Sơ cứu tai nạn: Phải đúng và kịp
- Có những cái chết lẽ ra không xảy ra nếu người tham gia
sơ cứu biết luật "thời gian vàng" và thực hiện đúng cách.
Lời khuyên của BS Bạch Văn Cam, trưởng Khoa Cấp cứu
Hồi sức BV Nhi đồng I (TP.HCM) về phòng ngừa và sơ cứu
các tai nạn: ngạt nước, phỏng và dị vật đường thở.
Ngạt nước
- Yếu tố nguy cơ: Trẻ nhỏ: Ao, giếng hay các dụng cụ chứa
nước trong nhà như thùng nước, lu nước, bồn tắm, ao giếng...
Trẻ lớn và người lớn: Ao, hồ, sông, biển, bị kiệt sức vọp bẻ trong
khi bơi, động kinh...
Thắc mắc - Bác sĩ
trả lời
Phỏng nhẹ, có
nên thoa dầu mù
u? Đã có nhiều
người nói về công
dụng của dầu mù u.
nhưng bôi
pommade tốt hơn
vì pommade có tính
sát khuẩn và mau
lành hơn.
Người chết đuối
khi đang cấp cứu
mà người thân
đến gần thì họ hay
bị ộc ra máu và
chết? Không đúng.
Vì tình trạng ộc
máu và chết khi
người thân có mặt
bên cạnh chỉ là
trường hợp trùng
lắp.
Làm sao tránh sặc
khi cho trẻ uống
thuốc? Đừng nên
cho trẻ uống thuốc
viên. Nên tán ra và
pha với nước rồi
cho trẻ uống. Tuy
nhiên, có những trẻ
dù thuốc đã pha
loãng nhưng vẫn
rất khó cho uống.
Cách tốt nhất là
dùng xi-lanh bơm
vô khoé miệng của
trẻ. Tự nhiên, trẻ có
phản xạ nuốt.
(Nhưng nhớ phải
bỏ kim tiêm ra!)
Khi trẻ bị sặc, có
nên dốc đầu trẻ
xuống và vỗ lưng
để dị vật thoát ra
ngoài? Phương
pháp này không
hiệu quả (có thể do
bắt chước phương
pháp đỡ đẻ của bà
mụ), vì tình trạng
đứa trẻ giống như
quả lắc đồng hồ
nên khi vỗ lưng sẽ
không có tác dụng.
Cũng không nên
đặt trẻ lên giường...
nệm khi ấn ngực vì
không có một lực
chịu bên dưới. Hãy
thực hiện như đã
hướng dẫn trong
bài.
Muốn đánh giá độ
phỏng thì dựa vào
đâu? Đánh giá độ
- Sơ cứu: Nhanh chóng đưa nạn nhân khỏi phỏng dựa vào độ
mặt nước và cho nằm chỗ khô ráo thoáng sâu và diện tích. Về
khí. Trong trường hợp nạn nhân tỉnh và độ sâu: Nếu nông,
không khó thở, để cho nạn nhân nằm da bị đỏ. Sâu: Da
nghiêng, giữ ấm và sau đó đưa đến cơ sở y có bóng nước, đổi
tế. Trong trường hợp nạn nhân bất tỉnh hôn màu. Diện tích:
mê, ngưng thở ngưng tim, phải kịp thời cấp Nhẹ: dưới 10%.
cứu hoặc sơ cứu trong khoảng thời gian Nặng: trên 10%,
vàng 4 phút bằng phương pháp thổi ngạt và nằm ở mặt, bàn
ấn tim. (Nếu quá thời gian 4 phút, sẽ gây tổn tay, bàn chân, bộ
thương não; quá 10 phút: sẽ để lại di chứng phận sinh dục.
não hoặc tử vong). Duy trì việc ấn tim, thổi
ngạt trên đường chuyển nạn nhân tới bệnh viện.
- Nên tránh: Các hành động như xốc nước, hơ lửa, "lăn lu" vì sẽ
làm chậm trễ việc cấp cứu, gây tử vong hoặc để lại di chứng do
phỏng lửa. Cũng tránh biện pháp dang hai tay ép ngực. Thực
chất biện pháp này không hiệu quả vì khi nạn nhân bị ngạt nước,
lượng nước vào phổi rất ít.
- Lời khuyên: Không để trẻ nhỏ ở nhà một mình. Đậy kín các vật
chứa và không cho trẻ lại gần thùng, lu nước, bồn tắm, ao giếng.
Đối với trẻ lớn, nên cho trẻ đi học bơi, và không cho trẻ bơi ở
những chỗ lạ. Những trẻ mắc chứng động kinh thì không nên cho
trẻ "đùa với nước".
Dị vật đường thở
- Yếu tố nguy cơ: Trẻ nhỏ: Sặc sữa, cháo, cơm, đồ chơi nhỏ...
Trẻ lớn, người lớn: Hạt đậu phọng, mãng cầu, sa-pô-chê.
- Sơ cứu: Nếu nạn nhân tỉnh, hồng hào và không khó thở: Nên
bồng trẻ nhỏ và ngăn không cho chúng khóc để tránh dị vật chạy
ngược lên khí quản.
Nếu thấy nạn nhân khó khở, tím tái, khóc yếu hoặc ngưng thở:
+ Đối với trẻ nhỏ, dùng tay đỡ trẻ nằm sấp, đầu chúc xuống,
vỗ mạnh lưng trẻ năm cái (như hình 1).
Sau đó, lật ngửa trẻ lại và ấn ngực năm cái (như hình 2). Có thể
lặp lại sáu lần, nếu cần.
+ Đối với trẻ lớn/người lớn: Người sơ cứu đứng sau nạn nhân,
vòng hai tay ra trước với một bàn tay co lại như nắm đắm, tay kia
đặt lên trên. Thực hiện ấn bụng thượng vị năm cái (như hình 3).
Nếu nạn nhân ngưng thở, hôn mê, đặt nạn nhân nằm ngửa và
đặt hai tay dưới chóp xương ức, ấn năm cái (như hình 4). Lặp lại
sáu lần, nếu cần.
- Chú ý: Với tất cả các ca dị vật đường thở, sau khi sơ cứu đều
phải đưa đến cơ sở y tế để kiểm tra và điều trị. Chớ nghĩ dị vật
đã trôi xuống dưới... là xong. Thực tế có nhiều ca dị vật không
được lấy ra khỏi cơ thể, sẽ làm mủ và gây biến chứng.
- Nên tránh: Không nên móc họng (vì dị vật sẽ càng bị đẩy sâu
xuống phía dưới), vuốt ngực, vỗ đầu trán, uống nước, nuốt cơm,
cạo gió. Những cách làm này sẽ không hiệu quả và có thể gây
nguy hiểm cho nạn nhân.
- Lời khuyên: Cho trẻ nhỏ bú sữa đúng cách. Không nên cho ăn,
bú, uống thuốc khi trẻ cười vì sẽ dễ làm cho trẻ bị sặc, thức ăn dễ
lọt vào đường thở. Cũng không cho trẻ chơi đồ chơi nhỏ, không
phù hợp, hay nghịch với các loại hạt.
Phỏng
- Yếu tố nguy cơ: Điện, hóa chất, nhiệt ướt (cháo, nước sôi,
nước canh, dầu,...) và nhiệt khô (lửa, đống un, bàn ủi, pô xe
máy,...).
- Sơ cứu: Nên đưa nạn nhân ra khỏi lửa, nguồn nhiệt và làm
nguội vết phỏng bằng cách cởi bỏ quần áo (nếu dính hóa chất).
Sau đó, dội nước sạch vết phỏng. Hạn chế nhiễm khuẩn vết
phỏng bằng cách thoa pommade Silve Sulfadiazine. Đóng vết
phỏng bằng băng gạc vô trùng hoặc vải sạch. Nếu phát hiện dấu
hiệu nhiễm khuẩn như sưng đỏ, có mủ thì phải điều trị bằng
kháng sinh.
Nếu phỏng nặng, nên cho nạn nhân uống nhiều nước. Nhanh
chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế khi có diện tích phỏng trên
10% (một bàn tay) hoặc có dấu hiệu nguy hiểm: ngất xỉu, khó thở,
tay chân lạnh.
- Nên tránh: Không bôi kem, nước mắm, con giấm, làm bể bọng
nước trong quá trình sơ cứu vì sẽ gây nhiễm trùng và làm nặng
thêm vết bỏng.
- Lời khuyên: Tránh sử dụng lại bình ga mi-ni, không châm thêm
khi dầu hoặc alcol đang cháy. Không cho trẻ chơi gần lửa, bếp,
đống un. Bình thuỷ, bình hoá chất nên để xa tầm với của trẻ.
Không thiết kế ổ điện thấp và thiếu an toàn.