Sán máng - Nguy cơ cho trẻ em
Có ba loại sán máng gây
bệnh chủ yếu:
S.mamsoni gây bệnh ở
đường ruột;
S.haematobium gây
bệnh sán máng bàng
quang; S.japonicum gây
bệnh sán máng đường
ruột châu Á. Một số loài
sán máng ở súc vật đôi
khi gây bệnh cho người: Schitosoma intercalatum;
Schitosoma mekongi ở lưu vực sông Mê Kông như Thái
Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Động vật có vú và người là ổ bệnh chính của các loại sán
máng. Chu trình gây bệnh của sán như sau: ở người, sán
trưởng thành ký sinh ở đoạn ruột cuối hay ở bàng quang.
Trứng sán thải theo phân và nước tiểu ra môi trường, khi
gặp nước ngọt nở ra ấu trùng. Ấu trùng xâm nhập vào vật
chủ trung gian là ốc rồi phát triển thành vĩ ấu trùng ra khỏi
ốc vào nước; từ nước vĩ ấu trùng xâm nhập qua da vào cơ
thể người. Sau khi xâm nhập, vĩ ấu trùng trở thành ấu trùng
đi vào gan, nơi chúng nhanh chóng trưởng thành. Sau vài
tuần, sán trưởng thành cặp đôi giao phối rồi di chuyển đến
các tĩnh mạch cuối của các tĩnh mạch cửa, nơi sán cái đẻ
trứng. Từ đây, một số trứng đi vào lòng ruột hoặc bàng
quang và được thải ra ngoài theo phân hoặc nước tiểu. Số
trứng khác bị mắc lại trong thành ruột hay thành bàng
quang. Trong khi vẫn có một số trứng theo máu đến gan,
phổi và ít hơn đến các cơ quan khác của cơ thể.
Các biểu hiện lâm sàng
- Viêm da do vĩ ấu trùng. Sau khi vĩ ấu trùng xâm nhập,
gây ra các triệu chứng nổi mẩn đỏ, ngứa, ban xuất huyết tại
chỗ, ban dát và sẩn kéo dài tới 5 ngày. Hầu hết các ca bệnh
viêm da này xuất hiện ở vùng nước ngọt hoặc nước lợ trên
toàn thế giới, do sự xâm nhập của ấu trùng sán máng của
chim, nhưng loại sán này không phát triển tới giai đoạn
trưởng thành ở người và không gây các triệu chứng nội
tạng.
- Bệnh sán máng cấp tính hay sốt Katayama. Hội chứng
này chủ yếu là phản ứng quá mẫn với sán máng đang phát
triển, có thể xuất hiện với ba loài sán nhưng hiếm gặp với
S.haematobium. Bệnh tiến triển từ nhẹ cho đến rất nặng, có
thể gây tử vong. Thời kỳ ủ bệnh kéo dài 2 - 7 tuần, sau đó
biểu hiện sốt, mệt, mẩn đỏ, tiêu chảy có thể lẫn máu, đau
cơ, ho khan. Xét nghiệm thấy tăng bạch cầu, trong đó bạch
cầu ái toan tăng cao, gan và lách có thể to trong một thời
gian ngắn, ở giai đoạn sớm xét nghiệm phân có thể âm tính
nên cần xét nghiệm lại nhiều lần trong ít nhất 6 tháng. Bệnh
nhân sẽ trở lại không có triệu chứng trong 2 - 8 tuần.
- Bệnh sán máng mạn tính. Khoảng 6 tháng đến vài năm
sau khi nhiễm bệnh, bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng:
tiêu chảy, đau bụng, đi ngoài thất thường, phân lẫn máu,
gan to và chắc, lách to. Bệnh tiến triển chậm trong 5 - 15
năm hoặc lâu hơn, các biểu hiện gồm: chán ăn, gầy sút, mệt
mỏi, u ruột dạng polyp và các dấu hiệu tăng áp lực tĩnh
mạch cửa và mạch phổi; viêm cầu thận... Nếu nhiễm
S.haematobium các triệu chứng sớm của tổn thương hệ tiết
niệu là đái rắt và đái buốt, đái máu cuối bãi và protein niệu.
Hậu quả có thể hình thành các polyp trong bàng quang,
viêm bàng quang, nhiễm khuẩn salmonella mạn tính, viêm
đài thận, bể thận, sỏi thận, ứ nước thận, tắc niệu quản, suy
thận và tử vong. Hiếm gặp hơn là tổn thương nặng ở gan,
phổi, sinh dục hoặc thần kinh, ung thư bàng quang có liên
quan đến nhiễm sán máng bàng quang.
Trên thế giới có trên 200 triệu người mắc bệnh sán máng,
trong đó 20 triệu người tổn thương nặng mỗi năm và trên
200.000 người tử vong. Tuy phần lớn người mắc có biểu
hiện bệnh nhẹ và không có triệu chứng, nhưng vẫn có
khoảng 50-60% có biểu hiện lâm sàng và 5-10% có tổn
thương nội tạng nặng.
- Các biến chứng khác. Sán trưởng thành và trứng sán gây
tổn thương các ổ loét sùi, u hạt, tổ chức xơ ở thành ruột,
thành bàng quang. Trứng sán trong gan gây xơ rìa tĩnh
mạch cửa, tăng áp lực tĩnh mạch cửa loại trước xoang,
nghẽn mạch do trứng, viêm nội mạch, tăng áp lực mạch
phổi, bệnh tim phổi. Tăng áp lực tĩnh mạch cửa dẫn đến xơ
gan, lách to. Giảm các dòng tế bào máu, giãn tĩnh mạch
thực quản và chảy máu tĩnh mạch. Suy giảm chức năng
gan, vàng da, cổ trướng và hôn mê gan là các biểu hiện của
giai đoạn cuối. Các biến chứng ở đại tràng: hẹp đại tràng,
các ổ sùi u hạt và nhiễm salmonella kéo dài; polyp đại tràng
với biểu hiện: tiêu chảy phân lẫn máu, thiếu máu, giảm
albumin máu, ngón tay dùi trống. Viêm tủy cắt ngang, động
kinh, viêm thần kinh thị giác có thể gặp do trứng sán trong
hệ tuần hoàn hoặc sán lạc chỗ.
Bệnh sán máng đường ruột giai đoạn đầu có thể nhầm với
lỵ amip, lỵ trực khuẩn hoặc các căn nguyên gây tiêu chảy
và lỵ khác. Ở giai đoạn muộn cần phân biệt một số căn
nguyên gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa và polyp ruột. Trong
vùng dịch tễ, nhiễm sán máng bàng quang cần phân biệt
với căn nguyên gây triệu chứng tiết niệu như ung thư
đường niệu, nhiễm khuẩn, sỏi...
Các phương pháp điều trị
- Nội khoa: Được chỉ định khi xác định có trứng sán còn
sống. Do các thuốc có tính an toàn và hiệu quả nên có thể
điều trị tất cả các thể bệnh hoạt động bằng thuốc uống. Có
thể dùng một trong các thuốc: praziquantel; oxamniquin;
metrifonat. Sau điều trị, cần xét nghiệm định kỳ để theo dõi
từ 3 tháng - 1 năm xem bệnh nhân có còn thải trứng sán
nữa không.
- Ngoại khoa: Điều trị ngoại khoa có thể được chỉ định để
cắt bỏ các polyp và sửa chữa tắc nghẽn đường niệu. Trường
hợp chảy máu do giãn tĩnh mạch thực quản, điều trị nitơ
lỏng là phương pháp lựa chọn. Cắt lách nếu bệnh nhân bị
giảm tất cả các dòng tế bào máu.
Phòng bệnh
Để phòng bệnh cần thực hiện các biện pháp: điều trị sớm
và tích cực cho bệnh nhân để tránh lây lan cho cộng đồng.
Ở các vùng dịch tễ, điều trị đại trà cho trẻ em có tác dụng
giảm nguy cơ phát triển các tổn thương nặng ở các cơ quan
nội tạng. Khi hoạt động dưới nước cần đeo xà cạp chân, tay
để tránh bị vĩ ấu trùng xâm nhập. Tuyên truyền cho mọi
người và trẻ em không nên tắm sông, suối, ao, hồ hoặc
ngâm mình lâu dưới nước. Không bón phân tươi và nước
tiểu.