Sẹo Lồi (Keloid - Chéloïde)

(Kỳ 2)

IV. Các phương pháp điều trị sẹo lồi

Sẹo lồi có thể được điều trị bằng nhiều phương pháp với mức độ thành

công khác nhau. Điều trị sẹo lồi đa số là để giải quyết vấn đề thẩm mỹ và không

có một liệu pháp duy nhất nào luôn luôn thành công. Nhiều báo cáo điều trị thành

công sẹo lồi trong y văn là không đúng sự thật. Trị liệu có thể giúp cho sẹo lồi trở

nên nhỏ hơn, mềm và phẳng dần chứ không thể làm mất đi sẹo, tức là không thể

giúp cho vùng da sẹo trở lại bình thường như da lành xung quanh.

- Dự phòng là nguyên tắc đầu tiên trong điều trị sẹo lồi

+ Không nên tiến hành những thủ thuật thẩm mỹ không cần thiết ở những

người có cơ địa sẹo lồi

+ Nên tránh những thủ thuật tối đa ở giữa ngực; những vùng tổn thương da

hậu phẫu phải được điều trị bằng những kháng sinh thích hợp để tránh nhiễm

trùng.

+ Tất cả những vết thương do phẫu thuật phải được đóng lại với độ căng

bình thường nếu có thể, không nên cắt ngang khoảng cách giữa các khớp và nên

cắt da theo hình elipse nằm ngang theo cùng hướng với đường căng của da.

- Nội khoa: Corticosteroids, Interferon, 5-fluorouracil, Imiquimod.

- Ngoại khoa: cắt bỏ và phẫu thuật lạnh .

- Xạ trị và các biện pháp vật lý khác

1. Điều trị nội khoa

a. Tiêm Steroid

Corticosteroid có tác dụng ức chế alpha 2-macroglobulin, một chất có tác

dụng ức chế collagenase. Một khi chu trình này bị ngăn chặn, lượng collagenase sẽ

tăng và do đó sẽ làm thoái hóa collagen.

- Áp dụng cho những sẹo lồi nhỏ, thường dùng nhất là tiêm Triamcinolone

acetonide (10-40 mg/ml). Vùng da được tiêm thuốc có thể bị mất sắc tố và tình

trạng này kéo dài 6 – 12 tháng; có thể gặp chứng teo và giãn mao mạch xung

quanh chỗ tiêm. Phải thực hiện đúng kỹ thuật, đâm kim và bơm Triamcinolone

vào đến tận lớp nhú bì, nơi tạo ra chất collagenase. Không nên tiêm Steroid vào

mô dưới da vì có thể làm teo lớp mỡ bên dưới.

- Có thể tiêm lặp lại vài lần cách nhau mỗi 1-2 tháng tùy theo diễn tiến của

sẹo lồi và các tác dụng phụ có thể xảy ra cho bệnh nhân hay không.

- Phương pháp này có thể được kết hợp với các phương pháp khác như áp

Nitrogen lỏng hoặc dán Silicon gel để tăng thêm hiệu quả.

b. Điều trị bằng Interferon

Interferon-alpha & gamma ức chế tổng hợp collagen bằng cách khử

Ribonucleic acid thông tin nội bào. Sẹo lồi được phẫu thuật cắt bỏ và tiêm

Interferon sau đó để ngừa tái phát. Liều lượng tiêm là 1 triệu đơn vị vào mỗi

centimét chiều dài da xung quanh vị trí sẹo ngay sau khi phẫu thuật, và tiêm nhắc

lại 1 đến 2 tuần sau đó. Đối với những bệnh nhân phải cắt bỏ nhiều sẹo lồi hoặc

những sẹo lồi lớn, việc điều trị bằng Interferon sẽ rất tốn kém và bệnh nhân phải

được tiền mê bằng Acetaminophen để điều trị những triệu chứng giống bệnh cúm

do Interferon gây ra.

c. Điều trị bằng 5-flurouracil

Liệu pháp tiêm chất 5-flurouracil (5-FU) vào sẹo đã được dùng một cách

thành công trong điều trị những sẹo lồi cô lập, nhỏ. Trung bình sau 5-10 lần tiêm

mới đạt hiệu quả. Nếu tiêm hỗn hợp 0,1 ml Triamcinolone acetonide 10 mg/ml và

0,9 ml 5-FU (50 mg/ml) kết quả sẽ tốt hơn.

d. Điều trị bằng Imiquimod:

Imiquimod 5% dạng kem gây sản xuất tại chỗ Interferon tại nơi bôi thuốc.

Nên bắt đầu bôi Imiquimod ngay sau khi cắt bỏ sẹo lồi và bôi hằng ngày liên tục

trong 8 tuần. Hơn 50% bệnh nhân bị tăng sắc tố tại chỗ điều trị.

e. Các phuơng pháp điều trị trị nội khoa khác:

- Băng keo Flurandrenolide (Cordran) được dán trên sẹo lồi trong 12-20 giờ

một ngày thường làm cho sẹo lồi mềm dần và phẳng lại. Cordran còn có tác dụng

làm vết sẹo hết ngứa. Dùng lâu dài có thể gây teo da.

- Bleomycin (1mg/ml; 0,1-1 ml) được tiêm trực tiếp vào sẹo để điều trị

những sẹo lồi nhỏ. Thuốc có thể làm thoái triển hoàn toàn vài sang thương.

-Thuốc mỡ hoặc gel Clobetasol, bôi hai ngày một lần, có thể làm mềm

và/hoặc làm phẳng sẹo lồi,giúp bệnh nhân hết ngứa, hết cảm giác đau hay khó

chịu do sẹo lồi. Dùng lâu dài thuốc sẽ gây mất sắc tố, teo da và giãn mạch.

- Tacrolimus là một thành viên mới trong các trang bị điều trị sẹo lồi. Một

nghiên cứu phát hiện có sự tăng gen ung thư gli-l (glioma-associated oncogene

homolog 1) trong các sẹo lồi nhưng trong các mô sẹo bình thường thì không có

hiện tượng này. Vì Tacrolimus có thể ngăn chặn gen gli-1 nên đượcứng dụng điều

trị sẹo lồi. Cần có những nghiên cứu lâu dài và lớn hơn để xác định hiệu quả của

liệu pháp này.

- Methotrexate kết hợp với cắt bỏ sẹo phòng tránh được sự tái phát. Cho

người bệnh uống 15-20 mg Methotrexate mỗi lần, 4 ngày bắt đầu từ tuần trước

phẫu thuật và liên tục trong 3-4 tháng sau khi vết cắt lành.

- Pentoxifylline (Trental) 400 mg 3lần/ngày cũng khá thành công trong dự

phòng tái phát sẹo lồi đã cắt. Cơ chế tác động của thuốc chưa được hiểu đầy đủ,

nhưng có thể do tuần hoàn tăng, quét sạch những yếu tố tăng trưởng nguyên bào

sợi.

- Colchicine đã được dùng để điều trị và dự phòng tái phát sẹo lồi bằng

cách ức chế tổng hợp collagen, phá vỡ các vi ống, và kích thích collagenase.

- Vì kẽm bôi ngoài da ức chế Lysyl oxidase và kích thích collagenase, nên

được dùng để điều trị sẹo lồi, nhưng thành công còn hạn chế.

- Tretinoin bôi 2 lần / ngày làm giảm ngứa và những triệu chứng khác của

sẹo lồi, có thể làm thoái triển sẹo lồi một phần nào.

- Một số thuốc khác đã được thử nghiệm nhưng thành công còn hạn chế

hoặc tỷ lệ nguy cơ/lợi ích còn đáng ngờ là Verapamil, Cyclosporine, D-

penicillamine, Relaxin tiêm vào sẹo lồi.