BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH LÊ MINH THUẬN MỘT SỐ RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP.HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH LÊ MINH THUẬN MỘT SỐ RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP.HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS ĐINH PHƯƠNG DUY
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
là trung thực.
Lê Minh Thuận
LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành tri ân và cảm ơn thầy Đinh Phương Duy-Tiến sĩ tâm lý, thầy Lý Minh
Tiên -Thạc sĩ tâm lý đã nâng đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Tuấn - Giáo sư Y khoa, Tiến sĩ Toán thống
kê, đã nhiều năm hướng dẫn (nhóm) tôi ứng dụng phần mền R trong phân tích toán thống
kê.
Lê Minh Thuận
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 3 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................ 3
4. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................... 3
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 3
6. Ý nghĩa ........................................................................................................... 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................ 5
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .............................................................. 5
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài. ............................................................. 5 1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về rối nhiễu tâm lý. ............................... 12 1.2. KHÁI NIỆM RỐI NHIỄU TÂM LÝ........................................................... 15 1.3. STRESS ..................................................................................................... 20 1.3.1. Khái niệm rối nhiễu stress ...................................................................... 20 1.3.2. Đặc điểm rối nhiễu Stress. ...................................................................... 22 1.3.3. Phân loại rối nhiễu stress ........................................................................ 23 1.3.4. Nguyên nhân rối nhiễu stress ................................................................. 24 1.4. TRẦM CẢM ..................................................................................................... 27 1.4.1. Khái niệm rối nhiễu trầm cảm ................................................................ 27 1.4.2. Đặc điểm rối nhiễu trầm cảm ................................................................. 28 1.4.3. Phân loại rối nhiễu trầm cảm .................................................................. 31 1.4.4.Nguyên nhân rối nhiễu trầm cảm ............................................................ 33 1.4.5. Phương pháp trị liệu rối nhiễu trầm cảm ................................................ 35 1.5. LO ÂU ............................................................................................................... 36 1.5.1.Khái niệm rối nhiễu lo âu ........................................................................ 36 1.5.2. Đặc điểm rối nhiễu lo âu ........................................................................ 37 1.5.3. Phân loại rối nhiễu lo âu ......................................................................... 38 1.5.4. Nguyên nhân rối nhiễu lo âu .................................................................. 38 1.5.5. Liệu pháp trị liệu rối nhiễu lo âu ............................................................ 40
1.6. RỐI NHIỄU TÂM LÝ Ở SINH VIÊN .......................................................... 41
1.6.1.Tình cảm và công việc ............................................................................ 42
1.6.2. Hoạt động tình dục và sự mang thai ....................................................... 43
DÀN Ý NGHIÊN CỨU .......................................................................................... 45
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................... 46
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ............................................................................ 46
2.2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU............................................................................. 46
2.2.2. Dân số mục tiêu ...................................................................................... 46
2.2.3. Khách thể nghiên cứu (Dân số chọn mẫu) ............................................. 46
2.3. CỠ MẪU NGHIÊN CỨU ............................................................................... 46
2.4. CHỌN MẪU ..................................................................................................... 47
2.5. THU THẬP SỐ LIỆU ..................................................................................... 48
2.5.1 Bộ câu hỏi thu thập dữ liệu ..................................................................... 48
2.5.2. Các bước nghiên cứu .............................................................................. 49
2.5.3. Kiểm soát sai lệch dữ liệu ...................................................................... 49
2.6. XỬ LÝ SỐ LIỆU-PHÂN TÍCH SỐ LIỆU ................................................... 49 2.6.1. Nhập liệu ................................................................................................ 49
2.6.2. Xử lý ....................................................................................................... 49 2.6.3. Phân tích dữ liệu ..................................................................................... 49 2.7. LIỆT KÊ VÀ ĐỊNH NGHĨA BIẾN SỐ ....................................................... 50 2.7.1. Biến số nền ............................................................................................. 50 2.7.2. Biến số tiên lượng .................................................................................. 51 2.8. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU .......................................................... 53 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG RỐI NHIỄU TÂM LÝ TRONG SINH VIÊN 54 3.1. Độ tin cậy thang đo .......................................................................................... 54 3.1. Thực trạng rối nhiễu tâm lý trong sinh viên. ................................................ 54 3.3. Một số yếu tố có khả năng tác động đến một số rối nhiễu tâm lý trong sinh viên. .................................................................................................................. 56
3.4. Tỉ lệ có khả năng rối nhiễu tâm lý theo các mức độ khác nhau ở sinh viên.67 3.5. Mối tương quan giữa đặc tính mẫu, gia đình-xã hội gây rối nhiễu tâm lý 71 3.6. Mối tương quan giữa đặc tính mẫu và rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress ở sinh
viên ................................................................................................................... 87
3.5.1. Mối quan hệ giữa trầm cảm và lo âu ở sinh viên ................................... 87 3.5.2. Mối quan hệ giữa trầm cảm và stress ở sinh viên .................................. 88 3.5.3. Mối quan hệ giữa lo âu và stress ở sinh viên ......................................... 89 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 92
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Các rối nhiễu tâm lý ............................................................................ 18
Bảng 1.2. Các tiêu chuẩn chẩn đoán cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu theo
DSM-IV-TR .......................................................................................... 32
Bảng 1.3. Phân biệt trầm cảm .............................................................................. 33
Bảng 1.4. Điều trị rối nhiễu lo âu ........................................................................ 40
Bảng 1.5. Các mức độ rối nhiễu tâm lý DASS-42 .............................................. 48
Bảng 3.6. Kế hoạch học tập của sinh viên (n=400) ............................................. 62
Bảng 3.7. Lý do không có lập kế hoạch (n=120) ................................................ 63
Bảng 3.8. Hy vọng của sinh viên ......................................................................... 64
Bảng 3.9. Thái độ của sinh viên đối với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân . 65
Bảng 3.10. Thái độ của sinh viên đối với việc sống chung trước hôn nhân ........ 65
Bảng 3.11. Thái độ của sinh viên đối với hiện tượng ly hôn/ li dị ...................... 66
Bảng 3.12. Trị số trung bình, trung vị của thang điểm DASS-42 ....................... 67
Bảng 3.13. Tỉ lệ có khả năng các mức độ rối nhiễu trầm cảm của sinh viên ...... 68
Bảng 3.15. Tỉ lệ có khả năng các mức độ rối nhiễu stress của sinh viên ............ 70
Bảng 3.16. Mối liên hệ giữa năm học của sinh viên với stress, lo âu và trầm cảm72
Bảng 3.17. Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên theo khoa. .... 73
Bảng 3.18. Mối liên hệ giữa chỗ ở của sinh viên với trầm cảm, lo âu, stress của sinh
viên ........................................................................................................ 75
Bảng 3.19. Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress với phương tiện thường xuyên
sử dụng đi học của sinh viên ................................................................. 77
Bảng 3.20. Mối quan hệ giữa thái độ với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân với
trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên ........................................................ 78
Bảng 3.21. Mối liên hệ giữa việc sử dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress của
sinh viên ............................................................................................ 80
Bảng 3.22. Mối liên hệ giữa sinh viên có hút thuốc lá với lo âu, trầm cảm, stress82
Bảng 3.23. Mối quan hệ giữa thái độ chung sống trước hôn nhân với trầm cảm, lo
âu, stress ở sinh viên. ........................................................................ 83
Bảng 3.24. Mối quan hệ giữa uống rượu bia với trầm cảm, lo âu, stress .................. 82
Bảng 3.25. Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress và Kế hoạch học tập của sinh
viên ................................................................................................... 85
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân bố sinh viên theo giới tính ...................................................... 54
Biều đồ 3.2. Phân bố sinh viên theo Khoa .......................................................... 55
Biểu đồ 3.3. Phân phối theo năm học ................................................................. 55
Biểu đồ 3.4. Phân bố theo dân tộc ...................................................................... 56
Biểu đồ 3.5. Phân bố sinh viên theo tôn giáo ..................................................... 56
Biểu đồ 3.6. Nơi sống của sinh viên .................................................................... 57
Biểu đồ 3.7. Phương tiện sử dụng thường xuyên của sinh viên .......................... 58
Biểu đồ 3.8. Việc làm kiếm tiền ......................................................................... 58
Biểu đồ 3.9. Dịch vụ tư vấn sức khỏe tâm lý ..................................................... 59
Biểu đồ 3.10. Sinh viên sử dụng internet ............................................................. 60
Biểu đồ 3.11. Hút thuốc lá ................................................................................... 61
Biểu đồ 3.12. Tỉ lệ uống dụng rượu / bia của sinh viên ...................................... 62
Biểu đồ 3.13. Mức độ rối nhiễu trầm cảm ở sinh viên ........................................ 69
Biểu đồ 3.15. Mức độ rối nhiễu lo âu ở sinh viên ............................................... 70
Biểu đồ 3.17. Biểu diễn mối quan hệ tuyến tính giữa trầm và lo âu ................... 87
Biểu đồ 3.18. Biểu diễn mối quan hệ tuyến tính giữa trầm và stress .................. 88
Biểu đồ 3.19. Biểu diễn mối quan hệ tuyến tính giữa trầm và stress .................. 89
Biểu đồ 3.20. Biểu diễn hệ số tương quan giữa lo âu, trầm cảm, và stress của sinh
viên ............................................................................................... 88
Sơ đồ 1.1: Các mức độ rối nhiễu tâm lý .............................................................. 20
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ chẩn đoán cho một người có khí sắc trầm . .............................. 31
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
- AABB: Rối loạn ám ảnh bó buộc
- BLTD: Bạo lực tình dục
- LATT: Rối loạn lo âu toàn thể
- RLCXTM: Rối loạn cảm xúc theo mùa
- RLTCCY: Rối loạn trầm cảm chủ yếu
- SC: Rối loạn stress cấp
- SKSS và SKTD: Sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục
- SSCT: Rối loạn stress sau chấn thương
- VTN- TN: Vị thành niên – thanh niên
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
- Biopsychosocial model: Mô hình Tâm lý-Sinh lý- Xã hội
- Cross sectional/Synchronic study: nghiên cứu tại một thời điểm
- DASS-42: Depression Anxiety Stress Scales-42 (SH Lovibond & PF Lovibond,
1995): Trầm cảm, lo âu, stress.
- DSM-IV: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fourth Edition
(DSM-IV): Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần, phiên bản IV-TR
- GABA-benzodiazepine: gamma-aminobutyric acid
- GAD: Generalized Anxiety Disorder: Rối loạn lo âu tổng quát
- GAS: General adaptation syndrome: Hội chứng thích nghi tổng quát
- GHQ-9: General health questionnaire GHQ-9: thang đo trầm cảm
- LST: Life Skills training : đào tạo kỹ năng sống
- MDD: Major Depressive Disorder: Loạn trầm cảm chủ yếu
- Negative change: biến đổi âm tính
- PMSS: Perceived Medical School Stress:
- Positive change: biến đổi dương tính
- SASCAT: Công cụ đánh giá nguồn vốn xã hội được điều chỉnh
- School-based mental health serviece: mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần dựa vào
nhà trường
- UNICEF: United Nations International Children's Emergency Fund: Quỹ Nhi đồng
Liên Hiệp Quốc
- WCCL : Ways of Coping Check List: bảng kiểm các đối phó (căng thẳng)
- WHO: World Health Organization: Tổ chức Y tế Thế giới
- WISC_R: Weschler Intelligence Scale for Children-Revised: Trắc nghiệm trí tuệ trẻ
em của Weschler
- YLL= Years of Lost Life (death): năm của cuộc sống bị mất
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Rối nhiễu tâm lý, đặc biệt trầm cảm, những hành động tự tử, tự làm hại bản thân và
lạm dụng rượu/ thuốc, được xếp loại trong số 10 vấn đề hang đầu gây ra gánh nặng tổng thể do bệnh tật hiện nay trên thế giới. Đến năm 2030, trầm cảm là dự kiến để trở thành yếu tố
đóng góp hàng đầu của gánh nặng bệnh tật, tàn phế ở các nước có thu nhập cao [99]. Trong
số các bệnh không truyền nhiễm, Tổ chức Y tế thế giới ước lượng rằng nhóm bệnh do rối
nhiễu tâm lý gây ra gánh nặng bệnh tật nhiều hơn nhóm khác, kể cả ung thư hoặc bệnh tim
mạch. Gánh nặng này ở tất cả các lứa tuổi, bao gồm trẻ em và vị thành niên và là một
nguyên nhân quan trọng của bệnh tật và tử vong [35]. Ở một số nơi tại miền Nam Ấn Độ,
nông thôn Trung Quốc, một số công trình nghiên cứu cho thấy giao thoa giữa sức khỏe thể
chất và rối nhiễu tâm lý rất quan trọng - là nguy cơ thêm vào cho bệnh lý tim mạch, tiểu
đường, sức khỏe sinh sản, chấn thương, tự tử,…được coi là do rối nhiễu tâm lý gây ra.
Tâm lý là một vấn đề quan trọng trong hệ thống sức khỏe cũng như sức khỏe thể chất đối với các cá nhân, cộng đồng và thế giới. Rất khó có thể dự đoán một ai đó có thể phát triển các rối nhiễu tâm lý, khó áp dụng các biện pháp nâng cao sức khỏe một cách có hiệu quả trên dân số [79].
Từ các tạp chí xuất bản ở Việt Nam, tạp chí tiếng Anh, người nghiên cứu nhận thấy rằng các kết quả tập trung nhiều vào “kiến thức, thái độ và hành vi sức khỏe”, liên quan đến HIV/AIDS, sử dụng thuốc lá, rượu [13], [59],[77] mặc dù những nghiên cứu này quan trọng, nhưng nó không nhấn mạnh vào đặc điểm tâm lý của những người tham gia nghiên cứu, hay các yếu tố xác định tình trạng tâm lý kém. Khả năng hạn chế trong lĩnh vực Tâm lý học Sức khỏe ở các nước đang phát triển đã là điểm nhấn của nhiều bài báo đặc biệt trong tạp chí TheLancet (2008) và tạp chí Tâm lý học và tâm thần trẻ em [79],[84],[102]. Không có sức khỏe nếu không có sức khỏe tâm lý [79],[80]. Theo tác giả Belfer (2008) đã phân tích những khó khăn trong việc cải thiện chăm sóc sức khỏe tâm lý ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, và đã đưa ra đề nghị có hướng dẫn rõ ràng đối với các giải pháp [35], một giải pháp khác là vận động cộng đồng tham gia với các nhà nghiên cứu một cách có ý nghĩa để địa phương có liên quan trong việc giải thích và sử dụng kết quả nghiên cứu này hơn là “tiếp thu một cách máy móc” các giải pháp từ các nước phát triển. Có rất nhiều các bài báo khoa học, số liệu và nghiên cứu từ nguồn các nước nói tiếng Anh, các nước có nền kinh tế phát triển, nhưng rất ít ở các nước châu Á khác và đặc biệt tại Việt Nam [94], [95].
Rối nhiễu tâm lý tương tác với nhiều tình trạng sức khỏe (WHO), những người sống
trong các tình trạng sang chấn dễ mắc rối loạn trầm cảm, lo lắng, stress, cảm xúc, xa xút
trong học tập, việc làm và có thể bị thất nghiệp, nặng hơn có thể tự tử....[59]. Rối nhiễu tâm
lý làm tăng rất nhiều lần nguy cơ nhiễm HIV, có thể suy giảm việc tuân thủ điều trị, dẫn đến
phát triển AIDS [36]. Trong nhiều bệnh thực thể, những người có sẵn rối nhiễu tâm lý từ
trước sẽ làm chậm trễ việc tìm kiếm sự giúp đỡ [9],[19].
Có một tỉ lệ lớn của các triệu chứng liên quan đến sức khỏe tâm lý trong sinh viên y
khoa, stress xảy ra khi sinh viên y mới bắt đầu chương trình đào tạo [40]. Ở các nước Trung
Quốc, Hồng Kông, Thái Lan và các nước châu Á khác [65], [74], [104] cũng đã nghiên cứu
về sức khỏe tâm lý ở thanh thiếu niên. Việt Nam nằm trong nước được quan tâm về sức
khỏe tâm lý cộng đồng trong khối các nước đang phát triển, trong 10 ưu tiên để đối phó
những vấn đề bất bình đẳng toàn cầu nghiêm trọng trong chăm sóc và nâng cao sức khỏe
tâm lý, WHO khuyến nghị áp dụng như tăng cường sự tiếp cận điều trị trong chăm sóc sức khỏe ban đầu [97], [100] về lồng ghép sức khỏe tâm lý trong CSSKBĐ. Những kết quả nghiên cứu mới đây tại Việt Nam như bạo lực tình dục [58], stress trong việc nuôi nấng con
cái [20], yếu tố nguy cơ chấn thương tâm lý [59], đo lường nguồn vốn xã hội [44], làm việc
trong môi trường y tế [3] của chương trình liên kết Châu Á, cũng chỉ ra yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến rối nhiễu tâm lý [49]. Học tập là một môi trường có stress cao, nhiều lo âu và cảm xúc [5], thường tạo ra hiệu ứng ảnh hưởng đến thành tích học tập, sức khỏe và phúc lợi của sinh viên
Chính vì lý do trên người nghiên cứu tiến hành khảo sát “Một số rối nhiễu tâm lý của
sinh viên Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng rối nhiễu tâm lý của sinh viên Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
− Phân tích, tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan đến rối nhiễu tâm lý ở sinh viên.
− Xác định tỉ lệ và các mức độ rối nhiễu trầm cảm ở sinh viên.
− Xác định tỉ lệ và các mức độ rối nhiễu lo âu ở sinh viên.
− Xác định tỉ lệ và các mức độ rối nhiễu stress ở sinh viên.
− Xác định mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress với các yếu khác.
4. Giả thuyết nghiên cứu.
− Có biểu hiện rối nhiễu tâm lý của sinh viên ở mức độ cao.
− Có sự khác biệt mức độ rối nhiễu tâm lý của sinh viên theo nhóm các yếu tố giới tính, năm học, ngành học, thời gian học, chỗ ở, phương tiện di chuyển thường xuyên, sử dụng internet, giải trí, kế hoạch học tập, hành vi hút thuốc lá, uống rượu/bia.
5. Phạm vi nghiên cứu.
5.1.Nội dung.
Trong các rối nhiễu tâm lý ở sinh viên, người nghiên cứu chỉ nghiên cứu rối nhiễu lo
âu, trầm cảm, stress ở sinh viên Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh.
5.2.Phạm vi.
− Sinh viên năm 1 và 3 các Khoa thuộc Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa. Điểm mới của đề tài.
Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh và đầu tiên trong cả
nước về sức khỏe tâm lý sinh viên.
Các tham số của rối nhiễu tâm lý như tỉ lệ, mức độ,… đã được xác định liên quan đến nhiều yếu tố như năm học, hay ngành học, hút thuốc lá, uống rượu bia, giới,….có khả năng ảnh hưởng rối nhiễu tâm lý ở sinh viên.
Những phát hiện này sẽ được sử dụng để thay đổi phương pháp giáo dục và bắt đầu
chương trình quản lý rối nhiễu tâm lý để cải thiện sức khỏe và nâng cao chất lượng học tập
cũng như cuộc sống của sinh viên ngành y tế.
Tính khái quát hóa và tính ứng dụng.
Sức khỏe thể chất và tinh thần của sinh viên y khoa có tiềm năng ảnh hưởng đến chất
lượng cung cấp, can thiệp, chăm sóc bệnh nhân hay cộng đồng, khi họ trở thành Bác sĩ,
chuyên gia Y tế Công cộng, Điều dưỡng, Dược sĩ.
Sự rối nhiễu tâm lý nặng và rất nặng ở sinh viên có thể tiếp tục trong quá trình thực tập,
thời gian học sau đại học, và thời gian sau đó là trong cuộc sống thực tế của nhân viên y tế
sau này.
Các nhân viên y tế căng thẳng và lo lắng không có khả năng cung cấp chăm sóc bệnh
nhân tối ưu, hay thiết kế chương trình can thiệp sức khỏe cộng đồng, nâng cao sức khỏe
cộng đồng.
Can thiệp kịp thời để kiểm soát rối nhiễu tâm lý trong sinh viên ngành y là có khả năng
dẫn đến tình hình học tập tốt hơn và cung cấp các dịch vụ chăm chăm sóc bệnh nhân/cộng
đồng sau đó tốt hơn.
Rối nhiễu tâm thần có thể điều trị khỏi nhưng luôn để lại di chứng về sau, phòng tránh
kiểm soát rối nhiễu tâm lý là mục tiêu hàng đầu của chăm sóc sức khỏe ban đầu, của ngành y tế công cộng và của các nhà trị liệu tâm lý.
Kết quả này khảo sát trên dân số mục tiêu là sinh viên ngành y, do đó tỉ lệ rối nhiễu tâm
lý chưa thể khái quát hóa cho các sinh viên trường khác, ngành khác.
Hạn chế của phương pháp nghiên cứu.
Trong bộ câu hỏi phỏng vấn có tính chất định tính nên khó thống nhất hoàn toàn về cách chọn lựa phương án trả lời của sinh viên. Trong thang đo DASS-42 bảng phỏng vấn đối tượng xảy ra trong thời gian tuần lễ qua với được phép nhiều phương án chọn lựa những câu mang tính chất định tính như trên có thể phương án trả lời của những sinh viên chưa được thống nhất, vừa bị hạn chế sai lệch thông tin nhớ lại. Nghiên cứu cắt ngang mô tả (tại một thời điềm) nên kết luận nhân quả hạn chế.
Hạn chế kết quả trả lời của sinh viên.
Có thể có những sinh viên trả lời lấy có, theo hướng an toàn, chung chung, tùy tiện, vô tình làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên đã được loại ra theo phiếu kiểm định tính trung thực của câu trả lời.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài.
Vào những năm 1955, một số tác giả đã quan tâm đến việc nghiên cứu yếu tố tâm lý
ảnh hưởng đến sức khỏe [86], [89]. Năm 2007, nhóm tác giả Naiemeh Seyedfatemi,
Maryam Tafreshi1 và Hamid Hagani, kết quả nghiên cứu cho thấy, rối nhiễu tâm lý sinh
viên năm nhất là 65,8% tăng khối lượng công việc lớp học tỉ lệ 66,9% và thường xuyên nhất
là sự stress trong môi trường tình huống không quen thuộc là 64,2% và chờ đợi lâu dài tỉ lệ
là 60,4%. Sự stress nhiều hơn đáng kể trong năm đầu tiên so với các sinh viên năm thứ tư.
Trong số các chiến lược đối phó trong 12 lĩnh vực, vấn đề gia đình cố gắng giải thích với cha mẹ và thỏa hiệp tỉ lệ 73%, đi cùng với các quy tắc trong gia đình tỉ lệ 68% đã được sử
dụng thường xuyên bởi hầu hết sinh viên. Để đối phó với yêu cầu tham gia vào hoạt động, sinh viên thường xuyên cố gắng tìm ra cách đối phó với vấn đề có tỉ lệ 66,4% và cố gắng để cải thiện bản thân có tỉ lệ 64,5%. Các chiến lược tự chủ, cố gắng để làm theo quyết định của mình tỉ lệ 62%, các chiến lược hỗ trợ xã hội tỉ lệ 59,6%, cố gắng để giúp bạn khác giải quyết vấn đề của họ tỉ lệ 56,3%, và cố gắng để theo kịp bạn bè hoặc những người bạn mới tỉ lệ 54,4%, các chiến lược tinh thần như cầu nguyện/suy niệm tỉ lệ 65,8%, các chiến lược chuyển hướng tìm kiếm nghe nhạc tỉ lệ 57,7%, chiến lược thư giãn tỉ lệ 52,5%, và nỗ lực để được gần gũi với quan tâm đến một người nào đó về bạn tỉ lệ 50,5% đã từng sử dụng thường xuyên theo đa số sinh viên. Hầu hết sinh viên cho rằng các chiến lược tránh hút thuốc lá tỉ lệ 93,7% và uống bia hoặc rượu vang tỉ lệ 92,9%, chửi thề tỉ lệ 85,8%, chiến lược nhận được tư vấn chuyên nghiệp tỉ lệ 74,6% và nói chuyện với một giáo viên hoặc nhân viên tư vấn tỉ lệ 67,2% và chiến lược hài hước đùa và giữ một cảm giác hài hước tỉ lệ 51,9% [73].
Một nghiên cứu tại Tehran, hầu hết các sinh viên là nữ tỉ lệ 87,2% độ từ 18 đến 24 tuổi, khoảng 57% sinh viên sống trong ký túc xá trường đại học (đến từ các thành phố khác). Kết quả cho thấy sinh viên gặp khó khăn khi stress thì mới tìm kiếm bạn bè tỉ lệ 76,2% và làm việc với những người họ không biết tỉ lệ 63,4%, làm việc với những người họ không biết và thay đổi mối quan hệ trong hoạt động xã hội thì thường xuyên bị stress hơn so với sinh viên nhóm khác, những khác biệt này là ý nghĩa thống kê. Phổ biến nhất của các yếu tố ảnh hưởng hưởng đến stress là trách nhiệm mới (tỉ lệ 72,1%, p<0,001), yếu tố bắt đầu học đại học và bắt đầu vào môi trường mới (tỉ lệ 65,8%), và thay đổi trong thói quen ngủ làm tăng stress nhiều hơn đáng kể so với những sinh viên khác.
Bắt đầu có sự quan tâm và nghiên cứu về sức khỏe tâm lý ở thanh thiếu niên ở các
nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan và các nước châu Á khác [103], chưa có
nghiên cứu về sức khỏe tâm lý sinh viên Việt Nam từ năm 2010 trở về trước.
Kết quả của một nghiên cứu định tính của nhóm tác giả H.J Hoekstra, B.B Van
Meijel, T.G Van der Hooft-Leemans (2010), siên sinh viên Điều Dưỡng năm nhất về nhận
thức đối với các bệnh nhân tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần ảnh hưởng đến sự lựa
chọn của họ về chuyên môn trong việc chăm sóc sức khỏe tâm thần và tương lai làm việc
trong lĩnh vực này, phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc sinh viên học tại một trường học
của Hà Lan [54], kết quả sinh viên Điều Dưỡng năm nhất có ấn tượng, chủ yếu là nhận thức
tiêu cực đối với người bệnh là bệnh tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần. Những nhận
thức mạnh mẽ ảnh hưởng sự lựa chọn tương lai nghề nghiệp của mình.
Khảo sát mối quan hệ giữa cách đối phó, lòng tự trọng, các yếu tố cá nhân và sức
khỏe tâm lý trong 515 sinh viên Điều Dưỡng được lựa chọn từ bốn Viện Công cộng và các
trường Cao Đẳng tại Tây An của Trung Quốc bằng một phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên, nhóm tác giả C.Ni, X.Liu và cộng sự 2010, họ đã sử dụng thang đo tự đánh giá SCL-90. Trên cơ sở tổng số điểm của thang đo SCL-90 đạt được trong cuộc khảo sát, gồm điểm nhóm thấp (100 SV) và nhóm điểm cao (100 SV). Sau đó thiết kế nghiên trường hợp bắt cặp được kiểm soát được thực hiện để xác định những mối quan hệ giữa cách đối phó, lòng tự trọng, các yếu tố cá nhân và sức khỏe tâm thần. Ngoài ra thống kê mô tả, phân tích Chi bình phương, t-test và phân tích hồi quy logistic đa biến cũng được sử dụng. Các hoạt động đối phó và lòng tự trọng điểm của các nhóm điểm số cao đã được tìm thấy là thấp hơn nhiều so với những người trong nhóm điểm thấp (p<0,05). Phân tích hồi quy Logistic đa biến cho rằng học tập stress gấp 10 lần, khoảng tin cậy 95% là từ 3,3 đến 30,7 trong năm qua. Tự hài lòng cao, tỉ số chênh là 3,7% (OR= 0,037, KTC 95% từ 1,4% đến 9,7% và lòng tự trọng tăng lên khoảng 35% dao động trong KTC 95% là từ 15,2 đến 83,8%, và nó được xem là các yếu tố phòng ngừa. Để cải thiện sức khỏe tâm lý của sinh viên Điều dưỡng, ngoài việc giảm stress học tập, tránh bị động trong đối phó, đó là điều rất cần thiết để sinh viên giảm thiểu stress, đẩy mạnh tự chủ, và phát triển lòng tự trọng [74].
Một yếu tố khác đó là sự kỳ thị của sinh viên đối với người bị rối nhiễu tâm lý- bệnh tâm thần, một khảo sát trên sinh viên Dược khoa tại Úc, Bỉ, Estonia, Phần Lan, Ấn Độ và Latvia, cho thấy sinh viên học tập trong bối cảnh này thường biểu lộ thái độ tiêu cực đối với người bị rối loạn tâm thần. Một vài nghiên cứu quốc tế đã tìm cách điều tra các yếu tố của sự kỳ thị. Để tiến hành so sánh quốc tế sự kỳ thị của sinh viên các nước đối với người có tâm thần phân liệt, và để xác định xem sự kỳ thị được liên kết với các thuộc tính khuôn mẫu
nào của những người bị tâm thần phân liệt, tác giả M.A.Woods và cộng sự (2010) khảo sát
649 người tại 8 trường Đại học ở Australia, Bỉ, Ấn Độ, Phần Lan, Estonia và Latvia, bộ câu
hỏi (SDS) được sử dụng, và sáu yếu tố liên quan đến các thuộc tính khuôn mẫu của những
người tâm thần phân liệt. Kết quả cho thấy trung bình là 19,65 ± 3,97 điểm SDS ở Úc, 19,61
± 2,92 ở Bỉ, 18,75 ± 3,57) ở Ấn Độ, 18,05 ± 3,12) ở Phần Lan, và 20,90 ± 4,04) ở Estonia
và Latvia. Mô hình tiên đoán là mạnh mẽ nhất có liên quan với việc có một khoảng cách xã
hội cao tại Úc (beta= -1,29), quan niệm cho rằng mọi người sẽ không bao giờ phục hồi tại
Ấn Độ (beta= -0,88), là nguy hiểm ở Phần Lan (beta=-1,47) và nhận thức được khó khăn để
nói chuyện với người bệnh ở Estonia và Latvia (beta = -2,08), khoảng cách xã hội thấp hơn
ở Bỉ (beta=0,839). Ngoài ra kết quả cũng chỉ ra rằng các mức độ mà học sinh có thái độ kỳ
thị tương tự ở mỗi nước, tuy nhiên, các yếu tố của sự kỳ thị là khác nhau [102].
Kết quả về thái độ của sinh viên ngành Phục hồi Chức năng trong một nghiên cứu
thực nghiệm có nhóm chứng. Dân số mục tiêu được chia thành 2 nhóm: sinh viên phục hồi
chức năng là 219 người, nhóm 2 sinh viên khác (không thuộc ngành y) là 112 người. Tuổi
từ 17-28 tuổi. Trong nhóm sinh viên PHCN, cho học 65 giờ về phục hồi chức năng tâm
thần. Kết quả so sánh giữa hai nhóm cho thấy thái độ đối với bệnh tâm thần được tích cực vừa phải 103,3±9,9 điểm. Có một sự khác biệt nhỏ nhưng đáng kể giữa các sinh viên PHCN, sinh viên nữ có thái độ tích cực hơn đối với bệnh tâm thần so với sinh viên nam (Cohen d=0,44). Những sinh viên có kinh nghiệm về bệnh nhân tâm thần thì có thái độ có liên quan với thái độ tích cực (Cohen d=0,68) hơn, nghĩa là thái độ tích cực tăng sau khi hoàn thành một khóa học tâm thần (Cohen d=0,72) [81].
Vấn đề sức khỏe tâm lý và hành vi tìm kiếm giúp đỡ giữa các sinh viên đại học. Theo nhóm tác giả Hunt.J, Eisenberg.D rối loạn tâm thần phổ biến trong số các sinh viên đại học và các rối loạn này xuất hiện để được gia tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng [56].
Sức khỏe tâm lý của sinh viên Nữ Hộ sinh (Úc), tác giả Mc.Cann T.V, Clark.E và cộng sự khảo sát Trường Đại học Victoria, Melbourne, Victoria 8001, Australia. Phụ nữ mang thai và gặp vấn đề sức khỏe tâm lý sau sinh, có 38 SV được thăm dò, kết quả cho thấy rằng các sinh viên đã có một khái niệm chủ yếu là giáo dục sức khỏe cho phụ nữ và thông báo các can thiệp sức khỏe tâm lý cho phụ nữ sau khi sinh. Những phụ nữ có niềm tin tôn giáo thì mức độ rối loạn tâm lý sau khi sinh thấp hơn rất nhiều so với nhóm còn lại [69]. Yếu tố niềm tin trong bản thân của mỗi sinh viên, giúp cho họ giảm thấp tỉ lệ rối nhiễu tâm lý.
Gần đây Úc cải cách chăm sóc sức khỏe, đã cố gắng để giải quyết giảm gánh nặng của bệnh mãn tính bằng cách áp dụng chăm sóc sức khỏe ban đầu. Bằng cách này, các nhân
viên sức khỏe cộng đồng được thử thách để chứng minh sự hiểu biết và năng lực của họ để
thực hành theo nguyên tắc chăm sóc sức khỏe ban đầu. Mô hình này đặc biệt thích hợp cho
tương lai phát triển chương trình đào tạo Cử nhân Điều dưỡng và Điều dưỡng y tế cộng
đồng ở Úc [102]. Ngoài ra còn có bằng chứng về sức khỏe nghề nghiệp, can thiệp tại nơi
làm việc có thể có hiệu quả những stress. Kompier đã chỉ ra rằng một số các can thiệp nhằm
mục đích giảm bớt stress trong các trình điều khiển xe buýt đã có hiệu quả mang lại lợi ích
cho nhân viên và các công ty xe buýt [61]. Là một cá nhân trở thành những người bị bệnh
hoặc thương tích nghiêm trọng đối mặt với thực tế khác nhau rất nhiều stressors. Các cuộc
họp stressors bao gồm các vấn đề y tế và các hoá đơn thanh toán; vấn đề nhận được chăm
sóc đúng khi từ bệnh viện về nhà, trở ngại để chăm sóc cho người phụ thuộc, có một ý nghĩa
của tự sự tin cậy công; Những stressors có thể dẫn tới trầm cảm, giảm tự tin, vv... Sức khỏe
tâm lý cũng quan tâm riêng của mình với bệnh tật. Khi có ít hy vọng về phục hồi, sức khỏe
tâm lý học trị liệu có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng cách giúp bệnh
nhân khôi phục lại ít nhất là một số trong mình tâm lý tốt được. Sức khỏe tâm lý học khám
phá quan trọng như thế nào chính sách y tế có thể ảnh hưởng trí tuệ, sự bất bình đẳng trong
xã hội và cộng đồng. Các nghiên cứu mở rộng phạm vi của sức khỏe tâm lý vượt ra ngoài
mức độ cá nhân, một kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng sức khỏe như kinh tế và xã hội nó đóng
vai trò quyết định sức khỏe con người dể nhận diện nhất là những vùng địa lý giáp ranh và
nội thị ở khu vực và các quốc gia [2].
Một nghiên cứu theo thời gian 4 năm (đoàn hệ tiến cứu), sinh viên 4 trường đại học y tại Na Uy vào năm 1993. Dữ liệu được thu thập bằng phiếu tự điền lần đầu năm thứ 1, năm thứ ba, năm thứ năm (hoặc thứ sáu). Trong 421 sinh viên, 375 trả lời bộ câu hỏi tự điền - đáp ứng tỉ lệ 89%, phụ nữ tỉ lệ 54%, độ tuổi trung bình là 22,1±3,1 tuổi, 302 sinh viên tham gia vào việc đánh giá lần thứ hai - đáp ứng tỉ lệ 72%, 59% phụ nữ, độ tuổi trung bình là 24,8 ± 2,6 tuổi, 287 người đã tham gia đánh giá năm cuối cùng - đáp ứng tỉ lệ 68%, phụ nữ 55%, độ tuổi trung bình là 27,7 ± 2,5 tuổi. Tổng cộng có 236 học sinh trả lời trên cả ba lần là 56%, nữ sinh viên là 60%, tuổi trung bình là 21,6±2,5 năm.
Nghiên cứu theo chiều thời gian, phân tích quá trình sự hài lòng trong suốt thời gian sống và học tập tại trường Y khoa. So sánh mức độ thỏa mãn cuộc sống của sinh viên y khoa với sinh viên đại học khác. Hai mẫu được sử dụng để so sánh được thu được từ một nghiên cứu cắt ngang trên toàn quốc về chất lượng cuộc sống [28]. Các tiêu chí bao gồm nội dung bao trùm tất cả các sinh viên đại học ở các nhóm tuổi tương ứng. Trong số 3.500 người tham gia đã có 643 sinh viên đại học, (63% phụ nữ, tuổi trung bình là 23,2±1,6 năm) độ tuổi của sinh viên y khoa năm nhất, 136 sinh viên (51% phụ nữ, tuổi 27,7 ±1,9 năm) y khoa năm cuối [60]. Công cụ PMSS được phát triển bởi Vitaliano [96]. Các mục PMSS sử dụng một điểm Likert (quy mô 5 bậc). Một phân tích phương sai cho thấy yếu tố đầu tiên, lo âu học tập (0,8), nơi ở, làm chủ kiến thức, khả năng chịu đựng và trách nhiệm. Yếu tố thứ hai, cá nhân từ bỏ xã hội (0,7), giáo dục các bác sĩ, chi phí, lợi ích. Theo kết quả biến theo
chiều thời gian và để xác định cảm nhận sự stress trong một thời gian dài, mỗi yếu tố được
đo 2 lần (tiền kiểm và hậu kiểm) bằng tổng của các điểm của các mục tương ứng của nó
trong các đánh giá cuối cùng hai (quy mô: 60-30). Có 1.640 sinh viên (Hàn Quốc) trầm cảm
chiếm 52%. Các yếu tố đó đã ảnh hưởng là dễ bị tổn thương, stress, hỗ trợ xã hội, đối phó
[92].
Trong nghiên cứu khác của Crawford.J.R mô tả cắt ngang trên 1771 người, so sánh với thang đo trầm cảm và lo âu (HADS và SAD), và đo lường hiệu ứng tích cực và tiêu cực,
hệ số tin cậy Alpha Cronbach là 0,93 [40].
Tác giả Bayram, Bilgel.N mô tả cắt ngang trên 1.617 sinh viên, trầm cảm, lo âu và
stress mức độ nặng vừa phải hoặc cao hơn đã được tìm thấy ở 27%, 47% và 27% người trả
lời tương ứng. Lo âu và stress đã được cao hơn điểm giữa các học sinh nữ. Sinh viên năm
thứ hai tỉ lệ trầm cảm, lo âu và stress cao hơn năm khác. Những sinh viên mà hài lòng với
nền giáo dục thì họ trầm cảm, lo âu và stress thấp hơn. Tỉ lệ trầm cảm, lo âu và stress cao
giữa các sinh viên là đáng báo động [34],[93]. Theo Wong.J.G thì trầm cảm, lo âu và stress
ở sinh viên năm thứ nhất trong hệ thống giáo dục Đại học ở Hồng Kông là cao. Thiết kế trên
web (khuyết danh) về trầm cảm, lo âu và stress đã được đo DASS 42 có 7915 sinh viên
tham gia, có tỉ lệ rồi nhiễu trầm cảm, lo âu và stress mức độ nặng là 21%, 41% và 27,5%. Tỉ lệ mức độ rối nhiễu trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên biểu hiện trong năm đầu tiên của cuộc sống ở trường là đáng báo động [91].
Nghiên cứu theo chiều dọc của Stewart.S.M [91] trên 121 sinh viên y khoa (81% của lớp) đã được khảo sát. Cuộc khảo sát đầu tiên đã diễn ra ngay trước khi bắt đầu đào tạo (đợt 1); các cuộc khảo sát thứ hai được khoảng 8 tháng sau khi bắt đầu các lớp học (đợt 2). Sử dụng các chiến lược tránh né đối phó dẫn đến gia tăng trầm cảm và lo âu; Ở đợt 2, hoạt động đối phó và thích ứng kết quả trầm cảm và lo âu giảm. Những phát hiện này cho thấy đặc điểm của học sinh dễ bị tổn thương những người có thể được xác định sớm trong năm đầu tiên của họ và cung cấp hỗ trợ thêm. Ngoài ra, thông tin về các chiến lược đối phó có hiệu quả tức là những nỗ lực tích cực đối phó và có nghĩa là không hiệu quả đối phó với stress tức là tránh né những nỗ lực đối phó có thể là hữu ích trong việc ngăn chặn nạn [91].
Stress, đối phó, và hạnh phúc trong năm thứ ba sinh viên y khoa, Mosley T.H.Jr, 69 sinh viên năm thứ ba hoàn thành lớp thư ký y khoa tại 1992-1993 tại ĐH Mississippi School of Medicine. Phương pháp phân tích thống kê bao gồm tương quan và hồi quy thứ bậc, mức độ trầm cảm là 16 người (tỉ lệ 23%), và 39 (57%) ở mức cao, Stress chiếm một tỉ lệ lớn các phương sai (29% đến 50%). Cuộc sống hài lòng và khả năng phục hồi trong 6 năm học tại Trường Y, và so sánh với sinh viên toàn quốc. Nhóm tác giả đã xem xét mối quan hệ giữa sự thỏa mãn cuộc sống giữa các sinh viên y khoa và một mô hình cơ bản của nhân cách, stress và đối phó [76], so với mức độ hài lòng của sinh viên y khoa với sinh viên đại học
khác, và xác định các yếu tố khả năng phục hồi, kiểm định t.ttest cho các biến số có phương
sai đồng nhất so sánh sự hài lòng của cuộc sống giữa và trong các nhóm dân cư, phân tích
cluster đã được áp dụng để xác định các nhóm “con” giữa các sinh viên y tế. Phân tích biến
lượng và phân tích hồi quy được sử dụng để so sánh các nhóm con. Hài lòng cuộc sống
giảm trong thời gian học y. Sinh viên y tế đã làm hài lòng là các học sinh khác trong năm
học đầu tiên, nhưng ít hơn sự hài lòng trong năm tốt nghiệp của họ, sinh viên y những người
duy trì ở mức cao sự hài lòng cảm nhận cuộc sống trường y như can thiệp ít hơn với đời
sống xã hội và cá nhân của họ, và đã ít có khả năng sử dụng cảm xúc tập trung đối phó,
chẳng hạn như mơ tưởng, hơn đồng nghiệp.
Theo Tunay.S, Soygüt.G và cộng sự để đánh giá mức độ lo âu khác thường trên hai
nhóm học sinh khác nhau từ các Khoa khác nhau tuổi từ 17-25 tuổi. Nghiên cứu thử gồm
210 nữ và 170 nam sinh viên để đánh giá quy mô của thử nghiệm [92]. Điểm số giữa các
nhóm trầm cảm và lo âu. Xem xét và phân tích tỉ lệ tham gia của sinh viên trong hoạt động
thể chất ở mức độ cần thiết để thu được lợi ích sức khỏe. Nghiên cứu 19 trường tiểu học
(xuất bản 1985-2001) đại diện cho tổng số 35.747 sinh viên (20.179 phụ nữ và 15.568 nam
giới) từ tổng số 27 quốc gia (Australia, Canada, Trung Quốc, Đức, Nigeria, Hoa Kỳ, và 21
nước châu Âu) được mô tả và số tiền của hoạt động được xác định trong từng nghiên cứu được phân tích theo quy định của trường Cao đẳng Y học thể thao Mỹ (ACSM) hướng dẫn cho các hoạt động thể chất. Đối với các nguyên tắc này, hơn một nửa số sinh viên đại học ở Hoa Kỳ và Canada không hoạt động đủ để đạt được lợi ích sức khỏe. Quốc tế, cũng đúng, mặc dù sinh viên Úc xuất hiện để có mức cao nhất của hoạt động đầy đủ (60%). Phụ nữ, và đặc biệt là phụ nữ Mỹ gốc Phi, là một trong những ít nhất học sinh tích cực, và sinh viên sống ngoài trường được chủ động hơn so với những người trong khuôn viên trường. Thiếu hoạt động là một mối quan tâm sức khỏe nghiêm trọng giữa các sinh viên đại học. các can thiệp thích hợp và các công cụ để đo ACSM khuyến cáo hoạt động thể chất là cần thiết [57].
Thiếu hoạt động là một mối quan tâm sức khỏe nghiêm trọng giữa các sinh viên đại học. Các can thiệp thích hợp và các công cụ để đo ACSM-nên hoạt động thể chất là cần thiết. Nghiên cứu tại khoa Điều dưỡng và khoa Y tế Công cộng mới đây [18], sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 401 sinh viên của 2 khoa, sử dụng những thang đo về các mức độ trầm cảm, lo âu, hạnh phúc và hy vọng, kết quả cho thấy sinh viên nữ có khuynh hướng lo âu nhiều hơn nhưng lại ít trầm cảm hơn sinh viên nam. Những yếu tố gia đình có ảnh hưởng đến mức độ trầm cảm của sinh viên nam trong khi những yếu tố liên quan đến môi trường học tập có mối liên hệ mạnh mẽ với mức độ trầm cảm của sinh viên nữ. Chiều hướng tích cực của sức khỏe tâm lý được đo lường thông qua các thang đo về hạnh phúc và hy vọng trên sinh viên nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến nhà trường. Đối với nữ, tất cả các nhóm biến độc lập bao gồm các đặc điểm về gia đình, nhà trường và xã hội, đều có tác động đến cảm nhận về hạnh phúc và hy vọng của họ.
Các vấn đề nổi bật về sức khỏe tâm lý sinh viên gặp phải là: khó tập trung vào công
việc là 8,5%, cảm thấy mệt mỏi khi làm việc là 8,7%, ít nói hơn bình thường là 7,5%, cảm
thấy buồn là 7,1%. Nhiều đối tượng không cảm thấy hy vọng vào tương lai tỉ lệ 39% và đã
cảm thấy không hạnh phúc là 46,8% trong vòng một tuần trước cuộc phỏng vấn. Tỉ lệ sinh
viên từng có hành vi tự tử chiếm 0,9%. Với 778 đối tượng có trả lời câu hỏi thì tỉ lệ có hành
vi tự tử trong 12 tháng qua là 14,4%, trong đó tỉ lệ tự tử ở nam giới là 6,3% và nữ là 8,1%.
Khoảng 18% nam và 8,4% nữ hiện có sự lo âu về việc uống rượu của bản thân, khoảng 32%
vị thành niên lo âu về việc uống rượu của cha mẹ họ, 21% lo âu về vấn đề bạo lực trong gia
đình, 16% lo âu về vấn đề bị lạm dụng thân thể, 34% vị thành niên lo âu về việc tìm kiếm
việc làm sau này. Khi được hỏi vấn đề quan trọng trong cuộc sống của vị thành niên-thanh
niên, có đến 56,2% vị thành niên thanh niên cho rằng với họ hiện nay việc học tập là quan
trọng nhất, tiếp đến tỉ lệ tương đối cao là 29,6% đối tượng cho rằng sức khỏe là vấn đề thứ
hai họ cho là quan trọng. Vấn đề quan trọng tiếp theo là tìm được việc làm (22% đối tượng).
Để khám phá những vấn đề tâm lý hiện nay giữa y tế và sinh viên khoa Nha tại Iraq.
Nghiên cứu này được thực hiện tại Khoa Dược, Đại học Y khoa, Đại học Mustansiriya,
Baghdad, Iraq từ tháng 01- 5/2009. Tổng cộng có 440 sinh viên Y khoa và Nha khoa được yêu cầu để hoàn thành 12 mục (GHQ-12) và 30-mục (GHQ-30). Đo lường mức độ stress tâm lý của họ. Căn cứ vào GHQ-12, sử dụng đơn giản cho điểm thái độ (Likert), điểm>12 những sinh viên được phân loại là có khả năng bệnh tâm lý. Không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê của sinh viên 2 nhóm này (50,6%; 89 trong số 176) và y khoa (51,1%; 135 trong số 264), với một tỷ lệ tỷ số số chênh là 1,138. Dựa trên GHQ-30, các trường hợp có thể xảy ra (≥5 điểm) đã được báo cáo có ý nghĩa (p<0,001) cao hơn so với học sinh nha khoa gấp 3,3 lần (tỉ số chênh OR= 3,25)
Học sinh sử dụng Internet để tìm thông tin sức khỏe tâm lý và hỗ trợ. Đó là nhận ra rằng những người trẻ tuổi gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế chủ đạo tinh thần đặc biệt vì những sự kỳ thị vẫn còn liên kết với vấn đề sức khỏe tâm thần. Một trong những giải pháp tiềm năng là sử dụng nhiều trang website cung cấp thông tin có sẵn và hỗ trợ cho các vấn đề sức khỏe tâm thần, hỗ trợ, thông tin đó có thể được cung cấp bởi tâm thần. Tuy nhiên, người trẻ sử dụng và quan điểm về sử dụng Internet cho mục đích này vẫn chưa được kiểm tra. Điều này mô tả nghiên cứu định lượng nhằm gợi ra những quan điểm của 922 sinh viên, tuổi từ 18 đến 24 năm, về việc sử dụng Internet để thông tin sức khỏe tâm lývà hỗ trợ. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng một bảng câu hỏi 30-mục tự thiết kế và phân tích bằng cách sử dụng thống kê mô tả. Những phát hiện cho thấy 72,4% người tham gia sử dụng Internet nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, 30,8% trước đó đã tìm kiếm trực tuyến thông tin sức khỏe tâm thần, chủ yếu vào trầm cảm. Trong khi nó đã được tìm thấy rằng 68% người tham gia chỉ ra rằng họ sẽ sử dụng internet để hỗ trợ sức khỏe tâm lý nếu họ cần đến,
có 79,4% vẫn còn muốn mặt đối mặt hỗ trợ. Đó là kết luận rằng những người trẻ sẵn sàng sử
dụng internet để tìm thông tin sức khỏe tâm lý và rằng nó đại diện cho một nguồn hỗ trợ
hữu hiệu đối với nhóm tuổi này.
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về rối nhiễu tâm lý.
Năm 2007 tác giả Kim Bình Giang, Nguyễn Văn Tuấn và cộng sự chuẩn hóa phiên
bản Việt bộ câu hỏi tự tả lời (SRQ-20) trong việc phát hiện rối loạn tâm lý ở nông thôn Việt
Nam, mẫu nghiên cứu trên 52 người trong bệnh viện huyện và 485 người trong cộng đồng.
SRQ thực hiện tốt hơn đang kể trong độ 18-24 tuổi [52].
Sức khỏe tâm thần của sinh viên Y tế công cộng và sinh viên Điều dưỡng, Huỳnh Hồ
Ngọc Quỳnh và Michael Dunne [18], một nghiên cứu tại một thời điểm xác định các vấn đề
về sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan (bao gồm cả yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ)
có tác động đến sức khỏe tâm thần của sinh viên khoa Y tế công cộng và Điều dưỡng tại Đại
học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh. Nghiên cứu cho thấy sinh viên nữ có khuynh hướng lo âu
nhiều hơn nhưng lại ít trầm cảm hơn sinh viên nam. Những yếu tố gia đình có ảnh hưởng
đến mức độ trầm cảm của sinh viên nam trong khi những yếu tố liên quan đến môi trường
học tập có mối liên hệ mạnh mẽ với mức độ trầm cảm của sinh viên nữ. Chiều hướng tích
cực của sức khỏe tâm thần được đo lường thông qua các thang đo về hạnh phúc và hy vọng, trên sinh viên nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến nhà trường. Đối với nữ, tất cả các yếu tố bao gồm các đặc điểm về gia đình, nhà trường và xã hội, đều có tác động đến cảm nhận về hạnh phúc và hy vọng của họ.
Tỉ lệ rối nhiễu tâm trí và các yếu tố liên quan của sinh viên khoa Y tế công cộng Đại học Y Dược của nhóm tác giả Trần Ngọc Đăng và cộng sự (2010) xác định tỉ lệ rối nhiễu tâm trí và các yếu tố liên quan (bao gồm các yếu tố nhà trường, gia đình, bản thân) đến rối nhiễu tâm trí của sinh viên cho thấy tỷ lệ rối nhiễu tâm trí là 58,47%, không có sự khác biệt về tỷ lệ rối nhiễu tâm trí ở nam và nữ. Tìm thấy một số yếu tố gia đình, nhà trường, bản thân có liên quan đến rối nhiễu tâm lý.
Tác giả Lê Minh Thuận 2011 [24], khảo sát trên 252 sinh viên, tỉ lệ mức độ rất nặng- lo âu khoảng 7% là nữ và 4% là nam (chung là 11%), trầm cảm là 5% (nữ). Mức độ nặng - lo âu là 12%, stress là 2% và trầm cảm 2%. Có sự tương quan cao giữa các yếu tố stress, trầm cảm và lo âu của sinh viên, giữa lo âu và stress là r=0.7, giữa lo âu và trầm cảm là r=0.73, giữa stress và trầm cảm là r=0.65. Yếu tố rối nhiễu tâm lý: lo âu, trầm cảm, stress có mối liện hệ đáng tin cậy với Hy vọng cậy (r= -0.83, -0.85, -0.82), cho thấy yếu tố hy vọng là yếu tố tăng cường bảo vệ. Đây là mối liện hệ nghịch (r<0), tính hy vọng ở sinh viên cao thì giảm đi các rối nhiễu tâm lý và ngược lại rối nhiễu tâm lý tăng thì làm giảm hy vọng. Phương trình hồi quy đa biến được xác định là Hy vọng=47,81-0,37(lo âu) - 0,51(stress) – 0,33(trầm cảm), giải thích được 88,2% (R2=88,2). Không có liên hệ chặt chẽ nào giữa các yếu tố khác với rối nhiễu tâm lý. Rối nhiễu tâm lý trong sinh viên là đáng quan tâm. Giảm tỉ
lệ rối nhiễu tâm lý trong sinh viên, bằng cách tăng cường tính hy vọng cho sinh viên. Sức
khỏe Tâm lý cần được quan tâm và xem trọng trong chính sách và các vấn đề liên quan đến
sinh viên [24].
Thực trạng stress, trầm cảm, lo âu ở trên 1078 học sinh THPT của Lê Anh Tuấn và
cộng sự xác định tỉ lệ bị stress, trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan (bao gồm các yếu tố
nhà trường, gia đình, bạn bè), có 66,5% học sinh bị stress, 46,3% học sinh bị trầm cảm,
73,9% học sinh bị lo âu và 34,1% học sinh bị cả ba hội chứng trên [21]. Nam giới bị rối loạn
lo âu thấp hơn nữ giới là 0,92 lần, những học sinh có chơi thể thao bị stress và trầm cảm ít
hơn những học sinh không chơi thể thao, stress sẽ giảm đi 87% và trầm cảm sẽ giảm 78%.
Nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố gia đình cũng không kém phần quan trọng. Những học
sinh sống chung cùng cha mẹ bị trầm cảm và stress thấp hơn so với những học sinh không
sống chung đầy đủ với cha mẹ, cụ thể là stress sẽ giảm 8,2% và trầm cảm sẽ giảm 7,7%.
Một nhóm tác giả khảo sát hình tượng về sức khỏe tâm thần trong dân số chung ở
Tp.Hồ Chí Minh trong năm 2002 của Bệnh viện Tâm thần cho thấy cộng đồng hiểu biết về
sức khỏe tâm thần còn ít và phiến diện tuy nhiên có sự đồng ý cao với khái niệm cuộc sống hạnh phúc là cuộc sống không có bệnh tật và chan hòa tình cảm của bản thân với mọi người xung quanh.
Nghiên cứu mới đây tại Việt Nam như bạo lực tình dục [58], [62], stress trong việc nuôi nấng con cái [20], làm giảm yếu tố nguy cơ [59], đo lường nguồn vốn xã hội [44], chương trình liên kết châu Á [49] nghiên cứu định tính trong số các nhân viên y tế và lãnh đạo các cấp huyện, xã, thuộc các huyện nông thôn phía Bắc Việt Nam, 20 nam và 20 nữ tham gia vào thảo luận nhóm có trọng tâm. Những người cung cấp thông tin tin rằng bạo lực không chỉ ảnh hưởng về thực thể mà còn cả về sức khỏe tâm lý của phụ nữ. Lạm dụng tình dục được đề cập ít nhất. Bạo lực tình dục (BLTD) được xem là riêng tư và không được thảo luận cởi mở trong cộng đồng. Phụ nữ sẽ tìm kiếm sự CSSK chỉ trong những trường hợp rất nghiêm trọng. Các nhóm hòa giải ở địa phương được dùng để dàn xếp các trường hợp BLTD. Nhân viên y tế dư thừa trong việc can thiệp. Nhân viên y tế có nhận thức về BLTD và lên án nó, nhưng không được chuẩn bị để can thiệp. Tình trạng này thường do không biết biểu hiện của vấn đề, hoặc không được đào tạo đầy đủ. Điều này tương tự với kết quả nghiên cứu ở các nước khác.
Mối đe dọa chính đối với sức khỏe tâm lý là những xã hội và điều kiện vật chất stress rằng chiến tranh tạo ra hoặc tăng cường: Mất mạng lưới xã hội và hệ thống hỗ trợ, đói nghèo, nhà ở quá chật chội và không an toàn, trẻ em thể chất và lạm dụng tình dục, ngoài lề
xã hội, bị lạm tình dục trong và xung quanh các trại tị nạn, thiếu tiếp cận giáo dục, việc
làm,… tâm lý học khám phá sức khỏe quan trọng như thế nào, chính sách sức khỏe có thể
ảnh hưởng bất công, bất bình đẳng, và bất công xã hội.
Một nghiên cứu stress trong việc nuôi con cái của các gia đình có con nhỏ chậm phát
triển trí tuệ ở Miền trung Việt Nam: 106 người mẹ và 93 người cha có con được phát hiện
chậm phát triển trí tuệ. Bộ câu hỏi phỏng vấn chuẩn ở Việt Nam được đánh giá về tính giá
trị của nội dung, được thực hiện với cha mẹ có con tàn tật trong chương trình mẫu giáo ở
Huế. Những bà mẹ có con gái, hoặc con có hoạt động tư duy kém hơn có mức độ stress cao
hơn. Những bà mẹ có chồng gặp các vấn đề về sức khỏe nhiều hơn những bà mẹ khác. Cả
hai bà mẹ và ông bố đều stress khi họ tủi nhục. Có mối tương quan giữa mức độ hoạt động
tư duy của trẻ và stress của cha mẹ. Tình trạng kinh tế xã hội có quan hệ tiêu cực đến sự tủi
nhục. Cha mẹ càng tủi nhục nhiều thì họ càng bị stress nhiều hơn. Nguồn vốn xã hội là một
thuật ngữ thường được dùng để giải thích sự hỗ trợ về mặt xã hội và chất lượng của các mối
quan hệ xã hội. Tuy nhiên, không có sự thống nhất về cách đo lường.
Có nhiều công cụ đo lường được dùng, De Silva và cộng sự đã tìm kiếm để định giá
trị một phiên bản ngắn của SASCAT (công cụ đánh giá nguồn vốn xã hội được điều chỉnh)
ở 4 quốc gia Việt Nam, Peru, Ethiopia và Ấn Độ. Công cụ SASCAT hỏi các câu hỏi thuộc về [44]: Mối quan hệ nhóm trong cộng đồng, hỗ trợ từ các nhóm này, hỗ trợ từ các cá nhân, hoạt động của người dân, tác giả sau đó có làm một phân tích so sánh việc sử dụng SASCAT ở 4 nước có thu nhập thấp. SASCAT được thực hiện ở những người chăm sóc ban đầu cho trẻ từ 6-18 tháng tuổi. Ở mỗi quốc gia (theo phương pháp PPS), cỡ mẫu gồm 20 cụm, mỗi cụm gồm 100 hộ dân được chọn ngẫu nhiên. Tập trung vào nguồn vốn xã hội và sức khỏe tâm lý. Những người chăm sóc trẻ ở tất cả 4 quốc gia đã biểu hiện sự khác nhau về mặt địa lý nội tại trong tần suất các rối nhiễu tâm lý thường gặp (CMD). Loại trừ Việt Nam, khoảng 1 phần 3 các bà mẹ hầu như không nhận được sự hỗ trợ về mặt kinh tế, thiết bị hay tình cảm từ những người khác [84]. Việt Nam có mức hỗ trợ cao hơn các nước khác một cách có ý nghĩa. Ở Việt Nam, dưới 4% không nhận được hỗ trợ từ bất cứ nguồn nào và 85% nhận được từ 2 nguồn trở lên. Kết quả chính là nguồn vốn XH theo nhận thức ở cấp độ cá nhân có liên quan hằng định ở 4 quốc gia với một sự chia đều của các tỉ số chênh về CMD. Kết quả này hiện diện ở 4 quốc gia trong các phân tích thô và có điều chỉnh. Quan hệ nhân quả không được suy ra vì thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu, những người có cái nhìn bi quan có thể tường thuật nhiều hơn về sức khỏe tâm lý kém và cũng tường thuật nhiều hơn về nguồn vốn XH thấp kém.
Khác biệt về sức khỏe liên quan đến tình trạng kinh tế xã hội (TTKTXH) đã được các nhà nghiên cứu mô tả trong nhiều thập kỷ qua. Những người thuộc vị thế XH cao hơn thường có được đời sống sức khỏe tốt hơn những người thuộc vị thế thấp. Mức chênh này
liên quan đến tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân [32] và gặp ở hầu hết các điều kiện và tình
trạng bệnh [66]. Mặc dù có nhiều yếu tố giải thích mối liên quan giữa TTKTXH và sức
khỏe, những yếu tố về rối nhiễu cảm xúc-nhận thức (như trầm cảm) đóng một vai trò đặc
biệt quan trọng [85], [97]. Những nghiên cứu về mối liên quan giữa TTKTXH và trầm cảm
trên khắp thế giới đã liên tục cho thấy có mối liên quan nghịch giữa vị thế XH và rối nhiễu
trầm cảm.
1.2. KHÁI NIỆM RỐI NHIỄU TÂM LÝ.
Một rào cản trong học tập đó là rối loạn sức khỏe tâm lý, một nghiên cứu gần đây
trong thanh niên Canada cho thấy thanh thiếu niên trở nên chán nản sau mỗi năm. Thậm chí
bị rối loạn nhiều loại tâm lý khác nhau, chủ yếu là lo âu, stress, trầm cảm [1], [78].
Hội chứng rối nhiễu tâm lý (nặng)
Triệu chứng nhẹ, thoáng qua: tai nạn; ảnh hưởng trầm cảm; cảm giác lo lắng, mất người thân, người sống sót tội lỗi; tâm thể; khó chịu; ngủ khó khăn, tuyệt vọng; nóng nảy; lo ngại; cảm thấy quan trọng của người khác; tự tử.
Những vấn đề tâm lý, xã hội: tăng hành vi uống rượu, bạo lực, lạm dụng thuốc, thuốc lá, ....
Sức khỏe tâm lý bình thường
Sơ đồ 1.1: Các mức độ rối nhiễu tâm lý. (nguồn: APA – Hiệp hội tâm lý học Hoa kỳ [33], Sức khỏe tâm lý được biễu diễn là hàm số liên tục khác quan niệm cũ là có hay có bệnh)
Sức khỏe được định nghĩa là sự thoải mái giữa thể chất, tâm lý, và xã hội (WHO). Ngày nay nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa ba mặt trên của sức khỏe con người. Đó cũng là chất lượng cuộc sống. WHO định nghĩa 11 nhóm khác nhau của rối nhiễu tâm lý.
- Rối nhiễu tâm lý thực thể (chẳng hạn sa sút trí tuệ, mê sảng và chấn thương não).
- Rối loạn hành vi và tâm lý do việc sử dụng các chất hướng thần - chủ yếu rượu và
các thuốc khác.
- Bệnh tâm lý phân liệt và các rối loạn hoang tưởng có liên quan. Rối nhiễu tính tình-
dễ xúc động: điên cuồng, lưỡng cực - trầm cảm vui buồn thất thường.
- Những rối loạn thực thể, về thần kinh và liên quan đến stress -sợ hãi, lo lắng, hoảng
loạn, OCD, v.v….
- Những rối nhiễu hành vi liên quan đến các vấn đề về sinh lý và các yếu tố cơ thể - rối loạn ăn uống, giấc ngủ và hoạt động tình dục. Những rối nhiễu về hành vi và nhân
cách ở người lớn.
- Những rối nhiễu về phát triển tâm lý. Những rối nhiễu hành vi và cảm xúc khởi phát
từ thời thơ ấu/ dậy thì (ADHD, CD).
- Những rối nhiễu tâm lý khác chưa xác định - khác với các thể trên.
Tại Việt Nam, thuật ngữ “Disorder mental health- rối loạn tâm thần”, được Nguyễn
Khắc Viện định nghĩa theo một hướng khác, phù hợp với văn hóa Việt Nam về khái niệm
này. Ông sử dụng khái niệm “rối nhiễu tâm lý” thay cho “rối loạn tâm thần”. Trong tác phẩm tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam xuất bản Y học năm 1999, Nguyễn Khắc Viện đã viết “Ở N-T, chúng tôi chủ trương không dùng từ tâm thần nữa mà dùng từ tâm lý để nói chung, như khi nói khám tâm lý, không nói khám tâm thần; nếu ghép vào trong khuôn viên của một bệnh viện tâm thần, sẽ rất ít ai đến, và cũng không mấy bác sĩ, y tá, giáo viên, cán bộ xã hội chịu học tập chuyên khoa này” [26]. Đến nay, thuật ngữ rối nhiễu tâm lý được các nhà tâm lý học, tâm thần học, giáo dục học, công tác xã hội sử dụng trong giảng dạy, nghiên cứu, trị liệu tâm lý, công tác xã hội đối với những cá nhân và cộng đồng dễ bị tổn thương, khủng hoảng tâm lý sử dụng tương đương với thuật ngữ rối loạn tâm thần. Tác giả thừa nhận và sử dụng bảng phân loại rối loạn tâm thần và hành vi của WHO và APA. Rối loạn tâm lý có các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng, được thừa nhận, công cụ đã được quốc tế hóa, được các nhà tâm thần học, tâm lý học, công tác xã hội sử dụng nhiều trong nghiên cứu và chẩn đoán, trị liệu rối nhiễu tâm lý ở người lớn cũng như trẻ em.
Như vậy rối nhiễu tâm lý được định nghĩa là một hành vi có ý nghĩa lâm sàng hoặc một hội chứng tâm lý xuất hiện ở một cá nhân gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn chứng năng, làm gia tăng hành vi nguy cơ tự hủy hoại bản thân, làm cá nhân mất khả năng kiểm soát bản thân. Khái niệm rối nhiễu tâm này được sử dụng nhằm phân biệt rối nhiễu tâm lý với những rối loạn sinh lý do tổn thương thực thể hoặc não bộ gây ra. Robert S.Feldman (2003); Paul Bennett (2003); James E.Maddux và Barbara A.Winstead (2008), Các tác giả
này đều cho rằng một kinh nghiệm hay một hành vi, ứng xử của cá nhân được xem là rối nhiễu phải đáp ứng các tiêu chí: lệch chuẩn về mặt thống kê, rối loạn chức năng, rối loạn
stress, sai lệch các nguyên tắc xã hội, làm suy giảm hoạt động nghề nghiệp, đời sống gia
đình và xã hội, đặt cá nhân vào tình huống nguy hiểm. Những người bị các triệu chứng: lo
âu không rõ lý do kéo dài, buồn rầu, ám sợ đám đông, bị tổn thương tâm lý, khó tập trung
trong công việc, chán nản, rối nhiễu hành vi…. ở mức độ nhẹ và do các sự kiện trong cuộc
sống gây ra được gọi là những người bị rối nhiễu tâm lý. Chữa trị những rối nhiễu tâm lý
cần phải sử dụng các liệu pháp tâm lý.
- Sai lệch thống kê (trung bình là 2%).
- Sự vi phạm chuẩn xã hội. Phá vỡ luật lệ xã hội.
- Hành vi thiếu nhạy cảm khi giao tiếp người khác: thiếu nhạy cảm với bản thân, thiếu
nhạy cảm với người khác.
- Tình trạng đau khổ tâm hồn (personal distress).
- Có lệch chuẩn mà không thích ứng được, không có khả năng quên, thích ứng phù
hợp với hiện tại.
- Lệch từ lý tưởng: điều gì khi lý tưởng không thực hiện được - phù hợp chuẩn mực xã
hội.
- Lệch hành vi do các yếu tố sinh học (y khoa), di truyền, hay nhiễm độc từ các tác
nhân lý hóa sinh.
Sự phân biệt rối nhiễu tâm lý như vậy không nhằm đánh giá đúng hay sai, đạo đức hay
không đạo đức, là những tiêu chí phân loại mà thôi.
Những vấn đề sức khỏe tâm lý nào đóng góp nhiều nhất vào tỉ lệ bệnh, 10 nguyên nhân tàn tật hàng đầu ở những người 15-44 tuổi, ước lượng toàn cầu: HIV/AIDS tỉ lệ là 13,0%, trầm cảm đơn cực có tỉ lệ 8,6%, tai nạn giao thông có tỉ lệ 4,9%, bệnh Lao có tỉ lệ là 3,9%, rối loạn do rượu có tỉ lệ 3,0%, tai nạn tự thân gây ra tỉ lệ 2,7%, thiếu máu thiếu sắt có tỉ lệ 2,6%, tâm thần phân liệt có tỉ lệ 2,6%, rối loạn lưỡng cực có tỉ lệ 2,5%, bạo lực có tỉ lệ 2,3% (WHO, 2006).
Nội dung và các tiêu chuẩn chẩn đoán của các rối loạn này dựa trên sự đồng thuận về các các ý kiến và các khái niệm hiện nay trong tâm thần học (nhiễu tâm) được mô tả trong Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về các rối loạn tâm lý xuất bản lần thứ 4-Bản sửa chữa (DSM-IV-TR), một hệ thống phân loại được phát minh bởi Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ. DSM-IV-TR tương thích với một hệ thống phân loại tâm thần chính khác, là Phân loại Thống kê Quốc tế về Bệnh và các vấn đề sức khỏe liên quan sửa chữa lần thứ mười (ICD- 10), được phát triển bởi Tổ chức Y tế thế giới và được sử dụng chủ yếu ở châu Âu và các khu vực khác ngoài Mỹ.
DSM-IV-TR bao gồm 15 nhóm chẩn đoán chính, cộng thêm một nhóm gọi là “các
tình trạng khác có thể là trọng tâm chú ý lâm sàng”. DSM-IV-TR sử dụng hệ thống đa trục
để mã hoá các tình trạng của người bệnh theo năm trục (một chẩn đoán xác định có thể được
thực hiện khi sử dụng chỉ ba trục đầu tiên):
Trục I: Các rối loạn lâm sàng.
Trục II: Các rối loạn nhân cách và chậm phát triển tâm thần.
Trục III: Các bệnh đa khoa tổng quát.
Trục IV: Các vấn đề tâm lý xã hội và môi trường.
Trục V: Thang lượng giá chung về hoạt động chức năng (GAF), được định
lượng bởi mức độ chức năng tâm lý của mỗi người trong đời sống hàng ngày và các triệu
chứng học cảm xúc trên một chuỗi xắp sếp từ 1 (không khả năng duy trì vệ sinh cá nhân tối
thiểu, nguy hiểm cho bản thân) đến 100 (hoạt động chức năng nghề nghiệp và xã hội tốt,
không có các triệu chứng cảm xúc).
Bảng 1.1. Các rối nhiễu tâm lý
CÁC VÍ DỤ Sảng do suy tim sung huyết, sa sút tâm thần Alzheimer
Thay đổi nhân cách do bệnh ban đỏ lupus hệ thống
TÌNH TRẠNG Sảng, sa sút tâm thần, và các rối loạn quên và các rối loạn nhận thức khác Rối loạn tâm thần do một bệnh thực thể tổng quát không đưọc phân loại nơi khác Các rối loạn liên quan chất
Các rối loạn liên quan rượu, các rối loạn liên quan chất an thần Tâm thần phân liệt, các rối loạn dạng phân liệt
Tâm thần phân liệt và các rối loạn loạn thần khác Các rối loạn khí sắc Các rối loạn lo âu
Các rối loạn dạng cơ thể Các rối loạn giả bệnh
Các rối loạn phân ly
Các rối loạn nhận diện tính dục và giới tính Các rối loạn ăn Các rối loạn ngủ một đến rối
loạn rối kiểm động không soát được Rối loạn trầm cảm chủ yếu, rối loạn lưỡng cực I Rối loạn hoảng loạn, ám ảnh sợ chuyên biệt, rối loạn stress sau chấn thương Rối loạn chuyển di, nghi bệnh Rối loạn giả bệnh có triệu chứng hoặc dấu hiệu tâm lý ưu thế hoặc cơ thể ưu thế Quên phân ly, rối loạn giải thể nhân cách, du hành phân ly Rối loạn chức năng cương thứ phát, các rối loạn nhận diện giới tính Loạn thần kinh chán ăn, loạn thần kinh ăn vô độ Các rối loạn giấc ngủ tiên phát, các rối loạn giấc ngủ liên loạn quan tâm thần khác Rối loạn bùng nổ từng cơn, chứng ăn cắp, đánh bạc bó buộc
Các xung phân loại nơi khác
Các rối loạn thích ứng
Các rối loạn nhân cách
Rối loạn thích ứng có khí sắc trầm cảm, lo âu, khí sắc lo âu, trầm cảm hỗn hợp, và các rối loạn hành vi Rối loạn nhân cách hoang tưởng, rối loạn nhân cách chống đối xã hội Các rối loạn vận động do thuốc, các vấn đề Các tình trạng khác có thể là trọng tâm chú ý lâm sàng liên quan đến lạm dụng hoặc bỏ bê, giả bệnh trốn việc Nguồn: Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về các rối loạn tâm thần xuất bản lần thứ 4-Bản sửa chữa (DSM-IV-TR).
Rối nhiễu tâm lý và sức khỏe tâm lý.
Gánh nặng tổng thể của các rối nhiễu tâm lý là khó đo lường. Rối nhiễu tâm lý tương
tác với nhiều tình trạng sức khỏe. Xem xét tiểu đường hoặc bệnh béo phì, HIV/AIDS và
nhiễm trùng siêu vi mạn tính chấn thương, những người sống trong các tình trạng này dễ
mắc trầm cảm, lo âu [59]. Rối loạn tâm lý làm tăng rất nhiều lần nguy cơ nhiễm HIV và có
thể suy giảm việc tuân thủ điều trị, dẫn đến phát triển AIDS. Trong nhiều bệnh thực thể, những người có sẵn rối nhiễu tâm lý từ trước sẽ làm chậm trễ việc tìm kiếm sự giúp đỡ. Sức khỏe tâm lý là một vấn đề quan trọng cũng như sức khỏe thể chất đối với các cá nhân, cộng đồng và thế giới. Rất khó có thể dự đoán một ai đó có thể phát triển các rối loạn về sức khỏe tâm lý. Khó có thể áp dụng các biện pháp nâng cao sức khỏe một cách có hiệu quả. Đa phần các nghiên cứu được tiến hành ở các nước nói tiếng Anh, và các nước phương Tây [54], [75], [102]. Các vấn đề sức khỏe tâm lý có liên quan đến các biến cố xấu xảy ra trong thời niên thiếu (ACE), đặc biệt là ngược đãi trẻ em, ACE có liên quan đến sức khỏe thể chất lẫn tâm lý ở người lớn và trẻ em và các hành vi nguy cơ có thể dẫn đến bệnh tật. Những sang chấn về mặt tâm lý, cảm xúc cũng không chữa lành được qua thời gian ở phần lớn nạn nhân.
Gánh nặng bị chê dấu và không thể xác định được. Gánh nặng không thể xác định được gợi ý về sức nặng về kinh tế, xã hội đối với gia đình, mặc dù các nhà khoa học cho nó là cao nhưng chưa có đo lường trên quy mô lớn. Gánh nặng chê dấu gợi ý gánh nặng gắn liền với hiện tượng nghĩ không tốt về bệnh tâm lý, và sự xâm phạm tự do và quyền con người. Khoảng 14% gánh nặng bệnh tật toàn cầu đã được quy cho chứng rối loạn tâm thần kinh, chủ yếu là do bản chất kinh niên vô hiệu của trầm cảm và rối nhiễu tâm lý phổ biến khác, uống rượu và sử dụng chất, và rối loạn thần. Ước lượng như vậy đã thu hút được sự chú ý đến tầm quan trọng của rối nhiễu tâm lý cho sức khỏe công cộng. Tuy nhiên, vì họ nhấn mạnh sự đóng góp riêng của rối nhiễu tâm lý và thể chất cho người khuyết tật và tử vong, có thể đã cố nỗ lực chính để cải thiện sức khỏe và giảm nghèo. Gánh nặng của rối
nhiễu tâm lý có thể có được đánh giá thấp vì sự đánh giá không đầy đủ của các mối liên hệ
giữa các bệnh tâm lý và điều kiện sức khỏe khác. Vì những tương tác này, không thể có sức
khỏe mà không có sức khỏe tâm lý. Làm tăng nguy cơ rối nhiễu tâm lý cho bệnh truyền
nhiễm. Hiện nay dịch vụ y tế không được cung cấp một cách công bằng cho những người có
rối nhiễu tâm lý, và chất lượng chăm sóc cho cả hai điều kiện sức khỏe tâm lý và thể chất
cho những người này có thể cải thiện được [8], [72]. Phát triển và đánh giá các can thiệp
tâm lý xã hội có thể được tích hợp vào quản lý các bệnh truyền nhiễm và bệnh không truyền
nhiễm.
Hệ thống y tế cần được tăng cường để cải thiện cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe
tâm lý, bằng cách tập trung vào chương trình hiện có và các hoạt động, chẳng hạn như công
tác phòng chống và điều trị HIV, lao và sốt rét; bạo lực trên cơ sở giới; chăm sóc tiền sản,
quản lý tổng hợp bệnh tật ở trẻ em và dinh dưỡng trẻ em; và quản lý bệnh mãn tính. Nhận
thức về sức khỏe tâm lý cần phải được tích hợp vào tất cả các khía cạnh của sức khỏe và
chính sách xã hội, quy hoạch hệ thống y tế [84].
1.3. STRESS.
1.3.1. Khái niệm rối nhiễu stress.
Vào những năm 1930 Adolf Meyer [70],[71] đã tán thành cách sử dụng biểu đồ cuộc sống trong chẩn đoán y khoa. Số liệu về ngày sinh, khoảng thời gian có rối loạn các cơ quan khác nhau, các tình huống đời sống đa dạng và phản ứng của bệnh nhân đối với chúng. Năm 1954 bắt đầu một chương trình nghiên cứu những thay đổi của cuộc sống và các khuôn mẫu bệnh tật tại trường đại học Cornell. Những nghiên cứu này cho thấy sự xuất hiện của bệnh tật có liên quan với sự thay đổi cuộc sống trong những khoảng thời gian xác định. Năm 1967, Holmes và Rahe [55] công bố sự chia độ của 43 tình huống cuộc sống theo phương pháp xác định số lượng, các thay đổi cuộc sống tương xứng với số lượng điều chỉnh lại theo đòi hỏi của một người bình thường. Sự chia độ này cho phép số lượng nghiên cứu lớn hơn về sự thay đổi của cuộc sống và bệnh tật, và cung cấp một phương pháp biến đổi then chốt để phá vỡ vòng tròn đo lường sự căng thẳng do các thay đổi của cuộc sống bằng hậu quả bệnh tật, mà hơn nữa là bằng tầm quan trọng vốn có của stressor. Bảng câu hỏi dựa trên sự chia độ này và những sự chia độ tương tự đã thu thập dữ liệu trên vài dân số củathế giới. Nhìn lại các nghiên cứu đã cho thấy mối quan hệ giữa sự thay đổi cuộc sống gần đây và hậu quả bệnh lý trên người bệnh, như chết tim đột ngột, tăng nhồi máu cơ tim, sự cố gãy xương, thai nghén, biến chứng sinh sản, làm trầm trọng thêm bệnh mãn tính, lao, sự xơ cứng thêm phức tạp, tăng bệnh bạch cầu ở trẻ sơ sinh, tăng các rối loạn tâm lý như suy nhược và bệnh tâm thần phân liệt. Các nghiên cứu sắp tới, đặc biệt là sự hướng dẫn này trên hải quân Mỹ khi họ đang dàn quân trên biển, dự đoán bệnh tật tương lai căn cứ trên sự thay đổi thực tế cuộc sống do sự phát triển mang lại và sau đó kiểm tra tính chính xác của các dự đoán này
bằng cách xem xét các bảng báo cáo y tế.
Mặc dù đã tìm ra mối quan hệ khắng khít giữa các tình huống căng thẳng của cuộc
sống và những khuôn mẫu bệnh tật, điều này không giải thích được tại sao một số người
chịu đựng sự thay đổi đáng kể thì phát bệnh nhưng một số khác chịu đựng sự thay đổi có
cường độ lớn như vậy vẫn khoẻ mạnh. Một mối tương quan điển hình giữa sự thay đổi của
cuộc sống và bệnh tật đã được báo cáo trong các nghiên cứu mới đây là 0,30, cho phép sự
khác biệt không giải thích được là 91%. Sự chú ý gần đây đã tập trung vào cá nhân và các
tình huống khác mà nó có thể là mối quan hệ trung gian giữa sự thay đổi của cuộc sống và
bệnh tật. Ở giữa các khác biệt về tâm lý thì dường như trung gian của sự đáp ứng stress là
nơi điều khiển (bao gồm phạm vi mà cá nhân thích kiểm soát cuộc sống của họ hơn và kiểm
soát như thế nào để họ nhận ra các tình huống đặc biệt trong cuộc sống), nhu cầu kích thích,
công khai thay đổi, che giấu kích thích, tự thực hiện, sử dụng sự phủ nhận, sự ủng hộ của xã
hội, và tự bộc lộ cảm xúc. Trong một nghiên cứu của Illinois Bell thực hiện trong lúc loại bỏ
AT&T, những sự loại bỏ này ở những người đã trải qua stress cao vẫn khoẻ mạnh khác với
những người bị stress cao và bệnh tật cao trên khía cạnh của “sức chịu đựng”. Điểm đặc biệt
của cá nhân này bao gồm sự ràng buộc mạnh mẽ đối với chính bản thân họ, công việc, gia
đình và các giá trị quan trọng khác; đó là ý nghĩa điều khiển cuộc sống; khả năng xem sự
thay đổi như là thách thức hơn là đe dọa.
Mối tương quan giữa stress tâm lý và bệnh thể chất thì phức tạp và đa nhân tố. Kết quả nghiên cứu stress và bệnh tật theo phạm vi rộng của hành vi phức tạp, xúc cảm, nhận thức, thể chất, y học, chất hormon, hóa sinh, tế bào, môi trường và ngay cả những mối quan hệ gắn liền với tâm lý thì không dễ để hiểu hoặc tóm lược trong cuộc thử nghiệm kiểm tra lâm sàng. Những nghiên cứu trên đã ước đoán rằng có tới 70% các cuộc thăm viếng của các bác sĩ CSBĐ là do những vấn đề liên quan đến stress và kiểu mẫu cuộc sống. Tuy nhiên hầu hết những bác sĩ lâm sàng đã không được đào tạo để mở rộng công việc chẩn đoán của họ và can thiệp điều trị vào lĩnh vực tâm lý của những bệnh này. Việc điều trị và phòng ngừa chưa đầy đủ đòi hỏi những nhân viên chăm sóc sức khoẻ ban đầu quan tâm tới bệnh nhân của họ và phạm vi các cuộc đấu tranh vì sự sống mà những bệnh nhân này đang chịu đựng. Phối cảnh rộng hơn này cho phép nhà lâm sàng can thiệp tại nhiều điểm dọc theo chuỗi liên tục từ trí não tới các phân tử.
Stress đã được vay mượn từ sinh lý học và tâm lý y học, nói chung nó nói đến một lực hoạt động chống lại sự chịu đựng. Luật Hooke về tính co dãn nói rằng “stress=K> trạng thái căng thẳng”, mà K là một hằng số tùy thuộc vào bản chất của vật chất và kiểu stress thường sản sinh ra trạng thái căng thẳng. Hằng số K được gọi là Young’s Modulus. Trong khoa học vật chất, stress là cái gì từ thế giới bên ngoài tác động vào vật chất; trạng thái căng thẳng là phản ứng của vật chất với stress.
Hans Selye đã đồng ý với việc giới thiệu khái niệm stress thành sinh lý học. tác giả
cũng định nghĩa stress một cách sơ lược là “tỉ lệ của sự suy nhược và nước mắt trong cơ
thể” và một cách chặc chẽ hơn là “tình trạng biểu hiện triệu chứng đặc trưng và bao gồm cả
triệu chứng không đặc trong một hệ thống sinh học”. Trong triệu chứng đặc trưng này tác
giả Selye gọi là triệu chứng thích nghi tổng quát (GAS), glucocorticoids được tiết ra ở tuyến
thượng thận vỏ não để đáp ứng các yêu cầu thích nghi của cơ thể với những kích thích khác
nhau như nóng, lạnh, đói và các tác động khác của môi trường-do đó thành ngữ “triệu chứng
không đặc trưng bao gồm những sự thay đổi”.
Những dạng định nghĩa khác về stress đã được các nhà nghiên cứu đưa ra. Stress là
một mối kích động đánh mạnh vào con người và là phản ứng sinh lý và tâm lý của con
người ấy. Mối kích động có thể là một tác nhân vật lý, hóa chất, vi khuẩn hoặc một tác nhân
tâm lý xã hội. Nói chung là một tình huống căng thẳng đột xuất đòi hỏi con người huy động
tiềm năng thích ứng để phản ứng. Phản ứng đặc thù riêng cho từng loại kích động. Phản ứng
chung tương tự với mọi kích động thường gọi là hội chứng thích ứng chung.
Theo Selye, stress là do tình trạng của cơ thể; một số cho rằng stress là do tác nhân
kích thích gây ra căng thẳng và một số cho rằng stress là do sự kết hợp tác nhân kích thích,
sự đáp ứng của cơ thể và các thay đổi của sự can thiệp. Sự khác biệt hiện nay thường là giữa stress và stressors. Mặc dù stress thỉnh thoảng được sử dụng để chỉ ra các nguồn môi trường đe doạ cơ thể, stressor giới hạn thích hợp hơn trong việc tham khảo những tác nhân này.
Gần đây hơn những định nghĩa stress của con người bắt nguồn từ việc tính toán sự tác động giữa con người và môi trường để đưa ra cách giải quyết. Trong cách nhìn này stress xảy ra khi một tình huống đòi hỏi đưa ra lời kêu gọi hành động khi cách xoay sở vượt quá sự nhận thức của cá nhân. Christensen (2005) [53] đề xuất sự hành động theo định nghĩa: “Stress là một quá trình thay thế nhau giữa một cơ thể và môi trường gồm sự tự phát hoặc những sự thay đổi, một khi sự đáp ứng vượt quá nhận thức của cơ thể (bên trong hoặc bên ngoài), phá vỡ các quá trình trong hệ thống môi trường cơ thể”. Định nghĩa này bao gồm quan điểm stress cổ điển bắt đầu với yêu cầu bên ngoài (môi trường gây ra sự thay đổi) vượt quá sự đáp ứng của cơ thể. Tuy nhiên nó cũng bao gồm sự mong đợi những sự kiện thiết yếu cho kế hoạch sinh sống của con người xuất hiện mà những sự kiện này thì không thể thích nghi với môi trường (vượt quá những đáp ứng bên ngoài). Phá vỡ homeostasis trong hệ thống môi trường cơ thể có thể có biểu hiện tình trạng bệnh lý ban đầu trong cơ thể (bệnh tật hoặc phá huỷ mô) hoặc phá hủy sự biến đổi môi trường (bạo hành gia đình là một đáp ứng stress). Học thuyết về Stress của Hans Selye (1978) nhấn mạnh ảnh hưởng của cảm xúc đến sinh lý và căn nguyên của các bệnh tâm thể như loét dạ dày tá tràng, viêm trực tràng, hen suyễn, chàm một số bệnh dị ứng, bệnh của tuyến giáp, một số chứng đau nhức xương khớp, bán đầu thống tăng huyết áp vô căn bệnh Raynaud, rối loạn chức năng tình dục, thế đứng [87],[88].
1.3.2. Đặc điểm rối nhiễu Stress.
SSCT và SC có thể phải phân biệt với hậu quả hành vi của tổn thương não gây ra bởi
sự kiện chấn thương. Các rối loạn stress phải được phân biệt với rối loạn thích ứng. Rối loạn
này là một tình trạng thường gặp và nói chung nhẹ hơn không đáp ứng với tiêu chuẩn của
SSCT hoặc SC. Các rối loạn thích ứng được đặc trưng bởi các triệu chứng cảm xúc (ví dụ,
lo âu, trầm cảm, các rối loạn hành vi, hoặc các triệu chứng cảm xúc hỗn hợp) mà gây ra sự
suy giảm xã hội, học tập hoặc công việc xảy ra trong vòng 3 tháng và kéo dài ít hơn 6 tháng
sau khi chấm dứt của một yếu tố sang chấn nặng nhưng thường không đe doạ mạng sống (ví
dụ, ly hôn, phá sản, hoặc thay đổi nơi ở). Ví dụ, một em trai 10 tuổi trước đây bình thường
nay hốt hoảng và khó chịu 4 tháng sau khi dời đến nhà mới, ít hứng thú trong việc chơi với
các bạn, và bắt đầu có học kém ở trường, em được chẩn đoán là rối loạn thích ứng có lo âu.
Với những sang chấn mạn tính hoặc kéo dài, những triệu chứng của rối loạn thích ứng có
thể tồn tại lâu hơn 6 tháng.
Tỉ lệ mắc toàn bộ cuộc đời của SSCT là 1-14% trong dân số chung và 3 đến 58% ở
người có nguy cơ đặc biệt, như những người sống sót sau bạo hành tình dục, động đất, hoặc trận chiến. Những yếu tố nguy cơ đối với các rối loạn stress bao gồm giới nữ, và tiền sử tâm thần gia đình hoặc cá nhân. Khoảng một phần ba người bệnh SSCT xảy ra đồng thời với rối loạn trầm cảm chủ yếu.
Hồi phục hoàn toàn xảy ra trong vòng ba tháng ở khoảng một phần ba người bệnh SSCT. Một phần ba nữa có các triệu chứng kéo dài trên 10 năm. Lạm dụng rượu và chấn thương thời thơ ấu, như lạm dụng tình dục, làm tăng thời gian của SSCT.
1.3.3. Phân loại rối nhiễu stress.
Dựa trên học thuyết của Selye, ông Holmes và Rahe (1967) nghiên cứu mối quan hệ giữa các rối loạn thể chất và đã xếp ra nhiều loại biến đổi trong cuộc sống, là chìa khóa của stress. Các tốc độ thay đổi cuộc sống gây nên một số biến chất trong môi trường bên ngoài, đòi hỏi sự điều chỉnh của con người. Holmes và Rahe xem là biến đổi dương tính (positive change) như: thi đậu, đám cưới và biến đổi âm tính (negative change) như: người thân chết, mất việc làm, là những dữ kiện gây stress.
SELYE (1978) xác định 3 giai đoạn của GAS là: báo động, đề kháng và kiệt quệ.
Giai đoạn báo động stress khơi dậy đáp ứng 'đối phó hay trốn chạy' bởi vì cơ thể huy động để đáp ứng những nguy cơ gây ra bởi yếu tố gây stress. Não tạo ra những chất trung gian hóa sinh để gửi đến hệ hô hấp, máu và cơ, gây ra sự gia tăng nhịp thở, nhịp tim, huyết áp, cơ căng thẳng và co, đồng tử giãn. Hơn nữa, đường huyết, adrenalin, và cholesterol tăng.
Giai đoạn đề kháng được kích hoạt, nếu tiếp xúc với stress kéo dài qua một khoảng
thời gian. Ở đây cá nhân bắt đầu đề kháng với yếu tố gây stress đến mức độ stress trở thành
phù hợp với đáp ứng và đề kháng có thể gia tăng theo tiêu chuẩn. Ở giai đoạn này, cá nhân
bắt đầu bị tràn ngập bởi cảm giác mệt mỏi, lo âu và căng thẳng.
Giai đoạn kiệt quệ do sự tiếp xúc lâu dài với stress mà cơ thể đã phần nào được điều
chỉnh có thể không tránh khỏi tạo ra tất cả các dạng năng lượng có thể bị sử dụng hết và cá
nhân đến giai đoạn thứ ba, kiệt quệ. Bởi vì cá nhân có một số những dự trữ có giới hạn năng
lượng để chiến đấu chống lại stress, một khi năng lượng khô kiệt, cá nhân có thể trở thành
bệnh rất nặng, đặc biệt nếu lại bị stress thêm. Theo Selye (1978), GAS tạo nên mòn mỏi và
xơ xác cho cơ thể mỗi khi nó được hoạt hóa. Kết quả là suy nhược toàn thể, già nua và bệnh
tật, đặc biệt nếu nó đến giai đoạn suy kiệt.
Dù vậy, cần nhấn mạnh, không phải mọi Stress đều âm tính. Selye phân biệt giữa hai
loại stress:
- 'Eustress' là khía cạnh dương tính, sáng tạo và phát huy của stress.
- Distress' là khía cạnh âm tính và gây bệnh của stress.
Cường độ của mức độ thức tỉnh gia tăng thành tích, nhưng sự thức tỉnh trở thành quá mức, thành tích bị giảm thiểu và chức năng bị rối loạn. Như Albrecht (1979) đã lưu ý, stress là một phần tự nhiên của hoạt động con người... Con người phải học được để phân biệt giữa mức độ stress vừa phải và stress quá mức,…“một trình trạng không có stress là không thể được”. Do đó, stress vừa phải hay eustress giúp mỗi người đạt đỉnh cao của thành tích, trong khi stress quá mức gây nên bất hoạt.
Nếu stress còn tiếp tục, cơ thể mất bù sẽ dẫn đến giai đoạn kiệt sức. Giai đoạn kiệt sức do quá sức chịu đựng hoặc có nhiều stress tác động trường diễn làm cho những biến đổi của cơ thể mất khả năng bù trừ, cơ thể trở nên suy kiệt và mệt mỏi, khả năng điều chỉnh và tự phòng vệ bị suy yếu nghiêm trọng, khả năng thích nghi bị rối loạn và xuất hiện nhiều trạng thái bệnh lý khác nhau về cơ thể và tâm thần. Mỗi cá thể phản ứng theo một cách riêng, phụ thuộc vào nhận thức, hiểu biết, cá tính, tố bẩm của mỗi người.
Thay vì cố gắng loại bỏ stress, nên phấn đấu đạt được mức stress tối ưu. Vấn đề vẫn còn cố gắng xác định mức tối ưu là bao nhiêu, bởi vì hậu quả của stress khác nhau lên mỗi người.
1.3.4. Nguyên nhân rối nhiễu stress.
Điều kiện và môi trường sinh sống thấp, thiếu thốn, tù túng, ồn ào. Bị chèn ép, oan ức, thất bại trong cuộc sống. Gặp nhiều mâu thuẫn, xung đột, bất an, thay đổi trong cuộc
sống. Quá bận rộn, lo toan công việc. Nhiều yếu tố khác nhau góp phần vào stress do công
việc, mặc dầu chúng có liên quan với nhau. Danh sách những yếu tố gây stress rõ ràng là
không đủ và có thể dễ dàng được mở rộng. Điểm quan trọng là việc xác định và bắt đầu
chiến lược đối phó phải là một hoạt động liên tục trước khi yếu tố gây stress có thể thay đổi.
Yếu tố gây stress cá nhân French và Cap Land (1972) xác định tám nguyên nhân
chính gây stress trong công việc của cá nhân:
- Mơ hồ về vai trò.
- Mâu thuẫn về vai trò.
- Vai trò quá nặng hoặc quá nhẹ.
- Tính lãnh thổ của tổ chức.
- Trách nhiệm cho mọi người.
- Thiếu quan tâm đến người khác.
- Thiếu sự tham gia.
- Sự khác biệt về nghề nghiệp.
Vấn đề sự khác biệt nghề nghiệp cũng thể hiện trong một số những yếu tố. Tính lãnh thổ ám chỉ rằng một người phải làm công việc mà họ cảm thấy công việc ấy không thuộc về họ. Trách nhiệm cho cá nhân có thể rất nhiều hoặc rất ít, quan hệ giữa cá nhân kém có thể khiến có rất ít sự tin tưởng về sự hỗ trợ từ người khác. Thiếu tham gia có nghĩa là bị loại bỏ khỏi sự quyết định và sự khác biệt nghề nghiệp ám chỉ những yếu tố bản chất trong công việc và gây stress.
Khoảng một nửa tất cả mọi người tiếp xúc với những chấn thương tâm lý ý nghĩa trong suốt cuộc đời. Hầu hết những người này hồi phục hoàn toàn; những người khác tiếp tục những triệu chứng và có thể được chẩn đoán là rối loạn stress-rối loạn stress sau chấn thương (SSCT) và rối loạn stress cấp (SC). Đối với những chẩn đoán này, phải có tiếp xúc với sự kiện đe dọa mạng sống hoặc nguy cơ tử vong tác động đến người bệnh hoặc bạn thân hoặc họ hàng của người bệnh. Những ví dụ về những sự kiện như vậy bao gồm bạo hành tình dục, chiến tranh, động đất, cháy, và tai nạn nghiêm trọng. Những triệu chứng phải kéo dài lâu hơn một tháng để đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-IV-TR cho SSCT mà trong thể mạn tính có thể kéo dài nhiều năm. Những triệu chứng kéo dài 2 ngày đến 4 tuần được chẩn đoán là SC hơn là SSCT.
Những triệu chứng của các rối loạn stress có thể được chia thành bốn loại: trải
nghiệm lại, tăng thức tỉnh, tê liệt cảm xúc, và tránh né.
Trải nghiệm lại bao gồm những suy nghĩ hoặc ký ức thâm nhập về sự kiện mà xảy ra không mong đợi (hồi tưởng) cũng như ác mộng tái diễn sự kiện đó. Tăng thức tỉnh bao gồm
sự lo âu, tăng đáp ứng giật mình, giảm ngủ hoặc gia tăng sự cảnh giới (ví dụ, giật mình với
mỗi tiếng động). Tê liệt cảm xúc bao gồm giảm tính cảm xúc, mất khả năng trải nghiệm sự
hạnh phúc, và khó kết nối về cảm xúc với những người khác. Tránh né bao gồm tội lỗi vì đã
thoát được trong khi những người khác đã chết hoặc bị thương nặng (tội lỗi của người sống
sót); sự phân ly và thu rút xã hội; và những cảm xúc về sự vô vọng và bị tràn ngập.
Eysenck.H. và cộng sự đã đưa ra 4 dạng phản ứng của nhân cách trước tác động của
stress [48],[47]. Kiểu nhân cách A, khi gặp stress, thường bùng nổ một cách giận giữ, tăng
tiết ACTH dẫn đến tăng tiết cortisol và adrenaline gây giữ nước, tăng huyết áp, xơ vữa động
mạch và bệnh mạch vành. Kiểu nhân cách B khi gặp stress, thường thất vọng, các phản ứng
thường lặn vào trong, kìm nén những phản ứng cảm xúc dẫn tới giảm niễn dịch, dễ bị nhiễm
trùng, thiên hướng bị ung thư. Kiểu nhân cách C biểu hiện phản ứng trước stress thường là
lặng lẽ, buồn rầu. Về sinh hoá có giảm can-xi máu, giảm các yếu tố vi lượng, thường lão
hoá sớm, dễ bị trầm cảm. Kiểu nhân cách D, thường bình tĩnh, tự tin, tự khẳng định mình,
không có biến đổi đáng kể, khả năng thích nghi [42],[43],[51],
Stress cấp là dạng phổ biến nhất của stress. Nó bắt đầu từ những áp lực của quá khứ,
hiện tại và các kỳ vọng của người khác, áp lực đã được dự đoán trước của tương lai gần.
Stress cấp với mức độ nhỏ gây xúc động và kích thích, nhưng nếu quá nhiều sẽ gây kiệt sức. Những stress ngắn và quá mức có thể dẫn đến các khó chịu về tâm lý, stress đầu óc, đau dạ dầy và các triệu chứng khác. Hầu hết mọi người đều nhận ra các triệu chứng stress cấp. Đó là những thất bại đã qua trong cuộc đời họ như: tai nạn ô tô, mất một hợp đồng quan trọng, ranh giới giữa cái sống và cái chết mà họ đã vượt qua, những vấn đề của con cái họ ở trường học. Bởi vì xuất hiện ngắn, stress cấp không đủ thời gian để gây tác hại nặng [50].
Các khó chịu về cảm xúc - một số kết hợp với giận giữ hoặc kích thích, lo âu và trầm cảm. Các vấn đề cơ bắp gồm căng thẳng đầu óc, đau lưng, đau quai hàm, và stress các cơ này dẫn đến co giật các cơ, gân và các vấn đề dây chằng. Các vấn đề dạ dày, ruột và đại tràng như ợ nóng, tăng tiết dịch vị, đầy hơi, phân lỏng, táo bón, và hội chứng kích thích đại tràng. Tăng huyết áp, tăng nhịp tim, ra mồ hôi gan bàn tay, đánh trống ngực, chóng mặt, đau nửa đầu kiểu Migraine, tay và chân lạnh, thở gấp và đau ngực. Stress cấp có thể nổi trội lên trong cuộc đời của bất kỳ ai, và ta có thể kiềm chế được stress cấp [16], [17]. Trong khi stress cấp có thể gây xúc động và kích thích, stress mãn tính thì không. Nó xẩy ra ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Stress mãn tính hủy hoại cơ thể, trí não và cuộc sống. Đó là stress của sự nghèo khó, của các gia đình không hoàn chỉnh, của các cuộc hôn nhân bất hạnh hoặc nghề nghiệp, sự nghiệp thất bại. Stress mãn tính xuất hiện khi mà con người không bao giờ tìm thấy con đường ra khỏi sự đau khổ. Đó là stress của những yêu cầu và áp lực không bao giờ giảm đi, dường như không bao giờ kết thúc. Với tâm trạng vô vọng, cá nhân đó từ bỏ việc tìm kiếm các cách giải quyết. Stress mãn tính gây tác hại qua tự sát, bạo lực, cơn đau tim, đột quị và có lẽ thậm chí cả ung thư. Cuối cùng, con người kiệt sức
dần, suy nhược nặng. Bởi vì các nguồn lực về thể chất và tâm thần bị cạn kiệt do suy giảm
kéo dài, các triệu chứng của stress mãn tính khó điều trị, có thể đòi hỏi điều trị bằng thuốc
cũng như liệu pháp tập tính kéo dài kiềm chế stress.
1.4. TRẦM CẢM.
1.4.1. Khái niệm rối nhiễu trầm cảm.
Trầm cảm (depression) [98], dùng để mô tả một hội chứng bệnh tâm lý được đặc
trưng bởi khí sắc trầm hay còn gọi là cảm xúc buồn bã cùng với một số triệu chứng khác
duy trì trong một khoảng thời gian kéo dài trên 2 tuần [12]. Trầm cảm được xem như là một
trong số các loại bệnh gây tàn phế nặng nề nhất trên thế giới. Tần suất của trầm cảm thay
đổi theo từng quốc gia, nhưng các triệu chứng và hội chứng trầm cảm sẽ gặp 6% trong dân
số. Người trầm cảm có thể thấy tuyệt vọng, vô dụng và tự đổ lỗi cho mình. Họ có thể bị suy
sụp tinh thần, không tham gia vào những hoạt động thường ngày nữa, rút lui khỏi gia đình
và bạn hữu, thậm chí có người còn nghĩ đến cái chết hay tự sát [39].
Các nét đặc trưng để chẩn đoán bao gồm: giảm khí sắc, khí sắc trầm buồn; mất hài
lòng hay mất quan tâm, hứng thú; thường có các triệu chứng kết hợp như: rối loạn giấc ngủ, cảm giác tội lỗi, mệt mỏi, giảm dục năng, chậm chạp trong vận động và ngôn ngữ, mất ngon miệng, ý tưởng hay hành vi tự sát, khó tập trung chú ý. Hình thức của một người có thể gợi ý về trường hợp trầm cảm: không chú ý tới diện mạo, áo quần lôi thôi, vệ sinh thân thể kém, cử chỉ chậm chạp hoặc nóng nảy, giọng nói trầm buồn, đơn điệu. Lo âu thường xuyên cùng với sự sợ hãi lan rộng không rõ nguyên do. Rối loạn chức năng sinh dục: giảm hoặc mất khả năng sinh dục ở cả hai phái, có thể yếu hoặc mất chức năng cương cứng ở nam giới, lãnh cảm ở phụ nữ. Các biểu hiện các của bệnh trầm cảm là cảm giác do dự, không chắc chắn, tiêu chuẩn và đòi hỏi cao, yêu cầu cao với người khác và với chính mình, dễ bị tổn thương, khó có thể thay đổi thói quen cũ dù không còn phù hợp, luôn ở tình trạng mệt mỏi, ủ rủ và stress, rất dễ tức giận và nổi nóng, không có hứng thú làm bất cứ chuyện gì. Luôn có ý nghĩ tiêu cực về bản thân và người khác, cảm giác tuyệt vọng không còn lối thoát, không còn niềm tin vào bản thân vào tương lai. Ngoài ra còn có các biểu hiện khác đi kèm như kém ăn, mất cảm giác ngon miệng, mất ngủ, thường có cảm giác đau nhức nhiều vùng ở cơ thể, điển hình là cảm giác tức ngực, điều này khiến bệnh nhân thường tìm đến các bác sĩ đa khoa. Đối với những người bệnh nặng hơn, những việc bình thường đơn giản cũng trở nên khó khăn đáng kể [38],[41]. Những nguyên nhân chính xác của bệnh trầm cảm khác nhau giữa các cá nhân, khó xác định. Tuy nhiên, rõ ràng là hầu hết các rối loạn tâm thần, bao gồm ảnh hưởng bởi sự kết hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội. Trầm cảm cả những người trẻ tuổi và người lớn được kích hoạt bởi một sự kết hợp của các yếu tố môi trường và di truyền.
Theo Đại học McMaster dấu hiệu của bệnh trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên phát sinh
từ một rối loạn trầm cảm với một thành phần di truyền hoặc gia đình. Yếu tố nguy cơ lớn
khác đối với trầm cảm trong thanh thiếu niên cũng bao gồm các sự kiện cuộc sống tiêu cực
và stress, mối quan hệ ngang hàng có vấn đề, lòng tự trọng thấp và hình ảnh tiêu cực về cơ
thể [31],[33],[66].
1.4.2. Đặc điểm rối nhiễu trầm cảm.
Các triệu chứng của trầm cảm theo phân loại DSM-IV-TR (APA) [98].
Các triệu chứng chủ yếu của trầm cảm:
- Khí sắc trầm.
- Mất quan tâm và thích thú.
- Mất sinh lực, dễ mệt mỏi.
- Giảm khả năng tập trung và chú ý.
- Giảm sự tự tin và quí trọng bản thân.
- Ý tưởng có tội và vô giá trị.
- Bi quan về tương lai.
- Ý tưởng hay hành vi tự sát hoặc tự huỷ hoại.
- Rối loạn giấc ngủ.
- Dạy sớm hơn.
- Giảm cảm giác ngon miệng, ăn không ngon.
- Mất quan tâm thích thú với các hoạt động mà mình ưa thích.
- Không có cảm xúc với các sự kiện, môi trường vui vẻ xung quanh.
- Trạng thái tinh thần rất xấu vào buổi sáng.
- Có sự bồn chồn bất an hoặc trì trệ tinh thần.
- Sụt cân.
- Giảm hoặc mất ham muốn tình dục.
Các triệu chứng cơ thể và tâm thần khác có thể gặp:
- Lo âu.
- Ám ảnh.
- Giảm trí nhớ.
- Giảm khả năng tập trung và chú ý.
- Nhức đầu.
- Các hình thức đau nhức khác như đau ngực đau lưng, đau cơ bắp.
- Ngứa; Khô da; Thị lực yếu; Nhịp tim nhanh, hồi hộp, trống ngực; Táo bón.
Phần lớn người bị rối loạn trầm cảm có kèm theo các triệu chứng lo âu. Sự phối hợp
giữa lo âu và trầm cảm có thể xem như là một qui luật, nó làm cho diến biến trầm cảm dể
trở thành mạn tính hơn và người bệnh bị suy giảm về mặt chức năng nhiều hơn, có nguy cơ
tự tử cao hơn. Trong thực hành lâm sàng tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu đa khoa
hoặc nội khoa nhiều người bị rối loạn trầm cảm đã bị bỏ sót [6],[7].
Đó là vì các triệu chứng trầm cảm không điển hình hoặc các triệu chứng trầm cảm bị
che lấp, giống các triệu chứng bệnh nội khoa khác, đó là dạng trầm cảm che dấu, trầm cảm
ẩn.
Các triệu chứng thường gặp của trầm cảm che dấu:
- Rối loạn giấc ngủ.
- Đau nhức mơ hồ.
- Đau đầu.
- Đau lưng, đau giống đau thần kinh.
- Rối loạn hô hấp như khó thở, hụt hơi.
- Rối loạn tim mạch như đau hay cảm giác khó chịu vùng quanh tim, hồi hộp, trống
ngực.
- Rối loạn đường tiêu hoá như đau, ăn không tiêu, khó chịu thượng vị, đại tràng hoặc
ỉa chảy, táo bón kéo dài.
Nhiều lần khám nội khoa, làm rất nhiều xét nghiệm mà thày thuốc không tìm thấy
một nguyên nhân thực tổn nào ở những người bệnh này [82],[98].
Một giai đoạn trầm cảm chủ yếu liên quan đặc trưng không chỉ sự bất hạnh mà còn giảm sự quan tâm và vui thú trong các hoạt động thường ngày của một người và giảm ưa thích đối với các kích thích vui thú như tình dục và ăn uống. Mất khẩu vị với thực phẩm thường dẫn đến giảm trọng lượng cơ thể hoặc tăng trọng lượng cơ thể (giảm hay tăng khoảng 5% trọng lượng cơ thể). Người bị rối nhiễu trầm cảm cũng thường khó duy trì giấc ngủ và trở nên mệt mỏi kéo dài. Trong trầm cảm không điển hình, những người bệnh có thể tăng cân nhiều hơn là sụt cân, và có thể biểu hiện ngủ nhiều quá mức.
Những người bệnh trầm cảm có thể biểu hiện tư duy bối rối và trở ngại trí nhớ nhẹ. Ở
người già, các triệu chứng nhận thức này có thể bị chẩn đoán nhầm là sa sút tâm thần.
Những người bệnh trầm cảm cũng biểu hiện rõ rệt sự thay đổi ban ngày trong các triệu
chứng; họ cảm thấy buồn hơn vào buổi sáng và tốt hơn vào chiều tối.
Những cảm xúc mạnh về có tội và ý nghĩ tự tử và các hành động xảy ra trong trầm
cảm. Tự tử là một nguy hiểm đặc biệt ở những người bệnh trầm cảm họ cảm thấy vô vọng,
bị nhập viện vì trầm cảm, hoặc có các triệu chứng loạn thần như các hoang tưởng [37]. Nếu
có xảy ra, các hoang tưởng của trầm cảm thường phù hợp với khí sắc tiêu cực và liên quan
đến chủ đề của sự phá hủy, thảm hoạ, và bệnh chết người.
1.4.3. Phân loại rối nhiễu trầm cảm.
Các triệu chứng cơ thể, như đau đầu và đau cơ thể thường có ở những người bệnh
trầm cảm. Gần 50% người bệnh trầm cảm không ý thức hoặc phủ nhận họ bị trầm cảm; thay
vào đó, họ kể những triệu chứng thực thể mơ hồ. Những người bệnh “trầm cảm che dấu”
này có xu hướng tìm kiếm điều trị đầu tiên ở các thầy thuốc chăm sóc ban đầu [101]. Chẩn
đoán trầm cảm che dấu được xem xét chỉ khi không có một nguyên nhân cơ thể nhận diện
được cho các bệnh thực thể và khi người bệnh có các triệu chứng khác của trầm cảm, như
Khí sắc trầm
Nặng và giai đoạn (trầm cảm)
Không nặng và mạn tính (loạn khí sắc)
sụt cân và mất ngủ (che dấu cảm xúc và rối loạn cảm xúc theo mùa).
Có các triệu chứng di chứng
Không có các triệu chứng di chứng
Không có bệnh sử tăng khí sắc
RỐI LOẠN KHÍ SẮC CHU KỲ
RỐI LOẠN LOẠN KHÍ SẮC
Có các triệu chứng di chứng
Không có các triệu chứng di chứng
RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC I
RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC II
RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC I
Bệnh sử tăng khí sắc
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ chẩn đoán cho một người bệnh có khí sắc trầm sau khi đã loại trừ các nguyên nhân thực thể và dược lý của các triệu chứng (nguồn DSM IV-TR).
Bảng 1.2. Các tiêu chuẩn chẩn đoán cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu theo DSM-IV-TR.
Tiêu chuẩn A.
Các triệu chứng: Ít nhất 5 trong các triệu chứng sau tồn tại trong suốt giai đoạn
2 tuần. Ít nhất một trong các triệu chứng này phải là triệu chứng số 1 hoặc số 2.
Triệu chứng DSM-IV-TR Giải thích
1. Báo cáo chủ quan hoặc quan Có cảm xúc buồn, vô vọng, trống trải, và tự
sát bởi những người khác về khí ti
sắc trầm
2. Giảm quan tâm hoặc vui thú rõ Ở dạng nặng, triệu chứng này được gọi là
rệt trong hầu hết các hoạt động mất hứng thú, không khả năng phản ứng với
các kích thích vui thú
3. Thay đổi (tăng hoặc giảm) về khẩu vị (ví dụ, thay đổi hơn 5% thể trọng trong một tháng) Ít quan tâm hơn bình thường về thực phẩm và sụt cân; trong thể trầm cảm không điển hình, người bệnh ăn nhiều và tăng cân
4. Mất ngủ hoặc ngủ nhiều kéo dài
Thức giấc thường xuyên trong đêm và thức sớm vào buổi sáng, người bệnh ngủ quá nhiều
5. Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động Chậm chạp về cơ thể (đặc biệt ở người cao tuổi) hoặc tăng động
6. Mệt mỏi hoặc mất sức lực hằng ngày Có ít sức mạnh hoặc mong muốn hoàn thành các mục tiêu đã định
7. Cảm xúc vô dụng hoặc có tội
Hình ảnh bản thân đáng khinh và cảm xúc không thích hợp về sự tội lỗi
Khó khăn về chú ý và trí nhớ
8. Các trở ngại tập trung hoặc tư duy
Có ý nghĩ tự tử hoặc thử thực hiện điều này
9. Ý nghĩ tái diễn về cái chết hoặc tự tử
Tiêu chuẩn B. Không hiện diện các triệu chứng hưng cảm.
Tiêu chuẩn C. Có sự đau khổ quan trọng hoặc suy giảm chức năng xã hội hoặc nghề
nghiệp.
Tiêu chuẩn D. Các triệu chứng không do chất hoặc bệnh thực thể.
Tiêu chuẩn E. Các triệu chứng không không do tang tóc (không được chẩn đoán trầm cảm
trong vòng 2 tháng sau cái chết của một người thân yêu).
Bảng 1.3. Phân biệt trầm cảm.
Những bệnh thực thể
Ung thư, đặc biệt là các u tụy và đường tiêu hoá khác
Bệnh siêu vi (ví dụ, viêm phổi, cúm, AIDS)
Những bất thường nội tiết (ví dụ, nhược giáp, hội chứng Cushing)
Bệnh thần kinh (ví dụ, bệnh Parkinson, xơ cứng rải rác, bệnh Huntington, đột
qụy, sa sút tâm thần)
Suy dinh dưỡng
Bệnh thận và tim phổi
Những bệnh tâm thần và có liên quan
Tâm thần phân liệt (đặc biệt là sau giai đoạn loạn thần cấp)
Các rối loạn dạng cơ thể
Các rối loạn ăn
Các rối loạn lo âu
Các rối loạn thích ứng
Lạm dụng chất và cai
(Nguồn: DSM-IV-TR)
1.4.4.Nguyên nhân rối nhiễu trầm cảm.
Các nguyên nhân của RLTCCY có thể là sinh học và xã hội, nhưng RLTCCY thường do sự kết hợp của hai yếu tố này. Các yếu tố sinh học bao gồm di truyền, biến đổi các hoạt động chất dẫn truyền thần kinh, và các bất thường của trục thượng thận-tuyến yên-hạ đồi-hệ viền. Căn nguyên tâm lý xã hội của trầm cảm bao gồm sự mất mát một hình ảnh gắn bó tiên phát, như cha, mẹ lúc thơ ấu, hoặc sự mất bi thảm của một người thân yêu, như bạn đời hoặc con cái ở người trưởng thành. Các yếu tố tâm lý xã hội khác có thể liên quan vào trầm cảm là sự tự ti và giải thích tiêu cực về các sự kiện cuộc sống hằng ngày. Một số người tin rằng các triệu chứng trầm cảm là kết quả của các cảm xúc vô vọng gây ra do các nỗ lực vô ích
lặp lại để thoát khỏi các tình huống cuộc sống tiêu cực (nghĩa là, mô hình “vô vọng học
được” của trầm cảm). Dù có ít sự liên quan giữa rối loạn khí sắc và chủng tộc, giáo dục, tình
trạng hôn nhân, hoặc thu nhập, giới nữ là yếu tố nguy cơ quan trọng đối với RLTCCY. Ở
Mỹ tỉ lệ mắc toàn bộ cuộc đời của rối loạn này khoảng từ 5 đến 12% đối với nam, và gần
gấp đôi ở nữ. Dù những người cao tuổi khoẻ mạnh chưa chắc đã trầm cảm nhiều hơn những
người trẻ tuổi, những người cao tuổi có bệnh mạn tính hoặc goá bụa lại có nguy cơ cao đối
với trầm cảm.
Theo WHO đến năm 2020, trầm cảm chỉ đứng sau các bệnh tim mạch về gánh nặng
bệnh tật và nguyên nhân tử vong, đặc biệt là các dạng trầm cảm do căn nguyên tâm lý xã hội
gây nên. Tỉ lệ mất trầm cảm ở các nước phát triển là 10-15% ở nữ, 5-10% ở nam [31]. Ở
Việt Nam, ngành tâm thần ước khoảng 3-5% dân số bị trầm cảm, nữ nhiều hơn nam. Có
khoảng 10-15% người lớn trong dân số chung có ít nhất một cơn trầm cảm nặng trong giai
đoạn nào đó của cuộc sống. Rối loạn trầm cảm nặng có thể bắt đầu ở bất kỳ lứa tuổi nào và
thường nhất là trong độ tuổi 20-50. Tuổi trung bình thường gặp khoảng 40 tuổi. Trầm cảm
thường gặp ở vùng nông thôn hơn là thành thị [97], chưa có thống kê dịch tể cộng đồng hay
lâm sàng về sức khỏe tâm lý của ngành tâm lý học Việt Nam.
Các sự biến đổi về khí sắc là biểu hiện thông thường trong đời sống hằng ngày. Bình thường người ta cảm thấy buồn khi người ta trải nghiệm sự mất mát hoặc thất vọng và hạnh phúc khi chờ đón hoặc trải nghiệm một sự kiện tốt đẹp. Trái lại, những người bệnh có các rối loạn khí sắc tiên phát thể hiện sự thiếu hoà hợp giữa các sự kiện đời sống và họ cảm nhận về cảm xúc thế nào. Có thể không có thay đổi gì trong hoàn cảnh xã hội hiện tại của họ để giải thích cho những cảm xúc của họ, hoặc họ cảm thấy sự đáp ứng cảm xúc tăng, giảm, hoặc thậm chí trái ngược với một thay đổi nào đó. Hai trạng thái khí sắc bất thường khác, loạn khí sắc và hưng cảm nhẹ, là những phiên bản giảm nhẹ của trầm cảm và hưng cảm, theo thứ tự.
Có thể khó phân biệt sự giữa sự thay đổi bình thường về khí sắc và các rối loạn khí sắc. Các triệu chứng như giảm phán xét, các trở ngại về chức năng cơ thể, và sự tan vỡ trong công việc hoặc các mối quan hệ xã hội sẽ giúp nhận diện rối loạn khí sắc. Trong những trường hợp nặng, các triệu chứng loạn thần như các hoang tưởng hoặc các ảo giác có thể giúp nhận diện một người bệnh rối loạn khí sắc.
Các loại rối loạn khí sắc tiên phát theo DSM-IV-TR gồm rối loạn trầm cảm chủ yếu và rối loạn lưỡng cực (I và II) và các bản sao nhẹ hơn của chúng là rối loạn loạn khí sắc và rối loạn khí sắc chu kỳ. Các tình trạng khí sắc của trầm cảm, hưng cảm, loạn khí sắc và hưng cảm nhẹ riêng biệt hoặc kết hợp là đặc trưng của các rối loạn này. Nếu các triệu chứng khí sắc xảy ra vì một bệnh thực thể hoặc sử dụng chất (nghĩa là, rối loạn khí sắc thứ phát),
chẩn đoán đúng là rối loạn khí sắc do một bệnh thực thể tổng quát hoặc rối loạn khí sắc do
chất.
Rối loạn trầm cảm chủ yếu (RLTCCY) được xác định bởi một giai đoạn hoặc các giai
đoạn tái diễn của trầm cảm chủ yếu trong suốt cuộc đời một người. Chẩn đoán theo DSM-
IV-TR cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu đòi hỏi ít nhất 5 trong danh sách 9 triệu chứng
tồn tại trong phần lớn thời gian trong một thời kỳ ít nhất 2 tuần.
1.4.5. Phương pháp trị liệu rối nhiễu trầm cảm.
Trầm cảm có thể được điều trị thành công ở hầu hết người bệnh. Tuy nhiên, chỉ
khoảng 25% người bệnh trầm cảm tìm kiếm và được điều trị. Khi có bệnh thực thể, nữ có
nhiều khả năng hơn nam đi tìm sự giúp đỡ chuyên môn.
Những người bệnh không tìm kiếm việc điều trị trầm cảm vì một số lý do. Họ không
nhận ra được các triệu chứng thực thể của họ là do trầm cảm. Ngay cả khi những người
bệnh biết họ bị trầm cảm, họ cũng không thể có đủ khả năng điều trị. Nhiều chương trình
bảo hiểm y tế không trang trải đầy đủ chi phí điều trị cho các rối loạn cảm xúc như trầm
cảm. Cũng vậy, nhiều người Mỹ quan niệm khắc kỷ và không than phiền về bệnh tật là một
đức hạnh, và chính bệnh tật là một thất bại cá nhân hoặc thậm chí là sự yếu ớt đạo đức.
Những ý niệm này được tăng cường khi bệnh của họ là cảm xúc chứ không phải thực thể, và
do đó ít “thực tế”.
Nếu không điều trị, hầu hết các giai đoạn trầm cảm tự giới hạn và kéo dài khoảng 6- 12 tháng. Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn bệnh, người bệnh có nguy cơ cao bị tai nạn, tự tử, và các rắc rối xã hội, như mất việc và khó khăn gia đình. Hầu hết người bệnh có các giai đoạn trầm cảm lặp lại; một số, đặc biệt những người có rối loạn tâm thần kèm theo như rối loạn loạn khí sắc hoặc lạm dụng chất, vẫn còn trầm cảm kéo dài.
Các giai đoạn trầm cảm được điều trị thành công kéo dài ít hơn 3 tháng. Các điều trị hiệu quả và hữu dụng thường nhất là các loại thuốc, bao gồm các loại chống trầm cảm dị vòng, các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI), và các chất ức chế men oxy hoá monoamine (MAOI). Vì các dữ liệu tác dụng phụ tốt hơn của chúng, các thuốc SSRI như fluoxetine (Prozac) và các thuốc chống trầm cảm mới hơn khác, được sử dụng như là các thuốc hàng đầu. Vì tất cả các thuốc chống trầm cảm cần ít nhất 3 tuần để có tác dụng, các chất kích thích tâm thần, có tác động nhanh hơn, đôi khi được sử dụng điều trị trầm cảm. Tuy nhiên, trái với các thuốc chống trầm cảm, các chất kích thích có thể gây dung nạp và lệ thuộc.
Liệu pháp sốc điện (ECT), ở đó một cơn co giật toàn thể được gây ra bởi một dòng điện đi qua não, là một cách điều trị ác độc nhưng hiệu quả đối với trầm cảm nặng mà không đáp ứng với các thuốc chống trầm cảm. Liệu pháp này cũng được khi các thuốc chống trầm cảm quá nguy hiểm hoặc có các tác dụng phụ không dung nạp, hoặc khi giải quyết nhanh chóng các triệu chứng là cần thiết vì người bệnh có ý tưởng tự tử mãnh liệt.
Điều trị tâm lý cho trầm cảm, bao gồm các liệu pháp tâm lý phân tâm, giao tiếp cá
nhân, gia đình, hành vi và nhận thức, có thể hữu ích. Một số chứng cứ chỉ cho thấy điều trị
tâm lý kết hợp với thuốc hiệu quả hơn khi giải quyết các triệu chứng trầm cảm so với chỉ áp
dụng một loại phương pháp điều trị.
Các giai đoạn trầm cảm chủ yếu đôi khi phải được phân biệt với rối loạn thích ứng có
khí sắc trầm cảm hoặc tang tóc bình thường. Chẩn đoán thứ nhất được đặt ra khi các triệu
chứng khí sắc không đáp ứng đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu, theo sau
trong vòng 2 tháng một sang chấn tâm lý xã hội quan trọng và tồn tại đến 6 tháng sau khi
sang chấn chấm dứt. Còn chẩn đoán sau được đặt ra trong vòng 2 tháng sau cái chết của một
người thân hoặc sự mất mát quan trọng khác, ngay cả khi người bệnh đáp ứng đủ tiêu chuẩn
DSM-IV-TR cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu. Những người bệnh có triệu chứng nặng
kéo dài hơn 2 tháng sau sự mất mát này có thể được chẩn đoán là RLTCCY.
Những người bệnh thực sự có RLTCCY đôi khi được chẩn đoán nhầm là một bệnh
tâm thần khác. Ví dụ, một người bệnh trầm cảm trở nên quá lo âuvề những mối nguy hiểm
tưởng tượng có thể bị chẩn đoán nhầm là rối loạn lo âu. Giống như vậy, một người bệnh
trầm cảm có các than phiền thực thể không giải thích được có thể bị chẩn đoán nhầm thành lo âu nghi bệnh hoặc một rối loạn dạng cơ thể khác. Trái với những người bệnh có rối loạn lo âu hoặc rối loạn dạng cơ thể, các triệu chứng lo âu và thực thể ở người bệnh trầm cảm sẽ tan biến khi điều trị trầm cảm thành công.
Những người bệnh rối loạn khí sắc không thể tiếp cận được chăm sóc y tế có thể trì hoãn việc tìm kiếm điều trị cho đến khi họ trở nặng đến mức có các triệu chứng loạn thần, như hoang tưởng. Vì điều này và vì xu hướng lâm sàng coi nhẹ chẩn đoán các rối loạn khí sắc và chẩn đoán quá mức tâm thần phân liệt ở những người bệnh nằm trong nhóm kinh tế xã hội thấp [83], những người bệnh lưỡng cực nghèo nhiều khả năng hơn những người bệnh lưỡng cực giàu có bị chẩn đoán nhầm thành tâm thần phân liệt.
1.5. LO ÂU.
1.5.1.Khái niệm rối nhiễu lo âu.
Lo âu (anxiety) là một rối loạn cảm xúc đặc trưng bởi cảm giác lo sợ lan tỏa, khó chịu, mơ hồ kèm theo các triệu chứng thần kinh tự chủ như đau đầu, vã mồ hôi, siết chặt ở ngực, khô miệng, khó chịu ở thượng vị, bức rức, không thể ngồi yên hoặc đứng yên một chỗ [12],[27].
Các nét đặc trưng là lo lắng, cảm giác stress, sợ hãi, kém tập trung chú ý; stress về cơ thể - không thể thư giản; kích động cơ thể. Rối loạn lo âu là một trong những rối loạn có tính phổ biến cao, có tỉ lệ gia tăng cùng sức ép ngày càng lớn của cuộc sống và thường kết hợp với nhiều rối loạn khác như trầm cảm, rối loạn nhân cách, rối loạn ăn uống. Rối loạn lo
âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ vô lý, lặp lại và kéo
dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống. Lo âu về bản chất là sự đáp ứng là đáp
ứng với một đe dọa không được biết trước từ bên trong, sợ hãi lại là đáp ứng với một đe dọa
được biết rõ ràng từ bên ngoài. Tuy nhiên khi lo âu và sợ hãy quá mức ảnh hưởng nghiêm
trọng tới cuộc sống, vẫn tiếp tục khi mối lo thực tế đã kết thúc thì đó là bệnh lý.
Nguyên nhân chính xác của rối loạn lo âu không được biết rõ [29],[30], nhưng nó
bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, chủ yếu liên quan tới các sang chấn tâm lý kết hợp với yếu
tố nhân cách có xu hướng lo âu. Rối loạn lo âu có biểu hiện tương đối đặc biệt: người bệnh
luôn cho rằng có một điều xấu đang và thậm chí đã xảy ra với mình, dù rằng thực tế không
phải vậy. Cùng với những lo âu mơ hồ hay rõ rệt, bệnh nhân rối loạn lo âu còn dễ bị thêm
những chứng bệnh khác như hồi hộp, nghẹt thở, đau ngực, nhức đầu, đau lưng, co giật cơ
bắp, đổ mồ hôi nhiều, hoa mắt, rối loạn tiêu hóa, khô miệng và mất ngủ [90].
Tất cả các rối loạn lo âu được đặc trưng bởi những triệu chứng sợ mà không có
nguyên nhân đầy đủ. Bởi vì hầu hết mọi người trải nghiệm lo âu vào một thời điểm nào đó
trong đời của họ, lo âu bình thường phải được phân biệt với rối loạn lo âu. Để chẩn đoán
một rối loạn lo âu, những triệu chứng phải hiện diện trong một giai đoạn kéo dài (thường ít nhất là 6 tháng), có cản trở đến hoạt động chức năng bình thường của một người, và gây đau khổ có ý nghĩa.
1.5.2. Đặc điểm rối nhiễu lo âu.
Những biểu hiện sinh lý của lo âu bao gồm những triệu chứng hệ thần kinh giao cảm như là run, đổ mồ hôi, dãn đồng tử, và trải nghiệm chủ quan của nhịp tim nhanh, mà nhiều người gọi nó là “hồi hộp”. Những người bệnh lo âu cũng thường xuyên kể những triệu chứng dạ dày ruột (ví dụ, tiêu chảy) và rối loạn đường niệu (ví dụ, tiểu thường xuyên). Sự tăng thông khí có thể đi kèm với các phản ứng giao cảm này có thể dẫn đến chóng mặt và ngất cũng như cảm giác dị cảm ở đầu chi và mất cảm giác hoặc tê bì ở quanh miệng. Những triệu chứng lo âu có thể theo tình huống hoặc trôi lơ lửng. Lo âu tình huống được gây ra bởi một phản ứng quá mức với những yếu tố sang chấn môi trường bên ngoài, có thể nhận diện được, trái lại lo âu trôi lơ lửng không có yếu tố khởi phát bên ngoại cụ thể [12].
Những người bệnh LATT có những triệu chứng lo âu dai dẳng, bao gồm tăng cảnh giác và lo âu quá mức qua ít nhất một giai đoạn 6 tháng. Những triệu chứng “lơ lửng” gay ra cho họ đau khổ ý nghĩa nhưng không liên quan đến một người hoặc tình cụ thể.
Rối loạn lo âu toàn thể có tỉ lệ 3-5% trong dân số và nó thường kèm với trầm cảm chủ yếu. Khoảng 50% người bệnh, khởi phát LATT ở thời thiếu nhi hoặc vị thành niên. Những triệu chứng mạn tính và có xu hướng nặng hơn trong những thời kỳ sang chấn. Đòi hỏi điều trị thường không xác định, dù một số người bệnh LATT trở nên gần như mất triệu
chứng trong một vài năm.
1.5.3. Phân loại rối nhiễu lo âu.
Sự phân loại các rối loạn lo âu theo DSM-IV-TR bao gồm:
- Rối loạn lo âu toàn thể (LATT).
- Rối loạn hoảng loạn (có hoặc không có ám ảnh sợ khoảng trống).
- Các ám ảnh sợ chuyên biệt và sợ xã hội.
- Rối loạn ám ảnh bó buộc (AABB).
- Rối loạn stress sau chấn thương (SSCT).
- Rối loạn stress cấp (SC).
Các chẩn đoán rối loạn lo âu do một bệnh thực thể hoặc rối loạn lo âu do chất được
sử dụng nếu bệnh thực thể hoặc sử dụng chất hoặc cai chất là nguyên nhân chính của những triệu chứng lo âu này.
Các rối loạn lo âu được phân biệt với nhau bởi sự hiện diện hay không của một yếu tố sang chấn môi trường rõ rệt (hiện diện trong các ám ảnh sợ, SSCT, và SC; và không hiện diện trong rối loạn hoảng loạn, AABB, và LATT) cũng như mô hình triệu chứng xuất hiện và biến mất (ví dụ, cấp tính trong rối loạn hoảng loạn, mạn tính trong LATT).
1.5.4. Nguyên nhân rối nhiễu lo âu.
Các rối loạn lo âu nằm trong số các vấn đề sức khoẻ tâm thần được điều trị thường gặp nhất. Cả hai yếu tố tâm lý xã hội và sinh học có liên quan đến căn nguyên của chúng. Các yếu tố tâm lý xã hội bao gồm học kém thích ứng đưa đến sợ một thứ hoặc tình huống vô hại và tiếp xúc với yếu tố sang chấn mạnh. Các yếu tố sinh học bao gồm di truyền và giới. Các rối loạn lo âu thường thấy trong các thành viên gia đình của người bệnh nhiều hơn trong dân số chung, và tỉ lệ hoà hợp của chúng cao hơn trong số sinh đôi đơn hợp tử so với dị hợp tử. So sánh với đàn ông, phũ nữ gấp hai đến ba lần khả năng rối loạn hoảng loạn, hai lần khả năng phát triển SSCT khi tiếp xúc với một yếu tố sang chấn mạnh, và nhiều hơn một chút về LATT (55% đến 60% so với 40% đến 45%).
Những liên quan đến sinh lý thần kinh. Hoạt động dẫn truyền thần kinh bị thay đổi đi kèm với những triệu chứng lo âu; đặc biệt là giảm hoạt động serotonin và gamma- aminobutyric acid (GABA); giảm gắn kết thụ thể GABA-benzodiazepine [67]; và tăng hoạt động của norepinephrine. Về giải phẫu thần kinh, nhân xanh, là vị trí của các tế bào thần kinh noradrenergic; nhân bèo; là vị trí của các tế bào thần kinh serotonergic; vỏ não thái dương; vỏ não trán; và nhân đuôi (đặc biệt trong AABB) được coi là liên quan đến sự phát
triển của các rối loạn lo âu.
Các nguyên nhân thực thể của những triệu chứng lo âu bao gồm uống cà phê quá
nhiều, lạm dụng và cai chất, cường giáp, thiếu sinh tố B12, giảm hoặc tăng đường máu,
thiếu máu, và u tủy thượng thận, u nằm ở tủy thượng thận tiết epinephrine. Vì những triệu
chứng lo âu (khó thở, khó chịu ở ngực, nhịp tim nhanh, và đổ mồ hôi) cũng xảy ra trong các
rối loạn tim mạch như loạn nhịp tim và các rối loạn hô hấp như bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính, các rối loạn này phải được loại trừ.
Lo âu được nhận thấy ở nhiều người bệnh trầm cảm, và những người bệnh có rối
loạn lo âu thường kèm với rối loạn trầm cảm chủ yếu và rối loạn loạn khí sắc. Do đó, có thể
khó phân biệt giữa các rối loạn lo âu và trầm cảm. Mối liên quan sinh học gần gũi giữa các
nhóm rối loạn này được củng cố bởi các nghiên cứu cho thấy các bất thường thần kinh nội
tiết và các thay đổi điện não đồ trong giấc ngủ giống nhau ở những người bệnh AABB và
rối loạn trầm cảm chủ yếu.
Các rối loạn lo âu phải được phân biệt với các giai đoạn tiền triệu và loạn thần của
tâm thần phân liệt khi mà lo âu thường nổi bật và lo âu nghi bệnh, trong đó có đau khổ quan trọng mà không phát hiện có bệnh thực thể nặng.
1.5.5. Liệu pháp trị liệu rối nhiễu lo âu. Bảng 1.4. Điều trị rối nhiễu lo âu.
HÓA DƯỢC
PHÂN LOẠI loạn Rối hoảng loạn có hoặc không có ám ảnh sợ khoảng trống TÂM LÝ Giải mẫn cảm hệ thống và liệu pháp nhận thức hành vi hữu ích kết hợp với liệu pháp hoá dược
Ám ảnh sợ chuyên biệt Điều trị cấp cứu: BZD tác dụng nhanh Điều trị dài hạn: SSRI Kết hợp SSRI và BZD BZD tác dụng trung bình hoặc kéo dài Chất đối vận beta-adrenergic (ví dụ, propranolol [Inderal]) đối với những triệu chứng thực vật Không có điều trị hoá dược tốt Chất đối vận beta-adrenergic
[Paxil]) hoặc (vd, paroxetine
Ám ảnh sợ xã hội Liệu pháp nhận thức hành vi Giải mẫn cảm hệ thống Liệu pháp hành vi khác (ví dụ, ngập lụt và bùng nổ; Thôi miên, liệu pháp gia đình và liệu pháp tâm lý Rèn luyện sự quả quyết Liệu pháp nhóm
Rối loạn ám ảnh bó buộc Rối loạn lo âu toàn thể
Liệu pháp hành vi Liệu pháp tâm lý nâng đỡ Liệu pháp nhận thức hành vi và liệu pháp tâm lý khác hữu ích đối với những triệu chứng mạn tính
loạn sau động dụ, (ví Rối stress chấn thương Nhóm nâng đỡ như những nhóm sống sót Liệu pháp tâm lý
SSRI venlafaxine (Effexor) MAOI (ví dụ, phenelzine [Nadril]) Chất đối vận beta-adrenergic SSRI (ví dụ, fluvoxamine [Luvox]) Clomipramine (Anafranil) Buspiron (BuSpar) Venlafaxine Doxepin (Adapin) BZD tác dụng trung bình (ví dụ, lorazepam [Ativan]) Chất đối vận beta-adrenergic SSRI (ví dụ, sertraline [Zoloft]) Thuốc kinh chống carbamazepin [Tegretrol]) Thuốc chống loạn thần (ví dụ, olanzapine [Zyprexa]) Chất đối vận beta-adrenergic
BZD: benzodiazepine; MAOI: chất ức chế men oxy hoá monoamine; SSRI: chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc, các điều trị (thứ tự trên xuống về tiện dụng cho mỗi sự phân loại).
1.6. RỐI NHIỄU TÂM LÝ Ở SINH VIÊN.
Giai đoạn sinh viên bắt đầu đối với mỗi người là từ sau 18 tuổi. Phần đông đối tượng
sinh viên Việt Nam nằm trong độ tuổi từ 18 đến 25, là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi vị thành
niên lên tuổi trưởng thành. Vì vậy, có thể nói đối tượng sinh viên một mặt vẫn còn mang
những đặc điểm của tuổi vị thành niên, mặt khác đã bắt đầu mang những đặc điểm của tuổi
trưởng thành. Tâm lý sinh viên vẫn còn một phần nào đó không ổn định của tuổi chưa thành
niên. Đặc biệt đối với sinh viên năm đầu, viêc thích nghi những thay đổi từ môi trường mới,
bạn bè mới, cách học mới...dễ làm gia tăng tình trạng bất ổn định về mặt tâm lý, cảm xúc.
Bên cạnh đó, sinh viên cũng là những người có nhận thức và tư duy rất rõ ràng về
mục tiêu cuộc sống, về những gì mình đã làm, đang làm và phải làm. Chính vì vậy mà sinh
viên đặc biệt là sinh viên năm cuối có phần mang tâm lý nặng nề để vừa hoàn thành tốt việc
học vừa phải phát triển tốt các mối quan hệ xã hội và từng bước hoàn thành các mục tiêu
cuộc sống sau này (có nghề nghiệp tốt, lập gia đình...) [45],[46]. Ngoài đặc điểm về tâm lý
thì điều kiện kinh tế hay hoàn cảnh sống cũng như tất cả các mối quan hệ xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe tâm lý của sinh viên. Những sinh viên sống xa nhà có điều kiện kinh tế khó khăn phải vừa học vừa làm thêm thì áp lực cuộc sống cũng như áp lực từ việc học có nhiều khả năng gây lo âu, trầm cảm, stress hơn. Nguy cơ rối loạn tâm thần của nhóm đối tượng này có thể ngày càng cao. Theo Facundes V.I & Ludermir A.B thì tỉ lệ mắc những rối loạn tâm thần thường gặp trên các sinh viên chuyên ngành chăm sóc sức khỏe là 31,4% và tỷ lệ này cao hơn ở nhóm đối tượng sinh viên cảm thấy quá tải trong việc học (OR=2,67) và những sinh viên gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống (OR=2,25). Có thể hiểu rằng trục trặc về sức khỏe tâm lý thường là những rối loạn trong trạng thái cảm xúc, nó cản trở năng lực nhận thức, tình cảm và xã hội của con người.
Thời gian học là 4 đến 6 năm, trong đó 2 năm đầu để học các môn cơ bản, rất nặng nề. Tất cả sinh viên ở các khoa điều học chung những học phần này nội, ngoại, sản, nhi, da liễu, tâm lý học sức khỏe, tâm thần,.... Sau đó 2 năm cuối tùy theo tính chất ngành mà sinh viên sẽ thực hành tại bệnh viện, hay cộng đồng. Trong giai đoạn học các môn chuyên ngành sinh viên được trang bị các kiến thức chuyên sâu, và có thể làm luận văn tốt nghiệp hoặc thi tốt nghiệp.
Sinh viên phải thực hành các kỹ năng được đào tạo như giao tiếp giữa thầy thuốc và bệnh nhân, kỹ năng khám, kỹ năng ra quyết định. Sinh viên năm 1 và năm cuối đa phần là gặp vấn đề về áp lực học tập, thời gian học dài hơn so với các ngành học khác, chuẩn bị
luận văn hay thi tốt nghiệp trong thời gian đi thực hành ở cộng đồng. Về mặt cảm xúc, sinh
viên hàng ngày phải đối mặt với sự đau khổ của bệnh nhân, giữa sự sống và cái chết, bao
gồm cả cái chết của người thân, họ phải chuẩn bị tinh thần mạnh mẽ trong những tình huống
stress mà học phải trãi qua. Tất cả những yếu tố về tâm sinh lý, các mối quan hệ xã hội hay
điều kiện sống và học tập ít nhiều đã ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm lý và thể chất
của sinh viên [10]. Một trong những ảnh hưởng đó, cụ thể là các rối loạn về trạng thái cảm
xúc như lo âu, stress, buồn rầu, hụt hẫng, mệt mỏi...Có những sinh viên phải bỏ học không
tiếp tục vì không thể chấp nhận được khi chứng kiến cái chết của bệnh nhân [7].
1.6.1.Tình cảm và công việc.
Khi đến tuổi thanh niên, phần lớn người ta đều có ý nghĩ rằng mình là ai và có vai trò
gì trong thế giới này. Ý nghĩ này khiến cho một người có thể hòa đồng với người khác
nhưng lại không cảm thấy bị mất cái tôi của mình. Erikson 2010 [45], mô tả thời kỳ đầu của
tuổi thanh niên như là giai đoạn đối nghịch giữa sự hòa đồng và cô lập, ông hàm ý rằng đến
độ tuổi này, nếu một cá nhân không phát triển tình yêu thương, cảm xúc và quan hệ sinh lý
với người khác thì trong những năm sau đó họ cũng không thể làm được những điều này.
Hầu hết con người phát triển mối quan hệ thân thiết với người khác thông qua việc kết hôn
hoặc các mối quan hệ khác.
Sigmund Freud nói rằng ngoài tình yêu thương, một công việc tốt cũng có vai trò quan trọng đối với sức khỏe cảm xúc của người trưởng thành. Công việc này có thể được thực hiện ở bên ngoài hoặc ngay bên trong ngôi nhà của mình. Ở Mỹ, đa số đành ông ra ngoài đi làm và phát triển nghề nghiệp khi còn rất trẻ. Phụ nữ thì lúc đầu định hướng công việc như ở nhà nội trợ hoặc đi làm nhưng đến khi ngoài 30 tuổi thường lựa chọn hướng đi khác như đi làm lại hoặc tiếp tục đi học khi con họ đã đến tuổi đến trường, hoặc sau khi đã có thời gian phát triển nghề nghiệp, họ trở lại làm công việc nội trợ toàn thời gian hoặc bán thời gian.
1.6.2. Hoạt động tình dục và sự mang thai.
Tuổi vị thành niên không chỉ được ghi dấu bởi sự trưởng thành về nhận thức và sự
hình thành nhân cách, nhưng cũng bởi vì sự tấn công mạnh mẽ của cảm giác giới tính. Các
cảm giác này được biểu lộ qua các hoạt động cơ thể và qua sự thủ dâm. Sự thủ dâm hàng
ngày xuyên suốt tuổi vị thành niên (và sau này) là việc xảy ra bình thường, và sự si mê
người khác giới và đồng giới-các cảm giác yêu đối với một người không thể với tới được
như là một ngôi sao nhạc rock-là bình thường. Các kinh nghiệm đồng giới có thể xãy ra suốt
tuổi dậy thì và có thể hoặc không thể là sự biểu lộ ban đầu của một sự định hướng giới tính
đồng giới. Và, dù cha mẹ có thể trở nên báo động, thực tiễn như trên là một phần của sự
phát triển bình thường [63].
Ở Mỹ, tuổi trung bình của sự giao hợp lần đầu tiên là khoảng 16 tuổi. Trước 19 tuổi,
hầu hết nam và nữ đều đã có giao hợp. Bởi vì tuổi trung bình của cuộc hôn nhân đầu tiên thì
khoảng 23 tuổi, quan hệ tình dục trước hôn nhân là tiêu chuẩn trong xã hội này. Ít hơn phân
nữa số trẻ vị thành niên hăng hái quan hệ tình dục có sử dụng đều đặn các biện pháp tránh thai. Các lí do cho điều này thì khác nhau, nhưng các trẻ vị thành niên thường được thuyết phục rằng chúng thì “đặc biệt” và “khác biệt” và vì vậy sẽ không bị mang thai hoặc phát triển bệnh lây truyền qua đường tình dục. Sự thuyết phục này không dựa trên thực tế. Vào năm 2000, nhóm tuổi từ 15 đến 19 có tỉ lệ bệnh lậu đặc trưng cho lứa tuổi cao nhất trong số các phụ nữ (716 trường hợp trên 100,000) và tỉ lệ cao thứ ba trong số đàn ông (328 trường hợp trên 100,000). Thực tế, bệnh chlamydia thường gặp ở phụ nữ vị thành niên (2,400 trường hợp trên 100,000) hơn ở phụ nữ lớn tuổi hơn. Các lí do khác đối với thất bại trong việc sử dụng biện pháp tranh thai ở vị thành niên bao gồm thiếu phương tiện tiếp cận trẻ hoặc không biết các phương pháp nào là hiệu quả. Các yếu tố xã hội và xúc cảm khiến trẻ vị thành niên mang thai bao gồm trầm cảm, kết quả ở trường kém, và cha mẹ li dị. Dù tỉ lệ mang thai ở trẻ vị thành niên Mỹ hiện nay đang giảm, vào năm 2000 nhóm tuổi này sinh khoảng 469,000 trẻ sơ sinh; ít nhất 8,500 trẻ được sinh bởi các bà mẹ nhỏ hơn 15 tuổi. Ngược lại, tỉ lệ mang thai trong số những bà mẹ lớn tuổi hơn, đặc biệt là những bà mẹ hơn 40 tuổi, thì đang gia tăng. Trẻ vị thành niên mang thai có thể bộc lộ ra một thử thách đối với cơ thể vì chúng gặp nguy cơ biến chứng sản khoa cao hơn các bệnh nhân lớn tuổi hơn. Điều này đúng một phần vì trẻ vị thành niên ít có khả năng tìm sự chăm sóc thai hơn các bệnh nhân lớn tuổi hơn và cũng bởi vì cơ thể của chúng chưa trưởng thành. Hầu hết sự chăm sóc y tế đối với trẻ vị thành niên (những người dưới 18 tuổi) đòi hỏi sự chấp thuận của ba mẹ. Tuy nhiên, thường thì hợp pháp và phù hợp đạo đức khi thầy thuốc hướng dẫn trẻ vị thành niên về giới tính và các biện pháp tránh thai mà không cần có sự đồng thuận của cha mẹ
hoặc không cho cha mẹ biết, cũng như chữa trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, các
vấn đề liên quan đến mang thai, và nghiện ma túy, nghiện rượu. Khi nghiên cứu về độ tuổi
này, Daniel Levinson (2010) đã thấy rằng khi đến tuổi 30 người ta đã có một vai trò nhất
định trong xã hội, thể chất phát triển đầy đủ nhất và là cá nhân rất độc lập. Thông thường,
đến tuổi này, độ tuổi được xem là quá trình chuyển tiếp hay là khủng khoảng tuổi 30, người
ta cũng thường tự kiểm lại giai đoạn đã qua trong cuộc đời mình [63],[64].
DÀN Ý NGHIÊN CỨU
Môi trường học tập
Tính chất chuyên ngành, số năm học
Tác động tức thời và tích lũy theo thời gian
Rối nhiễu tâm lý
Trầm cảm
Lo âu Hành vi
Stress Sang chấn
Yếu tố tâm lý - sinh lý – xã hội: thúc đẩy phát sinh và nặng hơn
Giới tính
Nơi ở
Khoa
Phương tiện
Thái độ
Quan hệ xã hội/bạn bè
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm
kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền
Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5
huyện, tổng diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0
giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số
Việt Nam) thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm
một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về giáo dục, y tế và chăm sóc sức
khỏe, các vấn nạn đô thị hóa, chính sách xã hội. Những bệnh mạn tính không truyền nhiễm
và truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương
hàn, tăng huyết áp, tiểu đường, ung thư, tim mạch, tâm thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất
hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của mỗi người [1].
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh là một trong những Đại học Y Dược hàng đầu ở Việt Nam nói chung và ở khu vực miền Nam nói riêng. Cơ sở chính nằm tại số 217 Hồng Bàng, Quận 5, Tp.Hồ Chí Minh. Đại học hiện có 7 khoa: Điều dưỡng - Kĩ thuật y học (quận 5), Răng hàm mặt (quận 5), Khoa học Cơ bản (quận 5), Dược (quận 1), Y tế Công cộng (quận 8), Y (quận 5), Y học Cổ truyền (quận Phú Nhuận). Đại học Y Dược còn quản lý một bệnh viện là Bệnh viện Đại học Y Dược là đơn vị cấp 2 thực, cơ sở thực hành cho sinh viên (http://www.yds.edu.vn/).
2.2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU.
Nghiên cứu tại một thời điểm.
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Các rối nhiễu tâm lý trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh.
2.2.2. Dân số mục tiêu.
Sinh viên Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.3. Khách thể nghiên cứu (Dân số chọn mẫu).
Gồm 400 sinh viên gồm các khoa khoa Dược, khoa Y tế Công cộng, khoa Y, khoa Y học cổ truyền, khoa Điều Dưỡng-Kỹ thuật y học- Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
2.3. CỠ MẪU NGHIÊN CỨU.
Đây là nghiên cứu ước lượng về tỉ lệ rối nhiễu tâm lý nên dùng công thức chọn mẫu
[14],
2
𝛼 2� ∗ 𝑃(1 − 𝑃)
2 d
�1 − 𝑍 n = n: Cỡ mẫu
α: Xác sất sai lầm loại 1,
Z: Hệ số tin cậy, ; Z2=3,84 𝛼 = 0,05
𝛼 2) = 1,96
𝑍(1− p: Tỉ lệ nghiên cứu trước (của Trương Đình Chính tỉ lệ tâm thần là 59% trên 382 người)
[3].
d: Sai số 5% (d= 0,05)
Design effect = 1
Vậy cỡ mẫu là n=388
2.4. CHỌN MẪU.
2.4.1. Kỹ thuật chọn mẫu.
- Lập danh sách năm 1 và năm 3 tại các Khoa.
- Lấy toàn bộ sinh viên năm 1 và 3, sau đó chọn ngẫu nhiên đơn hệ thống khoảng cách
là 6 (1/6) có phân tầng theo năm, khoa.
- Danh sách sinh viên được chọn dựa trên thực tế số lượng sinh viên có mặt tại thời
điểm nghiên cứu.
- Nghiên cứu viên phát phiếu khảo sát đến sinh viên.
- Mỗi sinh viên có thời gian là 10-15 phút trả lời vào phiếu.
2.4.2. Tiêu chí đưa vào.
- Được sự đồng ý của sinh viên tham gia trả lời bộ câu hỏi.
- Có mặt tại lớp trong thời điểm phỏng vấn.
- Kết quả trả lời của sinh viên được xem là trung thực (câu hỏi kiểm định tính trung
thực).
2.4.3. Tiêu chí loại ra.
- Không hợp tác.
- Trả lời không đủ số liệu trong bảng câu hỏi.
- Có kết luận y tế là rối loạn tâm lý.
2.5. THU THẬP SỐ LIỆU.
2.5.1 Bộ câu hỏi thu thập dữ liệu.
Sử dụng bộ câu hỏi theo hướng dẫn của APA trong DSM-IV [11].
Tất cả đối tượng được phỏng vấn theo bảng câu hỏi DASS-42 [25], dùng để đánh giá
mức độ trầm cảm, lo âu và stress; tại Hồng Kông, nghiên cứu sử dụng DASS-42 trên 155
sinh viên vừa tốt nghiệp; tại Iran, một nghiên cứu ứng dụng DASS-42 [40]. Độ tin cậy
Alpha’Cronbach của DASS-42 khá cao, tuy nhiên nó có một chút thay đổi khi sử dụng trên
những đối tượng khác nhau: ở đối tượng là người lớn, tuổi từ 18 đến 91 (một khảo sát trên
1.794 người ở Anh), độ tin cậy thống nhất cho DASS-42 là 0,93, trầm cảm là 0,88, lo âu là
0,82, stress là 0,90; một nghiên cứu khác trên 850 đối tượng ở tuổi trung bình là 21-22 thì
độ tin cậy thống nhất cho DASS-42 là 0,89, trầm cảm là 0,79, lo âu là 0,70, stress là 0,76.
Và hệ số tin cậy trong nghiên cứu tại Việt Nam (n=1078) của DASS-21 là 0,84, trầm cảm là
0,81, lo âu là 0,83, stress là 0,88 [21].
Tuy DASS-21, DASS-42 được sử dụng rộng rãi ở các nước nhưng nó vẫn hạn chế cho các đối tượng dưới 14 tuổi. DASS-42 có 42 câu, mỗi câu có bốn mức độ trả lời, tương ứng với số điểm là 0, 1, 2, 3.
Mức độ trầm cảm: câu 1, 22, 2, 23, 4, 25, 6, 27, 7, 28, 8, 29, 9, 30, 11, 12, 32, 33, 14,
15, 35, 36, 18, 19, 20, 39, 40, 41
Mức độ lo âu : câu 1, 3, 24, 5, 6, 26, 27, 8, 29, 10, 11, 12, 13, 14, 31, 32, 33, 34, 35,
16, 17, 18, 37, 38, 39, 21, 42
Mức độ stress: 2, 3, 4, 5, 23, 24, 25, 26, 7, 28, 9, 10, 30, 31, 13, 34, 15,16,17, 36, 37,
38, 19, 20, 21, 40, 41, 42.
Bảng 1.5. Các mức độ rối nhiễu tâm lý DASS-42 (*).
Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress
Bình thường 0 – 9 0 - 7 0 – 14
Nhẹ 10 – 13 8 – 9 15 – 18
Vừa 14 – 20 10 - 14 19 – 25
Nặng 21 – 27 15 - 19 26 – 33
Rất nặng ≥28 ≥20 ≥34
(*) Bảng này được phân loại dựa trên nghiên cứu từ ngoài nước chưa được chuẩn hóa trên dân số Việt Nam (bảng tiếng Việt từ nguồn: Viện sức khỏe tâm thần trung ương) [25].
Mức độ dao động hay phạm vi có thể của các nhóm rơi vào biên độ các khoảng trên.
2.5.2. Các bước nghiên cứu.
- Nghiên cứu thử nghiệm bộ câu hỏi trước bằng 20 sinh viên.
- Chỉnh câu hỏi chưa rõ ý, hay nhiều ý trong mỗi câu hỏi.
2.5.3. Kiểm soát sai lệch dữ liệu.
2.5.3.1. Kiểm soát sai lệch thông tin.
- Mỗi sinh viên có thời gian là 10-15 phút trả lời vào phiếu.
- Các biến số được định nghĩa rõ ràng.
- Người khảo sát được hướng dẫn tập huấn.
2.5.3.2. Kiểm soát sai lệch lựa chọn.
Các câu đo tính tin cậy của phiếu trả lời. Tổng trên 4 điểm phiếu bị loại.
Cộng 1 điểm: Khi đã hứa làm một việc gì, bạn có luôn luôn giữ lời hứa không (bất kể
lừa hứa có thuận lợi với mình hay không)? Tất cả mọi thói quen của bạn đều tốt và hợp với mong muốn của bạn phải không? Nếu không bị kiểm tra bạn có mua vé tầu hay xe không?
Trừ 1 điểm: Thỉnh thoảng bạn có nổi nóng, tức giận không? Bạn hay có những ý nghĩ mà bạn muốn dấu không cho người khác biết phải không ? Đôi khi bạn cũng hay thêu dệt chuyện phải không ? Có khi nào bạn đến chỗ hẹn, hoặc đi học, hay đi làm muộn không ? Trong số những người quen, có người mà bạn không ưa thích một cách công khái phải không ? Bạn có thường hay nói những vấn đề mà bạn chưa hiểu kỹ phải không ?
Bằng epidata 3.1 (phiên bản miễn phí tại địa chỉ:
2.6. XỬ LÝ SỐ LIỆU-PHÂN TÍCH SỐ LIỆU. 2.6.1. Nhập liệu. http://fphhcm.edu.vn/elearning/index.php).
Toán thống kê ứng dụng phần mền R phiên bảng R.2.13.2 http://www.r-project.org/
2.6.2. Xử lý. [22], [23].
Trên window địa chỉ http://cran.r-project.org/bin/windows/base/.
Các Packages: psych, epicalc, Hmisc được sử dụng trong nghiên cứu này.
2.6.3. Phân tích dữ liệu.
Tính tỉ lệ phần trăm cho các biến số định tính (danh định). Dùng phép kiểm chi bình
phương cho các biến số này.
Tính trung bình và độ lệch chuẩn cho các biến số định lượng. Dùng kiểm định t-test,
anova cho biến định lượng có phương sai đồng nhất (kiểm định phương sai sdtest).
Nếu phân phối không bình thường sử dụng phương pháp hồi quy poisson, bootstrap.
Tính mối liên hệ bằng tỉ số tỉ lệ nguy cơ PR (Prevalence ratio) cho các biến số danh
định, định lượng, hay thứ tự, hay hồi qui Poision cho các biến định lượng phân phối không
theo phân phối chuẩn [15].
Dùng phép kiểm hệ số tương quan đa biến.
Mức ý nghĩa thống kê 95%, =0,05 [4].
Kiểm định hệ số tin cậy Alpha Cronbach’s cho thang đo DASS-42. ∝
2.7. LIỆT KÊ VÀ ĐỊNH NGHĨA BIẾN SỐ. 2.7.1. Biến số nền.
- Giới tính: là biến số nhị giá, gồm 2 giá trị nam hoặc nữ.
- Khoa: biến số danh định, gồm 5 giá trị: Điều dưỡng-Kỹ thuật y học, Dược, Y, Y học
Cổ Truyền, Y tế công cộng.
- Số năm học của sinh viên: là biến số danh định gồm 2 giá trị: năm 1, năm 3.
- Dân tộc: là biến số danh định, gồm 3 giá: trị Kinh, Hoa, Khơ me, Khác.
- Tôn giáo: là biến số danh định, gồm 2 giá trị: Không, Phật giáo, Thiên giáo, Khác.
- Chỗ ở hiện tại: là biến số danh định gồm 6 giá trị: Nhà trọ/phòng trọ, Ký túc xá,
Nhà riêng, Nhà của cha mẹ, Ở nhờ bà con/dòng họ, Khác.
- Số lượng người: là biến số liên tục là những giá trị nguyên dương.
- Thường sử dụng phương tiện đi học hàng ngày: là biến số danh định, gồm 6 giá
trị: Xe buýt, Xe máy, Xe đạp, Đi bộ, Xe hơi (ô tô), khác.
- Làm việc kiếm tiền: là biến số nhị giá gồm 2 giá trị có hoặc không.
- Mục đích chính sử dụng số tiền kiếm được: là biến số danh định gồm 4 giá trị:
Giúp đỡ gia đình, Để lấy tiền học, Để tiêu /xài, Khác.
- Thông tin từ nguồn: là biến số danh định nhiều lựa chọn gồm các giá trị: Tivi /radio, Internet (phòng máy cho thuê), Máy tính xách tay (laptop), Điện thoại di động, Wifi (công cộng, coffee), Truyền thông từ “tổ chức sự kiện”, Báo (tuỏi trẻ, phụ nữ, sức khỏe,.......),Tạp chí khoa học chuyên ngành, Blog/web, Thư viện nước ngoài.
- Sử dụng dịch vụ tư vấn tâm lý: biến số nhị giá bao gồm có hoặc không.
- Nơi khám, tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ,...liên quan đến sức khỏe tâm lý: là biến số nhị
giá gồm 2 giá trị có hoặc không.
- Hiện nay, có đang hút thuốc lá không (Chẳng hạn như thuốc điếu, xì gà, tẩu hay
thuốc lào): là biến số nhị giá gồm 2 giá trị có hoặc không.
- Hiện nay, Bạn có rượu/bia không (kể cả rượu trái cây): là biến số nhị giá gồm 2
giá trị có hoặc không.
- Thời gian trong ngày dành cho đọc sách tham khảo, trong một tuần: là biến số
định lượng đơn vị là giờ.
- Thời gian bạn nghe nhạc, xem phim trong một ngày: là biến số định lượng đơn vị
là phút.
- Kế hoạch làm việc, học tập: là biến số danh định gồm 4 giá trị là Tuần, tháng, năm,
Không có.
- Bạn có nghe nói hay trực triếp tham gia chuyên đề Sức khỏe tâm lý chưa: là
biến số nhị giá gồm 2 giá trị có hoặc không.
- Thái độ đối với việc chung sống trước hôn nhân: rất đồng ý, đồng ý, bình thường,
không đồng ý, rất không đồng ý.
- Thái độ đối với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân: rất đồng ý, đồng ý, bình
thường, không đồng ý, rất không đồng ý.
- Thái độ đối với việc li hôn/Li dị: rất đồng ý, đồng ý, bình thường, không đồng ý, rất
không đồng ý.
2.7.2. Biến số tiên lượng.
- Lo âu bao gồm các câu: 1, 3, 24, 5, 6, 26, 27, 8, 29, 10, 11, 12, 13, 14, 31, 32, 33, 34, 35, 16, 17, 18, 37, 38, 39, 21, 42: được ghi nhận với số điểm 0,1,2,3, mỗi câu có bốn mức độ trả lời, tương ứng với số điểm là 0, 1, 2, 3. Là biến số định lượng (Không đúng với tôi chút nào cả, Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng, Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng, Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng).
- Trầm cảm gồm câu 1, 22, 2, 23, 4, 25, 6, 27, 7, 28, 8, 29, 9, 30, 11, 12, 32, 33, 14, 15, 35, 36, 18, 19, 20, 39, 40, 41. Là biến số định lượng gồm 4 giá trị: Không đúng với tôi chút nào cả, Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng, Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng, Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng.
- Stress bao gồm câu 2, 3, 4, 5, 23, 24, 25, 26, 7, 28, 9, 10, 30, 31, 13, 34, 15,16,17, 36, 37, 38, 19, 20, 21, 40, 41, 42 . Là biến số định lượng gồm 4 giá trị: Không đúng với
tôi chút nào cả, Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng, Đúng với tôi
phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng, Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết
thời gian là đúng.
2.7.3. Các câu kiểm định tính trung thực.
Là các biến số danh định, có 2 giá trị: đồng ý và không đồng ý.
- Khi đã hứa làm một việc gì, bạn có luôn luôn giữ lời hứa không (bất kể lừa hứa có
thuận lợi với mình hay không).
- Tất cả mọi thói quen của bạn đều tốt và hợp với mong muốn của bạn phải không.
- Nếu không bị kiểm tra bạn có mua vé tàu hay xe không.
- Thỉnh thoảng bạn có nổi nóng, tức giận không.
- Bạn hay có những ý nghĩ mà bạn muốn dấu không cho người khác biết phải không.
- Đôi khi bạn cũng hay thêu dệt chuyện phải không.
- Có khi nào bạn đến chỗ hẹn, hoặc đi học, hay đi làm muộn không.
- Trong số những người quen, có người mà bạn không ưa thích một cách công khái
phải không.
- Bạn có thường hay nói những vấn đề mà bạn chưa hiểu kỹ phải không?
2.7.4. Biến số hy vọng bao gồm 11 câu [18].
- Tôi có thể nghĩ ra nhiều cách để thoát khỏi những tình khó khăn.
- Tôi rất nổ lực theo đuổi mục đích của mình.
- Gần như lúc nào tôi cũng cảm thấy mệt mõi.
- Tôi nghĩ bất cứ lĩnh vực nào cũng có nhiều mặt.
- Tôi dễ nổi cáu trong các cuộc tranh luận.
- Tôi có thể tìm được nhiều cách để đạt được những điều quan trọng đối với bản thân.
- Tôi lo lắng về sức khỏe của mình.
- Thậm chí khi không được những người khác khuyến khích/ ủng hộ tôi vẫn tìm cách
giải quyết.
- Những kinh nghiệm trong quá khứ đã chuẩn bị tốt cho tương lai của tôi
- Tôi cũng thành công chút đỉnh trong cuộc sống.
- Tôi thường cảm thấy lo lắng về một điều diều gì đó.
- Tôi đạt được mục tiêu mà chính tôi đặt ra cho mình.
Là biến số định lượng: Hoàn toàn đúng, Hầu như đúng, Đôi khi đúng, Chỉ đúng một
chút, Chỉ không đúng một chút, Đôi khi không đúng, Hầu như không đúng, Hoàn toàn
không đúng.
2.8. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU.
- Được sự thông qua của hội đồng khoa học Khoa Tâm lý - Giáo dục.
- Khảo sát khuyết danh.
- Góp phần chính sách sức khỏe và y tế cho sinh viên.
- Đem lại những kiến nghị nhằm giảm tỉ lệ rối loạn Lo âu, Trầm cảm, Stress trong sinh
viên và tăng cường can thiệp các yếu tố có liên quan.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG RỐI NHIỄU TÂM LÝ TRONG SINH VIÊN
3.1. Độ tin cậy thang đo.
Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo DASS-42 là 0,90, khảo sát trên 422
sinh viên, 400 sinh viên có điểm trung thực <4 điểm đưa vào mẫu phân tích, và 22 phiếu
loại ra và tỉ lệ là 5,2%. Thang đo có độ tin cậy phù hợp với các nghiên cứu khác trong nước
và nước ngoài [24]. Hồng Kông, sử dụng DASS-42 vào 155 sinh viên vừa tốt nghiệp; tại
Iran, những bệnh nhân chạy thận nhân tạo [40], độ tin cậy Alpha’Cronbach của DASS-42
khá cao, trên 1.794 người ở Anh, độ tin cậy thống nhất là 0,93, trầm cảm là 0,88, lo âu là
0,82, stress là 0,90; n = 850 là 0,89, trầm cảm là 0,79, lo âu là 0,70, stress là 0,76. Hệ số tin
cậy trong nghiên cứu tại Việt Nam (n=1078) của DASS-21 là 0,84, trầm cảm là 0,81, lo âu
là 0,83, stress là 0,88 [21].
225
175
Sinh viên nam
Sinh viên nữ
3.1. Thực trạng rối nhiễu tâm lý trong sinh viên. Giới tính.
Biểu đồ 3.1. Phân bố sinh viên theo giới tính.
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ sinh viên nam nhiều hơn sinh viên nữ, là 1,3/1 trong ngành y tế (biểu đồ 3.1), tỉ lệ này thấp so với nghiên cứu tại Tehran, hầu hết các sinh viên là nữ tỉ lệ 87,2%. Trong kết quả mẫu nghiên cứu này không có khác biệt có ý nghĩa giữa giới tính nam và nữ. Trong khi đó nghiên cứu khác là 100% là nữ sinh viên trường Đại học y tế và ngoài y tế tại Dammam, Saudi Arabia của nhóm tác giả Badria K.Al-Dabal, Manal R Koura, và cộng sự (2010) trên 319 sinh viên nữ ngành y tế được đưa vào nghiên cứu và 297 sinh viên y khoa từ trường Đại học nghiên cứu ứng dụng và Dịch Vụ Cộng Đồng (CASCS) đã được lựa chọn bằng cách lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng, có tỉ lệ nữ nhiều hơn nam.
Sinh viên học ngành (Khoa).
90
71
68
60
58
53
Khoa y
Khoa dược
Khoa điều dưỡng
Khoa y tế công cộng
Khoa y học cổ truyền
Khoa răng hàm mặt
Biều đồ 3.2. Phân bố sinh viên theo Khoa (trục tung là tần số).
Năm học.
Sinh viên Khoa Y tỉ lệ cao nhất là 23% (90), thấp nhất là 13% (53) sinh viên Khoa y
231(58%)
169(42%)
năm 1
năm 3
tế Công cộng.
Biểu đồ 3.3: Phân phối theo năm học
Sinh viên năm thứ nhất nhiều hơn sinh viên năm 3, (biểu đồ 3.3) . Phù hợp với nghiên cứu tại Đại học ở Hồng Kông trên 7915 sinh viên tham gia của tác giả Wong.J.G thì trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên năm thứ nhất trong hệ thống giáo dục là cao, thang đo DASS-42, có tỉ lệ rồi nhiễu trầm cảm, lo âu và stress mức độ nặng là 21%, 41% và 27,5% [91]. Tác giả H.J Hoekstra, B.B Van Meijel, T.G Van der Hooft-Leemans năm 2010, sinh viên nhận thức tích cực với việc chăm sóc sức khỏe tâm lý, những nhận thực tích cực này
ảnh hưởng thuận lợi sự lựa chọn tương lai nghề nghiệp của mình [54]. Điều này cũng phù
hợp với quan niệm về sự hiểu biết - có hiểu biết mới thích thú với nghề nghiệp của mình.
354(88%)
46 (12%)
dân tộc Kinh
dân tộc Khác
Biểu đồ 3.4. Phân bố theo dân tộc (n=400).
Hầu hết sinh viên là dân tộc kinh (88%), dân tộc ít người chiếm tỉ lệ thấp. Như vậy tỉ
lệ sinh viên là người dân tộc thiểu số còn thấp trong hệ thống giáo dục ngành y tế.
317(79)
83 (21)
Không và Phật giáo
Khác
Tôn giáo.
Biểu đồ 3.5. Phân bố sinh viên theo tôn giáo (n=400).
Có 79% sinh viên không theo tôn giáo nào hoặc theo đạo phật (biểu đồ 3.5). Mặc dù trong nghiên cứu này, người nghiên cứu không có ý định phân tích các yếu tố tôn giáo với rối nhiễu tâm lý, tuy nhiên một số nghiên cứu từ nước ngoài (Úc) cho thấy phụ nữ mang thai và gặp vấn đề sức khỏe tâm lý sau sanh, những phụ nữ có niềm tin tôn giáo thì mức độ rối loạn tâm lý sau khi sinh thấp hơn rất nhiều so với nhóm còn lại có ý nghĩa khác biệt về thống kê [69]. Yếu tố niềm tin trong bản thân của mỗi sinh viên, giúp cho họ giảm thấp tỉ lệ rối nhiễu tâm lý. Chiến lược tinh thần như cầu nguyện/suy niệm (tỉ lệ 65,8%), [73].
3.3. Một số yếu tố có khả năng tác động đến một số rối nhiễu tâm lý trong sinh viên.
Nơi sinh viên ở và học tập.
250
226 (57%)
200
150
100
60 (15%)
54 (14%)
51 (13%)
50
9 (2%)
0
Ký túc xá
Với cha mẹ
Nhà trọ/ thuê
Nhà riêng
Với bà con/họ hàng
Biểu đồ 3.6. Nơi sống của sinh viên.
Một nữa sinh viên sống trong ký túc xá, một nữa còn lại sống nhà trọ/thuê, với cha
mẹ và họ hàng.
Kết quả nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra những ảnh hưởng của môi trường đến rối
nhiễu tâm lý sinh viên (biểu đồ 3.6).
Phần lớn sinh viên ở ký túc xá là 57% và nhà thuê/ trọ là 14%. Ký túc xá được thiết kế theo qui định phù hợp với số lượng sinh viên sống chung trong phòng. Những qui định về giờ học tập, sinh hoạt, đây là những môi trường xem như là tốt nhất hiện nay cho sinh viên từ các nơi khác về thành phố học tập và sinh sống.
Những sinh viên sống ở nhà trọ/ nhà thuê thường khó khăn về điều kiện vệnh sinh,
nước sạch, điện, an toàn, diện tích phòng trọ chật hẹp, và những vấn đề khác.
Các nghiên cứu mở rộng phạm vi của sức khỏe tâm lý vượt ra ngoài mức độ cá nhân, một kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng sức khỏe như kinh tế và xã hội nó đóng vai trò quyết định sức khỏe con người dể nhận diện nhất là những vùng địa lý giáp ranh và nội thị ở khu vực và các quốc gia [2]. Phù hợp với kết quả nghên cứu tại Tehran khoảng 57% sinh viên sống trong ký túc xá trường đại học (đến từ các thành phố khác).
Phương tiện sử dụng hàng ngày của sinh viên.
208 (56%)
Xe buýt
Xe gắn máy
Khác/đưa rước
105 (26%) 87 (22%)
Biểu đồ 3.7. Phương tiện sử dụng thường xuyên của sinh viên
Phân nữa sinh viên sử dụng phương tiện cá nhân (xe gắn máy) đi học hàng ngày. Khi
sử dụng phương tiện này sinh viên có thể chủ động thời gian đi thực tập tại các bệnh viện
trên địa bàn thành phố và học ở các Khoa. Nó cũng rất phù hợp cho sinh viên ở trọ, họ có
thể di chuyển mà ít tốn thời gian hơn (biểu đồ 3.7).
Một phần năm sinh viên sử dụng xe buýt. Như vậy xe buýt cũng không đáp ứng được
nhu cầu sử dụng của sinh viên.
239 (60%)
161 (40%)
Có
Không
Có 9% sinh viên được đưa rước của gia đình. Việc đưa rước có thể làm tăng tính phụ thuộc và thụ động của sinh viên vào gia đình. Có thể là yếu tố tiềm ẩn tăng cường mức độ rối nhiễu tâm lý nhiều hơn khi những sinh viên này phải tự mình giải quyết các mối quan hệ trong cuộc sống mà ở đó cần có năng lực phán đoán - kỹ năng ra quyết trước những tình huống khó khăn trong việc hành nghề sau này.
Biểu đồ 3.8. Việc làm kiếm tiền (n=400).
Cứ 10 sinh viên có khoảng 4 sinh viên làm việc kiếm tiền.
Hiện tượng sinh viên làm thêm có tính chất phổ biến, trong ngành y tế. Thời gian học
và thực tập tại bệnh viện chiếm hết quỹ thời gian trong ngày, tuần, do đó việc làm thêm ít
nhiều ảnh hưởng đến kết quả học tập. Thời gian sinh viên phải học thực hành tại bệnh viện
vào các buổi sáng trong tuần, buổi chiều lý thuyết trên giảng đường. Trong khi đó nổ lực
học tập của sinh viên phải đạt các mục tiêu, năng lực làm việc tốt nhất sau khi ra trường. Có
thể nói rằng chính vì sinh viên không thật sự tập trung thời gian vào học nên không ít những
sinh viên không được đánh giá cao sau khi ra trường làm việc tại một số bệnh viện. Khả
năng sinh viên phải đạt được như kiến thức, thái độ và kỹ năng. Những kỹ năng mà sinh
viên có được là hình thành từ thực hành tại khoa bệnh viện chứ không phải trên giảng
đường. Nếu sinh viên không đủ thời gian rèn luyện các kỹ năng này thì không đủ năng lực
khám và điều trị bệnh nhân.
Trong khí đó kết quả nghiên cứu cho thấy cứ 10 sinh viên có 4 sinh siên làm việc
kiếm tiền (biểu đồ 3.8). Sinh viên làm việc kiếm tiền có tỉ lệ khác các trong xã hội hiện nay.
Tuy nhiên thời gian dành cho việc làm, thêm ảnh hưởng đến năng lực sau này của sinh viên. Đặc biệt là sinh viên ngành y tế, đòi hỏi họ phải có năng lực thực hành chứ không chỉ là những lý thuyết suông. Thời gian dành cho việc học ít sẽ dẫn đến kết quả học tập kém và hạn chế về năng lực hành nghề sau này.
Sinh viên biết về dịch vụ tham vấn tâm lý.
220 (55%)
180 (45%)
Có
Không
Biểu đồ 3.9. Dịch vụ tư vấn sức khỏe tâm lý (n=400).
Trên một nữa sinh viên không biết dịch vụ tham vấn sức khỏe.
Hiện nay, phổ biến trên tuyền thông, thông tin đại chúng về các dịch vụ tham vấn/tư vấn sức khỏe tâm lý rất nhiều. Tuy nhiên qua kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu ghi nhận có 55% sinh viên không biết dịch vụ tham vấn sức khỏe (biểu đồ 3.9). Điều này có thể
gợi ý giả thuyết rằng sinh viên ngành y tế không có nhiều thời ngoài việc học, nên không
biết thêm các dịch vụ khác về tư vấn tâm lý. Họ còn bận tâm trong việc phải kiếm tiền chăm
lo cho cuộc sống của mình. Hoặc những trung tâm này chưa thật sự đáp ứng các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe tâm lý nên chưa trở thành những địa chỉ đáng tin cậy trong cộng đồng.
Chính vì vậy sinh viên biết rất ít, và quan tâm đến các rung tâm này không nhiều. Khả năng
khác có thể xảy ra là sinh viên chỉ chú trọng đến khoa tâm thần chưa xem trọng điều trị
bằng liệu pháp tâm lý về những rối loạn tâm lý.
Sinh viên sử dụng internet.
294 (74%)
Có thường xuyên
Không thường xuyên
106 (26%)
Biểu đồ 3.10. Sinh viên sử dụng internet
Đa số sinh viên thường xuyên sử dụng internet (biểu đồ 3.10).
Thông tin được phổ biến rộng rãi trên thư viện điện tử. Theo ước tính của thư viện Pubmed, mỗi ngày có khoảng trên 500 bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí có uy tính. Còn tỉ lệ lớn sinh viên (26%) không thường xuyên sử dụng internet đó cũng là những hạn chế về việc tham khảo tài liệu học tập. Nếu chỉ dựa vào giáo trình hiện nay thì kiến thức y khoa sẽ không được cập nhật kịp thời.
Sinh viên sử dụng Internet để tìm thông tin sức khỏe tâm lý và hỗ trợ. Đó là nhận ra rằng những người trẻ tuổi gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế vì những sự kỳ thị vẫn còn liên kết với vấn đề sức khỏe tâm lý. Một trong những giải pháp tiềm năng là sử dụng nhiều trang web cung cấp thông tin có sẵn và hỗ trợ cho các vấn đề sức khỏe tâm thần, hỗ trợ, thông tin đó có thể được cung cấp bởi tâm thần. Tuy nhiên, người trẻ sử dụng và quan điểm về sử dụng Internet cho mục đích này vẫn chưa được kiểm tra. Điều này mô tả nghiên cứu định lượng nhằm gợi ra những quan điểm của 922 sinh viên, tuổi từ 18 đến 24 (năm), về việc sử dụng Internet để thông tin sức khỏe tâm lý và hỗ trợ. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng một bảng câu hỏi 30-mục tự thiết kế và phân tích bằng cách sử dụng thống kê mô tả. Những phát hiện cho thấy 72,4% người tham gia sử dụng Internet nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, 30,8% trước đó đã tìm kiếm trực tuyến thông tin sức khỏe tâm thần, chủ yếu vào trầm cảm. Trong khi nó đã được tìm thấy rằng 68% người tham gia chỉ ra rằng họ sẽ sử dụng internet để hỗ trợ sức khỏe tâm lý nếu họ cần đến, có 79,4% vẫn còn muốn
mặt đối mặt hỗ trợ. Đó là kết luận rằng những người trẻ sẵn sàng sử dụng internet để tìm
thông tin sức khỏe tâm lý và rằng nó đại diện cho một nguồn hỗ trợ hữu hiệu đối với nhóm
tuổi này.
Hiện nay có một số tác giả ở Trung Quốc, và trong nước như tác giả Lê Minh Công
nghiên cứu về vấn đề nghiện internet trên tạp chí tâm lý học Việt Nam số 6/2011, tuy nhiên
trong phân loại của DSM-IV-TR của hiệp hội Tâm lý học Hoa kỳ (APA) và các nhà khoa
học khác cho rằng chưa có đủ bằng chứng cho rằng “nghiện internet” là rối loạn tâm thần
(tâm lý), có thể phân loại nghiện game, nghiện truyện,… trên internet, chưa có khái niệm
nghiện internet trong phân loại bệnh.
Sinh viên và việc hút thuốc lá.
374 (93%)
có Hút thuốc lá
Không hút thuốc lá
26 (7%)
Biểu đồ 3.11. Hút thuốc lá.
Có khoảng 7% sinh viên hút thuốt lá (biểu đồ 3.12). Đa số 80% sinh viên có sử dụng bia/ rượu trong tháng qua. Tỉ lệ sử dụng thuốc lá trong sinh viên khoảng 30% (n=217) (Sherry A, McKee 2003), tác giả đã xem xét mối quan hệ giữa tỉ lệ uống rượu và hút thuốc, phản ứng chủ quan của tác động đồng thời sử dụng của rượu và thuốc lá, và mong đợi của việc hút thuốc trong khi dưới ảnh hưởng của rượu trong sinh viên đại học năm đầu tiên.
Hầu hết sinh viên cho rằng các chiến lược tránh hút thuốc lá tỉ lệ 93,7% và uống bia
hoặc rượu vang tỉ lệ 92,9%, [73].
Sinh viên và việc uống rượu/ bia.
321 (80%)
Có uống rượu / bia
Không uống rượu/bia
79 (20%)
Biểu đồ 3.12. Tỉ lệ uống dụng rượu / bia của sinh viên
Đa số 80% sinh viên có sử dụng bia/ rượu trong tháng qua.
Uống rượu 18,5 ly tiêu chuẩn mỗi tuần, sinh viên mới biết uống với 2,95 ly chuẩn mỗi tuần. Có 54% hút thuốc lá (hút thuốc nhiều hơn 100 điếu) và 46% hút thuốc ít hơn 100 điếu. Kết quả đã chứng minh rằng 74%, người hút thuốc lá thì uống được rượu nhiều hơn. Nhìn chung, người hút thuốc có kinh nghiệm mạnh mẽ hơn tác động chủ quan của rượu đồng thời và sử dụng thuốc lá, tuy nhiên, kết quả cho thấy hút thuốc trong khi dưới ảnh hưởng của rượu là một kinh nghiệm tích cực ngay cả đối với người hút thuốc lá tương đối thiếu kinh nghiệm.
Mức độ uống rượu/bia phổ biến ở Việt Nam, trong đó cứ 10 sinh viên thì có 8 người
có uống rượu/ bia trong vòng 1 tháng qua (biểu đồ 3.13).
Hầu hết sinh viên cho rằng các chiến lược tránh hút thuốc lá tỉ lệ 93,7% và uống bia
hoặc rượu vang tỉ lệ 92,9% [73].
Kế hoạch học tập của sinh viên
Bảng 3.6. Kế hoạch học tập của sinh viên (n=400)
Kế hoạch học tập Nam Nữ Nam + Nữ Phần trăm tích lũy n (%) n (%) n (%)
Không 66 (55) 54 (45) 120 (30) 30
Tuần 122 (57) 94 (43) 216 (54) 84
Tháng 23 (61) 15 (40) 38 (10) 94
Năm 14 (54) 12 (46) 26 (7) 100
Kiểm định chi bình phương không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Gần khoảng 1/3 sinh viên không có kế hoạch học tập.
Kết quả học tập – kiến thức, thái độ và kỹ năng của sinh viên phần lớn phụ thuộc vào việc tổ chức kế hoạch học tập hợp lý. Kế hoạch học tập của cá nhân của mỗi sinh viên phụ thuộc vào kế hoạch của nhà trường, bệnh viện. Sinh viên có mục tiêu học tập cho riêng mình, đó là yếu tố cơ bản, quan trọng, chủ yếu quyết định đến năng lực của sinh viên. Tuy nhiên có khoảng 1/3 sinh viên ngành y tế không có kế hoạch học tập. Trong sinh viên không có kế hoạch học tập cho rằng sự thay đổi lịch học của Trường/bệnh viện làm cho sinh viên không thể xây dựng kế hoạch học tập của cá nhân riêng cho mình (bảng 3.6).
Chỉ có ít sinh viên (7%) có chiến lược học tập cho cả năm học, phân nữa là lịch học theo tuần (54%). Điều này có thể được giải thích vì sao sinh viên khó khăn trong học tập và những hối tiếc sau khi ra trường có kết quả học tập kém. Không có mục tiêu học tập đồng nghĩa là không thể học được điều gì. Sự định hướng học tập là rất quan trọng, nếu không có mục tiêu học cụ thể thì không đạt được kết quả tốt (bảng 3.7).
Kế hoạch học tập gắn liền với phương pháp tự học của sinh viên. Thông tin y khoa được công bố trên các tạp chí y khoa có uy tính là những tiêu chuẩn có tính chứng cứ của y học trong quá trình chăm sóc, điều trị, nâng đỡ bệnh nhân.
Hầu hết sinh viên cho rằng không có kế hoạch học tập do sự thay đổi lịch học của
Trường/bệnh viện bảng 3.7.
Bảng 3.7. Lý do không có lập kế hoạch (n=120).
Kế hoạch học tập Tần số Tỉ lệ %
Bị động do kế hoạch của nhà trường 114 95
6 5 Khác
Sinh viên sử dụng thời gian rảnh rỗi .
Thời gian đa số sinh viên dành cho đọc sách tham khảo là 2 giờ/ tuần.
Thời gian đa số sinh viên nghe nhạc là 4 giờ/ tuần. Bảng 3.8. Thời gian đọc sách tham khảo và giải trí của sinh viên Trung vị Giờ/tuần Trung bình KTC 95%(*)
Đọc sách tham khảo 3,4 2 1-3
Nghe nhạc 4,8 4 3-6,3
(*) Khoảng tin cậy 95% của trung vị.
Đa số sinh viên dành cho đọc sách tham khảo thời gian là 2 giờ/ tuần. Đa số sinh viên dành thời gian nghe nhạc là 4 giờ/ tuần. Giải trí là một phần trong cuộc sống, không thể thiếu được của mỗi sinh viên. Là yếu tố giúp giảm đi những căng thẳng, lo âu, cảm xúc nặng nề trong cuộc sống của sinh viên.
Theo Tunay.S, Soygüt.G và cộng sự để đánh giá mức độ lo âu khác thường trên hai nhóm, điểm số giữa các nhóm trầm cảm và lo âu. Xem xét và phân tích tỉ lệ tham gia của sinh viên trong hoạt động thể chất ở mức độ cần thiết để thu được lợi ích sức khỏe [92].
Chiến lược thư giãn là 52,5%, và nỗ lực để được gần gũi với quan tâm đến một người
nào đó là 50,5%, các chiến lược chuyển hướng tìm kiếm nghe nhạc tỉ lệ 57,7% [73].
Sự hy vọng trong sinh viên ngành y tế.
Hy vọng của sinh viên có trị số trung vị là 55 (điểm), khoảng tin cậy 95% là 44 đến
77 (điểm).
Bảng 3.9. Hy vọng của sinh viên.
Trung bình Trung vị KTC 95% (*)
Hy vọng 57 55 44-77
(*) Khoảng tin cậy 95% của trung vị.
Nghiên cứu theo chiều dọc của Stewart.S.M [91], những phát hiện này cho thấy đặc điểm của học sinh dễ bị tổn thương những người có thể được xác định sớm trong năm đầu tiên của họ và cung cấp hỗ trợ thêm. Ngoài ra, thông tin về các chiến lược đối phó có hiệu quả tức là những nỗ lực tích cực đối phó và có nghĩa là không hiệu quả đối phó với stress tức là tránh né những nỗ lực đối phó có thể là hữu ích trong việc ngăn chặn nạn [91].
Một kết quả khác từ nghiên cứu tại khoa Điều dưỡng và khoa Y tế Công cộng mới đây [18] của tác giả H.H.N.Quỳnh và M.Dunn sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 401 sinh viên của 2 khoa, chiều hướng tích cực của sức khỏe tâm lý được đo lường thông qua các thang đo về hạnh phúc và hy vọng trên sinh viên nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến nhà trường.
Đối với nữ, tất cả các nhóm biến độc lập bao gồm các đặc điểm về gia đình, nhà trường và xã hội, đều có tác động đến cảm nhận về hạnh phúc và hy vọng của họ. Hy vọng là yếu tố tăng cường bảo vệ trong hình thức đối phó căng thẳng của sinh viên.
Thái độ của sinh viên đối với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Bảng 3.10. Thái độ của sinh viên đối với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Thái độ Nam Nữ Nam + Nữ
Phần trăm tích lũy n (%) n (%) n (%)
Rất đồng ý 56 (53) 50 (47) 106 (27) 27
Đồng ý 51 (54) 43 (46) 94 (24) 51
Bình thường 53 (60) 35 (40) 88 (22) 73
Không đồng ý 15 (65) 8 (35) 23 (5) 78
Rất không đồng ý 50 (56) 39 (44) 89 (22) 100
Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương khuynh hướng p=0,7.
Có khoảng 51% sinh viên có thái độ rất đồng ý và đồng ý việc quan hệ tình dục trước
hôn nhân.
Các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, vốn coi trọng sự tiết dục, coi tình dục chỉ là việc trong hôn nhân, thanh thiếu niên nam nữ còn “trong trắng” không được phép quan tâm đến. Tuy vậy, hiện nay đã có các cuộc tranh luận sôi nổi, thể hiện nhiều quan điểm đa dạng về vấn đề này trên các phương tiện thông tin-truyền thông đại chúng. Phải nói rằng đòi hỏi không quan hệ tình dục trước khi lập gia đình nay đã có nhiều phần được nới lỏng. Nhưng đối với phái nữ, những quan điểm coi trinh tiết là chuẩn mực đạo đức, thậm chí là thước đo giá trị người con gái còn khá nặng nề.
Qua kết quả khảo sát trên sinh viên ngành y tế, có khoảng 51% sinh viên có thái độ rất đồng ý và đồng ý việc quan hệ tình dục trước hôn nhân (bảng 3.21). Những thay đổi về thái độ đối với hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân trong sinh viên. Có thể nói phân nữa sinh viên không quan trọng hóa về nhận thức truyền thống coi trinh tiết là chuẩn mực đạo đức.
Kết quả cho thấy ranh giới về thái độ quan hệ tình dục được xem là khác nhau giữa nam và nữ, tuy nhiên trong bảng cho thấy, thái độ này giữa sinh viên và sinh viên nữ không có sự khác biệt nhau về các mức độ tỉ lệ của thái độ p>0,05.
Thái độ của sinh viên đối với việc sống chung trước khi kết hôn.
Bảng 3.11. Thái độ của sinh viên đối với việc sống chung trước hôn nhân
Thái độ Nam Nữ Nam + Nữ
Phần trăm tích lũy n (%) n (%) n (%)
Rất đồng ý 21 (62) 13 (38) 34 (9) 9
Đồng ý 46 (64) 26 (36) 72 (18) 27
Bình thường 63 (50) 62 (50) 125 (31) 58
Không đồng ý 58 (55) 48 (45) 106 (27) 84
Rất không đồng ý 37 (59) 26 (41) 63 (16) 100
Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương khuynh hướng, p=0,3.
Có 27% sinh viên có thái độ rất đồng ý và đồng ý với việc sống chung với nhau trước
khi kết hôn, trong đó nam có tỉ lệ cao hơn nữ.
Nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) về các mức độ thái độ
sống chung với nhau trước khi kết hôn của sinh viên nam và nữ.
Từ kết quả cho thấy có 27% sinh viên có thái độ rất đồng ý và đồng ý với việc chung
sống trước khi kết hôn, trong đó nam có tỉ lệ cao hơn nữ. Nhưng không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p>0,05) về các mức độ thái độ sống chung trước hôn nhân của sinh viên
nam và nữ.
Hay nói cách khác, nếu hỏi 4 sinh viên thì có khoảng 1 sinh viên có thái độ đồng ý về chung sống với nhau giữa nam và nữ trước khi kết hôn. Sinh viên ngày nay có xu hướng tự lập cao và việc thiết lập mối quan hệ, trong đó sống chung trước hôn nhân hay quan hệ tình dục giữa hai người khác giới, thường được nhìn nhận như là một hành động chứng tỏ sự trưởng thành. Có nhiều cách giải thích khác nhau, như điều kiện kinh tế của họ chưa thể tổ chức lễ cưới, mua nhà, tổ chức đời sống gia đình. Hai là sống xa gia đình, họ cần có bạn có thể sống theo ý mình, tính tự lập có thể là yếu tố củng cố họ sống chung với nhau. Động lực thúc đẩy họ, nhu cầu tình dục cần được thỏa mãn, sự an toàn trước tiên là quan hệ tình dục với bạn tình. Có thể lý nhìn nhận từ gốc độ khác rằng sinh viên có thái độ đồng ý một cách mạch mẽ hay không mạnh mẽ do tâm lý tò mò và muốn khám phá cái mới, cái lạ. Nếu đứng
trên nhận thức đạo đức, cho rằng tự do phóng túng, tình cảm không còn được coi trọng, thì có thể dẫn đến nguy cơ phụ nữ có thai ngoài ý muốn. hành vi nạo phá thai sẽ diễn ra và ảnh hưởng đến sức khỏe. Sống chung với nhau để hai người biết những đức tính tốt và những đức tính xấu rồi coi thử coi có chấp nhận lẫn nhau hay không, đó là một điều tốt. Một số nhà giáo dục, cha mẹ lo ngại cho lối suy nghĩ này của sinh viên. Họ cho rằng nếu tình hình tiếp tục theo chiều hướng này thì xã hội sẽ dần biến mất đơn vị gia đình, và sẽ ngày càng có
nhiều trẻ em sinh ra ngoài giá thú. Đây cũng là những điều cần có những nghiên cứu nghiêm túc về các vấn đề trên, tuy nhiên nó nằm ngoài mục tiêu nghiên cứu của luận văn này.
Thái độ của sinh viên đối với hiện tượng li hôn/ li dị.
Bảng 3.12. Thái độ của sinh viên đối với hiện tượng ly hôn/ li dị
Thái độ Nam + Nữ Nam Nữ
Phần trăm tích lũy n (%) n (%) n (%)
Rất đồng ý 23 (59) 16 (41) 39 (10) 10
Đồng ý 53 (59) 37 (41) 90 (23) 33
Bình thường 61 (56) 48 (44) 109 (27) 60
Không đồng ý 31 (56) 25 (44) 56 (14) 73
Rất không đồng ý 57 (54) 49 (46) 106 (27) 100
Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương khuynh hướng p=0,9.
Cứ 10 sinh viên thì có khoảng 1 sinh viên có thái độ rất đồng ý việc ly hôn/ li dị, 2
sinh viên đồng ý li hôn/li dị.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) về các mức độ của thái độ ở sinh
viên nam và nữ với hiện tượng li hôn / li dị.
3.4. Tỉ lệ có khả năng rối nhiễu tâm lý theo các mức độ khác nhau ở sinh viên.
Rối nhiễu lo âu có điểm trung vị là 13, khoảng tin cậy 95% của trung vị là từ 7 đến
49.
Rối nhiễu Stress có điểm trung vị là 11, khoảng tin cậy 95% của trung vị là 6 đến 53.
Rối nhiễu trầm cảm có điểm trung vị là 14, khoảng tin cậy 95% là từ 9 đến 40.
Bảng 3.13. Trị số trung bình, trung vị của thang điểm DASS-42.
Trung bình Trung vị KTC 95% (*)
Lo âu 14,8 13 7,0-49
Stress 13,3 11 6-53
Trầm cảm 20 14 9,0-40
(*)Khoảng tin cậy 95% của Trung vị.
Có khoảng 15% sinh viên có biểu hiện trầm cảm ở mức độ nặng. Trong đó sinh viên nam có tỉ lệ hiện mắc là 52%, sinh viên nữ 48% [25], tác giả Bayram, Bilgel.N mô tả cắt ngang trên 1.617 sinh viên, bằng thang đo DASS-42 phiên bảng tiếng anh, kết quả là rối nhiễu trầm cảm, lo âu và stress mức độ nặng vừa phải hoặc cao hơn đã được tìm thấy có ở
sinh viên có tỉ lệ lần lượt là 27%, 47% và 27% người trả lời tương ứng. Lo âu và stress đã được cao hơn điểm giữa các học sinh nữ. Sinh viên năm thứ hai tỉ lệ trầm cảm, lo âu và
stress cao hơn năm khác.
Những sinh viên mà hài lòng với nền giáo dục thì các rối nhiễu tâm lý của họ như
trầm cảm, lo âu và stress thấp hơn. Tỉ lệ trầm cảm, lo âu và stress cao giữa các sinh viên là
đáng báo động [34],[93].
Sinh viên có khả năng bị rối nhiễu trầm cảm.
Trong mẫu nghiên cứu này, người nghiên cứu nhận thấy có khoảng 15% sinh viên có
biểu hiện trầm cảm ở mức độ nặng. Trong đó sinh viên nam có tỉ lệ hiện mắc là 52%, sinh
viên nữ 48%.
Có 9% sinh viên có biểu hiện trầm cảm rất nặng.
Kết quả này so sánh với kết quả một nghiên cứu tại Hàn Quốc trầm cảm chiếm 52%
(1.640 sinh viên). Các yếu tố đó đã ảnh hưởng là dễ bị tổn thương, stress, hỗ trợ xã hội, đối
phó [92]. Có 9% sinh viên có biểu hiện trầm cảm rất nặng. Như vậy kết quả khảo sát trên
sinh viên Việt Nam có tỉ lệ trầm cảm nặng và rất nặng thấp hơn kết quả khảo sát trên sinh
viên Hàn Quốc, Anh, Úc.
Bảng 3.14. Tỉ lệ có khả năng rối nhiễu trầm cảm của sinh viên.
Trầm cảm Nam Nữ Nam + Nữ
Phần trăm tích lũy n (%) n (%) n (%)
Bình thường 28 (65,1) 15 (34,9) 101 (25) 25
Nhẹ 45 (53,6) 39 (46,4) 78 (20) 45
Vừa 102 (57,3) 76 (42,7) 126 (32) 75
Nặng 31 (51,7) 29 (48,3) 60 (15) 90
35 (10) Rất nặng 19 (54,3) 16 (45,7) 100
Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương khuynh hướng, p=0,7.
Tại sao có sự khác biệt này, để có đáp án thuyết phục, cần phải có những nghiên cứu tiếp theo và bộ công cụng đo lường phải được chuẩn hóa ở phiên bảng tiếng Việt. Tuy nhiên với hệ số tin cậy alpha Cronbach của phiên bảng tiếng Việt và tiếng Anh, có thể tạm thời so sánh các yếu tố rối nhiễu trên sinh viên Việt Nam (ngành Y) phụ thuộc nhiều vào tính cách, văn hóa, tâm lý của người Việt- sức chịu đựng cao (Trần Ngọc Thêm, 2003). Tỉ lệ nào khác
với một số công trình nước ngoài như kết quả của một số tác giả cho rằng nữ có tỉ lệ trầm
cảm cao hơn nam [54]. Rối nhiễu trầm cảm sinh viên, 25% sinh viên bình thường trong đó
nam là 65% và nữ là 35%, 20% rối nhiễu trầm cảm nhẹ trong đó nam là 54% nữ là 46%,
32% là vừa trong đó nam là 37% nữ là 43%, 15% nặng nam là 52% nữ là 48, 9% rất nặng
Vừa
Bình thường
Nhẹ
Rất nặng
Nặng
nam là 54% và nữa là 46%, bảng 3.26.
Biểu đồ 3.13. Mức độ rối nhiễu trầm cảm ở sinh viên.
Sinh viên có khả năng bị rối nhiễu lo âu.
Có 13% sinh viên lo âu ở mức độ nặng, 11% ở mức độ rất nặng.
Lo âu ở mức độ bình thường của sinh viên nam là 57%, nữ là 43%. Lo âu ở mức độ nhẹ của sinh viên nam là 55%, nữ là 45%. Lo âu ở mức độ vừa sinh viên nam là 59%, sinh viên nữ là 41%. Có 13% sinh viên lo âu ở mức độ nặng, trong đó tỉ lệ ở sinh viên nam là 48%, và tỉ lệ sinh viên nữ là 52%. Sinh viên nam và nữ có 11% rối nhiễu lo âu ở mức độ rất nặng, trong nhóm này rối nhiễu lo âu nặng ở nam có tỉ lệ là 57% và nữ là 43%. Kiểm định bằng phép kiểm chi bình phương khuynh hướng không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê của các nhóm sinh viên nam và nữ về quy rối nhiễu lo âu (p>0,05).
Bảng 3.15. Tỉ lệ có khả năng các mức độ rối nhiễu lo âu của sinh viên.
Lo âu Nam Nữ Nam + Nữ Phần trăm tích lũy n (%) n (%) n (%)
Bình thường 58 (57,4) 43 (42,5) 101 (25) 25
Nhẹ 41 (54,6) 34 (45,3) 75 (19) 44
Vừa 76 (59,4) 52 (40,6) 50 (32) 76
Nặng 24 (48) 26 (52) 50 (13) 89
Rất nặng 26 (56,5) 20 (43,5) 46 (11) 100
Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương khuynh hướng, p=0,7.
Như vậy khả năng chịu tác động của các yếu tố bên ngoài và sức chịu đựng từ bên
trong của sinh viên nam và nữ có thể được xem là như nhau.
Các mức độ lo âu của sinh viên bình thường, nhẹ, và vừa với phần trăm tích lũy là
76%. Có 13% sinh viên lo âu ở mức độ nặng ở cả sinh viên nam và nữ, riêng sinh viên nữ
là%, sinh viên nam là 48%. Lo âu ở mức độ rất nặng của sinh nam là 56,5% và sinh viên nữ
là 43,5%, tỉ lệ này chung cho nam và nữ là 11%.
So với kết quả nghiên cứu khác, khi phân tích phương sai phát hiện yếu tố đầu tiên là
lo âu trong học tập (0,8), nơi ở của sinh viên như nội trú ký túc xá hay ở với gia đình, nhà
trọ, khả năng chịu đựng các sang chấn từ cuộc sống và trách nhiệm đối với học tập. Khả
năng tác động mạnh của yếu tố thứ hai, đó là cá nhân cá nhân xa rời chỗ ở gia đình đến
sống tại nơi khác (môi trường xã hội) (0,7), hình thức và nội dung giáo dục của nhà trường
Bình thường
Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng
và chi phí học tập, lợi ích mà sinh viên có được từ chính sách [28].
Biểu đồ 3.15. Mức độ rối nhiễu lo âu ở sinh viên.
Sinh viên có khả năng bị rối nhiễu lo âu.
Có khoảng 7% sinh viên bị stress nặng, và 5% sinh viên bị Stress rất nặng.
Học tập là môi trường căng thẳng, trong mẫu nghiên cứu này người nghiên cứu nhận thấy tỉ lệ stress ở mức độ bình thường có tỉ lệ là 23% cả giới nam và giới nữ. Tỉ lệ stress ở mức độ nhẹ và vừa là 21% và 44%.
Bảng 3.16. Tỉ lệ có khả năng các mức độ rối nhiễu stress của sinh viên Nam + Nữ Stress Nam Nữ Phần trăm tích lũy n (%) n (%) n (%)
Bình thường 53 (57,6) 39 (42,3) 92 (23) 23
Nhẹ 44 (51,8) 41 (48,2) 85 (21) 44
Vừa 103 (58,9) 72 (41,1) 175 (44) 88
Nặng 13 (50) 13 (50) 26 (7) 95
22 (5) Rất nặng 12 (54,6) 10 (45,5) 100
Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương khuynh hướng, p=0,7.
Tỉ lệ stress ở mức độ nặng là 7%, trong đó tỉ lệ sinh viên nam và sinh viên nữ như
nhau. Tỉ lệ stress ở mức độ rất nặng là 5%, sinh viên nam 54% và sinh viên nữ 46%. Kiểm
định bằng phép kiểm Chi bình phương khuynh hướng, p-value=0,7. Có 7% sinh viên bị stress nặng, và 5% sinh viên bị stress rất nặng. Trong số sinh viên bị stress nặng có một nữa
là sinh viên nam. Điều này cũng cho kết quả khác với các công trình nghiên cứu khác công
Bình thường
Vừa
Nặng
Rất nặng
Nhẹ h ờ
bố trên các tạp chí được ISI công nhận, cho thấy khả năng ảnh hưởng đến stress ảnh hưởng ở mức độ khác nhau phụ thuộc theo giới tính, cụ thể kết quả chỉ ra rằng nữ có khả năng bị rối nhiễu stress nhiều hơn nam. Tác giả Naiemeh Seyedfatemi, Maryam Tafreshi1 và Hamid Hagani, kết quả cho thấy, rối nhiễu tâm lý sinh viên năm 1 là 65,8% tăng khối lượng công việc lớp học tỉ lệ 66,9% và thường xuyên nhất là sự stress trong môi trường tình huống không quen thuộc tỉ lệ 64,2% và chờ đợi lâu dài tỉ lệ 60,4% (vào năm 2007).
Biểu đồ 3.16. Mức độ stress ở sinh viên.
3.5. Mối tương quan giữa đặc tính mẫu, gia đình-xã hội gây rối nhiễu tâm lý.
Rối nhiễu trầm cảm ở sinh viên năm thứ 1 cao hơn năm thứ 3 có ý nghĩa thống kê
(p<0,001) là 35%, dao động trong khoảng 28% đến 43%.
Rối nhiễu lo âu ở sinh viên năm thứ 1 cao hơn năm thứ 3 có ý nghĩa thống kê
(p<0,001) là 39%, dao động trong khoảng 32% đến 46%.
Rối nhiễu stress ở sinh viên năm thứ 1 cao hơn năm thứ 3 có ý nghĩa thống kê
(p<0,001) là 35%, dao động trong khoảng 28% đến 43%.
Bảng 3.17. Mối liên hệ giữa năm học của sinh viên với stress, lo âu và trầm cảm.
DAS Trung vị PR KTC 95% p (*)
Trầm cảm
14 Năm 3 1
15 Năm 1 1,35 1,28-1,43 <0,001
Lo âu
11 Năm 3 1
18 Năm 1 1,39 1,32-1,46 <0,001
Stress
9 Năm 3 1
15 Năm 1 1,35 1,28-1,43 <0,001
(*) Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Sinh viên đại diện cho quốc gia và vốn đầu tư cho tương lai, với một sứ mệnh tiềm ẩn cho cả gia đình và cho xã hội. Tuy nhiên, họ phải đối mặt với nhiều căng thẳng như tình trạng quá tải học tập, áp lực liên tục, để thành công, họ phải cạnh tranh, bênh cạnh đó với tình hình chính trị xã hội của kinh tế và chính sách đại học hiện nay ở Việt Nam là gánh nặng rất lớn cho sinh viên, như tài chính, chỗ ở, và quan tâm về tương lai.
Nhiều yếu tố bảo vệ và nguy cơ có liên quan trong tâm lý, các yếu tố liên quan đến phương pháp học, cách học, chỗ ở là chủ đề quan trọng trọng tâm của sinh viên. Sinh viên phải rời bỏ môi trường thân quen của mình từ các tỉnh tập trung về thành phố học tập, sinh viên phải đối phó trước những tình huống mới mẻ, thậm chí chưa bao giờ trãi nghiệm trong cuộc sống. chính vì vậy học rơi vào tình trạng rối nhiễu tâm lý, đặc biệt là trầm cảm, lo âu,
stress.
Hơn nữa, một số sinh viên đến trường đại học với vấn đề sức khỏe tâm lý. Các rối
loạn tâm lý thường gặp nhất trong số các sinh viên đang lạm dụng thuốc, trầm cảm, tự gây
hại và tự tử, rối loạn ăn uống, rối loạn lo lắng. Kiểm định bằng phương pháp hồi quy
Poisson, rối nhiễu trầm cảm ở sinh viên năm thứ 1 nhiều hơn năm thứ 3 một cách rõ rệt
(p<0,001).
Như vậy sinh viên năm nhất rối nhiễu tâm lý nhiều hơn năm 3 là 35%, dao động
trong khoảng 28% đến 43%. Rối nhiễu lo âu ở sinh viên năm thứ 1 cao hơn năm thứ 3 có ý
nghĩa thống kê (p<0,001), nghĩa là số lượng sinh viên bị rối nhiễu trầm cảm, lo lắng, stress
năm 1 nhiều hơn sinh viên năm 3 là 39%, tỉ lệ này dao động trong khoảng từ 32% đến 46%.
Rối nhiễu stress ở sinh viên năm thứ 1 nhiều hơn năm thứ 3 có ý nghĩa thống kê (p<0,001)
là 35%, dao động trong khoảng 28% đến 43%.
Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên theo khoa.
Sử dụng phương pháp phân tích hồi qui poisson, nếu so sánh với sinh viên Dược so
với sinh viên Điều dưỡng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Mức độ rối nhiễu
của sinh viên Dược cao hơn khoảng 25% so với trầm cảm của sinh viên Điều Dưỡng, mức
độ khác biệt này trong khoảng từ 14% đến 35%.
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên Y khoa cao hơn sinh viên khoa Điều Dưỡng là
18%, dao động trong khoảng 10 đến 30% (KTC 95%, p<0,001).
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên khoa Răng Hàm Mặt hơn 15% so với sinh viên
Điều Dưỡng, có ý nghĩa thống kê p<0,001. Khoảng tin cậy 95% là từ 15% đến 26%.
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên khoa y học cổ truyền cao 12%, dao động trong
khoảng tin cậy 95% là từ 2% đến 23%.
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên khoa y tế công cộng là 25%, dao động trong
khoảng tin cậy 95% là từ 13% đến 37%.
Trầm cảm có mặt ở mỗi người, mọi sinh viên. Yếu tố ngành nghề (khoa) có mối liên hệ với trầm cảm. Qua phân tích kết quả bằng phương pháp hồi quy Poisson, cho thấy mức độ trầm cảm của sinh viên Điều dưỡng thấp hơn các khoa khác, sự khác biệt này có ý nghĩa (p<0,001): thấp hơn sinh viên khoa Dược cao hơn khoảng 25%, mức độ khác biệt này trong khoảng từ 14% đến 35% (p<0,001); thấp hơn so với sinh viên khoa Y là 18%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 10% đến 30% (p<0,001); thấp hơn sinh viên khoa Răng hàm mặt hơn 15%, tỉ lệ này dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 15% đến 26% (p<0,001); thấp hơn sinh viên khoa y học cổ truyền cao 12%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 2% đến 23% (p<0,001); và sinh viên khoa y tế công cộng là 25%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 13% đến 37% (p<0,001).
Bảng 3.18. Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên theo khoa. Sinh viên Khoa KTC 95% Trung vị PR p
Trầm cảm
Điều Dưỡng 13 1
Dược 16 1,25 1,14-1,35 <0,001
Y 14 1,18 1,1-1,3 <0,001
Răng Hàm Mặt 13,5 1,15 1,05-1,26 0,002
Y học Cổ truyền 13,5 1,12 1,02-1,23 0,15
Y tế Công cộng 1,13-1,37 <0,001 14 1,25
Lo âu
Điều Dưỡng 11 1
Dược 13 1,14 1,04-1,24 0,005
Y 14 1,21 1,11-1,31 <0,001
Răng Hàm Mặt 14 1,17 1,06-1,28 0,001
Y học Cổ truyền 17 1,37 1,25-1,5 <0,001
Y tế Công cộng 12 1,09 0,9-1,19 0,09
Stress
Điều Dưỡng 8 1
Dược 12 1,25 1,14-1,37 <0,001
Y 12 1,22 1,12-1,33 <0,001
Răng Hàm Mặt 10 1,06 0,95-1,17 0,2
Y học Cổ truyền 13,5 1,33 1,21-1,47 <0,001
Y tế Công cộng 11 1,25 1,13-1,38 <0,001
Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Cùng chung ngành y nhưng sinh viên theo học khoa khác nhau thì có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý khác nhau. Có thể nói tính chất nghề nghiệp sau (này) của sinh
viên là yếu tố góp phần tăng hay giảm rối nhiễu tâm lý. Nghĩa là chính sự kỳ vọng ở tương
lai sẽ làm cho áp lực hiện tại của sinh viên phải chịu đựng trong giai đoạn học tập nhiều hơn
về qui mô và cường độ.
Mối liên hệ giữa chỗ ở của sinh viên với trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên.
Trầm cảm. Sinh viên ở nhà trọ/nhà thuê có tỉ số nguy cơ trầm cảm cao nhất, cao hơn
sinh viên ở ký túc xá là 56%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 1,36 đến 1,79 lần, và
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Sinh viên ở với cha mẹ (gia đình) có tỉ số nguy cơ trầm cảm thấp nhất, thấp hơn sinh
viên ở ký túc xá là 23%, tỉ số này dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 16% đến 29%,
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Sinh viên ở nhà riêng nguy cơ trầm cảm cao hơn sinh viên ở ký túc xá là 1,21 lần
(PR=1,21), khoảng tin cậy 95% là 12% đến 30%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p<0,001).
Không có sự khác nhau về nguy cơ trầm cảm của sinh viên ở nhà bà con/dòng họ/
người quen so với sinh viên ở ký túc xá (P>0,05).
Lo âu.
Sinh viên ở với cha mẹ có mức độ lo âu thấp nhất, thấp hơn sinh viên ở ký túc xá là
10%, khoảng tin cậy 95% là từ 3% đến 17%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,05.
Rối nhiễu lo âu của sinh viên ở nhà trọ/ nhà thuê gấp 1,91 lần so với sinh viên ở ký
túc xá có ý nghĩa thống kê p<0,001 (KTC 95% 1,67-2,17)
Rối nhiễu lo âu của sinh viên đang sống với bà con/họ hàng/người quen bằng 0,99 lần (PR=0,99) sinh viên sống ở ký túc xá, KTC 95% là từ 0,92 đến 1,08, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p>0,05.
Lo âu của sinh viên ở nhà riêng cao hơn sinh viên ở ký túc xá là 1,17 lần (PR=1,17),
KTC 95% là 1,09-1,27, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001
Bảng 3.19. Mối liên hệ giữa chỗ ở của sinh viên với trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên.
Chỗ ở Trung vị PR KTC 95% p*
Trầm cảm
Ký túc xá 15 1
Với cha mẹ 11 0,77 0,71-0,84 <0,001
Nhà trọ trọ/thuê 29 1,56 1,36-1,79 <0,001
Với bà con/họ hàng 15 1,04 0,96-1,12 0,38
Nhà riêng 17 1,21 1,12-1,30 <0,001
Lo âu
Ký túc xá 13 1
Với cha mẹ 9 0,9 0,83-0,97 0,01
Nhà trọ trọ/thuê 28 1,91 1,67-2,17 <0,001
Với bà con/họ hàng 14 0,99 0,92-1,08 0,9
Nhà riêng 17 1,17 1,09-1,27 <0,001
Stress
Ký túc xá 11 1
Với cha mẹ 6 0,81 0,74-0,88 <0,001
Nhà trọ trọ/thuê 35 2,52 2,22-2,83 <0,001
Với bà con/họ hàng 13 1,07 0,98-1,15 0,1
Nhà riêng 6 1,31 1,21-1,41 <0,001
(*)Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Stress.
Không có sự khác biệt về mức độ stress giữa sinh viên sống với cha mẹ và sinh viên
sống với bà con/ họ hàng (p>0,05).
So sánh rối nhiễu stress sinh viên sống nhà trọ/ thuê cao gấp 2,52 lần so với sinh viên sống với cha mẹ (KTC95% từ 2,22 - 2,83, p<0,001). Sinh viên ở nhà riêng cũng bị stress nhiều hơn sinh viên ở với cha mẹ là 1,31 lần (KTC 95% 1,21-1,41), p<0,001.
Sinh viên ở nhà trọ/nhà thuê có tỉ số nguy cơ trầm cảm cao nhất, cao hơn sinh viên ở ký túc xá là 56%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 1,36 đến 1,79 lần, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,001), kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Sinh viên ở với cha mẹ (gia đình) có tỉ số nguy cơ trầm cảm thấp nhất, thấp hơn ở ký túc xá là 23%, tỉ số này dao động trong khoảng tin cậy 95% từ 16% đến 29%, sự khác biệt này có ý nghĩa (p<0,001). Sinh viên ở nhà riêng nguy cơ trầm cảm nhiều hơn sinh viên ở ký túc xá là 21% (12% đến 30%) (p<0,001, KTC 95%). Không có sự khác nhau về rối nhiễu trầm cảm của sinh viên ở nhà bà con/dòng họ/ người quen với sinh viên ở ký túc xá (P>0,05).
Chỗ ở của sinh viên là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý sinh viên. Qua kết quả cho thấy rằng môi trường sống của sinh viên có liên hệ mật thiết với một số rối nhiễu của sinh viên. Những mối liên hệ này có thể định lượng được theo những phân ích tích thống kê về các mức độ tác động của môi trường (nơi ở) đối với sinh viên.
Sinh viên ở với cha mẹ có mức độ lo âu thấp nhất, thấp hơn sinh viên ở ký túc xá là 10%, KTC 95% là từ 3% đến 17% (p<0,05). Những sinh viên sống với cha mẹ ít lo lắng cho cuộc sống của bản thân. Có thể nói trong gai đình mức độ an toàn cao hơn do đó người sinh viên không cần quan tâm những vấn đề khác nhiều ngoài yếu tố quan tâm đến kết quả học tập. học ó nhiều điện kiện hơn sinh viên viên ở trọ, ký túc xá, ờ nhà thuê. Các rối nhiễu lo âu của sinh viên ở nhà trọ/ nhà thuê gấp 1,91 lần (PR=1,91) so với những sinh viên ở ký túc xá của trường (p<0,001, KTC 95% 1,67-2,17). Đây là yếu tố tương tác đến tình trạng tâm lý của sinh viên. Lo âu của sinh viên ở nhà riêng nhiều hơn sinh viên ở ký túc xá (KTX) là 9% đến 27%, trung bình là 17% (p<0,001).
Một điều cũng dễ thấy trong sinh viên ở trọ/ nhà thuê họ có nhiều vấn đề tâm lý hơn, họ lo lắng, gia tăng cảm xúc hơn những sinh viên ở KTX trong nghiên cứu này. Điều này có thể giải thích theo các hướng về các mối tương quan về an toàn với những người xung quanh. KTX có những qui định nghiêm ngặt về lối sống, thời gian học, … môi trường an toàn hơn khu nhà trọ / nhà thuê ẩn chứa nhiều nguy cơ tiềm ẩn về tệ nạn xã hội, mất cắp, hay sự thay đổi chỗ ở liên tục do giá tiền thuê nhà tăng cao,…Những yếu tố này tác động đến tình trạng lo âu căng thẳng của sinh viên.
Ngoài gia đình, nơi ở đáng tin cậy như nhà bà con/ dòng họ/ người quen thân thuộc, có mức độ an toàn không khác biệt với môi trường KTX. Đây cũng là những nơi ở đáng tin cậy cho sinh viên khi phải sống xa nhà. Kết quả này phù hợp với yếu tố không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p>0,05 về lo âu của sinh viên đang sống với bà con/họ hàng/người quen và sinh viên sống ở ký túc xá (KTC 95% là từ 0,92 đến 1,08).
Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress với phương tiện thường xuyên sử dụng đi học của sinh viên.
Rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên sử dụng thường xuyên xe buýt nhiều hơn sinh viên đi xe gắn máy p<0,01, sinh viên sử dụng phương tiện khác, ngoại trừ không có sự khác biệt về rối nhiễu trầm cảm giữa sinh viên sử dụng xe buýt và phương tiện “khác” p<0,05.
Bảng 3.20. Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress với phương tiện thường xuyên sử dụng
đi học của sinh viên.
Trung vị PR KTC 95% p*
Phương tiện thường xuyên sinh viên sử dụng
Trầm cảm
Xe Buýt 15 1
Xe gắn máy 13 0,83 0,78-0,88 <0,001
Khác (đưa rước) 14 0,97 0,91-1,03 0,33
Lo âu
Xe buýt 13 1
Xe gắn máy 11 0,85 0,80-0,90 <0,001
Khác (đưa rước) 12 0,91 0,85-0,97 0,006
Stress
Xe buýt 12 1
Xe gắn máy 10 0,81 0,78-0,89 <0,001
Khác (đưa rước) 11 0,84 0,78-0,90 <0,001
Hàng ngày sinh viên ngành y tế phải đi học nhiều chỗ khác nhau trên địa bàn thành
phố, có thể nói họ phải di chuyển rất nhiều cho việc học của mình từ khoa này đến khoa học của trường (đặc trưng mỗi khoa nằm các quận khác nhau), buổi sáng ở các bệnh viện thực hành, buổi chiều họ về trường hay ở một khoa khác học lý thuyết.
Việc sinh viên sử dụng phương tiện xe gắn máy là phù hợp với thực tế những thuận lợi cho sinh viên trong việc di chuyển đến các địa điểm học tập khác nhau trên địa bàn thành phố. Cần xem xét lại công tác truyền thông mang tính “khẩu hiệu” nhằm cổ động sinh viên đi xe buýt là có lợi như hiện nay là chưa hợp lý hay nói cách khác là quá ảo tưởng nếu như không xây dựng lại cả hệ thống xe buýt.
Do đó có thể nói rằng phương tiện đi học ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của sinh viên, là yếu tố gây rối nhiễu tâm lý sinh viên. Kết quả ở bảng 3.31 cho thấy các rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên sử dụng thường xuyên xe buýt nhiều hơn sinh viên đi xe gắn máy một cách có ý nghĩa (p<0,01). Những sinh viên được cha mẹ đưa rước hay sử dụng phương tiện khác có sự lo lắng, trầm cảm, căng thẳng không khác nhau với sinh viên sử dụng xe buýt/ xe công cộng (p<0,05, kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson).
Mối quan hệ giữa thái độ với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân với trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên.
Trầm cảm và quan hệ tình dục trước hôn nhân, nhóm sinh viên có nguy cơ trầm cảm cao thuộc nhóm có biểu hiện thái độ rất đồng ý, cao hơn đồng ý là là 12%, thái độ bình
thường là 9%, không đồng ý là 31%, rất không đồng ý là 14%, các KTC 95% lần lượt là
16%-27%, 3% đến 15%, 12% đến 39%, 8% đến 20%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê,
p lần lượt là p<0,001, p<0,01, p<0,001, p<0,001.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về Lo âu của sinh viên ở nhóm có thái độ
rất đồng ý về quan hệ tình dục trước hôn nhân với các nhóm sinh viên có thái độ bình
thường, không đồng ý, rất không đồng ý, p<0,05.
Bảng 3.21. Mối quan hệ giữa thái độ với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân với trầm
cảm, lo âu, stress ở sinh viên.
Trung vị PR KTC 95% p
Thái độ quan hệ tình dục trước hôn nhân
Trầm cảm
Rất đồng ý 18 1
Đồng ý 12 0,78 0,73-0,84 <0,001
Bình thường 14 0,91 0,85-0,97 0,007
Không đồng ý 11 0,69 0,61-0,78 <0,001
Rất không đồng ý 12 0,86 0,80-0,92 <0,001
Lo âu
Rất đồng ý 15,5 1
Đồng ý 12 0,82 0,77-0,89 <0,001
Bình thường 13 0,96 0,89-1,02 0,2
Không đồng ý 17 0,89 0,79-1,00 0,05
Rất không đồng ý 13 0,94 0,87-1,01 0,09
Stress
Rất đồng ý 15 1
Đồng ý 9 0,77 0,71-0,83 <0,001
Bình thường 10 0,96 0,89-1,03 0,3
Không đồng ý 11 0,91 0,79-1,02 0,1
8 0,87 Rất không đồng ý 0,80-0,93 0,0002
Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Stress, sinh viên có thái độ rất đồng ý về quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn
nhóm sinh viên có thái độ rất không đồng ý, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001.
Không có sự khác nhau về stress ở nhóm nhóm sinh viên có thái độ thái độ không
đồng ý, bình thường, rất đồng ý về quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Nhóm sinh viên có nguy cơ trầm cảm cao thuộc nhóm sinh có biểu hiện thái độ rất
đồng ý quan hệ tình dục trước hôn nhân. Sinh viên có thái độ rất đồng ý có tỉ lệ nhiều hơn: tỉ
lệ sinh viên có thái độ đồng ý là 12%; Có tỉ lệ nhiều hơn tỉ lệ sinh viên có thái độ bình
thường là 9%; Có tỉ lệ nhiều hơn tỉ lệ sinh viên có thái độ không đồng ý là 31%; Có tỉ lệ
nhiều hơn tỉ lệ sinh viên có thái độ rất không đồng ý là 14%, các KTC 95% lần lượt là 16%-
27%, 3% đến 15%, 12% đến 39%, và 8% đến 20%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, p
lần lượt là p<0,001, p<0,01, p<0,001, p<0,001.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về Lo âu của sinh viên ở nhóm có thái độ
rất đồng ý về quan hệ tình dục trước hôn nhân với các nhóm sinh viên có thái độ bình
thường, không đồng ý, rất không đồng ý, p<0,05.
Stress, sinh viên có thái độ rất đồng ý về quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn nhóm sinh viên có thái độ rất không đồng ý, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001.
Không có sự khác nhau về stress ở nhóm sinh viên có thái độ thái độ không đồng ý,
bình thường, rất đồng ý về quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Có thể thấy được rằng thái độ ngày nay của sinh viên có sự phân tán ở các cấp độ khác nhau, và sự bày tỏ thái độ này cũng chỉ ra rằng tính cởi mở hơn của điều kiện xã hội, hay quan niệm đạo đức trong xã hội. Yếu tố quan trọng ở đây nam và nữ không có các mức thái độ đồng ý hay không đồng ý về các vấn đề mà trước đây được mọi người xem là nhạy cảm.
Mối liên hệ giữa việc sử dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên.
Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu trầm cảm cao hơn sinh viên không sử dụng
mạng vi tính là 9%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 4% đến 15%, p<0,01.
Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu lo âu cao hơn sinh viên không sử dụng mạng
vi tính là 20%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 14% đến 25%, p<0,001.
Bảng 3.22. Mối liên hệ giữa việc sử dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên.
Rối nhiễu tâm lý Sử dụng internet PR KTC 95% p (*)
Không Có
Trầm cảm (trung vị) 14 0,91 0,85-0,96 0,002 15,5
Lo âu (trung vị) 11 0,80 0,75-0,86 <0,001 14
Stress (trung vị) 12 8 0,83 0,77-0,89 <0,001
(*) Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu stress cao hơn sinh viên không sử dụng mạng
vi tính là 17%, khoảng tin cậy 95% là từ 11% đến 23%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê p<0,001.
Mức độ rối nhiễu trầm cảm của sinh viên, kiểm định bằng phương pháp hồi quy
poisson.
Internet là phương tiện hữu hiệu cho việc tập và nghiên cứu, đây cũng là nguồn sinh
viên tiếp cận nhiều tri thức trên các tạp chí có uy tín như BMJ, BMC, PubMed, APA, Health
Psyhology,…
Theo tác giả trong nước hiện nay cho rằng học sinh viên có khuynh hướng nghiện
internet, điều này chưa có bằng chứng thuyết phục, theo người nghiên cứu, học sinh hay
sinh viên kể cả người lớn tuổi họ nghiện các trò chơi trực tuyến- một nội dung trên internet chứ không thể kết luận là nghiện internet.
Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu trầm cảm cao hơn sinh viên không sử dụng
mạng vi tính là 9%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 4% đến 15%, p<0,01.
Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu lo âu cao hơn sinh viên không sử dụng mạng
vi tính là 20%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 14% đến 25%, p<0,001
Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu stress cao hơn sinh viên không sử dụng mạng vi tính là 17%, khoảng tin cậy 95% là từ 11% đến 23%, p<0,001 (Bảng 3.33). Đối với các quốc gia phát triển trên thế giới. Sự ra đời của internet là sự phát triển làm cho thế giới trở thành thế giới phẳng làm cho con người gặp qua chiều kích internet, kết nối thông tin toàn cầu, lợi ích mà nó mang lại trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, internet đã được coi như một phương tiện không thể thiếu đối với con người. Đối với sinh viên không internet thì khó tiến xa trong quá rình tiếp cận tri thức nhân loại, việc lựa chọn nội dung để sử dụng chính là yếu tố quyết định.
Mối tương quan giữa hành vi hút thuốc lá, hoặc uống rượu/bia với lo âu, trầm cảm, stress.
Rối nhiễu lo âu ở sinh viên hút thuốc lá hấp hơn sinh viên hút thuốc lá cao hơn sinh viên không hút thuốc lá là 10% (KTC 95% là 1,03-1,18), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001.
Rối nhiễu trầm cảm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa sinh
viên có hút thuốc lá và sinh viên không hút thuốc lá, (KTC 95% là 1,02-1,13).
Sinh viên có hút thuốc lá bị stress nhiều hơn sinh viên không hút thuốc lá là 14%, dao
động trong khoảng tin cậy 95% là từ 5% đến 23%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p<0,05.
Có sự khác biệt giữa nhóm sinh viên không hút thuốc lá và có hút thuốc lá về stress
(p<0,001), nhóm sinh viên không hút thuốc lá rối nhiễu stress nhiều hơn nhóm sinh viên có
hút thuốc lá là 17%, (KTC 95% là từ 9% đến 26%).
Trong nhóm sinh viên uống rượu /bia thì mức độ trầm cảm, lo âu, stress cao hơn
nhóm sinh viên có sử dụng rượu /bia có ý nghĩa thống kế (p<0,05), các tỉ số nguy cơ lần
lượt là 19%, 9%, 20% (KTC 95% là: 1,12-1,26; 1,02-1,16; và 1,12-1,28).
Bảng 3.23. Mối liên hệ giữa sinh viên có hút thuốc lá với lo âu, trầm cảm, stress.
Rối nhiễu tâm lý Có Không PR KTC 95% p (*)
hút thuốc hút thuốc
Lo âu (trung vị) 17,3 1,10 1,03-1,18 <0,001 14,7
Trầm cảm (trung vị) 15,5 1,02 0,92-1,13 0,6 15,1
Stress (trung vị) 15,1 0,86 0,77-0,95 0,004 13,1
(*) Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Yếu tố hút thuốc lá không có sự liên quan đến rối nhiễu trầm cảm của sinh viên (p>0,05). Nhưng có liên quan đến lo âu, stress, nghĩa là ở nhóm sinh viên có hành vi hút thuốc lá trong tuần qua bị rối nhiễu lo âu nhiều hơn cao hơn nhóm không hút thuốc trong tuần qua là từ 6% đến 23%, trung bình là 15% (p<0,001). Và ở nhóm sinh viên có hành vi hút thuốc lá bị rối nhiễu stress (căng thẳng) nhiều hơn cao hơn nhóm không hút thuốc là từ 9% đến 26%, trung bình là 17 (KTC 95%, p<0,001).
Bảng 3.24. Mối quan hệ giữa uống rượu bia với trầm cảm, lo âu, stress.
Có Không PR KTC 95% P
Uống rượu/bia Uống rượu/bia
Trầm cảm (trung vị) 14 19 1,19 1,12-1,26 <0,001
Lo âu (trung vị) 13 14 1,09 1,02-1,16 0,006
Stress (trung vị) 11 15 1,20 1,12-1,28 <0,001
Kiểm định bằng phương pháp hồi quy.
Kiểm định bằng phương pháp hồi quy, kết quả không có sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê về trầm cảm giữa 2 nhóm sinh viên có hoặc không hút thuốc lá.
Rối nhiễu lo âu ở nhóm sinh viên có hút thuốc lá cao hơn nhóm không hút thuốc lá là
15%, dao động trong khoảng tin cậy 95% là từ 6% đến 23%, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,001).
Yếu tố uống rượu /bia. Nhóm sinh viên không uống rượu bia thì mức độ trầm cảm,
lo âu, stress cao hơn nhóm sinh viên có sử dụng rượu /bia (p<0,05), các tỉ số nguy cơ lần
lượt là 19% (12%-26%), 9% (2% đến 16%), và 20% (12% đến 28%).
Kết quả này gợi ý rằng hành vi sử dụng thuốc lá và uống rượu/bia có ảnh hưởng trái
ngược nhau lên sức khỏe tâm lý sinh viên. Có thể nói uống rượu/bia trong sinh viên có ý
nghĩa giải quyết, hay là hình thức “xả” những vướng mắc trong tâm lý. Mặc dù nghiên cứu
này chưa định lượng được số lượng rượu /bia mỗi lần sinh viên uống là bao nhiêu, và có
uống thường xuyên trong tuần hay không. Nhưng cũng gợi ý rằng sự tương tác, chia sẽ giữa
các cá nhân là quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tâm lý (sinh viên hút thuốc lá
thường mang tính cá nhân, uống rượu /bia thường mang tính tập thể).
Mối quan hệ giữa thái độ chung sống trước hôn nhân với trầm cảm, lo âu, stress ở sinh
viên.
Bảng 3.24. Mối quan hệ giữa thái độ chung sống trước hôn nhân với trầm cảm, lo âu, stress
ở sinh viên.
Thái độ chung sống trước hôn nhân Trung vị PR KTC 95% P
Trầm cảm
Rất đồng ý 15 1
Đồng ý 11 0,83 0,74-0,91 0,0002
Bình thường 16 0,95 0,86-1,04 0,3
Không đồng ý 15 0,93 0,84-1,02 0,1
Rất không đồng ý 15 0,94 0,85-1,05 0,3
Lo âu
Rất đồng ý 14,5 1
Đồng ý 12 0,93 0,83-1,03 0,1
Bình thường 13 0,94 0,85-1,04 0,2
Không đồng ý 14 0,95 0,86-1,04 0,3
Rất không đồng ý 17 1,05 0,95-1,17 0,3
Stress
Rất đồng ý 1 11,5
Đồng ý 10 0,85 0,77-0,96 0,008
Bình thường 10 0,86 0,78-0,95 0,004
Không đồng ý 12 0,81 0,73-0,90 0,0001
Rất không đồng ý 13 0,94 0,85-1,05 0,3
Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson, rối nhiễu trầm cảm ở sinh viên về
chung sống trước khi kết hôn, không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các sinh viên có thái độ: rất đồng ý, bình thường, không đồng ý, rất không đồng ý, các giá trị p>0,05. Nhóm sinh viên có thái độ rất đồng ý nhiều hơn nhóm sinh viên có thái độ đồng ý là 17% (KTC 95% 9%-26%), p<0,001.
Rối nhiễu lo âu của sinh viên về chung sống trước khi kết hôn, không có sự khác
nhau có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm sinh viên có thái độ khác nhau p>0,05.
Stress ở nhóm sinh viên có thái độ rất đồng ý và rất không đồng ý là như nhau, p>0,05. Sinh viên có thái độ rất đồng ý có nguy cơ stress cao hơn sinh viên có thái độ đồng ý (15%), có thái độ bình thường (14%), có thái độ không đồng (19%), các trị số p lần lượt nhỏ hơn 0,05.
Từ kết quả về thái độ của sinh viên với việc sống thử, không có sự khác nhau có ý nghĩa rõ ràng giữa các nhóm sinh viên bị rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress ở các nhóm sinh viên có thái độ đồng ý hay không đồng ý về hành vi chung sống trước khi kết hôn (p>0,05). Đây là những vấn đề thuộc nhóm tế nhị theo cách ứng xử văn hóa của Việt Nam, hạn chế của kết quả là chưa thể xác định được những nhóm sinh viên đang sống chung với bạn tình trước hôn nhân với những sinh viên không chung sống trước hôn nhân. Chính vì vậy kết quả chỉ giải thích được, và gợi ý rằng thái độ đồng ý hay không đồng ý của hành vi chung sống trước khi kết hôn vẫn là tình huống giả định nên không ảnh hưởng gì đến các mức độ trầm cảm của sinh viên.
Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress và Kế hoạch học tập của sinh viên.
Rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên có liên quan đến việc lập kế hoạch
học tập, sinh viên có kế hoạch học tập theo tuần, tháng hoặc năm thì rối nhiễu trầm cảm, lo
âu, stress thấp hơn sinh viên không có kế hoạch học tập, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê p<0,001.
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên có kế hoạch học tập từng năm học so với sinh viên
không có kế hoạch học tập của cá nhân là 0,56, KTC 95% là 0,48 – 0,63.
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên có kế hoạch học tập từng tháng học so với sinh
viên không có kế hoạch học tập từng tháng là 0,79, KTC95% là 0,72-0,87.
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên có kế hoạch học tập từng tuần học so với sinh viên
không có kế hoạch học tập theo tuần là 0,63 lần, KTC 95% là 0,59 – 0,67.
Bảng 3.25. Mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress và Kế hoạch học tập của sinh viên.
Kế hoạch học tập Trung vị PR KTC 95% p (*)
Trầm cảm
Không 16 1
Tuần 9 0,63 0,59-0,67 <0,001
Tháng 9,5 0,79 0,72-0,87 <0,001
Năm 8 0,56 0,48-0,63 <0,001
Lo âu
Không 18,5 1
Tuần 13 0,77 0,73-0,81 <0,001
Tháng 14 0,86 0,78-0,93 0,001
Năm 13 0,72 0,64-0,81 <0,001
Stress
Không 19,5 1
Tuần 11 0,65 0,61-0,68 <0,001
Tháng 11,5 0,74 0,67-0,80 <0,001
Năm 16 0,66 0,59-0,74 <0,001
(*) Kiểm định bằng phương pháp hồi quy Poisson.
Sinh viên không có kế hoạch học tập có khả năng rối nhiễu lo âu cao hơn những sinh
viên có kế hoạch học tập, nếu so sánh với nhóm sinh viên có kế hoạch học tập theo năm là
28%, so với sinh viên có kế hoạch học tập theo tháng nhiều hơn là 14%, so với học tập theo
tuần nhiều hơn là 13%. Các mức độ nhiều hơn trên đây có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05).
Trước khi làm bất cứ chuyện gì, nên lập kế hoạch. Nếu không có kế hoạch thì không
làm chủ được thời gian, nhất là khi có điều gì bất trắc xảy đến. Một kế hoạch học tập tốt
cũng giống như chiếc phao cứu hộ. Mỗi sinh viên, tùy vào nhu cầu của mình, sẽ lập một kế
hoạch học tập riêng, kế hoạch đó có thể thay đổi khi cần, nhưng điều quan trọng là phải tuân
thủ kế hoạch đã đề ra.
Rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên có liên quan đến việc lập kế hoạch
học tập, sinh viên có kế hoạch học tập theo tuần, tháng hoặc năm thì rối nhiễu trầm cảm, lo
âu, stress thấp hơn sinh viên không có kế hoạch học tập, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê p<0,001.
Nếu so sánh rối nhiễu trầm cảm của những sinh viên có kế hoạch học tập cho từng
năm học so với sinh viên không có kế hoạch học tập cho từng năm học của cá nhân là 56%,
(KTC 95% là 0,48% đến 0,63%).
Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên có kế hoạch học tập từng tháng học so với sinh viên không có kế hoạch học tập của cá nhân là sinh viên có kế hoạch học tập theo tháng là 0,79 lần (PR=0,79), KTC 95% là từ 0,72 đến 0,87. Hay nói cách khác sinh viên không có kế hoạch học tập thì có mức độ trầm cảm nhiều hơn 21% sinh viên có kế hoạch học tập từng tháng, tỉ lệ này dao động trong khoảng từ 13% đến 28% (so với nhóm không có kế hoạch học theo tháng).
Kết quả bảng 3.37, cho thấy rối nhiễu trầm cảm của sinh viên có kế hoạch học tập từng tuần ít hơn so với sinh viên không có kế hoạch học tập theo tuần là 37% (từ 33% đến 41%).
Có thể kết luận rằng kế hoạch học tập của sinh viên rất là quan trọng, nó tác động một cách rõ rệt với các rối nhiễu tâm lý của sinh viên ngành y. Việc sinh viên lập kế hoạch học tập (theo tuần, tháng, năm) phần lớn tùy thuộc vào kế hoạch của nhà trường, bệnh viện. Tuy nhiên hiện nay sinh viên vẫn học tập theo niên chế, do đó việc sắp xếp lịch học có thể ít bị động hơn so với việc học theo tính chỉ.
Nếu so sánh từng nhóm sinh viên trong việc lập kế hoach học tập, có sự khác nhau về trầm cảm lo âu, và stress, người nghiên cứu có thể đưa ra lý thuyết kỹ năng học tập của sinh viên - yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý của sinh viên. Nếu họ có kỹ năng tốt cho học tập chính là làm giảm phần nào đó những rối nhiễu tâm lý. Sinh viên phải được trang bị cho mình về kỹ năng lập kế hoạch chiến lược học tập cần, đó là những kỹ năng mền bắt buộc.
0 4
0 3
D
0 2
0 1
0
0
10
20
30
40
5
A
3.6. Mối tương quan giữa đặc tính mẫu và rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên. 3.5.1. Mối quan hệ giữa trầm cảm và lo âu ở sinh viên.
Biểu đồ 3.17: Biễu diễn mối quan hệ tuyến tính giữa trầm và lo âu (trục tung biễu diễn cho trầm cảm, trục hoành lo âu) Màu đỏ biểu hiện của sinh viên bị trầm cảm, màu xanh lá cây biểu hiện của sinh viên bị lo âu
Mức độ tập trung tương quan giữa trầm cảm và lo âu ở sinh viên rất cao. Mối quan hệ
hệ này là tuyến tính. Tính phân tán thấp.
Có sự tương quan mạnh giữa lo âu và trầm cảm là r = 0,83.
0 4
0 3
D
0 2
0 1
0
0
10
20
30
40
50
S
3.5.2. Mối quan hệ giữa trầm cảm và stress ở sinh viên.
Biểu đồ 3.18. Biễu diễn mối quan hệ tuyến tính giữa trầm và stress (trục tung biễu diễn cho trầm cảm, trục hoành stress) Màu đỏ biểu hiện trầm cảm trầm cảm, Màu xanh dương biểu hiện stress ở sinh viên
Mức độ tập trung tương quan giữa trầm cảm và lo âu ở sinh viên rất cao. Mối quan hệ
hệ này là tuyến tính. Tính phân tán thấp.
Có sự tương quan mạnh giữa stress với trầm cảm là r = 0,88.
0 4
0 3
A
0 2
0 1
0
0
10
20
30
40
50
S
3.5.3. Mối quan hệ giữa lo âu và stress ở sinh viên.
Biểu đồ 3.19. Biễu diễn mối quan hệ tuyến tính giữa trầm và stress (trục tung biễu diễn cho trầm cảm, trục hoành stress) Màu xanh lá cây biểu hiện trầm lo âu ở sinh viên Màu xanh dương biểu hiện stress ở sinh viên
Mức độ tập trung cao của mối liên quan giữa lo âu và stress ở sinh viên.
Kiềm định hệ số tương quan giữa stress với lo âu hệ số tương quan r = 0,91.
Biểu đồ 3.20. Biểu diễn hệ số tương quan giữa lo âu, trầm cảm, và stress của
sinh viên, phân phối không chuẩn, theo luật phân phối Poisson.
Chú giải: viết tắt trên sơ đồ D là trầm cảm, A là lo âu, S là Stress.
Các mối liên hệ bên trong của các triệu chứng rối nhiễu sức khỏe tâm lý của sinh viên, các công trình của các tác giả cũng chỉ ra rằng những mối quan hệ DAS rất cao trong các công trình nghiên cứu.
Căng thẳng và lo lắng không phải là điều tương tự, nhưng họ có xu hướng củng cố và duy trì mỗi yếu tố khác nhau. Căng thẳng làm cho sinh viên lo lắng, và lo lắng làm tăng căng thẳng của sinh viên, và nó rất quan trọng để gián đoạn chu kỳ đó. Qua kết quả có thể thấy biểu hiện mối tương quan giữa stress với lo âu rất cao, hệ số tương quan r = 0,91. Kỹ thuật quản lý stress làm giảm các phản ứng stress có thể hữu ích trong việc giảm stress, các can thiệp nhằm ngăn chặn stress, chẳng hạn như quản lý thời gian, kế hoạch học tập, kiểm soát chỗ ở, thư giãn như nghe nhạc,…của sinh viên phải được nhà trường, khoa chú trọng trong chính sách về sinh viên.
Có sự liên quan chặt chẽ giữa stress với trầm cảm là r = 0,88, quan hệ nhân quả giữa
các sự kiện đời sống căng thẳng và trầm cảm.
Có sự tương quan mạnh giữa lo âu và trầm cảm là r = 0,83. Kết quả này cũng phù hợp với một số tác giả khác trên thế giới về hệ số tương quan giữa các yếu tố rối nhiễu tâm lý với nhau.
So sánh mối liên hệ giữa các tác giả Hunt J, Eisenberg.D rối loạn tâm lý phổ biến trong số các sinh viên đại học và các rối loạn này xuất hiện để được gia tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng [56].
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Rối nhiễu tâm lý mức độ nặng trong sinh viên ngành y tế là đáng báo động.
- Tỉ lệ sinh viên trầm cảm ở mức độ nặng là 15%, trầm cảm rất nặng là 9%.
- Tỉ lệ sinh viên lo âu ở mức độ nặng là 13%, mức độ rất nặng 11%.
- Tỉ lệ sinh viên bị stress nặng là 7%, stress rất nặng là 5%.
1.1.Trầm cảm.
Có mối liên hệ giữa trầm cảm vò chỗ ở của sinh viên. Sinh viên ở nhà trọ/nhà thuê có
tỉ số nguy cơ trầm cảm cao nhất, cao hơn sinh viên ở ký túc xá là 56%. Sinh viên sử dụng
thường xuyên xe buýt trầm cảm nhiều hơn sinh viên đi xe gắn máy, sinh viên sử dụng
phương tiện khác. Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu trầm cảm cao hơn sinh viên không sử dụng mạng vi tính là 9%. Rối nhiễu trầm cảm không có sự khác biệt giữa sinh viên có hút thuốc lá và sinh viên không hút thuốc lá. Rối nhiễu trầm cảm của sinh viên có kế hoạch học tập từng năm học so với sinh viên không có kế hoạch học tập của cá nhân là 0,56.
1.2.Lo âu.
Sinh viên ở với cha mẹ có mức độ lo âu thấp nhất, thấp hơn sinh viên ở ký túc xá là 10%, đa động từ 3% đến 17%. Rối nhiễu lo âu của sinh viên sử dụng thường xuyên xe buýt nhiều hơn sinh viên đi xe gắn máy so với sinh viên sử dụng phương tiện khác. Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu lo âu cao hơn sinh viên không sử dụng mạng vi tính là 20%. Rối nhiễu lo âu ở sinh viên hút thuốc lá hấp hơn sinh viên hút thuốc lá cao hơn sinh viên không hút thuốc lá là 10%. Rối nhiễu lo âu ở nhóm sinh viên có rượu /bia hơn nhóm không hút thuốc lá là 15%. Rối nhiễu lo âu của sinh viên về chung sống trước khi kết hôn không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm sinh viên có thái độ khác nhau.
1.3. Stress.
Rối nhiễu stress của sinh viên sử dụng thường xuyên xe buýt nhiều hơn sinh viên đi xe gắn máy và sinh viên sử dụng phương tiện khác. Sinh viên có sử dụng internet rối nhiễu stress cao hơn sinh viên không sử dụng mạng vi tính là 17%. Sinh viên có hút thuốc lá bị stress nhiều hơn sinh viên không hút thuốc lá là 14%. Trong nhóm sinh viên uống rượu /bia thì mức độ trầm cảm, lo âu, stress cao hơn nhóm sinh viên có sử dụng rượu /bia, các tỉ số nguy cơ lần lượt là 19%, 9%, 20%. Rối nhiễu trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên có liên quan đến việc lập kế hoạch học tập, sinh viên có kế hoạch học tập theo tuần, tháng hoặc
năm thì rối nhiễu tràm cảm, lo âu, stress thấp hơn sinh viên không có kế hoạch học tập.
Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên.
- Có sự liên quan chặt chẽ giữa stress với lo âu.
- Có sự tương quan mạnh mẽ giữa stress với trầm cảm.
- Có sự tương quan mạnh mẽ giữa lo âu và trầm cảm.
2. Kiến nghị.
2.1.Đối với Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh/ bệnh viện.
- Có trung tâm tư vấn sức khỏe tâm lý cho sinh viên, kịp thời hỗ trợ sinh viên rối nhiễu
nặng về tâm lý, chú trọng đến sinh viên năm nhất.
- Chỗ ở của sinh viên ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý sinh viên, nên chăng có đủ chỗ ở cho sinh viên ở ký túc xá, hoặc có thể quản lý được các chỗ thuê trọ của sinh viên nhằm có
môi trường lành mạnh cho sinh viên học tập.
- Kế hoạch học tập: nhà trường/bệnh viện ổn định và thống nhất nhằm tạo yếu tố thuận
lợi tốt hơn cho sinh viên duy trì kế hoạch học tập của mình.
- Tăng cường các hoạt động thể lực lành mạnh cho sinh viên, nhằm giải phóng năng
lượng cần thiết nhằm hạn chế việc sử dụng các chất gây nghiện như hiện nay.
- Hỗ trợ sinh viên, khuyến khích sinh viên sử dụng biện pháp an toàn tình dục trong
quan hệ tình dục.
2.2. Đối với sinh viên.
- Xây dựng cho mình kế hoạch học tập.
- Khám sức khỏe thể chất và tâm lý định kỳ.
- Có kiến thức, thái độ, cách thực hành an toàn trong tình dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Philippe Cortent (2005), "Chất lượng cuộc sống trong chăm sóc sức khỏe ban đầu". NXB Y học (Tp.HCM), 492-496. 2. Trần Văn Cường (2002), "Nghiên cứu đặc điểm nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân rối loạn tâm thần". tạp chí thông tin y dược 4.
3. Trương Đình Chính, Cao Ngọc Nga, Nguyễn Đỗ Nguyên, Ngô Tích Linh (2010), "Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 2009". Y Học TP.Hồ Chí Minh 14, (1), 101-108.
4. Đỗ Văn Dũng (2010), Thống kê R trong nghiên cứu khoa học. Lưu hành nội bộ 5. Nguyễn Bá Đạt (2002), "Trị liệu tâm lý đối với rối loạn trầm cảm ". Tạp chí Tâm lý học 11, 37-40.
6. Lâm Xuân Điền (2005), Sức khỏe tâm thần trong triết học phương Đông, 7. Lâm Xuân Điền, H.N.Barte (2005), "Tự tử công cộng và tự tử riêng tư". NXB Y học (Tp.HCM) 306-311.
8. Nguyễn Thu Hà, Tạ Tuyết Bình, Nguyễn Khắc Hải (2005), "Điều tra stress nghề nghiệp ở nhân viên y tế. Kỷ yếu hội nghị khoa học quốc tế y học lao động và vệ sinh môi trường lần II". NXB Y học 209-214. 9. Henri, Boon (2005), "Chăm sóc các biểu hiện cơ thể kèm the ở các bệnh tâm thần". NXB Y học (Tp.HCM), 333-335.
10. Nguyễn Văn Huy, Đào Thị Minh An, Giang Thạch Thảo (2006), "Thực trạng lập kế hoạch học tập trong sinh viên đại học Y Hà Nội và một số yếu tố ảnh hưởng". tạp chí y tế công cộng 16, 42-48. 11. Pireaux J.P, P.Hardy, D.Servant, P.Cialdella (2005), "Các thang lượng giá về tâm bệnh lý học.". NXB Y học (Tp.HCM), 440-449.
12. Nguyễn Văn Nuôi, Phạm Văn Trụ, Lê Quốc Nam, Lương Mạnh Dũng (1994), Sổ tay thống kê chẩn đoán các rối loạn tâm thần rút gọn IV, NXB Y học Hồ Chí Minh, 13. Nguyễn Văn Nghị, Vũ Mạnh Lợi, Lê Cự Linh, Nguyễn Hữu Minh (2010), "Yếu tố nguy cơ, yếu tố bảo vệ đối với quan hệ tình dục ở vị thành niên". Tạp chí Y tế Công cộng, 15, (15), 33.
14. Nguyễn Văn Tuấn (2008), Y học thực chứng. NXB Y học (Tp.HCM). 15. Nguyễn Văn Tuấn, Phan Văn Song (dịch) (2011), Thống kê sinh học.
http://statistics.vn/.
16. Isidore Pelc (2007), "Y khoa tâm thể ". NXB Y học (Tp.HCM), 317-323. 17. Isidore Pele (2005), "Các yếu tố dịch tể học của rối loạn stress sau chấn thương". NXB Y học (Tp.HCM), 297-300.
18. Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, Michael Dunne (2010), "Sức khỏe tâm thần của sinh viên y tế công cộng và sinh viên điều dưỡng tại Đại học y dược Tp.HCM năm 2009". Y Học TP.Hồ Chí Minh, 14, (1), 95-100. 19. Jean Paul Roussaux (2005), Bạo lực trong gia đình: các khía cạnh tâm thần học và tâm lý xã hội. NXB Y học (Tp.HCM).
20. Shin, J., Nv. Nhan, Ks. Crittenden, Htd. Hong, M. Flory, J Ladinsky (2006), "Căng thẳng trong việc nuôi con cái của các bậc cha mẹ có con nhỏ chậm phát triển trí tuệ ở Việt Nam". Tạp chí các nghiên cứu về tàn tật trí tuệ, 50, (10), 748-760.
21. Lê Anh Tuấn, Trần Thiện Thuần, Lê Minh Thuận (2010), Thực trạng stress, trầm cảm, lo âu ở học sinh trường THPT Nguyễn Hữu Tiến, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh tháng 4/ 2010, Tạp chí Y học Tp.HCM
22. Nguyễn Văn Tuấn (2009), Thống kê R trong nghiên cứu khoa học. NXB Y học Tp.HCM. 23. Nguyễn Văn Tuấn (2008), Thống kê R ứng dụng trong y khoa NXB Y học (Tp.HCM) 24. Lê Minh Thuận (2011), "Sức khỏe tâm lý sinh viên: nghiên cứu cắt ngang". Y học thực hành, Bộ Y Tế Xuất Bản, 7, (774), 71-74. 25. Viện Sức Khỏe Tâm Thần Trung Ương (2011), Thang Đánh giá Lo âu - Trầm cảm - Stress (DASS 42)
http://www.nimh.gov.vn/content/view/36/34/lang,cn/, 26. Nguyễn Khắc Viện (1999), Tâm lý học lâm sàng trẻ em, NXB Y học, 30-35 TIẾNG ANH 27. Haelth Transition Review (1996), The Cultural, Social And Behavioural Determinants Of Health,
28. Abrahamsen, A.F, J.H Loge, Hannisdal E, Holte.H., Kvaloy.S (1998), "Socio-medical situation for long-term survivors of Hodgkin's disease: a survey of 459 patients treated at one institution". Eur J Cancer, 34, (12), 1865-1870. 29. Alder, B, M.Porter C, Abraham C, E.Van Tejlingen (2004), Psychology and sociology applied to medicine,
30. Anderson, R.U, E.K Orenberg, A Morey, N Chavez, C.A Chan (2009), "Stress Induced Hypothalamus-Pituitary-Adrenal Axis Responses and Disturbances in Psychological Profiles in Men With Chronic Prostatitis/Chronic Pelvic Pain Syndrome". J Urol. 31. Andrews, J.W, A.Mac Phee (2006), "Risk factors for depression in early adolescenceb". Adolescence, 41, 163.
32. Armstrong, H.E, Tracy J.J, Rock D.L, Hays V.L (1982), "The life skills program: a psychoeducational approach to psychiatric day care". Int J Partial Hosp, 1, (1), 141- 149.
33. American Psychiatric Association, D.A.S.M.O.M.D.T.E (1994), Washington, DC. 34. Bayram. N, N Bilgel (2008), "The prevalence and socio-demographic correlations of depression, anxiety and stress among a group of university students". Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol, 43, (8), 667-672. 35. Belfe (2008), "Rối loạn tâm thần trẻ em và vị thành niên: Biểu hiện của vấn đề trên toàn cầu". Tạp chí Tâm lý và tâm thần trẻ em, 49, 226-236.
36. Blumberg, E.J, M.F Hovell, C.A Werner, N.J Kelley, C.L Sipan, S.M Burkham (1997), "Evaluating AIDS-related social skills in Anglo and Latino adolescents. Focus on assessment". Behav Modif, 21, (3), 281-307. 37. Bostwick, J.M., V.S. Pankratz (2000), "Affective disorders and suicide risk: a reexamination". Am J Psychiatry, 157, (12), 1925-32. 38. Cassano, Fava (2002), "Trầm cảm và y tế công cộng: tổng quan". Tạp chí về các nghiên cứu tâm thần kinh, 53, 849-857. 39. Cassano, P., M. Fava (2002), "Depression and public health: an overview". J Psychosom Res, 53, (4), 849-57.
40. Crawford, J.R, Henry J.D (2003), "The Depression Anxiety Stress Scales (DASS): normative data and latent structure in a large non-clinical sample". Br J Clin Psychol, 42, (Pt 2), 111-31.
41. Cheung.A (2006), "Canadian Community Health Survey: Major depressive disorder and suicidality in adolescents". Health Care Policy, 2, (2).
42. Derakshan, N., T.L Ansari, M Hansard, L Shoker, M.W Eysenck (2009), "Anxiety, inhibition, efficiency, and effectiveness. An investigation using antisaccade task". Exp Psychol, 56, (1), 48-55.
43. Derakshan, N., S Smyth, M.W Eysenck (2009), "Effects of state anxiety on performance using a task-switching paradigm: an investigation of attentional control theory". Psychon Bull Rev, 16, (6), 1112-7. 44. Desilva, M, S.R Huttly, T Harpham, Mg Kenward (2007), "Nguồn vốn XH: Một phân tích so sánh của 4 nước có thu nhập thấp.". Khoa học XH và y tế, 64, 5-20.
45. Erikson, A., M. Park, K. Tham (2010), "Belonging: a qualitative, longitudinal study of what matters for persons after stroke during the one year of rehabilitation". J Rehabil Med, 42, (9), 831-8.
46. Erikson, R., J.H. Goldthorpe (2010), "Has social mobility in Britain decreased? Reconciling divergent findings on income and class mobility". Br J Sociol, 61, (2), 211-30. 47. M. W. Eysenck, N. Derakshan, R. Santos, M. G. Calvo (2007), "Anxiety and cognitive performance: attentional control theory". Emotion, 7, (2), 336-53.
48. Eysenck, M.W. (2004), "Applied cognitive psychology: Implications of cognitive psychology for clinical psychology and psychotherapy". J Clin Psychol, 60, (4), 393- 404.
49. Fritzche, K.E.A (2008), "Tăng cường năng lực về tâm thần kinh của các bác sĩ y khoa ở Trung Quốc, Việt Nam và CHDCND Lào - Chương trình liên kết châu Á". Tạp chí quốc tế về tâm thần trong y khoa, 38, (1), 1-2.
50. R. Grossarth-Maticek, H. J. Eysenck, G. J. Boyle, J. Heep, S. D. Costa, I. J. Diel (2000), "Interaction of psychosocial and physical risk factors in the causation of mammary cancer, and its prevention through psychological methods of treatment". J Clin Psychol, 56, (1), 33-50. 51. Grossarth, R Maticek, H.J Eysenck (1991), "Coca-Cola, cancers, and coronaries: personality and stress as mediating factors". Psychol Rep, 68, (3 pt2), 1083-1087.
52. Giang, K.B., P. Allebeck, G. Kullgren, N. V. Tuan (2006), "The Vietnamese version of the Self Reporting Questionnaire 20 (SRQ-20) in detecting mental disorders in rural Vietnam: a validation study". Int J Soc Psychiatry, 52, (2), 175-84.
53. Hickie, Ian B., Helen Christensen, Tracey A. Davenport, Georgina M. Luscombe (2005), "Can we track the impact of Australian mental health research?". Australian & New Zealand Journal of Psychiatry, 39, (7), 591-599.
54. Hoekstra, H.J, B.B Van Meijel, T.G Van Der Hooft-Leemans ( 2010), "A nursing career in mental health care: choices and motives of nursing students". Nurse Educ Today, 30, (1), 4-8. 55. Holmes, T.H., R.H. Rahe (1967), "The Social Readjustment Rating Scale". J Psychosom Res, 11, (2), 213-8. 56. Hunt, J.& Eisenberg D (2010), "Mental health problems and help-seeking behavior among college students". J Adolesc Health, 46, (1), 3-10. 57. Irwin, J.D (2004), "Prevalence of university students' sufficient physical activity: a systematic review". Percept Mot Skills, 98, (3), 927-943.
58. Jonzon, R, Nd Vung, Ringsberg Kc, G Krantz (2007), "Bạo lực đối với phụ nữ trong quan hệ tình dục: Giải thích và đề nghị các can thiệp được nhận thức bởi các nhân
viên y tế và những người có uy tín trong cộng đồng ở một huyện phía Bắc Việt Nam". Tạp chí Y tế công cộng Scandinavian, 35, 640-647.
59. Kaljee, L.E.A (2005), "Hiệu quả của chương trình phòng chống HIV giảm nguy cơ theo lý thuyết cho trẻ vị thành niên ở nông thôn Việt Nam". Giáo dục và phòng ngừa AIDS, 17, (3), 185-199.
60. Kjeldstadli, K, R Tyssen, A Finset, E Hem, T Gude, N.T Gronvold (2006), "Life satisfaction and resilience in medical school--a six-year longitudinal, nationwide and comparative study". BMC Med Educ, 4, 48.
61. M. A. Kompier, B. Aust, A. M. Van Den Berg, J. Siegrist (2000), "Stress prevention in bus drivers: evaluation of 13 natural experiments". J Occup Health Psychol, 5, (1), 11-31.
62. Krantz, G, T.V Phuiong, V.Thuan Larsson, Tb, Kc Ringsberg (2005), "Bạo lực tình dục: các hình thức, hậu quả và tính chuẩn bị để hành động được nhận thức bởi nhân viên y tế và lãnh đạo các huyện xã ở 1 huyện nông thôn miền Bắc Việt Nam". Tạp chí Y tế công cộng Scandinavian, 119, 1048-1055.
63. Levinson, D., A. Ifrah (2010), "The robustness of the gender effect on help seeking for mental health needs in three subcultures in Israel". Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol, 45, (3), 337-44.
64. Levinson, D., Y. Lerner, N. Zilber (2009), "Estimating the changes in demand for public mental health services following changes in eligibility: analysis of national survey data". J Ment Health Policy Econ, 12, (1), 19-25.
65. Looney, J Fau Rahe R, Rahe R Fau Harding, Trần Minh Hưng (2001), "Consulting to children in crisis Exploring couple attributes and attitudes and marital violence in Vietnam Improving the psychosomatic competence of medical doctors in China, Vietnam and Laos-the Asia-Link Program". BMJ, (0009-398X (Print)). 66. Macphee, A.R, J.J Andrews (2006), "Risk factors for depression in early adolescence". Adolescence, 41, (163), 435-466.
67. Malizia, A.L, V.J. Cunningham, C.J. Bell, P.F. Liddle, T. Jones, D.J. Nutt (1998), "Decreased brain GABA(A)-benzodiazepine receptor binding in panic disorder: preliminary results from a quantitative PET study". Arch Gen Psychiatry, 55, (8), 715-20. 68. Mare, L.Caltabiano, Edwardp.Sarafino (1998), Health Psychology: Biopsychosocial interactions, 69. Mccann, T.V., E Clark (2010), "Australian Bachelor of Midwifery students' mental health literacy: an exploratory study". Nurs Health Sci, 12, (1), 14-20. 70. A. H. Meyer (1930), "Discovery of Phosphorus Fixing Compound in the Soil". Science, 71, (1844), 461.
71. A. W. Meyer (1930), "Malpighi as Anatomist". Science, 72, (1862), 234-8. 72. Minh, H.V., K. B. Giang, D. L. Huong, T. Huong Le, N. T. Huong, P. N. Giang, L. N. Hoat, P. Wright (2010), "Costing of clinical services in rural district hospitals in northern Vietnam". Int J Health Plann Manage, 25, (1), 63-73. 73. Naiemeh, Seyedfatemi, Maryam Tafreshi, Hamid Hagani (2007), "Experienced stressors and coping strategies among Iranian nursing students". BMC Nursing, 6, (11), 1-10.
74. Ni, C, X Liu, Q Hua, A Lv, B Wang, Yan Y (2010), "Relationship between coping, self- esteem, individual factors and mental health among Chinese nursing students: a matched case-control study". Nurse Educ Today, 30, (4), 338-43.
75. R. Nuesch, A. Gayet-Ageron, P. Chetchotisakd, W. Prasithsirikul, S. Kiertiburanakul, W. Munsakul, P. Raksakulkarn, S. Tansuphasawasdikul, S. Chautrakarn, K.
Ruxrungtham, B. Hirschel, J. Anaworanich (2009), "The impact of combination antiretroviral therapy and its interruption on anxiety, stress, depression and quality of life in Thai patients". Open AIDS J, 3, 38-45.
76. Nuesch, R., A. Gayet-Ageron, P. Chetchotisakd, W. Prasithsirikul, S. Kiertiburanakul, W. Munsakul, P. Raksakulkarn, S. Tansuphasawasdikul, S. Chautrakarn, K. Ruxrungtham, B. Hirschel, J. Anaworanich (2009), "The impact of combination antiretroviral therapy and its interruption on anxiety, stress, depression and quality of life in Thai patients". Open AIDS J, 3, 38-45.
77. Oliveira, I., S. Jensen-Fangel, D. Da Silva, A. Ndumba, C. Medina, A. Nanadje, D. N. Rasmussen, F. Rudolf, C. Wejse, Z. J. Da Silva, M. Sodemann, A. L. Laursen (2010), "Epidemic Stevens-Johnson syndrome in HIV patients in Guinea-Bissau: a side effect of the drug-supply policy?". AIDS, 24, (5), 783-5.
78. Papachristodoulou, D. (2010), "Learning experiences and assessment in the first 2 years of the medical course at King's College London School of Medicine". Keio J Med, 59, (4), 140-5. 79. Patel, In Merson (Eds) (2006), "Sức khỏe tâm thần và sức khỏe cộng đồng quốc tế". London: Joles & Bartlett, 355-391. 80. Prince, M., V Patel, S Saxena, M Maj, J Maselko, M.R Et Al Phillips (2007), "No health without mental health". lancet, 370, (9590), 859-877. 81. Probst, M, J Peuskens (2010), "Attitudes of Flemish physiotherapy students towards mental health and psychiatry". Physiotherapy, 96, (1), 44-51. 82. World Health Report (2001), "Mental Health: New Understanding , New Hope". Geneva.
83. Roukema, R, B. Fadem, B. James, F. Rayford (1984), "Bipolar disorder in a low socioeconomic population. Difficulties in diagnosis". J Nerv Ment Dis, 172, (2), 76- 9. 84. Saxena, S Et Al (2007), "Các nguồn lực cho sức khỏe tâm thần: khan hiếm, không công bằng, và không hiệu quả.". Lancet, 370, 878-889. 85. Seal, N (2006), "Preventing tobacco and drug use among Thai high school students through life skills training". Nurs Health Sci, 8, (3), 164-168.
86. H. Selye (1956), "Stress and psychiatry". Am J Psychiatry, 113, (5), 423-7. 87. Selye, H. (1979), "Stress and the reduction of distress". J S C Med Assoc, 75, (11), 562- 6.
88. Selye, H. (1985), "The nature of stress". Basal Facts, 7, (1), 3-11. 89. Selye, H. (1955), "Stress and disease". Science, 122, (3171), 625-31. 90. Silove, D.M., C. L. Marnane, R. Wagner, V. L. Manicavasagar, S. Rees (2010), "The prevalence and correlates of adult separation anxiety disorder in an anxiety clinic". BMC Psychiatry, 10, 21.
91. Stewart, S.M, C Betson, T. H Lam, I.B Marshall, P.W Lee, C.M Wong (1997), "Predicting stress in first year medical students: a longitudinal study". Med Educ, 31, (3), 163-168.
92. Tunay, S., Soygut G (2009), "The reliability and validity of Turkish Brief Measure of Worry Severity based on Turkish university students". Turk Psikiyatri Derg, 20, (1), 68-74. 93. Uncu, Y, Bayram N, Bilgel N (2007), "Job related affective well-being among primary health care physicians". Eur J Public Health, 17, (5), 514-519.
94. Vikram, Patel, Preston Garrison, Jair De Jesus Mari, Harry Minas, Martin Prince, Shekhar Saxena (2008), "The Lancet's Series on Global Mental Health: 1 year on". lancet, 370. 95. Vikram, Patel, Norman Sartoriusb (2008), "From science to action: the Lancet Series on Global Mental Health". thelancet, 21, 109-113. 96. Vitaliano, P.P, J Russo, J.E Carr, J.H Heerwagen (1984), "Medical school pressures and their relationship to anxiety". J Nerv Ment Dis, 172, (12), 730-736. 97. Who (2009), "Human papillomavirus vaccines: WHO position paper". Biologicals, 37, (5), 338-44.
98. WHO, Trần Viết Nghị, Nguyễn Kim Việt, T. N. V. T. L. C. B (1999), "Hướng dẫn chẩn đoán và quản lý các rố loạn tâm thần trong chăm sóc sức khỏe ban đầu". NXB theo danh nghĩa WHO, Hygrefe Và Huber, , ICD 10 Chương V. 99. Who, T.W.H.R (2001), "Mental Health: New Understanding, New Hope". World Health Organization. 100. Wholey, D.R., W. Gregg, I. Moscovice (2009), "Public health systems: a social networks perspective". Health Serv Res, 44, (5 Pt 2), 1842-62. 101. Whooley, M.A., G.E. Simon (2000), "Managing depression in medical outpatients". N Engl J Med, 343, (26), 1942-50.
102. Woods, M.A (2010), "Public health intervention model: impact on Australian community and mental health nursing students' practice". Int J Nurs Educ Scholarsh, 7, (1). 103. Yang, T, Xu X, Li M, Rockett Ir, Zhu W, Ellison-Barnes A (2011), "Mental Health Status and Related Characteristics of Chinese Male Rural-Urban Migrant Workers".
104. Jon Q.Chen, Han P, Lian G.L, Dunne M.P (2010), "Prevalence of childhood sexual abuse among 2508 college students in 6 provinces of China". Zhonghua Liu Xing Bing Xue Za Zhi, 31, (8), 866-869.
PHỤ LỤC 1
KHOA TRUONG Đối tượng ID:
(Luôn gắn liền phiếu số 2,3)
PHẦN 1:
Cột mã số
A 1
Phái tính
Nam Nữ
1 2
A 2
Ngày Tháng Năm
Ngày tháng năm sinh của bạn
A 3
Bạn đang học KHOA/ NGÀNH nào?
A 4
Sinh viên năm thứ ?
Năm 1, năm 2, năm 3, 4…
A 5
Bạn dân tộc gì ?
1. Kinh 2. Hoa 3. Khơ me 4. Khác
1. Không 2. Phật giáo 3.Thiên giáo
A 6
Bạn theo tôn giáo nào ?
4.Khác
A 7
Bạn đang sống với ai ? (Trên 6 tháng)
1. Cả cha và mẹ chuyển đến A 9 2. Hoặc cha, hoặc mẹ 3. Tôi sống xa nhà 4. Khác ……………………….
A 8
Vì sao không sống cùng cả hai: cha và mẹ?
A 9
Chỗ ở hiện tại của bạn
1. Cha mẹ tôi li dị 2. Cha hoặc mẹ đã mất 3. Tôi sống xa nhà 4. Khác (ghi rõ)………….…. 1. Nhà trọ/phòng trọ 2. Ký túc xá 3. Nhà riêng 4. Nhà của cha mẹ 5. Ở nhờ bà con/dòng họ 6. Khác ………………………….
A 10
Đi học hàng ngày, tôi thường sử dụng phương tiện
1. Xe buýt 2. Xe máy 3. Xe đạp 4. Đi bộ 5. Xe hơi (ô tô) 6. Khác ……………
PHẦN 2
Làm việc kiếm tiền,
B1
1 2
B2
Rồi Chưa --> chuyển đến B 7 Tuổi Nếu không nhớ ghi mã 99
Có
B7
Bạn làm việc kiếm tiền năm bao nhiêu tuổi ? Bạn có từng nghe, hay biết về kỹ năng sống
1 2
không ?
Không
Có Không
B10
1 2
Có Không
B11
1 2
Bạn có gọi điện thọai, hay internet ,… về tư vấn SỨC KHỎE, TÂM LÝ không ? Bạn có biết nơi nào khám, tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ,...liên quan đến sức khỏe tâm thần không
PHẦN 3:
thuốc
Có Không
C.1.
1 2
C.2.
Có Không
1 2
C.3.
Có Không
1 2
C.4.
Hiện nay, bạn có đang lá không? hút Chẳng hạn như thuốc điếu, xì gà, tẩu hay thuốc lào? Bạn có từng uống rượu/bia không? (kể cả rượu trái cây) Hiện nay, Bạn có rượu/bia không? (kể cả rượu trái cây) Bạn có bao nhiều thời gian dành cho việc học, trong ngày ?
Giờ và phút Giờ phút HAY chỉ tính phút Phút
C.5.
GHI RA CỘT BÊN Bạn có bao nhiêu thời gian trong ngày dành cho đọc sách tham khảo, trong một tuần?
Giờ và phút Giờ phút HAY chỉ tính phút Phút
GHI RA CỘT BÊN
C.6.
Thời gian bạn nghe nhạc, xem phim trong một ngày
Giờ và phút Giờ phút HAY chỉ tính phút Phút
C.7.
Bạn có lịch (kế họach) làm việc, học tập theo .... (NHIỀU LỰA CHỌN)
C.8.
Có ý kiến cho rằng, Không nên quan hệ tình dục trước hôn nhân ? (MỘT LỰA CHỌN)
1. Tuần 2. Tháng 3. Năm 4. Không có 1. Hoàn toàn đồng ý 2. Đồng ý 3. Không đồng ý 4. Hoàn toàn không đồng ý 5. Tùy trường hợp 6. Không ý kiên
C.9.
Có ý kiến cho rằng: nên sống chung với nhau trước khi đi đến hôn
1. Hoàn toàn đồng ý 2. Đồng ý 3. Không đồng ý
nhân?
(MỘT LỰA CHỌN)
C.10.
Có ý kiến cho rằng Hiện tượng ly hôn là bình thường. Bạn thì sao ? (MỘT LỰA CHỌN)
4. Hoàn toàn không đồng ý 5. Tùy trường hợp 6. Không ý kiến 1. Hoàn toàn đồng ý 2. Đồng ý 3. Không đồng ý 4. Hoàn toàn không đồng ý 5. Tùy trường hợp 6. Không ý kiến
1 có 2 không
triếp
C.11.
Bạn có nghe nói hay tham gia trực chuyên đề Sức khỏe tâm thần chưa
Cảm ơn bạn đã cho ý kiến. Chúc bạn học tập tốt và thành đạt trong cuộc sống.
PHỤ LỤC 2
1
2
3
4
5
6
7
8
BẢNG SỐ 2 (H) Khoanh tròn vào điểm (ô) thích hợp 8= Hoàn toàn đúng 7 = Hầu như đúng 6= Đôi khi đúng 5= Chỉ đúng một chút 4= Chỉ không đúng một chút 3= Đôi khi không đúng 2= Hầu như không đúng 1= Hoàn toàn không đúng STT Tôi có thể nghĩ ra nhiều cách để thoát khỏi những tình khó khăn
1
2
3
4
5
6
7
8
1 Tôi rất nổ lực theo đuổi mục đích
1
2
3
4
5
6
7
8
2 Gần như lúc nào tôi cũng cảm
của mình
1
2
3
4
5
6
7
8
3 Tôi nghĩ bất cứ lĩnh vực nào cũng
thấy mệt mõi
1
2
3
4
5
6
7
8
4 Tôi dễ nổi cáu trong các cuộc
có nhiều mặt
1
2
3
4
5
6
7
8
5 Tôi có thể tìm được nhiều cách để
tranh luận
1 1
2 2
3 3
4 4
5 5
6 6
7 7
8 8
1
2
3
4
5
6
7
8
6 Tôi lo lắng về sức khỏe của mình 7 Thậm chí khi không được những người khác khuyến khích/ ủng hộ tôi vẫn tìm cách giải quyết 8 Những kinh nghiệm trong quá
đạt được những điều quan trọng đối với bản thân
1
2
3
4
5
6
7
8
9 Tôi cũng thành công chút đỉnh
khứ đã chuẩn bị tốt cho tương lai của tôi
1
2
3
4
5
6
7
8
10 Tôi thường cảm thấy lo lắng về
trong cuộc sống
1
2
3
4
5
6
7
8
11 Tôi đạt được mục tiêu mà chính
một điều diều gì đó
tôi đặt ra cho mình
PHỤ LỤC 3
BẢNG SỐ 3 (HSTC)
Khi đã hứa làm một việc gì, bạn có luôn luôn giữ lời hứa
D1
1. có 0. không
không? (bất kể lừa hứa có thuận lợi với mình hay không)
Tất cả mọi thói quen của bạn đều tốt và hợp với mong
D2
1. có 0. không
muốn của bạn phải không
Nếu không bị kiểm tra bạn có mua vé tầu hay xe không ?
D3
1. có 0. không
D4
1. có 0. không
D5
Thỉnh thoảng bạn có nổi nóng, tức giận không?
Bạn hay có những ý nghĩ mà bạn muốn dấu không cho người khác biết phải không
D6
1. có 0. không 1. có 0. không
D7
1. có 0. không
Đôi khi bạn cũng hay thêu dệt chuyện phải không ?
Có khi nào bạn đến chỗ hẹn, hoặc đi học, hay đi làm muộn không ? Trong số những người quen, có người mà bạn không ưa
D8
1. có 0. không
thích một cách công khai phải không ?
Bạn có thường hay nói những vấn đề mà bạn chưa hiểu kĩ
D9
1. có 0. không
D10
phải không? Trong tháng vừa rồi tôi tiêu xài số tiền là : ……… ………triệu đồng VN
PHỤ LỤC 4
BẢNG SỐ 1
Mức độ đánh giá: 0 Không đúng với tôi chút nào cả
1 Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng 2 Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng
3 Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng
1. Tôi thấy mình hay bối rối trước những việc chẳng đâu vào đâu
0 1 2 3
2. Tôi bị khô miệng
0 1 2 3
3. Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực nào
0 1 2 3
4. Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù chẳng làm việc gì nặng)
0 1 2 3
5. Tôi dường như không thể làm việc như trước được
0 1 2 3
6. Tôi có xu hướng phản ứng thái quá với mọi tình huống
0 1 2 3
7. Tôi có cảm giác bị run (tay, chân...)
0 1 2 3
8. Tôi thấy khó thư giãn được
0 1 2 3
9. Tôi đã rơi vào sự việc khiến tôi rất lo lắng và tôi chỉ dịu lại khi sự việc đó đã
0 1 2 3
qua đi
10. Tôi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả
0 1 2 3
11. Tôi khá dễ bị bối rối
0 1 2 3
12. Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều
0 1 2 3
13. Tôi cảm thấy buồn chán, trì trệ
0 1 2 3
14. Tôi thấy mình không thể kiên nhẫn được khi phải chờ đợi
0 1 2 3
15. Tôi thấy mình gần như bị ngất
0 1 2 3
16. Tôi mất hứng thú với mọi việc
0 1 2 3
17. Tôi cảm thấy mình chẳng đáng làm người
0 1 2 3
18. Tôi khá dễ phật ý, tự ái
0 1 2 3
19. Tôi bị đổ mồ hôi dù chẳng vì làm việc nặng hay do trời nóng
0 1 2 3
20. Tôi hay sợ vô cớ
0 1 2 3
21. Tôi thấy cuộc sống chẳng có gì đáng giá cả
0 1 2 3
22. Tôi thấy khó mà thoải mái được
0 1 2 3
23. Tôi thấy khó nuốt
0 1 2 3
24. Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực nào
0 1 2 3
25. Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù chẳng làm việc gì nặng)
0 1 2 3
26. Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng
0 1 2 3
27. Tôi dễ cáu kỉnh, bực bội
0 1 2 3
28. Tôi thấy mình gần như hoảng loạn
0 1 2 3
29. Sau khi bị bối rối tôi thấy khó mà trấn tĩnh lại được
0 1 2 3
30. Tôi sợ phải làm những việc tuy bình thường nhưng trước đây tôi chưa từng
0 1 2 3
làm
31. Tôi không thấy hào hứng với bất kỳ việc gì nữa
0 1 2 3
32. Tôi thấy khó chấp nhận việc đang làm bị gián đoạn
0 1 2 3
33. Tôi sống trong tình trạng căng thẳng
0 1 2 3
34. Tôi thấy mình khá là vô tích sự
0 1 2 3
35. Tôi không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào cản trở việc tôi đang làm
0 1 2 3
36. Tôi cảm thấy khiếp sợ
0 1 2 3
37. Tôi chẳng thấy có hy vọng gì ở tương lai cả
0 1 2 3
38. Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa
0 1 2 3
39. Tôi dễ bị khích động
0 1 2 3
40. Tôi lo lắng về những tình huống có thể làm tôi hoảng sợ hoặc biến tôi thành
0 1 2 3
trò cười
41. Tôi bị run
0 1 2 3
42. Tôi thấy khó bắt tay vào công việc
0 1 2 3
CÁC LỆNH THỐNG KÊ TRONG PHẦN MỀM R
Các thư viện sử dụng library(Hmisc) # require (psych) library(epicalc) library (car) require(psych) # Alpha Cronbach Dữ liệu gốc setwd ("d:/thac si") dhyd <- stata.get("d:/thac si/luanvan2.dta") attach (dhyd) # Vẽ đồ thị trong một khung op <- par(mfrow = c(1, 1),pty = "s") # 2 x 2 pictures on one plot
tamly <- data.frame(hivong, S, D, A ) # biến số danh định phantich <- ICLUST(tamly) print(phantich,digits=2) # Biến số tiên lượng – định lượng biensomoi <- predictr(D$dhyd, S$dhyd) predictr (biensomoi) # Tính chi bình phương khuynh hướng nptrendr (D$dhyd, khoa$dhyd) # Tính tỉ lệ rối nhiễu lo âu theo bie1n số nền bang <- summary( A=="nang" ~ khoa + namthu, data=dhyd, fun=mean) # nang khong phai la label ma la dieu kien bang <- summary(A=="rat nang" ~ khoa + namthu, data=dhyd, fun=mean) #phantram <- function(x) {mean(x)*100}# bang <- summary(A=="nang" ~ khoa + namthu, data=pnmt, fun=phantram) print(bang, prmsd=T, pctdig=1, exclude1=F) bang7a <- summary(A=="nhe" ~ khoa + namthu, data=dhyd, fun=sum) # Hiệu ứng tương tác giữa các biến số anova (model3 <- lm (hivong ~ D+A+S + D*A*S)) # co tuong tac hist (model13) ######## model4 <- aov (hivong ~ stress + anxiety + depression ) TukeyHSD (model4) plot(TukeyHSD (model4), ordered=TRUE) interaction.plot(model14) #Phân tích hồi qui PR hqd = glm( D ~ factor(c1hutthu) + factor(a3khoa) + factor(a4lop)+ factor(c17tutin) + (a12choo) + factor(a11phuon) + factor(b10inter)+ factor(c4ruou) + factor(c11kehoa)+ factor(c12tinhd)+ factor(c13songt) + factor(c14lyhon), family=poisson) # PR summary(hqd) # UOC SO PR exp(coef(hqd)) # PR exp(confint(hqd)) # KTC 95% PR ## Trầm cảm hqd1 = glm(D~ factor(hutthuoc), family=poisson) # PR summary(hqd1) # UOC SO PR exp(coef(hqd1)) # PR exp(confint(hqd1)) # KTC 95% PR
# Lo âu hqd1 = glm(A ~ factor(hutthuoc), family=poisson) # PR summary(hqd1) # UOC SO PR exp(coef(hqd1)) # PR exp(confint(hqd1)) # KTC 95% PR # Stress hqd1 = glm(S ~ factor(hutthuoc), family=poisson) # PR summary(hqd1) # UOC SO PR exp(coef(hqd1)) # PR exp(confint(hqd1)) # KTC 95% PR # Hồi qui đa biến
hqa = glm( anxiety ~ factor(hutthuoc) + factor(khoa) + factor(namthu)+ factor(tutin) + (choo) + factor(phuongtien) + factor(internet)+ factor(ruou) + factor(kehoach)+ factor(tinhduc)+ factor(songthu)+factor(lyhon), family=poisson) # PR
summary(hqs)