BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------***------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
RỦI RO RỬA TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH
TOÁN QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
LÊ THANH HUYỀN
HÀ NỘI - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------***------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
RỦI RO RỬA TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH
TOÁN QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
Ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 8340201
Họ và tên học viên: Lê Thanh Huyền
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Nguyễn Thị Lan
Hà Nội - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng em. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2022
Tác giả
Lê Thanh Huyền
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, xây dựng đề cương, nghiên cứu đề tài: “Rủi ro
rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam”, em đã nhận được sự giúp
đỡ từ các thầy, cô giáo trường Đại học Ngoại thương Hà Nội để hoàn thành luận
văn này.
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban Giám hiệu,
Khoa Sau Đại học, Khoa Tài chính Ngân hàng, các thầy, cô giáo đã tham gia quản
lý, giảng dạy em trong suốt quá trình học tập nghiên cứu.
Đặc biệt, cho phép em được bày tỏ sự trân quý và biết ơn tới PGS. TS Nguyễn
Thị Lan – người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ về kiến thức, tài liệu và phương
pháp để em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Em đã nhận được sự hướng dẫn tận
tình, tâm huyết đến từ cô.
Mặc dù đã có nhiều sự cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, nhưng do
về mặt kiến thức và thời gian còn hạn chế nên luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót. Em
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và mọi người để luận văn
được hoàn thiện hơn.
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ .......................................................................................... vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................ viii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. ix
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG
RỦI RO RỬA TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ .......... 8
1.1. Tổng quan về rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ...................... 8
1.1.1. Tổng quan về rửa tiền ............................................................................... 8
1.1.2. Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế ........................................... 12
1.1.3. Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ................................ 15
1.2. Phòng chống Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ......... 20
1.2.1. Các Tổ chức quốc tế tham gia vào công tác phòng chống Rủi ro rửa tiền
trong hoạt động thanh toán quốc tế .................................................................. 20
1.2.2. Chuẩn mực quốc tế về phòng chống rửa tiền trong thanh toán quốc tế . 23
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phòng chống Rủi ro rửa tiền trong hoạt động
thanh toán quốc tế ............................................................................................. 24
1.3. Kinh nghiệm phòng chống Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán
quốc tế tại một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam ...................................................................................................................... 26
1.3.1. Kinh nghiệm phòng chống rủi ro rửa tiền tại một số quốc gia trên thế
giới .................................................................................................................... 26
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ....................................................... 28
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ........................................................................................ 30
iv
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG RỦI
RO RỬA TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2016-2021 ................................................................................ 31
2.1. Thực trạng rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt
Nam giai đoạn 2016-2021 ................................................................................... 31
2.1.1. Khái quát về tình hình rủi ro rửa tiền ..................................................... 31
2.1.2. Các dấu hiệu nghi ngờ rửa tiền ............................................................... 32
2.1.3. Các phương thức và thủ đoạn rửa tiền phổ biến trong hoạt động thanh
toán quốc tế tại Việt Nam ................................................................................. 38
2.1.4. Nguyên nhân của Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại
Việt Nam .......................................................................................................... 40
2.2. Thực trạng công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh
toán quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2016-2021 .................................................. 43
2.2.1. Khung pháp lý ........................................................................................ 43
2.2.2. Tổ chức thực hiện ................................................................................... 45
2.3. Đánh giá thực trạng về công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt
động thanh toán quốc tế tại Việt Nam giai đoạn 2016-2021. .......................... 51
2.3.1. Kết quả đạt được..................................................................................... 51
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG II ....................................................................................... 59
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN,
CỦNG CỐ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG RỦI RO RỬA TIỀN TRONG
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI ................................................................................................................ 60
3.1. Dự báo nguy cơ rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại
Việt Nam trong thời gian tới và những yêu cầu đặt ra đối với công tác phòng
chống rủi ro rửa tiền đối với Việt Nam ............................................................. 60
3.1.1. Dự báo nguy cơ rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại
Việt Nam trong thời gian tới ............................................................................ 60
v
3.1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với công tác phòng chống rủi ro rửa tiền đối
với Việt Nam trong thời gian tới ...................................................................... 61
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện, củng cố công tác phòng, chống rủi ro rửa
tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam. ................................... 61
3.2.1. Về việc tổ chức thực hiện tại NHNN ..................................................... 61
3.2.2. Về việc tổ chức thực hiện tại các NHTM ............................................... 64
3.3. Kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý .......................................................... 69
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 73
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê các phần mềm phòng chống rửa tiền tại các NHTM ............... 49
Bảng 2.2: Mức độ giám sát khách hàng theo phân loại rủi ro .................................. 50
vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Chuyển tiền ra và vào Việt Nam qua hệ thống NHTM từ năm 2016 –
2021 ........................................................................................................................... 31
Biểu đồ 2.2: Đối tượng thực hiện giao dịch từ năm 2016 - 2021 ............................. 32
Biểu đồ 2.3: Chuyển tiền ra nước ngoài qua hệ thống NHTM từ năm 2016 – 2021
................................................................................................................................... 33
Biểu đồ 2.4: Chuyển tiền ra nước ngoài giá trị lớn khác từ năm 2016 – 2021 ......... 35
Biểu đồ 2.5: Nhận tiền từ nước ngoài nghi ngờ liên quan đến lừa đảo, gian lận ...... 36
Biểu đồ 2.6: Nhận tiền từ nước ngoài giá trị lớn từ năm 2016-2021 ........................ 37
Biểu đồ 2.7: Khảo sát mức độ thực hiện hiệu quả công tác phòng chống rửa tiền ... 47
Biểu đồ 2.8: Khảo sát mức độ xuất hiện các giao dịch đáng ngờ tại các NHTM Việt
Nam ........................................................................................................................... 51
viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nguyên nghĩa tiếng Anh Nguyên nghĩa tiếng Việt Từ viết tắt
Agribank Vietnam Bank for Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Agriculture and Rural Development
AMLock Anti-money laundering Hệ thống phòng chống rửa tiền
lock
APG Asia/Pacific Group on Nhóm Châu Á – Thái Bình
money laundering Dương về chống rửa tiền
BIDV Joint Stock Commerial Bank for Investment and Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam
Development of Vietnam
FATF Financial Action Task Lực lượng đặc nhiệm tài chính
Force
FIU Đơn vị tình báo tài chính
IMF International Monetary Quỹ tiền tệ quốc tế
Fund
KYC Know your customer Nhận biết thông tin khách hàng
L/C Letter of credit Tín dụng chứng từ
Maybank Maybank Malayan Ngân hàng Malaysia
Banking Berhad
Ngân hàng Nhà nước NHNN
Ngân hàng Thương mại NHTM
Phòng chống rửa tiền PCRT
Rủi ro rửa tiền RRRT
Báo cáo giao dịch đáng ngờ STR
Tổ chức tín dụng TCTD
Tài trợ khủng bố TTKB
Đồng đô la Mỹ USD United States dollar
VPbank Vietnam Prosperity Joint Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Stock Commercial Bank Việt Nam Thịnh Vượng
ix
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Luận văn “Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam”
ngoài lời mở đầu, kết luận thì gồm 3 chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro rửa tiền và phòng chống rủi ro rửa tiền trong
hoạt động thanh toán quốc tế.
Trong chương 1, em đã nêu ra các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động rửa tiền
trong thanh toán quốc tế: Khái niệm, các thủ đoạn rửa tiền, hậu quả và nguyên nhân
của rủi ro rửa tiền, cơ sở pháp lý về hoạt động phòng chống rủi ro rửa tiền, nhân tố
tác động đến công tác phòng chống rủi ro rửa tiền cũng như kinh nghiệm phòng
chống rủi ro rửa tiền của các nước trên thế giới.
Chương 2: Thực trạng rủi ro rửa tiền và phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt
động thanh toán quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2016-2021.
Trong quá trình nghiên cứu, em nhận thấy rủi ro rửa tiền phát sinh chủ yếu từ
giao dịch chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam, tập trung vào nhóm đối tượng thanh
toán cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu . Từ đó, ở chương này, em tập trung
tìm hiểu về thực trạng rủi ro rửa tiền qua hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam
bao gồm những nội dung: tình hình hoạt động chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam,
các dấu hiệu nghi ngờ rửa tiền, xu hướng tội phạm, phương thức và thủ đoạn rửa
tiền, thực trạng công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán
quốc tế tại Việt Nam giai đoạn 2016-2021. Từ đó, có những đánh giá chung về hoạt
động phòng chống rủi ro rửa tiền tại Việt Nam trong những năm vừa qua.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, củng cố công tác phòng, chống
rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Trong chương này, em đã trình bày dự báo nguy cơ rủi ro rửa tiền và định
hướng hoạt động phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại
Việt Nam trong thời gian tới. Bên cạnh đó, trên cơ sở những hạn chế trong hoạt
động phòng chống rủi ro rửa tiền đã đánh giá trong chương 2, em đề xuất các giải
pháp cụ thể đối với hệ thống pháp luật phòng, chống rủi ro rửa tiền, tổ chức thực
hiện phòng chống rủi ro rửa tiền tại NHNN và các NHTM nhằm nâng cao hiệu quả
phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại các Việt Nam.
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, rửa tiền đã trở thành một vấn nạn nghiêm trọng mang tính quốc tế.
Hoạt động rửa tiền không những làm tăng tội phạm và tham nhũng, gây hậu quả xấu
đối với hoạt động thương mại quốc tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mà còn làm
suy yếu hệ thống tài chính và làm nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, phương thức, thủ đoạn rửa tiền ngày càng tinh vi, phức tạp và hoạt động
rửa tiền được mở rộng ở quy mô toàn cầu. Rửa tiền không chỉ ảnh hưởng tới mọi
mặt của đời sống kinh tế, chính trị mà còn đe dọa tới an ninh các quốc gia trong đó
có Việt Nam khi các dòng tiền này được tài trợ cho khủng bố.
Theo kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tài trợ khủng bố (NRA)
của Việt Nam giai đoạn 2012-2017, rủi ro rửa tiền của Việt Nam được đánh giá ở
mức độ “trung bình cao”, trong đó mức độ rủi ro rửa tiền trong lĩnh vựa ngân hàng
được đánh giá ở mức độ “cao”, đặc biệt là rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán
quốc tế. Hoạt động của tội phạm rửa tiền núp bóng thanh toán quốc tế diễn ra vô
cùng phức tạp, thủ đoạn tinh vi, có tổ chức khiến công tác kiểm soát, phát hiện ngày
càng khó khăn. Do đó, cần thiết phải thực hiện nghiên cứu về rủi ro rửa tiền trong
hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam nhằm tìm hiểu các dấu hiệu, phương
thức và thủ đoạn rửa tiền của đối tượng phạm tội để chủ động phòng ngừa và đấu
tranh với tội phạm rửa tiền.
2. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước
2.1 Nghiên cứu trong nước
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, từ năm 2015 đến nay, có một số
công trình nghiên cứu dưới hình thức Luận văn, luận văn liên quan đến rủi ro rửa
tiền và hoạt động phòng, chống rủi ro rửa tiền tại Việt Nam, được thông qua trong
một số năm gần đây, cụ thể như sau:
- Nghiên cứu của Nguyễn Văn Ngọc (2015) đã khái quát hóa được những khái
niệm, nội hàm chung nhất trong công tác phòng, chống rửa tiền, giới thiệu sơ bộ về
2
hệ thống phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam và trên thế giới, nêu kết quả đánh giá
của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) đối với Việt Nam
năm 2009, phân tích sơ lược những rủi ro rửa tiền có thể có đối với nền kinh tế Việt
Nam, thực trạng công tác phòng, chống rửa tiền, nêu những yếu kém và nguyên
nhân, đồng thời đề ra giải pháp cần thúc đẩy thực hiện nhằm củng cố hệ thống
phòng, chống rửa tiền cho tới năm 2020.
- Nghiên cứu của Nguyễn Hải Giang (2015) đã phân tích những tác động của
rửa tiền đến các ngân hàng thương mại, tập trung đánh giá thực trạng công tác
phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam trong giai đoạn 2010-
2013, việc tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa tiền và đề xuất các giải pháp
nhằm tăng cường năng lực phòng, chống rửa tiền qua ngân hàng.
- Nghiên cứu của Đinh Xuân Thảo ( 2018) đã chỉ ra một số điểm yếu trong
công tác phòng, chống rửa tiền tại các tổ chức tín dụng tại Việt Nam và đề xuất giải
pháp phòng, chống rửa tiền trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2016) đã tập trung phân tích sâu
những rủi ro rửa tiền gắn với hoạt động của thị trường chứng khoán, nêu rõ thực
trạng các mặt công tác phòng chống rửa tiền liên quan đến lĩnh vực chứng khoán
(Pháp lý, quản lý, thực thi pháp luật và hợp tác quốc tế) và đề xuất các giải pháp
tổng thể nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác phòng chống rửa tiền trong lĩnh
vực chứng khoán.
- Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2021) kế thừa nghiên cứu trước đó
vào năm 2016, tập trung vào những nội dung cốt lõi trong công tác phòng chống rửa
tiền kể từ năm 2014, số liệu chủ yếu dựa vào đánh giá của APG năm 2019, đã đưa
ra những đề xuất có tính thời sự, thiết thực và sát nhất với tình hình thực tiễn của
Việt Nam.
2.2 Nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu của Peter J Quick (1997) đã đề cập đến các tác động của hoạt
động rửa tiền, nó có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế thông qua các
phương thức, thủ đoạn đã được ghi nhận. Theo đó, các dữ liệu về quy mô rửa tiền
3
xuất hiện rất ít, các nhà chức trách ở Hoa Kỳ và Anh ước tính rằng số tiền đã được
tẩy rửa hàng năm trong hệ thống tài chính trên toàn thế giới khoảng 500 tỷUSD,
chiếm 2% GDP toàn cầu. Hơn nữa, tội phạm rửa tiền chính là nguyên nhân của các
biến thể của tiền tệ và nhu cầu tiền tệ trong nền công nghiệp của các quốc gia. Tác
giả đã nhấn mạnh rằng, hoạt động rửa tiền đe dọa đến hệ thống kinh tế và tài chính
ở nhiều quốc gia, và ảnh hưởng để phân phối thu nhập và các biến số kinh tế vĩ mô
bởi sự tích lũy số dư tài sản rửa tiền có khả năng gây bất ổn. Từ đó, ông chỉ ra một
số biện pháp kiểm soát tình hình như: quản lý ngoại hối, giám sát thận trọng, thu
thuế, báo cáo phân tích số liệu.
Nghiên cứu của Edwin Truman, Peter Reuter (2004) đã chỉ ra các đặc điểm,
quy mô của hoạt động rửa tiền, mô tả các chế độ phòng chống rửa tiền hiện nay và
những cố gắng của các tổ chức tài chính trên toàn thế giới để xây dựng một khung
đánh giá hiệu quả của các chế độ và sử dụng chúng để đánh giá hệ thống hoạt động
có hiệu quả không, từ đó đưa ra các đề xuất cải tiến. Có thể thấy, tác giả tập trung
nghiên cứu và đánh giá hoạt động rửa tiền trên phạm vi kinh tế vĩ mô toàn cầu, từ
đó đưa ra các hoạt động phòng chống rửa tiền mang tính chất trách nhiệm của các
cơ quan quản lý cấp cao.
Báo cáo của FATF (2018) nêu rõ nội dung nghiên cứu, cảnh báo và đánh giá
về những nguy cơ gắn liền với những kẻ rửa tiền chuyên nghiệp, không gắn với
những rủi ro được nhắc tới trong các báo cáo khác của FATF trước đây. Mục tiêu
của báo cáo là nhằm nêu những đặc điểm nhận dạng của những kẻ rửa tiền chuyên
nghiệp, tìm hiểu về vai trò, vị trí, chức năng của những người tham gia rửa tiền
chuyên nghiệp, tìm hiểu những cách thức mà những băng nhóm tội phạm hay khủng
bố sử dụng những kẻ rửa tiền chuyên nghiệp để rửa tiền và tài trợ khủng bố; nhận
diệm những phương thức, thủ đoạn rửa tiền chuyên nghiệp; xây dụng những tiêu
chí, dấu hiệu để các cơ quan chức năng có thể nhận biết được hoạt động rửa tiền
chuyên nghiệp và tiến tới soạn thảo những tài liệu hướng dẫn phòng ngừa, phát
hiện, năng chặn và xử lý hành vi rửa tiền mang tính chất chuyên nghiệp. Đây thực
sự là tài liệu hữu ích cho các cơ quan chức năng, các đối tượng báo cáo tham khảo
trong quá trình triển khai các biện pháp phòng chống rửa tiền tại đơn vị mình.
4
Nghiên cứu của Oliver Massmann (2017) nêu một vài nhận xét về tính hiệu
lực, hiệu quả của Luật Phòng, chống rửa tiền và một số nội dung liên quan tới hoạt
động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Tác giả cũng sơ lược về công tác
phòng,chống tham nhũng tại Việt Nam, nêu rõ Việt Nam đứng thứ 111/168 nước
trong Bảng xếp hạng về chỉ số tham nhũng năm 2015.
Nghiên cứu của Michael Tatarski (2019) sơ lược về thực trạng phòng, chống
rửa tiền tại Việt Nam sau khi ra khỏi danh sách rà soát cậu FATF năm 2014 và
những thách thức đối với Việt Nam trong việc thực hiện Bộ Luật Hình sự mới cũng
như trước đợt đánh giá của Nhóm Châu Á- Thái Bình Dương về chống rửa tiền
(APG) năm 2019.
2.3 Lý thuyết có tính kế thừa và khoảng trống nghiên cứu
2.3.1 Lý thuyết có tính kế thừa
Những lý thuyết có tính kế thừa như: các khái niệm về rửa tiền, rủi ro rửa tiền
trong nền kinh tế, chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền,…Từ đó, tác giả thu
thập số liệu và phân tích thực trạng, đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện, củng cố
công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt
Nam thời gian tới.
2.3.2 Khoảng trống nghiên cứu
Cho đến nay, chỉ có một vài ấn phẩm nghiên cứu chuyên sâu về một vài khía
cạnh liên quan đến rủi ro rửa tiền và chống rửa tiền tại Việt Nam nhưng hầu hết
được phát hành trước năm 2015. Những ấn phẩm mới phát hành phần lớn là những
bài báo, những báo cáo, trong đó chỉ một số ít đề cập tới Việt Nam nhưng không
toàn diện. Tuy nhiên, những nghiên cứu về các phương thức, thủ đoạn rửa tiền trong
lĩnh vực ngân hàng tại một quốc gia riêng lẻ hay trên toàn cầu thì hết sức đa dạng,
nhưng bằng các thứ tiếng khác nhau và cũng chưa được cụ thể hóa trong bối cảnh
Việt Nam bởi bất cứ cơ quan chức năng nào.
5
3. Mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là phân tích nguy cơ rủi ro rửa tiền trong hoạt động
thanh toán quốc tế ở Việt Nam, từ đó đưa ra (i) Cảnh báo tới các đối tượng là tổ
chức tín dụng để phát hiện, ngăn chặn và báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến
hoạt động chuyển tiền quốc tế bất hợp pháp ra/vào Việt Nam; (ii) Dự báo về xu
hướng, nguy cơ rửa tiền thông qua các hoạt động thanh toán quốc tế; (iii) Đề xuất
giải pháp hoàn thiện, củng cố công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động
thanh toán quốc tế ở Việt Nam.
3.2 Câu hỏi nghiên cứu
- Khái niệm rủi ro rửa tiền?
- Nguy cơ rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam?
- Thực trạng công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán
quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2016-2021?
- Giải pháp hoàn thiện, củng cố công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong
hoạt động thanh toán quốc tế?
3.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu đề ra, Luận văn đặt ra những nhiệm vụ cụ thể
như sau:
Một là, Luận văn sẽ trình bày tổng quan các vấn đề liên quan đến rủi ro rửa
tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế và công tác phòng, chống rủi ro rửa tiền của
các quốc gia trên thế giới đồng thời đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Hai là, Luận văn sẽ phân tích thực trạng rủi ro rửa tiền và phòng, chống rủi ro
rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2016-2021.
Ba là, Luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, củng cố công
tác phòng, chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam
trong thời gian tới.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh
toán quốc tế và công tác phòng, chống rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: luận văn nghiên cứu về rủi ro rửa tiền và công tác
phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: luận văn sử dụng số liệu nghiên cứu trong giai đoạn
2016-2021.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Luận văn sẽ thu thập dữ liệu từ các nguồn đáng tin cậy sau đây:
- Thông tin ở các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: Cơ quan Thanh tra, giám
sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân, Tổng cục
Hai quan. - Báo, tạp chí: Một số báo, tạp chí chuyên ngành như tạp chí tài chính
(Học viện Tài chính), Tạp chí Ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước).
- Mạng internet: Tìm hiểu thông qua một số trang web như:
http:www.sbv.gov.vn (trang web của Ngân hàng Nhà nước). Tìm hiểu một số thông
tin trên một số trang báo mạng như vnexpress.net, laodong.com,
thoibaonganhang.vn. Thông qua các trang web này để thu thập các dữ liệu về thực
trạng phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng sẽ tìm hiểu
về quy chế phòng chống rửa tiền thông qua thông tin trên website của một số ngân
hàng thương mại Việt Nam.
5.1 Phương pháp phân tích
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp và sử dụng nguồn dữ liệu
thứ cấp để phân tích định tính.
7
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục thì nội dung
chính của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro rửa tiền và phòng chống rủi ro rửa tiền
trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Chương 2: Thực trạng rủi ro rửa tiền và phòng chống rủi ro rửa tiền trong
hoạt động thanh toán quốc tế ở việt nam giai đoạn 2016-2021.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, củng cố công tác phòng chống
rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại việt nam trong thời gian tới.
8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG
RỦI RO RỬA TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế
1.1.1. Tổng quan về rửa tiền
1.1.1.1. Khái niệm rửa tiền
Theo Liên hiệp Quốc dựa vào Công ước Vienna (1998) và Công ước Palermo
(2000) được nhiều quốc gia đồng thuận: Rửa tiền là việc sử dụng (nghĩa là với bất
kỳ hình thức nào của các hành động cho và nhận) bất cứ tài sản nào được cho là có
nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của phạm tội mà có hoặc từ hoạt
động che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội thoát khỏi pháp luật.
Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): Rửa tiền là quá trình chuyển đổi
qua nhiều giai đoạn tiền kiếm được từ hoạt động bất hợp pháp hoặc tội phạm để nó
có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp. Rửa tiền là một tội ác thứ hai của hành
động tội phạm, trong đó người phạm tội hoạt động dưới hình thức một tổ chức và có
kế hoạch hợp pháp hóa tiền tội phạm vào hệ thống tài chính. Với mối đe dọa bị thu
hồi số tiền từ các hoạt động phạm pháp (buôn bán ma túy, buôn bán vũ khí, tham
nhũng, gian lận), đặt những tên tội phạm trong một vị trí để tìm mọi cách khác nhau
hợp pháp hóa tội phạm tiền "bẩn" (Svetlana Nikoloska, Ivica Simonovski, 2012).
Theo Luật phòng chống rửa tiền ngày 18 tháng 6 năm 2012 của Việt Nam:
Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản
do phạm tội mà có, bao gồm hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự như trợ
giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm
pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có; chiếm hữu tài
sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp
pháp hóa nguồn gốc tài sản.
Như vậy, có thể hiểu rửa tiền là quá trình được thực hiện nhằm che giấu các
nguồn thu bất chính từ các hoạt động phạm tội. Đây được xem là loại tội phạm phái
sinh bởi vì hành vi rửa tiền được thực hiện với mục đích tẩy rửa nguồn gốc bất hợp
pháp của các khoản thu có được do các hành vi tội phạm mà có. Trong đó, các hành
9
vi tội phạm cụ thể như hành vi buôn bán ma túy, khủng bố, tham nhũng và hối lộ,
buôn lậu hàng hóa và vũ khí, buôn người, trộm cắp…
1.1.1.2. Các hình thức và thủ đoạn rửa tiền phổ biến hiện nay
Dựa trên công bố của Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội năm 2022
nhằm góp ý vào dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), tác giả đã rút ra được 7
thủ đoạn rửa tiền phổ biến hiện nay như sau:
Thứ nhất, thành lập các công ty “vỏ bọc” mua bán khống hàng hóa.
Công ty “bình phong” hay còn gọi là công ty “vỏ bọc” là một thực thể được
thành lập hợp pháp, nhưng hoạt động của công ty không nhằm thực hiện các chức
năng vốn có mà nhằm mục đích rửa các nguồn tiền bất chính, thông qua các hợp
đồng khống tạm nhập tái xuất hàng hóa; hoặc khai báo nhiều hoặc ít hơn số lượng
hàng hóa thực tế được vận chuyển. Thậm chí, bên xuất khẩu có thể không chuyển
bất kỳ hàng hóa nào lên tàu nhưng tội phạm thông đồng với các bên có liên quan
(vận chuyển, hải quan, nhà nhập khẩu...), để có được bộ hồ sơ chứng từ khống đầy
đủ thủ tục liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa.
Thứ hai, rút “tiền bẩn” qua nền tảng đánh bạc trực tuyến.
Hiện nay trên mạng internet vẫn tồn tại hàng loạt sòng bạc trực tuyến núp
bóng các trò chơi điện tử. Người chơi tại tổ chức casino không dùng tiền thật để
chơi mà đổi tiền thật lấy thẻ đánh bạc để chơi, khi kết thúc họ có thể đổi thẻ đánh
bạc lấy tiền mặt hoặc séc. Lợi dụng cơ chế này, tội phạm rửa tiền dùng tiền mặt có
được từ hoạt động bất hợp pháp để mua một số lượng lớn thẻ đánh bạc, nhưng chỉ
đánh bạc hoặc đặt cược một số tiền không đáng kể. Sau đó trả lại thẻ và đề nghị
được nhận lại tiền dưới dạng séc và tuyên bố đó là tiền được bạc. Hoạt động của các
đối tượng này rất tinh vi khi biết cách lợi dụng các công nghệ tin học tiên tiến ẩn
mình trên mạng, rất khó phát hiện. Với công nghệ điện toán đám mây, không gian
mạng “không có biên giới” vậy nên hành vi tổ chức đánh bạc trực tuyến càng trở
nên dễ dàng, thu hút cực nhiều người tham gia và có thể ở bất kỳ đâu dẫn tới việc
xác minh, xử lý, điều tra từng cá nhân cũng không khả thi. Ngoài ra, việc đặt máy
chủ ở nước ngoài còn khiến cho những kẻ cầm đầu đường dây tổ chức dễ dàng hơn
10
trong việc rửa tiền. Ước tính hàng triệu USD đã chảy ra nước ngoài thông qua việc
đánh bạc hay cá cược qua mạng.
Thứ ba, núp bóng các dự án gây quỹ, làm từ thiện, đi du lịch.
Năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định 70/2014/NĐ-CP về hướng dẫn thực
hiện Pháp lệnh ngoại hối. Nghị định này không còn quy định về giới hạn mức
chuyển ngoại tệ của người cư trú là công dân Việt Nam cho thân nhân ở nước ngoài
(thay vì chỉ cho phép một công dân Việt Nam có nhu cầu trợ cấp cho thân nhân ở
nước ngoài được phép chuyển, mang ngoại tệ tối đa không quá 5.000 USD cho một
người hưởng trợ cấp - theo quy định tại Quyết định 1437/2001/QĐ-NHNN về mua,
chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài của người cư trú là công dân Việt Nam).
Thông qua nền tảng trực tuyến, bọn tội phạm che giấu mục đích rửa tiền bất hợp
pháp với mạng lưới gây quỹ qua mạng hợp pháp hoặc đi du lịch.
Thủ đoạn của bọn tội phạm là thiết lập các dự án gây quỹ qua mạng giả trên
nền tảng để gây quỹ từ các nhà đầu tư, theo đó các nhà đầu tư sẽ thu tiền thông qua
thanh toán trực tuyến. Hoặc, tội phạm cũng sử dụng phương thức gây quỹ qua mạng
xuyên biên giới như những kênh tài trợ khủng bố mới. Những kẻ khủng bố hoặc
những người ủng hộ có thể sử dụng tên giả hoặc địa chỉ IP đăng ký giả mạo để dựng
nên một dự án mạng lưới gây quỹ qua mạng. Bằng cách này, tội phạm có thể thu
hút được những nguồn tiền xuyên biên giới.
Thứ tư, chuyển tiền thừa kế ra nước ngoài cho người hưởng thừa kế.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc có
quyền chỉ định người thừa kế không phân biệt người thừa kế là người thân trong gia
đình hay người ngoài, thậm chí kể cả người ngoài nước. Tuy nhiên, thừa kế chỉ phát
sinh khi người để lại di sản thừa kế chết hoặc tòa án ra quyết định tuyên bố một
người là đã chết. Như vậy muốn biến tài sản “sống” thành di sản thừa kế, để “lách”
vào điều kiện chuyển tiền cho người hưởng thừa kế ở nước ngoài, người có tiền cần
phải chuyển dịch tài sản cho một người khác, mà người đó sắp qua đời. Để giảm rủi
ro, đối tượng để người có tiền gửi gắm chuyển dịch quyền sở hữu khối tài sản
11
(thông qua hợp đồng tặng cho hoặc chuyển nhượng) sẽ là người thân, họ hàng mà
họ tin tưởng; hoặc là người ngoài nhưng sẽ được ràng buộc chặt chẽ bỡi một thỏa
thuận dân sự có liên quan đến quyền lợi người thân của người sắp chết.
Thứ năm, nhờ người thân mua, chuyển nhượng hoặc tặng cho bất động sản.
Hoạt động rửa tiền thông qua bất động sản là một trong những kênh đầu tư mà
tội phạm rửa tiền dễ khai thác vì so với các thị trường khác thì đầu tư bất động sản
tương đối thuận lợi và không có quá nhiều thủ tục ràng buộc khi tham gia thị
trường. Bất động sản là lĩnh vực thu hút được nhiều nguồn tiền đầu tư có giá trị lớn,
các giao dịch mua bán, chuyển nhượng bất động sản có thể thực hiện bằng tiền mặt
hoặc chuyển khoản và không thông qua sàn giao dịch bất động sản nên rất khó cho
các cơ quan chức năng kiểm tra, xác định nguồn gốc của tiền.
Để rửa tiền, các đối tượng phạm tội thường nhờ người thân trong gia đình
mua, chuyển nhượng, cho tặng bất động sản. Việc kinh doanh dịch vụ quản lý bất
động sản, môi giới bất động sản, sàn giao dịch bất động sản cũng gặp phải nhiều
thách thức trong việc phòng, chống rửa tiền. Trong đó, việc thanh toán tiền mặt đối
với các giao dịch bất động sản tại Việt Nam hiện nay khá phổ biến và giao dịch tự
phát không qua sàn giao dịch; số lượng giao dịch lớn và giá trị giao dịch cao; chưa
có quy định, ràng buộc pháp luật về giao dịch giá trị lớn phải thực hiện qua hệ
thống ngân hàng… đang làm gia tăng nguy cơ rửa tiền qua lĩnh vực này.
Thứ sáu, thủ đoạn mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực chứng khoán, tội phạm rửa tiền ở thị
trường chứng khoán ngày càng gia tăng bởi hiện nay pháp luật chưa có những quy
định chặt chẽ về kiểm soát nguồn gốc tài chính và chưa có pháp luật về rửa tiền. Vì
vậy có thể nói thị trường chứng khoán là mảnh đất màu mỡ để các tội phạm có thể
lợi dụng để thực hiện các hành vi rửa tiền của mình.
Để thực hiện hành vi rửa “tiền bẩn” thành “tiền sạch”, bọn tội phạm sẽ đưa
tiền mặt bất hợp pháp đến các trung tâm giao dịch chứng khoán để mua cổ phiếu
chứng khoán, trái phiếu. Thủ đoạn của tội phạm là chia nhỏ đồng tiền bằng cách
mua nhiều cổ phiếu khác nhau, sau đó gom các cổ phiếu lại thành một khoản lớn, để
12
tránh sự chú ý và nghi ngờ của cơ quan quản lý. Thậm chí, tội phạm còn mua cả cổ
phần giả tạo do chính các công ty bình phong phát hành. Bởi chúng thường không
quan tâm đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp khi lựa chọn để đầu tư, do
đó, chúng mua cổ phần chứng khoán bằng mọi giá.
Rửa tiền thông qua chứng khoán gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của quốc gia. Với những nước mới phát triển
hoặc đang trên đà phát triển vấn nạn rửa tiền có thể làm ảnh hưởng đến ngân sách
của Chính phủ, khiến nguồn ngân sách bị thất thoát từ nguồn thuế dẫn tới tình trạng
Chính phủ mất kiểm soát các chính sách kinh tế.
Thứ bảy, thông qua kinh doanh, giao dịch mua bán tiền ảo, tài sản ảo.
Hiện nay, nhiều đồng tiền ảo hiện được giao dịch rộng rãi trên các sàn giao
dịch tiền ảo như một loại “chứng khoán”, với việc gia tăng giá trị nhanh chóng
trong thời gian qua, các đồng tiền ảo đã thu hút sự quan tâm của hàng triệu nhà đầu
tư trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Với lợi thế dễ dàng trao đổi trên phạm
vi toàn cầu nên tiền ảo là một kênh hữu hiệu để tội phạm lợi dụng để rửa tiền khi
chúng có thể dễ dàng chuyển đổi các khoản tiền thu được thông qua những hoạt
động mua bán, trao đổi đồng tiền ảo ở các quốc gia khác nhau.
1.1.2. Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế
1.1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế
Việc trao đổi các hoạt động kinh tế và thương mại giữa các quốc gia làm phát
sinh các khoản thu và chi bằng tiền của nước này đối với một nước khác trong từng
giao dịch hoặc trong từng định kỳ chi trả do hai nước quy định. Trong mối quan hệ
chi trả này, các quốc gia phải cùng nhau quy định những yếu tố cấu thành cơ chế
thanh toán giữa các quốc gia như quy định về chủ thể tham gia thanh toán, lựa
chọn tiền tệ, các công cụ và phương thức đòi và hoặc chi trả tiền tệ. Tổng hợp các
yếu tố cấu thành cơ chế đó tạo thành thanh toán quốc tế giữa các quốc gia. (Đinh
Xuân Trình, 2006)
Những hoạt động thanh toán nào có yếu tố ngoại quốc thì gọi là hoạt động
thanh toán quốc tế, còn ngược lại thì gọi là hoạt động thanh toán quốc nội. Yếu tố
13
ngoại quốc của một hoạt động thanh toán thể hiện trên các thành tố cụ thể sau:
- Chủ thể tham gia thanh toán là những người cư trú và người phi cư trú,
không phân biệt là chung quốc tịch hay khác quốc tịch hoặc giữa những người phi
cư trú với nhau. Luật quản lý ngoại hối của mỗi nước đều có định nghĩa người cư
trú và phi cư trú.
- Tiền tệ thanh toán được chuyển khoản từ tài khoản người phi cư trú sang tài
khoản người cư trú hoặc giữa tài khoản 2 người phi cư trú với nhau không kể tài
khoản đó mở ở một ngân hàng hay ở hai ngân hàng ở trong cùng một quốc gia hay
ở hai quốc gia khác nhau.
- Tiền tệ được sử dụng trong thanh toán quốc tế là ngoại tệ đối với một trong
hai nước hoặc có thể là nội tệ có nguồn gốc ngoại tệ.
1.1.2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế
Trong thanh toán quốc tế, việc các bên tham gia lựa chọn phương thức thanh
toán là một điều kiện rất quan trọng. phương thức thanh toán tức là chỉ người bán
dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Tuỳ theo những
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, các bên tham gia trong thương mại quốc tế sẽ lựa
chọn và thoả thuận với nhau, cùng sử dụng một phương thức thanh toán thích hợp
trên nguyên tắc cùng có lợi, người bán thu được tiền nhanh và đầy đủ, người mua
nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn. Để phù hợp với tính đa dạng và
phong phú của mối quan hệ thương mại và thanh toán quốc tế, người ta đã thiết lập
nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Các phương thức thanh toán quốc tế phổ
biến hiện nay gồm có: phương thức chuyển tiền (Remittance), phương thức nhờ thu
(Collection) và phương thức tín dụng chứng từ (Letter of Credit).
- Phương thức chuyển tiền (Remitttance): là phương thức mà trong đó một
khách hàng của ngân hàng (người yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển
một số tiền nhất định cho người thụ hưởng ở một địa điểm nhất định, với hình thức
chuyển tiền trả sau, người xuất khẩu sẽ đứng vào vị trí bất lợi trong trường hợp
hàng hóa đã chuyển đi mà vì lý do nào đó người nhập khẩu chậm lập lệnh chuyển
tiền gửi cho ngân hàng dẫn đến người xuất khẩu chậm nhận được tiền thanh toán.
14
Và ngược lại, với phương thức chuyển tiền trả trước, rủi ro sẽ chuyển sang cho nhà
nhập khẩu ở chỗ người nhập khẩu đã chuyển tiền đi thanh toán cho người xuất khẩu
rồi nhưng chưa nhận được hàng vì nhà xuất khẩu chậm trể giao hàng.
- Phương thức nhờ thu (Collection): để khắc phục những yếu điểm của
phương thức chuyển tiền trả sau, phương thức nhờ thu điển hình là phương thức
nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ ra đời nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu.
Ví dụ, nhà xuất khẩu A sau khi giao hàng cho nhà nhập khẩu B đã ủy thác cho ngân
hàng của mình thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu B không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà
còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa gửi kèm theo với điều kiện nếu nhà nhập khẩu
thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ cho người
nhập khẩu B nhận hàng hóa, tuy nhiên từ ví dụ trên cho chúng ta thấy rằng, thông
qua bộ chứng từ ngân hàng mới chỉ khống chế được hàng hóa chứ chưa hẳn chắc
chắn khống chế được việc trả tiền đối với người nhập khẩu. Trong tình huống giá
hàng hóa tại thời điểm hiện tại giảm dẫn đến người nhập khẩu không tha thiết với
việc nhận hàng và, do đó, việc khống chế bộ chứng từ hàng hóa trở nên vô nghĩa
đối với họ. Khi đó rất có thể họ sẽ “cố tình” kéo dài thời gian thanh toán để gây áp
lực đối với người xuất khẩu.
- Phương thức tín dụng chứng từ - Letter of Credit (L/C): L/C được hiểu là
văn bản do ngân hàng nhập khẩu phát hành cam kết trả tiền cho người xuất khẩu
sau khi người này xuất trình bộ chứng từ hợp lệ. Do đó L/C này được gọi là L/C
thương mại hay L/C chứng từ. L/C được lập trên cơ sở các điều khoản trong hợp
đồng nhưng hoàn toàn độc lập với hợp đồng.
1.1.2.3. Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Tính đến hết năm 2021, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến
lược toàn diện, có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160
nước và 70 vùng lãnh thổ. Với 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam
đang bước qua cánh cửa lớn, đa chiều để định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng, đầy đủ và
hiệu quả hơn, đồng thời phát triển thương mại xuất nhập khẩu lên tầm cao mới với
15
trị giá ngày càng cao.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
năm 2021 của Việt Nam đạt 668,54 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt
336,31 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 332,23 tỷ USD. 3 tháng đầu năm 2022,
hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa có sự phục hồi mạnh mẽ từ sau những ảnh
hưởng của đại dịch với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 176,35 tỷ
USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 12,9%, nhập
khẩu tăng 15,9%. Trị giá của các giao dịch thương mại quốc tế ngày càng tăng cao
kéo theo nhu cầu đa dạng hóa và tiện lợi hóa các hình thức thanh toán cho các giao
dịch xuất - nhập khẩu.
Trong những năm gần đây, các cơ quan chức năng trong nước và thương vụ
nước ngoài liên tục cảnh báo về hiện tượng lừa đảo trong giao dịch thương mại
quốc tế mà không ít doanh nghiệp Việt Nam đã từng mắc phải. Đặc biệt, trong bối
cảnh các thị trường đang bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19, tình trạng lừa
đảo trong giao dịch thương mại quốc tế càng có xu hướng tăng lên với thủ đoạn tinh
vi, khó phát hiện. Nhất là đối với nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam
do chưa nắm vững các kiến thức và hiểu biết pháp lý về thanh toán thương mại
quốc tế. Các rủi ro trong thanh toán thương mại quốc tế cũng khá đa dạng với các
điển hình như: Rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý,
rủi ro tỷ giá hối đoái…
1.1.3. Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế
1.1.3.1. Khái niệm rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế
Rủi ro nói chung là tình huống có nguy cơ gây nên những tổn thất mà cá nhân
hoặc tổ chức không thể tiên đoán được. Rửa tiền là là hoạt động nhằm chuyển tiền,
tài sản phi pháp thành tiền, tài sản hợp pháp để lưu hành và sử dụng. Vậy rủi ro rửa
tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế được hiểu là nguy cơ tội phạm lợi dụng các
hoạt động thanh toán quốc tế để chuyển tiền, tài sản phi pháp thành hợp pháp để lưu
hành và sử dụng với mục đích bất chính.
Điều 4 Dự thảo lần 1 Nghị định hướng dẫn một số điều của Luật phòng, chống
16
rửa tiền năm 2013 quy định rằng nguy cơ rửa tiền bao gồm nguy cơ rửa tiền trong
nước và nguy cơ rửa tiền xuyên biên giới. Trong đó, nguy cơ rửa tiền xuyên biên
giới qua hoạt động thanh toán quốc tế được xác định bởi các thông tin, dữ liệu sau
chủ yếu như: số lượng các vụ việc rửa tiền và tội phạm nguồn phổ biến của tội rửa
tiền xuyên biên giới được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử; số tiền, tài sản bị kê
biên, phong tỏa, tịch thu; số lượng các báo cáo giao dịch đáng ngờ nhận được và
chuyển giao tới cục PCRT;…
1.1.3.2. Các phương thức và thủ đoạn rửa tiền phổ biến trong hoạt động thanh
toán quốc tế
- Phương thức ứng trước tiền hàng (advance payment): khi chuyển trả tiền
ứng trước, nhà nhập khẩu được ngân hàng yêu cầu cung cấp các chứng từ: lệnh
chuyển tiền, bản sao hợp đồng nhập khẩu hàng hóa/dịch vụ và giấy cam kết bổ sung
chứng từ gồm bộ chứng từ hàng nhập và tờ khai hải quan tối đa 30 ngày sau khi
nhận hàng. Kẽ hở của phương thức này chính là “giấy cam kết bổ sung chứng từ”.
Tội phạm dưới vỏ bọc của nhà nhập khẩu có thể cấu kết với đối tác xuất khẩu ở
nước ngoài (thực tế là đồng bọn của chúng) ký kết hợp đồng nhập khẩu với điều
kiện thanh toán ứng trước tiền hàng và mặc dù có cam kết sẽ bổ sung cho ngân hàng
chuyển tiền bộ chứng từ hàng nhập và tờ khai hải quan nhưng sau khi ngân hàng
thực hiện chuyển tiền thì nhà nhập khẩu không thể cung cấp được chứng từ theo
quy định. Ngân hàng có quyền từ chối tiếp tục phục vụ nhà nhập khẩu chuyển tiền
lần tiếp theo nếu nhà nhập khẩu không thể hoàn thiện chứng từ theo quy định. Tuy
nhiên khi đó tội phạm sẽ chuyển sang giao dịch tại ngân hàng khác.
- Phương thức nhờ thu chứng từ: ngân hàng thu hộ (collecting bank) thực hiện
thanh toán theo chỉ thị của ngân hàng chuyển chứng từ và trên cơ sở bộ chứng từ
nhờ thu và yêu cầu nhà nhập khẩu cam kết sẽ bổ sung tờ khai hải quan sau khi nhận
hàng nên tội phạm rửa tiền có thể lợi dụng kẽ hở này để rửa tiền bằng cách cấu kết
với đồng bọn ở nước ngoài dưới vỏ bọc của nhà xuất khẩu xuất trình những bộ
chứng từ nhờ thu giả mạo. Để tránh bị ngân hàng nghi ngờ, tội phạm rửa tiền
thường giả mạo những bộ chứng từ nhờ thu có giá trị nhỏ vài chục ngàn USD trở lại
nhưng thường xuyên lặp lại với một vài đối tác xuất khẩu truyền thống.
17
- Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (Letter of Credit): ngân hàng phát
hành thư tín dụng thực hiện thanh toán khi nhận được chứng từ phù hợp với các
điều kiện và điều khoản của thư tín dụng và yêu cầu khách hàng cam kết cung cấp
bổ sung tờ khai hải quan sau khi nhận hàng. Lợi dụng kẽ hở này, tội phạm rửa tiền
vẫn có thể cấu kết với nhau để thực hiện những giao dịch “ma” và xuất trình những
bộ chứng từ giả mạo dù chứng từ có phù hợp hay không phù hợp với các điều kiện
và điều khoản của thư tín dụng. Trong các phương thức thanh toán, thư tín dụng là
công cụ được tội phạm rửa tiền ưa thích sử dụng nhất là vì có thể thực hiện những
giao dịch “ma” với giá trị hàng triệu USD ít bị nghi ngờ và có thể qua mặt cả ngân
hàng và cơ quan pháp luật. Thủ thuật xuất trình chứng từ giả mạo theo thư tín dụng
để rửa tiền hoặc lừa đảo các ngân hàng tài trợ khá phổ biến trên thế giới, nổi bật
nhất là vụ Solo Industries năm 1999 đã khiến nhiều ngân hàng lớn bị lừa từ vài chục
triệu đến hàng trăm triệu USD. Một trong những yếu tố hấp dẫn của thư tín dụng
đối với tội phạm rửa tiền là ngân hàng chỉ căn cứ vào chứng từ chứ không căn cứ
vào hàng hóa hay dịch vụ mà chứng từ có liên quan (Điều 4 UCP 600), tức là ngân
hàng sẽ thanh toán khi nhận được chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản
của thư tín dụng, chứ không chờ khi hàng hóa đến rồi mới thanh toán. Ngân hàng
cũng không chịu trách nhiệm về sự giả mạo của chứng từ (Điều 34 UCP 600).
1.1.3.3. Hậu quả của rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế
Theo nghiên cứu của Paul Allan Schott (2007), rửa tiền nói chung và rửa tiền
qua hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng gây ra nhiều hậu quả kinh tế và xã hội
nghiêm trọng đối với các nước đang phát triển, cụ thể như sau:
Một là, gia tăng tội phạm và tham nhũng. Có thể nói, việc rửa tiền thành công
đồng nghĩa với việc các hoạt động phạm tội có thể sinh lợi và mang lại khoản lợi
nhuận khổng lồ cho tội phạm. Do đó, một đất nước còn được xem là nơi trú ẩn an
toàn cho hoạt động rửa tiền thì khi đó vẫn còn có nhiều khả năng nước đó có sức lôi
cuốn tội phạm và thúc đẩy tham nhũng. Nếu hoạt động rửa tiền trở nên phổ biến tại
một quốc gia, thì sẽ tạo ra nhiều tội phạm và tham nhũng hơn. Điều này cũng làm
gia tăng tình trạng sử dụng hối lộ để mở những cửa ngõ quan trọng cho thành công
của những nỗ lực rửa tiền.
18
Hai là, tác động xấu đến mối quan hệ quốc tế và đầu tư nước ngoài. Nếu một
quốc gia vướng phải tai tiếng về một nơi ẩn náu an toàn cho hoạt động rửa tiền thì
cũng gây ra ảnh hưởng bất lợi đáng kể cho sự phát triển của quốc gia đó. Các tổ
chức tài chính nước ngoài có thể quyết định hạn chế các giao dịch của mình với
những tổ chức là nơi ẩn náu an toàn cho rửa tiền phi pháp; yêu cầu những giao dịch
phải qua sự kiểm soát chặt chẽ, gắt gao hơn, khiến chi phí các giao dịch gia tăng.
Những doanh nghiệp hợp pháp hoạt động trong quốc gia lỏng lẻo các tiêu chuẩn về
phòng, chống rửa tiền cũng sẽ bị giảm khả năng tiếp cận thị trường thế giới hoặc
phải tiếp cận với chi phí đắt đỏ hơn do phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn.
Ba là, làm suy yếu các tổ chức tài chính. Rửa tiền gây nguy hại bằng nhiều
cách cho sự lành mạnh khu vực tài chính của một quốc gia cũng như sự ổn định của
mỗi tổ chức tài chính. Những hậu quả tiêu cực tác động đến các tổ chức tài chính
được coi là rủi ro về mặt uy tín, nghiệp vụ, pháp lý. Mỗi rủi ro đều gây ra những chi
phí cụ thể như mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi, những vấn đề về tính thanh
khoản do việc rút tiền gây ra, cắt đứt các cơ sở ngân hàng đại lý, các chi phí điều tra
và tiền phạt, thu giữ tài sản, tổn thất cho vay, giảm giá trị cổ phiếu của các tổ chức
tài chính.
1.1.3.4. Nguyên nhân của rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế
Một là, hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền còn chưa đầy đủ.
Rửa tiền là một vấn nạn mang tính toàn cầu. Tội phạm rửa tiền thường lợi
dụng những sơ hở trong các quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành
vi phạm pháp. Do đó, đầu tiên phải kể đến là hệ thống tài chính tiền tệ đang trong
giai đoạn phát triển nên các quy định trong cơ chế giám sát từ phía các tổ chức tài
chính còn lỏng lẻo. Đây chính là một trong những nguyên nhân tạo cơ hội cho hoạt
động rửa tiền qua hệ thống NHTM
Hai là, bộ máy tổ chức về phòng chống rủi ro rửa tiền còn hạn chế.
- Về công tác quản lý: NHNN có cơ quan đầu mối về phòng chống rủi ro rửa
tiền là Cục Phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên, hoạt động của Cục Phòng, chống rửa
tiền vẫn còn hạn chế, chưa thực sự hiệu quả.
19
- Về phía NHTM: thiếu cán bộ có chuyên môn về lĩnh vực rửa tiền, hệ thống
công nghệ thông tin còn khá lạc hậu và quy trình về phòng chống rửa tiền còn chưa
bài bản. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thường phải đối
mặt với nhiều rủi ro. Do vậy, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát,
kiểm toán nội bộ thực sự chặt chẽ. Tuy nhiên, phần lớn các ngân hàng còn thiếu
hoặc chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng các quy trình giám sát về phòng
chống rửa tiền.
Ba là, một số quy định về thanh toán tạo thuận lợi cho hoạt động rửa tiền.
Chuyển tiền (Remittance) có thể coi là phương thức rửa tiền đơn giản nhất vì bọn
tội phạm chỉ cần ra ngân hàng làm chứng từ chuyển tiền là có thể dễ dàng thực hiện
hành vi phạm pháp của chúng.
Tín dụng chứng từ (L/C) là một trong những công cụ được tội phạm rửa tiền
ưa thích sử dụng, là vì các giao dịch “ma” thanh toán bằng hình thức này ít bị nghi
ngờ và có thể qua mặt ngân hàng và cơ quan pháp luật. Một trong những yếu tố hấp
dẫn của L/C là “các ngân hàng giao dịch trên cơ sở chứng từ chứ không phải bằng
hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác có liên quan đến chứng từ”.
Bên cạnh việc rửa tiền thông qua các giao dịch “ma”, tội phạm còn thực hiện
rửa tiền thông qua những giao dịch có thật, nhưng tinh vi hơn, chúng hạ giá hoặc
nâng giá trị thật của hàng hóa. Khoản chênh lệch giữa giá thực tế và giá nhập khẩu
chính là khoản tiền phi pháp mà bọn tội phạm muốn tẩy rửa.
Bốn là, công tác triển khai thực hiện các quy định quản lý ngoại hối về kiểm
tra, kiểm soát chứng từ của NHTM còn một số bất cập, chưa đảm bảo kiểm soát
chặt chẽ việc chuyển tiền đúng mục đích theo quy định của pháp luật.
Về cơ bản các ngân hàng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về
kiểm tra, kiểm soát chứng từ, theo đó đã xây dựng quy định nội bộ về quy trình
nghiệp vụ, quy trình quản lý rủi ro, đồng thời thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát
chúng từ khi cung ứng dịch vụ thanh toán và chuyển tiền cho khách hàng. Tuy
nhiên, các ngân hàng vẫn còn một số khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát chứng
từ, cụ thể:
20
- Cán bộ của các ngân hàng chỉ kiểm soát được các giao dịch chuyển tiền dựa
trên việc kiểm soát bề mặt của chứng từ do khách hàng xuất trình, không có kinh
nghiệm chuyên sâu như các cơ quan an ninh, điều tra về việc phát hiện các hình
thức làm giả chứng từ nên khó khăn trong việc phát hiện, phòng ngừa các giao dịch
chuyển tiền bất hợp pháp.
- Với sự phát triển mạnh mẽ của internet, công nghệ thông tin, các giao dịch
kinh tế, thương mại quốc tế ngày càng đa dạng, phức tạp, thay đổi nhanh theo sự
biến động của nền kinh tế thế giới, trong khi đó các quy trình nội bộ của ngân hàng
chưa được thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng kịp thời với những
thay đổi này.
- Do chịu sức ép về chỉ tiêu lợi nhuận nên việc kiểm tra, kiểm soát chứng từ
chưa được các ngân hàng ưu tiên dẫn đến xảy ra một số đối tượng lợi dụng chuyển
tiền bất hợp pháp thông qua việc làm giả, làm khống hồ sơ, chứng từ.
- Công tác hậu kiểm về chứng từ của ngân hàng chưa chặt chẽ: Do số lượng
giao dịch hàng ngày với khách hàng lớn, nên ngân hàng chưa sát sao, cương quyết
trong việc đôn đốc, xử lý chứng từ còn nợ của khách hàng khi đến hạn xuất trình.
1.2. Phòng chống Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế
1.2.1. Các Tổ chức quốc tế tham gia vào công tác phòng chống Rủi ro rửa tiền
trong hoạt động thanh toán quốc tế
Có nhiều tổ chức quốc tế được thành lập hoặc tham gia vào cuộc chiến chống
rửa tiền thông qua việc ban hành và áp dụng các chuẩn mực quốc tế về chống rửa
tiền, bao gồm:
- Các tổ chức đặt ra tiêu chuẩn quốc tế: Liên Hợp Quốc, FATF, Uỷ ban Basel
về giám sát ngân hàng, Hiệp hội quốc tế các nhà giám sát bảo hiểm, Tổ chức quốc
tế các ủy ban chứng khoán, Nhóm các đơn vị tình báo tài chính Egmont.
- Các cơ quan vùng và các nhóm có liên quan: Các cơ quan vùng kiểu FATF,
Nhóm các ngân hàng Wolfsberg, Ban thư ký khối thịnh vượng chung, Tổ chức các
quốc gia Châu Mỹ -CICAD.
21
Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả chỉ giới thiệu một số tổ chức quốc tế
tiêu biểu và có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác phòng, chống rửa tiền của Việt
Nam.
1.2.1.1. Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF)
Lực lượng đặc nhiệm tài chính được các nước G7 thành lập vào năm 1989.
Đây là một tổ chức liên chính phủ có chức năng thiết lập các chuẩn mực và thúc đẩy
việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hoạt động nhằm chống
rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí và những hiểm họa có liên quan
khác đe dọa sự thống nhất của hệ thống tài chính quốc tế. Phạm vi hoạt động của
FATF được mở rộng theo yêu cầu quốc tế. Vào tháng 10/2001, FATF đảm nhiệm
thêm nhiệm vụ chống tài trợ khủng bố và đến năm 2008, chức năng của FATF đã
được mở rộng bao gồm cả việc giải quyết vấn Luận văn trợ phổ biến vũ khí hủy diệt
hàng loạt. Tính đến nay, FATF có 36 thành viên (gồm 34 thành viên là các quốc
gia, vùng lãnh thổ và 2 tổ chức), 8 thành viên liên kết và 25 quan sát viên.
Ba chức năng chính của FATF liên quan đến rửa tiền là:
- Theo dõi tiến độ thực hiện các biện pháp chống rửa tiền của các thành viên.
- Tổng kết và báo cáo về xu hướng, thủ đoạn rửa tiền và các biện pháp chống
rửa tiền.
- Thúc đẩy việc chấp thuận và thực hiện các tiêu chuẩn của FATF về chống
rửa tiền trên toàn cầu.
1.2.1.2. Liên hợp quốc (UN)
Liên Hợp Quốc (UN) là tổ chức quốc tế đầu tiên tiến hành một hoạt động quan
trọng về chống rửa tiền thực sự trên toàn cầu. UN giữ vị trí quan trọng trong lĩnh
vực này vì một số lý do. Thứ nhất, đây là một tổ chức quốc tế với số thành viên lớn
nhất. Thứ hai, UN tích cực điều hành một chương trình chống rửa tiền - đó là
Chương trình toàn cầu về chống rửa tiền (GPML) có trụ sở ở Viên, thủ đô nước Áo
và là một bộ phận của Văn phòng Ma túy và tội phạm (ODC) của UN. Thứ ba và có
lẽ là quan trọng nhất, UN có khả năng thông qua những hiệp ước hoặc công ước
22
quốc tế có hiệu lực như luật ở một nước một khi nước đó đã ký, thông qua và thực
hiện công ước dựa trên hiến pháp và cơ cấu luật pháp của nước đó. Trong những
trường hợp nhất định, Hội đồng bảo an có quyền bắt buộc tất cả các nước thành
viên tuân thủ thông qua một Nghị quyết của Hội đồng bảo an, bất chấp một nước
thành viên nào đó có hành động khác.
Năm 1988 Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma
túy và chất hướng thần (Công ước Vienna) ra đời. Tuy không sử dụng thuật ngữ rửa
tiền nhưng Công ước Vienna đã yêu cầu các quốc gia thành viên hình sự hóa các
hành vi mua bán ma túy bất hợp pháp, bao gồm cả hành vi trao đổi, chuyển nhượng
tài sản có được từ hành vi buôn bán ma túy bất hợp pháp hoặc hành vi che đậy,
ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc tài sản do phạm tội mà có. Tiếp
theo, năm 2000, Liên hợp quốc ban hành Công ước chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia (Công ước Palermo). Tại Công ước này thuật ngữ “rửa tiền” đã
được sử dụng. Tóm lại, ngoài 2 công ước nêu trên, Liên hợp quốc còn ban hành
hoặc thông quan nhiều hiệp ước, công ước, nghị quyết và chương trình, sáng kiến
liên quan đến chống rửa tiền.
1.2.1.3. Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG)
Bên cạnh các tổ chức thiết lập tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và chống
tài trợ khủng bố còn có một số tổ chức quốc tế khác cũng đóng vai trò rất quan
trọng trong cuộc chiến chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Những tổ chức này
được tổ chức theo vùng địa lý hoặc theo mục đích được xác định, một trong số đó là
Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG). APG được thành lập
vào năm 1997 là một tổ chức liên Chính phủ, hiện nay có 41 thành viên với vai trò
đảm bảo các thành viên thực hiện hiệu quả các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền,
tài trợ khủng bố và tài trợ vũ khí hủy diệt hàng loạt. APG đánh giá mức độ hiệu quả
thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố của một
quốc gia thông qua cơ chế đánh giá đa phương quốc gia thành viên về mức độ tuân
thủ 40 khuyến nghị của FATF được quốc tế thừa nhận là các chuẩn mực quốc tế về
phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố. Việt Nam đã gia nhập và trở thành thành
viên chính thức của APG từ năm 2007.
23
1.2.2. Chuẩn mực quốc tế về phòng chống rửa tiền trong thanh toán quốc tế
1.2.2.1. Các chuẩn mực của FATF
Năm 1990, FATF đã thông qua 40 Khuyến nghị về chống rửa tiền, từ đó thiết
lập một khuôn khổ toàn diện về chống rửa tiền và được thiết kế để áp dụng phổ biến
cho các quốc gia trên toàn thế giới. Các Khuyến nghị này được sửa đổi vào năm
1996 và 2003 để theo kịp các phương thức rửa tiền ngày càng tinh vi của bọn tội
phạm. Sau vụ khủng bố tháng 9/2001 tại Mỹ, FATF đã mở rộng trách nhiệm giải
quyết các vấn đề về tài trợ khủng bố thông qua việc ban hành 8 Khuyến nghị đặc
biệt chống tài trợ khủng bố vào tháng 10/2001. Tiếp đó, vào tháng 10/2004, FATF
đó thông qua Khuyến nghị đặc biệt thứ 9 liên quan đến vận chuyển tiền mặt qua
biên giới. Như vậy, từ sau tháng 10/2004, FATF đã ban hành 40 Khuyến nghị về
chống rửa tiền và 9 Khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ khủng bố (hay còn gọi là
40+9 Khuyến nghị của FATF). Đến tháng 2/2012, FATF tiếp tục chỉnh sửa 40+9
Khuyến nghị thành 40 Khuyến nghị mới về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố
và chống tài trợ phổ biến vũ khí (sau đây gọi tắt là 40 Khuyến nghị mới), bao gồm
các nhóm vấn đề chính: (i) Các chính sách về PCRT/TTKB và hợp tác trong nước;
(ii) Rửa tiền và tịch thu tài sản; (iii) Tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy
diệt hàng loạt; (iv) Các biện pháp phòng ngừa áp dụng của đối tượng báo cáo; (v)
Tính minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân và thỏa thuận pháp lý; (vi)
Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan có thẩm quyền; (vii) Hợp tác quốc tế. Tháng
6/2019, FATF tiếp tục cập nhật tài liệu 40 Khuyến nghị mới trong đó bổ sung nội
dung về tài sản ảo vào Khuyến nghị số 15.
Mặc dù không có hiệu lực bắt buộc như các Nghị quyết của Liên hợp quốc,
nhưng các Khuyến nghị của FATF đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận là các
chuẩn mực và thực hiện các biện pháp cần thiết để xây dựng cơ chế chống rửa tiền,
chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí nhằm tuân thủ các Khuyến
nghị của FATF và triển khai có hiệu quả các Khuyến nghị này trên phạm vi toàn
cầu.
1.2.2.2. Công ước và Nghị quyết của Liên hợp quốc liên quan tới phòng,
24
chống rửa tiền
- Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma tuý và
chất hướng thần (Công ước Vienna năm 1988).
- Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo
năm 2000).
- Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999.
- Nghị quyết số 1267 của Liên hợp quốc và các văn bản kế thừa.
- Nghị quyết số 1373 của Liên hợp quốc.
1.2.2.3. Các hướng dẫn của Uỷ ban giảm sát ngân hàng (Basel)
Các hướng dẫn này bao gồm: (i) Các yêu cầu chú ý xác đáng khách hàng gồm:
chính sách chấp nhận khách hàng, nhận dạng khách hàng, giám sát liên tục các tài
khoản và giao dịch, quản lý rủi ro; (ii) Tuân thủ và chức năng tuân thủ trong hoạt
động ngân hàng.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phòng chống Rủi ro rửa tiền trong hoạt động
thanh toán quốc tế
1.2.3.1. Yếu tố công nghệ
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số, công nghệ hiện đại không chỉ tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế, xã hội mà còn là cơ hội để các đối tượng thực
hiện các hành vi gian lận tinh vi và phức tạp hơn, bao gồm các hình thức rửa tiền sử
dụng công nghệ cao qua các kênh thương mại điện tử, dịch vụ tài chính trên nền
tảng số, công cụ chuyển nhượng như Token, điện thoại, máy tính có kết nối mạng…
Yếu tố quan trọng quyết định thành công của công tác PCRT tại các NHTM là việc
ứng dụng công nghệ thông tin và tăng cường đầu tư, phát triển các phần mềm phòng
chống rửa tiền. Phần mềm PCRT sẽ hỗ trợ việc cập nhật, cảnh báo khách hàng theo
các danh sách cảnh báo, danh sách đen; hỗ trợ việc quét tức thời các giao dịch thanh
toán theo các danh sách cảnh báo, danh sách đen; hỗ trợ việc lọc và giám sát các
giao dịch đáng ngờ; thực hiện phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro rửa tiền; hỗ
trợ việc lập báo cáo PCRT.
25
1.2.3.2. Yếu tố nguồn nhân lực
Trong hoạt động thanh toán quốc tế tại các NHTM, nguồn nhân lực thực hiện
nghiệp vụ đóng vai trò then chốt. Ngân hàng cần sử dụng có hiệu quả cũng như chú
trọng đào tạo các nguồn nhân lực như đội ngũ chuyên gia nghiên cứu về các chính
sách, văn bản quản lý về phòng chống rủi ro rửa tiền, đội ngũ lãnh đạo các đơn vị,
lĩnh vực liên quan đến phòng chống rủi ro rửa tiền, đặc biệt là đội ngũ giao dịch
viên - người trực tiếp phát hiện và xử lý các trường hợp liên quan đến hoạt động rửa
tiền. Do đó, nếu đội ngũ này nhận thức đúng và hiểu về sự cần thiết của hoạt động
rửa tiền, hậu quả kinh tế - xã hội của hoạt động rửa tiền thì họ sẽ triển khai các biện
pháp liên quan một cách tốt nhất và hiệu quả nhất, biến mỗi ngân hàng thành một
chốt chặn của hoạt động rửa tiền.
1.2.3.3. Yếu tố về pháp lý
Hiện nay, luồng vốn đầu tư nước ngoài (trực tiếp và gián tiếp) vào Việt Nam
ngày càng nhiều. Đồng thời, Việt Nam đã tự do hóa giao dịch vãng lai và từng bước
tự do hóa các giao dịch vốn nên mức độ kiểm soát đối với các giao dịch chuyển tiền
quốc tế đã được nới lỏng hơn. Do đó, nếu hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa
tiền của Việt Nam chưa hoàn thiện thì có thể dẫn tới Việt Nam trở thành nơi tội
phạm rửa tiền quốc tế lựa chọn để rửa tiền thông qua hệ thống tài chính. Là một
trong những quốc gia sớm ý thức được những hệ quả và tác hại do hoạt động rửa
tiền mang lại, Việt Nam đã rất tích cực trong việc xây dựng và ban hành các văn
bản pháp luật để điều chỉnh về vấn đề này nhằm kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp
thời hiệu quả các hành vi rửa tiền. Hoạt động rửa tiền trái pháp luật ngày càng diễn
ra tinh vi và phức tạp hơn trong bối cảnh khoa học công nghệ và nền kinh tế số phát
triển. Do đó, hành lang pháp lý vững chắc là yếu tố cần thiết để ngăn chặn hành vi
rửa tiền trái pháp luật, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
1.2.3.4. Yếu tố về hợp tác quốc tế
Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch
chuyển các tài sản bất minh cũng đang diễn ra rất mạnh mẽ và đa dạng. Nhiều quốc
gia trên thế giới đã có những hoạt động hợp tác song phương và đa phương trong
26
cuộc chiến chống nạn rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất
minh. Các hình thức hợp tác quốc tế rất đa dạng như hỗ trợ tập huấn, nâng cao năng
lực; điều tra chung; trao đổi thông tin, chứng cứ; cùng xây dựng và cam kết chuẩn
mực chung về phòng, chống rửa tiền... Là thành viên tích cực, có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế và của Liên hợp quốc, Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều
điều ước quốc tế và khu vực về chống tội phạm nói chung và chống rửa tiền, chống
tài trợ khủng bố nói riêng.
Các nguyên tắc chung về hợp tác quốc tế được quy định tại Điều 46 Luật
Phòng, chống rửa tiền năm 2012 như sau:
- Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có
lợi, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi thông tin và tương trợ tư
pháp về phòng, chống rửa tiền.
Như vậy, để hoạt động phòng, chống rửa tiền được thực hiện một cách hiệu
quả, Việt Nam cần có sự phối hợp, hỗ trợ với quốc tế.
1.3. Kinh nghiệm phòng chống Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán
quốc tế tại một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm phòng chống rủi ro rửa tiền tại một số quốc gia trên thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ
Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và
nghiêm khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên đều
phải tuân theo. Một trong những đạo luật quan trọng nhất liên quan đến phòng,
chống rửa tiền là Luật Bí mật ngân hàng (BSA) năm 1970 và những quy tắc của nó.
Mục đích của BSA là tạo ra một văn bản pháp lý tạo điều kiện điều tra tội phạm rửa
tiền, trốn thuế… bằng cách yêu cầu các tổ chức tài chính phải lưu giữ những chứng
từ liên quan đến giao dịch trên 10.000 USD. Sau đó Luật được sửa đổi cho phép
27
Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong
các cuộc điều tra. Luật Chống rửa tiền của Mỹ còn quy định về nghĩa vụ của tất cả
các đối tượng, từ các cá nhân đến các tổ chức trong việc phát hiện và báo cáo về
hoạt động rửa tiền. Việc không tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt
động phòng, chống rửa tiền của các nhân viên của các tổ chức tín dụng có thể dẫn
tới bị phạt dân sự và hình sự. Về mặt dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới
100.000 USD cho việc cố tình vi phạm những quy định về báo cáo và lưu giữ chứng
từ của BSA. Về mặt hình sự, người vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5
năm tù hoặc cả hai.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Anh
Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về
phòng, chống rửa tiền tương tự như tại Mỹ. Tháng 12/1990, nước Anh ban hành
một loạt văn bản hướng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các
hoạt động rửa tiền, trong đó tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng
trong việc cảnh báo cho các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch đáng
ngờ. Các hướng dẫn này được xây dựng bởi Ngân hàng Trung ương Anh và các
ngân hàng thương mại với sự phối hợp, tham gia của cơ quan tình báo quốc gia, hải
quan, cảnh sát. Theo đó, ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất cả các khách hàng
bằng mọi cách có thể, kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hướng dẫn cũng chỉ rõ các
cách thức xác nhận thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức được ưu tiên,
ngoài ra các hình thức khác cũng được chấp nhận như thẻ nhân viên, bằng lái xe…
Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong 6 năm để
phục vụ điều tra.
Cũng giống như tại Mỹ, việc không tuân theo những hướng dẫn và các luật,
quy định sẽ dẫn tới những trách nhiệm pháp lý. Những trách nhiệm pháp lý dân sự
có thể nảy sinh nếu vi phạm những quy định về sự bảo mật của khách hàng. Hướng
dẫn tại Anh chỉ ra rằng các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một
cách toàn diện với các cơ quan pháp luật và phải thông báo trước cho các cơ quan
này các giao dịch đáng ngờ. Trong khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức
tài chính khác như công ty bảo hiểm, tổ chức môi giới cũng phải thực hiện những
28
hướng dẫn này.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Malaysia (Ngân hàng MayBank):
Ngân hàng Maybank, tên đầy đủ là Malayan Banking Berhad, được thành lập
năm 1960, là một tập đoàn dịch vụ tài chính, đảm nhiệm vai trò là một ngân hàng
toàn cầu của Malaysia. Nhờ mạng lưới rộng khắp của mình, Maybank không ngừng
phát triển và một trong những dịch vụ mũi nhọn thiết yếu đó chính là thanh toán
quốc tế. Chính vì vậy, Maybank rất chú trọng các hoạt động phòng chống rửa tiền
cũng như tuân thủ các quy định quốc tế và quy trình nội bộ. Hoạt động PCRT của
MayBank được thực hiện thông qua hệ thống báo cáo và xử lý giao dịch đáng ngờ.
Trong quá trình giao dịch với khách hàng, nếu nghi ngờ giao dịch đó có dấu hiệu
của hoạt động phạm pháp, rửa tiền, tài trợ khủng bố, phải khẩn trương tiến hành làm
báo cáo giao dịch đáng ngờ và gửi càng nhanh càng tốt cho Bộ phận PCRT. Kinh
nghiệm nhận biết khách hàng (KYC) và cập nhật thông tin khách hàng (CDD) của
MayBank: cấu phần đặc biệt trong nhận dạng giao dịch đáng ngờ bao gồm: thẩm tra
nhận dạng khách hàng từ các nguồn độc lập khác nhau; nhận dạng và thẩm tra
quyền sở hữu và kiểm soát của người hưởng lợi; xác minh mục đích và bản chất
thực sự của mối quan hệ kinh doanh; phân tích và kiểm tra mối quan hệ và các giao
dịch tiếp theo... Thủ tục CDD thường được tiến hành khi khách hàng thực hiện một
giao dịch vượt ngưỡng quy định, có nghi ngờ về rửa tiền hay tài trợ khủng bố, nghi
ngờ về tính chính xác hoặc không đầy đủ thông tin do khách hàng cung cấp.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ thực tế kinh nghiệm quốc tế về chống rửa tiền cho thấy, để tăng cường và
nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả chống rửa tiền, Việt Nam cần:
Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền.
Trên cơ sở đánh giá hiệu quả cũng như các bất cập trong phòng, chống rửa tiền hiện
nay và các thông lệ quốc tế để hoàn thiện Luật Phòng, chống rửa tiền.
Thứ hai, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có liên quan để
phòng, chống rửa tiền nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của việc phòng chống
rửa tiền nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của việc phòng chống rửa tiền, các
29
cơ quan nhà nước như: Ngân hàng Nhà nước, Hải quan, Công an, Bộ Tài chính, Bộ
Công thương, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng… cần phối hợp chặt chẽ dể hướng dẫn các
văn bản pháp quy, kiểm tra chấp hành các biện pháp quy, kiểm tra chấp hành các
biện pháp phòng, chống rửa tiền của các tỏ chức, cá nhân thuộc các đối tượng rửa
tiền, nghi ngờ rửa tiền.
Thứ ba, xây dựng bộ nhận diện về hành vi rửa tiền phù hợp với thông lệ quốc
tế. Trong đó quy định cụ thể số tiền giao dịch phải báo cáo phù hợp với điều kiện
của Việt Nam. Trường hợp các tổ chức và cá nhân không tuân theo những hướng
dẫn của luật và quy định về phòng, chống rửa tiền sẽ bị chế tài nghiêm khắc giống
như chế tài của Luật BSA của Mỹ ban hành.
Thứ tư, đề cao vai trò và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân, trong đó chủ
yếu là ngân hàng. Theo đó, để làm tốt vai trò của mình, các Ngân hàng buộc phải
chủ động phối hợp với các cơ quan có chức năng tổ chức tập huấn về kỹ năng nhận
diện, nhận biết về các hành động rửa tiền. Đồng thời đầu tư cơ cở vật chất cải thiện
hệ thống lưu giữ chứng từ; xây dựng cơ chế sàng lọc các giao dịch tiền mặt lớn và
giao dịch tiền mặt nhiều lần liên tục; xây dựng báo cáo tự động để có thể báo cáo
kịp thời những hành động đáng ngờ cho cơ quan có thẩm quyền.
Thứ năm, tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân về các rủi ro về rửa
tiền, tài trợ khủng bố, giúp các tổ chức, cá nhân hiểu rõ tác hại của rửa tiền, từ đó
thúc đẩy một nền văn hóa tuân thủ pháp luật.
Thứ sáu, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin và mạng internet có thể triển khai dự án kiểm soát toàn bộ thu nhập của
nhân dân, tiến tới thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt. Đây có thể coi là
biện pháp quan trọng và cơ bản nhất nhằm minh bạch hóa tài sản cá nhân, phòng
chống rửa tiền và, ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất minh.
30
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Trong chương này, Luận văn đã khái quát một số vấn đề chung về rủi ro rửa
tiền và phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế. Theo đó, rửa
tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do
phạm tội mà có. Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, phương thức và thủ đoạn rửa tiền
phổ biến trong hoạt động thanh toán quốc tế, Luận văn đã phân tích được những tác
hại của rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế, trong đó có có 3 tác hại chính
bao gồm (i) Tăng tội phạm và tham nhũng; (ii) Tác động xấu đến thương mại quốc
tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài; (iii) Làm suy yếu hệ thống tài chính và chỉ ra
nguyên nhân của rủi ro nói trên.
Bên cạnh đó, Luận văn đã nghiên cứu về các tổ chức quốc tế tham gia vào
công tác phòng, chống rửa tiền và các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền,
đưa ra các nhân tố ảnh hưởng đến phòng, chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động
thanh toán quốc tế. Đặc biệt, luận văn đã nghiên cứu về công tác phòng, chống rửa
tiền trên thế giới và kinh nghiệm xây dựng và thực thi cơ chế phòng, chống rửa tiền
tại 03 quốc gia đến từ các châu lục khác nhau, có nền kinh tế khác nhau (gồm Mỹ,
Anh và Malaysia) từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: (i) Nghiên
cứu hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền, (ii) Tăng cường phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước có liên quan, (iii) Xây dựng bộ nhận diện về hành vi
rửa tiền phù hợp với thông lệ quốc tế, (iv) Đề cao vai trò và nghĩa vụ của các tổ
chức và cá nhân, trong đó chủ yếu là ngân hàng, (v) Tuyên truyền, vận động các tổ
chức, cá nhân về các rủi ro về rửa tiền.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, hoạt động thanh toán quốc tế cũng ngày một
phát triển mạnh mẽ hơn, kéo theo đó là nguy cơ phát sinh các hành vi rửa tiền
xuyên quốc gia qua hoạt động thanh toán quốc tế. Do đó, trong chương 2, em tập
trung tìm hiểu về thực trạng rủi ro rửa tiền qua hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt
Nam giai đoạn 2016-2021 cũng như đánh giá chung về hoạt động phòng chống rủi
ro rửa tiền của hệ thống ngân hàng thương mại đang được thực hiện ra sao, đã đạt
được những kết quả gì và còn những hạn chế nào.
31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG RỦI
RO RỬA TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2016-2021
2.1. Thực trạng rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt
Nam giai đoạn 2016-2021
2.1.1. Khái quát về tình hình rủi ro rửa tiền
Theo kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tải trợ khủng bố (NRA)
của Việt Nam giai đoạn 2012-2017, rủi ro về rửa tiền của Việt Nam được đánh giá
ở mức độ "trung bình cao", trong đó mức độ rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân
hàng được đánh giá ở mức độ "cao". Do vậy, Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện phân tích xu
hướng rửa tiền của những đối tượng trong báo cáo giao dịch đáng ngờ về chuyển
tiền quốc tế ra/vào Việt Nam, trong đó tập trung vào nhóm đối tượng thanh toán cho
hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu nhằm cảnh báo tới các tổ chức tín dụng để
phát hiện, ngăn chặn và báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến hoạt động chuyển
tiền quốc tế bất hợp pháp ra/vào Việt Nam.
Qua kết quả phân tích dữ liệu từ nhiều báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR) đã
xử lý bởi Cục PCRT giai đoạn 2016-2021, giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài
chiếm 93% tổng số STR đã xử lý. Giao dịch chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam
chỉ chiếm 7% tổng số STR (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 2.1: Chuyển tiền ra và vào Việt Nam qua hệ thống
Chuyển tiền ra nước ngoài
Nhận tiền từ nước ngoài về Việt Nam
7%
93%
NHTM từ năm 2016 – 2021
Nguồn:Dữ liệu STR tại Cục PCRT, năm 2022
32
Trong đó, hoạt động chuyển tiền quốc tế từ Việt Nam ra nước ngoài mà chủ
yếu là các giao dịch chuyển tiền đi Hồng Kông, Trung Quốc (chiếm 57%); các nước
Đông Nam Á (32%) có nguy cơ rửa tiền cao tập trung chủ yếu ở địa bàn Hà Nội
(24%); Quảng Ninh (23%); TP Hồ Chí Minh (16%); Hải Phòng (8%) và Lạng Sơn
(7%) do đây là khu vực các thành phố lớn hoặc tỉnh/thành phố có cảng biển hoặc
cửa khẩu liên quan đến các hoạt động xuất nhập khẩu. Đối với chuyển tiền từ nước
ngoài vào Việt Nam: Ấn Độ (18%) và Pháp (14%) là các nước chuyển tiền về Việt
Nam nhiều nhất.
Kết quả thống kê cũng cho thấy, trong giai đoạn năm 2016 - 2021, 90% đối
tượng thực hiện giao dịch là tổ chức của Việt Nam. Chỉ 10% trong tổng số đối
tượng thực hiện giao dịch tham gia hoạt động chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam
đến từ các cá nhân có quốc tịch Việt Nam và cá nhân nước ngoài (Biểu đồ 2).
89.8%
5.5%
4.5%
0.2%
Tổ chức nước ngoài
Cá nhân Việt Nam Cá nhân nước ngoài
Tổ chức Việt Nam
Biểu đồ 2.2: Đối tượng thực hiện giao dịch từ năm 2016 - 2021
Nguồn:Dữ liệu STR tại Cục PCRT, năm 2022
2.1.2. Các dấu hiệu nghi ngờ rửa tiền
2.1.2.1. Loại hình chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài
Với loại hình chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài, lý do nghi ngờ tập trung
33
cao ở nhóm tổ chức chuyển tiền cho bên thứ ba, đây là nhóm nghi ngờ liên quan
đến buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (chiếm 98% STR đã xử lý). Nhóm
chuyển tiền ra nước ngoài giá trị lớn khác chỉ chiếm 2%. (Biểu đồ 3).
Biểu đồ 2.3: Chuyển tiền ra nước ngoài qua hệ thống NHTM
Chuyển tiền ra nước ngoài giá trị lớn
Tổ chức chuyển tiền cho bên thứ 3
2%
98%
từ năm 2016 – 2021
Nguồn: Dữ liệu STR tại Cục PCRT, năm 2022.
a. Chuyển tiền ra nước ngoài cho bên thứ ba
Các tổ chức thực hiện giao dịch tài chính thông qua hoạt động xuất nhập khẩu
bằng các hợp đồng ngoại thương, thực hiện thanh toán quốc tế (mở thư tín dụng -
L/C). Nhóm phương thức giao dịch này thường lợi dụng pháp nhân để chuyển tiền
ra nước ngoài với các dấu hiệu, phương thức giao dịch nổi bật như sau:
- Dấu hiệu nghi ngờ 1: Công ty chuyển tiền thanh toán quốc tế liên quan đến
hàng hoá nhập khẩu từ các nước, nhưng thanh toán cho bên thứ ba với tần suất lớn
hoặc chia nhỏ giá trị hợp đồng để chuyển tiền. Tuy nhiên khi thực hiện tra soát
thông tin của bên thứ ba thụ hưởng, các công ty này không có website riêng và trên
internet hầu như không có thông tin về ngành nghề kinh doanh của họ. Hoặc bên
thứ ba thụ hưởng có tên công ty, ngành nghề kinh doanh không phù hợp với mặt
hàng theo hợp đồng mua bán.
34
- Dấu hiệu nghi ngờ 2: Tổ chức chuyển tiền cho nhiều người thụ hưởng ở
nhiều quốc gia khác nhau theo hình thức thanh toán trả sau trong mô hình kinh
doanh tạm nhập tái xuất, giá trị lớn bất thường, không tương ứng với giá trị của
hàng hóa hoặc giá trị hàng hóa cao hơn nhiều so với vốn điều lệ cũng như quy mô
kinh doanh thông thường của công ty.
- Dấu hiệu nghi ngờ 3: Hoạt động tài khoản của cá nhân/tổ chức có điểm bất
thường như số tiền chuyển ra nước ngoài thanh toán cho nhà xuất khẩu từ một hoặc
rất nhiều nguồn gửi vào với giá trị lớn tuy nhiên thời điểm thanh toán với nhà xuất
khẩu chưa đến thời hạn thanh toán hoặc ngay sau khi nhận được tiền chuyển khoản
và ghi có tiền vào, cá nhân/tổ chức sẽ ngay lập tức thực hiện giao dịch chuyển tiền
quốc tế dẫn đến số dư tài khoản cuối ngày rất nhỏ và không tương xứng với giá trị
giao dịch trong ngày.
- Dấu hiệu nghi ngờ 4: Ngân hàng đã phát hành LC (mỗi LC có giá trị lớn
khoảng 01 triệu USD) theo đề nghị của khách hàng là tổ chức Việt Nam, nhưng
hàng hoá không về Việt Nam, tổ chức chỉ đóng vai trò là trung gian.
- Dấu hiệu nghi ngờ 5: Tổ chức chuyển tiền ra nước ngoài số tiền lớn, ứng
trước 100% giá trị hợp đồng, sau đó có yêu cầu chuyển trả lại số tiền thì ngân hàng
nước ngoài xác nhận đã ghi có vào tài khoản và tài khoản đã đóng, số dư rất nhỏ
hoặc bằng không. Hoặc tổ chức thường xuyên ký hợp đồng mua hàng hoá và huỷ
hợp đồng và yêu cầu hoàn trả tiền
- Dấu hiệu nghi ngờ 6: Tổ chức chuyển tiền ra nước ngoài thanh toán hợp
đồng nhập khẩu giá trị lớn nhưng chứng từ như: hợp đồng, phụ lục hợp đồng, hóa
đơn được các bên thỏa thuận và xác lập một cách rất sơ sài và bất thường, cụ thể
như sau:
+ Nội dung các hợp đồng chủ yếu liệt kê tên, số lượng và đơn giá hàng hóa
mua bán còn các điều khoản thỏa thuận khác như mô tả tiêu chuẩn, quy cách của
hàng hóa, thời gian giao hàng, trách nhiệm các bên đều sơ sài hoặc không có. Điều
này là bất thường khi hàng hóa trong giao dịch là các mặt hàng giá trị hoặc tổng giá
trị hàng hóa lớn.
+Với hình thức thanh toán trả sau và giá trị lớn nhưng không kèm một biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảo thanh toán nào.
35
+ Hoặc không bổ sung đầy đủ chứng từ (tờ khai hải quan), hoặc giả mạo giấy
tờ hải quan.
- Dấu hiệu nghi ngờ 7: Giá trị chênh lệch giữa các hợp đồng nhập khẩu và hợp
đồng xuất khẩu mà tổ chức ký với các đối tác rất nhỏ (trung bình khoảng 500 -
2.000 USD, theo thống kê từ các STR năm 2016 - 2021) và bất tương ứng so với giá
trị hợp đồng (bình quân khoảng 0.05% - 0.1% so với giá trị hợp đồng). Nếu ước
tính thêm cả chi phí như thông quan, chi phí chuyển tiền quốc tế/trong nước, chi phí
vận tải hàng hóa ... thì lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hầu như không
đáng kể, không có giá trị kinh tế.
- Dấu hiệu nghi ngờ 8: Tổ chức chuyển tiền ra nước ngoài thanh toán trả trước
theo hợp đồng, tuy nhiên số tiền trên hợp đồng sau đó không khớp với số tiền thực
chuyển.
- Dấu hiệu nghi ngờ 9: Phần lớn các tổ chức thành lập mới, sau khi mở tài
khoản tại ngân hàng, thời gian ngắn đã phát sinh các giao dịch chuyển tiền ra nước
ngoài với giá trị lớn và tần suất nhiều.
b. Chuyển tiền ra nước ngoài giá trị lớn khác
Chuyển tiền định cư
22%
45%
Nộp tiền mua ngoại tệ và chuyển tiền ra nước ngoài
33%
Chuyển tiền giá trị lớn nội dung thanh toán hàng hóa, tiền học phí, hợp tác đầu tư kinh doanh chưa rõ mục đích
Biểu đồ 2.4: Chuyển tiền ra nước ngoài giá trị lớn khác từ năm 2016 – 2021
Nguồn:Dữ liệu STR tại Cục PCRT, năm 2022.
36
Thường tập trung ở nhóm cá nhân trong nước/nước ngoài với hình thức cụ thể
như sau:
- Chuyển tiền ra nước ngoài để định cư hoặc giao dịch liên quan đến đối tượng
lừa đảo hoặc từ việc góp vốn mua cổ phần từ các công ty.
- Nộp tiền mua ngoại tệ và chuyển tiền ra nước ngoài trái quy định ngoại hối
- Chuyển tiền ra nước ngoài giá trị lớn, tiền học phí cho con, hợp tác đầu tư
kinh doanh chưa rõ mục đích hoặc hoặc tài khoản cá nhân tại nước ngoài bị ngân
hàng nước ngoài ngừng cung cấp dịch vụ.
Đặc điểm chung: nguồn tiền chuyển ra nước ngoài có giá trị lớn, trung bình
trên 02 triệu USD.
2.1.2.2. Loại hình nhận tiền về từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua hệ
thống các tổ chức tín dụng
a. Nhận tiền từ nước ngoài nghi ngờ liên quan đến lừa đảo, gian lận
10%
16%
Dấu hiệu 1
Dấu hiệu 2
Dấu hiệu 3
74%
Biểu đồ 2.5: Nhận tiền từ nước ngoài nghi ngờ liên quan đến lừa đảo, gian lận
Nguồn:Dữ liệu STR tại Cục PCRT, năm 2022.
Cá nhân nhận được các khoản tiền từ nước ngoài, sau đó ngân hàng nước
37
ngoài yêu cầu hoàn trả do nghi ngờ giao dịch có liên quan đến lửa đảo với các dấu
hiệu sau:
- Dấu hiệu 1: Ngân hàng Việt Nam nhận được điện từ ngân hàng nước ngoài
thông báo có giao dịch chuyển tiền về tài khoản của khách hàng. Tuy nhiên, sau khi
ngân hàng nước ngoài kiểm tra thông tin thì không phải do chủ tài khoản chuyển
tiền. Do đó, ngân hàng nước ngoài đã không thực hiện lệnh chuyển tiền cho khách
hàng.
- Dấu hiệu 2: Ngân hàng nước ngoài yêu cầu hoàn trả do có yếu tố gian lận,
tuy nhiên các khoản tiền này đã được rút ra ngay khi nhận được và không liên hệ
được với khách hàng nhận tiền tại Việt Nam
- Dấu hiệu 3: Ngân hàng nước ngoài cảnh báo tài khoản của cá nhân chuyển
tiền ở nước ngoài có thể liên quan tới hoạt động tội phạm.
b. Cá nhân/ tổ chức nhận được các khoản tiền giá trị lớn từ nước ngoài
2%
3%
Dấu hiệu 1
Dấu hiệu 2
Dấu hiệu 3
95%
Biểu đồ 2.6: Nhận tiền từ nước ngoài giá trị lớn từ năm 2016-2021
Nguồn: Dữ liệu STR tại Cục PCRT, năm 2022
- Dấu hiệu 1: Giao dịch giá trị lớn, nhận tiền từ nước ngoài. Nhận tiền về tài
khoản ở Việt Nam không hoạt động hơn 1 năm, sau đó rút tiền mặt hoặc rút séc với
38
giá trị lớn (hàng chục tỷ đồng).
- Dấu hiệu 2: Nhận viện trợ từ nước ngoài với nhiều mục đích ; tổ chức
chuyển tiền từ nước ngoài có tên gần giống với chủ thể có liên quan đến hoạt động
gian lận, lừa đảo.
- Dấu hiệu 3: Nhận vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài và chuyển tiền ra nước
ngoài đến nhiều người nhận ở nhiều quốc gia. Thỏa thuận nhận đầu tư (điện chuyển
tiền về) không rõ ràng: thanh toán cho dự án, công việc gì, đầu tư vào lĩnh vực nào,
hợp đồng ký kết sơ sài. Sau khi tiền về tài khoản ở Việt Nam, giao dịch tiền chuyển
đi không rõ mục đích cho nhiều quốc gia và chỉ giữ lại một phần ở Việt Nam.
2.1.3. Các phương thức và thủ đoạn rửa tiền phổ biến trong hoạt động thanh
toán quốc tế tại Việt Nam
Qua phân tích các báo cáo giao dịch đáng ngờ được gửi từ các NHTM giai
đoạn 2016-2021, Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng– Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã tổng hợp các phương thức và thủ đoạn phổ biến mà
các đối tượng tội phạm lợi dụng việc chuyển tiền ra nước ngoài để rửa tiền như sau:
- Các đối tượng thường mua lại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã có quá
trình hoạt động. Người đại diện pháp luật của các doanh nghiệp này đều được các
đối tượng thuê để ký vào các chứng từ liên quan đến doanh nghiệp, ngoài ra không
nắm được hoạt động cụ thể của doanh nghiệp.
- Sử dụng hồ sơ/hợp đồng xuất nhập khẩu của các công ty khác, tẩy xóa, cắt
dán chữ ký và con dấu, làm giả tài liệu (tờ khai hải quan, hợp đồng nhập khẩu, phụ
lục hợp đồng).
- Làm giả Bộ hồ sơ thương mại xuất nhập khẩu: Các đối tượng thành lập nhiều
Công ty bình phong với các loại hình kinh doanh khác nhau nhưng thực tế không có
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo đó, các đối tượng thường sử dụng hình thức
làm giả bộ hồ sơ thương mại nhập khẩu để thanh toán tiền trả trước ra nước ngoài
thông qua ngân hàng. Đối với hành vi này, khi xuất trình bộ hồ sơ cho ngân hàng,
các đối tượng sẽ cam kết bổ sung tờ khai Hải quan hàng nhập khẩu còn thiếu (do
đây là thanh toán trả trước, hàng hóa khi đó chưa được nhập về Việt Nam). Sau khi
39
thanh toán tiền trả trước đối với bộ sơ nhập khẩu hàng hóa nói trên, các đối tượng
thực tế không bổ sung được tờ khai Hải quan hàng nhập khẩu như cam kết vì giao
dịch hàng hóa là không có thật. Do việc không bổ sung được tờ khai Hải quan như
cam kết nên các đối tượng thông thường chỉ dùng pháp nhân của một Công ty để
thanh toán trả trước tại một ngân hàng, tuy nhiên, sẽ thực hiện hành vi thanh toán
trả trước này tại nhiều ngân hàng khác nhau.
- Sử dụng bộ hồ sơ thương mại xuất nhập khẩu, tờ khai hải quan thật để
chuyển tiền cho đối tượng thụ hưởng là giả: Các đối tượng mua các bộ hồ sơ thương
mại xuất nhập khẩu, tờ khai hải quan của các doanh nghiệp nhập khẩu đã thanh toán
bằng hình thức khác (không thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng hoặc đã
thanh toán bằng hình thức khác), sau đó làm phụ lục hợp đồng thay đổi đối tượng
thụ hưởng để hợp pháp hóa việc chuyển tiền trái phép từ Việt Nam đến các tài
khoản ở các nước trên thế giới theo nhu cầu của các cá nhân cần chuyển tiền. Bộ hồ
sơ này có thể được các đối tượng sử dụng nhiều lần tại nhiều ngân hàng khác nhau.
Thông tin của các đối tượng thụ hưởng được ghi trực tiếp trên hợp đồng hoặc thông
qua phụ lục hợp đồng.
- Sử dụng 01 bộ hồ sơ thương mại xuất nhập khẩu, tờ khai hải quan thật để
chuyển tiền nhiều lần tại nhiều ngân hàng khác nhau: Các đối tượng sử dụng một bộ
hồ sơ thương mại xuất nhập khẩu có thật để thực hiện việc chuyển tiền nhiều lần tại
nhiều ngân hàng, chi nhánh ngân hàng khác nhau. Thông tin của các đối tượng thụ
hưởng được ghi trực tiếp trên hợp đồng hoặc thông qua các phụ lục hợp đồng.
- Điều chỉnh, nâng khống giá trị tờ khai hải quan: Các đối tượng đã thành lập
các công ty hoạt động dịch vụ xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất hàng hóa để thu
phí, giá trị hàng hóa thấp, mục đích chính để có các bộ hồ sơ thương mại phục vụ
cho hoạt động chuyển tiền trái phép. Các đối tượng đã trực tiếp điều chỉnh, nâng
khống giá trị hàng hóa ghi trên tờ khai lên cao gấp hàng chục nghìn lần, mang ra
ngân hàng sử dụng giao dịch chuyển tiền trái phép hoặc bán lại cho các đối tượng
làm dịch vụ chuyển tiền có nhu cầu mua hồ sơ chuyển tiền.
- Làm giả Hợp đồng Phụ lục hợp đồng nhập khẩu hàng hóa đề chỉ định thanh
40
toán tiền hàng cho bên thứ ba ở nước ngoài (không chứng minh được mối quan hệ
giữa bên bán hàng và bên thứ ba được bên bán hàng chỉ định nhận tiền).
- Lợi dụng sự thiếu trách nhiệm, cẩu thả của nhân viên ngân hàng để thực hiện
trót lọt các giao dịch bất thường; có trường hợp các đối tượng còn nhờ nhân viên
ngân hàng soạn thảo, in nội dung phụ lục hợp đồng, lệnh chuyển tiền vào giấy trắng
đã ký, đóng dấu khống, cắt dán chữ ký, con dấu trong phụ lục hợp đồng chỉ định
chuyển tiền cho bên thứ ba ở nước ngoài.
- Các doanh nghiệp ký hợp đồng kinh tế (xuất – nhập khẩu hàng hóa) để
chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng sau đó hủy hợp đồng, hoặc chỉ thực hiện một
phần hợp đồng, số tiền còn lại để lại nước ngoài sử dụng cho mục đích khác.
- Doanh nghiệp ký hợp đồng để chuyển tiền sau đó hủy hợp đồng với mức tiền
phạt rất lớn so với hợp đồng để chuyển tiền phạt ra nước ngoài.
2.1.4. Nguyên nhân của Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại
Việt Nam
Theo báo cáo về hoạt động thanh toán, chuyển tiền xuyên biên giới năm 2022
của Vụ Quản lý ngoại hối, nguyên nhân chính của các hành vi thanh toán, chuyển
tiền bất hợp pháp xuất phát từ phía tổ chức, cá tinh nhân cố tình lừa đảo để thực
hiện hành vi chuyển tiền bất hợp pháp do việc thanh toán, chuyển tiền của ngân
hàng được thực hiện dựa trên cơ sở hồ sơ, chứng từ do các tổ chức, cá nhân xuất
trình theo quy định về chứng từ của ngân hàng, trường hợp tổ chức, cá nhân cố tình
lừa đảo, làm giả chứng từ thì các ngân hàng rất khó để phát hiện. Bên cạnh nguyên
nhân chính nêu trên, còn một nguyên nhân về công tác tổ chức thực hiện, thanh tra,
kiểm tra cũng như sự phối hợp của các bộ, ngành như sau:
Thứ nhất, Cơ chế hải quan về kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu chưa đảm
bảo kiểm soát được tất cả các hợp đồng xuất nhập khẩu phù hợp với giá trị thực tế.
Cơ chế hiện hành về kiểm tra, kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu tại Hải quan
không thực hiện kiểm tra tất cả các lô hàng xuất nhập khẩu mà chi thực hiện kiểm
tra theo xác suất, đồng thời đối với một số mặt hàng đặc biệt Hải quan cũng chưa đủ
cơ sở để đánh giá chính xác giá trị của lô hàng. Do đó, một số đối tượng lợi dụng để
41
chuyển tiền bất hợp pháp ra nước ngoài là thông qua các hợp đồng xuất nhập khẩu
nâng giá trị cao hơn giá trị hàng hóa nhập khẩu thực tế hoặc chủng loại hàng hóa
ghi trên hợp đồng khác với hàng hóa nhập khẩu thực tế.
Thứ hai, Công tác phòng ngừa và phát hiện các giao dịch thực tế của các cơ
quan chức năng như công an, quản lý thị trường chưa chặt chẽ dẫn đến việc thanh
toán bù trừ bất hợp pháp thông qua các trung gian (cửa hàng vàng).
Theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối, chỉ các TCTD được phép mới
được cung ứng các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng. Do đó, việc các
trung gian (cửa hàng vàng…) thực hiện hành vi chuyển tiền ra nước ngoài dưới
hình thức thanh toán bù trừ là bất hợp pháp. Hình thức thanh toán bù trừ này không
làm phát sinh dòng tiền qua biên giới, do đó, hệ thống ngân hàng không thể nắm bắt
được. Để ngăn chặn các hành vi này các cơ quan chức năng (công an, quản lý thị
trường…) cần phải tăng cường công tác phỏng ngừa và phát hiện và xử lý vi phạm
đối với các giao dịch kinh tế, thương mại bất hợp pháp.
Thứ ba, Công tác triển khai thực hiện các quy định quản lý ngoại hối về kiểm
tra, kiểm soát chứng từ của TCTD còn một số bất cập, chưa đảm bảo kiểm soát chặt
chẽ việc chuyển tiền đúng mục đích theo quy định của pháp luật.
Về cơ bản các ngân hàng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về
kiểm tra, kiểm soát chứng từ, theo đó đã xây dựng quy định nội bộ về quy trình
nghiệp vụ, quy trình quản lý rủi ro, đồng thời thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát
chứng từ khi cung ứng dịch vụ thanh toán và chuyển tiền cho khách hàng. Tuy
nhiên, một số tồn tại, thiếu hụt và rủi ro về rửa tiền có thể gặp phải tại quy trình
kiểm tra hồ sơ, chứng từ hiện nay khi các NHTM thực hiện các giao dịch thanh toán
quốc tế thông qua hợp đồng xuất nhập khẩu, cụ thể như sau:
- Đối với giao dịch thanh toán trả trước: trường hợp khi cá nhân/ tổ chức đến
NHTM thực hiện giao dịch nhưng thiếu tờ khai hải quan và cá nhân/tổ chức giao
dịch cam kết bổ sung tờ khai hải quan cho NHTM. Tuy nhiên, NHTM có thể gặp
rủi ro khi cá nhân/tổ chức giao dịch không bổ sung được tờ khai hải quan, hoạt
động xuất nhập khẩu không có thật hoặc cá nhân/tổ chức giao dịch lấy lý do đối tác
42
nước ngoài không giao hàng nên không có tờ khai hải quan.
- Đối với giao dịch thanh toán trả sau: hiện nay việc sử dụng tờ khai hải quan
điện tử đã được triển khai. Việc sử dụng tờ khai hải quan điện tử là tiện dụng trong
việc tra cứu thông tin, tuy nhiên tờ khai hải quan điện tử mới chỉ có một số thông
tin cơ bản (về loại hàng hóa, số lượng, ngày thông quan, …), chưa có thông tin liên
quan đến trạng thái thanh toán. Vì vậy dẫn đến tình trạng cá nhân tổ chức giao dịch
có thể sử dụng 01 tờ khai hải quan điện tử để chứng minh cho nhiều giao dịch thanh
toán quốc tế tại nhiều NHTM khác nhau.
- Đối với sản phẩm thanh toán dịch vụ như: giao dịch thanh toán phí cấp phép
(license), phí hội viên, phí dịch vụ dữ liệu đám mây, … NHTM gặp một số khó
khăn: chưa có công cụ hỗ trợ tham chiếu giá khiến NHTM khó xác định được sự
hợp lý về giá cả của giao dịch; khó khăn trong việc kiểm soát giao dịch có thực hiện
trên thực tế hay không, do chứng từ biên bản nghiệm thu hoàn thành dịch vụ do 02
bên tự ký.
- Các hợp đồng xuất nhập khẩu hiện nay được phép ký qua thư điện tử (email),
fax… thậm chí trực tuyến (online). Các chứng từ liên quan được phát hành qua các
hình thức điện tử, không có con dấu gốc, chứng từ gốc. Cá nhân tổ chức giao dịch
có thể dễ dàng sửa chữa hoặc cung cấp giấy tờ giả mạo, đặc biệt nếu có sự thông
đồng của đối tác. Vì vậy, NHTM gặp áp lực lớn khi phải kiểm tra tính chính xác của
chúng tử.
- Đối với cá nhân tổ chức thực hiện giao dịch với bên thứ ba tại nhiều quốc gia
khác nhau, NHTM khó khăn trong việc xác định tình trạng hoạt động và sự tham
gia giao kết trong hợp đồng của bên thứ ba.
- Cán bộ của các ngân hàng chỉ kiểm soát được các giao dịch chuyển tiền dựa
trên việc kiểm soát bề mặt của chứng từ do khách hàng xuất trình, không có kinh
nghiệm chuyên sâu như các cơ quan an ninh, điều tra về việc phát hiện các hình
thức làm giả chứng từ nên khó khăn trong việc phát hiện, phòng ngừa các giao dịch
chuyển tiền bất hợp pháp.
- Với sự phát triển mạnh mẽ của internet, công nghệ thông tin, các giao dịch
43
kinh tế, thương mại quốc tế ngày càng đa dạng, phức tạp, thay đổi nhanh biến động
của nền kinh tế thế giới, trong khi đó các quy trình nội bộ theo sự của ngân hàng
chưa được thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng kịp thời với những
thay đổi này.
- Do chịu sức ép về chỉ tiêu lợi nhuận nên việc kiểm tra, kiểm soát chứng từ
chưa được các ngân hàng ưu tiên dẫn đến xảy ra một số đối tượng lợi dụng chuyển
tiền bất hợp pháp thông qua việc làm giả, làm khống hỗ sơ, chứng từ.
- Công tác hậu kiểm về chứng từ của ngân hàng chưa chặt chẽ: Do số lượng
giao dịch hàng ngày với khách hàng lớn, nên ngân hàng chưa sát sao, cương quyết
trong việc đôn đốc, xử lý chứng từ còn nợ của khách hàng khi đến hạn xuất trình.
Thứ tư, Công tác thanh tra, kiểm tra của NHNN đối với hoạt động ngoại hối
của các ngân hàng còn gặp khó khăn.
Các hoạt động thanh toán, chuyển tiền rất đa dạng, khối lượng chứng từ lớn
nên khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong công tác thanh tra, kiểm tra.
Thứ năm, nhận thức và hiểu biết của doanh nghiệp và người dân về các định
của pháp luật về quản lý ngoại hối, đặc biệt là các quy định về các mục quy đích
được phép và những mục đích không được phép chuyển tiền ra nước ngoài vẫn còn
hạn chế, chưa đầy đủ.
Thứ sáu, Các hình thức xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân còn chưa
cao.
2.2. Thực trạng công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh
toán quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2016-2021
2.2.1. Khung pháp lý
Đến nay, Việt Nam đã có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các chính
sách, kế hoạch tương đối đầy đủ và toàn diện về phòng, chống rửa tiền, bao gồm:
Quy định trong Bộ luật Hình sự, Luật phòng, chống rửa tiền, các văn bản hướng dẫn
luật và một số văn bản chuyên ngành khác. Tội danh rửa tiền được áp dụng cho cả
cá nhân và pháp nhân thương mại.
44
Hiện nay, Luật phòng, chống rửa tiền được Quốc hội thông qua ngày
18/6/2012, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 và là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý
cao nhất về phòng, chống rửa tiền. Luật Phòng, chống rửa tiền đã góp phần nâng
cao hiệu quả trong hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam, minh bạch hóa
nền tài chính quốc gia. Đồng thời, Luật Phòng, chống rửa tiền còn tạo căn cứ, cơ sở
pháp lý cho việc triển khai hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền ngày
càng thuận lợi và sâu rộng và đáp ứng các hành động được nêu trong Kế hoạch
hành động mà FATF đưa ra cho Việt Nam.
Ngân hàng là đối tượng chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về
phòng, chống rửa tiền bao gồm: Luật phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 (có
hiệu lực từ ngày 01/01/2013), Luật các tổ chức tín dụng số 17/2017/QH14 và các
văn bản khác như sau:
- Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng (có hiệu lực từ ngày
12/12/2014) đã có các điều khoản xử phạt cá nhân, tổ chức trong nước và nước
ngoài có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
- Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 30/6/2017 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2018) quy định chế tài hình sự thích đáng và có tính răn đe đối với hành vi
rửa tiền. Bên cạnh đó, số liệu khảo sát cho thấy trong giai đoạn từ 2015 đến nay một
số lượng nhất định nhân viên ngân hàng đã bị điều tra, khởi tố, truy tố về tội phạm
nguồn của tội rửa tiền như tội gian lận, lừa đảo (vụ việc liên quan đến cán bộ, nhân
viên ngân hàng có hành vi gian lận)...
- Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật phòng, chống rửa tiền số
07/2012/QH13 ngày 18/6/2012 quy định đối tượng báo cáo phải xây dựng quy định
nội bộ về phòng, chống rửa tiền (Điều 20), bao gồm có nội dung bồi dưỡng nghiệp
vụ về phòng, chống rửa tiền.
Về hoạt động thanh toán quốc tế, NHNN cũng đã có nhiều văn bản gửi các
NHTM như sau:
- Văn bản số 335/NHNN- TTSGNH.m ngày 06/5/2016 về việc kiểm soát chặt
45
chẽ hoạt động thanh toán nhập khẩu của các doanh nghiệp.
- Văn bản số 626/NHNN-TTGSNH.m ngày 16/8/2016 về việc tăng cường các
biện pháp phòng, chống hoạt động buôn lậu, gian lận thuế, trốn thuế, rửa tiền.
- Văn bản số 900/TTGSNH11 ngày 05/6/2019 về việc xử lý thông tin giao
dịch có dấu hiệu tội phạm trong đó có nội dung một số giao dịch chuyển tiền nước
ngoài cho các cá nhân, tổ chức nhận tiền tại Việt Nam, sau đó ngân hàng phát lệnh
chuyển tiền yêu cầu hoàn trả do đã phát hiện khoản chuyển tiền đó liên quan đến
lừa đảo, gian lận.
- Văn bản số 9557/NHNN-TTGSNH ngày 06/12/2019 yêu cầu các NHTM chủ
động thực hiện hoàn thiện các Quy định/Quy trình/Chính sách nội bộ trong hoạt
động ngoại hối và thanh toán quốc tế, đặc biệt đối với hoạt động chuyển tiền ra
nước ngoài nhằm hạn chế tối đa các sơ hở và sai sót có thể xảy ra để kẻ xấu lợi
dụng, kết nối cổng thông tin đối với hệ thống tờ khai hải quan điện tử nhằm đảm
bảo mọi giao dịch thanh toán quốc tế đều được kiểm tra chặt chẽ.
- Văn bản số 9558/NHNN-TTGSNH ngày 06/12/2019 gửi NHNN chi nhánh
tỉnh, thành phố về cảnh báo rủi ro trong hoạt động ngoại hối và thanh toán quốc tế
và yêu cầu chủ động chỉ đạo, xử lý và kịp thời đề xuất, kiến nghị Thống đốc NHNN
các biện pháp xử lý khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý hoạt động ngoại
hối và thanh toán quốc tế trên địa bàn.
2.2.2. Tổ chức thực hiện
2.2.2.1. Tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHNN đã thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền là Cục
Phòng, chống rửa tiền. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục
PCRT được quy định tại Quyết định số 1367/QĐ-NHNN ngày 26/6/2019 và Quyết
định số 2393/QĐ-NHNN ngày 14/11/2019 của Thống đốc NHNN. Theo các quyết
định, về vị trí chức năng, Cục PCRT là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng và có chức năng giúp Chánh Thanh tra, giám sát
ngân hàng, Thống đốc NHNN quản lý nhà nước về PCRT. Đồng thời, thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan PCRT theo quy định của pháp luật về PCRT. Theo chuẩn
46
mực quốc tế, Cục PCRT có vai trò là một trung tâm quốc gia thực hiện chức năng
tiếp nhận, phân tích và chuyển giao các thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ
khủng bố và các tội phạm khác liên quan đến rửa tiền. Với vai trò này, Cục PCRT là
Đơn vị tình báo tài chính (FIU) của Việt Nam.
Theo đánh giá của NHNN, được thành lập từ cuối năm 2005 và được cơ cấu
lại năm 2009, qua xem xét kết quả thu thập, phân tích và chuyển giao thông tin giao
dịch đáng ngờ cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Cục PCRT có thể thấy
Cục PCRT đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận sau:
Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ nhận được từ các đối tượng báo cáo
ngày một gia tăng. Từ năm 2010 đến năm 2017, Cục PCRT đã tiếp nhận 7.285 báo
cáo giao dịch đáng ngờ, trong đó khối ngân hàng chiếm 83,46%. Cục PCRT đã
chuyển giao 614 vụ việc liên quan đến 3.588 báo cáo giao dịch đáng ngờ cho cơ
quan chức năng để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử và phòng, chống tội
phạm theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận được thông tin do Cục PCRT
chuyển giao, các cơ quan chức năng đã tiến hành xử lý và có thông tin phản hồi về
kết quả điều tra, xác minh làm rõ các vụ việc với Cục PCRT. Bên cạnh đó, Cục
PCRT đã đưa ra nhiều cảnh báo cho các cơ quan quản lý và các đối tượng báo cáo
liên quan đến các hiện tượng gian lận, lừa đảo và các hành vi phạm pháp luật khác.
Trong giai đoạn 2013 - 2021, Cục PCRT đã chuyển giao hơn 1.000 vụ việc
cho các cơ quan chức năng; phối hợp cung cấp thông tin cho gần 1.000 lượt đề nghị
phục vụ công tác điều tra, thanh tra, kiểm tra. Thông tin, tài liệu do Cục PCRT
chuyển giao, cung cấp là kênh thông tin vô cùng hữu ích cho các cơ quan chức năng
trong hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đã có hàng chục vụ
việc được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, nhiều vụ việc liên quan đến thuế, hải quan
và cơ quan chức năng đã truy thu hàng trăm tỷ tiền thuế cho ngân sách nhà nước.
Căn cứ kết quả phân tích, xử lý thông tin nhận được từ đối tượng báo cáo và từ
các cơ quan, tổ chức trong, ngoài nước, Cục PCRT đã có nhiều văn bản cảnh báo
tới các đối tượng báo cáo để chủ động có biện pháp phòng ngừa phù hợp và gửi tới
các cấp, các ngành có liên quan để phối hợp phổ biến tới các đối tượng báo cáo
47
thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành những cảnh báo liên quan đến: Danh sách chỉ
định của các Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; danh sách về các cá
nhân, tổ chức và quốc gia chịu sự trừng phạt của Hoa Kỳ hoặc Liên minh Châu Âu
cảnh báo về các hiện tượng kinh doanh tiền điện tử, tiền ảo trên mạng có dấu hiệu
liên quan đến rửa tiền, kinh doanh trái phép; cảnh báo về tình trạng lừa đảo, gian
lận, sử dụng giấy tờ giả mạo.
2.2.2.2. Tại các NHTM Việt Nam
Tại một cuộc khảo sát nhóm về mức độ thực hiện hiệu quả công tác phòng
chống rửa tiền từ góc độ của cán bộ nhân viên chuyên trách tại 22 NHTM Việt Nam
có kết quả như sau:
Biểu đồ 2.7: Khảo sát mức độ thực hiện hiệu quả công tác phòng chống rửa
tiền
Nguồn: Nguyễn Thị Loan, trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2016
Theo số liệu khảo sát có thể thấy yếu tố về Hệ thống thông tin, truyền thông về
phòng chống rửa tiền ở mức độ hiệu quả cao chiếm tới gần 50%. Điều này thể hiện
tầm quan trọng của việc phát triển công nghệ thông tin ứng dụng vào công tác
phòng chống rửa tiền. Về mức độ thực hiện hoạt động phòng chống rửa tiền, hầu
48
hết các các NHTM Việt Nam đều đã ban hành có quy định về phòng chống rửa tiền,
phân công quyền hạn, trách nhiệm cho các bộ phận, các cá nhân tham gia, xây dựng
hệ thống thông tin, báo cáo và đào tạo nhân viên liên quan đến phòng chống rửa
tiền (tỷ lệ từ 80-94%).
Tuỳ theo cơ cấu tổ chức của mỗi ngân hàng, mô hình tổ chức phòng chống rửa
tiền có thể khác nhau, song về cơ bản thì quy trình thực hiện các biện pháp phòng
chống rửa tiền đang được diễn ra như sau:
Bước đầu tiên là phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng: đây là
những thủ tục cần thiết phải thực hiện nhằm nắm bắt những thông tin có liên quan
tới cá nhân, tổ chức đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ, sản phẩm do
ngân hàng cung cấp. Việc xác minh thông tin nhận biết khách hàng được bộ phận
trực tiếp giao dịch thu thập qua các mẫu biểu, văn bản hoặc công cụ thu thập thông
tin khác phù hợp với từng sản phẩm/dịch vụ.
Ngân hàng tiến hành thu thập thông tin nhận biết khách hàng để phục vụ công
tác PCRT khi:
- Khách hàng thiết lập mối quan hệ giao dịch hoặc mở tài khoản lần đầu tại
ngân hàng,
- Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên giá trị lớn.
- Khách hàng thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử nhưng thiếu thông
tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo.
- Khách hàng có giao dịch đáng ngờ liên quan đến hoạt động rửa tiền, tài trợ
khủng bố.
- Khi ngân hàng nghi ngờ về tính trung thực hoặc đầy đủ các của thông tin
nhận biết khách hàng đã thu thập trước đây.
Việc nhận biết khách hàng có liên quan đến giao dịch đáng ngờ được thực
hiện thông qua tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và được hỗ trợ bởi phần mềm
PCRT của các ngân hàng. Phần mềm PCRT dùng để: hỗ trợ việc cập nhật, cảnh báo
khách hàng theo các danh sách cảnh báo, danh sách đen; hỗ trợ việc quét tức thời
49
các giao dịch thanh toán theo các danh sách cảnh báo, danh sách đen; hỗ trợ việc lọc
và giám sát các giao dịch đáng ngờ; thực hiện phân loại khách hàng theo mức độ rủi
ro rửa tiền; hỗ trợ việc lập báo cáo PCRT.
Bảng 2.1: Thống kê các phần mềm phòng chống rửa tiền tại các NHTM
STT Ngân hàng Phần mềm
1 Agribank Tombeller
2 BIDV 3i Infotech
3 Vietcombank Tombeller
4 Techcombank AMLock
5 Sacombank AMLExpress Gtone
6 VPBank Sanctions Screening
7 Eximbank EastNets
8 VIB 3i Infotech
Nguồn: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng
Các NHTM có thể phân loại khách hàng theo mức độ RRRT/TTKB trên cơ sở
đánh giá rủi ro đối với các yếu tố sau: Loại khách hàng; nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt
động; loại sản phẩm, dịch vụ khách hàng sử dụng; vị trí địa lý nơi khách hàng cư trú
hoặc có trụ sở giao dịch; vị trí địa lý nơi chủ sở hữu hưởng lợi của khách hàng cư
trú hoặc có trụ sở giao dịch. Có ba mức độ rủi ro được xếp hạng bao gồm: Rủi ro
cao, rủi ro trung bình, rủi ro thấp.
50
Bảng 2.2: Mức độ giám sát khách hàng theo phân loại rủi ro
Phân loại khách hàng Mức độ giám sát
Rủi ro cao Kiểm tra giám sát thường xuyên và bắt buộc trong
việc tìm hiểu thông tin khách hàng.
Rủi ro trung bình Kiểm tra giám sát ở mức độ bình thường và tìm hiểu
thông tin về khách hàng khi có yêu cầu.
Rủi ro thấp Kiểm tra giám sát ở mức độ đơn giản và chỉ đòi hỏi
những thông tin thông thường về khách hàng.
Nguồn: Ngân hàng thế giới – Worldbank, 2017
Bước tiếp theo thực hiện giám sát, xử lý giao dịch đáng ngờ: các giao dịch của
khách hàng sẽ được giám sát theo các dấu hiệu đáng ngờ; phân tích, đối chiếu với
thông tin nhận biết khách hàng, thông tin về các bên liên quan đến giao dịch để xác
định giao dịch đáng ngờ. Ngân hàng sẽ thực hiện giám sát đặc biệt đối với các giao
dịch có giá trị lớn hoặc phức tạp; giao dịch với tổ chức, cá nhân tại các quốc gia,
vùng lãnh thổ nằm trong danh sách FATF công bố.
Khi phần mềm PCRT cảnh báo hoặc qua giao dịch mà phát hiện các dấu hiệu
đáng ngờ, bộ phận giao dịch trực tiếp sẽ báo cáo ngay tới lãnh đạo phụ trách và xem
xét quyết định chuyển tiếp bộ phận phụ trách PCRT tại chi nhánh nơi giao dịch nếu
xác định đây đúng là giao dịch đáng ngờ. Bộ phận phụ trách PCRT tại chi nhánh
nơi giao dịch thực hiện gửi STR đến bộ phận phụ trách PCRT của trụ sở chính. Tại
đây, STR của chi nhánh sẽ được phê duyệt để gửi đi Cục PCRT theo quy định.
Theo kết quả khảo sát nhóm tiếp theo về mức độ xuất hiện báo cáo giao dịch
đáng ngờ tại 22 NHTM Việt Nam có kết quả như sau:
51
Biểu đồ 2.8: Khảo sát mức độ xuất hiện các giao dịch đáng ngờ
tại các NHTM Việt Nam
Nguồn: Nguyễn Thị Loan, trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2016
Theo số liệu của khảo sát cho thấy, tỷ lệ mức độ báo cáo giao dịch đáng ngờ
thường xuyên xuất hiện rất nhỏ chỉ từ 3-8%. Xét về mức độ không thường xuyên,
dấu hiệu đáng ngờ về thông khách hàng chiếm tỷ lệ cao nhất (62%), tiếp theo là dấu
hiệu đáng ngờ về giá trị thanh toán (57%) và phương thức thanh toán (48%). Có thể
thấy việc nhận biết thông tin khách hàng rất quan trọng trong việc hình thành các
báo cáo giao dịch đáng ngờ và là khâu quan trọng trong công tác phòng chống rửa
tiền. Tuy nhiên, mức độ không xuất hiện cũng đang chiếm một tỷ lệ không nhỏ, từ
32-59%. Do đó, có thể kể đến các trường hợp bỏ sót tội phạm có thể xảy ra.
2.3. Đánh giá thực trạng về công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong hoạt
động thanh toán quốc tế tại Việt Nam giai đoạn 2016-2021.
2.3.1. Kết quả đạt được
Công tác phòng chống rửa tiền bước đầu đã góp phần đảm bảo an toàn hoạt
động ngân hàng nói riêng và đảm bảo an ninh xã hội nói chung. Nhìn tổng quan, với
sự nỗ lực của hệ thống Ngân hàng và Chính phủ, công tác phòng chống rủi ro rửa
52
tiền tại Việt Nam giai đoạn 2016-2021 đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận,
đó là:
Thứ nhất là khuôn khổ pháp lý về PCRT bước đầu đã được hình thành.
Sau khi Luật PCRT được ban hành, hàng loạt các Nghị định, Quyết định,
Thông tư hướng dẫn thực hiện pháp luật PCRT và các Nghị định xử phạt vi phạm
hành chính trong nhiều lĩnh vực chuyên ngành đã được xây dựng, sửa đổi, bổ sung
để hoàn thiện cơ sở pháp lý về PCRT, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
công tác PCRT, đồng thời, với việc ban hành Luật PCRT và các văn bản hướng
dẫn, Việt Nam cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận nỗ lực trong việc giải
quyết những thiếu hụt nghiêm trọng trong cơ chế PCRT và đáp ứng cơ bản các
Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) về chống rửa tiền.
Thứ hai, Cục PCRT đã đạt kết quả các nhiệm vụ quản lý Nhà nước về công
tác PCRT như: tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về PCRT; tiếp
nhận hàng ngàn báo cáo giao dịch đáng ngờ, báo cáo giao dịch có giá trị lớn và báo
cáo chuyển tiền điện tử từ các đối tượng báo cáo theo quy định của Luật PCRT và
triển khai phân tích, chuyển giao nhiều thông tin cho các cơ quan chức năng theo
quy định; làm đầu mối phối hợp với các Bộ, ngành thực hiện đánh giá rủi ro quốc
gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố của Việt Nam năm 2017-2018; đẩy mạnh công tác
trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố với các Đơn vị tình báo
tài chính (FIU) hoặc cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài; phối hợp với các
quốc gia và tổ chức quốc tế như: Cơ quan Phòng, chống tội phạm và ma túy của
Liên hợp quốc (UNODC), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Bộ Tài chính Hoa Kỳ, Văn Phòng Tổng Chưởng
lý Úc...triển khai nhiều hoạt động về PCRT, chống tài trợ khủng bố tại Việt Nam.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, đào tạo nâng cao nhận thức về PCRT được đẩy
mạnh trong thời gian qua.
NHNN - với vai trò là cơ quan đầu mối đã phối hợp với các bộ, ngành và đối
tác có liên quan ở trong và ngoài nước để:
- Tổ chức các khóa tuyên truyền về pháp luật PCRT cho hàng chục nghìn lượt
53
cán bộ, nhân viên của các bộ, ngành, đơn vị và đối tượng báo cáo tại 63 tỉnh, thành
phố trên toàn quốc;
- Tổ chức các khóa đào tạo về PCRT cho nhiều đối tượng báo cáo thuộc các
loại hình khác nhau;
- Xây dựng các đặc san, xuất bản cẩm nang về PCRT, công trình nghiên cứu
khoa học, cùng nhiều bài viết nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật PCRT.
- Các bộ, ngành liên quan cũng chủ động triển khai nhiều lớp tập huấn về
PCRT, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị phổ biến, quán triệt thực hiện pháp luật PCRT;
cập nhật thông tin về phương thức, thủ đoạn rửa tiền đưa vào chương trình giáo dục
pháp luật hàng năm.
Các hoạt động này đã góp phần nâng cao nhận thức, hiệu quả công tác quản lý
nhà nước, công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền tại các bộ, ngành; cải
thiện việc tuân thủ thực hiện pháp luật PCRT của các đối tượng báo cáo.
Thứ tư, hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, giám sát về PCRT đã được
tăng cường: Trong thời gian qua, công tác chỉ đạo, hướng dẫn về thanh tra, giám sát
việc tuân thủ pháp luật về PCRT, tài trợ khủng bố và xử phạt vi phạm hành chính đã
được các bộ, ngành bước đầu được triển khai. Từ năm 2013 đến nay, đã có hàng
trăm cuộc thanh tra, kiểm tra về PCRT tại các tổ chức báo cáo.
Thứ năm, hoạt động hợp tác quốc tế trong PCRT tiếp tục được đẩy mạnh:
Công tác trao đổi thông tin về PCRT được đẩy mạnh thông qua việc đàm phán và
ký kết 9 Bản ghi nhớ (MOU) trao đổi thông tin liên quan đến rửa tiền và tài trợ
khủng bố; đẩy mạnh trao đổi thông tin tình báo tài chính với các đối tác quốc tế.
Việt Nam thực hiện vai trò thành viên tích cực tại Nhóm châu Á - Thái Bình Dương
về chống rửa tiền (APG) nhất là hoạt động đánh giá đa phương giai đoạn 2019 -
2021, thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Thứ sáu, các NHTM đã thực hiện có hiệu quả các biện pháp PCRT.
Trên cơ sở quy định của pháp luật PCRT, hiện nay, hầu hết các NHTM đã xây
dựng quy định nội bộ, thực hiện các quy định về nhận biết, cập nhật thông tin khách
54
hàng, thực hiện trách nhiệm báo cáo, cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của Luật PCRT. Các NHTM cũng chủ động xây dựng và triển khai
các chương trình đào tạo hàng năm để nâng cao nhận thức về PCRT.
Tính từ năm 2013 đến năm 2021, Cục PCRT đã tiếp nhận khoảng 12.000 báo
cáo giao dịch đáng ngờ chủ yếu từ các NHTM. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu của Cục
PCRT đã nhận các báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử và giao dịch tiền mặt giá
trị lớn liên quan đến khoảng 425 triệu giao dịch. Số lượng báo cáo mà Cục PCRT
tiếp nhận trong giai đoạn này tăng nhiều lần so với giai đoạn trước khi Luật PCRT
được ban hành, số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ tăng 6 lần so với giai đoạn
2006 - 2013, chất lượng báo cáo cũng có sự cải thiện rõ rệt.
Cuối cùng, các NHTM đã nâng cao khả năng giám sát quy trình phòng chống
rửa tiền.
Các NHTM cũng tự mình nâng cao khả năng giám sát trong quy trình phòng
chống rủi ro rửa tiền bằng việc thành lập các bộ phận chuyên trách có tên là
Phòng/Ban Phòng chống rửa tiền. Bộ phận này có vai trò đảm nhận mọi hoạt động
liên quan đến công tác phòng chống rủi ro rửa tiền như: tổ chức các chương trình
đào tạo cho cán bộ nhân viên, đưa ra tư vấn nghiệp vụ khi nhân viên gặp khó khăn
khi áp dụng các biện pháp phòng chống rủi ro rửa tiền, kiểm soát việc tuân thủ các
quy định nội bộ và các chính sách của Nhà nước. Ngoài ra, bộ phận này còn có
trách nhiệm giám sát hoạt động phòng chống rủi ro rửa tiền của tất cả các phòng
ban khác. Tuỳ thuộc vào quy định của mỗi ngân hàng, Phòng/Ban Phòng chống rửa
tiền sẽ phải tổng hợp các báo cáo giao dịch đáng ngờ và báo cáo mức độ tuân thủ
quy định phòng chống rửa tiền của các phòng ban khác theo định kỳ hàng tuần hay
hàng tháng.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Những hạn chế
Thứ nhất, khung pháp lý còn nhiều kẽ hở như sau:
- Một số lĩnh vực, hoạt động có rủi ro rửa tiền cao chưa được quy định là đối
tượng báo cáo theo Luật PCRT. Quy định về đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa
55
theo kịp sự phát triển trong các hoạt động của các tổ chức tài chính và phi tài chính
trên thực tế. Theo đó Luật PCRT hiện chưa bao quát đầy đủ các lĩnh vực có rủi ro
rửa tiền như: cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, cho vay ngang hàng, cung cấp
dịch vụ tiền ảo, tài sản ảo, dịch vụ cầm đồ...
- Thiếu các quy định về đánh giá rủi ro và áp dụng phương pháp tiếp cận trên
cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Luật PCRT năm 2012 không có quy định về việc
đánh giá rủi ro rửa tiền cấp độ quốc gia, ngành và tại từng tổ chức và việc thực hiện
các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của đối tượng báo cáo cũng như hoạt động
thanh tra, giám sát PCRT trên cơ sở rủi ro của các bộ, ngành. Đây là một trong
những yêu cầu quan trọng trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1
trong bộ 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT được Đoàn đánh giá đa phương của
APG khuyến nghị bổ sung để khắc phục những khuyết thiếu trong cơ chế PCRT.
- Quy định về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo vẫn còn
những hạn chế, thiếu hụt so với yêu cầu tại 40 khuyến nghị của FATF về các biện
pháp ngăn ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, như: (i) Quy định về
cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEPs) không điều chỉnh đối với PEPs trong nước -
là nhóm đối tượng khách hàng có rủi ro rửa tiền (từ tham nhũng) cao; (ii) Các quy
định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng;
(iii) Quy định về các dấu hiệu cảnh báo về giao dịch đáng ngờ mới trong một số
lĩnh vực kinh doanh bất động sản, lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý vẫn
chưa có hướng dẫn cụ thể; (iv) Quy định về khai báo, cung cấp thông tin về việc
vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
còn chưa đầy đủ, rõ ràng; (v) Các quy định về nhận biết và xác minh thông tin nhận
biết khách hàng, chủ sở hữu hưởng lợi và nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ, hoạt động ngân
hàng đại lý, chuyển tiền điện tử, kiểm soát nội bộ, tiết lộ thông tin, dựa vào bên thứ
ba... còn hạn chế, thiếu hụt, chưa đáp ứng yêu cầu trong khuyến nghị của FATF.
- Quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong PCRT còn thiếu và
chưa rõ ràng. Xuất phát từ hoạt động quản lý nhà nước, hiện nay tại một số lĩnh
vực chưa có sự phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước như lĩnh vực kinh doanh
kim loại quý, đá quý, do đó chưa có quy định rõ ràng về cơ quan có trách nhiệm
56
thanh tra, giám sát hoạt động PCRT đối với đối tượng kinh doanh các loại kim loại
quý, đá quý khác. Bên cạnh đó, khi các đối tượng báo cáo mới được bổ sung, Luật
PCRT cũng cần phải bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
nước trong PCRT đối với các lĩnh vực mới phát sinh này.
Nhìn chung, các quy phạm pháp luật về hoạt động phòng chống rủi ro rửa tiền
vẫn còn chưa có tính răn đe cao, còn nhiều yếu tố chưa phù hợp, đồng thời cũng
chưa khuyến khích các NHTM tuân thủ các quy định một cách nghiêm túc.
Thứ hai, việc tổ chức thực hiện tại NHNN còn nhiều hạn chế.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG năm 2022, APG đã chỉ ra việc Cục
trưởng Cục PCRT chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mọi hoạt động của Cục PCRT là chưa đáp ứng
đầy đủ yêu cầu để Cục PCRT thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự
chủ; việc Cục PCRT nằm trong Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có thể dẫn
đến một số quan ngại về vấn đề bảo mật thông tin và lo ngại về tính độc lập trong
hoạt động của đơn vị tình báo tài chính, vốn được coi trọng đặc biệt. Trên cơ sở đó,
APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền
và tính độc lập cho Cục PCRT để nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
Với mô hình tổ chức, vị trí, chức năng của Cục PCRT hiện nay, chưa đáp ứng
được yêu cầu về tính độc lập của đơn vị tình báo tài chính theo chuẩn mực quốc tế,
là một trong lý do chính mà Việt Nam chưa gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình
báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont) mặc dù đã có đơn gia nhập và đã được công
nhận là quan sát viên của Nhóm Egmont từ năm 2010.
Trong hoạt động hợp tác quốc tế, các đơn vị tình báo tài chính trên thế giới
được khuyến nghị ký kết Bản ghi nhớ để trao đổi thông tin về PCRT. Theo chuẩn
mực và thông lệ quốc tế, người đứng đầu đơn vị tình báo tài chính là người có thẩm
quyền ký Bản ghi nhớ (đây là thẩm quyền bắt buộc phải có của đơn vị tình báo tài
chính). Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Thỏa thuận quốc tế, Bản ghi nhớ
phải được ký nhân danh Tổng cục, cục thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ. Điều này, gây
nhiều khó khăn cho Cục PCRT trong quá trình đàm phán ký kết Bản ghi nhớ cũng
57
như ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động trao đổi thông tin với đối tác nước ngoài (do
nhiều đơn vị tình báo tài chính trên thế giới chỉ chấp nhận việc chia sẻ thông tin sau
khi đã ký kết Bản ghi nhớ) và thực hiện các nghĩa vụ của Việt Nam trong APG;
Thứ ba, việc tổ chức thực hiện tại các NHTM còn nhiều bất cập như sau:
- Các NHTM chưa có mô hình tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế thống
nhất.
Ở Việt Nam hiện nay, các NHTM lựa chọn mô hình hoạt động thanh toán
quốc tế chưa đồng nhất, có ngân hàng lựa chọn mô hình xử lý tập trung, có ngân
hàng giữ nguyên mô hình nửa phân tán, nửa tập trung, một số ngân hàng lại xử lý
tập trung nhưng cũng không tập trung hoá hết tất cả các nghiệp vụ. Chính điều này
đã khiến chất lượng thanh toán quốc tế không đồng đều giữa các NHTM gây khó
khăn cho Nhà nước trong việc ban hành các chính sách thống nhất cho toàn hệ
thống NHTM. Ngoài ra, việc không thống nhất mô hình hoạt động thanh toán quốc
tế cũng khiến các NHTM khó khăn khi muốn liên kết, hỗ trợ nghiệp vụ thanh toán
quốc tế cho nhau.
- Cơ sở vật chất và hệ thống công nghệ thông tin của các NHTM phát triển
chưa đồng đều.
Trong hệ thống các NHTM ở nước ta hiện nay, nhiều NHTM đã rất chú trọng
phát triển hệ thống công nghệ thông tin, áp dụng những công nghệ hàng đầu thế
giới, nhưng bên cạnh đó cũng còn một số NHTM vẫn áp dụng hệ thống công nghệ
trình độ thấp. Chính điều này gây ra khó khăn cho các ngân hàng trong việc phối
hợp triển khai các dịch vụ có sự liên minh liên kết cao như: kết nối sử dụng thẻ giữa
các ngân hàng, đại lý bao thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, cảnh báo các trường hợp
đáng ngờ trong hoạt động thanh toán quốc tế,…
- Việc đào tạo cán bộ nhân viên trong công tác phòng chống rủi ro rửa tiền
tuy đã có những kết quả ban đầu, nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định.
Do hiện tại ở các NHTM số lượng cán bộ nhân viên ngày càng đông, nhu cầu
giao dịch thanh toán quốc tế cũng ngày càng tăng, khiến cho việc đào tạo nhân viên
tại phòng thanh toán quốc tế không thể đồng bộ được mà phải chia nhỏ ra thành
58
những đợt nhỏ. Điều này khiến cho việc nắm bắt thông tin, cập nhật mới về công
tác phòng chống rủi ro rửa tiền giữa các nhân viên không đồng nhất, tạo ra một lỗ
hổng trong quy trình phòng chống rửa tiền tại mỗi NHTM.
Bên cạnh đó, lực lượng cán bộ nhân viên chuyên trách hoạt động thu thập,
phân tích, xử lý thông tin còn quá mỏng. Trong khi đó, sự phát triển của hoạt động
thanh toán quốc tế tại các NHTM cũng đi kèm với sự gia tăng các báo cáo giao dịch
đáng ngờ. Điều này cũng gây ra việc bỏ sót các hành vi phạm tội.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế nói trên
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan là do các quy phạm pháp luật về hoạt
động phòng chống rửa tiền vẫn còn chưa có tính răn đe cao, còn nhiều yếu tố chưa
phù hợp, đồng thời cũng chưa khuyến khích các NHTM tuân thủ các quy định một
cách nghiêm túc.
Thứ hai, bên cạnh nguyên nhân khách quan nói trên, một số nguyên nhân chủ
quan gây ra nhiều hạn chế cho việc tổ chức thực hiện công tác phòng chống rủi ro
rửa tiền tại các NHTM như sau:
- Việc đào tạo cán bộ nhân viên trong công tác phòng chống rủi ro rửa tiền
tuy đã có những kết quả ban đầu, nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định.
Do hiện tại ở các NHTM số lượng cán bộ nhân viên ngày càng đông, nhu cầu giao
dịch thanh toán quốc tế cũng ngày càng tăng, khiến cho việc đào tạo nhân viên tại
phòng thanh toán quốc tế không thể đồng bộ được mà phải chia nhỏ ra thành những
đợt nhỏ. Điều này khiến cho việc nắm bắt thông tin, cập nhật mới về công tác
phòng chống rủi ro rửa tiền giữa các nhân viên không đồng nhất, tạo ra một lỗ hổng
trong quy trình phòng chống rủi ro rửa tiền tại mỗi NHTM.
- Lực lượng cán bộ nhân viên chuyên trách hoạt động thu thập, phân tích, xử
lý thông tin còn quá mỏng. Trong khi đó, sự phát triển của hoạt động thanh toán
quốc tế tại các NHTM cũng đi kèm với sự gia tăng các báo cáo giao dịch đáng ngờ.
Điều này cũng gây ra việc bỏ sót các hành vi phạm tội.
- Ứng dụng công nghệ giữa các NHTM chưa thống nhất, mỗi ngân hàng sử
dụng một hệ thống phần mềm riêng gây ra nhiều khó khăn và lúng túng trong việc
59
tuân thủ luật. Ngoài ra, sự thiếu tính đồng bộ của các văn bản quy phạm pháp luật
như: Luật Doanh nghiệp, Luật Dân sự, Luật Hình sự,.. tạo nên nhiều kẽ hở. Tội
phạm rửa tiền cũng lợi dụng các kẽ hở này để thực hiện các hành vi phạm pháp của
mình.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Xu thế toàn cầu hoá dẫn đến hoạt động thanh toán quốc tế đang diễn ra rất sôi
nổi và phát triển rất mạnh mẽ, song hành là sự xuất hiện và phát triển của tội phạm
rửa tiền, chúng có thể có mặt ở bất cứ nơi đâu, từ các quốc gia phát triển đến các
quốc gia đang phát triển. Luận văn đã phân tích, đánh giá được thực trạng rủi ro rửa
tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế trong giai đoạn 2016-2021 dựa trên việc
thống kê các dấu hiệu rửa tiền trong các báo cáo giao dịch đáng ngờ được các
NHTM gửi tới Cục PCRT: từ phương thức giao dịch, giá trị giao dịch và địa bàn
phát sinh giao dịch trọng yếu, để các NHTM có thông tin và làm rõ các dấu hiệu
trong việc phân tích giao dịch đáng ngờ, chủ động có các biện pháp ngăn chặn và
không thiết lập quan hệ với khách hàng nếu phát hiện các dấu hiệu trái quy định
pháp luật. Về thực trạng quản lý, giám sát phòng chống rửa tiền trong hoạt động
thanh toán quốc tế, khung khổ pháp lý có liên quan đã từng bước được hoàn thiện,
công tác tổ chức thực hiện tại NHNN và các NHTM cũng được chú trọng và đã đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù vậy, công tác phòng, chống rủi ro rửa
tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế còn có một số tồn tại, bất cập như: (i) Luật
PCRT đã bộc lộ những hạn chế dẫn đến sự chưa đồng bộ hoặc còn chồng chéo dẫn
đến bất cập trong quá trình triển khai, chưa phù hợp với thực tiễn và chuẩn mực
quốc tế mới về PCRT, (ii) Cục PCRT chưa đảm bảo được tính độc lập, tự chủ trong
thực hiện chức năng của FIU, điều này dẫn đến những khó khăn trong việc triển
khai hoạt động, (iii) Các NHTM chưa có mô hình tổ chức hoạt động thanh toán
quốc tế thống nhất, (iv) Cơ sở vật chất và hệ thống công nghệ thông tin của các
NHTM phát triển chưa đồng đều, (v) Quy trình kiểm tra hồ sơ, chứng từ giao dịch
thanh toán quốc tế thông qua hợp đồng xuất nhập khẩu còn nhiều tồn tại…
60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN,
CỦNG CỐ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG RỦI RO RỬA TIỀN TRONG
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI
3.1. Dự báo nguy cơ rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt
Nam trong thời gian tới và những yêu cầu đặt ra đối với công tác phòng chống
rủi ro rửa tiền đối với Việt Nam
3.1.1. Dự báo nguy cơ rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt
Nam trong thời gian tới
Hiện nay, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, các giao
dịch thanh toán, chuyển tiền ngày càng đang dạng, phong phú. Để thực hiện cam
kết về tự do hóa giao dịch vãng lai: không có một nước hội viên nào, nếu không có
sự chấp thuận của Quỹ, được áp dụng những hạn chế đối với việc thực hiện các
thanh toán và chuyển tiền trong các giao dịch quốc tế vãng lai (khoản 2 (a) Điều
VIII “ Nghĩa vụ của các nước thành viên” Điều lệ Quỹ Tiền tệ quốc tế), NHNN cho
phép tổ chức, người dân khi có nhu cầu chuyển tiền cho các giao dịch vãng lai được
tự do thực hiện và thực hiện tại các TCTD được phép hoạt động ngoại hối trên cơ
sở xuất trình các chứng từ phù hợp. Việc tự do hóa giao dịch vãng lai và từng bước
tự do hóa các giao dịch vốn là nguyên nhân khiến mức độ kiểm soát đối với các
giao dịch chuyển tiền quốc tế được nới lỏng hơn, từ đó rủi ro rửa tiền ngày càng
tăng cao.
Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022 của Tổng cục
Thống kê, kinh tế Việt Nam phục hồi với tốc độ nhanh chóng sau đại dịch Covid-19
do lợi thế mở cửa khơi thông giao thương sớm với các nước trên thế giới. Bên cạnh
đó hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng phát triển tăng cường do các hiệp
định thương mại tự do mới được ký kết. Thương mại quốc tế phát triển thúc đẩy
hoạt động thanh toán quốc tế trở nên sôi động hơn và đồng thời nguy cơ rửa tiền
cũng sẽ ngày một tăng cao.
61
3.1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với công tác phòng chống rủi ro rửa tiền đối với
Việt Nam trong thời gian tới
Định hướng chiến lược trong công tác phòng, chống rủi ro rửa tiền cần hướng
đến các nội dung sau:
Thứ nhất, như đã dự báo về độ mở của nền kinh tế Việt Nam cũng như nguy
cơ rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế có xu hướng tăng cao, cần tăng
cường và nâng cao công tác phòng, chống rủi ro rửa tiền.
Thứ hai, song song với việc tăng cường công tác phòng, chống rủi ro rửa tiền,
cần có các biện pháp để đảm bảo hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế không bị
cản trở phát triển.
Thứ ba, hành vi rửa tiền ngày càng gia tăng và phức tạp hơn rất nhiều dưới sự
phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế số, do vậy cần thiết phải tăng
cường các biện pháp phòng chống rủi ro rửa tiền áp dụng công nghệ đổi mới và
hoàn thiện khuôn khổ pháp luật phòng, chống rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực công
nghệ cao.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện, củng cố công tác phòng, chống rủi ro rửa tiền
trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam.
3.2.1. Về việc tổ chức thực hiện tại NHNN
Thứ nhất là cần phải tách chức năng PCRT ra khỏi Cơ quan thanh tra, giám
sát ngân hàng và đơn vị tình báo tài chính thành đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước
để nâng cao năng lực hoạt động của đơn vị đầu mối về PCRT, thúc đẩy thực hiện có
hiệu quả các đánh giá của APG, khuyến nghị của FATF đối với tính độc lập đơn vị
tình báo tài chính.
Thứ hai, tiếp tục đầu tư hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác phòng
chống rửa tiền cho Cục Phòng, chống rửa tiền.
Việc đầu tư cho hệ thống công nghệ thông tin sẽ giúp cho cho Cục Phòng,
chống rửa tiền kịp thời thu thập, phân tích thông tin về các báo cáo giao dịch đáng
ngờ từ các NHTM để đưa ra các cảnh báo đối với các NHTM và đề nghị cơ quan
62
công an tiến hành điều tra. Ngoài ra, hệ thống công nghệ thông tin hiện đại còn có
khả năng kết nối thông tin giữa các Bộ, ngành cũng như tăng cường an toàn, bảo
mật thông tin. Ngoài ra, cũng cần hỗ trợ và xây dựng hệ thống phần mềm quản lý
tại các NHTM nhằm phân tích và nhận diện các giao dịch đáng ngờ.
Thứ ba, Ban hành quy chế giám sát việc tuân thủ các quy định về phòng chống
rửa tiền. NHNN cần ban hành và giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định về
phòng chống rửa tiền tại các NHTM như:
- Nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật Phòng, chống rửa tiền đối với các quy
định về nhận dạng, cập nhật thông tin khách hàng; đánh giá rủi ro khách hàng; tiết
lộ bí mật thông tin; thỏa thuận pháp lý; người có ảnh hưởng chính trị (bao gồm cả
cá nhân có ảnh hưởng chính trị trong nước)... phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
- Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn các nhà cung cấp dịch vụ chuyển
tiền hoặc giá trị thực hiện các quy định về phòng, chống rửa tiền.
- Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định liên quan đến
chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố khi áp dụng sản phẩm công nghệ mới hoặc
sản phẩm cũ nhưng áp dụng công nghệ mới.
- Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các biện pháp nhận biết, cập
nhật, thông tin khách hàng tăng cường đối với các khách hàng có giao dịch từ các
quốc gia chịu sự cảnh báo của FATF.
Thứ tư, thường xuyên rà soát, nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện cơ sở pháp lý
về hoạt động thanh toán, chuyển tiền xuyên biên giới, làm cơ sở cho các tổ chức, cá
nhân thực hiện.
Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động thanh
toán, chuyển tiền ra nước ngoài của các TCTD. Bên cạnh đó, cần cảnh báo đến các
TCTD về các xu hướng và phương thức, thủ đoạn của các đối tượng thực hiện giao
dịch hoặc liên quan đến giao dịch chuyển tiền quốc tế đặc biệt thanh toán thông qua
các hợp đồng thương mại xuất, nhập khẩu để các TCTD có biện pháp ngăn chặn kịp
thời. Ngoài ra, NHNN nên thực hiện các khóa đào tạo, tuyên truyền cho các TCTD
để nâng cao chất lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ, bổ sung các nguồn thông tin
63
được cập nhật hữu ích từ việc xử lý, phân tích và chuyển giao thông tin giao dịch
đáng ngờ.
Thứ sáu, Xây dựng cơ chế liên ngành có hiệu quả về phối hợp, trao đổi thông
tin với các Bộ, ngành nhằm đấu tranh và ngăn chặn tội phạm liên quan đến hoạt
động thương mại quốc tế, xuất nhập khẩu. Đặc biệt, đẩy mạnh công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm liên quan đến hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu.
Thứ bảy, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng chống rửa tiền.
Luật phòng chống rửa tiền cũng như Nghị định đã được ban hành, tiếp theo đó
là Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền; và Nghị định số
87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa
tiền. Tuy nhiên, người dân vẫn chưa thực sự nắm và hiểu rõ về phòng chống rửa
tiền tạo ra tâm lý hoang mang, lo lắng gây ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện các
biện pháp phòng chống rửa tiền của các NHTM.
Do vậy, để công tác phòng chống rửa tiền có hiệu quả, đầu tiên, NHNN cần
đẩy mạnh tuyên truyền về công tác phòng chống rửa tiền tới toàn thể nhân dân.
Ngoài ra, NHNN cần phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng mở thêm các lớp đào tạo về
kỹ năng phòng chống rửa tiền cho các cán bộ nhân viên của các NHTM làm việc
trực tiếp với khách hàng, để có những giải thích đúng và kịp thời cho khách hàng về
công tác phòng chống rửa tiền, tránh những hiểu lầm không đáng có cho khách
hàng.
Thứ tám, Thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm về phòng chống rửa tiền với
các Ngân hàng Thương mại.
Việc thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm về phòng chống rửa tiền chính là
cơ hội để tiếp nhận các ý kiến phản hồi từ các NHTM, cũng như cơ hội để các
NHTM trao đổi kinh nghiệm về phòng chống rửa tiền. Qua đó, hạn chế tội phạm lợi
dụng hệ thống NHTM để thực hiện hành vị rửa tiền.
Cuối cùng là giải pháp về tăng cường hợp tác quốc tế.
64
Để công tác phòng chống rửa tiền hiệu quả, bên cạnh việc đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, tăng cường đầu tư hệ thống công nghệ thông tin, ban hành quy chế
giám sát thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền… thì rất cần sự tăng cường
hợp tác với các tổ chức quốc tế, các nước trên thế giới để trao đổi thông tin và nhận
được nhiều sự trợ giúp từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia có nhiều kinh nghiệm về
phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là kinh nghiệm về chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng.
3.2.2. Về việc tổ chức thực hiện tại các NHTM
Thứ nhất, thành lập bộ phận chuyên trách về phòng chống rửa tiền.
Việc thành lập bộ phận chuyên trách về phòng chống rửa tiền nhằm chịu trách
nhiệm chính trong trong việc xây dựng quy trình nội bộ, thực hiện công tác thu
thập, tổng hợp các thông tin về những báo cáo đáng ngờ gửi cho Cục Phòng, chống
rửa tiền. Ngoài ra, bộ phận này còn thực hiện việc đề xuất các biện pháp để hoàn
thiện quy trình phòng chống rủi ro rửa tiền tại từ đó nâng cao khả năng phòng
chống rủi ro rửa tiền tại mỗi ngân hàng.
Thứ hai, xây dựng chương trình phòng chống rửa tiền thông qua quản lý
thông tin khách hàng.
Tìm hiểu, phân tích thông tin khách hàng là một phần quan trọng trong việc
kiểm soát rủi ro và phòng chống rủi ro rửa tiền tại các NHTM. Để ngân hàng có thể
nhận diện được hoạt động rửa tiền thì rất cả các thông tin của khách hàng và thông
tin các giao dịch cần được tập trung về một đầu mối để xử lý và lưu trữ một cách có
hệ thống. Chính vì vậy, việc lập một bộ phận chuyên trách về phân tích thông tin
khách hàng là cần thiết, điều mà rất ít hoặc hầu như không ngân hàng nào đang
đang thực hiện do sự phân bổ nguồn nhân lực của mỗi ngân hàng, chuyên viên
thanh toán quốc tế đôi khi phải thực hiện chồng chéo các công việc, bao gồm cả
việc phân tích thông tin khách hàng nêu trên. Như vậy để thực hiện phòng chống rủi
ro rửa tiền thì bộ phận chuyên trách này cần thực hiện các công việc chuyên môn
sau:
- Thu thập và lưu trữ các thông tin ban đầu của khách hàng. Bộ phận giao
65
dịch trực tiếp sẽ nhập liệu thông tin khách hàng vào hệ thống một cách đầy đủ và
cập nhật nhanh chóng khi có sự thay đổi, bộ phân chuyên trách khi đó sẽ kiểm soát
tính tuân thủ quy trình này để đảm bảo chất lượng thông tin.
- Tiến hành phân loại khách hàng và báo cáo về trụ sở chính.
- Thông qua các thông tin tổng hợp từ nhiều nguồn, bộ phận chuyên trách
tiến hành phân tích, đánh giá và nhận diện những đối tượng có nguy cơ rửa tiền và
đưa ra các biện pháp thích hợp hỗ trợ cho các bộ phận giao dịch, bộ phận tín dụng
ngăn chặn hành vi kịp thời.
- Bằng các hình thức đào tạo khác nhau, bộ phận chuyên trách sẽ cập nhật
thông tin, kỹ năng và kinh nghiệm ứng phó cho các cán bộ nhân viên khi thực hiện
các công tác liên quan tới phòng chống rủi ro rửa tiền.
Thứ ba, tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình thanh toán quốc tế và quy trình nội
bộ phòng chống rủi ro rửa tiền.
Các NHTM cần nghiêm chỉnh thực hiện quy trình nội bộ về phòng chống rủi
ro rửa tiền. Cần có chính sách để tất cả các cán bộ nhân viên đều có hiểu biết và
nhận thức đúng về các chính sách, quy trình nội bộ của ngân hàng mình. Các cán bộ
nhân viên của các NHTM cần nghiêm túc thực hiện việc thu thập thông tin và đánh
gía khách hàng từ đó thực hiện việc báo cáo các giao dịch đáng ngờ.
Ngoài ra, các NHTM cũng cần hoàn thiện quy trình thanh toán quốc tế của
ngân hàng mình. Rà soát những khe hở của các phương thức thanh toán quốc tế: tín
dụng chứng từ, nhờ thu, chuyển tiền, ứng trước tiền hàng để từ đó đưa ra các biện
pháp khắc phục và ngăn chặn hành vi phạm tội.
Thứ tư, đào tạo nâng cao chuyên môn cho cán bộ nhân viên về công tác
phòng chống rủi ro rửa tiền và cán bộ thanh toán quốc tế.
Tất cả các NHTM cần phải tích cực tham gia các khóa đào tạo của NHNN và
tự đào tạo để cập nhật các dấu hiệu đáng ngờ, phương thức giao dịch và thủ đoạn
của cá nhân tổ chức giao dịch về nội dung liên quan đến chuyển tiền quốc tế ra/vào
Việt Nam qua hệ thống các tổ chức tín dụng, đồng thời thường xuyên tăng cưởng
66
năng lực về nghĩa vụ phòng, chống rủi ro rửa tiền/ tài trợ khủng bố cho các nhân
viên, cán bộ của tổ chức mình. Nội dung cốt lõi trong công tác đào tạo phòng chống
rủi ro rửa tiền là đào tạo theo dõi, nhận biết, cập nhật thông tin về khách hàng. Đội
ngũ nhân viên mới cần phải được trang bị về kiến thức, tầm quan trọng của các
chính sách nhận biết khách hàng và những yêu cầu cơ bản tại ngân hàng. Đối với
cán bộ làm việc ở các bộ phận khác nhau cần phải phải có những chương trình và
thời gian đào tạo một cách phù hợp. Qua đó, nhân viên sẽ thực hiện việc xem xét kỹ
lưỡng đối với khách hàng có rủi ro cao, kịp thời phát hiện các giao dịch đáng ngờ để
hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Thứ năm, phối hợp chặt chẽ với Cục Phòng chống rửa tiền.
Bên cạnh việc thành lập bộ phận chuyên trách về phòng chống rửa tiền, xây
dựng chính sách nhận biết khách hàng như các NHTM đã làm thì các ngân hàng
cũng cần phải quan tâm phối hợp với Cục Phòng, chống rửa tiền. Việc phối hợp này
không chỉ giúp các NHTM nhận được sự tư vấn chính xác trong việc xây dựng các
biện pháp phòng, chống rủi ro rửa tiền và xử lý các giao dịch đáng ngờ, mà còn là
cơ hội để Cục Phòng, chống rửa tiền nhận được các phản hồi chính xác từ phía các
NHTM trong việc thực hiện các quy định pháp luật về phòng chống rửa tiền.
Trên thực tế hiện nay, các NHTM đã có hệ thống thông tin rà soát giao dịch
đáng ngờ liên quan đến các lệnh chuyển tiền Swift, chuyển tiền điện tử ra vào Việt
Nam, có cảnh báo với những giao dịch chuyển tiền đến và đi đối với các quốc gia
có rủi ro cao về rửa tiền để kịp thời báo cáo giao dịch đáng ngờ. Tuy nhiên vẫn còn
tình trạng các báo cáo gửi về Cục PCRT còn sơ sài với lý do nghi ngờ chưa rõ ràng
và chưa có đủ cơ sở, dấu hiệu để nghi ngờ. Do vậy, các NHTM cần:
- Tiếp tục thực hiện theo chỉ đạo của các văn bản cảnh báo mà NHNN đã ban
hành liên quan đến chuyển tiền nước ngoài.
- Kiểm soát kỹ hồ sơ, giấy tờ, các giao dịch liên quan đến hoạt động thanh
toán nhập khẩu; yêu cầu các doanh nghiệp nghiêm túc hoàn trả, bổ sung đầy đủ các
hồ sơ, giấy tở liên quan đến hoạt động nhập khẩu (như tờ khai hải quan, các tài liệu
có liên quan ...) theo đúng quy định về quản lý ngoại hối và thanh toán xuất nhập
67
khẩu. Đối với giao dịch thanh toán trả trước, NHTM cần theo dõi cá nhân/ tổ chức
thực hiện giao dịch, thực hiện các biện pháp thu hồi chứng từ bổ sung để có thể
đánh giá hợp đồng xuất nhập khẩu ứng trước có được thực hiện trên thực tế hay
không.
- Nếu phát hiện hoặc có cơ sở nghi ngờ hiện tượng các doanh nghiệp tạo dựng
hợp đồng ngoại thương không có thật hoặc nâng khống giá trị giao dịch chuyển tiền
thanh toán cho các đối tác nước ngoài không phù hợp với giá trị hợp đồng thương
mại cần báo cáo về Cục PCRT để xem xét, phối hợp với các cơ quan chức năng xử
lý.
- Đối với trường hợp các chứng từ liên quan phát hành qua hình thức điện tử,
NHTM cần đối chiếu với các thông tin về cá nhân/tổ chức thực hiện giao dịch dựa
trên thông tin của cá nhân/tổ chức đã được cập nhật trên hệ thống (Theo Điều 8, 9
và 10 Luật PCRT đã quy định về nghĩa vụ của đối tượng báo cáo nhận biết và cập
nhật thông tin khách hàng).
- Đối với trường hợp cá nhân tổ chức thực hiện thanh toán với nhiều bên thứ
ba ở các quốc gia khác nhau mà thông tin không rõ ràng, NHTM cần có biện pháp
thu thập, xác minh thông tin khách hàng để có hiểu biết đầy đủ về cả nhân/ tổ chức
thụ hưởng trước khi thực hiện giao dịch thanh toán/ chuyển tiền.
- Khi các ngân hàng trong và ngoài nước yêu cầu hoàn trả khoản tiền do nghi
ngờ liên quan tới lừa đảo, gian lận, NHTM cần xác định các bên liên quan đến giao
dịch có thuộc danh sách đen hay không hoặc có lý do để tin rằng giao dịch đó liên
quan đến hoạt động phạm tội hay không, để áp dụng các biện pháp trì hoãn giao
dịch tại Điều 22 của Nghị định 116 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Phòng, chống rửa tiền.
Thứ sáu, hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin trong ngân hàng và trong
hệ thống thanh toán quốc tế.
Mỗi cán bộ ngân hàng hàng ngày phải thực hiện hàng trăm giao dịch khác
nhau. Nếu không có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin thì sẽ mất rất nhiều thời gian
và có thể không chính xác. Do vậy, hiện đại hóa công nghệ thông tin trong ngân
68
hàng, đầu tư các phần mềm phục vụ công tác phòng chống rửa tiền có khả năng
cảnh báo đối với các khách hàng nằm trong “danh sách đen”, lọc tách dữ liệu nằm
trong mức giao dịch phải báo cáo, phân loại tài khoản theo mức độ rủi ro là hoàn
toàn phù hợp, từ đó hạn chế được các rủi ro cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, việc hệ thống luôn hoạt động và luôn cần được cập nhật danh
sách liên quan đến phòng chống rửa tiền của các tổ chức tài chính trong và ngoài
nước cũng hết sức quan trọng. Chỉ cần một thời gian nào đó hệ thống không được
tự động cập nhật hoặc cập nhật sai có thể dẫn tới những khe hở mà bọn tội phạm có
thể lợi dụng nhanh chóng. Đồng thời, trên thực tế có những quốc gia bị cấm vận
một phần nhưng khi thực hiện thanh toán quốc tế, hệ thống dữ liệu vẫn chặn giao
dịch tới toàn bộ quốc gia đó. Vậy nên việc hệ thống công nghệ cần được tích hợp
chức năng lọc thông tin tinh vi hơn, đáp ứng khả năng mở chặn kịp thời là giải pháp
cần thiết để phục vụ khách hàng.
Thứ bảy, để đảm bảo kiểm soát chặt chẽ hoạt động thanh toán, chuyển tiền ra
nước ngoài và ngăn chặn các hành vi rửa tiền núp bóng thanh toán quốc tế, các
NHTM cần thực hiện một số nội dung sau:
- Xây dựng quy định nội bộ trong đó quy định các chứng từ cụ thể phù hợp đối
với từng giao dịch chuyển tiền thực tế. Quy định các giấy tờ, chứng từ cần xuất
trình phải đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật liên quan điều chỉnh đối
với giao dịch đó. Vì bản chất của việc cung ứng dịch vụ thanh toán, chuyển tiền của
ngân hàng là hoạt động phục vụ cho các giao dịch xuyên biên giới của nền kinh tế:
thương mại quốc tế, giao dịch vốn, các nhu cầu xuyên biên giới hợp pháp của cá
nhân (du lịch, định cư, học tập, chữa bệnh, thăm thân ở nước ngoài). Các hoạt động
này được điều chỉnh bởi các Luật như: Luật Quản lý ngoại thương, Luật Doanh
nghiệp, Luật Dân sự, Luật Quốc tịch, Luật Du lịch,... Tại các văn bản này có quy
định về văn bản, giấy tờ cần thiết đối với mỗi loại hình giao dịch xuyên biên giới (ví
dụ Luật Quản lý ngoại thương quy định về hoạt động thương mại quốc tế; Luật Du
lịch quy định về hoạt động du lịch của tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài;
Luật Dân sự quy định về quyền thừa kế của công dân Việt Nam...). Chính vì vậy,
NHTM cần thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật có liên quan.
69
- Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện quy định nội bộ đảm
bảo phù hợp với sự thay đổi của pháp luật liên quan, đồng thời đáp ứng kịp thời sự
đa dạng, phức tạp, biến động, phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các giao
dịch kinh tế, thương mại quốc tế.
- Thực hiện việc kiểm tra, lưu giữ các giấy tờ và chứng từ phù hợp theo đúng
quy định nội bộ của ngân hàng và quy định pháp luật hiện hành, đồng thời chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc đảm bảo cung ứng các dịch vụ thanh toán,
chuyển tiền ra nước ngoài đúng mục đích theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn khách hàng để tăng nhận thức và hiểu biết của doanh nghiệp và
người dân về các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, đặc biệt là các quy
định về các mục đích được phép và những mục đích không được phép chuyển tiền
nước ngoài, đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
3.3. Kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với tình hình
thực tiễn. Theo đó, trên cơ sở đánh giá hiệu quả cũng như các bất cập trong PCRT
hiện nay và các thông lệ quốc tế, cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện, sửa
đổi, bổ sung Luật PCRT. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật
liên quan như: Luật Quản lý thuế, Luật Thuế tài sản, pháp luật về đăng ký giao
dịch… nhằm kiểm soát thu nhập và tài sản của cá nhân.
Thứ hai, Luật Phòng chống rửa tiền phải tăng các chế tài phạt tiền nặng đối
với những tổ chức, cá nhân che giấu hoạt động rửa tiền hoặc thực hiện hành vi rửa
tiền, cũng như các chế tài thực sự nghiêm minh với các cá nhân, tổ chức không thực
hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền theo quy định.
Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư, thương mại,
hải quan,… đều cần bổ sung thêm các điều khoản về thực hiện công tác phòng
chống rửa tiền để đảm bảo công tác này được thực hiện một cách đồng bộ và có
hiệu quả.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về việc nhận biết và cập nhật thông tin
khách hàng, phân loại khách hàng: bổ sung quy định đối tượng báo cáo có thể khai
70
thác thông tin trong các cơ sở dữ liệu quốc gia theo quy định pháp luật để đối chiếu,
xác minh thông tin do khách hàng cung cấp; bổ sung quy định về cá nhân nước
ngoài có ảnh hưởng chính trị của tổ chức quốc tế, quy định rõ hơn trách nhiệm của
đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài
sản của khách hàng chủ sở hữu hưởng lợi và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh
doanh trong suốt quá trình giao dịch với khách hàng này.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về việc thực hiện các nghĩa vụ báo cáo:
bổ sung trung gian thanh toán vào nhóm các đối tượng báo cáo và sửa đổi, bổ sung
tên gọi của một số hoạt động liên quan đến các lĩnh vực: Chứng khoán, bảo hiểm,
bất động sản, trò chơi có thưởng, dịch vụ thỏa thuận pháp lý… trên cơ sở quy định
của pháp luật có liên quan và chuẩn mực quốc tế; sửa đổi, bổ sung quy định về
nghĩa vụ và cách thức báo cáo các giao dịch có giá trị lớn vượt ngưỡng (giao dịch
tiền mặt giá trị lớn, chuyển tiền điện tử trong nước, quốc tế), hướng dẫn chi tiết mức
giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo theo quy định, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác phòng chống rửa tiền; phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế về
phòng chống rửa tiền mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện; nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền và công tác phòng chống tội phạm.
Thứ sáu, làm rõ hơn quy định đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ với ngân
hàng đối tác: khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân
hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải thu nhập thông tin
về ngân hàng đối tác, đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa
tiền, hiểu rõ về trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác trong quan
hệ đại lý.
71
KẾT LUẬN
Hiện nay, rửa tiền đã và đang trở thành một vấn nạn nhức nhối bởi nó gây ra
nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với nhiều quốc gia trên thế giới và được cộng đồng
quốc tế đặc biệt quan tâm. Để ngăn chặn những tác hại to lớn của việc lợi dụng hoạt
động thanh toán quốc tế trong hệ thống ngân hàng để tiến hành hành vi rửa tiền, các
quốc gia thường thực hiện phương thức phòng chống rửa tiền thông qua ban hành
Luật và các quy định liên quan đến phòng chống rửa tiền; thành lập cơ quan chuyên
trách về phòng chống rửa tiền; thiết lập quy trình phòng chống rửa tiền tại các
NHTM; tập trung phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro; kiểm soát các giao dịch
đáng ngờ;…
Việt Nam hiện nay đã và đang ngày càng coi trọng công tác phòng chống rửa
tiền tại hệ thống NHTM và có những kết quả đáng kể trong bước đầu thực hiện
công tác phòng chống rủi ro rửa tiền. Nhưng cũng không thể không kể đến những
thách thức và nhiệm vụ nặng nề khi đối mặt với các thủ đoạn ngày càng tinh vi của
tội phạm. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống rủi ro rửa tiền trong
hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam cần chú ý tới việc hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý, mô hình cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền và tổ chức công tác
phòng, chống rủi ro rửa tiền tại các NHTM.
Đặc biệt, cần coi cả phòng và chống rủi ro rửa tiền là nhiệm vụ thường xuyên
và quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước, cũng như của toàn ngành và từng
đơn vị ngân hàng bảo đảm ổn định và lành mạnh nền kinh tế nói chung, thị trường
tài chính - tiền tệ nói riêng. Tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đơn
vị trong nước và quốc tế, nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả công tác
chống rửa tiền, bảo đảm việc tuân thủ các quy định phòng, chống rửa tiền của các
NHTM. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác phòng chống rủi ro rửa
tiền và cương quyết xử phạt vi phạm hành chính trong việc không tuân thủ các quy
định pháp luật về phòng, chống rửa tiền đối với các TCTD. Tiến tới hạn chế giao
dịch bằng tiền mặt, hướng các ngân hàng tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về phòng,
chống rửa tiền.
72
Phòng chống rủi ro rửa tiền qua hoạt động thanh toán quốc tế chính là nút thắt
quan trọng trong công tác phòng chống rủi ro rửa tiền tại hệ thống NHTM tại Việt
Nam từ đó nâng cao điều kiện để phát triển lành mạnh hệ thống ngân hàng Việt
Nam, tiến tới hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình Minh (2022), Sự ra đời của Cục Phòng chống rửa tiền và những kết quả
đạt được trong công tác quản lý Nhà nước về phòng, chống rửa tiền, Thanh Tra
Việt Nam, tại địa chỉ: https://thanhtravietnam.vn/thuc-tien-va-chinh-sach/thanh-
tra-voi-nhiem-vu-phong-chong-rua-tien/su-ra-doi-cua-cuc-phong-chong-rua-
tien-va-nhung-ket-qua-dat-duoc-trong-cong-tac-quan-ly-nha-nuoc-ve-phong-
chong-rua-tien-200257.html, truy cập ngày 18/11/2022.
2. Chính phủ (2013), Nghị định 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật PCRT ban hành ngày 04/10/2013, Hà Nội.
3. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế, NXB Lao động – Xã hội, năm
2006.
4. FATF (1990), 40 khuyến nghị đầu tiên.
5. FATF (2004), 40 + 9 khuyến nghị về chống rửa tiền.
6. Lê Linh (2019), Những vụ rửa tiền gây chấn động thế giới, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, tại địa chỉ: https://www.thesaigontimes.vn/294985/nhung-vu-rua- tien-gay-
chan-dong-tren-the-gioi.html, truy cập ngày 01/06/2020.
7. Mai Anh (2020), Một số phương thức, thủ đoạn rửa tiền qua ngân hàng,Tạp chí
Tài chính, tại địa chỉ: https://tapchitaichinh.vn/viet-nam-chong-rua-tien-va-tai-
tro-khung-bo/mot-so-phuong-thuc-thu-doan-rua-tien-qua-ngan-hang-
328456.html, truy cập ngày 11/11/2022.
8. Minh Trung (2022), Pháp luật về phòng chống rửa tiền: Kinh nghiệm từ một số
quốc gia, Tạp chí điện tử Pháp lý, tại địa chỉ: https://phaply.net.vn/phap-luat-ve-
phong-chong-rua-tien-kinh-nghiem-tu-mot-so-quoc-gia-a255660.html, truy cập
ngày 11/11/2022.
9. Ngân hàng Nhà nước (2009), Quyết định 1654/QĐ-NHNN về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng, chống rửa tiền ban hành ngày
14/07/2009, Hà Nội.
10. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo tóm tắt đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và
74
tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, Hà Nội 2018.
11. Ngân hàng Nhà nước (2018), Thông tư quy định về giám sát các hệ thống thanh
toán số 20/2018/TT-NHNN ban hành ngày 30/8/2018, Hà Nội.
12. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo Phân tích xu hướng rửa tiền của những đối
tượng trong báo cáo giao dịch đáng ngờ về chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt
Nam, Hà Nội 2022.
13. Nguyễn Hải Giang, Phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
năm 2015.
14. Nguyễn Thị Loan, Phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Ngân Hàng, TP. Hồ Chí Minh năm 2016.
15. Paul Allan Schott và cộng sự (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền
và chống tài trợ cho khủng bố, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế, tái
bản lần thứ 2 năm 2007.
16. Quốc Hội (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 ban
hành ngày 16/06/2010, Hà Nội.
17. Quốc Hội (2012), Luật phòng, chống rửa tiền 07/2012/QH13 ban hành ngày
18/06/2012, Hà Nội.
18. Quốc Hội (2015), Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ban hành ngày
27/11/2015, Hà Nội.
19. Quốc Hội (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức Tín
dụng số 17/2017/QH14 ban hành ngày 20/11/2017, Hà Nội.
20. Th.S Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2021), Hoàn thiện, củng cố hệ thống PCRT tại
Việt Nam giai đoạn 2020 - 2030, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
21. Th.S Nguyễn Văn Ngọc (2013), Hệ thống giải pháp phòng, chống rửa tiền ở
Việt Nam đến năm 2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
22. ThS. Nguyễn Văn Ngọc (2018), Hoàn thiện mô hình Cục phòng, chống rửa tiền
75
theo chuẩn mực quốc tế, Tạp chí Ngân hàng, tại địa chỉ:
https://tapchinganhang.gov.vn/hoan-thien-mo-hinh-cuc-phong-chong-rua-tien-
theo-chuan-muc-quoc-te.htm, truy cập ngày 18/11/2022.
23. ThS. Trần Linh Huân (2022), Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong nền kinh
tế số - Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Ngân hàng, tại địa
chỉ: https://tapchinganhang.gov.vn/phap-luat-ve-phong-chong-rua-tien-trong-
nen-kinh-te-so-thuc-trang-va-mot-so-kien-nghi-hoan-thien.htm, truy cập ngày
18/11/2022.
24. Vũ Lê Minh (2022), Nhận diện 7 thủ đoạn “rửa tiền” được tội phạm sử dụng
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí điện tử Pháp lý, tại địa chỉ:
https://phaply.net.vn/nhan-dien-7-thu-doan-rua-tien-duoc-toi-pham-su-dung-
trong-giai-doan-hien-nay-a255647.html, truy cập ngày 11/11/2022.