
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 478 - THÁNG 5 - SỐ 1 - 2019
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Li W, Xiong L, Fan L et al (2017), “Association
of baseline, longitudinal serum high-sensitive C-
reactive protein and its change with mortality in
peritoneal dialysis patients.” BMC Nephrol. 2017 Jul
4;18(1):211. doi: 10.1186/s12882-017-0624-4.
2. Liu SH, Li YJ, Wu HH et al. (2014), “High-
sensitivity C-reactive protein predicts mortality and
technique failure in peritoneal dialysis patients.”
PLoS One. 2014 Mar 25;9(3):e93063.
3. Đỗ Gia Tuyển, Đặng Thị Việt Hà, Nguyễn Thị
An Thuỷ (2016), “Tình trạng rối loạn acid uric
máu ở bệnh nhân suy thận mạn chưa điều trị thay
thế” Tạp chí nghiên cứu Y học 101 (3): 143-150.
4. Dong J, Han QF, Zhu TY et al (2014), “The
associations of uric acid, cardiovascular and all-
cause mortality in peritoneal dialysis patients.”
PLoS One. 2014 Jan 8;9(1):e82342.
5. Li W, Xiong L, Fan L, et al (2017), “Association
of baseline, longitudinal serum high-sensitive C-
reactive protein and its change with mortality
in peritoneal dialysis patients.” BMC Nephrol.
18(1):211. doi: 10.1186/s12882-017-0624-4.
6. Phan Thị Thu Hương, Nguyễn Trung Kiên, Lê
Việt Thắng (2017). Nghiên cứu nguy cơ suy dinh
dưỡng ở bệnh nhân suy thận mạn tính thận nhân
tạo chu kỳ bằng chỉ số INR. Tạp chí Y dược học
Quân sự, số 6: 41-47.
7. Cho Y, Hawley CM, Johnson DW. (2014),
“Clinical causes of inflammation in peritoneal
dialysis patients.” Int J Nephrol.
2014;2014:909373. doi: 10.1155/2014/909373.
Epub 2014 May 6. Review.
8. Lai KJ, Kor CT, Hsieh YP. (2018), “An Inverse
Relationship between Hyperuricemia and Mortality
in Patients Undergoing Continuous
Ambulatory Peritoneal Dialysis.” J Clin Med. 2018
Nov 5;7(11). pii: E416. doi: 10.3390/jcm7110416.
SO SÁNH KẾT QUẢ THAI NGHÉN CỦA ĐẺ GIÁC HÚT VÀ
FORCEPS TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Mạnh Thắng*
TÓM TẮT7
Nghiên cứu mô tả, hồi cứu hồ sơ bệnh án của sản
phụ và thai nhi đẻ bằng forceps và giác hút tại Bệnh
viện Phụ sản Trung ương trong 5 năm từ 2012 –
2016. Kết quả cho thấy cân nặng chủ yếu của trẻ
trong cả hai nhóm đẻ forceps và giác hút là từ 2500-
3400g. Chỉ số apgar của trẻ sơ sinh đẻ bằng forceps
không có sự khác biệt với trẻ đẻ giác hút. Tỷ lệ sang
chấn cho sản phụ của forceps là 28,36 % không có sự
khác biệt với giác hút 27,5%. Sang chấn cho trẻ sơ
sinh chủ yếu là các sang chấn nhẹ, nhóm forceps vết
cành forceps chiếm 73,1%. Nhóm giác hút sang chấn
tụ máu dưới da đầu chiếm 20%.
Từ khóa:
Forceps, giác hút, trẻ sơ sinh
SUMMARY
PREGNANCY OUTCOMES OF VENTOUSE
AND FORCEPS GROUP AT THE NATIONAL
HOSPITAL OF OBSTETRICS AND GYNECOLOGY
A retrospective study which was performed with
medical records at the National Hospital of Obstetrics
and Gynecology between 2012 and 2016. Babies’
weights in both forceps group and ventouse one were
in the range of 2500-3400g. No significant difference
of the apgar score between two groups was recorded
(p>0.05). No significant difference of the baby injury
was recorded amongst two groups (28,36 % and
27.5%) (p>0.05). Most mild injuries for newborns
*Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyn Mạnh Thắng
Email: bsnguyenmanhthang@gmail.com
Ngày nhận bài: 15/3/2019
Ngày phản biện khoa học: 10/4/2019
Ngày duyệt bài: 29/4/2019
were reported, which accounted for 73.1% with
forceps group. The proportion of ventouse group
injured hematoma under the scalp was 20%.
Keywords:
Forceps, ventouse, newborn
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
WHO đã xác định rằng 8% các ca tử vong mẹ
là do biến chứng đẻ khó, đặc biệt là ở nước đang
phát triển [1]. Nhưng không phải tất cả các ca
đẻ khó đều phải mổ lấy thai, khi đó forceps và
giác hút là hai thủ thuật sản khoa được xem xét
lựa chọn tuy nhiên theo đa số các nhà nghiên
cứu thì giác hút và forceps không phải là thủ
thuật an toàn tuyệt đối 7,8,9. Thực tế cũng chỉ
ra rằng việc sử dụng hai thủ thuật này đang
ngày càng bị hạn chế. Trên thế giới như tại Hoa
Kỳ forceps đang trước nguy cơ biến mất hoàn
toàn[2], trong 2 năm 1996 và 2006, tỷ lệ forceps
và giác hút giảm từ 6,3% xuống 1,7% và 6,8%
xuống 5,5% trên tổng số các ca đẻ thường [3].
Tại Việt Nam: nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương (PSTW) trong 2 năm 1996 và 2006
tỷ lệ forceps và giác hút giảm tương ứng từ
8,59% xuống 4,46% và 1,77% xuống 0,38%
[4]. Những yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng này
có thể là yếu tố không liên quan đến y khoa như
đảm bảo an toàn tuyệt đối trong các ca đẻ hay
sự phát triển khó kiểm soát của phương tiện
truyền thông dẫn đến áp lực đối với người thầy
thuốc khi đưa ra chỉ định. Các yếu tố liên quan
đến y khoa bao gồm sự phát triển vượt trội của
chuyên ngành sản khoa hiện đại cùng với sự tiến
bộ của gây mê hồi sức, kháng sinh đặc biệt lĩnh