RỐI LOẠN TƯ DUY

(Kỳ 2)

1.3. Rối loạn hình thức ngôn ngữ:

- Nói một mình: hay còn gọi là độc thoại, bệnh nhân nói lẩm bẩm một

mình, không có nội dung rõ ràng, gặp trong tâm thần phân liệt.

- Đối thoại tưởng tượng: bệnh nhân nói chuyện với ảo thanh, hay như đang

nói chuyện với một người tưởng tượng về một nội dung nào đó, gặp trong tâm

thần phân liệt.

- Trả lời bên cạnh: ta hỏi một đằng bệnh nhân trả lời một nẻo, gặp trong

tâm thần phân liệt.

- Không nói: bệnh nhân không nói hoàn toàn mà không có nguyên nhân

thực thể, phải phân biệt với triệu chứng không nói chủ động là bệnh nhân không

muốn nói do lâm vào những tình huống khó khăn, hoặc trong những trường hợp

giả vờ câm và thường kết hợp với điếc giả vờ. Triệu chứng này thường gặp trong

tâm thần phân liệt, trầm cảm, lú lẫn, rối loạn phân ly, trong rối loạn phân ly thì

bệnh nhân cố gắng nói nhưng không phát âm được để chứng tỏ sự mất khả năng

của mình tạo ra triệu chứng mất tiếng. Không nói có căn nguyên thực thể thường

là do mất trí, không nói vô động do tổn thương thùy trán, thể viền và câu trúc

lưới.

- Nói lập lại: bệnh nhân cứ lập đi lập lại một từ hoặc một âm có tính chất

máy móc, không có chủ ý, gặp trong các tổn thương thực thể như hội chứng

Parkinson, mất trí Pick.

- Đáp lập lại: chỉ trả lời câu hỏi trước mặc dù được hỏi thêm nhiều câu hỏi

kế tiếp.

- Nhại lời: là sự lập lại một cách tự động từ cuối cùng hoặc câu cuối cùng

của người hỏi chuyện, thường gặp trong các bệnh tâm thần do tổn thương thực thể,

thiểu năng trí tuệ, hoặc mất trí.

1.4. Những biến đổi ngữ nghĩa:

Bệnh nhân dùng những từ thông thường nhưng hoàn toàn theo một

nghĩa riêng của mình, khác với quy ước của mọi người và không theo ý nghĩa

thông thường, thường có ý nghĩa tượng trưng.

- Bịa từ mới: bệnh nhân tạo ra những từ mới với những ý nghĩa riêng mà

chỉ có bệnh nhân mới biết, không liên quan đến ngữ nghĩa thông thường, gặp trong

tâm thần phân liệt.

- Ngôn ngữ hỗn độn: bệnh nhân dùng những từ, những câu tối nghĩa, không

kế tục nhau, hỗn độn, không diễn đạt được một nội dung nào cả, triệu chứng này

thường gặp trong tâm thần phân liệt, hoặc trong các trạng thái mất trí do tổn

thương thực thể.

- Loạn ngữ pháp: bệnh nhân nói không theo ngữ pháp thông thường mà tạo

ra những cú pháp riêng, hình thành một loại ngôn ngữ riêng làm người khác không

hiểu được, thường gặp trong tâm thần phân liệt.

- Ngôn ngữ phân liệt: bao gồm tất cả các rối loạn về từ ngữ, biến đổi về ngữ

nghĩa và các rối loạn kể trên, các rối loạn này thường gặp trong tâm thần phân liệt,

cho nên được gọi là ngôn ngữ phân liệt, từ nầy do E. Kraepelin đặt ra.

2. Các rối loạn nội dung tư duy:

2.1. Các ý tưởng nổi bật:

Là những ý tưởng quá mức, chiếm ưu thế trong ý thức và chi phối nhân

cách bệnh nhân, bệnh nhân không thể phê phán và được duy trì bằng một cảm xúc

mãnh liệt, bệnh nhân luôn tập trung vào ý tưởng này. Ở bệnh nhân trầm cảm thì

gọi là đơn ý trầm cảm, trong hội chứng paranoia thì gọi là ý tưởng ưu thế, trong

những trường hợp bình thường như các nhà nghiên cứu luôn tập trung vào những

ý tưởng mà mình quan tâm thì gọi là ý tưởng cố định.

2.2. Ám ảnh:

Là một ý tưởng, một suy nghĩ hay là một khuynh hướng chiếm lĩnh lấy

tâm trí của bệnh nhân một cách dai dẳng, thường là không phù hợp với thực tế,

bệnh nhân biết đó là sai và cố gắng xua đuổi đi song không thể được, điều này làm

cho bệnh nhân lo sợ. Để chống lại sự lo sợ này thường thì bệnh nhân có những lời

nói, động tác hoặc một hành động để tự trấn an mình, ta gọi đó là những nghi

thức.

Ám ảnh có 3 biểu hiện khác nhau:

- Ý tưởng ám ảnh: là những ý tưởng dưới dạng những câu hỏi, chủ đề

thường có tính chất siêu nhiên, tôn giáo như luôn ám ảnh với ý tưởng có thượng đế

hay không ? về sự sống và cái chết ? và cũng có thể có những chủ đề khác về đạo

đức và cuộc sống thường nhật, như sợ gây hại cho người khác, mình là nguyên

nhân sự bất hạnh của người khác, ra khỏi nhà không khóa cửa, quên tắt đèn, bếp

gaz ... các câu hỏi này đôi khi có dạng như là sự nghiền ngẫm bất tận mà người ta

còn gọi là cuồng nghi vấn.

- Sợ ám ảnh: bệnh nhân luôn bị cưỡng bức nhớ lại những tình huống hoặc

các đồ vật làm cho bệnh nhân sợ, dù rằng trong thực tế không có các tình huống

hoặc đồ vật đó (phân biệt với sợ đơn giản hay sợ thật sự), như bệnh nhân sợ bị

nhiễm trùng, sợ lây bệnh truyền nhiễm, sợ bị ung thư... sợ bị đỏ mặt ở chỗ đông

người. Trong đa số các trường hợp này bệnh nhân thường có hành vi tránh né.

- Xung động ám ảnh hay xung động lo sợ: bệnh nhân sợ mình có những

hành vi kích động, lố bịch, vô luân, hoặc bạo động, sợ nói tục trước chỗ đông

người, sợ xúc phạm đến thần thánh hoặc có những hành vi sỗ sàng, sợ cầm dao

đâm người, sợ nhảy qua cửa sổ ... làm bệnh nhân phải đấu tranh rất đau khổ.