
159
RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ
1. ĐỊNH NGHĨA
Tự kỷ là một phổ rối loạn bao gồm những rối loạn về tâm lý - thần kinh. Đây là rối
loạn phát triển lan tỏa với mức độ từ nhẹ đến nặng, khởi phát sớm ở trẻ em trước 3
tuổi và diễn biến kéo dài cả cuộc đời.
Biểu hiện tự kỷ biểu hiện trên 3 lĩnh vực:
Tương tác xã hội
Giao tiếp
Hành vi định hình, ý thích thu hẹp.
Thường kèm theo các rối loạn khác như: tăng động giảm chú ý, chậm phát triển tâm
thần.
2. NGUYÊN NHÂN
Nguyên nhân của tự kỷ chưa xác định rõ ràng, nhiều yếu tố được cho là góp phần
gây ra rối loạn này.
2.1. Di truyền
Những bằng chứng nghiên cứu gần đây cho thấy di truyền là nguyên nhân đóng vai
trò chính trong phần lớn các trường hợp tự kỷ. Có nhiều gen bất thường kết hợp gây
tự kỷ, những vùng nhiễm sắc thể 2, 4, 7, 15, 19 là những gen cơ bản gây rối loạn
trên. Nghiên cứu ở những trẻ sinh đôi đồng hợp tử tỉ lệ đồng nhất 70 - 90 %, dị hợp
tử 0 %; gia đình anh em cùng mắc 3-5%. Khoảng 1% trẻ tự kỷ mắc hội chứng
nhiễm sắc thể X dễ gãy. Tự kỷ và hội chứng Asperger: thường gặp ở nam nhiều hơn
nữ, liên quan NST X.
2.2. Yếu tố môi trƣờng
Các bệnh lý mẹ mắc phải trước và trong thời kì mang thai: Rubella, cúm, sởi, bệnh lý
tuyến giáp, bệnh chuyển hóa (đái tháo đường), dùng các thuốc ảnh hưởng thai nhi như
acid valproic, an thần kinh, NSAID. Có nhiều stress trong thời kỳ mang thai, sử dụng
quá nhiều acid folic, rượu, sóng siêu âm…cũng góp phần gia tăng nguy cơ tự kỷ.
2.3. Bệnh lý thần kinh
Động kinh cơn lớn, xơ cứng củ, tổn thương não trước sinh.
Do thay đổi cấu trúc não ở tiểu não, hồi hải mã, thùy trán trước và thùy thái dương.
Não của trẻ tự kỷ lớn hơn và nặng hơn so với não của trẻ phát triển bình thường do
có quá nhiều chất trằng. Người ta tìm thấy mối liên hệ bất thường của não giữa, tiểu
não với vỏ não, gây ra sự quá nhạy cảm hoặc kém nhạy cảm, hành vi bất thường.
Bất thường sinh hóa thần kinh liên quan dopamin, catecholamin và serotonin.