Sốt rét ác tính

(Pernicious Falciparum Malaria)

(Kỳ 1)

1. ĐỊNH NGHĨA:

SRAT là một thể sốt rét (SR) nguy kịch do P. falciparum à gây ra rối loạn

huyết động tắc nghẽn trong vi tuần hoàn phủ tạng à dẫn đến tổn thương nhiều phủ

tạng như: não, gan, lách, thận, phổi...

Lâm sàng đa dạng phổ biến nhất là thể não (80-90%). Tỷ lệ tử vong trong

SRAT trung bình khoảng 10%.

2. DỊCH TỄ HỌC SRAT:

- SRAT phát sinh chủ yếu ở những người mới vào vùng SR được 6 - 12

tháng trở lại.

- Ở tân binh mới vào vùng SR 1 năm trở lại, SRAT tập trung ở những

người đã mắc SR từ 1 đến 6 lần.

- Vùng SR nặng, có tỷ lệ KST P. falciparum chiếm ưu thế (>70%).

- Tỷ lệ chuyển từ SR sang SRAT (% ) - còn gọi là chỉ số chuyển đổi

3. LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐOÁN SRAT:

3.1. Phân loại SRAT:

3.1.1. SRAT thể não (có hôn mê, rối loạn ý thức).

- Thể não đơn thuần

- Thể não kèm theo biến chứng phủ tạng, như:

• Thể não và suy tuần hoàn cấp hoặc sốc

• Thể não và suy thận cấp (thực thể)

• Thể não và suy gan cấp

• Thể não và phù phổi cấp

• Thể não và rối loạn tiêu hoá cấp (nôn, ỉa thốc tháo).

• Thể não và đái huyết cầu tố

3.1.2. SRAT thể phủ tạng đơn thuần (chỉ có tổn thương phủ tạng, không có

hôn mê):

• Thể sốc hoặcsuy tuần hoàn cấp

• Thể giống tả (rối loạn tiêu hoá)

• Thể suy gan cấp

• Thể suy thận cấp (thực thể)

• Thể phù phổi cấp hoặc ARDS (Adult respiratory distress syndrome)

• Thể xuất huyết

• Thể đái huyết cầu tố

• Thể bụng cấp

• Thể tâm thần

3.2. Lâm sàng SRAT thể não:

SRAT thể não là thể chiếm đa số (80 - 90%).

Đặc điểm là một bệnh não đối xứng xuất hiện trên một bệnh nhân SR

3.2.1. Thời kỳ khởi phát:

- Khởi phát đột ngột (1/3 số ca): bệnh nhân đang sinh hoạt, lao động gần

như bình thường đột nhiên ngã lăn, vật vã, ú ớ, mê man... Có thể kèm theo những

cơn co giật kiểu động kinh.

- Khởi phát từ từ (2/3 số ca): sau vài ba ngày sốt, bệnh nặng dần lên, có

biểu hiện rối loạn tâm thần kinh nặng dần: thờ ơ, khờ khạo, u ám hoặc kích thích,

vật vã, nói nhảm, đi lung tung, bỏ chạy, đái dầm, ỉa đùn... rồi vào hôn mê.

3.2.2. Thời kỳ toàn phát:

- Hội chứng tâm thần kinh:

+ Hôn mê sâu dần.

+ Co giật kiểu động kinh (1/3-1/4 số ca), có cơn co giật cục bộ hoặc toàn

thân, kéo dài vài giây đến 1-2 phút.

+ Hay có rối loạn cơ vòng: đái dầm, cầu bàng quang

+ Ít có triệu chứng định khu, hãn hữu có liệt 1/2 người; dây thần kinh sọ

não ít bị liệt.

+ Tăng trương lực cơ xuất hiện ở những trường hợp nặng

- Những biểu hiện lâm sàng khác:

+ Hô hấp: phổ biến là rối loạn hô hấp, thậm chí suy hô hấp do các nguyên

nhân: do phù não; do ứ đọng đờm dãi; do viêm phế quản phổi bội nhiễm. Một số

ngạt thở trong cơn co giật kéo dài, liên tiếp. Hãn hữu gặp phù phổi cấp.

+ Tuần hoàn: huyết áp giảm do mất nước (vì sốt cao, vã mồ hôi, không ăn

uống), hiếm hơn là do cơ tim (viêm cơ tim, khe tim, thiếu oxy cơ tim),

+ Tiêu hoá: bệnh nhân hay nôn và ỉa lỏng. Khi hôn mê sâu và rối loạn điện

giải có chướng bụng.

+ Gan: thường có gan to và rối loạn chức năng gan.

+ Lách: có thể to hoặc không

+ Thận: ở một số bệnh nhân SRAT có suy thận cấp

- Xét nghiệm máu và KSTSR:

+ Hồng cầu thường thấp, có khi thấy cả hồng cầu non, hồng cầu lưới

thường tăng; tốc độ lắng máu thường tăng. Bạch cầu nói chung bình thường hoặc

giảm nhẹ; hãn hữu có thể có phản ứng tăng giả bạch cầu.

+ KSTSR: đa số trường hợp xét nghiệm thấy P. falciparum (+). Cần chú ý:

một số bệnh nhân khi mới vào ác tính chưa thấy KSTSR, nhưng sau một thời gian

(vài giờ đến 1-2 ngày) KSTSR mới xuất hiện. Do vậy, phải xét nghiệm KSTSR

nhiều lần