ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
TRẦN ANH TUẤN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
Phản biện 1: ........................................................................
Phản biện 2: ........................................................................
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2015
Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ
1.1.
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................ 9 KHÁI NIỆM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT .................... 9
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt ............................................................................................. 9
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt và quyết định hình phạt trong
1.2.
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt ............................... 16 CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT ..................................................................... 20
1.2.1. Các đặc điểm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt .................................................. 20
1.2.2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
1.3.
phạm tội, phạm tội chưa đạt ................................................................. 22 NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT .................................................................... 24
1.3.1. Những nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt ............................................................ 25
1.3.2. Các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt ........................................................................... 29
2.1.
Chương 2: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC ................................................................................ 34 QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................................................................... 34
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ................. 34
1
2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 .......... 39
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
2.2.
3.1.
đến nay ................................................................................................. 44 QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC ................................................................... 55 2.2.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga ......................................................... 56 2.2.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ............................... 59 2.2.3. Pháp luật hình sự Thụy Điển ............................................................... 61 2.2.4. Pháp luật hình sự Nhật Bản ................................................................. 64 Chương 3: THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ................................ 67 THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ................................................................. 67 3.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............. 67 3.1.2. Tình hình quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................ 68
3.2.
3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và các nguyên nhân cơ bản ............................................ 71 KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT ..... 79
3.2.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt ........................................................................... 79
3.2.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết
3.3.
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt .... 81 CÁC KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT ........................... 88
3.3.1. Kiện toàn và nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ làm
công tác xét xử ..................................................................................... 88 3.3.2. Một số giải pháp phối hợp khác ........................................................... 89 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 95
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Tính nguy hiểm cho xã hội là lý do khiến cho tội phạm phải bị trừng phạt. Tội phạm luôn có tính nguy hiểm cho xã hội, bởi vì “tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người”. Mặc dù tất cả tội phạm đều có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng mức độ nguy hiểm của các hành vi phạm tội là khác nhau. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thể hiện qua nhiều dấu hiệu như: Tính chất, tầm quan trọng và giá trị của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại; tính chất và mức độ hậu quả thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; mức độ thực hiện tội phạm; phương thức thực hiện tội phạm (riêng lẻ hay là đồng phạm, đồng phạm giản đơn hay đồng phạm có tổ chức); công cụ, phương tiện phạm tội, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm; hình thức lỗi, mức độ lỗi, mục đích phạm tội và động cơ phạm tội, cũng như các đặc điểm nhân thân của người phạm tội.
Như vậy, mức độ thực hiện tội phạm cũng là một trong các yếu tố thể hiện mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Về phương diện lý luận, mức độ thực hiện tội phạm được phân chia bởi các giai đoạn phạm tội là: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Tương ứng với các giai đoạn này, hành vi phạm tội mang tính nguy hiểm cho xã hội ở các mức độ khác nhau. Với mức độ nguy hiểm khác nhau thì logic đương nhiên là trách nhiệm hình sự và hình phạt áp dụng phải nặng, nhẹ khác nhau mới bảo đảm công bằng và được dư luận xã hội đồng tình, người phạm tội tâm phục, khẩu phục. Chính vì lẽ đó, trong pháp luật hình sự phải đặt ra quy định riêng về quyết định hình phạt trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là những trường hợp quyết định hình phạt phức tạp bởi vì hành vi phạm tội ở các giai đoạn này thể hiện những mức độ thực hiện ý định phạm tội đa dạng và đa phần chưa gây ra hậu quả của tội phạm nên rất khó để đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm của chúng. Xét một cách tổng thể, các phương diện đặt ra nghiên cứu về vấn đề này như sau:
* Về phương diện lý luận: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều. Hiện nay, các nghiên cứu về vấn đề quyết định hình phạt nói chung có thể cũng đã đề cập đến quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nhưng do không phải là đối tượng nghiên cứu chính nên vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo. Do đó, nhiều nội dung về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt như: khái niệm, đặc
3
điểm, ý nghĩa, các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt trong những trường hợp này chưa được làm rõ về mặt khoa học; v.v...
* Về phương diện lập pháp hình sự: Bộ luật hình sự năm 1999 tuy đã có những bước tiến đáng kể so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: xác định chưa đầy đủ căn cứ quyết định hình phạt trong các trường hợp này, quy định phương thức lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt áp dụng một cách thiếu cụ thể dẫn đến khả năng áp dụng không chính xác, thống nhất... Do đó, vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt nói chung, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng đã được đặt ra là một trong các nội dung của những định hướng cơ bản sửa đổi Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành.
* Về phương diện thực tiễn: các vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt không phải là phổ biến nên kỹ năng, kinh nghiệm quyết định hình phạt trong các trường hợp này của các cơ quan xét xử chưa có sự thành thục. Do đó, việc quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn thiếu chính xác, đôi khi còn nặng quá hoặc nhẹ quá, thậm chí áp dụng sai quy định làm mất đi tính công bằng và giảm đi hiệu quả của hình phạt nói chung, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng.
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; thực trạng quy định pháp luật và áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc học viên quyết định lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình với tên gọi: “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”.
2. Tình hình nghiên cứu Như đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn ít được quan tâm nghiên cứu. Vấn đề chủ yếu được đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về quyết định hình phạt hoặc giai đoạn thực hiện tội phạm, trong đó phải kể đến các công trình ở những cấp độ khác nhau dưới đây:
* Ở cấp độ sách tham khảo, chuyên khảo, tạp chí nước ngoài: 1) C.L.Ten, Tội phạm, lỗi và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1987; 2) Sue Titus Reid, Tư pháp hình sự, Macmillan Publishing Company, 1990; 3) Michael C. Braswell, Belinda R.McCathy, Berna J McCath, Công lý, tội phạm
4
và đạo đức, Anderson Publishing Co, 1991; 4) P.J.Fizgerald, Luật hình sự và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1992; 5) Doman J. Newman, Giới thiệu về Luật hình sự, McGraw-Hill, INC, 1993; 6) Larry K. Gaines and Roger LeRoy Miller, Luật hình sự: Những vấn đề cơ bản trọng tâm, Wadsworth Publishing, USA, 2006; Michael. T. Cahill, Định nghĩa tội phạm sơ bộ, tội phạm chưa đạt, Attempt, Ohio State Journal of Crime, Vol. 9, p.751-759; v.v...
* Ở cấp độ giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo trong nước: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Mục V - Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, Chương 4, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005; 2) PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương XII - Các giai đoạn phạm tội, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) (GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 3) GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương IX - Các giai đoạn phạm tội, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I (GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; 4) GS. TS. Võ Khánh Vinh, Chương XII - Các giai đoạn phạm tội, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, 2009; 5) CN. Trần Văn Đượm, Chương VII - Các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1995; 6) PGS. TS. Lê Thị Sơn, Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2013; 7) TS. Trịnh Tiến Việt, Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013; v.v...
* Ở cấp độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nước: 1) Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004; 2) Nguyễn Thị Bình, Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; 3) Hoàng Đức Ngọc, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; 4) Hồ Thanh Vinh, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; v.v...
* Ở cấp độ bài viết, đề tài khoa học trong nước: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2002; 2) PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 4/2002; 3) PGS. TS. Lê Thị Sơn, Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) PGS. TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học,
5
số 4/2002; 5) TS. Trịnh Tiến Việt, Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 2/2009; 6) Nguyễn Thị Mai, Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/1993; v.v...
Như vậy, nhìn chung các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập đến quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt với tư cách một trường hợp của quyết định hình phạt nói chung hoặc là một trong các vấn đề về trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn phạm tội. Có thể nói rằng, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống nào về các vấn đề lý luận cơ bản đồng thời đánh giá toàn diện các quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và thực tiễn áp dụng của các quy định đó trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Đắk Lắk để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng, hiệu quả quyết định hình phạt trong các trường hợp này. Nói một cách khác, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của đề tài: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk).
3.2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu
như sau:
- Xây dựng khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong hai trường hợp này;
- Phân tích những nguyên tắc và các căn cứ quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt;
- Hệ thống hóa quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong lịch sử từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, trong đó nhấn mạnh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này để rút ra nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, so sánh quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt để rút ra nhận xét, đánh giá;
- Đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014), từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
6
- Luận chứng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và các giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng của việc quyết định hình phạt trong hai trường hợp này.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng X, XI và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; phân tích, đánh giá nội dung quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định này ở khía cạnh lập pháp và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng từ khía cạnh thực tiễn.
Bên cạnh đó, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một trường hợp phức tạp của quyết định hình phạt đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất phục vụ cho thực tiễn xét xử, tránh vi phạm trong việc áp dụng.
Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm ba chương và 8 mục.
7
NỘI DUNG TÓM TẮT Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG
HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong khoa học luật hình sự nước ngoài và Việt Nam, luận văn đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là những hành vi ở các giai đoạn khác nhau của tội phạm chưa hoàn thành, trong đó hành vi của người phạm tội thể hiện sự tích cực, nỗ lực nhằm thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ.
Như vậy, nghiên cứu khái niệm chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt cho
thấy các giai đoạn thực hiện tội phạm này có những đặc điểm chung như sau:
- Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là những hành vi phạm tội và
phải chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ sở chung;
- Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chỉ có trong các tội phạm do cố ý; - Trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, hậu quả của tội
phạm chưa xảy ra;
- Sự “dang dở” của chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đã do nguyên
nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội;
- Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt thấp hợp tội phạm tương ứng hoàn thành.
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt và quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật quan trọng trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Quyết định hình phạt chính xác, khách quan và công minh là cơ sở để đạt được các mục đích của hình phạt: trừng trị và giáo, cải tạo người phạm tội; ngăn ngừa họ phạm tội mới; răn đe, ngăn ngừa những người khác trong xã hội.
Do đó, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, luận văn đã đưa ra định nghĩa của khái niệm đang nghiên cứu như sau: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là việc Tòa án dựa trên cơ sở quy định pháp luật hình sự áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự cụ thể đối
8
với người bị kết án về hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo hướng giảm nhẹ hơn trường hợp tội phạm hoàn thành tùy vào mức độ thực hiện ý định phạm tội, cũng như những yếu tố khác thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
1.2. CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 1.2.1. Các đặc điểm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Là một dạng đặc biệt của quyết định hình phạt nên quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đương nhiên chứa đựng các đặc điểm của quyết định hình phạt nói chung. Ngoài ra, bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động quyết định hình phạt, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt có các đặc điểm riêng như sau:
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chỉ đặt ra trong vụ án có hành vi phạm tội chưa hoàn thành vì lý do khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội;
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt thường khó khăn, phức tạp hơn trường hợp tội phạm hoàn thành;
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt phải dựa trên các căn cứ quyết định hình phạt chung và các căn quyết định hình phạt đặc thù của trường hợp này;
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt phải được tiến hành theo hướng giảm nhẹ so với trường hợp tội phạm hoàn thành.
1.2.2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Trước tiên, quyết định hình phạt hiện thực hóa hiệu lực của các hình phạt mà luật hình sự quy định. Ngoài ra, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn có những ý nghĩa riêng như:
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt thể hiện đường lối xử lý nghiêm minh và tiến bộ của pháp luật hình sự;
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt thể hiện chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự sâu sắc;
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt là một chế định nhân đạo của pháp luật.
1.3. NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 1.3.1. Những nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng chỉ đạo và định hướng
9
hoạt động của Tòa án khi tiến hành hoạt động quyết định hình phạt để đưa ra những hình phạt khách quan, công bằng, chính xác. Việc quyết định hình phạt nói chung, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng được thừa nhận chung là phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản - pháp chế xã hội chủ nghĩa; nhân đạo, cá thể hóa hình phạt và công bằng.
1.3.2. Các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
Hiện nay, Bộ luật hình sự nước ta quy định bốn căn cứ quyết định hình phạt chung bao gồm: Quy định của Bộ luật hình sự; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 45). Như vậy, khi quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, các căn cứ quyết định hình phạt chung ở trên phải được tuân thủ. Ngoài ra, còn căn cứ vào mức độ thực hiện ý định phạm tội và những nguyên nhân khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
Chương 2 QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
2.1. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Từ sau khi giành được chính quyền cách mạng năm 1945 đến trước năm 1985, trong bối cảnh chưa pháp điển hóa nên rất nhiều chế định thuộc Phần chung của luật hình sự còn chưa được quy định một cách khái quát. Các giai đoạn phạm tội nói chung, giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nói riêng, không được phân chia, định nghĩa chung cho mọi tội phạm mà chỉ được đề cập đến trong một số tội phạm cụ thể. Vì vậy, quyết định hình phạt trong trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cũng chưa được quy định một cách hệ thống mà chỉ được đặt ra khi quyết định hình phạt đối với một vài tội phạm cụ thể, thậm chí, tồn tại chủ yếu dưới dạng các tổng kết thực tiễn, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong ngành Tòa án.
Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, pháp luật hình sự nước ta ở giai đoạn này cũng đã thể hiện nhận thức rằng: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cần phải bị trừng phạt và bước đầu đề cập đến những căn cứ, chính sách phân hóa trong quyết định hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội
10
chưa đạt mặc dù mới chỉ dưới dạng hướng dẫn, tổng kết kinh nghiệm xét xử một số tội phạm cụ thể. Đây chính là những tiền đề cho việc xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật hình sự của Việt Nam về quyết định hình phạt trong hai trường hợp này.
2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/6/1985 đã lần đầu tiên quy định một cách chính thức và khái quát về các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Định nghĩa và căn cứ quyết định hình phạt trong hai trường hợp này đồng thời được quy định tại Điều 15 của Bộ luật. Quy định này mang tính khái quát bởi là quy định Phần chung, áp dụng đối với các tội phạm chứ không phải một số loại tội phạm riêng lẻ như ở các văn bản pháp luật trong giai đoạn trước.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết hướng dẫn thi hành, trong đó đề cập đến chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nhưng cũng không làm cụ thể hơn được quy định của Bộ luật việc quyết định hình phạt trong hai trường hợp này. Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 về “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự” có khẳng định về tính chất nghiêm trọng hơn của phạm tội chưa đạt so với chuẩn bị phạm tội nhưng không làm rõ yêu cầu phải xử phạt người phạm tội chưa đạt nặng hơn so với người chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, Nghị quyết có tổng kết và phân biệt được hai trường hợp phạm tội chưa đạt trong thực tiễn là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành, yêu cầu xử nặng hơn đối với phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Theo đó, mặc dù đề ra yêu cầu đó nhưng Nghị quyết không hướng dẫn cụ thể mức xử nặng hơn như thế nào giữa tội phạm hoàn thành, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và chuẩn bị phạm tội.
Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng trong tất cả các lần sửa đổi của Bộ luật hình sự năm 1985 vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, các quy định về quyết định hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cũng không được sửa đổi, bổ sung.
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến nay
Kế thừa quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng có một bước tiến đáng kể về kỹ thuật lập pháp, Bộ luật hình sự năm 1999 đã tách biệt định nghĩa pháp lý và cơ sở của trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với các quy định về căn cứ quyết định hình phạt, giới hạn hình phạt trong hai trường hợp này ra quy định ở các chế định khác nhau để bảo đảm tính chặt chẽ và logic.
Năm 2009, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
11
luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, liên quan đến quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt không có gì thay đổi so với quy định tương ứng hiện hành.
2.2. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
2.2.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga Pháp luật hình sự Liên bang Nga hiện hành chính là Bộ luật hình sự Liên bang Nga, được Đuma quốc gia thông qua ngày 24/5/1996, sửa đổi gần đây nhất năm 2010. Trong đó, các nhà làm luật Liên bang Nga đã dành sự quan tâm đáng kể cho các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Các hành vi này được quy định trong Bộ luật bởi một Chương riêng là Chương 6 về “Tội phạm chưa hoàn thành”. Còn vấn đề quyết định hình phạt trong các trường hợp này được đặt ở Chương 10 về áp dụng hình phạt, tương tự như bố cục của Bộ luật hình sự Việt Nam trong quy định về quyết định hình phạt.
2.2.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hiện hành là Bộ luật hình sự năm 1979, sửa đổi năm 2005 và 2009. Khác với cấu trúc trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga và Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định cả khái niệm và trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong Chương II về “Tội phạm”.
Lưu ý, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không quy định rõ về cơ sở trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và cũng không giới hạn phạm vi chịu trách nhiệm của trường hợp này mà chỉ quy định việc trừng phạt giảm nhẹ. Theo đó, có thể hiểu rằng người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm đã chuẩn bị phạm có điều được giảm nhẹ hình phạt so với trường hợp tội phạm hoàn thành. Ngoài ra, về phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hoàn toàn tương đồng với Bộ luật hình sự Việt Nam. 2.2.3. Pháp luật hình sự Thụy Điển Pháp luật hình sự Thụy Điển hiện hành Bộ luật hình sự của Thụy Điển năm 1966, sửa đổi năm 1999 và gần đây nhất là năm 2009 quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và quyết định hình phạt trong các trường hợp này ở Chương 23 về “Phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, âm mưu phạm tội và đồng phạm”. Bộ luật hình sự Thụy Điển cũng giống như Bộ luật hình sự Việt Nam và Liên bang Nga, lấy hình phạt áp dụng đối với tội phạm hoàn thành làm căn cứ quyết định hình phạt cho chuẩn bị phạm tội theo hướng giảm nhẹ. Ngoài giới hạn mức phạt, Bộ luật hình sự Thụy Điển còn cho phép miễn hình phạt trong trường hợp hành vi chuẩn bị phạm tội đó nếu được hoàn thành cũng ít nguy hiểm. Ngoài ra, Bộ luật hình sự Thụy Điển có định nghĩa khái quát cho trường hợp phạm tội chưa đạt. Mặc dù kỹ thuật lập pháp khác biệt nhưng
12
cơ bản cách nhìn nhận của Bộ luật hình sự Thụy Điển cũng tương đồng với các nước khác ở chỗ xác định phạm tội chưa đạt là hành vi phạm tội chưa hoàn thành do sự ngăn cản của yếu tố hoàn cảnh khách quan.
2.2.4. Pháp luật hình sự Nhật Bản Pháp luật hình sự Nhật Bản hiện hành chính là Bộ luật hình sự Nhật Bản năm 1908, sửa đổi gần đây nhất năm 2011. Trong Bộ luật hình sự Nhật Bản gián tiếp có quy định về tội phạm chưa hoàn thành (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) và việc quyết định hình phạt trong mỗi Điều luật cụ thể, tuy nhiên, nó chỉ được quy định ngay trong điều khoản cụ thể về hình phạt mà không nêu rõ nội dung tương ứng, cũng như không có quyết định hình phạt trong các trường hợp này. Như vậy, so với Bộ luật hình sự Việt Nam thì Bộ luật hình sự Nhật Bản không nêu cụ thể nội dung việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, mà chỉ ghi nhận gián tiếp thông qua các quy định về trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và có chỉ dẫn ở quy định chung ở Điều 43 là: đối với người thực hiện hành vi phạm tội, nhưng chưa đạt, thì có thể được giảm nhẹ hình phạt đối với tội định phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội thì có thể được giảm án hoặc được miễn án. Ngoài ra, Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định trong chuẩn bị phạm tội những trường hợp giảm nhẹ có thể được miễn hình phạt.
Chương 3 THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
3.1. THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của địa bàn tỉnh Đắk Lắk Theo Website chính thức về tỉnh Đắk Lắk (Http://daklak.gov.vn), tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên. Với vị trí nằm ở trung tâm khu vực Tây Nguyên, Đắk Lắk thuận lợi cho việc giao lưu hàng hóa, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội. Năm 2014, toàn tỉnh Đắk Lắk đã tăng cường triển khai các biện pháp, công tác nghiệp vụ nắm chắc tình hình, trấn áp kịp thời tội phạm hình sự và vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định, an ninh trật tự, an toàn xã hội.
3.1.2. Tình hình quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
13
Nhìn vào thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lăk trong 06 năm (2009 - 2014) cho thấy trung bình mỗi năm các Tòa án địa phương đã đưa ra xét xử khoảng gần 1.600 vụ án nhưng trong đó tỷ lệ số các vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt bị đưa ra xét xử là rất thấp và không đáng kể.
Trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014), Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã
thụ lý, giải quyết án hình sự hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) như sau:
Bảng 3.2: Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án nhândân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014)
Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk Năm
Thụ lý Giải quyết
1.605 3.073 1.559 Còn lại 46 Cấp Sơ thẩm 2.951 122
2009 Phúc thẩm 419 676 10 4 415 686
Tổng 2.024 3.627 132 50 1.974 3.759
Sơ thẩm 1.322 2.346 49 23 1.299 2395
2010 Phúc thẩm 428 706 24 6 422 730
Tổng 1.750 3.052 73 29 1.721 3.125
Sơ thẩm 1.430 2.551 104 33 1.397 2.655
2011 Phúc thẩm 439 662 19 9 430 681
Tổng 1.869 3.213 123 42 1.827 3.336
Sơ thẩm 1.667 3.200 72 28 1.639 3.272
2012 Phúc thẩm 493 817 9 7 486 826
Tổng 2.160 4.017 81 35 2.125 4.098
Sơ thẩm 1.569 3.020 87 26 1.543 3.107
2013 Phúc thẩm 524 921 7 7 517 928
Tổng 2.093 3.941 94 33 2.060 4.035
Sơ thẩm 1.583 3.183 57 24 1.559 3.240
538 910 0 0 538 910 2014 Phúc thẩm
4.093 57 24 2.097 Tổng 2.121 4.150
8.996 Sơ thẩm 9.176 17.742 17.251 180 491
2.808 Phúc thẩm 2.841 4.761 4.692 33 69 Tổng
Tổng 12.017 22.503 11.804 21.943 213
560 (Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)
14
Biểu đồ 3.1: Tổng số vụ án và bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014)
(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)
Ngoài ra, do không có số liệu chính thức, nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu, khảo sát 200 bản án sơ thẩm được chọn ngẫu nhiên từ Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và 15 Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014) cho thấy kết quả như trong bảng thống kê dưới đây:
Bảng 3.3: Kết quả khảo sát 200 vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014)
Số vụ án chuẩn bị phạm tội Số vụ án phạm tội chưa đạt Số vụ án tiến hành khảo sát Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
1 0,5 % 12 6,0 % 200
Trong đó:
Giai đoạn phạm tội
Stt Loại tội
Số vụ
1 Tội giết người Chuẩn bị phạm tội 1 Phạm tội chưa đạt 3 Tội phạm hoàn thành 5 9
2 Tội hiếp dâm 0 1 11 12
3 Tội hiếp dâm trẻ em 0 1 5 6
4 Tội cố ý gây thương tích 0 0 42 42
5 Tội cướp tài sản 0 1 21 22
6 Tội cưỡng đoạt tài sản 0 0 13 13
7 Tội trộm cắp tài sản 0 6 60 66
8 Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 0 0 30 30
Tổng cộng: 1 187 12
200 (Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)
15
Biểu 3.2: Kết quả khảo sát 200 vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014)
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Như vậy, mặc dù mẫu khảo sát chỉ là một nhóm nhỏ nhưng do phương thức lấy mẫu ngẫu nhiên nên cũng có thể nói rằng kết quả tương đối sát thực tế. Nhìn vào kết quả đó cho thấy rất hiếm vụ án đã đưa ra xét xử là vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Thực tế hầu hết tội phạm do cố ý đều trải qua giai đoạn chuẩn bị phạm tội và việc chuẩn bị đó không đi đến hành động thực sự chắc chắn không phải là hiếm. Tuy nhiên, vụ án chuẩn bị phạm tội được đưa ra xét xử hầu như không có cho thấy tình hình phát giác, xử lý những hành vi phạm tội ở giai đoạn chưa hoàn thành còn hạn chế. Theo đó, số vụ Tòa án quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội trong 200 vụ án chỉ chiếm có 0,5 % (1 vụ đối với tội giết người); cũng như có 6,0 % số vụ Tòa án quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt (3 vụ đối với tội giết người, 1 vụ đối với tội hiếp dâm, 1 vụ đối với tội hiếp dâm trẻ em và 1 vụ đối với tội cướp tài sản).
3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và các nguyên nhân cơ bản
Mặc dù số lượng vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt được đưa ra xét xử không nhiều nhưng qua một số vụ án điển hình cho thấy việc quyết định hình phạt trong các trường hợp này không phải là không có những vấn đề tồn tại, hạn chế mà có thể biểu hiện dưới một trong các dạng sau đây:
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn chưa chính xác do sai lầm trong việc lựa chọn Điều luật áp dụng; - Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn nhẹ quá mức dẫn đến mức và loại hình phạt không tương xứng, chưa bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa chung;
- Ngược lại, hình phạt được quyết định trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt có khi quá nghiêm khắc, không thể hiện được tính giảm nhẹ so với trường hợp tội phạm hoàn thành;
Nguyên nhân chủ yếu của tồn tại, hạn chế trên là do:
16
- Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn chưa hoàn thiện;
- Do đặc thù của trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và của
hoạt động quyết định hình phạt trong hai trường hợp này;
- Sự phức tạp của phương thức, thủ đoạn phạm tội và tình trạng thiếu thốn về nhân lực của Tòa án; trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận đội ngũ cán bộ, Thẩm phán.
3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
3.2.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là hết sức cấp thiết cả về phương diện lý luận, lập pháp hình sự. Đặc biệt, việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện những quy định là tất yếu nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động quyết định hình phạt. Điều này cũng phù hợp với Định hướng sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự Việt Nam mà đang được đưa ra lấy ý kiến đóng góp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
3.2.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt * Sửa đổi, bổ sung Điều 17 Bộ luật hình sự về “Chuẩn bị phạm tội” Nghiên cứu nội dung Điều 17 Bộ luật hình sự về “Chuẩn bị phạm tội”
cho thấy có một số vấn đề nên sửa đổi, bổ sung như sau:
- Đoạn 1 Điều 17 Bộ luật hình sự quy định: “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm” mới chỉ tập trung đề cập đến hành vi của người chuẩn bị, nhưng chưa đề cập đến hành vi của người này trong mối liên hệ với những người đồng phạm khác, chẳng hạn như hành vi tìm kiếm, liên kết những người đồng phạm. Do đó, nên bổ sung thêm vấn đề này trong nội dung điều luật cho phù hợp với thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự các nước (ví dụ Điều 30 Bộ luật hình sự Liên bang Nga). Tương tự, Điều luật cũng chưa nói rõ nguyên nhân của việc dừng lại (bị phát hiện) trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu của quá trình thực hiện tội phạm, do đó, cần bổ sung nguyên nhân của việc bị dừng lại này là do các nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội cũng tương tự như Điều 18 về “Phạm tội chưa đạt” và tương tự như Bộ luật hình sự Liên bang Nga. Tuy nhiên, ở đây là không thực hiện tiếp được hành vi phạm tội, vì chuẩn bị phạm tội có đặc điểm là người phạm tội chưa bắt tay vào việc thực hiện hành vi phạm tội được mô tả trong mặt khách quan của
17
cấu thành tội phạm tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Họ mới chỉ có các hoạt động tạo điều kiện cần thiết và thuận lợi cho quá trình thực hiện tội phạm, để cho việc thực hiện tội phạm sau đó được thuận lợi hơn. Do đó, đoạn 1 Điều 17 Bộ luật hình sự nên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
- Đoạn 2 Điều 17 Bộ luật hình sự quy định “Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện” cũng cần được sửa đổi, bổ sung cho chính xác để tránh cách hiểu sai - nếu một người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện, còn nếu giả sử họ chuẩn bị hai tội rất nghiêm trọng hoặc hai tội đặc biệt nghiêm trọng; hay họ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng và một tội đặc biệt nghiêm trọng lại không phải chịu trách nhiệm hình sự ?. Do đó, quy định này cần sửa thành “Người chuẩn bị phạm một hay nhiều tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về một hay nhiều tội định thực hiện đó”.
Như vậy, Điều 17 Bộ luật hình sự nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật hình sự hiện hành Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Điều 17. Chuẩn bị phạm tội Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện đó. Điều 17. Chuẩn bị phạm tội Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện, tìm kiếm, liên kết những người đồng phạm hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm, nhưng không thực hiện được tiếp hành vi của mình vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người chuẩn bị phạm một hay nhiều tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về một hay nhiều tội định thực hiện đó.
* Sửa đổi, bổ sung Điều 18 Bộ luật hình sự về “Phạm tội chưa đạt” Nghiên cứu nội dung Điều 18 Bộ luật hình sự về “Phạm tội chưa đạt” cho thấy nên bổ sung và giải thích khái quát vào Điều 18 Bộ luật hình sự hai trường hợp “phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành” và “phạm tội chưa đạt đã hoàn thành” để có cơ sở pháp lý truy cứu trách nhiệm hình sự chính xác và bảo đảm công bằng đối với người phạm tội trong từng trường hợp tương ứng, cụ thể trách nhiệm hình sự do phạm tội chưa đạt đã hoàn thành bao giờ cũng phải nghiêm khắc hơn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Trước đây, trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự” cũng đã nêu về phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
18
Như vậy, Điều 18 Bộ luật hình sự nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật hình sự hiện hành Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Điều 18. Phạm tội chưa đạt Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.
Điều 18. Phạm tội chưa đạt 1. Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội. 2. Phạm tội chưa đạt thuộc một trong những trường hợp sau đây: a) Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn mà người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả chưa xảy ra; b) Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn mà người phạm tội đã thực hiện các hành vi cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả chưa xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng chưa phù hợp với dấu hiệu hậu quả trong cấu thành tội phạm. 3. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành phải chịu trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn so với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.
* Sửa đổi, bổ sung Điều 52 Bộ luật hình sự về “Quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt”
Nghiên cứu nội dung Điều 52 Bộ luật hình sự về “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt” cho thấy có một số vấn đề nên sửa đổi, bổ sung như sau:
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt quy định tại khoản 2-3 Điều 52 Bộ luật hình sự:
“... 2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu Điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà Điều luật quy định;
19
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu Điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà Điều luật quy định”.
Tuy nhiên, các nhà làm luật nước ta lại chưa quy định rõ: không quá một phần hai (1/2) hay không quá ba phần tư (3/4) mức phạt tù mà Điều luật quy định là của mức phạt tù cao nhất hay mức phạt tù thấp nhất... Do đó, theo chúng tôi, nên sửa đổi theo hướng “mức phạt tù” được hiểu chính là “không quá một phần hai mức phạt tù thấp nhất đến không quá một phần hai mức phạt tù cao nhất” và “không quá ba phần tư mức phạt tù thấp nhất đến không quá ba phần tư mức phạt tù cao nhất” trong khoản 2 và khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự mới phù hợp với lý luận và thực tiễn, đồng thời mới bảo đảm nguyên tắc công bằng và phân hóa trách nhiệm hình sự.
Đặc biệt, nên cụ thể hóa căn cứ xác định loại hình phạt, mức hình phạt áp dụng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Căn cứ xác định loại hình phạt, mức hình phạt đối với các trường hợp này theo quy định của Bộ luật hình sự hiện nay là “Điều luật được áp dụng”. Trong khi hành vi phạm tội được quy định ở các khoản khác nhau của điều luật có thể thuộc các loại tội phạm khác nhau mà hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt được xem xét chỉ tương ứng với một loại tội phạm trong đó. Một điều luật cũng có thể có nhiều khung hình phạt, trong khung hình phạt lại có thể chứa đựng nhiều loại hình phạt, mức phạt khác nhau, do đó, nên quy định là “Điều, khoản được áp dụng”; - Về trách nhiệm hình sự, tham khảo Bộ luật hình sự Liên bang Nga cho thấy, hành vi phạm tội chưa đạt cũng giống như Bộ luật hình sự Việt Nam, có nghĩa không đặt ra vấn đề giới hạn những trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự mà quy định tất cả các trường hợp phạm tội chưa đạt đều phải chịu trách nhiệm hình sự, không phân biệt tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, khoản 3, 4 Điều 66 Bộ luật hình sự Liên bang Nga lại quy định - mức hình phạt quyết định đối với hành vi phạm tội chưa đạt không vượt quá ba phần tư mức hình phạt trong khung của tội phạm hoàn thành, không áp dụng hình phạt tử hình và tù chung thân đối với người phạm tội chưa đạt (chúng tôi nhấn mạnh - TG). Trong khi đó, khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu Điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng...”. Theo chúng tôi, để nhân đạo hóa hơn nữa các quy định trong Bộ luật hình sự, đồng thời phù hợp với thực tiễn xét xử, chỉ cần quy định áp dụng hình phạt tù chung thân (không quy định áp dụng hình phạt tử hình) trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng đối với trường hợp phạm tội chưa đạt là đã đủ sức răn đe và phòng ngừa chung. Đặc biệt, nếu cũng không áp dụng hình phạt tù chung thân thì trong
20
trường hợp phạm tội chưa đạt, cần áp dụng mức hình phạt cao nhất mà Điều, khoản đó quy định là 20 năm tù.
Như vậy, Điều 52 Bộ luật hình sự nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật hình sự hiện hành Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Điều 52. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt đựơc quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. 2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu Điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà Điều luật quy định. 3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu Điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà Điều luật quy định.
Điều 52. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt đựơc quyết định theo các điều, khoản của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. 2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu Điều, khoản được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù thấp nhất đến không quá một phần hai mức phạt tù cao nhất mà Điều, khoản quy định. 3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu Điều, khoản được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng hình phạt tù chung thân trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu không áp dụng hình phạt tù chung thân, thì áp dụng hình phạt tù có thời hạn 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù thấp nhất đến không quá ba phần tư mức phạt tù cao nhất mà Điều, khoản quy định.
21
3.3. CÁC KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
Bên cạnh đó, cùng với việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, theo chúng tôi, cần tiến hành các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của các quy định đó trong thực tiễn quyết định hình phạt đối với hai trường hợp này như sau.
3.3.1. Kiện toàn và nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ làm
công tác xét xử
Việc kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử và nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ này là điều kiện cơ bản để nâng cao chất lượng hoạt động quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt phức tạp hơn so với trường hợp tội phạm hoàn thành nên càng đòi hỏi cao về trình độ, kinh nghiệm và sự nhạy cảm nghề nghiệp của cán bộ xét xử.
Đặc biệt, ngày 24/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân, đây là đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa những tư tưởng cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Do đó, cần cụ thể hóa và nghiên cứu triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân, trong đó chú ý thực hiện tốt các quy định về tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của Thẩm phán và Hội thẩm, bảo đảm thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
3.3.2. Một số giải pháp phối hợp khác Ngoài ra, để nâng cao chất lượng, hiệu quả quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt thì bên cạnh việc kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử và nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ này đòi hỏi phải có một số giải pháp phối hợp thực hiện khác như sau:
- Đầu tư nghiên cứu các vấn đề lý luận, tổng kết kinh nghiệm giải quyết
vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt;
- Tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; thu hút sự đông đảo lực lượng xã hội tham gia đấu tranh, xử lý mọi hành vi phạm tội ngay từ giai đoạn mới bắt đầu;
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm sát các vụ án chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt và việc quyết định hình phạt.
22
KẾT LUẬN
Tóm lại, nghiên cứu đề tài “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm luận văn thạc sĩ luật học, chúng tôi xin đưa ra những kết luận chung sau đây:
1. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt được đặt ra như là một trường hợp đặc biệt của hoạt động quyết định hình phạt trên cả phương diện nghiên cứu lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự bởi đối tượng áp dụng là người thực hiện hành vi phạm tội chưa hoàn thành. Do đó, quyết định hình phạt đúng và chính xác trong hai trường hợp này sẽ phát huy tác dụng đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục, cải tạo đối tượng này, hạn chế tới mức thấp nhất những hậu quả có thể gây ra cho xã hội, đồng thời giúp họ trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội. Ngược lại, nếu quyết định hình phạt sai và không tương xứng sẽ làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục, cải tạo đối tượng này, đồng thời không thực hiện được chính sách hình sự đối với họ và nguy cơ họ quay lại con đường phạm pháp là điều dễ xảy ra.
2. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 trước đây và năm 1999, sửa đổi năm 2009 hiện hành đã có sự kế thừa và ngày càng hoàn thiện quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và quyết định hình phạt trong hai trường hợp này. Tuy nhiên, qua quá trình gần 15 thực thi và áp dụng cho thấy Bộ luật hình sự cho thấy đã nảy sinh một số hạn chế, vướng mắc đòi hỏi phải kịp thời sửa đổi, bổ sung như một yêu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, qua đó, làm cơ sở để phân hóa tội phạm và trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử.
3. Đắk Lắk là tỉnh trung tâm của vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, cũng như an ninh - quốc phòng. Trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk mặc dù các cơ quan chức năng đã có những nỗ lực và đạt được thành tựu đáng kể trong đấu tranh phòng chống tội phạm nhưng tình hình tội phạm vẫn có khuynh hướng gia tăng nhẹ. Xét riêng việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, các Tòa án trong tỉnh đưa ra xét xử trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014) đã làm rất tốt, áp dụng chính xác và đưa ra xử lý đúng các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành, mặc dù các vụ án chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chỉ chiếm tỷ lệ 0,5 % và 6,0 % trong 200 vụ án được khảo sát và chỉ tập trung vào một số tội phạm cụ thể, qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững ổn định an ninh trật tự, an toàn xã hội.
4. Tuy nhiên, nhìn vào số liệu thống kê và qua khảo sát cũng cho thấy, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
23
cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ và vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong quá trình xét xử các vụ án này, từ đó làm giảm hiệu quả chính sách hình sự nhân đạo và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm từ trong “trứng nước”. Vì vậy, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt không chỉ đòi hỏi cho ra biện pháp xử lý tương xứng đối với hành vi phạm tội mà còn phải thể hiện được chính sách nhân đạo, khoan hồng và mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. Cho nên, để đáp ứng được những yêu cầu đó, việc quyết định hình phạt trong hai trường hợp này cần được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc, căn cứ chặt chẽ và đặc thù. Luận văn đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản và yêu cầu đặt ra phải có một hệ thống quy định pháp luật hoàn chỉnh để điều chỉnh vấn đề này là hết sức cần thiết.
5. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt bao gồm cả việc hoàn thiện về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và các căn cứ quyết định hình phạt và việc quyết định hình phạt trong hai trường hợp này để bảo đảm tính chỉnh thể và hệ thống. Bên cạnh đó, đồng thời với việc kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự, luận văn cũng đề xuất cần tiến hành một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của các quy định đó trong thực tiễn như: kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử phục vụ công tác xét xử, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ đó, đồng thời kết hợp nhiều giải pháp khác để làm sao thực hiện tốt chính sách hình sự, chính sách nhân đạo, nhưng vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các lợi ích chung của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức và của công dân.
24