ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

LẠI THỊ LAN ANH

SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,

HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

LẠI THỊ LAN ANH

SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,

HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

BỘ MÔN LỊCH SỬ

Mã số: 60 14 01 11

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THANH TÚ

HÀ NỘI - 2016

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm

khoa Sư phạm, các thầy cô trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà

Nội, thầy cô và học sinh trường THPT Nguyễn Bính huyện Vụ Bản, tỉnh Nam

Định đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn

thành luận văn.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Thanh Tú - người đã

tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn. Sự chỉ bảo ân cần

của cô là nguồn động viên giúp em thực hiện đề tài này.

Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, người thân, bạn

bè đồng nghiệp cũng như bạn bè trong nhóm Lý luận và Phương pháp dạy

học bộ môn Lịch sử đã tận tình giúp đỡ, cổ vũ, động viên tác giả trong suốt

quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Do hạn chế về kỹ năng nghiên cứu khoa học của bản thân cũng như

điều kiện khách quan không cho phép nên đề tài không thể tránh khỏi những

thiếu sót. Chính vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và

bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Học viên thực hiện

i

Lại Thị Lan Anh

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

GV : Giáo viên

GS.TSKH : Giáo sư Tiến sĩ khoa học

HS : Học sinh

UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc

NXB : Nhà xuất bản

THPT : Trung học phổ thông

ii

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... ii

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. vi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ................................................................................. vii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................... 5

6. Giả thuyết khoa học .................................................................................... 6

. Đ ng g p c đề tài ..................................................................................... 6

8. Ý nghĩ kho học và thực tiễn c đề tài .................................................. 6

9. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ

DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...................................................... 7

1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 7

1.1.1. Khái niệm về di sản văn hóa ................................................................... 7

1.1.2. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam ................................................ 10

1.1.3. Phân loại di sản ..................................................................................... 11

1.1.4. Vai trò của việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 10 ở trường phổ thông ...................................................................... 14

1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 17

iii

1.2.1. Thực trạng sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử dân tộc ...... 17

1.2.2. Thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học

Lịch sử Việt Nam lớp 10 ................................................................................. 18

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 28

CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG

THÀNH THĂNG LONG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM

LỚP 10 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,

HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..... 29

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung chương trình lịch sử Việt Nam lớp 10

– chương trình chuẩn ở trường Trung học Phổ thông .............................. 29

2.1.1. Vị trí ...................................................................................................... 29

2.1.2. Mục tiêu................................................................................................. 29

2.1.3. Nội dung ................................................................................................ 31

2.2. Khảo sát nguồn tài liệu ở di sản Hoàng Thành Thăng Long cần

và có thể sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường

trung học phổ thông ...................................................................................... 34

2.2.1. Giới thiệu chung về khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng

Long................................................................................................................. 34

2.2.2. Một số nội dung tài liệu ở di sản Hoàng Thành Thăng Long có thể

sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường trung học phổ

thông ................................................................................................................ 38

2.3. Những nguyên tắc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông ............................... 55

2.3.1. Khai thác tính trực quan sinh động của di sản Hoàng thành Thăng

Long................................................................................................................. 55

2.3.2. Đảm bảo tính khoa học, sư phạm .......................................................... 58

2.3.3. Phát huy tính tích cực trong nhận thức của học sinh ............................ 60

2.4. Các biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong

dạy học Lịch sử lớp 10 ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Bính,

iv

huyện Vụ Bản tỉnh N m Định ...................................................................... 62

2.4.1. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng về các

sự kiện lịch sử cơ bản ...................................................................................... 62

2.4.2. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành tổ chức thảo

luận nhóm ........................................................................................................ 69

2.4.3. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành dạy học dự

án ..................................................................................................................... 73

2.5. Thực nghiệm sư phạm ........................................................................... 79

2.5.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 79

2.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ........................................................ 80

2.5.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm ................................................ 80

2.5.4. Phân tích kết quả thực nghiệm .............................................................. 80

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 285

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 287

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88

v

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 .......................................................... 23

Bảng 1.2. Kết quả điều tra học sinh về việc thiết kế các hoạt động học tập

có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long .................................................. 24

Bảng 2.1. Nội dung các tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long có thể

sử dụng trong chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10 .................................... 38

Bảng 2.2. Kết quả thực nghiệm sư phạm ........................................................ 82

Bảng 2.3. Bảng tổng hợp phân loại học sinh theo kết quả điểm kiểm tra

(%) ................................................................................................................... 82

Bảng 2.4. Độ chênh lệch điểm kiểm tra giữa lớp thực nghiệm và lớp đối

vi

chứng ............................................................................................................... 83

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1.1. Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa .............. 21

Biểu đồ 1.2. Biểu đồ đánh giá mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ............... 22

vii

Biểu đồ 2.1: So sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ........... 82

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế hội nhập hiện nay, công tác giáo dục truyền thống lịch sử

dân tộc cho thế hệ trẻ luôn được chú trọng trong các nhà trường phổ thông.

Trong số các môn học đó, Lịch sử có nhiều ưu thế và ý nghĩa quan trọng góp

phần giáo dục thế hệ trẻ theo lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyên

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười

đã nhấn mạnh việc giáo dục lịch sử dân tộc, coi lịch sử là tài liệu giáo khoa số

một trong nhà trường. Tuy nhiên, thực tế việc dạy và học Lịch sử còn có

những hạn chế so với mong đợi của xã hội. Thực tiễn nhiều học sinh không

ham thích hoặc thờ ơ với việc học Lịch sử. Thực trạng này đã và đang gióng

lên hồi chuông báo động và cần có sự thay đổi nhanh chóng nhưng hợp lý,

cẩn trọng đối với việc giảng dạy và học tập môn Lịch sử. Đặc biệt, vấn đề

nâng cao sự hiểu biết của học sinh theo cách tự nhiên nhất nhưng phải hấp

dẫn, đưa người học vào tâm thế chủ động, sáng tạo còn chưa thực sự phát huy

hiệu quả. Chính vì vậy, chúng ta cần có những bước cải tiến và đổi mới nội

dung và phương pháp dạy học bộ môn mang tính cấp bách. Quá trình này

được tiến hành thường xuyên, đồng bộ, trong đó cần tăng cường sử dụng các

tài liệu trực quan. Một trong số đó chính là sử dụng di sản văn hóa. Đây

không chỉ là một loại tài liệu lịch sử vật chất quý hiếm, một bằng chứng khoa

học, trung thực về quá khứ mà còn là một loại tư liệu dạy học bộ môn đem lại

hiệu quả cao.

Đầu năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa Thể thao đã có

văn bản hướng dẫn về việc sử dụng di sản văn hóa vào dạy học, được thực

hiện thí điểm tại 7 địa phương: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Giang,

Phú Thọ, Quảng Ninh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam với ba môn Lịch sử,

Địa và Âm nhạc. Tại Hội thảo “Chương trình giáo dục di sản trong nhà

trường tại Việt Nam” diễn ra vào ngày 07/03/2012 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ

1

Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh: “Giáo dục di sản đã và

đang từng bước trở thành yêu cầu, nhiệm vụ, động lực đối với các trường phổ

thông, góp phần quan trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và nâng cao

chất lượng giáo dục toàn diện ở Việt Nam” [29, tr. 161].

Các nước trên thế giới ngày càng chú trọng đến công tác khai thác và

sử dụng di sản văn hóa vào nhiều lĩnh vực. Với chiều dài lịch sử đấu tranh

anh hùng, Việt Nam có nhiều loại di sản khác nhau và đem lại hiệu quả giáo

dục. Một trong số đó, khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long được công

nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 2009 là nguồn tài liệu rất quan trọng.

Khu di sản bao gồm Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và Trục chính tâm

Hoàng thành Thăng Long đã tạo nên một quần thể thống nhất, có giá trị về

lịch sử bởi đây từng là Kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XII đến thế kỉ

XVIII. Vì vậy, vấn đề này là đề tài của nhiều công trình khoa học của nhiều

tác giả trong và ngoài nước. Nhiều khía cạnh khác của vấn đề được đề cập và

giải quyết. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong nước còn hạn chế về vấn đề

của luận văn ở lĩnh vực phương pháp dạy học lịch sử, cụ thể là phương pháp

sử dụng di sản trong dạy học Lịch sử ở trường THPT.

Với những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam Lớp 10 trường

trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định ” nhằm đề

xuất các biện pháp sử dụng nguồn tài liệu quý giá này theo hướng dạy học đổi

mới, sáng tạo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường THPT

và góp phần vào các nghiên cứu về bộ môn phương pháp dạy học Lịch sử.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Việc nghiên cứu vấn đề về di sản Hoàng thành Thăng Long dưới nhiều

góc độ khác nhau đã được giải quyết trong nhiều công trình khoa học trong và

ngoài nước. Với phạm vi và tính chất của đề tài chúng tôi tập trung tìm hiểu

hai vấn đề lớn như sau:

2

- Vị trí và ý nghĩa của di sản Hoàng thành Thăng Long:

Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập cụ thể và chi tiết về khu

Trung tâm Hoàng thành Thăng Long. Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu

như: “Những hiểu biết mới về thành Thăng Long” của Đỗ Văn Ninh đăng trên

tạp chí Khảo cổ học (2004 - số 4, tr. 21-35). Bài viết cung cấp thêm những

thông tin về các đợt khai quật khảo cổ học gần nhất trong khu Hoàng thành

Thăng Long, giúp độc giả có thêm cứ liệu để truy tìm vị trí Hoàng thành thủa

ban đầu. Trên cơ sở các hiện vật khảo cổ học và việc phát lộ khu di tích

Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu, tác giả Nguyễn Quang Ngọc trên

tạp chí Nghiên cứu lịch sử (2005 - Số 2. tr. 10-15) bàn về phạm vi, vị trí của

Hoàng thành và Cung thành ở các triều đại Lý - Trần – Lê. Tác giả Nguyễn

Thừa Hỷ trong: “Thăng Long Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII – XIX” (Hội Sử học

Việt Nam năm 1993) đã trình bày nghiên cứu toàn diện về kinh tế, chính trị

và xã hội của Thăng Long Hà Nội xưa, góp phần tạo dựng lại lịch sử của

chính bản thân nó và cũng để hiểu thêm về cấu trúc đô thị trong những thế kỷ

qua. Đặc biệt, nhiều kết quả khai quật Khảo cổ học khu Trung tâm Hoàng

thành Thăng Long đã đoàn khai quật báo cáo chi tiết trong Hội nghị thông

báo Khảo cổ học lần thứ 50 (từ ngày 16 đến 18 tháng 9 năm 2015) diễn ra tại

thành phố Huế. Bên cạnh đó, nhiều đầu sách đề cập tới sự hiện diện của

Hoàng thành Thăng Long trong lịch sử dân tộc như: Lâm Thị Mỹ Dung,

Nguyễn Gia Đối, Nguyễn Ngọc Thơ với “Di sản lịch sử và những hướng tiếp

cận mới”, Nxb Thế giới, 2011; Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh: “Thế giới biểu

tượng trong di sản văn hóa Thăng Long – Hà Nội”, Nxb Hà Nội, 2011; Bùi

Đẹp với: “Di sản thế giới tại Việt Nam”, tập 1, Nxb Trẻ - thành phố Hồ Chí

Minh, 2012.

- Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử:

Các công trình nghiên cứu của tâm lý học, giáo dục học như: “Tư duy

học sinh”, (1982) của Sácđacốp, Nxb Giáo dục, Hà Nội; “Phát triển tư duy

học sinh”, (1976) của M.A.Lexeep, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Phan Ngọc Liên

3

(cb), (2009), Phương pháp dạy học Lịch sử, tập 1, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà

Nội; Nguyễn Thị Côi, (2008), Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả

dạy học lịch sử ở trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội; Phan

Ngọc Liên, Trần Văn Trị (cb), (2004), Phương pháp dạy học Lịch sử, Nxb

Giáo dục, Hà Nội… đã trình bày những cơ sở lý luận dạy học, nhất là việc sử

dụng các phương tiện trực quan và vai trò của nó trong dạy học.

Các công trình về lý luận dạy học lịch sử đề cập tới việc dạy học lịch sử

sử dụng di sản, di tích trong nhà trường phổ thông như: “Chuẩn bị giờ học

lịch sử như thế nào?” của N.G.Đairi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001; Nguyễn

Văn Huy, Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa, Quy trình

giáo dục trải nghiệm di sản trong nhà trường; Trần Thị Thu Thủy, Nguyễn

Xuân Trường, Nguyễn Đức Tăng (2004), Các bước xây dựng kế hoạch dạy

học có sử dụng di sản văn hóa phi vật thể, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Hoàng

Thanh Hải với Di tích lịch sử và việc giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông

trên Tạp chí Xưa và Nay (tháng 4/1996, tr.6-7). Ngoài ra, còn nhiều bài viết

đăng trên các tạp chí chuyên ngành: Dạy và Học ngày nay, tạp chí Nghiên

cứu Giáo dục, Xưa và Nay… và một số báo cáo khoa học trong các hội thảo

khoa học. Đây thực sự là những nguồn tài liệu tham khảo quý giá giúp tác giả

có những gợi ý giải quyết vấn đề của đề tài đặt ra.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Quá trình sử dụng di sản trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam (lớp 10

– chương trình chuẩn) ở trường THPT nói chung, trường THPT Nguyễn Bính,

huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định nói riêng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về hình thức tổ chức dạy học: tập trung vào bài học nội khóa.

Về phạm vi điều tra, khảo sát thực trạng và thực nghiệm: tiến hành tại

lớp 10, trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4

4.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di sản Hoàng

thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10, luận văn xác định

rõ những nguyên tắc, đặc điểm của phương tiện trực quan này, đồng thời đề

xuất các biện pháp sử dụng di sản trong bài dạy phù hợp với đặc điểm học

sinh THPT nói chung, học sinh trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản

tỉnh Nam Định nói riêng.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc sử dụng di sản và những yêu cầu cần

thiết khi sử dụng di sản vào dạy học môn Lịch sử.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng di sản nói chung, sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long nói riêng trong dạy học môn Lịch sử.

- Nghiên cứu nội dung phần Lịch sử Việt Nam lớp 10 sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long và định hướng biện pháp sử dụng di sản theo hướng

dạy học tích cực.

- Tiến hành thực nghiệm, làm cơ sở cho việc rút ra các kết luận khoa

học, đóng góp vào sự phát triển của lý luận và phương pháp dạy học Lịch sử.

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta về lịch sử, giáo dục.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu lí thuyết: đọc và phân tích, tổng hợp tài liệu sách báo, tạp

chí, internet… về tâm lý học, giáo dục học, phương pháp dạy học Lịch sử;

phân tích nội dung chương trình, sách giáo khoa lớp 10.

- Nghiên cứu thực tiễn: quan sát, dự giờ, trao đổi với giáo viên, học sinh,

điều tra xã hội học để đánh giá hiểu biết về di sản nói chung và thực trạng sử

dụng di sản Hoàng thành Thăng Long nói riêng trong dạy học Lịch sử ở

trường THPT; Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra, đối chứng kết quả

5

nghiên cứu của luận văn.

6. Giả thuyết khoa học

Nếu giáo viên sử dụng di sản văn hóa nói chung và di sản Hoàng thành

Thăng Long nói riêng trong dạy học Lịch sử theo hướng dạy học tích cực sẽ

đáp ứng được mục tiêu dạy học lịch sử, đặc biệt dạy học phần Lịch sử Việt

Nam (lớp 10 - chương trình chuẩn) và góp phần nâng cao chất lượng dạy học

môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay.

7. Đ ng g p c đề tài

Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần:

- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của việc sử dụng di sản trong

dạy học Lịch sử ở trường Trung học phổ thông.

- Đánh giá được thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long.

- Đề xuất biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long theo

hướng dạy học tích cực.

8. Ý nghĩ khoa học và thực tiễn c đề tài

- Ý nghĩa khoa học: làm phong phú thêm lí luận phương pháp dạy học

môn Lịch sử nói chung và vấn đề sử dụng di sản trong dạy học lịch sử ở

trường THPT nói riêng.

- Ý nghĩa thực tiễn: là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các

trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, Đại học Giáo dục; giáo viên bộ môn Lịch

sử và bản thân tác giả luận văn vận dụng trong quá trình dạy học Lịch sử ở

trường THPT.

9. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng di sản Hoàng

thành Thăng Long trong dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông.

Chương 2: Các biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản

6

tỉnh Nam Định. Thực nghiệm sư phạm.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG

DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG TRONG DẠY HỌC

MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Khái niệm về di sản văn hóa

 Khái niệm văn hóa

Trên dải đất hình chữ S, 54 dân tộc đã góp vào nền văn hóa chung một

màu sắc độc đáo tạo nên một bức tranh về văn hóa Việt Nam phong phú và đa

dạng. Con người ra đời, trưởng thành là nhờ văn hóa, hướng tới tương lai

cũng từ văn hóa. Giá trị văn hóa của một dân tộc thể hiện bản sắc của dân tộc

ấy. Những giá trị văn hóa của con người là thước đo trình độ phát triển và thể

hiện đặc tính riêng của mỗi dân tộc.

Tuy được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái

niệm văn hóa bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính (theo Trần Ngọc

Thêm): theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng:

Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều

rộng, theo không gian hoặc theo thời gian. Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa

được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó như nếp sống văn hóa, văn hóa

nghệ thuật,.. Giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị

đặc thù của từng vùng văn hóa trên dải đất hình chữ S này. Giới hạn theo

không gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn như

văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn,...

Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem bao gồm tất cả những gì

do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ

sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát

minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,

nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các

phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn

7

hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu

hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm đáp ứng những nhu cầu đời

sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [24, tr. 431]. Federico Mayor, Tổng giám đốc

UNESCO cho biết đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác

tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác,

văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác,

từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập

quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế

chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa, họp tại

Venise năm 1970.

Trong lĩnh vực này, khởi đầu định nghĩa của E.B.Tylor trong cuốn Văn

hóa nguyên thủy (Primitive culture) xuất bản ở London năm 1871, đến nay đã

có nhiều định nghĩa khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà Nhân học người Mỹ là

A.Kroeber và C.Kluchkhohn đã viết một cuốn sách chuyên bàn về các định

nghĩa văn hóa với tựa đề Văn hóa – tổng luận phê phán các quan niệm và

định nghĩa, trong đó đã dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Trong

lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này, số định nghĩa văn hóa đã tăng lên đến

trên 200 định nghĩa. Còn hiện nay thì số lượng định nghĩa văn hóa chưa được

khẳng định chính xác.

Tóm lại, dù số lượng định nghĩa văn hóa có nhiều nhưng tựu chung lại,

văn hóa mà theo E.B.Tylor định nghĩa văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng

về tộc người, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật

pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm

lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội.

Với cách hiểu trên cùng những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là

ranh giới giúp con người có điểm khác biệt với các loài động vật khác. Văn

hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người

sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.

8

 Khái niệm di sản

Theo nghĩa Hán Việt: di là để lại, sản là tài sản. Di sản văn hóa là

những công trình văn hóa những tài sản văn hóa nổi tiếng của người xưa để

lại cho đời sau, biểu trưng cho nền văn minh lúc bấy giờ.

Di sản văn hóa là toàn bộ sản phẩm sáng tạo của con người hàm chứa

những giá trị về chân – thiện – mỹ, thể hiện dưới dạng biểu tượng và được

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Di sản đi liền với văn hóa nên cũng

mang những đặc trưng của văn hóa, nhưng bản thân nó còn chứa đựng cả vốn

kinh nghiệm, tri thức của loài người. Di sản văn hóa mang dấu ấn thời gian, là

vật chứng cho mỗi sự kiện, mỗi nhân vật hay thời kỳ lịch sử nhất định.

Di sản văn hóa là toàn bộ tạo phẩm, chứa đựng trong nó những giá trị

mà con người đã tích lũy được trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, là

thành tựu của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.

Theo Công ước Di sản thế giới thì di sản văn hóa là:

+ Các di tích: các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa,

các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở trong hang

đá và các công trình sự kết hợp giữa công trình xây dựng tách biệt hay liên

kết với nhau mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí trong

cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật

và khảo học.

+ Các di chỉ: các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác phẩm có

sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo, các khu vực trong đó có các di chỉ

khảo cổ học có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mĩ,

dân tộc học hoặc nhân chủng học.

Tóm lại, theo Luật Di sản văn hóa quy định, di sản văn hóa bao gồm di

sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật

chất có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này

9

sang thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1.1.2. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam

Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn

hóa của cộng đồng 54 dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao

truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn

hóa Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hóa, là tài sản quý giá của cộng đồng

các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản

văn hóa Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước

của nhân dân ta.

Căn cứ vào nguồn tài liệu lưu trữ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,

cả nước ta hiện có 40.000 di tích Lịch sử - văn hóa. Trong đó, Bộ Văn hóa

Thể thao và Du lịch, đã xếp hạng 3152 di tích có giá trị quốc gia, gồm 1468 di

tích Lịch sử - văn hóa; 1478 di tích kiến trúc – nghệ thuật; 77 di tích khảo cổ;

129 danh lam thắng cảnh.

Căn cứ vào điểm 3, điều 29, chương IV – Bảo vệ và phát huy giá trị di

sản văn hóa vật thể. Mục 1: Di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, theo

đề nghị của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch và văn bản thẩm định của Hội Di

sản văn hóa Quốc gia, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định xếp hạng có 23 di

tích quốc gia đặc biệt; đồng thời cũng đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và

Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) xem xét, đưa di tích tiêu biểu của

Việt Nam vào Danh mục di sản thiên nhiên, di sản văn hóa vật thể tiêu biểu của

nhân loại. Dưới đây là 7 di sản văn hóa được tổ chức UNESCO công nhận:

- Năm 1994, UNESCO đã chính thức công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản

thiên nhiên thế giới bởi giá trị ngoại hạng về mặt cảnh quan. Năm 2000, vịnh

Hạ Long tiếp tục được UNESCO công nhận lần thứ hai là Di sản địa chất thế

giới vì những giá trị độc đáo về địa chất, địa mạo.

- Năm 2003, vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã được UNESCO

công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với hệ thống hang động giá trị hàng

đầu thế giới với bốn điểm nhất: có sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và

10

rộng nhất, có những bờ cát rộng và đẹp nhất, có những thạch nhũ đẹp nhất.

Bên cạnh đó còn có 5 di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được ghi

danh vào Danh mục Di sản văn hóa nhân loại:

- Quần thể các công trình kiến trúc cố đô Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên –

Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1993. Quần thể có diện

tích hơn 500 ha cùng hệ thống những đền, chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến

trúc nguy nga tráng lệ gắn liền với cảnh quan thiên nhiên núi sông bao quanh.

- Khu phố cổ Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, được hình thành từ thế kỷ

16 – 17 và là một thương cảng của miền Trung. Năm 1999, phố cổ Hội An đã

được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Hiện nay, đây được coi

là một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị thời phong kiến.

- Khu di tích Mỹ Sơn là khu vực đền tháp của người Chăm cổ, thuộc xã

Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng

68km về hướng Tây – Tây Nam. Với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong

cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu của dân tộc Chăm. Đây được coi là một

trong những trung tâm đền đài chính của Đạo Hinđu ở khu vực Đông Nam Á,

và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Năm 1999, khu di tích Mỹ

Sơn được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.

- Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội được công nhận là

di sản văn hóa thế giới vào đúng dịp mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà

Nội (2010).

- Thành nhà Hồ được coi là thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và

là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27 tháng 6 năm 2011, tại Paris

(Pháp), trong kỳ họp lần thứ 35 của Uỷ ban Di sản thế giới, UNESCO đã

công nhận thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.

1.1.3. Phân loại di sản

Toàn bộ Di sản thế giới được tổ chức UNESCO chia thành 3 nhóm: Di

sản văn hóa (nhân tạo); Di sản thiên nhiên thế giới (thiên tạo) và Di sản hỗn

hợp (kết hợp giữa thiên tạo và nhân tạo). Trong đó, di sản văn hóa được phân

11

chia thành hai loại là Di sản văn hóa vật thể và Di sản văn hóa phi vật thể.

1. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng

hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn

hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và

được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền

nghề, trình diễn và các hình thức khác. Theo UNESCO, có thể xếp văn hóa

phi vật thể thành 14 loại hình như sau:

a. Ngôn ngữ

b. Lịch sử truyền miệng

c. Nghi lễ và tôn giáo truyền thống

d. Các hình ảnh, biểu tượng thiêng

e. Các loại thiết kế (không mang tính chất thiêng), ngành nghề thủ công

truyền thống

f. Âm nhạc truyền thống

g. Múa truyền thống

h. Ẩm thực

i. Kỹ năng săn bắn thú (khả năng nhận biết hơi thú, bắt chước tiếng

kêu của con vật, đánh bắt cá,...)

j. Các phương pháp tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên truyền thống

k. Kiến thức về thiên văn học, về y học cổ truyền

l. Các phương pháp truyền thống giữa các thế hệ trong cộng đồng.

Các loại hình kể trên được dựa theo cách phân loại của Prott, Lyndel,

Some Considerations on the protection of the Intangible Heritage: Claims and

Remedies (Một vài quan điểm về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể: Yêu cầu

và giải pháp). Tuy nhiên, các hình thức kể trên chưa bao trùm toàn bộ các di

sản văn hóa phi vật thể của loài người. Song dựa vào các tiêu chí trên, mỗi

quốc gia có thể ra các bảo tồn, cách truyền dạy tài sản vô giá cho các thế hệ

kế tiếp. Đối với Việt Nam, theo Luật Di sản văn hóa, chúng ta đang bảo tồn,

phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể sau đây:

12

a. Tiếng nói, chữ viết

b. Nghệ thuật trình diễn dân gian

c. Tập quán xã hội và tín ngưỡng truyền thống, tri thức dân gian

d. Ẩm thực truyền thống...”

2. “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn

hóa, khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam – thắng cảnh và di

vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Theo đó:

- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật,

cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa,

khoa học.

- Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết

hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị Lịch sử,

thẩm mỹ, khoa học.

- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn

hóa, khoa học có từ 100 năm tuổi trở lên.

- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị đặc biệt quý

hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học” [23, tr. 31].

Thực tế, sự phân chia giá trị di sản văn hóa thành phi vật thể và vật thể

chỉ có ý nghĩa tương đối. Theo Lưu Trần Tiêu cho rằng: “... sự phân chia

thành văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể theo dạng tồn tại của sản phẩm

sáng tạo chỉ có tính chất tương đối. Bởi lẽ dưới cái lớp vỏ vật chất của sản

phẩm văn hóa chứa đựng giá trị về năng lực sáng tạo, về thẩm mỹ, về ý nghĩa

và nội dung thể hiện gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan của một cộng

đồng. Chẳng hạn, kiến trúc của ngôi đình làng với đồ thờ tự là sản phẩm văn

hóa vật thể, nhưng còn bao nhiêu giá trị văn hóa khác của một đình làng

(công đức của người được tôn vinh là Thành hoàng làng, giá trị thẩm mỹ, ý

nghĩa phản ánh qua kiến trúc và những mảng trang trí, cũng như mối quan hệ

giữa chúng với môi trường cảnh quan xung quanh, những hội hè, những quy

tắc về tập tục sinh hoạt đình làng,...) lại là cái hồn, cái bản chất gắn kết không

13

thể tách rời khỏi cái đình làng vật thể. Hay bản thân cơ thể người nghệ nhân

là vật thể nhưng óc thẩm mỹ, tài năng sáng tạo, sự khéo léo và tinh tế, những

kinh nghiệm và bí quyết hành nghề... khiến họ tạo ra được những sản phẩm

văn hóa tuyệt vời tồn tại dưới dạng phi vật thể. Thế thì làm sao có thể tách rời

nhau được” [27, tr. 661-662].

Như vậy, các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có mối liên hệ

chặt chẽ, bản thân chúng đã hòa quyện với nhau tạo nên một chuỗi di sản quý

giá và thế hệ kế tiếp có trách nhiệm gìn giữ và phát triển. Giáo dục sử dụng di

sản văn hóa (bao gồm vật thể và phi vật thể), di sản thiên nhiên, trong đó bao

hàm cả giáo dục truyền thống. Theo Nguyễn Văn Huy – Uỷ viên Hội đồng Di

sản văn hóa quốc gia, giáo dục di sản văn hóa chính là giáo dục về những di

sản xung quanh chúng ta, các di sản xung quanh trường học. Hiện nay giáo

dục nói chung và giáo dục Lịch sử nói riêng có nhiều nghĩa mở rộng so với

giáo dục truyền thống.

1.1.4. Vai trò của việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 10 ở trường phổ thông

Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc giáo dục truyền thống

hướng cho thế hệ trẻ tới sự phát triển năng lực một cách tự nhiên, chủ động và

sáng tạo. Lứa tuổi trung học phổ thông là đối tượng rất cần có sự định hướng

rõ ràng để xác định ngành nghề trong tương lai. Để thực hiện điều này, bản

thân mỗi nhà giáo dục cần từng bước đổi mới phương thức giáo dục truyền

thống để phù hợp với tâm lí và nhu cầu của các em. Tại Hội thảo “Chương

trình giáo dục di sản trong nhà trường tại Việt Nam”, Thứ trưởng Nguyễn

Vinh Hiển đã nhấn mạnh rằng giáo dục di sản đã và đang từng bước trở thành

yêu cầu, nhiệm vụ và động lực đối với các trường phổ thông, góp phần quan

trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục

toàn diện ở Việt Nam.

Trước hết, mục đích hướng tới của việc giáo dục di sản là nhằm hình

thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị của di

14

sản văn hóa, rèn luyện tính chủ động sáng tạo trong đổi mới phương pháp

học tập. Hơn thế nữa, việc sử dụng di sản văn hóa tác động đến tư tưởng, tình

cảm của học sinh. Thông qua di sản dù là vật thật hay qua phim, ảnh, tranh,

vẽ,... được thầy cô sử dụng trong bài dạy đều góp phần nâng cao tính trực

quan, giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận đối tượng liên quan tới bài

học tồn tại trong di sản. Di sản văn hóa cũng là phương tiện quan trọng giúp

học sinh rèn một số kỹ năng học tập như: kỹ năng quan sát, thu thập, xử lý

thông tin,... qua đó tự chiếm lĩnh kiến thức cần thiết thu được trong quá trình

tiếp cận với di sản. Đồng thời, còn là sự vận dụng kiến thức liên môn để giải

thích những hiện tượng, sự vật có trong các di sản văn hóa. Thông qua

phương pháp sử dụng di sản trong dạy học sẽ làm cho những giá trị về văn

hóa, lịch sử, khoa học khởi sắc và có thể truyền cảm hứng cho các em. Điều

này giúp học sinh không chỉ hiểu về di sản theo nghĩa rộng mà còn giúp các

em tư duy sâu hơn về các giá trị truyền thống, tác động trực tiếp đến tình cảm,

đạo đức và hình thành nhân cách.

Thứ hai, theo định hướng của Bộ giáo dục và Đào tạo, phương pháp

dạy học hiện nay chuyển từ dạy học thụ động sang dạy học phát huy tính chủ

động sáng tạo của học sinh làm chuyển biến vị trí người học từ thụ động sang

chủ động. Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học bộ môn là một phương

pháp không mới, đây là sự kết hợp giữa yếu tố dạy học truyền thống và hiện

đại. Do đặc thù bộ môn lịch sử nên khi giáo viên sử dụng các di sản để tăng

sự tin cậy đối với các sự kiện quá khứ là điều tất yếu. Di sản văn hóa cũng

mang đặc điểm rất phù hợp với yêu cầu của bộ môn qua các hiện vật mang

tính chính xác, cụ thể, phong phú mà nó xuất hiện tại các sự kiện. Đây là loại

tài liệu học sinh cần được tiếp xúc và giúp các em thoát khỏi tình trạng “hiện

đại hóa lịch sử”. Việc sử dụng di sản còn giúp học sinh có thêm cơ sở vững

chắc để nắm vững bản chất các sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy

luật, bài học quan trọng của lịch sử, bước đầu đặt nền tảng cho học sinh thói

15

quen nghiên cứu khoa học.

Thứ ba, việc sử dụng tài liệu di sản Hoàng thành Thăng Long trong

dạy học lịch sử còn có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa giáo dục. Căn cứ vào Luật di

sản văn hóa (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009), di sản văn hóa Việt Nam là

tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di

sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ

nước của nhân dân ta. Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, hầu hết

các sự kiện lịch sử trọng đại đều diễn ra trên mảnh đất Thăng Long. Hơn thế

nữa, trải qua gần 13 thế kỷ, Hoàng thành Thăng Long vẫn tồn tại như một

chứng nhân lịch sử khiến cho cả dân tộc Việt Nam thêm tự hào. Chính vì vậy,

đặt ra yêu cầu sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử

Việt Nam lớp 10 ở trường THPT với các hoạt động học tập đa dạng, phong

phú.

Với các chức năng chính trị và vai trò mang tính biểu tượng của mình,

Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội có liên quan trực tiếp tới rất nhiều sự kiện

văn hóa và lịch sử quan trọng, những biểu đạt nghệ thuật cũng như các tư

tưởng luân lý, triết học và tôn giáo. Các sự kiện diễn ra liên tiếp đánh dấu quá

trình hình thành và phát triển của một quốc gia độc lập trong suốt hơn một

ngàn năm, bao gồm cả thời kỳ thuộc địa và hai cuộc chiến tranh giành độc lập

và thống nhất Việt Nam thời hiện đại. Vua Lý Thái Tổ dời đô tới Thăng Long

là một bước tiến không thể thiếu trong sự nghiệp củng cố nền độc lập của dân

tộc Việt. Việc lựa chọn địa điểm thành Đại La của chế độ cũ làm nơi xây

dựng kinh đô Thăng Long của quốc gia mới độc lập có ý nghĩa khẳng định

chủ quyền và quyền độc lập tự chủ của nhân dân ta. Trong suốt chiều dài lịch

sử, qua quá trình xây dựng và phát triển kinh đô Thăng Long – Hà Nội, ý

nghĩa biểu tượng này không bao giờ bị lãng quên. Những sự kiện lịch sử

trọng đại đều để lại dấu ấn trong khu di sản. Kể từ cuộc chiến giành quyền tự

chủ dưới sự cai trị của chính quyền phương Bắc đến những ảnh hưởng của tư

tưởng, tôn giáo đều dần khẳng định ý thức dân tộc sâu sắc. Đặc biệt, Nho giáo

16

có ảnh hưởng rất rõ đến hình thái quy hoạch và kiến trúc Thăng Long thời kỳ

này. Những tiếp xúc và giao thoa văn hóa Đông – Tây, những cuộc đấu tranh

giành quyền lực thời thuộc địa cũng đã để lại dấu ấn đậm nét trong khu di sản.

Với những giá trị tiêu biểu của mình, Hoàng thành Thăng Long là minh

chứng cho 10 thế kỷ giao lưu và giao thoa văn hóa từ khắp nơi châu Á.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Thực trạng sử dụng di sản văn hóa trong dạy học Lịch sử dân tộc

Căn cứ vào thực trạng dạy và học lịch sử hiện nay của nước ta cho thấy

còn nhiều vấn đề đặt ra đối với cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và chính

bản thân học sinh. Theo thống kê của Bộ giáo dục và Đào tạo cho thấy, tại kỳ

thi Trung học phổ thông Quốc gia năm 2015 chỉ 15,3% học sinh đăng ký môn

Lịch sử, thấp nhất trong số các môn tự chọn của kỳ thi. Có rất nhiều trường

không có thí sinh nào đăng kí môn Lịch sử. Vì vậy, tình trạng này có thể lặp

lại trong rất nhiều năm tiếp theo nếu chúng ta không có sự thay đổi tích cực từ

nhiều phía. Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, kỳ thi trung học phổ thông

Quốc gia 2016, Hà Nội có 76,137 thí sinh đăng ký tham gia dự thi, trong đó

môn Lịch sử có lượng thí sinh đăng ký thấp nhất với 8,954 học sinh (chiếm

gần 12% trên tổng số thí sinh đăng ký dự thi). Rất nhiều điểm thi ”trắng” thí

sinh dự thi môn Lịch sử như trường THPT Bắc Thăng Long, THPT Đông

Anh (Đông Anh), THPT Đa Phúc (Sóc Sơn), THPT Quang Minh (Mê Linh)

không có thí sinh dự thi Lịch sử. Còn Phòng khảo thí và kiểm định chất

lượng, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh công bố số liệu đăng

ký dự thi THPT Quốc gia 2016 là 55,615 học sinh. Trong đó, số thí sinh lựa

chọn môn Lịch sử chỉ có 3,908 học sinh trên tổng số.

Để cải thiện tình trạng trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những định

hướng thay đổi, đột phá về cấu trúc câu hỏi, hướng tới cách kiểm tra – đánh

giá theo hướng hạn chế việc học lý thuyết, nặng về tái hiện kiến thức. Thay

vào đó là sự phát huy sức sáng tạo của mỗi cá nhân bằng cách xây dựng phần

tự luận dạng đề mở nhằm buộc học sinh đưa ra ý kiến, quan điểm của học

17

sinh về nhân vật, sự kiện, biến cố lịch sử. Theo đánh giá của các giáo viên bộ

môn Lịch sử, đề thi Quốc gia 2016 không nặng về kiến thức, có cả câu hỏi mở

liên hệ thực tế nên thí sinh không thể học tủ, không được điểm cao nếu không

biết tư duy, liên hệ. Nhận xét về đề thi, cô Hứa Hoa Mai, giáo viên Lịch sử

trường THPT Lê Viết Thuật thành phố Vinh – Nghệ An cho biết: đề thi năm

nay phần kiến thức bám sát trong sách giáo khoa, trải rộng kiến thức trong

suốt chương trình đòi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức tổng thể chứ

không phải một vấn đề, không thể học tủ. Mặt khác, đề thi đi theo hướng phân

tích khái quát, khuyến khích thí sinh phát huy ý kiến cá nhân và có ý nghĩa

đối với thế hệ trẻ. Khả năng phân loại thí sinh cao.

Dạy học sử dụng di sản văn hóa chưa từng là một phương pháp mới mẻ

đối với giáo viên song thực tế lại chưa được sử dụng rộng rãi và có định

hướng rõ ràng. Ngày 28 tháng 6 năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối

hợp với Hiệp hội UNESCO của Việt Nam tổ chức Hội thảo (cấp chuyên gia)

với chủ đề: “Dạy học thông qua di sản”. Tại hội thảo, Vụ giáo dục Trung học

của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình bày bản dự thảo: “Đề cương tài liệu

hướng dẫn dạy học thông qua di sản”. Kết cấu đề cương gồm có 3 phần: 1) Dạy

học thông qua di sản; 2) Những yêu cầu đối với việc dạy học thông qua di sản;

3) Nội dung, phương pháp và hình thức dạy học thông qua di sản. Căn cứ vào

bản đề cương nói trên, giáo viên có thể đưa ra những định hướng rõ ràng, thay

đổi cách nhìn nhận của học sinh đối với những sự kiện quá khứ thông qua các

hiện vật còn tồn tại bên trong di sản. Hơn thế nữa, các di sản văn hóa, dù là vật

thật hay qua phim ảnh, tranh vẽ,.. nếu được sử dụng trong dạy học đều góp

phần nâng cao tính trực quan, giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận với

đối tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản.

1.2.2. Thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học

Lịch sử Việt Nam lớp 10

Thực tiễn dạy học Lịch sử đã một phần được thể hiện rõ qua kết quả mỗi

kỳ thi THPT Quốc gia. Đó là thực trạng đáng báo động đối với bộ môn, hơn hết,

18

việc thay đổi phương pháp giáo dục là cần thiết. Một bộ phận giới trẻ hiện nay

không am hiểu về lịch sử văn hóa dân tộc đã trở thành nỗi trăn trở của những

người làm công tác giáo dục. Để hạn chế tình trạng này, việc đưa giáo dục thông

qua di sản vào chương trình chính là cách bồi dưỡng tình yêu quê hương đất

nước cho học sinh. Bên cạnh đó, điểm mạnh của việc sử dụng di sản văn hóa

chính là đặt học sinh vào chính sự kiện, học sinh phải là chủ thể tích cực trong

quá trình sử dụng di sản trong giờ học và các hoạt động giáo dục.

1.2.2.1. Nội dung khảo sát

Để tổ chức điều tra thực trạng sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT, chúng tôi đã tập

trung khảo sát dựa trên các tiêu chí sau:

 Về phía giáo viên

+ Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa.

+ Quan niệm của giáo viên về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong dạy

học môn Lịch sử.

+ Đánh giá của giáo viên về mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường

THPT.

+ Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy

học Lịch sử Việt Nam lớp 10.

+ Cách thức giáo viên thiết kế các hoạt động học tập có sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long.

+ Hiệu quả đạt được khi giáo viên sử dụng các hoạt động học tập có sử

dụng di sản Hoàng thành Thăng Long.

+ Những cách thức mà giáo viên sử dụng để kiểm tra, đánh giá kết quả

học tập khi sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học của học sinh.

+ Những khó khăn mà giáo viên gặp phải ở trường Trung học phổ

thông khi sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 10.

19

+ Nguồn thông tin để tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long.

 Về phía học sinh

+ Quan niệm của học sinh về khái niệm di sản văn hóa.

+ Quan niệm của học sinh về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong dạy

học môn Lịch sử.

+ Đánh giá của học sinh về mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản Hoàng

thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT.

+ Cách thức giáo viên thiết kế các hoạt động học tập có sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long.

+ Mức độ hứng thú của học sinh khi giáo viên sử dụng các hoạt động

học tập có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long.

+ Những cách thức mà giáo viên sử dụng để kiểm tra, đánh giá kết quả

học tập khi sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học của học sinh.

+ Những khó khăn mà học sinh gặp phải ở trường THPT khi tìm hiểu

nguồn tài liệu của di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 10.

+ Nguồn thông tin để tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long.

Việc điều tra tiến hành thông qua bộ phiếu hỏi và phỏng vấn giáo viên

cũng như học sinh. Chúng tôi đã tiến hành tổ chức điều tra với 10 phiếu điều

tra giáo viên Lịch sử ở các trường THPT, 110 phiếu điều tra học sinh trên địa

bàn các tỉnh và thành phố Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình…

1.2.2.2. Kết quả khảo sát

Trên cơ sở thu thập thông tin và xử lý số liệu đối với giáo viên và học

sinh, kết quả thu được như sau:

1) Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa

- 45% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: di sản văn hóa bao

gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã được thế giới công nhận.

- 30% giáo viên cho rằng: Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng

đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại,

20

có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.

- 15% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Di sản văn hóa bao

gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có

giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ

khác ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

- 10% giáo viên tham gia cuộc điều tra có ý kiến khác.

Như vậy, về cơ bản giáo viên đã có nhận thức đúng về di sản văn hóa

song nhiều giáo viên còn chưa có cách hiểu đầy đủ về vấn đề này.

45

30

Đáp án A

Đáp án B

Đáp án C

15

Đáp án D

10

50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0

Đáp án A

Đáp án B

Đáp án C

Đáp án D

Biểu đồ 1.1. Quan niệm của giáo viên về khái niệm di sản văn hóa

2) Quan niệm của giáo viên về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong

dạy học môn Lịch sử

Qua thống kê, có thể đánh giá sơ lược như sau:

+ Không có giáo viên nào cho rằng đây phương pháp giúp học sinh

nâng cao kỹ năng sống, giúp cá nhân và cộng đồng có những hiểu biết về di

sản đồng thời tham gia bảo vệ di sản.

+ 54.5% giáo viên nhận định rằng đây là cách thức giáo viên tổ chức

cho học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập liên quan tới di sản văn hóa, góp

phần bổ sung kiến thức và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn,

nâng cao hiểu biết bảo vệ, tuyên truyền và có thái độ ứng xử đúng đắn với

21

các di sản.

+ 45.5% giáo viên được hỏi đồng ý với ý kiến đây là phương pháp cải

thiện chất lượng giáo dục môn Lịch sử, giúp học sinh tăng cường am hiểu lịch

sử dân tộc.

Có thể nói, giáo viên đã bước đầu xác định được vấn đề sử dụng di sản

văn hóa trong dạy học Lịch sử.

3) Đánh giá của giáo viên về mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản Hoàng

thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung

học phổ thông

Biểu đồ 1.2. Biểu đồ đánh giá mức độ cần thiết của việc sử dụng di sản

Không cần thiết 6.1%

Rất cần thiết 21.5%

Bình thường 16.7%

Cần thiết 55.7%

Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10

Dựa vào biểu đồ nêu trên, chúng tôi nhận thấy: đa số giáo viên cho rằng

việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng long trong dạy học môn Lịch sử lớp

10 là rất quan trọng. Trong đó, 21.5% giáo viên cho rằng sử dụng di sản này

trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 là rất cần thiết; 55.7% giáo viên cho

là cần thiết; 16.7% giáo viên cho là bình thường và 6.1% giáo viên cho rằng

đây là việc làm không cần thiết. Như vậy, dù nhận thức đúng về di sản văn

hóa nhưng nhiều giáo viên vẫn chưa coi trọng sử dụng di sản vào quá trình

dạy học, đặc biệt với di sản Hoàng thành Thăng Long.

4) Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học

22

Lịch sử Việt Nam lớp 10

Bảng 1.1. Mức độ giáo viên sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10

Câu 4: Mức độ thường xuyên thầy (cô) sử dụng di sản Hoàng thành

Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 như thế nào?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi

1. Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. 0.0 Không bao giờ 0.0 53.6 46.4

2. Thềm điện Kính Thiên. 0.0 32.1 0.0 67.9

3. Bắc Môn (cổng thành phía Bắc. 85.7 14.3 0.0 0.0

46.4 0.0 53.6 0.0

42.9 28.5 28.6 0.0 4. Tường thành và 8 cổng hành cung thời Nguyễn. 5. Di tích cách mạng nhà và hầm D67.

85.8 0.0 14.2 0.0

28.6 57.1 14.3 0.0 6. Hậu Lâu (Tĩnh Bắc Lâu hoặc Lầu Công chúa). 7. Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội).

35.7 42.9 21.4 0.0 8. Kiến trúc Hoàng thành Thăng Long.

31.4 3.6 65 0.0 9. Các di tích, di vật của Hoàng thành Thăng Long.

Kết quả khảo sát giáo viên và học sinh cho thấy rằng: Đối với các di

tích, di vật quen thuộc được đề cập trong sách giáo khoa như: thềm điện Kính

Thiên, đồ gốm tráng men, kiến trúc của Hoàng thành, Di tích Khảo cổ học 18

Hoàng Diệu được giáo viên nhắc tới, cung cấp một số lượng ít thông tin về di

sản mà không chú trọng khai thác triệt để. Đối với các di tích trong khu trung

tâm di sản rất ít được giáo viên sử dụng. Điều này diễn ra phổ biến và đa số

giáo viên không ý thức được việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 10. Qua đó cần thiết tăng cường

giáo dục thông qua di sản hướng tới mục đích là hình thành và nâng cao ý

thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa, rèn luyện

23

tính chủ động sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập.

5) Cách thức giáo viên thiết kế các hoạt động học tập có sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long

Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng có rất

nhiều hoạt động học tập được thiết kế có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng

Long. Kết quả điều tra của học sinh thu được như sau:

Bảng 1.2. Kết quả điều tra học sinh về việc thiết kế các hoạt động

học tập có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

Hoạt động học tập Có Không

1. Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long. 0.0 100

2. Học sinh đặt và trả lời câu hỏi về di sản Hoàng thành 56.6 43.4 Thăng Long.

3. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực hiện nhiệm

vụ học tập (ví dụ: tổ chức trò chơi “Mảnh ghép lịch sử”; 0.0 100

thuyết trình về Nhân vật lịch sử,…).

4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành Thăng Long 27.4 72.6

5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính Thiên, 0.0 100 Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.

6. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”. 0.0 100

7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và phát huy di sản 1.1 98.9 Hoàng thành Thăng Long”.

8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long. 0.0 100

9. Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long qua các 1.3 98.7 thời kỳ lịch sử.

10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về khu di sản 0.0 100 Hoàng thành Thăng Long.

Có thể thấy đây là một di sản khá quen thuộc với nhiều học sinh song

các em chưa có điều kiện quan sát trực tiếp mà thường được tiếp xúc qua một

24

số chương trình truyền hình, Internet, báo, tạp chí,… Hơn nữa, giáo viên

không chú ý tới việc sử dụng di sản nên hầu hết các hoạt động dạy học liên

quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long không được sử dụng và triển khai

trong quá trình giảng dạy Lịch sử Việt Nam lớp 10. Do đó, nhiều hoạt động

học tập mà chúng tôi đề xuất như: đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về

khu di sản; xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long; đọc sách liên

quan tới thềm điện Kính Thiên, Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng

Diệu; viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản” được học sinh lựa chọn

là “không”.

6) Những khó khăn mà giáo viên/học sinh gặp phải trong quá trình sử dụng

di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10

Thông qua kết quả điều tra cho thấy, trong quá trình dạy học Lịch sử

giáo viên rất ít khi thiết kế các hoạt động học tập đa dạng xuất phát từ nhiều

nguyên nhân, trong số đó, chúng tôi thu thập được một số nguyên nhân sau:

 Về phía giáo viên

+ 63.5% giáo viên cho rằng điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn

(máy chiếu, tranh ảnh liên quan, phòng học…) không đáp ứng đủ yêu cầu để

tổ chức các hoạt động học tập phần Lịch sử Việt Nam có sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long. Hầu hết giáo viên khẳng định đây là khó khăn chủ

yếu đối với quá trình giảng dạy nói chung.

+ 24.6% giáo viên tham gia điều tra đồng tình với ý kiến: không có đủ thời

gian (số tiết hạn chế trong khi lượng kiến thức tìm hiểu quá nhiều). Việc hạn chế

thời gian, số tiết cho mỗi bài dạy tìm hiểu về di sản văn hóa khiến cho giáo viên

hạn chế đưa di sản vào bài dạy thêm phong phú, tạo sức hút đối với học sinh.

+ Chưa có điều kiện tiếp cận nguồn tài liệu trực tiếp (chiếm 34.5%) là ý

kiến mà qua khảo sát chúng tôi thu được từ phía giáo viên. Bên cạnh đó, việc

không có đủ kinh phí để tổ chức tham quan cũng là một trong những trở ngại

của giáo viên khi khai thác di sản Hoàng thành Thăng Long.

25

 Về phía học sinh

Có tới 61.4% học sinh cho rằng điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn

(máy chiếu, tranh ảnh liên quan, phòng học…). Từ đó, học sinh ít được xem

tranh ảnh, bản đồ, trang web để tham gia thảo luận nhóm (chiếm 66.5%). Hơn

nữa, giáo viên cũng khẳng định, hầu hết học sinh chưa có sự quan tâm đúng

mực với môn Lịch sử, coi đây là môn học phụ không cần học nhiều, học để

lần sau lên bảng trả bài cho đủ điểm chứ chưa thực sự có hứng thú với môn

học. Chính thói quen này đã khiến cho vị trí môn Lịch sử giảm sút trong

nhiều năm qua. Bên cạnh đó còn một số khó khăn như: giáo viên ít giải đáp

thắc mắc liên quan đến bài học; lớp học không phù hợp tổ chức hoạt động

thảo luận nhóm; thiếu tài liệu tham khảo;…

7) Nguồn thông tin để tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long

Dựa vào kết quả điều tra cho thấy:

+ Việc khai thác thông tin trên Internet là việc làm thường xuyên được

học sinh sử dụng (chiếm 78.5%) nhưng hầu như không phục vụ cho mục đích

tìm hiểu kiến thức về di sản để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Hiện nay với

nhiều website về nhiều lĩnh vực khác nhau, mạng Internet trở thành một kênh

khai thác rất phổ biến, đa dạng và phong phú. Chính vì vậy, giáo viên cần lưu

ý cho học sinh về những thông tin trên mạng chưa đủ độ tin cậy, tính khoa

học chưa được đáp ứng, cần có sự chọn lọc cho phù hợp với yêu cầu học tập.

Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số địa chỉ website thường có độ

tin cậy cao hơn, thể hiện phần kí hiệu .edu; .org; .gov; .vn.

+ Ngoài ra, việc xem các chương trình truyền hình có liên quan đến di

sản Hoàng thành Thăng Long; truy cập website của Khu trung tâm di sản

Hoàng thành Thăng Long (www.hoangthanhthanglong.vn) để tìm hiểu; trực

tiếp tham quan hoặc tham dự một số sự kiện tổ chức tại khu di tích Hoàng

thành Thăng Long;… không được các em quan tâm.

Như vậy, từ thực trạng trên chúng tôi cho rằng, việc sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường

26

trung học phổ thông là cần thiết. Giáo viên đã bước đầu có những định hướng

đúng đắn trong việc đưa di sản vào các bài dạy kết hợp tổ chức nhiều hoạt động

học tập. Tuy nhiên đây chỉ là những hoạt động nhỏ nhằm làm thay đổi không

khí học tập chứ chưa phải là các hoạt động học tập hướng tới mục đích giáo

dục phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sưu tầm,

tìm hiểu, sử dụng di sản văn hóa trong giờ học và các hoạt động giáo dục.

Trên thực tế, khi tiến hành bài dạy có sử dụng di sản văn hóa, giáo viên

cần phải có nhận thức đúng về khái niệm sử dụng di sản vào dạy học; tránh

tình trạng nặng nề, quá tải, không tăng thời lượng chương trình vì di sản được

sử dụng như một phương tiện, nguồn kiến thức để hỗ trợ bài học, làm cho bài

học sinh động, gây hứng thú hơn cho học sinh.

Về phía học sinh: nhiều ý kiến cho rằng các em không có thời gian cho

môn Lịch sử vì phải dành thời gian cho các môn học khối tự nhiên. Chính vì

vậy, cần thay đổi ngay nếp nghĩ này với những hoạt động học tập đa dạng,

khai thác tối đa sức sáng tạo của học sinh. Hơn ai hết, chính đối tượng học

sinh là nguồn lực mạnh mẽ nhất để tuyên truyền, bảo vệ và phát huy giá trị

lịch sử, văn hóa của chính di sản đó, Hoàng thành Thăng Long cũng không

nằm ngoài mục đích này. Từ thực trạng nêu trên chúng tôi cho rằng, di sản

văn hóa, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá

trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ hoặc là

nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục. Dưới dạng

công cụ, thiết bị dạy học, di sản văn hóa giúp cho quá trình học tập của học

sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn,

phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho bản than

học sinh. Cũng từ kết quả khảo sát trên phản ánh thực trạng của việc sử dụng

di sản văn hóa trong dạy học bộ môn trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ

Bản, tỉnh Nam Định hiện nay.

Tóm lại, vấn đề sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học

Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT là rất quan trọng. Việc tìm hiểu cơ

27

sở lý luận và thực tiễn nêu trên là những căn cứ khoa học để chúng tôi thực

nghiệm phần tiếp theo của luận văn. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn,

chúng tôi sẽ tiến hành lựa chọn nội dung tài liệu, xác định các biện pháp sư

phạm và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề

tài.

Tiểu kết chương 1

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đề cập tới lý luận của việc

sử dụng di sản văn hóa nói chung và di sản Hoàng thành Thăng Long nói riêng

trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường THPT. Trong đó, việc lựa chọn

và sử dụng di sản này có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi bài dạy Lịch sử Việt

Nam. Học tập gắn liền với di sản chính là một trong những định hướng cần phát

triển trong công tác đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại. Dựa

trên tính khách quan, chúng tôi chú trọng khai thác những mặt tích cực, tiến bộ

đã đạt được của việc sử dụng di sản Hoàng thành đối với công tác giáo dục lịch

sử. Chúng tôi nhận thấy rằng cần có những biện pháp khắc phục những thiếu sót,

hạn chế để có thể phát huy tốt nhất những điểm mạnh của di sản văn hóa. Trên

cơ sở của việc tìm hiểu lý luận và thực tiễn đang diễn ra, chúng tôi tiến hành lựa

chọn nội dung, xác định các biện pháp sư phạm và tiến hành thực nghiệm để

28

kiểm tra tính khả thi của đề tài.

CHƯƠNG 2

CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG DI SẢN HOÀNG THÀNH

THĂNG LONG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BÍNH,

HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung chương trình lịch sử Việt Nam lớp 10 –

chương trình chuẩn ở trường Trung học Phổ thông

2.1.1. Vị trí

Chương trình môn Lịch sử Việt Nam ở trường THPT giới thiệu một

cách hệ thống về lịch sử dân tộc trải dài từ thời nguyên thủy đến năm 1858,

thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, đưa đất nước ta bước sang một

thời kỳ mới.

Những hiểu biết cơ bản về Lịch sử Việt Nam lớp 10 (chương trình

chuẩn) từ nguồn gốc cho đến giữa thế kỉ XIX là cơ sở để học sinh có góc nhìn

tổng quát và hệ thống về Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại ở chương trình

lớp 11, 12. Với cấu trúc như vậy giúp học sinh có nhận thức đầy đủ kiến thức

về sự xuất hiện của con người tại Việt Nam, cùng với sự phát triển theo hướng

đi lên và mối liên hệ chặt chẽ giữa Lịch sử Việt Nam với Lịch sử thế giới.

Di sản Hoàng thành Thăng Long có giá trị lịch sử đặc biệt trong

chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10 (chương trình chuẩn). Chính vì vậy,

yêu cầu việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long cần có những biện pháp

sử dụng di sản phù hợp như: liên hệ với những kiến thức trong sách giáo khoa

chưa đề cập, tập trung vào các sự kiện cơ bản và nêu mối liên hệ giữa các sự

kiện đó nhằm đảm bảo tính cơ bản và hệ thống của chương trình; khái quát

nội dung kiến thức có liên quan đến Hoàng thành Thăng Long theo nội dung

bài học, thiết kế các câu hỏi, bài tập phân loại học sinh, chủ đề thảo luận,...

nhằm hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh.

29

2.1.2. Mục tiêu

Chương trình Lịch sử lớp 10 bao gồm ba phần chính: Lịch sử thế giới

thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại; Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế

kỷ XIX; Lịch sử thế giới cận đại. Phần Lịch sử Việt Nam giữ vị trí chủ yếu

trong toàn bộ chương trình Lịch sử lớp 10. Nội dung khái quát bốn giai đoạn

phát triển của lịch sử dân tộc từ nguồn gốc cho tới cuối thời kỳ phong kiến (từ

thời nguyên thủy đến thế kỷ thứ X, thế kỷ X – XV, thế kỷ XVI – XVIII và

nửa đầu thế kỷ XIX), tổng kết thành tự cơ bản về các mặt chính trị, quân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội và truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

Mục tiêu đặt ra cho học sinh sau khi học xong phần Lịch sử Việt Nam:

- Về kiến thức:

+ Nêu được đặc điểm của bốn giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt

Nam: từ khoảng thế kỷ VII TCN đến thế kỷ thứ X; thế kỷ X – XV; thế kỷ

XVI – XVII và nửa đầu thế kỷ XIX trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,

chính trị, quân sự.

+ Trình bày được thời gian, ý nghĩa của các cuộc khởi nghĩa của nhân

dân ta thời Bắc thuộc, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ khi dựng

nước cho đến thế kỷ XVIII.

+ Nêu và phân tích được đặc trưng truyền thống yêu nước Việt Nam

thời phong kiến.

- Về kỹ năng:

+ Rèn luyện các kỹ năng cơ bản: phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá,

liên hệ.

+ Nâng cao kỹ năng lập sơ đồ, bảng biểu các sự kiện lịch sử cơ bản.

+ Sử dụng thành thạo một số thao tác công nghệ thông tin hỗ trợ cho

việc học tập: tra cứu tài liệu qua các trang web, thiết kế bài trình chiếu qua

Microsoft Powerpoint, Prezi, thiết lập sơ đồ tư duy,...

- Về thái độ:

+ Hiểu biết về các thời kỳ đầu của lịch sử dân tộc từ đó nhận thức về

30

quy luật tiến hóa của lịch sử dân tộc.

+ Nhận thức mối liên hệ giữa các dân tộc trong khu vực Đông Nam Á

và ý thức hợp tác xây dựng văn hóa trong khu vực.

+ Nâng cao hiểu biết về di sản văn hóa và ý thức bảo vệ di sản trước

thách thức ngày càng cao của thời gian, con người và môi trường.

Dựa vào mục tiêu nói chung của chương trình Lịch sử lớp 10 (chương

trình chuẩn), giáo viên cần xác định mục tiêu cụ thể hệ thống kiến thức, kĩ

năng, thái độ để làm cơ sở lựa chọn kiến thức cơ bản, định hướng cho học

sinh trong quá trình sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học

Lịch sử dân tộc từ nguyên thủy đến giữa thế kỉ XIX.

2.1.3. Nội dung

Căn cứ vào phân phối chương trình và Chuẩn kiến thức kĩ năng mà Bộ

Giáo dục và Đào tạo đã định hướng cho công tác dạy học. Dựa theo hai nguồn

tài liệu nêu trên, đồng thời theo mục tiêu chung đề ra, tác giả xác định các nội

dung cơ bản của chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10.

Chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT được chia làm

bốn giai đoạn lớn với những nội dung cơ bản như sau:

1. Nội dung 1: Từ thời kỳ nguyên thủy đến thế kỉ thứ X, nội dung bao gồm:

- Hai giai đoạn phát triển của thời kỳ nguyên thủy trên đất Việt Nam: bầy

người nguyên thủy và công xã thị tộc (thời gian tồn tại, địa bàn cư trú, công

cụ lao động, hoạt động kinh tế và tổ chức xã hội).

- Giai đoạn tan rã của công xã thị tộc thể hiện qua mốc thời gian, ý nghĩa

của thuật luyện kim và đặc điểm về cuộc sống của các cư dân Phùng Nguyên,

Sa Huỳnh, Đồng Nai.

Với nội dung này, giáo viên khơi dậy lòng tự hào về lịch sử lâu đời của

dân tộc, ý thức trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng quê hương.

Những dấu vết đầu tiên của loài người trên đất nước ta ven các con sông lớn

chứng tỏ sự phát triển hợp quy luật chung của cả nhân loại.

2. Nội dung 2: thời đại dựng nước đầu tiên hình thành các quốc gia cổ đại

31

trên đất nước Việt Nam: Văn Lang – Âu Lạc, Chămpa, Phù Nam

Nội dung này đề cập tới những cơ sở và điều kiện ra đời, cách thức tổ

chức nhà nước, tình hình kinh tế, xã hội của các quốc gia cổ đại đầu tiên trên

đất nước Việt Nam. Đây chính là nội dung phản ánh những giá trị cổ truyền

của dân tộc ta. Sau hàng chục năm lao động của người nguyên thủy trên lãnh

thổ Việt Nam. Từ đây, xã hội có nhiều bước chuyển biến tích cực, hình thành

ở đây một lãnh thổ chung, một nền văn hóa riêng biệt nhưng vẫn có những nét

của văn hóa khu vực. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc ra đời đánh dấu bước tiến

vượt bậc của văn hóa Việt. Cũng trên lãnh thổ đó xuất hiện các nền văn hóa

Sa Huỳnh, Sông Mã, Óc Eo và hình thành các quốc gia Chămpa, Phù Nam.

Trên cơ sở kinh tế đã phát triển, người Việt trên vùng đồng bằng châu thổ

phía Bắc và các lãnh thổ khác trên đất nước Việt Nam đã xây dựng nền văn

minh cho riêng mình. Mặc dù còn sơ khai nhưng các nền văn minh này đã tạo

nền tảng vững chắc cho sự phát triển sau này của văn hóa Việt. Đối với quá

trình dạy học, giáo viên giúp học sinh trân trọng những bước đi đầu tiên của

dân tộc, đồng thời tôn trọng những khác biệt về văn hóa đồng thời tiếp thu

một cách có chọn lọc văn hóa vùng miền để nâng cao giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc.

3. Nội dung 3: Tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa; công cuộc đấu tranh

giành độc lập và bảo vệ di sản văn hóa cổ truyền của nhân dân ta

Có thể nói, đây chính là thời kỳ đất nước chìm trong loạn lạc, quá trình

xâm chiếm và đô hộ của các triều đại phương Bắc. Mặc dù với tư tưởng đồng

hóa về mặt văn hóa nhưng với nền tảng dân tộc cũng nội lực mạnh mẽ đã đưa

cả dân tộc đoàn kết chống lại mọi âm mưu kẻ thù. Cuộc đấu tranh quyết liệt,

lâu dài giữa xâm lược, đồng hóa với chống xâm lược, chống đô hộ và chống

đồng hóa đã chi phối toàn bộ cuộc sống của nhân dân ta trong tiến trình lịch

sử Bắc thuộc. Với nội dung học tập này, giáo viên có thể khai thác nhiều vấn

đề. Một mặt đồng hóa về mọi lĩnh vực, song chính trong giai đoạn khó khăn

ấy đã để lại nhiều giá trị lịch sử. Trong khu di sản Hoàng thành Thăng Long

32

đã phát lộ một hệ thống di tích, di vật vô cùng phong phú, đa dạng. Nhiều hơn

cả là những di vật vật liệu trang trí kiến trúc cung đình cùng các đồ dùng của

Hoàng cung xưa, minh chứng cho sự phát triển của kinh đô Thăng Long –

kinh đô Đại Việt từ thế kỷ XII – XVIII. Dấu ấn của mỗi thời kỳ lịch sử đều

tìm thấy ở khu di sản Hoàng thành Thăng Long cho thấy vị trí trung tâm của

khu di sản và phản ánh lịch sử lâu dài của Kinh đô Thăng Long.

4. Nội dung 4: Quá trình xây dựng, hoàn chỉnh nhà nước phong kiến và công

cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa trong những thế kỷ phong kiến độc

lập (thế kỷ X – XIX)

Đây là thời kỳ đạt được những thành tựu cơ bản: xây dựng nền kinh tế

tự chủ, toàn diện, hoàn chỉnh bộ máy nhà nước phong kiến và đạt được nhiều

thành tựu rực rỡ, góp phần xây dựng nền văn hóa truyền thống. Nội dung này

có ý nghĩa bồi dưỡng cho học sinh ý thức độc lập dân tộc, bảo vệ sự thống

nhất đất nước, có ý thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước

trong thời đại ngày nay. Đồng thời, giáo dục ý thức bảo vệ di sản văn hóa,

phát huy năng lực sáng tạo trong văn hóa.

5. Nội dung 5: Công cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ phong

kiến

Song song với quá trình xây dựng đất nước, nhân dân Việt Nam liên

tục cầm vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc. Trong thời

kỳ phong kiến, các cuộc kháng chiến tiêu biểu: Kháng chiến chống Tống

(Tiền Lê – 981); kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 – 1077); ba lần

kháng chiến chống quân Mông – Nguyên thời Trần (1258, 1285, 1287 –

1288); chống quân Minh thời Hậu Lê (1418 – 1427); kháng chiến chống quân

Xiêm (1785); kháng chiến chống Thanh (1789) do Quang Trung – Nguyễn

Huệ lãnh đạo. Các cuộc kháng chiến nêu trên đều giành thắng lợi, bảo vệ

được nền độc lập dân tộc. Nội dung này có ý nghĩa rõ nét trong việc giáo dục

thái độ sống tích cực của học sinh, đánh giá đúng vai trò các tấm gương anh

hùng, bồi đắp thêm tình yêu đất nước, ý thức công dân trước vận mệnh của

33

đất nước trong tương lai.

6. Nội dung 6: Truyền thống yêu nước của dân tộc thời phong kiến

Truyền thống yêu nước được biểu hiện rõ trong công cuộc xây dựng,

phát triển đất nước và đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc.

Nội dung có ý nghĩa nâng cao ý nghĩa thực tiễn của bộ môn, khơi dậy, khích

lệ những biểu hiện tích cực của lòng yêu nước hiện nay trong học sinh bằng

những việc làm cụ thể góp phần phát huy truyền thống dân tộc. Trong hoàn

cảnh của cuộc sống hiện nay, truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ,

phát huy và biểu hiện nhiều nét mới, học sinh cần xác định rõ nhiệm vụ của

công dân tương lai của đất nước.

2.2. Khảo sát nguồn tài liệu về di sản Hoàng Thành Thăng Long cần và

có thể sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường trung học

phổ thông

2.2.1. Giới thiệu chung về khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long

Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội đáp ứng các tiêu chí

(ii), (iii) và (vi) được quy định tại Đoạn 77 của bản Hướng dẫn thi hành công

ước di sản thế giới. Giá trị nổi bật của di sản thể hiện chiều dài lịch sử, tính

liên tục của một trung tâm chính trị, quyền lực và các tầng văn hóa đa dạng,

phong phú [40, tr.68].

Theo tiêu chí (ii): Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội

minh chứng cho sự giao lưu của các ảnh hưởng từ Trung Hoa ở phía Bắc và

Vương quốc Chămpa ở phía Nam. Tài sản này chứa đựng những giao lưu liên

văn hóa đã góp phần tạo nên một nền văn hóa độc đáo ở hạ lưu sông Hồng.

Kinh thành Thăng Long nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, là nơi

diễn ra sự giao thoa các giá trị liên quan đến lịch sử định cư, nghệ thuật kiến

trúc, kỹ thuật xây dựng và các công trình nghệ thuật kỳ vĩ từ 1000 năm trước,

là một bằng chứng rất hiếm có về một khu vực được phủ dày đặc các lớp văn

hóa của nhiều thời kỳ lịch sử kế tiếp.

Nằm trên vị trí giao thoa của nền văn minh Đông Nam Á và trên tuyến

34

đường giao lưu giữa phương Đông và phương Tây, Thăng Long – Hà Nội từ

rất sớm là nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều nền văn minh lớn trong khu vực

châu Á và trên thế giới. Vị trí địa lý cảng thị cho phép Thăng Long – Hà Nội

tiếp xúc với các nền văn hóa như Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Nhật Bản

qua hệ thống đường thủy. Và theo đó, thông qua các tuyến đường thương mại

xuyên qua đất nước Trung Hoa và đường biển từ Thái Bình Dương đến Ấn

Độ Dương, mối giao lưu kinh tế, văn hóa của Thăng Long – Hà Nội vươn đến

tận các nền văn minh vùng Trung Cận Đông. Những nét văn hóa ảnh hưởng

từ 1000 năm người Hán chiếm đóng vùng đồng bằng sông Hồng đến nay vẫn

còn. Và mặc dù ở ngay cạnh nền văn minh lớn Trung Hoa, Thăng Long – Hà

Nội vẫn giữ bản sắc của một nền văn minh vùng Đông Nam Á có nhiều tiếp

xúc với các nền văn hóa phương Nam. Với nhiều sự giao thoa văn hóa như

vậy, Thăng Long – Hà Nội đã tiếp nhận ảnh hưởng từ nhiều tôn giáo và các

luồng tư tưởng thế giới như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, tư tưởng dân chủ

tư sản và chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, sức mạnh văn hóa bản địa và có sự

tiếp thu có chọn lọc những yếu tố đặc sắc của các nền văn minh thế giới đã

làm giàu thêm cho nền văn hóa Việt. Nét đặc sắc của văn hóa nước ta chính là

sự dung nạp được mọi yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài rồi sáng tạo chúng để

hình thành nên một nền văn hóa riêng biệt như bây giờ. Phật giáo, Đạo giáo,

Nho giáo là những yếu tố văn hóa có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ công

trình nghệ thuật, phong cách kiến trúc, hiện vật trong khu di sản Hoàng thành

Thăng Long. Một trong những đặc điểm độc đáo và nổi bật của khu di sản là

cách mà các yếu tố văn hóa từ nhiều nguồn khác nhau được hòa trộn và kết

tinh thành từng lớp tạo nên một mô hình đô thị độc đáo.

Các phát hiện khảo cổ học trong khu di sản cho thấy những dấu vết văn

hóa (thành Đại La) của người Hán vào thế kỷ VII – IX, trước khi Kinh thành

Thăng Long được xây dựng. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ xây dựng Kinh thành

mới trên nền thành cũ của người Hán, không chỉ tận dụng những gì đã có mà

còn tiếp thu và cải tiến các nguyên tắc quy hoạch thành có sẵn. Trong Chiếu

35

dời đô, Lý Thái Tổ đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng với việc chọn lựa địa điểm

xây dựng thành: “Ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính

giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế nhìn sông dựa núi” [12, tr.240-241].

Tuy Đạo giáo có ảnh hưởng rất lớn trong thời kỳ xây dựng thành Đại

La và thành Thăng Long đầu thời Lý. Đến thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XV),

đạo Phật chính là tư tưởng chi phối và để lại dấu ấn sâu đậm trên các hiện vật

và cách thể hiện văn hóa của Hoàng thành. Các nhà Khảo cổ học tìm thấy tại

khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu rất nhiều bằng chứng về ảnh hưởng

của Phật giáo đối với Hoàng gia. Đó là các loại vật liệu xây dựng: các chân đế

cột bằng đá tạc hình hoa sen, các họa tiết ngói lợp trang trí hình lá đề, hình

tượng đạo Phật. Bên cạnh đó còn có nhiều loại gạch in hình tháp Phật hay

những mảnh vỡ của mô hình tháp Phật bằng đất nung hoặc bằng sứ trắng

trang trí hoa sen, tiên nữ. Đáng lưu ý là mảnh tháp sứ men trắng trang trí hình

tiên nữ (Apsara) đang nhảy múa mang đậm phong cách nghệ thuật Chămpa,

là một minh chứng sinh động về sự ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ đến

Thăng Long vào thời Lý bằng con đường gián tiếp qua các nước Đông Nam

Á trong đó có Chămpa. Những mô típ hoa văn mang phong cách Chămpa

tương tự như hình ảnh chim thần (Garuda) hay nữ thần chim (Kinnari) xuất

hiện đồng thời và hòa quyện với những mô típ hình rồng, hoa lá đặc trưng

phong cách Việt, phản ánh rõ nét sự dung hợp giữa hai nền văn hóa và cho

thấy mối quan hệ, sự ảnh hưởng sâu đậm của nghệ thuật Chămpa đến nghệ

thuật Hoàng cung Thăng Long đương thời.

Nếu Đạo giáo, Phật giáo tạo nên dấu ấn đặc biệt thì vào thời Lê (1428 –

1527), Nho giáo lại được trọng dụng làm công cụ xây dựng và củng cố bộ

máy nhà nước. Từ thế kỷ XV, Nho giáo trở thành tư tưởng chính thống thay

thế vai trò của Đạo Phật, tạo cho nhà vua những phương tiện để điều hành đất

nước hiệu quả hơn. Đạo Khổng là một giáo lý ra đời tại Trung Hoa, được du

nhập vào Việt Nam và biến hóa theo điều kiện bản địa. Nho giáo ủng hộ triệt

để chế độ xã hội có tôn ti trật tự và đẳng cấp rõ rệt, trong đó Hoàng đế (vua)

36

là người có quyền lực tối cao. Hình tượng đầy quyền uy của vua là con rồng.

Hình tượng rồng xuất hiện khắp nơi trong kiến trúc Hoàng thành và trên các

hiện vật khảo cổ tìm thấy tại di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. Nhưng con

rồng các thời có sự thay đổi linh hoạt. Ví dụ, con rồng thời Lê sơ không uốn

theo hình lá đề như thời Lý – Trần, chân có năm móng sắc nhọn, dấu hiệu

biểu trưng của đẳng cấp và uy quyền của Hoàng đế. Thành Thăng Long thời

Lê trên cơ sở của thành Thăng Long thời Lý – Trần, nhưng được xây dựng

kiên cố, thành cao hào sâu và có sự ngăn cách nghiêm ngặt giữa các vòng

thành. Điện chính giữa Cấm thành là nơi thiết triều đổi tên thành điện Kính

Thiên mà ý nghĩa tên của nó thể hiện rõ tư tưởng Nho giáo – thế thiên hành

đạo (thay trời hành đạo).

Tiêu chí (iii): Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội minh

chứng cho truyền thống văn hóa lâu đời của cư dân Việt sinh sống ở vùng

châu thổ sông Hồng. Đây là trung tâm quyền lực gần như liên tục từ thế kỷ

VII đến ngày nay.

Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là một ví dụ nổi bật về một trung

tâm chính trị, văn hóa đặc thù của một quốc gia vùng Đông Nam Á và Đông

Á, vừa tiêu biểu cho quyền lực của các vương triều.

Khu Di sản còn có những dấu tích kiến trúc tồn tại trên mặt đất, có niên

đại vào những thời kỳ gần đây hơn để củng cố cho tầm quan trọng của Hoàng

thành với tư cách là môt trung tâm quyền lực. Những công trình này gồm có

Đoan Môn, Hậu Lâu, Kỳ Đài, Bắc Môn. Những kiến trúc này góp phần thể

hiện hình dáng của Hoàng thành một cách rõ ràng và đặc trưng. Những tòa

nhà do người Pháp xây dựng và nhà D67 do Bộ Quốc phòng của Quân đội

nhân dân Việt Nam xây dựng trong thời kỳ chiến tranh (1954 – 1975) ngay

trong không gian thiêng của khu vực trung tâm, xoay quanh tâm điểm nền

điện Kính Thiên đã nói lên rằng khu vực này giữ một vị trí quan trọng trong

các giai đoạn lịch sử sau này.

Tiêu chí (vi): Với các chức năng chính trị và vai trò mang tính biểu

37

tượng của mình, Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội có liên quan trực tiếp tới

rất nhiều sự kiện văn hóa và lịch sử quan trọng, những biểu đạt nghệ thuật

cũng như các tư tưởng, luân lý, triết học và tôn giáo. Các sự kiện diễn ra tiếp

nối nhau này đã đánh dấu quá trình hình thành và phát triển của một quốc gia

độc lập trong suốt hơn một nghìn năm, bao gồm cả thời kỳ thuộc địa và hai

cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất Việt Nam thời hiện đại.

2.2.2. Một số nội dung tài liệu ở di sản Hoàng Thành Thăng Long có thể sử

dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường trung học phổ thông

Căn cứ vào mục đích, yêu cầu và nội dung kiến thức cơ bản của phân

phối chương trình Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX (Lớp

10 – chương trình chuẩn), chúng tôi lựa chọn xác định một số hiện vật, di vật,

công trình kiến trúc tiêu biểu giúp giáo viên sử dụng trong bài dạy Lịch sử

Việt Nam.

Bảng 2.1. Nội dung các tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long

có thể sử dụng trong chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 10

Bài dạy

Bài 16: Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)

Những tài liệu di sản Hoàng thành Thăng Long sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 - Di tích những móng trụ kiến trúc, bó nền nhà, gạch Giang Tây Quân, dấu tích kiến trúc nhà cửa, giếng nước, cống thoát nước, một số đồ gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc và Tây Á… có niên đại từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ IX.

Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)

38

- Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội) năm 1010. - Một phần phía Tây của Cấm Thành thời Lý (khu 18 Hoàng Diệu), trong đó những di tích kiến trúc của các cung điện được xây chồng lên các di tích Đại La với các loại vật liệu xây dựng và đồ gốm sứ minh chứng cho một trình độ kỹ thuật cao và nghệ thuật tinh xảo; Thời Lý có đường gạch hoa chanh; thời Lê có Đoan Môn. - Khu nền điện Kính Thiên (tức cung Càn Nguyên,

Thiên An thời Lý – Trần). - Nhân vật lịch sử: Lý Công Uẩn

Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X – XV

- Các loại tượng đầu rồng, phượng trang trí trên mái kiến trúc cung điện thời Lý – Trần (thế kỉ XI – XIV). - Vật liệu xây dựng: ngói ống, ngói diềm mái hiên, ngói úp nóc, gạch lát lối đi, các chân tảng đá kê cột trụ, các loại gạch. - Gốm sứ Thăng Long (thời Lê sơ), (hình ảnh phụ lục). - Kiến trúc tòa nhà nhiều gian.  (Ảnh phụ lục 4)

Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV - Đồ gốm sứ thời Lý – Trần – Lê sơ. - Dấu tích thềm điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Đoan Môn.

-

- Sự giao thoa văn hóa giữa Hoàng thành Thăng Long và các nước trong khu vực châu Á qua các di vật.  (Ảnh phụ lục 4)

 Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến

(từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)

Lý Công Uẩn dời đô: Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên (1010),

Lý Thái Tổ khởi sự dời đô ra thành Đại La. Đoàn dời đô của nhà vua vừa đến

đất Đại La, vua trông thấy có hình ảnh rồng vàng bay lên trời, bèn quyết định

đặt tên cho vùng đất này là Thăng Long. Sau đó, nhà vua đổi tên Hoa Lư

thành phủ Tràng An và Cổ Pháp (nơi nhà vua chào đời và được sư Vạn Hạnh

nuôi dạy) thành phủ Thiên Đức.

Bắt đầu từ đây, Hoàng thành Thăng Long chính thức trở thành kinh đô

39

của một nhà nước độc lập, thống nhất. Cũng vì thế mà năm 1010 trở thành

mốc thời gian để người Thăng Long – Hà Nội nói riêng và người Việt Nam

nói chung dùng để tính tuổi cho Thủ đô của mình.

Dời đô ra Thăng Long, với đầy đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân

hòa, chỉ trong thời gian rất ngắn – từ mùa thu năm 1010 cho đến đầu năm

1011 – một số công trình cung điện cơ bản nhất của Hoàng thành Thăng Long

đã được xây dựng xong.

Thời kỳ này, Hoàng thành Thăng Long đã được thiết kế thành ba phần

tương đối rõ nét: Cấm thành là nơi ở của nhà vua và hoàng gia, cũng là nơi

nhà vua thiết triều. Toàn bộ triều đình – cơ quan đầu não của nhà nước phong

kiến – đều tập trung làm việc ở nơi này. La Thành là vòng thành rộng hơn,

bao quanh Hoàng thành. Khoảng đất giữa hai vòng tường thành – Hoàng

thành và La Thành – là nơi ở của các tầng lớp nhân dân và quan lại, đây được

gọi là khu Kinh thành.

 Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X – XV

- Kiến trúc tòa nhà nhiều gian

Khi tiến hành khai quật ở hố B16 thuộc địa điểm dự kiến xây dựng toà

nhà Quốc hội mới, Viện khảo cổ học đã phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4

mái, dạng hình tháp toạ lạc trên một diện tích xấp xỉ 1000 m2 thuộc hệ thống

các cung điện Thăng Long xưa. Theo đánh giá thì đây là công trình đầu tiên,

có tầm cỡ và giá trị nhất được tìm thấy từ trước đến nay. Việc phát hiện ra lâu

đài này được coi là bằng chứng rõ ràng nhất về sự hoành tráng của kinh

thành Thăng Long từ thời Lý - Trần.

“Giai đoạn đầu, tại các hố A1, A1MR, A2, A2MR, A3, A4, A9, A10,

A11, A12, A13 trong các lớp đất ở độ sâu trung bình trên dưới – 1,50 m so

với “cốt” cao độ của mặt bậc thềm đá Đoan Môn, xuất lộ những ô sỏi trộn lẫn

đất sét. Sỏi ở đây khá thống nhất về kích thước, chỉ khoảng bằng hoặc to hơn

đầu ngón chân cái, chứng tỏ đã được chọn lọc. Hiện vật thu được trong các

lớp đất này được xác định có niên đại thời Lý. Các ô sỏi này thường có hình

40

gần vuông, mỗi cạnh khoảng 1,30 m và ăn sâu xuống các lớp dưới, dày trên

dưới 1,00 m. Điều này chứng tỏ đây là các hố đào có chủ đích để đầm - nhồi

sỏi cuộn với đất sét. Đáy của các hố sỏi này nằm trong lớp đất chứa các hiện

vật được xác định có niên đại Đinh - Tiền Lê.

Các ô sỏi nói trên xuất hiện trong các hố từ A1 đến A18. Tổng cộng có

tất cả 40 ô sỏi, xếp thành 4 hàng dọc (hai hàng phía đông có 10 ô trong một

hàng, hai hàng phía tây mỗi hàng chỉ có 9 ô). Có lẽ đây chính lá các hố sỏi gia

cố dưới các chân tảng đá kê dưới chân các cột. Nói chính xác, theo ngôn ngữ

kiến trúc – xây dựng, đó là các móng trụ. Kết quả đo đạc đã giúp khẳng định

đây là phế tích của một kiến trúc có bộ khung chịu lực bằng gỗ có 4 hàng

chân cột. Khoảng cách giữa các cột Quân với các cột Cái là khoảng 3,00m.

Khoảng cách giữa các cột Cái là khoảng 6,00m. Từ Bắc xuống Nam đã xác

định được 10 vì, nghĩa là ít nhất kiến trúc này có 09 gian. Tuy nhiên, chưa thể

khẳng định về số gian bởi dấu vết của kiến trúc này còn phát triển kéo dài về

phía Bắc, ngoài khu vực khai quật. Bước gian của kiến trúc này rất lớn,

khoảng 5,80m – 6,00m. Trên thực tế, bước gian của các di tích kiến trúc bằng

gỗ cổ truyền hiện còn đứng vững trên mặt đất thường nhỏ hơn.

Chưa lý giải được nguyên nhân của sự chênh lệch về số lượng các

móng trụ của các hàng móng trụ phía Tây nhưng ở đây chắc chắn đã có 4

móng trụ sỏi gia cố cho 1 chân tảng cột Cái và 3 chân tảng cột Quân. Khoảng

cách giữa hai hàng móng trụ sỏi cuối cùng chỉ là 4,1 m chứng tỏ đây chính là

không gian của chái phía Nam. Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng

cột Quân phía Đông khoảng 4,5 m và chạy dài suốt chiều rộng của “toà nhà

nhiều gian” nói trên còn thấy xuất lộ một cống thoát nước được xây - xếp

bằng gạch (hoàn toàn không thấy dấu vết của chất kết dính dạng vôi vữa),

lòng cống rộng 0,17m – sâu 0,20m. Ngoài lớp gạch đặt nằm làm đáy, hai bên

thành của rãnh thoát nước này được xếp nghiêng hai lớp gạch. Kích thước

trung bình của gạch ở đây là 0,36m x 0,20 m x 0,05m). Về phía Đông, sát

41

cạnh cống thoát nước này là một thềm gạch rộng 0,76 m chạy dọc suốt chiều

dài đường cống. Gạch lát thềm là gạch vuông 0,38m x 0,38m x 0,07m. Có

chỗ còn lát lẫn cả gạch in hoa.

Về phía Tây của toà nhà nhiều gian, cách tim các móng trụ sỏi gia cố

hàng chân tảng cột Quân phía tây 4,90m, đã tìm thấy những móng trụ gia cố

chân tảng khác. Vật liệu gia cố có phần đa dạng hơn, ngoài sỏi (tương tự như

sỏi ở các hố đã nêu trên) còn có cả ngói vỡ vụn, được nhồi đầm theo chu kỳ 1

lớp sỏi lại 1 lớp ngói vụn. Hình dạng của các hố đào cũng khác, có hố tròn

(đường kính từ 1,10 m đến 1,30 m), có hố vuông (1,20 m x 1,20 m). Bố cục

của các móng trụ chân tảng này khá đặc biệt: 06 trụ móng tròn quây quanh

một số trụ móng ở chính giữa. Khoảng cách trung bình giữa tim của các móng

trụ tròn là khoảng 1,30 m. Tim móng trụ vuông trùng với tâm của đường tròn

ngoại tiếp hình lục giác, cách tim các móng trụ tròn một khoảng 1,30 m.

Các cụm móng trụ gia cố chân tảng này trải dài suốt mặt phía tây

của toà nhà nhiều gian. Khoảng cách giữa các cụm (đếm được tất cả 11 cụm),

không thật đều, xê xích từ 8 m đến 12 m. Theo các nhà khảo cổ, một cụm

móng trụ gia cố chân tảng như vậy là phế tích của một kiểu lầu lục giác nhỏ,

được dựng nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn. Theo Giáo sư Trần Quốc

Vượng, Việt Sử lược có ghi nhận về loại hình kiến trúc này, gọi là các Trà

đình. Trong các hố A19, A20, A20MR và A21 cũng xuất lộ nhiều móng trụ sỏi.

Ngay gần chái phía Nam của toà nhà nhiều gian thuộc phạm vi hố A19

có một số móng chân tảng nhưng kết quả đo đạc không xác định được thật rõ

ràng về kiến trúc từng tồn tại ở đây. Phía Bắc hố A20 xuất lộ hai hàng móng

trụ sỏi gia cố, mỗi hàng 05 móng trụ, khoảng cách giữa tim hai hàng là 3,40

m. Hiện trạng và số đo cho phép giả định đây là một kiến trúc có hướng chạy

dài theo trục Đông - Tây (vuông góc với toà nhà nhiều gian). Số đo bước gian

đo được của kiến trúc này theo chiều từ Đông sang Tây là: 3,30m - 5,45m -

5,30m. Các khoảng cách khác chưa khẳng định được vì một số móng trụ sỏi đã

42

bị mất và vì kiến trúc này còn tiếp tục kéo dài về phía Đông, ra ngoài khu vực

khai quật. Các nhà khảo cổ cho rằng đây có lẽ là phế tích của một toà nhà có 3

gian hai chái. Ở phía Nam hố A20 đã xuất lộ một cụm phế tích rõ ràng hơn.

Các chân tảng đều được làm bằng sa thạch (grès) màu xám. Mặt chân

tảng chạm cánh sen mang phong cách nghệ thuật Lý. Đường kính trong của

vành hoa sen này là 0,49m. Trên mặt nhiều chân tảng còn rất rõ dấu vết cho

biết cột gỗ dựng trên đó có đường kính 0,43m. Tuy nhiên ở vị trí sẽ đặt xà

ngưỡng, mặt tảng để trơn, không chạm cánh sen. Nối dài hai bên (đông, tây)

một số chân tảng cũng còn giữ nguyên một số viên gạch (0,38m x 0,15m x

0,11m) của hàng gạch đỡ dưới xà ngưỡng. Với dấu vết của các xà ngưỡng này

cho thấy có lẽ đây là hai kiến trúc dạng hành lang, chạy dài theo Đông - Tây.

Đặc biệt, cụm phế tích này còn giữ nguyên vẹn một số đoạn thềm hiên lát

gạch ở phía ngoài xà ngưỡng, rộng trên dưới 1,00m tính từ tim chân tảng.

Thềm gạch này được xây xếp bởi 8 hàng gạch (0,39m x 0,20m x 0,05m) cao

hơn mặt sân 0,36m. Sân gạch chạy giữa hai hành lang này được lát gạch

vuông (0,38m x 0,38m x 0,06m). Theo các nhận định ban đầu cho rằng các

phế tích kiến trúc ở phía Bắc khu A là của một tổ hợp kiến trúc có liên quan

mật thiết với nhau, bao gồm: một tòa nhà nhiều gian có chiều rộng 17,65m,

chạy dài ít nhất 9 gian (khoảng 67m) và một dãy các lầu lục giác. Điều đáng

quan tâm là sự liên hệ, tiếp nối giữa các kiến trúc này. Hiện trường còn rất rõ

một số mảng nền lát gạch vuông (0,38m x 0,38m x 0,08m), nối liền từ mép

rãnh thoát nước phía Tây tòa nhà nhiều gian với các lầu lục giác”[41].

- Vật liệu xây dựng

Các di vật thời Đại La được tìm thấy ở khu di tích vô cùng phong phú,

cho thấy đây là vị trí trung tâm, trị sở của An Nam đô hộ phủ, thuộc Đường,

khẳng định thành Thăng Long được xây dựng trên cơ sở thành Đại La của

viên Tiết độ sứ Cao Biền. “Các loại vật liệu kiến trúc tìm thấy tại đây là các

loại ngói âm dương, trang trí họa tiết mặt linh thú, mặt hề, hoa sen. Gạch chữ

nhật chiếm số lượng nhiều, phổ biến có màu xám đen, được dùng để xây cống

43

nước, giếng nước, đường đi hay bó nền các kiến trúc. Tiêu biểu là gạch in chữ

Hán “Giang Tây quân”, phiên hiệu quân đội bên Trung Quốc thời Đường.

Loại gạch vuông dùng để lát nền cũng được tìm thấy, có trang trí hoa văn sinh

động như viên gạch hình cá sấu bơi trong sóng nước, hay gạch in nổi hình hoa

sen và văn dây leo.

Các hiện vật thời Lý tại Hoàng thành Thăng Long vô cùng đẹp đẽ và

tinh mỹ, phản ánh sự phát triển thịnh trị của thời kỳ này. Nhiều loại vật liệu

trang trí kiến trúc như ngói gắn lá đề trang trí rồng, phượng hay các phù điêu,

tượng tròn tạo tác hình đầu rồng, đầu chim phượng hay uyên ương với họa

tiết trang trí tinh xảo, trau chuốt cho chúng ta những hình dung về vẻ đẹp lộng

lẫy của Hoàng cung Thăng Long thời Lý. Những viên gạch vuông lát nền

cũng được trang trí cầu kỳ hoa văn cúc dây, mẫu đơn và sen dây. Các chân đá

tảng lớn kê chân cột được chạm cánh sen cho thấy quy mô to lớn của các

công trình kiến trúc.

Khác với thời Mạc, vật liệu kiến trúc thời Lê Trung hưng rất phong

phú, đa dạng, có nhiều loại: gạch, ngói, chân tảng, thềm bậc, tượng linh thú,..

nhiều và phổ biến là các loại gạch và ngói. Đáng lưu ý là gạch, ngói thời kỳ

này thường không được tráng men như thời Lê sơ mà chủ yếu là đất nung,

được làm bằng hai loại: đất sét đỏ và đất sét xám. Trong đó, loại được làm

bằng đất sét xám phổ biến hơn và về màu sắc nó khá gần gũi với màu của vật

liệu kiến trúc thời Đại La. Tiêu biểu là các loại ngói mũi lá, đầu trang trí văn

như ý và văn kỷ hà.

- Đồ gốm sứ Thăng Long (thời Lê sơ)

Để nhận diện về chất lượng gốm dùng trong Hoàng thành, phân định

gốm thời Lê theo ba thời kỳ: Gốm thời Lê Sơ (thế kỷ XV), gốm thời Lê-Mạc

(thế kỷ XVI) và gốm thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII). Nhìn chung,

gốm thời Lê - Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí

đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm

tìm được từ các hố khai quật phần nhiều là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải

44

Dương và Bát Tràng.

Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung

tâm sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam,

gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Tại dải

gốm ven sông Khu A tìm thấy nhiều loại gốm hoa lam cao cấp, có hình dáng

và hoa văn tương tự như những đồ gốm trên tàu đắm Hội An, ví dụ như loại

bát vẽ rồng 4 móng, dưới đáy khắc chữ Trù (bếp), giữa lòng viết chữ Kính

hay loại đĩa lớn vẽ rồng có bút pháp tinh tế như trên bản đang lưu giữ tại Bảo

tàng Lịch sử Việt Nam. Phát hiện có ý nghĩa này cho phép một lần nữa khẳng

định về sự góp mặt quan trọng của gốm Thăng Long trong mối giao lưu kinh

tế, văn hoá với quốc tế trong lịch sử.

Một phát hiện khác đem lại sự cảm phục của giới chuyên môn và

những người say mê cổ ngoạn là loại gốm trắng mỏng trang trí in nổi hình

rồng có chân 5 móng (cũng có loại rồng có 4 móng), giữa lòng ghi chữ Quan

hay chữ Kính. Nghiên cứu so sánh với gốm Hải Dương, đây là những sản

phẩm của lò quan Thăng Long. Tại di chỉ gốm Ngói, Chu Đậu (Hải Dương)

và Kim Lan (Gia Lâm) đã tìm thấy bằng chứng sản xuất gốm của lò quan ở

đây. Sản phẩm chính của những lò quan này được khẳng định rõ qua những

đồ gốm sứ men trắng, trang trí in khuôn văn sóng nước hình vảy cá, giữa lòng

in nổi chữ Quan như gốm Thăng Long. Nhưng so với gốm Thăng Long thì

gốm lò quan Hải Dương có xương gốm dày, nặng và độ trắng của xương và

men kém hơn gốm Thăng Long. Gốm Thăng Long cũng có loại xương gốm

mỏng và loại xương gốm dày, nhưng về cơ bản xương gốm Thăng Long có

chất lượng tốt hơn gốm Hải Dương. Gốm trắng mỏng Thăng Long chủ yếu là

các loại bát, đĩa cỡ nhỏ, có xương mỏng như vỏ trứng (dạng sứ thấu quang),

thành trong in nổi hình hai con rồng chân có 5 móng, giữa lòng in chữ Quan.

Loại gốm trắng mỏng này chưa từng tìm được ở đâu ngoài khu lăng mộ vua

nhà Lê ở Lam Kinh (Thanh Hoá). Đặc điểm đáng lưu ý về loại gốm mỏng này

45

là được nung đơn chiếc và men thường phủ kín đáy và mép vành chân đế.

Chân đế được tạo rất mỏng và mép vành chân vê tròn chứ không cắt vát và

cạo men ở mép vành chân như gốm Hải Dương.

Đây là đặc điểm kỹ thuật rất khác biệt giữa gốm Thăng Long và gốm

Hải Dương hay gốm Kim Lan. Bên cạnh loại gốm trang trí rồng, ở Thăng

Long còn có loại gốm trắng trang trí văn in hoa cúc dây, giữa lòng cũng in nổi

hay viết chữ Quan, nhưng phổ biến hơn là in hình một bông hoa nhỏ có 5

hoặc 6 cánh. Tại hố A10 cũng tìm được một khuôn in loại hoa văn này với

đường nét tinh xảo.

Ngoài ra, loại gốm men trắng vẽ chỉ lam cũng tìm được khá nhiều,

nhưng ở loại cao cấp giữa lòng thường viết chữ Quan bằng màu xanh cô ban

(cobalt). Trong số lượng phong phú các loại bình, vò men trắng tìm thấy trong

dải gốm ven sông Khu A cũng có khá nhiều tiêu bản dưới đáy viết chữ Quan

bằng màu son nâu. Chữ Quan ở đây được hiểu theo hai nghĩa: quan diêu (sản

phẩm của lò quan) và quan dụng (đồ dùng dành cho vua quan). Cùng với chữ

Quan, sự tinh mỹ đến mức ngạc nhiên của loại sứ trắng mỏng và gốm hoa lam

cao cấp được trang trí các đồ án mang tính biểu trưng của vương quyền (rồng

có chân 5 móng và hình chim phượng) cho thấy rõ đây là những đồ ngự dụng

trong Hoàng cung” [41].

Bên cạnh số lượng lớn và đa dạng các loại hình đồ gốm nói trên, tại

khu vực khai quật còn tìm được một sưu tập phong phú các loại đĩa đèn dầu

lạc nhỏ men trắng và các loại bình vôi còn khá nguyên vẹn.

Cùng với loại hình bình vôi, ở dải gốm ven sông còn tìm thấy những

chiếc bình đựng bã trầu bằng gốm men (hay còn gọi là ống nhổ) và một số

chuôi dao cau làm bằng nanh, vuốt thú hay bằng loại gỗ quý. Xung quanh một

số chuôi dao còn được bọc kim loại màu vàng và bên trên được chạm khắc

hoa văn rất đẹp. Nhóm di vật này có niên đại vào khoảng thời Trần và thời

Lê. Những tư liệu này là bằng chứng thuyết phục cho ta biết rằng, trong

46

Hoàng cung xưa, tục ăn trầu cũng rất phổ biến.

Bên cạnh những loại hình đồ gốm ngoại nhập, bằng chứng về việc sản

xuất tại chỗ của những đồ gốm sứ cao cấp thời Lý, Trần, Lê cũng đã có nhiều

cơ sở khẳng định. Dựa vào những đồ gốm phế thải và các công cụ sản xuất,

các nhà khảo cổ cho rằng ngay từ thời Lý, Thăng Long đã có lò quan chuyên

sản xuất gốm sứ cung đình. Bằng chứng là những đồ gốm sứ thời Lê Sơ trang

trí rồng 5 móng, lòng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Như vậy, có thể tạm kết

luận rằng: việc tìm thấy những đồ ngự dụng trong khu vực khai quật không

những cung cấp nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng

Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long, mà còn góp thêm bằng

chứng tin cậy để củng cố ý kiến cho rằng: các dấu tích kiến trúc lớn ở đây là

những cung, điện của trung tâm Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê.

 Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV

1) Đôi rồng đá (thời Lê sơ)

Sau nhiều ý kiến được đưa ra, các nhà sử học đã khẳng định đây chính

là thềm Điện Kính Thiên, nơi nhà vua thiết triều và đưa ra những quyết sách

quyết định vận mệnh cả dân tộc. “Theo tài liệu, đôi rồng này được xây dựng

năm 1467, thuộc dòng rồng Đế vương có năm móng, biểu tượng cho quyền

lực của nhà vua. Rồng đá điện Kính Thiên được đánh giá là di sản kiến trúc

tuyệt tác tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê sơ. Có thể thấy, rồng đá

thềm trước Điện Kính Thiên uốn 7 khúc, dài 5,3 mét. Đầu rồng nổi bật với

những nét chạm tinh xảo, thể hiện được sự oai hùng, mạnh mẽ. Đôi mắt rồng

lồi hẳn ra ngoài, chiếc mũi gồ cao đầy uy lực. Bộ ria rồng được chạm như hòa

cùng vân mây với những đường nét đủ mềm mại nhưng vẫn rất khỏe khoắn.

Đôi sừng nhọn khép lại đằng sau theo tư thế đầu rồng ngẩng lên chầu vua với

dáng vẻ thuần phục. Đôi bờm trên đầu của rồng được vuốt dài uốn lượn về

phía sau như đang bay trong gió.

Ngay phía dưới đầu rồng là cặp móng chân trước của rồng. Tương tự

đôi sừng, bộ móng vuốt sắc nhọn chính là vũ khí của những loài vật sở hữu

47

nó, thường xòe ra phía trước. Nhưng khi quan sát đôi rồng chầu vua ta thấy

lại được sắp xếp theo hướng quặp lại, đan vào nhau trong tư thế chầu vua.

Các bộ móng này và những bộ móng chân sau đều nổi bật với 5 móng. Đây

chính là biểu tượng của rồng đế vương.

Toàn bộ thân mình rồng là những nét chạm làm nổi bật cơ bắp khỏe

mạnh của rồng. Rồng thời Lê có mình trơn, không vẩy. Trong khi đó, phần

vây rồng được tạo tác suốt từ đầu tới tận chóp đuôi, vừa dựng đứng khỏe

mạnh, vừa vuốt nhọn lên đỉnh và lướt về phía sau tương đối mềm mại. Nếu

nhà vua đi từ dưới lên sẽ là hình ảnh đôi rồng đổ mình phủ phục từ trên cao

xuống như đang bái phục nhà vua. Nhìn từ trên điện xuống, vẫn hình dáng đôi

rồng phủ phục nhưng dáng vẻ như đang sẵn sàng đợi lệnh nhà vua” [41].

2) Thềm điện Kính Thiên

Đây là di tích trung tâm, trong tổng thể các di tích của khu Trung tâm

Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội. Điện Kính Thiên – cung điện quan trọng

bậc nhất, nơi cử hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi đón tiếp

sứ giả nước ngoài và là nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự.

Điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ và hoàn

thiện vào đời vua Lê Thánh Tông. Điện Kính Thiên được xây dựng trên núi

Nùng, ngay trên nền cũ của cung Càn Nguyên – Thiên An thời Lý – Trần.

Lấy Càn Nguyên đặt tên cho điện coi chầu, Lý Thái Tổ đã chọn đúng trung

tâm của trời đất để đặt ngai vàng trị nước. Sau các vua nhà Lý, Trần, Lê đã

cho xây dựng hệ thống thành lũy tại đây. Khu vực quan trọng là Cấm thành

(Long Thành hay Long Phượng Thành) trong thành Thăng Long thời Lý –

Trần – Lê. Trung tâm là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý – Trần, điện

Kính Thiên thời Lê. Năm 1788, khi vua Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân –

Huế và sau đó nhà Nguyễn (1802-1945) cũng định đô tại đây thì thành Thăng

Long trở thành trụ sở của Trấn Bắc thành. Năm 1805, vua Gia Long cho xây

dựng khu vực này làm hành cung để vua sử dụng mỗi khi các vua nhà

48

Nguyễn “Bắc tuần”. Tên “Thành cổ Hà Nội” xuất hiện từ năm 1831, khi vua

Minh Mạng thực hiện cuộc cải cách hành chính lớn, thành lập các tỉnh trên cả

nước, trong đó có tỉnh thành Hà Nội, đây chính là trụ sở của tỉnh Hà Nội.

Thời Pháp thuộc (cuối thế kỉ XIX), thực dân Pháp phá bỏ hành cung

Kính Thiên và xây dựng trụ sở chỉ huy pháo binh tại đây. Ngôi nhà này được

gọi là nhà Con Rồng (Long Trì) do phía trước và phía sau đều có rồng đá chầu.

Sau ngày 10/10/1954, khi quân ta vào tiếp quản Thủ đô khu vực này

trở thành nơi làm việc của Bộ Quốc phòng. Năm 2004, Bộ Quốc phòng bàn

giao lại một phần diện tích khu vực trung tâm (trục chính tâm) thành cổ

Thăng Long – Hà Nội cho Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội quản lý.

Về kiến trúc điện Kính Thiên là di tích trung tâm, là hạt nhân chính

trong tổng thể các địa danh lịch sử của thành cổ Hà Nội. Trước thềm điện

Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột Cờ Hà Nội, phía sau có Hậu Lâu, Cửa

Bắc, hai phía đông và tây có tường bao và mở cửa nhỏ. Các cửa này đã được

nhà nước Bảo hộ Pháp liệt hạng từ năm 1925 cùng với một số di tích khác ở

thành cổ. Điện Kính Thiên là công trình trung tâm của Hoàng cung thời nhà

Lê (thế kỉ XV – XVIII) ở Thăng Long – Đông Kinh (Hà Nội). Năm 1428, sau

chiến thắng quân Minh, Lê Thái Tổ tiếp tục đóng đô tại Thăng Long, cho sửa

sang xây dựng lại hoàng thành bị hư hại. Đến năm 1886, điện bị phá hủy, hiện

chỉ còn di tích thềm bậc và nền điện (trong khu Thành cổ Hà Nội ngày nay).

“Quan sát kiến trúc điện Kính Thiên qua các bức ảnh do người Pháp

chụp cuối thế kỉ XIX, chúng ta có thể thấy đây là một kiến trúc gỗ gồm 2 nếp

hình chữ Nhị (二). Nhà làm kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái với các góc đao

cong. Bờ nóc của cả hai nếp nhà đều đắp nổi đôi rồng chầu mặt trời. Quanh

điện có sân rộng được xây lan can bao cả 4 phía. Dấu tích điện Kính Thiên

hiện nay chỉ còn là khu nền cũ. Nền điện dài 57 mét, rộng 41,5 mét, cao 2,3

mét và thềm bậc xây bằng đá xanh tạo thành ba lối vào. Phía Nam nền điện

còn có hàng lan can cao hơn 100cm. Mặt trước, hướng chính nam của điện

Kính Thiên là thềm điện xây bằng những phiến đá hộp lớn bao gồm 10 bậc có

49

4 rồng đá chia thành 3 lối lên đều nhau tạo thành Thềm Rồng. Thềm bậc có

kích thước ngang 13,7m; dọc 4,45m; cao 2,1m với đôi rồng đá khắc chạm

năm 1467 là những bộ phận điêu khắc đá còn tương đối nguyên vẹn. Rồng đá

điện Kính Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật, kiệt tác tiêu biểu thời Lê

sơ. Phía bắc của nền điện còn có một thềm 7 bậc lên xuống nhỏ hơn so với

bậc thềm chính ở phía nam. Hai bên bậc thềm có 2 rồng đá mang niên đại Lê

Trung Hưng (thế kỉ XVII – XVIII), than rồng dài 3,4m, uốn bảy khúc, than có

vẩy, lưng như hàng vây cá, chân rồng 5 móng. Hai bên lan can trang trí hoa

sen, song, nước, đao, lửa, vân mây,..” [41]. Tháng 10 năm 2004, khi chính

thức mở cửa đón du khách, khu vực thành cổ - Điện Kính Thiên đã trở thành

một trong những điểm tham quan cực kỳ hấp dẫn và là nơi trung tâm thu hút

khách du lịch.

3) Đoan Môn

Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm

năm cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng năm 1805 – 1812,

triều Nguyễn Gia Long phá, xây Cột Cờ (hiện vẫn còn). Năm 2002, giới Khảo

cổ học Việt Nam được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy “lối xưa xe

ngựa” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu khai quật tiếp, sẽ có thể

thấy cả con đường từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên ở phía Bắc và cửa Tây

Nam thành Hà Nội.

4) Đồ gốm sứ

Khai quật từ năm 2002, với diện tích khai quật lớn nhất từ trước tới

nay, khu di tích đã phát lộ một hệ thống di tích, di vật vô cùng phong phú, đa

dạng. Bên cạnh những dấu vết kiến trúc đan xen, chồng xếp lên nhau qua

nhiều thời kỳ lịch sử là hàng triệu hiện vật được tìm thấy trong lòng đất.

Nhiều hơn cả là đồ gốm sứ thể hiện sự phát triển của kinh đô Thăng Long,

kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XII đến thế kỉ XVIII. Đồ gốm sứ nước

ngoài khá phong phú như: Tượng sư tử men ngọc của lò gốm Tây Thôn

(Quảng Đông – Trung Quốc). Vò gốm men xanh, bình rượu men trắng của lò

50

gốm Trường Sa (Hồ Nam – Trung Quốc) thời Đường thế kỉ VIII – IX. Đặc

biệt là các mảnh gốm men xanh lam vùng Hồi giáo Tây Á (Islam). Bên cạnh

đồ gốm Trung Quốc là các loại đồ gốm được sản xuất trong nước như gốm

men xanh, men nâu của lò Thanh Lãng, Lũng Hòa (Vĩnh Phúc), đồ sành của

lò Đương Xá (Bắc Ninh). Dấu ấn của đồ gốm sứ sau mỗi triều đại không

giống nhau, tạo nên nét đặc trưng của mỗi thời kỳ trị vì.

- Đồ gốm thời Lý có chất lượng cao, gồm các dòng gốm men ngọc,

men trắng, men vàng, men xanh lục và hoa nâu với nhiều kiểu loại như bình,

vò bát, đĩa, âu, chậu, đĩa đài sen, hộp có nắp,.. Trong số đó có nhiều đồ gốm

sứ cao cấp, được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí mang tính biểu trưng cao

quý như hình rồng, hoa sen, hoa cúc, văn như ý,.. Rất độc đáo là di vật nắp

hộp men xanh lục, có đường kính 18,5cm, trang trí rồng uốn khúc, dải vân

mây hình khánh, văn như ý và dải văn nhũ đinh.

- Bằng chứng sinh động về cuộc sống Hoàng cung Thăng Long thời

Trần được phản ánh rõ qua sự phong phú, đa dạng của các đồ dùng trong sinh

hoạt hàng ngày như đồ gốm sứ, đồ sành, đồ kim loại,... Trong đó, đồ gốm hoa

nâu có kích thước lớn, khối hình chắc khỏe, hoa văn khoáng đạt được thời

Trần rất ưa chuộng. Thạp gốm hoa nâu, trang trí hoa sen dây, chậu gốm hoa

nâu, trang trí chim khách trong đầm sen, loa gốm men nâu, trang trí khắc

chìm văn cánh sen và dây lá cuốn là những hiện vật tiêu biểu, độc đáo của

thời kỳ này.

- Phát hiện quan trọng, phản ánh đời sống cao cấp của Hoàng cung

Thăng Long thời Lê là những sưu tập đồ gốm sứ được sản xuất tại lò Thăng

Long. Sự hoàn hảo và tinh tế của các loại gốm trắng mỏng, đồ gốm hoa lam

cao cấp trang trí rồng chân có 5 móng, in chữ Quan hay Kính, đồ ngự dụng

dành cho nhà vua. Đặc sắc là loại gốm “ngói ống hình con rồng”, hình tượng

hóa các con rồng có thân và vây lưng nằm trải dài theo dốc mái. Đây là loại

ngói duy nhất có ở Thăng Long, thể hiện sự sáng tạo, độc đáo trong nghệ

51

thuật trang trí kiến trúc Hoàng cung Thăng Long thời Lê sơ.

- Đồ gốm thời Lê là những đồ dùng sinh hoạt hằng ngày trong cung

điện được tìm thấy tương đối nhiều trong các khu vực khai quật thuộc khu

vực Hoàng thành Thăng Long (các hố khai quật ở khu vực đường Hoàng

Diệu, Hà Nội). Nét nổi bật của đồ gốm thời Lê là phong cách tráng gốm trắng

mỏng, trang trí nổi hình rồng 5 móng đế vương, hình ảnh đặc trưng của thời

Lê, giữa lòng có chữ Quan cũng với đồ gốm hoa lam cao cấp vẽ hình rồng,

phượng. Theo Bùi Minh Trí (Viện Khảo cổ học Việt Nam) khẳng định chất

lượng hoàn hảo của những đồ sứ này đã đạt tới trình độ cao không thua kém

đồ sứ ngự dụng của các vua đời Minh (Trung Quốc). Phát hiện quan trọng này

là những hình ảnh đầu tiên cho chúng ta biết chân xác về những loại gốm ngự

dụng đặc sắc của Việt Nam dung trong hoàng cung Thăng Long thời Lê sơ

(thế kỉ XV). Những đồ sứ này hiện nay mới chỉ tìm thấy ở hai di tích lớn và

quan trọng của nhà Lê (Lam Kinh – Thanh Hóa) và Hoàng thành Thăng

Long. Cho thấy đây là những đồ vật quý chỉ được dung trong Hoàng cung và

những nơi liên quan đến sinh hoạt của vua và hoàng gia. Đồ sứ trắng mỏng

của lò quan Thăng Long chủ yếu là các loại bát, đĩa cỡ nhỏ, có xương gốm

mỏng như vỏ trứng mà khi cầm soi lên có thể nhìn thấy hoa văn trang trí bên

trong. Thuật ngữ chuyên môn gọi đây là sứ thấu quang. Trong lòng loại gốm

này thường được trang trí hoa văn ám họa theo cách in nổi hình hai con rồng

chân có 5 móng và giữa long in chữ Quan. Chữ Quan ở đây được hiểu theo

hai nghĩa: Quan diêu là sản phẩm của lò quan và quan dụng là đồ dùng dành

cho vua quan. Do được đặc chế với loại xương gốm rất mỏng nên trọng lượng

của đồ vật rất nhẹ và khi cầm trên tay, buộc người cầm phải có ý thức cẩn

thận. Có thể thấy đây là những đồ vật rất quý hiếm, dành riêng cho các vua

nhà Lê sơ.

- Các đồ gốm thời Nguyễn được tìm thấy chủ yếu là gốm hoa lam, gốm

men trắng ngả vàng và gốm men nâu. Trong đó, gốm Bát Tràng tìm thấy khá

nhiều, chủ yếu là các loại âu, liễn có nắp, bình vôi, các loại chén nhỏ và các

52

loại bát, đĩa lòng rộng vẽ cành trúc, khóm trúc hay hoa cúc.

Như vậy, trong mỗi giai đoạn, đồ gốm sứ có những bước phát triển, sự

giao thoa với kỹ thuật làm gốm của các nước khác càng khẳng định bản chất

đặc trưng của đồ gốm Việt.

5) Sự giao thoa văn hóa giữa Hoàng thành Thăng Long và các nước

trong khu vực châu Á

Trong số những di vật thu thập được trong quá trình khai quật khảo cổ

học ở khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long có rất nhiều di vật thời Lý,

Trần mang đậm phong cách văn hóa Chăm, Ấn Độ. Những chứng cứ này cho

thấy văn hóa Phật giáo tại Hoàng thành Thăng Long thời Lý có sức ảnh

hưởng rất lớn tới xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

“Mảnh tháp sứ men trắng chạm hình tiên nữ (Apsara) đang say sưa với

điệu múa như thực như hư đã tìm thấy tại các điểm khai quật trong khu Trung

tâm Hoàng thành Thăng Long. Đây là loại hình chạm khắc thường gặp trong

Ấn Độ giáo (đạo Hinđu) và trong các thần thoại Phật giáo. Bên cạnh đó, còn

có những viên gạch chạm khắc hình ảnh chim thần (Garuda) được tìm thấy rất

nhiều tại các điểm khai quật trong Hoàng thành Thăng Long. Garuda là loài

chim thần trong Ấn Độ giáo và sau đó ảnh hưởng sang Phật giáo Nam tông.

Đây là con vật cưỡi của thần Vishu, có đầu người, mình chim, có đầy đủ chân

tay và cánh. Những viên gạch chạm khắc hình Garuda trong khu Hoàng thành

Thăng Long cho thấy hình ảnh Garuda đang nâng trên lưng một góc cung

điện (viên gạch góc) với vẻ mặt khá dữ như sẵn sàng xé xác bất cứ kẻ nào

dám xâm phạm tới nơi mà Garuda đang bảo vệ.

Bên cạnh những viên gạch chạm khắc hình ảnh Garuda, người ta cũng

tìm thấy rất nhiều mảnh vỡ của bình rượu có chạm khắc hình ảnh nữ thần

chim (Kinnari) trong các khu khai quật của Hoàng thành Thăng Long.

Tất cả những hình tượng trên đều là những hình tượng trang trí đặc

trưng của kiến trúc Chămpa. Khi những hình tượng này xuất hiện cùng với

những hình tượng trang trí mang đậm nét văn hóa của người Việt tạo ra một

53

sự giao thoa văn hóa rất hài hòa, tinh tế. Nhà nghiên cứu Bùi Minh Trí đã

nhận xét rằng đây là minh chứng sinh động về sự ảnh hưởng của nghệ thuật

Ấn Độ giáo đến Thăng Long vào thời Lý bằng con đường gián tiếp qua các

nước Đông Nam Á, trong đó có Chămpa. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng,

trước khi đạo Phật và văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam,

người Việt – Mường cổ, người Chăm và các tộc người khác cư trú ở các vùng

đất Việt Nam đã có tín ngưỡng thờ chim. Trong sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của

người Mường, “Chim Tùng và chim Tót” – chim trống và chim mái đã sinh ra

người Mường, người Việt và người Dao. Truyền thuyết của người Việt cũng

ghi rằng: Âu Cơ là giống tiên (giống chim) lưỡng hợp với Lạc Long Quân

(giống rắn), đẻ ra 100 trứng, nở ra 100 con chính là tổ tiên của các dân tộc

đang sinh sống trên đất Việt Nam. Bởi vậy, việc đưa tượng đầu người mình

chim vào chùa chiền và kinh thành chính là sự thể hiện tín ngưỡng này của

các tộc người Việt” [40, tr. 73].

Bên cạnh đó còn có sự xuất hiện của hai nửa viên gạch duy nhất có

khắc những ký tự chữ Phạn (Sanskrit) được phát hiện thấy ở khu Hoàng thành

Thăng Long. Nó xen lẫn với rất nhiều các loại gạch xây khác của Đại Việt

như: Đại Thông Độ, Long Thụy Thái Bình, Hoàng Môn Thự, Đại Việt Quốc

Quân Thành Chuyên... Hai nửa viên gạch có chữ Chăm nằm lẫn trong đám

gạch của Đại Việt cho ta có nhiều suy đoán khác nhau về nguồn gốc và sự

xuất hiện đặc biệt của nó trong số những viên gạch thuần Việt khác. Hai nửa

viên gạch này nên được xem là những chứng cớ ban đầu về sự góp mặt, tham

gia xây dựng hay sản xuất vật liệu cho những công trình kiến trúc cung đình

đương thời của người Chăm. Rất có thể một thợ xây, làm gạch người Chăm

nào đó, khi phải làm gạch theo mẫu do triều đình Đại Việt quy định, đã không

quên để lại dấu ấn riêng của quê hương - văn hoá Chăm lên những sản phẩm

mà mình phải đổ công sức và tâm huyết làm ra... Có lẽ còn có rất nhiều các

suy đoán khác nhau về nguồn gốc, vai trò, chức năng của nó so với những

viên gạch có chữ Hán cùng loại. Về hình thức, hai nửa viên gạch có chữ

54

Chăm được tìm thấy không còn nguyên vẹn, nó đã bị vỡ đôi với nhiều góc

cạnh sứt mẻ. Tuy nhiên, dòng chữ Chăm khắc chìm lại rất rõ ràng trên thân

gạch, nên có thể xác định từng ký tự cụ thể. Điều này cho phép các nhà

nghiên cứu có thể xác định được nội dung ghi trên gạch. Tuy nhiên, cho tới

nay do hạn chế về ngôn ngữ Chăm cổ nên chưa thể hiểu rõ nội dung ghi trên

viên gạch tới”. Song đây là bằng chứng của việc có những người Chăm tham

gia công cuộc xây dựng Hoàng Thành, càng làm đậm thêm ấn tượng đó (cũng

như gần đây tại khu di tích Mỹ Sơn đã tìm thấy những viên gạch có chữ Trần

– dấu tích của người Đại Việt tham gia xây dựng sửa chữa đền tháp Mỹ Sơn).

Điều khác biệt so với những Di sản văn hóa Đông Nam Á nêu trên là ở Thăng

Long, các biểu tượng trên không mang duy nhất một ý nghĩa của Phật giáo

mà ta có thể tìm thấy ở đó nhiều tầng nghĩa nữa, như ảnh hưởng của văn hóa

Chămpa trong nghệ thuật điêu khắc, các biểu tượng phổ biến của tôn giáo An

Độ, và cả nghệ thuật dân gian Đại Việt hồi sinh sau ngàn năm “Bắc thuộc”,

bên cạnh hướng lý giải khá phổ biến là từ điển tích và ý nghĩa biểu tượng của

văn hóa Trung Hoa. Ví như có thể lý giải hình tượng chim Phượng như một

hình thức của Garuda, hay Uyên ương ngỗng thần Hamsa.

2.3. Những yêu cầu sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy

học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông

Trong quá trình tham gia giáo dục lịch sử, đặc biệt là giáo dục lịch sử

dân tộc trong trường THPT, việc sử dụng di sản văn hóa chính là một bộ phận

quan trọng góp phần giúp cải thiện tích cực tình trạng học tập bộ môn. Việc

kết hợp với đồ dùng trực quan cùng các tài liệu tham khảo, di sản văn hóa

càng khẳng định rõ vị thế của nó trong công tác giảng dạy môn lịch sử đòi hỏi

sự thay đổi mạnh mẽ, tạo nên sức sống cho bản thân di sản.

Do đặc điểm của di sản Hoàng thành Thăng Long là một loại tài liệu

đặc biệt nên việc sử dụng hợp lý, vừa phải tuân thủ những yêu cầu dạy học

lịch sử nói chung, linh hoạt sáng tạo theo một số nguyên tắc như sau:

2.3.1. Khai thác tính trực quan sinh động của di sản Hoàng thành Thăng

55

Long

Quá trình nhận thức của học sinh về bộ môn Lịch sử có những đặc

điểm riêng biệt. Bản thân lịch sử là một chuỗi các sự kiện đã xảy ra kế tiếp

nhau nhưng theo một quy luật của nó. Lịch sử đối với học sinh THPT chính là

sự phát triển nhận thức ở mức độ logic hơn, mối liên hệ chặt chẽ và hệ thống

chứ không phải chỉ là những sự kiện cơ bản, phổ thông về quá trình phát triển

theo quy luật của dân tộc, từ khi con người xuất hiện đến ngày nay như đối

với học sinh ở bậc học cơ sở. Lý luận dạy học bộ môn đã chỉ ra rằng, sự kiện

lịch sử là cơ sở của quá trình nhận thức lịch sử của học sinh. Sự kiện càng cụ

thể, chính xác, phong phú, sinh động thì việc tạo biểu tượng, hình thành khái

niệm lịch sử cho học sinh càng khắc sâu và mang tính bền vững.

Những gì xảy ra trong quá khứ không bao giờ lặp lại nguyên si trong

hiện tại. Tất cả các sự kiện lịch sử không thể tái tạo trong phòng thí nghiệm

như môn vật lý, hóa học, sinh học, mặc dù trình độ khoa học công nghệ của

con người ngày càng phát triển. Thế giới công nghệ có thể thay đổi và cải

thiện cuộc sống của con người, song với các sự kiện lịch sử chỉ có thể phục

dựng một phần hoặc từng mặt sự kiện với mục đích lưu giữ cho thế hệ tương

lai. Giáo viên không thể bắt học sinh nhận thức ngay các sự kiện đang xảy ra.

Quá trình nhận thức của học sinh phải bắt đầu bằng việc tạo biểu tượng lịch

sử chứ không phải bằng xúc giác. Theo Lênin, biểu tượng lịch sử được gây

dựng trên cơ sở những sự kiện chính xác, cơ bản, điển hình. Chỉ dựa trên cơ

sở những sự kiện lịch sử cụ thể, chính xác thì học sinh mới có những hình ảnh

về quá khứ, đặt nền tảng vững chắc cho việc hình thành khái niệm lịch sử. Bài

học lịch sử được tạo ra bởi những biểu tượng lịch sử đầy tính chính xác, đa

dạng, phong phú về các sự kiện lịch sử đã xảy ra.

Có thể nói, với mục đích nêu trên, phương tiện trực quan đóng góp vai

trò to lớn. Chính các phương tiện trực quan góp phần tạo biểu tượng cho học

sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử. Đồ

dùng trực quan không chỉ giúp học sinh có hứng thú học tập mà còn tăng khả

56

năng ghi nhớ, hiểu một cách sâu sắc các sự kiện bởi tâm lý học đã khẳng định

rằng những hình ảnh nhận thức qua các phương tiện trực quan là những hình

ảnh lưu giữ lâu bền nhất trong trí óc.

Phương tiện trực quan có tác dụng rèn luyện cho học sinh các kỹ năng

quan sát, trí tưởng tượng, mô tả, phân tích, liên hệ, trau dồi khả năng ngôn

ngữ. Bất cứ phương tiện trực quan nào cũng đòi hỏi học sinh huy động tất cả

các thao tác của tư duy. Học sinh ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có sự tò mò,

hứng thú khi tiếp xúc với những hiện vật. Nắm bắt được yêu cầu của đối

tượng sẽ tăng khả năng hứng thú học tập cho học sinh, tạo nên chiếc cầu nối

giữa hiện thực quá khứ khách quan với đời sống hiện tại.

Lịch sử giáo dục Việt Nam chứng kiến sự thay đổi của nhiều phương

pháp dạy học hiện đại để phù hợp với xu hướng học tập trên thế giới, đáp ứng

yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Xuất phát điểm từ các phương pháp

dạy học truyền thống “thầy đọc – trò ghi” hay dạy chay mà không dùng tới

các phương tiện trực quan. Công cụ của thầy khi lên lớp chính là sách giáo

khoa, sách giáo viên, đối với học sinh chỉ là sách giáo khoa và quyển vở thì

việc dẫn tới tình trạng học môn lịch sử càng suy yếu, không tạo được nguồn

cảm hứng cho học sinh là điều dễ hiểu. Theo Sácđacốp trong “Tư duy học

sinh” đã khẳng định: “Nhiệm vụ thứ nhất của tính trực quan là cung cấp cho

học sinh tới mức tối đa các tri thức cụ thể, các biểu tượng trong sáng và muôn

hình muôn vẻ về các sự vật, hiện tượng đang học, nhằm phát huy nhận thức

cảm tính, tích lũy các biểu tượng về các sự kiện để hoàn thiện các tri thức

khái quát” [33, tr. 35]. Ông cũng cho rằng: “Có thể thực hiện nhiệm vụ này

bằng cách tổ chức cho học sinh tri giác các di tích lịch sử, các di sản văn hóa”

[33, tr. 36].

Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn liền với lịch sử kinh

thàn Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội, bắt đầu từ thời kì tiền

Thăng Long (An Nam đô hộ phủ - thế kỉ VII) qua thời Đinh – Tiền Lê, phát

triển mạnh dưới thời Lý – Trần – Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây

57

là công trình kiến trúc đồ sộ, trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử

dân tộc, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở

thành một di sản quan trọng bậc nhất ở nước ta. Chính vì vậy, khi giảng dạy

về các sự kiện lịch sử có liên quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long cần

lựa chọn các di vật tiêu biểu, tác động mạnh tới trực quan của học sinh.

Ví dụ, các hình ảnh về các loại vật liệu kiến trúc: ngói âm dương, trang

trí họa tiết mặt linh thú, mặt hề, hoa sen, gạch chữ nhật chiếm số lượng nhiều

phổ biến có màu xám đen dùng để xây cống, giếng nước, đường đi hay bó nền

các kiến trúc. Đặc biệt về đồ gốm dưới mỗi triều đại đều mang những nét đặc

trưng riêng. Có thể thấy, gốm thời Lý chất lượng cao bao gồm các dòng gốm

men ngọc, men trắng, men vàng, men xanh lục và hoa nâu với nhiều kiểu loại

như bình, vò bát, đĩa, âu, chậu, đĩa đài sen, hộp có nắp,... Trong số đó có

nhiều gốm sứ cao cấp được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí mang tính biểu

trưng cao quý như hình rồng, hoa sen, hoa cúc, văn như ý,... Độc đáo hơn cả

là di vật nắp hộp men xanh lục, có đường kính 18,5cm, trang trí rồng uốn

khúc, dải văn mây hình khánh, văn như ý và dải văn nhũ đinh.

Để có thể khai thác trọn vẹn tính trực quan sinh động của học sinh,

trong quá trình sử dụng di sản Hoàng Thành Thăng Long giáo viên cần có sự

linh hoạt trong cách miêu tả và lựa chọn các hình ảnh phù hợp.

2.3.2. Đảm bảo tính khoa học, sư phạm

Trước hết, giáo dục di sản văn hóa tại Việt Nam đã được triển khai thực

hiện từ lâu, nhưng đến giai đoạn hiện nay mới đặt ra phương pháp để giảng

dạy lâu dài và thường xuyên. Không phải mọi di sản văn hóa đều có thể sử

dụng dạy học trong bất kỳ tình huống nào, điều căn bản là phải tìm cách thức

giúp giáo viên nhận biết di sản phù hợp với bài dạy và đối tượng học sinh.

Thứ hai, di sản văn hóa là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa

học khác nhau, trong đó có giáo dục bộ môn Lịch sử. Đối tượng học sinh chủ

yếu sử dụng những tư liệu sẵn có của di sản để tăng sự phong phú cho bài

học, cụ thể hóa các sự kiện lịch sử đã diễn ra tại di sản chứ không tập trung

58

nghiên cứu về di sản văn hóa đó. Chính vì vậy, tính quá khứ của di sản rất cần

được khai thác triệt để. Đặc biệt, khi sử dụng di sản chính là lúc giáo viên cần

lựa chọn nội dung cho phù hợp với yêu cầu bài học, chương trình, sách giáo

khoa lịch sử với đối tượng là học sinh THPT. Ở đối tượng này chính là sự

phát triển mạnh về tư duy lôgic, khả năng nhận xét, phán đoán. Tuy nhiên,

việc sử dụng nguyên bản những gì có trong sách giáo khoa sẽ là nhàm chán,

không kích thích trí tò mò ở lứa tuổi cần có sự định hướng rõ rệt cho tương lai

sắp tới của các em. Vì vậy, khi khai thác nội dung lịch sử cần có sự đa dạng

trong tổ chức. Ví dụ, tổ chức tham quan di sản, xây dựng trò chơi lịch sử,

cuộc thi tìm hiểu lịch sử Hoàng thành Thăng Long, xây dựng đoạn phim ngắn

giới thiệu về khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long,...

Thứ ba, di sản văn hóa nói chung thường được dân gian truyền tụng

qua nhiều bài thơ ca, vè, hoặc các tác phẩm dã sử mà ở đó tính chân thực thấp

hơn nhiều, chủ yếu mang yếu tố huyền thoại. Do đó, di sản văn hóa phải được

tìm hiểu trên nhiều khía cạnh, chú trọng tính khoa học, tập trung khai thác nội

dung hiện thực lịch sử để dễ dàng bóc tách lớp vỏ thần bí bao phủ bên ngoài.

Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quá trình nhận thức lịch sử và tâm

lý học sinh THPT, mục đích của giáo dục thông qua di sản là nhằm hình

thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản

văn hóa, rèn luyện tính chủ động sáng tạo trong công tác đổi mới phương

pháp học tập.

Trên thực tế, việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học nói chung, bộ

môn Lịch sử nói riêng đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức trong đội ngũ

cán bộ quản lý và giáo viên. Việc tổ chức tốt công tác sưu tầm các tư liệu,

hình ảnh và xử lý các thông tin, viết các bài báo cáo trình bày kết quả đã đem

lại những dấu hiệu tích cực cho ngành giáo dục.

Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học đòi hỏi bản thân giáo viên

phải là người am hiểu nhiều mặt, nhiều tri thức có liên quan, đặc biệt là yếu tố

liên môn (Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Tin học,...). Hơn nữa, việc sử

59

dụng thành thạo công nghệ thông tin trở thành yêu cầu đối với mỗi giáo viên

để giờ học không chỉ trên sách vở mà cần hơn hết sự ghi nhớ bằng hình ảnh,

sơ đồ, những mô phỏng hiện vật của di sản. Tóm lại, tính khoa học và tính sư

phạm là một trong những yêu cầu cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi

giáo viên khi triển khai bài dạy sử dụng di sản văn hóa.

2.3.3. Phát huy tính tích cực trong nhận thức của học sinh

Sự chủ động của học sinh không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi chương

trình sách giáo khoa, môi trường học tập, mà còn là sự đổi mới trong phương

pháp giảng dạy. Hướng tới những mục tiêu giáo dục nhằm tăng cường sự chủ

động, tích cực nhận thức của học sinh.

Trước hết, cần tạo ra nhiều tình huống có vấn đề để học sinh tìm hiểu,

khai thác. Trong quá trình làm việc với nguồn sử liệu của di sản văn hóa, học

sinh sẽ được giáo viên hướng dẫn, quan sát, vận dụng những nội dung lịch sử

chứa đựng trong di sản nhằm bổ sung cụ thể hóa cho các sự kiện đã học. Ví

dụ, trong bài 17: “Quá trình hình thành và phát triển nhà nước phong kiến (từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV), mục II: Phát triển và hoàn chỉnh nhà nước phong

kiến ở các thế kỉ XI – XV, giáo viên đặt học sinh vào tình huống cần giải

quyết: “Tại sao Lý Công Uẩn lại lựa chọn Thăng Long là nơi định đô của bậc

đế vương muôn đời?”. Để trả lời được câu hỏi này, học sinh cần huy động

kiến thức để trả lời các câu hỏi nhỏ như:

+ Hoàn cảnh đất nước sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua?

+ Vị trí của Thăng Long lúc bấy giờ?

+ Tên Thăng Long xuất hiện như thế nào?

Việc phát huy khả năng nhận thức, sự hứng thú làm việc tích cực của

mỗi cá nhân trong cả buổi học, nâng cao chất lượng của giờ học.

Thứ hai, khai thác tính trực quan của di sản văn hóa, giáo viên khơi gợi

và duy trì hứng thú của học sinh, đặc biệt qua lời kể hoặc bằng hình ảnh, hiện

vật. Sử dụng di sản một cách trực quan sinh động chính là bước khởi đầu tạo

60

biểu tượng giúp học sinh hình thành tri thức lịch sử.

Thứ ba, việc sử dụng di sản văn hóa để dạy học không có nghĩa là học

di sản. Chúng ta không bắt học sinh hiểu rõ di sản được cấu tạo như thế nào,

hiện vật hay dấu tích có độ dài, khoảng cách hay chiều sâu bao nhiêu mà hơn

hết, đặt trong bối cảnh lúc bấy giờ, di sản có ý nghĩa lịch sử như thế nào, vai

trò của nó trong lịch sử ra sao. Trên mỗi dấu tích ấy có gì hay tại sao lại được

công nhận là di sản văn hóa thế giới, được lưu truyền đến ngày nay... Di sản

văn hóa chính là tư liệu minh họa cho bài học trong sách giáo khoa nhằm tổ

chức các hoạt động học tập, phát hiện tri thức, khai thác kĩ năng của mỗi học

sinh trong từng hoạt động. Đặc biệt, với lứa tuổi học sinh trung học phổ thông

có sự phát triển cao về các kĩ năng tư duy lịch sử như quan sát, nhận xét, phán

đoán, giải thích, liên hệ. Với đối tượng này, các hoạt động phù hợp sẽ được

các em huy động để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Việc tiến hành các bài tập

có liên quan tới các kĩ năng nêu trên chính là bước khởi đầu của một nhà

nghiên cứu, tuy còn ở mức đơn giản sơ khai.

Thứ tư, từ nhận thức đúng đắn, nhiều giáo viên đã tích cực sử dụng di

sản văn hóa vào dạy học trong các bài học cụ thể, hoặc tổ chức các hoạt động

ngoài giờ lên lớp. Thông qua đó, năng lực của nhiều giáo viên đã được nâng

cao thể hiện ở khả năng thiết kế tiến trình dạy học và tổ chức hoạt động nhận

thức của học sinh. Nhiều kế hoạch bài học do chính giáo viên tự thiết kế đã

thể hiện rõ sự thông hiểu về quy trình sử dụng di sản trong dạy học. Giáo viên

đã có khả năng thiết kế nội dung dạy học phù hợp với việc sử dụng di sản văn

hóa trong dạy học bộ môn, đảm bảo dựa theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của

chương trình giáo dục phổ thông. Bên cạnh đó, sự thay đổi phương pháp và

hình thức tổ chức dạy học đã nhận được những dấu hiệu tích cực kể cả trong

công tác kiểm tra – đánh giá.

Đối với giờ dạy sử dụng di sản văn hóa, giáo viên là người đa năng,

vừa thiết kế hoạt động học tập, là người định hướng, hỗ trợ học sinh cũng

đồng thời là hướng dẫn viên du lịch của chính di sản đó. Có thể nói, di sản

61

văn hóa trong dạy học lịch sử không chỉ là nguồn tư liệu bất động mà chính là

tài liệu sinh động nhất mà ở đó cả giáo viên và học sinh đều có thể khai thác

phục vụ nhu cầu giảng dạy và học tập.

Tóm lại, xuất phát từ mục tiêu giáo dục, nhiệm vụ bài học, môi trường

học tập, kế hoạch giáo dục,...mà việc sử dụng di sản văn hóa vào dạy học bộ

môn lịch sử đòi hỏi những yêu cầu cơ bản như: khai thác tính trực quan sinh

động của di sản Hoàng thành Thăng Long, phát huy tính tích cực trong nhận

thức của học sinh, đảm bảo tính khoa học, sư phạm.

2.4. Các biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy

học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung học phổ thông Nguyễn

Bính, huyện Vụ Bản tỉnh N m Định

2.4.1. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng về các

sự kiện lịch sử cơ bản

Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều

kiện địa lí,... được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển

hình nhất. Như vậy, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức

thông qua việc tạo nên hình ảnh về quá khứ, bằng những hoạt động của các

giác quan: thị giác tạo nên những hình ảnh trực quan, thính giác đem lại

những hình ảnh về quá khứ thông qua lời giảng của giáo viên.

Với việc lựa chọn đối tượng học sinh trường THPT Nguyễn Bính,

huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, chúng tôi nhận thấy rằng các em có một số

đặc điểm cần chú ý khi lựa chọn biện pháp này như: hầu hết đối tượng nghiên

cứu có tỉ lệ tiếp xúc với di sản Hoàng thành Thăng Long ở mức thấp, kể cả

thông qua sách báo hay các chương trình truyền hình. Khi tiến hành phỏng

vấn, chúng tôi nhận thấy khoảng cách địa lý là rào cản lớn nhất khiến cho

giáo viên và học sinh ít có cơ hội sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong việc giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam lớp 10. Chính vì vậy, để các em

có thể tự tạo biểu tượng tiến đến hình thành khái niệm là việc làm cần thiết.

Từ hạn chế nói trên, chúng tôi đề xuất biện pháp sử dụng di sản Hoàng thành

62

Thăng Long để tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản, giúp các em có

thể dễ dàng tự xây dựng biểu tượng lịch sử. Bên cạnh đó, di sản Hoàng thành

Thăng Long sẽ làm phong phú nguồn kiến thức lịch sử Việt Nam trải dài gần

13 thế kỷ chứa đựng các tầng văn hóa độc đáo, minh chứng cho lịch sử Thăng

Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến.

Lý luận và phương pháp bộ môn Lịch sử chỉ ra rằng việc tạo biểu

tượng lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng trong học tập lịch sử ở trường THPT.

Do đặc điểm của sự nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ

trực quan sinh động mà từ việc hiểu rõ sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tuy

vậy, việc học tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận

thức: qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Có thể nói,

tạo biểu tượng lịch sử là giai đoạn nhận thức cảm tính của quá trình học tập

lịch sử.

Việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh là một vấn đề khó khăn vì yêu

cầu cơ bản của dạy học lịch sử là phải tái tạo lại những hình ảnh về các sự

kiện đúng như nó tồn tại, mà những sự kiện đó bản thân học sinh không được

trực tiếp quan sát và trải nghiệm. Ý nghĩa to lớn của việc tạo biểu tượng trong

dạy học lịch sử trước tiên là ở chỗ có cơ sở để hình thành khái niệm lịch sử.

Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ càng phong phú bao

nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu nhận được càng vững chắc bấy

nhiêu. Việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh không chỉ dừng ở việc miêu tả

bề ngoài của sự kiện mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính

chất của sự kiện lịch sử.

- Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng thông qua

các loại đồ dùng trực quan

Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc của lý luận dạy

học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành khái niệm trên cơ

sở quan sát trực tiếp hiện vật hay những đồ dùng trực quan minh họa về sự

63

vật, hiện tượng. Trong các loại đồ dùng trực quan tạo hình, nguồn tranh ảnh

lịch sử rất phong phú, dễ sưu tầm và phù hợp với việc tạo biểu tượng. Khi sử

dụng biện pháp này, giáo viên cần chú ý:

+ Lựa chọn các hình ảnh phù hợp với nội dung biểu tượng cần tạo cho

học sinh;

+ Bảo đảm tính chính xác, khoa học, tính giáo dục và thẩm mỹ;

+ Kết hợp đa dạng nhiều phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả.

Ví dụ, giáo viên sử dụng biểu tượng rồng trên hoa văn và vật liệu xây

dựng trong nội dung bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong

các thế kỷ X – XV”, mục I: “Tư tưởng, tôn giáo” để học sinh hiểu được sức

ảnh hưởng của tư tưởng lúc bấy giờ. Giáo viên có thể đặt học sinh vào tình

huống cần giải quyết với câu hỏi lớn: “Tại sao thế kỉ XV, Nho giáo lại chiếm

ưu thế hơn Phật giáo của thế kỉ X – XIV?”. Để có thể giúp học sinh hiểu được

vị trí độc tôn của Nho giáo, giáo viên sử dụng hình ảnh rồng khắc trên hoa

văn hoặc trên thềm Điện Kính Thiên, giới thiệu về chạm khắc rồng trên lá đa,

lá đề, hoa cúc, nêu sự khác nhau giữa các con rồng qua mỗi triều đại. Trọng

tâm của nội dung cần chú ý khai thác sự khác nhau của hình tượng con rồng

qua các triều đại. “Vào thời Lê (1428 – 1527), Nho giáo được trọng dụng làm

công cụ xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Từ thế kỷ XV, Nho giáo trở

thành tư tưởng chính thống thay thế vai trò của Đạo Phật, tạo cho nhà vua

những phương tiện để điều hành đất nước hiệu quả hơn. Nho giáo ủng hộ triệt

để chế độ xã hội có tôn ti và đẳng cấp, trong đó, Hoàng đế là người có quyền

lực tối cao, là đại diện cho Trời trên trần gian. Hình tượng đầy quyền uy của

vua là con rồng. Hình tượng rồng xuất hiện khắp nơi trong kiến trúc Hoàng

thành và trên các hiện vật khảo cổ tìm thấy tại khu Di tích Khảo cổ học 18

Hoàng Diệu” [40, tr. 74].

Giáo viên có thể giao nhiệm vụ trước cho học sinh về nhà tìm hiểu

“hình tượng rồng qua các triều đại Lý – Trần – Lê sơ”. Trên lớp, giáo viên

giới thiệu cho học sinh những nét điển hình nhất của hình tượng rồng trong

64

nghệ thuật kiến trúc bằng các đoạn miêu tả:

“Lịch sử có sự chuyển tiếp giữa các triều đại là một quy luật tất yếu.

Từ Lý chuyển sang Trần, hình tượng con rồng đã có nhiều thay đổi. Đó không

chỉ là sự thay đổi đơn thuần về phong cách, tạo hình mập mạp, khỏe khoắn

thay cho hình ảnh chau chuốt, tinh tế mà còn là sự thay đổi của một quan

niệm về hình tượng. Chính sự bành trướng của Nho giáo cùng với sự lớn

mạnh của chế độ tập quyền thời Trần đã làm cho hình tượng con rồng thời kỳ

này tiến thêm một bước trên con đường phong kiến hóa. Rồng thời Trần có vẻ

dũng mãnh hơn, đầy sức sống, thân rồng mập, uốn lượn không đều, có vây, có

vảy bụng chứ chưa có trên thân, đầu chỉ có 2 bờm, chân 3 móng,… ẩn hiện

sau rồng là mây. Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các

đường cong tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết

thúc như đuôi rắn. Có thể nói, rồng thời Trần tuy được kế thừa hình tượng

rồng thời Lý nhưng nó thực sự đã tạo cho mình những đặc điểm riêng khỏe

khoắn, mạnh mẽ như chính thời đại sản sinh ra nó, mang tính chất đặc thù

của một con rồng của chế độ phong kiến thời Trần”.

“Nhưng con rồng thời Lê sơ không uốn theo hình lá đề như thời Lý –

Trần và chân của nó thường có 5 móng sắc nhọn, dấu hiệu biểu trưng đẳng

cấp và quyền uy của Hoàng đế” [40, tr. 74].

Bên cạnh đó, ảnh hưởng của Phật giáo Đạo giáo hay Nho giáo còn thể

hiện qua các hiện vật và phong cách biểu đạt văn hóa của Hoàng thành, đặc

biệt trong giai đoạn từ thế kỉ XI – XIV. “Bằng chứng là nhiều ngôi chùa dành

riêng cho đời sống tôn giáo của Hoàng gia, hoặc các loại vật liệu xây dựng

các chân đế cột (bằng đá tạc hình hoa sen), các họa tiết kiến trúc (ngói lợp

diềm mái hiên trang trí hình lá đề đặc trưng cho kiến trúc cung điện ở Việt

Nam và nhiều hiện vật khác (bao gồm cả đồ gốm) được tìm thấy có hình

tượng của đạo Phật. Hình ảnh trang trí lá đề có mặt ở các chùa Phật Việt

Nam và cũng có mặt ở tất cả các công trình kiến trúc cung điện thời Lý –

Trần. Việc tìm thấy viên gạch in chữ Hưng Hóa thiền tự cho biết rõ đây là

65

viên gạch xây chùa Hưng Hóa thời Lý. Bên cạnh đó còn có nhiều loại gạch in

hình tháp Phật hay những mảnh vỡ của mô hình tháp Phật bằng đất nung

hoặc bằng sứ trắng trang trí hoa sen, tiên nữ” [40, tr. 72-73].

Như vậy, chỉ qua hình tượng rồng hay vật liệu kiến trúc giáo viên

hướng học sinh khai thác trên khía cạnh tư tưởng ảnh hưởng tới từng triều đại

khác nhau. Từ đó, học sinh trả lời khái quát câu hỏi lớn của mục I: “Tư tưởng,

tôn giáo” đã đặt ra từ đầu bài học: Nho giáo chiếm vị trí độc tôn vì lúc này

nhà nước quân chủ chuyên chế chế độ phong kiến Việt Nam đã đạt đến đỉnh

cao và hoàn chỉnh, mong muốn xây dựng nguyên tắc trung thành tuyệt đối với

nhà vua, thể hiện uy quyền của vua ngày càng mạnh mẽ.

Với biểu tượng về kiến trúc điêu khắc, giáo viên sử dụng để dạy bài 20:

“Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X – XV”, mục II:

“Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học – kĩ thuật”, phần 3: “Nghệ thuật”.

Giáo viên có thể chia nhóm học sinh để tìm hiểu lần lượt từng câu hỏi:

+ “Kể tên những kiến trúc tiêu biểu thế kỉ X – XV, phân biệt đâu là

kiến trúc ảnh hưởng đạo Phật, Nho giáo?”

+ “Nêu nét độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc?”

+ “Nhận xét gì về đời sống văn hóa của nhân dân thời Lý – Trần – Hồ?”

Giáo viên tập trung cho học sinh khai thác các tác phẩm điêu khắc

mang họa tiết hoa văn độc đáo mang âm hưởng của Đạo Phật và Nho giáo.

Đồ án trang trí lá đề, rồng, phượng có mặt ở các chùa Phật và kiến trúc cung

điện thời Lý – Trần đều được tạo dáng, bố cục theo khuôn hình lá đề. Đặc biệt

là mảnh tháp sứ men trắng trang trí hình tiên nữ (Apsara) đang nhảy múa

mang đậm phong cách nghệ thuật Chămpa, là một minh chứng sinh động ảnh

hưởng của nghệ thuật Ấn Độ đến Thăng Long vào thời Lý. Những mô típ hoa

văn mang phong cách Chămpa tương tự như hình ảnh chim thần (Garuda) hay

nữ thần (Kinnari) xuất hiện đồng thời và hòa quyện với những mô típ hình

rồng, hoa lá mang đặc trưng phong cách Việt, phản ánh rõ sự dung hợp giữa

hai nền văn hóa, đồng thời là sự ảnh hưởng sâu đậm của nghệ thuật Chămpa

66

đến nghệ thuật Hoàng cung đương thời.

Như vậy, với từng nội dung khác nhau, giáo viên có thể vận dụng linh

hoạt những hiện vật được trưng bày tại Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng

Long để cung cấp cho học sinh những thông tin về sự kiện lịch sử đã diễn ra

tại đây. Đồng thời, với việc sử dụng hợp lý sẽ giúp học sinh hiểu rõ bản chất

của hiện vật, hình dung và đưa ra những nhận định lịch sử đúng đắn.

Trong dạy học lịch sử, những hiện vật trong khu Di sản Hoàng thành

Thăng Long chính là những minh chứng lịch sử sống động và cụ thể nhất giúp

học sinh có được biểu tượng sâu sắc về từng thời đại. Nhưng trước hết, với bộ

môn Lịch sử, việc tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản chính là cách

giúp học sinh hiểu rõ quá khứ. Với giá trị lịch sử trải dài suốt 13 thế kỷ,

Hoàng thành Thăng Long thể hiện được tính liên tục dài lâu của sự phát triển

chính trị, văn hóa. Điều quan trọng là trong từng tiết dạy học trên lớp và cả

quá trình dạy học, giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra

học sinh sẽ giúp bài học trở nên sinh động, học sinh dễ nhớ, dễ hình dung về

các sự kiện hiện tượng lịch sử được cung cấp trong bài học. Đồng thời qua đó

giúp các em hiểu hơn về chính di sản đang được tìm hiểu, giá trị toàn cầu mà di

sản mang lại. Từ đó, học sinh được định hướng thị hiếu thưởng thức văn hóa và

là đối tượng tuyên truyền, bảo vệ và phát huy những giá trị di sản quý giá.

- Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng thông qua

việc xây dựng các đoạn miêu tả sự kiện lịch sử

Đối với những sự kiện, hiện tượng xảy ra trong lịch sử, không có trong

sách giáo khoa, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của

Hoàng thành Thăng Long như: các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thế kỉ I đến đầu

thế kỉ X; xây dựng thành Cổ Loa; Công cuộc dời đô của nhà Lý; phát triển

kinh tế, văn hóa thế kỉ X - XV... Giáo viên sử dụng tài liệu viết về Hoàng

thành Thăng Long để liên hệ thực tế khi dạy học những sự kiện lịch sử dân

tộc, đồng thời giúp học sinh biết được những đóng góp của thế hệ trước đối

với quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc. Có

67

thể thấy, tài liệu viết về Hoàng thành Thăng Long trong phạm vi Lịch sử Việt

Nam lớp 10 khi liên hệ, minh họa cho những sự kiện, hiện tượng lịch sử dân

tộc là vô cùng phong phú và đa dạng. Giáo viên cần khai thác một cách triệt

để nhằm làm phong phú thêm kiến thức lịch sử dân tộc.

Ví dụ, để giải thích lý do lựa chọn địa thế của Kinh thành trong Chiếu

dời đô của vua Lý Thái Tổ năm 1010, giáo viên có thể trích dẫn một đoạn

trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Huống gì thành Đại La, kinh đô

cũ của Cao Vương: ở nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã

đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế

rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập

lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ nơi

này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước;

cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. [12, tr. 240-241].

Trung tâm của quy hoạch Hoàng thành chính là núi Nùng. Đó là một khu đất

cao hơn hẳn các khu vực xung quanh, đất Long Đỗ (Rốn rồng), đất thiêng của

cả Kinh thành và đất nước, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh Hoàng thành. Việc

chọn địa thế của Kinh thành cũng như phương hướng của thành Thăng Long

được coi là mẫu mực trong kiến trúc quy hoạch hiện nay.

Hoặc, để có thể hình dung sơ lược về khu Di sản 18 Hoàng Diệu, giáo

viên có thể sử dụng đoạn miêu tả sau: “Di tích này bao gồm tầng dưới cùng

là một phần bên phía đông của thành Đại La dưới thời Cao Biền, nhà Đường,

tầng trên là cung điện nhà Lý và nhà Trần, tiếp theo là một phần trung tâm

của đông cung nhà Lê và trên cùng là một phần của trung tâm tòa thành

tỉnh Hà Nội thế kỷ 19. Bề mặt Lý – Trần ở tầng hai có rất nhiều hiện vật được

phát hiện, như những nền cung điện, có kích thước một chiều hơn 60 mét,

chiều kia 27 mét. Có 40 chân cột, rồi cả giếng cổ, gạch, phù điêu. Có tượng

rồng, phượng mà được các nhà nghiên cứu mỹ thuật khẳng định là mô típ hoa

văn thời Lý. Rồi đến những tầng lớp bên trên, thời Lê, Nguyễn đều tìm được

nhiều hiện vật. Tổng cộng là ba triệu hiện vật. Khi tiến hành khai quật ở hố

68

B16 thuộc địa điểm dự kiến xây dựng toà nhà Quốc hội mới, Viện khảo cổ học

đã phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4 mái, dạng hình tháp toạ lạc trên

một diện tích xấp xỉ 1000 m2 thuộc hệ thống các cung điện Thăng Long xưa.

Theo đánh giá thì đây là công trình đầu tiên, có tầm cỡ và giá trị nhất được

tìm thấy từ trước đến nay” [41].

Với đoạn miêu tả ngắn gọn trên, giáo viên có thể giúp học sinh nhận rõ

vị trí và giá trị lịch sử mà khu di sản đem lại. Từ đó, giáo viên khắc sâu quy

mô hoành tráng và tầm ảnh hưởng của Kinh thành Thăng Long trong lịch sử

dân tộc.

Tóm lại, các hình tượng nêu trên giúp cho học sinh có biểu tượng cụ

thể về một hay nhiều sự kiện lịch sử. Việc cung cấp cho học sinh những sự

kiện lịch sử cụ thể sinh động để tạo biểu tượng là bước đầu quan trọng của

việc dạy học lịch sử ở trường THPT. Trong quá trình giảng dạy, sử dụng di

sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản

là cách đưa học sinh vào chính hoàn cảnh đang diễn ra trong lịch sử. Đồng

thời, việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, ý thức bảo tồn di sản của học sinh là

thước đo sau mỗi bài dạy về di sản văn hóa, đặc biệt với di sản Hoàng thành

Thăng Long - công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong

nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống

các di tích Việt Nam.

2.4.2. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành tổ chức thảo

luận nhóm

Nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập khác nhau, giáo dục dạy và học

lịch sử có nhiểu hình thức hợp tác theo nhóm, ví dụ để cùng nghiên cứu một

đề tài lịch sử, cùng giải quyết một tình huống được đặt ra. Ở đây, thảo luận

nhóm được sử dụng với ý nghĩa là một phương pháp dạy học trên lớp. Thông

qua sự tham gia, trao đổi ý kiến của các thành viên dựa trên sự phân công cụ

thể của một hay nhiều nhóm nhỏ. Đây là cách thức giáo viên tổ chức, hướng

dẫn, điều khiển quá trình các nhóm học sinh trao đổi ý kiến về nội dung học

69

tập nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Trong một buổi học, có thể thảo luận

nhiều câu hỏi/chủ đề khác nhau có liên quan tới một nội dung tương đối hoàn

chỉnh của buổi học.

Thảo luận nhóm có ý nghĩa quan trọng bởi nó tạo cơ hội cho tất cả các

thành viên tham gia phát biểu ý kiến, tăng cường sự hợp tác và tinh thần làm

việc nhóm chủ động. Bên cạnh đó, thảo luận nhóm giúp học sinh tiến hành tự

kiểm tra, đánh giá, khẳng định mình trước tập thể, tạo không khí sôi nổi trong

giờ học, rèn luyện kĩ năng diễn đạt trước nơi đông người. Đối tượng nghiên

cứu mà chúng tôi hướng tới là học sinh trường THPT Nguyễn Bính, huyện

Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tập trong môi trường chưa có nhiều cơ hội để

bộc lộ những kỹ năng cần thiết nói trên, các em rất cần được bổ sung và hoàn

thiện các kỹ năng như: trình bày, tìm kiếm, lựa chọn thông tin, nhận xét, đánh

giá, thuyết trình, làm việc nhóm,.... Chính vì vậy, việc tổ chức thảo luận nhóm

thông qua sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long là bước tiến giúp các em

có thể phát triển và bồi dưỡng các kỹ năng nói trên thông qua việc tự thu thập,

lựa chọn, sắp xếp thông tin dựa trên sự góp ý của giáo viên, tiến hành trình

bày trước tập thể lớp.

Để có thể tổ chức tốt cho một buổi thảo luận nhóm cần thực hiện theo

các bước sau:

+ Bước 1: Chuẩn bị của mỗi cá nhân (theo hướng dẫn của thầy (cô), có

thể hướng dẫn chuẩn bị trước ở nhà hoặc chuẩn bị ngay trên lớp, tùy theo tính

chất của mỗi chủ đề).

+ Bước 2: Thảo luận nhóm với một chủ đề xác định, mà kết quả là có

một bài trả lời chung cho cả nhóm. Các thành viên trong nhóm thay thế nhau

làm các nhiệm vụ: nhóm trưởng, thư ký ghi biên bản thảo luận, trình bày

trước ở nhóm, đại diện nhóm trình bày ở lớp.

+ Bước 3: Thảo luận chung tại lớp. Đại diện các nhóm thay nhau trình

bày kết quả thảo luận nhóm mình. Các thành viên trong lớp tham gia chất vấn,

70

bổ sung, đóng góp ý kiến cho nhóm trình bày. Bên cạnh đó cần có một số tiêu

chí đánh giá chung hoạt động cho từng nhóm như: phiếu đánh giá hoạt động

nhóm; biên bản làm việc nhóm,…

+ Bước 4: Nhận xét, đánh giá việc thảo luận, tóm tắt nội dung chính, hoặc

hướng dẫn để tiếp tục nghiên cứu thêm để hoàn chỉnh hơn nội dung câu hỏi.

Với đối tượng học sinh này, giáo viên cần hướng dẫn cách khai thác thông

tin một cách chi tiết và và đơn giản nhất để các em tiếp cận và tổ chức thảo luận

nhóm hiệu quả.

Ví dụ khi học về bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong

các thế kỷ X - XV”, mục II: “Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ

thuật”, mục 3: “Nghệ thuật”, giáo viên có thể chia cả lớp thành các nhóm,

cung cấp cho các nhóm những tài liệu về các công trình kiến trúc nổi bật tại

Hoàng thành Thăng Long như: Thềm điện Kính Thiên, Đoan Môn, Hậu Lâu,

kiến trúc vòm trong Hoàng thành, con đường lát gạch đá hoa chanh trước

Đoan Môn,… sau đó giáo viên hướng dẫn cách thu thập tài liệu về công trình

đó. Khi đã chuẩn bị xong, giáo viên sẽ để các nhóm trình bày các sản phẩm

mà các em đã sưu tầm, phát hiện được trước cả lớp.

Hoặc trong bài 18: “Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các

thế kỉ X – XV”, giáo viên đặt ra tình huống cần giải quyết bằng một câu hỏi

lớn: “Những biểu hiện của phát triển kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa xã hội

như thế nào ở thế kỉ XIV ?”. Dựa vào nội dung thảo luận nêu trên, giáo viên

chia lớp thành 3 nhóm với những câu hỏi nhỏ dành cho từng nhóm như sau:

- Nhóm 1: Về nông nghiệp

+ Nhà nước phong kiến và nhân dân Đại Việt đã làm gì để phát triển

kinh tế nông nghiệp?

+ Sự phát triển nông nghiệp đương thời có ý nghĩa như thế nào đối với

xã hội?

+ Đọc một số câu thơ, đoạn văn ngắn mô tả nông nghiệp nước ta lúc

bấy giờ.

71

- Nhóm 2: Về thủ công nghiệp

+ Sự phát triển của thủ công nghiệp thể hiện như thế nào?

+ Sự ra đời của các làng nghề thủ công có ý nghĩa như thế nào đối với

sự phát triển của thủ công nghiệp?

+ Kể tên một số đồ gốm sứ, vật liệu xây dựng hiện được trưng bày tại

Khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long.

+ Nhận xét gì về các hình tượng được trang trí trên các hiện vật nói trên?

- Nhóm 3: Thương nghiệp

+ Nêu những biểu hiện về sự phát triển của thương nghiệp nước ta từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV.

+ Đọc một số câu thơ nói lên sự phát triển của Thăng Long thời Lý –

Trần – Lê sơ.

+ Việc xuất hiện các thương thuyền nước ngoài chứng tỏ điều gì về sự

phát triển thương nghiệp thời kỳ này?

Học sinh tiến hành thảo luận dựa vào các nội dung nêu trên, tham khảo

một số tài liệu mà giáo viên cung cấp. Sau mỗi nhóm trình bày, bổ sung ý

kiến, giáo viên chốt kiến thức và định hướng học sinh trả lời câu hỏi lớn: “Sự

phát triển kinh tế trong hoàn cảnh của chế độ phong kiến vừa góp phần nâng

cao đời sống nhân dân, củng cố nền độc lập dân tộc nhưng cũng đẩy nhanh

sự phân hóa xã hội. Giai cấp địa chủ ngày càng mở rộng, quan lại quý tộc

chiếm đoạt ruộng đất, vua quan ăn chơi xa xỉ. Từ đó, làm bùng nổ lên nhiều

cuộc đấu tranh của nhân dân khiến nhà Trần suy vong”.

Như vậy, với việc tổ chức thảo luận nhóm, học sinh nâng cao khả năng

rèn luyện tư duy, phát triển ngôn ngữ, tạo được sự tự tin cho học sinh trong

quá trình học tập. Đồng thời, mỗi giờ thảo luận được chuẩn bị chu đáo sẽ đem

lại hiệu quả học tập, tạo không khí sôi nổi trong lớp học. Tuy nhiên, nếu như

lớp học quá đông, không đủ điều kiện để tổ chức thảo luận thì giáo viên nên

có những biện pháp khác nhau để tiến hành bài dạy. Tóm lại, thảo luận nhóm

là phương pháp có tác dụng chuyển quá trình đào tạo thành quá trình “tự đào

72

tạo”, triệt để khắc phục lối dạy học “thầy đọc – trò ghi”.

2.4.3. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành dạy học dự

án

Với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu là học sinh của tỉnh Nam Định,

chúng tôi đề xuất biện pháp này với mục đích giúp các em không có điều kiện

tiếp xúc trực tiếp di sản nhưng vẫn có cơ hội hiểu và trở thành đối tượng

tuyên truyền và bảo tồn giá trị lịch sử của chính di sản đó. Để phù hợp với

hoàn cảnh của học sinh trường Trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ

Bản, tỉnh Nam Định, chúng tôi tiến hành phỏng vấn và có sự điều chỉnh trước

khi tiến hành dạy học dự án. Cụ thể, với mỗi sản phẩm dự án, chúng tôi

thường yêu cầu học sinh thể hiện sản phẩm qua tranh, ảnh, poster trên giấy

A0, thuyết trình, đọc thơ hoặc sử dụng mô hình. Bên cạnh đó, việc sử dụng

công nghệ thông tin như bài trình chiếu trên Powerpoint dành cho nhóm đối

tượng yêu thích và có khả năng sử dụng công nghệ.

Khái niệm dự án được hiểu là một dự định, một kế hoạch được thực

hiện trong một khoảng thời gian với những phương tiện, điều kiện vật chất và

nhân lực nhất định nhằm đạt mục tiêu đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng

phổ biến trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, dần dần đi vào lĩnh vực giáo dục

đào tạo với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục và được sử dụng như một

phương pháp hay hình thức tổ chức dạy học. Như vậy, theo cách tiếp cận này,

“dạy học theo dự án được hiểu là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh

thực hiện một nhiệm vụ học tập phức tạp có tính thực tiễn cao hoặc gắn liền

giữa lý thuyết với thực hành, học sinh là người tự lập kế hoạch, chủ động thực

hiện, sáng tạo ra các sản phẩm nhất định và đánh giá kết quả đạt được” [30, tr.

116]. Khi học sinh được đặt vào những tình huống, nhiệm vụ học tập, buộc

các em phát huy và học hỏi thêm những kĩ năng cần thiết để giải quyết. Học

tập dựa trên dự án được hiểu là học trong hành động và học sinh là người tích

cực, chủ động giành lấy kiến thức.

Có thể nói, Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn liền với

73

lịch sử Kinh thành Thăng Long – Hà Nội. Công trình kiến trúc đồ sộ này

được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích

quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam. Tháng 12 năm 2002,

các chuyên gia đã tiến hành khai quật trên tổng diện tích 19.000m2 tại khu

trung tâm chính trị Ba Đình – Hà Nội. Cuộc khai quật khảo cổ học lớn nhất

Việt Nam và của cả Đông Nam Á này đã phát lộ những dấu vết của Hoàng

thành Thăng Long trong tiến trình lịch sử trải dài 13 thế kỉ với các di tích và

tầng văn hóa chồng xếp lên nhau. Những dấu vết kiến trúc độc đáo cùng hàng

triệu hiện vật quý giá phần nào tái hiện lại quá trình lịch sử trải dài từ thời kỳ

Bắc thuộc dưới ách đô hộ của nhà Tùy và nhà Đường (thế kỉ VII đến thế kỉ

IX), xuyên suốt các triều đại: Lý – Trần – Lê – Mạc – Nguyễn (1010-1945).

Như vậy, khu trung tâm di sản Hoàng thành Thăng Long chính là một

nguồn tư liệu phong phú, đa dạng giúp cho giáo viên có thể khai thác để phục

vụ bài giảng. Di sản Hoàng thành Thăng Long còn là một trong những

phương tiện dạy học đa dạng sống động nhất. Ẩn chứa trong di sản là những

giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học trải dài qua các triều đại phong kiến Việt

Nam. Do đó, di sản có khả năng tác động mạnh tới tình cảm, đạo đức, tới việc

hình thành nhân cách của học sinh. Khai thác được những giá trị ẩn chứa

trong di sản và chuyển giao cho học sinh để các em cũng nhận thức được

những giá trị đó thì giáo viên sẽ giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh,

đồng thời giúp các em có cơ sở giải thích một cách khoa học các sự vật, hiện

tượng liên quan đến di sản.

Căn cứ vào đặc điểm dạy học dự án và đặc trưng của môn học Lịch sử,

quy trình thiết kế dự án được tiến hành theo các bước sau:

Bước 1: Xác định mục tiêu bài học cần đạt về kiến thức, kỹ năng, thái độ.

Bước 2: Xây dựng sáng kiến về dự án. Sáng kiến dự án phải rõ ràng, có

tính thực tiễn và khả thi. Đặc biệt sáng kiến cần dựa trên một tình huống chứa

đựng một nhiệm vụ cần giải quyết có liên hệ với thực tiễn đời sống và tạo

hứng thú cho người học tham gia.

74

Bước 3: Xác định mục đích cần đạt của dự án.

Bước 4: Xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, trong đó thể hiện rõ công

việc giáo viên, học sinh cần phải làm, thời gian dự kiến để tiến hành dự án,

các phương tiện cần thiết, cách thức tiến hành và phân công công việc cụ thể

cho học sinh.

Bước 5: Thiết kế hồ sơ bài dạy thể hiện toàn bộ dự án. Hồ sơ bài dạy

bao gồm: Kế hoạch bài dạy, bài trình bày trên Powerpoint, nguồn tài liệu hỗ

trợ cho giáo viên và học sinh, công cụ đánh giá.

Ví dụ: Một dự án được thiết kế cho nội dung phần Lịch sử Việt Nam

lớp 10, chương trình chuẩn, chương II: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,

gồm 3 bài:

+ Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến

(từ thế kỉ X đến thế kỉ XV).

+ Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thể kỉ X – XV.

+ Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV.

1. Xác định mục tiêu bài học

Sau khi học xong, học sinh có khả năng:

- Về kiến thức

+ Trình bày được sự thành lập của các triều đại phong kiến ở nước ta từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV.

+ Trình bày được tình hình giáo dục, văn học, nghệ thuật và kể tên

được những công trình khoa học kĩ thuật.

+ Nêu được các nét cơ bản về tình hình kinh tế nông nghiệp, thủ công

nghiệp và thương nghiệp.

+ Trình bày được đặc điểm của văn minh Đại Việt, đồng thời đánh giá

vai trò, vị trí của nền văn minh này đối với tiến trình lịch sử dân tộc.

+ Vẽ được sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tông. Chứng

minh được tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ đã hoàn thiện, chặt chẽ.

+ Chứng minh được thời Lê sơ là thời kì phát triển đỉnh cao của chế độ

75

phong kiến Việt Nam.

- Về kỹ năng: Học sinh được rèn luyện các kỹ năng: tổng hợp, so sánh,

phân tích các sự kiện lịch sử, kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, kỹ năng

giải quyết vấn đề, kỹ năng sử dụng công nghệ hiệu quả học tập.

- Về thái độ: giáo dục cho học sinh nhận thức được giá trị của di sản Hoàng

thành Thăng Long – Hà Nội, trân trọng và tự hào hơn về những giá trị mà di sản

mang lại, từ đó có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ di sản tốt hơn.

2. Sáng kiến dự án

Trên cơ sở xác định mục tiêu bài học, dự án được thiết kế cho học sinh

đóng các vai khác nhau của thực tiễn cuộc sống, giải quyết nhiệm vụ có tính

thực tiễn cao. Sáng kiến dự án: Tổ chức một chương trình Hành trình Di sản

mang tên “Bí ẩn Hoàng thành Thăng Long” nhằm cung cấp kiến thức lịch sử

dân tộc trải dài 13 thế kỉ tại khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, tạo hứng

thú học tập thông qua các vai khác nhau, học sinh có thể tìm kiếm, trình bày

thông tin và rút ra những đánh giá về giá trị lịch sử của di sản Hoàng thành

Thăng Long với lịch sử dân tộc. Học sinh được đóng các vai khác nhau: biên

tập viên, người tham gia thiết kế, chương trình, người dẫn chương trình,…

3. Nhiệm vụ c a học sinh

Trong môi trường học tập còn hạn chế, giáo viên có thể hướng dẫn và

giao nhiệm vụ học tập phù hợp cho học sinh lựa chọn nhiệm vụ thiết kế và tạo

ra một trong các sản phẩm như sau:

+ Trình bày bài báo cáo ngắn gọn trên Microsoft Word (khoảng 3-5

trang trên giấy A4) nguyên nhân Lý Công Uẩn lựa chọn Thăng Long – Hà Nội

làm nơi định đô.

+ Sử dụng Powerpoint để trình bày về tổ chức bộ máy nhà nước thời

Lê sơ: Sử dụng hình ảnh về con rồng thời Lý và thời Lê sơ trên gốm sứ để

đưa ra nhận xét về sự phát triển và hoàn thiện nhà nước phong kiến ở các thế

kỉ XI – XV.

+ Sưu tầm hình ảnh và sử dụng Proshow Gold để làm 1 đoạn quảng

76

cáo (2 phút) giới thiệu về các di vật, công trình kiến trúc tiêu biểu cho văn hóa

Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV hiện được trưng bày trong khu trung tâm

Di sản Hoàng thành Thăng Long. (Dành cho đối tượng có khả năng sử dụng

công nghệ thông tin). Hoặc sưu tầm hình ảnh về các di vật, công trình kiến

trúc tiêu biểu hiện trưng bày trong Di sản Hoàng thành Thăng Long để làm

một Poster quảng cáo (trên giấy A0) về Khu trung tâm di sản phục vụ cho

buổi khai mạc chương trình giáo dục di sản: “Em làm nhà khảo cổ” tại Hoàng

thành Thăng Long.

+ Sử dụng sơ đồ mạng để nhận xét về mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và

sự phân hóa xã hội thế kỉ XIV (có thể cắt dán, sử dụng hình ảnh để minh họa).

Bước 6: Cung cấp tài liệu hỗ trợ để có thể triển khai được dự án, chia

nhóm, phân công công việc cụ thể cho học sinh, công bố thời gian thực hiện

và hoàn thành dự án, công bố các tiêu chí đánh giá sản phẩm.

Ví dụ: đối với dự án học tập nêu trên, cần cung cấp một số đầu sách

liên quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long, một số trang web tin cậy mà

học sinh có thể khai thác phục vụ cho dự án:

 Một số sách liên quan:

+ Bùi Đẹp, (2012), Di sản thế giới tại Việt Nam, tập 1, Nxb Trẻ thành

phố Hồ Chí Minh.

+ Nguyễn Thừa Hỷ, (1993), Thăng Long Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII –

XIX, Hội Sử học Việt Nam.

+ Đỗ Văn Ninh, Những hiểu biết mới về thành Thăng Long, tạp chí

Khảo cổ học, số 4/2004, tr. 21-35.

+ Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Nguyễn Hải Kế (2011), Thăng

Long – Hà Nội, Nxb Thế Giới, Hà Nội.

 Trang web:

+ issuu.com/lukul/docs/rongdaiviet

+ www.disanthegioi.info

77

+ www.hoangthanhthanglong.vn

+www.hoangthanhthanglong.vn/blog/hoat-dong-buon-ban-o-thang-

long-thoi-ly/3016

+www.hoangthanhthanglong.vn/blog/36-phuong-co-duoc-quy-hoach-

tu-thoi-le-so/660.

Dạy học dự án là một trong những phương pháp học tập hiệu quả song

chỉ phù hợp với một số nội dung nhất định trong chương trình môn Lịch sử,

đồng thời cần có thời gian và sự chuẩn bị chu đáo, không thể tiến hành

thường xuyên được. Dự án có tính khả thi cao và đem lại hiệu quả học tập là

khi giáo viên định hướng sản phẩm rõ ràng và phù hợp với điều kiện học tập.

Bên cạnh đó, giáo viên cần thiết kế tiêu chí đánh giá cho mỗi loại sản phẩm

và công bố từ lúc bắt đầu dự án để định hướng cho người học thành công, tạo

cơ hội cho người học tự đánh giá. Ví dụ: Để dự án nêu trên thực hiện thành

công, giáo viên cần thiết kế các tiêu chí đánh giá thông qua một số phiếu đánh

giá sản phẩm như: Bảng kiểm mục đánh giá bài viết/bài báo cáo; các tiêu chí

đánh giá người học, phiếu đánh giá bài trình chiếu Powerpoint; Phiếu đánh

giá hoạt động nhóm; biên bản làm việc nhóm; hợp đồng học tập;…

Ví dụ: Phiếu đánh giá bài trình chiếu Powerpoint cho dự án: “Chương

trình Hành trình Di sản mang tên “Bí ẩn Hoàng thành Thăng Long” nêu trên

được thiết kế như sau:

Tiêu chí Điểm

Thiết kế sáng tạo, màu sắc nhã nhặn, sáng sủa. (1đ)

Về hình thức Phông chữ, màu chữ và cỡ chữ hợp lý. (1đ)

Nhất quán trong cách trình bày tiêu đề và nội (0,5đ)

dung.

Tiêu đề rõ ràng, hấp dẫn người xem. (1đ)

Về bố cục Số lượng các slide hợp lý. (1đ)

Sử dụng thông tin chính xác, thế hiện được kiến (2đ)

78

thức cơ bản, có chọn lọc. Về nội dung

Có sự liên hệ mở rộng kiến thức. (1đ)

Trình bày rõ ràng, mạch lạc, có điểm nhấn, thu (1đ)

hút người nghe.

Trả lời được hết các câu hỏi thêm từ phía giáo (1đ)

Về phong viên hoặc bạn học.

cách người Duy trì được giao tiếp bằng mắt, xử lý tình (0,25đ)

trình bày huống linh hoạt.

Không bị lệ thuộc vào phương tiện, có sự phối (0,25)

hợp nhịp nhàng giữa diễn giảng và trình chiếu.

Tổng điểm:

Tóm lại, dạy học dự án có những đặc trưng riêng và rất mới so với các

phương pháp dạy học truyền thống. Đặc biệt với việc sử dụng di sản Hoàng

thành Thăng Long để tiến hành dạy học dự án là điều còn mới mẻ với nhiều

giáo viên và học sinh trong cách tiếp cận và lựa chọn định hướng dạy học.

Tuy nhiên, với xu hướng dạy học hiện nay rất cần những bước đi sáng tạo

trong phương pháp dạy học, đưa di sản vào giảng dạy đang là mối quan tâm

của nhiều giáo viên bộ môn. Đối với những di sản được UNESCO công nhận

tại Việt Nam, đặc biệt là khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, việc giáo

dục di sản là động lực hết sức quan trọng trong việc hình thành các kỹ năng

sống, bao gồm sự sáng tạo, đổi mới, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng sự đa dạng -

một yếu tố then chốt của phát triển bền vững. Một ý nghĩa lớn hơn cả đó

chính là việc giáo dục học sinh hướng các em sống có trách nhiệm hơn với

chính di sản mà các em được tiếp xúc.

2.5. Thực nghiệm sư phạm

Trên cơ sở lý luận và kết quả thực tiễn nêu trên, chúng tôi đề xuất một

số biện pháp và tiến hành thực nghiệm sư phạm tại lớp 10 trường THPT

Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

79

2.5.1. Mục đích thực nghiệm

Mục đích nhằm kiểm nghiệm tính khoa học và khả thi của các biện

pháp sư phạm đã đề xuất, làm cơ sở rút ra những kết luận khái quát về vấn đề

sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp

10 ở trường THPT.

2.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm

- Đối tượng: tập trung chủ yếu học sinh khối lớp 10 trường trung học

phổ thông THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

- Địa bàn thực nghiệm: ở trường THPT Nguyễn Bính, bao gồm một lớp

đối chứng và một lớp thực nghiệm. Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được

lựa chọn theo nguyên tắc: sĩ số bằng nhau, trình độ nhận thức, kết quả học tập

không có sự chênh lệch đáng kể, môi trường sống tương đương nhau.

- Giáo án thực nghiệm của bài đã được trao đổi, thảo luận với giáo viên

phụ trách giảng dạy lịch sử tại hai lớp này.

2.5.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm

Soạn hai giáo án bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các

thế kỷ X-XV” trong chương trình Lịch sử lớp 10 (chương trình chuẩn).

+ Giáo án 1: Bài giảng được soạn tập trung vào vấn đề thực nghiệm là

sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong bài dạy lịch sử trên lớp.

+ Giáo án 2: Soạn bình thường, không sử dụng minh họa liên quan đến

di sản Hoàng thành Thăng Long.

Sau khi tổ chức thực nghiệm, đối chứng sẽ tiến hành kiểm tra nhận thức

của học sinh vào cuối các giờ học bằng bài kiểm tra 15 phút.

2.5.4. Phân tích kết quả thực nghiệm

Việc tiến hành thực nghiệm được tiến hành như sau: chúng tôi chọn

một lớp thực nghiệm và một lớp đối chứng. Ở lớp thực nghiệm chúng tôi tiến

hành sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong bài học lịch sử như trong

luận văn đã nêu. Còn lớp đối chứng giáo viên sử dụng giáo án bình thường,

không sử dụng tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long trong bài học lịch

80

sử theo các biện pháp mà luận văn đã đưa ra.

Địa bàn thực nghiệm: ở trường THPT Nguyễn Bính, lớp 10A3 là lớp

thực nghiệm, lớp 10A4 là lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng

được lựa chọn theo nguyên tắc: sĩ số bằng nhau, trình độ nhận thức, kết quả

học tập không có sự chênh lệch đáng kể. Môi trường sống tương đương nhau.

- Người thực nghiệm: giáo viên môn Lịch sử Nguyễn Thị Nguyện.

- Giáo án thực nghiệm của bài đã được trao đổi, thảo luận với cô

Nguyện phụ trách giảng dạy lịch sử tại hai lớp này. Giáo viên phụ trách đã

nắm rõ ý đồ của tác giả và sử dụng các biện pháp một cách thuần thục.

- Kiểm tra và đánh giá kết quả thực nghiệm.

Sau khi tiến hành bài học thực nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra

hoạt động nhận thức của HS ở lớp đối chứng và lớp thực nghiệm đã chọn.

Các lớp này đều có chung một đề kiểm tra và thời gian tiến hành kiểm tra

đánh giá như nhau (15 phút). Mục đích của kiểm tra là đánh giá kết quả nhận

thức của học sinh ở hai lớp thực nghiệm và đối chứng.

Việc đánh giá được dựa trên các tiêu chí và thang điểm (thang điểm 10)

như sau:

- Điểm 9, 10: Bài làm đảm bảo các yêu cầu về số lượng câu hoàn thành

và chất lượng kiến thức đủ, đúng, chính xác, chặt chẽ.

- Điểm 7, 8: Bài thể hiện hiểu bài, song số lượng câu trả lời đúng ít hơn

so với bài đạt điểm 9, 10; phần trình bày chưa đủ, còn thiếu sót.

- Điểm 5, 6: Bài có số lượng câu trả lời đúng ít hơn so với bài đạt điểm

7, 8; bài làm thể hiện sự hiểu bài nhưng chưa sâu sắc, chỉ dừng ở mức độ 1

(nhận biết).

Dựa vào các tiêu chí nêu trên, chúng tôi xếp loại theo thang điểm 10:

+ Loại giỏi: Điểm 9 - 10

+ Loại khá: Điểm 7 - 8

+ Loại trung bình: Điểm 5 – 6

81

+ Loại yếu: Dưới 5 điểm

Sau khi chấm bài kiểm tra, phân tích và xử lí số liệu, thu được kết quả

như sau:

Bảng 2.2. Kết quả thực nghiệm sư phạm

Điểm Số Lớp HS 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Thực 35 0 0 0 0 0 6 7 7 9 6 0 nghiệm

Đối 32 0 0 0 0 0 9 9 6 7 1 0 chứng

Bảng 2.3. Bảng tổng hợp phân loại học sinh theo kết quả điểm kiểm tra (%)

Mức độ Lớp Số HS Trung bình (%) Khá (%) Giỏi (%)

Thực 35 41.5 52.1 6.4 nghiệm

Đối chứng 32 55.2 41 3.8

82

Biểu đồ 2.1: So sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng

60

50

40

Thực nghiệm

30

Đối chứng

20

10

0

Trung Bình

Khá

Giỏi

Bảng 2.4. Độ chênh lệch điểm kiểm tra giữa

lớp thực nghiệm và lớp đối chứng

Lớp Số học sinh Điểm trung bình (%) Mức chênh lệch (%)

10A3 35 6.89 0,46 10A4 32 6.43

Từ bảng số liệu nêu trên, chúng tôi đưa ra một vài nhận xét như sau:

Sự phân bố điểm và phần trăm điểm ở lớp đối chứng và lớp thực

nghiệm có sự chênh lệch là 0.46%. Cụ thể:

+ Ở lớp thực nghiệm 10A3, giáo viên có sử dụng di sản Hoàng thành

Thăng Long nên giờ học tạo sự hứng thú, tích cực tham gia vào bài học của học

sinh. Đặc biệt là việc sử dụng các di vật về đồ gốm sứ, vật liệu xây dựng, Thềm

điện kính Thiên khiến học sinh rất tò mò và hứng thú khám phá kiến thức. Tổng

số bài kiểm tra thu được là 35 bài trong số đó bài đạt được điểm giỏi là 6 (6,4%),

bài đạt điểm khá là 16 (52.1%), bài đạt điểm trung bình là 13 (41,5%).

+ Ở lớp đối chứng 10A4, giáo viên vẫn dạy theo cách thông thường

83

theo kiểu cung cấp kiến thức trong sách giáo khoa, các ví dụ minh họa cho bài

dạy không được chú trọng; việc sử dụng các di sản tiêu biểu liên quan đến

Hoàng thành Thăng Long không được khai thác. Tổng số bài kiểm tra thu

được là 32 trong đó bài đạt loại giỏi là 1 (3.8%), số bài đạt điểm khá là 13

(41%), số bài đạt điểm trung bình là 18 (55.2%).

Từ kết quả trên cho thấy, học sinh ở lớp thực nghiệm hiểu sâu hơn, kiến

thức được mở rộng hơn so với học sinh ở lớp đối chứng. Nếu theo đánh giá

phân loại của Bloom thì học sinh lớp thực nghiệm đạt ở mức độ 3 (Vận dụng)

trở lên. Còn đối với lớp đối chứng các em chỉ dừng ở mức độ 1 – 2 (Biết –

Hiểu), chính vì vậy tạo ra mức chênh lệch giữa hai lớp là 0.46%.

Trong quá trình tiến hành phân tích số liệu bằng phương pháp toán học

thống kê, chúng tôi còn trực tiếp trao đổi ý kiến với giáo viên phụ trách môn

Lịch sử của hai lớp 10A3 và 10A4. Thứ nhất, giáo viên khẳng định việc sử

dụng di sản Hoàng thành Thăng Long đối với các bài dạy về Lịch sử Việt

Nam, đặc biệt là từ thế kỉ X đến thế kỉ XV rất cần thiết với học sinh. Mỗi bài

đều có thể sử dụng di sản này để mở rộng, bổ sung các ví dụ minh họa giúp

học sinh hiểu bài một cách sâu sắc và tạo ấn tượng đối với các em. Việc đưa

học sinh tiếp cận với di sản Hoàng thành Thăng Long là một ý tưởng dạy học

cần được lưu ý bởi các em là đối tượng không được trực tiếp quan sát di sản

nhưng lại rất hứng thú khi được tìm hiểu. Thứ hai, giáo viên cho rằng giáo

dục đưa di sản Hoàng thành Thăng Long vào giới thiệu, giảng dạy trong nhà

trường là một trong những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của các

di sản. Hiệu quả của việc đưa di sản Hoàng thành Thăng Long vào trường học

đã thấy rõ, nhưng để có một bài học trong vòng 45 phút, giáo viên phải rất kỳ

công chuẩn bị, không chỉ thời gian mà còn là kinh nghiệm giảng dạy tích lũy

trong nhiều năm. Việc này vô tình trở thành gánh nặng cho người trực tiếp

giảng dạy và nhà trường. Đưa di sản văn hóa vào bài học, không đơn giản chỉ

là ghép mà phải có sự lựa chọn phù hợp và tự nhiên nhất. Giáo viên phải tìm

84

hiểu thông tin trên các trang mạng, đồng nghiệp, mọi người xung quanh.

Như vậy, xuất phát từ cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học của vấn đề sử

dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10

trường Trung học phổ thông, có thể khẳng định đây là một trong những ý

tưởng dạy học cần được chú trọng và tiến hành trong các bài dạy có liên quan.

Việc sử dung di sản nói chung và di sản Hoàng thành Thăng Long không chỉ

góp phần bổ sung nguồn tài liệu dạy học phong phú mà hơn hết chính là công tác

giáo dục di sản cho thế hệ trẻ. Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử

được xem là “cầu nối” giữa quá khứ và hiện tại, “bản thông điệp của các thế hệ”

[14, tr. 47]. Với tính chất vật thật, chứng nhân lịch sử, di sản văn hóa nói chung

và di sản Hoàng thành Thăng Long nói riêng tạo cơ sở vững chắc để giáo viên

có thể khôi phục quá khứ giúp học sinh hiểu rõ vấn đề lịch sử.

Tiểu kết chương 2

Trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT, việc khai thác

và sử dụng di sản văn hóa là rất cần thiết, đem lại hiệu quả giáo dục về nhiều

mặt. Hơn hết, di sản văn hóa rất đa dạng và phong phú, nếu được khai thác và

sử dụng hợp lý sẽ góp phần cải thiện góc nhìn lịch sử tốt hơn, tạo mối liên hệ

rõ ràng giữa quá khứ và hiện tại và tương lai. Đặc biệt, việc sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long vào giảng dạy cho phần Lịch sử Việt Nam lớp 10

khiến bài giảng trở nên đầy sức thuyết phục và di sản không còn gì là xa lạ

với học sinh, đặc biệt với đối tượng học sinh không có cơ hội trực tiếp tiếp

xúc với di sản. Từ đó, giáo viên xây dựng niềm tự hào dân tộc và đưa học

sinh sống trong không khí hào hùng của dân tộc qua mỗi bài giảng. Đặc biệt

hơn đây chính là cách bồi dưỡng đối tượng tuyên truyền bảo vệ di sản đơn

giản mà hiệu quả nhất. Việc đầu tư cho mỗi bài dạy có sử dụng di sản Hoàng

thành Thăng Long buộc giáo viên phải xây dựng kế hoạch chi tiết về thời

gian, công sức, học sinh cần hoàn thành nhiệm vụ học tập, tương tác với tập

85

thể để đạt hiệu quả tốt nhất.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết quả nghiên cứu về lí luận và thực tiễn việc sử dụng di sản Hoàng

thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung

học phổ thông THPT giúp chúng tôi đưa ra những kết luận cơ bản sau:

Thứ nhất, việc sử dụng di sản văn hóa nói chung, di sản Hoàng thành

Thăng Long nói riêng cần được thực hiện theo những nguyên tắc phù hợp với

đặc trưng môn học, mục tiêu đào tạo và theo định hướng đổi mới của giáo dục

hiện nay. Giáo viên là người thiết kế, định hướng, tổ chức các hoạt động học

tập với di sản văn hóa. Ngược lại, học sinh chính là đối tượng cần chủ động

thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, kết quả điều tra là căn cứ rút ra những nhận xét về ưu điểm,

hạn chế của việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học bộ

môn. Giáo viên đã chú ý tới việc lồng ghép di sản vào trong mỗi giờ dạy là

dấu hiệu tích cực, khiến học sinh hứng thú, lôi cuốn trí tò mò và khơi dậy

lòng tự hào dân tộc. Bên cạnh đó, giáo viên còn lúng túng chưa biết chọn lọc

di sản để giảng dạy. Do vậy, chưa đưa ra các hoạt động học tập phù hợp với

nhu cầu và hứng thú của học sinh.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn là cơ sở đề xuất biện

pháp sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 10 ở trường THPT. Kết quả thực nghiệm bước đầu khẳng định tính

khả thi hiệu quả của đề tài nghiên cứu đã mang lại.

Từ kết quả nghiên cứu và thực tiễn dạy học môn Lịch sử ở trường

THPT hiện nay, chúng tôi đề xuất một vài khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, cần tăng cường đưa vào khai thác di sản Hoàng thành Thăng

Long đối với phần Lịch sử Việt Nam lớp 10 – chương trình chuẩn. Việc bổ

sung di sản Hoàng thành Thăng Long trong giờ học không có nghĩa là tăng

thêm số tiết học cho chương trình mà cần thiết phải có sự lựa chọn sao cho

86

phù hợp với cấu trúc bài dạy và chương trình môn học.

Thứ hai, mở rộng các lớp tập huấn, thêm thời lượng cho giáo viên được

học và thực hành với các di sản khác nhau để rút ra kinh nghiệm mỗi khi xây

dựng ý đồ dạy học. Bên cạnh đó cần hướng dẫn giáo viên quy trình, cách thức

tổ chức dạy học sinh tự học, tự chọn lựa nội dung kiến thức cơ bản có liên

quan, cách thức sử dụng các phần mềm dạy học nhằm đa dạng các hình thức

sử dụng di sản.

Thứ ba, nguồn tài liệu của di sản Hoàng thành Thăng Long rất phong

phú và đa dạng, nếu được khai thác một cách hợp lý sẽ giúp cho học sinh có

góc nhìn mới tích cực hơn về môn học, đặc biệt là phần Lịch sử Việt Nam.

Đối tượng mà chúng tôi hướng tới trong nghiên cứu chính là học sinh tại Nam

Định không có điều kiện được quan sát trực tiếp di sản Hoàng thành Thăng

Long. Với khả năng chỉ quan sát qua tranh, ảnh, phim tư liệu là chủ yếu, việc

đưa di sản vào chương trình dạy học sẽ kéo gần khoảng cách của học sinh với

di sản. Thông qua việc sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học

bộ môn sẽ làm cho những giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học khởi sắc và có

thể truyền cảm hứng cho các học sinh. Điều này giúp các em không chỉ hiểu về

di sản theo nghĩa rộng mà còn giúp các em tư duy sâu hơn về các giá trị truyền

87

thống, qua đó tác động đến tình cảm, đạo đức và hình thành nhân cách.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. M. Alexeep (1976), Phát triển tư duy học sinh. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Côi (2006), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy

học Lịch sử ở trường Phổ thông. Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ, Nguyễn Mạnh

Hưởng, Đoàn Văn Hưng, Nguyễn Thị Thế Bình (2011), Rèn luyện kĩ năng

nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử. Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

4. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn

hóa Thăng Long – Hà Nội. Nxb Hà Nội, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Thế Bình (2014), Phát triển kĩ năng tự học Lịch sử cho học

sinh. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 (chương trình chuẩn).

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông - môn

Lịch sử. Nxb Giáo dục Hà Nội.

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Văn h , Thể thao và Du lịch (2013), Tài

liệu tập huấn sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông.

9. Lâm Thị Mỹ Dung, Nguyễn Gi Đối, Nguyễn Ngọc Thơ (2011), Di sản

lịch sử và những hướng tiếp cận mới. Nxb Thế giới, Hà Nội.

10. N.G.Đ iri (1973), Chuẩn bị giờ dạy Lịch sử như thế nào?. Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

11. Bùi Đẹp (2012), Di sản thế giới tại Việt Nam, tập 1. Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

12. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. I.F. Kharlamôp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như

thế nào (tập 1). Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Hoàng Thanh Hải (1999), Sử dụng di tích lịch sử trong dạy học lịch sử

dân tộc ở trường Trung học Cơ sở, Luận án Tiến sĩ Giáo dục 5.07.02. Đại học

88

Quốc gia Hà Nội. Đại học Sư phạm Hà Nội.

15. Hoàng Thanh Hải (1996), “Di tích lịch sử và việc giảng dạy ở trường

phổ thông”, Tạp chí Xưa và Nay, tr. 6-7.

16. Phạm Minh Hạc (1991), Góp phần đổi mới tư duy giáo dục. Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Huy, Quy trình giáo dục trải nghiệm di sản trong nhà

trường. Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa.

18. Bùi Bá Linh (1999), Văn hóa và giáo dục nhân cách văn hóa, Kỷ yếu

Hội thảo khoa học: “Bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc – Vai trò của nghiên

cứu và giáo dục”, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

19. Phạm M i Hùng (2012), Dạy học Lịch sử thông qua các di sản. Kỷ yếu

Hội thảo Quốc gia về dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông.

20. Nguyễn Thừ Hỷ (1993), Thăng Long Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII – XIX.

Hội Sử học Việt Nam.

21. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Nguyễn Phan Quang (1968), Công tác

ngoại khóa thực hành môn Lịch sử. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Luật Di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành (2006), Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Luật di sản văn hóa: Những điều bổ sung và sửa chữa (2009). Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, in lần 2, tập 3. Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

25. Nguyễn Minh Nguyệt (2012), “Giáo dục trải nghiệm di sản ở nhà trường

phổ thông – hướng tiếp cận mới trong giáo dục truyền thống”, Tạp chí Giáo

dục (297).

26. Đỗ Văn Ninh (2004), “Những hiểu biết mới về thành Thăng Long”, Tạp

chí Khảo cổ học (4), tr. 21-35.

27. Lưu Trần Tiêu (2002), “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam”,

89

Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, tr. 661-662.

28. Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Hữu Toàn, Nguyễn Quốc Hùng (2014), Con

đường tiếp cận di sản văn hóa Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

29. Trịnh Đình Tùng (2014), Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử. Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

30. Trường Đại học Giáo dục, Kho Sư phạm (2009), Tập bài giảng:

Phương pháp dạy học Lịch sử, Hà Nội.

31. Trần Thu Th y, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Đức Tăng (2014),

Các bước xây dựng kế hoạch dạy học có sử dụng di sản văn hóa phi vật thể.

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Nguyễn Dục Quang (2004), “Về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo

dục di sản thế giới cho học sinh phổ thông Việt Nam”, Tạp chí Phát triển

Giáo dục (5), tr. 10-12.

33. Sácđ cốp (1982), Tư duy học sinh. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. UNESCO (1989), Tạp chí “Người đưa tin UNESCO” (11).

35. Lê Thị Hài (2010), Sử dụng di tích lịch sử địa phương trong dạy học

lịch sử Việt Nam ở trường THPT tỉnh Hưng Yên. Luận văn Thạc sĩ giáo dục.

36. Phạm Văn Mạo (2014), Tổ chức học tập với di sản văn hóa vật thể ở

địa phương trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường THPT (chương

trình chuẩn) tỉnh Hải Dương. Luận văn Thạc sĩ giáo dục.

37. Jean Marc Dénommé et Madeleine Roy (2009), Sư phạm tương tác một

tiếp cận khoa học thần kinh về học và dạy. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

38. Lê Thị Thảo (2014), Sử dụng di tích lịch sử - cách mạng ở địa phương

trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp 12 trung học phổ

thông tỉnh Tuyên Quang (chương trình chuẩn). Luận văn Thạc sĩ giáo dục.

39. “Thế hệ trẻ cần được giáo dục về văn hóa di sản”, Báo Dân trí online,

ngày 19/5/2011.

40. Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Nguyễn Hải Kế (2011), Thăng Long

– Hà Nội. Nxb Thế Giới, Hà Nội.

90

41. www.hoangthanhthanglong.vn/.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN GIÁO VIÊN

Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu: “Sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường

trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định” chúng

tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô.

Không có câu trả lời nào bị đánh giá là đúng hoặc sai, các thông tin

mang tính cá nhân sẽ được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.

(Đánh dấu X vào ô trống trước câu trả lời phù hợp với thầy cô)

Câu 1: Theo thầy (cô), di sản văn hóa là gì?

o Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam

và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong

sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.

o Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đã được thế

giới công nhận.

o Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá

vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị về lịch sử, văn hoá,

khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng

hoà XHCN Việt Nam.

o Ý kiến khác:……………………………………………………………

Câu 2: Thầy (cô) quan niệm như thế nào về vấn đề sử dụng di sản văn hóa

trong dạy học môn Lịch sử?

o Là phương pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng sống, giúp cá nhân và

cộng đồng có những hiểu biết về di sản đồng thời tham gia bảo vệ di

91

sản.

o Là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập

liên quan tới di sản văn hóa, góp phần bổ sung kiến thức và giải quyết

các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, nâng cao hiểu biết bảo vệ, tuyên

truyền và có thái độ ứng xử đúng đắn với các di sản.

o Là một trong những phương tiện dạy học đa dạng sống động nhất.

o Là phương pháp cải thiện chất lượng giáo dục môn Lịch sử, giúp học

sinh tăng cường am hiểu lịch sử dân tộc.

Câu 3: Theo thầy (cô) việc sử dụng di sản Hoàng Thành Thăng Long trong

dạy học môn Lịch sử có cần thiết không?

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết

Câu 4: Mức độ thường xuyên thầy (cô) sử dụng di sản Hoàng thành Thăng

Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 như thế nào?

Thường

Thỉnh

Hiếm khi Không

xuyên

thoảng

bao

giờ

1. Di tích Khảo cổ học 18

Hoàng Diệu.

2. Thềm điện Kính Thiên.

3. Bắc Môn (cổng thành phía

Bắc.

4. Tường thành và 8 cổng hành

cung thời Nguyễn.

5. Di tích cách mạng nhà và hầm

D67.

6. Hậu Lâu (Tĩnh Bắc Lâu hoặc

Lầu Công chúa).

7. Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội).

8. Kiến trúc Hoàng thành Thăng

92

Long.

9. Các di tích, di vật của Hoàng

thành Thăng Long.

Câu 5: Trong quá trình dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường thiết kế các hoạt

động học tập nào có sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long?

Hoạt động học tập

Không

1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long.

2.Học sinh đặt và trả lời câu hỏi về di sản Hoàng thành Thăng

Long.

3.Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực hiện nhiệm vụ học

tập (ví dụ: tổ chức trò chơi “Mảnh ghép lịch sử”; thuyết trình về

Nhân vật lịch sử,…).

4.Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành Thăng Long

5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính Thiên, Đoan

Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.

6.Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”.

7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và phát huy di sản

Hoàng thành Thăng Long”.

8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long.

9. Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long qua các thời kỳ

lịch sử.

10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về khu di sản Hoàng

thành Thăng Long.

Câu 6: Mức độ hứng thú của học sinh khi tham gia các hoạt động học tập liên

quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long được thể hiện như thế nào?

Hoạt động học tập

Không thích

1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng

Rất thích Bình thường

Long.

2. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào

93

thực hiện nhiệm vụ học tập (ví dụ: tổ chức trò

chơi “Mảnh ghép lịch sử”; thuyết trình về

Nhân vật lịch sử,…).

3.Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng

Long qua các thời kỳ lịch sử.

4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành

Thăng Long.

5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện

Kính Thiên, Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học

18 Hoàng Diệu.

6. Học sinh đặt và trả lời các câu hỏi liên quan

đến di sản Hoàng thành Thăng Long.

7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và

phát huy di sản Hoàng thành Thăng Long”.

8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng

Long.

9. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di

sản”.

10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về

di sản văn hóa Hoàng thành Thăng Long.

Câu 7: Để kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường sử dụng cách thức nào dưới đây?

Cách thức kiểm tra – đánh giá

Thỉnh thoảng Chưa

Thường xuyên

bao giờ

1.Trả lời câu hỏi tự luận theo mục tiêu dạy

học.

2. Trả lời câu hỏi trắc nghiệm khách quan

(câu hỏi nhiều lựa chọn, điền chỗ trống, câu

ghép cặp,…).

3. Quan sát hứng thú của học sinh.

94

4. Phiếu học tập, phiếu đánh giá hoàn thành

nhiệm vụ học tập.

5. Kiểm tra thường xuyên (vấn đáp, kiểm tra

đánh giá nhanh).

6. Kiểm tra viết sau khi học xong một phần,

một chương hoặc một khóa trình lịch sử.

Câu 8: Khi tổ chức các hoạt động học tập sử dụng di sản Hoàng thành Thăng

Long trong dạy học Lịch sử, thầy cô gặp những khó khăn gì?

Một số khó khăn

Có Không

1. Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn (máy chiếu, tranh ảnh liên

quan, phòng học…).

2. Không có đủ thời gian (số tiết hạn chế trong khi lượng kiến thức tìm

hiểu quá nhiều).

3. Không có kinh phí tổ chức tham quan.

4. Chưa có điều kiện tiếp cận nguồn tài liệu trực tiếp.

4. Lớp học không phù hợp tổ chức hoạt động thảo luận nhóm.

5. Chưa biết cách khai thác nguồn tài liệu.

6. Học sinh không hứng thú tham gia bởi đây là môn phụ.

Câu 9: Thầy (cô) thường tìm hiểu di sản Hoàng thành Thăng Long từ

những nguồn tài liệu nào?

Nguồn thông tin

Thường xuyên

Không bao giờ

1.Tìm hiểu trên Internet.

Thỉnh thoảng

2. Xem các chương trình truyền hình có liên

quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long.

3. Mua sách hoặc báo, tạp chí về di sản văn hóa.

4. Truy cập website của Di sản Hoàng thành

Thăng Long (www.hoangthanhthanglong.vn) để

tìm hiểu.

5. Nghe các chương trình phát thanh có thông tin

95

về vấn đề lịch sử quan tâm.

6. Đọc các câu chuyện lịch sử về di sản Hoàng

thành Thăng Long qua một số tạp chí chuyên

khảo về di sản văn hóa.

7. Trực tiếp tham quan hoặc tham dự một số sự

kiện tổ chức tại khu di tích Hoàng thành Thăng

Long.

Câu 10: Thầy (cô) có những đề xuất gì để việc sử dụng di sản Hoàng thành

Thăng Long trong dạy học Lịch sử đạt hiệu quả?

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

Thông tin cá nhân:

Họ và tên: ................................................................ ................................................

96

Công tác tại trường THPT: .......................................................................................

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH

Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu: “Sử dụng di sản

Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường

Trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định” chúng

tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của các bạn.

Không có câu trả lời nào bị đánh giá là đúng hoặc sai, các thông tin

mang tính cá nhân sẽ được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.

(Đánh dấu X vào ô trống trước câu trả lời phù hợp với bạn)

Câu 1: Theo bạn, di sản văn hóa là gì?

o Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam

và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong

sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.

o Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đã được thế

giới công nhận.

o Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá

vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị về lịch sử, văn hoá,

khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng

hoà XHCN Việt Nam.

o Ý kiến khác:…………………………………………………………

Câu 2: Bạn quan niệm như thế nào về vấn đề sử dụng di sản văn hóa trong

dạy học môn Lịch sử?

o Là phương pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng sống, giúp cá nhân và

cộng đồng có những hiểu biết về di sản đồng thời tham gia bảo vệ di

sản.

o Là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập

97

liên quan tới di sản văn hóa, góp phần bổ sung kiến thức và giải quyết

các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, nâng cao hiểu biết bảo vệ, tuyên

truyền và có thái độ ứng xử đúng đắn với các di sản

o Là một trong những phương tiện dạy học đa dạng sống động nhất.

o Là phương pháp cải thiện chất lượng giáo dục môn Lịch sử, giúp học

sinh tăng cường am hiểu lịch sử dân tộc.

Câu 3: Theo bạn việc sử dụng di sản Hoàng Thành Thăng Long trong dạy

học môn Lịch sử có cần thiết không?

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết

Câu 4: Mức độ thường xuyên thầy (cô) của bạn sử dụng di sản Hoàng thành

Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 như thế nào?

Thường

Thỉnh

Hiếm

Không

xuyên

thoảng

khi

bao

giờ

1. Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.

2. Thềm điện Kính Thiên.

3. Bắc Môn (cổng thành phía Bắc.

4. Tường thành và 8 cổng hành cung

thời Nguyễn.

5. Di tích cách mạng nhà và hầm D67.

6. Hậu Lâu (Tĩnh Bắc Lâu hoặc Lầu

Công chúa).

7. Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội).

8. Kiến trúc Hoàng thành Thăng Long.

9. Các di tích, di vật của Hoàng thành

Thăng Long.

Câu 5: Trong quá trình dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường thiết kế các hoạt

động học tập nào sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long?

Hoạt động học tập

Không

98

1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng Long.

2. Học sinh đặt và trả lời câu hỏi về di sản Hoàng thành Thăng

Long.

3. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực hiện nhiệm vụ

học tập (ví dụ: tổ chức trò chơi “Mảnh ghép lịch sử”; thuyết

trình về Nhân vật lịch sử,…).

4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành Thăng Long

5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính Thiên, Đoan

Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu.

6. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”.

7. Thảo luận nhóm với chủ đề về: “Bảo tồn và phát huy di sản

Hoàng thành Thăng Long”.

8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long.

9. Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long qua các thời

kỳ lịch sử.

10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về di sản Hoàng

thành Thăng Long.

Câu 6: Hãy cho biết mức độ hứng thú của bạn khi tham gia các hoạt động học

tập liên quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long được thể hiện như thế nào?

Hoạt động học tập

Rất

Bình

Không

thích

thường

thích

1.Xây dựng thư viện ảnh Hoàng thành Thăng

Long.

2. Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực

hiện nhiệm vụ học tập (ví dụ: tổ chức trò chơi

“Mảnh ghép lịch sử”; thuyết trình về Nhân vật lịch

sử,…).

3.Trình bày bằng sơ đồ Hoàng thành Thăng Long

qua các thời kỳ lịch sử.

4. Học sinh tìm hiểu về kiến trúc Hoàng thành

99

Thăng Long.

5. Học sinh đọc sách liên quan tới thềm điện Kính

Thiên, Đoan Môn, Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng

Diệu.

6. Học sinh đặt và trả lời các câu hỏi về di sản

Hoàng thành Thăng Long.

7. Thảo luận nhóm với chủ đề về:“Bảo tồn và phát

huy di sản Hoàng thành Thăng Long”.

8. Tổ chức tham quan Hoàng thành Thăng Long.

9. Viết bài về chủ đề Lịch sử: “Hành trình di sản”.

10. Đóng vai làm hướng dẫn viên giới thiệu về di

sản văn hóa Hoàng thành Thăng Long.

Câu 7: Để kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long

trong dạy trong dạy học môn Lịch sử, thầy (cô) thường sử dụng cách thức nào

dưới đây?

Cách thức kiểm tra – đánh giá

Thường

Thỉnh

Chưa

xuyên

thoảng

bao

giờ

1.Trả lời câu hỏi tự luận theo mục tiêu dạy học.

2. Trả lời câu hỏi trắc nghiệm khách quan (câu

hỏi nhiều lựa chọn, điền chỗ trống, câu ghép

cặp,…).

3. Quan sát hứng thú của học sinh.

4. Phiếu học tập, phiếu đánh giá hoàn thành

nhiệm vụ học tập.

5. Kiểm tra thường xuyên (vấn đáp, kiểm tra

đánh giá nhanh).

6. Kiểm tra viết sau khi học xong một phần, một

chương hoặc một khóa trình lịch sử.

Câu 8: Khi tham gia các hoạt động học tập sử dụng di sản Hoàng thành Thăng

100

Long trong dạy học Lịch sử, bạn thường gặp những khó khăn gì?

Một số khó khăn

Không

1. Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn (máy chiếu, tranh ảnh

liên quan, phòng học…).

2. Không có đủ thời gian (số tiết hạn chế trong khi lượng kiến

thức tìm hiểu quá nhiều).

3. Không được đi tham quan.

4. Lớp học không phù hợp tổ chức hoạt động thảo luận nhóm.

5. Thiếu tài liệu tham khảo.

6. Ít được xem tranh ảnh, bản đồ, trang web để tham gia thảo luận

nhóm.

7. Giáo viên ít giải đáp thắc mắc liên quan đến bài học.

Câu 9: Bạn thường tìm hiểu di sản Hoàng thành Thăng Long từ những

nguồn tài liệu nào?

Nguồn thông tin

Thường

Thỉnh

Không

xuyên

thoảng

bao

giờ

1.Tìm hiểu trên Internet.

2. Xem các chương trình truyền hình có liên

quan đến di sản Hoàng thành Thăng Long.

3. Mua sách hoặc báo, tạp chí về di sản văn

hóa.

4. Truy cập website của Di sản Hoàng thành

Thăng Long (www.hoangthanhthanglong.vn)

để tìm hiểu.

5. Nghe các chương trình phát thanh có thông

tin về vấn đề lịch sử quan tâm.

6. Đọc các câu chuyện lịch sử về di sản Hoàng

thành Thăng Long qua một số tạp chí chuyên

khảo về di sản văn hóa.

101

7. Trực tiếp tham quan hoặc tham dự một số sự

kiện tổ chức tại khu di tích Hoàng thành Thăng

Long.

8. Tìm hiểu từ thầy, cô, bạn bè hoặc những

người thân trong gia đình.

Câu 10: Mức độ bạn hứng thú với các sự kiện văn hóa đã được tổ chức tại

Hoàng thành Thăng Long dưới đây như thế nào?

Sự kiện

Rất

Bình

Không

thích

thường

quan

tâm

1. Lễ hội Hoa anh đào (ngày 15/04/2015).

2. Chương trình “Ký ức Hà Nội” khai mạc tối

30/12/2015.

3. Lễ hội âm nhạc Quốc tế (diễn ra từ ngày 2 đến

4/10/2014).

5. Tổ chức khai ấn tại Hoàng thành Thăng Long

(ngày 17/02/2016).

6. Lễ khai mạc Hội sách Hà Nội 2015 với chủ đề

“Sách và Di sản” (ngày 29/9/2015).

7. Triển lãm các đồ án kiến trúc bảo tồn Khu 18

Hoàng Diệu.

Câu 11: Theo bạn cần có những thay đổi như thế nào để việc sử dụng di

sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử đạt hiệu quả?

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

Vui lòng cho biết thông tin cá nhân:

Họ và tên: ................................................................ ................................................

102

Lớp: ...........................................................................................................................

103

Chân thành cảm ơn!

PHỤ LỤC 2

Bài 20: XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC

TRONG CÁC THẾ KỈ X – XV

(Giáo án thực nghiệm)

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức: Sau khi học xong bài học, học sinh có khả năng:

- Trình bày được sự phát triển của các tư tưởng, tôn giáo (Nho giáo, Phật

giáo, Đạo giáo) ở nước ta từ thế kỉ X- XV. Nhận xét vị trí của Phật giáo ở thời

kì này.

- Nêu được các thành tựu nổi bật về giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, khoa học

kĩ thuật của nước ta trong các thế kỉ X – XV.

- Đánh giá được ý nghĩa sự phát triển văn hoá của nước ta trong các thế kỉ X –

XV.

2. Kĩ năng

- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử; sử dụng

tranh ảnh; kĩ năng làm việc nhóm, thuyết trình.

3. Thái độ

- Bồi dưỡng niềm tự hào về nền văn hóa đa dạng của dân tộc thông qua đó

nâng cao ý thức trân trọng, bảo vệ các di sản văn hóa của dân tộc.

B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

1. Chuẩn bị c a giáo viên

- Sách giáo khoa Lịch sử 10, Sách giáo viên

- Trương Hữu Quýnh (chủ biên) – Phan Đại Doãn – Nguyễn Cảnh Minh, Đại

cương lịch sử Việt Nam tập I, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

- Giáo án, slide trình chiếu.

- Phương tiện dạy học: bảng, phấn, máy chiếu.

- Tranh, ảnh, clip, tài liệu về di sản Hoàng thành Thăng Long.

2. Chuẩn bị c a học sinh

104

- Đọc trước bài học ở nhà.

- Tìm hiểu về di sản Hoàng thành Thăng Long theo yêu cầu của giáo viên.

C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

- Thuyết trình, vấn đáp

- Thảo luận nhóm.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định trật tự lớp

2. Giới thiệu bài mới

- Giáo viên cho học sinh xem một số hình ảnh (qua video) với câu hỏi định

hướng: Các hình ảnh các em vừa xem thuộc về văn hóa thời kì nào? Kể tên

các hình ảnh đó?

HS trả lời.

- Giáo viên nhận xét và đưa lời dẫn: Đây là những thành tựu nổi bật nhất của

văn hóa Việt Nam thế kỉ X- XV. Bên cạnh các thành tựu đó, ở thời kì này văn

hóa dân tộc và đặc biệt là di sản Hoàng thành Thăng Long còn có rất nhiều

thành tựu đa dạng, phong phú khác. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp ở các

nội dung cụ thể ở bài học.

3. Tiến trình bài học

Hoạt động c a giáo viên và học sinh Kiến thức cần đạt

1. Hoạt động 1: Tìm hiểu sự phát triển I. Tư tưởng, tôn giáo

của các tư tưởng, tôn giáo ở nước ta thế - Ở thời kì độc lập, Nho giáo, Phật

kỉ X-XV giáo, Đạo giáo có điều kiện phát

- GV: Bước sang thời kì mới, trong bối triển mạnh.

cảnh có chủ quyền độc lập, các tôn giáo

được du nhập vào nước ta từ thời Bắc

thuộc có điều kiện phát triển. Vậy, Nho

giáo có nguồn gốc từ đâu? Do ai sáng

lập? Giáo lý cơ bản là gi?

105

- HS trả lời.

- GV nhận xét, kết luận: Nho giáo lúc

đầu cũng chưa phải là một tôn giáo mà

là một học thuyết của Khổng Tử ở

Trung Quốc. Sau này, một đại biểu của

Nho học là Đông Trung Thư đã dùng

thuyết âm dương, dùng thần học để biện

hộ cho những quan điểm của Khổng Tử

biến Nho học thành một tôn giáo (Nho

giáo). Giáo lý cơ bản là: đề cao những

nguyên tắc trong quan hệ xã hội theo

đạo lý “Tam cương, ngũ thường”. Tam

cương là 3 mối quan hệ vua – tôi, cha –

con, chồng – vợ; ngũ thường là nhân,

nghĩa, lễ, trí, tín.

Nho giáo du nhập vào nước ta từ thời  Nho giáo

Bắc thuộc, bước sang thế kỉ phong kiến +Thời Lý, Trần: Nho giáo đã dần trở

độc lập có điều kiện phát triển. Biểu thành hệ tư tưởng chính thống của

hiện (phát triển qua các thời đại Lý, giai cấp thống trị; chi phối nội dung

Trần, Lê sơ). giáo dục, thi cử. Tuy nhiên ít phổ

- GV nêu câu hỏi: Tại sao Nho giáo biến trong nhân dân.

sớm trở thành hệ tư tưởng chính thống +Thời Lê sơ: Nho giáo chiếm vị thế

của giai cấp thống trị nhưng lại không độc tôn.

phổ biến trong nhân dân?

- GV gợi ý: Những nội dung của Nho

giáo có vai trò gì đối với giai cấp phong

kiến?

- HS trả lời.

106

-> GV nhận xét, tổng kết: Những quan

điểm, tư tưởng Nho giáo đã quy định

một trật tự, kỉ cương, đạo đức phong

kiến rất quy củ, khắt khe. Giai cấp

thống trị đã triệt để lợi dụng Nho giáo

làm công cụ thống trị. Còn nhân dân chỉ

tiếp thu khía cạnh đạo đức của Nho

giáo. Đến thời Lê sơ, Nho giáo trở

thành độc tôn vì lúc này nhà nước quân

chủ chuyên chế đạt được mức độ cao,

hoàn chỉnh.

- GV yêu cầu học sinh dựa vào SGK và  Phật giáo

tìm hiểu về Phật giáo và Đạo giáo. + Thế kỉ X - XIV, Phật giáo chiếm

- GV cung cấp thêm thông tin về ảnh vị trí quan trọng và rất phổ biến,

hưởng của Phật giáo đến kiến trúc tại chùa chiền được xây dựng ở khắp

Hoàng thành Thăng Long: nơi.

Các chân đế cột bằng đá tạc hình hoa + Đạo giáo tuy không phổ cập

sen, các họa tiết đều được tạo dáng và nhưng hòa lần vào với các tín

bố cụ theo khuôn hình lá đề. Đặc biệt ngưỡng dân gian. Một số đạo quán

những mảnh tháp sứ men trắng trang trí được xây dựng.

hình tiên nữ đang nhảy múa mang đậm - Từ cuối XIV, Phật giáo và Đạo

phong cách nghệ thuật Chămpa -> sự giáo suy dần.

ảnh hưởng của dấu vết Chămpa.

2. Hoạt động 2: (Hoạt động nhóm) II. Giáo dục, văn học, nghệ thuật,

- GV chia lớp thành 4 nhóm phân công khoa học kĩ thuật

nhiệm vụ cho từng nhóm, giao cho HS

tìm hiểu trước ở nhà:

+Nhóm 1: Tìm hiểu về Văn miếu Quốc

107

Tử Giám.

+Nhóm 2: Tìm hiểu, phân tích một số

tác phẩm văn học nổi tiếng thời kỳ này

+Nhóm 3: Tìm hiểu thềm điện Kính

Thiên, sự giao thoa văn hóa giữa Hoàng

thành Thăng Long và các nước trong

khu vực châu Á; đồ gốm sứ;...

+ Nhóm 4: Tìm hiểu về bộ Đại Việt sử

kí toàn thư của Lê Văn Hưu.

- HS các nhóm trao đổi, GV gọi đại diện

lên trình bày.

- GV nhận xét, tổng kết lại.

- Nhóm 1 trình bày, GV nhận xét, tổng 1. Giáo dục

kết. - 1070, Văn Miếu được xây dựng.

- GV cho HS xem các hình ảnh về Văn - 1075, mở khoa thi đầu tiên để

Miếu Quốc Tử Giám và đưa ra nhận tuyển chọn nhân tài

xét: có thể nói triều Lê Thánh Tông là - 1076, xây dựng Quốc tử giám.

thời kỳ phát triển cực thịnh của giáo - Thế kỉ XI-XV, giáo dục Đại Việt

dục, thi cử phong kiến. từng bước hoàn thiện như: tổ chức

các kì thi Hương, Hội, Đình chọn

Tiến sĩ, dựng bia văn Tiến sĩ (1484)

- GV đặt câu hỏi: Theo em, việc dựng - Tác dụng: đào tạo người làm

bia Tiến sĩ có ý nghĩa gì? quan, người tài cho đất nước, nâng

- HS trả lời. cao dân trí, song không tạo điều

kiện cho việc phát triển kinh tế.

- Nhóm 2 trình bày, GV nhận xét, tổng 2.Văn học

kết. - Giáo dục phát triển là điều kiện để

108

văn học phát triển

- Văn học phát triển mạnh từ thời

nhà Trần

- Một số tác phẩm nổi tiếng:

+ Nam quốc sơn hà (Lý Thường

Kiệt)

+ Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi),

+ Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn),

+ Bạch Đằng Giang Phú (Trương

Hán Siêu)… và một số tác phẩm, tác

giả khác.

- Đặc điểm:

+ Chủ yếu viết bằng chữ Hán và chữ

Nôm

+ Thể hiện tinh thần yêu nước, niềm

tự hào dân tộc.

+ Ca ngợi những chiến công oai

hùng, cảnh đẹp của quê hương, đất

nước.

- Nhóm 3 trình bày, GV nhận xét, tổng 3. Nghệ thuật

kết.

- GV cung cấp ảnh và thêm thông tin - Kiến trúc

về kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật sân + Kiến trúc rất phát triển với các

khấu : công trình: Phật giáo (Chùa Một

+ Thềm điện Kính Thiên: Quan sát kiến Cột, chùa Dâu, chùa Phật tích…)

trúc điện Kính Thiên qua các bức ảnh An Nam tứ đại khí: Tháp Báo Thiên,

do người Pháp chụp cuối thế kỉ XIX, Vạc Phổ Minh, Chuông Quy Điền,

chúng ta có thể thấy đây là một kiến tượng phật chùa Quỳnh Lâm.

109

Thành nhà Hồ (cuối XIV) trúc gỗ gồm 2 nếp hình chữ Nhị (二).

Nhà làm kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái - Đặc điểm:

với các góc đao cong. Bờ nóc của cả + Giai đoạn Lý, Trần, Hồ kiến trúc

hai nếp nhà đều đắp nổi đôi rồng chầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo với

mặt trời. Quanh điện có sân rộng được các công trình kiến trúc tiêu biểu:

xây lan can bao cả 4 phía. Dấu tích điện chùa, tháp, đền.

Kính Thiên hiện nay chỉ còn là khu nền + Những công trình ảnh hưởng của

cũ. Nền điện dài 57 mét, rộng 41,5 mét, Nho giáo: cung điện, thành quách (

cao 2,3 mét và thềm bậc xây bằng đá thành Thăng Long)

xanh tạo thành ba lối vào. Phía Nam

nền điện còn có hàng lan can cao hơn

100cm. Mặt trước, hướng chính nam

của điện Kính Thiên là thềm điện xây

bằng những phiến đá hộp lớn bao gồm

10 bậc có 4 rồng đá chia thành 3 lối lên

đều nhau tạo thành Thềm Rồng. Thềm

bậc có kích thước ngang 13,7 mét; dọc

4,45 mét; cao 2,1 mét với đôi rồng đá

khắc chạm năm 1467 là những bộ phận

điêu khắc đá còn tương đối nguyên

vẹn. Rồng đá điện Kính Thiên là một di

sản kiến trúc nghệ thuật, kiệt tác tiêu

biểu thời Lê sơ. Phía bắc của nền điện

còn có một thềm 7 bậc lên xuống nhỏ

hơn so với bậc thềm chính ở phía nam.

Hai bên bậc thềm có 2 rồng đá mang

niên đại Lê Trung Hưng (thế kỉ XVII –

XVIII), than rồng dài 3,4 mét, uốn bảy

110

khúc, than có vẩy, lưng như hàng vây

cá, chân rồng 5 móng. Hai bên lan can

trang trí hoa sen, song, nước, đao, lửa,

vân mây,..

+ Các loại vật liệu xây dựng: các chân - Điêu khắc

đế cột bằng đá tạc hình hoa sen, các + Nhiều tác phẩm điêu khắc mang

họa tiết ngói lợp trang trí hình lá đề, họa tiết hoa văn độc đáo như: mình

hình tượng đạo Phật. Bên cạnh đó còn trơn cuộn trong lá đề, bông cúc

có nhiều loại gạch in hình tháp Phật nhiều cánh, bệ chân cột hình hoa sen

hay những mảnh vỡ của mô hình tháp nở,… nhiều bức phù điêu hình các

Phật bằng đất nung hoặc bằng sứ trắng cô tiên, vũ nữ vừa múa vừa đánh

trang trí hoa sen, tiên nữ. đàn.

+ Sự giao thoa văn hóa: Mảnh tháp sứ + Đặc điểm: Có những công trình

men trắng chạm hình tiên nữ (Apsara) trạm khắc, trang trí ảnh hưởng của

đang say sưa với điệu múa như thực Phật giáo và Nho giáo song vẫn

như hư đã tìm thấy tại các điểm khai mang nét độc đáo riêng.

quật trong khu Trung tâm Hoàng thành

Thăng Long. Đây là loại hình chạm

khắc thường gặp trong Ấn Độ giáo (đạo

Hinđu) và trong các thần thoại Phật

giáo. Bên cạnh đó, còn có những viên

gạch chạm khắc hình ảnh chim thần

(Garuda) được tìm thấy rất nhiều tại các

điểm khai quật trong Hoàng thành

Thăng Long. Garuda là loài chim thần

trong Ấn Độ giáo và sau đó ảnh hưởng

sang Phật giáo Nam tông. Đây là con

vật cưỡi của thần Vishu, có đầu người,

111

mình chim, có đầy đủ chân tay và cánh.

Những viên gạch chạm khắc hình

Garuda trong khu Hoàng thành Thăng

Long cho thấy hình ảnh Garuda đang

nâng trên lưng một góc cung điện (viên - Nghệ thuật sân khấu

gạch góc) với vẻ mặt khá dữ như sẵn + Loại hình: chèo, tuồng, múa rối

sàng xé xác bất cứ kẻ nào dám xâm nước; âm nhạc phát triển với nhiều

phạm tới nơi mà Garuda đang bảo vệ. nhạc cụ như trống cơm, sáo tiêu, đàn

Bên cạnh những viên gạch chạm khắc cầm, đàn tranh, chiêng, cồng, …

hình ảnh Garuda, người ta cũng tìm + Đặc điểm: ca, múa, nhạc mang

thấy rất nhiều mảnh vỡ của bình rượu đậm tính dân gian truyền thống.

có chạm khắc hình ảnh nữ thần chim

(Kinnari) trong các khu khai quật của

Hoàng thành Thăng Long.

- Nhóm 4 trình bày, GV nhận xét, tổng 4. Kho học – kĩ thuật

kết

- Sử học: Bộ Đại Việt sử ký của Lê - GV cung cấp thêm thông tin về bộ Đại

văn Hưu (bộ sử chính thống thời Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu (là

Trần ); Nam Sơn thực lục, Đại Việt cuốn sách chữ Hán lớn chép về các sự

sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên ). kiện lịch sử nước Việt Nam (Quốc sử)

qua các thời đại từ Kinh Dương Vương - Địa lý : Dư địa chí , Hồng Đức bản

đến thời nhà Lê Trung Hưng năm 1675. đồ

Đây là cuốn sử Việt Nam cổ nhất còn

- Quân sự: Binh thư yếu lược, chế tồn tại nguyên vẹn tới ngày nay do

tạo sung thần cơ, đóng thuyền chiến nhiều sử gia từ thời nhà Trần và thời

có lầu, thành nhà Hồ nhà Hậu Lê soạn thảo ra) và câu chuyện

112

về súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng - Toán học: Đại thành toán pháp của (Súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng có Lương Thế Vinh: Lập thành toán đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại

pháp của Vũ Hữu. súng bằng đồng ở những thế kỉ sau này.

Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hay - Chính trị: Thiên Nam dư hạ. bằng đồng. Đạn pháo là mũi tên bằng

sắt lớn. Súng thần cơ có nhiều loại, loại ->Nhận xét: khoa học kĩ thuật phát

nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa chừng triển đa dạng, phong phú nhưng

700m. Khi cuộc kháng chiến của nhà khoa học tự nhiên phát triển hơn

Hồ thất bại, nhà Minh thu được súng khoa học xã hội.

thần cơ. Theo Lê Quý Đôn ghi chép

trong “Vân Đài loại ngữ” thì “quân

Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế

Trừng.”).

3. C ng cố bài học

- GV đặt câu hỏi củng cố bài: Qua những thành tựu văn hoá đã tìm hiểu, em hãy

cho biết ý nghĩa của sự phát triển văn hoá của nước ta từ thế kỉ X – XV đối với

tiến trình lịch sử văn hóa dân tộc là gì? (1- 2 HS trả lời).

- GV nhận xét, tổng kết.

+ Văn hoá thời kì này phát triển mạnh trên nhiều lĩnh vực.

+ Các thành tựu văn hoá được bảo tồn và còn nguyên giá trị cho tới ngày nay.

Một số công trình đã trở thành biểu tượng của thủ đô Hà Nội và của cả đất nước

Việt Nam. Từ đó góp phần lưu giữ lại các giá trị văn hóa dân tộc.

+ Qua những thành tựu văn hoá cho thấy sự sáng tạo, lao động miệt mài của ông

cha ta.

+ Góp phần làm phong phú, đa dạng các nền văn hóa dân tộc nước ta.

113

+ Tạo cơ sở cho văn hóa dân tộc thời kì sau phát triển.

PHỤ LỤC 3

BÀI KIỂM TRA 15 PHÚT

Câu 1. Kể tên 4 tác phẩm- tác giả tiêu biểu trong văn học thế kỉ X-XV?Nêu đặc

điểm của văn học thời kỳ này.

Câu 2: Hoàn thành bảng tìm hiểu về sự phát triển nghệ thuật nước ta thế kỉ X-XV

có liên quan đến Hoàng thành Thăng Long:

Tên

Đặc điểm

Nội dung

Kiến trúc

Điêu khắc

Nghệ thuật

sân khấu

114

Câu 3: Dựa vào các hình ảnh về Hoàng thành Thăng Long cho dưới đây, điền tên sao cho phù hợp: (nguồn: sggp.org.vn)

1…………………………………… 2…………………………………….

3……………………………… 4……………………………………..

Câu 4: Hoàn thành bảng nội dung tìm hiểu sự phát triển của khoa học kĩ thuật ở

nước ta thế kỉ X-XV.

Thành tựu

Lĩnh vực

Sử học

Địa lý

Quân sự

Toán học

Chính trị

115

PHỤ LỤC 4

MỘT SỐ TRANH ẢNH TIÊU BIỂU VỀ

DI SẢN HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

1. Phía trước của Hoàng thành Thăng Long

116

2. Đoan Môn

4. Vật liệu xây dựng và dấu vết Chămpa

Lá đề hình rồng thời Lý – Trần

Ngói úp nóc, mái gắn lá đề trang trí chim phượng thời Lý (thế kỉ XI – XII)

117

3. Đôi rồng đá

Gạch vuông lát nền, trang trí nổi cá sấu bơi trong song nước thời Đại La (thế kỉ VIII – IX)

Một mảnh gạch có chạm khắc hình

tượng chim thần (Garuda)

Đầu chim uyên ương bằng đất nung trang trí trên cung điện thời Lý - Trần.

Viên gạch khắc chữ Chăm

118

(Nguồn: hoangthanhthanglong.vn)

5. Đồ gốm sứ thời Lý – Trần – Lê sơ

Thạp gốm hoa nâu thời Trần (thế kỉ XIII-XIV)

Bát gốm hoa lam, vẽ rồng chân có 5 móng, đồ ngự dụng thời Lê sơ (thế kỉ XV)

Bát gốm đen thời Lý – Trần

119

(Nguồn: hoangthanhthanglong.vn)

120

(Nguồn: hoangthanhthanglong.vn)