1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ QUỐC PHÕNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƢỢC LÂM SÀNG 108
NGUYỄN QUỐC KHÁNH
SO SÁNH TÁC DỤNG CỦA HAI PHƯƠNG PHÁP
GÂY MÊ TĨNH MẠCH HOÀN TOÀN BẰNG PROPOFOL
CÓ VÀ KHÔNG KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Chuyên ngành: GÂY MÊ HỒI SỨC
Mã số: 62.72.01.22
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS. TS. Lê Xuân Thục
2. PGS.TS. Lê Thị Việt Hoa
Hà Nội - 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ QUỐC PHÕNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƢỢC LÂM SÀNG 108
NGUYỄN QUỐC KHÁNH
SO SÁNH TÁC DỤNG CỦA HAI PHƢƠNG PHÁP
GÂY MÊ TĨNH MẠCH HOÀN TOÀN BẰNG PROPOFOL
CÓ VÀ KHÔNG KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Hà Nội - 2013
3
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới:
GS. TS. Lê Xuân Thục và PGS. TS. Lê Thị Việt Hoa – là Thầy, Cô
hướng dẫn khoa học đã dành rất nhiều công sức chỉ dẫn tận tình, giúp đỡ và
động viên tôi trong suốt quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành
luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng chấm luận án
cấp cơ sở và các Thầy phản biện độc lập đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu
giúp cho luận án của tôi được hoàn thiện.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Đảng ủy, Ban Giám đốc, Bộ môn
Gây mê - Hồi sức, Phòng Sau đại học thuộc Viện nghiên cứu Khoa học Y
Dược lâm sàng 108 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực
hiện chương trình đào tạo nghiên cứu sinh tại Viện.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Đảng uỷ, Ban Giám đốc, tập thể
Khoa Gây mê Hồi sức Bệnh viện 354, đã quan tâm giúp đỡ, động viên và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn những bệnh nhân và thân nhân của họ, những
người đã góp phần quan trọng cho kết quả của luận án này.
cảm ơn Người bạn đời và các con yêu quý tôi. Tôi không thể hoàn
thành luận án của mình nếu thiếu sự động viên về tinh thần cũng như vật chất
mà Cha Mẹ hai bên, các anh chị em trong gia đình, người thân, đồng nghiệp
và bạn bè đã mang đến cho tôi.
Từ trái tim, tôi xin gửi đến tất cả những lời biết ơn vô bờ bến của mình.
Nguyễn Quốc Khánh
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Thạc sĩ Bác sĩ Nguyễn Quốc Khánh
5
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Nghiên cứu so sánh gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol kiểm
soát nồng độ đích cho thấy kỹ thuật này có khả năng duy trì độ mê và
huyết động ổn định, hồi tỉnh nhanh hơn so với không kiểm soát nồng
độ đích trên các bệnh nhân phẫu thuật bụng.
2. Xác định đƣợc nồng độ đích của propofol gây mất ý thức, đủ điều kiện
đặt nội khí quản, khi định hƣớng đúng, nồng độ duy trì mê cao nhất,
thấp nhất trên các bệnh nhân phẫu thuật bụng, góp thêm kinh nghiệm
cho gây mê kiểm soát nồng độ đích của propofol tại Việt Nam.
6
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Những đóng góp mới của luận án
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt, ký hiệu trong luận án
Danh mục các bảng, biểu đồ, hình, ảnh và sơ đồ
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
1. Chƣơng 1: TỔNG QUAN ........................................................................... 3
1.1. GÂY MÊ TĨNH MẠCH ....................................................................... 3
1.1.1. Định nghĩa ......................................................................................... 3
1.1.2. Ƣu điểm ............................................................................................. 3
1.1.3. Các hình thức của gây mê tĩnh mạch ................................................ 3
1.2. GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH ......................................... 4
1.2.1. Cơ sở lý thuyết .................................................................................. 5
1.2.2. Lƣợc sử phát triển kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích .......... 14
1.2.3. Ƣu điểm của TCI ............................................................................ 16
1.2.4. Ứng dụng lâm sàng ......................................................................... 18
1.2.5. Nghiên cứu so sánh TCI với hình thức gây mê tĩnh mạch khác ..... 21
1.3. THUỐC MÊ TĨNH MẠCH PROPOFOL ......................................... 23
1.3.1. Sơ lƣợc lịch sử ................................................................................ 23
1.3.2. Tính chất lý hoá .............................................................................. 24
1.3.3. Dƣợc động học ................................................................................ 24
1.3.4. Dƣợc lực học ................................................................................... 28
1.3.5. Sử dụng lâm sàng ............................................................................ 31
1.4. GÂY MÊ TRONG PHẪU THUẬT BỤNG ....................................... 33
1.4.1. Tiền mê ........................................................................................... 33
7
1.4.2. Khởi mê ........................................................................................... 34
1.4.3. Duy trì mê ....................................................................................... 34
2. Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......... 36
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ............................................................ 36
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn ........................................................................ 36
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ .......................................................................... 36
2.1.3. Tiêu chuẩn đƣa ra khỏi nghiên cứu................................................. 37
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 37
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................ 37
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu ......................................................................... 37
2.2.3. Các tiêu chí nghiên cứu ................................................................... 38
2.2.4. Các định nghĩa, tiêu chuẩn áp dụng trong nghiên cứu ................... 40
2.2.5. Phƣơng tiện nghiên cứu .................................................................. 45
2.2.6. Quy trình nghiên cứu ...................................................................... 50
2.2.7. Đạo đức trong nghiên cứu ............................................................... 57
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU ................................................................................ 58
3. Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................... 59
3.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VÀ PHẪU THUẬT ............................... 59
3.1.1. Đặc điểm bệnh nhân ........................................................................ 59
3.1.2. Đặc điểm phẫu thuật ....................................................................... 60
3.2. HIỆU QUẢ CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH .......... 63
3.2.1. Các chỉ tiêu về thời gian ................................................................. 63
3.2.2. Tiêu thụ propofol ............................................................................ 66
3.2.3. Khả năng duy trì mê ........................................................................ 67
3.2.4. Các tác dụng không mong muốn .................................................... 70
3.3. ẢNH HƢỞNG HUYẾT ĐỘNG VÀ HÔ HẤP CỦA GÂY MÊ KIỂM
SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH ............................................................................. 71
3.3.1. Ảnh hƣởng huyết động ................................................................... 71
8
3.3.2. Ảnh hƣởng hô hấp ........................................................................... 79
3.4. CÁC GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐÍCH ...................................................... 80
4. Chƣơng 4: BÀN LUẬN ............................................................................. 82
4.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VÀ PHẪU THUẬT ............................... 82
4.1.1. Tuổi ................................................................................................. 82
4.1.2. Chiều cao, cân nặng ........................................................................ 83
4.1.3. Giới ................................................................................................. 83
4.1.4. Tình trạng sức khỏe theo ASA của các BN nghiên cứu ................. 83
4.1.5. Đặc điểm phẫu thuật ....................................................................... 84
4.1.6. Các thuốc sử dụng phối hợp ........................................................... 84
4.2. HIỆU QUẢ CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH .......... 86
4.2.1. Các chỉ tiêu về thời gian ................................................................. 86
4.2.2. Tiêu thụ propofol ............................................................................ 94
4.2.3. Khả năng duy trì mê ........................................................................ 99
4.3. ẢNH HƢỞNG HUYẾT ĐỘNG VÀ HÔ HẤP CỦA GÂY MÊ KIỂM
SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH ........................................................................... 103
4.3.1. Thay đổi huyết động ..................................................................... 103
4.3.2. Ảnh hƣởng hô hấp ........................................................................ 108
4.4. CÁC GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐÍCH .................................................... 109
4.4.1. Nồng độ đích khi khởi mê của propofol ....................................... 109
4.4.2. Nồng độ đích duy trì mê của propofol .......................................... 111
4.4.3. Nồng độ đích khi thức tỉnh của propofol ...................................... 112
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 116
Danh mục các công trình của tác giả liên quan luận án đã đƣợc công bố
Tài liệu tham khảo
Phụ lục 1
Phụ lục 2
9
CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU TRONG LUẬN ÁN
ASA (American Society of : Hiệp hội các nhà gây mê Hoa Kỳ
Anesthesiologists)
BMI (Body Mass Index) : Chỉ số khối cơ thể
BN : Bệnh nhân
Ce (Effect-site Concentration) : Nồng độ thuốc tại nơi tác dụng
Cl (Clearance) : Hệ số thanh thải
Cp (Plasma concentration) : Nồng độ thuốc trong huyết tƣơng
CSHT (Context Sensitive Half : Thời gian bán hủy nhạy cảm theo tình
Time) huống
ESDT (Effect-site Decrement : Thời gian sụt giảm tác dụng ở đích
Time)
GABA : acid gamma – aminobutyric
HA : Huyết áp
HATB : Huyết áp trung bình
IPPV (Intermittent Positive : Thông khí điều khiển áp lực dƣơng
Pressure Ventilation) ngắt quãng
: Hệ số phân bố keo
LBM (Lean Body Mass) : Chỉ số khối lƣợng cơ
LOC (Loss of consiousness) : Mất ý thức
MCI (Manually Controlled : Truyền chỉnh tay
Infusion)
MOAAS (Modified Observer‟s : Thang điểm đánh giá tỉnh táo và an
Assessment of Alertness thần bằng quan sát sửa đổi
Sedation Scale)
NKQ : Nội khí quản
10
NSAID (Non-steroidal anti- : Thuốc giảm đau chống viêm không
steroid inflammatory drug)
OAA/S (Observer‟s : Thang điểm đánh giá tỉnh táo và an
Assessment of Alertness thần bằng quan sát
Sedation Scale)
p (Probability) : Xác suất
PaCO2 (Arterial partial : Áp lực riêng phần của CO2 trong máu
pressure of carbon dioxide) động mạch
PCA (Patient controlled : Giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát
analgesia)
PEtCO2 (Pressure End - tidal of : Áp lực khí CO2 cuối thì thở ra
carbon dioxide)
PRIS (Propofol infusion : Hội chứng truyền propofol
syndrome)
SD (Standard deviation) : Độ lệch chuẩn
: Độ bão hòa oxy máu ngoại vi SpO2 (Saturation of peripheral
oxygen)
TCI (Target Controlled : Kiểm soát nồng độ đích
Infusion)
TIVA (Total Intravenous : Gây mê tĩnh mạch hoàn toàn
Anesthseia)
TOF (Train of four) : Chuỗi bốn đáp ứng
: Thời gian tác dụng đỉnh
: Giá trị trung bình TTPE (Time to peak effect) ̅ (Mean)
: Khi bình phƣơng χ2
11
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các thông số dƣợc động học trong mô hình của Marsh [105] ....... 27
Bảng 3.1. Tuổi, chiều cao, cân nặng, BMI...................................................... 59
Bảng 3.2. Giới ................................................................................................. 60
Bảng 3.3. Loại phẫu thuật ............................................................................... 60
Bảng 3.4. Thời gian phẫu thuật và thời gian mê ............................................. 61
Bảng 3.5.Thuốc phối hợp, lƣợng dịch truyền trong mổ .................................. 61
Bảng 3.6. Thuốc giải giãn cơ .......................................................................... 62
Bảng 3.7.Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn khởi mê ...................................... 63
Bảng 3.8. Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn hồi tỉnh ...................................... 64
Bảng 3.9. Thời gian tỉnh và thời gian tỉnh ƣớc tính trên máy của nhóm 1 ..... 65
Bảng 3.10. Tiêu thụ propofol .......................................................................... 66
Bảng 3.11. Điểm PRST tại một số thời điểm .................................................. 67
Bảng 3.12. Dấu hiệu tỉnh trong mổ (khi PRST ≥ 3) ....................................... 68
Bảng 3.13. Số lần phải điều chỉnh tăng độ mê trong mổ ................................ 68
Bảng 3.14. Số lần phải điều chỉnh giảm độ mê trong mổ ............................... 69
Bảng 3.15. Mức độ đau tại thời điểm sau rút NKQ ........................................ 70
Bảng 3.16. Các tác dụng không mong muốn .................................................. 70
Bảng 3.17.Thay đổi nhịp tim khi khởi mê ...................................................... 71
Bảng 3.18. Tỷ lệ BN có nhịp chậm khi khởi mê ............................................ 72
Bảng 3.19. Nhịp tim trong giai đoạn duy trì mê ............................................. 72
Bảng 3.20. Nhịp tim trong giai đoạn hồi tỉnh ................................................. 73
Bảng 3.21. Thay đổi HATB khi khởi mê ........................................................ 74
Bảng 3.22. Số bệnh nhân có giảm HATB khi khởi mê .................................. 75
Bảng 3.23. HATB trong giai đoạn duy trì mê ................................................. 76
Bảng 3.24. HATB trong giai đoạn hồi tỉnh ..................................................... 77
Bảng 3.25. Mức thay đổi HATB lớn nhất ....................................................... 77
12
Bảng 3.26. Ảnh hƣởng hô hấp ........................................................................ 79
Bảng 3.27. Nồng độ propofol tại một số thời điểm của nhóm 1 ..................... 80
Bảng 3.28. Nồng độ Ce duy trì mê ................................................................. 81
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn khởi mê ................................ 63
Biểu đồ 3.2. Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn hồi tỉnh ................................. 64
Biểu đồ 3.3. Điểm PRST tại một số thời điểm ............................................... 67
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ bệnh nhân có giảm HATB khi khởi mê ............................ 75
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ các mức hạ HATB ............................................................. 78
Biểu đồ 3.6. HATB tại một số thời điểm ........................................................ 78
Biểu đồ 3.7. Tần số mạch tại một số thời điểm .............................................. 79
Biểu đồ 3.8. Nồng độ propofol tại một số thời điểm của nhóm 1 .................. 80
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Nồng độ propofol trong huyết tƣơng và đích [105]. ......................... 8
Hình 1.2: Mô hình dƣợc động học ba khoang ................................................ 10
Hình 1.3: Thời gian bán hủy nhạy cảm theo tình huống của một số thuốc .... 12
Hình 1.4: Công thức hóa học của propofol ..................................................... 24
DANH MỤC CÁC ẢNH
Ảnh 2.1: Hệ thống TCI-I. ................................................................................ 47
Ảnh 2.2. Bơm tiêm điện Terumo TE – 331 .................................................... 47
Ảnh 2.3: Máy gây mê Fabius GS .................................................................... 48
Ảnh 2.4: Máy đo độ giãn cơ TOF- GUARD .................................................. 49
Ảnh 2.5: Máy theo dõi Life scope I ................................................................ 49
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Quy trình duy trì mê của nhóm 1 ................................................... 55
Sơ đồ 2.2. Quy trình duy trì mê của nhóm 2 ................................................... 56
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây mê tĩnh mạch hoàn toàn (GMTMHT) là một phƣơng pháp gây mê
toàn thân, không sử dụng các thuốc mê thể khí. Phƣơng pháp này đã đƣợc
chứng minh có nhiều ƣu điểm, do đó các nhà gây mê đang có xu hƣớng sử
dụng GMTMHT nhiều hơn trong thực hành lâm sàng [40], [111], [125],
[134].
Thuốc mê tĩnh mạch propofol (Diprivan) đã đƣợc sử dụng từ năm 1983
để khởi mê và duy trì mê [53], [95]. Những nghiên cứu trong và ngoài nƣớc
cho thấy, sử dụng propofol cho phép dễ dàng kiểm soát độ mê, thời gian tiềm
tàng ngắn, chất lƣợng thức tỉnh tốt, tỷ lệ nôn và buồn nôn sau gây mê thấp, rút
ngắn thời gian nằm viện [10], [95], [105], [106]. Tại Việt Nam, propofol đã
đƣợc sử dụng từ những năm 90 của thế kỷ trƣớc với các mục đích an thần
trong các thủ thuật hoặc gây mê trên nhiều đối tƣợng bệnh nhân (BN) khác
nhau [2], [6], [8], [11], [12].
Những hiểu biết sâu sắc hơn về dƣợc động học của thuốc mê tĩnh mạch
kết hợp với những tiến bộ về công nghệ thông tin trong điều khiển học đã cho
ra đời kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích (Target Controlled Infusion -
TCI). Thiết bị gây mê kiểm soát nồng độ đích thƣơng mại đầu tiên đƣợc đƣa
vào sử dụng năm 1996. Hệ thống này có khả năng giúp kiểm soát nồng độ
thuốc ƣớc đoán trong cơ quan đích là huyết tƣơng hoặc não, nơi thuốc phát
huy tác dụng lâm sàng, thông qua việc điều khiển bơm tiêm tự động của một
bộ vi xử lý dựa trên cơ sở dữ liệu là các thông số dƣợc động học của thuốc.
Kỹ thuật này đã mang lại nhiều ƣu điểm hơn trong kiểm soát khởi mê và duy
trì mê cho những thuốc mê tĩnh mạch so với các kỹ thuật thông thƣờng khác
2
[19], [69], [134]. Hiện nay, tại nhiều nơi trên thế giới gây mê tĩnh mạch bằng
propofol có kiểm soát nồng độ đích đã trở thành thƣờng quy [53], [95], [105].
Ở Việt nam, propofol thƣờng đƣợc dùng để gây mê tĩnh mạch bằng
cách tiêm từng liều cách quãng (bolus) hoặc dùng giỏ giọt liên tục hoặc là
dùng bơm tiêm điện truyền liên tục (continuous infusion)... tùy theo điều kiện
trang bị của từng cơ sở y tế [7], [10]. Việc lựa chọn và điều chỉnh liều thuốc,
tốc độ tiêm thuốc, khoảng cách giữa các lần tiêm hoàn toàn phụ thuộc vào
kinh nghiệm lâm sàng của các bác sĩ gây mê, do đó chất lƣợng gây mê chƣa
thực sự ổn định và đồng đều. Gần đây, gây mê bằng propofol sử dụng kỹ
thuật kiểm soát nồng độ đích mới đƣợc giới thiệu và bƣớc đầu ứng dụng trong
thực hành gây mê tại Việt Nam. Tuy nhiên, số lƣợng BN trong các báo cáo
nghiên cứu về gây mê kiểm soát nồng độ đích đã công bố trong nƣớc còn hạn
chế nên việc đánh giá và so sánh hiệu quả của phƣơng pháp này với các
phƣơng pháp đang đƣợc tiến hành trên lâm sàng tại Việt nam chƣa đƣợc đầy
đủ [1], [2], [3], [4], [5].
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi thực hiện đề tài “So sánh tác dụng
của hai phƣơng pháp gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol có và
không kiểm soát nồng độ đích” với các mục tiêu sau:
1. So sánh hiệu quả gây mê bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích với
không kiểm soát nồng độ đích trên các bệnh nhân phẫu thuật bụng theo
kế hoạch.
2. So sánh ảnh hưởng huyết động và hô hấp giữa gây mê có kiểm soát nồng
độ đích và không kiểm soát nồng độ đích
3. Xác định các giá trị nồng độ đích của propofol trong quá trình mê của
nhóm gây mê kiểm soát nồng độ đích.
3
Chƣơng 1
1. TỔNG QUAN
1.1. GÂY MÊ TĨNH MẠCH
1.1.1. Định nghĩa
Gây mê tĩnh mạch là đƣa thuốc mê vào cơ thể bệnh nhân qua đƣờng
tĩnh mạch dẫn đến tình trạng mê có phục hồi trên lâm sàng, bao gồm mất tri
giác, giãn cơ, giảm đau, và ổn định thần kinh nội tiết [7].
Gây mê tĩnh mạch hoàn toàn là phƣơng pháp chỉ sử dụng các thuốc mê
tĩnh mạch, không dùng thuốc mê bốc hơi.
1.1.2. Ƣu điểm
Gây mê tĩnh mạch có những ƣu điểm chính sau:
- Có thể kiểm soát an thần trƣớc và giúp khởi mê nhanh chóng
- Ít gây ô nhiễm môi trƣờng phòng mổ
- Đƣờng cung cấp thuốc không cản trở việc tiếp cận đƣờng thở - Không làm tăng ion fluor (F-)
- An toàn với các chất hấp thu CO2
- Duy trì phản xạ co mạch trong trƣờng hợp giảm oxy máu
- Giảm tỷ lệ sốt cao ác tính
- Ít gây nôn, buồn nôn sau phẫu thuật
- Chất lƣợng thức tỉnh tốt và có khả năng tiếp tục duy trì an thần, giảm
đau sau phẫu thuật… [125].
1.1.3. Các hình thức của gây mê tĩnh mạch
1.1.3.1. Gây mê tĩnh mạch đơn thuần
Gây mê tĩnh mạch đơn thuần là hình thức chỉ sử dụng một thuốc mê
tĩnh mạch duy nhất. Ngƣời ta khuyên không nên sử dụng phƣơng thức này
cho các phẫu thuật kéo dài và phẫu thuật lớn, vì không những rất tốn thuốc
4
mà còn gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Ngày nay, gây mê tĩnh mạch đơn
thuần chỉ còn đƣợc sử dụng cho các bệnh nhân cần gây mê ngoại trú cần phải
thực hiện các thủ thuật nhƣ nội soi tiêu hóa, phẫu thuật nhỏ trong thời gian
ngắn không yêu cầu giảm đau và giãn cơ nhiều (nắn chỉnh sai khớp, trích
nhọt, thay băng trong điều trị bỏng...)
1.1.3.2. Gây mê phân ly
Đây là phƣơng thức gây mê tĩnh mạch đơn thuần với ketamin (thuốc
mê tĩnh mạch duy nhất có thể dùng đƣợc cả đƣờng tiêm bắp thịt). Ketamin
đƣợc chỉ định tốt cho các bệnh nhân có huyết áp thấp. Thuốc có tác dụng gây
ngủ nông và giảm đau bề mặt nhờ tác dụng tổng hợp ở ba nơi: vùng thứ năm
của sừng sau tủy sống, thân não và hệ thống đồi vỏ não... Tác dụng gây ngủ
đƣợc ghi nhận ở giai đoạn hồi tỉnh (ảo giác, vật vã…). Đó là kết quả phân ly
do hoạt động vỏ não giảm, nhƣng hoạt động ở hệ viền thì tăng.
1.1.3.3. Gây mê cân bằng
Gây mê cân bằng là một kỹ thuật gây mê toàn thân phổ biến nhất, trong
đó phối hợp các thuốc để đảm bảo bốn yếu tố: mất tri giác, giảm đau, bảo vệ
thần kinh thực vật và giãn cơ [7].
1.2. GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH
Dù gây mê tĩnh mạch với hình thức nào đi nữa thì vấn đề mà ngƣời gây
mê luôn quan tâm là làm sao duy trì đƣợc độ mê ổn định. Năm 1968, Kruger -
Thiemer đề xuất phƣơng pháp BET (Bolus – Elimination -Transfer) để duy trì
nồng độ trong máu ổn định cho các thuốc mê tĩnh mạch. Phƣơng pháp này
bao gồm các bƣớc: một liều bolus làm đầy khoang trung tâm, sau đó truyền
liên tục với tốc độ giảm dần theo hàm số mũ để bù lại lƣợng thuốc đã chuyển
hoá và thải trừ thuốc ở các khoang ngoại vi [113].
5
Sau đó, dựa trên những nghiên cứu toàn diện hơn về dƣợc động học của
các thuốc mê tĩnh mạch, kết hợp với các chƣơng trình điều khiển tự động
đƣợc xây dựng trên cơ sở phỏng theo mô hình dƣợc động học của thuốc đã
cho ra đời phƣơng pháp kiểm soát nồng độ đích (Target Controlled Infusion -
TCI). Thực ra, TCI là bƣớc tiến mới của phƣơng pháp BET.
Các thuốc có động học ổn định, thời gian tác dụng ngắn, nhƣ propofol,
alfentanil, remifentanil… thích hợp để sử dụng theo phƣơng pháp này. Ngày
nay, kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích đang đƣợc sử dụng phổ biến tại
nhiều cơ sở gây mê trên thế giới [69].
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
1.2.1.1. Dược động học của các thuốc mê tĩnh mạch
Dƣợc động học là một vấn đề tƣơng đối phức tạp, nghiên cứu sự hấp
thu, chuyển hóa, tác dụng và thải trừ của thuốc trong cơ thể. Hay nói một cách
khác đó là môn khoa học nghiên cứu “cơ thể làm gì với thuốc” [18]. Những
hiểu biết về dƣợc động học giúp chúng ta lựa chọn cách sử dụng từng loại
thuốc gây mê tĩnh mạch riêng biệt hoặc phối hợp với các thuốc khác để đạt
hiệu quả lâm sàng tối ƣu.
Các thông số dƣợc động học cơ bản gồm:
- Thể tích phân bố (Volume of distribution - Vd):
Đƣợc tính bằng công thức:
Vd =
Trong đó:
Vd: Thể tích phân bố, đơn vị tính là L hoặc L/kg.
Q: Lƣợng thuốc đƣa vào cơ thể (mg)
Cp: Nồng độ thuốc huyết tƣơng – plasma concentration (mg/L)
6
Nếu nhƣ thể tích phân bố ban đầu (Vd) và nồng độ thuốc trong huyết
tƣơng có hiệu quả điều trị (Cp) đã đƣợc biết thì tính toán đƣợc liều đầu tiên:
Liều đầu tiên = Cp Vd
Liều cần bổ xung để đạt đƣợc nồng độ thuốc ở mức mới:
Liều bổ sung = (Cmới – Chiện tại) Vd
Trong đó: Cmới: Nồng độ thuốc ở mức mới Chiện tại: Nồng độ thuốc hiện tại
Hệ số thanh thải là thể tích huyết tƣơng thuốc đƣợc thải trừ khỏi cơ thể
- Hệ số thanh thải (Clearance - Cl): theo một đơn vị thời gian. Đƣợc tính bằng công thức:
Cl =
V: Vận tốc thải trừ thuốc qua cơ quan (mg/phút) Cl: Hệ số thanh thải (ml/phút) Cp: Nồng độ thuốc trong huyết tƣơng (mg/L)
Trong đó: Hệ số thanh thải (Cl) là khái niệm quan trọng khi thiết kế một cách dùng thuốc hợp lý, lâu dài: duy trì nồng độ thuốc trong huyết tƣơng ở trạng thái ổn định (Css - concentration steady state) đạt đƣợc khi tốc độ thải trừ bằng với tốc độ hấp thu. Liều duy trì đƣợc tình trạng ổn định đƣợc tính theo công thức:
D =
Trong đó: D: Liều duy trì Cl: Hệ số thanh thải t: Khoảng cách giữa các liều F: Sinh khả dụng (Là tỷ lệ thuốc vào vòng tuần hoàn ở dạng còn
hoạt tính so với liều dùng, nếu dùng thuốc qua đƣờng tĩnh mạch, F = 1)
7
Nếu thuốc đƣợc truyền tĩnh mạch thì tốc độ truyền để duy trì nồng độ
ổn định (Vss) sẽ là:
Vss = Cl Css
Nhƣng thực tế cho thấy nếu chỉ phối hợp một cách đơn giản giữa một
liều đầu tiên và sau đó duy trì truyền liên tục với tốc độ không đổi thì vẫn
không đủ để duy trì nồng độ thuốc ổn định, ít nhất là trong khoảng thời gian
bằng 5 lần thời gian bán huỷ [113] (Hình 1.1a). Do vậy, dù có truyền liên tục
với liều không đổi thì cũng không thể duy trì huyết động và hô hấp ổn định
[93], [116], [131]. Khi sử dụng cách tiêm truyền theo kiểu bậc thang kết quả
đo nồng độ thuốc trong các tình huống thực tế cũng không ổn định theo thời
gian [105] (Hình 1.1b).
Qua nghiên cứu, một số tác giả đã đề xuất các mô hình dƣợc động học
khác nhau, trong đó các mô hình khoang đƣợc công nhận nhiều nhất [48],
[79]. Các mô hình này sử dụng khái niệm về các khoang khi mô tả sự biến đổi
nồng độ thuốc ở trong cơ thể. Các khoang này không phải là thành phần giải
phẫu thực thể nào của cơ thể, mà chỉ có giá trị tính toán lý thuyết. Chúng
đƣợc xây dựng để xác định sự di chuyển của thuốc theo thuật toán và cho biết
thuốc đƣợc phân bố vào các tổ chức khác nhau trong cơ thể theo các tốc độ
khác nhau. Các hệ số dùng để mô tả tốc độ của các quá trình phân bố riêng
biệt đƣợc gọi là hệ số phân bố. Hầu hết các thuốc mê tĩnh mạch và opioid có
sự thay đổi nồng độ trong huyết tƣơng theo dạng hai hoặc ba biến thiên sau
khi tiêm truyền. Vì thế, để tính toán nồng độ thuốc và liều chính xác, xây
dựng một mô hình dƣợc động học nhiều khoang với các thuốc này là cần
thiết.
Khi nồng độ thuốc giảm đi, có các quá trình biến thiên riêng biệt xảy ra
không chỉ bởi sự phân bố thuốc vào các vùng khác nhau của cơ thể mà còn
bởi sự đào thải thuốc. Sử dụng các thông số dƣợc động học của mỗi thuốc mê
8
tĩnh mạch để chọn liều lƣợng và tốc độ tiêm truyền sao cho đạt đƣợc và duy
trì nồng độ trong huyết tƣơng ổn định (concentration steady state - Css) là có
T ố c đ ộ t r u y ề n (
m
l / h )
Thời gian (phút)
T ố c đ ộ t r u y ề n (
m
l / h )
Thời gian (phút)
T ố c đ ộ t r u y ề n (
m
l / h )
Thời gian (phút)
thể tính toán đƣợc.
a, Tiêm liều 2mg/kg rồi duy trì truyền liên tục 100ml/h.
b, Truyền lúc đầu tốc độ 50ml/h, sau đó giảm xuống 25ml/h và tăng trở lại 50ml/h.
c, TCI: nồng độ đầu tiên là 3µg/ml, giảm xuống 2µg/ml và tăng trở lại 3µg/ml.
Hình 1.1. Nồng độ propofol trong huyết tương và đích [105].
9
Thực tế cho thấy phần lớn các thuốc mê tĩnh mạch có quá trình phân
bố, thải trừ là không tuyến tính và biến đổi của nồng độ thuốc theo thời gian
đƣợc tính toán theo phƣơng trình có hàm số mũ vô cùng phức tạp. Trong đó
mỗi hàm số mũ miêu tả một pha của quá trình động học (hấp thu, phân bố và
thải trừ). Nhờ các phân tích toán học, ngƣời ta thấy dƣợc động học của các
thuốc mê tĩnh mạch khi đƣợc mô tả theo mô hình 3 khoang là thích hợp nhất
[18], [29], [36], [103].
Mô hình 3 khoang điển hình cho rằng sau khi tiêm, trƣớc tiên thuốc vào
khoang trung tâm. Tiếp theo, thuốc đƣợc phân bố vào 2 khoang khác (Hình
1.2). Quá trình phân bố vào khoang thứ 2 là giai đoạn phân bố nhanh vì đó là
phân bố vào các tổ chức đƣợc tƣới máu nhiều. Quá trình phân bố vào khoang
thứ 3 chính là giai đoạn phân bố chậm vì đó là phân bố vào các tổ chức đƣợc
tƣới máu kém hơn. Các hệ số phân bố (k12, k21, k13, k31, k10 và keo) đƣợc mô tả
chính là tỷ lệ dịch chuyển của thuốc giữa khoang trung tâm và các khoang
khác cũng nhƣ tỷ lệ đào thải của thuốc (thƣờng là tính từ khoang trung tâm).
Nhƣng mô hình dƣợc động học cũng chỉ là phép tính để mô tả cách biến đổi
của nồng độ trong huyết tƣơng quan sát đƣợc của một thuốc nhất định chứ
không áp dụng cho tất cả các loại thuốc. Hay nói cách khác mỗi thuốc có một
mô hình dƣợc động học riêng biệt.
Để đánh giá sự chính xác của mô hình dƣợc động học, ngƣời ta thƣờng
sử dụng ngay nó để tính toán hoặc ƣớc lƣợng các nồng độ huyết tƣơng mong
muốn sau khi cho thuốc rồi so sánh với kết quả định lƣợng nồng độ thuốc thực
tế trong máu. Nếu có sự tƣơng quan chặt chẽ giữa nồng độ ƣớc tính và nồng độ
thực tế có nghĩa là mô hình đó là chính xác. Nhƣng ngay cả với một mô hình
dƣợc động học đƣợc coi là chính xác cũng chỉ mang tính tƣơng đối, bởi trong
thực tế luôn luôn có một mức độ thay đổi về dƣợc động học giữa các cá thể.
Hạn chế khác của mô hình này là công nhận có sự hoà tan ngay lập tức của
10
thuốc trong các khoang sau khi tiêm. Nhƣ vậy, các mô hình này không thể
đƣợc sử dụng để mô tả sự hấp thu của phổi hoặc trong các tình huống mà sự tái
tuần hoàn thuốc gây nên các đợt thay đổi nồng độ thuốc thứ phát. Thực tế thì
một lƣợng của thuốc đƣợc đƣa vào tĩnh mạch không bao giờ đạt mức cân bằng
ngay lập tức. Những mô hình này là tĩnh và không tƣơng thích với các quá
trình mà trong đó có sự biến đổi liên tục và còn phụ thuộc các yếu tố khác, nhƣ
tính gắn của thuốc vào protein, mất máu hoặc pha loãng máu, mà đó chính là
các đặc trƣng của tình trạng động ở ngƣời bệnh riêng biệt.
Một điều rõ ràng là nếu không ứng dụng công nghệ vi xử lý giúp tính
toán thì chúng ta khó có thể sử dụng các mô hình này trong thực tế lâm sàng.
Sử dụng các thông số dƣợc động học và các phƣơng trình nhƣ đã nêu trên đây
để tính toán tốc độ truyền để duy trì nồng độ thuốc ổn định trong thực hành
gây mê trở nên rất phức tạp và rất khó vận dụng trên lâm sàng cho các bác sĩ
Tiêm truyền tĩnh mạch
Khoang tác dụng
gây mê [134]. Đơn giản là vì họ không phải là những nhà toán học.
Khoang trung tâm
Khoang thứ 2
Khoang thứ 3
Thải trừ
á
Hình 1.2: Mô hình dược động học ba khoang
với các hệ số k12, k21, k13, k31, k10 và keo [19]
11
1.2.1.2. Sự chính xác của các mô hình dược động học
Thuật toán và các tính toán trong kiểm soát nồng độ đích dựa trên các
mô hình dƣợc động học. Nhƣng các mô hình này không bao giờ phù hợp với
một cá thể riêng biệt. Vì thế nồng độ thuốc đƣợc định lƣợng trong máu động
mạch của bệnh nhân luôn có sự khác biệt với nồng độ tính toán. Mức độ khác
biệt này đƣợc gọi là “sai số hiệu suất” (Performance Error - PE), và có thể
dùng để so sánh sự chính xác giữa các mô hình dƣợc động học. Trong tình
huống này, thuật ngữ “bias” hay “sai số ƣớc đoán trung bình” (Median
Prediction Error - MDPE) dùng để mô tả mức độ chênh cao hay thấp của giá
trị ƣớc đoán tính theo tỷ lệ %, trong khi thuật ngữ “precision” hay “sai số hiệu
suất trung bình tuyệt đối” (Median Absolute Performance Error - MDAPE)
dùng để chỉ sự phân tán của các phép đo trên từng cá thể quanh đƣờng ƣớc
lƣợng chuẩn. Ví dụ, MDAPE là 20% có nghĩa là một nửa giá trị tiên đoán
trong nằm trong giới hạn 20% hoặc gần hơn giá trị thực, còn một nửa còn lại
nằm ngoài giới hạn này. Độ lệch khỏi đƣờng ƣớc lƣợng chuẩn là một thông số
của sai số toàn thể của mô hình dƣợc động học. MDPE thay đổi từ 3 - 20%,
còn MDAPE thay đổi từ 15 - 30%. Sự khác nhau giữa các mô hình dƣợc động
học là vì chúng phụ thuộc nhiều yếu tố, nhƣ là khoảng thời gian giữa các lần
lấy mẫu, vị trí lấy mẫu máu, chất lƣợng phân tích và các yếu tố liên quan tới
cộng đồng [19], [40].
Mô hình dƣợc động học của Marsh cũng đã đƣợc thử nghiệm lâm sàng
trên nhiều nhóm bệnh nhân khác nhau. Giá trị sai số hiệu suất của propofol
trong các nghiên cứu này dao động từ -7% đến 16%, thậm chí trong một
nhóm còn lên tới 21%. Các kết quả này quan sát đƣợc trong lúc tiêm truyền,
nhƣng khi đã dừng truyền thì lại giảm từ 30% xuống 11% trong nghiên cứu
của Davidson và cộng sự [40]. Điều này gợi ý rằng còn có tác động gì đó ảnh
hƣởng tới quá trình tiêm truyền, góp phần tạo nên sự hòa trộn không lý tƣởng
của thuốc trong khoang trung tâm. Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới một số
tranh cãi về kiểm soát nồng độ đích.
12
1.2.1.3. Thời gian bán hủy nhạy cảm theo tình huống (Context Sensitive
) t
ú h p (
g n ố u h
h n
ì t
o e h
t
m ả c y ạ h n y ủ h
n á b
i
n a g
i
ờ h T
Thời gian tiêm truyền (giờ)
Half Time – CSHT)
Hình 1.3: Thời gian bán hủy nhạy cảm theo tình huống của một số thuốc [54]
Nếu chỉ căn cứ vào thời gian bán hủy của thuốc đƣợc mô tả bởi các mô
hình dƣợc động học nhiều khoang thì vẫn chƣa đủ để xác định chính xác thời
gian bao lâu nồng độ thuốc sẽ giảm tới một mức nhất định sau khi ngừng
truyền. Sau khi tiêm một liều bolus, sự giảm nồng độ thuốc phụ thuộc vào quá
trình phân bố cũng nhƣ phụ thuộc vào nửa thời gian đào thải của thuốc. Điều
đó cũng đúng khi thuốc đƣợc truyền tĩnh mạch. Ngoài ra sau khi truyền thì
một điều cũng tƣơng đối quan trọng đó là quá trình phân bố và đào thải thuốc
còn phụ thuộc vào khoang, thời gian truyền thuốc.
Các nhà khoa học đã phát triển các phƣơng pháp mới để định lƣợng
nồng độ thuốc giảm đi theo thời gian sau khi truyền, CSHT chính là một trong
những phƣơng pháp đó, đƣợc mô tả bởi Hughes và cộng sự năm 1992 [54].
Thời gian bán hủy nhạy cảm theo tình huống đƣợc định nghĩa là thời
gian để nồng độ thuốc trong huyết tƣơng giảm đi 50% sau khi ngừng truyền
thuốc. Nó không chỉ là một con số đơn giản mà là tập hợp các giá trị phản ánh
sự tăng của thời gian bán hủy với thời gian tiêm truyền tới khi các khoang
13
hoặc mô cơ thể đạt đƣợc sự cân bằng. CSHT tăng theo thời gian. Hình 1.3 cho
thấy fentanyl có CSHT tăng cao nhất theo thời gian, nhƣng giá trị này dƣờng
nhƣ không thay đổi với remifentanil. Chính vì thế dùng fentanyl kéo dài sẽ
gây tích lũy và khiến BN lâu tỉnh.
Các thuốc có CSHT ngắn đƣợc coi là phù hợp để dùng TIVA vì nó sẽ
gắn liền với sự hồi tỉnh nhanh sau gây mê. Tuy nhiên trong thực tế CSHT lại
chƣa phải là chỉ số tiên lƣợng hồi tỉnh hoàn toàn chính xác. Lý do chính là
thời gian để cho bệnh nhân hồi tỉnh sau một cuộc mê lại không chỉ liên quan
với giảm nồng độ thuốc trong huyết tƣơng đến một mức nhất định, mà còn
phải kể đến sự tƣơng tác thuốc khi sử dụng phối hợp, đặc điểm lâm sàng của
chính bệnh nhân đó. Nhƣng giá trị của nó là giúp bác sĩ gây mê tiên lƣợng
thời điểm thức tỉnh của bệnh nhân trên lâm sàng.
1.2.1.4. Sự cân bằng tác dụng đích (Effect Site Equilibration)
Trong thực tế, luôn tồn tại một khoảng thời gian chênh lệch hay chậm
trễ khi so sánh việc đạt đến một đậm độ thuốc trong huyết tƣơng đặc hiệu với
việc quan sát thấy các đáp ứng lâm sàng tƣơng đƣơng. Lý do chính là vị trí
tác dụng của các thuốc an thần hoặc gây ngủ không phải là ở huyết tƣơng mà
là ở não. Thuốc phải di chuyển từ huyết tƣơng vào tới vị trí tác dụng ở não
hoặc tác dụng đích trƣớc khi thấy đƣợc các đáp ứng trên lâm sàng. Có một
mối liên hệ về toán học hay tƣơng quan tạm thời giữa đậm độ thuốc trong
huyết tƣơng và đáp ứng trên lâm sàng quan sát đƣợc. Thời gian cần thiết để đạt sự cân bằng đó đƣợc mô tả là hệ số phân bố (keo). Thời gian để đạt sự cân bằng với vị trí tác dụng (đích) là khác nhau với các thuốc khác nhau và các
yếu tố nhƣ các đặc tính vật lý của thuốc và các đặc tính gắn vào các thụ thể
(receptor) có thể làm chậm quá trình giữa nồng độ thuốc trong huyết tƣơng
đạt đƣợc và các hiệu quả lâm sàng quan sát thấy.
Khoang tác dụng và hệ số phân bố (keo) đƣợc gộp vào mô hình ba khoang để cho phép ƣớc tính các thay đổi nồng độ tác dụng ở đích theo thời
gian. Do vậy, thời gian sụt giảm tác dụng ở đích (Effect Site Decrement Time:
ESDT) có thể đƣợc sử dụng để tiên lƣợng sự hồi tỉnh. Đó chính là thời gian
14
từ khi ngừng thuốc tới khi nồng độ thuốc tác dụng ở đích giảm đến một tỷ lệ
phần trăm nhất định mà ở đó có thể thấy sự hồi tỉnh trên lâm sàng.
1.2.2. Lƣợc sử phát triển kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích
Ý tƣởng kết hợp những phƣơng trình toán học và mô hình dƣợc động
học của thuốc nhằm đạt đƣợc mục đích ổn định nồng độ trong máu cho các
thuốc tiêm tĩnh mạch đã hình thành từ năm 1968.
Năm 1992, Kenny và White đã phát triển một hệ thống di động điều
khiển bằng máy tính cho phép các nhà gây mê có thể tính nồng độ propofol ở
bất kỳ thời điểm nào [64]. Hệ thống này gồm có thiết bị cầm tay nối với bơm
tiêm điện Ohmeda 9000 qua cổng kết nối RS-232 với máy tính. Phần mềm
điều khiển là Diprifusor gồm mô hình dƣợc động học và thuật toán điều khiển
tốc độ tiêm truyền.
Năm 1996, Diprifusor là thiết bị có tính thƣơng mại đầu tiên dành riêng
cho propofol với kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích đƣợc đƣa vào sử dụng trên
lâm sàng [19].
Ban đầu thiết bị này chỉ có thể cài đặt kiểm soát nồng độ thuốc trong
huyết tƣơng. Về sau nhờ những hiểu biết sâu sắc hơn về dƣợc động học của
thuốc và các thuật toán tích hợp, thiết bị cho phép điều khiển nồng độ thuốc ở
cơ quan đích (effect-site concentration).
Đã có nhiều thuật ngữ mô tả về kỹ thuật này, ví dụ nhƣ:
CATIA: Computer Assisted Total Intravenous Anaesthesia.
TIAC: Titration Intravenous Agents by Computer.
CACI: Computer Assisted Continuous Infusion.
CCIP: Computer Controlled Infusion Pump.
Ngày nay, thuật ngữ TCI (Target Controlled Infusion) do Kenny và
cộng sự [64] đề xuất đƣợc sử dụng thống nhất để mô tả kỹ thuật kiểm soát
liên tục nồng độ thuốc mê tĩnh mạch trong huyết tƣơng hay cơ quan đích.
Mỗi hệ thống TCI bao gồm một bộ vi xử lý đƣợc lập trình dựa trên mô
hình dƣợc động học của thuốc để điều khiển tự động một bơm tiêm điện.
Thay thế cho việc cài đặt tốc độ tiêm truyền với giá trị mg/kg/h hoặc ml/h trên
15
các bơm tiêm điện thông thƣờng, các bác sĩ gây mê nhập vào các số liệu của
bệnh nhân, bao gồm:
- Cân nặng, chiều cao, tuổi, giới.
- Nồng độ thuốc cần đạt trong máu hoặc não (tính bằng g/ml).
Hệ thống hoạt động nhƣ sau: dựa trên khoảng điều trị an toàn của
thuốc, đáp ứng của bệnh nhân, và nồng độ thuốc dự đoán tại một thời điểm,
bác sĩ quyết định lựa chọn nồng độ đích của thuốc mê. Máy có khả năng tự
tính toán để điều khiển bơm tiêm truyền số lƣợng thuốc với tốc độ thích hợp
liên tục theo thời gian thực để đạt đƣợc và duy trì nồng độ đích theo mức
mong muốn của bác sĩ.
Kỹ thuật TCI đã và đang đƣợc nghiên cứu sử dụng cho các thuốc mê
tĩnh mạch nhƣ: propofol, fentanyl [46], [110], remifentanil [82], alfentanil
[24], sufentanil [93] , midazolam [137] và ketamin [52].
Trong thực hành lâm sàng, sử dụng propofol để khởi mê và duy trì mê
bằng cách tiêm truyền có kiểm soát nồng độ đích ngày càng thông dụng [108].
Có 4 hệ thống TCI thông dụng đang đƣợc sử dụng trong thực hành gây mê:
• Graseby 3500 TCI
• Alaris IVAC TCI
• Fresenius Vial Master TCI
• Terumo TE-372 TCI
Điều đặc biệt là trong các hệ thống này, bơm tiêm thuỷ tinh có chứa
thuốc mê propofol đƣợc hệ thống nhận dạng một cách tự động về nồng độ và
nguồn gốc sản phẩm qua một chíp điện tử. Điều này cho phép giảm thiểu sự
sai sót về liều lƣợng thuốc nhƣng lại gia tăng sự tốn kém và gây cản trở sự
phổ biến của hệ thống này trong thực hành gây mê [105].
Hiện tại đã có một số hệ thống TCI mở, không chứa bộ nhận diện thuốc
cùng bơm tiêm nhƣ các hệ thống trên. Chúng chỉ gồm một bộ vi xử lý nhƣng
cho phép lập trình theo nhiều mô hình dƣợc động học của nhiều loại thuốc
cũng nhƣ sử dụng đƣợc nhiều cỡ bơm tiêm khác nhau. Lợi thế của các hệ
thống này là giá thành rẻ hơn và cho phép sử dụng nhiều dạng propofol để
16
gây mê kiểm soát nồng độ đích. Hệ thống TCI-I mà chúng tôi sử dụng trong
nghiên cứu này là một trong số đó.
Trong tƣơng lai, kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích có thể đƣợc sử dụng để:
Giảm đau sau mổ có kiểm soát.
An thần bệnh nhân tự kiểm soát. Liều khởi đầu với propofol là 1
µg/ml, sau đó bệnh nhân sẽ nhấn nút để tăng nồng độ thêm 0,2 µg/ml mỗi
lần. Khoảng cách mỗi lần tăng liều tối thiểu là 2 phút và nồng độ tối đa có
thể đạt là 3 µg/ml. Mỗi khi không có yêu cầu từ bệnh nhân trong thời gian
lớn hơn 6 phút, hệ thống tự động giảm nồng độ 0,2 µg/ml mỗi lần.
Gây mê chu trình kín: Đây là hệ thống kết hợp thiết bị theo dõi liên tục
độ mê và thiết bị kiểm soát nồng độ đích. Đã có một số sản phẩm thƣơng
mại theo dõi độ mê theo thời gian thực dựa trên điện não đồ nhƣ
Bispectral Index (BIS), Auditory Evoked Potential Index (AEP), hay
ENTROPY... Các thiết bị này sử dụng các thuật toán để phân tích những
thay đổi của điện não trong quá trình gây mê và cho ra những giá trị biểu
thị độ sâu của mê, máy tính căn cứ vào thông tin đó điều khiển bơm tiêm
duy trì độ mê thích hợp theo yêu cầu của ngƣời gây mê [40].
1.2.3. Ƣu điểm của TCI
Sự tiện lợi của gây mê tĩnh mạch với kỹ thuật TCI cho các thuốc mê
tĩnh mạch đã đƣợc một số tác giả so sánh giống nhƣ bình bốc hơi với các
thuốc mê thể khí [19], [40], [105], [134].
Dễ dàng điều chỉnh:
Với hệ thống TCI, các bác sĩ gây mê dễ dàng cài đặt từ đầu giá trị nồng
độ thuốc trong máu cần đạt đƣợc đơn giản nhƣ cài đặt tỷ lệ phần trăm thuốc
mê thể khí trong thành phần khí thở vào trên bình bốc hơi. Nồng độ thuốc lựa
chọn sẽ đạt và đƣợc duy trì một cách tự động mà không cần thêm bất cứ can
thiệp nào của bác sĩ. Nồng độ này đƣợc quyết định sau khi bác sĩ gây mê
thăm khám và đánh giá bệnh nhân. Nồng độ đích chọn đầu tiên dựa vào tuổi,
xếp loại ASA, thuốc tiền mê và giảm đau kết hợp trƣớc đó. Thiết bị TCI
không đủ thông minh để làm thay công việc quan trọng có ý nghĩa quyết định
17
này. Kỹ thuật TCI giúp kiểm soát chính xác hơn độ mê của bệnh nhân bằng
cách điều chỉnh nồng độ đích, điều này đƣợc các bác sĩ thực hiện rất dễ dàng.
Hệ thống TCI cho phép các bác sĩ gây mê tăng nồng độ đích từ
0,1g/ml đến nồng độ lớn hơn, ví dụ nhƣ 1/ml bất cứ thời điểm nào. Tăng
nồng độ khi có kích thích hoặc trƣớc một thì can thiệp có khả năng gây kích
thích nhiều. Ngƣợc lại, cần giảm nồng độ đích khi đã mê quá sâu hoặc nguyên
nhân gây kích thích đã giảm bớt.
Dễ dàng kiểm soát độ mê theo yêu cầu:
Thay đổi nồng độ đích mới sẽ cho ta độ mê mới tƣơng xứng. Nó cũng cho
phép chúng ta nhanh chóng đạt độ mê cần thiết trƣớc các thủ thuật gây kích thích
(ví dụ nhƣ: đặt nội khí quản hay mask thanh quản, rạch da...). Kiểm soát tốt nồng
độ thuốc trong máu cho phép cải thiện huyết động, ổn định hô hấp, tránh đƣợc
ngừng thở và giảm huyết áp. TCI cho phép duy trì mê thật sự ổn định. Đồng thời
nhanh chóng giảm độ mê trong thì phẫu thuật ít kích thích hoặc cuối cuộc mổ.
Hiển thị nồng độ thuốc trong máu:
Hệ thống cho phép hiển thị giá trị nồng độ thuốc ƣớc tính trong huyết
tƣơng hoặc cơ quan đích.
Hiển thị thời gian ước tính bệnh nhân sẽ tỉnh:
Một số hệ thống còn cho phép hiển thị thời gian ƣớc tính kể từ thời
điểm dừng tiêm truyền cho tới khi đạt đƣợc nồng độ thuốc thấp hơn nhất định
trong máu hoặc cơ quan đích. Thông thƣờng nồng độ thuốc khi BN tỉnh lại
tƣơng đƣơng với nồng độ thuốc làm BN mất ý thức. Vì vậy cho phép ƣớc
đoán thời điểm kết thúc tiến trình gây mê. Bác sĩ gây mê căn cứ vào đó để cho
thuốc nhằm điều chỉnh tối ƣu hóa quá trình hồi tỉnh của bệnh nhân.
Bù lại thuốc khi quá trình tiêm truyền bị gián đoạn và giảm thời gian
tính toán
Khi quá trình tiêm truyền bị gián đoạn, ví dụ nhƣ phải thay bơm tiêm
hoặc ngừng truyền do bị tắc, hệ thống vẫn tiếp tục tính toán cho đến khi bơm
tiêm hoạt động trở lại, tốc độ tiêm sẽ tự động điều chỉnh để bù trừ đến và duy
trì nồng độ thuốc đã chọn.
18
Sẽ không mất thời gian tính toán tốc độ tiêm khi sử dụng hệ thống TCI.
Bác sĩ gây mê chỉ cần chọn nồng độ đích của thuốc trong máu, hệ thống sẽ tự
động tính toán và điều khiển tốc độ của bơm tiêm liên tục sao cho đạt đƣợc và
duy trì nồng độ thuốc đã đặt ra. Nhƣ vậy TCI cho phép bác sĩ gây mê có
nhiều thời gian hơn để theo dõi bệnh nhân. TCI giúp tránh sử dụng sai liều,
đôi khi vẫn xảy ra khi dùng bơm tiêm điện thông thƣờng.
1.2.4. Ứng dụng lâm sàng
Loại phẫu thuật và chỉ định
Kỹ thuật TCI đƣợc sử dụng cho cả các can thiệp rất ngắn (nội soi tiêu
hoá) hoặc rất dài (tới vài giờ nhƣ các phẫu thuật thần kinh và tim mạch) [25],
[43], [72], [107]. Kỹ thuật TCI không làm thay đổi chỉ định sử dụng propofol.
TCI không thích hợp để khởi mê cho những bệnh nhân có dạ dày đầy bởi vì
tốc độ tiêm tối đa có giới hạn. Nó đƣợc khuyến khích trong trƣờng hợp đặt
NKQ khó, an thần trong tê vùng và tiền mê [92]. TCI duy trì mê ổn định hơn,
ít thay đổi huyết động, ít thức tỉnh không mong muốn hơn là cho từng liều
bolus nhắc lại. Thông khí hỗ trợ dễ dàng và ít nhu cầu thuốc an thần hơn [89].
Kỹ thuật TCI với các opioid cũng cho thấy ít tăng trƣơng lực cơ, giảm
huyết áp, loạn nhịp hơn so cách dùng thông thƣờng và hồi phục tự thở nhanh
hơn [17], [20].
Tuổi và cân nặng là những yếu tố cần quan tâm khi điều chỉnh nồng độ
đích. Những yếu tố khác ít đƣợc nghiên cứu hơn.
Trên người cao tuổi
Dƣợc động học của thuốc biến đổi theo tuổi, đó là giảm thể tích khoang
trung tâm, giảm chỉ số khối và cân bằng chuyển hóa. Tốc độ tiêm truyền phải
giảm theo tuổi. Nhƣng chỉ số keo lại không thay đổi theo tuổi. Hiện nay, vẫn còn
có các tranh luận về xác định nồng độ đích theo tuổi [15], [26]. Với các opioid,
sự nhậy cảm với tuổi đều tăng với cả dƣợc động học và dƣợc lực học [18].
19
Hiện nay, phần mềm điều khiển của Diprifusor vẫn chƣa tích hợp giá
trị tuổi làm cơ sở để giảm liều khi khởi mê, duy trì mê, hay xác định nồng độ
thức tỉnh ở ngƣời già. Lợi ích chính của Diprifusor trong các trƣờng hợp này
là cho phép khởi mê chậm dễ dàng hơn (ví dụ 50mg/phút để giảm thiểu quá
liều ở khoang tác dụng).
Trẻ em
Có một số nghiên cứu sử dụng gây mê kiểm soát nồng độ đích ở trẻ em.
Đó là các mô hình dƣợc động học cho propofol và alfentanil [51], [60], [78].
Trong các mô hình này thể tích phân bố và tốc độ chuyển hóa đƣợc điều
chỉnh theo cân nặng nhiều hơn. Thông số cài đặt tƣơng tự nhƣ một ngƣời lớn
béo phì. Tốc độ tiêm và nồng độ đích để có tác dụng tƣơng đƣơng ở trẻ em
dƣờng nhƣ là cao hơn ngƣời lớn.
Cân nặng
Trong lâm sàng sử dụng các thuốc mê tĩnh mạch đƣợc điều chỉnh theo
trọng lƣợng cơ thể. Thông số dƣợc động học cài đặt cho Diprifusor cũng điều
chỉnh theo cân nặng cho khoang trung tâm (Vd = 0,228L/kg). Nhƣng cũng có
các thông số dƣợc động học khác liên quan tới trọng lƣợng cơ thể và mối liên
hệ giữa cân nặng và lƣợng thuốc sử dụng phức tạp hơn chứ không chỉ là một
liên quan tuyến tính. Điều chỉnh thuốc theo khối lƣợng cơ (LBM - lean body
mass) đƣợc cho là phù hợp với propofol, thiopentotal, methohexital và các
thuốc giãn cơ. Tỷ lệ phần trăm của LBM không liên quan tuyến tính tới cân
nặng mà phụ thuộc chiều cao và giới tính.
Schuttler và Ihmsen sau nghiên cứu trên số lƣợng bệnh nhân lớn
(n=270) với khoảng cân nặng rộng (12-100kg), nhận thấy rằng cân nặng có
liên quan tới thải trừ, chuyển hóa giữa các khoang, thể tích khoang trung tâm,
khoang ngoại vi. Tuổi trên 60 thể tích khoang trung tâm giảm, ngƣợc lại ở trẻ
em giá trị này tăng theo trọng lƣợng cơ thể [103].
20
Kiểm soát nồng độ đích với các thuốc khác Kỹ thuật này cũng đƣợc sử dụng cho các thuốc khác nhƣ midazolam,
ketamin và các thuốc opioid với mục đích an thần, giảm đau sau mổ. Kinh
nghiệm sử dụng các thuốc này không nhiều nhƣ propofol. Kiểm soát nồng độ
đích với các thuốc này đang trong quá trình nghiên cứu thêm.
Có thể phối hợp một số thuốc bằng kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích với
nhau trong cùng một thời điểm để mang lại kết quả tốt nhất. Hệ thống “tất cả
trong một” cho phép tính toán hiệp đồng dƣợc động học và tính toán thời
điểm thức tỉnh một cách chính xác nhất.
Bất lợi của kiểm soát nồng độ đích Thuật toán trong Diprifusor cho phép hiển thị nồng độ tác dụng, hiển
thị nồng độ thực khi khởi mê, duy trì và khi thức tỉnh. Thuật toán cũng cho
phép kiểm soát nồng độ, khởi mê nhanh hơn và trong lúc duy trì mê làm tăng
độ mê nhanh hơn. Hạn chế của việc kiểm soát nồng độ khoang đích là nồng
độ trong máu động mạch tăng cao khi cần đạt mức đích cao hơn. Điều này có
thể gây ảnh hƣởng xấu tới tuần hoàn và hô hấp. Hiện tƣợng này không gây
hậu quả nghiêm trọng ở những bệnh nhân trẻ, nhƣng cần thận trọng ở những
bệnh nhân cao tuổi và vẫn còn phải nghiên cứu thêm.
Giảm đau sau mổ với kiểm soát nồng độ đích Giảm đau sau mổ với kiểm soát nồng độ đích đã đƣợc áp dụng cho
alfentanil và remifentanil. Lợi ích lớn nhất của phƣơng pháp này so với PCA
morphin là thời gian tác dụng và hồi phục nhanh, kiểm soát đau nhanh chóng
và chính xác [19], [105].
Gây mê kiểm soát nồng độ đích đƣợc cho là kỹ thuật có giá trị nhất với
các thuốc mê tĩnh mạch để duy trì nồng độ ổn định giúp cải thiện chất lƣợng
gây mê. Ngày nay, các bác sĩ gây mê đã có một công cụ thuận tiện trợ giúp để
sử dụng các thuốc mê tĩnh mạch. Điểm bất lợi chính là sự khác nhau giữa các
bệnh nhân và thiếu hụt hệ thống kiểm soát nồng độ đích cho các opioid.
Trong tƣơng lai, gây mê có kiểm soát nồng độ đích sẽ tiếp tục đƣợc nghiên
cứu để hoàn thiện hơn.
21
1.2.5. Nghiên cứu so sánh TCI với hình thức gây mê tĩnh mạch khác
1.2.5.1. Ở nước ngoài
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu sự khác biệt của kỹ
thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích của propofol so với các kỹ thuật không
kiểm soát nồng độ đích. Phần lớn những nghiên cứu sử dụng kỹ thuật kiểm
soát nồng độ đích cho propofol là sử dụng mô hình dƣợc động học của Marsh
hoặc Schnider, cài đặt nồng độ thuốc trong huyết tƣơng để so sánh với các
công thức truyền liều chỉnh tay.
Tới năm 2008, đã có 1340 báo cáo nghiên cứu về kiểm soát nồng độ
đích đƣợc đăng tải trên các hệ thống nhƣ PUBMED, MEDLINE, EMBASE,
CENTRAL, CINAHL… Trong số đó có 16 công trình nghiên cứu so sánh
giữa gây mê kiểm soát nồng độ đích bằng propofol sử dụng mô hình dƣợc
động học của Marsh với tiêm truyền chỉnh tay thì có tới 15 công trình là cài
đặt theo nồng độ thuốc trong huyết tƣơng (plasma concentration) [69]. Nhƣng
Triem JG., tác giả duy nhất cài đặt nồng độ thuốc trong não trong các nghiên
cứu nói trên lại sử dụng kỹ thuật TCI tối ƣu (optimated – target –controlled -
infusion – OTCI) trong nghiên cứu. Với kỹ thuật này khi khởi mê propofol
đƣợc tiêm với tốc độ 800ml/h cho tới khi bệnh nhân mất ý thức rồi mới bắt
đầu kiểm soát theo nồng độ đích [123].
Trên những bệnh nhân mổ phụ khoa ngoại trú tự thở, liều và tỷ lệ
ngừng thở khi gây mê ở nhóm TCI giảm hơn, nhƣng huyết động, tỷ lệ bệnh
nhân cử động và thời gian thức tỉnh nhƣ nhau so với nhóm khởi mê thông
thƣờng. Rusell và cộng sự nhận thấy tỷ lệ cử động nhiều hơn ở nhóm bệnh
nhân đƣợc gây mê theo kiểu chỉnh tay so với kiểm soát nồng độ đích (26,1%
so với 11,8%) [100].
22
Hunt-Smith và cộng sự lại thấy rằng chất lƣợng gây mê và khả năng dễ
sử dụng là tƣơng đƣơng giữa nhóm TCI và nhóm MCI, tuy nhiên HATB thấp
hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm TCI trong 30 phút đầu gây mê, không thấy
sự khác biệt về sự cử động trong mổ và thời gian thức tỉnh [55].
Servin F. và cộng sự nghiên cứu trên 562 bệnh nhân mổ lớn có chuẩn bị
kéo dài từ 6 - 560 phút, tuổi từ 12 – 85 cho thấy thời gian thức tỉnh dài hơn ở
nhóm TCI so với nhóm MCI (15,4 phút so với 13,8 phút), đồng thời ít cử
động và điểm chất lƣợng gây mê cũng cao hơn ở bệnh nhân nhóm TCI [107].
Nhƣng Małgorzata W. và cs nghiên cứu so sánh gây mê propfol giữa kiểm
soát nồng độ đích và không kiểm soát nồng độ đích theo mô hình Schnider thì
không thấy có sự khác biệt [77].
Nhìn chung là các nghiên cứu lâm sàng đều cho thấy TCI là một kỹ
thuật an toàn và hiệu quả. Thời gian khởi mê dài hơn nhƣng liều thấp hơn.
Duy trì mê ổn định ở những bệnh nhân không liệt và tự thở, thời gian thức
tỉnh là tƣơng đƣơng giữa hai nhóm.
1.2.5.2. Tại Việt Nam
Các nghiên cứu vê gây mê kiểm soát nồng độ đích ở Việt Nam đƣợc
công bố từ năm 2010.
Ngô Văn Chấn và cộng sự (2010) nghiên cứu gây mê kiểm soát nồng
độ đích trên các BN nội soi lồng ngực cho kết luận: kỹ thuật cho phép khởi mê
nhanh, đặt nội phế quản êm dịu, duy trì mê ổn định, kiểm soát tốt độ sâu gây mê,
dự đoán đƣợc thời gian hồi tỉnh, chất lƣợng hồi tỉnh cao, ít tai biến và biến chứng
trong và sau mổ [4].
Cùng năm 2010, Châu Thị Mỹ An và cộng sự nghiên cứu gây mê tĩnh
mạch bằng propofol kiểm soát nồng độ đích huyết tƣơng có thể áp dụng tốt
cho phẫu thuật vùng bụng với nồng độ tƣơng đối thấp (1,5 – 5,2 μg/ml) và
chất lƣợng gây mê tốt. Tác giả kết luận gây mê tĩnh mạch bằng propofol có
23
kiểm soát nồng độ đích có liều khởi mê thấp hơn, mất ý thức nhanh hơn, khởi
mê êm dịu, thay đổi huyết động ít hơn, đặt NKQ tốt hơn, ít cử động trong mổ
hơn, ít điều chỉnh liều trong mổ, thời gian hồi tỉnh ngắn và êm dịu hơn so với
nhóm không kiểm soát nồng độ đích [1].
Năm 2010, Đặng Văn Chính và cộng sự nghiên cứu sử dụng TCI tại
Bệnh viện Thanh nhàn cho kết luận: “Liều Diprivan khi khởi mê trung bình
5,95 ± 0,77ml. Thời gian tiêm Diprivan khi khởi mê 111,97 ± 4,2 giây. Tổng
liều Diprivan dùng trong ca mổ trung bình 43,97±14,6 ml. Thời gian hồi tỉnh
trung bình 13,6±2,5 phút. Trong mổ mạch và huyết áp ổn định” [5].
Năm 2011, Hoàng Văn Bách và cộng sự nghiên cứu khởi mê bằng
propofol kiểm soát nồng độ đích có hƣớng dẫn của ENTROPY. Kết quả cho
thấy nồng độ đích não 4 µg/ml cho phép khởi mê tốt và an toàn, mức mê liên
quan chặt chẽ với ENTROPY [2]. Nhóm tác giả này cũng nghiên cứu so sánh
gây mê hô hấp bằng servofluran với gây mê tĩnh mạch bằng propofol truyền
kiểm soát nông độ đích dƣới sự điều khiển của điện não số hóa ENTROPY,
và kết luận: “Gây mê tĩnh mạch propofol_TCI có thời gian khởi mê nhanh
hơn và ít bị ho, nôn và buồn nôn hơn so với nhóm gây mê hô hấp nhƣng có
thời gian thoát mê và rút NKQ chậm hơn nhóm gây mê hô hấp” [3].
Những báo cáo so sánh giữa gây mê kiểm soát nồng độ đích và các
hình thức khác chƣa có nhiều. 1.3. THUỐC MÊ TĨNH MẠCH PROPOFOL
1.3.1. Sơ lƣợc lịch sử
Propofol là một hợp chất có mã số ICI 35868, lần đầu tiên đƣợc thử
nghiệm trên chuột vào ngày 23/5/1973 [47], [59]. Năm 1977, Brian Kay lần
đầu tiên tiêm cho ngƣời tình nguyện [59]. Đến năm 1982, thuốc đƣợc điều
chế ở dạng dung dịch mới, có ba chất hoà tan, dạng lipid thể sữa trên nền tảng
24
dầu đỗ tƣơng. Thuốc dạng sữa này đƣợc sử dụng lần đầu tiên trên ngƣời vào
tháng 7 năm 1983 bởi bác sĩ Nigel Kay ở Oxford.
Các nghiên cứu về sau cho thấy propofol là một thuốc mê tĩnh mạch có
tác dụng nhanh và tỉnh cũng nhanh, ngay cả khi dùng thuốc kéo dài [29]. Sau
này có dạng thuốc propofol lipuro 1% có tác dụng giảm đau tại chỗ tiêm [12]
hoặc đƣợc bổ xung chất EDTA có khả năng giảm nguy cơ nhiễm khuẩn [59].
1.3.2. Tính chất lý hoá
Propofol (Diprivan) là hợp chất phenol, diisopropyl 2,6 – phenol, có
cấu trúc vòng.
Công thức hoá học:
OH
(CH3)HC CH(CH3)2
Hình 1.4: Công thức hóa học của propofol
Ở nhiệt độ thƣờng, propofol là dung dịch không mầu hoặc vàng rơm.
Trọng lƣợng phân tử 178d, rất ít hoà tan trong nƣớc, nhƣng tan tốt trong mỡ
với tỉ lệ dầu/nƣớc là 40,4. Chất hoà tan là lipid dạng sữa trên nền tảng dầu đỗ
tƣơng. Diprivan đƣợc bào chế dƣới dạng nhũ dịch 1% gồm dầu đỗ tƣơng
10%, 1,2% các phosphatid trứng và 2,25% glycerol. Hỗn hợp nhũ dịch này có
dạng sữa. Propofol có pH là 6 đến 8,5 và pKa là 11.
1.3.3. Dƣợc động học
Propofol là thuốc tan trong mỡ nên thuốc phân bố nhanh từ máu vào
não và các mô ngoại vi. Trong pha phân bố đầu tiên, propofol phân phối tới
các cơ quan giàu mạch máu, sau đó tới các cơ quan ít mạch máu hơn và cuối
cùng là các mô mỡ. Propofol gắn với protein huyết tƣơng là 96% - 99% ở
25
ngƣời khoẻ mạnh. Mức độ gắn không thay đổi trong ngay cả trong trƣờng hợp
suy gan [108].
Propofol chuyển hóa rất nhanh trong máu. Tỷ lệ propofol đƣợc ghi lại
không quá 39% sau 10 phút, 14% sau 60 phút và 5% sau 6 giờ. Theo dõi propofol có gắn chất đánh dấu C14 tiêm cho ngƣời tình nguyện khoẻ mạnh,
88% thuốc đƣợc tìm thấy ở nƣớc tiểu trong khoảng 5 ngày dƣới dạng chuyển
hoá [112]. Thuốc chuyển hoá chủ yếu tại gan. Các nghiên cứu không thấy sự
thay đổi ở gan tổn thƣơng so với ngƣời bình thƣờng. Chất chuyển hoá chủ yếu
là glucuronid và sulfo kết hợp. Khoảng 90% liều sử dụng đƣợc thải trừ qua
đƣờng nƣớc tiểu dƣới dạng chuyển hoá. Chỉ có 0,3% ở dạng không chuyển
hoá và ở phân là 2%. Chuyển hoá ở mật không đáng kể.
Độ thanh thải của propofol tăng cao trên những ngƣời khoẻ mạnh.
Thuốc dễ dàng qua rau thai và tỷ lệ nồng độ giữa con và mẹ trung bình
là 0,7 (0,5 - 0,8). Mặt khác, tỷ lệ nồng độ máu động mạch và tĩnh mạch rốn
xấp xỉ 1 trong thời điểm sinh.
1.3.3.1. Liên quan giữa nồng độ thuốc và tác dụng lâm sàng
Khi tiêm liều duy nhất, nồng độ thuốc trong máu lúc tỉnh là 1,1 0,2
g/ml. Nếu truyền liên tục với tốc độ không đổi, nồng độ thuốc trong máu
tăng lên nhanh chóng rồi chậm dần, nồng độ thuốc trong máu lúc mở mắt là
0,75 g/ml đến 2,2 g/ml. Khi bệnh nhân định hƣớng đúng bản thân thì nồng
độ trong máu là 0,6 g/ml. Liều cần thiết để làm mất phản xạ mi mắt là 2,07
g/ml, gây ngủ là 3,4 g/ml ở 50% số bệnh nhân.
Trong mổ, nếu không kết hợp các thuốc dòng họ morphin thì liều cần
thiết để làm mất các phản xạ khi đặt nội khí quản là 5-7 g/ml. Khi mổ chỉnh
hình liều sử dụng thấp hơn để mổ bụng. Khi đóng bụng cần liều thấp hơn khi
rạch da. Liều này còn phụ thuộc vào thuốc tiền mê, thuốc mê phối hợp và thể
trạng bệnh nhân.
26
Nghiên cứu của Casati và cộng sự [30] cho thấy nồng độ thuốc trong
huyết tƣơng có tƣơng quan chặt chẽ với chỉ số OAS/S với hệ số tƣơng quan r =
0,76. Cụ thể là: nồng độ để giảm đáp ứng với gọi tên là 1,3 µg/ml (1,0 - 1,8
µg/ml), đáp ứng khi gọi to và nhắc lại tên là 1,7 µg/ml (1,2-2,2 µg/ml), đáp ứng
khi lay mạnh là 2,0 µg/ml (1,6 – 2,6 µg/ml), đáp ứng khi véo cơ thang là 2,4
µg/ml (1,8 – 3,0 µg/ml), không còn đáp ứng khi véo cơ thang là 2,8 µg/ml (2,0 –
3,6 µg/ml).
1.3.3.2. Các mô hình dược động học của propofol
Định lƣợng propofol trong máu bằng phƣơng pháp sắc ký lỏng [109]
các nhà khoa học đã tìm ra mối tƣơng quan biến đổi nồng độ thuốc với thời
gian. Nhờ mối tƣơng quan này ngƣời ta mới xây dựng nên các mô hình toán
học về dƣợc động học.
Gần đây, chúng ta có thể định lƣợng nhanh nồng độ propofol trong máu
toàn thể trong thời gian 5 phút nhờ một thiết bị có tên là Sphere polerus [73].
Dƣợc động học của propofol đã đƣợc mô tả theo mô hình 3 khoang và
đƣờng biểu diễn của nồng độ thuốc trong máu có thể phân tích thành 3 pha. Đã
có một số mô hình dƣợc động học của propofol đƣợc đƣa ra làm cơ sở cho ứng
dụng kỹ thuật tiêm truyền kiểm soát bằng máy tính. Đó là mô hình của các tác
giả Marsh [78], Schnider [104], của Tackley [122], Gepts [44], Shafer [109],
Kirkpatrick [66]. Mỗi mô hình có các thông số dƣợc động học khác nhau.
Sau nhiều thử nghiệm trên lâm sàng, mô hình của Marsh [78] đã đƣợc chọn để tích hợp trong thiết bị Diprifusor, bản thƣơng mại đầu tiên sử dụng
kỹ thuậtkiểm soát nồng độ đích cho thuốc mê tĩnh mạchpropofol.
Nghiên cứu sử dụng propofol theo kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích có
theo dõi độ mê BIS, Barakat A.R. và cộng sự [23] có nhận xét rằng mối quan
hệ giữa điểm an thần và BIS có tƣơng quan chặt chẽ trong mô hình của Marsh
hơn là mô hình dƣợc động học của Schnider. Nhƣng mô hình của Marsh có
nhƣợc điểm là không chính xác trên những bệnh nhân béo phì, vì mô hình này
có dựa trên thông số BMI [48].
27
Bảng 1.1. Các thông số dược động học trong mô hình của Marsh [105]
Thông số Giá trị
V1: Khoang trung tâm 0,228 L/kg
V2: Khoang thứ hai 0,463 L/kg
2,893 L/kg
0,119
0,112
0,042
0,055
0,0033
0,26 V3: Khoang thứ ba k10 (phút-1) k12 (phút-1) k13 (phút-1) k21 (phút-1) k31 (phút-1) keo (phút-1)
TTPE (phút) 4,5
Mô hình của Schnider đƣợc đƣa ra dựa trên nghiên cứu 24 ngƣời tình
nguyện đƣợc truyền propofol lần lƣợt 25, 50, 100 hoặc 200 µg/kg/phút với
thời gian trên 60 phút. Trong mô hình này, V1 có giá trị không đổi là 4,27L
cho tất cả các bệnh nhân, V2 và Cl2 tăng nếu tuổi< 53, và giảm nếu tuổi> 53.
Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa mô hình của Marsh và Schnider [14]. Cl1
liên quan tới cân nặng, chiều cao và chỉ số khối lƣợng nạc (LBM), tăng nếu
nhƣ LBM < 59 kg, và giảm nếu LBM > 59 kg.
Trong đó LBM đƣợc tính theo công thức của James:
Nam: LBM =1,1 x cân nặng – 128 x (cân nặng/ chiều cao)2 Nữ: LBM =1,07 x cân nặng – 148 x (cân nặng/ chiều cao)2
Schuttler và cộng sự cũng sử dụng một mô hình dƣợc động học ba
khoang, nhƣng trong đó tuổi và cân nặng là những yếu tố đồng biến và kết
luận rằng điều chỉnh thông số dƣợc động học tùy theo cá thể làm tăng sự
chuẩn xác cho kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích [103].
28
1.3.4. Dƣợc lực học
1.3.4.1. Tác dụng trên thần kinh trung ương
Propofol chủ yếu gây ngủ, làm mất tri giác rất nhanh và ngắn, song
song với tốc độ tiêm. Tỉnh rất nhanh và chất lƣợng tốt, 4 phút sau khi tiêm
nhắc lại, 20 phút sau khi truyền liên tục.
Sau khi tiêm tĩnh mạch 2mg/kg và tiếp theo truyền liên tục tĩnh mạch 150
µg/kg/phút, thuốc làm giảm áp lực trong sọ, giảm lƣu lƣợng máu não và áp lực
tƣới máu não. Tuy nhiên vẫn duy trì đƣợc sự điều chỉnh tự động lƣu lƣợng máu
não theo sự thay đổi của huyết áp động mạch và đáp ứng vận mạch khi thay đổi
áp lực riêng phần của CO2 trong máu động mạch (PaCO2). Propofol làm giảm áp
lực dịch não tuỷ và áp lực nội nhãn. Với liều an thần propofol có tác dụng kích
thích trên điện não, đặc biệt là sóng beta, nhƣng với liều gây mê làm tăng hoạt
động của các sóng chậm delta. Ức chế mạnh điện não xảy ra khi dùng liều cao.
Propofol hầu nhƣ không có tác dụng giảm đau. Adrian W.G. và cộng sự gây
nhồi máu não ở chuột rồi truyền propofol trong 4 giờ sau đó đã làm giảm kích
thƣớc nhồi máu não so với nhóm dùng nhũ tƣơng lipid. Tác dụng này có hiệu
quả khi propofol đƣợc truyền ngay hoặc 1 giờ sau nhồi máu [15].
1.3.4.2. Tác dụng trên hệ tim mạch
Trên ngƣời, khởi mê bằng propofol liều 2mg/kg luôn gây ra giảm huyết
áp động mạch trung bình vào khoảng 20-30% [34], [35], [83]. Việc gây giảm
huyết áp động mạch nặng khi truyền propofol là do thuốc vừa có tác dụng ức
chế co bóp cơ tim, vừa tác dụng trực tiếp trên trƣơng lực mạch máu cả động
và tĩnh mạch. Giảm huyết áp tâm thu lớn hơn huyết áp tâm trƣơng. Sự phục
hồi lại của huyết áp động mạch phụ thuộc theo từng cá thể và theo tuổi. Dƣới
60 tuổi, huyết áp động mạch giảm dƣới 20 mmHg trong 58% số trƣờng hợp
và trên 40 mmHg trong 4%. Trên 60 tuổi giảm 20 mmHg trong 20% và 40
mmHg với 39% tổng số ca bệnh. Do vậy, sau 60 tuổi phải giảm liều thuốc.
Propofol gây giảm huyết áp khi khởi mê nhƣng không xatr ra khi tiêm nhắc lại.
29
Hug CC và cộng sự [53] nghiên cứu trên 25 000 bệnh nhân cho thấy 15,7%
huyết áp giảm dƣới 90 mmHg, 77% xảy ra 10 phút sau khởi mê.
Nhịp tim có xu thế giảm khi sử dụng propofol mặc dù thuốc không làm
thay đổi tính nhạy cảm của các ổ cảm thụ với phản xạ áp lực, vẫn gây ra một
sự điều chỉnh lại phản xạ áp lực dẫn đến giảm nhịp tim so với tần số tƣơng
ứng với mức huyết áp động mạch ở ngƣời tỉnh. Đôi khi gây ra nhịp chậm
xoang trên ngƣời lớn tuổi. Cũng theo Hug CC. và cộng sự, nhịp tim < 50
lần/phút xuất hiện khoảng 4,8% trong vòng 10 phút sau khởi mê. Thuốc gây
ức chế cơ tim vừa phải. Giảm sức cản thành mạch ngoại vi, thƣờng giảm từ 6
đến 20%. Giảm vừa phải lƣu lƣợng tim, giảm lƣu lƣợng mạch vành và tiêu
thụ oxy cơ tim giảm. Không có bằng chứng về thiếu máu cục bộ cơ tim trong
mổ đƣợc chỉ ra trên điện tâm đồ và catheter động mạch phổi [67], [94], [126].
Propofol ít làm ảnh hƣởng tới huyết động trong thủ thuật đặt ống nội khí
quản cũng nhƣ sự nhạy cảm của bệnh mạch vành. Propofol cũng làm giảm đáp
ứng tăng huyết áp trong các trƣờng hợp đặt nội khí quản, mask thanh quản, nội
soi phế quản, nếu có phối hợp với nhóm opioid thì có tác dụng tốt hơn. Trên
thực tế, tác dụng giãn mạch và hậu quả của nó sẽ rõ rệt ở ngƣời thiếu khối lƣợng
tuần hoàn, ngƣời già, ngƣời suy thận hoặc suy chức năng thất trái, cho nên phải
tránh sử dụng thuốc trên bệnh nhân thiếu thể tích tuần hoàn.
Trong nghiên cứu thực nghiệm gây mô hình nhồi máu cơ tim trên chó,
Murry và cộng sự chỉ ra rằng propofol có tác dụng làm giảm diện tích nhồi
máu, giảm rối loạn chức năng cơ tim sau nhồi máu, giảm rối loạn nhịp tim
[86]. Propofol làm tăng khả năng chịu đựng nhồi máu cơ tim ở chuột có số
năm tuổi trung bình chủ yếu bằng cách ức chế peroxyt hóa lipid đồng thời có
tác dụng bảo vệ tim chuột khi bị gây thiếu máu-tái tƣới máu [135]. Sử dụng
propofol trong quá trình chạy tim phổi nhân tạo cũng đã đƣợc chứng minh là
có tác dụng bảo vệ cơ tim khỏi tổn thƣơng thiếu máu trên mô hình thực
nghiệm. Vì vậy, propofol có thể là một biện pháp hỗ trợ hữu ích cho các
phƣơng thức làm ngừng tim cũng nhƣ trở thành thuốc gây mê thích hợp cho
phẫu thuật tim [71].
30
1.3.4.3. Tác dụng trên hô hấp
Propofol gây ức chế hô hấp, làm giảm tần số thở và thể tích khí lƣu
thông [95]. Ngừng thở xảy ra trung bình trong 50% số trƣờng hợp (tỷ lệ dao
động 25% đến 100%). Thời gian ngừng thở trên 30 giây sau khởi mê đƣợc ghi
nhận từ 13% đến 83% số bệnh nhân [49], [50], [90]. Ngừng thở thƣờng gặp
hơn khi khởi mê có kết hợp với thuốc họ morphin và suy thở cũng kéo dài
hơn. Ngừng thở do propofol gặp nhiều hơn so với một số thuốc mê toàn thân
khác (methohexital, thiopental).
So sánh với thiopental liều 4mg/kg, propofol liều 2,5 mg/kg gây ức chế
hô hấp kéo dài hơn và có thể còn dai dẳng ngay cả khi có vẻ đã hồi tỉnh hoàn
toàn. Trong một nghiên cứu cho thấy: propofol ngừng thở trên 45 giây trong
40% trƣờng hợp. Ngƣợc lại, với thiopental là 15%. Propofol còn làm giảm Vt
kéo dài.
Thuốc không có tác dụng trên trƣơng lực phế quản và không làm co
thắt phế quản do ít giải phóng histamin, đồng thời làm giảm tính kích thích
của thanh quản. Việc đặt mask thanh quản cũng dễ dàng hơn. Propofol cho
phép đặt ống nội khí quản mà không cần thuốc giãn cơ.
Propofol không làm ảnh hƣởng tới phản xạ co mạch máu phổi do thiếu
oxy nhƣng làm giảm trƣơng lực mạch máu phổi và mạch máu chung của cơ
thể. Propofol làm giảm tổn thƣơng phổi cấp trong nhiễm nội độc tố trong máu
[136] và làm giảm tổn thƣơng tế bào nội mô, giảm tách enzyme chuyển
angiotensin khỏi màng bào tƣơng và giảm phù phổi [128].
1.3.4.4. Các tác dụng khác
- Có thể gây đau chỗ tiêm, đặc biệt khi tiêm nhanh và vào các tĩnh
mạch nhỏ. Khi tiêm fentanyl trƣớc, cảm giác đau giảm đi 2 đến 3 lần. Phối
hợp với xylocain 0,1 mg/kg, làm giảm đáng kể tỷ lệ đau nơi tiêm. Hiện nay đã
có sản phẩm propofol lipuro 1% có tác dụng hạn chế đau tại chỗ tiêm.
31
- Tác dụng giải phóng histamin rất yếu.
- Propofol không độc đối với gan, không gây tăng ure và creatinin máu,
không gây ra rối loạn đông máu hoặc rối loạn tiêu sợi huyết.
- Giảm tổng hợp cortisol không đáng kể, kém thiopental, đặc biệt kém
hơn hẳn etomidat.
- Theo Inada và cộng sự [56] propofol làm giảm những đáp ứng miễn
dịch có hại do stress phẫu thuật tốt hơn isoflurane, có thể thích hợp hơn ở
những bệnh nhân có bất thƣờng tế bào lympho.
- Propfol không gây sốt cao ác tính.
- Propofol không làm thay đổi lƣu thông ruột, làm giảm tổn thƣơng
niêm mạc ruột trong thử nghiệm nhồi máu ruột-tái tƣới máu ở chuột [65].
Theo Sebel và cộng sự thuốc có tác dụng chống nôn và buồn nôn. Rất hiếm
gặp các biến chứng nhƣ nấc, tăng trƣơng lực cơ và run rẩy [106]. Propofol ít
gây run sau mổ hơn so với thiopental [32].
Năm 2006, Corbett và cộng sự báo cáo về hội chứng PRIS (propofol
infusion syndrome). Đây là một phản ứng có hại của thuốc liên quan tới dùng
propofol liều cao (> 4 mg/kg/h hoặc > 67 μg/kg/phút) và kéo dài trên 48 giờ.
Hội chứng gồm có: rối loạn chuyển hóa acid nặng, tiêu cơ vân, tăng kali máu,
tăng lipid máu, suy thận, gan to, và trụy tim mạch... Vấn đề này đang đƣợc
nghiên cứu thêm [37].
1.3.5. Sử dụng lâm sàng
Propofol đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều phẫu thuật khác nhau: phẫu
thuật thần kinh, sản khoa, tim mạch, tiêu hóa, tiết niệu và gây mê ngoại trú...
1.3.5.1. Chỉ định
1, Gây mê cho bệnh nhân ngoại trú.
2, Khởi mê và duy trì mê trong các phẫu thuật.
32
3, An thần trong gây tê vùng: tê tuỷ sống, tê ngoài màng cứng, tê tại
chỗ, đám rối thần kinh... (chú ý cần phải giảm liều).
4, An thần trong hồi sức.
1.3.5.2. Chống chỉ định
Tuyệt đối:
- Thiếu phƣơng tiện hồi sức
Tương đối:
- Động kinh chƣa ổn định.
- Phụ nữ có thai, trẻ em dƣới 3 tuổi.
- Thận trọng với những bệnh nhân có rối loạn lipid vì propofol là dung
dịch lipid tự nhiên.
1.3.5.3. Liều lượng
Sau tiêm tĩnh mạch: thời gian chờ tác dụng 30-40 giây, thời gian tác
dụng 5-10 phút.
Gây mê:
Liều khởi mê:
Ngƣời lớn: 2 – 2,5 mg/kg tĩnh mạch (trong 30 giây).
Trẻ em: 2,5 – 3 mg/kg tĩnh mạch (trong 20 - 30 giây)
Liều duy trì:
Sau khởi mê, thông thƣờng propofol đƣợc truyền liên tục bằng bơm
tiêm điện để duy trì mê. Ngƣời lớn: liều 4 - 12 giờ mg/kg/giờ. Trẻ em: 9 - 15
mg/kg/giờ, và giảm dần theo thời gian. Nếu không có bơm tiêm điện có thể
tiêm từng liều 25-50mg nhắc lại mỗi khi cần, nhƣng cách cho thuốc nhƣ vậy
khó đảm bảo sự ổn định trong mổ và không đƣợc khuyến cáo sử dụng thƣờng
quy. Cần giảm liều với những BN ≥ 55 tuổi.
Một số công thức truyền liều chỉnh tay cho propofol đã đƣợc áp dụng
nhƣ sau:
33
- Sau liều khởi mê, duy trì tốc độ 100-200μg/kg/phút theo yêu cầu và
đáp ứng với các kích thích trong phẫu thuật [98].
- Gill và cộng sự [100] truyền tốc độ 600 ml/h để khởi mê, sau đó duy
trì truyền liên tục tốc độ không đổi 6 mg/kg/h hoặc truyền theo kiểu bậc thang
10 mg/kg/h trong 10 phút, 8 mg/kg/h trong 10 phút tiếp theo, sau đó là 6
mg/kg/h. Trong quá trình duy trì mê có thể bổ xung mỗi lần 20 mg propofol
để đạt độ mê cần thiết.
Với kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích khuyến cáo nhƣ sau [19]:
Bệnh nhân < 55 tuổi, ASA I-II, nồng độ đích khởi mê 4-8 µg/ml. Nếu
đƣợc tiền mê: 4µg/ml, không tiền mê: 6µg/ml. Thời gian khởi mê từ 60 -120
giây. Liều thấp hơn ở những bệnh nhân > 55 tuổi và tình trạng ASA III-IV.
An thần hoàn toàn
100 - 200 g/kg/phút
An thần trong hồi sức
1 - 2 mg/kg/giờ, bơm tiêm điện
Cần giảm liều trong các bệnh nhân có suy gan, suy thận và cao tuổi.
Thận trọng trên những bệnh nhân suy thở, suy tim và những bệnh nhân thiếu
thể tích tuần hoàn. Giảm liều khi phối hợp với các thuốc họ morphin.
GÂY MÊ TRONG PHẪU THUẬT BỤNG
1.4.
1.4.1. Tiền mê
Tiền mê trong phẫu thuật bụng có ý nghĩa rất lớn, giúp cho bệnh nhân
đỡ lo lắng, hồi hộp trƣớc phẫu thuật, giảm tiết dịch vị, giảm các phản xạ bất
lợi và giảm bớt tác dụng phụ của thuốc gây mê.
Lựa chọn thuốc tiền mê: không nên dùng morphin vì giảm nhu động
ruột, tăng áp lực ổ bụng, gây nôn và co thắt cơ trơn thanh, khí phế quản.
Các thuốc hủy phó giao cảm nhƣ atropine, scopolamin đóng vai trò
quan trọng. Đề phòng nôn có thể dùng chlopromazin, phenergan, primperan.
34
1.4.2. Khởi mê
Khởi mê bằng một thuốc ngủ có tác dụng nhanh với thuốc giãn cơ khử
cực hay không khử cực. Đặt NKQ hay mask thanh quản để bảo đảm đƣờng
thở và duy trì thông khí điều khiển. Nếu mổ kéo dài cần theo dõi liên tục các
khí trong máu và đo EtCO2.
1.4.3. Duy trì mê
- Duy trì mê bằng các thuốc mê tĩnh mạch hoặc hô hấp tùy điều kiện.
Không nên dùng N2O nồng độ cao khi mổ tắc ruột cao vì nó làm căng và
trƣớng khí trong lòng ruột (nên dùng nồng độ < 60%).
- Giảm đau tốt, ức chế các phản xạ thần kinh thực vật để tránh các biến
đổi về tuần hoàn, hô hấp, nhất là các phản xạ phó giao cảm. Cắt phản xạ thần
kinh phế vị (dây X): Dùng atropine, giảm bài tiết dịch tiêu hoá.
- Bảo đảm giãn cơ tốt để thăm dò, bộc lộ các tạng, nhất là các tạng ở
sâu nhƣ mặt trên gan, lách, thực quản, tuyến tiền liệt. Điều chỉnh độ giãn cơ
căn cứ vào mornitor TOF là tốt nhất.
- Tránh trào ngƣợc dịch dạ dày: Trƣờng hợp mổ theo chƣơng trình, dặn
bệnh nhân nhịn ăn uống đủ thời gian, đặt sonde dạ dày hút dịch, dùng các
thuốc ức chế tiết acid làm tăng độ pH của dịch dạ dày. Khi mổ cấp cứu cần
lựa chọn kỹ thuật đặt NKQ với dạ dày đầy…
- Điều chỉnh nƣớc - điện giải: Bù lại lƣợng nƣớc mất do bốc hơi, chảy
dịch tiêu hoá, tắc ruột… Bổ xung điện giải theo nhu cầu hàng ngày và điều
chỉnh theo kết quả xét nghiệm.
- Ƣớc lƣợng, bù máu mất: Rất khó ƣớc lƣợng máu mất một cách chính
xác. Dự trù máu nếu cần thiết. Áp dụng kỹ thuật truyền máu tự thân có
chƣơng trình hoặc pha loãng máu đẳng thể tích nếu thấy cần thiết.
- Tránh co thắt các cơ trơn đƣờng tiêu hoá, tiết niệu: Cắt các phản xạ
bằng thuốc tiền mê, sử dụng thuốc hợp lý, mê đủ sâu, giãn cơ đầy đủ.
35
- Chống nhiễm khuẩn: Dự phòng kháng sinh, điều trị nhiễm khuẩn đặc
hiệu theo kháng sinh đồ.
- Cắt phản xạ thần kinh phế vị (dây X): dùng atropin, giảm tiết dịch tiêu
hóa.
- Chống mất nhiệt, đặc biệt mùa rét. Mất nhiệt là do mổ lâu, bộc lộ
bụng rộng trong điều kiện nhiệt độ phòng, truyền nhiều máu, dịch. Để chống
mất nhiệt cần sƣởi ấm máu, dịch trƣớc truyền, ủ ấm hoặc sƣởi cho bệnh nhân.
- Tƣ thế đặc biệt: Các chỗ tỳ đè dễ gây thiếu máu, tổn thƣơng thần
kinh. Ví dụ, khi nằm nghiêng dễ gây tổn thƣơng đám rối thần kinh cánh tay,
cần cố định và đặt đệm chống tì đè.
36
Chƣơng 2
2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đƣợc tiến hành trên bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật mở
vùng bụng theo kế hoạch, đƣợc gây mê bằng thuốc mê tĩnh mạch propofol kết
hợp với các thuốc giảm đau, giãn cơ, có đặt nội khí quản và thông khí nhân
tạo tại Bệnh viện 354, từ tháng 10 năm 2007 đến tháng 10 năm 2011.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Các BN đƣợc phẫu thuật mổ mở vùng bụng gồm: cắt đoạn dạ dày, cắt
đại tràng, sỏi đƣờng mật trong và ngoài gan.
- Tuổi từ 16 - 65.
- Sức khoẻ trƣớc mổ xếp loại ASA I – II, theo tiêu chuẩn Hội Gây mê
Hoa Kỳ (American Society of Anesthesiologists).
- BN hoặc ngƣời thân ký bản cam kết hoàn toàn tự nguyện tham gia
nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Tình trạng trƣớc mổ ASA III trở lên.
- Phẫu thuật nội soi ổ bụng.
- Các BN có bệnh tim mạch nhƣ tim bẩm sinh, bệnh van tim. Các bệnh
mạch vành có biểu hiện thiếu máu cơ tim trên lâm sàng và điện tâm đồ. Các
bệnh rối loạn dẫn truyền thần kinh tim nhƣ block nhĩ thất, suy nút xoang,
ngoại tâm thu thất, ngoại tâm thu nhĩ v.v.
- Các BN mắc các bệnh hô hấp cấp tính hay mạn tính gây ảnh hƣởng
đến chức năng hô hấp nhƣ hen phế quản, viêm phế quản mạn, giãn phế quản,
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), tâm phế mạn...
37
- Các BN tăng huyết áp có mức huyết áp tâm thu > 160 mmHg và chƣa
đƣợc điều trị nội khoa hệ thống.
- Các BN có tăng áp lực nội sọ, tăng nhãn áp.
- Tiền sử dị ứng với propofol.
- Tiền sử bệnh tâm thần hay nghiện rƣợu.
- Dƣ cân và béo phì (chỉ số khối BMI > 25).
2.1.3. Tiêu chuẩn đƣa ra khỏi nghiên cứu
- Các BN đặt NKQ khó.
- Các BN trong mổ có chảy máu nhiều gây thay đổi huyết động mạnh,
phải truyền ≥ 250 ml máu hoặc các sản phẩm từ máu.
- Các BN có biến chứng do gây mê hoặc phẫu thuật và diễn biến nặng
trong mổ, cần phải hồi sức tích cực sau mổ.
- Thời gian mổ < 60 phút.
- Bệnh nhân hoặc ngƣời thân của họ xin rút ra khỏi nghiên cứu.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng, có đối chứng.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
- Cỡ mẫu nghiên cứu đƣợc tính theo công thức:
n =
p(1-p) d2 Trong đó:
n: Số đối tƣợng cần nghiên cứu
p: Kết quả của nghiên cứu trƣớc.
d: Sai số tuyệt đối, ƣớc tính là 10%.
Z1- /2 = 1,96 (tra bảng tính sẵn với độ tin cậy 95%)
38
Nghiên cứu của Tzaba [124] khi khởi mê kiểm soát nồng độ đích với
liều propofol đầu tiên 4 µg/ml có kết hợp tiền mê bằng midazolam tỷ lệ đặt
NKQ tốt là 87%, nên chọn p = 0,87.
0,87(1-0,87) n = 1,962 = 44 = 44 0,12
Thay các giá trị vào ta có:
Nhƣ vậy, mỗi nhóm nghiên cứu cần có tối thiểu 44 BN.
Các BN đƣợc chia thành hai nhóm:
- Nhóm 1: sử dụng propofol có kiểm soát nồng độ đích (n = 65).
- Nhóm 2: sử dụng propofol không kiểm soát nồng độ đích (n = 65).
2.2.3. Các tiêu chí nghiên cứu
2.2.3.1. Đặc điểm bệnh nhân và phẫu thuật
- Tuổi, giới, chiều cao và cân nặng, BMI.
- Tỷ lệ các loại phẫu thuật.
- Thời gian phẫu thuật, thời gian mê.
- Thuốc dùng phối hợp, lƣợng dịch truyền trong mổ.
2.2.3.2. So sánh hiệu quả gây mê giữa hai phương pháp (Mục tiêu 1)
Xác định và so sánh các chỉ tiêu về thời gian:
- Thời gian mất ý thức
- Thời gian đủ điều kiện đặt NKQ
- Thời gian tỉnh
- Thời gian đủ điều kiện rút NKQ
- Thời gian lƣu hồi tỉnh
- Thời gian tỉnh ƣớc tính trên máy của nhóm kiểm soát nồng độ đích
39
Xác định và so sánh lượng propofol tiêu thụ của hai nhóm
- Tổng liều propofol khởi mê (đơn vị tính: mg)
- Liều khởi mê trung bình (đơn vị tính: mg/kg)
- Tổng lƣợng propofol tiêu thụ (tính bằng mg)
- Lƣợng propofol sử dụng trung bình (đơn vị tính: mg/kg/h).
Đánh giá khả năng duy trì mê của hai nhóm
- Điểm PRST tại một số thời điểm nghiên cứu.
- Tần suất xuất hiện dấu hiệu tỉnh trong mổ (PRST ≥ 3).
- Tần suất điều chỉnh tăng hoặc giảm độ mê (Đơn vị tính lần/giờ) dựa
vào mức mê của Ausems và cộng sự.
Các tác dụng không mong muốn
- Gồm có buồn nôn, nôn, rét run, ảo giác...
Đánh giá nhớ, biết trong mổ
- Dựa vào hỏi cảm giác chủ quan của bệnh nhân sau gây mê: có nhớ,
biết hay ngủ mơ trong mổ hay không?
2.2.3.3. So sánh sự thay đổi huyết động và hô hấp (mục tiêu 2)
Ảnh hưởng huyết động:
- Đánh giá và so sánh sự thay đổi nhịp tim, HATB tại một số thời điểm
nghiên cứu.
- So sánh số BN có giảm HATB, nhịp chậm sau khởi mê giữa hai
nhóm.
- So sánh mức thay đổi HATB nhiều nhất đƣợc ghi nhận trong quá
trình mê, gồm cả tăng nhiều nhất, giảm nhiều nhất tính theo phần trăm so với
HATB nền.
Ảnh hưởng hô hấp:
- So sánh tỷ lệ BN ho, co thắt thanh quản, thay đổi SpO2.
40
Các số liệu trong nghiên cứu đƣợc lấy tại một số thời điểm nhƣ sau:
+ T0: Trƣớc khởi mê
+ T1: Trƣớc đặt NKQ
+ T2: Sau đặt NKQ 2 phút.
+ T3: Trƣớc rạch da
+ T4: Sau rạch da
+ T5: Trƣớc đóng da
+ T6: Khi BN tỉnh, hồi phục phản xạ mi mắt.
+ T7: Trƣớc rút NKQ
+ T8: Sau rút NKQ 2 phút
2.2.3.4. Xác định nồng độ đích (Ce – effect-site concentration) của propofol
(mục tiêu 3)
Xác định nồng độ đích của propofol ở các bệnh nhân của nhóm 1:
- Khi BN mất ý thức
- Khi đủ điều kiện đặt NKQ
- Khi mở mắt và định hƣớng đúng (nhớ chính xác tuổi, nơi ở)
- Nồng độ đích duy trì mê cao nhất và thấp nhất.
2.2.4. Các định nghĩa, tiêu chuẩn áp dụng trong nghiên cứu
2.2.4.1. Định nghĩa
- Thời gian mất ý thức: tính từ khi bắt đầu truyền propofol tới khi BN
mất ý thức đƣợc xác định bằng mất tiếp xúc với lời nói (đơn vị tính: giây)
- Thời gian đủ điều kiện đặt NKQ: tính từ khi tiêm thuốc tới khi đủ các
điều kiện đặt NKQ (đơn vị tính: giây).
- Thời gian tỉnh: tính từ khi dừng thuốc mê propofol tới khi BN có thể
mở mắt theo lệnh (đơn vị tính: phút).
41
- Thời gian rút NKQ: tính từ khi dừng thuốc tới khi đủ điều kiện rút
NKQ (đơn vị tính: phút)
- Thời gian lƣu hồi tỉnh: tính từ khi rút NKQ cho tới khi đạt từ 10/14
điểm theo thang điểm Aldrete sửa đổi (đơn vị tính: phút)
- Nhịp tim chậm: Gọi là nhịp tim chậm nếu giảm 20% so với nhịp cơ
bản trƣớc mổ của BN. Trong trƣờng hợp nhịp tim < 50 nhịp/phút tại bất cứ
thời điểm nào sẽ đƣợc điều chỉnh tăng bằng atropin 0,25 mg tiêm tĩnh mạch
chậm. Tiêm nhắc lại sau 2 phút nếu chƣa đạt hiệu quả mong muốn.
- Giảm HATB: Gọi là giảm HATB khi giảm > 20% so với HATB nền
của BN. Nếu HATB giảm > 30% thì sử dụng ephedrin với liều 5mg/lần, tiêm
tĩnh mạch chậm để nâng huyết áp. Tiêm nhắc lại sau 2 phút nếu chƣa đạt hiệu
quả mong muốn.
- Cách tính mức tăng hoặc giảm HATB lớn nhất nhƣ sau:
–
(đơn vị tính: %)
x 100% ΔHATB tăng =
x 100% Δ HATB giảm =
- Tƣơng tự nhƣ vậy, chúng tôi so sánh mức thay đổi nhịp tim nhiều
nhất đƣợc ghi nhận trong quá trình mê, gồm cả tăng nhiều nhất, giảm nhiều
nhất tính theo phần trăm so với nhịp cơ bản trƣớc mê.
Cách tính nhƣ sau:
(đơn vị tính: %)
x 100% Δ Nhịp tim tăng =
x 100% Δ Nhịp tim giảm =
42
2.2.4.2. Các tiêu chuẩn áp dụng trong nghiên cứu
Tiêu chuẩn phân loại sức khỏe:
Theo phân loại của Hiệp hội các nhà gây mê Mỹ (American Society of
Anesthesiologists):
ASA 1: Bệnh nhân khỏe mạnh bình thƣờng.
ASA 2: Bệnh nhân có bệnh toàn thân nhẹ.
ASA 3: Bệnh nhân có bệnh toàn thân nặng.
ASA 4: Bệnh nhân có bệnh toàn thân nặng đe dọa tính mạng.
ASA 5: Bệnh nhân trong tình trạng nguy kịch sẽ tử vong nếu không
phẫu thuật.
ASA 6: Bệnh nhân mất não mà các cơ quan đƣợc lấy với mục đích
hiến, tặng.
Đánh giá mức độ an thần:
Theo thang điểm OAA/S sửa đổi (Modified Observer‟s Assessment of
Alertness/Sedation Scale- MOAA/S) [22]
Bảng 2.1. Thang điểm OAA/S sửa đổi
Điểm Sự đáp ứng
Đáp ứng dễ dàng khi gọi tên với giọng bình thƣờng 5
Đáp ứng thờ ơ khi gọi tên với giọng bình thƣờng 4
Chỉ đáp ứng khi tên đƣợc gọi to hoặc nhắc lại 3
Chỉ đáp ứng sau khi vỗ hoặc lay gọi 2
Chỉ đáp ứng với đau sau khi véo cơ bậc thang 1
Không đáp ứng khi véo cơ thang 0
43
Đánh giá độ mê theo Ausems và cộng sự [21]:
Bảng 2.2. Mức độ mê trên lâm sàng theo Ausems
Mê chƣa đủ sâu Mê quá sâu
- HATB tăng hơn 15 mmHg so với mức cơ bản. - HATB < 60 mmHg.
- Nhịp tim > 90 nhịp/phút mà không có thiếu - Nhịp tim < 50 lần/phút
thể tích tuần hoàn.
- Chảy mồ hôi hoặc nƣớc mắt.
- Cử động hoặc nuốt.
Tiêu chuẩn tỉnh trong mổ lâm sàng:
Dựa vào bảng điểm PRST (Blood pressure, Heart rate, Sweating,
Tears) của Evans [61].
Bảng 2.3. Bảng dấu hiệu lâm sàng PRST
Dấu hiệu lâm sàng Tình trạng Điểm
< HA nền + 15 0 HAĐMTB (mmHg) < HA nền + 30 1 (Blood pressure) > HA nền + 30 2
< Nhịp cơ sở + 15 0 Nhịp tim (Lần/phút) < Nhịp cơ sở + 30 1 (Heart Rate) > Nhịp cơ sở + 30 2
Không có 0 Mồ hôi Da ẩm 1 (Sweating) Nhìn thấy giọt mồ hôi 2
Không có khi mở mắt 0 Nƣớc mắt Nhiều nƣớc mắt khi mở 1 (Tears) Nƣớc mắt chảy khi nhắm 2
Đánh giá điểm PRTS cứ 5 phút/lần. Khi PRST ≥ 3 đƣợc coi là tỉnh.
44
Tiêu chuẩn rời phòng hồi tỉnh
Dựa vào thang điểm Aldrete sửa đổi [132]
Bảng 2.4. Thang điểm Aldrete sửa đổi
Dấu hiệu Mức độ Điểm
Cả 4 chi 2 Cử động Chỉ 2 chi 1 (Tự làm theo lệnh) Không cử động 0
Thở sâu, có thể ho khạc 2
Hô hấp Thở nông, khó thở 1
Ngừng thở 0
20 mmHg 2 Huyết áp động mạch
20 - 50mmHg 1 (So sánh chênh lệch với
0 trƣớc mổ) 50mmHg
Tỉnh 2
Ý thức Tỉnh khi gọi 1
Không đáp ứng 0
>90% khi thở không khí phòng 2
Tình trạng về bão hoà oxy Cần phải thở oxy qua mũi 1
<90% mặc dù có oxy qua mũi 0
Không đau, hoặc đau nhẹ. 2
Đau sau mổ Đau ở mức độ trung bình. 1
Đau nhiều dai dẳng 0
Không nôn, không buồn nôn 2 Mức độ nôn và buồn nôn Nôn thoáng qua hoặc nôn khan 1 sau mổ Nôn và buồn nôn dai dẳng. 0
Điều kiện để chuyển bệnh nhân khỏi hồi tỉnh là đạt từ 10-14 điểm.
45
Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS:
Sử dụng thang đo độ đau Visual Analogue Scale (VAS) [26] để đánh giá
mức độ đau sau mổ. Tổng số điểm 10, nếu kết quả trên thƣớc VAS cho biết:
+ < 3 điểm : Không đau.
+ 3 - 7 điểm : Đau mức độ trung bình.
+ > 7 điểm : Đau nhiều.
Đánh giá nhớ, biết trong mổ
Bằng một số câu hỏi của Abouleish và Taylor (Sửa đổi các câu hỏi của
Brice và cộng sự) [13], [28].
1, Ông (bà) nhớ điều gì trong mổ không?
2, Ông (bà) có ngủ mơ trong mổ không?
2.2.5. Phƣơng tiện nghiên cứu
- Hệ thống TCI-I ( Hãng Veryak, Trung Quốc): có khả năng giúp gây
mê kiểm soát nồng độ đích với propofol, sử dụng phần mềm điều khiển với
mô hình dƣợc động học của Marsh. Hệ thống này có thể sử dụng với các bơm
tiêm dung tích khác nhau, không có chíp nhận dạng nguồn gốc và nồng độ
thuốc. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng loại bơm tiêm dung tích
20ml, phù hợp với dạng trình bày thông dụng của thuốc propofol sẵn có trên
thị trƣờng Việt Nam. Nối máy với nguồn điện hoặc sử dụng pin sạc kèm theo
máy.
- Bơm tiêm điện Terumo, kiểu TE-331 (Nhật Bản). Sử dụng nguồn điện
ngoài hoặc pin sạc kèm theo máy. Sử dụng bơm tiêm chứa thuốc cùng loại
với hệ thống TCI-I nhƣ trên.
- Máy gây mê Fabius GS (Hãng Drager - Đức) (Ảnh 2.3): có sử dụng
sodalime để hấp thu CO2, thay soda mới nếu trên 2/3 số lƣợng đã đổi màu.
Nối máy với nguồn điện xoay chiều 220V, nguồn oxy và khí nén. Bật máy để
chạy chƣơng trình tự kiểm tra, sau đó hiệu chuẩn cảm biến dòng (flow sensor)
46
và cảm biến oxy (oxygen sensor), kiểm tra độ rò rỉ (leak test), nếu <
150ml/phút là đạt yêu cầu.
- Máy đo độ giãn cơ TOF-GUARD (Ảnh 2.4). Kiểm tra nguồn điện,
các điện cực.
- Máy theo dõi bệnh nhân Life Scope I cho phép đo các thông số: nhịp
tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu, huyết áp trung bình, nhiệt độ, SpO2,
PEtCO2 (Ảnh 2.5).
- Ống nội khí quản các cỡ, đèn soi thanh quản, mask, ambu…
- Thang điểm nhìn (visual anlogue scale) gọi tắt là thƣớc VAS.
- Thuốc chủ yếu:
Propofol (Diprivan) 1%, ống 20 ml – 200mg (AstraZeneca)
Fentanyl 0,5 mg, ống 10 ml (Ba Lan)
Esmeron 50mg, ống 5 ml (Organon - MDS)
Midazolam 5mg, ống 1ml.
Và các thuốc hồi sức, dịch truyền cần thiết khác.
47
Ảnh 2.1: Hệ thống TCI-I.
(Ảnh chụp tại Bệnh viện 354, tháng 1 năm 2010)
Ảnh 2.2. Bơm tiêm điện Terumo TE – 331
(Ảnh chụp tại Bệnh viện 354, tháng 1 năm 2010)
48
Ảnh 2.3: Máy gây mê Fabius GS
(Ảnh chụp tại Bệnh viện 354, tháng 1 năm 2010)
49
Ảnh 2.4: Máy đo độ giãn cơ TOF - GUARD
(Ảnh chụp tại Bệnh viện 354, tháng 1 năm 2010)
Ảnh 2.5: Máy theo dõi Life scope I
(Ảnh chụp tại Bệnh viện 354, tháng 1 năm 2010)
50
2.2.6. Quy trình nghiên cứu
2.2.6.1. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ
- Khám những BN có chỉ định mổ vùng bụng theo kế hoạch vào ngày
trƣớc mổ: đo chiều cao, cân nặng, đánh giá tình trạng chung của BN.
- Kiểm tra kết quả các xét nghiệm máu, chức năng tim mạch, chức năng
gan, chức năng thận.
- Giải thích kỹ cho bệnh nhân, ngƣời thân về phƣơng pháp gây mê.
Bệnh nhân hoặc ngƣời thân ký giấy tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Hƣớng dẫn BN sử dụng thang đo độ đau và các câu hỏi sẽ đƣợc
phỏng vấn sau mổ.
- Loại những BN không đủ tiêu chuẩn nghiên cứu.
- Dùng thuốc an thần vào buổi tối cho những BN quá lo lắng:
Seduxen 5 mg x 1 viên, uống lúc 21 giờ.
2.2.6.2. Chuẩn bị bệnh nhân tại phòng mổ
- Lập một đƣờng truyền tĩnh mạch ngoại vi bằng kim luồn cỡ 18G -
20G, truyền tĩnh mạch bằng dung dịch ringer lactat với liều từ 8 đến 10
ml/kg/giờ x số giờ nhịn trƣớc mổ.
- Lập một đƣờng truyền khác dành riêng cho propofol, khác bên hoặc
xa với đƣờng truyền thứ nhất sao cho khoảng chết tối thiểu để hạn chế ảnh
hƣởng tới sự phân bố của thuốc [134].
- Lắp đặt monitor để theo dõi các thông số điện tim (ECG), độ bão hòa
oxy máu ngoại vi (SpO2), áp lực CO2 cuối thì thở ra (PetCO2), huyết áp tâm
thu, tâm trƣơng và huyết áp trung bình (HATB). Cài đặt chế độ đo huyết áp tự
động 5 phút/lần.
- Lắp đặt mornitor TOF-GUARD theo dõi độ giãn cơ của cơ khép ngón
tay cái.
- Cho BN thở oxy 2-3 lít/phút qua mask.
51
2.2.6.3. Trình tự tiến hành
Tiền mê:
Midazolam 0,05 mg/kg
Fentanyl 2μg/kg
(Tiêm tĩnh mạch chậm, nhƣ nhau ở cả hai nhóm)
Khởi mê:
Nhóm 1:
+ Khởi động và chọn chế độ kiểm soát nồng độ đích là não (effect-site
TCI) trên hệ thống TCI-I. Bác sĩ hoặc kỹ thuật viên gây mê nhập các dữ liệu
chiều cao (cm), cân nặng (kg), tuổi (năm) của BN và chọn cài đặt nồng độ
propofol đích não (Ce) ban đầu là 4 g/ml. Ngƣỡng thức tỉnh đƣợc đặt ở mức
1,00 g/ml. Xác nhận các thông số để máy tự tính toán và bắt đầu truyền
propofol. Kiểm tra phản xạ mi mắt của BN liên tục để xác định thời điểm mất
phản xạ mi mắt và ghi lại nồng độ đích não hiển thị trên thiết bị TCI tại thời
điểm này. Tiếp tục truyền cho tới khi điểm an thần sửa đổi MOAAS = 0 thì
kết thúc quá trình khởi mê và điều chỉnh hệ thống TCI duy trì nồng độ đích ở
mức vừa xác định. Trƣờng hợp nếu Ce đã đạt mức 4 g/ml mà điểm MOAAS
vẫn còn ≥ 1 thì tăng nồng độ đích từng mức 0,5 g/ml mỗi 2 phút cho đến
khi đạt yêu cầu.
Điểm MOAAS = 0 đƣợc xác định khi BN không còn đáp ứng với test
véo cơ thang. Test véo cơ thang đƣợc tiến hành nhƣ sau: véo cả chiều dày của
cơ thang và giữ trong thời gian từ 1 đến 2 giây. Không đáp ứng khi véo cơ
thang đƣợc định nghĩa là không có đáp ứng cử động của ngón chân hoặc cử
động của cơ thể [102].
+ Khi bệnh nhân mất phản xạ mi mắt, bắt đầu tiêm giãn cơ esmeron với
liều 0,6 mg/kg, úp mask bóp bóng với oxy 100%. Theo dõi chỉ số TOF.
52
Trƣờng hợp sau tiêm esmeron ít nhất 2 phút mà chỉ số TOF ≥ 2 thì tiêm bổ
xung 10 - 15 mg.
+ Khi điểm MOAAS = 0 đồng thời chỉ số TOF ≤ 1 đáp ứng thì tiến
hành đặt ống NKQ (đã đƣợc chọn trƣớc, có kích cỡ phù hợp với BN). Sau đó,
bơm bóng chèn và cố định ống NKQ. Nối ống NKQ với máy mê kèm thở qua
phin lọc khuẩn, duy trì thở máy kiểu kiểm soát thể tích (IPPV), vòng kín lƣu
lƣợng thấp (low-flow), tổng lƣợng khí bù (total flow) = 1L/phút, tỷ lệ oxy khí
thở vào (FiO2) = 50%, tần số (f) = 12 - 14 nhịp/phút, thể tích khí lƣu thông
(Vt) = 8-10ml/kg, điều chỉnh các thông số để duy trì áp lực đƣờng thở trong
khoảng 12-15cmH2O và PetCO2 trong khoảng 32-35 mmHg [2], [9].
Nhóm 2
+ Truyền propofol tĩnh mạch ở chế độ bơm tiêm điện thƣờng với tốc
độ 600 ml/h cho tới khi điểm an thần MOAAS = 0. Thời điểm bệnh nhân mất
phản xạ mi mắt thì bắt đầu tiêm giãn cơ esmeron với liều 0,6 mg/kg, úp mask
bóp bóng với oxy 100%. Theo dõi chỉ số TOF. Trƣờng hợp sau tiêm esmeron
ít nhất 2 phút mà chỉ số TOF ≥ 2 thì tiêm bổ xung 10 -15 mg esmeron.
+ Nếu điểm MOAAS = 0, đồng thời chỉ số TOF ≤ 1 đáp ứng thì tiến
hành đặt NKQ. Bơm bóng chèn và cố định ống. Nối NKQ với máy thở qua
phin lọc khuẩn, duy trì thở máy kiểu kiểm soát thể tích (IPPV), các thông số
Duy trì mê:
máy thở cài đặt giống nhƣ nhóm 1.
Điều chỉnh thuốc mê theo diễn biến lâm sàng của BN. Đánh giá mức
mê theo phân loại của Ausems và cộng sự [21]: gồm mê chƣa đủ sâu và mê
quá sâu. Sử dụng bảng điểm PRTS của Evans [61] để phát hiện tỉnh trong mổ.
Cứ 5 phút đánh giá PRST một lần, nếu giá trị PRST ≥ 3 đƣợc coi là tỉnh trên
lâm sàng. Mục tiêu duy trì mê là đảm bảo PRTS ≤ 2.
53
Với propofol
Nhóm 1:
Sau khi đặt NKQ, đo HATB, nhịp tim, đánh giá điểm PRST, cứ 5 phút
một lần để đánh giá độ mê. Nếu điểm PRST ≤ 2, huyết động ổn định thì
không cần điều chỉnh độ mê. Nếu mê quá sâu hoặc mê nông, có các dấu hiệu
của tỉnh trong mổ (điểm PRST ≥ 3) thì cần điều chỉnh độ mê. Nếu tỉnh hoặc
mê nông thì điều chỉnh tăng, nếu mê quá sâu thì phải điều chỉnh giảm độ mê.
Mỗi lần điều chỉnh nồng độ đích từng mức 0,2 µg/ml. Có thể chủ động điều
chỉnh tăng nồng độ trƣớc các thì phẫu thuật có can thiệp mạnh, ngƣợc lại
giảm nồng độ khi kích thích đã giảm bớt. Ví dụ: tăng độ mê trƣớc thì cắt cực
trên dạ dày, nếu mê nông dễ gây nấc do kích thích cơ hoành. Hoặc là giảm độ
mê trƣớc khi đóng cân cơ thành bụng. Sau 5 phút duy trì ở nồng độ đích mới,
mà vẫn chƣa đạt hiệu quả mong muốn thì tiếp tục điều chỉnh nhƣ trên cho đến
khi đạt yêu cầu.
Nhóm 2:
Cũng dựa vào mức mê, điểm PRST nhƣ nhóm 1 để đánh giá và điều
chỉnh độ mê. Ngay sau khởi mê và đặt NKQ, chuyển sang truyền duy trì với
liều 6mg/kg/h, tiếp theo điều chỉnh tốc độ truyền propofol từ 4-12 mg/kg/h
[98] theo đáp ứng lâm sàng của BN và diễn biến của phẫu thuật.
Với các thuốc phối hợp
- Fentanyl: liều 1,0 đến 2,0 g/kg, theo diễn biến lâm sàng của bệnh
nhân, hoặc 20-30 phút nhắc lại một lần.
- Esmeron: điều chỉnh dựa vào chỉ số trên mornitor TOF-GUARD, tiêm
nhắc lại 10-15mg mỗi lần, để duy trì dƣới 2 đáp ứng với kích thích chuỗi 4.
54
Thoát mê:
- Ngừng bổ sung fentanyl và esmeron trƣớc kết thúc mổ khoảng 20
phút.
- Ngừng truyền propofol khi bắt đầu đóng da.
- Giải giãn cơ khi đủ các điều kiện sau: TOF có ≥ 2 đáp ứng và hồi
phục ở T1 là 25%. Sử dụng thuốc neostigmin liều 40 - 50 µg/kg, kết hợp với
atropin 15µg/kg [10].
- Rút nội khí quản khi điểm an thần MOAAS ≥ 4, thực hiện đúng theo
lệnh, tự thở 12 - 25 lần phút, SpO2 ≥ 95% với FiO2 ≤ 40%, có phản xạ ho
nuốt, chỉ số TOF ≥ 0,9 (đo ở cơ khép ngón tay cái).
- Theo dõi BN 5 phút/lần cho tới khi đạt tối thiểu 10/14 điểm theo
thang Aldrete sửa đổi để chuyển buồng bệnh điều trị.
55
Nhóm 1
Propofol đích: 4 μg/ml. Khi mất phản xạ mi mắt: esmeron 0,6 mg/kg. Đặt NKQ khi MOAAS = 0. TOF ≤ 1
Đánh giá độ mê, PRST Huyết áp
Tần số mạch
Duy trì
PRST ≤ 2 Huyết động ổn định
Đạt
Tăng NĐ đích 0,2
μg/ml mỗi 5 phút
PRST ≥ 3
HA > HA nền + 15
Giảm NĐ đích 0,2
M > M nền + 15
μg/ml mỗi 5 phút
Mê quá sâu
HA < HA nền - 15
M < M nền - 15
Không đạt
Sơ đồ 2.1. Quy trình duy trì mê của nhóm 1
56
Nhóm 2
Truyền propofol 600 ml/h Khi mất phản xạ mi mắt: esmeron 0,6 mg/kg. Đặt NKQ khi MOAAS = 0, TOF ≤ 1 đáp ứng
Đánh giá PRST Huyết áp Tần số mạch
Duy trì
PRST ≤ 2 Huyết động ổn định
Đạt
Tăng tốc độ truyền
PRST ≥ 3
HA > HA nền + 15
Giảm tốc độ truyền
M > M nền + 15
Mê quá sâu
HA < HA nền - 15
M < M nền - 15
Không đạt
Sơ đồ 2.2. Quy trình duy trì mê của nhóm 2
57
2.2.7. Đạo đức trong nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu tuân thủ theo các quy định trong Quy chế hoạt
động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học ban hành kèm theo
quyết định số 5129/2002/QĐ - YT ngày 19/12/2002 của Bộ trƣởng Bộ Y tế.
Những khía cạnh đạo đức chính liên quan đến quyền lợi của đối tƣợng
nghiên cứu nhƣ sau:
Lợi ích và nguy cơ đối với đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân có đủ các điều kiện theo tiêu
chuẩn lựa chọn sẽ đƣợc tiến hành gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol
có kiểm soát hay không kiểm soát nồng độ đích, kết hợp với thuốc giãn cơ,
giảm đau, có đặt nội khí quản thông khí nhân tạo. Propofol là một thuốc mê
tĩnh mạch có nhiều ƣu điểm và đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong và ngoài nƣớc.
Phƣơng pháp gây mê kiểm soát nồng độ đích với propofol ngày càng đƣợc áp
dụng rộng rãi trong thực hành gây mê do hiệu quả và an toàn.
Cam kết chấp thuận tình nguyện tham gia nghiên cứu:
Bệnh nhân chỉ đƣợc thu nhận vào nghiên cứu khi đã ký cam kết vào
Bản chấp thuận tình nguyện tham gia nghiên cứu. Tùy từng trƣờng hợp cụ
thể, việc cam kết sẽ do bệnh nhân hoặc ngƣời nhà bệnh nhân thực hiện.
Những bệnh nhân đƣợc lựa chọn theo các tiêu chuẩn của đối tƣợng nghiên
cứu sẽ đƣợc thông báo về mục tiêu nghiên cứu, những lợi ích và nguy cơ khi
tham gia nghiên cứu, quyền lợi và trách nhiệm của bệnh nhân nghiên cứu
cũng nhƣ trách nhiệm của nghiên cứu viên. Khi bệnh nhân hoặc ngƣời thân
của bệnh nhân hiểu rõ những nội dung trên đây và ký vào cam kết tình
nguyện sẽ đƣợc thu nhận vào nghiên cứu. Bệnh nhân nghiên cứu hoặc ngƣời
thân của họ có quyền từ chối tham gia hoặc rút lui ra khỏi nghiên cứu mà
không bị phân biệt đối xử.
58
Sự bảo mật thông tin
Những thông tin cá nhân của bệnh nhân thu thập đƣợc từ quá trình
nghiên cứu đƣợc đảm bảo bí mật và chỉ phục vụ riêng cho nghiên cứu này.
Tên và các thông tin cá nhân của bệnh nhân không đƣợc công bố trong kết
quả nghiên cứu đƣợc đăng tải trên tạp chí khoa học, bài báo cáo Hội nghị
khoa học...
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Kết quả số liệu nghiên cứu đƣợc xử lý trên máy vi tính theo chƣơng
trình SPSS 16.0.
Kết quả các biến định lƣợng đƣợc trình bày dạng ̅ ± SD, (trung bình ±
độ lệch chuẩn) và Min – Max (tối đa - tối thiểu).
Sử dụng test-t để kiểm định sự khác biệt của hai nhóm với biến định
lƣợng.
Sử dụng test-t ghép cặp để so sánh sự khác biệt trung bình của biến
định lƣợng trong hai thời điểm khác nhau của một nhóm.
Sử dụng one sample t-test để so sánh một số trung bình với giá trị một
mẫu cho trƣớc.
Sử dụng test χ2 (khi bình phƣơng) để kiểm định mối liên quan của các
biến định tính.
Ngƣỡng có ý nghĩa thống kê đƣợc chọn với độ tin cậy 95%, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
59
Chƣơng 3
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol trên 130 BN,
gồm 65 BN ở nhóm 1 (có kiểm soát nồng độ đích) và 65 BN ở nhóm 2
(không kiểm soát nồng độ đích), các kết quả thu đƣợc nhƣ sau:
3.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VÀ PHẪU THUẬT
3.1.1. Đặc điểm bệnh nhân
Bảng 3.1. Tuổi, chiều cao, cân nặng, BMI
Nhóm 1 Nhóm 2 p (n= 65) (n= 65)
53,03 ± 10,10 52,05 ± 10,18 ̅ ± SD > 0,05 Tuổi (năm)
25 - 65 Min – Max 20 – 65
161,37 ± 6,65 162,25 ± 6,17 ̅ ± SD Chiều cao > 0,05 (cm) 148 - 176 Min – Max 149 – 176
51,75 ± 6,38 51,46 ± 5,96 ̅ ± SD > 0,05 Cân nặng (kg)
41 - 66 Min – Max 42 – 68
19,70 ± 1,32 19,59 ± 1,64 ̅ ± SD > 0,05 BMI (kg/m2)
Min – Max 16,46 – 23,04 15,62 – 22,95
Nhận xét:
- Các giá trị tuổi, chiều cao, cân nặng và BMI trung bình giữa hai nhóm
khác nhau không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05. Nhƣ vậy, có sự tƣơng
đồng về các đặc điểm chung của hai nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu.
60
Bảng 3.2. Giới
Nhóm 1 Nhóm 2 p Giới (n = 65) (n = 65)
36 (55,4 %) 37 (56,9 %) Nam > 0,05 29 (44,6 %) 28 (43,1 %) Nữ
Nhận xét:
- Tỷ lệ nam và nữ giữa hai nhóm nghiên cứu khác nhau không có ý
nghĩa thống kê, với p > 0,05. Tuy nhiên, xét riêng trong mỗi nhóm, tỷ lệ bệnh
nhân nam nhiều hơn nữ.
3.1.2. Đặc điểm phẫu thuật
Bảng 3.3. Loại phẫu thuật
Nhóm 1 Nhóm 2 Loại phẫu thuật p (n = 65) (n = 65)
Phẫu thuật dạ dày 24 (36,9 %) 22 (33,9 %)
Phẫu thuật gan mật 15 (23,1 %) 19 (29,2 %) > 0,05 Phẫu thuật đại tràng 18 (27,7 %) 19 (29,2 %)
Phẫu thuật tá tụy 8 (12,3 %) 5 (7,7 %)
Nhận xét:
- Tỷ lệ các loại phẫu thuật bụng trong hai nhóm khác nhau không có ý
nghĩa thống kê, với p > 0,05. Trong nghiên cứu này, phẫu thuật dạ dày chiếm
tỷ lệ cao nhất ở cả hai nhóm, sau đó là các phẫu thuật đại tràng và gan mật.
61
Bảng 3.4. Thời gian phẫu thuật và thời gian mê
Nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 p Thời gian (n = 65) (n= 65)
127, 00 ± 31,57 130,85 ± 38,63 ̅ ± SD Thời gian phẫu > 0,05 thuật (phút) Min - Max 65 - 195 65 - 230
Thời gian mê 151,03 ± 35,80 154,89 ± 42,58 ̅ ± SD > 0,05 (phút) Min - Max 78 - 231 77 - 267
Nhận xét:
- Thời gian phẫu thuật và thời gian mê của các phẫu thuật vùng bụng
thƣờng kéo dài do tính chất phức tạp của bệnh lý và kỹ thuật điều trị.
-Thời gian phẫu thuật trung bình và thời gian mê của hai nhóm khác
nhau không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
Bảng 3.5.Thuốc phối hợp, lượng dịch truyền trong mổ
Thuốc, dịch truyền Nhóm 1 Nhóm 2 p trong mổ (n = 65) (n= 65)
516,77 ± 123,92 542,80 ± 147,31 ̅ ± SD Fentanyl (µg) > 0,05 Min - Max 250 - 870 250 - 850
103,69 ± 20,94 109,00 ± 21,90 ̅ ± SD Esmeron > 0,05 (mg) Min - Max 60 -160 65 - 170
1402 ± 346 1435 ± 429 ̅ ± SD Dịch truyền > 0,05 trong mổ (ml) Min - Max 750 - 2300 580 - 2380
62
Nhận xét:
- Liều lƣợng các thuốc giãn cơ, giảm đau phối hợp và dịch truyền trung
bình trong mổ giữa hai nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê, với p >
0,05.
Bảng 3.6. Thuốc giải giãn cơ
Nhóm 1 Nhóm 2 Thuốc p (n = 65) (n= 65)
Số BN cần giải giãn cơ 44 (67,6%) 50 (76,9%) > 0,05
2,30 ± 0,26 2,25 ± 0,23 ̅ ± SD Neostigmin > 0,05 (mg) Min - Max 1,89 – 3,00 1,8 – 2,5
0,76 ± 0,08 0,78 ± 0,08 Atropin ̅ ± SD
> 0,05 (mg) Min - Max 0,63 – 1,02 0,62 – 0,99
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân cần giải giãn cơ khi hồi tỉnh là tƣơng đƣơng giữa hai
nhóm, với p > 0,05.
- Lƣợng neostigmin, atropin trung bình đã sử dụng để giải giãn cơ ở hai
nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
63
3.2. HIỆU QUẢ CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH
3.2.1. Các chỉ tiêu về thời gian
Bảng 3.7.Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn khởi mê
Nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 p Thời gian (n = 65) (n= 65)
53,06 ± 4,83 47,20 ± 7,76 ̅ ± SD Mất ý thức (giây) < 0,001 Min- Max 46 - 68 34 - 60
p < 0,001
Thời gian đặt NKQ
Thời gian đủ điều kiện đặt NKQ
p < 0,001
Thời gian mất ý thức
(giây)
0
50
100
150
200
Nhóm 1
Nhóm 2
Đủ điều kiện đặt 157,38 ± 3,27 131,38 ± 7,83 ̅ ± SD < 0,001 Min- Max 152 - 166 118 - 145 NKQ (giây)
Biểu đồ 3.1. Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn khởi mê
Nhận xét:
- Khi khởi mê bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích thì thời gian
mất ý thức và thời gian đặt NKQ dài hơn so với khởi mê không kiểm soát
nồng độ đích, với p < 0,001.
64
Bảng 3.8. Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn hồi tỉnh
Nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 p Thời gian (n = 65) (n= 65)
17,35 ± 6,37 19,92 ± 4,68 ̅ ± SD Thời gian tỉnh < 0,05 (phút) Min – Max 6 – 33 11 - 34
24,02 ± 6,15 26,32 ± 5,17 ̅ ± SD Đủ điều kiện rút < 0,05 NKQ (phút) Min – Max 13 - 39 17 - 42
p <0,001
Thời gian đạt 10 điểm Aldrette
p<0,05
Thời gian đủ điều kiện rút NKQ Thời gian rút NKQ
p<0,05
Thời gian tỉnh
0
5
10
15
20
25
30
35
Nhóm 1
Nhóm 2
30,03 ± 6,61 33,22 ± 5,62 ̅ ± SD Thời gian đạt từ < 0,001 10 điểm Aldrete Min – Max 18 – 46 23 - 50
Biểu đồ 3.2. Chỉ tiêu thời gian trong giai đoạn hồi tỉnh
65
Nhận xét:
- Mặc dù khi khởi mê, thời gian mất ý thức, thời gian đặt NKQ dài hơn,
nhƣng thời gian tỉnh, thời gian rút NKQ trong giai đoạn hồi tỉnh của nhóm
kiểm soát nồng độ đích đều ngắn hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ
đích có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05.
- Thời gian đạt từ 10/14 điểm Aldrete của nhóm có kiểm soát nồng độ
đích cũng ngắn hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích, với p <
0,001.
Bảng 3.9. Thời gian tỉnh và thời gian tỉnh ước tính trên máy của nhóm 1
Thời gian tỉnh Thời gian tỉnh ƣớc tính p
trên máy (phút) (phút)
17,35 ± 6,37 16,67 ± 3,23 ̅ ± SD > 0,05 Min - Max 6 – 33 10 - 24
Nhận xét:
Sự khác biệt giữa thời gian tỉnh và thời gian tỉnh ƣớc tính trên máy của
nhóm 1 không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05. Nhƣ vậy, máy đã dự báo khá
chính xác thời điểm BN sẽ tỉnh trở lại sau khi ngừng truyền thuốc mê.
66
3.2.2. Tiêu thụ propofol
Bảng 3.10. Tiêu thụ propofol
Nhóm 1 Nhóm 2 Tiêu thụ propofol p (n = 65) (n= 65)
72,46 ± 8,57 113,08 ± 13,03 ̅ ± SD Tổng liều khởi mê < 0,001 (mg) Min - Max 58,74 – 95,99 90 - 142
1,40 ± 0,00 2,18 ± 0,08 ̅ ± SD Liều khởi mê < 0,001 trung bình (mg/kg) Min - Max 1,37 – 1,41 1,58 – 2,40
1167 ± 303 1039 ± 297 ̅ ± SD Tổng liều sử dụng < 0,05 (mg) Min - Max 520 - 1960 460 - 1850
9,04 ± 0,29 7,28 ± 0,38 ̅ ± SD Liều trung bình < 0,001 (mg/kg/h) Min - Max 8,78 – 11,38 6,95 – 9,00
Nhận xét:
- Trong giai đoạn khởi mê: tổng liều và liều propofol khởi mê trung
bình của nhóm có kiểm soát nồng độ đích thấp hơn nhóm không kiểm soát
nồng độ đích, với p < 0,001.
- Ngƣợc lại, tổng liều sử dụng (mg) của nhóm có kiểm soát nồng độ
đích cao hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích có ý nghĩa thống kê,
với p < 0,05. Và liều trung bình tính theo (mg/kg/h) của nhóm có kiểm soát
nồng độ đích cao hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích có ý nghĩa
thống kê, với p < 0,001.
67
3.2.3. Khả năng duy trì mê
3.2.3.1. Điều chỉnh độ mê trong mổ
Bảng 3.11. Điểm PRST tại một số thời điểm
Nhóm 1 Nhóm 2 Thời điểm p (n = 65) (n= 65)
T1 0,11 ± 0,35 0,09 ± 0,29 > 0,05
T2 0,51 ± 0,83 0,46 ± 0,70 > 0,05
T3 0,49 ± 0,85 0,66 ± 0,96 > 0,05
T4 0,75 ± 1,07 0,58 ± 0,95 > 0,05
2
1
Nhóm 1
T5 0,58 ± 0,90 0,66 ± 0,94 > 0,05
i
T S R P m ể Đ
Nhóm 2
0
T1
T2
T3
T4
T5
Thời điểm
Biểu đồ 3.3. Điểm PRST tại một số thời điểm
Nhận xét:
- Tại các thời điểm lựa chọn trong nghiên cứu, điểm PRST đều < 3 ở cả
hai nhóm cho thấy khả năng duy trì mê tốt của propofol. Sự khác biệt giữa hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
68
Bảng 3.12. Dấu hiệu tỉnh trong mổ (khi PRST ≥ 3)
Nhóm 1 Nhóm 2 PRST ≥ 3 trong mổ p (n = 65) (n = 65)
Có (Số BN, %) 6 (9,2 %) 16 (24,6 %) < 0,05 Không (Số BN, %) 59 (90,8 %) 49 (75,4 %)
Nhận xét:
Tỷ lệ BN đƣợc ghi nhận có dấu hiệu tỉnh ở một số thời điểm trong mổ
của nhóm không kiểm soát nồng độ đích cao hơn nhóm có kiểm soát nồng độ
đích có ý nghĩa thống kê với, p < 0,05.
Bảng 3.13. Số lần phải điều chỉnh tăng độ mê trong mổ
Nhóm 1 Nhóm 2 p Khoảng thời gian (n = 65) (n = 65)
65 Số BN 65 Trong giờ đầu < 0,001 (lần) 1,06 ± 0,76 0,34 ± 0,50 ̅ ± SD
65 Số BN 65 Trong giờ thứ 2 < 0,05 (lần) 1,31 ± 0,66 1,62 ± 0,82 ̅ ± SD
53 Số BN 42 Trong giờ thứ 3 < 0,001 (lần) 0,64 ± 0,53 1,42 ± 0,60 ̅ ± SD
Nhận xét:
- Cần điều chỉnh tăng độ mê khi BN mê quá sâu. Số lần cần điều chỉnh
tăng độ mê của nhóm không kiểm soát nồng độ đích trong giờ đầu ít hơn so
69
với nhóm có kiểm soát nồng độ đích, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Ngƣợc lại, trong các giờ thứ 2 và thứ 3 số lần điều chỉnh tăng độ mê của
nhóm 2 nhiều hơn nhóm 1 có ý nghĩa thống kê, với p lần lƣợt < 0,05 và <
0,001.
- Việc điều chỉnh tăng độ mê trong giờ thứ 3 so với giờ thứ 2 có xu
hƣớng giảm ở cả hai nhóm.
Bảng 3.14. Số lần phải điều chỉnh giảm độ mê trong mổ
Nhóm 1 Nhóm 2 p Khoảng thời gian (n = 65) (n = 65)
65 Trong giờ đầu Số BN 65 < 0,001 (lần) 2,25 ± 0,84 3,03 ± 0,90 ̅ ± SD
65 Trong giờ thứ 2 Số BN 65 < 0,001 (lần) 0,95± 0,69 1,71 ± 0,89 ̅ ± SD
53 Trong giờ thứ 3 Số BN 42 < 0,001 (lần) 0,93 ± 0,55 1,55 ± 0,69 ̅ ± SD
Nhận xét:
- Trong quá trình duy trì mê, nhóm không kiểm soát nồng độ đích cần
điều chỉnh giảm độ mê nhiều hơn so với nhóm có kiểm soát nồng độ đích, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001.
- Số lần cần chỉnh giảm độ mê trong mổ cũng có xu hƣớng giảm dần
theo thời gian ở cả hai nhóm.
70
3.2.3.2. Nhớ, biết trong mổ
Ở cả hai nhóm, kết quả phỏng vấn tại thời điểm 24 giờ sau phẫu thuật
không có BN nào đau, nhớ, biết hay ngủ mơ trong mổ.
3.2.3.3. Mức độ đau tại thời điểm sau rút NKQ
Bảng 3.15. Mức độ đau tại thời điểm sau rút NKQ
Nhóm 1 Nhóm 2 Giá trị VAS p (n = 65) (n= 65)
3,72 ± 0,83 3,68 ± 0,83 ̅ ± SD > 0,05 Min – Max 2 - 5 2 - 5
Nhận xét:
- Giá trị VAS trung bình sau rút NKQ ở cả hai nhóm cho thấy các BN
chỉ chịu đau nhẹ hoặc vừa. Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa
thống kê với p > 0,05.
3.2.4. Các tác dụng không mong muốn
Bảng 3.16. Các tác dụng không mong muốn
Nhóm 1 Nhóm 2 Các tác dụng phụ p (n = 65) (n = 65)
Buồn nôn (Số BN, %) 5 (7,7 %) 6 (9,2 %)
Nôn (Số BN, %) 3 (4,6 %) 5 (7,7 %) > 0,05
Rét run (Số BN, %) 1 (1,5 %) 2 (3,0 %)
Ảo giác 0 0
Suy hô hấp sau mổ 0 0
71
Nhận xét:
- Các tác dụng phụ thƣờng gặp là buồn nôn, nôn, rét run nhƣng với tỷ lệ
thấp và không có sự khác biệt giữa hai nhóm, với p > 0,05.
- Không gặp ảo giác và suy hô hấp sau mổ ở bất cứ BN nào trong cả hai
nhóm nghiên cứu.
3.3. ẢNH HƢỞNG HUYẾT ĐỘNG VÀ HÔ HẤP CỦA GÂY MÊ KIỂM
SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH
3.3.1. Ảnh hƣởng huyết động
3.3.1.1. Thay đổi nhịp tim
Bảng 3.17.Thay đổi nhịp tim khi khởi mê
Nhịp tim Nhóm 1 Nhóm 2 p Thời
điểm (lần/phút) (n = 65) (n= 65) (t-test)
68,48 ± 6,61(1) 69,60 ± 6,84(4) ̅ ± SD T0 > 0,05 Min- Max 55 - 82 57 - 84
56,34 ± 4,82(2) 51,89 ± 4,88(5) ̅ ± SD T1 < 0,001 Min- Max 46 - 68 41 - 66
63,69 ± 5,55(3) 60,28 ± 4,12(6) ̅ ± SD T2 < 0,05 Min- Max 51 - 78 49 - 80
p (pair-test) p(1,2),(2,3),(1,3) < 0,001 p(4,5),(5,6),(4,6) < 0,001
Nhận xét:
- Ở cả hai nhóm, nhịp tim sau khởi mê đều giảm so với trƣớc khởi mê,
với p < 0,001 (pair-test). Nhƣng nhóm có kiểm soát nồng độ đích có mức
giảm nhịp tim ít hơn nhóm không kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,001 (t-
test).
72
- Sau đặt NKQ, nhịp tim cả hai nhóm đều có xu hƣớng tăng so với thời
điểm trƣớc đặt NKQ. Nhƣng nhịp tim của nhóm không kiểm soát nồng độ
đích vẫn thấp hơn so với nhóm có kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,05.
Bảng 3.18. Tỷ lệ BN có nhịp chậm khi khởi mê
Nhóm 1 Nhóm 2 Dấu hiệu p (n = 65) (n= 65)
Có chậm nhịp tim (Số BN, %) 21 (32,3 %) 45 (69,2 %) < 0,001 Không chậm nhịp tim (Số BN, %) 44 (67,7 %) 20 (30,8 %)
Nhận xét:
Tỷ lệ BN có nhịp tim chậm khi khởi mê của nhóm có kiểm soát nồng
độ đích ít hơn nhóm không kiểm soát nồng độ đích , có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001.
Bảng 3.19. Nhịp tim trong giai đoạn duy trì mê
Thời Nhịp tim Nhóm 1 Nhóm 2 p điểm (lần/phút) (n = 65) (n= 65)
66,42 ± 6,49 (1) 67,48 ± 6,67 (4) ̅ ± SD T3 > 0,05 Min- Max 53 - 79 55 - 81
69,31 ± 6,17 (2) 69,42 ± 6,20 (5) ̅ ± SD T4 > 0,05 Min- Max 56 - 85 55 - 87
70,80 ± 6,61 (3) 71,57 ± 7,05 (6) ̅ ± SD T5 > 0,05 Min- Max 56 - 85 55 - 91
p (pair-test) p(1,2),(2,3),(1,3) < 0,001 p(4,5),(5,6),(4,6) < 0,001
73
Nhận xét:
- Sự khác biệt về nhịp tim giữa hai nhóm tại các thời điểm T3, T4, T5
trong giai đoạn duy trì mê không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
- Nhịp tim có xu hƣớng tăng dần trong giai đoạn duy trì mê ở cả hai
nhóm, với p < 0,001.
Bảng 3.20. Nhịp tim trong giai đoạn hồi tỉnh
Nhịp tim Nhóm 1 Nhóm 2 Thời
p điểm (lần/phút) (n= 65) (n= 65)
76,29 ± 7,13 (1) 77,94 ±7,63 (4) ̅ ± SD T6 > 0,05 Min- Max 60 - 95 59 - 97
82,12 ± 6,39 (2) 84,62 ± 8,23 (5) ̅ ± SD T7 > 0,05 Min- Max 70 - 96 64 - 106
85,32 ± 7,07 (3) 87,15 ± 8,42 (6) ̅ ± SD T8 > 0,05 Min - Max 71 - 99 66 - 109
p (pair-test) p(1,2),(2,3),(1,3) < 0,001 p(4,5),(5,6),(4,6) < 0,001
Nhận xét:
- Nhịp tim ở các thời điểm T6, T7 ,T8 của cả hai nhóm khác nhau
không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
- Nhịp tim của cả hai nhóm đều có xu hƣớng tăng dần về cuối cuộc mổ,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
74
3.3.1.2. Thay đổi HATB
Bảng 3.21.Thay đổi HATB khi khởi mê
HATB Nhóm 1 Nhóm 2 p Thời
điểm (mmHg) (n = 65) (n= 65) (t-test)
81,51 ± 6,44 (1) 83,05 ± 6,41 (4) ̅ ± SD T0 > 0,05 Min- Max 69 - 94 73 - 97
75,18 ± 6,12 (2) 66,46 ± 5,77 (5) ̅ ± SD T1 < 0,001 Min- Max 62 - 88 55 - 80
78,83 ± 6,48 (3) 69,83 ± 6,07 (6) ̅ ± SD T2 < 0,001 Min- Max 65 - 93 58 -84
p (pair-test) p(1,2),(2,3),(1,3) < 0,001 p(4,5),(5,6),(4,6) < 0,001
Nhận xét:
- Sau khởi mê HATB đều giảm ở cả hai nhóm, với p < 0,001. Nhƣng
HATB của nhóm có kiểm soát nồng độ đích giảm ít hơn so với nhóm không
kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,001.
- Sau khi đặt NKQ, HATB của hai nhóm đều tăng, nhƣng HATB của
nhóm không kiểm soát nồng độ đích vẫn ở mức thấp hơn nhóm có kiểm soát
nồng độ đích, với p < 0,001.
75
Bảng 3.22. Số bệnh nhân có giảm HATB khi khởi mê
Nhóm 1 Nhóm 2 p Dấu hiệu (n = 65) (n= 65)
Có giảm HATB (Số BN, %) 23 (35,4 %) 43 (66,2 %)
< 0,05 Không giảm HATB (Số BN, 42 (64,6 %) 22 (33,8 %)
33,8
64,6
Không tụt HATB Không giảm HATB
Có giảm HATB
Có tụt HATB
66,2
35,4
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
Nhóm 1
Nhóm 2
%)
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ bệnh nhân có giảm HATB khi khởi mê
Nhận xét:
Tỷ lệ BN có giảm HATB khi khởi mê ở nhóm không kiểm soát nồng
độ đích nhiều hơn nhóm có kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,05.
76
Bảng 3.23. HATB trong giai đoạn duy trì mê
HATB Nhóm 1 Nhóm 2 Thời p điểm (mmHg) (n = 65) (n= 65)
77,37 ± 6,21 (1) 79,23 ± 5,46 (4) ̅ ± SD T3 > 0,05 Min- Max 64 - 91 68 - 93
75,94 ± 6,03 (2) 77,82 ± 5,44 (5) ̅ ± SD T4 > 0,05 Min- Max 62 - 89 67 - 92
76,55 ± 6,29(3) 78,32 ± 5,47(6) ̅ ± SD T5 > 0,05 Min- Max 63 - 90 69 - 95
p (pair-test) p(1,2),(2,3),(1,3) < 0,001 p(4,5)(5,6),(4,6) < 0,001
Nhận xét:
- Sự khác biệt về giá trị HATB giữa hai nhóm tại các thời điểm T3,
T4, T5 trong giai đoạn duy trì mê không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
- Trong giai đoạn duy trì mê ở cả hai nhóm, HATB có xu hƣớng
giảm ở thời điểm T4, sau đó tăng nhẹ ở thời điểm T5, với p < 0,001.
77
Bảng 3.24. HATB trong giai đoạn hồi tỉnh
HATB Nhóm 1 Nhóm 2 Thời p điểm (mmHg) (n = 65) (n= 65)
86,34 ± 7,02 87,88 ± 6,16 ̅ ± SD T6 > 0,05 Min- Max 71 - 102 75 - 104
89,32 ±7,36 87,42 ± 6,59 ̅ ± SD T7 > 0,05 Min- Max 73 - 106 74 - 104
82,65 ± 6,60 80,80 ± 5,92 ̅ ± SD T8 > 0,05 Min- Max 68 - 97 69 - 96
p (pair-test) p(1,2),(2,3),(1,3) < 0,001 p(4,5),(5,6),(4,6) < 0,001
Nhận xét:
- HATB của cả hai nhóm khác nhau không cóý nghĩa thống kê ở các
thời điểm T6, T7,T8 trong giai đoạn hồi tỉnh, với p > 0,05.
- HATB có xu hƣớng giảm nhẹ về cuối cuộc mổ ở cả hai nhóm, với p
< 0,001.
Bảng 3.25. Mức thay đổi HATB lớn nhất
Nhóm 1 Nhóm 2
Mức thay đổi HATB nhiều nhất
p (n = 65) (n= 65)
< 10% (Số BN, %) 36 (55,4 %) 8 (12,3 %)
10 – 20 % (Số BN, %) 28 (43,1 %) 46 (70,8 %) < 0,001
> 20% (Số BN, %) 1 (1,5 %) 11 (16,9 %)
78
1,5
100%
16,9
43,1
80%
> 20%
60%
10 - 20%
70,8
<10%
40%
55,4
20%
12,3
0%
Nhóm 1
Nhóm 2
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ các mức thay đổi HATB
Nhận xét:
- Ở nhóm có kiểm soát nồng độ đích, tỷ lệ thay đổi HATB lớn nhất so
với HA nền ở mức < 10% chiếm tỷ lệ cao 55,4%. Trong khi nhóm không
kiểm soát nồng độ đích chỉ là 12,3%, tức là HATB của nhóm 1 đƣợc duy trì
ổn định hơn so với nhóm 2. Tỷ lệ BN có mức thay đổi HATB lớn nhất > 10%
so với nền của nhóm 2 cao hơn nhóm 1.
- Nhƣ vậy nhóm 1 có huyết áp trong bình ổn định hơn nhóm 2, có ý
95
90
85
80
75
Nhóm 1
70
Nhóm 2
65
60
55
50
T0
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
nghĩa thống kê với p < 0,001.
Biểu đồ 3.6. HATB tại một số thời điểm
79
90
85
80
75
Nhóm 1
70
Nhóm 2
65
60
55
50
T0
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
Biểu đồ 3.7. Tần số mạch tại một số thời điểm
Nhận xét:
Sự khác biệt về thay đổi huyết động giữa hai nhóm chủ yếu xảy ra
trong giai đoạn khởi mê. Tại thời điểm T1 cả hai nhóm đều có M và HATB
thấp nhấp, nhƣng nhóm không kiểm soát nồng độ đích thấp hơn nhóm có
kiểm soát nồng độ đích.
3.3.2. Ảnh hƣởng hô hấp
Bảng 3.26. Ảnh hưởng hô hấp
Nhóm 1 Nhóm 2 Dấu hiệu p (n = 65) (n= 65)
Ngừng thở (Số BN, %) 24(36,9 %) 29 (44,6 %) > 0,05
Ho (Số BN, %) 6(9,23 %) 8(12,3 %) > 0,05
Ƣỡn cổ, rƣớn (Số BN, %) 5 (7,69 %) 4(6,15 %) > 0,05
99,29 ± 0,70 99,23 ± 0,74 > 0,05 SpO2 sau đặt NKQ (%)
Co thắt thanh quản 0 0
80
Nhận xét:
- Các phản xạ ho, ƣỡn cổ hay rƣớn có tỷ lệ khác nhau không có ý nghĩa
thống kê giữa hai nhóm, với p > 0,05.
- Không xảy ra tình trạng thiếu oxy, co thắt thanh quản trong giai đoạn
khởi mê ở cả hai nhóm.
3.4. CÁC GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐÍCH
Bảng 3.27. Nồng độ propofol tại một số thời điểm của nhóm 1
Thời điểm
Mất ý thức (µg/ml)
Khi đặt NKQ (µg/ml) Giá trị Ce 1,57 ± 0,18 1,2 – 2,0 3,59 ± 0,47 2,66 – 4,80
Mở mắt (µg/ml)
4
3,59
3
2
1,57
Nồng độ đích
1,01
(g/ml)
0,74
1
0
Mất ý thức
Đặt NKQ
Mở mắt
Định hướng đúng
Định hƣớng đúng (µg/ml) ̅ ± SD Min – Max ̅ ± SD Min – Max ̅ ± SD Min – Max ̅ ± SD Min – Max 1,01 ± 0,18 0,60 – 1,45 0,74 ± 0,18 0,38 – 1,18
Biểu đồ 3.8. Nồng độ propofol tại một số thời điểm của nhóm 1
81
Nhận xét:
Nồng độ propofol khi BN mở mắt thấp hơn nồng độ khi mất ý thức, với
p < 0,001. Nồng độ propofol khi định hƣớng đúng thấp hơn nồng độ khi mở
mắt, với p < 0,05.
Bảng 3.28. Nồng độ Ce duy trì mê
Giá trị Ce
3,11 ± 0,36 ̅ ± SD
Duy trì thấp nhất (µg/ml) 2,4 – 4,0 Min –Max
4,04 ± 0,48 ̅ ± SD Duy trì cao nhất (µg/ml) 3,2 – 5,2 Min –Max
Nhận xét:
- Nồng độ propofol duy trì mê trung bình của nhóm nhóm có kiểm soát
nồng độ đích từ 3,11 đến 4,04 µg/ml.
- Giá trị nồng độ đích để duy trì mê của nhóm 1 dao động trong khoảng
từ 2,4 – 5,2 µg/ml.
82
Chƣơng 4
4. BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VÀ PHẪU THUẬT
4.1.1. Tuổi
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh nhân đƣợc lựa chọn tuổi
trung bình của nhóm 1 là 53,03 ± 10,10; của nhóm 2 là 52,05 ± 10,18. Sự
khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
Mặc dù propofol có thể đƣợc chỉ định sử dụng cho nhiều lứa tuổi khác
nhau, nhƣng gây mê bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích theo mô hình
dƣợc động học của Marsh chỉ phù hợp với các bệnh nhân có tuổi trên 15. Đó
là vì mô hình dƣợc động học này không thích hợp với với các BN có tuổi <
15. Với trẻ em, mô hình dƣợc động học của Kataria [113] hoặc Paedifusor
[133] đƣợc cho là chính xác hơn. Nhƣng vấn đề này hiện nay vẫn đang còn
phải nghiên cứu thêm.
Chúng tôi cũng không lựa chọn vào nghiên cứu những BN trên 65 tuổi,
vì nhóm tuổi này có những đặc điểm sinh lý và bệnh lý khác biệt, mặc dù kỹ
thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích vẫn có thể áp dụng trên các BN cao tuổi
[75]. Trên những BN cao tuổi, để giảm các ảnh hƣởng bất lợi của thuốc, nhất
là đối với tim mạch, một số nhà nghiên cứu khuyên nên khởi mê chậm, đó là
cài đặt nồng độ đích trong huyết tƣơng và dò liều từng bƣớc từ thấp lên cao.
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện cài đặt nồng độ đích trong não và không
dò liều từ thấp lên cao, vì vậy thời gian khởi mê sẽ nhanh hơn.
Servin và cộng sự [107] trong nghiên cứu năm 1998 đã đƣa ra công
thức tính liều gây mất ý thức của propofol liên quan tới tuổi nhƣ sau:
CT (µg/ml) = 7,18 – 0,03 × tuổi với hệ số tƣơng quan r = 0,32.
83
4.1.2. Chiều cao, cân nặng
Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều cao và cân nặng trung bình giữa hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
Chúng tôi đã không chọn vào nghiên cứu những BN dƣ cân và béo phì
(có BMI > 25, theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới). Những bệnh nhân
này không phù hợp với mô hình dƣợc động học của Marsh, mà phải sử dụng
mô hình của Schnider khi gây mê kiểm soát nồng độ đích với propofol, vì
trong các công thức tính toán có tính đến chỉ số khối lƣợng cơ (LBM) [14].
4.1.3. Giới
Theo kết quả nghiên cứu tỷ lệ nam và nữ giữa hai nhóm khác nhau
không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05. Tuy nhiên trong mỗi nhóm tỷ lệ nam
nhiều hơn nữ.
Trong kỹ thuật gây mê bằng propofol kiểm soát nồng độ đích có sử
dụng mô hình dƣợc động học của Marsh, yếu tố giới không đƣợc đề cập tới
trong các công thức tính toán. Điều này khác hẳn với mô hình dƣợc động học
của Schnider, yếu tố giới đƣợc tính đến trong các thuật toán để kiểm soát
nồng độ thông qua việc tính chỉ số LBM [14].
4.1.4. Tình trạng sức khỏe theo ASA của các BN nghiên cứu
Do lần đầu tiến hành nghiên cứu ứng dụng một kỹ thuật gây mê mới,
không có kinh nghiệm về gây mê kiểm soát nồng độ đích nên chúng tôi chỉ
lựa chọn các BN có phân loại sức khỏe trƣớc mổ là ASAI-II.
Các nghiên cứu trên trên thế giới đã cho thấy gây mê kiểm soát nồng độ
đích có thể áp dụng ở nhiều nhóm BN và có nhiều ƣu điểm trên những BN có
ASA cao, tình trạng nặng và có các bệnh lý phối hợp [19], [105], [134].
84
4.1.5. Đặc điểm phẫu thuật
Kết quả thống kê cho thấy tỷ lệ các loại phẫu thuật giữa hai nhóm khác
nhau không có ý nghĩa, với p > 0,05. Nghiên cứu gây mê cho các bệnh nhân
phẫu thuật mở vùng bụng, vì đây là phẫu thuật khá phổ biến. Các phẫu thuật
gồm có: phẫu thuật cắt dạ dày, phẫu thuật gan mật, phẫu thuật tá tuỵ, phẫu
thuật đại tràng… Các phẫu thuật này có thời gian đủ dài và các thì phẫu thuật
có yêu cầu khác nhau đủ để đánh giá hiệu quả của một phƣơng pháp gây mê.
4.1.6. Các thuốc sử dụng phối hợp
4.1.6.1. Fentanyl
Kết quả nghiên cứu cho thấy lƣợng fentanyl sử dụng trung bình ở hai
nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Sử dụng fentanyl phối hợp propofol trong mổ là cần thiết vì propofol ở
liều điều trị ít có tác dụng giảm đau. Fentanyl là thuốc thuộc nhóm opioid
đƣợc sử dụng thông dụng nhất trên lâm sàng với mục đích giảm đau và cho
phép giảm liều sử dụng của propofol [38], [57], [119]. Tuy nhiên, sử dụng
fentanyl kết hợp propofol để gây mê lại kéo dài thời gian hồi tỉnh và tăng tỷ lệ
buồn nôn, nôn sau mổ [119].
Theo nghiên cứu của Iwakiri H. và cộng sự [57] trên những BN phẫu
thuật nội soi sản khoa, nồng độ đích của propofol khi BN tỉnh phụ thuộc vào
nồng độ đích của fentanyl. Tác giả gợi ý là nồng độ đích fentanyl duy trì tối
ƣu từ 1,4 đến 2,0 ng/ml là đủ để đảm bảo cho BN không đau nhƣng cũng
không bị suy hô hấp trong quá trình hồi tỉnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, fentanyl không đƣợc sử dụng theo
phƣơng pháp kiểm soát nồng độ đích, mà tiêm nhắc lại theo diễn biến lâm
sàng của bệnh nhân. Tuy nhiên, cũng có tác giả lại cho rằng fentanyl là thuốc
có thời gian bán hủy dài, vì vậy không thực sự thích hợp khi sử dụng với kỹ
thuật kiểm soát nồng độ đích [105]. Với các thuốc trong họ morphin thì
85
remifentanil là thuốc thích hợp nhất để sử dụng gây mê kiểm soát nồng độ
đích [82].
4.1.6.2. Esmeron
Kết quả nghiên cứu cho thấy lƣợng esmeron sử dụng trung bình ở hai
nhóm khác nhau giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
Trong suốt quá trình gây mê, chúng tôi theo dõi mức độ giãn cơ bằng
mornitor TOF-GUARD và điều chỉnh duy trì ở mức dƣới 2 đáp ứng. Điều này
tạo điều kiện thuận lợi cho các thuật can thiệp trong phẫu thuật bụng vốn đòi
hỏi mức độ giãn cơ sâu, đồng thời có tác dụng duy trì huyết động ổn định.
Esmeron là thuốc giãn cơ không có tƣơng tác với propofol vì vậy không ảnh
hƣởng tới tác dụng của thuốc này trong quá trình sử dụng [10].
4.1.6.3. Neostigmin
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 46 BN (67,6 %) ở nhóm 1, 50 BN
(76,9 %) ở nhóm 2 phải giải giãn cơ, chủ yếu gặp ở những BN có thời gian
mê kéo dài.
Liều neostigmin trung bình của hai nhóm khác nhau không có ý nghĩa
thống kê, với p > 0,05.
Sử dụng thuốc giải giãn cơ là cần thiết để đảm bảo giảm thiểu nguy cơ
suy hô hấp do tồn dƣ thuốc giãn cơ sau mổ. Chúng tôi đã sử dụng neostigmin
liều tối ƣu 40-50µg/kg cho những BN phải giải giãn cơ [10].
Trong hai nhóm nghiên cứu không gặp trƣờng hợp nào tái giãn cơ sau
mổ.
4.1.6.4. Dịch truyền
Kết quả nghiên cứu cho thấy lƣợng dịch truyền đƣợc sử dụng trong mổ
của hai nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Dịch truyền trong mổ là dịch tinh thể theo nhu cầu cơ thể, để bù lại lƣợng
dịch do BN đã phải nhịn ăn trƣớc mổ, dịch bay hơi qua vết mổ trong thời gian
86
gây mê…Cả hai nhóm không sử dụng các dịch cao phân tử, truyền máu hay
các sản phẩm từ máu. Trong nghiên cứu này chúng tôi đã loại ra những BN
trong mổ có biến chứng chảy máu nhiều, làm thay đổi huyết động, gây nhiễu
khi đánh giá độ mê lâm sàng.
HIỆU QUẢ CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH
4.2.
4.2.1. Các chỉ tiêu về thời gian
4.2.1.1. Thời gian gây mất ý thức
Sử dụng propofol cho phép khởi mê êm, nhanh chóng, tin cậy, và thời
gian khởi mê phụ thuộc vào tốc độ tiêm [19]. Gillies và cộng sự khởi mê bằng
propofol trên những BN đã đƣợc tiền mê bằng 20 mg temazepam với liều cố
định 2,5 mg/kg đã xác định thời gian khởi mê chỉ là 30,8 giây khi tiêm trong
thời gian 20 giây, nhƣng thời gian khởi mê lên tới 58,4 giây khi tiêm cũng
lƣợng thuốc trên trong thời gian 80 giây [45].
Thời gian gây mất ý thức đƣợc tính từ khi tiêm thuốc tới khi BN mất
đáp ứng với lời nói hoặc phản xạ mi mắt. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy thời gian để mất ý thức của bệnh nhân nhóm 1 dài hơn so với nhóm
2 có nghĩa thống kê. Nguyên nhân có sự khác nhau này có lẽ là do khác biệt
về liều propofol trung bình khi khởi mê.
Tốc độ truyền ban đầu khi khởi mê trong nghiên cứu này ở nhóm 1 là
600 ml/h, tốc độ mặc định của hệ thống TCI_I khi sử dụng bơm tiêm loại thể
tích 20 ml. Russell và cộng sự trong nghiên cứu năm 1995 thấy thời gian khởi
mê ở nhóm kiểm soát nồng độ đích là ngắn hơn (55 ± 10,8 giây) so với nhóm
không kiểm soát nồng độ đích (75 ± 18,8 giây) [100]. Kết quả này khác với
chúng tôi, vì các tác giả đã cài đặt nồng độ propofol ở mức 7,5 µg/ml và tốc
độ truyền ban đầu của bơm tiêm là 1200 ml/h, còn ở nhóm không kiểm soát
nồng độ đích tốc độ tiêm cùng ở mức 600 ml/h.
87
Năm 1997, kết quả nghiên cứu của Struys và cộng sự cho thấy: thời
gian khởi mê ở nhóm kiểm soát nồng độ đích 4 µg/ml là 78 giây, nhóm
không kiểm soát nồng độ đích với tốc độ tiêm 1200 ml/h thì thời gian khởi
mê là 51 giây, còn với tốc độ tiêm 600 ml/h thời gian này là 62 giây [118].
Nhƣ vậy, muốn khởi mê nhanh chúng ta phải lựa chọn tốc độ tiêm thuốc
ban đầu lớn hơn.
Trong một nghiên cứu đa trung tâm tiến hành trên 562 bệnh nhân đƣợc
công bố năm 1998, Servin cũng có nhận xét tƣơng tự với kết quả thời gian
khởi mê là 71 ± 54 giây ở nhóm TCI so với 61 ± 31 giây ở nhóm không kiểm
soát nồng độ đích, với p < 0,05 [107].
Thời gian khởi mê khi sử dụng kỹ thuật TCI còn phụ thuộc vào nồng
độ đích cài đặt, tuổi và thuốc tiền mê phối hợp.
Năm 2000, Olmos và cộng sự đã nghiên cứu ảnh hƣởng kết hợp của
tuổi và thuốc tiền mê tới thời gian khởi mê khi dùng propofol kiểm soát
nồng độ đích 5 µg/ml, kết quả là nhóm cao tuổi có thời gian khởi mê ngắn
hơn. Nhóm 20 - 39 tuổi: 142,1 ± 48,7 giây, nhóm 40 - 59 tuổi: 137,5 ± 45,1
giây, nhóm trên 59 tuổi: 106 ± 39,5 giây. Thời gian khởi mê ở nhóm không
tiền mê: 155,8 ± 38,1 giây, nhóm chỉ tiền mê với fentanyl: 135,3 ± 46,4
giây, trong khi nhóm tiền mê phối hợp midazolam và fentanyl là 94,4 ± 34
giây [91].
Thời gian khởi mê bằng propofol kiểm soát nồng độ đích đƣợc cài đặt
từ 4 – 6 µg/ml trong nghiên cứu của Watson và cộng sự là 67 ± 20 giây trên
những BN đã đƣợc tiền mê bằng 10 mg morphin trƣớc khởi mê 2 - 3 phút
[130].
Với nồng độ đích khởi đầu 5 µg/ml, thời gian khởi mê trong nghiên
cứu của Laszlo và cộng sự là 83,2 ± 19,3 giây nếu cài đặt nồng độ trong máu,
88
và 57,4 ± 11,2 giây nếu cài đặt nồng độ đích trong não, khác nhau có ý nghĩa
thống kê, p = 0,0019 [68].
Trong nghiên cứu của Châu Thị Mỹ An và cộng sự, thời gian mất ý
thức ở nhóm kiểm soát nồng độ đích huyết tƣơng ngắn hơn nhóm không kiểm
soát nồng độ đích (75,5 ± 47,5 so với 89,1 ± 36,9 giây) [1].
Nghiên cứu gây mê propofol kiểm soát nồng độ đích cho phẫu thuật nội
soi lồng ngực, Ngô Văn Chấn và cộng sự thấy thời gian mất tri giác và phản xạ trung bình là 82 ± 22 giây [4].
Nghiên cứu của Hoàng Văn Bách và cộng sự năm 2011, khởi mê bằng
propofol_TCI nồng độ đích trong huyết tƣơng 4 µg/ml trên các BN đã đƣợc
tiền mê bằng midazolam cho kết quả thời gian khởi mê là 112,7 ± 32,6 giây
[2]. Thời gian này dài hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, có lẽ là do nhóm
tác giả đã tiêm fentanyl sau propofol (khi BN đã đạt điểm MOAAS ≤ 1),
muộn hơn so với chúng tôi và nghiên cứu đã tiến hành trên những BN trẻ hơn,
có tuổi trung bình chỉ là 49,19 ± 18,9 (năm). Đồng thời, nguyên nhân nữa là
các tác giả đã cài đặt kiểm soát nồng độ đích huyết tƣơng nên thời gian khởi
mê lâu hơn so với nhóm cài đặt nồng độ đích não [68].
Mặc dù trong nghiên cứu này, ở nhóm không kiểm soát nồng độ đích
tốc độ truyền ban đầu cũng là 600m/h, nhƣng tại sao thời gian khởi mê của
nhóm này lại ngắn hơn? Chúng tôi nhận thấy thời gian truyền với tốc độ này
trên hệ thống TCI không kéo dài suốt quá trình khởi mê, khác với nhóm
không kiểm soát nồng độ đích. Chính vì vậy tổng lƣợng thuốc khi khởi mê
của nhóm 2 cao hơn và tất yếu dẫn tới nồng độ thuốc trong máu ở nhóm này
sẽ cao hơn giúp propofol khuếch tán vào não nhanh hơn do đó thời gian khởi
mê ngắn hơn. Tuy nhiên, nồng độ của thuốc cao hơn sẽ gây ảnh hƣởng huyết
động và hô hấp nhiều hơn. Thực tế bác sĩ gây mê không thể xác định chính
89
xác thời điểm cần phải thay đổi tốc độ truyền theo biến thiên dƣợc động học
của thuốc, và chỉ có hệ thống TCI mới có thể đảm nhận đƣợc công việc này.
Đó là điểm khác biệt cơ bản giữa kiểm soát nồng độ đích với không kiểm soát
nồng độ đích.
4.2.1.2. Thời gian đủ điều kiện đặt NKQ
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian đủ điều kiện đặt
NKQ của nhóm có kiểm soát nồng độ đích dài hơn nhóm không kiểm soát
nồng độ đích. Điều này là hệ quả tất yếu do thời gian khởi mê nhóm 1 dài hơn
nhóm 2 theo phân tích ở trên.
Sử dụng propofol đơn thuần để khởi mê cũng có thể đặt đƣợc NKQ cho
BN [10]. Với liều propofol 2,5 mg/kg để khởi mê, không kết hợp với thuốc
giãn cơ chỉ có 20% BN đủ điều kiện để đặt NKQ. Khi kết hợp với fentanyl
mà không có thuốc giãn cơ thì tỷ lệ đặt NKQ thất bại là 17% [127]. Vì thế,
thông thƣờng khởi mê bằng propofol phải kết hợp với thuốc giảm đau và giãn
cơ để đặt NKQ.
Kích thích do đặt NKQ thƣờng là mạnh nhất nên đòi hỏi phải mê đủ
sâu để tránh những phản xạ tim mạch bất lợi và ảnh hƣởng nhiều tới huyết
động. Trong nghiên cứu này điều kiện để đặt NKQ là điểm MOAAS = 0,
đồng thời chỉ số TOF từ 1 đáp ứng trở xuống. Chúng tôi thấy ở cả hai nhóm
nghiên cứu việc đặt NKQ đã đƣợc tiến hành thuận lợi.
4.2.1.3. Thời gian tỉnh
Thời gian tỉnh đƣợc tính từ khi ngừng tiêm thuốc tới khi BN phục hồi
phản xạ mi mắt và mở mắt theo lệnh. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi
thời gian tỉnh của nhóm có kiểm soát nồng độ đích ngắn hơn nhóm không
kiểm soát nồng độ đích có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05.
Theo nghiên cứu lý thuyết, khi truyền liên tục propofol với tốc độ
không đổi, nồng độ thuốc trong máu không đƣợc duy trì thực sự ổn định mà
90
có xu hƣớng tăng dần và dẫn tới mê sâu hơn [105]. Với kỹ thuật kiểm soát
nồng độ đích, nồng độ thuốc tại cơ quan đích đƣợc duy trì ổn định trong khi
tốc độ truyền đƣợc thay đổi liên tục. Vì thế thời gian tỉnh của nhóm có kiểm
soát nồng độ đích ngắn hơn nhóm không kiểm soát nồng độ đích. Đây là một
ƣu thế của gây mê kiểm soát nồng độ đích.
Thời gian hồi tỉnh phụ thuộc thời gian mê, thời gian mê càng dài thì
quá trình hồi phục càng chậm. Nguyên nhân là vì thời gian bán hủy nhạy cảm
theo tình huống tăng dần theo thời gian.
Thời gian hồi tỉnh còn phụ thuộc vào thuốc phối hợp trong mổ. Nghiên
cứu của chúng tôi sử dụng kết hợp fentanyl, là thuốc có tác dụng hiệp đồng
cộng với propofol, nên khi gây mê có thời gian kéo dài > 90 phút, fentanyl đã
bị tích luỹ dẫn đến kéo dài thời gian bán hủy nhạy cảm theo tình huống làm
gia tăng thời gian tỉnh của BN [54]. Phẫu thuật vùng bụng thƣờng có thời gian
kéo dài và phải mê sâu, bởi vậy nên thời gian hồi phục cũng kéo dài tƣơng
ứng.
Năm 2010, nghiên cứu của Coskun và cộng sự cho thấy kết hợp
fentanyl liều đầu tiên 3µg/kg, rồi duy trì 0,03 µg/kg/phút với nồng độ đích
propofol trung bình để duy trì mê là 4,0 µg/ml (điều chỉnh duy trì mê để giá
trị BIS = 50 ± 10) rồi để hồi tỉnh thì thời gian mở mắt là 6,7 phút, thời gian rút
NKQ là 7,3 phút và thời gian định hƣớng đúng là 7,6 phút [38].
Sylvie và cộng sự so sánh gây mê toàn thể kiểm soát nồng độ đích và
không kiểm soát nồng độ đích cho thủ thuật soi thanh quản hoặc phế quản
thấy rằng thời gian tỉnh ở nhóm kiểm soát nồng độ đích là 4,6 ± 2,0 phút ngắn
hơn so với 6,8 ± 0,5 phút của nhóm không kiểm soát nồng độ đích [121]. So
với chúng tôi, thời gian tỉnh trong nghiên cứu này ngắn hơn. Có thể do thời
91
gian gây mê trong nghiên cứu nói trên ngắn (lần lƣợt là 23 ± 9 phút và 19 ± 7
phút), đồng thời thuốc phối hợp là alfentanil hoặc remifentanil, là những
thuốc cũng có thời gian bán huỷ ngắn nên BN tỉnh nhanh hơn.
Tác giả Châu Thị Mỹ An nghiên cứu gây mê bằng propofol cho thấy
khả năng tỉnh sớm hơn ở nhóm kiểm soát nồng độ đích huyết tƣơng so với
nhóm không kiểm soát nồng độ đích (14,0 ± 9,8 phút so với 24,5 ± 16,6 phút)
[1]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu này: thời
gian tỉnh của nhóm gây mê có kiểm soát nồng độ đích ngắn hơn so với nhóm
không kiểm soát nồng độ đích.
Nghiên cứu của Servin cho kết quả thời gian mở mắt và thời gian định
hƣớng đúng (có thể nhớ đƣợc ngày sinh) từ khi dừng thuốc ở nhóm có kiểm
soát nồng độ đích dài hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích, lần
lƣợt là 15,4 ± 10,7 phút so với 13,8 ± 10,2 phút với (p < 0,05), và 25,9 ±
22,1 phút so với 22,3 ± 16,7 phút, với p < 0,05 [107]. Nhƣng trong nghiên
cứu này tác giả đã sử dụng cách tiêm từng liều cách quãng để duy trì mê ở
nhóm không kiểm soát nồng độ đích nên dẫn đến sự khác biệt đã nêu trên.
4.2.1.4. Thời gian đủ điều kiện rút NKQ
Thời gian đủ điều kiện rút NKQ đƣợc tính từ lúc ngừng sử dụng thuốc
cho tới khi đủ các điều kiện rút NKQ. Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian
đủ điều kiện rút NKQ ở nhóm có kiểm soát nồng độ đích ngắn hơn so với
nhóm không kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,05. Điều này cũng dễ hiểu vì
thời gian đủ điều kiện rút NKQ phụ thuộc thời gian tỉnh. Thời gian đủ điều
kiện rút NKQ trong nghiên cứu của chúng tôi ít bị ảnh hƣởng do tồn dƣ giãn
cơ vì đã chủ động giải giãn cơ bằng neostigmine và atropin cuối cuộc mổ, khi
92
BN có từ 2 đáp ứng trở lên với kích thích chuỗi 4 với máy theo dõi độ giãn cơ
TOF - GUARD.
Năm 2000, Watson và Shah sử dụng propofol gây mê có kiểm soát
nồng độ đích trên các BN phẫu thuật cột sống thấy thời gian tỉnh là 11,5 ± 5,3
phút, thời gian rút NKQ là 13,2 ± 6,5 phút [130]. Cùng năm, Picard và cộng
sự nghiên cứu gây mê bằng propofol cho trẻ em thấy thời gian rút NKQ là 15
phút (8 - 27 phút), dài hơn so với gây mê bằng sevofluran chỉ là 14 phút (9 -
25 phút) [96].
Theo nghiên cứu của Mayer và cộng sự năm 2008, thời gian rút NKQ
của nhóm TCI cũng ngắn hơn nhóm MCI, lần lƣợt là 9,6 ± 2,1 phút so với
15,7 ± 9,6 phút, p= 0,011 [80].
Nhƣ vậy, gây mê bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích có thể cho
phép rút NKQ sớm hơn không kiểm soát nồng độ đích. Về nhận định này,
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các tác giả trên.
4.2.1.5. Thời gian đạt từ 10/14 thang điểm Aldrete
Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian đạt từ 10 điểm Aldrete ở nhóm
có kiểm soát nồng độ đích là 30,03 ± 6,61 phút, nhóm không kiểm soát nồng
độ đích là 33,22 ± 5,62 phút, khác nhau có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Nhƣ
vậy thời gian lƣu hồi tỉnh của nhóm 2 dài hơn nhóm 1.
Nghiên cứu gây mê bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trên các
bệnh nhân phẫu thuật tai mũi họng, Mahli A. và cộng sự [76] cho thấy cho
thấy thời gian đạt 10 điểm Aldrete là 15 phút.
Nghiên cứu của Breslin và cộng sự [27] cho thấy thời gian đạt trên 9/10
điểm Aldrete ở hai nhóm TCI và MCI tƣơng đƣơng nhau, lần lƣợt là 18 ± 6
phút và 18 ± 8 phút. Tác giả cho rằng nguyên nhân là vì lƣợng propofol tiêu
93
thụ tính từ thời điểm 30 phút sau khởi mê cho đến cuối cuộc mổ của hai nhóm
là tƣơng đƣơng. Nghiên cứu này đã đƣợc thực hiện trên các BN khỏe mạnh có
thời gian phẫu thuật trung bình chỉ là 78 phút, ngắn hơn so với chúng tôi.
4.2.1.6. Thời gian tỉnh ước tính trên máy của nhóm 1
Trong giai đoạn hồi tỉnh, nồng độ thuốc mê tại cơ quan đích sẽ giảm
dần. Khi nồng độ thuốc giảm tới ngang mức nồng độ đã khiến bệnh nhân mất
ý thức trong giai đoạn khởi mê, thì bệnh nhân có thể tỉnh tỉnh lại. Hệ thống
TCI có khả năng tính toán và hiển thị cho biết thời gian để nồng độ đích sẽ trở
về một giá trị đặt trƣớc nào đó. Thông thƣờng, nếu gây mê bằng propofol liều
duy nhất ở các BN khoẻ mạnh, không đƣợc tiền mê trƣớc đó, nồng độ tại não
khi bệnh nhân tỉnh lại nằm trong khoảng 1-1,5 µg/ml [19]. Nhờ vậy, khi sử
dụng kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích chúng ta có thể ƣớc đoán tƣơng
đối chính xác thời điểm bệnh nhân sẽ tỉnh. Do đó, ngƣời gây mê có thể căn cứ
vào thời gian tỉnh ƣớc tính trên máy để điều chỉnh quá trình hồi tỉnh một cách
khoa học và chủ động, cụ thể hơn là dừng truyền thuốc tại thời điểm thích hợp
tránh cho BN thức tỉnh quá sớm hoặc tỉnh chậm sau gây mê. Đây là một ƣu
điểm lớn của kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích.
Theo kết quả nghiên cứu, sự khác biệt giữa thời gian tỉnh và thời gian
tỉnh ƣớc tính trên máy của nhóm kiểm soát nồng độ đích không có ý nghĩa
thống kê, với p > 0,05. Điều này có nghĩa là trong nghiên cứu này, hệ thống
TCI-I đã dự báo khá chính xác thời gian bệnh nhân sẽ tỉnh lại sau gây mê.
Mức nồng độ thuốc mà chúng tôi cài đặt cho máy để ƣớc tính thời gian thức
tỉnh trong nghiên cứu này là 1 µg/ml, gần bằng nồng độ thuốc khi trung bình
khi BN có thể mở mắt: 1,01 ± 0,18 µg/ml (Bảng 3.27).
Năm 2010, Naser và cộng sự nghiên cứu gây mê bằng propofol kiểm
soát nồng độ đích trên các BN phẫu thuật thần kinh cho thấy thời gian tỉnh
ƣớc tính là 8,33 ± 2,92 phút, thời gian mở mắt là 8,76 ± 2,81 phút [88].
94
Thời gian tỉnh và thời gian tỉnh ƣớc tính của nhóm 1 trong nghiên cứu
của chúng tôi lần lƣợt là 17,35 ± 6,37 phút và 16, 67 ± 3,23 phút, dài hơn so
với kết quả nêu trên. Theo chúng tôi sự khác biệt là do nghiên cứu của Naser
có tổng thời gian phẫu thuật ngắn hơn (81,67 ± 19,63 phút so với 127, 00 ±
31,57 phút), đồng thời tác giả sử dụng gây mê propofol kết hợp với
remifentanil, một thuốc có thời gian bán hủy ngắn và hầu nhƣ không tích lũy.
4.2.2. Tiêu thụ propofol
4.2.2.1. Tiêu thụ propofol khi khởi mê
Năm 1999, những nghiên cứu đa trung tâm ở Châu Âu đã đƣa ra
khuyến cáo rằng nồng độ đích trong huyết tƣơng để khởi mê cho propofol là
từ 4 - 8 µg/ml cho những bệnh nhân dƣới 55 tuổi và xếp loại sức khỏe ASA I-
II, chƣa đƣợc tiền mê. Lựa chọn nồng độ đích khi khởi mê còn phụ thuộc chủ
yếu vào các yếu tố sau: tuổi, tình trạng ASA trƣớc mê, thuốc tiền mê đã sử
dụng… Tuổi càng cao, tình trạng ASA càng cao nồng độ đích cần thiết để đạt
hiệu quả càng giảm [19].
Năm 2011, nghiên cứu về khởi mê propofol kiểm soát nồng độ đích có
theo dõi bằng điện não số hoá ENTROPY, nhóm tác giả Hoàng Văn Bách,
Nguyễn Quốc Kính và Công Quyết Thắng cũng đã cài đặt propofol nồng độ
đích huyết tƣơng 4 µg/ml cho phép khởi mê đầy đủ, an toàn và nhận xét rằng
nồng độ propofol_Ce có tƣơng quan chặt chẽ với ENTROPY [1].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phối hợp midazolam và fentanyl để
tiền mê cho tất cả các bệnh nhân. Vì chƣa có nhiều kinh nghiệm trong gây mê
kiểm soát nồng độ đích, chúng tôi chọn nồng độ đích trong não đầu tiên là 4
µg/ml, mức thấp nhất trong khuyến cáo trên để khởi mê cho các bệnh nhân ở
nhóm 1. Trong quá trình khởi mê, mỗi BN có đáp ứng khác nhau, bởi vậy
phải điều chỉnh cho phù hợp với từng cá thể. Về lý thuyết, để chọn liều thích
95
hợp với từng cá thể phải khởi mê theo từng bƣớc, có nghĩa là cài đặt nồng độ
đích ban đầu ở mức thấp sau đó nâng dần từng bƣớc để dò liều. Với những
BN còn trẻ, sức khỏe tốt có thể cài đặt liều cố định, ví dụ nhƣ 4, 6 hoặc
8μg/ml để khởi mê, nhƣng với nhƣng BN cao tuổi, có bệnh lý tim mạch kết
hợp thì nên sử dụng phƣơng pháp dò liều từ thấp lên cao [107].
Trong nghiên cứu này, quá trình khởi mê kết thúc khi điểm an thần
MOAAS = 0. Ở nhóm 1, mặc dù cài đặt nồng độ đích ở mức 4 μg/ml, nhƣng
căn cứ vào đáp ứng của mỗi BN lại phải có những điều chỉnh phù hợp. Nhƣ
đã trình bày trong phần phƣơng pháp nghiên cứu, nếu điểm MOAAS = 0 ở
nồng độ đích thấp hơn mức 4 μg/ml thì cần duy trì mê ở nồng độ vừa xác
định. Ngƣợc lại, khi nồng độ đích đã đạt mức cài đặt 4 μg/ml mà điểm
MOAAS vẫn > 0 thì cần điều chỉnh nâng từng bƣớc nồng độ đích cho tới khi
điểm MOAAS = 0 theo yêu cầu. Giá trị nồng độ đích của nhóm 1 sau đây sẽ
đƣợc trình bày trong mục 4.4.
Theo kết quả nghiên cứu, nhóm 1 tiêu thụ trung bình 72,46 ± 8,57 mg,
còn ở nhóm 2 tiêu thụ trung bình 113,08 ± 13,04 mg propofol để khởi mê.
Nhƣ vậy trong giai đoạn khởi mê, nhóm 2 tiêu thụ thuốc nhiều hơn nhóm 1,
với p < 0,001.
Sử dụng thuốc tiền mê phối hợp cho phép giảm nồng độ đích khi khởi
mê. Tzabar Y. và cộng sự nhận thấy cùng cài đặt nồng độ propofol ở mức 3
µg/ml nhƣng hiệu quả gây mê là khác nhau giữa các nhóm bệnh nhân nhận
liều midazolam tiền mê khác nhau: chỉ có 45% BN ở nhóm không sử dụng
midazolam, trong khi có 70%, 85% và 95% BN ở các nhóm nhận lần lƣợt 1
hoặc 2 hoặc 4 mg midazolam là đƣợc khởi mê đầy đủ [124].
Kết hợp với fentanyl cũng góp phần giảm liều propofol khi khởi mê.
Liều fentanyl 2 µg/kg tiêm tĩnh mạch trƣớc khởi mê 5 phút cho phép giảm tới
96
19% nồng độ đích có khả năng làm mất ý thức của propofol [91]. Khi nồng
độ fentanyl trong huyết tƣơng là 3ng/ml cho phép giảm 17% liều Cp50 gây
mất đáp ứng với lời nói của propofol [63].
Cài đặt liều 4 µg/ml khi dùng propofol khởi mê cho phẫu thuật ngoại
trú, Struys và cộng sự nhận thấy chỉ 38% bệnh nhân ở nhóm không đƣợc tiền
mê, 87% bệnh nhân ở nhóm tiền mê diazepam và 93% bệnh nhân ở nhóm tiền
mê cả diazepam và alfentanil đạt hiệu quả khởi mê đầy đủ.Và các tác giả
khuyến cáo nên dùng propofol với liều đầu 6 µg/ml để khởi mê trên những
BN không đƣợc tiền mê [117].
Với liều propofol 5 µg/ml và đƣợc tiền mê temazepam trƣớc đó,
Chaudhri S. và cộng sự khởi mê thành công cho 90% bệnh nhân [31].
Mặc dù cũng phối hợp với remifentanil để khởi mê, nhƣng Naser Y. và
cộng sự lại chọn nồng độ đích propofol trong huyết tƣơng khởi mê để đặt nội
khí quản là 7 µg/ml và nhận thấy rằng ít tăng HATB và nhịp tim sau đặt nội
khí quản hơn so với nhóm sử dụng liều 2 mg/kg để khởi mê theo cách thông
thƣờng, lƣợng propofol để khởi mê ở nhóm TCI nhiều hơn nhóm MCI.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng đồng thời cả hai thuốc propofol và
fentanyl khi khởi mê mà không dùng tiền mê trƣớc [87]. So với kết quả của
chúng tôi liều khởi mê của nghiên cứu này là rất cao, phải chăng đáp ứng với
thuốc còn thay đổi theo vùng địa lý và chủng tộc? Vấn đề này đang cần đƣợc
nghiên cứu thêm [39].
Nghiên cứu của chúng tôi là cài đặt nồng độ đích trong não ngay từ đầu
cho các BN nhóm 1. Sự khác nhau khi khởi mê giữa cài đặt nồng độ đích
huyết tƣơng hay não thực sự chỉ diễn ra trong quá trình khởi mê. Nguyên
nhân của hiện tƣợng này là do khi khởi mê có cài đặt nồng độ trong não thì ở
giai đoạn đầu nồng độ thuốc trong huyết tƣơng tăng nhanh và vƣợt qua mức
97
cài đặt sau đó mới giảm dần tới mức mong muốn và duy trì cân bằng với nồng
độ thuốc trong não, chính điều nàyđã gây ra việc ảnh hƣởng tới huyết động
nhiều hơn [14].
Ở nhóm 2 với liều khởi mê 2,18 ± 0,08 mg/kg là cao hơn có ý nghĩa so
với nhóm 1 khi liều khởi mê trung bình quy đổi ra là 1,4 ± 0,00 mg/kg, với p
< 0,001.
Một số tác giả trên thế giới đã so sánh khởi mê kiểm soát nồng độ đích
với không kiểm soát nồng độ đích cũng cho nhận xét tƣơng tự.
Năm 1998, Servin trong một nghiên cứu đa trung tâm cho thấy liều mất
ý thức ở nhóm kiểm soát nồng độ đích thấp hơn nhóm chỉnh tay 1,69 ± 0,50
mg/kg so với 2,31 ± 0,75 mg/kg, p < 0,001. Tác giả cũng kết luận rằng nồng
độ đích làm BN mất ý thức giảm khi tuổi và xếp loại theo ASA tăng [107].
Nghiên cứu của Liu và cộng sự [74] chỉ ra khi khởi mê bằng propofol
kiểm soát nồng độ đích có hƣớng dẫn của BIS đơn thuần, duy trì ở mức 50 thì
lƣợng thuốc tiêu thụ là 1,8 ± 0,6 mg/kg, nếu có hƣớng dẫn bởi BIS chu trình
kín thì lƣợng thuốc tiêu thụ chỉ là 1,4 ± 0,5 mg/kg.
Liều khởi mê trong nghiên cứu của Struys và cộng sự là 1,31 mg/kg ở
nhóm kiểm soát nồng độ đích, 2,74 mg/kg và 1,71 mg/kg ở nhóm không kiểm
soát nồng độ đích với tốc độ tiêm lần lƣợt là 1200 và 600 ml/h [118].
4.2.2.2. Tổng liều propofol sử dụng trong mổ
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tổng số lƣợng propofol và
liều trung bình ở nhóm 1 và nhóm 2 lần lƣợt là 1160 ± 300 mg và 9,04 ± 0,29
mg/kg/h, 1040 ± 308 mg và 7,17 ± 0,07 mg/kg/h. Nhƣ vậy, nhóm 1 đã tiêu
thụ propofol nhiều hơn so với nhóm 2, khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05. Mặc
dù tổng lƣợng thuốc tiêu thụ ở nhóm 1 nhiều hơn so với nhóm 2 nhƣng điều
đó không thể so sánh với tính ổn định trong gây mê mà chúng tôi sẽ phân tích
98
sau đây. Đó chính là nâng cao chất lƣợng quá trình gây mê, đảm bảo an toàn
cho BN hạn chế tối đa sự tỉnh lại trong mổ, là nguyên nhân gây ra những ấn
tƣợng xấu sau gây mê.
Mazzarella B. và cộng sự [81] trong nghiên cứu năm 1999 nhận thấy
liều khởi mê propofol thấp hơn (1,4 so với 1,9 mg/kg), nhƣng tốc độ truyền
duy trì lại cao hơn (10,2 so với 8,8 mg/kg/h) ở nhóm kiểm soát nồng độ đích
so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích. Rusell D. và cộng sự cũng cho
nhận xét tƣơng tự [100].
Hutton P. và Kenny G. năm 1995, cũng đã đƣa ra kết quả tiêu thụ
propofol ở nhóm kiểm soát nồng độ đích trung bình là 13,2 mg/kg/h nhiều
hơn nhóm không kiểm soát nồng độ đích là 8,2 mg/kg/h (trích dẫn [19]).
Năm 2004, Breslin và cộng sự trong nghiên cứu so sánh tƣơng tự
nhƣng có hƣớng dẫn theo dõi độ mê BIS đã cho kết quả nhóm kiểm soát nồng
độ đích sử dụng trung bình 9,9 mg/kg/h, trong khi nhóm không kiểm soát
nồng độ đích thấp hơn, chỉ là 8,1 mg/kg/h, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
< 0,001. Tác giả cũng nhận thấy tiêu thụ propofol trong nhóm TCI chủ yếu
cao hơn nhóm MCI trong 30 phút đầu tiên, còn thời gian sau đó thì tƣơng
đƣơng nhau [27].
Kết quả của chúng tôi cũng tƣơng tự với các tác giả trên.
Năm 2006, Triem và cộng sự dùng kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích tối
ƣu (OTCI – Optimated target controlled infusion) so sánh với không kiểm
soát nồng độ đích lại cho kết quả ngƣợc lại. Đó là nhóm kiểm soát nồng độ
đích tiêu thụ lƣợng propofol ít hơn nhóm còn lại: 816 ± 114 mg so với 915 ±
205 mg [123]. Khác biệt là do khi khởi mê ở nhóm kiểm soát nồng độ đích tối
ƣu, tác giả đã truyền với tốc độ 800ml/h cho đến khi mất ý thức, hệ thống tự
99
tính toán nồng độ tại thời điểm đó và tăng thêm 1 - 2 µg/ml để duy trì mê với
BIS ở mức 40 – 50.
4.2.3. Khả năng duy trì mê
4.2.3.1. Điều chỉnh độ mê trong mổ
Hiện nay, phần lớn các cơ sở y tế tại Việt Nam chƣa có các phƣơng tiện
theo dõi độ mê dựa vào phân tích các dữ liệu khách quan nhƣ BIS,
ENTROPY... Do đó khi điều chỉnh độ mê vẫn phải căn cứ vào đáp ứng lâm
sàng của BN và yêu cầu của từng giai đoạn trong quá trình phẫu thuật. Trong
quá trình phẫu thuật các kích thích có cƣờng độ khác nhau và thay đổi theo
giai đoạn của phẫu thuật. Kích thích đƣợc coi là mạnh nhất khi đặt NKQ, rạch
da… Trong phẫu thuật bụng, các can thiệp sâu tới các tạng ở tầng trên mạc
treo đại tràng ngang cũng gây nên những kích thích mạnh. Để duy trì độ mê
ổn định, ngƣời gây mê phải nắm chắc diễn biến của phẫu thuật và chủ động
điều chỉnh mê sâu hơn trƣớc khi có các kích thích mạnh xảy ra, hoặc có thể
giảm độ mê trƣớc khi vào giai đoạn phẫu thuật có ít kích thích hơn. Điều này
sẽ góp phần làm giảm lƣợng thuốc sử dụng cho BN.
Mục tiêu duy trì mê là điều chỉnh sao cho điểm PRST ≤ 2 và không để
BN bị mê quá sâu. Điều khiển độ mê bằng kiểm soát nồng độ đích tƣơng đối
dễ sử dụng. Khi sử dụng gây mê kiểm soát nồng độ đích các bác sĩ ít có kinh
nghiệm cũng có thể nhanh chóng làm quen để sử dụng thành thạo và ƣa thích
kỹ thuật này [100]. Kiểm soát nồng độ đích chỉ giúp bác sĩ dễ dàng kiểm soát
độ mê chứ không quyết định đƣợc mức mê của BN.
Ở nhóm 1 điều chỉnh độ mê thực hiện dễ dàng bằng cách thay đổi tăng
hoặc giảm nồng độ đích từng mức 0,2 µg/ml, màn hình trên hệ thống cho biết
thời điểm đạt đƣợc nồng độ đích mong muốn mới. Trong hai phút tiếp theo,
ngƣời gây mê đánh giá sự thay đổi mức mê lâm sàng của BN để quyết định có
cần tiếp tục điều chỉnh không. Cứ nhƣ vậy sẽ tìm đƣợc mức mê phù hợp với
từng giai đoạn phẫu thuật. Nồng độ propofol tại đích sẽ đƣợc duy trì ổn định
100
cho tới lần điều chỉnh tiếp theo. Hệ thống TCI cho phép ngƣời gây mê điều
chỉnh nồng độ từng mức tối thiểu 0,1 µg/ml cho nên việc điều chỉnh độ mê rất
linh hoạt và chủ động. Trong thực hành lâm sàng điều chỉnh độ mê không thất
thiết phải thay đổi từng mức 0,2 µg/ml nhƣ trong nghiên cứu này mà có thể
điều chỉnh nhiều hơn tùy tình huống cụ thể nhằm nhanh chóng đạt mức mê
mới theo yêu cầu.
Số lần điều chỉnh tăng độ mê của nhóm 2 trong giờ đầu ít hơn so với
nhóm 1, nhƣng số lần cần điều chỉnh giảm độ mê lại nhiều hơn. Điều này
chứng tỏ khi khởi mê, các bệnh nhân nhóm 2 có mức mê sâu hơn. Theo chúng
tôi nguyên nhân là bởi liều lƣợng thuốc mê khác nhau nhƣ đã phân tích ở mục
4.2.2.1. Trong các giờ tiếp theo, số lần điều chỉnh độ mê (bao gồm cả tăng và
giảm độ mê) của nhóm 2 luôn cao hơn so với nhóm 1, đồng nghĩa với việc độ
mê đƣợc duy trì ổn định hơn ở nhóm có kiểm soát nồng độ đích.
Nghiên cứu hồi cứu của Leslie và cộng sự [69] qua 20 công trình thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh kiểm soát nồng độ đích (TCI) và không
kiểm soát nồng độ đích (MCI) cho thấy đều có kết luận sự can thiệp trong quá
trình gây mê ít hơn ở nhóm TCI.
Năm 2008, nghiên cứu của Mayer và cộng sự trên các BN phẫu thuật
bụng cho thấy: có cải thiện rõ ràng độ ổn định khi gây mê khi so sánh giữa hai
nhóm kiểm soát nồng độ đích và không kiểm soát nồng độ đích qua số lần
phải điều chỉnh tốc độ tiêm truyền trong mổ. Nhóm có kiểm soát nồng độ đích
là 0,43 ± 0,44 lần/giờ/một bệnh nhân, ít hơn so với nhóm không kiểm soát
nồng độ đích 1,31 ± 0,78 lần/giờ/một bệnh nhân, p = 0,003 [80].
Năm 2008, Sreevastava và cộng sự nhận xét chất lƣợng gây mê đánh
giá theo bảng điểm của Evans tốt hơn ở nhóm có kiểm soát nồng độ đích,
đồng thời huyết động ổn định hơn và cũng cần can thiệp điều chỉnh trong thời
gian duy trì mê ít hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích [115].
Nghiên cứu so sánh gây mê trên các BN cao tuổi của Li và cộng sự [70]
năm 2011, cho thấy kiểm soát nồng độ đích có số lần điều chỉnh bơm tiêm ít
101
hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích 5,8 ± 2,1 lần so với 7,8 ± 3,7
lần, khác biệt có ý nghĩa với p < 0,01.
Trên các BN phẫu thuật thần kinh, Esposito I. và cộng sự nhận thấy ở
nhóm duy trì mê kiểm soát nồng độ đích cần điều chỉnh độ mê ít hơn so với
nhóm không kiểm soát nồng độ đích (11 so với 2 lần, p = 0,046) [42].
Để đánh giá độ mê lâm sàng chúng tôi dựa vào bảng điểm PRST của
Evans và mức mê lâm sàng của Ausems. Khi điểm PRTS ≥ 3 đƣợc coi là tỉnh
trong mổ. Đây là các phƣơng pháp đánh giá mức độ mê một cách chủ quan,
dựa vào các đáp ứng với các kích thích phẫu thuật của bệnh nhân trong quá
trình gây mê. Mặc dù không phản ánh đầy đủ đƣợc độ sâu của mê trên lâm
sàng nhƣ các phƣơng tiện theo dõi khác sử dụng và phân tích các dữ liệu
khách quan nhƣ BIS, ENTROPY… nhƣng theo chúng tôi thang điểm PRTS,
phân loại mức mê của Ausems vẫn còn hữu dụng trên lâm sàng vì hiện nay
các phƣơng tiện theo dõi độ mê hiện đại nêu trên thƣờng có giá thành khá cao,
chƣa phải là các phƣơng tiện trang bị tiêu chuẩn cho các khoa Gây mê Hồi
sức ở hầu hết các bệnh viện tại Việt Nam. Chúng tôi sử dụng bảng điểm này
làm một cơ sở cho quyết định điều chỉnh độ mê bằng cách điều chỉnh thuốc.
Theo kết quả Bảng 3.12 số bệnh nhân có dấu hiệu tỉnh trong mổ gặp ở nhóm
không kiểm soát nồng độ đích nhiều hơn nhóm có kiểm soát nồng độ đích.
Đây là một bằng chứng nữa cho thấy duy trì mê của nhóm 1 ổn định hơn
nhóm 2.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy thay đổi điểm PRST chủ
yếu do biến động nhịp tim và huyết áp trong mổ, còn giá trị điểm mồ hôi và
nƣớc mắt ít thay đổi hơn. Bởi vậy, các thay đổi về nhịp tim và huyết áp có ý
nghĩa lớn trong tính điểm PRST, đánh giá và điều chỉnh độ mê. Thực tế lâm
sàng chúng tôi nhận thấy thay đổi của nhịp tim đƣợc nhận biết nhanh hơn so
với những thay đổi về huyết áp. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng
phƣơng pháp đo huyết áp không xâm nhập và cài đặt đo tự động 5 phút/lần.
Cho nên thay đổi về điểm PRST trƣớc tiên là do thay đổi về nhịp tim. Điểm
102
PRST tăng có nghĩa là BN có xu hƣớng tỉnh, và cần phải điều chỉnh độ mê.
Nếu nhƣ nhịp tim tăng > 15 nhịp/phút (mà không phải do nguyên nhân khác
nhƣ mất máu trong mổ), điểm PRST tăng 1 điểm, trƣớc tiên chúng tôi tiêm bổ
sung giảm đau fentanyl. Sau đó điểm PRST vẫn tiếp tục tăng thì điều chỉnh
tăng nồng độ đích ở nhóm 1, tăng tốc độ truyền của propofol ở nhóm 2 theo
quy trình nghiên cứu. Nhƣ vậy chúng ta sẽ chủ động duy trì mê thích hợp với
diễn biến của phẫu thuật. Không nên chờ đợi BN tỉnh mới điều chỉnh độ mê.
Ở cả hai nhóm, chúng tôi nhận thấy, trong giờ đầu phải điều chỉnh độ
mê nhiều hơn các giờ sau, đó là giai đoạn thăm dò đáp ứng của BN với các
kích thích của phẫu thuật và thuốc mê. Từ đó dò tìm đƣợc nồng độ hoặc liều
lƣợng thích hợp nhất để duy trì mê trong thời gian tiếp theo.
Với cách cho thuốc nhƣ ở nhóm không kiểm soát nồng độ đích, nồng
độ thuốc trong máu không duy trì đƣợc ở mức hằng định. Đó là yếu tố quan
trọng khiến huyết động của bệnh nhân không đƣợc duy trì ổn định.
Còn ở nhóm kiểm soát nồng độ đích, chúng ta dễ dàng duy trì nồng độ
thuốc ở mức mong muốn. Theo chúng tôi, việc dễ dàng điều chỉnh của hệ
thống TCI cũng làm cho các bác sĩ gây mê dễ dàng duy trì mức mê ổn định
hơn trong quá trình duy trì mê so với cách chỉnh tay, phụ thuộc hoàn toàn thói
quen và kinh nghiệm của họ.
4.2.3.2. Chất lượng thức tỉnh sau gây mê
Kết quả nghiên cứu cho thấy các tác dụng phụ gặp với tỷ lệ thấp, không
có sự khác biệt giữa hai nhóm. Sau mổ ý thức của các BN trong cả hai nhóm
hồi phục tốt và sáng sủa, không xuất hiện ảo giác.
Mặc dù thực tế thì propofol là một thuốc có tác dụng chống nôn tốt
[98]. Tuy nhiên vẫn có BN buồn nôn và nôn nhƣng với tỷ lệ thấp. Nguyên
nhân gây buồn nôn và nôn theo chúng tôi có lẽ là do dùng kết hợp với thuốc
fentanyl hoặc BN bị kích thích vùng hầu họng bởi ống thông dạ dày khi đã
tỉnh lại sau mổ.
103
Trong cả hai nhóm nghiên cứu không có BN nào nhớ, biết hay có ngủ
mơ trong quá trình gây mê phẫu thuật. Cho dù trong quá trình gây mê có một
số thời điểm ghi nhận đƣợc điểm PRST ≥ 3, gặp ở cả hai nhóm, nhƣng thang
điểm này không thực sự phản ánh trung thực độ mê của BN, vì nó bị ảnh
hƣởng bởi một số yếu tố kết hợp khác [61].
4.2.3.3. Mức độ đau tại thời điểm sau rút NKQ
Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ đau của các BN sau rút NKQ ở
mức độ trung bình, đây là mức đau mà bệnh nhân có thể chịu đựng đƣợc. Sự
khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê. Hiệu quả
giảm đau là do tác dụng của fentanyl. Do propofol hầu nhƣ không có tác dụng
giảm đau ở liều điều trị, nên để gây mê phẫu thuật cần phối hợp với fentanyl
hoặc các thuốc nhóm opioid khác. Giảm đau đầy đủ góp phần quan trọng để
duy trì huyết động ổn định.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, fentanyl đƣợc sử dụng nhƣ sau: liều
1,0 đến 2,0 g/kg, theo diễn biến lâm sàng của bệnh nhân, cứ 20-30 phút nhắc
lại một lần. Những BN có điểm VAS ≥ 5 chúng tôi bổ sung thuốc giảm đau
nhóm NSAID, cụ thể là perfalgan 1g/100ml truyền tĩnh mạch trong 15 phút.
4.3. ẢNH HƢỞNG HUYẾT ĐỘNG VÀ HÔ HẤP CỦA GÂY MÊ KIỂM
SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH
4.3.1. Thay đổi huyết động
4.3.1.1. Giai đoạn khởi mê
Khi khởi mê bằng propofol thƣờng có giảm nhịp tim và huyết áp. Mức
độ giảm phụ thuộc vào liều lƣợng, tốc độ tiêm propofol và tình trạng của bệnh
nhân. Nguyên nhân của hiện tƣợng này là do propofol có tác dụng ức chế cơ
104
tim. Với liều khởi mê trung bình 2 – 2,5 mg/kg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, mức
độ giảm nhịp tim và huyết áp trung bình khoảng 20 – 30% [10].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sau khi khởi mê nhịp tim và
HATB của cả hai nhóm đều giảm, rồi tăng lên sau đặt NKQ, nhƣng nhịp tim
và HATB của nhóm 2 giảm nhiều hơn ở các thời điểm T1 và T2 so với nhóm
1(với p < 0,001). Đồng thời, số BN có nhịp tim chậm sau khởi mê (giảm
trên 20% so với trƣớc khởi mê) ở nhóm 2 cũng nhiều hơn nhóm 1, 46 BN
(70,8%) so với 21 BN (30,9%), khác nhau có ý nghĩa thống kê. Hơn nữa,
trong nhóm 1 có 23 BN (35,4%), nhóm 2 có tổng số 43 BN (66,2%) giảm
HATB sau khởi mê. Nhƣ vậy, tỷ lệ BN có giảm HATB sau khởi mê ở nhóm 2
nhiều hơn nhóm 1, với p < 0,001.
Nguyên nhân ở đây là do liên quan tới lƣợng thuốc propofol đƣợc sử
dụng để khởi mê khác nhau giữa hai nhóm mà chúng tôi đã đề cập ở mục 0.
Liu Shao-hua và cộng sự cũng sử dụng propofol liều 4 µg/ml khởi mê
cho các bệnh nhân có tuổi từ 60 – 80, ASA 1-3, và nhận xét rằng khởi mê
theo từng bƣớc phù hợp hơn vì huyết động ổn định hơn. Tác giả đã đặt nồng
độ ban đầu là 2 µg/ml, sau đó nâng thêm 1 µg/ml mỗi lần, cho đến khi đạt 4
µg/ml [75].
Năm 2006, Naser Yeganeh và cộng sự nhận xét rằng giảm HATB gặp
nhiều hơn ở nhóm MCI trong khởi mê và đặt NKQ so với nhóm TCI, nhƣng
tăng HATB và nhịp nhanh lại gặp nhiều hơn ở nhóm MCI sau đặt NKQ. Mặc
dù trong nghiên cứu tác giả đặt nồng độ đích ban đầu ở nhóm TCI cao hơn
chúng tôi: 7 µg/ml, còn nhóm MCI dùng liều bolus 2mg/kg, nhƣng cũng cho
kết quả tƣơng tự [87].
105
Nhƣ vậy, có thể kết luận là huyết động trong giai đoạn khởi mê của
nhóm có kiểm soát nồng độ đích ổn định hơn so với nhóm không kiểm soát
nồng độ đích.
Sự ổn định huyết động khi khởi mê là rất có lợi, nhất là với các bệnh
nhân cao tuổi, tình trạng nặng hoặc có bệnh lý tim mạch phối hợp. Trên
những bệnh nhân này, khi sử dụng propofol để khởi mê nên cài đặt kiểm soát
nồng độ thuốc trong huyết tƣơng (plasma TCI) liều đầu tiên ở mức thấp rồi
tăng dần theo từng bƣớc để dò liều để đảm bảo huyết động ổn định hơn.
4.3.1.2. Giai đoạn duy trì mê
Duy trì huyết động ổn định là một yêu cầu rất quan trọng trong thực hành
gây mê. Nếu gây mê nông, các kích thích do phẫu thuật sẽ gây tăng nhịp tim
và tăng huyết áp, làm tăng tiết mồ hôi và nƣớc mắt. Ngƣợc lại, khi gây mê sâu
nhịp tim và HATB sẽ giảm do bị ức chế. Huyết động ổn định phản ánh chất
lƣợng cuộc mê tốt, đảm bảo an toàn cho bệnh nhân trong quá trình gây mê và
giúp bệnh nhân nhanh chóng hồi phục sau phẫu thuật. Duy trì đƣợc huyết
động ổn định trong quá trình gây mê là một nghệ thuật, đòi hỏi kiến thức và
kinh nghiệm của bác sỹ gây mê. Bên cạnh đó, mục tiêu của việc phát triển các
thuốc gây mê, phƣơng tiện giúp gây mê hay các kỹ thuật gây mê mới đều là
để duy trì mê ổn định hơn, nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc mê. Propofol và
kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích ra đời cũng không nằm ngoài mục
đích đó.
Theo kết quả nghiên cứu, nhịp tim ở các thời điểm T3, T4, T5 trong
giai đoạn duy trì mê khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm.
Tƣơng tự, kết quả cũng cho thấy HATB của cả hai nhóm khác nhau không có
ý nghĩa thống kê ở các thời điểm T3, T4 và T5.
106
Nhƣng nếu chỉ so sánh giá trị HATB tại một số thời điểm nhất định thì
không phản ánh đầy đủ diễn biến thay đổi HATB trong giai đoạn này. Bởi
vậy, chúng tôi đã so sánh tỷ lệ BN có thay đổi HATB lớn nhất ở các mức <
10%, từ 10 – 20% và > 20% so với HATB nền trƣớc mê.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy số BN có thay đổi HATB lớn nhất ở
mức > 20% của nhóm 1 ít hơn so với nhóm 2, có ý nghĩa thống kê, với p <
0,001. Ngƣợc lại, cũng trong nhóm 1, tỷ lệ BN có mức thay đổi HATB lớn
nhất chỉ < 10% là nhiều hơn so với nhóm 2. Tƣơng tự, tỷ lệ BN có thay đổi
HATB lớn nhất ở mức 10 - 20% ở nhóm 1 cũng thấp hơn so với nhóm 2.
Nhƣ vậy, qua các kết quả trên chúng tôi thấy khả năng ổn định huyết
động trong giai đoạn duy trì mê của nhóm có kiểm soát nồng độ đích tốt hơn
nhóm không kiểm soát nồng độ đích. Điều đó có đƣợc vì nồng độ thuốc tại cơ
quan đích ở nhóm 1 luôn là hằng định trong khoảng thời gian giữa hai lần
điều chỉnh của bác sĩ gây mê. Mỗi lần điều chỉnh nồng độ đích là mỗi lần
bệnh nhân đƣợc đƣa đến một mức độ mê nhất định và đƣợc duy trì ổn định
liên tục cho đến khi có sự điều chỉnh tiếp theo. Theo một số nghiên cứu, ngay
khi sử dụng bơm tiêm điện truyền thuốc với tốc độ cố định thì nồng độ thuốc
trong huyết tƣơng cũng không phải là một hằng số [105]. Cách sử dụng TCI
cho các thuốc mê tĩnh mạch cũng giống nhƣ sử dụng bình bốc hơi với các
thuốc mê thể khí: nghệ thuật “dò liều”. Khi cần tăng độ mê, chúng ta tăng
nồng độ đích dễ dàng bằng các nút điều chỉnh trên máy. Hệ thống TCI sẽ tự
động tính toán tốc độ và thời gian tiêm truyền để có hiệu quả nhanh nhất đƣa
nồng độ thuốc đến mức cao hơn, có nghĩa là đƣa BN đến mức mê sâu hơn.
Ngƣợc lại, nếu cần giảm mức mê, ta giảm nồng độ đích, máy sẽ tự động dừng
truyền cho tới khi nồng độ thuốc xuống thấp tới mức đạt hiệu quả mê mong
107
muốn và cũng tự động duy trì nồng độ thuốc ở mức này. Công việc của bác sĩ
gây mê chỉ là đánh giá hiệu quả lâm sàng mà không phải mất thời gian tính
toán liều lƣợng thuốc bù thêm. Rõ ràng rằng cách cho thuốc nhƣ thế khoa học
hơn sử dụng theo các cách thông thƣờng khác.
Năm 1999, Mazzarella và cộng sự [81] qua nghiên cứu 160 BN đã chỉ
ra rằng gây mê kiểm soát nồng độ đích hiệu quả, an toàn và dễ chấp nhận hơn
so với nhóm kiểm soát bằng tay.
Trong một số báo cáo sử dụng propofol duy trì mê trên những BN khoẻ
mạnh, thay đổi HATB ở nhóm kiểm soát nồng độ đích từ 12 – 26%, trong khi
ở nhóm không kiểm soát nồng độ đích từ 16 - 28%. Sự khác biệt này còn lặp
lại với nhóm BN trên 55 tuổi. Trong nghiên cứu này, các tác giả cũng thấy
rằng tiền mê bằng các thuốc nhóm benzodiazepine không ảnh hƣởng tới huyết
động [19], [100], [117].
Trên các BN phẫu thuật thần kinh, Esposito I. và cộng sự nhận thấy ở
nhóm duy trì mê kiểm soát nồng độ đích có huyết động ổn định hơn nhóm
không kiểm soát nồng độ đích [42].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nhận định trên.
4.3.1.3. Giai đoạn hồi tỉnh
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở các thời điểm T6, T7, T8 mạch và
HATB ở hai nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê, p < 0,05.
Khi gần về cuối cuộc mổ, ngừng cho thêm thuốc, nồng độ thuốc sẽ
giảm dần ở cả hai nhóm do quá trình thải trừ. Nồng độ thuốc mê trong máu,
trong não sẽ giảm dần, nên BN cũng dần tỉnh lại, bởi vậy các kích thích lại
gây tăng nhịp tim và HATB. Vì thế, nhịp tim và HATB thời điểm T7 tăng
hơn so với thời điểm T6 do BN bắt đầu có cảm giác đau hoặc bị kích thích do
108
còn ống NKQ. Trong giai đoạn này bác sĩ gây mê cần giải quyết hài hòa giữa
khả năng tỉnh sớm của BN và ảnh hƣởng bất lợi của đau kết hợp kích thích do
ống NKQ gây nên. Trong nghiên cứu này, chúng tôi rút NKQ ngay khi đạt đủ
các điều kiện để giảm thiểu sự ảnh hƣởng huyết động của tác nhân này. Nhịp
tim của cả hai nhóm tăng nhẹ có thể là do chúng tôi đã dùng atropin nâng lên
mức > 90 lần/phút khi giải giãn cơ.
Những thay đổi huyết động trong quá trình hồi tỉnh của hai nhóm BN
trong nghiên cứu của chúng tôi thể hiện qua các kết quả đã trình bày là ở
trong mức an toàn cho phép với BN.
Nhƣ vậy, mặc dù không có đƣợc các phƣơng tiện theo dõi độ mê hiện
đại, nhƣng quy trình đã đƣợc áp dụng trong nghiên cứu của chúng tôi cũng
vẫn cho phép duy trì huyết động ổn định. Đồng nghĩa với nó là chất lƣợng
gây mê ổn định. Bởi vì, theo chúng tôi, thay đổi điểm số PRST chủ yếu là do
thay đổi giá trị HATB và nhịp tim, còn giá trị điểm mồ hôi và nƣớc mắt ít
thay đổi hơn, nhƣ đã phân tích ở trang 102.
4.3.2. Ảnh hƣởng hô hấp
Khi khởi mê bằng propofol ảnh hƣởng tới hô hấp thƣờng là giảm tần số
thở và ngừng thở, nhất là trên những bệnh nhân đã đƣợc tiền mê với các thuốc
thuộc nhóm opioid. Vì vậy, bệnh nhân cần đƣợc thở oxy 100% trong giai
đoạn này. Nếu chỉ sử dụng mê tĩnh mạch đơn thuần và để bệnh nhân tự thở thì
việc theo dõi hô hấp phải rất cẩn trọng nhằm phát hiện sớm nguy cơ, các dấu
hiệu suy hô hấp và xử lý kịp thời.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở cả hai nhóm, đều gặp hiện tƣợng
ngừng thở trong khi khởi mê, nhóm không kiểm soát nồng độ đích gặp nhiều
hơn nhóm có kiểm soát nồng độ đích.
109
Khi bệnh nhân đã mất ý thức thì tiêm giãn cơ và tiến hành thông khí
nhân tạo một cách chủ động, nên chúng tôi không ghi nhận giảm SpO2 tới
mức dƣới 90% ở bất cứ bệnh nhân nào. Khi đặt nội khí quản, chúng tôi không
ghi nhận trƣờng hợp nào bị co thắt thanh quản ở cả hai nhóm nghiên cứu,
thanh môn mở tốt, thủ thuật đặt NKQ đƣợc thực hiện dễ dàng.
Triệu chứng ho chỉ gặp khi tiêm fentanyl trƣớc khởi mê. Cả hai nhóm
nghiên cứu không gặp triệu chứng này trong và sau đặt NKQ.
Một số BN có phản xạ ƣỡn cổ hoặc rƣớn ngƣời khi đặt NKQ: có 5 BN
ở nhóm 1 và 4 BN ở nhóm 2. Những BN này thƣờng có phản ứng tăng nhịp
tim và HATB sau đó và gợi ý là liều khởi mê chƣa đủ. Với những BN này
chúng tôi đã điều chỉnh tăng nồng độ đích với nhóm 1, sử dụng liều bổ sung
với nhóm 2, để đƣa điểm PRTS ≤ 2.
Nhƣ vậy, ảnh hƣởng bất lợi trên hô hấp của cả hai phƣơng thức gây mê
tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol là không đáng ngại và hoàn toàn kiểm soát
đƣợc một cách chủ động.
Năm 2002, Passot và cộng sự, khi nghiên cứu so sánh kiểm soát nồng
độ đích và chỉnh tay trên những BN soi thanh quản và phế quản cho thấy: tỷ
lệ còn cử động khi đặt máy soi ít hơn ở nhóm kiểm soát nồng độ đích so với
nhóm chỉnh tay (14,8% so với 44,4%), ổn định huyết động hơn: giá trị thay
đổi HATB lớn nhất ít hơn (chỉ là 10% so với 20%), tỷ lệ ngừng thở cũng thấp
hơn [121]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tƣơng tự của tác giả này.
4.4. CÁC GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐÍCH
4.4.1. Nồng độ đích khi khởi mê của propofol
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm 1, nồng độ đích não trung
bình của propofol để gây mất ý thức là 1,57 ± 0,18 µg/ml, khi đặt nội khí
110
quản là 3,59 ± 0,47 µg/ml. Căn cứ vào giá trị các nồng độ này khi khởi mê
của mỗi bệnh nhân, bác sỹ gây mê có thể định hƣớng khoảng nồng độ duy trì
mê cho bệnh nhân ấy trong giai đoạn sau. Nếu liều gây mất ý thức càng cao
thì mức duy trì mê cũng càng cao. Đồng thời, trên hệ thống TCI nếu ta đặt
trƣớc nồng độ thức tỉnh gần giá trị nồng độ gây mất ý thức, máy sẽ tự tính cho
chúng ta thời gian thức tỉnh một cách tƣơng đối chính xác.
Áp dụng thực tế lâm sàng, khi gây mê kiểm soát nồng độ đích những
bệnh nhân thỏa mãn các điều kiện tƣơng tự tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu
này, ta có thể chọn nồng độ thức tỉnh gán cho máy là 1,5 µg/ml. Hệ thống sẽ
tự tính toán đƣợc khoảng thời gian kể từ khi ngừng tiêm truyền đến khi nồng
độ thuốc giảm đến ngƣỡng 1,5 µg/ml, đó chính là thời gian tỉnh ƣớc đoán.
Nhƣ vậy, hệ thống TCI giúp bác sĩ gây mê ƣớc đoán thời điểm bệnh nhân tỉnh
chính xác hơn.
Trên nhóm ngƣời tình nguyện khoẻ mạnh, không đƣợc tiền mê, nồng
độ propofol để mất ý thức trong nghiên cứu của Iwakiri và cộng sự là 2,0 ±
0,9 µg/ml [58]. Có sự khác biệt với nghiên cứu trên có lẽ do những bệnh nhân
của chúng tôi đã đƣợc tiền mê phối hợp midazolam và fentanyl trƣớc khi khởi
mê.
Struys và cộng sự, nghiên cứu gây mê ngoại trú kiểm soát nồng độ đích
bằng propofol trên 45 BN nữ, so sánh giữa 3 nhóm: không tiền mê, tiền mê
midazolam và tiền mê midazolam kết hợp alfentanil cho kết quả không có sự
khác nhau về thời gian hồi tỉnh và thời gian định hƣớng đúng giữa các nhóm
[117]. Có lẽ nghiên cứu của tác giả có thời gian phẫu thuật ngắn hơn và
alfentanil cũng là thuốc có thời gian bán hủy ngắn.
111
Nghiên cứu của Puri và cộng sự cho thấy nồng độ đích não khi BN mất
ý thức là 2,3 – 2,8 μg/ml, và khi điểm MOAAS = 0 (có khả năng đặt NKQ)
trong khoảng 4-5 µg/ml [97]. Còn nghiên cứu của Alexandre và cộng sự cho
thấy khi nồng độ đích của propofol là 3,9 ± 1,4 µg/ml cho phép đặt NKQ tốt
[16].
So với các nghiên cứu trên, nồng độ đích để đặt NKQ của chúng tôi
thấp hơn, đó là vì các tác giả trên không sử dụng thuốc tiền mê kết hợp.
Nghiên cứu của Liu trên bệnh nhân cao tuổi có kết hợp remifentanil
nồng độ đích 4 ng/ml, nồng độ đích propofol thích hợp để đặt nội khí quản là
2,8 ± 0,3 µg/ml [75].
Khởi mê là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong quá trình tiến hành
gây mê. Bác sĩ gây mê thƣờng khó xác định chính xác ngay liều khởi mê tối
ƣu cho từng bệnh nhân cụ thể. Thông thƣờng, liều khởi mê đƣợc lựa chọn
theo khuyến cáo dựa trên các nghiên cứu trƣớc đó và kinh nghiệm riêng của
từng bác sĩ. Ngƣời ta khuyên nên dò liều từng bƣớc trong giai đoạn này, đặc
biệt là trên những bệnh nhân cao tuổi hoặc tình trạng nặng trƣớc mổ [69],
[134]. Có nghĩa là chọn nồng độ đích khởi đầu ở giá trị thấp, sau đó tăng dần
từng mức cho tới khi đạt đƣợc tác dụng theo yêu cầu. Tuy nhiên, thời gian
khởi mê theo cách này kéo dài hơn [105].
Sự đáp ứng của mỗi bệnh nhân trong từng hoàn cảnh lại khác nhau và
các đáp ứng trong khi khởi mê có ý nghĩa định hƣớng cho cả quá trình duy trì
mê sau này.
4.4.2. Nồng độ đích duy trì mê của propofol
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ đích propofol để duy trì mê
dao động trong khoảng 2,4 – 5,2 µg/ml. Nồng độ duy trì mê thấp nhất trung
112
bình là 3,11 ± 0,36 µg/ml, nồng độ duy trì mê cao nhất trung bình là 4,04 ±
0,48 µg/ml. Để duy trì mê, nồng độ đích đƣợc thay đổi tuỳ theo diễn biến lâm
sàng của bệnh nhân và từng giai đoạn phẫu thuật. Ví dụ điều chỉnh lên mức
cao hơn trƣớc khi rạch da, khi can thiệp phẫu thuật sát cơ hoành, khi có dấu
hiệu tỉnh trong mổ...
Các nghiên cứu ở Châu Âu cho thấy nồng độ duy trì mê của propofol
trên các BN ASA I-II là 3,5 – 5,3 µg/ml, các BN có bệnh tim mạch 2,8-3,4
µg/ml, còn với các BN trên 55 tuổi là 3,5 µg/ml [19]. Vuyk và cộng sự sử
dụng fentanyl kết hợp trong gây mê thì nồng độ propofol dao động trong
khoảng 3,4 - 5,4 µg/ml (trích dẫn [134]). Nồng độ duy trì mê trung bình của
nhóm BN tuổi từ 41- 55 trong nghiên cứu của Swinhoe và cộng sự [120] là
4,3 ± 0,7 µg/ml.
Năm 2006, nghiên cứu của Ryll và cộng sự cho thấy nồng độ propofol
để duy trì mê là 3,2 ± 0,6 µg/ml với BIS ở mức trung bình 31 [101].
Năm 2010, Coskun và cộng sự khi nghiên cứu điều chỉnh độ mê dựa
vào BIS, duy trì từ 40 - 60, nồng độ đích trung bình của propofol có kết hợp
fentanyl trong nghiên cứu là 4 µg/ml [38]. Nhƣ vậy, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi tƣơng tự với các tác giả trên.
Mặc dù đã có một số nghiên cứu đề cập tới chủng tộc ảnh hƣởng tới
dƣợc động học của propofol nhƣng kết quả chƣa đƣợc rõ ràng [39]. Theo
chúng tôi nồng độ đích của propofol để duy trì mê trên ngƣời Việt Nam cũng
tƣơng tự với các nghiên cứu ở nƣớc ngoài.
4.4.3. Nồng độ đích khi thức tỉnh của propofol
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ đích khi BN mở mắt là 1,01 ±
0,17 µg/ml. Nhƣ vậy, nồng độ đích propofol khi mở mắt nhỏ hơn nồng độ khi
113
mất ý thức. Theo chúng tôi nguyên nhân của hiện tƣợng này có hai nguyên
nhân. Một là, do đã sử dụng thuốc fentanyl, thuốc có tác dụng hiệp đồng cộng
với propofol trong gây mê [10], [57]. Hai là, thời gian phẫu thuật trong nghiên
cứu dài làm thuốc tăng khả năng tích lũy, tăng thời gian bán thải nhạy cảm
theo tình huống, đã làm tăng tác dụng của propofol.
Nghiên cứu của Iwakiri và cộng sự cho thấy nồng độ propofol khi bệnh
nhân tỉnh lại là 1,8 ± 0,7 µg/ml. Chênh lệch nồng độ propofol khi bệnh nhân
tỉnh so với nồng độ khi mất ý thức trung bình của từng cá thể là 0,17 ± 0,32
µg/ml, trong đó có tới 95% nằm trong khoảng từ 0,09 – 0,25 µg/ml [58].
Nồng độ gây mất ý thức có giá trị tiên đoán nồng độ khi BN thức tỉnh.
Ngƣời gây mê có thể căn cứ vào thời gian thức tỉnh đƣợc hiển thị trên máy và
nồng độ đích thực tế so với nồng độ gây mất để tiên đoán khá chính xác thời
điểm bệnh nhân tỉnh lại sau khi ngƣng tiêm truyền. Đây thực sự là một bƣớc
tiến lớn trong gây mê tĩnh mạch. Tuy nhiên, thời gian thức tỉnh còn phụ thuộc
vào các thuốc sử dụng phối hợp và tình trạng của bệnh nhân [19], [69], [105].
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ đích gây mất ý thức có ý nghĩa
quan trọng trong định hƣớng quá trình gây mê sau này. Có nghĩa là khi khởi
mê, bệnh nhân mất ý thức ở nồng độ càng cao thì nồng độ để duy trì mê,
nồng độ khi thức tỉnh càng cao. Đây là thông tin quý giá giúp ngƣời gây mê
lựa chọn khoảng nồng độ duy trì mê và điều khiển cuộc mê kết thúc một cách
nhẹ nhàng và khoa học nhất.
114
KẾT LUẬN
Nghiên cứu so sánh gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol trên
130 BN phẫu thuật bụng tại Bệnh viện 354 trong thời gian từ 10/2007 đến
10/2011, giữa nhóm kiểm soát nồng độ đích (65 BN) với nhóm không kiểm
soát nồng độ đích (65 BN), chúng tôi rút ra các kết luận sau:
1. Hiệu quả gây mê
- Thời gian mất ý thức và thời gian đặt NKQ của nhóm kiểm soát nồng
độ đích dài hơn so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,001.
Thời gian tỉnh, thời gian rút NKQ của nhóm kiểm soát nồng độ đích ngắn hơn
so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,05. Thời gian đạt từ
10/14 thang điểm Aldrete sửa đổi của nhóm kiểm soát nồng độ đích ngắn hơn
so với nhóm không kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,001.
- Liều propofol khởi mê ở nhóm có kiểm soát nồng độ đích thấp hơn
nhóm không kiểm soát nồng độ đích (1,4 ± 0,00 mg/kg so với 2,18 ± 0,08
mg/kg, với p < 0,001); tiêu thụ propofol trung bình cho gây mê phẫu thuật của
nhóm kiểm soát nồng độ đích nhiều hơn nhóm không kiểm soát nồng độ đích
(9,04 ± 0,29 mg/kg/giờ so với 7,28 ± 0,38 mg/kg/giờ, với p < 0,05).
- Nhóm kiểm soát nồng độ đích duy trì mê ổn định hơn, cần điều chỉnh
độ mê trong mổ và tỷ lệ bệnh nhân tỉnh trong mổ ít hơn so với nhóm không
kiểm soát nồng độ đích.
- Hai nhóm có chất lƣợng thức tỉnh sau gây mê tốt, tác dụng phụ thấp.
2. Ảnh hƣởng huyết động và hô hấp
- Nhóm kiểm soát nồng độ đích có huyết động ổn định hơn so với
nhóm không kiểm soát nồng độ đích, nhất là trong giai đoạn khởi mê:
115
+ Nhóm không kiểm soát nồng độ đích có số bệnh nhân nhịp chậm
khi khởi mê nhiều hơn nhóm có kiểm soát nồng độ đích, p < 0,001.
+ Tỷ lệ BN có giảm HATB khi khởi mê ở nhóm không kiểm soát
nồng độ đích nhiều hơn nhóm có kiểm soát nồng độ đích, với p < 0,05.
+ Mức thay đổi HATB lớn nhất của nhóm không kiểm soát nồng độ
đích nhiều hơn nhóm kiểm soát nồng độ đích.
- Không gặp suy hô hấp sau mổ ở cả hai nhóm nghiên cứu.
3. Các giá trị nồng độ đích trong gây mê của propofol
Nồng độ propofol của nhóm có kiểm soát nồng độ đích tại một số thời
điểm nhƣ sau:
+ Nồng độ làm mất ý thức: 1,57 ± 0,18 µg/ml
+ Nồng độ đặt NKQ: 3,59 ± 0,47 µg/ml
+ Nồng độ mở mắt: 1,01 ± 0,17 µg/ml
+ Nồng độ khi định hƣớng đúng: 0,7 ± 0,16 µg/ml
+ Nồng độ duy trì mê trong khoảng: 2,4 – 5,2 µg/ml
+ Nồng độ duy trì mê thấp nhất: 3,11 ± 0,36 µg/ml
+ Nồng độ duy trì mê cao nhất: 4,04 ± 0,48 µg/ml
116
KIẾN NGHỊ
Kỹ thuật gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol kiểm soát nồng độ
đích cho phép duy trì độ mê và huyết động ổn định, an toàn, ít tác dụng phụ,
vì vậy nên trang bị máy và áp dụng rộng rãi kỹ thuật này tại các cơ sở y tế
trong nƣớc.
1
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Quốc Tuấn (2009), “So sánh hiệu quả gây
mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol có kiểm soát và không kiểm soát
nồng độ đích”,Tạp chí Y Dược lâm sàng 108,4(4), tr.121-125.
2. Nguyễn Quốc Khánh (2010), “Khởi mê bằng propofol: kiểm soát nồng độ
đích não hay huyết tƣơng?”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, 5(6), tr. 80-84.
3. Nguyễn Quốc Khánh (2013), “Đánh giá sự thay đổi huyết động khi gây
mê tĩnh mạch bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích và không kiểm
soát nồng độ đích”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, 8(3), tr. 110-114.
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Châu Thị Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Văn Chừng (2010),
“Nghiên cứu hiệu quả gây mê tĩnh mạch toàn diện bằng propofol kiểm
soát nồng độ đích trong phẫu thuật bụng”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ
Chí Minh, tập 14(1), tr. 204-210.
2. Hoàng Văn Bách, Nguyễn Quốc Kính, Công Quyết Thắng (2011), “Khởi
mê tĩnh mạch bằng kỹ thuật propofol_TCI kết hợp theo dõi độ mê bằng
ENTROPY”, Tạp chí Y học thực hành, số 5, tr. 11-13.
3. Hoàng Văn Bách, Nguyễn Quốc Kính, Công Quyết Thắng (2011), “So
sánh gây mê hô hấp bằng servofluran với gây mê tĩnh mạch bằng
propofol truyền kiểm soát nông độ đích dƣới sự điều khiển của điện não
số hóa ENTROPY”, Tạp chí Y học thực hành, số 5, tr. 139-141.
4. Ngô Văn Chấn, Phan Tôn Ngọc Vũ, Nguyễn Văn Chừng (2010), “Sử
dụng gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích (TCI) trong phẫu thuật
nội soi lồng ngực”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, số 14 (1), tr.
199-203.
5. Đặng Văn Chính, Đinh Bạch Lan (2010), “Kết quả ban đầu gây mê có
kiểm soát nồng độ đích (TCI) tại Bệnh viện Thanh Nhàn”, Tạp chí
Thông tin Y Dược online, số 9.
(http://tcol.cimsi.org.vn/index.php/TCTTYD/article/view/223)
6. Lê Nhị Hà (2002), Ảnh hưởng của propofol lên nhãn áp trong gây mê
cho phẫu thuật nhãn khoa, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Y Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Kim Bích Liên (2002), “Gây mê toàn thân bằng đƣờng tĩnh
mạch”, Bài giảng Gây mê Hồi sức tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.
605- 610.
3
8. Tào Ngọc Sơn (2006), Đánh giá tác dụng an thần bằng propofol do bệnh
nhân tự điều khiển trong thủ thuật nội soi đại tràng, Luận văn thạc sĩ,
Trƣờng Đại học Y Hà Nội.
9. Đoàn Bá Thả (1999), “Thông khí nhân tạo”, Bài giảng Gây mê Hồi sức
sau đại học, Học viện Quân y, tr. 120-137.
10. Nguyễn Thụ, Đào Văn Phan, Công Quyết Thắng (2002), “Dƣợc động
học của các thuốc mê tĩnh mạch”, Thuốc sử dụng trong gây mê, Nhà
xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 56-67.
11. Phan Lạc Tiến (2007), Đánh giá tác dụng của propofol trong thông khí
nhân tạo xâm nhập tại khoa Điều trị tích cực, Luận văn thạc sỹ, Trƣờng
Đại học Y Hà Nội.
12.
Nguyễn Hữu Trƣờng, Chu Mạnh Khoa, Phạm Thanh (2007), “Đánh giá
cảm giác đau tại chỗ tiêm khi khởi mê của Propofol – Lipuro 1%”, Y học
thực hành, số 577+578, tr. 119-122.
Tiếng Anh
13. Abouleish E., Taylor F. H. (1976), “Effect of morphine-diazepam on
signs of anesthesia, awareness and dreams of patients under N2O for
cesarian section”, Anesth. Analg., 55, pp.702-706,
14. Absalom A. R., Mani V., De Smet T., Struys M. M. R. F. (2009),
“Pharmacokinetic models for propofol-defining and illuminating the
devil in the detail”, British Journal of Anaesthesia, 103, pp. 26-37.
15. Adrian W. G., Nestor A. B., John X. W., David F. C. (2002), “Propofol
anesthesia compared to awake reduces infarct size in rats”,
Anesthesiology, 96, pp. 1183–90.
16.
Alexandre L. V. B., Jean-Louis B. (2009), “A comparison of propofol
and remifentanil Target-Controlled infusions to facilitate fiberoptic
nasotracheal intubation”, Anesth. Analg., 108, pp. 852-857.
4
17. Alvis J. M., Reves J. G., Govier A. V., Menkhaus P. G., Henling C. E.,
Spain J. A., Bradley E. (1985), “Computer-assisted continuous infusions
of fentanyl during Cardiac Anesthesia: Comparison with a manual
method”, Anesthesiology, 63, pp. 41-9.
18. Anderson K., Kenny G. N. C. (2002), “Total intravenous anaesthesia
(TIVA) I: Pharmacokinetic principles and methods of delivery”, Bulletin
16, The Royal College of Anaesthetists, pp. 776-780.
19. AstraZeneca (1999), Target Controlled Infusion (TCI) in anaesthetic
practice. (www.astrazeneca.no/pdf/dipmon99.pdf).
20. Ausems M. E., Stanski D. R., Hug C. C. (1985), “An evaluation of the
accuracy of pharmacokinetic data for the computer assisted infusion of
alfentanil”, British Journal of Anaesthesia, 57, pp. 1217-25.
21. Auserns M. E., Jaap V., Hug C. C. (1988), “Comparison of a Computer-
assisted infusion versus intermittent bolus administration of alfentanil as
a supplement to Nitrous Oxide for lower abdominal surgery”,
Anesthesiology, 68(6), pp. 851-86.
22. Balci C., Kahraman F., Sivaci R. G.(2009), “Comparison of ENTROPY
and Bispectral Index during propofol and fentanyl sedation in monitored
anaesthesia care”, J. Int. Med. Res., 37(5): pp. 1336-42.
23. Barakat A. R, Schwab M. (2007), “Effect site concentration during
propofol TCI sedation: a comparison of sedation score with two
pharmacokinetic models”, Anaesthesia, 62, pp. 661-6.
24. Barvais L. C. F., D‟Hollander A., Coussaert E. (1993), “Predictive
accuracy of continuous alfentanil infusion in volunteers: variability of
different pharmacokinetic sets”, Anesthesia and Analgesia, 77, pp. 801-
810.
5
25. Barvais L. R. I., Glen J. (1996), “Administration of propofol by target-
controlled infusion in patients undergoing coronary artery surgery”,
Journal of Cardiothoracic and Vascular Anesthesia,10, pp.877-883.
26. Bodian C. A., Freedman G., Hossain S., Eisenkraft J. B., Beilin Y.,
(2001), “The visual analog scale for pain: clinical significance in
postoperative patients”, Anesthesiology, 95 (6), pp. 1356-61.
27. Breslin D. S., Mirakhur R. K., Reid J. E., Kyle A. (2004), “Manual
versus target-controlled infusions of propofol”, Anaesthesia, 59, pp.
1059–1063.
28. Brice D. D., Hetherington R. R., Utting J.E. (1970), “A simple study of
awareness and dreaming during anaesthesia”, British Journal of
Anaesthesia, 42, pp.535-542.
29. Bryson H. M., Faulds D. (1995), “Propofol: An update of its use in
anaesthesia and conscious sedation”, Drugs, 50, pp. 513-559.
30. Casati A., Fanelli G., Casaletti E., Colnaghi E., Cedrati V., Torri G.
(1999), “Clinical assessment of target-controlled infusion of propofol
during monitored anesthesia care”, Canadian Journal of Anesthesia, 46,
pp. 235-239.
31. Chaudhri S., White M., Kenny G. N. (1992), “Induction of anaesthesia
with propofol using a target-controlled infusion system”, Anaesthesia,
47, pp. 551-553.
32. Cheong K. F., Chen F.G., Yau G. H.(1998), “Postanaesthetic shivering a
comparison of thiopentone and propofol”, Ann. Acad. Med. Singapore,
27(5), pp. 279-32.
33.
Chernik D. A., Laine H., Hendler J., Silver J. M., Davidson A. B.,
Schwam E. M., Siegel J. L. (1990), “Validity and reliability of the
6
Observer‟s Assessment of Alertness/Sedation Scale: study with
intravenous midazolam”, J. Clin. Psychopharmacol, 10, pp. 244-251.
34. Claeys M. A., Camu F. (1988), “Haemodynamic changes during
anaesthesia induced and maintained with propofol”, Br. J. Anaesth., 60,
pp. 3-9.
35. Coates D. P., Speline K. R., Monk C. R., Norley I. (1985), “Propofol
(Diprivan) by intravenous infusion with nitrous oxide: Dose requirements
and haemodynamic effects”, Postgrad. Med. J., 61, pp. 76-79.
36. Coetzee J. F. G, Wium C. A., Boshoff L. (1995), “Pharmacokinetic
model selection for target controlled infusions of propofol. Assessment
of three parameter sets”, Anesthesiology, 82, pp. 1328-45.
37.
Corbett S. M., Moore J., Rebuck J. A., Rogers F. B., Greene C. M.
(2006), “Survival of propofol infusion syndrome in a head-injured
patient”, Critical Care Medicine,34(9), pp. 2479-83.
38. Coskun D., Celebi H., Karaca G., Karabiyik L.(2010), “Remifentanil
versus fentanyl compared in a target-controlled infusion of propofol
anesthesia: quality of anesthesia and recovery profile”, Journal of
Anesthesia, 24(3), pp. 373-9.
39. Dahaba A., Zhong T., Lu H., Bornemann H., Liebmann M., Wilfinger
G., Reibnegger G., Metzler H. (2011), “Geographic differences in the
target-controlled infusion estimated concentration of propofol: bispectral
index response curves”, Canadian Journal of Anesthesia, 58, pp. 364-70.
40. Davidson J. A., Macleod A., Howie J. C., White M., Kenny G. N.(1993),
“Effective concentration 50 for propofol with and without 67% nitrous
oxide”, Acta Anaesthesiol Scand., 37(5), pp. 458-64.
7
41. Egan T. D.(2003), “Target - Controlled drug delivery: Progress toward
an intravenous “Vaporizer” and automated anesthetic administration”,
Anesthesiology, 99(5), pp.1214-9.
42. Esposito I., Maucione G., Esposito M., Maresca L., Aronne F., Gargano
F., Scafuro M. (2011), “Target controlled infusion– tiva vs manual –tiva
in neurosurgery”, special issues 1 (16 poster) in 5th International
Meeting - Dialogues on anaesthesia and intensive care.
43. Fanti L., Agostoni M., Casati A., Guslandi M., Giollo P., Torri G,
Alberto T. P. (2004), “Target-controlled propofol infusion during
monitored anesthesia in patients undergoing ERCP”, Gastrointestinal
endoscopy, 60 (3), pp. 361-6.
44.
Gepts E. C. F., Cockshott I. D., Douglas E. J. (1987), “Disposition of
propofol administered as constant rate infusions in humans”, Anesth.
Analg., 66 (12), pp. 1256-63.
45. Gillies G. W. A., Lees N. W. (1989), “The effects of speed of injection
on induction with propofol A comparison with etomidate”, Anaesthesia,
44 (5), pp. 386-8.
46. Glass P., Jacobs J., Smith L et al. (1990), “Pharmacokinetic model-
driven infusion of fentanyl: assessment of accuracy”, Anesthesiology, 73
(6), pp. 1082-90.
47. Glen J. B, (1980), “Animal studies of the anaesthetic activity of ICI
35868”, Br. J. Anaesth., 52 (8), pp. 731–42.
48. Glen J. B, Servin F. (2009), “Evaluation of the predictive performance of
four pharmacokinetic models for propofol”, British Journal of
Anaesthesia, 102 (5), pp. 626-32.
8
49. Gold M. I., Abraham E. C., Herrington C. (1987), “A controlled
investigation of propofol, thiopentone and methohexitone”, Canadian
Journal of Anaesthesia, 34 (5), pp. 478-83.
50. Goodman N. W., Black A. M. S., Carter J. A. (1987), “Some ventilatory
effects of propofol as sole anaesthetic agent”, British Journal of
Anaesthesia, 59 (12), pp. 1497-503.
51. Goresky G. K. G., Sabourin M., Sale J., Strunin L. (1987), “The
pharmacokinetics of alfentanil in children”, Anesthesiology, 67 (5), pp.
654-9.
52. Gray C., Swinhoe C., Myint Y., Mason D. (1999), “Target-controlled
infusion of ketamine as analgesia for TIVA with propofol”, Canadian
Journal of Anaesthesia, 46(10), pp. 957-61.
53. Hug C. C. J, McLeskey C. H., Nahrwold M. L.(1993), “Hemodynamic
effects of propofol: data from over 25,000 patients”, Anesth. Analg., 77
(4 Suppl.), pp. 21-9.
54. Hughes M. A. G. P., Jacobs J. R. (1992), “Context-sensitive half-time in
multicompartment pharmacokinetic models for intravenous anesthetic
drugs”, Anesthesiology, 76 (3), pp. 334-41.
55. Hunt-Smith J. D. A., Leslie K., Kluger M., Gunn K., Warwick N.
(1999), “Safety and efficacy of target controlled infusion (Diprifusor) vs
manually controlled infusion of propofol for anaesthesia”, Anaesth
Intensive Care, 27 (3), pp. 260-4.
56. Inada T., Yamanouchi Y., Jomura S., Sakamoto S., Takahashi M.,
Kambara T., Shingu K. (2004), “Effect of propofol and isoflurane
anaesthesia on the immune response to surgery”, Anaesthesia, 59 (10),
pp. 954–9.
9
57. Iwakiri H., Nagata O., Matsukawa T., Ozaki M., Sessler D. I. (2003),
“Effect-site concentration of propofol for recovery of consciousness is
virtually independent of fentanyl effect-site concentration”, Anesthesia
& Analgesia, 96 (6), pp. 1651-5.
58. Iwakiri H., Nishihara N., Nagata O., Matsukawa T., Ozaki M., Sessler
D.I. (2005), “Individual effect-site concentrations of propofol are similar
at loss of consciousness and at awakening”, Anesthesia & Analgesia, 100
(1), pp. 107-10.
59. Jansson J. R., Fukada T., Ozaki M., Kimura S. (2006), “Propofol EDTA
and reduced incidence of infection”. Anaesthesia and Intensive Care, 34
(3), pp. 362-8.
60.
Kataria B. K., Ved S. A., Nicodemus H. F., Hoy G. R., Lea D., Dubois
M. Y., Mandema J. W., Shafer S. L. (1994), “The pharmacokinetics of
propofol in children using three different data analysis approaches”,
Anesthesiology, 80 (1), pp. 104-22.
61. Kaul H. L., Neerja B. (2002), “Monitoring depth of anaesthesia”, Indian
J. Anaesth., 46 (4), pp. 323-32.
62. Kazama T., Ikeda K., Morita K., Kikura M., Doi M., Ikeda T., Kurita T.,
Nakajima Y. (1999), “Comparison of the effect-site keoof propofol for
blood pressure and EEG Bispectral Index in Elderly and Younger
patients”, Anesthesiology, 90 (6), pp. 1517-27.
63. Kazama T., Ikeda K., Morita K. (1997), “Reduction by fentanyl of the
Cp50 values of propofol and hemodynamic responses to various noxious
stimuli”, Anesthesiology, 87 (2), pp. 213-27.
64.
Kenny G., White M. (1992), “A portable target controlled propofol
infusion system”, International Journal of Clinical Monitoring and
Computing, 9 (3), pp. 179-82.
10
65. Ke-Xuan Liu, Timo R., Wei H., Fang W., Zhengyuan X. (2007),
“Propofol attenuates intestinal mucosa injury induced by intestinal
ischemia-reperfusion in the rat”, Canadian Journal of Anaesthesia, 54
(5), pp. 366–74.
66. Kirkpatrick T., Cocktshoot I. D., Douglas E. J., Nimmo W. S. (1988)
“Pharmacokinetics of propofol (Diprivan) in elderly patients”, Br. J.
Anaesth., 60 (2), pp. 146-50.
67. Larsen R., Rathgeber J., Bagdahn A., Lange H., Rieke H. (1988),
“Effects of propofol on cardiovascular dynamics and coronary blood
flow in geriatric patients. A comparision with etomidate”, Anaesthesia,
43 (Suppl. 1), pp. 25-31.
68.
Laszlo H., Nick E. M. (2001), “Effect site targeted propofol infusion in
clinical practice: Comparison to Diprifusor”, The Internet Journal of
Anesthesiology, 5 (3).
69. Leslie K. C. O., Hargrove J. (2008), “Target-controlled infusion versus
manually-controlled infusion of propofol for general anaesthesia or
sedation in adults”, Cochrane Database of Systematic Reviews, 3, John
Wiley & Sons, Ltd,.
70. Li M., Xu C., Wang X. D., Zhang L. P., Guo X. Y. (2011), “A
comparison of target controlled versus manually controlled infusion of
propofol in elderly patients”, Zhonghua Yi Xue Za Zhi, 91 (9), pp. 600-3.
71. Lim K. H., Halestrap A. P., Angelini G. D., Suleiman M. S. (2005),
“Propofol is cardioprotective in a clinically relevant model of
normothermic blood cardioplegic arrest and cardiopulmonary bypass”,
Exp. Biol. Med., 230 (6), pp. 13-20.
11
72. Lim T. A., Gin T., Tam Y. H., Aun C. S., Short T. G. (1997),
“Computer-controlled infusion of propofol for long neurosurgical
procedures”, Journal of Neurosurgical Anesthesiology, 9 (3), pp. 242-9.
73. Liu B., Pettigrew D. M., Bates S., Laitenberger P. G., Troughton G.
(2012), “Performance evaluation of a whole blood propofol analyser”,
Journal of Clinical Monitoring and Computing, 26 (1), pp. 29-36.
74. Liu N., Chazot T., Genty A., Landais A., Restoux A., McGee K., Lalo P.
A., Trillat B., Barvais L., Fischler M. (2006), “Titration of propofol for
anesthetic induction and maintenance guided by the Bispectral Index:
Closed-loop versus manual control: A Prospective, Randomized,
Multicenter Study”, Anesthesiology, 104 (4), pp. 686-95.
75.
Liu Shao-hua W. W., Ding Guan-nan, Ke Jing-dong, Hong Fang-xiao,
Tien Ming (2009), “Relationship between depth of anesthesia and effect-
site concentration of propofol during induction with the target-controlled
infusion technique in elderly patients”, Chinese Medical Journal, 122
(8), pp. 935-40.
76. Mahli A., Coskun D., Karaca G.I., Akcali D.T., Karabiyik L.,
Karadenizli Y. (2011), “Target-controlled infusion of remifentanil with
propofol or desflurane under bispectral index guidance: quality of
anesthesia and recovery profile”, J. Res. Med. Sci., 16 (5), pp. 611-20.
77. Malgorzata W., Zbigniew K., Marta R., Seweryn N., Paweł S. (2012),
“Comparison of target controlled infusion and total intravenous
anaesthesia with propofol and remifentanil for lumbar
microdiscectomy”, Anaesthesiology Intensive Therapy, 44 (3), pp. 138-
144.
12
78. Marsh B., White M., Morton N., Kenny G. (1991), “Pharmacokinetic
model driven infusion of propofol in children”, British Journal of
Anaesthesia, 67 (1), pp. 41-8.
79. Masui K., Upton R. N., Doufas A. G., Coetzee J. F., Kazama T., Mortier
E. P., Struys M. M. (2010), “The performance of compartmental and
physiologically based recirculatory pharmacokinetic models for
propofol: A comparison using bolus, continuous, and target-controlled
infusion data”, Anesthesia & Analgesia, 111, pp. 368-79.
80. Mayer J., Boldt J., Triem J. G., Schellhaa A., Mengistu A. M., Suttner S.
(2008), “Individual titration of propofol plasma target improves
anaesthetic stability in patients undergoing major abdominal surgery: a
comparison with manually controlled infusion”, European Journal of
Anaesthesiology, 25 (9), pp. 741-7.
81. Mazzarella B., Melloni C., Montanini S., Novelli G. P., Peduto V. A.,
Santandrea E., Vincenti E., Zattoni J. (1999), “Comparison of manual
infusion of propofol and target-controlled infusion: effectiveness, safety
and acceptability”, Minerva Anestesiol., 65 (10), pp.701-9.
82. Minto C. F., Schnider T. W., Egan T. D., Youngs E., Lemmens H. J.,
Gambus P. L., Billard V., Hoke J. F., Moore K. H., Hermann D. J., Muir
K. T., Mandema J. W., Shafer S. L. (1997), “Influence of age and gender
on the pharmacokinetics and pharmacodynamics of remifentanil. I.
Model development”, Anesthesiology, 86 (1), pp. 10-23.
83. Monk C. K., Coates D. P., Prys-Robert C., Turtle M. J., Spelina K.
(1987), “Haemodynamic effects of a prolonged infusion of propofol as a
supplement to nitrous oxide anaesthesia”, Br. J. Anaesth., 59 (8), pp.
954-60.
13
84. Morcos W. E. (1985), “The induction of anaesthesia with propofol
(Dprivan) compared in normal and renal failure patients”, Postgrad.
Med. J., 61, pp. 62-3.
85. Murat I., Billard V., Vernois J., Zaouter M., Marsol P., Souron R.,
Farinotti R. (1996), “Pharmacokinetics of propofol after a single dose in
children aged 1-3 years with minor burns”, Anesthesiology, 84 (3), pp.
526-32.
86. Murry C. E., Jennings R. B., Reimer K. A. (1986), “Preconditioning
with ischemia: a delay of lethal cell injury in ischemic myocardium”,
Circulation, 74 (5), pp. 1124 – 36.
87. Naser Y., Bahman R. (2006), “A bispectral index guided comparison of
target-controlled versus manuallycontrolled infusion of propofol and
remifentanil for attenuation of pressor response to laryngoscopy and
tracheal intubation in non cardiac surgery”, Journal of Research in
Medical Sciences, 11 (5), pp. 302-8.
88. Naser Y., Bahman R., Mitra Y., Afshin A. (2010), “Target-controlled
infusion anesthesia with propofol and remifentanil compared with
manually controlled infusion anesthesia in mastoidectomy surgeries”.
Middle East J. Anaesthesiol., 20 (6), pp. 785-793.
89. Newson C., Joshi G. P., Victory R., White P. F. (1995), “Comparison of
propofol administration techniques for sedation during monitored
anesthesia care”, Anesthesia & Analgesia, 81, pp. 486-91.
90. O‟Toole D. P., Milligan K., Howe J. P., McCollum J. S, Dundee J. W.
(1987), “A comparison of propofol and methohexitone as induction agents
for day case isoflurane anaesthesia”, Anaesthesia,42 (4), pp. 373-6.
91. Olmos M., Ballester J. A., Vidarte M. A., Elizalde J. L., Escobar A.
(2000), “The combined effect of age and premedication on the propofol
14
requirements for induction by target-controlled infusion”, Anesthesia &
Analgesia, 90 (5), pp. 1157-61.
92. Palmer J. H. M., Ball D. R. (2000), “Comparison of propofol
administration techniques awake tracheal intubation with the intubating
laryngeal mask in a patient with diffuse idiopathic skeletal hyperostosis”,
Anaesthesia, 55, pp. 70-4.
93. Pandin P., Cantraine F, Ewalenko P. (2000), “Predictive accuracy of
target-controlled propofol and sufentanil coinfusion in long-lasting
surgery”, Anesthesiology, 93 (3), pp. 653-61.
94. Patrick M. R, Blair I. J., Feneck R. O., Sebel P. S. (1985), “A
comparison of the haemodynamic effects of propofol (Diprivan) and
thiopentone in patients with coronary artery disease”, Postgrad. Med. J.,
61, pp. 23-7.
95. Peter S., Jane D. L. (1989), “Propofol a new intrevenous anesthetic”,
Anesthesiology, 71 (2), pp. 260-77.
96. Picard V., Dumont L., Pellegrini M. (2000), “Quality of recovery in
children: sevoflurane versus propofol”, Acta Anaesthesiol Scand., 44, pp.
307-10.
97. Puri G. D., Mathew P. J., Sethu M. J., Hegde H. V., Fiehn A. (2011),
“Bi-spectral index, ENTROPY and predicted plasma propofol
concentrations with target controlled infusions in Indian patients”,
Journal of Clinical Monitoring and Computing, 25 (5), pp. 309-14.
98. Reves J. G., Peter S. A. G., David A. L., Matthew D. M, Ricardo M. R.
(2010), “Intravenous Anesthetics”, 7 ed. Miller’s Anesthesia, Churchill
Livingstone, New York, pp. 719-768.
15
99. Rigouzzo A., Servin F., Constant I. (2010), “Pharmacokinetic -
Pharmacodynamic modeling of propofol in children”, Anesthesiology,
113, pp. 343-52.
100. Russell D., Wilkes M. P., Hunter S. C., Glen J. B., Hutton P., Kenny G.
N. (1995), “Manual compared with target-controlled infusion of
propofol”, British Journal of Anaesthesia, 75, pp. 562-6.
101. Ryll C., Herold K., Baars J., Rehberg B. (2006), “Comparison of a target
controlled infusion system and manual infusion of propofol in routine
anesthesia care”, European Journal of Anaesthesiology, A-116, pp. 23-29.
102. Sarla H., Kiranpreet K., Kamal N. R., Anil K. T., Kirti K. (2012),
“Trapezius squeeze test as an indicator for depth of anesthesia for
laryngeal mask airway insertion in children”, J. Anaesthesiol. Clin.
Pharmacol., 28 (1), pp. 28-31.
103. Schuttler J., Ihmsen H. (2000), “Population pharmacokinetics of
propofol”, Anesthesiology, 92 (3), pp. 727–38.
104. Schnider T. W., Minto C. F., Shafer S. L., Gambus P. L., Andresen C.,
Goodale D. B., Youngs E. J. (1999), “The influence of age on propofol
pharmacodynamics”, Anesthesiology, 90 (6), pp. 1502-16.
105. Schraag S. (2001), “Theoretical basis of target controlled anaesthesia:
history, concept and clinical perspectives”, Best Practice & Research
Clinical Anaesthesiology, 15 (1), pp. 1-17.
106. Sebel P. S. B, Andrew G. T., Mohamed M. R., Ira J. P., Roger E. G.,
Tong J. D., Karen B. (2004), “The incidence of awareness during
anesthesia: A multicenter United States study”, Anesthesia & Analgesia,
99, pp. 833-9.
107. Servin F. (1998), “TCI compared with manually controlled infusion of
propofol: a multicentre study”, Anaesthesia, 53 (Suppl. 1), pp. 82-6.
16
108. Servin F., Farinotti R., Haberer J. P., Winckler C., Desmont J. M. (1990)
“Propofol pharmacokinetics in patients with cirrhosis”, Br. J. Anaesth.,
65 (2), pp. 177-83.
109. Shafer A. D. V., Shafer S. L., White P. F. (1988), “Pharmacokinetics and
pharmacodynamics of propofol infusions during general anesthesia”,
Anesthesiology, 69 (3), pp. 348-56.
110. Shafer S. L., Vuyx J., Aziz N., Scott J. (1990), “Pharmacokinetics of
fentanyl administered by computer-controlled infusion pump”,
Anesthesiology, 73 (6), pp. 1091-102.
111. Shelley B., Sutcliffe N. (2010), “Total intravenous anaesthesia”,
Anaesthesia & Intensive Care Medicine,11, pp. 44-6.
112.
Simons P. J, Cockshott I., Douglas E. J., Gordon E. A., Hopkins K.,
Rowland M. (1998), “Disposition in male volunteers of a subanaesthetic
intravenous dose of an oil in water emultion of 14C-propofol”,
Xenobiotica, 18 (4), pp. 429-40.
113. Sivasubramaniam S. (2007), “Target controlled infusions in anaesthetic
practice”, Anaesthesia tutorial of the week 75, pp. 1-10.
114. Smith C. M. A., Jhaveri R., Wilkinson M., Goodman D., Smith L. R.,
Canada A. T., Glass P. S. (1994), “The interaction of fentanyl on the
Cp50 of propofol for loss of consciousness and skin incision”,
Anesthesiology, 81 (4), pp. 820-8.
115. Sreevastava D. K., Upadhyaya K. K., et al. (2008), “Automated target
controlled infusion systems: The future of total intravenous anaesthesia”,
MJAFI, 64 (3), pp. 261-262.
116.
Stokes D. N., Hutton P. (1991), “Rate-dependent induction phenomena
with propofol: implications for therelative potency of intravenous
anesthetics”, Anesthesia and Analgesia, 72 (5), pp. 578-83.
17
117. Struys M., Versichelen L., Rolly G. (1998), “Influence of pre-anaesthetic
medication on target propofol concentration using a „Diprifusor‟ TCI
system during ambulatory surgery”, Anaesthesia, 53 (Suppl. 1), pp. 68-
71.
118. Struys M., Versichelen L., Thas O., Herregods L., Rolly G. (1997),
“Comparison of computer-controlled administration of propofol with
two manually controlled infusion techniques”, Anaesthesia, 52 (1), pp.
41-50.
119. Sukhani R., Vazquez J., Pappas A. L., Frey K., Aasen M., Slogoff S.
(1996), “Recovery after propofol with and without intraoperative
fentanyl in patients undergoing ambulatory gynecologic laparoscopy”,
Anesthesia and Analgesia, 83 (3), pp. 975-81.
120. Swinhoe C. F., Peacock J. E., Glen J. B., Reilly C. S. (1998),
“Evaluation of the predictive performance of a „Diprifusor‟ TCI system”,
Anaesthesia, 53 (Suppl. 1), pp. 61-7.
121. Sylvie P., Jean P., Jean-Michel P., Christian A., Serge M. (2002),
“Target controlled versus manually-controlled Infusion of propofol for
direct laryngoscopy and bronchoscopy”, Anesth Analg, 94, pp. 1212-16.
122. Tackley R. M., Lewis G., Prys-Roberts C., Boaden R.W., Dixon J,
Harvey J. T. (1989), “Computer controlled infusion of propofol”, Br. J.
Anaesth., 62 (1), pp. 46-53.
123. Triem J. G., Boldt J., Piper S. N. (2006), “Comparison of a propofol-
based anesthesia regimen using optimated-target-controlled-infusion
(OTCI) and manually-controlled infusion (MCI) technique”, Anasthesiol
Intensivmed Notfallmed Schmerzther, 41 (3), pp. 150-5.
18
124. Tzabar Y., Brydon C., Gillies G.W.(1996), “Induction of anaesthesia
with midazolam and a target-controlled propofol infusion”, Anaesthesia,
51 (6), pp. 536-8.
125. Vaithinadan M., Neil S. M. (2010), “Overview of total intravenous
anesthesia in children”, Pediatric Anesthesia, 20, pp. 211-22.
126. Vermeyen K. M., Erpels F. A., Janssen L. A., Beeckman C. P.,
Hanegreefs G. H. (1987), “Propofol-fentanyl anaesthesia for coronary
bypass surgery in patients with good left venticular funtion”, Br. J.
Anaesth., 59 (9), pp. 1115-20.
127. Volkan H. (2012), “Tracheal intubation without use of muscle relaxants:
Comparison of remifentanil and alfentanil”, Anesth Pain, 1 (3), pp. 210-
211.
128. Votta-Velis. E. G., Minshall R. D., Visintine D. J., Castellon M.,
Balyasnikova I. V. (2007), “Propofol attenuates endotoxin-induced
endothelial cell injury, angiotensin-converting enzyme shedding, and
lung edema”, Anesth. Analg., 105 (5), pp. 1363-70.
129. Vuyk J., Frank H. M., Anton G. L., Bum A. A, Vletter J. G. B. (1995),
“Performance of computer-controlled infusion of propofol: An
evaluation of five pharmacokinetic parameter sets”, Anesth Analg., 81,
pp. 1275-82.
130. Watson K. R., Shah M. V. (2000), “Clinical comparison of “single
agent” anaesthesia with sevoflurane versus target controlled infusion of
propofol”, British Journal of Anaesthesia, 85 (4), pp. 541-6.
131. White P. (1983), “Use of continuous infusion versus intermittent bolus
administration of fentanyl or ketamine during outpatient anesthesia”,
Anesthesiology, 59 (4), pp. 294-300.
19
132. White P. F., Dajun S. (1999), “New criteria for fast-tracking after
outpatient anesthesia: A comparison with the modified Aldrete‟s scoring
system”, Anesthesia & Analgesia, 88 (5), pp. 1069-72.
133. Wilson G. (2010), “Target controlled infusion anaesthesia in children”,
S. Afr. J. Anaesthesiol. Analg., 16 (1), pp. 124-6.
134. Xavier V., Marc L. (2001), “Induction and maintenance of intravenous
anaesthesia using target-controlled infusion systems”, Best Practice &
Research Clinical Anaesthesiology, 15 (1), pp. 19-33.
135. Xia Z., Godin D. V., Ansley D. M. (2003), “Propofol enhances ischemic
tolerance of middle-aged rat hearts: effects on 15-F–isoprostane
formation and tissue antioxidant capacity”, Cardiovasc Res., 59 (1), pp.
113-21.
136. Yumiko T. M., Katsuya M. M., Kahoru N. M., Hidefumi O. M. (2007),
“Attenuation of acute lung injury with propofol in endotoxemia”, Anesth.
Analg., 100, pp. 810-6.
137. Zomorodi K., Donner A., Somma J., Barr J., Sladen R., Ramsay J.,
Geller E., Shafer S. L. (1998), “Population pharmacokinetics of
midazolam administered by target-controlled infusion for sedation
following coronary artery bypass grafting”, Anesthesiology, 9, pp. 1418-
29.
20
Phụ lục 1
DANH SÁCH BỆNH NHÂN NGHIÊN CỨU
STT Họ và tên Tuổi Ngày mổ Số BA lƣu trữ
1 Nguyễn Thị R. 55 04.10.2007 658
2 Tạ Thị V. 64 08.10.2007 652
3 Bùi Ngọc B. 64 13.10.2007 723
4 Vũ Văn A. 54 24.10.2007 765
5 Trần Thị L. 59 29.10.2007 749
6 Nguyễn Thị T. 56 03.12.2007 849
7 Nguyễn Văn T. 59 10.12.2007 865
8 Trần Đoan H. 60 13.12.2007 943
9 Nguyễn Văn C. 46 14.12.2007 969
10 Trần Văn M. 58 25.12.2007 999
11 Bùi Khoa T. 24 03.01.2008 39
12 Nguyễn Thị B. 49 09.06.2008 354
13 Phạm Văn T. 52 11.06.2008 454
14 Nguyễn Thị M. 37 17.06.2008 430
15 Phan Văn T. 53 18.06.2008 424
16 Vũ Mai N. 49 20.06.2008 438
17 Lƣu Thị H. 54 22.06.2008 324
18 Vũ Xuân L. 48 25.06.2008 529
19 Nguyễn Thị M. 52 25.06.2008 369
20 Trần Thị V. 32 25.06.2008 593
21 Hoàng Văn N. 59 25.06.2008 376
22 Vũ Phƣơng C. 63 25.06.2008 644
23 Trần Khắc H. 61 06.07.2008 610
21
STT Họ và tên Tuổi Ngày mổ Số BA lƣu trữ
24 Bùi Quang H. 62 09.07.2008 635
25 Nguyễn Thị Mai L. 38 16.07.2008 907
26 Bùi Thị L. 64 22.07.2008 435
60 03.09.2008 556 27 Đặng Thị N.
28 Nguyễn Thị T. 56 23.09.2008 755
29 Lê Đình C. 20 03.10.2008 495
30 Mai Thanh N. 41 13.10.2008 534
31 Phạm Thị B. 60 16.10.2008 818
32 Lê Văn Đ. 65 17.10.2008 832
33 Thái Văn H. 64 19.10.2008 790
34 Lê Qúy Q. 31 20.10.2008 582
35 Ngô Thị Kim T. 47 12.12.2008 620
36 Nguyễn Cao T. 60 18.12.2008 629
37 Nguyễn Khắc S. 45 24.12.2008 631
38 Nguyễn Thị L. 49 31.12.2008 617
39 Vũ Thị X. 63 01.01.2009 30
40 Cù Đức H. 35 06.01.2009 37
41 Lê Thị Xuân M. 47 07.01.2009 17
42 Nguyễn Xuân T. 58 14.01.2009 75
43 Nguyễn Thị N. 52 04.02.2009 72
44 Nguyễn Hồng P. 45 11.02.2009 99
45 Bùi Văn K. 51 12.02.2009 113
46 Đinh Thị S. 60 18.03.2009 150
47 Thân Thị T. 62 26.03.2009 167
48 Nguyễn Thị T. 59 29.03.2009 172
22
STT Họ và tên Tuổi Ngày mổ Số BA lƣu trữ
49 Lê Nhật H. 40 31.03.2009 50
50 Nguyễn Thị H. 62 01.04.2009 39
51 Pham Thị Kim C. 63 17.04.2009 111
52 Đoàn Thị Đ. 51 06.05.2009 81
53 Nguyễn Ngọc S. 51 08.05.2009 109
54 Lê Trƣờng V. 46 21.05.2009 71
55 Nguyễn Đăng D. 54 22.05.2009 78
56 Đỗ Xuân T. 48 01.06.2009 229
57 Đoàn Văn T. 57 12.06.2009 267
58 Ngô Vi Q. 60 19.06.2009 142
59 Nguyễn Tuấn H. 60 19.06.2009 314
60 Lê Thị L. 60 24.06.2009 307
61 Nguyễn Văn C. 63 27.06.2009 188
62 Nguyễn Văn T. 50 30.06.2009 250
63 Đinh Thị Kim L. 47 01.07.2009 193
64 Nguyễn Thị Đ. 58 09.07.2009 307
65 Phạm Gia T. 58 18.07.2009 69
66 Vũ Thị M. 53 20.07.2009 94
67 Vũ Kim T. 47 04.08.2009 108
68 Bùi Thị Th. 64 04.08.2009 317
69 Nhữ Thị X. 59 04.08.2009 368
70 Trần Thị Thúy N. 53 21.08.2009 426
71 Đào Thị Đ. 54 21.08.2009 482
72 Bùi Đức M. 62 25.08.2009 592
73 Trần Thị M. 65 28.08.2009 599
23
STT Họ và tên Tuổi Ngày mổ Số BA lƣu trữ
74 Bùi Hảo Th. 57 09.09.2009 692
75 Phạm Thị C. 38 10.09.2009 703
76 Nguyễn Văn L. 43 14.09.2009 746
77 Vũ Xuân M. 63 14.09.2009 753
78 Bùi Thế M. 57 14.09.2009 759
79 Phạm Văn T. 60 17.09.2009 775
80 Lê Thị T. 65 19.09.2009 796
81 Lƣơng Văn Ng. 64 29.09.2009 834
82 Nguyễn Thị D. 50 26.10.2009 866
83 Nguyễn Thị V. 61 28.10.2009 883
84 Cù Thị Th. 47 28.10.2009 894
85 Nguyễn Văn Th. 61 05.11.2009 909
86 Nguyễn Ngọc Q. 50 09.11.2009 919
87 Nguyễn Hồng V. 51 10.11.2009 926
88 Nguyễn Đức H. 39 10.12.2009 938
89 Đặng Văn P. 54 08.01.2010 003
90 Hoàng Thị T. 25 12.01.2010 015
91 Đổng Thanh N. 42 03.02.2010 78
92 Nguyễn Thị T. 58 05.02.2010 90
93 Nguyễn Hoàng M. 57 07.02.2010 103
94 Đặng Việt H. 49 09.02.2010 118
95 Nguyễn Thị M. 53 11.03.2010 204
96 Nguyễn Thị T. 35 19.03.2010 218
97 Đinh Thị T. 55 20.03.2010 239
98 Nguyễn Văn Ch. 56 29.03.2010 248
24
STT Họ và tên Tuổi Ngày mổ Số BA lƣu trữ
99 Nguyễn Thị H. 49 08.04.2010 28
100 Phạm Công Đ. 65 29.04.2010 96
101 Nguyễn Thị H. 64 14.05.2010 98
102 Phạm Quang Đ. 42 24.05.2010 43
103 Bùi Quang L. 59 25.05.2010 191
104 Phạm Tr. 50 21.08.2010 210
105 Nguyễn Song H. 47 13.10.2010 218
106 Phạm văn T. 50 09.02.2011 260
107 Vũ Thị H. 63 08.02.2011 265
108 Phùng Thị Th. 62 22.02.2011 282
109 Nguyễn Văn Đ. 63 16.05.2011 294
110 Lƣơng Thị Th. 45 26.05.2011 297
111 Nguyễn Kim B. 43 28.06.2011 317
112 Nguyễn Xuân H. 48 30.06.2011 318
113 Nguyễn Thị H. 42 25.07.2011 330
114 Hoàng Quyết T. 27 26.07.2011 364
115 Lê Văn C. 58 28.07.2011 451
116 Nguyễn Huy L. 40 11.08.2011 476
117 Nguyễn Hoài T. 29 15.08.2011 489
118 Vũ Thế D. 48 24.08.2011 501
119 Hoàng Thị Th. 65 28.08.2011 507
120 Nguyễn Thị B. 58 29.08.2011 509
121 Dƣơng Văn S. 46 03.09.2011 548
122 Đà Ngọc G. 64 05.09.2011 560
123 Nguyễn Thị H. 33 05.09.2011 573
25
STT Họ và tên Tuổi Ngày mổ Số BA lƣu trữ
124 Phạm Thị Thanh Ng. 07.09.2011 672 53
125 Nguyễn Anh D. 07.09.2011 839 63
126 Vũ Thế D. 07.09.2011 876 48
127 Đào Ngọc G. 08.09.2011 886 64
128 Vũ Xuân T. 16.09.2011 895 60
129 Phạm Văn T. 06.10.2011 901 59
130 Hoàng Thị T. 08.10.2011 905 25
XÁC NHẬN CỦA BỆNH VIỆN 354
26
Phụ lục 2
PHIẾU NGHIÊN CỨU
- Tên đề tài:“So sánh tác dụng của hai phương pháp gây mê tĩnh mạch hoàn
toàn bằng Propofol có và không điều khiển theo nồng độ đích”.
- NCS: BS Nguyễn Quốc Khánh.
1. Đặc điểm bệnh nhân và phẫu thuật:
Họ tên bệnh nhân:...........................................................................................
Số bệnh án vào viện:.......................................................................................
Số bệnh án lƣu trữ:..........................................................................................
Ngày vào viện:......./......./20.............................................................................
Ngày mổ:......./......./20......................................................................................
Tuổi......................... Giới: 1, Nam 2, Nữ
Chiều cao:….....cm Cân nặng:…....kg.
Xếp loại ASA: 1, ASA I 2, ASA II
Chẩn đoán:........................................................................................................
Phƣơng pháp mổ:...............................................................................................
Nhóm nghiên cứu: 1, Nhóm 1 2, Nhóm 2
- Thời gian mổ (phút)…………………………………………………………
- Thời gian mê (phút)…………………………………………………………
2. Thuốc phối hợp:
1, Fentanyl(µg):…. .. 2,Esmeron (mg):……3, Dịch truyền (ml):………
4, Neostigmine (mg):………………… ........5, Atropin (mg):…………...
3. Hiệu quả gây mê
3.1. Các chỉ tiêu về thời gian
- Thời gian mất ý thức (giây):…………………………………………………
27
- Thời gian đặt NKQ (phút):…………………………………………………
- Thời gian tỉnh (phút):.......................................................................................
- Thời gian rút NKQ (phút):………………………………………………....
- Thời gian đạt từ 10/14 điểm Alderete sửa đổi (phút):……………………...
- Thời gian tỉnh ƣớc tính trên máy: (phút):……………………………………
3.2. Lượng propofol tiêu thụ
1, Tổng liều khởi mê (mg)……….
2, Liều khởi mê trung bình (mg/kg)……….
3, Tổng lƣợng sử dụng (mg):………
4, Liều sử dụng trung bình: (mg/kg)……….
3.3. Khả năng duy trì mê
Điểm PRST.
Thời điểm T1 T2 T3 T4 T5
Điểm PRST
- Số lần tỉnh trong mổ (PRTS ≥ 3): .....
Điều chỉnh độ mê:
Giờ thứ 1 Giờ thứ 2 Giờ thứ 3 Giờ thứ 4
Số lần chỉnh tăng độ mê
Số lần chỉnh giảm độ mê
- VAS khi tỉnh: …..điểm
- Đau trong mổ: 1, Có 2, Không.
- Biết, nhớ trong mổ: 1, Có 2, Không.
3.4. Tác dụng không mong muốn
1) Ho 1, Có 2, Không
28
2) Buồn nôn 1, Có 2, Không
3) Nôn 1, Có 2, Không
4) Co thắt thanh quản 1, Có 2, Không
5) Ảo giác 1, Có 2, Không
6) Rét run 1, Có 2, Không
4. Ảnh hƣởng huyết động và hô hấp
- Nhịp tim, HATB, SpO2 tại các thời điểm
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8
TS tim
HATB
(mmHg)
SpO2
+ Nhịp chậm: 1, Có 2, Không.
+ Thay đổi nhịp tim lớn nhất trong mổ: 1, < 10% 2, 10-20% 3, > 20%.
+ Thay đổi HATB lớn nhất trong mổ: 1, < 10% 2, 10-20% 3, > 20%.
5. Nồng độ đích Ce.
Giá trị Kết quả
Ce mất ý thức (µg/ml)
Ce đặt NKQ
Ce mở mắt (µg/ml)
Ce định hƣớng đúng (µg/ml)
Ce duy trì mê thấp nhất (µg/ml)
Ce duy trì mê cao nhất (µg/ml)
Hà nội, ngày .... tháng .... năm 20.....