BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Nguyệt
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN TRONG
VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH 11
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Nguyệt
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN TRONG
VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH 11
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn học
Mã số
: 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này được hoàn thành dựa trên kết quả
nghiên cứu của tôi và kết quả nghiên cứu này chưa được cung cấp bởi
bất cứ luận văn cùng cấp nào khác.
TP.Hồ Chí Minh, ngày….tháng….năm 2014
Trần Thị Nguyệt
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Đặng Ngọc Lệ - người đã tận tình
hướng dẫn và hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn tất cả những thầy, cô đã dạy chúng tôi trong suốt khóa học.
Cảm ơn Ban Giám hiệu, quý thầy cô, đồng nghiệp công tác tại
TTGDTX-Quận 12 đã cho phép và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
nghiệm.
Xin cảm ơn lãnh đạo trường TTGDTX-Quận 12 đã tạo điều kiện cho tôi
đi học, các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ và gánh vác công việc
cùng tôi trong thời gian tôi đi học.
Xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên tôi hoàn
thành luận văn này.
Trân trọng!
Tp Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014
Trần Thị Nguyệt
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VĂN NGHỊ LUẬN ........................................... 7
1.1. Khái niệm văn bản nghị luận ............................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................... 7
1.1.2. Phân loại văn bản nghị luận ........................................................................ 7
1.1.3. Chức năng của văn nghị luận ..................................................................... 9 1.1.4. Phương thức biểu đạt ................................................................................ 11 1.2. Đặc trưng của văn bản nghị luận ........................................................................ 13 1.2.1. Tính lập luận chặt chẽ ............................................................................... 14 1.2.2. Tính thuyết phục cao ................................................................................ 15 1.2.3. Tính trang trọng, công khai ...................................................................... 15 1.3. Lập luận trong văn nghị luận ............................................................................. 16 1.3.1. Khái niệm lập luận .................................................................................... 16 1.3.2. Cấu trúc của lập luận ................................................................................ 18 1.3.3. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận ................................................ 22 1.3.4. Sự vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận ............... 31
1.4. Vai trò và ý nghĩa của việc rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị
luận cho học sinh lớp 11 THPT ........................................................................ 34 1.5.Tình hình dạy và học làm văn nghị luận ở lớp 11 THPT ................................... 36 1.5.1. Những thuận lợi trong việc giảng dạy văn nghị luận trong trường
THPT ....................................................................................................... 36
1.5.2. Những khó khăn trong việc giảng dạy văn nghị luận trong trường
THPT ....................................................................................................... 37 Tiểu kết Chương 1 ....................................................................................................... 38
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN TRONG
VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 11 THPT.......................... 39
2.1. Rèn luyện cách sử dụng ngôn ngữ nghị luận ..................................................... 39
2.1.1. Dùng từ ngữ lập luận trong câu văn nghị luận ......................................... 39
2.1.2. Xây dựng đoạn văn ................................................................................... 42
2.2. Rèn luyện cách xây dựng hệ thống lập luận ...................................................... 46
2.2.1. Hệ thống luận điểm ................................................................................... 46
2.2.2. Hệ thống luận cứ ....................................................................................... 55 2.2.3. Cách lập luận ............................................................................................ 59
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 66
Chương 3. THIẾT KẾ VÀ THỰC NGHIỆM DẠY HỌC CÁC THAO TÁC
LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN ........................................... 67
3.1.Thiết kế các bài học về thao tác lập luận ............................................................ 67
3.1.1.Thao tác lập luận phân tích ........................................................................ 68
3.1.2. Thao tác lập luận so sánh .......................................................................... 76
3.1.3. Thao tác lập luận bác bỏ ........................................................................... 81 3.1.4. Thao tác lập luận bình luận....................................................................... 88 3.2. Thực nghiệm ...................................................................................................... 92 3.2.1. Mục đích của thực nghiệm. ...................................................................... 92 3.2.2. Kế hoạch thực nghiệm .............................................................................. 93 3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm. .......................................................................... 94 3.4. Những khó khăn trong thực nghiệm .................................................................. 97 3.5. Bài học kinh nghiệm .......................................................................................... 98 Tiểu kết Chương 3 ....................................................................................................... 99 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 102
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
TN : Thực nghiệm
ĐC : Đối chứng
Nxb : Nhà xuất bản
SGK : Sách giáo khoa
TLV : Tập làm văn
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
VBNL : Văn bản nghị luận
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Kết quả thống kê phiếu học tập của HS sau TN ....................................... 94
Bảng 3.2. Kết quả học tập của lớp TN và đối chứng trước khi TN ......................... 95
Bảng 3.3. Bảng thống kê kết quả cuối năm của lớp TN và ĐC. ............................... 96
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình Làm văn ở bậc học phổ thông, tập trung dạy học 6 kiểu văn
bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và hành chính- công vụ.
VBNL được quan tâm giảng dạy xuyên suốt từ lớp 7 đến lớp 12. Mỗi đơn vị bài
học trình bày kiến thức nghị luận ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, kết
quả học tập VBNL của HS vẫn chưa đạt yêu cầu. Bài viết vẫn còn sai về cách
dùng từ lập luận, đặc biệt là HS chưa biết cách lập luận…Vì vậy, vấn đề nghiên
cứu lí thuyết văn nghị luận và dạy tạo lập VBNL cho HS THPT trở nên cần thiết
và quan trọng đối với phân môn Làm văn nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói
chung. Một trong những điều quan trọng của việc dạy văn nghị luận là làm cho
HS nhận thức được tính đúng-sai, phải-trái, tốt-xấu của vấn đề; biết trình bày và
bảo vệ quan điểm của mình; biết bác bỏ quan điểm, tư tưởng sai lệch. Trên ghế
nhà trường, viết được VBNL là điều kiện thuận lợi để hình thành tình cảm, bản
lĩnh, sự tự tin và nhân cách cho HS trong cuộc sống.
Đặc trưng quan trọng nhất của văn bản nghị luận là sử dụng thành thạo và
sáng tạo những thao tác lập luận khi trình bày và giải quyết vấn đề. Vì vậy, để
HS viết được những bài văn nghị luận có hệ thống lập luận chặt chẽ, logic thì
việc dạy HS kỹ năng sử dụng những thao tác lập luận là vô cùng cần thiết. Sách
giáo khoa Làm văn trước đây chưa trình bày rõ ràng vấn đề dạy học các thao tác
lập luận trong văn nghị luận một cách cụ thể. Nhưng đến chương trình SGK
chỉnh lí từ bậc THCS đến THPT đã lưu ý đến vấn đề dạy các thao tác lập luận
thành từng nội dung cụ thể nhằm giúp học sinh hiểu sâu hơn về bản chất, yêu
cầu, cách vận dụng các thao tác lập luận trong quá trình tạo lập văn bản nghị
luận. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, phần Làm văn đã giới thiệu bốn thao tác lập
luận: phân tích, so sánh, bác bỏ và bình luận.
Để tạo lập được VBNL, HS cần được trang bị kiến thức và được rèn luyện
kỹ năng dùng từ ngữ lập luận, viết đoạn văn, xây dựng hệ thống lập luận và các
2
thao tác lập luận…Vận dụng tốt những kiến thức này sẽ là nền tảng vững chắc
để HS làm tốt bài văn nghị luận.
Từ những lí do trên, đề tài “Rèn luyện kỹ năng lập luận trong làm văn
nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT” nhằm nghiên cứu kỹ hơn về cách dùng
từ lập luận, các thao tác lập luận, đồng thời tìm ra hướng rèn luyện thực hành
cho HS nhằm nâng cao chất lượng viết văn nghị luận.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay, SGK và tài liệu tham khảo viết về vấn đề văn nghị luận cũng khá
nhiều. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến những SGK và tài liệu tham
khảo liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu.
a/ SGK và tài liệu hướng dẫn giảng dạy:
- Sách giáo khoa Làm văn 10 (1990) và sách giáo khoa Làm văn chương
trình chỉnh lí hợp nhất (2000). Mỗi bài học trong sách này đã trình bày nhiều
đơn vị kiến thức như: những yêu cầu chủ yếu của văn nghị luận, những thao tác
chính xây dựng câu, đoạn, bài nghị luận, cách làm bài văn nghị luận (tìm hiểu
đề, lập dàn ý, xây dựng đoạn). Sau đó là các bài học cụ thể về nghị luận xã hội
và nghị luận văn học. Nhưng SGK chưa chú trọng đến việc hình thành kỹ năng
lập luận trong bài văn nghị luận cho học sinh.
- Sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 2, [7]: được xây dựng theo hướng tích
hợp ba phân môn: Văn học, tiếng Việt và Làm văn. Trong phần Làm văn, vấn đề
lập dàn ý cho bài văn nghị luận, lập luận trong văn nghị luận, các thao tác nghị
luận và luyện tập viết đoạn văn nghị luậnđược trình bày khá rõ ràng.
- Sách giáo khoa Làm văn 11, [21]. Ở SGK này cũng nhắc lại một số khái
niệm chính về văn nghị luận như: khái quát lại khái niệm văn nghị luận, liệt kê
các kiểu bài văn nghị luận ở lớp 10 và lớp 11, cách triển khai và trình bày ý
trong đoạn văn, bài văn nghị luận.
- Sách giáo khoa Làm văn 12 [22], Các tác giả đề cập đến một số kỹ năng
làm văn nghị luận: lập ý và lập dàn bài cho bài văn nghị luận, lập luận trong văn
3
nghị luận, mở bài, kết bài và chuyển đoạn trong văn nghị luận, chọn và trình bày
dẫn chứng trong văn nghị luận, hành văn trong văn nghị luận. Về kỹ năng lập
luận, các tác giả nêu quan điểm về khái niệm và các yếu tố của lập luận một số
cách luận chứng và lỗi lập luận thường gặp. Theo đó, “Lập luận là dựa vào các
sự đáng tin cậy và các lý lẽ xác đáng để nêu lên ý kiến của mình về một vấn đề
nhất định”[22,tr.112]. Ba yếu tố quan trọng để cấu thành lập luận gồm: luận
điểm, luận cứ và luận chứng. Tác giả cũng trình bày một số cách luận chứng :
diễn dịch, quy nạp, phối hợp diễn dịch-quy nạp (tổng-phân-hợp), nêu phản đề,
so sánh, phân tích nhân quả, vấn đáp. Phải nói rằng, ở đây các tác giả đã trình
bày cũng khá rõ ràng, mạch lạc và cụ thể.
b/ Tài liệu tham khảo.
- Tài liệu tham khảo hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn cấp 3 phổ thông
(tập 1), [28]: đề cập đến hai đặc trưng cơ bản của văn nghị luận: lí luận và tư
duy logic. Trong đó lí luận được hiểu là “bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng”
[28,tr.7], “lí lẽ và dẫn chứng là bộ phận quan trọng hợp thành lí luận”[28,tr.7].
- Giáo trình Làm văn, [1]: Sách trình bày khá kỹ về những vấn đề thuộc
VBNL: Khái quát về văn nghị luận, phương pháp làm bài văn nghị luận, một số
lưu ý khi viết các kiểu bài cụ thể và các bài tập thực hành. Đây là những kiến
thức tương đối toàn diện về văn nghị luận.
- Kỹ năng làm văn nghị luận phổ thông [48]: Đây là công trình nghiên
cứu khá công phu về VBNL. Tác giả đã đặt ra nhiều vấn đề lý thuyết về VBNL:
Khái quát về văn nghị luận, tinh luyện và xác định luận điểm, lựa chọn và vận
dụng luận cứ, luận chứng, lập luận, luận chứng bác bỏ, luận chứng logic, cách
thức vận dụng kỹ năng thuyết lí, nắm vững toàn bộ quá trình làm văn…Sách là
cơ sở đề nghiên cứu chuyên sâu về văn nghị luận. Tuy nhiên còn vài vấn đề còn
chung chung chưa được đi sâu làm rõ. Cụ thể, quá trình viết văn nghị luận, tác
giả chia làm bốn giai đoạn: thu thập, cấu tứ, biểu đạt, sửa chữa. Tác giả đưa ra
nhận xét: “Sự phân chia bốn giai đoạn này chỉ là quá trình viết văn phổ biến
4
thường dùng…nội dung cụ thể và phương thức biểu hiện ở mỗi giai đoạn lại có
những điểm độc đáo khác biệt”[48,tr.250]. Sau đó, sách lại chia bốn giai đoạn
thành sáu bước viết văn nghị luận. Mỗi bước được trình bày một cách sơ lược.
Cần xác lập lại các bước viết văn nghị luận một cách hoàn chỉnh hơn.
- Phương pháp dạy học Tiếng Việt [2], Chương 8 trình bày phương pháp
dạy học Làm văn, bao gồm phương pháp dạy học lí thuyết, phương pháp dạy
học thực hành một bài làm văn, phương pháp ra đề làm văn, phương pháp chấm,
trả bài làm văn. Cuối chương tác giả cung cấp một số kỹ năng làm văn cần rèn
luyện cho học sinh: kỹ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương
hướng triển khai bài viết, kỹ năng lập dàn ý, kỹ năng viết đúng theo dàn ý, kỹ
năng lập luận, kỹ năng hành văn, kỹ năng hoàn thiện bài viết. Ở kỹ năng lập
luận tác giả quan niệm: “Luận điểm, luận cứ, luận chứng là những yếu tố quan
trọng của lập luận [2,tr.234], “lập luận là xâu chuỗi các dẫn chứng, luận cứ sao
cho hợp lý nhất, có tính thuyết phục người đọc nhất, làm cho người đọc nhận ra
luận điểm, tin ở luận điểm và hành động theo hướng mà luận điểm đưa ra”.
Sách cũng giới thiệu những thủ pháp kết cấu để lập luận được chặt chẽ. Nhưng
thuật ngữ và cách thức sử dụng những thủ pháp này cần được nghiên cứu rõ
ràng hơn.
- “Làm văn từ lý thuyết đến thực hành” (1997) và bài viết “Vai trò của
lập luận trong văn nghị luận” của tác giả Đỗ Ngọc Thống đã trình bày rất kỹ về
lý thuyết văn nghị luận, vai trò của lập luận trong văn nghị luận.
- Muốn viết được bài văn hay [43], Sách có ba phần: Phần 1: Một số vấn
đề lí thuyết thiết thực về Làm văn trong chương trình ngữ văn mới. Phần 2:
Những công việc cụ thể để xây dựng một bài văn hay. Phần 3: Yêu cầu về nội
dung, phương pháp và quy củ của một bài tập nghiên cứu của sinh viên đại học.
Tác giả sách đưa ra quy trình làm một bài văn với các khâu: chuẩn bị chất liệu,
lập ý, lập đề cương và thể hiện thành văn bản: mở bài, xây dựng các đoạn văn,
chuyển đoạn, kết bài. Bên cạnh đó còn chú ý đến các kiểu bài nghị luận khác
5
nhau từ nội dung đến hình thức, rồi lại đề xuất một số thủ pháp hành văn. Tóm
lại, tất cả các dụng ý và cố gắng của tác giả nhằm giúp học sinh xây dựng được
một bài văn hoàn chỉnh, đạt chất lượng cao.
Nhìn chung, tài liệu về rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị luận
còn tương đối ít, đặc biệt chưa lưu ý các bài dạy học thực hành về các thao tác
lập trong văn nghị luận. Vì vậy, chưa có cách rèn luyện cho HS kỹ năng lập luận
khi viết văn nghị luận.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu kỹ về những kiến thức cơ bản về VBNL.
- Từ những đặc trưng cơ bản của VBNL, nghiên cứu các thao tác lập luận
nhằm giúp HS vận dụng các thao tác này trong việc thực hành tạo lập những văn
bản cụ thể trong chương trình lớp 11 THPT.
- Đối tượng nghiên cứu là các văn bản nghị luận trong chương trình SGK
Ngữ văn lớp 11 THPT.
- Phạm vi nghiên cứu là dạy học chương trình làm văn nghị luận lớp 11 tại
trường Trung tâm GDTX Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Vận dụng và kế thừa thành tựu của các ngành: ngôn ngữ học, phong cách
học, lý luận văn học…đặc biệt chú ý vận dụng phương pháp dạy học Làm văn
và tiếng Việt vào quá trình viết văn nghị luận. Luận văn tìm hiểu chương trình
dạy học về làm văn nghị luận trong nhà trường, tham khảo các tài liệu về
VBNL, phương pháp dạy học Làm văn và tiếng Việt qua sách báo, tạp chí giáo
dục…
Phương pháp quan sát, điều tra.
Dự giờ đồng nghiệp dạy học các tiết về thao tác lập luận trong văn nghị
luận, điều tra thăm dò để tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong quá trình
dạy và học văn nghị luận ở trường phổ thông.
6
Phương pháp thực nghiệm.
Tổ chức thiết kế và dạy thực nghiệm thao tác lập luận trong văn nghị luận
lớp 11, chú ý rèn luyện kỹ năng lập luận khi viết văn nghị luận cho HS.
Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá.
Tổng hợp các vấn đề lý thuyết về VBNL. Phân tích nguyên nhân những
lỗi sai của học sinh. Đánh giá kết quả thực nghiệm và rút ra những kết luận cần
thiết khi dạy học các thao tác lập luận trong văn nghị luận lớp 11 THPT.
4. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận của văn nghị luận.
- Chương 2: Phương pháp rèn luyện các kỹ năng lập luận trong văn nghị
luận cho học sinh lớp 11 THPT.
- Chương 3: Thiết kế và thực nghiệm dạy học về các thao tác lập luận
trong văn nghị luận.
6. Những đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của VBNL nhằm tìm ra phương pháp
dạy học khả thi giúp giáo viên giảng dạy có hiệu quả và học sinh làm bài văn
nghị luận theo đúng yêu cầu.
- Tìm ra những phương pháp phù hợp để rèn luyện kỹ năng lập luận cho
học sinh đồng thời làm tăng hứng thú và mang lại hiệu quả cao trong việc viết
văn nghị luận của HS.
- Phát hiện một số vấn đề còn tồn tại, đánh giá, phân tích, rút kinh nghiệm
để tìm ra phương pháp dạy viết văn nghị luận.
7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VĂN NGHỊ LUẬN
1.1. Khái niệm văn bản nghị luận
1.1.1. Khái niệm
Từ trước tới nay, khái niệm VBNL được nhiều tài liệu đề cập tới theo nhiều
cách khác nhau:
- Theo “Tài liệu tham khảo hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn cấp 3 phổ
thông”: “Văn nghị luận là một thể loại văn học dùng lí luận (bao gồm lí lẽ
và dẫn chứng) để làm sáng tỏ những vấn đề thuộc về chân lý cuộc sống
nhằm làm cho người đọc, người nghe hiểu và tin vấn đề đó để họ có nhận
thức đúng, có thái độ đúng và có hành động đúng” [28,tr.5].
- Trong “Rèn kỹ năng làm văn nghị luận” định nghĩa:
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày
những ý kiến của mình bằng cách dùng lý luận bao gồm cả lí lẽ và
dẫn chứng để làm rõ một vấn đề thuộc chân lý nhằm làm cho người
nghe (người đọc) hiểu, tin đồng tình với những ý kiến của mình và
hành động theo những điều mà mình đề xuất [48,tr.5].
- “Giáo trình Làm văn” định nghĩa: “Văn nghị luận là loại văn trong đó
người viết đưa ra những lý lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông
qua cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin và tán đồng những
ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất”
[1,tr.137].
1.1.2. Phân loại văn bản nghị luận
Trong chương trình phổ thông, HS được học văn nghị luận bắt đầu từ lớp 7
đến lớp 12.Tuy nhiên việc phân loại VBNL chưa thật nhất quán khiến việc dạy
và học loại văn bản này còn nhiều khó khăn. Do vậy, cần đưa ra cách phân loại
nhất quán hơn.
Theo nhiều tài liệu, việc phân loại VBNL dựa trên cơ sở các thao tác tư
duy. Mỗi kiểu văn nghị luận rèn luyện một thao tác tư duy riêng. Nếu phân loại
8
VBNL dựa trên cơ sở các thao tác tư duy thì VBNL được chia làm năm kiểu:
giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích, bình giảng. Tuy nhiên, thao tác tư
duy được sử dụng ở hầu hết các lĩnh vực, các chuyên ngành khoa học. Hơn nữa
thao tác là một đơn vị của hoạt động. Mỗi thao tác có một nhiệm vụ riêng. Bài
làm văn nghị luận không thể tiến hành chỉ với một thao tác mà cần có sự kết
hợp, vận dụng các thao tác một cách hợp lý.
Hướng dẫn phân loại như trên để lại dấu ấn rõ rệt qua cách ra đề kiểm tra
các bài văn nghị luận trong thời gian qua. Yêu cầu của đề hàm chứa một kiểu
VBNL: “Hãy giải thích/ chứng minh/ bình luận/ phân tích…nội dung của câu ca
dao/tục ngữ/ câu nói…”. Từ đó học sinh làm văn theo những lối mòn, chất
lượng các bài văn nghị luận còn thấp, ít phát huy được sự chủ động sáng tạo của
học sinh.
Theo quan điểm của chương trình và SGK mới, việc đổi mới kiểm tra đánh
giá sẽ kéo theo đổi mới cách dạy và học. Xu hướng đề làm văn hiện nay được
biên soạn theo hướng mở. Từ đó, học sinh có điều kiện thể hiện quan điểm và
sáng tạo trong cách làm bài.
Một vài ý kiến khác lại phân loại văn nghị luận dựa theo những góc độ
khác nhau: theo nội dung phản ánh, theo hình thức biểu hiện, theo tính chất của
luận đề. Cách chia này rất cụ thể, chi tiết nhưng mang tính hàn lâm. Với trình độ
nhận thức của học sinh THPT, những tri thức lý thuyết này chưa thật cần thiết.
Trong phạm vi nhà trường, việc phân loại VBNL cần chú ý đến những tiêu chí:
khái quát được những đặc trưng của từng loại văn bản, khả năng vận dụng các
kiểu văn bản vào thực tế cuộc sống. Do đó, quan điểm “việc phân loại văn bản
nghị luận thành loại này hay loại khác, kiểu này hay kiểu khác chỉ là quy ước
dùng trong nhà trường” [28,tr.8] không thích hợp.
Trong thực tế một thời gian dài, một số cách phân chia văn nghị luận đã
khiến khá nhiều học sinh học và làm theo “quy ước trong nhà trường” lúng túng
khi viết văn nghị luận. Trong khi đó thực tế đời sống cho thấy, không có một bài
9
văn nghị luận nào lại chỉ đơn thuần sử dụng một thao tác chứng minh, giải thích,
phân tích hay bình luận…Học sinh không thể phát huy được sự sáng tạo khi quá
lệ thuộc vào mẫu có sẵn. Vì vậy, điều cần thiết là rèn luyện cho học sinh kỹ
năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài viết của mình.
Nội dung của vấn đề nghị luận có ảnh hưởng rất lớn đến việc phân loại
VBNL. Mỗi nội dung khác nhau sẽ được chuyển tải bằng hình thức khác nhau.
Xác định nội dung nghị luận là cơ sở giúp học sinh nhận biết và phân loại
VBNL.
Theo những nghiên cứu trước đây, VBNL được chia làm hai loại: nghị luận
xã hội và nghị luận văn học. Trong nghị luận xã hội được chia làm: nghị luận về
một vấn đề xã hội và nghị luận về một tư tưởng đạo lý. Trong nghị luận văn học
cũng được chia thành những kiểu như: nghị luận về một bài thơ hoặc đoạn thơ,
nghị luận về một tác phẩm hoặc đoạn trích văn xuôi, nghị luận về một ý kiến
bàn về văn học. Mỗi kiểu bài thường được áp dụng nhiều thao tác nghị luận
khác nhau. Nghị luận xã hội thường có sự kết hợp các thao tác giải thích, chứng
minh, bình luận. Nghị luận văn học thường vận dụng các thao tác phân tích,
chứng minh, bình luận, bình giảng. Nhưng trên thực tế, các thao tác nghị luận
đều có thể sử dụng, phối hợp linh hoạt cho cả nghị luận xã hội và nghị luận văn
học.
1.1.3. Chức năng của văn nghị luận
Mục đích cuối cùng của một VBNL là thuyết phục đối tượng giao tiếp hiểu,
tin và làm theo những điều mà người nói (viết) đề xuất. Vì vậy, không viết đúng,
lập luận không vững, người nghe (đọc) không hiểu, không tin và không hành
động tức là không đạt được mục đích giao tiếp.
Tùy vào đối tượng, hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, mục đích giao tiếp của
VBNL cũng có sự khác nhau. Có thể xác định trên ba phương diện sau:
+ Chức năng giáo dục.
10
Nghị luận là hình thức tuyên truyền giáo dục thích hợp và đạt hiệu quả cao.
Từ xa xưa, người xưa đã biết sáng tác văn nghị luận để kêu gọi (hịch), để công
bố (cáo), để thuyết phục (chiếu, biểu, thư) …toàn dân trong đời sống sinh hoạt
hằng ngày cũng như trong kháng chiến. Ngày nay, việc sử dụng hình thức nghị
luận trong các lĩnh vực: giáo dục, kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng phổ biến.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước sử dụng văn bản nghị luận để tuyên truyền giải
thích các đường lối, chủ trương chỉ đạo tư tưởng và hành động của toàn dân,
tuyên truyền bồi dưỡng tinh thần cách mạng, con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội, biểu dương người tốt việc tốt, phê phán những thái độ, hành động sai trái,
phản động, vi phạm pháp luật.
Nghị luận cũng là hình thức tự giáo dục có hiệu quả. Khi tiến hành nghị
luận, người nói (viết) phải suy nghĩ thể hiện quan điểm của mình trước vấn đề
nghị luận. Trước, trong và sau khi trình bày trong ý thức của người viết (nói)
luôn diễn ra quá trình suy nghĩ, đặt vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề. Đây
chính là điều kiện để họ tự hoàn thiện cả về nhận thức và hành động. Mặt khác,
đối tượng giao tiếp của văn nghị luận rất rộng rãi. Muốn thuyết phục được người
đọc, người viết phải có sự chuẩn bị chu đáo từ việc diễn đạt từ ngữ, đến cách
trình bày các lập luận, dẫn chứng…Quá trình này,giúp tác giả nghị luận tự nhận
thức và có những điều chỉnh hợp lý. Đây là con đường giáo dục hiệu quả nhất
mà ngành giáo dục đang tiến đến.
+ Chức năng nhận thức xã hội.
Để viết được một bài văn nghị luận, dù là nghị luận xã hội hay nghị luận
văn học, người viết phải chuẩn bị một lượng tri thức thích hợp. Ở phương diện
tạo lập VBNL, tri thức ấy giúp người viết có đầy đủ những cơ sở để thuyết phục
người khác hiểu và tin vào vấn đề nghị luận. Ở phương diện tiếp nhận VBNL, tri
thức ấy là nguồn thông tin bổ ích để nâng cao hiểu biết xã hội. Dùng hình thức
văn nghị luận, người viết có thể “phát hiện ra chân lý, tổng kết và phát triển
chân lý; bình luận đánh giá các sự vật, hiện tượng trên thế giới, bày tỏ ý kiến của
11
mọi người, vạch ra những quy luật phát triển của xã hội loài người và sự huyền
diệu của giới tự nhiên”[19,tr.59].
+ Chức năng giao tiếp xã hội.
Cũng giống như các loại văn bản khác, chức năng giao tiếp xã hội có vai
trò rất quan trọng đối với VBNL. Không chỉ cung cấp thông tin, VBNL còn tác
động, thuyết phục đối tượng giao tiếp về một phương diện, vấn đề nào đó trong
cuộc sống. Sau khi tiếp nhận VBNL, nếu đối tượng giao tiếp nghe, tin và làm
theo những điều mà người viết đề xuất thì văn bản đã đạt yêu cầu. Ngược lại,
bằng VBNL, người đọc có thể phản hồi lại những ý kiến, nhận định, cách giải
quyết vấn đề của người viết chưa thỏa đáng. Như vậy thông qua giao tiếp,
VBNL giúp trao đổi thông tin, trau dồi ngôn ngữ và rèn luyện năng lực tư duy.
1.1.4. Phương thức biểu đạt
Phương thức biểu đạt là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong
chương trình và SGK mới. Thuật ngữ này được hiểu là cách thức để người nói
(viết) làm rõ một nội dung nào đó bằng một hình thức nhất định. Mỗi kiểu văn
bản tồn tại đều có một phương thức diễn đạt cụ thể.
+ Phương thức nghị luận.
Đứng trước một vấn đề nào đó trong đời sống xã hội, người nói (viết) trình
bày quan điểm của mình qua một hệ thống lí lẽ và dẫn chứng, kết hợp với các
thao tác tư duy logic: khái niệm, phán đoán, suy luận nhằm mục đích thuyết
phục người khác tin theo. Đó chính là phương thức nghị luận.
Như vậy thuật ngữ “nghị luận” thể hiện qua các thao tác: giải thích, chứng
minh, phân tích, bình giảng, bình luận, so sánh. Mức độ sử dụng các thao tác
phụ thuộc vào mục đích và nội dung nghị luận. Giải thích để hiểu, chứng minh
để làm rõ, phân tích đầy đủ các khía cạnh, bình luận để thấy được sự đúng sai,
bình giảng để cảm nhận được cái hay cái đẹp. Mỗi thao tác có một chức năng
riêng. Nghị luận là sự lựa chọn và kết hợp có chủ đích các thao tác ấy.
12
Phương thức nghị luận biểu hiện ở hai cấp độ: Cấp độ hẹp – là một phán
đoán suy luận dưới dạng câu. Cấp độ rộng – là một hệ thống lập luận bao gồm
ba yếu tố: luận điểm, luận cứ và lập luận tồn tại dưới dạng một vài đoạn văn
hoặc một bài văn hoàn chỉnh. Phương thức nghị luận nhỏ hơn VBNL vì trong
một VBNL chứa nhiều phương thức biểu đạt khác nhau, phương thức nghị luận
được xác định là phương thức biểu đạt chủ yếu của VBNL. Đó là cách thức trình
bày những dẫn chứng, lí lẽ để làm rõ quan điểm của người viết (nói) nhằm
thuyết phục đối tượng giao tiếp.
+ Phương thức thuyết minh
Văn bản thuyết minh là văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, cách dùng,
lí do phát minh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật, nhằm cung cấp tri
thức, hướng dẫn cách sử dụng cho con người. Văn bản thuyết minh được sử Văn bản thuyết minh, dù ngắn hay dài, dù đơn giản hay phức tạp, văn bản dụng rộng rãi trong cuộc sống hằng ngày. thuyết minh đều đóng vai trò cung cấp thông tin để giúp người đọc, người nghe
hiểu về đối tượng, sự việc. Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là cung cấp
cho học sinh một kiểu văn bản thông dụng, rèn luyện kĩ năng trình bày các tri
thức, nâng cao năng lực tư duy và biểu đạt cho học sinh, giúp các em làm quen
với lối làm văn có tính khoa học, chính xác.
Trong bài nghị luận, thuyết minh càng cụ thể càng có giá trị. Qua thuyết
minh, vấn đề càng thêm cụ thể, rõ ràng tức là quan điểm của người viết (nói)
càng được bộc lộ một cách tự nhiên. Vì vậy thuyết minh là thao tác biểu đạt bổ
trợ quan trọng của văn nghị luận. Sự đan xen giữa thuyết minh và nghị luận giúp
quá trình lập luận có sức thuyết phục cao.
+ Phương thức miêu tả, tự sự
13
Miêu tả và tự sự là hai phương thức biểu đạt bổ trợ quan trọng trong văn
nghị luận. Qua miêu tả, “mọi sự vật hiện tượng, con người sẽ được vẽ ra bằng
các chi tiết cụ thể nhờ ngôn ngữ”[1,tr.37]. “Tự sự là phương thức trình bày một
chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết
thúc, thể hiện một ý nghĩa [6,tr.61]. Miêu tả và tự sự giúp trình bày dẫn chứng, lí
lẽ thêm sinh động, có hình ảnh. Văn nghị luận là dùng lý lẽ và dẫn chứng để
thuyết phục người nghe(đọc). Lí lẽ lại thường mang tính trìu tượng và khái quát.
Sự đan xen giữa lí lẽ trừu tượng và dẫn chứng sinh động sẽ tạo nên sức mạnh
riêng cho luận cứ, giúp người nghe (đọc) có cơ sở để tin vào lập luận.
+ Phương thức biểu cảm
Phương thức biểu cảm cũng là phương thức bổ trợ không thể thiếu trong
văn nghị luận. Biểu cảm là thể hiện cảm xúc. Vì vậy phương thức biểu cảm có
tác dụng khơi dậy cảm xúc cho người đọc (nghe). Mục đích cuối cùng của
VBNL là thuyết phục người đọc (nghe). Thuyết phục bằng lý trí có giá trị nhưng
chưa đủ mạnh. Thuyết phục bằng đường tình cảm là một phương diện vô cùng
quan trọng. Một trong những thước đo hiệu quả của VBNL đó chính là hiệu ứng
xã hội. Do vậy, sự kết hợp giữa tình và lí sẽ làm tăng sức tác động của văn nghị
luận đến công chúng. Hiệu quả thuyết phục càng có giá trị.
Trong một văn bản, các phương thức biểu đạt nêu trên có sự kết hợp đan
xen với nhau. Hiệu quả của sự kết hợp này tạo nên tính đa dạng, phong phú với
nhiều vẻ đẹp, sức hấp dẫn của văn bản.
1.2. Đặc trưng của văn bản nghị luận
Phương thức nghị luận chủ yếu tác động vào lý trí, trí tuệ của người đọc
(nghe). Trước một vấn đề nghị luận, người viết (nói) phải luôn ý thức nhiệm vụ
thuyết phục đối tượng giao tiếp. Đây là mục đích cuối cùng của VBNL. Muốn
thực hiện được mục đích ấy. Quá trình tạo lập văn bản không thể thiếu cách thức
lập luận. Sức thuyết phục của văn bản nhiều hay ít, cao hay thấp, đậm hay nhạt
đều xuất phát từ cách thức lập luận. Lập luận càng chặt chẽ sức thuyết phục
14
càng cao. Vì thế, có ý kiến nhận xét: lập luận là một nghệ thuật. Thuyết phục
người khác thuyết phục một cách có nghệ thuật, không thể sử dụng ngôn ngữ
một cách tùy tiện. Sự trang trọng, công khai của VBNL góp phần không nhỏ đến
hiệu quả thuyết phục của văn bản.
Mối quan hệ giữa ba đặc điểm: lập luận chặt chẽ, sức thuyết phục cao, sự
trang trạng công khai tạo nên một nét riêng của VBNL, đồng thời thể hiện được
tầm quan trọng của VBNL trong đời sống hiện đại.
1.2.1. Tính lập luận chặt chẽ
Quá trình nghị luận là quá trình người nói (viết) tìm ra cái lí để thuyết phục
người khác.
Khái niệm lập luận có thể được hiểu như sau: Lập luận là tạo lập cái lí
trong VBNL. Lập luận nhằm khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó. Cần
phân biệt lập luận (bao hàm nghĩa khẳng định, phủ định, đồng tình, bác bỏ,…)
với lập luận (hàm nghĩa xây dựng lập luận đồng tình- đối lập với bác luận)
Dù khẳng định hay phủ định, dù đồng tình hay bác bỏ, người viết cũng phải
làm rõ cái lý- tức là phải trình bày, giải thích, chứng minh, phân tích, đánh
giá…Vì vậy, lập luận trở thành một đặc trưng quan trọng của VBNL. Trong
nghị luận, người viết dựa vào cái lí để thuyết phục người khác. Vấn đề là độ tin
cậy của cái lí đó ở mức nào, cách trình bày cái lí ra sao. Mỗi lí lẽ được nêu ra
cần phải xác thực, rõ ràng và có hệ thống. Tất cả phải thể hiện sự thống nhất,
hợp logic. Lập luận không chặt chẽ sẽ dẫn đến hiện tượng “đuối lí” dễ bị đối
phương bắt bẻ.
Nghị luận là một quá trình nhận thức, là một hình thức vận động của tư
duy. Muốn lập luận được chặt chẽ phải kết hợp nhiều thao tác tư duy.
Quá trình nghị luận là quá trình người viết (nói) tìm ra cái lý để thuyết
phục người khác. Vấn đề là độ tin cậy của cái lý ở mức nào, cách trình bày cái lý
ra sao. Mỗi lí lẽ nêu ra đều phải xác thực, rõ ràng và có hệ thống. Tất cả phải thể
hiện sự thống nhất, hợp logic.
15
1.2.2. Tính thuyết phục cao
Văn nghị luận là loại văn bản vận dụng kiểu tư duy logic. Việc chọn lọc và
trình bày lí lẽ, dẫn chứng phải hợp lý. Khi lí lẽ được làm sáng tỏ thì người nghe
tự nhiên được thông suốt. Điều đó chứng tỏ vấn đề đã được thuyết phục thành
công.
Sức thuyết phục của VBNL được thể hiện ở thái độ “tâm phục, khẩu phục”.
Có nghĩa là đối tượng giao tiếp hoàn toàn chấp nhận, bằng lòng với những lí lẽ,
dẫn chứng của người viết đưa ra.
Ngoài việc thuyết phục bằng cái lý là chủ yếu, người viết văn nghị luận còn
phải chú ý đến cái tình. Tình cảm trong văn nghị luận là một phượng diện rất
quan trọng. Tình cảm và lí lẽ luôn bổ sung cho nhau. Lí lẽ vững chắc, lại hội tụ
được tình cảm thì lập luận trở nên mạnh mẽ. Tình cảm dồi dào, chân tình giúp
tăng cường sức thuyết phục của lí lẽ. Tình và lí tồn tại song song khiến người
tiếp nhận không thể không bị thuyết phục.
1.2.3. Tính trang trọng, công khai
VBNL được tạo lập nhằm trình bày quan điểm của người viết về một vấn
đề trong đời sống xã hội. Đối tượng chung của VBNL là toàn thể cộng đồng với
nhiều giai tầng khác nhau. Mục đích chung của nghị luận là thuyết phục các đối
tượng này. Vì vậy, VBNL luôn tồn tại một cách công khai.
Tính công khai còn được thể hiện qua thái độ của người viết đối với vấn đề
đang được bàn tới. Điều này ít gặp ở những văn bản khác, nếu có đó chỉ là
những lời đánh giá ngầm, gián tiếp không thể hiện lập trường tư tưởng ổn định.
Tác phẩm nghị luận xuất hiện công khai trước cộng đồng, ở những thời
điểm, địa điểm khác nhau, thậm chí ở những thời điểm quyết định vận mệnh của
quốc gia, dân tộc. Do đó, ngôn ngữ được sử dụng trong văn nghị luận phải có độ
chính xác cao, khoa học và phổ biến. Nghĩa là, trong văn nghị luận không chấp
nhận cách nói tùy tiện của khẩu ngữ hay cách nói đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ
16
thuật. Nó cũng không cho phép sử dụng tiếng địa phương, tiếng lóng…Những
điểm này góp phần thể hiện sự trang trọng của tác phẩm nghị luận.
1.3. Lập luận trong văn nghị luận
1.3.1. Khái niệm lập luận
Theo sách giáo khoa Làm văn 10 [19] thì lập luận là đưa ra các lí lẽ, bằng
chứng để dẫn dắt người đọc (người nghe) đến một kết luận nào đó mà người viết
(người nói) muốn đạt tới. Lập luận trong văn nghị luận là thao tác tạo lập cái lí
trong văn bản nghị luận nhằm khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó.
Quá trình lập luận là quá trình người nói (người viết) tìm ra lí lẽ để thuyết
phục người khác. Nói cách khác lập luận là quá trình liên kết, xâu chuỗi luận
điểm, luận cứ nhằm làm rõ luận đề theo một chính kiến một quan điểm nhất định
để người đọc hiểu, tin ở những kết luận mà người viết muốn hướng đến. Lập
luận là sản phẩm của tư duy logic, do vậy lập luận phải có lí lẽ, bằng chứng
thuyết phục, lại phải biết trình bày, dẫn dắt sao cho lập luận chặt chẽ. Mặt khác,
lập luận phải có đích, đích của lập luận là tìm ra chân lý mới, rút ra những tri
thức này từ những tri thức khác, là con đường đi đến nhận thức chân lý một cách
khoa học.
Trong lập luận có ba thành tố: tiền đề (luận cứ) là một của nhiều dữ kiện
xuất phát làm căn cứ cho lập luận, từ đó suy ra kết đề. Kết đề (luận điểm) là một
khẳng định đích (mục tiêu) của lập luận. Lí lẽ là những yếu tố mà nhờ đó chúng
ta suy ra kết đề. Những yếu tố này có thể là những nguyên lí, những quy luật tự
nhiên, những định lí, định luật những nguyên tắc trong các ngành khoa học tự
nhiên, kỹ thuật và có thể là những lí lẽ trong logic đời thường. Các thành tố như
tiền đề, kết đề, lí lẽ không phải lúc nào cũng xuất hiện đầy đủ, rõ ràng trong một
lập luận. Có khi các yếu tố đó được hiểu ngầm. Có khi tiền đề, kết đề nằm ngay
trong bộ phận của lí lẽ.
Ví dụ:
17
Vừa ở Xơ-un (Hàn Quốc) về nước, đi công tác ở một số thành phố,
thấy cần phải viết ngay một điều.
Ai cũng biết Hàn Quốc phát triển kinh tế khá nhanh, vào loại “con
rồng nhỏ”, có quan hệ khá chặt chẽ với các nước phương Tây, một
nền kinh tế nhộn nhịp, có quan hệ kinh tế rộng rãi. Khắp nơi đều có
quảng cáo, nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở
những trụ sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài
chủ yếu là tiếng Anh, nếu có thì viết nhỏ đặt dưới chữ Triều Tiên to
hơn ở phía trên. Đi đâu, nhìn đâu cũng thấy nổi bật những bảng hiệu
chữ Triều Tiên. Trong khi đó thì ở một vài thành phố của ta nhìn đâu
cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các cơ sở của ta hẳn hoi mà
chữ nước ngoài lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng như
mình lạc sang một nước khác [7,tr.110].
Ví dụ trên cho thấy, kết đề lập luận: Tiếng nước ngoài lấn át tiếng ta trên
các bảng hiệu quảng cáo. Được nằm ẩn trong tiền đề: “Trong khi đó thì ở một
vài thành phố của ta nhìn đâu cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các cơ sở
của ta hẳn hoi mà chữ nước ngoài lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng
như mình lạc sang một nước khác.”
Lập luận giúp hiện thực hóa nội dung và mục đích nghị luận. Muốn thể
hiện tư tưởng quan điểm của mình người tạo lập bắt buộc phải sử dụng công cụ
ngôn ngữ để đưa ra một hệ thống lí lẽ, dẫn chứng thích hợp để truyền tải nội
dung đến đối tượng giao tiếp. Vì vậy, muốn truyền tải hiệu quả bắt buộc phải sử
dụng những luận cứ đáng tin cậy.
Lập luận thể hiện chất lượng của bài văn nghị luận. Chất lượng nghị luận
thể hiện ở chỗ những lí giải, bàn bạc, đánh giá có cơ sở chính xác, đủ sức thuyết
phục, lập luận có lí có tình thì bài văn nghị luận sẽ có giá trị và hấp dẫn.
Với đặc trưng của mình, văn nghị luận rèn tư duy logic thông qua quá
trình lập luận. Bởi vì việc xác định luận điểm, tìm ra những lí lẽ, dẫn chứng xác
18
đáng, vận dụng những luận chứng một cách hiệu quả là một việc không dễ, tất
cả đòi hỏi năng lực tư duy cao.
Như vậy, vấn đề lập luận sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng tư duy, có ý
thức trong khi tạo lập văn bản, nâng cao năng lực cảm thụ các tác phẩm văn
nghị luận.
1.3.2. Cấu trúc của lập luận
1.3.2.1. Luận điểm
Luận điểm là một khẳng định đích hay một khẳng định mục tiêu của lập
luận nó thường được nêu bằng một nhận định khái quát trong một câu hoặc một
bộ phận nào đó trong câu. Ví dụ:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời
Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý
riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ
giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới
theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài,
phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi
thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên
đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ
tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không
dời (Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn).
Luận điểm của đoạn văn trên là: “…không thể không dời”, rõ ràng đây là
vấn đề mà tác giả muốn hướng tới trong lập luận này. Những luận cứ, luận
chứng: Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời
Thành Vương ba lần dời đô… cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu
thịnh…Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời…, đến
nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp.
Được đưa làm cơ sở cho kết luận của lập luận. Giá trị của luận đề được tạo nên
bởi độ chính xác của luận chứng, luận cứ.
19
1.3.2.2.Luận cứ
Luận cứ là những lý lẽ dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm, dẫn đến luận
điểm như là kết luận của lý lẽ và dẫn chứng đó. Luận cứ bao gồm lý lẽ và dẫn
chứng hỗ trợ cho nhau.
Ví dụ:
Nghệ thuật miêu tả của Ngô Tất Tố không phải không có nhược
điểm”. Ông không có khả năng đi vào tâm lí nhân vật một cách trực
tiếp và sâu sắc, tinh vi như Nam Cao. Một số bức tranh tĩnh vật của
ông, do lạm dụng quá nhiều kiểu nhân cách hóa thành ra đơn điệu và
thiếu tự nhiên. Khi vẽ chân dung chị Dậu, cũng có lúc rơi vào công
thức mòn sáo: “Bên đám lông mày cong rướn, mấy sợi tóc mai lả thả
rủ xuống, hình như làn khói thuốc lá phớt phơ bay trước khuôn
gương. Và trên cái gò má đỏ bừng vài giọt nước thánh thót đuổi nhau,
chẳng khác hạt sương ban mai lắng đọng trên cánh hoa hồng mới nở
[2,tr.315].
Câu in đậm là câu luận điểm. Các câu còn lại là luận cứ được huy động để
làm sáng tỏ luận điểm. Luận điểm có được chấp nhận hay không phần lớn là do
lí lẽ và dẫn chứng sau đó hỗ trợ. Luận cứ là cơ sở hình thành và tồn tại của luận
điểm. Luận cứ càng chân thực, điển hình, phong phú thì mối liên hệ giữa chúng
với luận điểm càng chặt chẽ.
1.3.2.3. Các kết tử và tác tử của lập luận
Tác tử lập luận là một yếu tố khi được đưa vào một nội dung miêu tả nào
đấy sẽ làm thay đổi tiềm năng lập luận của nó, độc lập với thông tin miêu tả vốn
có của nó.
Ví dụ: So sánh hai phát ngôn được nói ra khi xem bóng đá:
(1) - In đô nê xi a đã thủ hòa với Việt Nam.
(2) - In đô nê xi a đã thủ hòa được với Việt Nam.
“Được” là một tác tử lập luận.
20
Tác tử lập luận có thể định hướng cho lập luận. Thường có hai định
hướng: định hướng dương (+) tích cực và định hướng âm (-) tiêu cực. Nguyễn
Đức Dân đưa ra một số tác tử lập luận sau:
(1) những / chỉ, có
Ví dụ: Chiếc bình cổ này giá những 10 cây vàng
Những: nhiều, (giá) cao, đắt → Kết luận: không nên mua
Chiếc bình cổ này giá chỉ (có) 10 cây vàng
→ Kết luận: rẻ, nên mua
(2) kia / thôi
(tương tự: những /chỉ, có) Ví dụ: Chiếc bình cổ này giá 10 cây thôi! (thôi: ít,
thấp rẻ Chiếc bình cổ này giá 10 cây kia (kia: nhiều, cao, đắt)
(3) còn … đã, mới … đã, chưa …đã.Cả 3 cặp tác tử này đều đảo hướng lập luận và
thể hiện thái độ đánh giá: quá sớm. Ví dụ: Còn bé đã biết giúp mẹ. Con cái nhà ai
thật là giỏi. Chưa ráo máu đầu đã cãi lại mẹ. Tôi thật vô phước. Mới cưới ba
hôm đã cãi nhau. Đôi ấy rồi sẽ không ra gì.
(4) đã … vẫn, đã … còn, đã … vẫn còn
Đây là những cặp tác tử đảo hướng lập luận và thái độ đánh giá: muộn.
Ví dụ: Đã 8 giờ tối mà vẫn chưa ăn cơm.
Bà sao chậm chạp thế!
Đã khuya rồi mà vẫn còn hát inh ỏi. Không cho ai ngủ chắc!
Đã 3 ngày rồi con bé vẫn chưa về. Tôi nóng ruột quá!
Đã thi rồi, còn học môn này làm gì. Thật là hâm quá!
(5) mới / đã mới: sớm, ít về thời gian đã: muộn, nhiều về thời gian.
Ví dụ:Tôi mới 18 tuổi. Tôi chưa muốn lấy chồng. Tôi đã 18 tuổi.
Bây giờ mới tháng 10.
Nó tập mới 5 tháng >< Nó tập đã 5 tháng.
(6) ít / chút ít, đôi chút.
Ít: định hướng âm. Chút ít, đôi chút: định hướng dương.
21
Ví dụ: Cột ôn thi ít. Có thể nó trượt đại học. Cột có ôn thi chút ít.Có thể nó đậu
đại học.Giải thích:
Ít so sánh với nhiều
Chút ít so sánh với không gì cả
→ ít < nhiều chút ít > không có gì
+ Kết tử lập luận.
Kết tử lập luận vừa là từ nối, vừa là từ định hướng. Từ này nối kết các
thông tin và các lập luận của văn bản. Vậy kết tử lập luận là yếu tố ngôn ngữ
dùng để nối hai (hay một số) phát ngôn trong một quan hệ lập luận. Trong đó,
một phát ngôn làm luận cứ, còn phát ngôn kia là kết luận.
Trong một lập luận giữa các luận cứ có quan hệ định hướng lập luận. Có
nghĩa là các luận cứ được đưa ra để hướng tới kết luận. Khi các luận cứ đều
hướng đến một kết luận chung, ta gọi đó là các luận cứ đồng hướng lập luận.
Khi các luận cứ không cùng chấp nhận một kết luận chung ta có các luận cứ
nghịch hướng lập luận. Quan hệ đồng hướng hay nghịch hướng giữa các luận cứ
trong lập luận có thể được chỉ ra thông qua các kết tử lập luận. Ta có kết tử: và,
vả lại, hơn nữa, huống hồ, thêm vào đó …là các kết tử đồng hướng.
Ví dụ:
Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kỹ mới thấy một
ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ, làm
nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi làm việc ta với công
việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn
với công việc của bao anh em, đồng chí dưới kia(Lặng lẽ SaPa-
Nguyễn Quang Sáng).
Trong đoạn văn trên, qua lời tâm sự của anh thanh niên với họa sĩ già về
nghề nghiệp của mình. Chúng ta đã hiểu sở dĩ anh ta không còn cảm thấy cô đơn
và lẻ loi khi làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m(a) là do anh
đã quen với nghề (1) vì anh quan niệm khi làm việc anh với công việc là đôi(2)
22
và bởi anh hiểu công việc anh làm gắn với bao bạn bè đồng chí khác (3). Từ các
luận cứ của lập luận (1,2,3) và hai kết tử “ vả, huống chi” là các kết tử đồng
hướng, dẫn nhập các luận cứ cùng tiến đến kết luận chung (a).
Kết tử nghịch hướng như: tuy vậy/ tuy thế, tuy nhưng, tuy nhiên, tuy, thực
ra, thế mà, vậy mà…
Ví dụ:
Tôi nghênh mặt lên, không chào, lặng lẽ quay ra. Đuôi cánh tôi quay
chổng vào mặt anh một cách coi thường. Tôi đã từ giã ông anh cổ hủ
của tôi một cách ngạo mạn như vậy. Để mặc ông anh tức tím ruột.
Tuy vậy, anh cũng không dám đuổi đánh tôi, đành ôm nỗi căm hờn vì
có đứa em hỗn láo dám đi phiêu lưu. (Dế Mèn phiêu lưu kí - Tô Hoài)
Trong ví dụ này, luận cứ thứ nhất là hành động từ giã một cách ngang
ngược, ngạo mạn và coi thường của Dế Mèn. Luận cứ thứ hai nêu lên tính hung
hăng, ngông cuồng dám đi phiêu lưu của chú. Và kết luận là thái độ bất lực, cam
chịu, không dám đánh đuổi của ông anh trưởng được kết nối qua kết tử tuy vậy.
1.3.3. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận
1.3.3.1 Khái niệm
Thao tác lập luận là động tác tiến hành hành động lập luận nhằm trình bày
hệ thống lí lẽ và luận chứng của mình một cách chặt chẽ, rành mạch theo một
trình tự hợp lý, đúng với quy luật logic.
Tác dụng của thao tác lập luận là nhằm phát hiện các luận cứ và trình bày
lập luận trong quá trình lập luận. Thao tác lập luận là động tác tiến hành hành
động lập luận nhằm trình bày hệ thống lí lẽ và luận chứng của mình một cách
chặt chẽ, rành mạch, gẫy gọn theo một trật tự hợp lý, đúng với quy luật logic.
Lập luận là một quá trình liên kết, xâu chuỗi những luận điểm, luận cứ nhằm
làm rõ luận đề theo một chứng kiến, một quan niệm nhất định để người đọc
hiểu, tin ở những kết luận mà người viết muốn dẫn người đọc đến. Lập luận là
sản phẩm của tư duy logic. Do vậy, lập luận phải có lí lẽ, bằng chứng thuyết
23
phục, lại phải biết trình bày, dẫn dắt sao cho chặt chẽ, thuyết phục. Mặt khác,
lập luận phải có đích, đích của lập luận là phải tìm ra chân lý mới, rút ra những
trí thức này từ những trí thức khác, là con đường đi đến nhận thức chân lí một
cách khoa học.
Để lập luận, người ta phải sử dụng các thao tác lập luận. Đặc điểm của các
thao tác này là người viết sử dụng ngôn ngữ để nêu sự thực, trình bày lí lẽ và
đánh giá sự đúng-sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra các kiến giải, phát biểu ý
kiến, biểu hiện rõ lập trường quan điểm của bản thân. Việc trình bày lí lẽ được
người viết thể hiện thông qua các phương thức tư duy logic như khái niệm, phán
đoán, suy lí và hệ thống dẫn chứng nhằm đạt mục đích nghị luận. Vậy thao tác
lập luận chính là thao tác được sử dụng để thực hiện một hành động lập luận.
Nói cách khác, thao tác lập luận là những hành động được thực hiện theo trình
tự và yêu cầu kỹ thuật được quy định trong hoạt động lập luận.
1.3.3.2.Các thao tác lập luận
Thao tác lập luận so sánh
Thao tác lập luận so sánh là thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay
nhiều sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật để tìm ra điểm
tương đồng hoặc khác biệt giữa chúng, trên cơ sở đó làm sáng tỏ đặc điểm và
giá trị của một sự vật, hiện tượng, ý kiến được đem ra bàn luận.
Sử dụng thao tác lập luận so sánh trong viết văn nghị luận để làm sáng rõ,
vững chắc thêm luận điểm của mình, đồng thời cũng đưa ra lời nhận xét, đánh
giá chính xác.
Thông qua so sánh những đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt của đối
tương nghị luận với đối tượng so sánh được thể hiện bằng sự phân tích, lý giải.
Kết quả là người nghe nắm được, hiểu và công nhận tính đúng đắn của một ý
kiến, nhận định (kết luận của lập luận) mà người viết (người nói) hướng tới.
Như vậy, mục đích của so sánh là làm rõ đối tượng đang nghiên cứu trong tương
quan với đối tượng khác. So sánh giúp người viết văn nghị luận triển khai và
24
phát triển luận điểm một cách thuận lợi và nổi bật, so sánh đúng còn làm cho bài
nghị luận thêm rõ ràng, cụ thể, sinh động và giàu tính thuyết phục.
Trong văn nghị luận thường có hai cách lập luận so sánh: so sánh tương
đồng và so sánh tương phản .
Lập luận bằng cách so sánh tương đồng là cách lập luận dựa trên sự đối
chiếu đối tượng này với đối tượng khác, vấn đề này với vấn đề khác trên cơ sở
đó có nét tương đồng (hoặc tương phản) giữa chúng. Lập luận bằng cách so sánh
tương đồng không có sự đối lập giữa các ý, trái lại các ý nâng đỡ cho nhau để
cùng làm sáng tỏ một vấn đề.
Ví dụ:
Từng nghe nói rằng: người hiền xuất hiện ở đời thì như ngôi sao sáng
trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về nơi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ
giả cho thiên tử. Nếu như che mất áng sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà
không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền
vậy[12,tr.85].
Nội dung đoạn văn nói về mối quan hệ giữa người tài và thiên tử. Cách lập
luận của tác giả là dùng cách so sánh: người hiền như ngôi sao sáng trên trời;
người hiền phải làm sứ giả cho thiên tử; sao sáng phải tụ về Bắc Đẩu. Luận điểm
ấy được làm sáng tỏ bằng cách so sánh hình ảnh người hiền như sao sáng và
quan hệ của người hiền với thiên tử như quy luật của Tinh Tú. Mục đích của
cách lập luận so sánh hình ảnh này nhằm: khẳng định vai trò, trách nhiệm của
người hiền với thiên tử và cuộc đời.
Lập luận bằng cách so sánh tương phản (đối lập) là cách lập luận theo kiểu
đối chiếu đối tượng này với đối tượng khác trong sự tương phản lẫn nhau nhằm
khẳng định một trong hai đối tượng mà lập luận hướng tới.
Ví dụ:
25
Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc mới bàn đến một hạng người,
Truyện Kiều nói đến cả xã hội người, nhưng phải tới Văn Chiêu Hồn
ta mới thấy niềm xót xa cho cả loài người. Các tác phẩm khác chỉ nói
về con người trong cõi sống, chỉ Văn Chiêu Hồn mới động tới con
người cõi chết [48].
So sánh bài “Văn Chiêu Hồn” với những đối tượng so sánh như: Chinh Phụ
Ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều. Tìm ra những nét giống và khác
nhau: chỉ riêng “Văn Chiêu Hồn” là bàn đến cả loài người trong một vùng địa
dư xưa nay ít ai động tới đó là “cõi chết” nhằm thể hiện “niềm xót xa cho cả loài
người”.
Để đạt hiệu quả lập luận, khi thực hiện thao tác lập luận này cần dựa trên
cùng một tiêu chí, cùng bình diện, sau đó phải rút ra những nhận xét, đánh giá
về đối tượng so sánh và đối tượng được so sánh .
Để hướng tới kết luận, người ta thường so sánh với một hoặc nhiều đối
tượng khác trên cơ sở một nét tương đồng nào đấy. Thông qua so sánh, những
đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt của đối tượng nghị luận với đối tượng so
sánh được thể hiện bằng sự phân tích, lý giải. Kết quả là, người đọc, người nghe
nắm được, hiểu và công nhận tính đúng đắn của ý kiến, nhận định (kết luận của
lập luận) mà người viết (người nói) hướng tới.
Thao tác lập luận phân tích
Phân tích là cách chia nhỏ sự vật, hiện tượng thành yếu tố nhỏ để đi sâu
vào xem xét một cách kỹ lưỡng nội dung và mối quan hệ bên trong của sự vật,
hiện tượng đó.
Thao tác lập luận phân tích là thao tác trong đó người viết (nói) đề xuất, tập
hợp, triển khai hệ thống lí lẽ kết hợp với dẫn chứng để phân tích, bình luận
chứng minh nhằm làm sáng tỏ một nhận định, qua đó khẳng định giá trị chân lí
của nhận định đó.
26
Đối tượng được phân tích có thể là một nhận định, một văn bản, truyện
ngắn, bài thơ, đoạn văn, một hành vi, một sự việc, một nhân vật... Nhờ phân
tích, người ta thấy được mối quan hệ giữa lời nói - việc làm, giữa bên trong -
bên ngoài, giữa hình thức - nội dung, ... của một con người, sự vật, hiện tượng.
Cũng nhờ phân tích người ta thấy được mối liên hệ giữa các bộ phận trong cơ
thể, giữa các chi tiết trong các cỗ máy và thậm chí thấy được mối quan hệ của
những sự vật, hiên tượng như chẳng có gì gắn bó với nhau. Có rất nhiều mối
quan hệ được xác định nhờ phân tích: Nguyên nhân - kết quả, chính - phụ, xa -
gần, chung - riêng, khái quát - cụ thể,...Từ việc phân tích có thể chỉ ra những
phẩm chất, năng lực, tính cách của một con người, thấy được khuynh hướng
phát triển của sự vật.
Và làm rõ các đặc điểm về nội dung, hình thức, cấu trúc, các mối quan hệ
bên trong và bên ngoài của một sự vật, hiện tượng, từ đó mà thấy được giá trị
của chúng.
Phân tích cần đi sâu vào từng phương diện cụ thể để xem xét một cách
riêng biệt, nhưng không có nghĩa là tách rời khỏi cái chung, chỉ thấy cái nhỏ lẻ,
chi tiết, vụn vặt. Chính vì thế, phân tích bao giờ cũng gắn với tổng hợp, khái
quát. Phân tích mà không tổng hợp, khái quát thì sự phân tích đó sẽ mất đi nhiều
ý nghĩa. Ngược lại, tổng hợp, khái quát mà không dựa vào phân tích thì sẽ thiếu
cơ sở, không vững chắc. Để có thể rút ra những kết luận đúng, cần dựa trên sự
phân tích sâu sắc, kỹ càng, xem xét sự vật, hiện tượng một cách toàn diện từ
nhiều phía.
Một số cách phân tích: cắt nghĩa và bình giá, chỉ ra nguyên nhân-kết quả,
phân loại đối tượng, liên hệ đối chiếu.
Ví dụ:
Trong hoàn cảnh “trăm dâu đổ đầu tằm”, ta càng thấy chị Dậu thật
là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Một mình chị phải giải quyết
mọi khó khăn của gia đình, phải đương đầu với những thế lực tàn
27
bạo: quan lại, cường hào, địa chủ và tay sai của chúng. Chị khóc lóc,
chị kêu trời nhưng chị không chịu nhắm mắt khoanh tay mà tích cực
tìm cách cứu chồng ra khỏi cơn hoạn nạn. Hình ảnh chị Dậu hiện lên
vững chãi như một chỗ dựa chắc chắn của cả gia đình [25,tr.107].
Trong đoạn văn trên, chủ đề đưa ra phân tích là “chị Dậu thật là một người
phụ nữ đảm đang, tháo vát”. Ý kiến nhận định khái quát này đã triển khai phân
tích bằng hệ thống lí lẽ để làm rõ ý “đảm đang, tháo vát”. Ở những câu tiếp theo
“một mình chị phải giải quyết mọi khó khăn của gia đình, phải đương đầu với
những thế lực tàn bạo: quan lại, cường hào, địa chủ và tay sai của chúng. Chị
khóc lóc, chị kêu trời, nhưng chị không nhắm mắt khoanh tay mà tích cực tìm
cách cứu được chồng ra khỏi cơn hoạn nạn”. Rồi những lí lẽ đã phân tích trên đó
làm cơ sở để tổng hợp, khái quát lại “Hình ảnh chị Dậu hiện lên vững chãi như
một chỗ dựa chắc chắn của cả gia đình”.
Trong thực tế viết văn nghị luận, thao tác lập luận phân tích thường không
đứng đơn lẻ mà kết hợp hài hòa với những thao tác nghị luận khác (chứng minh,
giải thích, bình luận) để đạt hiệu quả.
Ví dụ:
(1)Trong Truyện Kiều, đồng tiền len lỏi vào khắp chốn, khắp nơi, vào
mọi tầng lớp xã hội, chi phối tâm lý một bộ phận lớn con người trong
cái xã hội ấy.(2) Ở đây, quan lại có kẻ vì tiền mà hành hạ con người,
nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn buôn thịt bán người tất cả
vì tiền mà bày ra trăm phương nghìn kế để bẫy người phụ nữ, bắt họ
phải đem thân xác ra làm món hàng để buôn bán kiếm trác.(3)Đồng
tiền ăn sâu vào tâm lý con người đến nỗi Mã Giám Sinh trước tài hoa
và nhan sắc của Thúy Kiều chỉ biết có cân đo, trả giá.(4)Còn Tú Bà
thì mừng quýnh lên khi thấy Mã Giám Sinh mua được Thúy Kiều, rồi
tức đến lộn ruột khi biết Kiều thoát thân với Mã, rồi run sợ, mặt tái
mét khi thấy Kiều rút toan tự tử.....[25,tr.108]
28
Trong đoạn văn này câu (1) nêu lên ý khái quát, câu (2) phân tích làm rõ
hơn ý khái quát, câu (3) câu (4) nêu dẫn chứng chứng minh để thuyết phục cho
lý lẽ nêu lên ở câu(1)và (2). Thao tác lập luận phân tích trong đoạn văn được
vận dụng kết hợp với thao tác chứng minh để tăng tính thuyết phục.
Thao tác lập luận bác bỏ
Thao tác lập luận bác bỏ là dùng các lí lẽ và dẫn chứng đúng đắn, khoa học
để chỉ rõ những sai lầm, lệch lạc, thiếu khoa học của một quan điểm, ý kiến nào
đó. Bác bỏ là một thao tác lập luận quan trọng giúp cho bài luận thêm sâu sắc và
giàu tính thuyết phục. Thao tác này không chỉ hữu ích cho việc viết bài nghị
luận mà còn cần thiết cho cuộc sống. Người có ý thức và biết cách bác bỏ những
ý kiến, lời nói sai trái, thiếu chính xác là người có nhận thức đúng đắn và tư duy
sắc sảo.
Khi bác bỏ ý kiến người khác, cần nắm chắc những sai lầm của họ, đưa ra
các lý lẽ và bằng chứng thuyết phục với thái độ thẳng thắn nhưng cẩn trọng, có
chừng mực, phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng tranh luận.
Bác bỏ một ý kiến nào không đơn giản là tuyên bố ý kiến đó sai, mà phải
lập luận đầy đủ để chứng minh là nó sai thì mới thuyết phục được người nghe,
người đọc, có thể bác bỏ một luận điểm, luận cứ hoặc cách lập luận bằng cách
nêu tác hại, chỉ ra nguyên nhân hoặc phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu
chính xác của luận điểm, luận cứ, lập luận ấy. Khi bác bỏ, cần thái độ khách
quan và đúng mực.
Bác bỏ một ý kiến sai, có thể thực hiện bằng nhiều cách: bác bỏ luận điểm,
bác bỏ luận cứ, bác bỏ cách lập luận hoặc kết hợp cả ba cách thật linh hoạt.
Bác bỏ luận điểm tức là vạch cái sai của bản thân luận điểm. Để bác bỏ một
luận điểm sai có thể dùng thực tế để bác bỏ hoặc dùng phép suy luận để bác bỏ.
Cách bác bỏ luận cứ tức là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lí lẽ và
dẫn chứng được sử dụng.
Bác bỏ cách lập luận là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi logic
29
trong lập luận của đối phương chỉ ra sự đổi thay, đánh cháo khái niệm trong quá
trình lập luận.
Các cách bác bỏ trên thực tế chúng liên kết với nhau. Mục đích bác bỏ là
bảo vệ chân lý, xác nhận sự thật. Nếu xa rời mục đích, chân lý thì sự bác bỏ trở
thành ngụy biện, vô bổ và có hại.
Ví dụ:
[…] Cuộc sống riêng không biết gì hết ở bên kia ngưỡng cửa nhà
mình là một cuộc sống nghèo nàn, dù nó có đầy đủ tiện nghi đến đâu
đi nữa. Nó giống như một mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận, đầy
hoa thơm, sạch sẽ và gọn gàng. Mảnh vườn này, có thể làm chủ nhân
của nó mất một thời gian dài, nhất là lớp rào bao quanh không còn
làm họ vướng mắt nữa. Những hễ có một cơn giông tố nổi lên thì cây
cối sẽ bị bật khỏi đất, hoa sẽ nát và mảnh vươn sẽ xấu xí hơn bất kỳ
một nơi hoang dại nào. Con người không thể hạnh phúc với một hạnh
phúc mỏng manh như thế. Con người cần một đại dương mênh mông
bị bão táp làm nổi sóng, nhưng rồi lại phẳng lì và trong sáng như
trước. Số phận của những cái tuyệt đối cá nhân, không bộc lộ ra khỏi
bản thân, chẳng có gì đáng thèm muốn [13,tr.31].
Để thực hiện bác bỏ, đoạn văn trên trên bác bỏ một quan niệm sống sai
lầm: “sống bó hẹp trong ngưỡng cửa nhà mình”.
Để thực hiện bác bỏ, tác giả đã nêu lên quan niệm sống cần bác bỏ, sau đó
dùng lời lẽ bác bỏ trực tiếp “....là cuộc sống nghèo nàn”, tiếp theo là kết hợp so
sánh bằng hình ảnh sinh động “....mảnh vườn rào kín gặp cơn giông tố, đại
dương mênh mông bị bão táp làm nổi sóng” để làm rõ vì sao nói cuộc sống ấy là
cuộc sống “nghèo nàn” nêu ra ý đúng và chỉ ra tác hại của cuộc sống ấy. Tất cả
đều nhằm thuyết phục người khác vì sao không nên sống cuộc sống như vậy.
Lưu ý: Trong thực tế, một vấn đề nhiều khi có mặt đúng mặt sai. Vì vậy,
khi bác bỏ hoặc khẳng định cần cân nhắc, phân tích từng mặt để tránh tình trạng
30
khẳng định chung chung hay bác bỏ, phủ nhận tất cả.
Thao tác lập luận bình luận
Lập luận bình luận nhằm đề xuất và thuyết phục người đọc (người nghe)
tán đồng với những nhận xét, đánh giá, bàn luận của mình về một hiện tượng
(vấn đề) trong cuộc sống hoặc trong văn học.
Bình luận vốn là một nhu cầu và là một hành động không ai không phải
làm trong cuộc sống, bởi vì bình luận vốn có từ cuộc sống, rất cần thiết trong
cuộc sống.
Để thực hiện thao tác lập luận bình luận, có nhiều cách: từ cụ thể đến khái
quát hoặc từ suy luận hợp logic rút ra giả thuyết rồi kiểm chứng giả thuyết qua
các ví dụ và dẫn chứng của học sinh sưu tầm được. Khi triển khai bình luận cần
nêu hiện tượng (vấn đề bình luận) một cách rõ ràng, trung thực. Đánh giá hiện
tượng (vấn đề) bình luận một cách xác đáng; bàn về hiện tượng (vấn đề) bình
luận một cách sâu sắc.
Nhưng dù theo cách nào thì người bình luận cũng phải trình bày rõ ràng
trung thực hiện tượng (vấn đề) được bình luận, đề xuất và chứng tỏ được ý kiến,
nhận định, đánh giá của mình là xác đáng.
Muốn bình luận một vấn đề, người ta sử dụng các bước sau:
- Xác định đối tượng bình luận: muốn cho người đọc biết bình luận cái gì
người bình luận phải gọi tên đối tượng bình luận, trình bày hiện tượng, trích dẫn
ý kiến, giới thiệu tác phẩm hay nhân vật văn học.
- Đề xuất ý kiến bình luận để có ý kiến bàn bạc, đánh giá đối tượng, người
bình luận cần phải phân tích đối tượng một cách cụ thể. Tùy theo tính chất đối
tượng, chỉ ra cái đúng-cái sai, cái tốt-cái xấu, cái lợi-cái hại một cách khách
quan, trung thực. Mỗi sự vật, hiện tượng điều có quan hệ với nhau hoặc với sự
vật khác. Vì thế khi đánh giá đúng-sai, lợi-hại, tốt-xấu cần xem xét nhiều quan
hệ mới thấy hết tính chất, ý nghĩa của vấn đề tránh cái nhìn thiên lệch, ắp đặt.
31
Trong quá trình bình luận, cần vận dụng các thao tác lập luận phân tích,
giải thích, chứng minh, so sánh ...để trình bày ý kiến của mình một cách sáng tỏ
thuyết phục và hấp dẫn.
Yêu cầu các luận điểm, luận cứ trong lập luận bình luận cần được sắp xếp
sao cho sự đánh giá, bàn bạc của người bình luận được tiếp nhận một cách dễ
dàng và hứng thú vì sự bình luận chỉ có ý nghĩa khi thực sự hướng tới người
đọc, người nghe.Yêu cầu nữa của hoạt động bình luận là phải trôi chảy, hấp dẫn,
nhiệt tình giàu tính thuyết phục và tính chiến đấu.
Ví dụ:
(1)Tuy vậy, Sống Mòn chưa phải có tư tưởng cách mạng. Nam Cao, về
căn bản vẫn chưa vượt khỏi nhân sinh quan và lập trường tiểu tư sản.
Thứ chung quy vẫn chỉ là nạn nhân bất lực mà chưa phải là một nhân
vật tích cực, anh mới suy nghĩ xuôi chưa hề hành động. Đó là hạn chế
căn bản của nhân vật Thứ và cũng là hạn chế của tác giả. Nam Cao
lúc này chưa thể xây dưng một nhân vật tích cực. Kết thúc tác phẩm là
một câu hỏi khiến Thứ đỏ mặt vì xấu hổ: “Y đã làm gì chưa”. Văn học
HIỆN THỰC PHÊ PHÁN chưa thể trả lời được để hành động
[25,tr.315].
Đoạn văn trên lập luận đánh giá một vấn đềcủa một tác phẩm văn học
(Sống Mòn chưa phải có tư tương cách mạng). Những câu văn tiếp theo trong
đoạn triển khai nhận định đánh giá những mặt hạn chế của tác phẩm “Sống
Mòn” “vẫn chưa vượt khỏi nhân sinh quan và lập trường tiểu tư sản”.
Đoạn văn nêu dẫn chứng xác thực về những suy nghĩ, hành động, tâm trạng
của nhân vật “Thứ” làm cho luận điểm bình luận thêm sáng rõ và thuyết phục.
1.3.4. Sự vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận
Các thao tác lập luận không thể tách rời nhau mà luôn có quan hệ hợp tác
hỗ trợ nhau. Thao tác phân tích có thể được triển khai với sự phù trợ của yếu tố
so sánh để làm nổi bật vấn đề, chứng minh để lí lẽ phân tích đủ sức thuyết phục,
32
bình luận để vấn đề được đem ra phân tích được tiếp nhận cặn kẽ, thấu đáo, đa
chiều.
Thao tác lập luận có vai trò rất lớn trong việc tạo lập văn bản nghị luận.Vì
vậy muốn HS hình thành được kỹ năng viết văn nghị luận tốt thì các em phải
vận dụng được các thao tác lập luận một cách thành thạo.
Nhiều khi bắt gặp những ý kiến sai lầm, những lời nói, những bài viết
không chính xác, bộc lộ những cách hiểu lệch lạc, không nhất quán. Đứng trước
những tình huống đó, chúng ta tiến hành trao đổi, tranh luận với những cách
hiểu đúng đắn, cách nhận thức nhất quán đã được công nhận, từ đó có quan
điểm đồng tình hay bác bỏ. Khi bác bỏ cũng phải có lí lẽ để giải thích và đưa ra
những dẫn chứng đúng đắn, khoa học để chỉ rõ những sai lầm, lệch lạc, thiếu
khoa học của một quan điểm, một ý kiến nào đó. Có như vậy thì vấn đề đưa ra
nghị luận mới sâu sắc và giàu sức thuyết phục.
Trình bày bố cục một bài văn nghị luận trong chương trình phổ thông
truyền thống thường theo các bước giải thích, chứng minh, bình luận. Nếu nhận
định một bài văn nghị luận nào đó là bài văn chứng minh, giải thích hay bình
luận là căn cứ vào thao tác lập luận chính được sử dụng trong đó, thực sự muốn
hoàn thành bài văn ấy rất cần các thao tác: so sánh, phân tích, chứng minh, giải
thích, bình luận, bác bỏ hỗ trợ.
Bước giải thích vấn đề là giảng giải nội dung, ý nghĩa của vấn đề được đưa
ra bình luận. Khi đó thao tác phân tích được vận dụng để có thể chia tách vấn đề
đó ra thành những vấn đề chi tiết hơn, làm cho vấn đề được nhận thức trên nhiều
phương diện, xem xét kỹ lưỡng nội dung và các mối quan hệ bên trong của đối
tượng, chỉ ra được giá trị, ý nghĩa nhiều mặt giá trị hoặc phi giá trị của đối
tượng. Riêng đối với tác phẩm, một vấn đề hay một trào lưu văn học thì phân
tích là để khám phá giá trị nhận thức, tư tưởng, thẩm mĩ.
Bước chứng minh vấn đề là dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm người khác tin
vào ý nghĩa những vấn đề đã được giải thích.Thường là sẽ có nhiều dẫn chứng
33
được đưa ra để phục vụ cho lập luận. Những dẫn chứng đó có thể sẽ được phân
tích, đối chiếu, đánh giá nhằm đưa vấn đề đã được phân tích đến mức độ tin cậy
hơn.
Bước bình luận của bài văn thường được sử dụng thao tác lập luận chính là
bình luận. Nhưng muốn đánh giá vấn được vấn đề đúng-sai đưa ra được ý nghĩa
chung hay riêng, đánh giá một vấn đề lớn hay nhỏ đều phải được căn cứ trên cơ
sở những luận điểm, luận cứ đã được giải thích, phân tích, chứng minh, đối
chiếu. Đối với những vấn đề đúng thì cần lí lẽ để khẳng định giá trị, đối với
những vấn đề sai hoặc không đồng tình thì cũng cần những lập luận đủ sức
thuyết phục để bác bỏ.
Ví dụ: Khi bàn về vấn đề “Vào đại học có phải là con đường lập nghiệp
duy nhất của thanh niên không?” Để viết bài lập luận này, cần phải kết hợp
nhiều thao tác lập luận đề thuyết phục được người nghe, người đọc. Trước hết là
giải thích vấn đề “vào đại học là con đường lập nghiệp”. Vì sao nói vào đại học
là con đường đáng mơ ước? Giải thích vấn đề ở nhiều khía cạnh góc độ khác
nhau. Kết hợp với lập luận và phân tích đánh giá những thực trạng điều thuận lợi
cũng như những bất cập của con đường “vào đại học” của thanh niên hiện nay,
đưa ra lí lẽ, dẫn chứng để làm rõ vấn đề: “vào đại học là con đường lập nghiệp
đáng mơ ước nhưng không phải là con đường duy nhất”. Chỉ ra những tác hại
của việc theo đuổi con đường không phù hợp. Khi muốn làm sáng tỏ ý “vào đại
học không phải là con đường duy nhất” thì lại cần tới thao tác lập luận bác bỏ,
có nghĩa là phải dùng tới lí lẽ, dẫn chứng chắc chắn để chỉ ra sai lầm của quan
niệm này. Đồng thời, nêu và phân tích: “dù không vào đại học, cũng có thể tạo
lập sự nghiệp cho mình”.
Tóm lại, dù sử dụng phương thức lập luận nào thì mục đích cuối cùng cũng
là thuyết phục người đọc, người nghe về một vấn đề nào đó. Hơn nữa, trong quá
trình lập luận luôn vận dụng kết hợp các thao tác, vì vậy cần một quá trình rèn
luyện vận dụng các thao tác lập luận.
34
Thao tác lập luận có vai trò rất lớn trong việc tạo lập văn bản nghị luận. Vì
vậy, muốn HS hình thành được kỹ năng viết văn nghị luận tốt, người GV phải
định hướng giảng dạy sao cho HS có thể nhận biết và vận dụng được những thao
tác lập luận.
1.4. Vai trò và ý nghĩa của việc rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị
luận cho học sinh lớp 11 THPT
Có nhiều cách hiểu về khái niệm kỹ năng. Theo nhà tâm lý học xã hội
A.G.Côvaliôp: Kỹ năng là khả năng nắm được tri thức về hành động và áp dụng
hay lựa chọn phương thức để thực hiện hành động có kết quả. Từ điển tiếng Việt
cũng giải thích: “Kỹ năng là khả năng vận dụng có hiệu quả những tri thức của
một lĩnh vực nào đó vào thực tế”[46,tr.520]. Tác giả Lê A trong giáo trình “Làm
văn” cho rằng: “Kỹ năng được hiểu như một khả năng của con người có thể
hoàn thành các nhiệm vụ trong điều kiện mới dựa trên cơ sở những tri thức và
kinh nghiệm đã được tích lũy và một loạt các kỹ xảo trong mối liên hệ mật thiết
với nhau[1,tr.19].
Như vậy, có thể hiểu kỹ năng là khả năng vận dụng có hiệu quả những tri
thức trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. Để đạt được kỹ năng, con người
phải có những hiểu biết và kinh nghiệm cần thiết. Đồng thời họ phải trải qua quá
trình vận dụng kỹ năng vào thực tế.
Từ cách hiểu về kỹ năng nói chung, việc rèn luyện kỹ năng lập luận trong
quá trình làm văn nghị luận của học sinh cần các nội dung sau:
- Trang bị kiến thức về kỹ năng lập luận, bao gồm các yếu tố ngôn ngữ
nghị luận và hệ thống lập luận.
- Thực hành, luyện tập kỹ năng lập luận, đảm bảo yêu cầu thường xuyên
với các giai đoạn: quan sát mẫu, thực hành và sáng tạo.
Tiếng Việt là ngôn ngữ rất đa dạng, phong phú. Trong việc tạo lập các loại
văn bản, Việc kết hợp các yếu tố ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng. Nhiệm vụ
35
của nhà trường nói chung và của bộ môn Ngữ văn nói riêng là cung cấp và phát
triển vốn ngôn ngữ cho HS.
Việc phát triển năng lực ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với việc phát triển
tư duy. Dù ở bất cứ loại văn bản nào, khi tạo lập, con người đều phải trải qua
quá trình tư duy. Biểu hiện của quá trình này là việc xác định, lựa chọn, sắp xếp,
tổ chức các ý tưởng. Nói cách khác, khi tạo lập văn bản phải tiến hành lập luận.
Tùy vào từng kiểu văn bản, mục đích tạo lập mà mức độ lập luận có sự khác
nhau.
Kỹ năng lập luận ở học sinh không thể tách rời việc sử dụng các yếu tố
ngôn ngữ. Năng lực tư duy lập luận có tốt đến đâu nhưng sử dụng ngôn ngữ lập
luận không tốt thì cũng không đem lại hiểu quả. Trên thực tế, có nhiều HS có lập
luận chặt chẽ, bài viết rõ ràng, mạch lạc nhưng cũng còn không ít HS chưa biết
dùng tiếng Việt để diễn đạt trọn vẹn suy nghĩ của mình. Nhiều trường hợp, HS
tỏ ra thành thạo trong ngôn ngữ nói nhưng lại phạm rất nhiều lỗi khi viết thành
bài văn hoàn chỉnh. Phát triển ngôn ngữ nói chung và rèn luyện kỹ năng lập luận
nói riêng không chỉ giúp học sinh học tốt, viết tốt bài văn nghị luận mà còn góp
phần nâng cao năng lực cảm nhận các tác phẩm nghị luận trong phân môn Văn
học. Đây là một trong những phương pháp dạy học theo hướng tích hợp, nghĩa
là có sự kết hợp giữa kiến thức và kỹ năng, giữa nội dung và hình thức, giữa các
phân môn Văn học, tiếng Việt và Làm văn.
Trong đời sống, học tập và lao động hằng ngày, VBNL tồn tại khá phổ
biến. Đây là điều kiện thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức với HS. HS dễ dàng
tiếp xúc, trao đổi, học tập, rèn luyện kỹ năng tiếp nhận và tạo lập VBNL nhưng
đồng thời đó cũng là một thách thức lớn nếu không biết tận dụng, dễ rơi vào tâm
lý chủ quan, coi thường VBNL. Chú ý phát triển kỹ năng lập luận, không chỉ
giúp HS viết đúng, viết hay mà còn góp phần phát triển năng lực tư duy, rèn
luyện nhân cách, giúp xây dựng con người mới, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn
xã hội.
36
1.5.Tình hình dạy và học làm văn nghị luận ở lớp 11 THPT
1.5.1. Những thuận lợi trong việc giảng dạy văn nghị luận trong
trường THPT
Trong những năm gần đây, lĩnh vực giáo dục được xã hội rất quan tâm.
Có nhiều ý kiến đóng góp cho tất cả các bộ môn. Trong đó môn Văn đang trở
thành tâm điểm bàn luận. Phân môn Làm văn thu hút sự chú ý của mọi người, cụ
thể là kiểu VBNL.
Ở nước ta, gần đây chương trình và SGK được đổi mới theo hướng tích
hợp. Sự thay đổi này sẽ có sự tác động đến nội dung và phương pháp dạy học.
Với VBNL, HS được học từ lớp 7 đến lớp 12 thành hai vòng có sự nâng cao
theo mô hình vòng tròn đồng tâm. Mặt khác, HS cũng được học các kiểu bài
như: miêu tả, biểu cảm, tự sự, thuyết minh…HS có thể vận dung linh hoạt các
phương thức biểu đạt ở những loại văn bản này để làm cho bài văn nghị luận của
mình thêm sinh động, hấp dẫn.
Theo chương trình và SGK đổi mới, các đơn vị kiến thức được trình bày
có hệ thống. Vừa đảm bảo tính đa dạng, phong phú vừa đảm bảo tính khoa học.
Phần kết quả cần đạt ở mỗi bài học đều ngắn gọn nhưng xác định rất rõ yêu cầu
đối với GV và HS. Đó là một định hướng giúp GV tổ chức tiến trình dạy học đạt
hiệu quả cao. Nội dung bài học được xây dựng theo mô hình quy nạp. Thông
qua ngữ liệu GV hướng dẫn HS tìm hiểu sau đó rút ra kết luận. Cách tổ chức dạy
học này không quá chú trọng lí thuyết mà chú trọng thực hành. Nhờ đó, HS có
điều kiện để rèn luyện kỹ năng và khắc sâu kiến thức bài học.
Trong phân môn Làm văn THPT, các kiểu văn bản được học ở lớp 10 có
sự kết thừa và phát triển ở các lớp THCS. Riêng kiến thức cụ thể của VBNL, có
sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt, cách lập dàn ý, lập luận và các thao
tác nghị luận.
37
Hệ thống bài tập về VBNL tương đối phong phú, đa dạng, chú trọng tính
thực hành và theo cấp độ từ dễ đến khó. Nhờ vậy, GV thuận lợi hơn cho việc lựa
chọn bài tập phù hợp với từng đối tượng HS.
1.5.2. Những khó khăn trong việc giảng dạy văn nghị luận trong
trường THPT
Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu trên, quá trình dạy học văn nghị luận ở
trường phổ thông vần còn không ít khó khăn. Cần mạnh dạn nhìn nhận và giải
quyết những khó khăn ấy để đạt được mục tiêu chung của giáo dục.
+ Chương trình SGK:
Học sinh được làm quen với VBNL bắt đầu từ lớp 7 cho đến lớp 12 theo
chiều hướng nâng cao dần. Tuy nhiên, cần có sự thống nhất các thuật ngữ trong
VBNL. Ở SGK lớp 7 và lớp 8 gọi chứng minh, giải thích, so sánh… là phép,
trong khi ở chương trình THPT, phân tích, giải thích, so sánh lại gọi là thao tác.
Nhìn chung kiến thức lí thuyết đưa ra là đủ nhưng còn thiếu thời gian thực
hành. Sự khó khăn về thời gian tổ chức dạy học các kiến thức lí thuyết là nguyên
nhân dẫn đến sự khó khăn trong quá trình tiếp thu của HS. Kỹ năng là yếu tố
quan trọng trong làm văn ở tất cả các kiểu văn bản. HS nắm vững các kỹ năng
và luyện tập thành thạo là có thể viết hoàn chỉnh, đạt yêu cầu các bài văn nghị
luận. Vì vậy, cần ưu tiên luyện tập kỹ năng tìm hiểu đề, xây dựng dàn ý, chọn
phương pháp lập luận, kỹ năng xây dựng đoạn. Với VBNL, phương pháp lập
luận có vai trò quyết định sự thành công của bài viết.
+Về phía giáo viên:
Giáo viên chưa thật sự chú trọng đến việc rèn luyện các thao tác nghị luận
cho HS.
Theo quan niệm hiện đại, phương pháp dạy học có vai trò rất trong quá
trình dạy học, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả dạy học. Trong dạy học Làm
văn nói chung và dạy VBNL luận nói riêng chủ yếu GV chưa đầu tư, tìm tòi để
đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu là chọn phương pháp diễn giảng chưa chú
38
trọng đến đối tượng người học. Tất nhiên phương pháp nào cũng có ưu điểm,
nhược điểm riêng nhưng cần có sự kết hợp linh hoạt các phương pháp để giờ
học bớt khô khan, nhàm chán, HS phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của mình.
Phân môn Làm văn có vai trò rất quan trọng. Nhưng nhiều thầy cô lại bỏ
qua nhiều tiết học Làm văn hoặc dạy qua loa, sơ sài, ít đầu tư. Phần lớn là các
thầy cô “độc diễn” hoặc “đọc chép”. Trong việc dạy Làm Văn tiết trả bài có vai
trò rất quan trọng nhưng lại có những giáo viên đã bỏ qua hoặc không sử dụng
đến những tiết trả bài, rất nhiều giáo viên khác thực hiện việc chấm, trả bài qua
loa, đại khái, làm cho có, cho tròn nhiệm vụ,… Cá biệt, có những giáo viên
không biết phải thiết kế một giáo án trả bài hoặc tiến hành một giờ trả bài làm
văn như thế nào cho hợp lý và hiệu quả? Tình trạng đó kéo dài làm mất dần tác
dụng của giờ trả bài, làm cho việc dạy-học phân môn Làm Văn trở nên nặng nề
và kém chất lượng, hiệu quả dạy-học không cao.
+ Về phía học sinh:
HS chịu ảnh hưởng và tác động nhiều từ phía GV, các em chưa thấy được
vai trò, tác dụng của giờ học Làm văn đối với việc học Ngữ văn của mình. Vì
vậy, những tri thức và kỹ năng Làm văn chưa được các em chủ động học tập và
rèn luyện. Nhìn vào bài viết của các em chúng ta có thể thấy ngay tình hình và
năng lực học Văn của các em, sao chép văn mẫu, kiến thức lủng củng…
Tiểu kết Chương 1
Luận văn tìm hiểu về vấn đề lý thuyết cơ bản của VBNL. Ngoài việc
nghiên cứu về khái niệm, đặc trưng của VBNL. Chúng tôi chú ý đề cập đến vấn
đề lập luận trong văn nghị luận bao gồm những nội dung như: khái niệm lập
luận, cấu trúc của lập luận, đặc biệt là các thao tác lập luận để HS có thể nắm
được một cách tổng thể những kiến thức của VBNL trong chương trình bậc
THPT. Luận văn cũng xác định ý nghĩa, vai trò của việc rèn luyện kỹ năng lập
luận trong khi tạo lập VBNL.
39
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP
LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 11
THPT
2.1. Rèn luyện cách sử dụng ngôn ngữ nghị luận
2.1.1. Dùng từ ngữ lập luận trong câu văn nghị luận
2.1.1.1. Vai trò của từ ngữ lập luận trong câu văn nghị luận
Bên cạnh lớp từ ngữ thông thường, VBNL không thể không kể đến lớp từ
ngữ dùng để thực hiện các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận. Đây là chất
liệu để người viết khẳng định quan điểm khi nghị luận. Đó cũng là dấu hiệu đặc
trưng để nhận biết VBNL. Trong quá trình nghị luận, người viết phải luôn căn
cứ vào nội dung nghị luận để đưa ra những nhận xét, đánh giá mang tính chủ
quan. Vì thế từ ngữ được sử dụng để đưa ra những lời nhận xét, đánh giá đó phải
tập trung hướng về nội dung cần nghị luận. Việc sử dụng từ ngữ nghị luận còn
thể hiện tính khoa học của VBNL. Đặc biệt, trong những luận điểm nhận xét,
đánh giá, sự xuất hiện của những từ ngữ nghị luận giúp người đọc (nghe) tiếp
nhận vấn đề một cách đầy đủ và có hệ thống. Việc sử dụng từ ngữ trong những
bài văn nghị luận có khác so với những văn bản còn lại như văn tự sự, văn miêu
tả, văn biểu cảm…Trong các văn bản kể trên, người viết có thể linh hoạt sử
dụng từ ngữ nhưng ở VBNL do mục đích của văn bản là hướng đến việc thuyết
phục đối tượng giao tiếp nên yêu cầu về sử dụng từ ngữ, lập luận…cần đảm bảo
tính chặt chẽ, hợp lý.
Từ ngữ nghị luận biểu thị mối quan hệ logic giữa các phán đoán, suy luận,
phản bác, đối chiếu so sánh… của người viết khi trình bày quan điểm của mình.
Các từ ngữ lập luận trong nghị luận thường dùng phổ biến gồm có : do đó,
trái lại, thêm vào đó, nhưng mà, tuy vậy, thế nhưng…mà còn, vì…nên, nếu
…thì…Việc sử dụng từ ngữ này giúp văn bản nghị luận được chặt chẽ, logic, hệ
thống tạo nên sức thuyết phục cao.
40
Từ ngữ lập luận còn thể hiện thái độ, lập trường, quan điểm của người viết
về vấn đề nghị luận. Thông thường đó là những từ: không, nên, chưa, chẳng,
phải, có, nhưng, những…Từ ngữ lập luận thường tồn tại ở hai dạng: khẳng định
hoặc phủ định.
Từ ngữ lập luận còn đóng vai trò là cầu nối giữa các đoạn trong một văn
bản thành một thể thống nhất và hoàn chỉnh. Hay nói cách khác, từ ngữ nghị
luận còn là phương tiện để chuyển đoạn trong VBNL. Chuyển đoạn tức là dùng
từ ngữ hoặc câu văn thể hiện đúng mối quan hệ nội dung giữa các phần, các ý để
liên kết chúng lại làm cho bài văn liền mạch.
Các kết từ và các ngữ tương đương với kết từ thường dùng để chuyển đoạn
là: Trước tiên, trước hết, thoạt nhiên, tiếp theo, sau đó, một là, hai là, cuối cùng,
sau cùng sau hết…Dùng để nối các đoạn có quan hệ thứ tự với nhau. Một mặt,
mặt khác, ngoài ra, bên cạnh đó…Dùng để nối các đoạn có quan hệ song song.
Vả lại, hơn nữa, thậm chí…Dùng để nối các đoạn có quan hệ tăng tiến. Tương
tự, cũng thế, cũng vậy, cũng giống như trên…Nối các đoạn có quan hệ tương
đồng. Bởi vậy, bởi thế, cho nên, vì lí do trên…Nối các đoạn có quan hệ nhân
quả. Nhưng, song, cho nên, tuy nhiên, tuy thế, thế nhưng, trái lại, ngược
lại…Nối các đoạn có quan hệ tương phản. Tóm lại, nói tóm lại, tổng kết lại,
chung quy, suy cho cùng…Nối đoạn mang ý tổng kết cho các đoạn trước.
2.1.1.2. Sử dụng các từ ngữ lập luận
Trong bài văn nghị luận, không thể thiếu các từ ngữ biểu thị mối quan hệ
logic lập luận. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ nghĩa biểu thị mối quan hệ của các từ
ngữ này để xác định thời điểm sử dụng thích hợp. Cụ thể:
- Cặp từ “vì…nên”, “do…nên” hoặc các từ “do đó, vì vậy”. Đây là
những cặp từ chỉ nguyên nhân-kết quả. Vế nêu kết quả là những suy
luận thể hiện quan điểm của người viết đối với nội dung nghị luận.
41
- Cặp từ “nếu…thì”, “hễ…thì”, “giá mà…thì”. Đây là những cặp từ chỉ
quan hệ điều kiện-kết quả. Vế nêu kết quả là những phán đoán mang
tính chủ quan của người viết đối với nội dung nghị luận.
- Cặp từ “tuy …nhưng”, “dù…nhưng” hoặc các từ “nhưng”, “trái lại”.
Đây là những cặp từ, những từ chỉ quan hệ tương phản. Tùy từng
trường hợp cụ thể mà cặp từ này được dùng để khẳng định quan điểm
của mình hay bác bỏ quan điểm của người khác.
- Cặp từ “không những… mà còn”, “càng…càng” hoặc từ “đồng thời”.
Đây là những cặp từ, từ chỉ quan hệ bổ sung. Quan hệ này thường
hướng đến mục đích khẳng định, bảo vệ quan điểm người viết.
Các từ ngữ biểu thị thái độ, lập trường, quan điểm: phải, nên, cần, có,
không, chưa, chẳng…Đây là những từ biểu thị ý nghĩa khẳng định hay phủ định
một cách rõ ràng, công khai đối với vấn đề nghị luận. Các luận điểm trong bài
văn dù lớn hay nhỏ, dù trực tiếp hay gián tiếp đều thể hiện thông qua ý nghĩa
của các từ này.
Các từ, cặp từ biểu thị quan hệ logic lập luận có vai trò quan trọng trong
quá trình diễn đạt, lập luận của bài văn nghị luận. Dùng các từ lập luận đúng chỗ
sẽ giúp cho lập luận thêm rõ ràng, chắc chắn. Ngược lại, dùng sai các từ ngữ lập
luận hoặc không nắm vững các từ ngữ thì sẽ hiểu sai và diễn đạt sai vấn đề.
2.1.1.3. Bài tập rèn luyện cách dùng từ lập luận trong câu văn nghị luận
Các dạng bài tập dùng từ lập luận trong văn nghị luận
Thông thường, việc chữa lỗi dùng từ và rèn luyện cách dùng từ cho HS
được làm trong tiết trả bài và tiết luyện tập. Tuy nhiên, do thời lượng của hai tiết
học này không đủ để chữa tất cả những lỗi sai mà HS mắc phải. Vì vậy, để rèn
luyện cách dùng từ có hiệu quả hơn, cần phải có sự tích hợp rèn luyện ở cả ba
phân môn tiếng Việt, Văn học và Làm văn. Đồng thời ở những tiết luyện tập
cũng cần phân bố thời gian để HS rèn luyện cách dùng từ khi viết văn nghị luận.
Dưới đây là một số dạng bài tập giúp rèn luyện cách dùng từ cho HS:
42
- Dạng bài tập 1: Xác định và thay thế các từ dùng sai trong các câu cho sẵn.
- Dạng bài tập 2: Phân biệt nghĩa của các từ giống nhau nhưng dùng trong
những văn cảnh khác nhau.
- Dạng bài tập 3: Tìm những từ ngữ cũng trường nghĩa với những từ cho
sẵn.
- Dạng bài tập 4: Phân tích tác dụng của những từ in nghiêng trong đoạn văn
cho sẵn.
- Dạng bài tập 5: Phân tích tác dụng của những từ gần nghĩa trong đoạn văn
cho sẵn.
2.1.2. Xây dựng đoạn văn
2.1.2.1.Viết đoạn văn theo kết cấu bài văn
Theo quy trình làm văn, muốn viết đoạn văn nghị luận, người viết phải
trải qua giai đoạn lập dàn ý. Ở giai đoạn này các luận điểm được chọn lọc và sắp
xếp một cách có hệ thống. Từ mỗi luận điểm người viết bắt đầu cụ thể hóa thành
từng đoạn văn. Bài văn nghị luận có thể có nhiều đoạn nhưng ít nhất phải có ba
đoạn tương ứng với ba phần của một bài văn: mở bài, thân bài, kết bài. Để viết
bài đạt kết quả cao, GV cần rèn luyện cho HS cách viết bài theo bố cục bài văn.
+ Viết đoạn mở bài:
Đoạn mở bài là đoạn văn đầu tiên của đoạn văn nghị luận. Vị trí này khá
quan trọng. Bài văn có thu hút được sự chú ý của người đọc hay không phụ
thuộc nhiều vào đoạn mở bài. Lập luận ở phần mở bài chính là dẫn dắt người
đọc đi vào vấn đề nghị luận. Cụ thể là HS phải nêu được nội dung nghị luận và
định hướng cách giải quyết vấn đề. Mở bài là đoạn văn hoàn chỉnh với ba phần:
mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn theo đúng mô hình: Dẫn dắt nêu luận đề
định hướng nghị luận.
Mỗi phần trong mô hình trên đều có những chức năng khác nhau. Mở
đoạn thường là những câu dẫn dắt, hướng người đọc đến vấn đề cần bàn luận.
Tùy vào từng nội dung cụ thể người viết có thể dẫn dắt bằng nhiều hình thức
43
khác nhau như trích một câu thơ, câu danh ngôn, hoặc kể một câu chuyện…
Thân đoạn nêu lên luận đề. Luận đề có thể được nêu một cách khái quát, tóm tắt
hay cũng có thể nêu nguyên văn. Kết đoạn nhằm định hướng cách thức nghị
luận và khái quát quan điểm của người viết.
Ví dụ mở bài cho đề bài: Suy nghĩ về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” như
sau: (1)Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam có nhiều câu tục ngữ sâu sắc thể hiện
truyền thống đạo lí của người Việt.(2)Một trong những câu đó là câu: “Uống
nước nhớ nguồn”.(3)Câu tục ngữ này nói lên lòng biết ơn đối với những ai đã
làm nên thành quả cho con người hưởng thụ.(4)Tuy vậy không phải ai cũng trân
trọng truyền thống ấy.
Ở đoạn nghị luận này, câu 1 là câu dẫn dắt, câu 2 là câu nêu luận đề. Câu
3,4 khái quát lại luận điểm của người viết, đồng thời cũng là câu chuyển, định
hướng cách thức nghị luận sang phần thân bài.
+ Viết đoạn thân bài
Thân bài là đoạn trung tâm của bài văn. Toàn bộ nội dung cần bàn luận sẽ
được giải quyết trong phần thân bài. Vì thế, phần thân bài thường gồm nhiều
đoạn, mỗi đoạn giải quyết một luận điểm. Mô hình chung của mỗi đoạn phần
thân bài như sau: Nêu luận điểm chính Triển khai luận điểm Nhấn mạnh
luận điểm và chuyển đoạn. Trong phần nêu luận điểm chính, người viết khẳng
định quan điểm đối với vấn đề nghị luận. Sự khẳng định thể hiện thái độ đồng
tình hay phản bác cũng có thể là bổ sung để vấn đề nghị luận được hoàn chỉnh.
Sau đó là những câu triển khai luận điểm. Các câu này nhằm giải thích, chứng
minh cho luận điểm vừa nêu. Người viết chủ yếu dùng lí lẽ và dẫn chứng để
triển khai. Cuối cùng là nhấn mạnh lại luận điểm và chuyển sang một luận điểm
khác. Ở phần này, cần có sự sáng tạo. Nhấn mạnh lại luận điểm không có nghĩa
là lặp lại luận điểm đã nêu mà khái quát lại luận điểm ở tầm cao hơn, đồng thời
kết thúc và chuyển đoạn một cách hợp lý.
44
Rèn luyện cho HS viết đoạn thân bài, GV nên hướng dẫn HS bắt đầu từ
những đoạn có kết cấu cơ bản nhất (đoạn diễn dịch hoặc đoạn quy nạp) gồm các
bước:
Bước 1: Chuyển luận điểm thành một câu chủ đề.
Bước 2: Viết các câu triển khai phân tích các khía cạnh của luận điểm.
Bước 3: Viết các câu kết đoạn.
Sau khi luyện tập thành thạo viết đoạn theo kết cấu cơ bản, GV tập cho
HS viết đoạn nghị luận với những kiểu kết cấu khác: song hành, tổng-phân- hợp,
nguyên nhân-kết quả…
Để tăng hiệu quả thuyết phục và sức hấp dẫn cho bài văn nghị luận, người
viết phải biết kết hợp các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm vào đoạn phần thân
bài. Tuy nhiên, việc sử dụng các yếu tố này cần thận trọng, phải chọn lọc và sử
dụng phù hợp với luận điểm, luận cứ để không phá vỡ mạch lập luận của cả bài
văn. Do đó, khi lập dàn ý, người viết nên dự liệu sắp xếp các yếu tố trên vào hệ
thống luận điểm.
Giữa các đoạn nghị luận, đoạn thân bài phải có sự liên kết với các đoạn
còn lại. Liên kết các đoạn nghị luận vừa làm cho bài văn liền mạch, lập luận chặt
chẽ vững vàng vừa tạo ấn tượng mạnh đối với người đọc, người nghe. Hình thức
chuyển đoạn dựa vào từ ngữ nghị luận hoặc câu nghị luận như đã nêu ở phần
trên của luận văn.
+ Viết đoạn kết bài
Đoạn kết bài giữ nhiệm vụ kết thúc bài văn nghị luận. Sau khi dẫn dắt
người đọc đi theo cách giải quyết vấn đề của mình, người viết khép lại nội dung
nghị luận để người tiếp nhận nhận xét, đánh giá. Do đó, cách kết bài cũng phải
hướng đến mục đích thuyết phục. Cùng với mở bài, thân bài, kết bài cũng thể
hiện tính lập luận sâu sắc.
Kết bài có nhiều cách: kết bài đi từ nhận thức đến hành động, kết bài có
tính chất tổng kết. Trong nhiều tài liệu tham khảo, các tác giả đề ra nhiều cách
45
kết bài khác nhau: tác giả Trần Đình Sử trong Làm văn 12 đã giới thiệu bốn cách
kết bài: tóm lược, phát triển, vận dụng và liên tưởng. Tác giả Nguyễn Đăng
Mạnh góp thêm: kết bài theo lối điểm nhãn, kết theo lối bình luận mở rộng và
nâng cao, kết theo lối đầu cuối tương ứng. Dù kết bài theo kiểu gì cũng phải thể
hiện được hai vấn đề: tính thống nhất quan điểm nghị luận giữa hai phần mở bài
và thân bài và tạo ấn tượng cho người tiếp nhận. Do đó, chúng tôi nghĩ rằng mô
hình đoạn kết bài trong bài văn nghị luận gồm có hai phần như sau: Tóm tắt nội
dung, quan điểm nghị luận Gợi mở vấn đề.
Trong phần tóm tắt nội dung, quan điểm nghị luận, người viết nên khái
quát vấn đề một cách cô đọng, súc tích. Tuyệt đối không lan man hoặc lặplại
những vấn đề đã nói ở phần thân bài. Ở phần gợi mở vấn đề, người viết gợi thêm
những vấn đề có liên quan đến nội dung nghị luận để người tiếp nhận tiếp tục
suy nghĩ. Có thể đó là sự vận dụng, là lời kêu gọi, là ước muốn, là sự khám phá.
Từ cách rèn luyện viết đoạn văn nghị luận theo kết cấu bài văn, GV có thể
khái quát thành quy trình viết đoạn văn nghị luận cho học sinh luyện tập
như sau:
Bước 1: Xác định nội dung đoạn nghị luận (căn cứ vào luận điểm), khái
quát thành câu chủ đề.
Bước 2: Lựa chọn kiểu kết cấu đoạn nghị luận (diễn dịch, quy nạp, song
hành…)
Bước 3: Tiến hành triển khai đoạn văn.
Bước 4: Kiểm tra và chỉnh sửa.
2.1.2.2. Sử dụng các bài tập rèn luyện xây dựng đoạn văn
Căn cứ vào vai trò và yêu cầu của đoạn văn nghị luận, chúng tôi cho rằng
cần có những bài tập để rèn luyện những kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận
có chú trọng tính lập luận. Bước đầu, chúng tôi đề xuất những dạng bài tập
như sau:
46
- Bài tập 1: Từ một luận điểm có sẵn, HS xác định những nội dung dự định
sẽ triển khai thành đoạn.
- Bài tập 2: Từ một câu chủ đề cho sẵn, HS viết đoạn văn nghị luận theo
mô hình kết cấu đoạn văn.
- Bài tập 3: Từ một đoạn văn nghị luận cho sẵn, HS xác định câu chủ đề,
câu khai triển, mô hình kết cấu đoạn văn nghị luận.
- Bài tập 4: Tìm và phân tích những giá trị lập luận của đoạn văn nghị luận
cho sẵn.
- Bài tập 5: Cho một số câu lộn xộn, yêu cầu học sinh sắp xếp lại thành một
đoạn văn hoàn chỉnh.
Xây dựng đoạn văn là giai đoạn hiện thực hóa hệ thống luận điểm, tạo
thành bài văn nghị luận. Đây là cấp độ cao trong việc sử dụng ngôn ngữ nghị
luận để tạo lập văn bản. HS cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc
xây dựng đoạn văn nghị luận. Từ đó, có kế hoạch rèn luyện, nâng cao năng lực
lập luận trong văn nghị luận.
2.2. Rèn luyện cách xây dựng hệ thống lập luận
2.2.1. Hệ thống luận điểm
2.2.1.1. Vai trò của luận điểm trong văn nghị luận
Xem xét từ giác độ tác giả, luận điểm chính là kiến giải và chủ trương của
tác giả trong bài văn, bày tỏ lập trường, quan điểm và tư tưởng của người viết.
Xem xét từ giác độ bài văn, luận điểm là tư tưởng trung tâm của bài văn, nó tỏ
rõ việc tán thành hay phản đối một vấn đề nào đó. Như vậy, luận điểm chính là
gốc rễ, linh hồn của bài văn. Nó vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết, có tác
dụng như một cương lĩnh trong toàn bài. Xem xét từ tư duy của con người, luận
điểm được hình thành trên cơ sở luận cứ, nhưng trong bài văn, khi luận điểm
được xác lập, thì nó trở lại có tác dụng chi phối luận cứ, và buộc luận cứ phục
vụ cho nó, để luận chứng khai thác mối liên hệ logic giữa nó và luận cứ. Bởi
vậy, luận điểm là trung tâm của bài văn nghị luận.
47
Luận điểm thể hiện chiều sâu của bài văn nghị luận. Mục đích cuối cùng
của bài văn nghị luận là thuyết phục người khác hiểu, tin và hành động theo
những gì người viết đề xuất. Vậy nên, nếu ý kiến của người viết mà hời hợt,
phiến diện thì sẽ không thuyết phục. Một bài văn nghị luận có hệ thống luận
điểm phong phú, đa dạng và chính xác sẽ là một bài văn hoàn chỉnh, sâu sắc.
Việc nêu và trình bày luận điểm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả
của bài văn nghị luận.
Trong tạo lập các loại văn bản, người tạo lập phải định hướng nội dung
trước khi tiến hành viết.
Đối với VBNL, định hướng nội dung tức là hình thành và thể hiện quan
điểm của chủ thể nghị luận đối với đề tài nghị luận. Như vậy luận điểm là những
ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của người viết. Trên cơ sở những luận điểm
này người viết mới có thể bàn sâu, phân tích kỹ và đánh giá thấu đáo các vấn đề
nghị luận. Luận điểm là cơ sở để xây dựng bài văn.
2.2.1.2. Yêu cầu của luận điểm
Luận điểm phải tập trung
Luận điểm tập trung tức là có thể nắm lấy cái cốt của sự vật. Luận điểm
tốt nhất là không nên chia cắt, phân tán, mà phải sắp xếp lại để rồi có thể biểu
đạt ra rõ ràng bằng một hoặc vài câu. Có như vậy mới khiến cho độc giả hiểu
thấu được trung tâm vấn đề mà bạn trình bày.
Ví dụ:
Từ xưa đến nay, trên thế giới có biết bao chí sĩ, để thực hiện hoài bão
lớn lao của đời mình, đã khổ công học tập nghiên cứu, học tập trong
những điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ và trên bước đường tự
học, tự rèn luyện để đó, họ đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt, để xây
đắp nên nền đường vững chắc để cuối cùng thực hiện được lí tưởng
cao đẹp. Đồng thời, cũng chứng minh một chân lí: Bền bỉ tự học có
thể thành tài.
48
Thành tài là điều có sức thu hút mạnh mẽ với thanh niên, là đích
hướng tới của biết bao người trong chúng ta. Mỗi một thanh niên có
chí khí điều mong muốn mình thành công. Có người cho rằng vào đại
học là con đường thành tài duy nhất, không vào được đại học thì
không thể thành tài. Vậy thì tự học thì không thể thành tài được hay
sao? Biết bao thực tế đã mách bảo chúng ta, bền bỉ tự học cũng có thể
thành tài.
Luận điểm phải rõ ràng, ngắn gọn
Về hình thức, luận điểm phải được khái quát bằng một câu ngắn gọn. Về
nội dung, luận điểm phải thể hiện được tư tưởng, tình cảm, quan điểm của người
viết. Luận điểm càng dài dòng thì nghĩa càng rời rạc. Luận điểm ngắn gọn thể
hiện sự tập trung vào nội dung nghị luận. Luận điểm tồn tại ở hai dạng: khẳng
định hoặc phủ định. Dù ở dạng nào cũng phải thể hiện thái độ rõ ràng, dứt khoát
hoặc đồng tình hoặc phản đối. Muốn cho luận điểm rõ ràng, ngắn gọn ngoài
năng lực quan sát và nhận xét vấn đề một cách khoa học, còn cần phải có năng
lực khái quát của người viết. Trong đó, năng lực lực nhận thức là một nhân tố
chủ yếu, năng lực nhận thức cao thì quan điểm sẽ sáng rõ, năng lực nhận thức
thấp thì sẽ không nắm bắt được bản chất của sự vật. Từ đó ta thấy: sự rõ ràng,
ngắn gọn của luận điểm là sản phẩm của năng lực nhận thức cộng với năng lực
khái quát cao.
Luận điểm phải sâu sắc
Luận điểm sâu sắc tức là luận điểm không phù phiếm hời hợt, không phản
ánh vấn đề một cách chung chung, bề ngoài, mà là đi sâu vào bản chất sự vật.
Luận điểm khi đã xác lập phải chứng tỏ được chiều sâu và chiều rộng của nó,
khiến người đọc nhận thức được sâu sắc vấn đề.
Luận điểm phải mới mẻ, sáng tạo
Luận điểm mới mẻ tức là có thể nêu ra được những kiến giải mới về một
sự vật, có thể rút ra được kết luận khác với mọi người, cho người ta một sự gợi
49
mở mới, một thu hoạch độc đáo. Có hai cách xây dựng luận điểm thể hiện sự
sáng tạo và mới mẻ. Thứ nhất, người viết phát kiến ra một luận điểm hoàn toàn
mới, theo một phương thức tiếp cận mới. Thứ hai, dựa trên một số cơ sở của
những luận điểm đã được nêu bởi những tác giả khác, người viết có thể đặt lại
vấn đề nhưng giải quyết dưới góc độ khác.
Những yêu cầu nói trên đối với luận điểm không phải là đứng riêng rẽ
không liên quan tới nhau. Chúng thường có mối quan hệ chặt chẽ.
Có không ít bài văn nghị luận, hoặc luận điểm không rõ, hoặc luận điểm
cũ, nông cạn, không mang lại cái cảm nhận mới mẻ tươi tắn, hoặc luận điểm vụn
vặt, trình bày phân tán, rời rạc v.v…. Những căn bệnh này đều do không coi
trọng những yêu cầu của luận điểm mà ra.
2.2.1.3. Cách tìm luận điểm
Hiện nay, chất lượng các bài tập làm văn của HS còn thấp. Có nhiều
nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân cơ bản là HS chưa biết cách tìm, lựa
chọn, sắp xếp và trình bày luận điểm. Trong khi đó, tìm được luận điểm chính là
chìa khóa để làm tốt bài văn nghị luận.
Phân tích đề bài
Đề văn là cơ sở quan trọng để tìm luận điểm. Bao giờ đề văn cũng vạch ra
cho HS một hướng đi cụ thể. Khi phân tích đề cần chú ý những từ khóa để xác
định nội dung nghị luận, phương thức nghị luận và phạm vi nghị luận. Tuy
nhiên, khi phân tích đề còn phụ thuộc vào cách ra đề. Có hai khuynh hướng ra
đề. Theo khuynh hướng truyền thống - nội dung nghị luận hiện rõ ngay trên đề
văn. Với cách ra đề này thì học sinh chỉ cần thực hiện theo đúng yêu cầu của đề
để tìm ra luận điểm. Ví dụ: SGK 10 tập 2 có đề bài: “Bàn về vai trò và tác dụng
to lớn của sách trong đời sống tinh thần của con người, nhà văn M. Go-rơ-ki có
viết: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Hãy giải thích và bình
luận ý kiến trên”. Khi phân tích đề này HS cần chú ý các từ, cụm từ, vế câu:
“Vai trò và tác dụng to lớn của sách”, “sách mở ra những chân trời mới” “giải
50
thích”, “chứng minh”. Từ đó hình thành luận điểm theo các thao tác nghị luận:
giải thích, bình luận. Ví dụ các luận điểm đó là: Sách là gì? (thao tác giải thích),
Sách có tác dụng như thế nào? (thao tác bình luận).
Theo khuynh hướng khác, khuynh hướng hiện đại, đề văn không đưa ra
các yếu tố nghị luận cụ thể, cách ra đề này tạo điều kiện thuận lợi cho HS tự do
khai thác luận điểm. Ví dụ đề bài: “Hãy nêu quan niệm của anh (chị) về một bài
thơ hay?”. Khi phân tích bài thơ này HS cần chú ý cụm từ “bài thơ hay”. Đây là
dạng đề mở vậy nên không có gợi ý cho những thao tác lập luận cụ thể để làm
căn cứ tìm luận điểm. Chỉ có thể tìm luận điểm bằng quan niệm riêng của mỗi cá
nhân về một bài thơ hay.
Phân tích đề thực chất là đi tìm nội dung nghị luận, phương thức nghị luận
và phạm vi nghị luận.
Phân tích văn bản
Đối với kiểu bài nghị luận văn học, việc tìm luận điểm thường căn cứ vào
văn bản. Khi phân tích đề, bên cạnh việc căn cứ vào các yếu tố ngôn ngữ thì HS
cần phải có năng lực phân tích và khái quát nội dung của tác phẩm. Mỗi một nội
dung của văn bản là một luận điểm. Ví dụ: đề bài: “Tâm sự của Hồ Xuân Hương
trong bài thơ Tự tình II”. Khi phân tích bài thơ này HS phải chú ý phân tích yếu
tố ngôn ngữ, nghệ thuật để khái quát nội dung bài thơ thành các luận điểm. Cụ
thể trong đề này cần đưa ra được hai luận điểm. Luận điểm 1: Nỗi cô đơn chán
ngán của Hồ Xuân Hương. Luận điểm 2: Khát vọng có được hạnh phúc.
Mấu chốt của phân tích văn bản là dựa vào yếu tố phân tích - khái quát
nội dung văn bản để khái quát luận điểm.
Tìm luận điểm dựa vào trình tự nhận thức, tư duy
Trong cuộc sống con người các sự vật hiện tượng trong thế giới khách
quan theo những quy luật khác nhau. Một cách chung nhất, Lê-nin đã chỉ ra quy
luật của nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí,
51
của sự nhận thức hiện thực khách quan”. Như vậy, bản chất của quá trình nhận
thức là sự khám phá chân lí, hiện thực khách quan theo trình tự tư duy từ cấp độ
thấp đến cấp độ cao. Ở văn nghị luận, trình tự tư duy được biểu hiện ở ba giai
đoạn: hiểu - đánh giá - bàn luận. Tương ứng với mỗi đoạn có ít nhất một luận
điểm. Như vậy đứng trước một vấn đề nghị luận, HS phải hiểu vấn đề nghị luận
là gì, đánh giá vấn đề đó ra sao và bàn luận nó như thế nào?
Quá trình tìm luận điểm dựa vào trình tự nhận thức, tư duy của HS xác
định thao tác nghị luận mà không cần sự định hướng của đề tài. Suy cho cùng,
nghị luận là sự tổng hợp các thao tác nghị luận chứ không riêng gì thao tác giải
thích, chứng minh, bác bỏ, bình luận.
Nhìn vấn đề nghị luận từ nhiều góc độ khác nhau
Khi tiến hành nghị luận, bao giờ vấn đề nghị luận cũng được quan sát đa
chiều và đặt trong nhiều mối quan hệ. Chẳng hạn đặt ở góc độ thực tế cuộc sống,
ở góc độ lí thuyết sách vở, trong quan hệ với thời gian, không gian, quan hệ so
sánh với những sự vật sự việc cùng loại…vấn đề sẽ được nhìn nhận một cách
đầy đủ, toàn diện. Ví dụ với đề bài bàn về câu tục ngữ “Trăm hay không bằng
tay quen”. Nếu đặt trong quan hệ lí thuyết thì câu tục ngữ này chưa chính xác.
Nhưng nếu đặt trong quan hệ thực tiễn lao động thì câu tục ngữ này hoàn toàn
đúng.
Nhìn vấn đề nghị luận ở nhiều góc độ khác nhau tạo ra nhiều luận điểm.
Sự đa dạng về luận điểm giúp bài văn có tính bao quát và toàn diện hơn.
2.2.1.4. Nghệ thuật nêu luận điểm
Khi đã có luận điểm mới mẻ, sâu sắc và sáng rõ thì không phải cứ tùy ý
tung ra thế nào trong bài văn cũng được. Khi sắp xếp, phải cân nhắc về phương
pháp, lựa chọn hình thức nêu. Ta hãy quan sát một cách thức nêu luận điểm như
sau:
Tuổi thanh xuân có nghĩa là gì? Có người nói: Hoa đẹp hiếm khi thấy,
Tuổi xuân không dài mấy. Bởi vậy, tuổi thanh xuân có nghĩa là truy
52
tìm hoan lạc. Tuổi thanh xuân có nghĩa là gì? Lại có người nói: Chén
rượu và đàn ca, đời người được mấy ta. Bởi vậy, tuổi thanh xuân có
nghĩa là chạy theo hưởng thụ. Chúng ta nói: Không! Chính vì đời
người thì tuổi thanh xuân là tràn trề nhựa sống. Bởi vậy tuổi xuân
thực sự phải có nghĩa là: tỏa sáng nhiều hơn, tỏa nhiệt mạnh hơn để
cống hiến càng nhiều cho tổ quốc, cho nhân loại [48].
Đây là một cách mở đầu bài văn: Tuổi thanh xuân có nghĩa là gì? Ở đây
cũng biểu hiện một cách thức bày tỏ luận điểm. Luận điểm nêu ra là: “Tuổi xuân
thực sự có nghĩa là tỏa sáng nhiều hơn, tỏa nhiệt mạnh hơn để cống hiến càng
nhiều cho Tổ quốc, cho nhân loại”. Tác giả đã có sự dẫn dắt rất khéo từ sự lựa
chọn để xác định luận điểm, chứ không phải đưa ra một cách trần trụi, đường
đột. Trước hết, tác giả nêu ra hai quan điểm sai lầm cùng luận cứ, sau đó với thái
độ nghiêm túc mà nêu ra luận điểm của bài văn. Sắp xếp như vậy là có phá, có
lập, có phải, có trái, rõ ràng minh bạch và có sức mạnh, tạo sự dẫn dắt cho việc
luận chứng toàn bài. Như vậy, việc bộc lộ luận điểm vừa đi thẳng vào vấn đề lại
vừa có tính nghệ thuật, có bối cảnh, có lí do ngọn ngành.
Nêu luận điểm trực tiếp
Mở đầu đoạn văn nghị luận, người viết nêu câu luận điểm ngay ở câu đầu
tiên sau đó mới tiến hành lập luận chứng minh, giải thích, phân tích…Nêu luận
điểm trực tiếp giúp người đọc (nghe) dễ dàng nắm bắt được quan điểm của
người viết. Từ đó có cái nhìn toàn diện về bài văn nghị luận. Tuy nhiên, cũng
cần có sự linh hoạt, khéo léo khi nêu luận điểm để tránh sự nhàm chán.
Nêu thông qua dẫn dắt
Dẫn dắt là cách đưa người đọc từng bước nhận ra luận điểm bằng một sự
việc, một câu chuyện kể hoặc một câu danh ngôn. Khác với cách nêu luận điểm
trực tiếp, dẫn dắt tạo ra một nhu cầu khám phá tri thức. Thông thường sau mỗi
sự kiện, câu chuyện người đọc (nghe) tự nhận ra luận điểm hoặc người viết sẽ tự
53
khái quát thành luận điểm. Khi dẫn dắt không nên quá dài sẽ gây mất tập trung
và làm loãng không khí nghị luận.
Ví dụ: Cũng với luận đề “Bản chất của thành công”, trong một đoạn khác người
viết cũng đưa ra luận điểm theo cách dẫn dắt:
“Ngày còn nhỏ tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện
kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả về mẹ-người phụ nữ đã che trở
cuộc đời em. Cậu bé viết về mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay
ram ráp nhăn nheo nhưng dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà
ngoại là người mẹ-người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình
của cuộc đời. Bài văn lạc đề phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính
là một tác phẩm thành công, bởi vì ở đó chất chứa tình yêu thương
của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình
yêu nào thiêng liêng hơn thế?”[40,tr.127].
Nêu luận điểm bằng cách đặt câu hỏi:
Mở đầu đoạn nghị luận, người viết đặt ra một câu hỏi. Câu hỏi này để
người đọc suy ngẫm về quan điểm của người viết thể hiện trong đó. Qua những
thông tin trả lời câu hỏi, luận điểm được hình thành.
Ví dụ: Một đoạn khác trong bài viết về “Bản chất của thành công” HS Hà
Minh Ngọc đã viết:
Cũng có khi bạn mơ ước thành công sẽ đến với mình như đến với
Abrmovic-ông chủ một đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công
chẳng ở đâu xa, chỉ cần bạn dành thời gian chăm sóc cho đội bóng
của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận được tình yêu thương vô bờ bến, thứ
mà Abrmovic không nhận được từ những cầu thủ của ông ta. Thành
công đã đến với mỗi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế
[40,tr.127].
Qua đối chiếu phải trái để thể hiện luận điểm
Ví dụ:
54
“Những người viết văn xưa nay đều đề xướng cái ngắn gọn va coi cái
“dây cà ra dây muống” trong làm văn là điều cấm kị. Hẳn là như vậy.
Thế nhưng, dài dòng hay ngắn gọn trong văn chương không chỉ đơn
thuần nhìn vào số lượng chữ. Lời ít, ý nhiều là cô đọng, là có chiều
sâu; lời ít, ý nghèo thì lại nhạt nhẽo, đơn điệu. Còn cái dài thì sao?
Có lúc cũng có cái hay của nó: khắc họa nên hình dáng trạng thái một
cách tinh tế; khắc họa nội tâm một cách nhuần nhị. Có lúc không dài
thì không thể biểu đạt đến “cái đỉnh” của nó. Như vậy, có thể nói là
dài hơn ngắn. Hãy xem các sáng tác của những cây bút bậc thầy, có
lúc thì ngắn, như là tiếc mực, để ra sức cho mỗi chữ là một nét truyền
thần. Có lúc lại dài như phung phí bút mực. Cái ngắn gọn và cái dài
dòng, thảy đều có cái hay, cái có lí của nó.[47]
Bàn về cách viết văn, ở đây tác giả đã nêu ra hai quan điểm: một loại thì
chủ trương viết ngắn gọn, phản đối cái dài dòng; một loại lại chủ trương cái dài
cái ngắn trong văn chương không thể chỉ đơn giản là đếm theo số thứ tự nhiều
hay ít. Qua việc so sánh đối chiếu mà bộc lộc chủ trương nêu sau là xác đáng.
Đó chính là luận điểm của bài văn. Bày tỏ luận điểm như vậy là theo cách chọn
lựa, làm cho lập luận càng thêm vững chắc.
Từ việc quy nạp hiện tượng để nêu ra luận điểm
Ví dụ:
Dáng vẻ biểu lộ là cửa sổ tâm hồn của thế giới nội tâm mở ra. Trong
cuộc sống hàng ngày nó luôn luôn là cách biểu hiện tâm lí trực tiếp
nhất, rõ rệt nhất và hình ảnh nhất. Cái hỉ, nộ, ái, lạc, oán, hận, phận,
tăng v.v…, những tình cảm nội tâm tinh tế, chỉ cần không bị che đậy
một cách có ý thức thì đều lộ ra theo khuôn mặt hay dáng điệu, để lại
những dấu hiệu hoặc rõ hoặc mờ, hoặc đậm hoặc nhạt. Người ta có
thể theo dáng vẻ biểu hiện của bản thân mà tự nhiên cũng biểu hiện
tình cảm nội tâm của mình. Cũng có thể thông qua dáng vẻ biểu lộ
55
của người khác mà xét đoán ra tâm lí của người đó. Bởi vậy, trong
đời sống xã hội, dáng vẻ biểu lộ đã trở thành một cách thức giao tiếp
giữa con người với con người[47].
Dáng vẻ biểu lộ có nhiều tác dụng, nhiều cách thể hiện. Qua dáng vẻ biểu
lộ mà phát hiện ra rất nhiều bí mật. Quy nạp những hiện tượng đó sẽ lại rút ra
được luận điểm: “Trong đời sống xã hội, dáng vẻ biểu lộ đã trở thành cách thức
giao tiếp giữa con người với con người”. Cách nêu luận điểm như vậy tỏ ra chắc
chắn, mạnh mẽ, tự nhiên, đột ngột.
Trong một bài văn nghị luận, cần có sự phối hợp các cách nêu luận điểm.
Sự phối hợp này tạo nên sự linh hoạt, uyển chuyển của bài văn, giúp cho lập
luận được chặt chẽ, rõ ràng, bài văn trở nên sinh động, hấp dẫn.
2.2.2. Hệ thống luận cứ
2.2.2.1. Vai trò của luận cứ
Luận cứ là cơ sở để hình thành và tồn tại luận điểm
Xét từ quá trình tư duy của con người, thường có luận cứ trước, sau đó
mới sản sinh luận điểm. Còn xét về quá trình viết bài văn nghị luận, thường nêu
luận điểm trước, sau đó bằng luận cứ để chứng minh. Dù ở trường hợp nào, luận
cứ cũng là cơ sở hình thành và tồn tại của luận điểm. Có điều là trường hợp trên
luận điểm có trước khi viết bài, trường hợp dưới có sau khi bắt tay viết. Trường
hợp trên phản ánh quá trình suy nghĩ về một vấn đề nào đó của con người, tư
duy chưa được sắp xếp, nó là sự chuẩn bị hình thành văn bản. Trường hợp dưới
thì phản ánh quá trình luận chứng một vấn đề nào đó của con người, tư duy qua
việc sắp xếp mà hình thành bài văn. Đồng thời, dù cho luận điểm sản sinh trên
cơ sở luận cứ, nhưng khi được xác lập thì lại có tác dụng thâu tóm. Buộc luận cứ
phải phục vụ cho nó. Cho nên, luận cứ càng chân thực, điển hình, phong phú thì
mối liên hệ logic giữa nó với luận điểm càng chặt chẽ. Như thế, với luận điểm
nó càng có tác dụng chứng minh mạnh mẽ. Xét về ý nghĩa đó, mức độ mạnh yếu
56
của luận cứ tỉ lệ thuận với mức độ được chứng minh của luận điểm. Tức là luận
cứ mạnh thì luận điểm thuyết phục, luận cứ yếu thì luận điểm mờ nhạt.
Luận cứ là chỗ dựa và sự trợ lực cho luận chứng
Khi viết bài văn nghị luận thường là gặp hai trường hợp sau: một là lí lẽ
đã nghĩ đủ rồi, chỉ đợi trình bày ra thôi. Hai là lí lẽ chưa nghĩ hoàn toàn đầy đủ,
còn phải cần vừa viết vừa hoàn thiện. Nếu như trước đó đã nghĩ được một lí lẽ,
cần trình bày nó ra, mà kể lể một cách trừu tượng thì không có tính thuyết phục
và làm cho người ta không hiểu được. Đồng thời, chỉ một mình lí thuyết suông
thì cũng khó tránh khỏi cô lập. Lúc này, nếu biết dẫn ví dụ về sự việc để thuyết
minh thì sẽ làm cho lí lẽ nêu ra được rõ ràng, dễ hiểu, khiến bài văn sinh động
cụ thể. Như vậy, luận cứ đã chứng tỏ tác dụng trợ lực đối với luận chứng. Đây là
một mặt của vấn đề. Mặt khác, nếu lí lẽ vẫn chưa nghĩ được trọn vẹn thì cần
phải vừa viết, vừa khai thác lí lẽ, trình bày lí lẽ. Nhưng mọi lí lẽ trên thực tế đều
không tự nhiên mà có, lúc này luận cứ sẽ trở thành chỗ dựa để khai thác phát
hiện lí lẽ. Thông qua sự phân tích, tổng hợp luận cứ, ta có thể tìm ra mối liên hệ
giữa nó và luận điểm, và có thể khám phá và trình bày rõ ràng lí lẽ đó ra. Ở đây,
chứng tỏ tác dụng làm chỗ dựa cho luận chứng của luận cứ.
Luân cứ còn là cơ sở của cả bài nghị luận
Có được luận cứ dồi dào, phong phú đối với bài văn nghị luận, là đã nắm
được quyền tự chủ trong tay. Tác giả có thể dựa vào những tư liệu này mà nêu ra
luận điểm, lựa chọn giác độ một cách linh hoạt, khiến bài văn hướng tới yêu cầu
mình mong muốn. Tóm lại, khi đã có tư liệu phong phú, lại biết sử dụng thích
hợp thì bài văn nghị luận sẽ có cơ sở vững chắc.
2.2.2.2. Yêu cầu khi lựa chọn luận cứ
Luận cứ được lựa chọn phải phù hợp với luận điểm
Nói luận cứ và luận điểm có mối liên hệ lôgic bản chất là nói nội hàm của
luận cứ thống nhất với nội hàm của luận điểm và có thể chứng minh cho ý nghĩa
của luận điểm một cách tốt nhất. Chỉ khi có được điều này thì mới tạo nên luận
57
cứ. Nếu không, những tài liệu đó có tốt đến đâu, chân thực đến đâu. Sinh động
đến đâu thì vẫn không có mối liên hệ logic bản chất với một luận điểm nào đó
cần chứng minh như vậy là không có giá trị. Từ đó ta thấy: chỉ khi ý nghĩa của
tài liệu tương đồng với ý nghĩa của luận điểm thì những tài liệu này mới được
coi là luận cứ của luận điểm đó. Ý nghĩa của luận điểm là có tính chỉ hướng, nó
chỉ có thể phản ánh một nhận thức nào đó của con người từ một phía, một giác
độ nào đó. Nó đòi hỏi luận cứ cũng phải có tính chỉ hướng như vậy.
Khi chúng ta chọn lựa luận cứ, nếu không để ý mà đưa vào trong bài văn
những tài liệu tưởng như là hay nhưng không có mối liên hệ bản chất với luận
điểm thì sẽ tạo nên cái sai lầm ngỡ là đúng mà lại sai.
Luận cứ được lựa chọn phải chân thực
Đây cũng là một tiêu chuẩn quan trọng trong việc lựa chọn luận cứ, nó là
vấn đề đảm bảo luận điểm có thể xác lập vững chắc hay không. Bởi vì, luận cứ
có chân thực thì luận điểm mới đứng vững; luận cứ không chân thực thì luận
điểm không đứng vững.
Khi viết văn nghị luận nếu không chú ý tới tính chân thực của luận cứ thì
sẽ đưa bài viết của mình đến chỗ sai lầm. Nếu muốn cho luận cứ chân thực thì
phải qua khảo sát, kiểm tra kĩ lưỡng những luận cứ mình lựa chọn rồi mới sử
dụng.
Luận cứ được lựa chọn phải thực sự điển hình
Yêu cầu này trên hai phương diện là tính khái quát và tính đại diện.
Những luận cứ đáp ứng như vậy thì không những sức thuyết phục mạnh mẽ, mà
còn có thể thuyết minh được bản chất của sự vật, có hiệu quả rất lớn.
Luận cứ được lựa chọn phải mới mẻ
Mới mẻ có hai hàm nghĩa: một là chỉ tư liệu mới, lí luận mới; một là chỉ
khai thác triệt để những luận cứ mà người khác chưa dùng tới. Luận cứ mới mẻ
không những mang lại sức sống mới cho bài văn mà việc vận dụng những tài
liệu mới này còn có thể thu được luận điểm mới. Muốn cho luận cứ mới mẻ,
58
ngoài việc phải mẫn cảm còn phải chăm chỉ thu thập, nắm bắt những cái mới
mẻ, tươi tắn đề làm cho bài viết được phong phú.
Luận cứ được lựa chọn phải đầy đủ, phong phú
Mục đích là chứng minh luận điểm từ các giác độ khác nhau, tầng bậc
khác nhau. Bởi vậy, cần phải thu thập luận cứ thật rộng rãi, càng nhiều càng tốt.
Điểm này cần hết sức chú ý với bài văn nghị luận dài.
Năm tiêu chuẩn chọn lựa nói trên, tiêu chuẩn thứ nhất chỉ về điều kiện tạo
thành luận cứ, tiêu chuẩn thứ hai chỉ về mức độ tin cậy của luận cứ, tiêu chuẩn
thứ ba chỉ về tính tiêu biểu của luận cứ, tiêu chuẩn thứ tư chỉ tính mới mẻ của
luận cứ, tiêu chuẩn thứ năm chỉ tính toàn diện của luận cứ. Hai tiêu chuẩn đầu
không thể thiếu, đó là cơ sở, còn ba tiêu chuẩn sau là sự điểm xuyết, có càng tốt.
Mối quan hệ giữa luận cứ và luận điểm rất khăng khít, chặt chẽ: luận điểm
được là nhờ vào luận cứ, còn luận cứ nêu ra là để phục vụ cho luận điểm. Trong
nội bộ các luận cứ, lí lẽ và dẫn chứng cũng soi sáng cho nhau. Lí lẽ tạo cho dẫn
chứng khả năng thuyết minh cho luận điểm, còn dẫn chứng thực tế lại làm cho lí
lẽ có nội dung, có sức nặng.
2.2.2.3. Cách trình bày luận cứ
Mục đích của luận cứ là nhằm chứng minh tính đúng đắn của luận điểm.
Về cơ bản, luận cứ lí lẽ và luận cứ dẫn chứng có quan hệ thống nhất. Tuy nhiên,
tính chất của hai luận cứ này có điểm khác nhau. Một bên dùng lí lẽ và các quy
luật logic để chứng minh. Một bên dùng số liệu, sự thật để chứng minh. Theo
đó, có ba cách trình bày luận cứ dựa vào tính chất của luận cứ lí lẽ và luận cứ
dẫn chứng.
Nêu lí lẽ trước dẫn chứng sau
Đây là cách trình bày luận cứ phổ biến. Mở đầu người viết nêu luận cứ lí
lẽ, sau đó mới đưa ra luận cứ dẫn chứng. Ban đầu nêu luận cứ ở tầm khái quát,
sau đó đưa ra luận cứ cụ thể để chứng minh. Cách trình bày luận cứ này thể hiện
quan hệ hô ứng giữa luận cứ lí lẽ và luận cứ dẫn chứng.
59
Nêu luận cứ dẫn chứng trước, luận cứ lí lẽ sau
Đầu tiên, người viết nêu ra các luận cứ dẫn chứng. Tiếp đó, nêu luận cứ
lí lẽ. Cách trình bày luận cứ này dựa trên quy luật nhận thức từ cụ thể đến trìu
tượng, từ cảm tính đến lí tính. Theo đó, luận cứ được trình bày một cách tự
nhiên, hợp lí.
Luận cứ lí lẽ và luận cứ dẫn chứng đan xen nhau
Trong một đoạn văn, người viết vừa sử dụng luận cứ lí lẽ vừa sử dụng
luận cứ dẫn chứng. Quan hệ giữa hai loại luận cứ là quan hệ tương hỗ. Luận cứ
lí lẽ được sáng tỏ thông qua luận cứ dẫn chứng và ngược lại, luận cứ dẫn chứng
chứng minh tính đúng đắn của luận cứ lí lẽ.
Cách trình bày của mỗi loại luận cứ có sự khác nhau rõ rệt. Luận cứ dẫn
chứng có bốn cách trình bày: dẫn nguyên cả câu, cả đoạn hoặc một văn bản
ngắn; trích một số từ; tóm lược nội dung chính và liệt kê số liệu. Luận cứ lí lẽ sử
dụng các thao tác nghị luận (giải thích, chứng minh, phân tích…) và quy luật
logic (quan hệ tương phản, nguyên nhân-kết quả, điều kiện- kết quả…). Dù trình
bày theo cách nào, cách luận cứ phải có sự kết hợp linh hoạt với nhau để tạo nên
tính hợp lí và hoàn chỉnh. Mỗi cách trình bày luận cứ đều thể hiện một ý thức tổ
chức, lựa chọn và sắp xếp của người viết. Trình bày luận cứ góp phần không
nhỏ vào việc thể hiện ý đồ lập luận trong VBNL.
2.2.3. Cách lập luận
2.2.3.1. Vai trò của lập luận
Một bài văn nghị luận phải hôi tụ đầy đủ ba yếu tố: luận điểm, luận cứ và
lập luận. Có luận điểm và luận cứ rồi còn phải biết làm sao cho luận cứ “nói lên”
luận điểm; làm sao cho lí lẽ và dẫn chứng thực tế phối hợp với nhau đểthuyết
minh luận điểm một cách mạnh mẽ, nổi bật, thuyết phục. Muốn vậy thì phải biết
cách lập luận. Ba yếu tố: luận điểm, luận cứ, lập luận gắn bó chặt chẽ với nhau.
Xét trên phương diện đặc trưng của VBNL, không có lập luận thì không thành
VBNL.
60
Lập luận tạo nên tính chặt chẽ cho bài văn nghị luận. Hai yếu tố luận điểm
luận cứ không thể tồn tại độc lập và tách biệt nhau mà luôn kết hợp để tạo thành
một hệ thống. Xoay quanh luận đề, người viết phải tìm ra các luận điểm để làm
sáng tỏ luận đề. Đến lượt mình, luận điểm phải được phân chia thành nhiều cấp
độ khác nhau. Luận điểm lớn (luận điểm chính) được làm rõ bởi các luận điểm
nhỏ (luận điểm mở rộng). Cứ như thế, việc sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo
một trình tự logic nhất định. Tuy nhiên nếu như chỉ dừng lại ở việc sắp xếp theo
một trình tự nhất định thôi thì chưa liên kết. Vậy nên lập luận ở đây đóng vai trò
là yếu tố liên kết luận điểm với luận cứ tạo nên sự thống nhất của văn bản. Nói
cách khác, lập luận là cách thức sắp xếp luận điểm, luận cứ sao cho việc diễn đạt
được chặt chẽ và thuyết phục.
Muốn viết được một bài văn nghị luận, người viết phải xây dựng được hệ
thống luận điểm. Và nhiệm vụ của lập luận là bảo vệ tính đúng đắn của luận
điểm. Theo một hình thức lập luận nhất định, người viết xuất phát từ luận cứ để
dẫn đến luận điểm. Như vậy để bảo vệ luận điểm, yêu cầu đầu tiên là phải có
luận cứ. Tuy nhiên, quan trọng hơn là cách nêu luận cứ như thế nào để luận
điểm được vững vàng và sáng tỏ. Luận cứ chính xác và cách sắp xếp, dẫn dắt
luận cứ hợp lý sẽ chứng minh tính đúng đắn của luận điểm.
2.2.3.2. Yêu cầu đối với lập luận
Lập luận phải đảm bảo tính logic
Logic của luận điểm thể hiện trong mối quan hệ giữa luận điểm và luận
cứ. Luận điểm là quan điểm, tư tưởng của người viết. Luận cứ là những lí lẽ và
dẫn chứng chứng minh cho luận điểm. Luận điểm và luận cứ phải có sự thống
nhất về mặt ý nghĩa. Mặt khác, lập luận là cách sắp xếp, tổ chức các luận điểm
để đưa đến luận điểm. Có nhiều cách sắp xếp khác nhau nhưng dù sử dụng cách
nào lập luận cũng cần phải logic. Có nghĩa là, trên cơ sở những phán đoán và
suy luận người viết đưa ra luận cứ để thuyết minh cho luận điểm. Suy cho cùng,
61
để đảm bảo tính logic của lập luận người viết phải dựa trên quy luật logic để tìm
ra hình thức lập luận thích hợp.
Lập luận đa chiều
Mỗi một vấn đề đặt ra để bàn bạc, nghị luận không phải lúc nào cũng đơn
giản, một chiều. Thông thường vấn đề nghị luận là những sự kiện, hiện tượng
đang được xã hội quan tâm, tranh luận. Đặc điểm của tranh luận là xem xét vấn
đề ở nhiều hướng nhiều chiều. Do đó, lập luận cũng phải đa dạng ở nhiều góc
nhìn.
Tính đa chiều của lập luận còn thể hiện ở việc sử dụng đa dạng các hình
thức lập luận. Để thu hút sự chú ý và thuyết phục người đọc, người viết không
chỉ sử dụng một hình thức lập luận cho cả bài nghị luận. Mỗi hình thức lập luận
có một sức mạnh thuyết phục riêng. Mỗi một luận điểm lại cần có một hình thức
lập luận phù hợp. Do đó, cần sự cân nhắc, chọn lọc và sử dụng hình thức lập
luận phù hợp với luận điểm.
2.2.3.3. Các cách lập luận
Phương pháp lập luận là sự phối hợp, tổ chức các lí lẽ và dẫn chứng để
thuyết minh cho luận điểm. Thực chất của phương pháp lập luận, là cách đưa
luận cứ vào quỹ đạo logic để tạo thành sức thuyết phục cho luận điểm.
Lập luận diễn dịch
Diễn dịch là cách lập luận từ một chân lý chung, quy luật chung mà suy ra
các hệ luận, các biểu hiện cụ thể. Nói cách khác, đây là thao tác đi từ cái chung
đến cái riêng; từ cái toàn thể đến cái bộ phận; từ khái quát đến đơn lẻ.
Ví dụ: “Đau thương bao giờ cũng là nguồn cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa
lớn lao của văn học nghệ thuật. Nguyễn Du, Tolstoi, Lỗ Tấn… đã trở thành
những nghệ sĩ lớn trước hết là vì hơn bất cứ ai họ đã thông cảm sâu sắc và đau
đớn da diết những nỗi đau nhân tình trong thời đại họ.”[22, tr.15].
Nhận xét: Trong đoạn văn trên, người viết đã đi từ nguyên lý phổ biến:
Bao giờ cũng là…
62
Ở câu thứ hai là nhận định mới về các nhà văn cụ thể được suy ra từ câu
thứ nhất (trước hết…)
Lập luận quy nạp
Ngược lại với lập luận diễn dịch, lập luận quy nạp bắt đầu từ vấn đề riêng
lẻ để đi đến một vấn đề có tính khái quát. Đây là thao tác đi từ cái chung, cái bộ
phận đến toàn thể; từ đơn lẻ đến khái quát.
Ví dụ:
Bộ Sử kí Tư Mã Thiên mà các nhà Nho vẫn công nhận làm mẫu văn
hay kia, nếu không phát sinh từ trong buồng gan uất ức của ông “Thái
sử” thì ở đâu ra? Gần chúng ta hơn là các nhà tiền bối như Nguyễn
Du, Cao Bá Nhạ, Nguyễn Công Trứ, Yên Đổ, Tú Xương, Phan Sào
Nam, Nguyễn Khắc Hiếu cũng vậy. Những câu văn mà hiện còn
truyền tụng cũng đều biểu hiện những buồng tim đã chán chê với thế
cuộc nhân tình. Không có một khối óc sôi nổi, không có một thế giới
quan, một nhân sinh quan động thì không thể sản sinh ra được một
áng danh văn[22,tr.16].
Ở đoạn văn trên, tác giả lấy dẫn chứng từ xa (thực tiễn văn học Trung
Quốc) đến gần (thực tiễn văn học Việt Nam). Sau đó, đi đến một khái quát
chung: Văn hay luôn phát sinh từ tâm hồn và khối óc con người.
Lập luận tổng-phân-hợp (phối hợp diễn dịch với quy nạp)
Quy nạp và diễn dịch có quan hệ chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau
là hai mặt của cùng một phép biện chứng, là hai nhân tố của phương pháp nhận
thức biện chứng thống nhất. Diễn dịch bao giờ cũng giả định, trước đó phải có
quy nạp. Ngược lại phép quy nạp lại cần được kiểm nghiệm bằng phương pháp
diễn dịch.
Trong thực tế lập luận, người ta thường vận dụng kết hợp hai thao tác lập
luận này với nhau để đẩy nhận thức thêm cao, thêm sâu. Chẳng hạn, phần đầu
đoạn văn viết theo trật tự diễn dịch, nêu lên một luận cứ rồi triển khai một luận
63
cứ đó bằng những luận chứng. Ở phần cuối các luận chứng được tổng hợp lại
hay kết thúc sự triển khai ý khái quát ban đầu bằng một kết luận có ý nghĩa quy
nạp. Kết luận này củng cố ý khái quát ban đầu bằng một bước khái quát mới, dọi
một ánh sáng mới với tầm nhìn cao hơn.
Cách lập luận như trên tương ứng với quá trình tổng-phân-hợp, tức là sự
kết hợp hình thức tổng hợp và phân tích. Thoạt đầu, nêu vấn đề có tính chất tổng
hợp, khái quát (tổng), tiếp theo phân tích hoặc chứng minh bằng những luận
chứng, cụ thể (phân), cuối cùng lại tổng hợp, khái quát, nâng cao hoặc mở rộng
vấn đề (hợp).
Ví dụ:
Đồng bào ta ngày nay cũng xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước(1). Từ
các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở
nước ngoài đến những đồng bào ở những vùng tạm chiến, từ nhân dân
miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét
giặc(2). Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám
sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương
nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng
quân mà mình thì xung phong đi giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ
chiến sĩ chăm sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình(3). Từ
những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất,
không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến
những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ…(4)Những
cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau
nơi nồng nàn yêu nước(5)[25].
Ở đoạn văn trên, tác giả đã lập luận theo hình thức tổng-phân-hợp. Với 5
câu được liên kết với nhau rất chặt chẽ, mạch lạc. Câu 1 vừa nêu được ý khái
quát cho cả đoạn vừa có tác dụng chuyển ý, chuyển đoạn rất khéo léo. Ba câu
tiếp theo khá dài làm nhiệm vụ đưa ra những dẫn chứng để chứng minh cho ý
64
khái quát ở câu thứ nhất. Cách nêu dẫn chứng theo: Lứa tuổi (cụ già tóc bạc- nhi
đồng trẻ thơ); không gian (trong nước, ngoài nước, kiều bào nước ngoài, đồng
bào vùng tạm chiếm…); nhiệm vụ- công việc (chiến đấu- sản xuất); con người
(bộ đội, công nhân, nông dân, phụ nữ…); việc làm thể hiện lòng yêu nước (chịu
đói, diệt giặc, sản xuất…). Từ những chứng cứ cụ thể này, câu thứ 5 đúc kết
thành một nhận định mới phù hợp với nhận định ban đầu nhưng được nâng cao
hơn. Đó là mô hình tổng - phân - hợp.
Mô hình này cũng thường là mô hình kết cấu của toàn bài văn nghị luận.
Lập luận so sánh
So sánh là đối chiếu (đối sánh) một cách tường minh các đối tượng, các
sự kiện, các vấn đề để phát hiện ra những nét giống nhau hay khác nhau giữa
chúng nhằm làm nổi bật điều mình phát biểu, đi đến khẳng định, bênh vực, đề
cao hay bác bỏ, phủ nhận, hạ thấp một vấn đề nào đó.
Thực chất của so sánh là phân tích hai đối tượng, hai vấn đề trên cơ sở sự
giống nhau hay khác nhau giữa chúng, để làm cho ý nghĩa của chúng rõ ràng
hơn. Đây là thao tác thúc đẩy quá trình vận động của tư duy để tìm tòi cái mới.
Có hai loại so sánh: so sánh tương đồng và so sánh tương phản.
+ So sánh tương đồng là từ một chân lí đã biết để suy ra một chân lí tương tự,
có chung một logic bên trong. Trong so sánh tương đồng không có sự đối lập
giữa các ý, trái lại các ý nâng đỡ nhau, thuyết minh và làm rõ nghĩa cho nhau.
Ví dụ: “Nếu ví dư luận của giới văn học như một dòng nước thì Vũ Trọng
Phụng như một vật nổi trong dòng nước xoáy của nó. Vật nổi này cứ trôi nổi
dập dềnh, có khi chìm sâu xuống tưởng chừng đã mất tăm, ấy thế mà cuối cùng
lại hiện lên, từ tốn, lặng lẽ theo đúng quy luật Acsimét”[22,tr.16].
+ So sánh tương phản còn gọi là phương pháp đối lập là đối chiếu các mặt
trắng-đen, phải-trái, cũ-mới, tốt-xấu… tức các mặt đối lập nhau để làm nổi bật
luận điểm.
Ví dụ:
65
Các cụ ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt…Các
cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà lúc
đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn ngây thơ, các cụ coi như làm một
việc tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh.
Cái tình ái của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân nhưng đối với ta thì trăm
hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần
gũi, cái tình xa xôi…, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…
[18,tr.22].
Lập luận theo quan hệ nhân quả
Nhân quả là nêu ra nguyên nhân của một sự việc, hiện tượng…và trình bày
kết quả của nó, hoặc ngược lại (kết quả- nguyên nhân)
Ví dụ:
Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở đó, nhưng dân chúng không chịu nhận ra
cái tình thế đau đớn ấy, và cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta. Vì thế
mới có đoạn thứ hai, kể chuyện nàng Trương xuống thủy cung và sau
còn gặp mặt chồng một lần nữa [22,tr.18].
Trong đoạn văn trên, được trình bày theo quan hệ nhân quả.
Nguyên nhân được thể hiện bằng câu: dân chúng không chịu nhận ra cái
tình thế đau đớn ấy.
Kết quả được diễn đạt bằng câu: mới có đoạn thứ hai, kể chuyện nàng
Trương xuống thủy cung và sau còn gặp mặt chồng một lần nữa.
Lập luận giả thiết
Phương pháp giả thiết là phương pháp nêu ra một luận điểm giả định và
phát triển nó. Cho đến tận cùng để chứng tỏ đó là luận điểm sai và từ đó khẳng
định luận điểm của mình. Đó là cách lật ngược vấn đề để xem xét.
Ví dụ:
Giả sử, nếu không có Thơ mới thì sau cách mạng tháng Tám tình hình
thơ ca sẽ như thế nào? Chắc chắn là từ các thể thơ cũ : bát cú, tuyệt
66
cú, cổ phong mà nhảy vọt lên để sớm có thành tựu của Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu…trong kháng chiến lần thứ nhất, là
chuyện khó quan niệm nổi. Lịch sử là sợi dây chuyền mà mỗi khâu
trong đó đều có vai trò trong quá trình phát triển [22,tr.17].
Quy trình lập luận
Gồm có năm bước:
Văn nghị luận không chỉ cần có ý mà còn phải có lí, vì đích của văn nghị
luận là thuyết phục. Kết hợp chặt chẽ giữa ý và lí là đặc trưng nổi bật của văn
nghị luận. Ý là nội dung bao gồm hệ thống ý: ý lớn, ý nhỏ và các ý nhỏ hơn. Lí
là cái cốt lõi logic của nội dung, nền tảng của sức thuyết phục nội dung. Đề bài
văn đảm bảo tính có lí, cần thiết phải lập luận. Lập luận là đưa ra các lý lẽ và
dẫn chứng nhằm hướng người đọc đến kết luận mà người viết cho là đúng đắn.
Muốn lập luận người viết phải có kết luận, luận cứ và biết cách luận chứng thích
hợp. Dưới đây là năm bước trong quy trình lập luận:
B1:Xác định luận điểm (kết luận) cho lập luận.
B2: Xây dựng luận cứ cho lập luận.
B3: Lựa chọn các phương tiện liên kết trong lập luận.
B4: Lựa chon cách triển khai thành đoạn.
B5: Kiểm tra tính hợp lý của lập luận và chỉnh sửa.
Tiểu kết chương 2
Ở chương 2, luận văn đã giải quyết được những vấn đề cơ bản về việc rèn
luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị luận cho HS lớp 11 THPT. Để viết được
một bài văn nghị luận hoàn chỉnh và có giá trị HS cần được rèn luyện những kỹ
năng như: sử dụng ngôn ngữ nghị luận, biết cách xây dựng đoạn văn theo kết
cấu của bài và đặc biệt là phải biết xây dựng hệ thống lập luận. Kỹ năng lập luận
thể hiện cách tư duy, bộc lộ quan điểm, thái độ của người viết. Quá trình tạo lập
VBNL, người học cần vận dụng linh hoạt, kết hợp chặt chẽ các kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ và cách thức lập luận một cách hiệu quả.
67
Chương 3. THIẾT KẾ VÀ THỰC NGHIỆM DẠY HỌC CÁC
THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
3.1.Thiết kế các bài học về thao tác lập luận
Thiết kế bài học là thiết kế hệ thống các hoạt động dạy và học của giáo viên
và học sinh nhằm hoàn thành nhiệm vụ của bài học. Bản thiết kế bài học là kết
hợp những yếu tố cụ thể bao quát đủ những yếu tố cơ bản và xác lập được
những liên hệ cần thiết, hợp lý giữa các yếu tố này.
Thiết kế cơ bản của bài học bao gồm thiết kế mục tiêu học tập, nội dung
học tập, các hoạt động học tập, các phương tiện giảng dạy và học tập, đánh giá,
tổng kết bổ sung. Tất cả những thiết kế đòi hỏi phải có những kỹ năng nhất định
và quy trình rõ ràng để tiến hành trên lớp.
Thiết kế hoạt động học tập là hoạch định những hoạt động cụ thể mà người
dạy và người học cần làm để đạt được mục tiêu bài học. Khi thiết kế hoạt động
dạy và học thì trọng tâm, điểm xuất phát là hoạt động của người học. Từ hoạt
động của người học mới dự kiến cách thức hoạt động của người dạy, tức là lựa
chọn phương pháp dạy học và thiết kế phương pháp dạy học cụ thể, định hướng
trước “học sinh cần phải làm gì?” để đạt được mục tiêu bài học. Thiết kế hoạt
động học là tổ chức cho học sinh cho học sinh có khả năng tích cực, chủ động
điều kiển hoạt động nhận thức, tập trung vào những vấn đề mà người học cần và
yêu thích trong quá trình tiếp nhận kiến thức. Đồng thời, hoạt động cũng tạo môi
trường thuận lợi cho người tiếp nhận và tìm tòi khám phá kiến thức. Cơ cấu
chung của hoạt động của người học là tìm tòi, phát hiện lượng kiến thức không
chỉ ở sách giáo khoa mà còn ở nhiều nguồn khác như: Sách tham khảo,
Internet…Tiếp theo hoạt động tìm tòi, phát hiện là xử lý, biến đổi và phát triển
sự kiện, biến đổi thông tin, dữ liệu để từ đó thu thập những đơn vị kiến thức của
riêng mình. Như vậy hoạt động này giúp phát triển kỹ năng trí tuệ và kỹ năng
68
học tập, nâng cao kiến thức cơ bản, phát triển kỹ năng vận dụng ghi nhớ, tái hiện
và sáng tạo.
+Những yêu cầu của một bản thiết kế bài học.
- Đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của bài học.
Mỗi giờ dạy học theo phân phối chương trình đều phải đảm bảo trình độ
học vấn nhất định. Mỗi bản thiết kế đều phải đảm bảo tính chất toàn vẹn của bài
học. Học sinh nắm vững tri thức cơ bản, phù hợp với thực tiễn. Đồng thời mỗi
giờ học cũng phải rèn luyện cho học sinh hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.
Tổ chức, điều hành học sinh hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ,
đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, cơ sở để hình thành thế giới quan
khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và việc hình thành nhân cách nói
chung.
3.1.1.Thao tác lập luận phân tích
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
Nắm được khái niệm, mục đích yêu cầu và cách thức tiến hành thao tác
lập luận phân tích trong bài văn nghị luận.
2.Kỹ năng
Rèn kỹ năng vận dụng thao tác lập luận phân tích để phân tích một vấn đề
xã hội hoặc văn học.
Góp phần hình thành thói quen phân tích và lập luận phân tích trong khi
viết một bài văn nghị luận ở nhà trường và trong các hoạt động nghị luận mà các
em còn phải tiến hành sau khi ra trường.
II. Phương pháp và phương tiện dạy học
1. Phương pháp
GV dùng phương pháp thuyết trình để làm sáng tỏ khái niệm (phân
tích, lập luận phân tích) kết hợp với phương pháp nêu vấn đề, thảo
luận nhóm.
69
GV dùng phương pháp phân tích mẫu để rút ra những yêu cầu của bài
học.
2. Phương tiện
SGK, SGV, thiết kế bài học, giấy, viết chuẩn bị cho hoạt động thảo
luận nhóm.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
Hoạt động của GV Hoạt động của HS Kiến thức cần đạt.
Hoạt động 1: GV giới
thiệu bài: Phân tích là I. Mục đích, yêu cầu của
công việc mà các em thao tác lập luận phân tích.
thường xuyên gặp trong 1. Phân tích ngữ liệu SGK.
học tập và trong cuộc 1.1 Khái niệm:
Phân tích là phân chia đối sống: phân tích đề bài,
tượng (vấn đề) sự vật, hiện phân tích phải trái, phân
tích tốt xấu, phân tích tác tượng ra thành các phần, các
yếu tố để đi sâu xem xét một phẩm văn học, phân tích
cách cặn kẽ, chi tiết nội dung hiện tượng xã hội.
Hoạt động 2:Tìm hiểu bài. và mối quan hệ bên trong
cũng như bên ngoài của Cho HS đọc đoạn trích ở
HS thảo luận và trả chúng để nhận thức đối mục I SGK và nêu câu
lời. tượng một cách đúng đắn, hỏi: Trong đoạn trích này
sâu sắc hơn. tác giả có làm công việc Cụ thể: HS cần tìm
hiểu: Trong đoạn phân tích không? Vì sao?
Chia lớp thành 4 nhóm để văn tác giả nêu lên
thảo luận. vấn đề gì ?(luận Qua đoạn văn ta thấy:
điểm) +Tác giả đã nêu vấn đề (luận Thời gian thảo luận: 5
điểm): Sự bẩn thỉu, ti tiện, tồi phút.
70
Mỗi nhóm cử thư ký, tệ của Sở Khanh.
trưởng nhóm. +Tác giả đã chia nhỏ đối
Trình bày, nhận xét, đánh tượng thành nhiều phần,
giá. Tác giả đã đưa ra nhiều yếu tố để xem xét
những căn cứ nào (những luận cứ)
để làm rõ luận -Sở Khanh thuộc vào số
điểm? những kẻ đã sống bằng nghề
bám vào nhà chứa. HS trình bày kết
- Sở Khanh tồi tệ ở sự giả quả thảo luận. Các
dối, đội lốt nhà nho, hiệp nhóm còn lại chú ý
khách để lừa gạt lắng nghe, nhận
- Hắn lừa gạt Thúy Kiều- xét, bổ sung.
một người con gái hiếu thảo,
hết lòng tin tưởng hắn.
- Sở Khanh lừa Kiều để nàng
bị bán vào lầu xanh.
- Hắn còn dẫn mặt tới để
mắng Kiều và còn định đánh
nàng.
→Từ đó tác giả có đủ căn cứ
để đi đến nhận định: Sở
GV phát vấn: Trình bày Khanh thể hiện “mức cao
mục đích yêu cầu của thao nhất của tình hình đồi bại
tác lập luận phân tích. trong xã hội phong kiến”.
Đó chính là tác giả đang làm
thao tác phân tích.
71
2.1 Mục đích, yêu cầu
- Mục đích:
Làm rõ đặc điểm về nội
dung và hình thức, cấu trúc
và các mối quan hệ bên trong
và bên ngoài của đối tượng.
- Yêu cầu:
Hoạt động 3: Tìm hiểu Phân tích cần đi sâu vào
cách lập luận phân tích. từng yếu tố, từng khía cạnh
Thực hiện kỹ thuật mảnh song phải lưu ý đến quan hệ
ghép. giữa chúng với nhau trong
Thành lập nhóm chuyên một chỉnh thể toàn vẹn,
thống nhất. gia. Chia lớp thành 6 Nhóm chuyên gia
nhóm và tiến hành thảo 1,2,3 tìm hiểu ngữ Phân tích bao giờ cũng gắn
luận. liệu số (1). Nhóm liền với tổng hợp. Đó là bản
Nhóm mảnh ghép: chia lại 4,5,6 tìm hiểu ngữ chất của thao tác lập luận
liệu số (2). phân tích trong văn nghị 6 nhóm sao cho mỗi nhóm
luận. đều có chuyên gia đã được -Thành viên của
thảo luận bài tập 1, 2. nhóm mảnh ghép II. Cách phân tích.
Sau đó tiếp tục thực hiện trao đổi thông tin 1.Phân tích ngữ liệu SGK.
hình thức khăn phủ bàn đã thảo luận Ngữ liệu 1
(GV cho HS thực hiện -Từng nhóm trình Ngữ liệu 2
theo Phiếu học tập –Phụ bày kết quả thảo
lục 2) để tìm hiểu các luận trước lớp.
bước tiến hành lập luận
phân tích.
GV phát vấn: Tác giả đã
72
xây dựng lập luận phân
tích theo những quy trình
nào? Và bằng những thao
tác cụ thể nào?
HS làm việc theo
GV chốt ý: Không thể coi nhóm 4. Cử đại
mục đích cuối cùng của diện trình bày. Các
theo lập luận phân tích là cho nhóm khác 2. Cách phân tích.
luận điểm được tách nhỏ dõi , bổ sung. 2.1.Xây dựng lập luận phân
ra mà cuối cùng phải tổng tích.
hợp lại để đưa ra nhận xét Xác lập luận điểm, sau đó
sâu sắc mới mẻ hơn. Bởi dùng thao tác phân tích để
vì trong phân tích có tổng chia nhỏ luận điểm thành các
mặt, các bộ phận các khía hợp, trong tổng hợp có
phân tích. Phân tích và cạnh
tổng hợp xuyên suốt cả Mỗi lần phân chia chỉ dùng
quá trình tư duy. một căn cứ thống nhất. Căn
cứ đó phải giúp người đọc
GV nêu khái quát một vài nhận rõ bản chất, các quan
phương pháp phổ biến. hệ cơ bản của vấn đề.
Sau khi chia nhỏ luận điểm
để xem xét kỹ càng, cần phải
tổng hợp những điều đã phân
tích lại để đưa ra một ý kiến
chung sâu sắc, mới mẻ với
73
nhận xét ban đầu.
2.2.Phương pháp phân tích.
Phân tích trong quá trình
phát triển của sự vật.
Đây là phương pháp phân
chia quá trình lịch sử phát
triển theo chiều dọc của sự
vật thành nhiều giai đoạn,
nhiều bộ phận để từ đó lần
lượt nhận thức, phân biệt và
quan sát.
- Ví dụ: Từ thấp-cao, quá
khứ-hiện tại, hiện tại-tương
lai, nguyên nhân-kết quả,
khẳng định-phủ định…
Phân tích từ bản thân sự
vật hoặc mối liên hệ xung
quanh nó.
Đây là phương pháp phân
chia bản thân sự vật thành
nhiều bộ phận để khảo sát,
cũng bao gồm liên hệ sự vật
này với sự vật khác rồi phân
chia thành nhiều mặt để nhận
thức, từ đó dễ dàng tìm kiếm GV quan sát học sinh làm
việc. Nhận xét kết quả, mối liên hệ bên trong và bên
74
đánh giá bổ sung. ngoài của sự vật.
- Ví dụ: Bộ phận-chỉnh thể,
thành tích-khuyết điểm,mặt
trái-mặt phải, nội dung-hình
thức, giống nhau-khác nhau,
tiên tiến-lạc hậu.
Mỗi HS làm việc Phương pháp phân tích
độc lập tìm hiểu sự vật từ ngoài vào trong
các cách thực hiện Là phương pháp phân chia
lập luận phân tích. từng lớp, quan sát từng lớp
Sau đó trao đổi với để dần dần nhận thức sự vật
bạn bên cạnh theo hoặc vấn đề từ ngoài vào
hình thức nhóm trong, từ bề mặt vào trung
phỏng vấn. tâm nhằm phát hiện bản chất
của nó.
HS trình bày bài III.Luyện tập.
tập trên bảng. 1.Bài tập 1:Các mối quan hệ
Các HS khác cùng làm cơ sở để phân tích
với GV nhận xét, a.Quan hệ nội bộ của đối
bổ sung. tượng(diễn biến, các cung
bậc tâm trạng của Thúy
Kiều): đau xót, quẩn quanh,
hoàn toàn bế tắc.
b. Quan hệ giữa đối tượng
này với đối tượng khác có
liên quan:
Bài thơ “Lời kỹ nữ” của
75
Xuân Diệu với bài “Tỳ bà
hành” của Bạch Cư Dị.
2.Bài tập 2:
- Nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc:
văng vẳng, trơ, cái hồng
nhan, xiên ngang, đâm toạc,
tí con con.
- Nghệ thuật sử dụng từ trái
nghĩa: say-tỉnh, khuyết-tròn,
đi-lại.
- Nghệ thuật sử dụng phép
lặp: xuân
- Phép đảo trật tự cú pháp:
câu 5,6.
IV. Củng cố- dặn dò.
Nhắc lại cách thực hiện thao tác lập luận phân tích.
Lập dàn ý, viết đoạn văn phân tích phát biểu cho ý kiến sau: “Nguyễn Du
có làng thương xót đối với những nỗi lầm than, đau khổ của con người.”
76
3.1.2. Thao tác lập luận so sánh
THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH
I.Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
- Nắm được yêu cầu, mục đích, vai trò của thao tác lập luận so sánh và
cách xây dựng lập luận so sánh.
- HS xác định được yêu cầu và phân biệt một số cách trong văn nghị luận.
2. Kỹ năng
HS biết vận dụng những kiến thức đã học vào việc xây dựng lập luận so
sánh khi viết một đoạn hay một bài văn nghị luận
II.Phương pháp và phương tiện dạy học
1. Phương pháp
Dùng phương pháp phân tích mẫu kết hợp với gợi tìm, nêu vấn đề, cho
HS trao đổi thảo luận, kỹ thuật khăn phủ bàn.
2. Phương tiện
SGK, SGV.
Dụng cụ thảo luận nhóm: bút lông, bảng phụ.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC.
Hoạt động của GV Hoạt động của HS Kiến thức cần đạt
Hoạt động 1:GV giới I. Mục đích, yêu cầu của
thiệu bài. thao tác lập luận so sánh.
Hoạt động 2:Tìm HS đọc các đoạn 1. Tìm hiểu ngữ liệu.
hiểu mục đích yêu cầu văn trong SGK. a. Đối tượng so sánh và đối
của thao tác lập luận tượng được so sánh.
so sánh. - Đối tượng được so sánh: là
Áp dụng kỹ thuật bài “Văn chiêu hồn”
77
khăn phủ bàn. - Đối tượng so sánh: Chinh
Chia lớp thành 8 phụ ngâm, Cung oán ngâm,
nhóm (mỗi nhóm 5 Truyện Kiều.
em) HS thảo luận để tìm b. Điểm giống và khác nhau.
Thời gian thảo luận:5 ra câu trả lời, ghi ra - Giống nhau: Đều bàn về
phút. bảng phụ, trình bày, con người, cùng thể hiện
Nội dung thảo luận: các nhóm còn lại lòng yêu thương con người.
-Tìm đối tượng được - Khác nhau: Chỉ riêng “Văn theo dõi, nhận xét,
so sánh và đối tượng chiêu hồn” là bàn về con bổ sung.
so sánh trong đoạn người ở cõi chết.
văn? c. Mục đích so sánh:
-Tác giả đã chỉ ra Tìm ra những nét giống và
điểm giống và khác những nét khác nhau giữa
nhau của các đối “Văn chiêu hồn” với các tác
phẩm được đưa ra làm đối tượng đó như thế nào?
-Nêu tác dụng của tượng so sánh.
việc so sánh đó?
GV phát vấn:
-Thế nào là lập luận 2.Khái niệm, mục đích, yêu
so sánh? cầu của thao tác lập luận so
-Mục đích của thao sánh.
tác so sánh là gì? Khái niệm: Lập luận so
Tìm hiểu SGK. -Hãy cho biết yêu cầu sánh là một kiểu lập luận
Trả lời chất vấn của của thao tác lập luận nhằm làm rõ một ý kiến, một
GV. so sánh? kết luận về một hiện tượng
HS đọc ghi nhớ hoặc một vấn đề bằng cách
SGK. dùng thao tác so sánh để xem
78
xét lại một cách tường tận,
kỹ lưỡng những điểm chung
và riêng, giống và khác so
với các hiện tượng, vấn đề có
liên quan được đem ra so
sánh.
Mục đích: So sánh làm rõ
đối tượng đang nghiên cứu
trong tương quan với đối
tượng khác. So sánh đúng
làm cho bài văn nghị luận
sáng rõ, cụ thể, sinh động và
có sức thuyết phục.
Yêu cầu:
- Phải đặt đối tượng vào cùng
một bình diện, đánh giá trên
cùng một tiêu chí mới thấy
được sự giống và khác nhau
giữa chúng.
- So sánh phải hướng tới một
mục đích cụ thể, phải thể
hiện rõ một ý kiến, quan
điểm của người nói (viết).
Hoạt động 3: Tìm II. Cách so sánh.
hiểu cách so sánh. 1.Tìm hiểu ngữ liệu.
Áp dụng kỹ thuật - Nguyễn Tuân đã so sánh
khăn phủ bàn. Trước hết HS làm quan niệm của Ngô Tất Tố
79
Chia lớp thành 8 việc độc lập sau đó với quan niệm của hai loại
nhóm (mỗi nhóm 5 thảo luận trong người:
em) nhóm. + Loại người theo chủ trương
cải lương hương ẩm : họ cho Thời gian thảo luận:5 Thư ký nhóm ghi
rằng chỉ cần cải cách những phút. lại kết quả làm việc
hủ tục thì đời sống của nông Nội dung thảo luận: của nhóm và cử đại
dân được nâng cao. -Nguyễn Tuân đã so diện trình bày trước
+ Loại người hoài cổ: họ cho sánh quan niệm “soi lớp. Các nhóm khác
rằng chỉ cần trở về cuộc sống đường” của Ngô Tất theo dõi, nhận xét
thuần phác ngày xưa thì đời và bổ sung. Tố với quan niệm “soi
sống nông dân được cải đường” của ai?
thiện. -Những quan niệm
- Mục đích so sánh. Chỉ ra “soi đường” thể hiện
cái ảo tưởng về suy nghĩ của như thế nào?
hai loại người trên. Nguyễn -Sau khi so sánh đoạn
Tuân đã làm nổi bật cái đúng văn làm nổi bật ý
trong suy nghĩ của Ngô Tất nghĩa gì?
Tố: người nông dân phải GV quan sát HS thảo
đứng lên chống lại kẻ bóc lột luận.
áp bức mình.Đây là sự so Và tổ chức cho HS
sánh khác nhau. trình bày kết quả thảo
2. Các cách so sánh. luận.
Nhận xét, đánh giá. Có hai cách so sánh: so sánh
tương đồng và so sánh tương
phản. Rút ra kết luận về
- So sánh tương đồng là từ các bước thực hiện
một chân lý đã biết để suy ra thao tác lập luận so
80
sánh. một chân lý tương tự, có
chung một logic bên trong.
So sánh này nhằm mục đích
chỉ ra những nét giống nhau.
- So sánh tương phản: là đối
chiếu các mặt trái ngược
nhau để làm nổi bật luận
điểm.
3. Các bước thực hiện thao
tác lập luận so sánh.
B1: Xác định đối tượng so
sánh và đối tượng được so
sánh.
Hoạt động 4: HS B2: Xác định tiêu chí so
thực hành làm bài tập. sánh.
B3: Xác định mục đích so
sánh.
B4: Lựa chọn cách so sánh.
III.Luyện tập.
HS làm bài tập độc Bài tập
lập. 1. Tác giả so sánh Bắc- Nam
Đọc đoạn trích về các phương diện: Văn
Suy nghĩ là làm bài hóa-phong tục, Địa lý, lịch
tập theo yêu cầu sử, Hào kiệt, hiền tài.
của GV. 2. Điểm khác nhau của hai
nước:
-Văn hóa- phong tục
81
- Địa lý, lịch sử
- Hào kiệt, hiền tài.
3. Mục đích của việc so sánh:
Khẳng định mạnh mẽ, hùng
hồn về vị trí, tư thế của nước
ta đứng ngang bằng, hiên
ngang bên cạnh Trung Hoa.
IV. Củng cố- dặn dò
Nhắc lại cách thực hiện thao tác lập luận so sánh.
HS về nhà thực hành viết một đoạn văn ngắn từ 5- 10 câu có thực hiện
thao tác lập luận so sánh.
3.1.3. Thao tác lập luận bác bỏ
THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ
I.Mục tiêu bài học
1.Kiến thức
- Hiểu được thể nào lầ lập luận bác bỏ, cách lập luận bác bỏ, vai trò của
thao tác này trong việc làm văn nghị luận .
-HS xác định được các bước thực hiện việc bác bỏ một ý kiến một quan
niệm sai lầm.
2. Kỹ năng
Vận dụng vào việc xây dựng lập luận so sánh trong việc viết bài văn nghị
luận cũng như trông cuộc sống.
3. Thái độ
Có ý thức sử dụng thao tác lập luận bác bỏ để đấu tranh chống lại cái sai,
bảo vệ cái đúng trong khoa học cũng như trong cuộc sống.
82
II. Phương pháp và phương tiện dạy học
1. Phương pháp: Thảo luận, kỹ thuật khăn phủ bàn, KWL, mảnh
ghép.
Diễn giảng, phát vấn.
2. Phương tiện:
SGK, SGV, thiết kế bài giảng.
Dụng cụ thảo luận (bảng phụ, viết lông, phiếu học tập…)
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
Hoạt động của GV Hoạt động của Kiến thức cần đạt
HS
Hoạt động 1: Tìm hiểu I.Khái niệm, mục đích, yêu
khái niệm, mục đích, cầu của thao tác lập luận
yêu cầu của thao tác bác bỏ
lập luận bác bỏ. 1. Khái niệm
GV phát vấn: Bác bỏ: là bác đi, gạt đi,
HS đọc SGK và -Thế nào là bác bỏ? không chấp nhận một ý kiến
trả lời lần lượt các -Thế nào là thao tác lập hay một vấn đề nào đó.
luận bác bỏ? Thao tác lập luận bác bỏ là câu hỏi của GV,
- Nêu mục đích của lập dùng lý lẽ và dẫn chứng đúng HS khác theo dõi,
luận bác bỏ? đắn, khoa học để chỉ rõ nhận xét và bổ
-Những yêu cầu của lập những sai lầm, lệch lạc thiếu sung.
luận bác bỏ? khoa học của một quan điểm,
một ý kiến nào đó.
2.Mục đích
Gạt bỏ những quan điểm, ý
83
kiến sai lệch hoặc thiếu chính
xác, bằng lí lẽ và dẫn chứng
để từ đó nêu lên ý kiến đúng
của mình nhằm thuyết phục
người đọc (nghe).
3.Yêu cầu
- Chỉ ra được cái sai hiển
nhiên của chủ thể phát ngôn.
- Dùng lí lẽ và dẫn chứng
khách quan, trung thực để
bác bỏ ý kiến, nhận định sai
trái.
- Thái độ thẳng thắn, có văn
hóa tranh luận và có sự tôn
trọng người đối thoại. Hoạt động 2:Tìm hiểu
cách lập luận bác bỏ ở II. Cách bác bỏ
những đoạn văn trong 1. Phân tích ngữ liệu
Từng HS trong SGK. Đoạn a:
Sử dụng kỹ thuật khăn mối nhóm tự suy - Ông Đinh Gia Trinh bác bỏ
phủ bàn. nghĩ, làm bài theo ý kiến của Nguyễn Bách
Sử dụng phiếu học tập. sự phân công của Khoa.
(phụ lục 2) nhóm trưởng và - Luận điểm bị bác bỏ:
Chia lớp thành 6 nhóm điền vào phiếu học “Nguyễn Du là một con
(mỗi nhóm 7 HS) bệnh thần kinh”. Chỉ ra tập.
Phân công nhiệm vụ: Sau đó nhóm tiến những lập luận thiếu tính
khoa học, suy diễn chủ quan Nhóm 1,2 tìm hiểu đoạn hành thảo luận với
của Nguyễn Bách Khoa. văn a, nhóm 3,4 tìm hiểu nhau, thư ký nhóm
84
đoạn b, Nhóm 5,6 tìm ghi lại. - Luận cứ bị bác bỏ: sự suy
hiểu đoạn c. Câu hỏi thảo luận: diễn vô căn cứ của Nguyễn
GV quan sát, hướng dẫn -Luận điểm nào bị Bách Khoa khi giảng giải,
bác bỏ? Bác bỏ phân tích lời nói và những các nhóm thảo luận tìm
bằng cách nào? câu thơ của Nguyễn Du hiểu các đoạn văn mẫu
-Luận cứ nào bị - Nghệ thuật bác bỏ: theo hệ thống câu hỏi
+ Cách diễn đạt: phối hợp bác bỏ? Cách bác trong SGK.
bỏ ra sao? câu tường thuật, cảm thán,
-Nêu cách bác bỏ câu hỏi tu từ…
+ Cách so sánh với thi sĩ trong đoạn văn?
nước ngoài từng có trí tưởng Hãy phân tích?
Hết thời gian thảo tượng kỳ dị, tương tự như trí
tưởng tượng của Nguyễn Du. luận các nhóm
Bác bỏ thành công. trình bày sản phẩm
của mình. Đoạn b:
HS nhận xét, đánh - Luận điểm bị bác bỏ:
giá, bổ sung kết “…tiếng nước mình nghèo
quả thảo luận. nàn”.
- Nghệ thuật bác bỏ:
+ Tác giả trực tiếp phê phán
“ Lời trách cứ này không có
cơ sở nào cả”
+ Phân tích lí lẽ và dẫn
chứng “ chỉ biết những từ
thông dụng và còn nghèo
GV tổng kết, nâng cao những từ An Nam”…Ngôn
và khẳng định cách bác ngữ của Nguyễn Du nghèo
85
bỏ một luận điểm, luận hay giàu?
cứ, cách lập luận. + Truy tìm nguyên nhân của
luận cứ sai lệch: “Phải quy
lỗi cho sự nghèo nàn của
ngôn ngữ hay sự bất tài của
GV phát vấn: con người?”
Em hãy trình bày cách + Đặt nhiều câu hỏi suy luận
- Thái độ bác bỏ thẳng thắn. bác bỏ trong lập luận.
Đoạn c:
- Luận điểm sai lệch bị bác
bỏ: “Tôi hút, tôi bệnh, mặc
tôi”
- Cách bác bỏ:
+ Nêu lên những dẫn chứng
cụ thể.
HS trao đổi với + Từ những dẫn chứng, phân
Áp dụng kỹ thuật mảnh tích rõ tác hại ghê gớm của bạn bên cạnh và
ghép. việc hút thuốc lá. trả lời.
Chia lớp thành 6 nhóm 2.Cách bác bỏ
-Thành lập nhóm - Nêu luận điểm muốn bác
bỏ. chuyên gia:
- Chỉ ra khía cạnh sai của Nhóm 1,2,3 thực hiện
luận điểm. bài tập 1a
- Nêu nguyên nhân, phân tích Thành lập nhóm mảnh
khía cạnh sai của luận điểm ghép: chia nhóm 1,2,3
bằng dẫn chứng và lí lẽ. lại sao cho mỗi nhóm
- Sử dụng nhiều kiểu câu: đều có thành viên của
86
nhóm cũ. câu hỏi tu từ, câu trần thuật,
Thực hành làm bài câu cám thán.
tập. - Sắc thái biểu cảm: khách
quan, đúng mực. Đoạn 1a.
Nhóm 1: LUYỆN TẬP
1.Nguyễn Dữ đã
Bài tập 1: bác bỏ ý kiến gì?
a.Nguyễn Dữ bác bỏ ý kiến: Nhóm 2:
“Cứng quá thì gãy, từ đó mà 2.Nêu cách lập
đổi cứng ra mềm.” luận bác bỏ?
- Nguyễn Dữ dùng lí lẽ trực Nhóm 3
tiếp để bác bỏ 3.Giọng văn lập
- Giọng văn dứt khoát, chắc Nhóm 4,5,6 thực hiện luận bác bỏ ra
nịch. bài tập 1b. Thực hiện sao?
-Nhóm mảnh thao tác mảnh ghép
tương tự như nhóm ghép: +Từng thành
1,2,3. viên của nhóm
trình bày nội dung
đã nắm được trước
đó.
GV đánh giá kết quả +Thảo luận lập
thảo luận của mỗi nhóm. dàn ý bác bỏ quan
niệm: “không kết
bạn với những
người học yếu”
Đoạn 1b
87
Câu hỏi cần thực
hiện:
1.Nguyễn Đình b.Ý kiến Nguyễn Đình Thi
Thi đã bác bỏ ý muốn bác bỏ “thơ là những
kiến gì? lời đẹp”.
2.Nêu cách lập - Nguyễn Đình Thi dùng dẫn
luận bác bỏ? chứng để bác bỏ ý kiến.
3.Giọng văn lập - Giọng văn nhẹ nhàng, tế
luận ra sao? nhị.
Trình bày kết quả Khi bác bỏ cần lựa chọn
thảo luận trước mức độ và giọng văn phù
lớp. hợp.
Mỗi học sinh thực
hành viết một đoạn
văn lập luận bác
bỏ.
Bài tập 2:
Bác bỏ quan niệm: “không
kết bạn với những người học
yếu”
IV. Củng cố- dặn dò
- Dùng thao tác lập luận bác bỏ nhằm mục đích gì?
- Để bác bỏ sâu sắc và thuyết phục cần đạt được những yêu cầu nào?
- Có những cách thức bác bỏ nào?
88
3.1.4. Thao tác lập luận bình luận
THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN
I. Mục tiêu bài học
1.Kiến thức
- HS nắm được khái niệm, tác dụng và cách vận dụng của thao tác lập
luận bình luận.
- HS biết các bước thực hiện thao tác lập luận bình luận.
2.Kỹ năng
- Rèn luyện kỹ năng vận dụng thao tác lập luận bình luận để bình luận
một vấn đề xã hội hoặc vấn đề văn học trong bài văn nghị luận
- Góp phần hình thành thói quen bình luận và sử dụng thao tác bình luận
trong khi viết một bài văn nghị luận trong nhà trường và trong các hoạt
động nghị luận mà các em còn phải tiến hành sau khi ra trường.
II. Phương pháp và phương tiện dạy học
1.Phương pháp
- GV dùng phương pháp thuyết trình để làm sáng tỏ khái niệm (bình luận,
lập luận bình luận) kết hợp các phương pháp nêu vấn đề, tổ chức cho HS
thảo luận với những hình thức như: khăn phủ bàn, mảnh ghép…
- GV dùng phương pháp phân tích mẫu để rút ra những yêu cầu của bài
học.
2. Phương tiện
SGK, SGV,Sách thiết kế, bảng phụ, viết lông…
III. Tiến trình dạy học
HĐ của GV HĐ của HS Nội dung cần đạt
89
HS tìm hiểu đoạn Hoạt động 1: Giúp I.Khái niệm, mục đích,
trích “Xin lập khoa yêu cầu của thao tác lập HS tìm hiểu khái
luật” luận bình luận niệm, mục đích, yêu
-Cách thức mỗi nhóm 1. Khái niệm cầu của thao tác lập
làm việc như sau: Bình luận là bàn bạc, luận bình luận
Dùng kỹ thuật khăn Bước 1:HS độc lập đánh giá về sự đúng sai,
phủ bàn: chia lớp tìm hiểu và trả lời hệ thật giả, hay dở, lợi hại của
thành 6 nhóm. Cung các hiện tượng trong đời thống câu hỏi tìm
cấp phiếu học tập số 1 sống (ý kiến, chủ trương , hiểu đoạn trích “Xin
cho HS.(phần phụ lục) con người…) lập khoa luật” trong
SGK và điền các 2. Mục đích
thông tin tìm được Lập luận bình luận là
vào phiếu học tập. một kiểu lập luận nhằm đề
Bước 2: HS trong xuất hoặc thuyết phục
từng nhóm trao đổi, người đọc, người nghe tán
đồng với ý kiến đánh giá, bổ sung.
bàn bạc của mình về một Bước 3: Các thành
viên của nhóm thảo hiện tượng (vấn đề) trong
đời sống hoặc trong văn luận đưa ra kết luận
học. về khái niệm, mục
đích, yêu cầu về kỹ 3. Yêu cầu
năng của thao tác lập - Trình bày rõ ràng, trung
GV nhận xét và đánh luận bình luận. thực hiện tượng được bình
giá. Bước 4: Trình bày kết luận.
quả làm việc. - Đề xuất và chứng tỏ ý
Rút ra kết luận về kiến, nhận định, đánh giá
khái niệm, mục đích, của mình là xác đáng.
90
yêu cầu của thao tác - Lời bàn sâu rộng về chủ
lập luận bình luận. đề.
- Quan điểm rõ ràng, lập Hoạt động 2: Tìm
luận chặt chẽ, bố cục mạch hiểu cách bình luận.
Sử dụng kỹ thuật mảnh lạc, lời bình chính xác,
trong sáng. ghép.
Nhóm chuyên gia: chia Các nhóm tiến hành II. Cách bình luận
Bước 1: Xác định đối tượng lớp thành 6 nhóm học thảo luận để tìm hiểu
bình luận. tập và phân công các bước tiến hành
nhiêm vụ cho tường bình luận. Cụ thể như Bình luận một hiện tượng
nhóm. sau: đời sống, một nhân vật lịch
sử, một ý kiến hay một tác
Nhóm 1,2: Tìm hiểu phẩm văn học…
Nêu đối tượng bình luận bước thứ nhất: nêu
đối tượng bình luận. một cách rõ ràng, trung
Nhóm 3,4: Tìm hiểu thực.
bước thứ 2. Bước 2: Giới thiệu đối
Nhóm 5,6: Tìm hiểu -Nhóm mảnh ghép: tượng bình luận.
bước thứ 3. chia lại thành 6 nhóm Gọi tên đối tượng bình
Các thành viên của mới trong mỗi nhóm luận, trình bày hiện tượng,
nhóm trình bày nội trích dẫn ý kiến, giới thiệu đều có thành viên của
dung đã thảo luận. tác phẩm hay nhân vật văn những nhóm cũ.
Thư ký nhóm ghi lại học… Cho HS dùng bảng
và trình bày trước lớp. Bước 3: Đề xuất ý kiến phụ để hệ thống kiến
bình luận. thức.
Phân tích đối tượng một
cách cụ thể. Tùy theo tính
91
Hoạt động 3: Tổ chức chất của đối tượng, chỉ ra
cho HS luyện tập cái tốt, cái lợi hại…một
cách khách quan, trung
thực.
Nhìn nhận đối tượng tù
nhiều quan hệ, tránh thiên
Bài tập 1: lệch, áp đặt.
GV phát vấn HS HS nhắc lại mục đích
Bài tập 2: của thao tác giải
GV phát vấn HS thích, chứng minh,
bình luận Rút ra
nhận định về thao tác
bình luận III. Luyện tập
Bài tập 1. Mục đích của
giải thích là giúp người
đọc, người nghe hiểu nhận
định được nêu.
Mục đích của chứng minh
là giúp người đọc (nghe) tin
rằng nhận định ấy có căn
cứ, là sự thật.
Mục đích của bình luận là
giúp người đọc (nghe) đánh
giá hiện tượng, vấn đề một
cách toàn diện, chính xác,
công bằng. Từ bình luận rút
ra một ý kiến chặt chẽ, sâu
92
rộng, sắc sảo.
Văn bình luận phải trôi
chảy, hấp dẫn, giàu tính
thuyết phục và có tính
chiến đấu cao.
Bài tập 2:
Đoạn trích có dùng thao tác
Trao đổi với bạn ngồi bình luận vì có nêu ra
bên cạnh và trả lời nguyên nhân, hậu quả của
câu hỏi của GV việc tham gia giao thông
không an toàn. Ngoài ra tác
giả còn mở rộng vấn đề :
đây không chỉ là vấn đề an
toàn giao thông mà còn là
món quà thể hiện sự văn
minh trong trong thời kỳ
hội nhập.
IV. Củng cố - dặn dò
- Yêu cầu học sinh học kỹ các bước thực hiện thao tác lập luận bình luận
- Dặn dò HS về nhà hoàn thành bài tập
- Cung cấp đoạn văn, bài văn mẫu có sử dụng thao tác lập luận bình luận
để HS tham khảo.
3.2. Thực nghiệm
3.2.1. Mục đích của thực nghiệm.
Thực nghiệm là để kiểm chứng và đánh giá tác dụng của việc kết hợp các
phương pháp dạy học trong ý đồ rèn luyện kỹ năng lập luận cho học sinh THPT.
Kết quả thực nghiệm sẽ cố gắng làm rõ những vấn đề sau:
93
Kiểm tra tính khả thi của các phương pháp đã đưa ra trong luận văn.
Sự ứng dụng các phương pháp vào quá trình dạy học có rèn luyện được kỹ
năng lập luận cho học sinh không?
Việc ứng dụng các phương pháp có làm tăng hứng thú và mang lại hiệu quả
cao trong việc viết văn nghị luận của học sinh không?
Phát hiện một số vấn đề còn tồn tại, đánh giá, phân tích, rút kinh nghiệm để
tìm ra phương pháp dạy viết văn nghị luận hợp lý, hiệu quả.
3.2.2. Kế hoạch thực nghiệm
3.2.2.1. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm.
Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có cùng trình độ, cùng học chung
trường, cùng ban cơ bản. Bài viết ở hai lớp cùng đề cùng thời điểm.
Lớp thực nghiệm: 11D1, 11D2
Lớp đối chứng: 11A1, 11A5
Trung tâm giáo dục thường xuyên quân 12 là trường có đối tượng học
sinh trung bình và yếu, kém. Vì thế việc dạy và học rèn luyện các thao tác lập
luận trong văn nghị luận của học sinh trường này từ trước tới giờ tuy rất vất vả
nhưng hiệu quả vẫn còn hạn chế.
3.2.2.2.Thời gian và nội dung dạy thực nghiệm
Thời gian dạy thực nghiệm trong học kỳ I và học kỳ II lớp 11 (ban cơ
bản) năm học 2013-2014 theo phân phối chương trình của BGD. Nội dung thực
nghiệm gồm các bài:
Thao tác lập luận phân tích
Thao tác lập luận so sánh
Thao tác lập luận bác bỏ
Thao tác lập luận bình luận.
- Số tiết dự kiến dạy thực nghiệm: 4 tiết.
- Số học sinh tham gia: 80 HS
- Số phiếu điều tra: 72
94
Công việc thực nghiệm: Áp dụng những thiết kế giáo án vào trong giảng
dạy, sau đó sẽ phân tích đối chiếu những lớp thực nghiệm và những lớp không
thực nghiệm. Bên cạnh đó chúng tôi sẽ lấy thêm ý kiến của giáo viên về phương
pháp dạy học.
Thống kê, xử lý các kết quả thực nghiệm trên cơ sở những thông tin và
kết quả thu được sau chuyến thực nghiệm.
3.2.2.2.Giáo án thực nghiệm
( Xem giáo án trang 82 đến trang 104)
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm.
Đánh giá kết quả thực nghiệm thông qua:
Quá trình dạy thực nghiệm ở các lớp 11D1,11D2 và những vấn đề thu
thập được khi quan sát những giáo viên khác giảng dạy.
Thông qua các bài kiểm tra của học sinh và việc thực hiện các bài tập để
đánh giá, xác định mức độ nhận thức của học sinh.
+ Kết quả thống kê phiếu học tập:
Bảng 3.1. Kết quả thống kê phiếu học tập của HS sau TN
Số phiếu thu Số phiếu đạt yêu Số phiếu chưa đạt
được yêu cầu cầu
Thao tác lập luận 80 55 25
phân tích
Thao tác lập luận 80 61 19
bác bỏ
Thao tác lập luận 80 59 21
bình luận
Phiếu học tập đạt yêu cầu là những phiếu thể hiện được khả năng nhận
thức và vận dụng kĩ năng lập luận từ trung bình trở lên; những phiếu không đạt
yêu cầu là những phiếu viết từ yếu đến không viết được gì. Phiếu học tập (phụ
95
lục) được sử dụng cho học sinh làm việc độc lập và làm việc theo nhóm trong
những giờ học lý thuyết và thực hành viết đoạn văn ngắn. Phân tích bảng kết
quả thấy rằng số phiếu thu lại được sau giờ dạy đạt trên 90%, số phiếu viết đạt
chiếm gần khoảng 2/3 trên tổng số phiếu. Điều đó nói lên rằng, việc dạy đạt
được hiệu quả tích cực.
+ So sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng (lớp 11A1
và 11A5).
Bài viết số 2 (trước thời gian thực nghiệm): đối chứng có 80 học sinh.
Bảng 3.2. Kết quả học tập của lớp TN và đối chứng trước khi TN
Điểm Điểm 1-2 Điểm 3-4 Điểm 5-6 Điểm 7- Điểm
8 9-10
SL TL SL TL SL TL SL TL SL T
Lớp % % % % L
%
Lớp thực nghiệm 4 0 5.0 23 28.8 34 42.5 14 17. 0.0
5
Lớp đối chứng 4 35 4 5.0 28 35 43.8 9 11. 5.0
3
So sánh thấy giữa hai lớp chất lượng ban đầu tương đương nhau, tỉ lệ bài
viết trên trung bình của lớp thực nghiệm là 59.5% và lớp đối chứng là 60.1%,
trong đó có học sinh giỏi.
+ Bảng thống kê điểm cuối năm:
96
Bảng 3.3. Bảng thống kê kết quả cuối năm của lớp TN và ĐC.
Điểm Điểm 1-2 Điểm 3-4 Điểm 5-6 Điểm 7-8 Điểm 9-10
Lớp SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
% % % % %
Lớp thực 0 3 42 0 52.5 35 43.8 0 3.8 0
nghiệm
Lớp đối 3 41 0 3.8 17 21.3 51.2 19 23.8 0
chứng
Cuối năm, lớp thực nghiệm có tỷ lệ tăng cao, nhất là tỷ lệ học sinh khá so
với lớp đối chứng.
Trên kết quả bài viết của HS, có thể đi đến kết quả đánh giá chung
cho đợt thực nghiệm như sau:
Mặc dù dạy học Làm văn là công việc khá phức tạp và khó khăn, song
cũng có thể tạo được cho học sinh hứng thú trong học tập. Kết quả qua những
giờ thực nghiệm cho thấy học sinh cũng rất tích cực tìm hiểu và chiếm lĩnh được
những đơn vị kiến thức cần thiết, có thể hiểu, nhận biết và vận dụng các thao tác
lập luận.
Thông qua việc tìm hiểu cách thực hiện những thao tác này trong những
bài văn, đoạn văn cụ thể, và kết quả học tập cuối năm, là cơ sở đánh giá khả
năng vận dụng các kĩ năng vận dụng các kĩ năng lâp luận vào bài viết văn nghị
luận. Học sinh vận dụng các thao tác dù có đôi chỗ còn lung túng nhưng đa số
cũng vận dụng được một cách phù hợp và đạt kết quả nhất định.
Học sinh cũng có thể đánh giá, phản hồi và tự chỉnh sửa những bài viết
của mình và của bạn, mặc dù còn hạn chế. Dần dần rèn luyện được kĩ năng này
giúp học sinh củng cố thêm lý thuyết và dễ dàng phát triển kĩ năng vận dụng.
97
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài
trong SGK đôi khi rất khó với khả năng của học sinh trung bình, yếu. Vì vậy, hệ
thống câu hỏi được triển khai cần chi tiết hơn, dẫn dắt kĩ càng, phù hợp với năng
lực nhận thức của học sinh hơn. Ví dụ bài “Thao tác lập luận bác bỏ”, phần II.
Tìm hiểu cách bác bỏ, hệ thống câu hỏi để tìm hiểu cách bác bỏ của ba đoạn
trích: Luận điểm nào bị bác bỏ? Bác bỏ bằng cách nào? Luận cứ nào bị bác bỏ?
Cách bác bỏ ra sao? Cách lập luận nào bị bác bỏ? Hãy phân tích? Đối với học
sinh khá giỏi thì học sinh sẽ tìm thấy câu trả lời khá nhanh, nhưng đối với trung
bình, yếu thì hệ thống câu hỏi phải được cụ thể hơn nữa thì học sinh mới có thể
trả lời được.
Cần có thêm nhiều bài văn mẫu đưa thẳng vào chương trình để học sinh
dễ dàng tìm được mà vận dụng tham khảo.
Để tổ chức dạy cặn ké như trên thì lại rất mất nhiều thời gian, có 8/10 tiết
dạy thực nghiệm không đủ thời gian. Những giờ dạy lý thuyết thường phải bù
thêm khoảng 15 phút cho mỗi tiết dạy mới có thể cung cấp đủ lượng kiến thức
theo chương trình. Ở những giáo viên khác, qua dự giờ, quan sát, chúng tôi nhận
thấy rằng đa số cũng không đủ thời gian để dạy các giờ Làm văn. Dạy viết bằng
tiến trình đã nêu gặp khó khăn nhất là sự hạn hẹp của thời gian. Khắc phục tình
trạng thiếu thời gian trên lớp bằng cách cho bài tập về nhà cũng khó vì ý thức
học sinh tự học cũng chưa cao, chương trình học còn rất nhiều môn khác nữa và
cũng không có nhiều thời gian cho việc kiểm tra phần này.
3.4. Những khó khăn trong thực nghiệm
Năng lực học sinh hạn chế: mặc dù chương trình dạy làm văn cấp THCS đã
dạy học sinh rất nhiều về văn nghị luận, tuy nhiên, hiện tại đối tượng học sinh
dạy thực nghiệm có kiến thức và kĩ năng còn yếu so với chuẩn kiến thức cần có
của học sinh lớp 11, điều này làm rất khó trong việc đảm bảo thời gian chất
lượng giảng dạy vì vừa phải gợi kiến thức cũ, vừa phải cung cấp kiến thức mới.
98
Thời gian thực nghiệm chưa đủ để kiểm chứng và đủ để đánh giá chính
xác. Thực tế chỉ dạy được bốn bài, 4 tiết ở hai lớp.
Vì thời gian ngắn như vậy nên đánh giá chỉ mang tính tương đối. Kết quả
thực nghiệm chưa được như mong đợi, điểm số có được nâng lên một chút
nhưng chất lượng bài viết cũng không cao, quy trình rèn luyện được cho học
sinh hứng thú và kĩ năng viết văn nghị luận cần lâu dài.
3.5. Bài học kinh nghiệm
Đầu tư và soạn giảng chu đáo – xác định phương pháp chủ đạo trong giảng
dạy là công việc đòi hỏi bắt buộc đối với người giáo viên. Phương pháp giảng
dạy nào cũng có những ưu, nhược điểm nhất định, muốn vận dụng được các
phương pháp có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên thường xuyên vận dụng đến
khi trở thành kĩ năng, kĩ xảo dạy học.
Lắng nghe ý kiến phản hồi của giáo viên và học sinh để rút kinh nghiệm và
điều chỉnh những thiết kế giảng dạy cho phù hợp.
Chú ý hơn đến trình độ trung bình, yếu của học sinh mà thiết kế phiếu học
tập và tiêu chí đánh giá cho hcọ sinh để nâng cao chất lượng dạy học.
Trong quá trình dạy học GV cần chú ý sửa những lỗi về cách dùng từ, cách
liên kết câu và cách xây dựng đoạn văn cho HS. Vì ở phần này HS còn mắc
nhiều lỗi.
Khi chọn đề tài là muốn tìm ra phương pháp rèn luyện thực hành các thao
tác lập luận hiệu quả, thành kĩ năng chuyên sâu cho học sinh không chỉ ở những
bài luận trong chương trình học mà còn hình thành khả năng lập luận một vấn đề
cuộc sống. Vì thời gian hạn chế nên nghiên cứu chưa sâu, sẽ tiếp tục nghiên cứu.
99
Tiểu kết Chương 3
Dựa trên những cơ sở lí thuyết ở chương 1 và một số bài tập rèn luyện kỹ
năng ở chương 2, chúng tôi đã thiết kế được những giáo án dạy cho những bài
thao tác lập luận trong chương trình lớp 11 THPT theo hướng đổi mới phương
pháp dạy học nhằm chú trọng rèn luyện những kiến thức và kỹ năng lập luận
cho HS. Đồng thời, đưa những thiết kế đó vào thực tiễn giảng dạy để thấy được
ưu điểm và những tồn tại còn tồn đọng để rút kinh nghiệm.
100
KẾT LUẬN
VBNL là loại văn bản phổ biến trong cuộc sống hiện nay. Dạy làm văn
nghị luận chính là dạy HS viết diễn đạt chặt chẽ những vấn đề diễn ra trong cuộc
sống; biết bày tỏ những suy nghĩ, thái độ và tình cảm của mình một cách chân
thành; biết thuyết phục người khác tin, nghe và làm theo những đề xuất của
mình; biết bảo vệ quan điểm trước công chúng.
Đề tài luận văn: “ Rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị luận cho học
sinh 11 THPT”đã hệ thống lại những kiến thức cơ bản của VBNL, đưa ra một số
dạng bài tập để rèn luyện cách dùng từ ngữ lập luận và xây dựng đoạn văn trong
văn nghị luận, thiết kế một số bài dạy về các thao tác lập luận trong chương trình
lớp 11, giúp HS rèn luyện, nâng cao kỹ năng lập luận.
Trên cơ sở những vấn đề lí thuyết về VBNL ở chương 1. Trọng tâm
nghiên cứu đề tài ở chương 2 đã đề ra phương pháp rèn luyện kỹ năng lập luận
cho HS để việc dạy văn nghị luận có hiệu quả hơn. Các thiết kế bài học (đồng
thời là giáo án thực nghiệm) có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, kiến thức
cơ bản và các phương pháp dạy học phù hợp, chú ý rèn luyện kỹ năng lập luận
cho HS. Những giải pháp đề ra trong luận văn có vận dụng quan điểm dạy học
hiện đại, phát huy tính tích cực của HS, giúp HS có hứng thú trong học tập, có
kỹ năng tạo lập văn bản nghị luận.
Dạy học Làm văn là công việc phức tạp, đòi hỏi cả GV và HS đề phải nỗ
lực không ngừng. Rèn luyện kỹ năng lập luận trong việc tạo lập VBNL là một
quá trình đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư về năng lực, trình độ chuyên môn, phương
pháp dạy học của GV. Sản phẩm của quá trình rèn luyện kỹ năng lập luận trong
việc tạo lập VBNL không chỉ thể hiện trong bài viêt của HS mà còn thể hiện
trong khả năng vận dụng vào trong giao tiếp hằng ngày. Đó là cái đích cao nhất
của việc dạy và học VBNL.
101
Một số kiến nghị:
Đối với các nhà quản lí giáo dục:
Cần có sự thống nhất các thuật ngữ trong VBNL. Ở SGK lớp 7 và lớp 8
gọi chứng minh, giải thích, so sánh… là phép, trong khi ở chương trình THPT,
phân tích, giải thích, so sánh lại gọi là thao tác. Ở một số trường hợp khác, có lẽ
cần đơn giản hóa các thuật ngữ để HS không bị nhầm lẫn. Diễn dịch và quy nạp
là hai khái niệm mà HS dễ nhầm lẫn. Khi nào là thao tác nghị luận, khi nào là
kết cấu đoạn văn và khi nào là phương pháp lập luận. Với HS, việc phân biệt vai
trò của hai thuật ngữ này còn nhiều lung túng.
Đối với giáo viên:
GV nên quan tâm, đầu tư nhiểu hơn cho những giờ dạy học làm văn.
Phải luôn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực để phát huy tính
chủ động sáng tạo của HS. Mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
Làm văn nghị luận. Tính trực quan của công nghệ thông tin sẽ giúp GV và HS
hoàn thành tốt mục tiêu bài học.
Quan tâm nhiều đến việc chấm trả bài cho HS. Những lỗi sai trong bài
viết cần chỉ rõ và có sửa chữa kịp thời để HS rút kinh nghiệm.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, Nguyễn Trí (2001), Giáo trình làm văn, Nxb Giáo dục.
2. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán (2005), Phương pháp dạy học
tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
3. Lê A (2008) ,Thực hành làm văn 12, Nxb Giáo dục Hà Nội.
4. Diệp Quang Ban (2002), Giao tiếp, văn bản, mạnh lạc, liên kết, đoạn văn,
Nxb Giáo dục.
5. Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Quang Ninh, Trần Ngọc Thêm, Ngữ pháp văn
bản và việc dạy làm văn, Nxb Giáo dục.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 10, tập 1, Nxb Giáo dục.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 10 nâng cao, tập 1, Nxb
Giáo dục.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 10 nâng cao, tập 2, Nxb
Giáo dục.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo viên Ngữ Văn 10, tập 1, Nxb
Giáo dục.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo viên Ngữ Văn 10, tập 2, Nxb
Giáo dục.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo dục.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11, tập 2, Nxb Giáo dục.
14. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11 nâng cao, tập 1, Nxb
Giáo dục.
15. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11 nâng cao, tập 2, Nxb
Giáo dục
16. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo viên Ngữ Văn 11, tập 1, Nxb
Giáo dục.
103
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo viên Ngữ Văn 11, tập 2, Nxb
Giáo dục.
18. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục.
19. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Làm văn 10, Nxb Giáo dục.
20. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1990), Làm văn 10, Nxb Giáo dục.
21. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Làm văn 11, Nxb Giáo dục.
22. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Làm văn 12, Nxb Giáo dục.
23. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
24. Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Quang Ninh, Trần Ngọc Thêm, Ngữ pháp văn
bản và việc dạy làm văn, Nxb Giáo dục.
25. Chim Văn Bé (2007), Giáo trình văn bản và làm văn- Rèn luyện kỹ năng
viết văn bản nghị luận (lưu hành nội bộ), Trường ĐH Cần Thơ.
26. Lương Duy Cán (2007), Rèn luyện kỹ năng làm văn 10, Nxb Giáo dục.
27. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983), Giáo
trình ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Nxb Giáo dục
28. Tạ Phong Châu, Đỗ Quang Lưu, Nguyễn Quốc Túy (1982), Tài liệu tham
khảo hướng dẫn giảng dạy tập làm văn cấp 3 phổ thông( tập 2), Nxb
Giáo dục.
29. Đỗ Hữu Châu (2003), Đại cương ngôn ngữ học (tập 2), Nxb Giáo dục.
30. Nguyễn Đức Dân (1996), logic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
31. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (1998), Dẫn
luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
32. Thẩm Thệ Hà (1959), phương pháp làm văn nghị luận, Nxb Sống mới -
Sài Gòn.
33. Nguyễn Văn Hầu (2005), Thuật viết văn, Nxb Trẻ.
34. Lê Thị Diệu Hoa (2006), Ôn luyện kiến thức và bài tập rèn luyện kỹ năng
Ngữ văn 10, Nxb Giáo dục.
104
35. Hà Thúc Hoan (2006), Làm văn nghị luận: lí thuyết và thực hành, Nxb
Thuận Hóa.
36. Đặng Thành Hưng (2006), Tương tác hoạt động thầy trò trên lớp học, Nxb
Giáo dục.
37. Nguyễn Văn Kỷ (2007), Giúp học sinh rèn luyện từ, viết câu và làm văn,
Tạp chí thế giới trong ta.
38. Nguyễn Xuân Lạc (2007), Hướng dẫn làm các kiểu bài văn ở lớp 10, Nxb
Giáo dục.
39. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
40. Nguyễn Xuân Lạc (2007), Luyện thi Tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn, Nxb
Giáo dục.
41. Nguyễn Lộc, Nguyễn Quốc Túy (1980), Tài liệu tham khảo hướng dẫn
giảng dạy tập làm văn cấp 3 phổ thông (tập 1), Nxb Giáo dục.
42. Lê Phương Liên (2007), Hướng dẫn làm văn 10, Nxb Đại học Sư phạm.
43. Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Lưu Đức Hạnh (2006), Muốn viết
được bài văn hay, Nxb Giáo dục.
44. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Kinh nghiệm viết một bài văn, Nxb Giáo dục.
45. Đào Ngọc, Nguyễn Quang Ninh (1998), Rèn kỹ năng sử dụng tiếng Việt,
Nxb Giáo dục.
46. Hoàng Phê (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
47. Bảo Quyến (2007), Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận, Nxb Giáo dục.
48. Nguyễn Quốc Siêu (2001), Kỹ năng làm văn nghị luận phổ thông, Nxb
Giáo dục.
49. Lê Xuân Soạn (2007), Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn, Nxb Đại học Quốc
gia Tp. Hồ Chí Minh.
50. Lê Xuân Soạn (2006), Giảng dạy tập làm văn ở THCS, Nxb Đại học Quốc
gia Tp. Hồ Chí Minh.
105
51. Cù Đình Tú (1994), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
52. Phạm Việt Tuyển (1969), Phương pháp nghị luận phân tích và phê bình
văn chương, Nxb Phong trào văn hóa.
53. Trần Ngọc Thêm (1981), “Trên con đường xây dựng lý thuyết làm văn”,
Tạp chí nghiên cứu giáo dục, (5).
54. Đặng Thiêm (2005), Cùng học sinh khám phá qua mỗi giờ văn, Nxb
Giáo dục.
55. Đỗ Ngọc Thống (1997), Làm văn từ lý thuyết đến thực hành, Nxb Giáo dục
Hà Nội.
56. Đỗ Ngọc Thống (2008), “Vai trò của lập luận trong văn nghị luận”, Tạp chí
khoa học giáo dục, (31), tr. 20-23.
57. Đỗ Ngọc Thống (2003), Bạn có muốn giỏi văn, tuyển tập 10 năm tạp chí
văn học và tuổi trẻ, Nxb Giáo dục.
58. Nguyễn Trí, Giang Khắc Bình, Nguyễn Trọng Hoàn (2008), Văn nghị luận
trong chương trình THCS, Nxb Giáo dục.
59. Lê Anh Xuân, Lê Huy, Ngô Thanh Tùng (2008), Rèn kỹ năng tập làm văn
10, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
PHIẾU ĐIỀU TRA
Đối tượng : Giáo viên
Kính thưa quý thầy/ cô!
Dạy và học làm văn nghị luận là một trong những nội dung quan trọng
trong chương trình Ngữ văn THPT. Tuy nhiên, quá trình dạy- học văn nghị luận
vẫn còn nhiều khó khăn. Phiếu điều tra này nhằm thu thập những thông tin về
những đánh giá của quý thầy /cô về chương trình, thời gian và thái độ của GV
và HS trong việc dạy và học VBNL. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho chúng tôi
thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học vê “ Rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn
nghị luận cho học sinh 11 THPT. Kính mong quý thầy/ cô dành ít thời gian trả
lời những câu hỏi dưới đây. Những thông tin thu được chỉ nhằm mục đích
nghiên cứu không nhằm đánh giá người trả lời.
Quý thầy /cô khoanh tròn câu trả lời thích hợp. Xin trân trọng cảm ơn
quý thầy/cô.
1. Trong giảng dạy Làm văn, dạy tạo lập kiểu văn bản nào thầy/ cô quan
tâm nhất:
a. Tự sự e. Biểu cảm
b. Nghị luận. d. Thuyết minh
c. Miêu tả
2. Nhận xét chung của thầy /cô về chương trình dạy học tạo lập văn bản
nghị luận hiện hành:
a. Hay, khoa học c. Thiếu thực hành
b. Phù hợp với trình độ HS d.Mang tính lý thuyết
3. Kiến thức cần cung cấp về các bài dạy lý thuyết:
a. Quá nhiều c. Vừa đủ, hợp lí.
b. Còn ít
4. Thời gian dành cho giờ thực hành:
a. Thừa c. Ít
b. Đủ d. Quá ít.
5. Ý kiến của quý thầy/ cô về đề văn nghị luận trong chương trình SGK:
a. Hay, phát huy tính sáng tạo của HS
b. Chưa phù hợp với thực tế
c. Chưa phát huy được tính sáng tạo của HS
6. Hoạt động nào không cần ưu tiên rèn luyện trong giờ dạy làm văn nghị
luận:
a. Xác định luận điểm c. Viết đoạn văn lập luận
b. Xác định luận cứ d. Rèn luyện kỹ năng nói
7. Học sinh không hay mắc những lỗi phổ biến nào khi làm văn nghị luận:
a. Dùng từ lập luận c. Xây dựng đoạn lập luận
b. Liên kết câu, liên kết đoạn d. Sai lỗi chính tả.
8. Phương pháp nào GV thường xử dụng trong giờ dạy VBNL:
a. Diễn giảng c. Nêu vấn đề
b. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại d. Thảo luận nhóm
9. Yếu tố quan trọng nhất để HS viết bài văn nghị luận đạt yêu cầu là:
a. Kiến thức lí thuyết c. Có tri thức xã hội
b. Kỹ năng thực hành d. Gợi ý của giáo viên
10. Theo thầy /cô HS viết bài văn nghị luận chưa đạt yêu cầu là do:
a. Chưa hiểu đặc trưng của VBNL
b. Chưa biết lập luận
c. Chưa biết chọn lọc những thao tác nghị luận
d. Vốn từ nghèo nàn, viết câu sai
e. Tất cả các phương án trên.
11. Thầy cô ưu tiên làm phần nào trước khi cho HS viết bài:
a. Tìm hiểu đề c. Lập dàn ý
b. Xây dựng đoạn d. Chọn thao tác lập luận
12. Khi chấm bài của HS thầy cô có nhận xét cụ thể những ưu điểm và
nhược điểm của bài viết để các em khắc phục không?
a. Rất thường xuyên c. Rất ít
b. Thỉnh thoảng d. Không bao giờ
13. Quý thầy cô thường xuyên học hỏi, bồi dưỡng chuyên môn và đổi mới
phương pháp dạy học Làm văn:
a. Rất thường xuyên c. Không có
b. Rất ít d. Thỉnh thoảng
14. Trong bộ môn Ngữ văn quý thầy cô chú ý đầu tư nhiều nhất cho phân
môn nào:
a. Tiếng việt
b. Làm văn
c. Văn bản
15. Xin quý thầy cô chia sẻ những kinh nghiệm hoặc đề xuất ý kiến để việc
dạy văn nghị luận đạt kết quả cao:
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô!
Phụ lục 2:
PHIẾU HỌC TẬP
Cá nhân 2
Cá nhân 1
3.1. Bảng thảo luận (áp dụng cho hình thức khăn phủ bàn)
Cá nhân 6
Cc Cá nhân 3
Cá nhân 5
Cá nhân 4
N Cả nhóm:
Phụ lục 3
PHIẾU HỌC TẬP
THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN.
Tên……………………………lớp…………….nhóm…………………
Đối tượng (vấn đề bình luận)
Người viết trình bày về đối tượng ( vấn đề bình luận)
Nhận xét, đánh giá về đối tượng
Những đề xuất, lời bàn bạc về đối tượng
Mục đích bình luận
Cách sắp xếp ý trong văn bản.
Phụ lục 3
PHIẾU HỌC TẬP
THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN.
Tên……………………………lớp…………….nhóm…………………
Qua việc tìm hiểu văn bản: “Xin lập khoa luật”, em hãy hoàn thành những nội
dung sau:
Khái niệm thao tác lập luận bình luận:
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
Mục đích của thao tác lập luận bình luận:
……………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………..
Yêu cầu của thao tác lập luận bình luận:
……………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………..
Cách bình luận:
……………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………….