ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TRẦN THỊ HỒNG NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT DẦU GỐC SINH HỌC TỪ PHỤ PHẨM MỠ CÁ TRA, SỬ DỤNG KỸ THUẬT CAVITATION

Ngành: Công Nghệ Hóa Dầu và Lọc Dầu Mã số ngành: 62527510

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022

Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM Người hướng dẫn 1: PGS.TS. PHAN MINH TÂN Người hướng dẫn 2: PGS.TS. HUỲNH QUYỀN Phản biện độc lập: Phản biện độc lập: Phản biện: Phản biện: Phản biện: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án họp tại …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… vào lúc ……..giờ …….. phút, ngày …….. tháng ……...năm ………. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

- Thư viện Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM - Thư viện Đại học Quốc gia Tp.HCM - Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp.HCM

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

Tạp chí quốc tế thuộc danh mục SCOPUS

1. Thi Hong Tran, Vinh Phuoc Truong and Minh Tan Phan, "Preparation bio-

Lubricant from catfish fat," ARPN Journal of Engineering and Applied

Sciences, vol. 13, no. 24, pp. 9707-9714, 2018.

2. Thi Hong Tran, Minh Tien Nguyen, Do Quy-Diem , Kim Trung Nguyen,

Thi Kim Thoa Dao, MinhTan Phan, "Green Chemistry for the Preparation of

Bio-Based Oil from Catfish Fat Using a Cavitation System," Rasayan J.

Chem., vol. 12, no. 4, pp. 2058-2064, 2019.

3. Thi Hong Tran, Minh Tien Nguyen, Quy-Diem Do, Thanh Nhan Cao, Minh

Tan Phan, "Applying cavitation technique to optimize the synthesis of catfish

epoxide oil, a biological compound with high chemical activity," Rasayan J.

Chem., vol. 14, no. 1, pp. 193-204, 2021.

4. Thi Hong Tran, Minh Tien Nguyen, Thanh Nhan Cao , Thi Thanh Nguyen

Nguyen, Van Huong Pham , Thi Van Anh Nguyen, Phuong Linh Le , The

Thong Tran, Minh Tan Phan, "Synthesis bio-based oil from catfish fat,

blending bio-lubricant”, ARPN Journal of Engineering and Applied Sciences,

vol. 16, no. 8, pp. 837-844, 2021.

Tạp chí quốc tế thuộc danh mục SCIE

1. Thi Hong Tran, Quyen Huynh and Minh Tan Phan, “Synthesis of biological

base oils by a green process”, Green Processing and Synthesis, vol.11, no.1,

pp. 84–95, 2022.

2. Thi Hong Tran, Quy Diem-Do, Quyen Huynh and Minh Tan Phan , “A green

approach in the biological base oil”, Green Processing and Synthesis, vol. 11,

no.2, pp. 604–616, 2022.

MỞ ĐẦU

I. Sự cần thiết, ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Sản lượng thu hoạch cá tra năm 2021 đạt 1,525 triệu tấn và chế biến xuất khẩu

thịt cá tra thu về hơn 1,5 tỷ đô la Mỹ. Dự báo ngành nuôi và chế biến cá tra xuất

khẩu sẽ tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Từ cá tra nguyên liệu, sau khi chế

biến sẽ có khoảng 30%(kl) phụ phẩm trong đó chủ yếu là mỡ cá. Như vậy hàng

năm Việt Nam có một nguồn mỡ cá tra khỏang 400 nghìn tấn. Xử lý và tận dụng

lượng mỡ cá này một cách hiệu quả mang lại lợi ích gia tăng đang là vấn đề chưa

có đáp án thỏa đáng trong nhiều năm qua.

Nhằm góp phần giải quyết bài toán trên, luận án này đề xuất hướng nghiên cứu

công nghệ sản xuất dầu gốc sinh học từ mỡ cá tra.

Do thành phần chính của mỡ cá tra là các chuỗi mạch este của triglyxerit nên mỡ

cá tra có độ nhớt cao và các tính chất hóa lý tương tự các lọai dầu gốc khoáng

đang sử dụng để pha chế dầu nhờn. Vì vậy hướng nghiên cứu này không chỉ có

ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có tính khả thi cao. Mặt khác, từ một phụ phẩm

của quá trình chế biến cá tra có nguy cơ gây ôi nhiễm môi trường mà sau khi áp

dụng công nghệ sản xuất thích hợp sẽ tạo ra sản phẩm dầu gốc sinh học thân thiện

với môi trường, có giá trị kinh tế cao được xem như đóng góp có ý nghĩa trong

phát triển kinh tế xanh đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản ở nước ta.

Trong luận án này, toàn bộ các quá trình xử lý vật lý và chuyển hóa hóa học mỡ

cá tra đều ứng dụng kỹ thuật cavitation. Kỹ thuật cavitation được xem là kỹ thuật

hóa học xanh do có thể rút ngắn thời gian phản ứng rất đáng kể, đồng thời tiến

hành phản ứng ở nhiệt độ thấp và lượng hóa chất sử dụng thấp. Như vậy, khi ứng

dụng kỹ thuật cavitation không chỉ tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm hóa chất mà

còn ngăn ngừa một số chuyển hóa phụ. Hay nói cách khác, ứng dụng kỹ thuật

xanh thân thiện với môi trường tạo ra sản phẩm xanh từ phụ phẩm trong quá trình

sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao.

1

II. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của luận án là xây dựng quy trình công nghệ xử lý tinh chế và chuyển

hóa hóa học mỡ cá tra thành dầu gốc sinh học trên cơ sở ứng dụng kỹ thuật

cavitation.

III. Nội dung nghiên cứu

1. Thiết kế và chế tạo hệ thống thiết bị cavitation sử dụng trong công nghệ xử lý

tinh chế và chuyển hóa hóa học mỡ cá tra thành dầu gốc sinh học.

2. Nghiên cứu các quá trình xử lý để tinh chế mỡ cá tra như tách các tạp chất háo

nước, nhựa, tách sáp…bằng kỹ thuật cavitation (có so sánh với phương pháp cổ

điển)

3. Nghiên cứu quá trình chuyển hóa hóa học mỡ cá tra bao gồm quá trình epoxy

hóa nối đôi và mở vòng epoxy với các tác nhân khác nhau bằng kỹ thuật

cavitation (có so sánh với phương pháp cổ điển)

4. Sử dụng dầu gốc sinh học sản xuất từ mỡ cá tra pha chế dầu nhờn sinh học trên

cơ sở phối trộn với dầu gốc khoáng và phụ gia. Khảo sát các tính chất của các

hỗn hợp pha chế dầu nhờn sinh học từ đó xác định tỉ lệ thành phần pha chế thích

hợp nhất.

IV. Tính mới của luận án

1. Luận án đã sử dụng mỡ cá tra làm nguyên liệu sản xuất dầu nhờn sinh học.

Đây là một hướng đi hoàn toàn mới, mở ra khả năng sản xuất dầu nhờn sinh học

với số lượng lớn không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có thể xuất khẩu.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về công nghệ sản xuất biodiesel từ mỡ cá tra

và các kết quả nghiên cứu đã áp dụng trong sản xuất thực tế. Tuy nhiên do mỡ cá

tra có giá thành tương đối cao, (khoảng 12.000 – 14.000 VND/kg) do vậy hướng

đi này gặp trở ngại về khía cạnh kinh tế. Do vậy sử dụng mỡ cá tra sản xuất dầu

nhờn sinh học sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, tạo ra giá trị gia tăng cho ngành nuôi

trồng và chế biến cá tra ở nước ta.

2

2. Luận án đã xây dựng quy trình công nghệ sản xuất dầu gốc sinh học từ mỡ cá

tra gồm 2 công đoạn chính là xử lý, tinh chế và chuyển hóa hóa học. Bước đầu

đã xác định được các thông số ảnh hưởng đến hiệu suất các quá trình như nhiệt

độ, lượng tác chất phản ứng sử dụng, thời gian… thích hợp đạt được hiệu suất

quá trình cao nhất và các tính chất của sản phẩm thu được đáp ứng yêu cầu sử

dụng làm dầu gốc sinh học, pha chế dầu nhờn sinh học.

3. Luận án đã ứng dụng kỹ thuật cavitation trong công nghệ sản xuất dầu gốc

sinh học từ mỡ cá tra. Các kết quả thu được thêm một lần nữa cho thấy sự ưu việc

của kỹ thuật cavitation như giảm đáng kể thời gian phản ứng, giảm tiêu hao hóa

chất, giảm nhiệt độ phản ứng nhưng vẫn đạt hiệu suất quá trình cao và đặc biệt

sản phẩm dầu gốc sinh học thu được có độ đồng nhất về thành phần hóa học cao,

độ bền oxy hóa được tăng cường, độ nhớt, chỉ số độ nhớt cao… và đã đáp ứng

được theo tiêu chuẩn chất lượng của dầu gốc khoáng.

4. Luận án đã đã tạo ra dầu nhờn sinh học từ mỡ cá tra bằng cách phối trộn dầu

gốc sinh học sản xuất từ mỡ cá tra với dầu gốc khoáng và phụ gia với tỉ lệ các

hợp phần thích hợp. Dầu nhờn sinh học từ mỡ cá tra có các tính chất cơ bản như

độ nhớt, chỉ số độ nhớt, nhiệt độ đông đặc, độ bền oxy hóa ... đã đáp ứng theo

tiêu chuẩn TCVN đối với sản phẩm dầu nhờn khoáng.

Bố cục của luận án:

Mở đầu

Chương 1: Tổng quan

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Kết quả và bàn luận

Kết luận và kiến nghị

Danh mục công trình đã công bố

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

3

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN

1.1 Các phương pháp sản xuất dầu gốc sinh học từ dầu thực vật

Quá trình xử lí, tinh chế

Dầu thực vật được lọc tách các tạp chất cơ học, loại bỏ các tạp chất háo nước,

nhựa, tách sáp, trung hòa, tẩy màu, mùi và làm khan. Sau đó có thể pha chế thêm

với các loại phụ gia và sản phẩm được sử dụng trực tiếp như là dầu nhờn thành

phẩm mà không cần phải qua các giai đoạn phản ứng chuyển đổi.

Quá trình chuyển hóa hóa học

Cấu trúc hóa học cơ bản của dầu thực vật là các chuỗi mạch este của triglyxerit với các mạch R dài chứa các liên kết đôi của các nguyên tử cacbon đã làm cho

dầu mỡ có độ bền oxy hóa bị giới hạn. Vì lý do này, nhiều phương pháp điều

chỉnh cấu trúc của dầu thực vật đã được đề xuất. Có 3 vị trí cơ bản của mạch

triglyxerit mà các phản ứng có thể diễn ra dễ dàng, đó là các nhóm chức este, các

β-hiđro và liên kết đôi của cacbon với cacbon. Một số phương pháp thường được

sử dụng để cải thiện độ bền oxy hóa cho dầu thực vật bao gồm phương pháp

hyđro hóa chọn lọc, phương pháp ozon hóa cắt mạch, phương pháp este hóa cắt

mạch và phương pháp epoxy hóa các liên kết đôi của các nguyên tử cacbon và

mở vòng epoxy với các tác nhân ái nhân. Phương pháp epoxy hóa và mở vòng

epoxy có ưu điểm là đơn giản, kinh tế, độ bền oxy hóa và khả năng làm việc tại

nhiệt độ thấp của sản phẩm được tăng cường rõ rệt. Hơn nữa, các sản phẩm thu

nhận từ quá trình còn được gọi là các hợp chất dễ phân hủy sinh học. Bên cạnh

đó, các nguyên liệu, hóa chất và xúc tác dùng trong các phản ứng là các hóa chất

thông dụng do đó khả năng áp dụng ở quy mô công nghiệp cao.

1.2 Kỹ thuật cavitation

Phản ứng hóa học xảy ra trong thiết bị cavittion

Sự chuyển hóa của phản ứng hóa học trong hệ thống thiết bị cavitation được định

nghĩa bằng sự thay đổi của các bong bóng hơi. Trong suốt thời gian tồn tại, bong

bóng tăng dần kích thước do lượng khí thẩm thấu vào nhiều hơn dẫn đến diện

tích bề mặt tăng dần đồng thời áp suất bên ngoài giảm. Độ lớn của bong bóng có

4

thể tăng từ 3 đến 400 lần tùy thuộc vào kích thước ban đầu của bong bóng. Khi

bong bóng di chuyển đến vùng chênh áp lớn, bong bóng sẽ vỡ và tạo ra một vùng

áp suất cao và nhiệt độ cao cục bộ lên đến (1000 – 2000bar) và (4000 – 6000K).

Điều này được lý giải bởi vì khí và hơi trong bong bóng được nén đoạn nhiệt sinh

ra lượng nhiệt lớn và làm tăng tức thời nhiệt độ chất lỏng xung quanh, tạo ra một

vùng nóng cục bộ. Mặc dù nhiệt độ của vùng này rất cao, nhưng diện tích của

vùng khá nhỏ nên nhiệt cũng được phân tán rất nhanh. Tốc độ gia nhiệt và làm nguội trong vùng cavitation được ước tính lên đến 1tỷoC/giây. Do đó, tại bất cứ

thời điểm nào, nhiệt độ toàn cục của chất lỏng luôn bằng nhiệt độ của môi trường.

Thiết bị phản ứng cavitation thủy động lực học

Thiết bị tạo cavitation theo nguyên tắc thủy động lực học đơn giản hơn rất nhiều

so với kỹ thuật siêu âm, chi phí về thiết bị và năng lượng vận hành cũng thấp

hơn, khả năng ứng dụng cho những quy trình công nghệ ở quy mô công nghiệp

cũng khả quan hơn. Về mặt lý thuyết, kỹ thuật cavitation theo nguyên tắc thủy

động lực học được mô tả tóm tắt là khi cho dòng chất lỏng chảy qua một khúc co

hẹp đột ngột như ống ventury, van tiết lưu, đĩa lỗ…Tại phần co hẹp này, áp suất

của chất lỏng giảm xuống một ngưỡng áp suất mà tại đó các bong bóng hơi được

tạo ra trong lòng chất lỏng, các bong bóng hơi này phát triển, tăng kích thước rồi

vỡ ra khi áp suất được phục hồi ở phần hạ lưu sau khúc co hẹp. Độ lớn của xung

áp suất được tạo ra tại thời điểm vỡ của các bong bóng hơi được gọi là áp suất

phá vỡ. Áp suất phá vỡ sẽ phụ thuộc vào thông số vận hành và cấu trúc hình học

trong hệ thống thiết bị cavitation. Sự thay đổi trong áp suất phá vỡ theo các các

thông số vận hành là yếu tố cơ sở quan trọng cho các tính toán thiết kế một hệ

thống thiết bị cavitation thủy động lực học. Ngoài ra, khi thực hiện phương pháp

cavitation thủy động lực học cũng có nhiều ưu điểm như tạo ra một vùng phản

ứng đồng nhất do hiệu quả khuấy trộn cao nên không có vấn đề về độ nhạy theo

hướng, cavitation diễn ra tại tầng trượt của chất lỏng làm giảm khả năng bào mòn

thành ống thép, năng suất và hiệu suất có thể điều chỉnh và chọn lựa dễ dàng.

5

Nghiên cứu sử dụng dầu thực vật sản xuất dầu gốc sinh học

Một số nghiên cứu đã tập trung theo hướng sử dụng trực tiếp dầu thực vật làm

dầu gốc sinh học hoặc dầu nhờn sinh học. Shamsuddin cùng cộng sự đã pha chế

dầu nhờn sinh học là hỗn hợp gồm 80%(kl) dầu ăn qua sử dụng tinh chế và

20%(kl) dầu hạt jatropha. Trên cơ sở công thức pha chế dầu nhờn khoáng SI-

CF4, Hameed cùng cộng sự đã xây dựng dựng công thức pha chế dầu nhờn sinh

học bằng việc bổ sung 6%(kl) hỗn hợp dầu thầu dầu và dầu ngô. Với mục đích

tăng cường tính ổn định oxy hóa, khả năng hoạt động tại nhiệt độ thấp của dầu

thực vật, phương pháp epoxy hóa và mở vòng epoxy với các tác nhân ái nhân đã

được sử dụng trong nhiều nghiên cứu. Turco cùng đồng nghiệp đã tổng hợp dầu

nhờn sinh học bằng cách chuyển hóa dầu đậu nành thành dầu polyol qua phản

ứng epoxy hóa và mở vòng epoxy với các alcol. Tương tự, Nguyễn Thị Thủy

cùng cộng sự thuộc Trung tâm Polyme, Đại học Bách khoa Hà Nội đã tổng hợp

dầu nhờn sinh học họ polyol từ dầu đậu nành qua phản ứng epoxy hóa và mở

vòng dầu epoxy với nước, xúc tác axit H2SO4. Sharma và cộng sự đã chuyển hóa

dầu hạt cải qua phản ứng epoxy hóa và mở vòng dầu epoxy với anhyđrit axetic.

Sản phẩm dầu cải polyeste thu được có thể sử dụng làm dầu gốc sinh học bởi vì

nó có độ ổn định nhiệt cao và khả năng bôi trơn cao, dầu polyeste hạt cải cũng

được đánh giá là có khả năng phân hủy sinh học cao. Tương tự, Somidi cùng

cộng sự đã thực hiện phản ứng epoxy hóa dầu hạt cải và phản ứng mở vòng dầu

epoxy với tác nhân anhydrit axetic. Kết quả cho thấy so với nguyên liệu ban đầu,

sản phẩm dầu hạt cải polyeste không những có độ bôi trơn cao hơn mà khả năng

chống oxy hóa còn cao hơn nhiều.

Phương pháp sử dụng trực tiếp dầu thực vật làm dầu gốc sinh học đơn giản và dễ

thực hiện. Tuy nhiên khả năng sử dụng thay thế cho dầu gốc khoáng của dầu thực

vật còn thấp. Sau quá trình chuyển hóa hóa học, khả năng chống oxy hóa, đặc

tính làm việc tại nhiệt độ thấp cũng như đặc tính bôi trơn của các sản phẩm dầu

polyol hoặc dầu polyeste gốc dầu thực vật đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên,

do khối lượng phân tử lớn và độ nhớt cao của dầu thực vật có thể đã gây khó

khăn cho sự khuếch tán của dầu thực vật vào pha các tác chất phản ứng. Trong

6

khi đó, các nghiên cứu trên lại thực hiện phản ứng dưới sự hỗ trợ của các loại

máy khuấy hiệu năng thấp như bếp khuấy từ, máy khuấy cơ nên phản ứng đã sử

dụng nhiều hóa chất, tiêu tốn nhiều năng lượng, thời gian phản ứng kéo dài nhiều

giờ. Ngoài ra, khả năng khuấy trộn thấp có thể là nguyên nhân gây ra một số phản

ứng phụ, gây khó khăn cho quá trình tinh chế sản phẩm, giảm hiệu suất phản ứng.

Mặt khác, một số loại dầu thực vật như dầu cọ, dầu hướng dương, dầu lạc, dầu

đậu nành... không chỉ giúp tăng thêm hương vị cho các món ăn mà còn mang lại

rất nhiều lợi ích cho sức khỏe con người. Vì vậy việc sử dụng dầu thực vật làm

nguyên liệu trong sản xuất dầu gốc sinh học có thể gây nên sự thiếu hụt về nguồn

cung dầu thực vật trong việc đảm bảo nhu cầu về dinh dưỡng chất lượng bữa ăn

của mọi gia đình. Trong khi Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu thịt

phi lê cá tra lớn trên thế giới. Trong quá trình chế biến cá tra, một lượng lớn phụ

phẩm mỡ cá đã hình thành. Trước đây, lượng phụ phẩm mỡ cá tra thường dùng

để sản xuất bột cá dùng trong chăn nuôi hoặc xuất khẩu thô nên giá trị kinh tế

còn thấp. Do đó, cần phải tìm giải pháp chế biến sâu mỡ cá tra để tăng giá trị lợi

nhuận cho con cá, góp phần ổn định đời sống cho người nuôi cá. Theo các tài

liệu khoa học và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm của nhóm chúng tôi đã cho

thấy rằng, cấu trúc hóa học cũng như các chất hóa lý đặc trưng của mỡ cá tra

tương tự như dầu thực vật. Vì vậy mỡ cá tra hoàn toàn phù hợp làm nguyên liệu

cho quá trình sản xuất dầu gốc sinh học.

Quá trình xử lý, tinh chế và quá trình chuyển hóa hóa học mỡ cá tra bao gồm

phản ứng epoxy và mở vòng epoxy đã được chọn làm nội dung nghiên cứu. Để

đảm bảo bề mặt tiếp xúc pha cao cho nguyên liệu và các tác chất phản ứng, kỹ

thuật cavitation đã được đề xuất áp dụng. Điều này có thể hứa hẹn mang lại những

đột phá về công nghệ cũng như tính kinh tế của quá trình sản xuất dầu gốc sinh

học từ mỡ cá tra.

7

CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Thiết kế hệ thống thiết bị cavitation

Tính toán thông số hình học của màng chắn

Các thông số hình học của màng chắn được tính toán bao gồm đường kính ống và đường kính lỗ thắt.

Tính toán công suất bơm

Công suất bơm được tính toán dựa trên giá trị áp suất vận hành của hệ thống thiết bị cavitation và các tổn thất áp suất của toàn bộ hệ thống.

Sơ đồ hệ thống thiết bị cavitation và quy trình vận hành

2.2 Ứng dụng kỹ thuật cavitation vào quá trình sản xuất dầu gốc sinh học

từ mỡ cá tra

Nguyên vật liệu, hóa chất

Nguyên liệu mỡ cá tra được mua từ Công ty AGIFISH. Dầu gốc khoáng SN150,

SN500 và một số phụ gia được mua từ Công ty Hóa dầu Đông Á, Thành Phố Hồ

Chí Minh. Các hóa chất thông dụng được sử dụng trong nghiên cứu thực nghiệm

Phân tích các tính chất nguyên liệu mỡ cá tra

Quá trình xử lý, tinh chế

2.2.3.1 Tách các tạp chất háo nước, nhựa

Quá trình tách các tạp chất háo nước và nhựa cho mỡ cá tra được thực hiện theo

phương án máy khuấy cơ và thiết bị cavitation. Lượng nước sử dụng tại 2%(kl)

mỡ cá. Các thông số khảo sát bao gồm tốc độ máy khuấy, nhiệt độ và thời gian.

2.2.3.2 Tách sáp

Quá trình tách sáp nguyên liệu dầu cá tra sau khi đã tách các tạp chất háo nước

và nhựa tiến hành với tốc độ máy khuấy cài đặt tại 200(v/p). Các thông số được

khảo sát bao gồm nhiệt độ và thời gian. Sau quá trình tách sáp, các sản phẩm dầu

cá tra được sấy trong thiết bị sấy chân không để loại bỏ hoàn toàn nước, thu nhận

dầu cá tra tinh chế.

8

Quá trình chuyển hóa hóa học

2.2.4.1 Giai đoạn phản ứng epoxy hóa

Phản ứng epoxy hóa mỡ cá tra thực hiện theo 2 phương án bếp khuấy từ và thiết

bị cavitation. Lượng xúc tác axit H2SO4 cố định tại 2%(kl) hỗn hợp H2O2, và

CH3COOH. Các thông số được khảo sát bao gồm áp suất đầu vào, tỷ lệ mol

H2O2/CH3COOH/C=C, nhiệt độ và thời gian phản ứng.

2.2.4.2 Giai đoạn phản ứng mở vòng dầu epoxy cá tra với iso-propanol

Phản ứng mở vòng epoxy dầu epoxy cá tra với tác nhân iso-propanol thực hiện

theo 2 phương án bếp khuấy từ và thiết bị cavitation. Lượng xúc tác H2SO4 cố

định tại 2%(kl) vòng epoxy. Các thông số khảo sát bao gồm áp suất đầu vào, tỷ

lệ mol của iso-propanol/vòng epoxy, nhiệt độ và thời gian phản ứng.

2.2.4.3 Giai đoạn phản ứng mở vòng dầu epoxy cá tra với anhydrit acetic

Phản ứng mở vòng epoxy dầu epoxy cá tra với tác nhân anhyđrit axetic thực hiện

theo 2 phương án bếp khuấy từ và thiết bị cavitation. Lượng xúc tác H2SO4 cố

định tại 2%(kl) vòng epoxy. Các thông số khảo sát bao gồm áp suất đầu vào, tỷ

lệ mol của anhyđrit axetic/vòng epoxy, nhiệt độ và thời gian phản ứng.

2.3 Pha chế dầu nhờn sinh học

Tiến hành phân tích các tính chất đặc trưng của dầu gốc khoáng và dầu gốc sinh

học sản xuất từ mỡ cá tra. Trên cơ sở công thức pha chế dầu nhờn động cơ

SAE20W-50, các công thức pha chế dầu nhờn sinh học được thiết lập.

2.4 Phương pháp phân tích

Thành phần axit béo của mỡ cá tra được xác định theo phương pháp GC-ISO/CD

5509:94. Các nhóm chức của nguyên liệu và sản phẩm được xác định bằng phương pháp phân tích FT-IR, 1H-NMR, 13C-NMR. Độ bền oxy hóa được phân

tích theo phương pháp TGA và Rancimat. Khả năng phân hủy sinh học được

đánh giá qua giá trị COD và giá trị (BOD5/COD). Các tính chất của nguyên liệu

và sản phẩm được xác định theo tiêu chuẩn TCVN và ASTM.

9

CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

3.1 Thiết kế hệ thống thiết bị cavitation

Thông số hình học của màng chắn

Từ các dữ liệu ban đầu của hệ thống thiết bị cavitation, các thông số hình học của

màng chắn được tính như sau:

= 0,02804 m = 28,04mm =√ = √ Dường kính ống: d𝑜 = √4A1

π

4.1 3600 x 3,14 x 0,45

4Q πv1

= 0,0025 m = 2,5mm =√ =√ Đường kính lỗ thắt: d𝑙 = √4A1

π

4x1 3600 x 3,14 x 55

4Q π.v2

Dựa trên kết quả tính toán, theo kết quả các nghiên cứu về hoạt động của hệ thống

thiết bị cavitation thủy động lực học dạng tấm chắn đĩa lỗ [43,68,74] và theo kích

thước đường kính ống tiêu chuẩn, các lựa chọn cho màng chắn như sau:

- Đường kính ống trước màng chắn: do = 𝜙32x2mm

- Đường kính lỗ thắt: dl = 2mm

Thông số làm việc của bơm

Bơm có đường làm việc thỏa mãn: H = 90m, Q = 1m3/h

3.2 Sơ đồ hệ thống thiết bị cavitation và quy trình vận hành

Sơ đồ cấu tạo hệ thống thiết bị cavitation trình bày trong Hình 3.2

Hình 3.2. Sơ đồ hệ thống thiết bị cavitation

10

Chú thích: 1- Bơm; 2- Bộ phận cavitation; 3- Thùng chứa; 4,5- Áp kế; 6- Thiêt bị đo nhiệt độ.

Quy trình hoạt động của hệ thống thiết bị cavitation có thể mô tả như sau: Đầu

tiên, kiểm tra toàn bộ hệ thống và các thiết bị đo để đảm bảo rằng hệ thống thiết

bị sạch, khô và các thiết bị đo hoạt động tốt. Đóng tất cả các van. Sau đó, cho

nguyên liệu và lần lượt các tác chất phản ứng vào thùng chứa. Tiếp theo, mở van

V5, V3 và van V2 để hỗn hợp phản ứng được khuấy tuần hoàn. Đóng van V2 và

đồng thời mở van V1 để hỗn hợp phản ứng được bơm vào vùng tạo cavitation.

Theo dõi các giá trị nhiệt độ và áp suất qua màn hình hiển thị trên áp kế P và

nhiệt kế T. Sau khi phản ứng kết thúc, mở van V4 để thu hỗn hợp sản phẩm thô.

Tắt nguồn điện, nước và toàn bộ hệ thống cavitation.

3.3 Quá trình sản xuất dầu gốc sinh học từ mỡ cá tra, sử dụng kỹ thuật cavitation

Các tính chất cơ bản của nguyên liệu dầu cá tra

Mỡ cá tra có độ nhớt, chỉ số độ nhớt và điểm chớp cháy cốc hở cao hơn so với

dầu gốc khoáng SN500. Điều này cho thấy mỡ cá tra là một trong những nguyên

liệu có tiềm năng cao sử dụng trong quá trình sản xuất dầu gốc. Tuy nhiên, nhiệt

độ chảy mềm và trị số iốt và thành phần chưa bảo hòa của mỡ cá cao. Vì vậy khả

năng làm việc tại nhiệt độ thấp và độ bền oxy hóa của mỡ cá chưa đáp ứng được

theo yêu cầu chất lượng của dầu gốc khoáng. Vì vậy cần thiết phải tiến hành quá

trình xử lý, tinh chế và chuyển hóa hóa học để cải thiện các tính chất cho mỡ cá.

Quá trình xứ lý, tinh chế

3.3.2.1 Tách các tạp chất háo nước và nhựa

Trong các trường hợp khảo sát, hiệu quả quá trình tách các tạp chất háo nước và nhựa thực hiện theo phương án máy khuấy cơ đạt hiệu quả cao nhất tại 55oC, 60

phút, tốc độ khuấy của máy khuấy cơ 800 vòng/phút và độ giảm trị số axit của

sản phẩm đạt giá trị 0,51%. Với quá trình thực hiện theo phương án thiết bị cavitation đã đạt hiệu quả cao tại áp suất đầu vào 60psi, nhiệt độ 40oC trong thời

gian chỉ 3 phút và độ giảm trị số axit của sản phẩm đạt giá trị 1,03%.

11

3.3.2.2 Quá trình tách sáp

Trong các trường hợp khảo sát, hiệu quả tách sáp với dầu cá tra đã tách các tạp

chất háo nước, nhựa thực hiện theo phương án máy khuấy cơ học đạt hiệu quả cao nhất tại nhiệt độ làm lạnh 8oC trong thời gian làm lạnh 7 giờ và nhiệt độ rót chảy của dầu cá tra giảm xuống mức 9oC. Với nguyên liệu dầu cá tra thu nhận

từ quá trình tách các tạp chất háo nước, nhựa thực hiện theo phương án thiết bị cavitation, hiệu quả tách sáp đạt cao nhất tại nhiệt độ làm lạnh 10oC trong thời gian 8 giờ và nhiệt độ rót chảy của dầu cá tra giảm xuống mức 9oC.

Dầu cá tra thu nhận sau quá trình tách sáp được sấy chân không tại áp suất 0,1atm

trong 4 giờ để loại bỏ hoàn toàn lượng nước.

Quá trình chuyển hóa hóa học

3.3.3.1 Giai đoạn phản ứng epoxy hóa

Trong các trường hợp khảo sát, hiệu suất phản ứng epoxy hóa mỡ cá tra thực hiện theo phương án bếp khuấy từ đạt giá trị cao (91,2%) tại 50oC, tỷ lệ mol của

H2O2/CH3COOH (Hy/Ac) là 4,5/1,5 trong thời gian 3 giờ. Hiệu suất phản ứng giảm đáng kể xuống mức 72.1% khi tăng thêm nhiệt độ đến 70oC và kéo dài thời

gian phản ứng đến 5 giờ. Phản ứng thực hiện theo phương án thiết bị cavitation đạt hiệu suất cao (94,1%) tại áp suất 50psi, 45oC, tỷ lệ mol của H2O2/CH3COOH là 3,75/1,25 trong thời gian chỉ 5 phút. Các kết quả thu nhận trong giai đọan phản ứng epoxy hóa được làm sáng tỏ qua kết quả phân tích FT-IR và 1H-NMR và 13C-NMR trình bày trong Hình 3.12, Hình 3.13 và Hình 3.14 với mã hóa mẫu nguyên liệu mỡ cá tra (MC), mẫu sản phẩm dầu epoxy cá tra thu nhận từ phản ứng epoxy theo phương án bếp khuấy từ thực hiện tại nhiệt độ cao (70oC) và thời

gian phản ứng kéo dài (5 giờ) (EP(1)) và 2 mẫu sản phẩm dầu epoxy cá tra thu

nhận từ phản ứng epoxy theo phương án bếp khuấy từ và phương án thiết bị

cavitation tại các điều kiện phản ứng thích hợp (EP(kt), EP(ca)).

Trong Hình 3.12, phổ FT-IR của nguyên liệu mỡ cá tra (MC) mô tả các đỉnh đặc

trưng cho các nhóm chức chính chứa trong mỡ cá. Các liên kết đôi của cacbon với cacbon có thể xác nhận qua các đỉnh xuất hiện tại 1654,5cm-1và 3008,8cm-1.

12

Trong phổ FT-IR của mẫu EP(1), các đỉnh đặc trưng cho các nhóm chức chính

của nguyên liệu MC đều đã xuất hiện và sự xuất hiện đỉnh mới đặc trưng cho vòng epoxy tại 829,4cm-1. Tuy nhiên, vẫn có sự xuất hiện yếu của các đỉnh tại 1654,5cm-1, 3008,8cm-1 và 3483,3cm-1 đặc trưng cho các liên kết đôi của carbon

với carbon và nhóm hydroxyl (OH). Tương tự, hầu hết các đỉnh đặc trưng cho

các nhóm chức chính chứa trong nguyên liệu MC đều xuất hiện trong phổ FT-IR

của mẫu EP(kt) và EP(ca), ngoại trừ các đỉnh đặc trưng cho liên kết đôi của cacbon với cacbon và thay vào đó là sự xuất hiện của đỉnh mới tại 825,5cm-1 và 844,8cm-1 đặc trưng cho vòng epoxy (HCOCH).

Hình 3.12. Phổ FT-IR các mẫu giai đoạn phản ứng epoxy hóa

Hình 3.13. Phổ 1H-NMR của các mẫu giai đoạn phản ứng epoxy hóa

13

Hình 3.14. Phổ 13C-NMR của các mẫu giai đoạn phản ứng epoxy hóa

Phổ 1H-NMR của MC trình bày trong Hình 3.13, đã xuất hiện các đỉnh đặc trưng

cho các proton của các nhóm chức chính của nó. Các tín hiệu xuất hiện tại (5,26

- 5,34ppm) đã xác nhận cho các proton đặc trưng của thành phần chưa bảo hòa (HC = CH) chứa trong MC. Trong phổ 1H-NMR của mẫu EP(1), các proton đặc

trưng của các nhóm chức chính chứa trong MC đã xuất hiện và các đỉnh mới tại

(2,89 - 3,11ppm), (1,5 - 1,60ppm), (1,62 - 1,73ppm) đặc trưng cho các proton của

vòng epoxy (HCOCH) và các proton β-CH2, α-CH2 liên kết với vòng epoxy. Tuy nhiên trong phổ 1H-NMR của EP(1) cũng cho thấy sự xuất hiện yếu của đỉnh tại

5,26 ppm đặc trưng cho proton của liên kết đôi (HC = CH) và đỉnh đặc trưng cho

proton của nhóm hydroxyl (OH) tại 3,57ppm, 4,83ppm và 4,99pmm. Tương tự,

các proton đặc trưng của các nhóm chức chính chứa trong nguyên liệu MC đã xuất hiện trong phổ 1H-NMR của mẫu EP(kt) và EP(ca). Không tìm thấy sự xuất

hiện của đỉnh proton đặc trưng cho liên kết đôi (HC = CH) và thay vào là sự

xuất hiện mạnh của các đỉnh mới tại (2,89 - 3,11ppm), (1,48 - 1,5ppm), (1,62 -

1,73ppm) đặc trưng cho các proton của vòng epoxy (HCOCH) và các proton β-

CH2, α-CH2 liên kết với vòng epoxy. Điều này cho thấy trong các trường hợp

này, phản ứng epoxy dầu cá tra đã xảy ra mạnh mẽ.

14

Trong Hình 3.14, các đỉnh tín hiệu đặc trưng cho các cacbon chứa trong các nhóm chức chính của nguyên liệu mỡ cá tra (MC) đã xuất hiện trong phổ 13C-NMR của MC. Các tín hiệu xuất hiện tại (127,90 – 129,98ppm) đã xác nhận cho cacbon

đặc trưng của thành phần chưa bảo hòa (HC = CH) chứa trong MC. Trong phổ 13C-NMR của mẫu EP(1), các cacbon đặc trưng của các nhóm chức chính chứa trong MC đã xuất hiện và sự xuất hiện các đỉnh mới tại (54,17 – 57,20ppm) đặc trưng cho cacbon của vòng epoxy (HCOCH). Tuy nhiên, phổ 13C-NMR của mẫu

EP(1) cũng đã xuất hiện đỉnh mới tại 53,4ppm đặc trưng cho cacbon liên kết với nhóm hyđroxyl (HC-OH). Tương tự, phổ 13C-NMR của mẫu EP(kt) và (EP(ca)

đã xuất hiện các đỉnh đặc trưng cho các cacbon của các nhóm chức chính chứa

trong MC. Không tìm thấy sự xuất hiện của đỉnh đặc trưng cho cacbon của liên

kết đôi (HC = CH) và thay vào là sự xuất hiện mạnh của các đỉnh mới tại (54,14

– 57,17ppm) đặc trưng cho cacbon của vòng epoxy (HCOCH).

3.3.3.2 Giai đoạn phản ứng mở vòng epoxy với tác nhân iso-propanol

Trong các trường hợp khảo sát, phản ứng mở vòng dầu epoxy cá tra thực hiện theo phương án bếp khuấy từ đạt hiệu suất cao nhất (86,1%) tại 85oC, tỷ lệ mol của iso-propanol/vòng epoxy là 2/1 trong thời gian 4 giờ. Tăng nhiệt độ đến 105oC và kéo dài thời gian phản ứng đến 6 giờ, hiệu suất phản ứng đã giảm đáng

kể, xuống mức 73%. Phản ứng thực hiện theo phương án thiết bị cavitation đạt hiệu suất cao (91,3%) khi phản ứng thực hiện tại 75oC, tỷ lệ mol của iso-

propanol/vòng epoxy là 1,5/1 trong thời gian chỉ 7 phút. Các kết quả thu nhận

được từ quá trình mở vòng dầu epoxy với tác nhân iso-propanol được làm sáng tỏ qua kết quả phân tích FT-IR, 1H-NMR và 13C-NMR, trình bày chi tiết trong

Hình 3.22, Hình 3.23 và Hình 3.24 với mã hóa 2 mẫu nguyên liệu dầu epoxy cá

tra (EP(kt), EP(ca)), mẫu sản phẩm dầu polyol cá tra thu nhận từ phản ứng mở vòng epoxy theo phương án bếp khuấy từ thực hiện tại nhiệt độ cao (105oC) và

thời gian phản ứng kéo dài đến 6 giờ (OL(1)) và 2 mẫu sản phẩm dầu polyol cá

tra thu nhận từ phản ứng mở vòng epoxy theo phương án bếp khuấy từ và phương

án thiết bị cavitation tại các điều kiện phản ứng thích hợp (OL(kt), OL(ca)).

15

Hình 3.22. Phổ FT-IR các mẫu giai đoạn mở vòng epoxy với iso-propanol

Hình 3.23. Phổ 1H-NMR các mẫu giai đoạn mở vòng epoxy với iso-propanol

Phổ FT-IR của mẫu EP(kt), EP(ca) trình bày trong Hình 3.22, đã xuất hiện các

tín hiệu đặc trưng cho các nhóm chức chính chứa trong dầu epoxy cá tra. Phổ FT- IR của mẫu EP(kt) và EP(ca) xuất hiện rất rõ các đỉnh tại 825,5cm-1 và 829,4cm- 1 đặc trưng cho vòng epoxy (HCOCH). Phổ FT-IR của mẫu OL(1) xuất hiện các

đỉnh đặc trưng cho các nhóm chức chính chứa trong dầu epoxy cá tra và sự xuất hiện đỉnh mới tại 3460,2cm-1 đặc trưng cho nhóm chức hyđroxyl. Tuy nhiên phổ FT-IR của mẫu OL(1) lại có sự xuất hiện yếu của đỉnh tại 825,5cm-1 đặc trưng

cho vòng epoxy. Tương tự, hầu hết các đỉnh đặc trưng cho các nhóm chức chính

16

chứa trong dầu epoxy cá tra đều xuất hiện trong phổ FT-IR của mẫu OL(kt) và

OL(ca), ngoại trừ đỉnh đặc trưng cho vòng epoxy và thay vào đó là sự xuất hiện của đỉnh mới tại 3460,2cm-1 đặc trưng cho nhóm chức hyđroxyl (OH).

Trong Hình 3.23, các đỉnh đặc trưng cho các nhóm chức chính của dầu epoxy cá tra đã xuất hiện trong phổ 1H-NMR của mẫu EP(kt) và EP(ca). Sự xuất hiện rõ các tín hiệu tại (2,89 - 3,11ppm), (1,48 - 1,5ppm), (1,62 - 1,73ppm) đặc trưng cho

các proton của vòng epoxy (HCOCH) và các proton β-CH2, α-CH2 liên kết với vòng epoxy trong cấu trúc dầu epoxy cá tra. Phổ 1H-NMR của mẫu OL(1) đã xuất hiện các đỉnh đặc trưng cho các proton của các nhóm chức chính chứa trong

dầu epoxy cá tra và sự xuất hiện đỉnh mới tại 3,41ppm đặc trưng cho proton của nhóm chức hyđroxyl. Tuy nhiên trong phổ 1H-NMR của OL(1) cũng thấy sự xuất hiện yếu của các đỉnh proton đặc trưng cho vòng epoxy. Tương tự, các đỉnh đặc

trưng cho các proton của các nhóm chức chính chứa trong dầu epoxy cá tra đã xuất hiện trong phổ 1H-NMR của mẫu OL(kt) và OL(ca). Không tìm thấy sự xuất hiện của đỉnh đặc trưng cho proton của vòng epoxy và thay vào là sự xuất hiện

mạnh của các đỉnh mới tại (3,39 – 3,69ppm), (4,99 – 5,01ppm) và (3,44 –

3,67ppm), 5,00ppm đặc trưng cho các proton của nhóm CH-OH, HCOCH(CH3)2

và CHOH trong cấu trúc của dầu polyol cá tra.

Hình 3.24. Phổ 13C-NMR các mẫu giai đoạn mở vòng epoxy với iso-propanol

17

Trong Hình 3.24, các đỉnh tín hiệu đặc trưng cho các cacbon của các nhóm chức chính của dầu epoxy cá tra đã xuất hiện trong phổ 13C-NMR của mẫu EP(kt) và EP(ca). Phổ 13C-NMR của mẫu OL(1) đã xuất hiện các đỉnh đặc trưng cho các

cacbon của các nhóm chức chính chứa trong dầu epopxy cá tra và sự xuất hiện

các đỉnh mới tại (72,31 – 72,83ppm) đặc trưng cho cacbon liên kết với nhóm

chức hyđroxyl (HC-OH) trong cấu trúc dầu polyol cá tra. Tuy nhiên trong phổ 13C-NMR của mẫu OL(1) cũng thấy sự xuất hiện yếu của đỉnh đặc trưng cho

cacbon của vòng epoxy. Tương tự, các đỉnh đặc trưng cho các cacbon của các nhóm chức chính chứa trong dầu epoxy cá tra đã xuất hiện trong phổ 13C-NMR

của mẫu OL(kt) và OL(ca). Không tìm thấy sự xuất hiện của đỉnh đặc trưng cho

cacbon của vòng epoxy và thay vào là sự xuất hiện mạnh của các đỉnh mới tại

(72,53 - 74,42ppm) và (72,54 - 79,90ppm) đặc trưng cho cacbon liên kết với

nhóm chức hyđroxyl (HC-OH) trong cấu trúc dầu polyol cá tra.

3.3.3.3 Giai đọan phản ứng mở vòng epoxy với tác nhân anhydrite acetic

Trong các trường hợp khảo sát, hiệu suất phản ứng mở vòng dầu epoxy cá tra với

tác nhân anhydrite acetic đạt giá trị cao (90,2 %) tại tỉ lệ mol của anhyđrit axetic/vòng epoxy là 1,5, nhiệt độ 90oC trong thời gian 4,5 giờ. Phản ứng thực

hiện theo phương án thiết bị cavitation, hiệu suất đạt giá trị cao (94,6%) tại áp suất 60psi, 85oC, tỷ lệ mol của anhyđrit axetic/vòng epoxy là 1,25/1 trong thời gian 10 phút. Các kết quả này được chứng minh qua kết quả phân tích FT-IR, 1H- NMR và 13C-NMR, trình bày chi tiết trong Hình 3.32, Hình 3.33 và Hình 3.34

với mã hóa 2 mẫu nguyên liệu dầu epoxy cá tra (EP(kt), EP(ca)) và 2 mẫu sản

phẩm dầu polyeste cá tra (ES(kt), ES(ca)).

Trong Hình 3.32, phổ FT-IR của mẫu EP(kt) và EP(ca) đã xuất hiện các đỉnh đặc

trưng cho các nhóm chức chính của dầu epoxy cá tra. Sự xuất hiện rõ các đỉnh tại 825,5cm-1 và 844,8cm-1 đã xác minh cho sự có mặt của vòng epoxy (HCOCH)

trong cấu trúc dầu epoxy cá tra. Phổ FT-IR của 2 mẫu ES(kt) và ES(ca) đã xuất

hiện các đỉnh đặc trưng cho các nhóm chức chính trong cấu trúc dầu epoxy cá

tra. Không tìm thấy sự xuất hiện của đỉnh đặc trưng cho vòng epoxy và thay vào đó là sự xuất hiện mạnh của đỉnh mới tại 605,6cm-1 đặc trưng cho nhóm chức

18

ester (COO-) và sự mạnh lên của các đỉnh tại 725,2cm-1 và 1747,4cm-1 chứng tỏ

sự xuất hiện của nhóm metyleste (CH3COO-) trong cấu trúc dầu polyeste cá tra.

Hình 3.32. Phổ FT-IR các mẫu giai đoạn mở vòng epoxy với anhyđrit axetic

Hình 3.33. Phổ 1H-NMR các mẫu giai đoạn mở vòng epoxy với anhyđrit axetic

Trong Hình 3.33, các đỉnh đặc trưng cho các nhóm chức chính của dầu epoxy cá tra đã xuất hiện trong phổ 1H-NMR của mẫu EP(kt) và EP(ca). Phổ 1H-NMR của

mẫu EP(kt) và EP(ca) đã xuất hiện rõ các tín hiệu tại (2,89 - 3,12ppm), (1,5 -

1,72ppm) đặc trưng cho các proton của vòng epoxy (HCOCH) và các proton β-

CH2, α-CH2 liên kết với vòng epoxy trong cấu trúc dầu epoxy cá tra. Các đỉnh

đặc trưng cho các proton của các nhóm chức chính chứa trong dầu epoxy cá tra

19

đã xuất hiện trong phổ 1H-NMR của mẫu ES(kt) và ES(ca). Không tìm thấy sự

xuất hiện của đỉnh đặc trưng cho proton của vòng epoxy và thay vào là sự xuất

hiện mạnh của các đỉnh mới tại (3,39 – 3,69ppm), 4,99ppm và (3,39 – 3,74ppm),

4,82ppm đặc trưng cho các proton của nhóm metyleste (CH3COO) và các proton

liên kết với nhóm metyleste (HC-COOCH3) trong cấu trúc dầu polyeste cá tra.

Hình 3.34. Phổ 13C-NMR các mẫu giai đoạn mở vòng epoxy với anhyđrit axetic

Trong Hình 3.34, các đỉnh đặc trưng cho các cacbon của các nhóm chức chính của dầu epoxy cá tra đã xuất hiện trong phổ 13C-NMR của mẫu EP(kt) và EP(ca).

Các tín hiệu xuất hiện tại (54,14 – 57,17ppm) đã xác nhận cho sự có mặt của

cacbon đặc trưng cho vòng epoxy (HCOCH). Các đỉnh đặc trưng cho cacbon của các nhóm chức chính chứa trong dầu epoxy cá tra đã xuất hiện trong phổ 13C-

NMR của mẫu ES(kt) và ES(ca). Không tìm thấy sự xuất hiện của đỉnh đặc trưng

cho cacbon của vòng epoxy và thay vào là sự xuất hiện mạnh của các đỉnh mới

tại 51,33ppm, 58,06ppm,84,32ppm và 51,38ppm, (79,87 – 80,20ppm) đặc trưng

cho các cacbon của nhóm metylester (CH3COO) và cacbon liên kết với nhóm

metyleste (HC-COOCH3) trong cấu trúc dầu polyeste cá tra.

20

3.4 Pha chế dầu nhờn sinh học

Các tính chất đặc trưng của dầu gốc khoáng và dầu gốc sinh học sản xuất từ mỡ cá tra

Tất cả các mẫu dầu gốc sinh học sản xuất từ mỡ cá tra đều có điểm chớp cháy cao hơn so với dầu gốc khoáng, 289oC – 322oC so với 250oC. Các tính chất như độ nhớt động học tại 40oC, 100oC và chỉ số độ nhớt của các mẫu dầu gốc sinh học cũng cao hơn khi so sánh với dầu gốc khoáng, (94,48cst – 158,63cst),

(11,95cst – 20,72cst) và (117,2 – 154,33) so với 96,03cst, 11,57cst và 109,07.

Các mẫu dầu gốc sinh học có điểm rót chảy cao hơn và độ bền oxy hóa thấp hơn

so với dầu gốc khoáng SN150, SN500. Tuy nhiên sự chênh lệch này giữa các

mẫu dầu cá tra học polyol và polyeste và dầu gốc khoáng đã đượt rút ngắn lại.

Tất cả các mẫu dầu gốc sinh học sản xuất từ mỡ cá tra có khả năng phân hủy sinh

học cao hơn so với 2 mẫu dầu gốc khoáng SN150 và SN500.

Pha chế dầu nhờn sinh học

Trên cơ sở công thức pha chế dầu nhờn khoáng SAE20W50, cố định lượng phụ

gia và thay thế hỗn hợp dầu gốc khoáng (%kl) với dầu cá tra tinh chế tại các giá

trị là 10, 20 và 30; với dầu cá tra họ polyol và polyeste tại các giá trị là 10, 20,

30, 40 và 50. Từ các kết quả phân tích các tính chất đặc trưng và độ bền oxy hóa

của các hỗn hợp phối trộn dầu nhờn sinh học và dầu nhờn khoáng SAE20W50,

công thức pha chế dầu nhờn sinh học được xây dựng với sự thay thế của dầu cá

tra tinh chế tại 10%kl, dầu polyol cá tra tại 30%kl và dầu polyeste cá tra tại

40%kl.

21

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Luận án đã nghiên cứu sử dụng mỡ cá tra làm nguyên liệu sản xuất dầu nhờn sinh

học. Đây là hướng nghiên cứu có tính mới về khoa học và có giá trị thực tiễn,

góp phần nâng cao giá trị kinh tế ngành nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam. Luận

án đã xây dựng quy trình sản xuất dầu gốc sinh học từ mỡ cá tra bao gồm các

công đoạn chính sau:

Tinh chế mỡ cá tra (i)

(ii) Chuyển hóa mỡ cá tra qua các phản ứng epoxy hóa, mở vòng epoxy

(iii) Phối trộn dầu nhờn sinh học.

1. Luận án đã thiết kế và gia công hệ thống thiết bị cavitation, xây dựng quy trình

vận hành cho hệ thống thiết bị và đã ứng dụng thành công trong quá trình tinh

chế và chuyển hóa hóa học mỡ cá tra sản xuất dầu gốc sinh học.

2. Luận án đã thực hiện tinh chế mỡ cá tra bằng kỹ thuật cavitaion. Độ giảm trị

số axit của sản phẩm dầu cá tra thu nhận từ quá trình tách các tạp chất háo nước và nhựa đạt mức 1,03% tại nhiệt độ 40oC trong thời gian chỉ 3 phút. Điểm rót chảy của dầu cá tra thu nhận sau quá trình tách sáp giảm từ 20oC xuống còn 9oC với thời gian làm lạnh 8 giờ và nhiệt độ làm lạnh 12oC. Sản phẩm dầu cá tra tinh

chế có các tính chất vật lý tương tự dầu gốc khoáng SN150, SN500.

3. Nhằm nâng cao khả năng chịu nhiệt và độ bền oxy hóa cho mỡ cá tra, quá trình

chuyển hóa bao gồm phản ứng epoxy hóa và phản ứng mở vòng epoxy đã được

sử dụng để giảm thiểu tối đa lượng nối đôi C=C trong phân tử mỡ cá. Thực hiện

các phản ứng dưới sự hỗ trợ của kỹ thuật cavitation đã thu được các kết quả khả

quan. Hiệu suất phản ứng epoxy mỡ cá tra đạt mức 94,1% với tiêu hao hóa chất tương ứng với tỉ lệ mol của H2O2/CH3COOH/C=C là 3,75/1,25/1, nhiệt độ 45oC

trong thời gian phản ứng chỉ 5 phút. Hiệu suất phản ứng mở vòng dầu epoxy với

tác nhân iso-propanol đạt mức 91,3% với tiêu hao hóa chất tương ứng với tỉ lệ mol của iso-propanol/vòng epoxy là 1,5/1, nhiệt độ 75oC trong thời gian phản

22

ứng chỉ 7 phút. Tương tự như vậy, hiệu suất phản ứng mở vòng dầu epoxy với

anhyđrit axetic đạt mức 94,6% với tiêu hao hóa chất tương ứng với tỉ lệ mol của anhyđrit axetic/vòng epoxy là 1,25/1, nhiệt độ 85oC trong thời gian phản ứng chỉ

10 phút. Sản phẩm dầu cá tra họ polyol và polyeste có thể đáp ứng theo các yêu

cầu chất lượng của dầu gốc khoáng SN150, SN500.

4. Luận án đã thực hiện pha chế dầu nhờn sinh học từ các loại dầu gốc sinh học

sản xuất từ mỡ cá tra bao gồm dầu cá tra tinh chế, dầu cá tra họ polyol và polyeste,

dầu gốc khoáng SN150, SN500 và phụ gia theo tỷ lệ dầu gốc sinh học chiếm từ

10 - 50%kl. Kết quả phân tích cho thấy rằng, tất cả các mẫu dầu nhờn sinh học có giá trị về tỷ trọng, nhiệt độ chớp cháy, độ nhớt động học tại 40oC,100oC và

chỉ số độ nhớt đã đáp ứng được theo yêu cầu chất lượng của dầu nhờn khoáng

SAE20W50. Khả năng làm việc tại nhiệt độ thấp và độ bền oxy hóa của các mẫu

dầu nhờn sinh học với sự thay thế hỗn hợp dầu gốc khoáng bởi dầu cá tra tinh

chế tại 10%(kl), dầu cá tra họ polyol tại 10%(kl), 20%(kl), 30%(kl) và dầu cá tra

họ polyeste tại 10%(kl), 20%(kl), 30%(kl), 40%(kl) tương đương với dầu nhờn

khoáng SAE20W50. Vì vậy công thức pha chế dầu nhờn sinh học đã được xây

dựng với sự thay thế của dầu cá tra tinh chế, dầu cá tra họ polyol và dầu cá tra họ

polyeste tại 10%(kl), 30%(kl) và 40%(kl) và các công thức phối trộn này có thể

áp dụng trong thực tế quy mô sản xuất công nghiệp.

Tóm lại, các kết quả thu được từ luận án đã chứng minh tính khả thi về mặt khoa

học cũng như ý nghĩa thực tiễn sử dụng mỡ cá tra làm nguyên liệu sản xuất dầu

gốc sinh học. Hơn nữa khi áp dụng kỹ thuật cavitation vào quá trình sản xuất sẽ

nâng cao hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường, góp phần phát triển sản xuất

xanh, phát triển kinh tế bền vững tại Việt Nam.

Kiến nghị

 Cần tiếp tục nghiên cứu nhằm tối ưu hóa các thông số công nghệ của quá

trình sản xuất dầu gốc sinh học từ mỡ cá tra.

23

 Nghiên cứu thử nghiệm đánh giá sự thay đổi chất lượng của các sản phẩm

dầu nhờn sinh học gốc mỡ cá tra trong sử dụng thực tế trên các phương

tiện giao thông làm cơ sở để thương mại hóa các kết quả của nghiên cứu.

24