.2991 0.2501 -1.9598 ** 0.4185
0.7789 0.7309 -0.2175 -0.0987 * -0.2245 1.8484 * 1.1975 . -1.3723 * 7.1865
Khoản g giữa
0.4038 *** 0.4794 .
0.1798
0.4352 *** 0.4282 **
0.5752 *
SIZEi t 0.0034 TLTAi -0.0898 t WCTAi t -0.0491 CLCAi t 0.0064 NITAi t CFTLi t INTWOi t OENEGi 2.4980 *** 2.3611 t CHINi -0.2336 -0.1901 ** t p-value < 2.22e-16 0.1723
-0.2247 0.3973
2.3925 *** 1.8719 * -0.0828 -0.1476 0.0000 0.0000
0.1228 0.0001
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
103
Bảng 4.4: Ƣớc lƣợng mô hình hàm dự báo phá sản công ty
Giai đoạn 2004 – 2012, 737 công ty niêm yết, 4080 số quan sát
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
Biến phụ thuộc Oi t
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [737, 4080]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,155]
Bất động sản [64,333]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [194,1058]
Thực phẩm và đồ uống [65,383]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,146]
R2
0.3348 Adj.R2 0.3303
0.3978 0.2735
0.1347 0.1158
0.3378 0.3204
0.6885 0.5826
0.8426 0.5266
(***) / (**) / (*) / (.) là các mức ý nghĩa thống kê tương ứng với 0.001 / 0.01 / 0.05 / 0.1
[n, N]: n là số lượng công ty, N là số quan sát
Ghi chú: - - pe-x = p*10-x -
Bảng 4.5: Ƣớc lƣợng mô hình hàm đầu tƣ có thêm nhân tố phá sản (Oscore đƣợc tính trên toàn mẫu)
Giai đoạn 2004 – 2012, 735 công ty niêm yết, 3346 số quan sát
Biến phụ thuộc (I/K)-
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
i,t+1
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [735, 3346]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,124]
Bất động sản [64,270]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [193,864]
Thực phẩm và đồ uống [65,318]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,122]
-0.9758 *** -1.9378 *
-1.0331 *
(I/K)i,t 0.0467 * (I/K)2 i,t 0.0001 (Y/K)i,t 0.0003 (E/K)i,t -0.0002
Si,t
Bình phƣơn g bé nhất
R2
0.3717 0.4032 0.0047 0.0002 2.0183 *** 3.4781 . 0.1764 0.0620 0.0590
Cố định
p-value 0.0016 0.0058 Adj.R2 0.0058 -0.1325 *** 0.2485
-4.5781 -0.2696 -0.0133 0.0058 -0.0007 8.7348 0.5263 0.0156 0.0152 -0.4156
-0.5632 * 0.2616 *** 0.0356 -0.0025 0.0477 *** 0.0005 0.0034 * 0.0385 . -0.0064 2.0578 * 1.1501 * 0.0107 0.0000 0.0465 0.0389 0.0456 0.0387 0.2212 *** 0.0956
0.0038 0.2603 * -0.0457 0.0039 . -0.0080 0.1287 0.1085 0.0739 0.0702 0.1600
(I/K)i,t
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
104
Bảng 4.5: Ƣớc lƣợng mô hình hàm đầu tƣ có thêm nhân tố phá sản (Oscore đƣợc tính trên toàn mẫu)
Giai đoạn 2004 – 2012, 735 công ty niêm yết, 3346 số quan sát
Biến phụ thuộc (I/K)-
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
i,t+1
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [735, 3346]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,124]
Bất động sản [64,270]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [193,864]
Thực phẩm và đồ uống [65,318]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,122]
-0.0092 0.0000 0.0026
0.1071 *** 0.0269 0.0151 *** 0.0302 ** -0.0067
0.0290
0.3603 0.0063 . 0.0298 *
(I/K)2 i,t -0.0010 *** 0.3884 (Y/K)i,t -0.0002 0.0126 (E/K)i,t 0.0036 *** 0.0005
Si,t
10.5001 ***
R2
9.7187 0.3845 0.0578 0.0405
p-value 0.0000 0.0287 Adj.R2 0.0223
6.8765 0.0000 0.1519 0.1185 -1.0331 *
(I/K)i,t 0.0436 * (I/K)2 i,t 0.0001 (Y/K)i,t 0.0003 (E/K)i,t -0.0002
Ngẫu nhiên
2.0257 ***
Si,t
R2
p-value 0.0021 0.0056 Adj.R2 0.0056
-2.0279 .
i,t 0.0072 *
(I/K)i,t 0.6823 (I/K)2 (Y/K)i,t 0.0124 (E/K)i,t -0.0293 .
Khoản giữa
Si,t
R2
-0.9797 *** 2.5646 0.3720 9.2274 0.1076 -0.0828 -6.6448 0.3705 0.9499 0.1357
42.5190 . 0.0311 0.0589 0.0438 -4.5781 -0.2696 -0.0133 0.0058 -0.0007 8.7348 0.5263 0.0156 0.0152 -4.8737 0.4982 0.0928 0.0612 -0.0267 9.0791 NA 1.0000 0.0000
7.1807 ** < 2.22e-16 0.1768 0.1363 -0.5381 * 0.2535 *** 0.0356 -0.0025 0.0469 *** 0.0005 0.0033 * 0.0385 . -0.0062 2.0578 * 1.1121 * 0.0107 0.0000 0.0465 0.0374 0.0456 0.0372 -27.1952 -5.2732 * 7.5710 0.0603 3.1036 0.3156 * 0.6570 0.0255 -4.5945 -0.0834 . 64.6767 11.0324 * NA 0.0144 1.0000 0.9942 0.0000 0.2486
-3.4824 0.0001 0.2460 0.1875 0.0038 0.2603 * -0.0457 0.0039 . -0.0080 0.1287 0.1085 0.0739 0.0702 -1.9981 -1.2274 10.7451 -0.0038 0.0244 2.4061 NA 1.0000 0.0000
4.3788 p-value 0.0702 0.9713 Adj.R2 0.2428
(***) / (**) / (*) / (.) là các mức ý nghĩa thống kê tương ứng với 0.001 / 0.01 / 0.05 / 0.1
Ghi chú: - - pe-x = p*10-x -
[n, N]: n là số lượng công ty, N là số quan sát
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
105
Bảng 4.6: Ƣớc lƣợng mô hình hàm đầu tƣ có thêm nhân tố phá sản (Oscore đƣợc tính theo từng ngành)
Giai đoạn 2004 – 2012, 735 công ty niêm yết, 3346 số quan sát
Biến phụ thuộc (I/K)-
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
i,t+1
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [735, 3346]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,124]
Bất động sản [64,270]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [193,864]
Thực phẩm và đồ uống [65,318]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,122]
-0.9758 *** -1.5969 .
-0.7319 *
(I/K)i,t 0.0467 * (I/K)2 i,t 0.0001 (Y/K)i,t 0.0003 (E/K)i,t -0.0002
Si,t
Bình phƣơn g bé nhất
R2
0.3920 0.4130 0.0045 0.0007 2.0183 *** 2.7033 0.2712 0.0520 0.0495
-8.2856 . -0.3067 -0.0145 0.0052 0.0000 16.6110 0.3941 0.0193 0.0189 -0.4523 -0.0085 -0.0056 0.0042
-0.6181 * 0.2641 *** 0.0348 -0.0018 0.0481 *** 0.0002 0.0033 * 0.0397 . -0.0063 1.4519 * 1.2843 * 0.0098 0.0000 0.0471 0.0406 0.0462 0.0403 0.2358 *** 0.0889 0.1091 *** 0.0230 0.0141 *** 0.0301 ** -0.0060
0.0335
0.0537 0.2583 * -0.0438 0.0040 -0.0079 0.0234 0.1094 0.0737 0.0701 0.1828 0.3346 0.0067 . 0.0267 *
p-value 0.0016 0.0058 Adj.R2 0.0058 -0.1325 *** 0.2558 (I/K)i,t (I/K)2 i,t -0.0010 *** 0.4228 0.0173 (Y/K)i,t -0.0002 (E/K)i,t 0.0036 *** 0.0005
Cố định
Si,t
10.5001 ***
R2
-0.8296 0.5966 0.0407 0.0286
p-value 0.0000 0.0287 Adj.R2 0.0223
-0.9797 *** -1.5520 .
(I/K)i,t 0.0436 * (I/K)2 i,t 0.0001 (Y/K)i,t 0.0003 (E/K)i,t -0.0002
Ngẫu nhiên
Si,t
R2
p-value 0.0021 0.0056 Adj.R2 0.0056
-2.0279 .
Khoản g giữa
0.1822 0.3366 0.0023 0.0010 2.0257 *** 2.9198 0.5373 0.0339 0.0322 3.1039 0.6960
44.4803 ** 8.5643 *** 4.3732 0.0000 0.0035 0.1507 0.0832 0.1176 0.0620 -0.7319 * -8.2856 . -0.3067 -0.0145 0.0052 0.0000 16.6110 0.3941 0.0193 0.0189 -4.0386 1.1622
< 2.22e-16 0.1872 0.1443 -0.5959 * 0.2556 *** 0.0348 -0.0018 0.0472 *** 0.0002 0.0032 * 0.0397 . -0.0060 1.4519 * 1.2526 * 0.0098 0.0000 0.0471 0.0391 0.0462 0.0388 15.5867 -5.7389 -4.4952 0.3780
-2.7788 0.0001 0.2509 0.1913 0.0537 0.2583 * -0.0438 0.0040 -0.0079 0.0234 0.1094 0.0737 0.0701 7.1130 -4.2326
(I/K)i,t 0.6823
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
106
Bảng 4.5: Ƣớc lƣợng mô hình hàm đầu tƣ có thêm nhân tố phá sản (Oscore đƣợc tính trên toàn mẫu)
Giai đoạn 2004 – 2012, 735 công ty niêm yết, 3346 số quan sát
Biến phụ thuộc (I/K)-
Nhóm ngành Tài chính
Nhóm ngành Hàng tiêu dùng
i,t+1
Nhóm ngành Công nghiệp
Phƣơn g pháp ƣớc lƣợng
Toàn bộ mẫu [735, 3346]
Biến dự báo
Chứng khoán [32,124]
Bất động sản [64,270]
Xây dựng và Vật liệu xây dựng [193,864]
Thực phẩm và đồ uống [65,318]
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình [24,122]
i,t 0.0072 *
(I/K)2 (Y/K)i,t 0.0124 (E/K)i,t -0.0293 .
Si,t
R2
7.1971 0.0553 -0.0554 -7.9012 0.3822 0.9465 0.1352
0.1172 0.0521 -0.0220 7.2489 NA 1.0000 0.0000
0.4169 0.0190 -0.0861 12.1364 0.1788 0.9243 0.2311
-2.2204 -0.1444 2.4322 -40.5566 NA 1.0000 0.0000
12.8922 -0.1043 0.2343 -15.3530 NA 1.0000 0.0000
4.3788 p-value 0.0702 0.9713 Adj.R2 0.2428
(***) / (**) / (*) / (.) là các mức ý nghĩa thống kê tương ứng với 0.001 / 0.01 / 0.05 / 0.1
[n, N]: n là số lượng công ty, N là số quan sát
Ghi chú: - - pe-x = p*10-x -
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
107
Bảng 4.7: Ƣớc lƣợng mô hình hàm đầu tƣ có thêm nhân tố phá sản hai giai đoạn trƣớc và sau khủng hoảng tài chính 2008 (Oscore đƣợc tính trên toàn mẫu)
Giai đoạn 2004 – 2012, 735 công ty niêm yết, 3346 số quan sát
Toàn bộ mẫu
Chứng khoán
Bất động sản
Xây dựng và Vật liệu xây dựng
Thực phẩm và đồ uống
Hàng tiêu dùng cá nhân và gia đình
Biến phụ thuộc (I/K)i,t+1
Phƣơ ng pháp ƣớc lƣợng
Biến dự báo
Sau khủng hoảng [193,692]
Sau khủng hoảng [24,92]
Toàn giai đoạn khảo sát [735,3346]
Trƣớc khủng hoảng [427,684]
Toàn giai đoạn khảo sát [32,124]
Trƣớc khủng hoảng [8,11]
Sau khủng hoảng [32,113]
Toàn giai đoạn khảo sát [64,270]
Trƣớc khủng hoảng [31,42]
Sau khủng hoảng [64,228]
Toàn giai đoạn khảo sát [193,864]
Trƣớc khủng hoảng ]105,172]
Toàn giai đoạn khảo sát [65,318]
Trƣớc khủng hoảng [49,80]
Sau khủng hoảng [65,328]
Toàn giai đoạn khảo sát [24,122]
Trƣớc khủng hoảng [18,30]
Sau khủng hoảng [732,2662 ]
-1.2032 ***
-0.9758 ***
-1.9378 * 0.5760 -0.2054 -0.3963 -0.0079 0.0024
-2.1154 * -4.5781 -0.2696 0.3162 -0.0133 0.2940 0.0058 0.0042 -0.0007 -0.0005
0.6775 -0.3732 -0.2064 0.0000 0.0016
-5.8997 -0.3071 -0.0149 0.0056 -0.0006
-0.5632 * -1.7753 ** -0.3279 0.2616 *** 0.4389 ** 0.2326 *** 0.0356 0.0460 *** -0.0025 0.0477 *** -0.2474 0.0005 0.0028 . 0.0034 0.0034 * 0.0385 . -0.0083 . 0.0332 -0.0064
-1.5886 ** 0.0038 -1.0331 * 0.7716 0.0401 0.2523 -0.8854 * 0.0152 -0.0016 0.0033 0.0362 0.0243
0.2603 * -0.0457 0.0039 . -0.0080
0.0087 -0.0342 0.1931 -0.0035 0.0434 *
0.0382 0.3573 ** -0.1704 0.0056 * -0.0121 .
Bình phƣơ ng bé nhất
Si,t
0.0514 (I/K)i,t 0.0467 * 0.0923 . 0.0408 . 0.3717 (I/K)2 0.4032 i,t 0.0001 0.0047 (Y/K)i,t 0.0003 (E/K)i,t -0.0002 0.0002 2.0183 ***
R2
3.4781 . 0.6480 0.8155 0.1764 0.2981 0.0620 0.1355 0.0590
3.9798 . 8.7348 0.5263 0.3490 0.0156 0.0502 0.0152 0.0475
-0.8068 0.8107 0.0588 0.0504
11.2932 0.5123 0.0189 0.0184
1.1501 * 0.0000 0.0389 0.0387
3.6986 ** 0.6409 0.0002 0.0002 0.0339 0.1358 0.0336 0.1310
2.0578 * 0.0107 0.0465 0.0456
-1.2319 0.0392 0.1436 0.1328
3.1694 * 0.0192 0.0561 0.0547
0.1287 0.1085 0.0739 0.0702
0.2569 0.2106 0.2447 0.1958
-0.0232 0.0406 0.1243 0.1161
(I/K)i,t
0.2485
0.1936
-0.4156
-2.61428 . -0.5463
0.2212 *** -0.20193
0.2179 *** 0.0956
-0.0090
0.1600
-0.406 .
0.1696
(I/K)2
i,t
p-value 0.0016 0.0058 Adj.R2 0.0058 -0.1325 *** -0.0010 ***
-0.30751 -2.32014 **
0.0129 0.0001 0.0009 * 0.0002 -0.0001 0.0019 . 2.4093 *** 0.0056 0.0062 0.0062 -0.1533 *** -0.0011 *** -0.0005
0.1410 0.0014 0.0286 0.0284 -0.5500 *** -0.1106 *** -0.0004
0.3884 0.0126
0.3506 0.0169
-0.0092 0.0000
-2.37351 . -0.0159 -0.09115 . 0.0007
0.1071 *** -0.34098 . 0.0983 *** 0.0269 0.0151 *** 0.003944 0.0135 ** 0.0302 ** 0.00592
0.0045 0.0348 .
0.3603 0.0063 .
-0.36238 0.4900 . 0.011697 0.0083 *
Cố định
(E/K)i,t
0.0028
0.0038 ** 0.0005
-0.0005
0.0026
0.084322 0.0023
-0.0067
0.010059
-0.0058
0.0290
0.013338 0.0193
0.0298 *
0.041467 * 0.0254
Si,t
(Y/K)i,t -0.0002 0.0036 *** 10.5001 ***
-8.2638 .
R2
-0.3862 0.0000 0.2360 0.0869
8.5461 ** 9.7187 0.3845 0.0000 0.0578 0.0284 0.0405 0.0206
9.6058 0.5781 0.0479 0.0322
42.5190 . 0.0311 0.0589 0.0438
-55.0003 0.046036 0.0464 0.0678 0.79166 0.0473 0.11309
54.3851 . 7.1807 ** 8.338037 . 7.9393 ** 6.8765 < 2.22e-16 0.0000 < 2.22e-16 0.00271 0.1519 0.24933 0.1768 0.1753 0.1185 0.089875 0.1252 0.1363
-6.68829 0.1243 0.000324 0.0002 0.1329 0.57003 0.0938 0.18526
-3.4824 0.0001 0.2460 0.1875
1.523787 0.009431 0.0006 0.2866 0.84478 0.1963 0.19712
p-value 0.0000 0.0287 Adj.R2 0.0223
Ghi chú:
- -
(***) / (**) / (*) / (.) là các mức ý nghĩa thống kê tương ứng với 0.001 / 0.01 / 0.05 / 0.1 pe-x = p*10-x
[n, N]: n là số lượng công ty, N là số quan sát
[LÊ NGUYỄN SƠN VŨ – 7701111604 – 025099512 – CH19 – UEH]
108
108
109
109