ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
LẠI THỊ LAN ANH
SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,
HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
LẠI THỊ LAN ANH
SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,
HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN LỊCH SỬ
Mã số: 60 14 01 11
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THANH TÚ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm
khoa Sư phạm, các thầy cô trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà
Nội, thầy cô và học sinh trường THPT Nguyễn Bính huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Thanh Tú - người đã
tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn. Sự chỉ bảo ân cần
của cô là nguồn động viên giúp em thực hiện đề tài này.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, người thân, bạn
bè đồng nghiệp cũng như bạn bè trong nhóm Lý luận và Phương pháp dạy
học bộ môn Lịch sử đã tận tình giúp đỡ, cổ vũ, động viên tác giả trong suốt
quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Do hạn chế về kỹ năng nghiên cứu khoa học của bản thân cũng như
điều kiện khách quan không cho phép nên đề tài không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Chính vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và
bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Học viên thực hiện
i
Lại Thị Lan Anh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GV : Giáo viên
GS.TSKH : Giáo sư Tiến sĩ khoa học
HS : Học sinh
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
NXB : Nhà xuất bản
THPT : Trung học phổ thông
ii
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ................................................................................. vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................... 5
6. Giả thuyết khoa học .................................................................................... 6
. Đ ng g p c đề tài ..................................................................................... 6
8. Ý nghĩ kho học và thực tiễn c đề tài .................................................. 6
9. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ
DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...................................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm về di sản văn hóa ................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam ................................................ 10
1.1.3. Phân loại di sản ..................................................................................... 11
1.1.4. Vai trò của việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử Việt
Nam lớp 10 ở trường phổ thông ...................................................................... 14
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 17
iii
1.2.1. Thực trạng sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử dân tộc ...... 17
1.2.2. Thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học
Lịch sử Việt Nam lớp 10 ................................................................................. 18
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 28
CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG
THÀNH THĂNG LONG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
LỚP 10 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,
HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..... 29
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung chương trình lịch sử Việt Nam lớp 10
– chương trình chuẩn ở trường Trung học Phổ thông .............................. 29
2.1.1. Vị trí ...................................................................................................... 29
2.1.2. Mục tiêu................................................................................................. 29
2.1.3. Nội dung ................................................................................................ 31
2.2. Khảo sát nguồn tài liệu ở di sản Hoàng Thành Thăng Long cần
và có thể sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường
trung học phổ thông ...................................................................................... 34
2.2.1. Giới thiệu chung về khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng
Long................................................................................................................. 34
2.2.2. Một số nội dung tài liệu ở di sản Hoàng Thành Thăng Long có thể
sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường trung học phổ
thông ................................................................................................................ 38
2.3. Những nguyên tắc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông ............................... 55
2.3.1. Khai thác tính trực quan sinh động của di sản Hoàng thành Thăng
Long................................................................................................................. 55
2.3.2. Đảm bảo tính khoa học, sư phạm .......................................................... 58
2.3.3. Phát huy tính tích cực trong nhận thức của học sinh ............................ 60
2.4. Các biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong
dạy học Lịch sử lớp 10 ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Bính,
iv
huyện Vụ Bản tỉnh N m Định ...................................................................... 62
2.4.1. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng về các
sự kiện lịch sử cơ bản ...................................................................................... 62
2.4.2. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành tổ chức thảo
luận nhóm ........................................................................................................ 69
2.4.3. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành dạy học dự
án ..................................................................................................................... 73
2.5. Thực nghiệm sư phạm ........................................................................... 79
2.5.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 79
2.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ........................................................ 80
2.5.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm ................................................ 80
2.5.4. Phân tích kết quả thực nghiệm .............................................................. 80
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 285
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 287
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88
v
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 .......................................................... 23
Bảng 1.2. Kết quả điều tra học sinh về việc thiết kế các hoạt động học tập
có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long .................................................. 24
Bảng 2.1. Nội dung các tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long có thể
sử dụng trong chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10 .................................... 38
Bảng 2.2. Kết quả thực nghiệm sư phạm ........................................................ 82
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp phân loại học sinh theo kết quả điểm kiểm tra
(%) ................................................................................................................... 82
Bảng 2.4. Độ chênh lệch điểm kiểm tra giữa lớp thực nghiệm và lớp đối
vi
chứng ............................................................................................................... 83
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1. Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa .............. 21
Biểu đồ 1.2. Biểu đồ đánh giá mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ............... 22
vii
Biểu đồ 2.1: So sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ........... 82
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập hiện nay, công tác giáo dục truyền thống lịch sử
dân tộc cho thế hệ trẻ luôn được chú trọng trong các nhà trường phổ thông.
Trong số các môn học đó, Lịch sử có nhiều ưu thế và ý nghĩa quan trọng góp
phần giáo dục thế hệ trẻ theo lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyên
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười
đã nhấn mạnh việc giáo dục lịch sử dân tộc, coi lịch sử là tài liệu giáo khoa số
một trong nhà trường. Tuy nhiên, thực tế việc dạy và học Lịch sử còn có
những hạn chế so với mong đợi của xã hội. Thực tiễn nhiều học sinh không
ham thích hoặc thờ ơ với việc học Lịch sử. Thực trạng này đã và đang gióng
lên hồi chuông báo động và cần có sự thay đổi nhanh chóng nhưng hợp lý,
cẩn trọng đối với việc giảng dạy và học tập môn Lịch sử. Đặc biệt, vấn đề
nâng cao sự hiểu biết của học sinh theo cách tự nhiên nhất nhưng phải hấp
dẫn, đưa người học vào tâm thế chủ động, sáng tạo còn chưa thực sự phát huy
hiệu quả. Chính vì vậy, chúng ta cần có những bước cải tiến và đổi mới nội
dung và phương pháp dạy học bộ môn mang tính cấp bách. Quá trình này
được tiến hành thường xuyên, đồng bộ, trong đó cần tăng cường sử dụng các
tài liệu trực quan. Một trong số đó chính là sử dụng di sản văn hóa. Đây
không chỉ là một loại tài liệu lịch sử vật chất quý hiếm, một bằng chứng khoa
học, trung thực về quá khứ mà còn là một loại tư liệu dạy học bộ môn đem lại
hiệu quả cao.
Đầu năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa Thể thao đã có
văn bản hướng dẫn về việc sử dụng di sản văn hóa vào dạy học, được thực
hiện thí điểm tại 7 địa phương: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Giang,
Phú Thọ, Quảng Ninh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam với ba môn Lịch sử,
Địa và Âm nhạc. Tại Hội thảo “Chương trình giáo dục di sản trong nhà
trường tại Việt Nam” diễn ra vào ngày 07/03/2012 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ
1
Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh: “Giáo dục di sản đã và
đang từng bước trở thành yêu cầu, nhiệm vụ, động lực đối với các trường phổ
thông, góp phần quan trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện ở Việt Nam” [29, tr. 161].
Các nước trên thế giới ngày càng chú trọng đến công tác khai thác và
sử dụng di sản văn hóa vào nhiều lĩnh vực. Với chiều dài lịch sử đấu tranh
anh hùng, Việt Nam có nhiều loại di sản khác nhau và đem lại hiệu quả giáo
dục. Một trong số đó, khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long được công
nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 2009 là nguồn tài liệu rất quan trọng.
Khu di sản bao gồm Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và Trục chính tâm
Hoàng thành Thăng Long đã tạo nên một quần thể thống nhất, có giá trị về
lịch sử bởi đây từng là Kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XII đến thế kỉ
XVIII. Vì vậy, vấn đề này là đề tài của nhiều công trình khoa học của nhiều
tác giả trong và ngoài nước. Nhiều khía cạnh khác của vấn đề được đề cập và
giải quyết. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong nước còn hạn chế về vấn đề
của luận văn ở lĩnh vực phương pháp dạy học lịch sử, cụ thể là phương pháp
sử dụng di sản trong dạy học Lịch sử ở trường THPT.
Với những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam Lớp 10 trường
trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định ” nhằm đề
xuất các biện pháp sử dụng nguồn tài liệu quý giá này theo hướng dạy học đổi
mới, sáng tạo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường THPT
và góp phần vào các nghiên cứu về bộ môn phương pháp dạy học Lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu vấn đề về di sản Hoàng thành Thăng Long dưới nhiều
góc độ khác nhau đã được giải quyết trong nhiều công trình khoa học trong và
ngoài nước. Với phạm vi và tính chất của đề tài chúng tôi tập trung tìm hiểu
hai vấn đề lớn như sau:
2
- Vị trí và ý nghĩa của di sản Hoàng thành Thăng Long:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập cụ thể và chi tiết về khu
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long. Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu
như: “Những hiểu biết mới về thành Thăng Long” của Đỗ Văn Ninh đăng trên
tạp chí Khảo cổ học (2004 - số 4, tr. 21-35). Bài viết cung cấp thêm những
thông tin về các đợt khai quật khảo cổ học gần nhất trong khu Hoàng thành
Thăng Long, giúp độc giả có thêm cứ liệu để truy tìm vị trí Hoàng thành thủa
ban đầu. Trên cơ sở các hiện vật khảo cổ học và việc phát lộ khu di tích
Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu, tác giả Nguyễn Quang Ngọc trên
tạp chí Nghiên cứu lịch sử (2005 - Số 2. tr. 10-15) bàn về phạm vi, vị trí của
Hoàng thành và Cung thành ở các triều đại Lý - Trần – Lê. Tác giả Nguyễn
Thừa Hỷ trong: “Thăng Long Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII – XIX” (Hội Sử học
Việt Nam năm 1993) đã trình bày nghiên cứu toàn diện về kinh tế, chính trị
và xã hội của Thăng Long Hà Nội xưa, góp phần tạo dựng lại lịch sử của
chính bản thân nó và cũng để hiểu thêm về cấu trúc đô thị trong những thế kỷ
qua. Đặc biệt, nhiều kết quả khai quật Khảo cổ học khu Trung tâm Hoàng
thành Thăng Long đã đoàn khai quật báo cáo chi tiết trong Hội nghị thông
báo Khảo cổ học lần thứ 50 (từ ngày 16 đến 18 tháng 9 năm 2015) diễn ra tại
thành phố Huế. Bên cạnh đó, nhiều đầu sách đề cập tới sự hiện diện của
Hoàng thành Thăng Long trong lịch sử dân tộc như: Lâm Thị Mỹ Dung,
Nguyễn Gia Đối, Nguyễn Ngọc Thơ với “Di sản lịch sử và những hướng tiếp
cận mới”, Nxb Thế giới, 2011; Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh: “Thế giới biểu
tượng trong di sản văn hóa Thăng Long – Hà Nội”, Nxb Hà Nội, 2011; Bùi
Đẹp với: “Di sản thế giới tại Việt Nam”, tập 1, Nxb Trẻ - thành phố Hồ Chí
Minh, 2012.
- Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử:
Các công trình nghiên cứu của tâm lý học, giáo dục học như: “Tư duy
học sinh”, (1982) của Sácđacốp, Nxb Giáo dục, Hà Nội; “Phát triển tư duy
học sinh”, (1976) của M.A.Lexeep, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Phan Ngọc Liên
3
(cb), (2009), Phương pháp dạy học Lịch sử, tập 1, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà
Nội; Nguyễn Thị Côi, (2008), Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả
dạy học lịch sử ở trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội; Phan
Ngọc Liên, Trần Văn Trị (cb), (2004), Phương pháp dạy học Lịch sử, Nxb
Giáo dục, Hà Nội… đã trình bày những cơ sở lý luận dạy học, nhất là việc sử
dụng các phương tiện trực quan và vai trò của nó trong dạy học.
Các công trình về lý luận dạy học lịch sử đề cập tới việc dạy học lịch sử
sử dụng di sản, di tích trong nhà trường phổ thông như: “Chuẩn bị giờ học
lịch sử như thế nào?” của N.G.Đairi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001; Nguyễn
Văn Huy, Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa, Quy trình
giáo dục trải nghiệm di sản trong nhà trường; Trần Thị Thu Thủy, Nguyễn
Xuân Trường, Nguyễn Đức Tăng (2004), Các bước xây dựng kế hoạch dạy
học có sử dụng di sản văn hóa phi vật thể, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Hoàng
Thanh Hải với Di tích lịch sử và việc giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông
trên Tạp chí Xưa và Nay (tháng 4/1996, tr.6-7). Ngoài ra, còn nhiều bài viết
đăng trên các tạp chí chuyên ngành: Dạy và Học ngày nay, tạp chí Nghiên
cứu Giáo dục, Xưa và Nay… và một số báo cáo khoa học trong các hội thảo
khoa học. Đây thực sự là những nguồn tài liệu tham khảo quý giá giúp tác giả
có những gợi ý giải quyết vấn đề của đề tài đặt ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình sử dụng di sản trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam (lớp 10
– chương trình chuẩn) ở trường THPT nói chung, trường THPT Nguyễn Bính,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định nói riêng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về hình thức tổ chức dạy học: tập trung vào bài học nội khóa.
Về phạm vi điều tra, khảo sát thực trạng và thực nghiệm: tiến hành tại
lớp 10, trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di sản Hoàng
thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10, luận văn xác định
rõ những nguyên tắc, đặc điểm của phương tiện trực quan này, đồng thời đề
xuất các biện pháp sử dụng di sản trong bài dạy phù hợp với đặc điểm học
sinh THPT nói chung, học sinh trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản
tỉnh Nam Định nói riêng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc sử dụng di sản và những yêu cầu cần
thiết khi sử dụng di sản vào dạy học môn Lịch sử.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng di sản nói chung, sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long nói riêng trong dạy học môn Lịch sử.
- Nghiên cứu nội dung phần Lịch sử Việt Nam lớp 10 sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long và định hướng biện pháp sử dụng di sản theo hướng
dạy học tích cực.
- Tiến hành thực nghiệm, làm cơ sở cho việc rút ra các kết luận khoa
học, đóng góp vào sự phát triển của lý luận và phương pháp dạy học Lịch sử.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta về lịch sử, giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí thuyết: đọc và phân tích, tổng hợp tài liệu sách báo, tạp
chí, internet… về tâm lý học, giáo dục học, phương pháp dạy học Lịch sử;
phân tích nội dung chương trình, sách giáo khoa lớp 10.
- Nghiên cứu thực tiễn: quan sát, dự giờ, trao đổi với giáo viên, học sinh,
điều tra xã hội học để đánh giá hiểu biết về di sản nói chung và thực trạng sử
dụng di sản Hoàng thành Thăng Long nói riêng trong dạy học Lịch sử ở
trường THPT; Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra, đối chứng kết quả
5
nghiên cứu của luận văn.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên sử dụng di sản văn hóa nói chung và di sản Hoàng thành
Thăng Long nói riêng trong dạy học Lịch sử theo hướng dạy học tích cực sẽ
đáp ứng được mục tiêu dạy học lịch sử, đặc biệt dạy học phần Lịch sử Việt
Nam (lớp 10 - chương trình chuẩn) và góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay.
7. Đ ng g p c đề tài
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần:
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của việc sử dụng di sản trong
dạy học Lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
- Đánh giá được thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long.
- Đề xuất biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long theo
hướng dạy học tích cực.
8. Ý nghĩ khoa học và thực tiễn c đề tài
- Ý nghĩa khoa học: làm phong phú thêm lí luận phương pháp dạy học
môn Lịch sử nói chung và vấn đề sử dụng di sản trong dạy học lịch sử ở
trường THPT nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các
trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, Đại học Giáo dục; giáo viên bộ môn Lịch
sử và bản thân tác giả luận văn vận dụng trong quá trình dạy học Lịch sử ở
trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng di sản Hoàng
thành Thăng Long trong dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
Chương 2: Các biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản
6
tỉnh Nam Định. Thực nghiệm sư phạm.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG TRONG DẠY HỌC
MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về di sản văn hóa
Khái niệm văn hóa
Trên dải đất hình chữ S, 54 dân tộc đã góp vào nền văn hóa chung một
màu sắc độc đáo tạo nên một bức tranh về văn hóa Việt Nam phong phú và đa
dạng. Con người ra đời, trưởng thành là nhờ văn hóa, hướng tới tương lai
cũng từ văn hóa. Giá trị văn hóa của một dân tộc thể hiện bản sắc của dân tộc
ấy. Những giá trị văn hóa của con người là thước đo trình độ phát triển và thể
hiện đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Tuy được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái
niệm văn hóa bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính (theo Trần Ngọc
Thêm): theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều
rộng, theo không gian hoặc theo thời gian. Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó như nếp sống văn hóa, văn hóa
nghệ thuật,.. Giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị
đặc thù của từng vùng văn hóa trên dải đất hình chữ S này. Giới hạn theo
không gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn như
văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn,...
Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem bao gồm tất cả những gì
do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
7
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm đáp ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [24, tr. 431]. Federico Mayor, Tổng giám đốc
UNESCO cho biết đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác
tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác,
văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác,
từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập
quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế
chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa, họp tại
Venise năm 1970.
Trong lĩnh vực này, khởi đầu định nghĩa của E.B.Tylor trong cuốn Văn
hóa nguyên thủy (Primitive culture) xuất bản ở London năm 1871, đến nay đã
có nhiều định nghĩa khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà Nhân học người Mỹ là
A.Kroeber và C.Kluchkhohn đã viết một cuốn sách chuyên bàn về các định
nghĩa văn hóa với tựa đề Văn hóa – tổng luận phê phán các quan niệm và
định nghĩa, trong đó đã dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Trong
lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này, số định nghĩa văn hóa đã tăng lên đến
trên 200 định nghĩa. Còn hiện nay thì số lượng định nghĩa văn hóa chưa được
khẳng định chính xác.
Tóm lại, dù số lượng định nghĩa văn hóa có nhiều nhưng tựu chung lại,
văn hóa mà theo E.B.Tylor định nghĩa văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng
về tộc người, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm
lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội.
Với cách hiểu trên cùng những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là
ranh giới giúp con người có điểm khác biệt với các loài động vật khác. Văn
hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.
8
Khái niệm di sản
Theo nghĩa Hán Việt: di là để lại, sản là tài sản. Di sản văn hóa là
những công trình văn hóa những tài sản văn hóa nổi tiếng của người xưa để
lại cho đời sau, biểu trưng cho nền văn minh lúc bấy giờ.
Di sản văn hóa là toàn bộ sản phẩm sáng tạo của con người hàm chứa
những giá trị về chân – thiện – mỹ, thể hiện dưới dạng biểu tượng và được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Di sản đi liền với văn hóa nên cũng
mang những đặc trưng của văn hóa, nhưng bản thân nó còn chứa đựng cả vốn
kinh nghiệm, tri thức của loài người. Di sản văn hóa mang dấu ấn thời gian, là
vật chứng cho mỗi sự kiện, mỗi nhân vật hay thời kỳ lịch sử nhất định.
Di sản văn hóa là toàn bộ tạo phẩm, chứa đựng trong nó những giá trị
mà con người đã tích lũy được trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, là
thành tựu của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.
Theo Công ước Di sản thế giới thì di sản văn hóa là:
+ Các di tích: các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa,
các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở trong hang
đá và các công trình sự kết hợp giữa công trình xây dựng tách biệt hay liên
kết với nhau mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí trong
cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật
và khảo học.
+ Các di chỉ: các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác phẩm có
sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo, các khu vực trong đó có các di chỉ
khảo cổ học có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mĩ,
dân tộc học hoặc nhân chủng học.
Tóm lại, theo Luật Di sản văn hóa quy định, di sản văn hóa bao gồm di
sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này
9
sang thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam
Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn
hóa của cộng đồng 54 dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao
truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn
hóa Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hóa, là tài sản quý giá của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản
văn hóa Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của nhân dân ta.
Căn cứ vào nguồn tài liệu lưu trữ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
cả nước ta hiện có 40.000 di tích Lịch sử - văn hóa. Trong đó, Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch, đã xếp hạng 3152 di tích có giá trị quốc gia, gồm 1468 di
tích Lịch sử - văn hóa; 1478 di tích kiến trúc – nghệ thuật; 77 di tích khảo cổ;
129 danh lam thắng cảnh.
Căn cứ vào điểm 3, điều 29, chương IV – Bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa vật thể. Mục 1: Di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, theo
đề nghị của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch và văn bản thẩm định của Hội Di
sản văn hóa Quốc gia, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định xếp hạng có 23 di
tích quốc gia đặc biệt; đồng thời cũng đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) xem xét, đưa di tích tiêu biểu của
Việt Nam vào Danh mục di sản thiên nhiên, di sản văn hóa vật thể tiêu biểu của
nhân loại. Dưới đây là 7 di sản văn hóa được tổ chức UNESCO công nhận:
- Năm 1994, UNESCO đã chính thức công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản
thiên nhiên thế giới bởi giá trị ngoại hạng về mặt cảnh quan. Năm 2000, vịnh
Hạ Long tiếp tục được UNESCO công nhận lần thứ hai là Di sản địa chất thế
giới vì những giá trị độc đáo về địa chất, địa mạo.
- Năm 2003, vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã được UNESCO
công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với hệ thống hang động giá trị hàng
đầu thế giới với bốn điểm nhất: có sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và
10
rộng nhất, có những bờ cát rộng và đẹp nhất, có những thạch nhũ đẹp nhất.
Bên cạnh đó còn có 5 di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được ghi
danh vào Danh mục Di sản văn hóa nhân loại:
- Quần thể các công trình kiến trúc cố đô Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên –
Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1993. Quần thể có diện
tích hơn 500 ha cùng hệ thống những đền, chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến
trúc nguy nga tráng lệ gắn liền với cảnh quan thiên nhiên núi sông bao quanh.
- Khu phố cổ Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, được hình thành từ thế kỷ
16 – 17 và là một thương cảng của miền Trung. Năm 1999, phố cổ Hội An đã
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Hiện nay, đây được coi
là một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị thời phong kiến.
- Khu di tích Mỹ Sơn là khu vực đền tháp của người Chăm cổ, thuộc xã
Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng
68km về hướng Tây – Tây Nam. Với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong
cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu của dân tộc Chăm. Đây được coi là một
trong những trung tâm đền đài chính của Đạo Hinđu ở khu vực Đông Nam Á,
và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Năm 1999, khu di tích Mỹ
Sơn được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
- Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội được công nhận là
di sản văn hóa thế giới vào đúng dịp mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội (2010).
- Thành nhà Hồ được coi là thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và
là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27 tháng 6 năm 2011, tại Paris
(Pháp), trong kỳ họp lần thứ 35 của Uỷ ban Di sản thế giới, UNESCO đã
công nhận thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.
1.1.3. Phân loại di sản
Toàn bộ Di sản thế giới được tổ chức UNESCO chia thành 3 nhóm: Di
sản văn hóa (nhân tạo); Di sản thiên nhiên thế giới (thiên tạo) và Di sản hỗn
hợp (kết hợp giữa thiên tạo và nhân tạo). Trong đó, di sản văn hóa được phân
11
chia thành hai loại là Di sản văn hóa vật thể và Di sản văn hóa phi vật thể.
1. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức khác. Theo UNESCO, có thể xếp văn hóa
phi vật thể thành 14 loại hình như sau:
a. Ngôn ngữ
b. Lịch sử truyền miệng
c. Nghi lễ và tôn giáo truyền thống
d. Các hình ảnh, biểu tượng thiêng
e. Các loại thiết kế (không mang tính chất thiêng), ngành nghề thủ công
truyền thống
f. Âm nhạc truyền thống
g. Múa truyền thống
h. Ẩm thực
i. Kỹ năng săn bắn thú (khả năng nhận biết hơi thú, bắt chước tiếng
kêu của con vật, đánh bắt cá,...)
j. Các phương pháp tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên truyền thống
k. Kiến thức về thiên văn học, về y học cổ truyền
l. Các phương pháp truyền thống giữa các thế hệ trong cộng đồng.
Các loại hình kể trên được dựa theo cách phân loại của Prott, Lyndel,
Some Considerations on the protection of the Intangible Heritage: Claims and
Remedies (Một vài quan điểm về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể: Yêu cầu
và giải pháp). Tuy nhiên, các hình thức kể trên chưa bao trùm toàn bộ các di
sản văn hóa phi vật thể của loài người. Song dựa vào các tiêu chí trên, mỗi
quốc gia có thể ra các bảo tồn, cách truyền dạy tài sản vô giá cho các thế hệ
kế tiếp. Đối với Việt Nam, theo Luật Di sản văn hóa, chúng ta đang bảo tồn,
phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể sau đây:
12
a. Tiếng nói, chữ viết
b. Nghệ thuật trình diễn dân gian
c. Tập quán xã hội và tín ngưỡng truyền thống, tri thức dân gian
d. Ẩm thực truyền thống...”
2. “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam – thắng cảnh và di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Theo đó:
- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học.
- Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị Lịch sử,
thẩm mỹ, khoa học.
- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hóa, khoa học có từ 100 năm tuổi trở lên.
- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị đặc biệt quý
hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học” [23, tr. 31].
Thực tế, sự phân chia giá trị di sản văn hóa thành phi vật thể và vật thể
chỉ có ý nghĩa tương đối. Theo Lưu Trần Tiêu cho rằng: “... sự phân chia
thành văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể theo dạng tồn tại của sản phẩm
sáng tạo chỉ có tính chất tương đối. Bởi lẽ dưới cái lớp vỏ vật chất của sản
phẩm văn hóa chứa đựng giá trị về năng lực sáng tạo, về thẩm mỹ, về ý nghĩa
và nội dung thể hiện gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan của một cộng
đồng. Chẳng hạn, kiến trúc của ngôi đình làng với đồ thờ tự là sản phẩm văn
hóa vật thể, nhưng còn bao nhiêu giá trị văn hóa khác của một đình làng
(công đức của người được tôn vinh là Thành hoàng làng, giá trị thẩm mỹ, ý
nghĩa phản ánh qua kiến trúc và những mảng trang trí, cũng như mối quan hệ
giữa chúng với môi trường cảnh quan xung quanh, những hội hè, những quy
tắc về tập tục sinh hoạt đình làng,...) lại là cái hồn, cái bản chất gắn kết không
13
thể tách rời khỏi cái đình làng vật thể. Hay bản thân cơ thể người nghệ nhân
là vật thể nhưng óc thẩm mỹ, tài năng sáng tạo, sự khéo léo và tinh tế, những
kinh nghiệm và bí quyết hành nghề... khiến họ tạo ra được những sản phẩm
văn hóa tuyệt vời tồn tại dưới dạng phi vật thể. Thế thì làm sao có thể tách rời
nhau được” [27, tr. 661-662].
Như vậy, các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có mối liên hệ
chặt chẽ, bản thân chúng đã hòa quyện với nhau tạo nên một chuỗi di sản quý
giá và thế hệ kế tiếp có trách nhiệm gìn giữ và phát triển. Giáo dục sử dụng di
sản văn hóa (bao gồm vật thể và phi vật thể), di sản thiên nhiên, trong đó bao
hàm cả giáo dục truyền thống. Theo Nguyễn Văn Huy – Uỷ viên Hội đồng Di
sản văn hóa quốc gia, giáo dục di sản văn hóa chính là giáo dục về những di
sản xung quanh chúng ta, các di sản xung quanh trường học. Hiện nay giáo
dục nói chung và giáo dục Lịch sử nói riêng có nhiều nghĩa mở rộng so với
giáo dục truyền thống.
1.1.4. Vai trò của việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử Việt
Nam lớp 10 ở trường phổ thông
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc giáo dục truyền thống
hướng cho thế hệ trẻ tới sự phát triển năng lực một cách tự nhiên, chủ động và
sáng tạo. Lứa tuổi trung học phổ thông là đối tượng rất cần có sự định hướng
rõ ràng để xác định ngành nghề trong tương lai. Để thực hiện điều này, bản
thân mỗi nhà giáo dục cần từng bước đổi mới phương thức giáo dục truyền
thống để phù hợp với tâm lí và nhu cầu của các em. Tại Hội thảo “Chương
trình giáo dục di sản trong nhà trường tại Việt Nam”, Thứ trưởng Nguyễn
Vinh Hiển đã nhấn mạnh rằng giáo dục di sản đã và đang từng bước trở thành
yêu cầu, nhiệm vụ và động lực đối với các trường phổ thông, góp phần quan
trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện ở Việt Nam.
Trước hết, mục đích hướng tới của việc giáo dục di sản là nhằm hình
thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị của di
14
sản văn hóa, rèn luyện tính chủ động sáng tạo trong đổi mới phương pháp
học tập. Hơn thế nữa, việc sử dụng di sản văn hóa tác động đến tư tưởng, tình
cảm của học sinh. Thông qua di sản dù là vật thật hay qua phim, ảnh, tranh,
vẽ,... được thầy cô sử dụng trong bài dạy đều góp phần nâng cao tính trực
quan, giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận đối tượng liên quan tới bài
học tồn tại trong di sản. Di sản văn hóa cũng là phương tiện quan trọng giúp
học sinh rèn một số kỹ năng học tập như: kỹ năng quan sát, thu thập, xử lý
thông tin,... qua đó tự chiếm lĩnh kiến thức cần thiết thu được trong quá trình
tiếp cận với di sản. Đồng thời, còn là sự vận dụng kiến thức liên môn để giải
thích những hiện tượng, sự vật có trong các di sản văn hóa. Thông qua
phương pháp sử dụng di sản trong dạy học sẽ làm cho những giá trị về văn
hóa, lịch sử, khoa học khởi sắc và có thể truyền cảm hứng cho các em. Điều
này giúp học sinh không chỉ hiểu về di sản theo nghĩa rộng mà còn giúp các
em tư duy sâu hơn về các giá trị truyền thống, tác động trực tiếp đến tình cảm,
đạo đức và hình thành nhân cách.
Thứ hai, theo định hướng của Bộ giáo dục và Đào tạo, phương pháp
dạy học hiện nay chuyển từ dạy học thụ động sang dạy học phát huy tính chủ
động sáng tạo của học sinh làm chuyển biến vị trí người học từ thụ động sang
chủ động. Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học bộ môn là một phương
pháp không mới, đây là sự kết hợp giữa yếu tố dạy học truyền thống và hiện
đại. Do đặc thù bộ môn lịch sử nên khi giáo viên sử dụng các di sản để tăng
sự tin cậy đối với các sự kiện quá khứ là điều tất yếu. Di sản văn hóa cũng
mang đặc điểm rất phù hợp với yêu cầu của bộ môn qua các hiện vật mang
tính chính xác, cụ thể, phong phú mà nó xuất hiện tại các sự kiện. Đây là loại
tài liệu học sinh cần được tiếp xúc và giúp các em thoát khỏi tình trạng “hiện
đại hóa lịch sử”. Việc sử dụng di sản còn giúp học sinh có thêm cơ sở vững
chắc để nắm vững bản chất các sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy
luật, bài học quan trọng của lịch sử, bước đầu đặt nền tảng cho học sinh thói
15
quen nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, việc sử dụng tài liệu di sản Hoàng thành Thăng Long trong
dạy học lịch sử còn có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa giáo dục. Căn cứ vào Luật di
sản văn hóa (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009), di sản văn hóa Việt Nam là
tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di
sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta. Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, hầu hết
các sự kiện lịch sử trọng đại đều diễn ra trên mảnh đất Thăng Long. Hơn thế
nữa, trải qua gần 13 thế kỷ, Hoàng thành Thăng Long vẫn tồn tại như một
chứng nhân lịch sử khiến cho cả dân tộc Việt Nam thêm tự hào. Chính vì vậy,
đặt ra yêu cầu sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử
Việt Nam lớp 10 ở trường THPT với các hoạt động học tập đa dạng, phong
phú.
Với các chức năng chính trị và vai trò mang tính biểu tượng của mình,
Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội có liên quan trực tiếp tới rất nhiều sự kiện
văn hóa và lịch sử quan trọng, những biểu đạt nghệ thuật cũng như các tư
tưởng luân lý, triết học và tôn giáo. Các sự kiện diễn ra liên tiếp đánh dấu quá
trình hình thành và phát triển của một quốc gia độc lập trong suốt hơn một
ngàn năm, bao gồm cả thời kỳ thuộc địa và hai cuộc chiến tranh giành độc lập
và thống nhất Việt Nam thời hiện đại. Vua Lý Thái Tổ dời đô tới Thăng Long
là một bước tiến không thể thiếu trong sự nghiệp củng cố nền độc lập của dân
tộc Việt. Việc lựa chọn địa điểm thành Đại La của chế độ cũ làm nơi xây
dựng kinh đô Thăng Long của quốc gia mới độc lập có ý nghĩa khẳng định
chủ quyền và quyền độc lập tự chủ của nhân dân ta. Trong suốt chiều dài lịch
sử, qua quá trình xây dựng và phát triển kinh đô Thăng Long – Hà Nội, ý
nghĩa biểu tượng này không bao giờ bị lãng quên. Những sự kiện lịch sử
trọng đại đều để lại dấu ấn trong khu di sản. Kể từ cuộc chiến giành quyền tự
chủ dưới sự cai trị của chính quyền phương Bắc đến những ảnh hưởng của tư
tưởng, tôn giáo đều dần khẳng định ý thức dân tộc sâu sắc. Đặc biệt, Nho giáo
16
có ảnh hưởng rất rõ đến hình thái quy hoạch và kiến trúc Thăng Long thời kỳ
này. Những tiếp xúc và giao thoa văn hóa Đông – Tây, những cuộc đấu tranh
giành quyền lực thời thuộc địa cũng đã để lại dấu ấn đậm nét trong khu di sản.
Với những giá trị tiêu biểu của mình, Hoàng thành Thăng Long là minh
chứng cho 10 thế kỷ giao lưu và giao thoa văn hóa từ khắp nơi châu Á.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử dân tộc
Căn cứ vào thực trạng dạy và học lịch sử hiện nay của nước ta cho thấy
còn nhiều vấn đề đặt ra đối với cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và chính
bản thân học sinh. Theo thống kê của Bộ giáo dục và Đào tạo cho thấy, tại kỳ
thi Trung học phổ thông Quốc gia năm 2015 chỉ 15,3% học sinh đăng ký môn
Lịch sử, thấp nhất trong số các môn tự chọn của kỳ thi. Có rất nhiều trường
không có thí sinh nào đăng kí môn Lịch sử. Vì vậy, tình trạng này có thể lặp
lại trong rất nhiều năm tiếp theo nếu chúng ta không có sự thay đổi tích cực từ
nhiều phía. Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, kỳ thi trung học phổ thông
Quốc gia 2016, Hà Nội có 76,137 thí sinh đăng ký tham gia dự thi, trong đó
môn Lịch sử có lượng thí sinh đăng ký thấp nhất với 8,954 học sinh (chiếm
gần 12% trên tổng số thí sinh đăng ký dự thi). Rất nhiều điểm thi ”trắng” thí
sinh dự thi môn Lịch sử như trường THPT Bắc Thăng Long, THPT Đông
Anh (Đông Anh), THPT Đa Phúc (Sóc Sơn), THPT Quang Minh (Mê Linh)
không có thí sinh dự thi Lịch sử. Còn Phòng khảo thí và kiểm định chất
lượng, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh công bố số liệu đăng
ký dự thi THPT Quốc gia 2016 là 55,615 học sinh. Trong đó, số thí sinh lựa
chọn môn Lịch sử chỉ có 3,908 học sinh trên tổng số.
Để cải thiện tình trạng trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những định
hướng thay đổi, đột phá về cấu trúc câu hỏi, hướng tới cách kiểm tra – đánh
giá theo hướng hạn chế việc học lý thuyết, nặng về tái hiện kiến thức. Thay
vào đó là sự phát huy sức sáng tạo của mỗi cá nhân bằng cách xây dựng phần
tự luận dạng đề mở nhằm buộc học sinh đưa ra ý kiến, quan điểm của học
17
sinh về nhân vật, sự kiện, biến cố lịch sử. Theo đánh giá của các giáo viên bộ
môn Lịch sử, đề thi Quốc gia 2016 không nặng về kiến thức, có cả câu hỏi mở
liên hệ thực tế nên thí sinh không thể học tủ, không được điểm cao nếu không
biết tư duy, liên hệ. Nhận xét về đề thi, cô Hứa Hoa Mai, giáo viên Lịch sử
trường THPT Lê Viết Thuật thành phố Vinh – Nghệ An cho biết: đề thi năm
nay phần kiến thức bám sát trong sách giáo khoa, trải rộng kiến thức trong
suốt chương trình đòi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức tổng thể chứ
không phải một vấn đề, không thể học tủ. Mặt khác, đề thi đi theo hướng phân
tích khái quát, khuyến khích thí sinh phát huy ý kiến cá nhân và có ý nghĩa
đối với thế hệ trẻ. Khả năng phân loại thí sinh cao.
Dạy học sử dụng di sản văn hóa chưa từng là một phương pháp mới mẻ
đối với giáo viên song thực tế lại chưa được sử dụng rộng rãi và có định
hướng rõ ràng. Ngày 28 tháng 6 năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối
hợp với Hiệp hội UNESCO của Việt Nam tổ chức Hội thảo (cấp chuyên gia)
với chủ đề: “Dạy học thông qua di sản”. Tại hội thảo, Vụ giáo dục Trung học
của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình bày bản dự thảo: “Đề cương tài liệu
hướng dẫn dạy học thông qua di sản”. Kết cấu đề cương gồm có 3 phần: 1) Dạy
học thông qua di sản; 2) Những yêu cầu đối với việc dạy học thông qua di sản;
3) Nội dung, phương pháp và hình thức dạy học thông qua di sản. Căn cứ vào
bản đề cương nói trên, giáo viên có thể đưa ra những định hướng rõ ràng, thay
đổi cách nhìn nhận của học sinh đối với những sự kiện quá khứ thông qua các
hiện vật còn tồn tại bên trong di sản. Hơn thế nữa, các di sản văn hóa, dù là vật
thật hay qua phim ảnh, tranh vẽ,.. nếu được sử dụng trong dạy học đều góp
phần nâng cao tính trực quan, giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận với
đối tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản.
1.2.2. Thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học
Lịch sử Việt Nam lớp 10
Thực tiễn dạy học Lịch sử đã một phần được thể hiện rõ qua kết quả mỗi
kỳ thi THPT Quốc gia. Đó là thực trạng đáng báo động đối với bộ môn, hơn hết,
18
việc thay đổi phương pháp giáo dục là cần thiết. Một bộ phận giới trẻ hiện nay
không am hiểu về lịch sử văn hóa dân tộc đã trở thành nỗi trăn trở của những
người làm công tác giáo dục. Để hạn chế tình trạng này, việc đưa giáo dục thông
qua di sản vào chương trình chính là cách bồi dưỡng tình yêu quê hương đất
nước cho học sinh. Bên cạnh đó, điểm mạnh của việc sử dụng di sản văn hóa
chính là đặt học sinh vào chính sự kiện, học sinh phải là chủ thể tích cực trong
quá trình sử dụng di sản trong giờ học và các hoạt động giáo dục.
1.2.2.1. Nội dung khảo sát
Để tổ chức điều tra thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT, chúng tôi đã tập
trung khảo sát dựa trên các tiêu chí sau:
Về phía giáo viên
+ Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa.
+ Quan niệm của giáo viên về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong dạy
học môn Lịch sử.
+ Đánh giá của giáo viên về mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường
THPT.
+ Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy
học Lịch sử Việt Nam lớp 10.
+ Cách thức giáo viên thiết kế các hoạt động học tập có sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long.
+ Hiệu quả đạt được khi giáo viên sử dụng các hoạt động học tập có sử
dụng di sản Hoàng thành Thăng Long.
+ Những cách thức mà giáo viên sử dụng để kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập khi sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học của học sinh.
+ Những khó khăn mà giáo viên gặp phải ở trường Trung học phổ
thông khi sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt
Nam lớp 10.
19
+ Nguồn thông tin để tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long.
Về phía học sinh
+ Quan niệm của học sinh về khái niệm di sản văn hóa.
+ Quan niệm của học sinh về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong dạy
học môn Lịch sử.
+ Đánh giá của học sinh về mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản Hoàng
thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT.
+ Cách thức giáo viên thiết kế các hoạt động học tập có sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long.
+ Mức độ hứng thú của học sinh khi giáo viên sử dụng các hoạt động
học tập có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long.
+ Những cách thức mà giáo viên sử dụng để kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập khi sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học của học sinh.
+ Những khó khăn mà học sinh gặp phải ở trường THPT khi tìm hiểu
nguồn tài liệu của di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt
Nam lớp 10.
+ Nguồn thông tin để tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long.
Việc điều tra tiến hành thông qua bộ phiếu hỏi và phỏng vấn giáo viên
cũng như học sinh. Chúng tôi đã tiến hành tổ chức điều tra với 10 phiếu điều
tra giáo viên Lịch sử ở các trường THPT, 110 phiếu điều tra học sinh trên địa
bàn các tỉnh và thành phố Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình…
1.2.2.2. Kết quả khảo sát
Trên cơ sở thu thập thông tin và xử lý số liệu đối với giáo viên và học
sinh, kết quả thu được như sau:
1) Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa
- 45% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã được thế giới công nhận.
- 30% giáo viên cho rằng: Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại,
20
có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
- 15% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có
giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
- 10% giáo viên tham gia cuộc điều tra có ý kiến khác.
Như vậy, về cơ bản giáo viên đã có nhận thức đúng về di sản văn hóa
song nhiều giáo viên còn chưa có cách hiểu đầy đủ về vấn đề này.
45
30
Đáp án A
Đáp án B
Đáp án C
15
Đáp án D
10
50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0
Đáp án A
Đáp án B
Đáp án C
Đáp án D
Biểu đồ 1.1. Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa
2) Quan niệm của giáo viên về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong
dạy học môn Lịch sử
Qua thống kê, có thể đánh giá sơ lược như sau:
+ Không có giáo viên nào cho rằng đây phương pháp giúp học sinh
nâng cao kỹ năng sống, giúp cá nhân và cộng đồng có những hiểu biết về di
sản đồng thời tham gia bảo vệ di sản.
+ 54.5% giáo viên nhận định rằng đây là cách thức giáo viên tổ chức
cho học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập liên quan tới di sản văn hóa, góp
phần bổ sung kiến thức và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn,
nâng cao hiểu biết bảo vệ, tuyên truyền và có thái độ ứng xử đúng đắn với
21
các di sản.
+ 45.5% giáo viên được hỏi đồng ý với ý kiến đây là phương pháp cải
thiện chất lượng giáo dục môn Lịch sử, giúp học sinh tăng cường am hiểu lịch
sử dân tộc.
Có thể nói, giáo viên đã bước đầu xác định được vấn đề sử dụng di sản
văn hóa trong dạy học Lịch sử.
3) Đánh giá của giáo viên về mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản Hoàng
thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung
học phổ thông
Biểu đồ 1.2. Biểu đồ đánh giá mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản
Không cần thiết 6.1%
Rất cần thiết 21.5%
Bình thường 16.7%
Cần thiết 55.7%
Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10
Dựa vào biểu đồ nêu trên, chúng tôi nhận thấy: đa số giáo viên cho rằng
việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng long trong dạy học môn Lịch sử lớp
10 là rất quan trọng. Trong đó, 21.5% giáo viên cho rằng sử dụng di sản này
trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 là rất cần thiết; 55.7% giáo viên cho
là cần thiết; 16.7% giáo viên cho là bình thường và 6.1% giáo viên cho rằng
đây là việc làm không cần thiết. Như vậy, dù nhận thức đúng về di sản văn
hóa nhưng nhiều giáo viên vẫn chưa coi trọng sử dụng di sản vào quá trình
dạy học, đặc biệt với di sản Hoàng thành Thăng Long.
4) Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học
22
Lịch sử Việt Nam lớp 10
Bảng 1.1. Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10
Câu 4: Mức độ thường xuyên thầy (cô) sử dụng di sản Hoàng thành
Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 như thế nào?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi
1. Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. 0.0 Không bao giờ 0.0 53.6 46.4
2. Thềm điện Kính Thiên. 0.0 32.1 0.0 67.9
3. Bắc Môn (cổng thành phía Bắc. 85.7 14.3 0.0 0.0
46.4 0.0 53.6 0.0
42.9 28.5 28.6 0.0 4. Tường thành và 8 cổng hành cung thời Nguyễn. 5. Di tích cách mạng nhà và hầm D67.
85.8 0.0 14.2 0.0
28.6 57.1 14.3 0.0 6. Hậu Lâu (Tĩnh Bắc Lâu hoặc Lầu Công chúa). 7. Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội).
35.7 42.9 21.4 0.0 8. Kiến trúc Hoàng thành Thăng Long.
31.4 3.6 65 0.0 9. Các di tích, di vật của Hoàng thành Thăng Long.
Kết quả khảo sát giáo viên và học sinh cho thấy rằng: Đối với các di
tích, di vật quen thuộc được đề cập trong sách giáo khoa như: thềm điện Kính
Thiên, đồ gốm tráng men, kiến trúc của Hoàng thành, Di tích Khảo cổ học 18
Hoàng Diệu được giáo viên nhắc tới, cung cấp một số lượng ít thông tin về di
sản mà không chú trọng khai thác triệt để. Đối với các di tích trong khu trung
tâm di sản rất ít được giáo viên sử dụng. Điều này diễn ra phổ biến và đa số
giáo viên không ý thức được việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 10. Qua đó cần thiết tăng cường
giáo dục thông qua di sản hướng tới mục đích là hình thành và nâng cao ý
thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa, rèn luyện
23
tính chủ động sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập.
5) Cách thức giáo viên thiết kế các hoạt động học tập có sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng có rất
nhiều hoạt động học tập được thiết kế có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng
Long. Kết quả điều tra của học sinh thu được như sau:
Bảng 1.2. Kết quả điều tra học sinh về việc thiết kế các hoạt động
học tập có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
Hoạt động học tập Có Không
1. Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long. 0.0 100
2. Học sinh đặt và trả lời câu hỏi về di sản Hoàng thành 56.6 43.4 Thăng Long.
3. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực hiện nhiệm
vụ học tập (ví dụ: tổ chức trò chơi “Mảnh ghép lịch sử”; 0.0 100
thuyết trình về Nhân vật lịch sử,…).
4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành Thăng Long 27.4 72.6
5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính Thiên, 0.0 100 Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.
6. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”. 0.0 100
7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và phát huy di sản 1.1 98.9 Hoàng thành Thăng Long”.
8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long. 0.0 100
9. Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long qua các 1.3 98.7 thời kỳ lịch sử.
10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về khu di sản 0.0 100 Hoàng thành Thăng Long.
Có thể thấy đây là một di sản khá quen thuộc với nhiều học sinh song
các em chưa có điều kiện quan sát trực tiếp mà thường được tiếp xúc qua một
24
số chương trình truyền hình, Internet, báo, tạp chí,… Hơn nữa, giáo viên
không chú ý tới việc sử dụng di sản nên hầu hết các hoạt động dạy học liên
quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long không được sử dụng và triển khai
trong quá trình giảng dạy Lịch sử Việt Nam lớp 10. Do đó, nhiều hoạt động
học tập mà chúng tôi đề xuất như: đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về
khu di sản; xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long; đọc sách liên
quan tới thềm điện Kính Thiên, Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng
Diệu; viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản” được học sinh lựa chọn
là “không”.
6) Những khó khăn mà giáo viên/học sinh gặp phải trong quá trình sử dụng
di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10
Thông qua kết quả điều tra cho thấy, trong quá trình dạy học Lịch sử
giáo viên rất ít khi thiết kế các hoạt động học tập đa dạng xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong số đó, chúng tôi thu thập được một số nguyên nhân sau:
Về phía giáo viên
+ 63.5% giáo viên cho rằng điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn
(máy chiếu, tranh ảnh liên quan, phòng học…) không đáp ứng đủ yêu cầu để
tổ chức các hoạt động học tập phần Lịch sử Việt Nam có sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long. Hầu hết giáo viên khẳng định đây là khó khăn chủ
yếu đối với quá trình giảng dạy nói chung.
+ 24.6% giáo viên tham gia điều tra đồng tình với ý kiến: không có đủ thời
gian (số tiết hạn chế trong khi lượng kiến thức tìm hiểu quá nhiều). Việc hạn chế
thời gian, số tiết cho mỗi bài dạy tìm hiểu về di sản văn hóa khiến cho giáo viên
hạn chế đưa di sản vào bài dạy thêm phong phú, tạo sức hút đối với học sinh.
+ Chưa có điều kiện tiếp cận nguồn tài liệu trực tiếp (chiếm 34.5%) là ý
kiến mà qua khảo sát chúng tôi thu được từ phía giáo viên. Bên cạnh đó, việc
không có đủ kinh phí để tổ chức tham quan cũng là một trong những trở ngại
của giáo viên khi khai thác di sản Hoàng thành Thăng Long.
25
Về phía học sinh
Có tới 61.4% học sinh cho rằng điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn
(máy chiếu, tranh ảnh liên quan, phòng học…). Từ đó, học sinh ít được xem
tranh ảnh, bản đồ, trang web để tham gia thảo luận nhóm (chiếm 66.5%). Hơn
nữa, giáo viên cũng khẳng định, hầu hết học sinh chưa có sự quan tâm đúng
mực với môn Lịch sử, coi đây là môn học phụ không cần học nhiều, học để
lần sau lên bảng trả bài cho đủ điểm chứ chưa thực sự có hứng thú với môn
học. Chính thói quen này đã khiến cho vị trí môn Lịch sử giảm sút trong
nhiều năm qua. Bên cạnh đó còn một số khó khăn như: giáo viên ít giải đáp
thắc mắc liên quan đến bài học; lớp học không phù hợp tổ chức hoạt động
thảo luận nhóm; thiếu tài liệu tham khảo;…
7) Nguồn thông tin để tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long
Dựa vào kết quả điều tra cho thấy:
+ Việc khai thác thông tin trên Internet là việc làm thường xuyên được
học sinh sử dụng (chiếm 78.5%) nhưng hầu như không phục vụ cho mục đích
tìm hiểu kiến thức về di sản để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Hiện nay với
nhiều website về nhiều lĩnh vực khác nhau, mạng Internet trở thành một kênh
khai thác rất phổ biến, đa dạng và phong phú. Chính vì vậy, giáo viên cần lưu
ý cho học sinh về những thông tin trên mạng chưa đủ độ tin cậy, tính khoa
học chưa được đáp ứng, cần có sự chọn lọc cho phù hợp với yêu cầu học tập.
Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số địa chỉ website thường có độ
tin cậy cao hơn, thể hiện phần kí hiệu .edu; .org; .gov; .vn.
+ Ngoài ra, việc xem các chương trình truyền hình có liên quan đến di
sản Hoàng thành Thăng Long; truy cập website của Khu trung tâm di sản
Hoàng thành Thăng Long (www.hoangthanhthanglong.vn) để tìm hiểu; trực
tiếp tham quan hoặc tham dự một số sự kiện tổ chức tại khu di tích Hoàng
thành Thăng Long;… không được các em quan tâm.
Như vậy, từ thực trạng trên chúng tôi cho rằng, việc sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường
26
trung học phổ thông là cần thiết. Giáo viên đã bước đầu có những định hướng
đúng đắn trong việc đưa di sản vào các bài dạy kết hợp tổ chức nhiều hoạt động
học tập. Tuy nhiên đây chỉ là những hoạt động nhỏ nhằm làm thay đổi không
khí học tập chứ chưa phải là các hoạt động học tập hướng tới mục đích giáo
dục phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sưu tầm,
tìm hiểu, sử dụng di sản văn hóa trong giờ học và các hoạt động giáo dục.
Trên thực tế, khi tiến hành bài dạy có sử dụng di sản văn hóa, giáo viên
cần phải có nhận thức đúng về khái niệm sử dụng di sản vào dạy học; tránh
tình trạng nặng nề, quá tải, không tăng thời lượng chương trình vì di sản được
sử dụng như một phương tiện, nguồn kiến thức để hỗ trợ bài học, làm cho bài
học sinh động, gây hứng thú hơn cho học sinh.
Về phía học sinh: nhiều ý kiến cho rằng các em không có thời gian cho
môn Lịch sử vì phải dành thời gian cho các môn học khối tự nhiên. Chính vì
vậy, cần thay đổi ngay nếp nghĩ này với những hoạt động học tập đa dạng,
khai thác tối đa sức sáng tạo của học sinh. Hơn ai hết, chính đối tượng học
sinh là nguồn lực mạnh mẽ nhất để tuyên truyền, bảo vệ và phát huy giá trị
lịch sử, văn hóa của chính di sản đó, Hoàng thành Thăng Long cũng không
nằm ngoài mục đích này. Từ thực trạng nêu trên chúng tôi cho rằng, di sản
văn hóa, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá
trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ hoặc là
nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục. Dưới dạng
công cụ, thiết bị dạy học, di sản văn hóa giúp cho quá trình học tập của học
sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn,
phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho bản than
học sinh. Cũng từ kết quả khảo sát trên phản ánh thực trạng của việc sử dụng
di sản văn hóa trong dạy học bộ môn trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định hiện nay.
Tóm lại, vấn đề sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học
Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT là rất quan trọng. Việc tìm hiểu cơ
27
sở lý luận và thực tiễn nêu trên là những căn cứ khoa học để chúng tôi thực
nghiệm phần tiếp theo của luận văn. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn,
chúng tôi sẽ tiến hành lựa chọn nội dung tài liệu, xác định các biện pháp sư
phạm và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề
tài.
Tiểu kết chương 1
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đề cập tới lý luận của việc
sử dụng di sản văn hóa nói chung và di sản Hoàng thành Thăng Long nói riêng
trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường THPT. Trong đó, việc lựa chọn
và sử dụng di sản này có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi bài dạy Lịch sử Việt
Nam. Học tập gắn liền với di sản chính là một trong những định hướng cần phát
triển trong công tác đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại. Dựa
trên tính khách quan, chúng tôi chú trọng khai thác những mặt tích cực, tiến bộ
đã đạt được của việc sử dụng di sản Hoàng thành đối với công tác giáo dục lịch
sử. Chúng tôi nhận thấy rằng cần có những biện pháp khắc phục những thiếu sót,
hạn chế để có thể phát huy tốt nhất những điểm mạnh của di sản văn hóa. Trên
cơ sở của việc tìm hiểu lý luận và thực tiễn đang diễn ra, chúng tôi tiến hành lựa
chọn nội dung, xác định các biện pháp sư phạm và tiến hành thực nghiệm để
28
kiểm tra tính khả thi của đề tài.
CHƯƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG THÀNH
THĂNG LONG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,
HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung chương trình lịch sử Việt Nam lớp 10 –
chương trình chuẩn ở trường Trung học Phổ thông
2.1.1. Vị trí
Chương trình môn Lịch sử Việt Nam ở trường THPT giới thiệu một
cách hệ thống về lịch sử dân tộc trải dài từ thời nguyên thủy đến năm 1858,
thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, đưa đất nước ta bước sang một
thời kỳ mới.
Những hiểu biết cơ bản về Lịch sử Việt Nam lớp 10 (chương trình
chuẩn) từ nguồn gốc cho đến giữa thế kỉ XIX là cơ sở để học sinh có góc nhìn
tổng quát và hệ thống về Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại ở chương trình
lớp 11, 12. Với cấu trúc như vậy giúp học sinh có nhận thức đầy đủ kiến thức
về sự xuất hiện của con người tại Việt Nam, cùng với sự phát triển theo hướng
đi lên và mối liên hệ chặt chẽ giữa Lịch sử Việt Nam với Lịch sử thế giới.
Di sản Hoàng thành Thăng Long có giá trị lịch sử đặc biệt trong
chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10 (chương trình chuẩn). Chính vì vậy,
yêu cầu việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long cần có những biện pháp
sử dụng di sản phù hợp như: liên hệ với những kiến thức trong sách giáo khoa
chưa đề cập, tập trung vào các sự kiện cơ bản và nêu mối liên hệ giữa các sự
kiện đó nhằm đảm bảo tính cơ bản và hệ thống của chương trình; khái quát
nội dung kiến thức có liên quan đến Hoàng thành Thăng Long theo nội dung
bài học, thiết kế các câu hỏi, bài tập phân loại học sinh, chủ đề thảo luận,...
nhằm hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh.
29
2.1.2. Mục tiêu
Chương trình Lịch sử lớp 10 bao gồm ba phần chính: Lịch sử thế giới
thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại; Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế
kỷ XIX; Lịch sử thế giới cận đại. Phần Lịch sử Việt Nam giữ vị trí chủ yếu
trong toàn bộ chương trình Lịch sử lớp 10. Nội dung khái quát bốn giai đoạn
phát triển của lịch sử dân tộc từ nguồn gốc cho tới cuối thời kỳ phong kiến (từ
thời nguyên thủy đến thế kỷ thứ X, thế kỷ X – XV, thế kỷ XVI – XVIII và
nửa đầu thế kỷ XIX), tổng kết thành tự cơ bản về các mặt chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội và truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Mục tiêu đặt ra cho học sinh sau khi học xong phần Lịch sử Việt Nam:
- Về kiến thức:
+ Nêu được đặc điểm của bốn giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt
Nam: từ khoảng thế kỷ VII TCN đến thế kỷ thứ X; thế kỷ X – XV; thế kỷ
XVI – XVII và nửa đầu thế kỷ XIX trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
chính trị, quân sự.
+ Trình bày được thời gian, ý nghĩa của các cuộc khởi nghĩa của nhân
dân ta thời Bắc thuộc, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ khi dựng
nước cho đến thế kỷ XVIII.
+ Nêu và phân tích được đặc trưng truyền thống yêu nước Việt Nam
thời phong kiến.
- Về kỹ năng:
+ Rèn luyện các kỹ năng cơ bản: phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá,
liên hệ.
+ Nâng cao kỹ năng lập sơ đồ, bảng biểu các sự kiện lịch sử cơ bản.
+ Sử dụng thành thạo một số thao tác công nghệ thông tin hỗ trợ cho
việc học tập: tra cứu tài liệu qua các trang web, thiết kế bài trình chiếu qua
Microsoft Powerpoint, Prezi, thiết lập sơ đồ tư duy,...
- Về thái độ:
+ Hiểu biết về các thời kỳ đầu của lịch sử dân tộc từ đó nhận thức về
30
quy luật tiến hóa của lịch sử dân tộc.
+ Nhận thức mối liên hệ giữa các dân tộc trong khu vực Đông Nam Á
và ý thức hợp tác xây dựng văn hóa trong khu vực.
+ Nâng cao hiểu biết về di sản văn hóa và ý thức bảo vệ di sản trước
thách thức ngày càng cao của thời gian, con người và môi trường.
Dựa vào mục tiêu nói chung của chương trình Lịch sử lớp 10 (chương
trình chuẩn), giáo viên cần xác định mục tiêu cụ thể hệ thống kiến thức, kĩ
năng, thái độ để làm cơ sở lựa chọn kiến thức cơ bản, định hướng cho học
sinh trong quá trình sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học
Lịch sử dân tộc từ nguyên thủy đến giữa thế kỉ XIX.
2.1.3. Nội dung
Căn cứ vào phân phối chương trình và Chuẩn kiến thức kĩ năng mà Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã định hướng cho công tác dạy học. Dựa theo hai nguồn
tài liệu nêu trên, đồng thời theo mục tiêu chung đề ra, tác giả xác định các nội
dung cơ bản của chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10.
Chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT được chia làm
bốn giai đoạn lớn với những nội dung cơ bản như sau:
1. Nội dung 1: Từ thời kỳ nguyên thủy đến thế kỉ thứ X, nội dung bao gồm:
- Hai giai đoạn phát triển của thời kỳ nguyên thủy trên đất Việt Nam: bầy
người nguyên thủy và công xã thị tộc (thời gian tồn tại, địa bàn cư trú, công
cụ lao động, hoạt động kinh tế và tổ chức xã hội).
- Giai đoạn tan rã của công xã thị tộc thể hiện qua mốc thời gian, ý nghĩa
của thuật luyện kim và đặc điểm về cuộc sống của các cư dân Phùng Nguyên,
Sa Huỳnh, Đồng Nai.
Với nội dung này, giáo viên khơi dậy lòng tự hào về lịch sử lâu đời của
dân tộc, ý thức trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng quê hương.
Những dấu vết đầu tiên của loài người trên đất nước ta ven các con sông lớn
chứng tỏ sự phát triển hợp quy luật chung của cả nhân loại.
2. Nội dung 2: thời đại dựng nước đầu tiên hình thành các quốc gia cổ đại
31
trên đất nước Việt Nam: Văn Lang – Âu Lạc, Chămpa, Phù Nam
Nội dung này đề cập tới những cơ sở và điều kiện ra đời, cách thức tổ
chức nhà nước, tình hình kinh tế, xã hội của các quốc gia cổ đại đầu tiên trên
đất nước Việt Nam. Đây chính là nội dung phản ánh những giá trị cổ truyền
của dân tộc ta. Sau hàng chục năm lao động của người nguyên thủy trên lãnh
thổ Việt Nam. Từ đây, xã hội có nhiều bước chuyển biến tích cực, hình thành
ở đây một lãnh thổ chung, một nền văn hóa riêng biệt nhưng vẫn có những nét
của văn hóa khu vực. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc ra đời đánh dấu bước tiến
vượt bậc của văn hóa Việt. Cũng trên lãnh thổ đó xuất hiện các nền văn hóa
Sa Huỳnh, Sông Mã, Óc Eo và hình thành các quốc gia Chămpa, Phù Nam.
Trên cơ sở kinh tế đã phát triển, người Việt trên vùng đồng bằng châu thổ
phía Bắc và các lãnh thổ khác trên đất nước Việt Nam đã xây dựng nền văn
minh cho riêng mình. Mặc dù còn sơ khai nhưng các nền văn minh này đã tạo
nền tảng vững chắc cho sự phát triển sau này của văn hóa Việt. Đối với quá
trình dạy học, giáo viên giúp học sinh trân trọng những bước đi đầu tiên của
dân tộc, đồng thời tôn trọng những khác biệt về văn hóa đồng thời tiếp thu
một cách có chọn lọc văn hóa vùng miền để nâng cao giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc.
3. Nội dung 3: Tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa; công cuộc đấu tranh
giành độc lập và bảo vệ di sản văn hóa cổ truyền của nhân dân ta
Có thể nói, đây chính là thời kỳ đất nước chìm trong loạn lạc, quá trình
xâm chiếm và đô hộ của các triều đại phương Bắc. Mặc dù với tư tưởng đồng
hóa về mặt văn hóa nhưng với nền tảng dân tộc cũng nội lực mạnh mẽ đã đưa
cả dân tộc đoàn kết chống lại mọi âm mưu kẻ thù. Cuộc đấu tranh quyết liệt,
lâu dài giữa xâm lược, đồng hóa với chống xâm lược, chống đô hộ và chống
đồng hóa đã chi phối toàn bộ cuộc sống của nhân dân ta trong tiến trình lịch
sử Bắc thuộc. Với nội dung học tập này, giáo viên có thể khai thác nhiều vấn
đề. Một mặt đồng hóa về mọi lĩnh vực, song chính trong giai đoạn khó khăn
ấy đã để lại nhiều giá trị lịch sử. Trong khu di sản Hoàng thành Thăng Long
32
đã phát lộ một hệ thống di tích, di vật vô cùng phong phú, đa dạng. Nhiều hơn
cả là những di vật vật liệu trang trí kiến trúc cung đình cùng các đồ dùng của
Hoàng cung xưa, minh chứng cho sự phát triển của kinh đô Thăng Long –
kinh đô Đại Việt từ thế kỷ XII – XVIII. Dấu ấn của mỗi thời kỳ lịch sử đều
tìm thấy ở khu di sản Hoàng thành Thăng Long cho thấy vị trí trung tâm của
khu di sản và phản ánh lịch sử lâu dài của Kinh đô Thăng Long.
4. Nội dung 4: Quá trình xây dựng, hoàn chỉnh nhà nước phong kiến và công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa trong những thế kỷ phong kiến độc
lập (thế kỷ X – XIX)
Đây là thời kỳ đạt được những thành tựu cơ bản: xây dựng nền kinh tế
tự chủ, toàn diện, hoàn chỉnh bộ máy nhà nước phong kiến và đạt được nhiều
thành tựu rực rỡ, góp phần xây dựng nền văn hóa truyền thống. Nội dung này
có ý nghĩa bồi dưỡng cho học sinh ý thức độc lập dân tộc, bảo vệ sự thống
nhất đất nước, có ý thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước
trong thời đại ngày nay. Đồng thời, giáo dục ý thức bảo vệ di sản văn hóa,
phát huy năng lực sáng tạo trong văn hóa.
5. Nội dung 5: Công cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ phong
kiến
Song song với quá trình xây dựng đất nước, nhân dân Việt Nam liên
tục cầm vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc. Trong thời
kỳ phong kiến, các cuộc kháng chiến tiêu biểu: Kháng chiến chống Tống
(Tiền Lê – 981); kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 – 1077); ba lần
kháng chiến chống quân Mông – Nguyên thời Trần (1258, 1285, 1287 –
1288); chống quân Minh thời Hậu Lê (1418 – 1427); kháng chiến chống quân
Xiêm (1785); kháng chiến chống Thanh (1789) do Quang Trung – Nguyễn
Huệ lãnh đạo. Các cuộc kháng chiến nêu trên đều giành thắng lợi, bảo vệ
được nền độc lập dân tộc. Nội dung này có ý nghĩa rõ nét trong việc giáo dục
thái độ sống tích cực của học sinh, đánh giá đúng vai trò các tấm gương anh
hùng, bồi đắp thêm tình yêu đất nước, ý thức công dân trước vận mệnh của
33
đất nước trong tương lai.
6. Nội dung 6: Truyền thống yêu nước của dân tộc thời phong kiến
Truyền thống yêu nước được biểu hiện rõ trong công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước và đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc.
Nội dung có ý nghĩa nâng cao ý nghĩa thực tiễn của bộ môn, khơi dậy, khích
lệ những biểu hiện tích cực của lòng yêu nước hiện nay trong học sinh bằng
những việc làm cụ thể góp phần phát huy truyền thống dân tộc. Trong hoàn
cảnh của cuộc sống hiện nay, truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ,
phát huy và biểu hiện nhiều nét mới, học sinh cần xác định rõ nhiệm vụ của
công dân tương lai của đất nước.
2.2. Khảo sát nguồn tài liệu về di sản Hoàng Thành Thăng Long cần và
có thể sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường trung học
phổ thông
2.2.1. Giới thiệu chung về khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long
Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội đáp ứng các tiêu chí
(ii), (iii) và (vi) được quy định tại Đoạn 77 của bản Hướng dẫn thi hành công
ước di sản thế giới. Giá trị nổi bật của di sản thể hiện chiều dài lịch sử, tính
liên tục của một trung tâm chính trị, quyền lực và các tầng văn hóa đa dạng,
phong phú [40, tr.68].
Theo tiêu chí (ii): Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội
minh chứng cho sự giao lưu của các ảnh hưởng từ Trung Hoa ở phía Bắc và
Vương quốc Chămpa ở phía Nam. Tài sản này chứa đựng những giao lưu liên
văn hóa đã góp phần tạo nên một nền văn hóa độc đáo ở hạ lưu sông Hồng.
Kinh thành Thăng Long nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, là nơi
diễn ra sự giao thoa các giá trị liên quan đến lịch sử định cư, nghệ thuật kiến
trúc, kỹ thuật xây dựng và các công trình nghệ thuật kỳ vĩ từ 1000 năm trước,
là một bằng chứng rất hiếm có về một khu vực được phủ dày đặc các lớp văn
hóa của nhiều thời kỳ lịch sử kế tiếp.
Nằm trên vị trí giao thoa của nền văn minh Đông Nam Á và trên tuyến
34
đường giao lưu giữa phương Đông và phương Tây, Thăng Long – Hà Nội từ
rất sớm là nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều nền văn minh lớn trong khu vực
châu Á và trên thế giới. Vị trí địa lý cảng thị cho phép Thăng Long – Hà Nội
tiếp xúc với các nền văn hóa như Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Nhật Bản
qua hệ thống đường thủy. Và theo đó, thông qua các tuyến đường thương mại
xuyên qua đất nước Trung Hoa và đường biển từ Thái Bình Dương đến Ấn
Độ Dương, mối giao lưu kinh tế, văn hóa của Thăng Long – Hà Nội vươn đến
tận các nền văn minh vùng Trung Cận Đông. Những nét văn hóa ảnh hưởng
từ 1000 năm người Hán chiếm đóng vùng đồng bằng sông Hồng đến nay vẫn
còn. Và mặc dù ở ngay cạnh nền văn minh lớn Trung Hoa, Thăng Long – Hà
Nội vẫn giữ bản sắc của một nền văn minh vùng Đông Nam Á có nhiều tiếp
xúc với các nền văn hóa phương Nam. Với nhiều sự giao thoa văn hóa như
vậy, Thăng Long – Hà Nội đã tiếp nhận ảnh hưởng từ nhiều tôn giáo và các
luồng tư tưởng thế giới như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, tư tưởng dân chủ
tư sản và chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, sức mạnh văn hóa bản địa và có sự
tiếp thu có chọn lọc những yếu tố đặc sắc của các nền văn minh thế giới đã
làm giàu thêm cho nền văn hóa Việt. Nét đặc sắc của văn hóa nước ta chính là
sự dung nạp được mọi yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài rồi sáng tạo chúng để
hình thành nên một nền văn hóa riêng biệt như bây giờ. Phật giáo, Đạo giáo,
Nho giáo là những yếu tố văn hóa có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ công
trình nghệ thuật, phong cách kiến trúc, hiện vật trong khu di sản Hoàng thành
Thăng Long. Một trong những đặc điểm độc đáo và nổi bật của khu di sản là
cách mà các yếu tố văn hóa từ nhiều nguồn khác nhau được hòa trộn và kết
tinh thành từng lớp tạo nên một mô hình đô thị độc đáo.
Các phát hiện khảo cổ học trong khu di sản cho thấy những dấu vết văn
hóa (thành Đại La) của người Hán vào thế kỷ VII – IX, trước khi Kinh thành
Thăng Long được xây dựng. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ xây dựng Kinh thành
mới trên nền thành cũ của người Hán, không chỉ tận dụng những gì đã có mà
còn tiếp thu và cải tiến các nguyên tắc quy hoạch thành có sẵn. Trong Chiếu
35
dời đô, Lý Thái Tổ đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng với việc chọn lựa địa điểm
xây dựng thành: “Ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính
giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế nhìn sông dựa núi” [12, tr.240-241].
Tuy Đạo giáo có ảnh hưởng rất lớn trong thời kỳ xây dựng thành Đại
La và thành Thăng Long đầu thời Lý. Đến thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XV),
đạo Phật chính là tư tưởng chi phối và để lại dấu ấn sâu đậm trên các hiện vật
và cách thể hiện văn hóa của Hoàng thành. Các nhà Khảo cổ học tìm thấy tại
khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu rất nhiều bằng chứng về ảnh hưởng
của Phật giáo đối với Hoàng gia. Đó là các loại vật liệu xây dựng: các chân đế
cột bằng đá tạc hình hoa sen, các họa tiết ngói lợp trang trí hình lá đề, hình
tượng đạo Phật. Bên cạnh đó còn có nhiều loại gạch in hình tháp Phật hay
những mảnh vỡ của mô hình tháp Phật bằng đất nung hoặc bằng sứ trắng
trang trí hoa sen, tiên nữ. Đáng lưu ý là mảnh tháp sứ men trắng trang trí hình
tiên nữ (Apsara) đang nhảy múa mang đậm phong cách nghệ thuật Chămpa,
là một minh chứng sinh động về sự ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ đến
Thăng Long vào thời Lý bằng con đường gián tiếp qua các nước Đông Nam
Á trong đó có Chămpa. Những mô típ hoa văn mang phong cách Chămpa
tương tự như hình ảnh chim thần (Garuda) hay nữ thần chim (Kinnari) xuất
hiện đồng thời và hòa quyện với những mô típ hình rồng, hoa lá đặc trưng
phong cách Việt, phản ánh rõ nét sự dung hợp giữa hai nền văn hóa và cho
thấy mối quan hệ, sự ảnh hưởng sâu đậm của nghệ thuật Chămpa đến nghệ
thuật Hoàng cung Thăng Long đương thời.
Nếu Đạo giáo, Phật giáo tạo nên dấu ấn đặc biệt thì vào thời Lê (1428 –
1527), Nho giáo lại được trọng dụng làm công cụ xây dựng và củng cố bộ
máy nhà nước. Từ thế kỷ XV, Nho giáo trở thành tư tưởng chính thống thay
thế vai trò của Đạo Phật, tạo cho nhà vua những phương tiện để điều hành đất
nước hiệu quả hơn. Đạo Khổng là một giáo lý ra đời tại Trung Hoa, được du
nhập vào Việt Nam và biến hóa theo điều kiện bản địa. Nho giáo ủng hộ triệt
để chế độ xã hội có tôn ti trật tự và đẳng cấp rõ rệt, trong đó Hoàng đế (vua)
36
là người có quyền lực tối cao. Hình tượng đầy quyền uy của vua là con rồng.
Hình tượng rồng xuất hiện khắp nơi trong kiến trúc Hoàng thành và trên các
hiện vật khảo cổ tìm thấy tại di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. Nhưng con
rồng các thời có sự thay đổi linh hoạt. Ví dụ, con rồng thời Lê sơ không uốn
theo hình lá đề như thời Lý – Trần, chân có năm móng sắc nhọn, dấu hiệu
biểu trưng của đẳng cấp và uy quyền của Hoàng đế. Thành Thăng Long thời
Lê trên cơ sở của thành Thăng Long thời Lý – Trần, nhưng được xây dựng
kiên cố, thành cao hào sâu và có sự ngăn cách nghiêm ngặt giữa các vòng
thành. Điện chính giữa Cấm thành là nơi thiết triều đổi tên thành điện Kính
Thiên mà ý nghĩa tên của nó thể hiện rõ tư tưởng Nho giáo – thế thiên hành
đạo (thay trời hành đạo).
Tiêu chí (iii): Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội minh
chứng cho truyền thống văn hóa lâu đời của cư dân Việt sinh sống ở vùng
châu thổ sông Hồng. Đây là trung tâm quyền lực gần như liên tục từ thế kỷ
VII đến ngày nay.
Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là một ví dụ nổi bật về một trung
tâm chính trị, văn hóa đặc thù của một quốc gia vùng Đông Nam Á và Đông
Á, vừa tiêu biểu cho quyền lực của các vương triều.
Khu Di sản còn có những dấu tích kiến trúc tồn tại trên mặt đất, có niên
đại vào những thời kỳ gần đây hơn để củng cố cho tầm quan trọng của Hoàng
thành với tư cách là môt trung tâm quyền lực. Những công trình này gồm có
Đoan Môn, Hậu Lâu, Kỳ Đài, Bắc Môn. Những kiến trúc này góp phần thể
hiện hình dáng của Hoàng thành một cách rõ ràng và đặc trưng. Những tòa
nhà do người Pháp xây dựng và nhà D67 do Bộ Quốc phòng của Quân đội
nhân dân Việt Nam xây dựng trong thời kỳ chiến tranh (1954 – 1975) ngay
trong không gian thiêng của khu vực trung tâm, xoay quanh tâm điểm nền
điện Kính Thiên đã nói lên rằng khu vực này giữ một vị trí quan trọng trong
các giai đoạn lịch sử sau này.
Tiêu chí (vi): Với các chức năng chính trị và vai trò mang tính biểu
37
tượng của mình, Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội có liên quan trực tiếp tới
rất nhiều sự kiện văn hóa và lịch sử quan trọng, những biểu đạt nghệ thuật
cũng như các tư tưởng, luân lý, triết học và tôn giáo. Các sự kiện diễn ra tiếp
nối nhau này đã đánh dấu quá trình hình thành và phát triển của một quốc gia
độc lập trong suốt hơn một nghìn năm, bao gồm cả thời kỳ thuộc địa và hai
cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất Việt Nam thời hiện đại.
2.2.2. Một số nội dung tài liệu ở di sản Hoàng Thành Thăng Long có thể sử
dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường trung học phổ thông
Căn cứ vào mục đích, yêu cầu và nội dung kiến thức cơ bản của phân
phối chương trình Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX (Lớp
10 – chương trình chuẩn), chúng tôi lựa chọn xác định một số hiện vật, di vật,
công trình kiến trúc tiêu biểu giúp giáo viên sử dụng trong bài dạy Lịch sử
Việt Nam.
Bảng 2.1. Nội dung các tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long
có thể sử dụng trong chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10
Bài dạy
Bài 16: Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)
Những tài liệu di sản Hoàng thành Thăng Long sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 - Di tích những móng trụ kiến trúc, bó nền nhà, gạch Giang Tây Quân, dấu tích kiến trúc nhà cửa, giếng nước, cống thoát nước, một số đồ gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc và Tây Á… có niên đại từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ IX.
Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)
38
- Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội) năm 1010. - Một phần phía Tây của Cấm Thành thời Lý (khu 18 Hoàng Diệu), trong đó những di tích kiến trúc của các cung điện được xây chồng lên các di tích Đại La với các loại vật liệu xây dựng và đồ gốm sứ minh chứng cho một trình độ kỹ thuật cao và nghệ thuật tinh xảo; Thời Lý có đường gạch hoa chanh; thời Lê có Đoan Môn. - Khu nền điện Kính Thiên (tức cung Càn Nguyên,
Thiên An thời Lý – Trần). - Nhân vật lịch sử: Lý Công Uẩn
Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X – XV
- Các loại tượng đầu rồng, phượng trang trí trên mái kiến trúc cung điện thời Lý – Trần (thế kỉ XI – XIV). - Vật liệu xây dựng: ngói ống, ngói diềm mái hiên, ngói úp nóc, gạch lát lối đi, các chân tảng đá kê cột trụ, các loại gạch. - Gốm sứ Thăng Long (thời Lê sơ), (hình ảnh phụ lục). - Kiến trúc tòa nhà nhiều gian. (Ảnh phụ lục 4)
Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV - Đồ gốm sứ thời Lý – Trần – Lê sơ. - Dấu tích thềm điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Đoan Môn.
-
- Sự giao thoa văn hóa giữa Hoàng thành Thăng Long và các nước trong khu vực châu Á qua các di vật. (Ảnh phụ lục 4)
Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến
(từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)
Lý Công Uẩn dời đô: Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên (1010),
Lý Thái Tổ khởi sự dời đô ra thành Đại La. Đoàn dời đô của nhà vua vừa đến
đất Đại La, vua trông thấy có hình ảnh rồng vàng bay lên trời, bèn quyết định
đặt tên cho vùng đất này là Thăng Long. Sau đó, nhà vua đổi tên Hoa Lư
thành phủ Tràng An và Cổ Pháp (nơi nhà vua chào đời và được sư Vạn Hạnh
nuôi dạy) thành phủ Thiên Đức.
Bắt đầu từ đây, Hoàng thành Thăng Long chính thức trở thành kinh đô
39
của một nhà nước độc lập, thống nhất. Cũng vì thế mà năm 1010 trở thành
mốc thời gian để người Thăng Long – Hà Nội nói riêng và người Việt Nam
nói chung dùng để tính tuổi cho Thủ đô của mình.
Dời đô ra Thăng Long, với đầy đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân
hòa, chỉ trong thời gian rất ngắn – từ mùa thu năm 1010 cho đến đầu năm
1011 – một số công trình cung điện cơ bản nhất của Hoàng thành Thăng Long
đã được xây dựng xong.
Thời kỳ này, Hoàng thành Thăng Long đã được thiết kế thành ba phần
tương đối rõ nét: Cấm thành là nơi ở của nhà vua và hoàng gia, cũng là nơi
nhà vua thiết triều. Toàn bộ triều đình – cơ quan đầu não của nhà nước phong
kiến – đều tập trung làm việc ở nơi này. La Thành là vòng thành rộng hơn,
bao quanh Hoàng thành. Khoảng đất giữa hai vòng tường thành – Hoàng
thành và La Thành – là nơi ở của các tầng lớp nhân dân và quan lại, đây được
gọi là khu Kinh thành.
Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X – XV
- Kiến trúc tòa nhà nhiều gian
Khi tiến hành khai quật ở hố B16 thuộc địa điểm dự kiến xây dựng toà
nhà Quốc hội mới, Viện khảo cổ học đã phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4
mái, dạng hình tháp toạ lạc trên một diện tích xấp xỉ 1000 m2 thuộc hệ thống
các cung điện Thăng Long xưa. Theo đánh giá thì đây là công trình đầu tiên,
có tầm cỡ và giá trị nhất được tìm thấy từ trước đến nay. Việc phát hiện ra lâu
đài này được coi là bằng chứng rõ ràng nhất về sự hoành tráng của kinh
thành Thăng Long từ thời Lý - Trần.
“Giai đoạn đầu, tại các hố A1, A1MR, A2, A2MR, A3, A4, A9, A10,
A11, A12, A13 trong các lớp đất ở độ sâu trung bình trên dưới – 1,50 m so
với “cốt” cao độ của mặt bậc thềm đá Đoan Môn, xuất lộ những ô sỏi trộn lẫn
đất sét. Sỏi ở đây khá thống nhất về kích thước, chỉ khoảng bằng hoặc to hơn
đầu ngón chân cái, chứng tỏ đã được chọn lọc. Hiện vật thu được trong các
lớp đất này được xác định có niên đại thời Lý. Các ô sỏi này thường có hình
40
gần vuông, mỗi cạnh khoảng 1,30 m và ăn sâu xuống các lớp dưới, dày trên
dưới 1,00 m. Điều này chứng tỏ đây là các hố đào có chủ đích để đầm - nhồi
sỏi cuộn với đất sét. Đáy của các hố sỏi này nằm trong lớp đất chứa các hiện
vật được xác định có niên đại Đinh - Tiền Lê.
Các ô sỏi nói trên xuất hiện trong các hố từ A1 đến A18. Tổng cộng có
tất cả 40 ô sỏi, xếp thành 4 hàng dọc (hai hàng phía đông có 10 ô trong một
hàng, hai hàng phía tây mỗi hàng chỉ có 9 ô). Có lẽ đây chính lá các hố sỏi gia
cố dưới các chân tảng đá kê dưới chân các cột. Nói chính xác, theo ngôn ngữ
kiến trúc – xây dựng, đó là các móng trụ. Kết quả đo đạc đã giúp khẳng định
đây là phế tích của một kiến trúc có bộ khung chịu lực bằng gỗ có 4 hàng
chân cột. Khoảng cách giữa các cột Quân với các cột Cái là khoảng 3,00m.
Khoảng cách giữa các cột Cái là khoảng 6,00m. Từ Bắc xuống Nam đã xác
định được 10 vì, nghĩa là ít nhất kiến trúc này có 09 gian. Tuy nhiên, chưa thể
khẳng định về số gian bởi dấu vết của kiến trúc này còn phát triển kéo dài về
phía Bắc, ngoài khu vực khai quật. Bước gian của kiến trúc này rất lớn,
khoảng 5,80m – 6,00m. Trên thực tế, bước gian của các di tích kiến trúc bằng
gỗ cổ truyền hiện còn đứng vững trên mặt đất thường nhỏ hơn.
Chưa lý giải được nguyên nhân của sự chênh lệch về số lượng các
móng trụ của các hàng móng trụ phía Tây nhưng ở đây chắc chắn đã có 4
móng trụ sỏi gia cố cho 1 chân tảng cột Cái và 3 chân tảng cột Quân. Khoảng
cách giữa hai hàng móng trụ sỏi cuối cùng chỉ là 4,1 m chứng tỏ đây chính là
không gian của chái phía Nam. Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng
cột Quân phía Đông khoảng 4,5 m và chạy dài suốt chiều rộng của “toà nhà
nhiều gian” nói trên còn thấy xuất lộ một cống thoát nước được xây - xếp
bằng gạch (hoàn toàn không thấy dấu vết của chất kết dính dạng vôi vữa),
lòng cống rộng 0,17m – sâu 0,20m. Ngoài lớp gạch đặt nằm làm đáy, hai bên
thành của rãnh thoát nước này được xếp nghiêng hai lớp gạch. Kích thước
trung bình của gạch ở đây là 0,36m x 0,20 m x 0,05m). Về phía Đông, sát
41
cạnh cống thoát nước này là một thềm gạch rộng 0,76 m chạy dọc suốt chiều
dài đường cống. Gạch lát thềm là gạch vuông 0,38m x 0,38m x 0,07m. Có
chỗ còn lát lẫn cả gạch in hoa.
Về phía Tây của toà nhà nhiều gian, cách tim các móng trụ sỏi gia cố
hàng chân tảng cột Quân phía tây 4,90m, đã tìm thấy những móng trụ gia cố
chân tảng khác. Vật liệu gia cố có phần đa dạng hơn, ngoài sỏi (tương tự như
sỏi ở các hố đã nêu trên) còn có cả ngói vỡ vụn, được nhồi đầm theo chu kỳ 1
lớp sỏi lại 1 lớp ngói vụn. Hình dạng của các hố đào cũng khác, có hố tròn
(đường kính từ 1,10 m đến 1,30 m), có hố vuông (1,20 m x 1,20 m). Bố cục
của các móng trụ chân tảng này khá đặc biệt: 06 trụ móng tròn quây quanh
một số trụ móng ở chính giữa. Khoảng cách trung bình giữa tim của các móng
trụ tròn là khoảng 1,30 m. Tim móng trụ vuông trùng với tâm của đường tròn
ngoại tiếp hình lục giác, cách tim các móng trụ tròn một khoảng 1,30 m.
Các cụm móng trụ gia cố chân tảng này trải dài suốt mặt phía tây
của toà nhà nhiều gian. Khoảng cách giữa các cụm (đếm được tất cả 11 cụm),
không thật đều, xê xích từ 8 m đến 12 m. Theo các nhà khảo cổ, một cụm
móng trụ gia cố chân tảng như vậy là phế tích của một kiểu lầu lục giác nhỏ,
được dựng nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn. Theo Giáo sư Trần Quốc
Vượng, Việt Sử lược có ghi nhận về loại hình kiến trúc này, gọi là các Trà
đình. Trong các hố A19, A20, A20MR và A21 cũng xuất lộ nhiều móng trụ sỏi.
Ngay gần chái phía Nam của toà nhà nhiều gian thuộc phạm vi hố A19
có một số móng chân tảng nhưng kết quả đo đạc không xác định được thật rõ
ràng về kiến trúc từng tồn tại ở đây. Phía Bắc hố A20 xuất lộ hai hàng móng
trụ sỏi gia cố, mỗi hàng 05 móng trụ, khoảng cách giữa tim hai hàng là 3,40
m. Hiện trạng và số đo cho phép giả định đây là một kiến trúc có hướng chạy
dài theo trục Đông - Tây (vuông góc với toà nhà nhiều gian). Số đo bước gian
đo được của kiến trúc này theo chiều từ Đông sang Tây là: 3,30m - 5,45m -
5,30m. Các khoảng cách khác chưa khẳng định được vì một số móng trụ sỏi đã
42
bị mất và vì kiến trúc này còn tiếp tục kéo dài về phía Đông, ra ngoài khu vực
khai quật. Các nhà khảo cổ cho rằng đây có lẽ là phế tích của một toà nhà có 3
gian hai chái. Ở phía Nam hố A20 đã xuất lộ một cụm phế tích rõ ràng hơn.
Các chân tảng đều được làm bằng sa thạch (grès) màu xám. Mặt chân
tảng chạm cánh sen mang phong cách nghệ thuật Lý. Đường kính trong của
vành hoa sen này là 0,49m. Trên mặt nhiều chân tảng còn rất rõ dấu vết cho
biết cột gỗ dựng trên đó có đường kính 0,43m. Tuy nhiên ở vị trí sẽ đặt xà
ngưỡng, mặt tảng để trơn, không chạm cánh sen. Nối dài hai bên (đông, tây)
một số chân tảng cũng còn giữ nguyên một số viên gạch (0,38m x 0,15m x
0,11m) của hàng gạch đỡ dưới xà ngưỡng. Với dấu vết của các xà ngưỡng này
cho thấy có lẽ đây là hai kiến trúc dạng hành lang, chạy dài theo Đông - Tây.
Đặc biệt, cụm phế tích này còn giữ nguyên vẹn một số đoạn thềm hiên lát
gạch ở phía ngoài xà ngưỡng, rộng trên dưới 1,00m tính từ tim chân tảng.
Thềm gạch này được xây xếp bởi 8 hàng gạch (0,39m x 0,20m x 0,05m) cao
hơn mặt sân 0,36m. Sân gạch chạy giữa hai hành lang này được lát gạch
vuông (0,38m x 0,38m x 0,06m). Theo các nhận định ban đầu cho rằng các
phế tích kiến trúc ở phía Bắc khu A là của một tổ hợp kiến trúc có liên quan
mật thiết với nhau, bao gồm: một tòa nhà nhiều gian có chiều rộng 17,65m,
chạy dài ít nhất 9 gian (khoảng 67m) và một dãy các lầu lục giác. Điều đáng
quan tâm là sự liên hệ, tiếp nối giữa các kiến trúc này. Hiện trường còn rất rõ
một số mảng nền lát gạch vuông (0,38m x 0,38m x 0,08m), nối liền từ mép
rãnh thoát nước phía Tây tòa nhà nhiều gian với các lầu lục giác”[41].
- Vật liệu xây dựng
Các di vật thời Đại La được tìm thấy ở khu di tích vô cùng phong phú,
cho thấy đây là vị trí trung tâm, trị sở của An Nam đô hộ phủ, thuộc Đường,
khẳng định thành Thăng Long được xây dựng trên cơ sở thành Đại La của
viên Tiết độ sứ Cao Biền. “Các loại vật liệu kiến trúc tìm thấy tại đây là các
loại ngói âm dương, trang trí họa tiết mặt linh thú, mặt hề, hoa sen. Gạch chữ
nhật chiếm số lượng nhiều, phổ biến có màu xám đen, được dùng để xây cống
43
nước, giếng nước, đường đi hay bó nền các kiến trúc. Tiêu biểu là gạch in chữ
Hán “Giang Tây quân”, phiên hiệu quân đội bên Trung Quốc thời Đường.
Loại gạch vuông dùng để lát nền cũng được tìm thấy, có trang trí hoa văn sinh
động như viên gạch hình cá sấu bơi trong sóng nước, hay gạch in nổi hình hoa
sen và văn dây leo.
Các hiện vật thời Lý tại Hoàng thành Thăng Long vô cùng đẹp đẽ và
tinh mỹ, phản ánh sự phát triển thịnh trị của thời kỳ này. Nhiều loại vật liệu
trang trí kiến trúc như ngói gắn lá đề trang trí rồng, phượng hay các phù điêu,
tượng tròn tạo tác hình đầu rồng, đầu chim phượng hay uyên ương với họa
tiết trang trí tinh xảo, trau chuốt cho chúng ta những hình dung về vẻ đẹp lộng
lẫy của Hoàng cung Thăng Long thời Lý. Những viên gạch vuông lát nền
cũng được trang trí cầu kỳ hoa văn cúc dây, mẫu đơn và sen dây. Các chân đá
tảng lớn kê chân cột được chạm cánh sen cho thấy quy mô to lớn của các
công trình kiến trúc.
Khác với thời Mạc, vật liệu kiến trúc thời Lê Trung hưng rất phong
phú, đa dạng, có nhiều loại: gạch, ngói, chân tảng, thềm bậc, tượng linh thú,..
nhiều và phổ biến là các loại gạch và ngói. Đáng lưu ý là gạch, ngói thời kỳ
này thường không được tráng men như thời Lê sơ mà chủ yếu là đất nung,
được làm bằng hai loại: đất sét đỏ và đất sét xám. Trong đó, loại được làm
bằng đất sét xám phổ biến hơn và về màu sắc nó khá gần gũi với màu của vật
liệu kiến trúc thời Đại La. Tiêu biểu là các loại ngói mũi lá, đầu trang trí văn
như ý và văn kỷ hà.
- Đồ gốm sứ Thăng Long (thời Lê sơ)
Để nhận diện về chất lượng gốm dùng trong Hoàng thành, phân định
gốm thời Lê theo ba thời kỳ: Gốm thời Lê Sơ (thế kỷ XV), gốm thời Lê-Mạc
(thế kỷ XVI) và gốm thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII). Nhìn chung,
gốm thời Lê - Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí
đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm
tìm được từ các hố khai quật phần nhiều là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải
44
Dương và Bát Tràng.
Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung
tâm sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam,
gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Tại dải
gốm ven sông Khu A tìm thấy nhiều loại gốm hoa lam cao cấp, có hình dáng
và hoa văn tương tự như những đồ gốm trên tàu đắm Hội An, ví dụ như loại
bát vẽ rồng 4 móng, dưới đáy khắc chữ Trù (bếp), giữa lòng viết chữ Kính
hay loại đĩa lớn vẽ rồng có bút pháp tinh tế như trên bản đang lưu giữ tại Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam. Phát hiện có ý nghĩa này cho phép một lần nữa khẳng
định về sự góp mặt quan trọng của gốm Thăng Long trong mối giao lưu kinh
tế, văn hoá với quốc tế trong lịch sử.
Một phát hiện khác đem lại sự cảm phục của giới chuyên môn và
những người say mê cổ ngoạn là loại gốm trắng mỏng trang trí in nổi hình
rồng có chân 5 móng (cũng có loại rồng có 4 móng), giữa lòng ghi chữ Quan
hay chữ Kính. Nghiên cứu so sánh với gốm Hải Dương, đây là những sản
phẩm của lò quan Thăng Long. Tại di chỉ gốm Ngói, Chu Đậu (Hải Dương)
và Kim Lan (Gia Lâm) đã tìm thấy bằng chứng sản xuất gốm của lò quan ở
đây. Sản phẩm chính của những lò quan này được khẳng định rõ qua những
đồ gốm sứ men trắng, trang trí in khuôn văn sóng nước hình vảy cá, giữa lòng
in nổi chữ Quan như gốm Thăng Long. Nhưng so với gốm Thăng Long thì
gốm lò quan Hải Dương có xương gốm dày, nặng và độ trắng của xương và
men kém hơn gốm Thăng Long. Gốm Thăng Long cũng có loại xương gốm
mỏng và loại xương gốm dày, nhưng về cơ bản xương gốm Thăng Long có
chất lượng tốt hơn gốm Hải Dương. Gốm trắng mỏng Thăng Long chủ yếu là
các loại bát, đĩa cỡ nhỏ, có xương mỏng như vỏ trứng (dạng sứ thấu quang),
thành trong in nổi hình hai con rồng chân có 5 móng, giữa lòng in chữ Quan.
Loại gốm trắng mỏng này chưa từng tìm được ở đâu ngoài khu lăng mộ vua
nhà Lê ở Lam Kinh (Thanh Hoá). Đặc điểm đáng lưu ý về loại gốm mỏng này
45
là được nung đơn chiếc và men thường phủ kín đáy và mép vành chân đế.
Chân đế được tạo rất mỏng và mép vành chân vê tròn chứ không cắt vát và
cạo men ở mép vành chân như gốm Hải Dương.
Đây là đặc điểm kỹ thuật rất khác biệt giữa gốm Thăng Long và gốm
Hải Dương hay gốm Kim Lan. Bên cạnh loại gốm trang trí rồng, ở Thăng
Long còn có loại gốm trắng trang trí văn in hoa cúc dây, giữa lòng cũng in nổi
hay viết chữ Quan, nhưng phổ biến hơn là in hình một bông hoa nhỏ có 5
hoặc 6 cánh. Tại hố A10 cũng tìm được một khuôn in loại hoa văn này với
đường nét tinh xảo.
Ngoài ra, loại gốm men trắng vẽ chỉ lam cũng tìm được khá nhiều,
nhưng ở loại cao cấp giữa lòng thường viết chữ Quan bằng màu xanh cô ban
(cobalt). Trong số lượng phong phú các loại bình, vò men trắng tìm thấy trong
dải gốm ven sông Khu A cũng có khá nhiều tiêu bản dưới đáy viết chữ Quan
bằng màu son nâu. Chữ Quan ở đây được hiểu theo hai nghĩa: quan diêu (sản
phẩm của lò quan) và quan dụng (đồ dùng dành cho vua quan). Cùng với chữ
Quan, sự tinh mỹ đến mức ngạc nhiên của loại sứ trắng mỏng và gốm hoa lam
cao cấp được trang trí các đồ án mang tính biểu trưng của vương quyền (rồng
có chân 5 móng và hình chim phượng) cho thấy rõ đây là những đồ ngự dụng
trong Hoàng cung” [41].
Bên cạnh số lượng lớn và đa dạng các loại hình đồ gốm nói trên, tại
khu vực khai quật còn tìm được một sưu tập phong phú các loại đĩa đèn dầu
lạc nhỏ men trắng và các loại bình vôi còn khá nguyên vẹn.
Cùng với loại hình bình vôi, ở dải gốm ven sông còn tìm thấy những
chiếc bình đựng bã trầu bằng gốm men (hay còn gọi là ống nhổ) và một số
chuôi dao cau làm bằng nanh, vuốt thú hay bằng loại gỗ quý. Xung quanh một
số chuôi dao còn được bọc kim loại màu vàng và bên trên được chạm khắc
hoa văn rất đẹp. Nhóm di vật này có niên đại vào khoảng thời Trần và thời
Lê. Những tư liệu này là bằng chứng thuyết phục cho ta biết rằng, trong
46
Hoàng cung xưa, tục ăn trầu cũng rất phổ biến.
Bên cạnh những loại hình đồ gốm ngoại nhập, bằng chứng về việc sản
xuất tại chỗ của những đồ gốm sứ cao cấp thời Lý, Trần, Lê cũng đã có nhiều
cơ sở khẳng định. Dựa vào những đồ gốm phế thải và các công cụ sản xuất,
các nhà khảo cổ cho rằng ngay từ thời Lý, Thăng Long đã có lò quan chuyên
sản xuất gốm sứ cung đình. Bằng chứng là những đồ gốm sứ thời Lê Sơ trang
trí rồng 5 móng, lòng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Như vậy, có thể tạm kết
luận rằng: việc tìm thấy những đồ ngự dụng trong khu vực khai quật không
những cung cấp nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng
Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long, mà còn góp thêm bằng
chứng tin cậy để củng cố ý kiến cho rằng: các dấu tích kiến trúc lớn ở đây là
những cung, điện của trung tâm Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê.
Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV
1) Đôi rồng đá (thời Lê sơ)
Sau nhiều ý kiến được đưa ra, các nhà sử học đã khẳng định đây chính
là thềm Điện Kính Thiên, nơi nhà vua thiết triều và đưa ra những quyết sách
quyết định vận mệnh cả dân tộc. “Theo tài liệu, đôi rồng này được xây dựng
năm 1467, thuộc dòng rồng Đế vương có năm móng, biểu tượng cho quyền
lực của nhà vua. Rồng đá điện Kính Thiên được đánh giá là di sản kiến trúc
tuyệt tác tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê sơ. Có thể thấy, rồng đá
thềm trước Điện Kính Thiên uốn 7 khúc, dài 5,3 mét. Đầu rồng nổi bật với
những nét chạm tinh xảo, thể hiện được sự oai hùng, mạnh mẽ. Đôi mắt rồng
lồi hẳn ra ngoài, chiếc mũi gồ cao đầy uy lực. Bộ ria rồng được chạm như hòa
cùng vân mây với những đường nét đủ mềm mại nhưng vẫn rất khỏe khoắn.
Đôi sừng nhọn khép lại đằng sau theo tư thế đầu rồng ngẩng lên chầu vua với
dáng vẻ thuần phục. Đôi bờm trên đầu của rồng được vuốt dài uốn lượn về
phía sau như đang bay trong gió.
Ngay phía dưới đầu rồng là cặp móng chân trước của rồng. Tương tự
đôi sừng, bộ móng vuốt sắc nhọn chính là vũ khí của những loài vật sở hữu
47
nó, thường xòe ra phía trước. Nhưng khi quan sát đôi rồng chầu vua ta thấy
lại được sắp xếp theo hướng quặp lại, đan vào nhau trong tư thế chầu vua.
Các bộ móng này và những bộ móng chân sau đều nổi bật với 5 móng. Đây
chính là biểu tượng của rồng đế vương.
Toàn bộ thân mình rồng là những nét chạm làm nổi bật cơ bắp khỏe
mạnh của rồng. Rồng thời Lê có mình trơn, không vẩy. Trong khi đó, phần
vây rồng được tạo tác suốt từ đầu tới tận chóp đuôi, vừa dựng đứng khỏe
mạnh, vừa vuốt nhọn lên đỉnh và lướt về phía sau tương đối mềm mại. Nếu
nhà vua đi từ dưới lên sẽ là hình ảnh đôi rồng đổ mình phủ phục từ trên cao
xuống như đang bái phục nhà vua. Nhìn từ trên điện xuống, vẫn hình dáng đôi
rồng phủ phục nhưng dáng vẻ như đang sẵn sàng đợi lệnh nhà vua” [41].
2) Thềm điện Kính Thiên
Đây là di tích trung tâm, trong tổng thể các di tích của khu Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội. Điện Kính Thiên – cung điện quan trọng
bậc nhất, nơi cử hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi đón tiếp
sứ giả nước ngoài và là nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự.
Điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ và hoàn
thiện vào đời vua Lê Thánh Tông. Điện Kính Thiên được xây dựng trên núi
Nùng, ngay trên nền cũ của cung Càn Nguyên – Thiên An thời Lý – Trần.
Lấy Càn Nguyên đặt tên cho điện coi chầu, Lý Thái Tổ đã chọn đúng trung
tâm của trời đất để đặt ngai vàng trị nước. Sau các vua nhà Lý, Trần, Lê đã
cho xây dựng hệ thống thành lũy tại đây. Khu vực quan trọng là Cấm thành
(Long Thành hay Long Phượng Thành) trong thành Thăng Long thời Lý –
Trần – Lê. Trung tâm là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý – Trần, điện
Kính Thiên thời Lê. Năm 1788, khi vua Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân –
Huế và sau đó nhà Nguyễn (1802-1945) cũng định đô tại đây thì thành Thăng
Long trở thành trụ sở của Trấn Bắc thành. Năm 1805, vua Gia Long cho xây
dựng khu vực này làm hành cung để vua sử dụng mỗi khi các vua nhà
48
Nguyễn “Bắc tuần”. Tên “Thành cổ Hà Nội” xuất hiện từ năm 1831, khi vua
Minh Mạng thực hiện cuộc cải cách hành chính lớn, thành lập các tỉnh trên cả
nước, trong đó có tỉnh thành Hà Nội, đây chính là trụ sở của tỉnh Hà Nội.
Thời Pháp thuộc (cuối thế kỉ XIX), thực dân Pháp phá bỏ hành cung
Kính Thiên và xây dựng trụ sở chỉ huy pháo binh tại đây. Ngôi nhà này được
gọi là nhà Con Rồng (Long Trì) do phía trước và phía sau đều có rồng đá chầu.
Sau ngày 10/10/1954, khi quân ta vào tiếp quản Thủ đô khu vực này
trở thành nơi làm việc của Bộ Quốc phòng. Năm 2004, Bộ Quốc phòng bàn
giao lại một phần diện tích khu vực trung tâm (trục chính tâm) thành cổ
Thăng Long – Hà Nội cho Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội quản lý.
Về kiến trúc điện Kính Thiên là di tích trung tâm, là hạt nhân chính
trong tổng thể các địa danh lịch sử của thành cổ Hà Nội. Trước thềm điện
Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột Cờ Hà Nội, phía sau có Hậu Lâu, Cửa
Bắc, hai phía đông và tây có tường bao và mở cửa nhỏ. Các cửa này đã được
nhà nước Bảo hộ Pháp liệt hạng từ năm 1925 cùng với một số di tích khác ở
thành cổ. Điện Kính Thiên là công trình trung tâm của Hoàng cung thời nhà
Lê (thế kỉ XV – XVIII) ở Thăng Long – Đông Kinh (Hà Nội). Năm 1428, sau
chiến thắng quân Minh, Lê Thái Tổ tiếp tục đóng đô tại Thăng Long, cho sửa
sang xây dựng lại hoàng thành bị hư hại. Đến năm 1886, điện bị phá hủy, hiện
chỉ còn di tích thềm bậc và nền điện (trong khu Thành cổ Hà Nội ngày nay).
“Quan sát kiến trúc điện Kính Thiên qua các bức ảnh do người Pháp
chụp cuối thế kỉ XIX, chúng ta có thể thấy đây là một kiến trúc gỗ gồm 2 nếp
hình chữ Nhị (二). Nhà làm kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái với các góc đao
cong. Bờ nóc của cả hai nếp nhà đều đắp nổi đôi rồng chầu mặt trời. Quanh
điện có sân rộng được xây lan can bao cả 4 phía. Dấu tích điện Kính Thiên
hiện nay chỉ còn là khu nền cũ. Nền điện dài 57 mét, rộng 41,5 mét, cao 2,3
mét và thềm bậc xây bằng đá xanh tạo thành ba lối vào. Phía Nam nền điện
còn có hàng lan can cao hơn 100cm. Mặt trước, hướng chính nam của điện
Kính Thiên là thềm điện xây bằng những phiến đá hộp lớn bao gồm 10 bậc có
49
4 rồng đá chia thành 3 lối lên đều nhau tạo thành Thềm Rồng. Thềm bậc có
kích thước ngang 13,7m; dọc 4,45m; cao 2,1m với đôi rồng đá khắc chạm
năm 1467 là những bộ phận điêu khắc đá còn tương đối nguyên vẹn. Rồng đá
điện Kính Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật, kiệt tác tiêu biểu thời Lê
sơ. Phía bắc của nền điện còn có một thềm 7 bậc lên xuống nhỏ hơn so với
bậc thềm chính ở phía nam. Hai bên bậc thềm có 2 rồng đá mang niên đại Lê
Trung Hưng (thế kỉ XVII – XVIII), than rồng dài 3,4m, uốn bảy khúc, than có
vẩy, lưng như hàng vây cá, chân rồng 5 móng. Hai bên lan can trang trí hoa
sen, song, nước, đao, lửa, vân mây,..” [41]. Tháng 10 năm 2004, khi chính
thức mở cửa đón du khách, khu vực thành cổ - Điện Kính Thiên đã trở thành
một trong những điểm tham quan cực kỳ hấp dẫn và là nơi trung tâm thu hút
khách du lịch.
3) Đoan Môn
Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm
năm cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng năm 1805 – 1812,
triều Nguyễn Gia Long phá, xây Cột Cờ (hiện vẫn còn). Năm 2002, giới Khảo
cổ học Việt Nam được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy “lối xưa xe
ngựa” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu khai quật tiếp, sẽ có thể
thấy cả con đường từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên ở phía Bắc và cửa Tây
Nam thành Hà Nội.
4) Đồ gốm sứ
Khai quật từ năm 2002, với diện tích khai quật lớn nhất từ trước tới
nay, khu di tích đã phát lộ một hệ thống di tích, di vật vô cùng phong phú, đa
dạng. Bên cạnh những dấu vết kiến trúc đan xen, chồng xếp lên nhau qua
nhiều thời kỳ lịch sử là hàng triệu hiện vật được tìm thấy trong lòng đất.
Nhiều hơn cả là đồ gốm sứ thể hiện sự phát triển của kinh đô Thăng Long,
kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XII đến thế kỉ XVIII. Đồ gốm sứ nước
ngoài khá phong phú như: Tượng sư tử men ngọc của lò gốm Tây Thôn
(Quảng Đông – Trung Quốc). Vò gốm men xanh, bình rượu men trắng của lò
50
gốm Trường Sa (Hồ Nam – Trung Quốc) thời Đường thế kỉ VIII – IX. Đặc
biệt là các mảnh gốm men xanh lam vùng Hồi giáo Tây Á (Islam). Bên cạnh
đồ gốm Trung Quốc là các loại đồ gốm được sản xuất trong nước như gốm
men xanh, men nâu của lò Thanh Lãng, Lũng Hòa (Vĩnh Phúc), đồ sành của
lò Đương Xá (Bắc Ninh). Dấu ấn của đồ gốm sứ sau mỗi triều đại không
giống nhau, tạo nên nét đặc trưng của mỗi thời kỳ trị vì.
- Đồ gốm thời Lý có chất lượng cao, gồm các dòng gốm men ngọc,
men trắng, men vàng, men xanh lục và hoa nâu với nhiều kiểu loại như bình,
vò bát, đĩa, âu, chậu, đĩa đài sen, hộp có nắp,.. Trong số đó có nhiều đồ gốm
sứ cao cấp, được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí mang tính biểu trưng cao
quý như hình rồng, hoa sen, hoa cúc, văn như ý,.. Rất độc đáo là di vật nắp
hộp men xanh lục, có đường kính 18,5cm, trang trí rồng uốn khúc, dải vân
mây hình khánh, văn như ý và dải văn nhũ đinh.
- Bằng chứng sinh động về cuộc sống Hoàng cung Thăng Long thời
Trần được phản ánh rõ qua sự phong phú, đa dạng của các đồ dùng trong sinh
hoạt hàng ngày như đồ gốm sứ, đồ sành, đồ kim loại,... Trong đó, đồ gốm hoa
nâu có kích thước lớn, khối hình chắc khỏe, hoa văn khoáng đạt được thời
Trần rất ưa chuộng. Thạp gốm hoa nâu, trang trí hoa sen dây, chậu gốm hoa
nâu, trang trí chim khách trong đầm sen, loa gốm men nâu, trang trí khắc
chìm văn cánh sen và dây lá cuốn là những hiện vật tiêu biểu, độc đáo của
thời kỳ này.
- Phát hiện quan trọng, phản ánh đời sống cao cấp của Hoàng cung
Thăng Long thời Lê là những sưu tập đồ gốm sứ được sản xuất tại lò Thăng
Long. Sự hoàn hảo và tinh tế của các loại gốm trắng mỏng, đồ gốm hoa lam
cao cấp trang trí rồng chân có 5 móng, in chữ Quan hay Kính, đồ ngự dụng
dành cho nhà vua. Đặc sắc là loại gốm “ngói ống hình con rồng”, hình tượng
hóa các con rồng có thân và vây lưng nằm trải dài theo dốc mái. Đây là loại
ngói duy nhất có ở Thăng Long, thể hiện sự sáng tạo, độc đáo trong nghệ
51
thuật trang trí kiến trúc Hoàng cung Thăng Long thời Lê sơ.
- Đồ gốm thời Lê là những đồ dùng sinh hoạt hằng ngày trong cung
điện được tìm thấy tương đối nhiều trong các khu vực khai quật thuộc khu
vực Hoàng thành Thăng Long (các hố khai quật ở khu vực đường Hoàng
Diệu, Hà Nội). Nét nổi bật của đồ gốm thời Lê là phong cách tráng gốm trắng
mỏng, trang trí nổi hình rồng 5 móng đế vương, hình ảnh đặc trưng của thời
Lê, giữa lòng có chữ Quan cũng với đồ gốm hoa lam cao cấp vẽ hình rồng,
phượng. Theo Bùi Minh Trí (Viện Khảo cổ học Việt Nam) khẳng định chất
lượng hoàn hảo của những đồ sứ này đã đạt tới trình độ cao không thua kém
đồ sứ ngự dụng của các vua đời Minh (Trung Quốc). Phát hiện quan trọng này
là những hình ảnh đầu tiên cho chúng ta biết chân xác về những loại gốm ngự
dụng đặc sắc của Việt Nam dung trong hoàng cung Thăng Long thời Lê sơ
(thế kỉ XV). Những đồ sứ này hiện nay mới chỉ tìm thấy ở hai di tích lớn và
quan trọng của nhà Lê (Lam Kinh – Thanh Hóa) và Hoàng thành Thăng
Long. Cho thấy đây là những đồ vật quý chỉ được dung trong Hoàng cung và
những nơi liên quan đến sinh hoạt của vua và hoàng gia. Đồ sứ trắng mỏng
của lò quan Thăng Long chủ yếu là các loại bát, đĩa cỡ nhỏ, có xương gốm
mỏng như vỏ trứng mà khi cầm soi lên có thể nhìn thấy hoa văn trang trí bên
trong. Thuật ngữ chuyên môn gọi đây là sứ thấu quang. Trong lòng loại gốm
này thường được trang trí hoa văn ám họa theo cách in nổi hình hai con rồng
chân có 5 móng và giữa long in chữ Quan. Chữ Quan ở đây được hiểu theo
hai nghĩa: Quan diêu là sản phẩm của lò quan và quan dụng là đồ dùng dành
cho vua quan. Do được đặc chế với loại xương gốm rất mỏng nên trọng lượng
của đồ vật rất nhẹ và khi cầm trên tay, buộc người cầm phải có ý thức cẩn
thận. Có thể thấy đây là những đồ vật rất quý hiếm, dành riêng cho các vua
nhà Lê sơ.
- Các đồ gốm thời Nguyễn được tìm thấy chủ yếu là gốm hoa lam, gốm
men trắng ngả vàng và gốm men nâu. Trong đó, gốm Bát Tràng tìm thấy khá
nhiều, chủ yếu là các loại âu, liễn có nắp, bình vôi, các loại chén nhỏ và các
52
loại bát, đĩa lòng rộng vẽ cành trúc, khóm trúc hay hoa cúc.
Như vậy, trong mỗi giai đoạn, đồ gốm sứ có những bước phát triển, sự
giao thoa với kỹ thuật làm gốm của các nước khác càng khẳng định bản chất
đặc trưng của đồ gốm Việt.
5) Sự giao thoa văn hóa giữa Hoàng thành Thăng Long và các nước
trong khu vực châu Á
Trong số những di vật thu thập được trong quá trình khai quật khảo cổ
học ở khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long có rất nhiều di vật thời Lý,
Trần mang đậm phong cách văn hóa Chăm, Ấn Độ. Những chứng cứ này cho
thấy văn hóa Phật giáo tại Hoàng thành Thăng Long thời Lý có sức ảnh
hưởng rất lớn tới xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
“Mảnh tháp sứ men trắng chạm hình tiên nữ (Apsara) đang say sưa với
điệu múa như thực như hư đã tìm thấy tại các điểm khai quật trong khu Trung
tâm Hoàng thành Thăng Long. Đây là loại hình chạm khắc thường gặp trong
Ấn Độ giáo (đạo Hinđu) và trong các thần thoại Phật giáo. Bên cạnh đó, còn
có những viên gạch chạm khắc hình ảnh chim thần (Garuda) được tìm thấy rất
nhiều tại các điểm khai quật trong Hoàng thành Thăng Long. Garuda là loài
chim thần trong Ấn Độ giáo và sau đó ảnh hưởng sang Phật giáo Nam tông.
Đây là con vật cưỡi của thần Vishu, có đầu người, mình chim, có đầy đủ chân
tay và cánh. Những viên gạch chạm khắc hình Garuda trong khu Hoàng thành
Thăng Long cho thấy hình ảnh Garuda đang nâng trên lưng một góc cung
điện (viên gạch góc) với vẻ mặt khá dữ như sẵn sàng xé xác bất cứ kẻ nào
dám xâm phạm tới nơi mà Garuda đang bảo vệ.
Bên cạnh những viên gạch chạm khắc hình ảnh Garuda, người ta cũng
tìm thấy rất nhiều mảnh vỡ của bình rượu có chạm khắc hình ảnh nữ thần
chim (Kinnari) trong các khu khai quật của Hoàng thành Thăng Long.
Tất cả những hình tượng trên đều là những hình tượng trang trí đặc
trưng của kiến trúc Chămpa. Khi những hình tượng này xuất hiện cùng với
những hình tượng trang trí mang đậm nét văn hóa của người Việt tạo ra một
53
sự giao thoa văn hóa rất hài hòa, tinh tế. Nhà nghiên cứu Bùi Minh Trí đã
nhận xét rằng đây là minh chứng sinh động về sự ảnh hưởng của nghệ thuật
Ấn Độ giáo đến Thăng Long vào thời Lý bằng con đường gián tiếp qua các
nước Đông Nam Á, trong đó có Chămpa. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng,
trước khi đạo Phật và văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam,
người Việt – Mường cổ, người Chăm và các tộc người khác cư trú ở các vùng
đất Việt Nam đã có tín ngưỡng thờ chim. Trong sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của
người Mường, “Chim Tùng và chim Tót” – chim trống và chim mái đã sinh ra
người Mường, người Việt và người Dao. Truyền thuyết của người Việt cũng
ghi rằng: Âu Cơ là giống tiên (giống chim) lưỡng hợp với Lạc Long Quân
(giống rắn), đẻ ra 100 trứng, nở ra 100 con chính là tổ tiên của các dân tộc
đang sinh sống trên đất Việt Nam. Bởi vậy, việc đưa tượng đầu người mình
chim vào chùa chiền và kinh thành chính là sự thể hiện tín ngưỡng này của
các tộc người Việt” [40, tr. 73].
Bên cạnh đó còn có sự xuất hiện của hai nửa viên gạch duy nhất có
khắc những ký tự chữ Phạn (Sanskrit) được phát hiện thấy ở khu Hoàng thành
Thăng Long. Nó xen lẫn với rất nhiều các loại gạch xây khác của Đại Việt
như: Đại Thông Độ, Long Thụy Thái Bình, Hoàng Môn Thự, Đại Việt Quốc
Quân Thành Chuyên... Hai nửa viên gạch có chữ Chăm nằm lẫn trong đám
gạch của Đại Việt cho ta có nhiều suy đoán khác nhau về nguồn gốc và sự
xuất hiện đặc biệt của nó trong số những viên gạch thuần Việt khác. Hai nửa
viên gạch này nên được xem là những chứng cớ ban đầu về sự góp mặt, tham
gia xây dựng hay sản xuất vật liệu cho những công trình kiến trúc cung đình
đương thời của người Chăm. Rất có thể một thợ xây, làm gạch người Chăm
nào đó, khi phải làm gạch theo mẫu do triều đình Đại Việt quy định, đã không
quên để lại dấu ấn riêng của quê hương - văn hoá Chăm lên những sản phẩm
mà mình phải đổ công sức và tâm huyết làm ra... Có lẽ còn có rất nhiều các
suy đoán khác nhau về nguồn gốc, vai trò, chức năng của nó so với những
viên gạch có chữ Hán cùng loại. Về hình thức, hai nửa viên gạch có chữ
54
Chăm được tìm thấy không còn nguyên vẹn, nó đã bị vỡ đôi với nhiều góc
cạnh sứt mẻ. Tuy nhiên, dòng chữ Chăm khắc chìm lại rất rõ ràng trên thân
gạch, nên có thể xác định từng ký tự cụ thể. Điều này cho phép các nhà
nghiên cứu có thể xác định được nội dung ghi trên gạch. Tuy nhiên, cho tới
nay do hạn chế về ngôn ngữ Chăm cổ nên chưa thể hiểu rõ nội dung ghi trên
viên gạch tới”. Song đây là bằng chứng của việc có những người Chăm tham
gia công cuộc xây dựng Hoàng Thành, càng làm đậm thêm ấn tượng đó (cũng
như gần đây tại khu di tích Mỹ Sơn đã tìm thấy những viên gạch có chữ Trần
– dấu tích của người Đại Việt tham gia xây dựng sửa chữa đền tháp Mỹ Sơn).
Điều khác biệt so với những Di sản văn hóa Đông Nam Á nêu trên là ở Thăng
Long, các biểu tượng trên không mang duy nhất một ý nghĩa của Phật giáo
mà ta có thể tìm thấy ở đó nhiều tầng nghĩa nữa, như ảnh hưởng của văn hóa
Chămpa trong nghệ thuật điêu khắc, các biểu tượng phổ biến của tôn giáo An
Độ, và cả nghệ thuật dân gian Đại Việt hồi sinh sau ngàn năm “Bắc thuộc”,
bên cạnh hướng lý giải khá phổ biến là từ điển tích và ý nghĩa biểu tượng của
văn hóa Trung Hoa. Ví như có thể lý giải hình tượng chim Phượng như một
hình thức của Garuda, hay Uyên ương ngỗng thần Hamsa.
2.3. Những yêu cầu sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy
học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông
Trong quá trình tham gia giáo dục lịch sử, đặc biệt là giáo dục lịch sử
dân tộc trong trường THPT, việc sử dụng di sản văn hóa chính là một bộ phận
quan trọng góp phần giúp cải thiện tích cực tình trạng học tập bộ môn. Việc
kết hợp với đồ dùng trực quan cùng các tài liệu tham khảo, di sản văn hóa
càng khẳng định rõ vị thế của nó trong công tác giảng dạy môn lịch sử đòi hỏi
sự thay đổi mạnh mẽ, tạo nên sức sống cho bản thân di sản.
Do đặc điểm của di sản Hoàng thành Thăng Long là một loại tài liệu
đặc biệt nên việc sử dụng hợp lý, vừa phải tuân thủ những yêu cầu dạy học
lịch sử nói chung, linh hoạt sáng tạo theo một số nguyên tắc như sau:
2.3.1. Khai thác tính trực quan sinh động của di sản Hoàng thành Thăng
55
Long
Quá trình nhận thức của học sinh về bộ môn Lịch sử có những đặc
điểm riêng biệt. Bản thân lịch sử là một chuỗi các sự kiện đã xảy ra kế tiếp
nhau nhưng theo một quy luật của nó. Lịch sử đối với học sinh THPT chính là
sự phát triển nhận thức ở mức độ logic hơn, mối liên hệ chặt chẽ và hệ thống
chứ không phải chỉ là những sự kiện cơ bản, phổ thông về quá trình phát triển
theo quy luật của dân tộc, từ khi con người xuất hiện đến ngày nay như đối
với học sinh ở bậc học cơ sở. Lý luận dạy học bộ môn đã chỉ ra rằng, sự kiện
lịch sử là cơ sở của quá trình nhận thức lịch sử của học sinh. Sự kiện càng cụ
thể, chính xác, phong phú, sinh động thì việc tạo biểu tượng, hình thành khái
niệm lịch sử cho học sinh càng khắc sâu và mang tính bền vững.
Những gì xảy ra trong quá khứ không bao giờ lặp lại nguyên si trong
hiện tại. Tất cả các sự kiện lịch sử không thể tái tạo trong phòng thí nghiệm
như môn vật lý, hóa học, sinh học, mặc dù trình độ khoa học công nghệ của
con người ngày càng phát triển. Thế giới công nghệ có thể thay đổi và cải
thiện cuộc sống của con người, song với các sự kiện lịch sử chỉ có thể phục
dựng một phần hoặc từng mặt sự kiện với mục đích lưu giữ cho thế hệ tương
lai. Giáo viên không thể bắt học sinh nhận thức ngay các sự kiện đang xảy ra.
Quá trình nhận thức của học sinh phải bắt đầu bằng việc tạo biểu tượng lịch
sử chứ không phải bằng xúc giác. Theo Lênin, biểu tượng lịch sử được gây
dựng trên cơ sở những sự kiện chính xác, cơ bản, điển hình. Chỉ dựa trên cơ
sở những sự kiện lịch sử cụ thể, chính xác thì học sinh mới có những hình ảnh
về quá khứ, đặt nền tảng vững chắc cho việc hình thành khái niệm lịch sử. Bài
học lịch sử được tạo ra bởi những biểu tượng lịch sử đầy tính chính xác, đa
dạng, phong phú về các sự kiện lịch sử đã xảy ra.
Có thể nói, với mục đích nêu trên, phương tiện trực quan đóng góp vai
trò to lớn. Chính các phương tiện trực quan góp phần tạo biểu tượng cho học
sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử. Đồ
dùng trực quan không chỉ giúp học sinh có hứng thú học tập mà còn tăng khả
56
năng ghi nhớ, hiểu một cách sâu sắc các sự kiện bởi tâm lý học đã khẳng định
rằng những hình ảnh nhận thức qua các phương tiện trực quan là những hình
ảnh lưu giữ lâu bền nhất trong trí óc.
Phương tiện trực quan có tác dụng rèn luyện cho học sinh các kỹ năng
quan sát, trí tưởng tượng, mô tả, phân tích, liên hệ, trau dồi khả năng ngôn
ngữ. Bất cứ phương tiện trực quan nào cũng đòi hỏi học sinh huy động tất cả
các thao tác của tư duy. Học sinh ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có sự tò mò,
hứng thú khi tiếp xúc với những hiện vật. Nắm bắt được yêu cầu của đối
tượng sẽ tăng khả năng hứng thú học tập cho học sinh, tạo nên chiếc cầu nối
giữa hiện thực quá khứ khách quan với đời sống hiện tại.
Lịch sử giáo dục Việt Nam chứng kiến sự thay đổi của nhiều phương
pháp dạy học hiện đại để phù hợp với xu hướng học tập trên thế giới, đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Xuất phát điểm từ các phương pháp
dạy học truyền thống “thầy đọc – trò ghi” hay dạy chay mà không dùng tới
các phương tiện trực quan. Công cụ của thầy khi lên lớp chính là sách giáo
khoa, sách giáo viên, đối với học sinh chỉ là sách giáo khoa và quyển vở thì
việc dẫn tới tình trạng học môn lịch sử càng suy yếu, không tạo được nguồn
cảm hứng cho học sinh là điều dễ hiểu. Theo Sácđacốp trong “Tư duy học
sinh” đã khẳng định: “Nhiệm vụ thứ nhất của tính trực quan là cung cấp cho
học sinh tới mức tối đa các tri thức cụ thể, các biểu tượng trong sáng và muôn
hình muôn vẻ về các sự vật, hiện tượng đang học, nhằm phát huy nhận thức
cảm tính, tích lũy các biểu tượng về các sự kiện để hoàn thiện các tri thức
khái quát” [33, tr. 35]. Ông cũng cho rằng: “Có thể thực hiện nhiệm vụ này
bằng cách tổ chức cho học sinh tri giác các di tích lịch sử, các di sản văn hóa”
[33, tr. 36].
Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn liền với lịch sử kinh
thàn Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội, bắt đầu từ thời kì tiền
Thăng Long (An Nam đô hộ phủ - thế kỉ VII) qua thời Đinh – Tiền Lê, phát
triển mạnh dưới thời Lý – Trần – Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây
57
là công trình kiến trúc đồ sộ, trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử
dân tộc, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở
thành một di sản quan trọng bậc nhất ở nước ta. Chính vì vậy, khi giảng dạy
về các sự kiện lịch sử có liên quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long cần
lựa chọn các di vật tiêu biểu, tác động mạnh tới trực quan của học sinh.
Ví dụ, các hình ảnh về các loại vật liệu kiến trúc: ngói âm dương, trang
trí họa tiết mặt linh thú, mặt hề, hoa sen, gạch chữ nhật chiếm số lượng nhiều
phổ biến có màu xám đen dùng để xây cống, giếng nước, đường đi hay bó nền
các kiến trúc. Đặc biệt về đồ gốm dưới mỗi triều đại đều mang những nét đặc
trưng riêng. Có thể thấy, gốm thời Lý chất lượng cao bao gồm các dòng gốm
men ngọc, men trắng, men vàng, men xanh lục và hoa nâu với nhiều kiểu loại
như bình, vò bát, đĩa, âu, chậu, đĩa đài sen, hộp có nắp,... Trong số đó có
nhiều gốm sứ cao cấp được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí mang tính biểu
trưng cao quý như hình rồng, hoa sen, hoa cúc, văn như ý,... Độc đáo hơn cả
là di vật nắp hộp men xanh lục, có đường kính 18,5cm, trang trí rồng uốn
khúc, dải văn mây hình khánh, văn như ý và dải văn nhũ đinh.
Để có thể khai thác trọn vẹn tính trực quan sinh động của học sinh,
trong quá trình sử dụng di sản Hoàng Thành Thăng Long giáo viên cần có sự
linh hoạt trong cách miêu tả và lựa chọn các hình ảnh phù hợp.
2.3.2. Đảm bảo tính khoa học, sư phạm
Trước hết, giáo dục di sản văn hóa tại Việt Nam đã được triển khai thực
hiện từ lâu, nhưng đến giai đoạn hiện nay mới đặt ra phương pháp để giảng
dạy lâu dài và thường xuyên. Không phải mọi di sản văn hóa đều có thể sử
dụng dạy học trong bất kỳ tình huống nào, điều căn bản là phải tìm cách thức
giúp giáo viên nhận biết di sản phù hợp với bài dạy và đối tượng học sinh.
Thứ hai, di sản văn hóa là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học khác nhau, trong đó có giáo dục bộ môn Lịch sử. Đối tượng học sinh chủ
yếu sử dụng những tư liệu sẵn có của di sản để tăng sự phong phú cho bài
học, cụ thể hóa các sự kiện lịch sử đã diễn ra tại di sản chứ không tập trung
58
nghiên cứu về di sản văn hóa đó. Chính vì vậy, tính quá khứ của di sản rất cần
được khai thác triệt để. Đặc biệt, khi sử dụng di sản chính là lúc giáo viên cần
lựa chọn nội dung cho phù hợp với yêu cầu bài học, chương trình, sách giáo
khoa lịch sử với đối tượng là học sinh THPT. Ở đối tượng này chính là sự
phát triển mạnh về tư duy lôgic, khả năng nhận xét, phán đoán. Tuy nhiên,
việc sử dụng nguyên bản những gì có trong sách giáo khoa sẽ là nhàm chán,
không kích thích trí tò mò ở lứa tuổi cần có sự định hướng rõ rệt cho tương lai
sắp tới của các em. Vì vậy, khi khai thác nội dung lịch sử cần có sự đa dạng
trong tổ chức. Ví dụ, tổ chức tham quan di sản, xây dựng trò chơi lịch sử,
cuộc thi tìm hiểu lịch sử Hoàng thành Thăng Long, xây dựng đoạn phim ngắn
giới thiệu về khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long,...
Thứ ba, di sản văn hóa nói chung thường được dân gian truyền tụng
qua nhiều bài thơ ca, vè, hoặc các tác phẩm dã sử mà ở đó tính chân thực thấp
hơn nhiều, chủ yếu mang yếu tố huyền thoại. Do đó, di sản văn hóa phải được
tìm hiểu trên nhiều khía cạnh, chú trọng tính khoa học, tập trung khai thác nội
dung hiện thực lịch sử để dễ dàng bóc tách lớp vỏ thần bí bao phủ bên ngoài.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quá trình nhận thức lịch sử và tâm
lý học sinh THPT, mục đích của giáo dục thông qua di sản là nhằm hình
thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản
văn hóa, rèn luyện tính chủ động sáng tạo trong công tác đổi mới phương
pháp học tập.
Trên thực tế, việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học nói chung, bộ
môn Lịch sử nói riêng đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức trong đội ngũ
cán bộ quản lý và giáo viên. Việc tổ chức tốt công tác sưu tầm các tư liệu,
hình ảnh và xử lý các thông tin, viết các bài báo cáo trình bày kết quả đã đem
lại những dấu hiệu tích cực cho ngành giáo dục.
Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học đòi hỏi bản thân giáo viên
phải là người am hiểu nhiều mặt, nhiều tri thức có liên quan, đặc biệt là yếu tố
liên môn (Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Tin học,...). Hơn nữa, việc sử
59
dụng thành thạo công nghệ thông tin trở thành yêu cầu đối với mỗi giáo viên
để giờ học không chỉ trên sách vở mà cần hơn hết sự ghi nhớ bằng hình ảnh,
sơ đồ, những mô phỏng hiện vật của di sản. Tóm lại, tính khoa học và tính sư
phạm là một trong những yêu cầu cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi
giáo viên khi triển khai bài dạy sử dụng di sản văn hóa.
2.3.3. Phát huy tính tích cực trong nhận thức của học sinh
Sự chủ động của học sinh không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi chương
trình sách giáo khoa, môi trường học tập, mà còn là sự đổi mới trong phương
pháp giảng dạy. Hướng tới những mục tiêu giáo dục nhằm tăng cường sự chủ
động, tích cực nhận thức của học sinh.
Trước hết, cần tạo ra nhiều tình huống có vấn đề để học sinh tìm hiểu,
khai thác. Trong quá trình làm việc với nguồn sử liệu của di sản văn hóa, học
sinh sẽ được giáo viên hướng dẫn, quan sát, vận dụng những nội dung lịch sử
chứa đựng trong di sản nhằm bổ sung cụ thể hóa cho các sự kiện đã học. Ví
dụ, trong bài 17: “Quá trình hình thành và phát triển nhà nước phong kiến (từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV), mục II: Phát triển và hoàn chỉnh nhà nước phong
kiến ở các thế kỉ XI – XV, giáo viên đặt học sinh vào tình huống cần giải
quyết: “Tại sao Lý Công Uẩn lại lựa chọn Thăng Long là nơi định đô của bậc
đế vương muôn đời?”. Để trả lời được câu hỏi này, học sinh cần huy động
kiến thức để trả lời các câu hỏi nhỏ như:
+ Hoàn cảnh đất nước sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua?
+ Vị trí của Thăng Long lúc bấy giờ?
+ Tên Thăng Long xuất hiện như thế nào?
Việc phát huy khả năng nhận thức, sự hứng thú làm việc tích cực của
mỗi cá nhân trong cả buổi học, nâng cao chất lượng của giờ học.
Thứ hai, khai thác tính trực quan của di sản văn hóa, giáo viên khơi gợi
và duy trì hứng thú của học sinh, đặc biệt qua lời kể hoặc bằng hình ảnh, hiện
vật. Sử dụng di sản một cách trực quan sinh động chính là bước khởi đầu tạo
60
biểu tượng giúp học sinh hình thành tri thức lịch sử.
Thứ ba, việc sử dụng di sản văn hóa để dạy học không có nghĩa là học
di sản. Chúng ta không bắt học sinh hiểu rõ di sản được cấu tạo như thế nào,
hiện vật hay dấu tích có độ dài, khoảng cách hay chiều sâu bao nhiêu mà hơn
hết, đặt trong bối cảnh lúc bấy giờ, di sản có ý nghĩa lịch sử như thế nào, vai
trò của nó trong lịch sử ra sao. Trên mỗi dấu tích ấy có gì hay tại sao lại được
công nhận là di sản văn hóa thế giới, được lưu truyền đến ngày nay... Di sản
văn hóa chính là tư liệu minh họa cho bài học trong sách giáo khoa nhằm tổ
chức các hoạt động học tập, phát hiện tri thức, khai thác kĩ năng của mỗi học
sinh trong từng hoạt động. Đặc biệt, với lứa tuổi học sinh trung học phổ thông
có sự phát triển cao về các kĩ năng tư duy lịch sử như quan sát, nhận xét, phán
đoán, giải thích, liên hệ. Với đối tượng này, các hoạt động phù hợp sẽ được
các em huy động để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Việc tiến hành các bài tập
có liên quan tới các kĩ năng nêu trên chính là bước khởi đầu của một nhà
nghiên cứu, tuy còn ở mức đơn giản sơ khai.
Thứ tư, từ nhận thức đúng đắn, nhiều giáo viên đã tích cực sử dụng di
sản văn hóa vào dạy học trong các bài học cụ thể, hoặc tổ chức các hoạt động
ngoài giờ lên lớp. Thông qua đó, năng lực của nhiều giáo viên đã được nâng
cao thể hiện ở khả năng thiết kế tiến trình dạy học và tổ chức hoạt động nhận
thức của học sinh. Nhiều kế hoạch bài học do chính giáo viên tự thiết kế đã
thể hiện rõ sự thông hiểu về quy trình sử dụng di sản trong dạy học. Giáo viên
đã có khả năng thiết kế nội dung dạy học phù hợp với việc sử dụng di sản văn
hóa trong dạy học bộ môn, đảm bảo dựa theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của
chương trình giáo dục phổ thông. Bên cạnh đó, sự thay đổi phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học đã nhận được những dấu hiệu tích cực kể cả trong
công tác kiểm tra – đánh giá.
Đối với giờ dạy sử dụng di sản văn hóa, giáo viên là người đa năng,
vừa thiết kế hoạt động học tập, là người định hướng, hỗ trợ học sinh cũng
đồng thời là hướng dẫn viên du lịch của chính di sản đó. Có thể nói, di sản
61
văn hóa trong dạy học lịch sử không chỉ là nguồn tư liệu bất động mà chính là
tài liệu sinh động nhất mà ở đó cả giáo viên và học sinh đều có thể khai thác
phục vụ nhu cầu giảng dạy và học tập.
Tóm lại, xuất phát từ mục tiêu giáo dục, nhiệm vụ bài học, môi trường
học tập, kế hoạch giáo dục,...mà việc sử dụng di sản văn hóa vào dạy học bộ
môn lịch sử đòi hỏi những yêu cầu cơ bản như: khai thác tính trực quan sinh
động của di sản Hoàng thành Thăng Long, phát huy tính tích cực trong nhận
thức của học sinh, đảm bảo tính khoa học, sư phạm.
2.4. Các biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy
học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung học phổ thông Nguyễn
Bính, huyện Vụ Bản tỉnh N m Định
2.4.1. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng về các
sự kiện lịch sử cơ bản
Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều
kiện địa lí,... được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển
hình nhất. Như vậy, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức
thông qua việc tạo nên hình ảnh về quá khứ, bằng những hoạt động của các
giác quan: thị giác tạo nên những hình ảnh trực quan, thính giác đem lại
những hình ảnh về quá khứ thông qua lời giảng của giáo viên.
Với việc lựa chọn đối tượng học sinh trường THPT Nguyễn Bính,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, chúng tôi nhận thấy rằng các em có một số
đặc điểm cần chú ý khi lựa chọn biện pháp này như: hầu hết đối tượng nghiên
cứu có tỉ lệ tiếp xúc với di sản Hoàng thành Thăng Long ở mức thấp, kể cả
thông qua sách báo hay các chương trình truyền hình. Khi tiến hành phỏng
vấn, chúng tôi nhận thấy khoảng cách địa lý là rào cản lớn nhất khiến cho
giáo viên và học sinh ít có cơ hội sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong việc giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam lớp 10. Chính vì vậy, để các em
có thể tự tạo biểu tượng tiến đến hình thành khái niệm là việc làm cần thiết.
Từ hạn chế nói trên, chúng tôi đề xuất biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành
62
Thăng Long để tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản, giúp các em có
thể dễ dàng tự xây dựng biểu tượng lịch sử. Bên cạnh đó, di sản Hoàng thành
Thăng Long sẽ làm phong phú nguồn kiến thức lịch sử Việt Nam trải dài gần
13 thế kỷ chứa đựng các tầng văn hóa độc đáo, minh chứng cho lịch sử Thăng
Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Lý luận và phương pháp bộ môn Lịch sử chỉ ra rằng việc tạo biểu
tượng lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng trong học tập lịch sử ở trường THPT.
Do đặc điểm của sự nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ
trực quan sinh động mà từ việc hiểu rõ sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tuy
vậy, việc học tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận
thức: qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Có thể nói,
tạo biểu tượng lịch sử là giai đoạn nhận thức cảm tính của quá trình học tập
lịch sử.
Việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh là một vấn đề khó khăn vì yêu
cầu cơ bản của dạy học lịch sử là phải tái tạo lại những hình ảnh về các sự
kiện đúng như nó tồn tại, mà những sự kiện đó bản thân học sinh không được
trực tiếp quan sát và trải nghiệm. Ý nghĩa to lớn của việc tạo biểu tượng trong
dạy học lịch sử trước tiên là ở chỗ có cơ sở để hình thành khái niệm lịch sử.
Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ càng phong phú bao
nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu nhận được càng vững chắc bấy
nhiêu. Việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh không chỉ dừng ở việc miêu tả
bề ngoài của sự kiện mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính
chất của sự kiện lịch sử.
- Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng thông qua
các loại đồ dùng trực quan
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc của lý luận dạy
học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành khái niệm trên cơ
sở quan sát trực tiếp hiện vật hay những đồ dùng trực quan minh họa về sự
63
vật, hiện tượng. Trong các loại đồ dùng trực quan tạo hình, nguồn tranh ảnh
lịch sử rất phong phú, dễ sưu tầm và phù hợp với việc tạo biểu tượng. Khi sử
dụng biện pháp này, giáo viên cần chú ý:
+ Lựa chọn các hình ảnh phù hợp với nội dung biểu tượng cần tạo cho
học sinh;
+ Bảo đảm tính chính xác, khoa học, tính giáo dục và thẩm mỹ;
+ Kết hợp đa dạng nhiều phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả.
Ví dụ, giáo viên sử dụng biểu tượng rồng trên hoa văn và vật liệu xây
dựng trong nội dung bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong
các thế kỷ X – XV”, mục I: “Tư tưởng, tôn giáo” để học sinh hiểu được sức
ảnh hưởng của tư tưởng lúc bấy giờ. Giáo viên có thể đặt học sinh vào tình
huống cần giải quyết với câu hỏi lớn: “Tại sao thế kỉ XV, Nho giáo lại chiếm
ưu thế hơn Phật giáo của thế kỉ X – XIV?”. Để có thể giúp học sinh hiểu được
vị trí độc tôn của Nho giáo, giáo viên sử dụng hình ảnh rồng khắc trên hoa
văn hoặc trên thềm Điện Kính Thiên, giới thiệu về chạm khắc rồng trên lá đa,
lá đề, hoa cúc, nêu sự khác nhau giữa các con rồng qua mỗi triều đại. Trọng
tâm của nội dung cần chú ý khai thác sự khác nhau của hình tượng con rồng
qua các triều đại. “Vào thời Lê (1428 – 1527), Nho giáo được trọng dụng làm
công cụ xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Từ thế kỷ XV, Nho giáo trở
thành tư tưởng chính thống thay thế vai trò của Đạo Phật, tạo cho nhà vua
những phương tiện để điều hành đất nước hiệu quả hơn. Nho giáo ủng hộ triệt
để chế độ xã hội có tôn ti và đẳng cấp, trong đó, Hoàng đế là người có quyền
lực tối cao, là đại diện cho Trời trên trần gian. Hình tượng đầy quyền uy của
vua là con rồng. Hình tượng rồng xuất hiện khắp nơi trong kiến trúc Hoàng
thành và trên các hiện vật khảo cổ tìm thấy tại khu Di tích Khảo cổ học 18
Hoàng Diệu” [40, tr. 74].
Giáo viên có thể giao nhiệm vụ trước cho học sinh về nhà tìm hiểu
“hình tượng rồng qua các triều đại Lý – Trần – Lê sơ”. Trên lớp, giáo viên
giới thiệu cho học sinh những nét điển hình nhất của hình tượng rồng trong
64
nghệ thuật kiến trúc bằng các đoạn miêu tả:
“Lịch sử có sự chuyển tiếp giữa các triều đại là một quy luật tất yếu.
Từ Lý chuyển sang Trần, hình tượng con rồng đã có nhiều thay đổi. Đó không
chỉ là sự thay đổi đơn thuần về phong cách, tạo hình mập mạp, khỏe khoắn
thay cho hình ảnh chau chuốt, tinh tế mà còn là sự thay đổi của một quan
niệm về hình tượng. Chính sự bành trướng của Nho giáo cùng với sự lớn
mạnh của chế độ tập quyền thời Trần đã làm cho hình tượng con rồng thời kỳ
này tiến thêm một bước trên con đường phong kiến hóa. Rồng thời Trần có vẻ
dũng mãnh hơn, đầy sức sống, thân rồng mập, uốn lượn không đều, có vây, có
vảy bụng chứ chưa có trên thân, đầu chỉ có 2 bờm, chân 3 móng,… ẩn hiện
sau rồng là mây. Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các
đường cong tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết
thúc như đuôi rắn. Có thể nói, rồng thời Trần tuy được kế thừa hình tượng
rồng thời Lý nhưng nó thực sự đã tạo cho mình những đặc điểm riêng khỏe
khoắn, mạnh mẽ như chính thời đại sản sinh ra nó, mang tính chất đặc thù
của một con rồng của chế độ phong kiến thời Trần”.
“Nhưng con rồng thời Lê sơ không uốn theo hình lá đề như thời Lý –
Trần và chân của nó thường có 5 móng sắc nhọn, dấu hiệu biểu trưng đẳng
cấp và quyền uy của Hoàng đế” [40, tr. 74].
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của Phật giáo Đạo giáo hay Nho giáo còn thể
hiện qua các hiện vật và phong cách biểu đạt văn hóa của Hoàng thành, đặc
biệt trong giai đoạn từ thế kỉ XI – XIV. “Bằng chứng là nhiều ngôi chùa dành
riêng cho đời sống tôn giáo của Hoàng gia, hoặc các loại vật liệu xây dựng
các chân đế cột (bằng đá tạc hình hoa sen), các họa tiết kiến trúc (ngói lợp
diềm mái hiên trang trí hình lá đề đặc trưng cho kiến trúc cung điện ở Việt
Nam và nhiều hiện vật khác (bao gồm cả đồ gốm) được tìm thấy có hình
tượng của đạo Phật. Hình ảnh trang trí lá đề có mặt ở các chùa Phật Việt
Nam và cũng có mặt ở tất cả các công trình kiến trúc cung điện thời Lý –
Trần. Việc tìm thấy viên gạch in chữ Hưng Hóa thiền tự cho biết rõ đây là
65
viên gạch xây chùa Hưng Hóa thời Lý. Bên cạnh đó còn có nhiều loại gạch in
hình tháp Phật hay những mảnh vỡ của mô hình tháp Phật bằng đất nung
hoặc bằng sứ trắng trang trí hoa sen, tiên nữ” [40, tr. 72-73].
Như vậy, chỉ qua hình tượng rồng hay vật liệu kiến trúc giáo viên
hướng học sinh khai thác trên khía cạnh tư tưởng ảnh hưởng tới từng triều đại
khác nhau. Từ đó, học sinh trả lời khái quát câu hỏi lớn của mục I: “Tư tưởng,
tôn giáo” đã đặt ra từ đầu bài học: Nho giáo chiếm vị trí độc tôn vì lúc này
nhà nước quân chủ chuyên chế chế độ phong kiến Việt Nam đã đạt đến đỉnh
cao và hoàn chỉnh, mong muốn xây dựng nguyên tắc trung thành tuyệt đối với
nhà vua, thể hiện uy quyền của vua ngày càng mạnh mẽ.
Với biểu tượng về kiến trúc điêu khắc, giáo viên sử dụng để dạy bài 20:
“Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X – XV”, mục II:
“Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học – kĩ thuật”, phần 3: “Nghệ thuật”.
Giáo viên có thể chia nhóm học sinh để tìm hiểu lần lượt từng câu hỏi:
+ “Kể tên những kiến trúc tiêu biểu thế kỉ X – XV, phân biệt đâu là
kiến trúc ảnh hưởng đạo Phật, Nho giáo?”
+ “Nêu nét độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc?”
+ “Nhận xét gì về đời sống văn hóa của nhân dân thời Lý – Trần – Hồ?”
Giáo viên tập trung cho học sinh khai thác các tác phẩm điêu khắc
mang họa tiết hoa văn độc đáo mang âm hưởng của Đạo Phật và Nho giáo.
Đồ án trang trí lá đề, rồng, phượng có mặt ở các chùa Phật và kiến trúc cung
điện thời Lý – Trần đều được tạo dáng, bố cục theo khuôn hình lá đề. Đặc biệt
là mảnh tháp sứ men trắng trang trí hình tiên nữ (Apsara) đang nhảy múa
mang đậm phong cách nghệ thuật Chămpa, là một minh chứng sinh động ảnh
hưởng của nghệ thuật Ấn Độ đến Thăng Long vào thời Lý. Những mô típ hoa
văn mang phong cách Chămpa tương tự như hình ảnh chim thần (Garuda) hay
nữ thần (Kinnari) xuất hiện đồng thời và hòa quyện với những mô típ hình
rồng, hoa lá mang đặc trưng phong cách Việt, phản ánh rõ sự dung hợp giữa
hai nền văn hóa, đồng thời là sự ảnh hưởng sâu đậm của nghệ thuật Chămpa
66
đến nghệ thuật Hoàng cung đương thời.
Như vậy, với từng nội dung khác nhau, giáo viên có thể vận dụng linh
hoạt những hiện vật được trưng bày tại Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng
Long để cung cấp cho học sinh những thông tin về sự kiện lịch sử đã diễn ra
tại đây. Đồng thời, với việc sử dụng hợp lý sẽ giúp học sinh hiểu rõ bản chất
của hiện vật, hình dung và đưa ra những nhận định lịch sử đúng đắn.
Trong dạy học lịch sử, những hiện vật trong khu Di sản Hoàng thành
Thăng Long chính là những minh chứng lịch sử sống động và cụ thể nhất giúp
học sinh có được biểu tượng sâu sắc về từng thời đại. Nhưng trước hết, với bộ
môn Lịch sử, việc tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản chính là cách
giúp học sinh hiểu rõ quá khứ. Với giá trị lịch sử trải dài suốt 13 thế kỷ,
Hoàng thành Thăng Long thể hiện được tính liên tục dài lâu của sự phát triển
chính trị, văn hóa. Điều quan trọng là trong từng tiết dạy học trên lớp và cả
quá trình dạy học, giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra
học sinh sẽ giúp bài học trở nên sinh động, học sinh dễ nhớ, dễ hình dung về
các sự kiện hiện tượng lịch sử được cung cấp trong bài học. Đồng thời qua đó
giúp các em hiểu hơn về chính di sản đang được tìm hiểu, giá trị toàn cầu mà di
sản mang lại. Từ đó, học sinh được định hướng thị hiếu thưởng thức văn hóa và
là đối tượng tuyên truyền, bảo vệ và phát huy những giá trị di sản quý giá.
- Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng thông qua
việc xây dựng các đoạn miêu tả sự kiện lịch sử
Đối với những sự kiện, hiện tượng xảy ra trong lịch sử, không có trong
sách giáo khoa, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
Hoàng thành Thăng Long như: các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thế kỉ I đến đầu
thế kỉ X; xây dựng thành Cổ Loa; Công cuộc dời đô của nhà Lý; phát triển
kinh tế, văn hóa thế kỉ X - XV... Giáo viên sử dụng tài liệu viết về Hoàng
thành Thăng Long để liên hệ thực tế khi dạy học những sự kiện lịch sử dân
tộc, đồng thời giúp học sinh biết được những đóng góp của thế hệ trước đối
với quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc. Có
67
thể thấy, tài liệu viết về Hoàng thành Thăng Long trong phạm vi Lịch sử Việt
Nam lớp 10 khi liên hệ, minh họa cho những sự kiện, hiện tượng lịch sử dân
tộc là vô cùng phong phú và đa dạng. Giáo viên cần khai thác một cách triệt
để nhằm làm phong phú thêm kiến thức lịch sử dân tộc.
Ví dụ, để giải thích lý do lựa chọn địa thế của Kinh thành trong Chiếu
dời đô của vua Lý Thái Tổ năm 1010, giáo viên có thể trích dẫn một đoạn
trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Huống gì thành Đại La, kinh đô
cũ của Cao Vương: ở nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã
đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế
rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập
lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ nơi
này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước;
cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. [12, tr. 240-241].
Trung tâm của quy hoạch Hoàng thành chính là núi Nùng. Đó là một khu đất
cao hơn hẳn các khu vực xung quanh, đất Long Đỗ (Rốn rồng), đất thiêng của
cả Kinh thành và đất nước, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh Hoàng thành. Việc
chọn địa thế của Kinh thành cũng như phương hướng của thành Thăng Long
được coi là mẫu mực trong kiến trúc quy hoạch hiện nay.
Hoặc, để có thể hình dung sơ lược về khu Di sản 18 Hoàng Diệu, giáo
viên có thể sử dụng đoạn miêu tả sau: “Di tích này bao gồm tầng dưới cùng
là một phần bên phía đông của thành Đại La dưới thời Cao Biền, nhà Đường,
tầng trên là cung điện nhà Lý và nhà Trần, tiếp theo là một phần trung tâm
của đông cung nhà Lê và trên cùng là một phần của trung tâm tòa thành
tỉnh Hà Nội thế kỷ 19. Bề mặt Lý – Trần ở tầng hai có rất nhiều hiện vật được
phát hiện, như những nền cung điện, có kích thước một chiều hơn 60 mét,
chiều kia 27 mét. Có 40 chân cột, rồi cả giếng cổ, gạch, phù điêu. Có tượng
rồng, phượng mà được các nhà nghiên cứu mỹ thuật khẳng định là mô típ hoa
văn thời Lý. Rồi đến những tầng lớp bên trên, thời Lê, Nguyễn đều tìm được
nhiều hiện vật. Tổng cộng là ba triệu hiện vật. Khi tiến hành khai quật ở hố
68
B16 thuộc địa điểm dự kiến xây dựng toà nhà Quốc hội mới, Viện khảo cổ học
đã phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4 mái, dạng hình tháp toạ lạc trên
một diện tích xấp xỉ 1000 m2 thuộc hệ thống các cung điện Thăng Long xưa.
Theo đánh giá thì đây là công trình đầu tiên, có tầm cỡ và giá trị nhất được
tìm thấy từ trước đến nay” [41].
Với đoạn miêu tả ngắn gọn trên, giáo viên có thể giúp học sinh nhận rõ
vị trí và giá trị lịch sử mà khu di sản đem lại. Từ đó, giáo viên khắc sâu quy
mô hoành tráng và tầm ảnh hưởng của Kinh thành Thăng Long trong lịch sử
dân tộc.
Tóm lại, các hình tượng nêu trên giúp cho học sinh có biểu tượng cụ
thể về một hay nhiều sự kiện lịch sử. Việc cung cấp cho học sinh những sự
kiện lịch sử cụ thể sinh động để tạo biểu tượng là bước đầu quan trọng của
việc dạy học lịch sử ở trường THPT. Trong quá trình giảng dạy, sử dụng di
sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản
là cách đưa học sinh vào chính hoàn cảnh đang diễn ra trong lịch sử. Đồng
thời, việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, ý thức bảo tồn di sản của học sinh là
thước đo sau mỗi bài dạy về di sản văn hóa, đặc biệt với di sản Hoàng thành
Thăng Long - công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong
nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống
các di tích Việt Nam.
2.4.2. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành tổ chức thảo
luận nhóm
Nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập khác nhau, giáo dục dạy và học
lịch sử có nhiểu hình thức hợp tác theo nhóm, ví dụ để cùng nghiên cứu một
đề tài lịch sử, cùng giải quyết một tình huống được đặt ra. Ở đây, thảo luận
nhóm được sử dụng với ý nghĩa là một phương pháp dạy học trên lớp. Thông
qua sự tham gia, trao đổi ý kiến của các thành viên dựa trên sự phân công cụ
thể của một hay nhiều nhóm nhỏ. Đây là cách thức giáo viên tổ chức, hướng
dẫn, điều khiển quá trình các nhóm học sinh trao đổi ý kiến về nội dung học
69
tập nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Trong một buổi học, có thể thảo luận
nhiều câu hỏi/chủ đề khác nhau có liên quan tới một nội dung tương đối hoàn
chỉnh của buổi học.
Thảo luận nhóm có ý nghĩa quan trọng bởi nó tạo cơ hội cho tất cả các
thành viên tham gia phát biểu ý kiến, tăng cường sự hợp tác và tinh thần làm
việc nhóm chủ động. Bên cạnh đó, thảo luận nhóm giúp học sinh tiến hành tự
kiểm tra, đánh giá, khẳng định mình trước tập thể, tạo không khí sôi nổi trong
giờ học, rèn luyện kĩ năng diễn đạt trước nơi đông người. Đối tượng nghiên
cứu mà chúng tôi hướng tới là học sinh trường THPT Nguyễn Bính, huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tập trong môi trường chưa có nhiều cơ hội để
bộc lộ những kỹ năng cần thiết nói trên, các em rất cần được bổ sung và hoàn
thiện các kỹ năng như: trình bày, tìm kiếm, lựa chọn thông tin, nhận xét, đánh
giá, thuyết trình, làm việc nhóm,.... Chính vì vậy, việc tổ chức thảo luận nhóm
thông qua sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long là bước tiến giúp các em
có thể phát triển và bồi dưỡng các kỹ năng nói trên thông qua việc tự thu thập,
lựa chọn, sắp xếp thông tin dựa trên sự góp ý của giáo viên, tiến hành trình
bày trước tập thể lớp.
Để có thể tổ chức tốt cho một buổi thảo luận nhóm cần thực hiện theo
các bước sau:
+ Bước 1: Chuẩn bị của mỗi cá nhân (theo hướng dẫn của thầy (cô), có
thể hướng dẫn chuẩn bị trước ở nhà hoặc chuẩn bị ngay trên lớp, tùy theo tính
chất của mỗi chủ đề).
+ Bước 2: Thảo luận nhóm với một chủ đề xác định, mà kết quả là có
một bài trả lời chung cho cả nhóm. Các thành viên trong nhóm thay thế nhau
làm các nhiệm vụ: nhóm trưởng, thư ký ghi biên bản thảo luận, trình bày
trước ở nhóm, đại diện nhóm trình bày ở lớp.
+ Bước 3: Thảo luận chung tại lớp. Đại diện các nhóm thay nhau trình
bày kết quả thảo luận nhóm mình. Các thành viên trong lớp tham gia chất vấn,
70
bổ sung, đóng góp ý kiến cho nhóm trình bày. Bên cạnh đó cần có một số tiêu
chí đánh giá chung hoạt động cho từng nhóm như: phiếu đánh giá hoạt động
nhóm; biên bản làm việc nhóm,…
+ Bước 4: Nhận xét, đánh giá việc thảo luận, tóm tắt nội dung chính, hoặc
hướng dẫn để tiếp tục nghiên cứu thêm để hoàn chỉnh hơn nội dung câu hỏi.
Với đối tượng học sinh này, giáo viên cần hướng dẫn cách khai thác thông
tin một cách chi tiết và và đơn giản nhất để các em tiếp cận và tổ chức thảo luận
nhóm hiệu quả.
Ví dụ khi học về bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong
các thế kỷ X - XV”, mục II: “Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ
thuật”, mục 3: “Nghệ thuật”, giáo viên có thể chia cả lớp thành các nhóm,
cung cấp cho các nhóm những tài liệu về các công trình kiến trúc nổi bật tại
Hoàng thành Thăng Long như: Thềm điện Kính Thiên, Đoan Môn, Hậu Lâu,
kiến trúc vòm trong Hoàng thành, con đường lát gạch đá hoa chanh trước
Đoan Môn,… sau đó giáo viên hướng dẫn cách thu thập tài liệu về công trình
đó. Khi đã chuẩn bị xong, giáo viên sẽ để các nhóm trình bày các sản phẩm
mà các em đã sưu tầm, phát hiện được trước cả lớp.
Hoặc trong bài 18: “Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các
thế kỉ X – XV”, giáo viên đặt ra tình huống cần giải quyết bằng một câu hỏi
lớn: “Những biểu hiện của phát triển kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa xã hội
như thế nào ở thế kỉ XIV ?”. Dựa vào nội dung thảo luận nêu trên, giáo viên
chia lớp thành 3 nhóm với những câu hỏi nhỏ dành cho từng nhóm như sau:
- Nhóm 1: Về nông nghiệp
+ Nhà nước phong kiến và nhân dân Đại Việt đã làm gì để phát triển
kinh tế nông nghiệp?
+ Sự phát triển nông nghiệp đương thời có ý nghĩa như thế nào đối với
xã hội?
+ Đọc một số câu thơ, đoạn văn ngắn mô tả nông nghiệp nước ta lúc
bấy giờ.
71
- Nhóm 2: Về thủ công nghiệp
+ Sự phát triển của thủ công nghiệp thể hiện như thế nào?
+ Sự ra đời của các làng nghề thủ công có ý nghĩa như thế nào đối với
sự phát triển của thủ công nghiệp?
+ Kể tên một số đồ gốm sứ, vật liệu xây dựng hiện được trưng bày tại
Khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long.
+ Nhận xét gì về các hình tượng được trang trí trên các hiện vật nói trên?
- Nhóm 3: Thương nghiệp
+ Nêu những biểu hiện về sự phát triển của thương nghiệp nước ta từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV.
+ Đọc một số câu thơ nói lên sự phát triển của Thăng Long thời Lý –
Trần – Lê sơ.
+ Việc xuất hiện các thương thuyền nước ngoài chứng tỏ điều gì về sự
phát triển thương nghiệp thời kỳ này?
Học sinh tiến hành thảo luận dựa vào các nội dung nêu trên, tham khảo
một số tài liệu mà giáo viên cung cấp. Sau mỗi nhóm trình bày, bổ sung ý
kiến, giáo viên chốt kiến thức và định hướng học sinh trả lời câu hỏi lớn: “Sự
phát triển kinh tế trong hoàn cảnh của chế độ phong kiến vừa góp phần nâng
cao đời sống nhân dân, củng cố nền độc lập dân tộc nhưng cũng đẩy nhanh
sự phân hóa xã hội. Giai cấp địa chủ ngày càng mở rộng, quan lại quý tộc
chiếm đoạt ruộng đất, vua quan ăn chơi xa xỉ. Từ đó, làm bùng nổ lên nhiều
cuộc đấu tranh của nhân dân khiến nhà Trần suy vong”.
Như vậy, với việc tổ chức thảo luận nhóm, học sinh nâng cao khả năng
rèn luyện tư duy, phát triển ngôn ngữ, tạo được sự tự tin cho học sinh trong
quá trình học tập. Đồng thời, mỗi giờ thảo luận được chuẩn bị chu đáo sẽ đem
lại hiệu quả học tập, tạo không khí sôi nổi trong lớp học. Tuy nhiên, nếu như
lớp học quá đông, không đủ điều kiện để tổ chức thảo luận thì giáo viên nên
có những biện pháp khác nhau để tiến hành bài dạy. Tóm lại, thảo luận nhóm
là phương pháp có tác dụng chuyển quá trình đào tạo thành quá trình “tự đào
72
tạo”, triệt để khắc phục lối dạy học “thầy đọc – trò ghi”.
2.4.3. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành dạy học dự
án
Với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu là học sinh của tỉnh Nam Định,
chúng tôi đề xuất biện pháp này với mục đích giúp các em không có điều kiện
tiếp xúc trực tiếp di sản nhưng vẫn có cơ hội hiểu và trở thành đối tượng
tuyên truyền và bảo tồn giá trị lịch sử của chính di sản đó. Để phù hợp với
hoàn cảnh của học sinh trường Trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định, chúng tôi tiến hành phỏng vấn và có sự điều chỉnh trước
khi tiến hành dạy học dự án. Cụ thể, với mỗi sản phẩm dự án, chúng tôi
thường yêu cầu học sinh thể hiện sản phẩm qua tranh, ảnh, poster trên giấy
A0, thuyết trình, đọc thơ hoặc sử dụng mô hình. Bên cạnh đó, việc sử dụng
công nghệ thông tin như bài trình chiếu trên Powerpoint dành cho nhóm đối
tượng yêu thích và có khả năng sử dụng công nghệ.
Khái niệm dự án được hiểu là một dự định, một kế hoạch được thực
hiện trong một khoảng thời gian với những phương tiện, điều kiện vật chất và
nhân lực nhất định nhằm đạt mục tiêu đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng
phổ biến trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, dần dần đi vào lĩnh vực giáo dục
đào tạo với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục và được sử dụng như một
phương pháp hay hình thức tổ chức dạy học. Như vậy, theo cách tiếp cận này,
“dạy học theo dự án được hiểu là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh
thực hiện một nhiệm vụ học tập phức tạp có tính thực tiễn cao hoặc gắn liền
giữa lý thuyết với thực hành, học sinh là người tự lập kế hoạch, chủ động thực
hiện, sáng tạo ra các sản phẩm nhất định và đánh giá kết quả đạt được” [30, tr.
116]. Khi học sinh được đặt vào những tình huống, nhiệm vụ học tập, buộc
các em phát huy và học hỏi thêm những kĩ năng cần thiết để giải quyết. Học
tập dựa trên dự án được hiểu là học trong hành động và học sinh là người tích
cực, chủ động giành lấy kiến thức.
Có thể nói, Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn liền với
73
lịch sử Kinh thành Thăng Long – Hà Nội. Công trình kiến trúc đồ sộ này
được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích
quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam. Tháng 12 năm 2002,
các chuyên gia đã tiến hành khai quật trên tổng diện tích 19.000m2 tại khu
trung tâm chính trị Ba Đình – Hà Nội. Cuộc khai quật khảo cổ học lớn nhất
Việt Nam và của cả Đông Nam Á này đã phát lộ những dấu vết của Hoàng
thành Thăng Long trong tiến trình lịch sử trải dài 13 thế kỉ với các di tích và
tầng văn hóa chồng xếp lên nhau. Những dấu vết kiến trúc độc đáo cùng hàng
triệu hiện vật quý giá phần nào tái hiện lại quá trình lịch sử trải dài từ thời kỳ
Bắc thuộc dưới ách đô hộ của nhà Tùy và nhà Đường (thế kỉ VII đến thế kỉ
IX), xuyên suốt các triều đại: Lý – Trần – Lê – Mạc – Nguyễn (1010-1945).
Như vậy, khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long chính là một
nguồn tư liệu phong phú, đa dạng giúp cho giáo viên có thể khai thác để phục
vụ bài giảng. Di sản Hoàng thành Thăng Long còn là một trong những
phương tiện dạy học đa dạng sống động nhất. Ẩn chứa trong di sản là những
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học trải dài qua các triều đại phong kiến Việt
Nam. Do đó, di sản có khả năng tác động mạnh tới tình cảm, đạo đức, tới việc
hình thành nhân cách của học sinh. Khai thác được những giá trị ẩn chứa
trong di sản và chuyển giao cho học sinh để các em cũng nhận thức được
những giá trị đó thì giáo viên sẽ giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh,
đồng thời giúp các em có cơ sở giải thích một cách khoa học các sự vật, hiện
tượng liên quan đến di sản.
Căn cứ vào đặc điểm dạy học dự án và đặc trưng của môn học Lịch sử,
quy trình thiết kế dự án được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học cần đạt về kiến thức, kỹ năng, thái độ.
Bước 2: Xây dựng sáng kiến về dự án. Sáng kiến dự án phải rõ ràng, có
tính thực tiễn và khả thi. Đặc biệt sáng kiến cần dựa trên một tình huống chứa
đựng một nhiệm vụ cần giải quyết có liên hệ với thực tiễn đời sống và tạo
hứng thú cho người học tham gia.
74
Bước 3: Xác định mục đích cần đạt của dự án.
Bước 4: Xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, trong đó thể hiện rõ công
việc giáo viên, học sinh cần phải làm, thời gian dự kiến để tiến hành dự án,
các phương tiện cần thiết, cách thức tiến hành và phân công công việc cụ thể
cho học sinh.
Bước 5: Thiết kế hồ sơ bài dạy thể hiện toàn bộ dự án. Hồ sơ bài dạy
bao gồm: Kế hoạch bài dạy, bài trình bày trên Powerpoint, nguồn tài liệu hỗ
trợ cho giáo viên và học sinh, công cụ đánh giá.
Ví dụ: Một dự án được thiết kế cho nội dung phần Lịch sử Việt Nam
lớp 10, chương trình chuẩn, chương II: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,
gồm 3 bài:
+ Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến
(từ thế kỉ X đến thế kỉ XV).
+ Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thể kỉ X – XV.
+ Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV.
1. Xác định mục tiêu bài học
Sau khi học xong, học sinh có khả năng:
- Về kiến thức
+ Trình bày được sự thành lập của các triều đại phong kiến ở nước ta từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV.
+ Trình bày được tình hình giáo dục, văn học, nghệ thuật và kể tên
được những công trình khoa học kĩ thuật.
+ Nêu được các nét cơ bản về tình hình kinh tế nông nghiệp, thủ công
nghiệp và thương nghiệp.
+ Trình bày được đặc điểm của văn minh Đại Việt, đồng thời đánh giá
vai trò, vị trí của nền văn minh này đối với tiến trình lịch sử dân tộc.
+ Vẽ được sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tông. Chứng
minh được tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ đã hoàn thiện, chặt chẽ.
+ Chứng minh được thời Lê sơ là thời kì phát triển đỉnh cao của chế độ
75
phong kiến Việt Nam.
- Về kỹ năng: Học sinh được rèn luyện các kỹ năng: tổng hợp, so sánh,
phân tích các sự kiện lịch sử, kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, kỹ năng
giải quyết vấn đề, kỹ năng sử dụng công nghệ hiệu quả học tập.
- Về thái độ: giáo dục cho học sinh nhận thức được giá trị của di sản Hoàng
thành Thăng Long – Hà Nội, trân trọng và tự hào hơn về những giá trị mà di sản
mang lại, từ đó có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ di sản tốt hơn.
2. Sáng kiến dự án
Trên cơ sở xác định mục tiêu bài học, dự án được thiết kế cho học sinh
đóng các vai khác nhau của thực tiễn cuộc sống, giải quyết nhiệm vụ có tính
thực tiễn cao. Sáng kiến dự án: Tổ chức một chương trình Hành trình Di sản
mang tên “Bí ẩn Hoàng thành Thăng Long” nhằm cung cấp kiến thức lịch sử
dân tộc trải dài 13 thế kỉ tại khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, tạo hứng
thú học tập thông qua các vai khác nhau, học sinh có thể tìm kiếm, trình bày
thông tin và rút ra những đánh giá về giá trị lịch sử của di sản Hoàng thành
Thăng Long với lịch sử dân tộc. Học sinh được đóng các vai khác nhau: biên
tập viên, người tham gia thiết kế, chương trình, người dẫn chương trình,…
3. Nhiệm vụ c a học sinh
Trong môi trường học tập còn hạn chế, giáo viên có thể hướng dẫn và
giao nhiệm vụ học tập phù hợp cho học sinh lựa chọn nhiệm vụ thiết kế và tạo
ra một trong các sản phẩm như sau:
+ Trình bày bài báo cáo ngắn gọn trên Microsoft Word (khoảng 3-5
trang trên giấy A4) nguyên nhân Lý Công Uẩn lựa chọn Thăng Long – Hà Nội
làm nơi định đô.
+ Sử dụng Powerpoint để trình bày về tổ chức bộ máy nhà nước thời
Lê sơ: Sử dụng hình ảnh về con rồng thời Lý và thời Lê sơ trên gốm sứ để
đưa ra nhận xét về sự phát triển và hoàn thiện nhà nước phong kiến ở các thế
kỉ XI – XV.
+ Sưu tầm hình ảnh và sử dụng Proshow Gold để làm 1 đoạn quảng
76
cáo (2 phút) giới thiệu về các di vật, công trình kiến trúc tiêu biểu cho văn hóa
Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV hiện được trưng bày trong khu trung tâm
Di sản Hoàng thành Thăng Long. (Dành cho đối tượng có khả năng sử dụng
công nghệ thông tin). Hoặc sưu tầm hình ảnh về các di vật, công trình kiến
trúc tiêu biểu hiện trưng bày trong Di sản Hoàng thành Thăng Long để làm
một Poster quảng cáo (trên giấy A0) về Khu trung tâm di sản phục vụ cho
buổi khai mạc chương trình giáo dục di sản: “Em làm nhà khảo cổ” tại Hoàng
thành Thăng Long.
+ Sử dụng sơ đồ mạng để nhận xét về mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và
sự phân hóa xã hội thế kỉ XIV (có thể cắt dán, sử dụng hình ảnh để minh họa).
Bước 6: Cung cấp tài liệu hỗ trợ để có thể triển khai được dự án, chia
nhóm, phân công công việc cụ thể cho học sinh, công bố thời gian thực hiện
và hoàn thành dự án, công bố các tiêu chí đánh giá sản phẩm.
Ví dụ: đối với dự án học tập nêu trên, cần cung cấp một số đầu sách
liên quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long, một số trang web tin cậy mà
học sinh có thể khai thác phục vụ cho dự án:
Một số sách liên quan:
+ Bùi Đẹp, (2012), Di sản thế giới tại Việt Nam, tập 1, Nxb Trẻ thành
phố Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Thừa Hỷ, (1993), Thăng Long Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII –
XIX, Hội Sử học Việt Nam.
+ Đỗ Văn Ninh, Những hiểu biết mới về thành Thăng Long, tạp chí
Khảo cổ học, số 4/2004, tr. 21-35.
+ Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Nguyễn Hải Kế (2011), Thăng
Long – Hà Nội, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Trang web:
+ issuu.com/lukul/docs/rongdaiviet
+ www.disanthegioi.info
77
+ www.hoangthanhthanglong.vn
+www.hoangthanhthanglong.vn/blog/hoat-dong-buon-ban-o-thang-
long-thoi-ly/3016
+www.hoangthanhthanglong.vn/blog/36-phuong-co-duoc-quy-hoach-
tu-thoi-le-so/660.
Dạy học dự án là một trong những phương pháp học tập hiệu quả song
chỉ phù hợp với một số nội dung nhất định trong chương trình môn Lịch sử,
đồng thời cần có thời gian và sự chuẩn bị chu đáo, không thể tiến hành
thường xuyên được. Dự án có tính khả thi cao và đem lại hiệu quả học tập là
khi giáo viên định hướng sản phẩm rõ ràng và phù hợp với điều kiện học tập.
Bên cạnh đó, giáo viên cần thiết kế tiêu chí đánh giá cho mỗi loại sản phẩm
và công bố từ lúc bắt đầu dự án để định hướng cho người học thành công, tạo
cơ hội cho người học tự đánh giá. Ví dụ: Để dự án nêu trên thực hiện thành
công, giáo viên cần thiết kế các tiêu chí đánh giá thông qua một số phiếu đánh
giá sản phẩm như: Bảng kiểm mục đánh giá bài viết/bài báo cáo; các tiêu chí
đánh giá người học, phiếu đánh giá bài trình chiếu Powerpoint; Phiếu đánh
giá hoạt động nhóm; biên bản làm việc nhóm; hợp đồng học tập;…
Ví dụ: Phiếu đánh giá bài trình chiếu Powerpoint cho dự án: “Chương
trình Hành trình Di sản mang tên “Bí ẩn Hoàng thành Thăng Long” nêu trên
được thiết kế như sau:
Tiêu chí Điểm
Thiết kế sáng tạo, màu sắc nhã nhặn, sáng sủa. (1đ)
Về hình thức Phông chữ, màu chữ và cỡ chữ hợp lý. (1đ)
Nhất quán trong cách trình bày tiêu đề và nội (0,5đ)
dung.
Tiêu đề rõ ràng, hấp dẫn người xem. (1đ)
Về bố cục Số lượng các slide hợp lý. (1đ)
Sử dụng thông tin chính xác, thế hiện được kiến (2đ)
78
thức cơ bản, có chọn lọc. Về nội dung
Có sự liên hệ mở rộng kiến thức. (1đ)
Trình bày rõ ràng, mạch lạc, có điểm nhấn, thu (1đ)
hút người nghe.
Trả lời được hết các câu hỏi thêm từ phía giáo (1đ)
Về phong viên hoặc bạn học.
cách người Duy trì được giao tiếp bằng mắt, xử lý tình (0,25đ)
trình bày huống linh hoạt.
Không bị lệ thuộc vào phương tiện, có sự phối (0,25)
hợp nhịp nhàng giữa diễn giảng và trình chiếu.
Tổng điểm:
Tóm lại, dạy học dự án có những đặc trưng riêng và rất mới so với các
phương pháp dạy học truyền thống. Đặc biệt với việc sử dụng di sản Hoàng
thành Thăng Long để tiến hành dạy học dự án là điều còn mới mẻ với nhiều
giáo viên và học sinh trong cách tiếp cận và lựa chọn định hướng dạy học.
Tuy nhiên, với xu hướng dạy học hiện nay rất cần những bước đi sáng tạo
trong phương pháp dạy học, đưa di sản vào giảng dạy đang là mối quan tâm
của nhiều giáo viên bộ môn. Đối với những di sản được UNESCO công nhận
tại Việt Nam, đặc biệt là khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, việc giáo
dục di sản là động lực hết sức quan trọng trong việc hình thành các kỹ năng
sống, bao gồm sự sáng tạo, đổi mới, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng sự đa dạng -
một yếu tố then chốt của phát triển bền vững. Một ý nghĩa lớn hơn cả đó
chính là việc giáo dục học sinh hướng các em sống có trách nhiệm hơn với
chính di sản mà các em được tiếp xúc.
2.5. Thực nghiệm sư phạm
Trên cơ sở lý luận và kết quả thực tiễn nêu trên, chúng tôi đề xuất một
số biện pháp và tiến hành thực nghiệm sư phạm tại lớp 10 trường THPT
Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
79
2.5.1. Mục đích thực nghiệm
Mục đích nhằm kiểm nghiệm tính khoa học và khả thi của các biện
pháp sư phạm đã đề xuất, làm cơ sở rút ra những kết luận khái quát về vấn đề
sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp
10 ở trường THPT.
2.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
- Đối tượng: tập trung chủ yếu học sinh khối lớp 10 trường trung học
phổ thông THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
- Địa bàn thực nghiệm: ở trường THPT Nguyễn Bính, bao gồm một lớp
đối chứng và một lớp thực nghiệm. Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được
lựa chọn theo nguyên tắc: sĩ số bằng nhau, trình độ nhận thức, kết quả học tập
không có sự chênh lệch đáng kể, môi trường sống tương đương nhau.
- Giáo án thực nghiệm của bài đã được trao đổi, thảo luận với giáo viên
phụ trách giảng dạy lịch sử tại hai lớp này.
2.5.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm
Soạn hai giáo án bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các
thế kỷ X-XV” trong chương trình Lịch sử lớp 10 (chương trình chuẩn).
+ Giáo án 1: Bài giảng được soạn tập trung vào vấn đề thực nghiệm là
sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong bài dạy lịch sử trên lớp.
+ Giáo án 2: Soạn bình thường, không sử dụng minh họa liên quan đến
di sản Hoàng thành Thăng Long.
Sau khi tổ chức thực nghiệm, đối chứng sẽ tiến hành kiểm tra nhận thức
của học sinh vào cuối các giờ học bằng bài kiểm tra 15 phút.
2.5.4. Phân tích kết quả thực nghiệm
Việc tiến hành thực nghiệm được tiến hành như sau: chúng tôi chọn
một lớp thực nghiệm và một lớp đối chứng. Ở lớp thực nghiệm chúng tôi tiến
hành sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong bài học lịch sử như trong
luận văn đã nêu. Còn lớp đối chứng giáo viên sử dụng giáo án bình thường,
không sử dụng tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long trong bài học lịch
80
sử theo các biện pháp mà luận văn đã đưa ra.
Địa bàn thực nghiệm: ở trường THPT Nguyễn Bính, lớp 10A3 là lớp
thực nghiệm, lớp 10A4 là lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
được lựa chọn theo nguyên tắc: sĩ số bằng nhau, trình độ nhận thức, kết quả
học tập không có sự chênh lệch đáng kể. Môi trường sống tương đương nhau.
- Người thực nghiệm: giáo viên môn Lịch sử Nguyễn Thị Nguyện.
- Giáo án thực nghiệm của bài đã được trao đổi, thảo luận với cô
Nguyện phụ trách giảng dạy lịch sử tại hai lớp này. Giáo viên phụ trách đã
nắm rõ ý đồ của tác giả và sử dụng các biện pháp một cách thuần thục.
- Kiểm tra và đánh giá kết quả thực nghiệm.
Sau khi tiến hành bài học thực nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra
hoạt động nhận thức của HS ở lớp đối chứng và lớp thực nghiệm đã chọn.
Các lớp này đều có chung một đề kiểm tra và thời gian tiến hành kiểm tra
đánh giá như nhau (15 phút). Mục đích của kiểm tra là đánh giá kết quả nhận
thức của học sinh ở hai lớp thực nghiệm và đối chứng.
Việc đánh giá được dựa trên các tiêu chí và thang điểm (thang điểm 10)
như sau:
- Điểm 9, 10: Bài làm đảm bảo các yêu cầu về số lượng câu hoàn thành
và chất lượng kiến thức đủ, đúng, chính xác, chặt chẽ.
- Điểm 7, 8: Bài thể hiện hiểu bài, song số lượng câu trả lời đúng ít hơn
so với bài đạt điểm 9, 10; phần trình bày chưa đủ, còn thiếu sót.
- Điểm 5, 6: Bài có số lượng câu trả lời đúng ít hơn so với bài đạt điểm
7, 8; bài làm thể hiện sự hiểu bài nhưng chưa sâu sắc, chỉ dừng ở mức độ 1
(nhận biết).
Dựa vào các tiêu chí nêu trên, chúng tôi xếp loại theo thang điểm 10:
+ Loại giỏi: Điểm 9 - 10
+ Loại khá: Điểm 7 - 8
+ Loại trung bình: Điểm 5 – 6
81
+ Loại yếu: Dưới 5 điểm
Sau khi chấm bài kiểm tra, phân tích và xử lí số liệu, thu được kết quả
như sau:
Bảng 2.2. Kết quả thực nghiệm sư phạm
Điểm Số Lớp HS 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thực 35 0 0 0 0 0 6 7 7 9 6 0 nghiệm
Đối 32 0 0 0 0 0 9 9 6 7 1 0 chứng
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp phân loại học sinh theo kết quả điểm kiểm tra (%)
Mức độ Lớp Số HS Trung bình (%) Khá (%) Giỏi (%)
Thực 35 41.5 52.1 6.4 nghiệm
Đối chứng 32 55.2 41 3.8
82
Biểu đồ 2.1: So sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
60
50
40
Thực nghiệm
30
Đối chứng
20
10
0
Trung Bình
Khá
Giỏi
Bảng 2.4. Độ chênh lệch điểm kiểm tra giữa
lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Lớp Số học sinh Điểm trung bình (%) Mức chênh lệch (%)
10A3 35 6.89 0,46 10A4 32 6.43
Từ bảng số liệu nêu trên, chúng tôi đưa ra một vài nhận xét như sau:
Sự phân bố điểm và phần trăm điểm ở lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm có sự chênh lệch là 0.46%. Cụ thể:
+ Ở lớp thực nghiệm 10A3, giáo viên có sử dụng di sản Hoàng thành
Thăng Long nên giờ học tạo sự hứng thú, tích cực tham gia vào bài học của học
sinh. Đặc biệt là việc sử dụng các di vật về đồ gốm sứ, vật liệu xây dựng, Thềm
điện kính Thiên khiến học sinh rất tò mò và hứng thú khám phá kiến thức. Tổng
số bài kiểm tra thu được là 35 bài trong số đó bài đạt được điểm giỏi là 6 (6,4%),
bài đạt điểm khá là 16 (52.1%), bài đạt điểm trung bình là 13 (41,5%).
+ Ở lớp đối chứng 10A4, giáo viên vẫn dạy theo cách thông thường
83
theo kiểu cung cấp kiến thức trong sách giáo khoa, các ví dụ minh họa cho bài
dạy không được chú trọng; việc sử dụng các di sản tiêu biểu liên quan đến
Hoàng thành Thăng Long không được khai thác. Tổng số bài kiểm tra thu
được là 32 trong đó bài đạt loại giỏi là 1 (3.8%), số bài đạt điểm khá là 13
(41%), số bài đạt điểm trung bình là 18 (55.2%).
Từ kết quả trên cho thấy, học sinh ở lớp thực nghiệm hiểu sâu hơn, kiến
thức được mở rộng hơn so với học sinh ở lớp đối chứng. Nếu theo đánh giá
phân loại của Bloom thì học sinh lớp thực nghiệm đạt ở mức độ 3 (Vận dụng)
trở lên. Còn đối với lớp đối chứng các em chỉ dừng ở mức độ 1 – 2 (Biết –
Hiểu), chính vì vậy tạo ra mức chênh lệch giữa hai lớp là 0.46%.
Trong quá trình tiến hành phân tích số liệu bằng phương pháp toán học
thống kê, chúng tôi còn trực tiếp trao đổi ý kiến với giáo viên phụ trách môn
Lịch sử của hai lớp 10A3 và 10A4. Thứ nhất, giáo viên khẳng định việc sử
dụng di sản Hoàng thành Thăng Long đối với các bài dạy về Lịch sử Việt
Nam, đặc biệt là từ thế kỉ X đến thế kỉ XV rất cần thiết với học sinh. Mỗi bài
đều có thể sử dụng di sản này để mở rộng, bổ sung các ví dụ minh họa giúp
học sinh hiểu bài một cách sâu sắc và tạo ấn tượng đối với các em. Việc đưa
học sinh tiếp cận với di sản Hoàng thành Thăng Long là một ý tưởng dạy học
cần được lưu ý bởi các em là đối tượng không được trực tiếp quan sát di sản
nhưng lại rất hứng thú khi được tìm hiểu. Thứ hai, giáo viên cho rằng giáo
dục đưa di sản Hoàng thành Thăng Long vào giới thiệu, giảng dạy trong nhà
trường là một trong những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của các
di sản. Hiệu quả của việc đưa di sản Hoàng thành Thăng Long vào trường học
đã thấy rõ, nhưng để có một bài học trong vòng 45 phút, giáo viên phải rất kỳ
công chuẩn bị, không chỉ thời gian mà còn là kinh nghiệm giảng dạy tích lũy
trong nhiều năm. Việc này vô tình trở thành gánh nặng cho người trực tiếp
giảng dạy và nhà trường. Đưa di sản văn hóa vào bài học, không đơn giản chỉ
là ghép mà phải có sự lựa chọn phù hợp và tự nhiên nhất. Giáo viên phải tìm
84
hiểu thông tin trên các trang mạng, đồng nghiệp, mọi người xung quanh.
Như vậy, xuất phát từ cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học của vấn đề sử
dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10
trường Trung học phổ thông, có thể khẳng định đây là một trong những ý
tưởng dạy học cần được chú trọng và tiến hành trong các bài dạy có liên quan.
Việc sử dung di sản nói chung và di sản Hoàng thành Thăng Long không chỉ
góp phần bổ sung nguồn tài liệu dạy học phong phú mà hơn hết chính là công tác
giáo dục di sản cho thế hệ trẻ. Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử
được xem là “cầu nối” giữa quá khứ và hiện tại, “bản thông điệp của các thế hệ”
[14, tr. 47]. Với tính chất vật thật, chứng nhân lịch sử, di sản văn hóa nói chung
và di sản Hoàng thành Thăng Long nói riêng tạo cơ sở vững chắc để giáo viên
có thể khôi phục quá khứ giúp học sinh hiểu rõ vấn đề lịch sử.
Tiểu kết chương 2
Trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT, việc khai thác
và sử dụng di sản văn hóa là rất cần thiết, đem lại hiệu quả giáo dục về nhiều
mặt. Hơn hết, di sản văn hóa rất đa dạng và phong phú, nếu được khai thác và
sử dụng hợp lý sẽ góp phần cải thiện góc nhìn lịch sử tốt hơn, tạo mối liên hệ
rõ ràng giữa quá khứ và hiện tại và tương lai. Đặc biệt, việc sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long vào giảng dạy cho phần Lịch sử Việt Nam lớp 10
khiến bài giảng trở nên đầy sức thuyết phục và di sản không còn gì là xa lạ
với học sinh, đặc biệt với đối tượng học sinh không có cơ hội trực tiếp tiếp
xúc với di sản. Từ đó, giáo viên xây dựng niềm tự hào dân tộc và đưa học
sinh sống trong không khí hào hùng của dân tộc qua mỗi bài giảng. Đặc biệt
hơn đây chính là cách bồi dưỡng đối tượng tuyên truyền bảo vệ di sản đơn
giản mà hiệu quả nhất. Việc đầu tư cho mỗi bài dạy có sử dụng di sản Hoàng
thành Thăng Long buộc giáo viên phải xây dựng kế hoạch chi tiết về thời
gian, công sức, học sinh cần hoàn thành nhiệm vụ học tập, tương tác với tập
85
thể để đạt hiệu quả tốt nhất.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu về lí luận và thực tiễn việc sử dụng di sản Hoàng
thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung
học phổ thông THPT giúp chúng tôi đưa ra những kết luận cơ bản sau:
Thứ nhất, việc sử dụng di sản văn hóa nói chung, di sản Hoàng thành
Thăng Long nói riêng cần được thực hiện theo những nguyên tắc phù hợp với
đặc trưng môn học, mục tiêu đào tạo và theo định hướng đổi mới của giáo dục
hiện nay. Giáo viên là người thiết kế, định hướng, tổ chức các hoạt động học
tập với di sản văn hóa. Ngược lại, học sinh chính là đối tượng cần chủ động
thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ hai, kết quả điều tra là căn cứ rút ra những nhận xét về ưu điểm,
hạn chế của việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học bộ
môn. Giáo viên đã chú ý tới việc lồng ghép di sản vào trong mỗi giờ dạy là
dấu hiệu tích cực, khiến học sinh hứng thú, lôi cuốn trí tò mò và khơi dậy
lòng tự hào dân tộc. Bên cạnh đó, giáo viên còn lúng túng chưa biết chọn lọc
di sản để giảng dạy. Do vậy, chưa đưa ra các hoạt động học tập phù hợp với
nhu cầu và hứng thú của học sinh.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn là cơ sở đề xuất biện
pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt
Nam lớp 10 ở trường THPT. Kết quả thực nghiệm bước đầu khẳng định tính
khả thi hiệu quả của đề tài nghiên cứu đã mang lại.
Từ kết quả nghiên cứu và thực tiễn dạy học môn Lịch sử ở trường
THPT hiện nay, chúng tôi đề xuất một vài khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, cần tăng cường đưa vào khai thác di sản Hoàng thành Thăng
Long đối với phần Lịch sử Việt Nam lớp 10 – chương trình chuẩn. Việc bổ
sung di sản Hoàng thành Thăng Long trong giờ học không có nghĩa là tăng
thêm số tiết học cho chương trình mà cần thiết phải có sự lựa chọn sao cho
86
phù hợp với cấu trúc bài dạy và chương trình môn học.
Thứ hai, mở rộng các lớp tập huấn, thêm thời lượng cho giáo viên được
học và thực hành với các di sản khác nhau để rút ra kinh nghiệm mỗi khi xây
dựng ý đồ dạy học. Bên cạnh đó cần hướng dẫn giáo viên quy trình, cách thức
tổ chức dạy học sinh tự học, tự chọn lựa nội dung kiến thức cơ bản có liên
quan, cách thức sử dụng các phần mềm dạy học nhằm đa dạng các hình thức
sử dụng di sản.
Thứ ba, nguồn tài liệu của di sản Hoàng thành Thăng Long rất phong
phú và đa dạng, nếu được khai thác một cách hợp lý sẽ giúp cho học sinh có
góc nhìn mới tích cực hơn về môn học, đặc biệt là phần Lịch sử Việt Nam.
Đối tượng mà chúng tôi hướng tới trong nghiên cứu chính là học sinh tại Nam
Định không có điều kiện được quan sát trực tiếp di sản Hoàng thành Thăng
Long. Với khả năng chỉ quan sát qua tranh, ảnh, phim tư liệu là chủ yếu, việc
đưa di sản vào chương trình dạy học sẽ kéo gần khoảng cách của học sinh với
di sản. Thông qua việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học
bộ môn sẽ làm cho những giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học khởi sắc và có
thể truyền cảm hứng cho các học sinh. Điều này giúp các em không chỉ hiểu về
di sản theo nghĩa rộng mà còn giúp các em tư duy sâu hơn về các giá trị truyền
87
thống, qua đó tác động đến tình cảm, đạo đức và hình thành nhân cách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Alexeep (1976), Phát triển tư duy học sinh. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Côi (2006), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học Lịch sử ở trường Phổ thông. Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ, Nguyễn Mạnh
Hưởng, Đoàn Văn Hưng, Nguyễn Thị Thế Bình (2011), Rèn luyện kĩ năng
nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử. Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
4. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn
hóa Thăng Long – Hà Nội. Nxb Hà Nội, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Thế Bình (2014), Phát triển kĩ năng tự học Lịch sử cho học
sinh. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 (chương trình chuẩn).
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông - môn
Lịch sử. Nxb Giáo dục Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Văn h , Thể thao và Du lịch (2013), Tài
liệu tập huấn sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông.
9. Lâm Thị Mỹ Dung, Nguyễn Gi Đối, Nguyễn Ngọc Thơ (2011), Di sản
lịch sử và những hướng tiếp cận mới. Nxb Thế giới, Hà Nội.
10. N.G.Đ iri (1973), Chuẩn bị giờ dạy Lịch sử như thế nào?. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
11. Bùi Đẹp (2012), Di sản thế giới tại Việt Nam, tập 1. Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
12. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. I.F. Kharlamôp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như
thế nào (tập 1). Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Hoàng Thanh Hải (1999), Sử dụng di tích lịch sử trong dạy học lịch sử
dân tộc ở trường Trung học Cơ sở, Luận án Tiến sĩ Giáo dục 5.07.02. Đại học
88
Quốc gia Hà Nội. Đại học Sư phạm Hà Nội.
15. Hoàng Thanh Hải (1996), “Di tích lịch sử và việc giảng dạy ở trường
phổ thông”, Tạp chí Xưa và Nay, tr. 6-7.
16. Phạm Minh Hạc (1991), Góp phần đổi mới tư duy giáo dục. Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Huy, Quy trình giáo dục trải nghiệm di sản trong nhà
trường. Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa.
18. Bùi Bá Linh (1999), Văn hóa và giáo dục nhân cách văn hóa, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học: “Bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc – Vai trò của nghiên
cứu và giáo dục”, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
19. Phạm M i Hùng (2012), Dạy học Lịch sử thông qua các di sản. Kỷ yếu
Hội thảo Quốc gia về dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông.
20. Nguyễn Thừ Hỷ (1993), Thăng Long Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII – XIX.
Hội Sử học Việt Nam.
21. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Nguyễn Phan Quang (1968), Công tác
ngoại khóa thực hành môn Lịch sử. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Luật Di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành (2006), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Luật di sản văn hóa: Những điều bổ sung và sửa chữa (2009). Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, in lần 2, tập 3. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
25. Nguyễn Minh Nguyệt (2012), “Giáo dục trải nghiệm di sản ở nhà trường
phổ thông – hướng tiếp cận mới trong giáo dục truyền thống”, Tạp chí Giáo
dục (297).
26. Đỗ Văn Ninh (2004), “Những hiểu biết mới về thành Thăng Long”, Tạp
chí Khảo cổ học (4), tr. 21-35.
27. Lưu Trần Tiêu (2002), “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam”,
89
Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, tr. 661-662.
28. Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Hữu Toàn, Nguyễn Quốc Hùng (2014), Con
đường tiếp cận di sản văn hóa Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
29. Trịnh Đình Tùng (2014), Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử. Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
30. Trường Đại học Giáo dục, Kho Sư phạm (2009), Tập bài giảng:
Phương pháp dạy học Lịch sử, Hà Nội.
31. Trần Thu Th y, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Đức Tăng (2014),
Các bước xây dựng kế hoạch dạy học có sử dụng di sản văn hóa phi vật thể.
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Dục Quang (2004), “Về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo
dục di sản thế giới cho học sinh phổ thông Việt Nam”, Tạp chí Phát triển
Giáo dục (5), tr. 10-12.
33. Sácđ cốp (1982), Tư duy học sinh. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. UNESCO (1989), Tạp chí “Người đưa tin UNESCO” (11).
35. Lê Thị Hài (2010), Sử dụng di tích lịch sử địa phương trong dạy học
lịch sử Việt Nam ở trường THPT tỉnh Hưng Yên. Luận văn Thạc sĩ giáo dục.
36. Phạm Văn Mạo (2014), Tổ chức học tập với di sản văn hóa vật thể ở
địa phương trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường THPT (chương
trình chuẩn) tỉnh Hải Dương. Luận văn Thạc sĩ giáo dục.
37. Jean Marc Dénommé et Madeleine Roy (2009), Sư phạm tương tác một
tiếp cận khoa học thần kinh về học và dạy. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
38. Lê Thị Thảo (2014), Sử dụng di tích lịch sử - cách mạng ở địa phương
trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp 12 trung học phổ
thông tỉnh Tuyên Quang (chương trình chuẩn). Luận văn Thạc sĩ giáo dục.
39. “Thế hệ trẻ cần được giáo dục về văn hóa di sản”, Báo Dân trí online,
ngày 19/5/2011.
40. Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Nguyễn Hải Kế (2011), Thăng Long
– Hà Nội. Nxb Thế Giới, Hà Nội.
90
41. www.hoangthanhthanglong.vn/.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu: “Sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường
trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định” chúng
tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô.
Không có câu trả lời nào bị đánh giá là đúng hoặc sai, các thông tin
mang tính cá nhân sẽ được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.
(Đánh dấu X vào ô trống trước câu trả lời phù hợp với thầy cô)
Câu 1: Theo thầy (cô), di sản văn hóa là gì?
o Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
o Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đã được thế
giới công nhận.
o Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá
vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị về lịch sử, văn hoá,
khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam.
o Ý kiến khác:……………………………………………………………
Câu 2: Thầy (cô) quan niệm như thế nào về vấn đề sử dụng di sản văn hóa
trong dạy học môn Lịch sử?
o Là phương pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng sống, giúp cá nhân và
cộng đồng có những hiểu biết về di sản đồng thời tham gia bảo vệ di
91
sản.
o Là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập
liên quan tới di sản văn hóa, góp phần bổ sung kiến thức và giải quyết
các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, nâng cao hiểu biết bảo vệ, tuyên
truyền và có thái độ ứng xử đúng đắn với các di sản.
o Là một trong những phương tiện dạy học đa dạng sống động nhất.
o Là phương pháp cải thiện chất lượng giáo dục môn Lịch sử, giúp học
sinh tăng cường am hiểu lịch sử dân tộc.
Câu 3: Theo thầy (cô) việc sử dụng di sản Hoàng Thành Thăng Long trong
dạy học môn Lịch sử có cần thiết không?
Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết
Câu 4: Mức độ thường xuyên thầy (cô) sử dụng di sản Hoàng thành Thăng
Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 như thế nào?
Thường
Thỉnh
Hiếm khi Không
xuyên
thoảng
bao
giờ
1. Di tích Khảo cổ học 18
Hoàng Diệu.
2. Thềm điện Kính Thiên.
3. Bắc Môn (cổng thành phía
Bắc.
4. Tường thành và 8 cổng hành
cung thời Nguyễn.
5. Di tích cách mạng nhà và hầm
D67.
6. Hậu Lâu (Tĩnh Bắc Lâu hoặc
Lầu Công chúa).
7. Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội).
8. Kiến trúc Hoàng thành Thăng
92
Long.
9. Các di tích, di vật của Hoàng
thành Thăng Long.
Câu 5: Trong quá trình dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường thiết kế các hoạt
động học tập nào có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long?
Hoạt động học tập
Có
Không
1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long.
2.Học sinh đặt và trả lời câu hỏi về di sản Hoàng thành Thăng
Long.
3.Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực hiện nhiệm vụ học
tập (ví dụ: tổ chức trò chơi “Mảnh ghép lịch sử”; thuyết trình về
Nhân vật lịch sử,…).
4.Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành Thăng Long
5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính Thiên, Đoan
Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.
6.Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”.
7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và phát huy di sản
Hoàng thành Thăng Long”.
8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long.
9. Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long qua các thời kỳ
lịch sử.
10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về khu di sản Hoàng
thành Thăng Long.
Câu 6: Mức độ hứng thú của học sinh khi tham gia các hoạt động học tập liên
quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long được thể hiện như thế nào?
Hoạt động học tập
Không thích
1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng
Rất thích Bình thường
Long.
2. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào
93
thực hiện nhiệm vụ học tập (ví dụ: tổ chức trò
chơi “Mảnh ghép lịch sử”; thuyết trình về
Nhân vật lịch sử,…).
3.Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng
Long qua các thời kỳ lịch sử.
4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành
Thăng Long.
5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện
Kính Thiên, Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học
18 Hoàng Diệu.
6. Học sinh đặt và trả lời các câu hỏi liên quan
đến di sản Hoàng thành Thăng Long.
7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và
phát huy di sản Hoàng thành Thăng Long”.
8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng
Long.
9. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di
sản”.
10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về
di sản văn hóa Hoàng thành Thăng Long.
Câu 7: Để kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường sử dụng cách thức nào dưới đây?
Cách thức kiểm tra – đánh giá
Thỉnh thoảng Chưa
Thường xuyên
bao giờ
1.Trả lời câu hỏi tự luận theo mục tiêu dạy
học.
2. Trả lời câu hỏi trắc nghiệm khách quan
(câu hỏi nhiều lựa chọn, điền chỗ trống, câu
ghép cặp,…).
3. Quan sát hứng thú của học sinh.
94
4. Phiếu học tập, phiếu đánh giá hoàn thành
nhiệm vụ học tập.
5. Kiểm tra thường xuyên (vấn đáp, kiểm tra
đánh giá nhanh).
6. Kiểm tra viết sau khi học xong một phần,
một chương hoặc một khóa trình lịch sử.
Câu 8: Khi tổ chức các hoạt động học tập sử dụng di sản Hoàng thành Thăng
Long trong dạy học Lịch sử, thầy cô gặp những khó khăn gì?
Một số khó khăn
Có Không
1. Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn (máy chiếu, tranh ảnh liên
quan, phòng học…).
2. Không có đủ thời gian (số tiết hạn chế trong khi lượng kiến thức tìm
hiểu quá nhiều).
3. Không có kinh phí tổ chức tham quan.
4. Chưa có điều kiện tiếp cận nguồn tài liệu trực tiếp.
4. Lớp học không phù hợp tổ chức hoạt động thảo luận nhóm.
5. Chưa biết cách khai thác nguồn tài liệu.
6. Học sinh không hứng thú tham gia bởi đây là môn phụ.
Câu 9: Thầy (cô) thường tìm hiểu di sản Hoàng thành Thăng Long từ
những nguồn tài liệu nào?
Nguồn thông tin
Thường xuyên
Không bao giờ
1.Tìm hiểu trên Internet.
Thỉnh thoảng
2. Xem các chương trình truyền hình có liên
quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long.
3. Mua sách hoặc báo, tạp chí về di sản văn hóa.
4. Truy cập website của Di sản Hoàng thành
Thăng Long (www.hoangthanhthanglong.vn) để
tìm hiểu.
5. Nghe các chương trình phát thanh có thông tin
95
về vấn đề lịch sử quan tâm.
6. Đọc các câu chuyện lịch sử về di sản Hoàng
thành Thăng Long qua một số tạp chí chuyên
khảo về di sản văn hóa.
7. Trực tiếp tham quan hoặc tham dự một số sự
kiện tổ chức tại khu di tích Hoàng thành Thăng
Long.
Câu 10: Thầy (cô) có những đề xuất gì để việc sử dụng di sản Hoàng thành
Thăng Long trong dạy học Lịch sử đạt hiệu quả?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Thông tin cá nhân:
Họ và tên: ................................................................ ................................................
96
Công tác tại trường THPT: .......................................................................................
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH
Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu: “Sử dụng di sản
Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường
Trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định” chúng
tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của các bạn.
Không có câu trả lời nào bị đánh giá là đúng hoặc sai, các thông tin
mang tính cá nhân sẽ được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.
(Đánh dấu X vào ô trống trước câu trả lời phù hợp với bạn)
Câu 1: Theo bạn, di sản văn hóa là gì?
o Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
o Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đã được thế
giới công nhận.
o Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá
vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị về lịch sử, văn hoá,
khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam.
o Ý kiến khác:…………………………………………………………
Câu 2: Bạn quan niệm như thế nào về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong
dạy học môn Lịch sử?
o Là phương pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng sống, giúp cá nhân và
cộng đồng có những hiểu biết về di sản đồng thời tham gia bảo vệ di
sản.
o Là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập
97
liên quan tới di sản văn hóa, góp phần bổ sung kiến thức và giải quyết
các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, nâng cao hiểu biết bảo vệ, tuyên
truyền và có thái độ ứng xử đúng đắn với các di sản
o Là một trong những phương tiện dạy học đa dạng sống động nhất.
o Là phương pháp cải thiện chất lượng giáo dục môn Lịch sử, giúp học
sinh tăng cường am hiểu lịch sử dân tộc.
Câu 3: Theo bạn việc sử dụng di sản Hoàng Thành Thăng Long trong dạy
học môn Lịch sử có cần thiết không?
Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết
Câu 4: Mức độ thường xuyên thầy (cô) của bạn sử dụng di sản Hoàng thành
Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 như thế nào?
Thường
Thỉnh
Hiếm
Không
xuyên
thoảng
khi
bao
giờ
1. Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.
2. Thềm điện Kính Thiên.
3. Bắc Môn (cổng thành phía Bắc.
4. Tường thành và 8 cổng hành cung
thời Nguyễn.
5. Di tích cách mạng nhà và hầm D67.
6. Hậu Lâu (Tĩnh Bắc Lâu hoặc Lầu
Công chúa).
7. Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội).
8. Kiến trúc Hoàng thành Thăng Long.
9. Các di tích, di vật của Hoàng thành
Thăng Long.
Câu 5: Trong quá trình dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường thiết kế các hoạt
động học tập nào sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long?
Hoạt động học tập
Có
Không
98
1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long.
2. Học sinh đặt và trả lời câu hỏi về di sản Hoàng thành Thăng
Long.
3. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực hiện nhiệm vụ
học tập (ví dụ: tổ chức trò chơi “Mảnh ghép lịch sử”; thuyết
trình về Nhân vật lịch sử,…).
4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành Thăng Long
5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính Thiên, Đoan
Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.
6. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”.
7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và phát huy di sản
Hoàng thành Thăng Long”.
8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long.
9. Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long qua các thời
kỳ lịch sử.
10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về di sản Hoàng
thành Thăng Long.
Câu 6: Hãy cho biết mức độ hứng thú của bạn khi tham gia các hoạt động học
tập liên quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long được thể hiện như thế nào?
Hoạt động học tập
Rất
Bình
Không
thích
thường
thích
1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng
Long.
2. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực
hiện nhiệm vụ học tập (ví dụ: tổ chức trò chơi
“Mảnh ghép lịch sử”; thuyết trình về Nhân vật lịch
sử,…).
3.Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long
qua các thời kỳ lịch sử.
4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành
99
Thăng Long.
5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính
Thiên, Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng
Diệu.
6. Học sinh đặt và trả lời các câu hỏi về di sản
Hoàng thành Thăng Long.
7. Thảo luận nhóm với chủ đề về:“Bảo tồn và phát
huy di sản Hoàng thành Thăng Long”.
8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long.
9. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”.
10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về di
sản văn hóa Hoàng thành Thăng Long.
Câu 7: Để kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long
trong dạy trong dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường sử dụng cách thức nào
dưới đây?
Cách thức kiểm tra – đánh giá
Thường
Thỉnh
Chưa
xuyên
thoảng
bao
giờ
1.Trả lời câu hỏi tự luận theo mục tiêu dạy học.
2. Trả lời câu hỏi trắc nghiệm khách quan (câu
hỏi nhiều lựa chọn, điền chỗ trống, câu ghép
cặp,…).
3. Quan sát hứng thú của học sinh.
4. Phiếu học tập, phiếu đánh giá hoàn thành
nhiệm vụ học tập.
5. Kiểm tra thường xuyên (vấn đáp, kiểm tra
đánh giá nhanh).
6. Kiểm tra viết sau khi học xong một phần, một
chương hoặc một khóa trình lịch sử.
Câu 8: Khi tham gia các hoạt động học tập sử dụng di sản Hoàng thành Thăng
100
Long trong dạy học Lịch sử, bạn thường gặp những khó khăn gì?
Một số khó khăn
Có
Không
1. Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn (máy chiếu, tranh ảnh
liên quan, phòng học…).
2. Không có đủ thời gian (số tiết hạn chế trong khi lượng kiến
thức tìm hiểu quá nhiều).
3. Không được đi tham quan.
4. Lớp học không phù hợp tổ chức hoạt động thảo luận nhóm.
5. Thiếu tài liệu tham khảo.
6. Ít được xem tranh ảnh, bản đồ, trang web để tham gia thảo luận
nhóm.
7. Giáo viên ít giải đáp thắc mắc liên quan đến bài học.
Câu 9: Bạn thường tìm hiểu di sản Hoàng thành Thăng Long từ những
nguồn tài liệu nào?
Nguồn thông tin
Thường
Thỉnh
Không
xuyên
thoảng
bao
giờ
1.Tìm hiểu trên Internet.
2. Xem các chương trình truyền hình có liên
quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long.
3. Mua sách hoặc báo, tạp chí về di sản văn
hóa.
4. Truy cập website của Di sản Hoàng thành
Thăng Long (www.hoangthanhthanglong.vn)
để tìm hiểu.
5. Nghe các chương trình phát thanh có thông
tin về vấn đề lịch sử quan tâm.
6. Đọc các câu chuyện lịch sử về di sản Hoàng
thành Thăng Long qua một số tạp chí chuyên
khảo về di sản văn hóa.
101
7. Trực tiếp tham quan hoặc tham dự một số sự
kiện tổ chức tại khu di tích Hoàng thành Thăng
Long.
8. Tìm hiểu từ thầy, cô, bạn bè hoặc những
người thân trong gia đình.
Câu 10: Mức độ bạn hứng thú với các sự kiện văn hóa đã được tổ chức tại
Hoàng thành Thăng Long dưới đây như thế nào?
Sự kiện
Rất
Bình
Không
thích
thường
quan
tâm
1. Lễ hội Hoa anh đào (ngày 15/04/2015).
2. Chương trình “Ký ức Hà Nội” khai mạc tối
30/12/2015.
3. Lễ hội âm nhạc Quốc tế (diễn ra từ ngày 2 đến
4/10/2014).
5. Tổ chức khai ấn tại Hoàng thành Thăng Long
(ngày 17/02/2016).
6. Lễ khai mạc Hội sách Hà Nội 2015 với chủ đề
“Sách và Di sản” (ngày 29/9/2015).
7. Triển lãm các đồ án kiến trúc bảo tồn Khu 18
Hoàng Diệu.
Câu 11: Theo bạn cần có những thay đổi như thế nào để việc sử dụng di
sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử đạt hiệu quả?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Vui lòng cho biết thông tin cá nhân:
Họ và tên: ................................................................ ................................................
102
Lớp: ...........................................................................................................................
103
Chân thành cảm ơn!
PHỤ LỤC 2
Bài 20: XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG CÁC THẾ KỈ X – XV
(Giáo án thực nghiệm)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức: Sau khi học xong bài học, học sinh có khả năng:
- Trình bày được sự phát triển của các tư tưởng, tôn giáo (Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo) ở nước ta từ thế kỉ X- XV. Nhận xét vị trí của Phật giáo ở thời
kì này.
- Nêu được các thành tựu nổi bật về giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, khoa học
kĩ thuật của nước ta trong các thế kỉ X – XV.
- Đánh giá được ý nghĩa sự phát triển văn hoá của nước ta trong các thế kỉ X –
XV.
2. Kĩ năng
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử; sử dụng
tranh ảnh; kĩ năng làm việc nhóm, thuyết trình.
3. Thái độ
- Bồi dưỡng niềm tự hào về nền văn hóa đa dạng của dân tộc thông qua đó
nâng cao ý thức trân trọng, bảo vệ các di sản văn hóa của dân tộc.
B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Chuẩn bị c a giáo viên
- Sách giáo khoa Lịch sử 10, Sách giáo viên
- Trương Hữu Quýnh (chủ biên) – Phan Đại Doãn – Nguyễn Cảnh Minh, Đại
cương lịch sử Việt Nam tập I, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
- Giáo án, slide trình chiếu.
- Phương tiện dạy học: bảng, phấn, máy chiếu.
- Tranh, ảnh, clip, tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long.
2. Chuẩn bị c a học sinh
104
- Đọc trước bài học ở nhà.
- Tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long theo yêu cầu của giáo viên.
C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- Thuyết trình, vấn đáp
- Thảo luận nhóm.
D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định trật tự lớp
2. Giới thiệu bài mới
- Giáo viên cho học sinh xem một số hình ảnh (qua video) với câu hỏi định
hướng: Các hình ảnh các em vừa xem thuộc về văn hóa thời kì nào? Kể tên
các hình ảnh đó?
HS trả lời.
- Giáo viên nhận xét và đưa lời dẫn: Đây là những thành tựu nổi bật nhất của
văn hóa Việt Nam thế kỉ X- XV. Bên cạnh các thành tựu đó, ở thời kì này văn
hóa dân tộc và đặc biệt là di sản Hoàng thành Thăng Long còn có rất nhiều
thành tựu đa dạng, phong phú khác. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp ở các
nội dung cụ thể ở bài học.
3. Tiến trình bài học
Hoạt động c a giáo viên và học sinh Kiến thức cần đạt
1. Hoạt động 1: Tìm hiểu sự phát triển I. Tư tưởng, tôn giáo
của các tư tưởng, tôn giáo ở nước ta thế - Ở thời kì độc lập, Nho giáo, Phật
kỉ X-XV giáo, Đạo giáo có điều kiện phát
- GV: Bước sang thời kì mới, trong bối triển mạnh.
cảnh có chủ quyền độc lập, các tôn giáo
được du nhập vào nước ta từ thời Bắc
thuộc có điều kiện phát triển. Vậy, Nho
giáo có nguồn gốc từ đâu? Do ai sáng
lập? Giáo lý cơ bản là gi?
105
- HS trả lời.
- GV nhận xét, kết luận: Nho giáo lúc
đầu cũng chưa phải là một tôn giáo mà
là một học thuyết của Khổng Tử ở
Trung Quốc. Sau này, một đại biểu của
Nho học là Đông Trung Thư đã dùng
thuyết âm dương, dùng thần học để biện
hộ cho những quan điểm của Khổng Tử
biến Nho học thành một tôn giáo (Nho
giáo). Giáo lý cơ bản là: đề cao những
nguyên tắc trong quan hệ xã hội theo
đạo lý “Tam cương, ngũ thường”. Tam
cương là 3 mối quan hệ vua – tôi, cha –
con, chồng – vợ; ngũ thường là nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín.
Nho giáo du nhập vào nước ta từ thời Nho giáo
Bắc thuộc, bước sang thế kỉ phong kiến +Thời Lý, Trần: Nho giáo đã dần trở
độc lập có điều kiện phát triển. Biểu thành hệ tư tưởng chính thống của
hiện (phát triển qua các thời đại Lý, giai cấp thống trị; chi phối nội dung
Trần, Lê sơ). giáo dục, thi cử. Tuy nhiên ít phổ
- GV nêu câu hỏi: Tại sao Nho giáo biến trong nhân dân.
sớm trở thành hệ tư tưởng chính thống +Thời Lê sơ: Nho giáo chiếm vị thế
của giai cấp thống trị nhưng lại không độc tôn.
phổ biến trong nhân dân?
- GV gợi ý: Những nội dung của Nho
giáo có vai trò gì đối với giai cấp phong
kiến?
- HS trả lời.
106
-> GV nhận xét, tổng kết: Những quan
điểm, tư tưởng Nho giáo đã quy định
một trật tự, kỉ cương, đạo đức phong
kiến rất quy củ, khắt khe. Giai cấp
thống trị đã triệt để lợi dụng Nho giáo
làm công cụ thống trị. Còn nhân dân chỉ
tiếp thu khía cạnh đạo đức của Nho
giáo. Đến thời Lê sơ, Nho giáo trở
thành độc tôn vì lúc này nhà nước quân
chủ chuyên chế đạt được mức độ cao,
hoàn chỉnh.
- GV yêu cầu học sinh dựa vào SGK và Phật giáo
tìm hiểu về Phật giáo và Đạo giáo. + Thế kỉ X - XIV, Phật giáo chiếm
- GV cung cấp thêm thông tin về ảnh vị trí quan trọng và rất phổ biến,
hưởng của Phật giáo đến kiến trúc tại chùa chiền được xây dựng ở khắp
Hoàng thành Thăng Long: nơi.
Các chân đế cột bằng đá tạc hình hoa + Đạo giáo tuy không phổ cập
sen, các họa tiết đều được tạo dáng và nhưng hòa lần vào với các tín
bố cụ theo khuôn hình lá đề. Đặc biệt ngưỡng dân gian. Một số đạo quán
những mảnh tháp sứ men trắng trang trí được xây dựng.
hình tiên nữ đang nhảy múa mang đậm - Từ cuối XIV, Phật giáo và Đạo
phong cách nghệ thuật Chămpa -> sự giáo suy dần.
ảnh hưởng của dấu vết Chămpa.
2. Hoạt động 2: (Hoạt động nhóm) II. Giáo dục, văn học, nghệ thuật,
- GV chia lớp thành 4 nhóm phân công khoa học kĩ thuật
nhiệm vụ cho từng nhóm, giao cho HS
tìm hiểu trước ở nhà:
+Nhóm 1: Tìm hiểu về Văn miếu Quốc
107
Tử Giám.
+Nhóm 2: Tìm hiểu, phân tích một số
tác phẩm văn học nổi tiếng thời kỳ này
+Nhóm 3: Tìm hiểu thềm điện Kính
Thiên, sự giao thoa văn hóa giữa Hoàng
thành Thăng Long và các nước trong
khu vực châu Á; đồ gốm sứ;...
+ Nhóm 4: Tìm hiểu về bộ Đại Việt sử
kí toàn thư của Lê Văn Hưu.
- HS các nhóm trao đổi, GV gọi đại diện
lên trình bày.
- GV nhận xét, tổng kết lại.
- Nhóm 1 trình bày, GV nhận xét, tổng 1. Giáo dục
kết. - 1070, Văn Miếu được xây dựng.
- GV cho HS xem các hình ảnh về Văn - 1075, mở khoa thi đầu tiên để
Miếu Quốc Tử Giám và đưa ra nhận tuyển chọn nhân tài
xét: có thể nói triều Lê Thánh Tông là - 1076, xây dựng Quốc tử giám.
thời kỳ phát triển cực thịnh của giáo - Thế kỉ XI-XV, giáo dục Đại Việt
dục, thi cử phong kiến. từng bước hoàn thiện như: tổ chức
các kì thi Hương, Hội, Đình chọn
Tiến sĩ, dựng bia văn Tiến sĩ (1484)
- GV đặt câu hỏi: Theo em, việc dựng - Tác dụng: đào tạo người làm
bia Tiến sĩ có ý nghĩa gì? quan, người tài cho đất nước, nâng
- HS trả lời. cao dân trí, song không tạo điều
kiện cho việc phát triển kinh tế.
- Nhóm 2 trình bày, GV nhận xét, tổng 2.Văn học
kết. - Giáo dục phát triển là điều kiện để
108
văn học phát triển
- Văn học phát triển mạnh từ thời
nhà Trần
- Một số tác phẩm nổi tiếng:
+ Nam quốc sơn hà (Lý Thường
Kiệt)
+ Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi),
+ Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn),
+ Bạch Đằng Giang Phú (Trương
Hán Siêu)… và một số tác phẩm, tác
giả khác.
- Đặc điểm:
+ Chủ yếu viết bằng chữ Hán và chữ
Nôm
+ Thể hiện tinh thần yêu nước, niềm
tự hào dân tộc.
+ Ca ngợi những chiến công oai
hùng, cảnh đẹp của quê hương, đất
nước.
- Nhóm 3 trình bày, GV nhận xét, tổng 3. Nghệ thuật
kết.
- GV cung cấp ảnh và thêm thông tin - Kiến trúc
về kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật sân + Kiến trúc rất phát triển với các
khấu : công trình: Phật giáo (Chùa Một
+ Thềm điện Kính Thiên: Quan sát kiến Cột, chùa Dâu, chùa Phật tích…)
trúc điện Kính Thiên qua các bức ảnh An Nam tứ đại khí: Tháp Báo Thiên,
do người Pháp chụp cuối thế kỉ XIX, Vạc Phổ Minh, Chuông Quy Điền,
chúng ta có thể thấy đây là một kiến tượng phật chùa Quỳnh Lâm.
109
Thành nhà Hồ (cuối XIV) trúc gỗ gồm 2 nếp hình chữ Nhị (二).
Nhà làm kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái - Đặc điểm:
với các góc đao cong. Bờ nóc của cả + Giai đoạn Lý, Trần, Hồ kiến trúc
hai nếp nhà đều đắp nổi đôi rồng chầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo với
mặt trời. Quanh điện có sân rộng được các công trình kiến trúc tiêu biểu:
xây lan can bao cả 4 phía. Dấu tích điện chùa, tháp, đền.
Kính Thiên hiện nay chỉ còn là khu nền + Những công trình ảnh hưởng của
cũ. Nền điện dài 57 mét, rộng 41,5 mét, Nho giáo: cung điện, thành quách (
cao 2,3 mét và thềm bậc xây bằng đá thành Thăng Long)
xanh tạo thành ba lối vào. Phía Nam
nền điện còn có hàng lan can cao hơn
100cm. Mặt trước, hướng chính nam
của điện Kính Thiên là thềm điện xây
bằng những phiến đá hộp lớn bao gồm
10 bậc có 4 rồng đá chia thành 3 lối lên
đều nhau tạo thành Thềm Rồng. Thềm
bậc có kích thước ngang 13,7 mét; dọc
4,45 mét; cao 2,1 mét với đôi rồng đá
khắc chạm năm 1467 là những bộ phận
điêu khắc đá còn tương đối nguyên
vẹn. Rồng đá điện Kính Thiên là một di
sản kiến trúc nghệ thuật, kiệt tác tiêu
biểu thời Lê sơ. Phía bắc của nền điện
còn có một thềm 7 bậc lên xuống nhỏ
hơn so với bậc thềm chính ở phía nam.
Hai bên bậc thềm có 2 rồng đá mang
niên đại Lê Trung Hưng (thế kỉ XVII –
XVIII), than rồng dài 3,4 mét, uốn bảy
110
khúc, than có vẩy, lưng như hàng vây
cá, chân rồng 5 móng. Hai bên lan can
trang trí hoa sen, song, nước, đao, lửa,
vân mây,..
+ Các loại vật liệu xây dựng: các chân - Điêu khắc
đế cột bằng đá tạc hình hoa sen, các + Nhiều tác phẩm điêu khắc mang
họa tiết ngói lợp trang trí hình lá đề, họa tiết hoa văn độc đáo như: mình
hình tượng đạo Phật. Bên cạnh đó còn trơn cuộn trong lá đề, bông cúc
có nhiều loại gạch in hình tháp Phật nhiều cánh, bệ chân cột hình hoa sen
hay những mảnh vỡ của mô hình tháp nở,… nhiều bức phù điêu hình các
Phật bằng đất nung hoặc bằng sứ trắng cô tiên, vũ nữ vừa múa vừa đánh
trang trí hoa sen, tiên nữ. đàn.
+ Sự giao thoa văn hóa: Mảnh tháp sứ + Đặc điểm: Có những công trình
men trắng chạm hình tiên nữ (Apsara) trạm khắc, trang trí ảnh hưởng của
đang say sưa với điệu múa như thực Phật giáo và Nho giáo song vẫn
như hư đã tìm thấy tại các điểm khai mang nét độc đáo riêng.
quật trong khu Trung tâm Hoàng thành
Thăng Long. Đây là loại hình chạm
khắc thường gặp trong Ấn Độ giáo (đạo
Hinđu) và trong các thần thoại Phật
giáo. Bên cạnh đó, còn có những viên
gạch chạm khắc hình ảnh chim thần
(Garuda) được tìm thấy rất nhiều tại các
điểm khai quật trong Hoàng thành
Thăng Long. Garuda là loài chim thần
trong Ấn Độ giáo và sau đó ảnh hưởng
sang Phật giáo Nam tông. Đây là con
vật cưỡi của thần Vishu, có đầu người,
111
mình chim, có đầy đủ chân tay và cánh.
Những viên gạch chạm khắc hình
Garuda trong khu Hoàng thành Thăng
Long cho thấy hình ảnh Garuda đang
nâng trên lưng một góc cung điện (viên - Nghệ thuật sân khấu
gạch góc) với vẻ mặt khá dữ như sẵn + Loại hình: chèo, tuồng, múa rối
sàng xé xác bất cứ kẻ nào dám xâm nước; âm nhạc phát triển với nhiều
phạm tới nơi mà Garuda đang bảo vệ. nhạc cụ như trống cơm, sáo tiêu, đàn
Bên cạnh những viên gạch chạm khắc cầm, đàn tranh, chiêng, cồng, …
hình ảnh Garuda, người ta cũng tìm + Đặc điểm: ca, múa, nhạc mang
thấy rất nhiều mảnh vỡ của bình rượu đậm tính dân gian truyền thống.
có chạm khắc hình ảnh nữ thần chim
(Kinnari) trong các khu khai quật của
Hoàng thành Thăng Long.
- Nhóm 4 trình bày, GV nhận xét, tổng 4. Kho học – kĩ thuật
kết
- Sử học: Bộ Đại Việt sử ký của Lê - GV cung cấp thêm thông tin về bộ Đại
văn Hưu (bộ sử chính thống thời Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu (là
Trần ); Nam Sơn thực lục, Đại Việt cuốn sách chữ Hán lớn chép về các sự
sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên ). kiện lịch sử nước Việt Nam (Quốc sử)
qua các thời đại từ Kinh Dương Vương - Địa lý : Dư địa chí , Hồng Đức bản
đến thời nhà Lê Trung Hưng năm 1675. đồ
Đây là cuốn sử Việt Nam cổ nhất còn
- Quân sự: Binh thư yếu lược, chế tồn tại nguyên vẹn tới ngày nay do
tạo sung thần cơ, đóng thuyền chiến nhiều sử gia từ thời nhà Trần và thời
có lầu, thành nhà Hồ nhà Hậu Lê soạn thảo ra) và câu chuyện
112
về súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng - Toán học: Đại thành toán pháp của (Súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng có Lương Thế Vinh: Lập thành toán đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại
pháp của Vũ Hữu. súng bằng đồng ở những thế kỉ sau này.
Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hay - Chính trị: Thiên Nam dư hạ. bằng đồng. Đạn pháo là mũi tên bằng
sắt lớn. Súng thần cơ có nhiều loại, loại ->Nhận xét: khoa học kĩ thuật phát
nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa chừng triển đa dạng, phong phú nhưng
700m. Khi cuộc kháng chiến của nhà khoa học tự nhiên phát triển hơn
Hồ thất bại, nhà Minh thu được súng khoa học xã hội.
thần cơ. Theo Lê Quý Đôn ghi chép
trong “Vân Đài loại ngữ” thì “quân
Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế
Trừng.”).
3. C ng cố bài học
- GV đặt câu hỏi củng cố bài: Qua những thành tựu văn hoá đã tìm hiểu, em hãy
cho biết ý nghĩa của sự phát triển văn hoá của nước ta từ thế kỉ X – XV đối với
tiến trình lịch sử văn hóa dân tộc là gì? (1- 2 HS trả lời).
- GV nhận xét, tổng kết.
+ Văn hoá thời kì này phát triển mạnh trên nhiều lĩnh vực.
+ Các thành tựu văn hoá được bảo tồn và còn nguyên giá trị cho tới ngày nay.
Một số công trình đã trở thành biểu tượng của thủ đô Hà Nội và của cả đất nước
Việt Nam. Từ đó góp phần lưu giữ lại các giá trị văn hóa dân tộc.
+ Qua những thành tựu văn hoá cho thấy sự sáng tạo, lao động miệt mài của ông
cha ta.
+ Góp phần làm phong phú, đa dạng các nền văn hóa dân tộc nước ta.
113
+ Tạo cơ sở cho văn hóa dân tộc thời kì sau phát triển.
PHỤ LỤC 3
BÀI KIỂM TRA 15 PHÚT
Câu 1. Kể tên 4 tác phẩm- tác giả tiêu biểu trong văn học thế kỉ X-XV?Nêu đặc
điểm của văn học thời kỳ này.
Câu 2: Hoàn thành bảng tìm hiểu về sự phát triển nghệ thuật nước ta thế kỉ X-XV
có liên quan đến Hoàng thành Thăng Long:
Tên
Đặc điểm
Nội dung
Kiến trúc
Điêu khắc
Nghệ thuật
sân khấu
114
Câu 3: Dựa vào các hình ảnh về Hoàng thành Thăng Long cho dưới đây, điền tên sao cho phù hợp: (nguồn: sggp.org.vn)
1…………………………………… 2…………………………………….
3……………………………… 4……………………………………..
Câu 4: Hoàn thành bảng nội dung tìm hiểu sự phát triển của khoa học kĩ thuật ở
nước ta thế kỉ X-XV.
Thành tựu
Lĩnh vực
Sử học
Địa lý
Quân sự
Toán học
Chính trị
115
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ TRANH ẢNH TIÊU BIỂU VỀ
DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
1. Phía trước của Hoàng thành Thăng Long
116
2. Đoan Môn
4. Vật liệu xây dựng và dấu vết Chămpa
Lá đề hình rồng thời Lý – Trần
Ngói úp nóc, mái gắn lá đề trang trí chim phượng thời Lý (thế kỉ XI – XII)
117
3. Đôi rồng đá
Gạch vuông lát nền, trang trí nổi cá sấu bơi trong song nước thời Đại La (thế kỉ VIII – IX)
Một mảnh gạch có chạm khắc hình
tượng chim thần (Garuda)
Đầu chim uyên ương bằng đất nung trang trí trên cung điện thời Lý - Trần.
Viên gạch khắc chữ Chăm
118
(Nguồn: hoangthanhthanglong.vn)
5. Đồ gốm sứ thời Lý – Trần – Lê sơ
Thạp gốm hoa nâu thời Trần (thế kỉ XIII-XIV)
Bát gốm hoa lam, vẽ rồng chân có 5 móng, đồ ngự dụng thời Lê sơ (thế kỉ XV)
Bát gốm đen thời Lý – Trần
119
(Nguồn: hoangthanhthanglong.vn)
120
(Nguồn: hoangthanhthanglong.vn)