BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
NGÔ MINH DUY
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ PHÂN CẤP TÀI
KHÓA ĐẾN XUNG ĐỘT VỀ ĐẤT ĐAI –
THỰC NGHIỆM DỮ LIỆU BẢNG TẠI 19
TỈNH VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
*****
NGÔ MINH DUY
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ PHÂN CẤP TÀI
KHÓA ĐẾN XUNG ĐỘT VỀ ĐẤT ĐAI –
THỰC NGHIỆM DỮ LIỆU BẢNG TẠI 19
TỈNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số:8340201
Hướng đào tạo: hướng ứng dụng
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DIỆP GIA LUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nguyên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học và tận tâm của PGS.TS.Diệp Gia Luật.
Các số liệu, thống kê được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
HỌC VIÊN
Ngô Minh Duy.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa. Lời cam đoan. Mục lục. Danh mục các cụm từ viết tắt. Danh mục các bảng. Tóm tắt. Abstract Mở đầu. CHƯƠNG 1: 1 4
4 4 8 10 12
12 13 16 17 19 19 22 24 26
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN CẤP TÀI KHÓA, VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI 1.1. Cơ sở lý thuyết về FDI, phân cấp tài khóa và xung đột đất đai 1.1.1. Lý thuyết về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.2. Lý thuyết về phân cấp tài khóa. 1.1.3. Lý thuyết về xung đột đất đai 1.2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ phân cấp tài khóa, FDI xung đột đất đai 1.2.1. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và FDI 1.2.2. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và xung đột đất đai 1.2.3. Mối quan hệ FDI và xung đột đất đai 1.2.4. Mối quan hệ phân cấp tài khóa, FDI và xung đột đất đai 1.3. Lược khảo các nghiên cứu trước 1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài 1.3.2. Các nghiên cứu trong nước. 1.4. Kết luận chương 1. CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH PHÂN CẤP TÀI KHÓA, NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI TẠI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN TỪ 2012-2016
2.1. Thực trạng nguồn FDI tại Việt Nam 2.1.1. Đánh giá về nguồn vốn FDI 2.1.2. Nguyên nhân 2.2. Thực trạng phân cấp tài khóa tại Việt Nam 2.2.1. Khung pháp lý về phân cấp tài khóa 2.2.2. Về phân cấp nguồn thu 2.2.3. Về phân cấp nhiệm vụ chi 2.2.4. Về trách nhiệm giải trình tài khóa của chính quyền địa phương 2.3. Thực trạng về xung đột đất đai tại Việt Nam 2.3.1. Cơ sở hình thành giá đất và bồi thường. 2.3.2. Chính sách và pháp luật về khiếu nại tố cáo, tiếp công dân ở nước ta 2.3.3. Khiếu nại tố cáo về Đất đai 26 26 28 29 29 30 30 31 32 32 34 34
CHƯƠNG 3: 38 MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu 3.1.1. Mô hình lý thuyết 3.1.2. Mô tả các biến trong mô hình 3.2. Mô tả dữ liệu. 3.3. Phương pháp ước lượng CHƯƠNG 4: 38 38 39 40 43 44
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TÁC ĐỘNG NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI, PHÂN CẤP TÀI KHÓA VỚI XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI
4.1. Kiểm định mô hình 4.1.1. Kiểm định các biến trong mô hình nghiên cứu 4.1.2. Kết quả kiểm định mô hình 4.1.3. Các kiểm định chi tiết. 4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu CHƯƠNG 5: 44 44 47 48 54 55 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
55 55 55 56 57 5.1. Kết luận nghiên cứu. 5.2. Khuyến nghị chính sách. 5.2.1. Tăng cường trách nhiệm giải trình và tính công khai minh bạch 5.2.2. Đối quản lý quản lý dự án FDI, quỹ đất công và bảng giá đất 5.3. Kết luận chung Tài liệu tham khảo
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
FDI (Foreign Direct Investment) đầu tư trực tiếp nước ngoài.
WTO (World Trade Organization) Tổ chức thương mại thế giới.
OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế.
MNE: các công ty vừa và nhỏ.
GDP (Gross Domestic Product): tổng sản phẩm nội địa.
EU: Liên minh châu âu.
XDCB : Xây dựng cơ bản.
NSTW: Ngân sách Trung ương.
NSĐP: Ngân sách địa phương.
NSNN: Ngân sách nhà nước.
HĐND: Hội đồng nhân dân.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Nội Dung Trang
Tổng vốn FDI đăng ký năm 2017 và lũy kế đến năm
1.1 16-17
2017.
2.1 Thống kê về số dự án và vốn FDI đăng ký từ năm 26
2010 – 2017.
2.2 Thống kê về số dự án, vốn FDI còn hiệu lực theo đối 27
tác đầu tư đến ngày 31/12/2017.
2.3 Thống kê về số dự án, vốn FDI còn hiệu lực theo địa 27
phương đến ngày 31/12/2017.
2.4 Bảng tổng hợp Tỉ lệ khiếu nại lĩnh vực đất đai nhà ở 35
các cơ quan chính phủ.
2.5 Bảng tổng hợp số đơn khiếu nại, tố cáo lĩnh vực đất 35
đai nhà ở các cơ quan chính phủ năm 2016-2017.
Mô tả các biến và kỳ vọng dấu trong mô hình. 3.1 40
Các tỉnh trong mẫu nghiên cứu. 3.2 41
Thống kê mô tả các biến trong mô hình. 3.3 42
Ma trận tương quan các biến trong mô hình. 4.1 45
4.2. Kiểm định VIF. 46
Kết quả kiểm định Wooldridge. 4.3 46
Kết quả hồi quy POLS, FEM, REM. 4.4 47
Bảng kết quả kiểm định Breusch-Pagan. 4.5 48
Kết quả kiểm định Hausman. 4.6 49
Kết quả hồi quy FEM và REM khi có độ trễ. 4.7 50
Kết quả mô hình GMM. 4.8 51
TÓM TẮT
Sau 30 năm đón nhận dòng vốn FDI, Việt Nam đã ghi nhận nhiều mặt tích cực
như tốc độ tăng trưởng cao, nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ lệ thất nghiệp thấp…
Tuy nhiên, song hành cùng việc tăng trưởng kinh tế cao đó là việc gia tăng các bất ổn
xã hội đặc biệt là xung đột liên quan đến đất đai.Nhiều ý kiến cho rằng, việc thu hồi
đất với giá thấp để thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất đáp ứng nhu cầu về
cơ sở vật chất nhằm thu hút dòng vốn FDI đã làm mức độ đô thị hóa tại nhiều địa
phương gia tăng nhanh chóng. Cộng hưởng với việc chạy đua chính sách ưu đãi dành
cho nhóm các doanh nghiệp FDI đã thúc đẩy các tranh chấp, xung đột về đất đai ngày
càng một gia tăng giữa người dân với chính quyền địa phương, hay thậm chí các tranh
chấp dân sự về đất đai cũng gia tăng. Do đó, trong tình hình mới, địa phương công
tác là địa phương có tiến trình đô thị hóa nhanh, thu hút FDI nhiều trong thời gian
tới, cho nên cần thiết phải thực hiện nghiên cứu để có giải pháp quản lý tốt, nhằm
mục đích phải triển kinh tế địa phương bền vững, nhưng cũng ổn định đời sống người
dân, an ninh trật tự, công bằng xã hội.
Bài Luận sử dụng dữ liệu Bảng tại 19 tỉnh bao gồm các tỉnh Đông Nam Bộ,
Tây Nam Bộ và tỉnh Bình Thuận để xem xét tác động của FDI và phân cấp tài khóa
đến xung đột đất đai tại 19 tỉnh phía Nam, và từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách
giải quyết xung đột này.
Với các kết quả thu được từ sử dụng mô hình ước OLS, FEM và mô hình
GMM để kiểm định, Bài luận đã chỉ ra được một mối liên hệ gián tiếp của FDI và
phân cấp tài khóa đến xung đột đất đai tại 19 tỉnh. Trên cơ sở đó, tác giả bước đầu
đưa ra các khuyến nghị chính sách về việc gia tăng việc giám sát, nhất là của HĐND
và việc giải trình, đây là yếu tố bắt buộc khi chúng ta gia tăng sự phân cấp cho chính
quyền cấp dưới. Bên cạnh đó, bài luận cũng đề nghị nên gia tăng không gia tự chủ
của chính quyền địa phương về bảng giá đất trên cơ sở giám sát của người dân. Đồng
thời thay đổi cách tinh tiền thuế trong một giao dịch về đất đai nên được tính theo
bảng giá đất cấp tỉnh.Từ khóa: Xung đột đất đai, phân cấp tài khóa, FDI.
Từ khóa: Xung đột đất đai, Phân cấp tài khóa, FDI.
ABSTRACT
After 30 years of receiving FDI inflows, Vietnam has recorded many positive
aspects such as high growth rate, improved human resources, low unemployment rate
... However, along with the high economic growth is the increase in social unrest,
especially conflicts related to land. Many people said that the acquisition of land at
low prices to establish industrial parks and export processing zones to meet the
demand for facilities to attract FDI has increased rapidly the level of urbanization in
many localities. Resonance with the rush of preferential policies for FDI enterprises
has led to an increasing number of conflicts, land conflicts between people and local
authorities, or even civil disputes. Therefore, in the new situation, the working
localities are localities with rapid urbanization process, attracting a lot of FDI in the
coming time, so it is necessary to conduct research to have a good management
solution, in order to The goal is to develop the local economy sustainably, but also to
stabilize the lives of the people, security, social order and justice.
The essay uses Table data in 19 provinces including Southeast, Southwest and
Binh Thuan to examine the impact of FDI and fiscal decentralization on land conflicts
in 19 southern provinces, and thereby making these policy recommendations for
conflict resolution.
With the results obtained using the OLS, FEM and GMM estimation models for
testing, the paper pointed out an indirect linkage of FDI and fiscal decentralization to
land conflicts in 19 provinces. On that basis, the author initially made policy
recommendations on increased oversight, especially of the People's Council and
accountability, which is a must when we increase decentralization to the subordinate
government. In addition, the essay also recommends increasing the autonomy of local
authorities on land price lists based on people's supervision. Also change the way tax
money is calculated in a land transaction should be calculated according to the
provincial land price list.
Key words: Land conflicts, fiscal decentralization, FDI.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Từ nhiều thập kỷ trước, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã đưa ra lý thuyết
“vòng lẫn quẩn của sự chậm phát triển và cú huých từ bên ngoài” và để phá vỡ
vòng lẫn quẩn này, nhất là tại các nước đang phát triển, thì phải có sự đầu tư từ
nước ngoài. Một trong các dòng vốn nước ngoài đã và đang khẳng định vai trò của
mình đó là dòng vốn FDI. Đặc biệt hơn đây còn là một luồng vốn tương đối ổn
định, do FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, triển vọng tăng trưởng và
không tạo ra nợ cho chính phủ. Bên cạnh đó, FDI còn giúp khuếch tán công nghệ
tại nước tiếp nhận; giúp phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm; giúp mở rộng thị
trường, thúc đẩy xuất khẩu và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tại Việt Nam, sau 30 năm đón nhận dòng vốn FDI (1988 – 2018), đã ghi nhận
nhiều mặt tích cực như tốc độ tăng trưởng cao, nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ
lệ thất nghiệp thấp… Tuy nhiên, song hành cùng việc tăng trưởng kinh tế cao đó
là việc gia tăng các bất ổn xã hội đặc biệt là xung đột liên quan đến đất đai. Cụ
thể, theo thống kê, tổng số vụ việc khiếu nại các cơ quan hành chính nhà nước đã
tiếp nhận và giải quyết trong các năm từ 2004 đến 2012 là: 528.401/612.115 vụ
việc đạt 86%, trong số đó, hằng năm, khiếu nại hành chính liên quan đến đất đai
luôn chiếm khoảng 70%.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc thu hồi đất với giá thấp để thành lập các khu công
nghiệp, khu chế xuất đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất nhằm thu hút dòng vốn
FDI đã làm mức độ đô thị hóa tại nhiều địa phương gia tăng nhanh chóng. Cộng
hưởng với việc chạy đua chính sách ưu đãi dành cho nhóm các doanh nghiệp FDI
đã thúc đẩy các tranh chấp, xung đột về đất đai ngày càng một gia tăng giữa người
dân với chính quyền địa phương, hay thậm chí các tranh chấp dân sự về đất đai
cũng gia tăng.
Tiếp cận vấn đề này từ các nghiên cứu cho thấy mối liên kết giữa FDI và tăng
trưởng là nhân quả và FDI thúc đẩy tăng trưởng thông qua thị trường tài chính (L
2
Alfaro, A Chanda, S Kalemli-Ozcan, 2004). Borensztein và cộng sự (1998) chỉ ra
rằng FDI có thể được coi là một trong những phương tiện truyền tải chính tiên tiến
công nghệ đến các nước đang phát triển… Tuy nhiên, Cao và các cộng sự, (2010)
chỉ ra rằng chính phủ có xu hướng đưa ra giá đất thấp để thu hút nguồn vốn FDI.
Do đó, trong tình hình mới, địa phương công tác là địa phương có tiến trình đô
thị hóa nhanh, thu hút FDI nhiều trong thời gian tới, cho nên cần thiết phải thực
hiện nghiên cứu để có giải pháp quản lý tốt, nhằm mục đích phải triển kinh tế địa
phương bền vững, nhưng cũng ổn định đời sống người dân, an ninh trật tự, công
bằng xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục tiêu chung là tìm ra có hay không mối quan hệ tác động của FDI và phân
cấp tài khóa đến xung đột đất đai tại các địa phương ở Việt Nam, và khuyến nghị
chính sách giải quyết xung đột này.
Để trả lời được câu hỏi trên đề tài nghiên cứu sẽ làm rõ các vấn đề sau:
- FDI, phân cấp tài khóa tác động như thế nào đến xung đột đất đai?
- Việc cạnh tranh giữa các tỉnh do phân cấp tài khóa có làm gia tăng xung đột
đất đai hay không?
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu này xem xét tác động của FDI và phân cấp tài khóa đến xung đột
đất đai tại 19 tỉnh phía Nam, bao gồm các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và
tỉnh Bình Thuận do có sự đồng nhất về khu vực kinh tế và là các tỉnh có nguồn
vốn FDI đầu tư chiếm tỷ trọng đáng kể và đây là các địa phương này thuộc khu
vực quản lý của cơ quan thanh tra chính phủ khu vực III.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Ở bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và
sử dụng mô hình ước OLS, REM,FEM và mô hình GMM để kiểm định.
3
5. Ý nghĩa nghiên cứu:
Bài luận đã chỉ ra được một mối liên hệ gián tiếp của FDI và phân cấp tài khóa
đến xung đột đất đai tại 19 tỉnh. Trên cơ sở đó, tác giả bước đầu đưa ra các khuyến
nghị chính sách về việc gia tăng việc giám sát, nhất là của HĐND và việc giải
trình, đây là yếu tố bắt buộc khi chúng ta gia tăng sự phân cấp cho chính quyền
cấp dưới. Bên cạnh đó, bài luận cũng đề nghị nên gia tăng không gia tự chủ của
chính quyền địa phương về bảng giá đất trên cơ sở giám sát của người dân. Đồng
thời thay đổi cách tiến tiền thuế trong một giao dịch về đất đai nên được tính theo
bảng giá đất cấp tỉnh, việc này sẽ tạo động lực cho chính quyền địa phương đưa
ra bảng giá đất sát với thị trường và giúp người dân sẽ trung thực hơn trong việc
ký kết hợp đồng giao dịch về quyền sử dụng đất.
6. Kết cấu luận văn
Bài luận văn gồm 5 chương:
Chương 1 sẽ giới thiệu về cơ sở lý thuyết, các mối quan hệ của các thành tố và
lươt khảo các nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây về vấn đề xung đột đất
đai.
Chương 2 sẽ nêu lên tình hình phân cấp tài khóa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài và xung đột đất đai tại việt nam.
Chương 3 sẽ giới thiệu về mô hình nghiên cứu và dữ liệu của bài nghiên cứu.
Chương 4 sẽ nêu ra kết quả và luận giải kết quả của mô hình.
Chương 5 từ kết quả thu được của mô hình, luận văn nêu lên khuyến nghị và
các mặt còn hạn chế, hướng nghiên cứu tiếp theo.
4
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN CẤP TÀI KHÓA, VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI
1.1. Cơ sở lý thuyết về FDI, phân cấp tài khóa và xung đột đất đai
1.1.1. Lý thuyết về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1.1. Khái niệm về FDI
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO định nghĩa FDI (Foreign Direct
Investmen) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng
với quyền quản lý tài sản đó. Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD):
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ
kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc
quản lý doanh nghiệp. Có các mục đầu tư như:
+ Thành lập hoặc mở rộng một Doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư.
+ Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
+ Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
+ Cấp tín dụng dài hạn (>5 năm).
Tuy nhiên, định nghĩa được nhiều sử dụng nhiều nhất là của Quỹ tiền tệ quốc
tế IMF(1997): FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi
ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác
nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự
doanh nghiệp.
Để có một cái nhìn khái quát về FDI, chúng ta có thể lược khảo một vài định nghĩa
của các nhà nghiên cứu như:
Khái niệm ban đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được coi là sự phát
triển từ lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế và ban đầu bắt nguồn từ kinh tế
học. Việc giải thích FDI bắt nguồn từ lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo.
5
Năm 1933, Heckscher-Ohlin đã đưa ra lý thuyết được coi là trụ cột cho sự phát
triển của khái niệm chuyển động vốn quốc tế cho thương mại quốc tế do sự đa dạng
của tài nguyên nguồn lực giữa các quốc gia. Và nó dựa trên lý thuyết về lợi thế so
sánh của David Ricardo, bằng cách dự đoán các mô hình thương mại và sản xuất dựa
trên yếu tố nguồn lực của một khu vực giao dịch. Mô hình về cơ bản nói rằng các
quốc gia sẽ xuất khẩu các sản phẩm sử dụng các yếu tố sản xuất mà quốc gia mình
lợi thế nên có chi phí thấp và nhập khẩu các hàng hóa mà nếu quốc gia phải tự sản
xuất thì phải sử dụng các yếu tố khan hiếm hơn nên sẽ có giá cao hơn.
MacDougall (1960), Kemp (1964) nhận thấy luồng vốn đầu tư sẽ chuyển dịch
từ nước có lãi xuất thấp (chi phí vốn thấp) sang nước có lãi xuất cao cho đến khi đạt
trạng thái cân bằng. Một vài nhà nghiên cứu tiêu biểu cũng cố cho lý thuyết này như
của Jasay (1960), Aliber (1970).
Lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận vào năm 1950, tuy nhiên, sau
đó lý thuyết trở nên thiếu ổn định khi tỷ suất đầu tư của Mỹ giảm đi đến mức thấp
hơn tỷ suất trong nước, nhưng dòng vốn FDI từ Mỹ đến các nước khác vẫn tăng liên
tục. Mô hình trên không giải thích được hiện tượng vì sao một số nước đồng thời có
dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra.
Khái niệm thứ hai về FDI đó là lý thuyết thị trường độc quyền của Stephen
Herbert Hymer (nghiên cứu năm 1960, xuất bản năm 1976) và Kindleberger (1969),
họ tin rằng phải có sự không hoàn hảo trong thị trường hàng hóa hoặc các yếu tố sản
xuất để xuất hiện dòng vốn FDI. Hymer (1976) chỉ ra rằng các công ty đa quốc gia
phải đối mặt với nhiều hạn chế vì họ là “người nước ngoài”. Chúng bao gồm chi phí
thu thập thông tin do sự khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ; chi phí đối xử ít thuận lợi
hơn của chính phủ các nước sở tại.... Do đó, các công ty đa quốc gia sẽ có được phải
có lợi thế cạnh tranh (ví dụ: lợi thế của nước sở tại, sản phẩm sáng tạo, kỹ năng quản
lý, bằng sáng chế, v.v.) để bù đắp những nhược điểm này.
Ở Việt Nam, luật đầu tư năm 2005 định nghĩa FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu
tư. Nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
6
khác để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật nhà nước. Vậy có thể hiểu,
FDI theo Luật đầu tư năm 2005 là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn đầu tư vào
Việt Nam bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của luật nhà nước.
1.1.1.2. Vai trò của FDI
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng
vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa
qua. Các nghiên cứu gần đây của Freeman (2000), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003),
Nguyễn Mại (2004) đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này
góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh
tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao
động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi
mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực
tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các
dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu.
FDI tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau. Theo cách
tiếp cận hẹp, tác động đối với tăng trưởng của FDI thường được thông qua kênh đầu
tư và gián tiếp thông qua các tác động tràn. Theo cách tiếp cận rộng, FDI gây áp lực
buộc nước sở tại phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà trước hết là cải thiện
môi trường đầu tư, qua đó làm giảm chi phí giao dịch cho các nhà đầu tư nước ngoài,
tăng hiệu suất của vốn và rốt cuộc là tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Một
số ý kiến còn cho rằng FDI có thể làm tăng đầu tư trong nước thông qua tăng đầu tư
của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là những doanh nghiệp trong nước cung
cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp FDI hoặc tiêu thụ sản phẩm từ các doanh nghiệp
7
FDI. Đồng thời, các chính sách cải thiện cơ sở hạ tầng của chính phủ nhằm thu hút
nhiều vốn FDI hơn cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hình thành và phát
triển. Tiêu biểu như, nghiên cứu của Kokko (1994) chỉ ra mối quan hệ tương quan
thuận giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Mê-hi-cô. Tác động tích cực của FDI tới tăng
trưởng cũng được kiểm định trong nghiên cứu của Kumar và Pradhan (2002) sử dụng
số liệu hỗn hợp cho 107 nước đang phát triển trong thời kỳ 1980-1999. L Alfaro, A
Chanda, S Kalemli-Ozcan,(2004) cung cấp bằng chứng rằng liên kết giữa FDI và tăng
trưởng là nhân quả và FDI thúc đẩy tăng trưởng thông qua thị trường tài chính.
(Borensztein và cộng sự, 1998) chỉ ra rằng FDI có thể được coi là một trong những
phương tiện truyền tải chính tiên tiến công nghệ đến các nước đang phát triển.
Trái lại cũng có một số ý kiến lo ngại về tác động tiêu cực của FDI, như việc thu
hồi đất với giá thấp để thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất đáp ứng nhu cầu
về cơ sở vật chất nhằm thu hút dòng vốn FDI đã làm mức độ đô thị hóa tại nhiều địa
phương gia tăng nhanh chóng. Cộng hưởng với việc chạy đua chính sách ưu đãi dành
cho nhóm các doanh nghiệp FDI đã thúc đẩy các tranh chấp, xung đột về đất đai ngày
càng một gia tăng giữa người dân với chính quyền địa phương, hay thậm chí các tranh
chấp dân sự về đất đai cũng gia tăng. Cao và các cộng sự (2010) chỉ ra rằng chính
phủ có xu hướng đưa ra giá đất thấp để thu hút nguồn vốn FDI.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn FDI có thể gây cạnh tranh
khốc liệt với các doanh nghiệp trong nước mà phần thua thiệt thường là các doanh
nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước bị mất thị trường, mất lao động có
kỹ năng và vì vậy có thể dẫn đến phá sản. Ngoài ra, vốn FDI có thể làm cho đầu tư
trong nước bị thu hẹp do nhiều doanh nghiệp bị mất cơ hội đầu tư họăc đầu tư không
hiệu quả do trình độ công nghệ thấp kém, vốn ít. Điều này xảy ra khi xuất hiện tác
động lấn át đầu tư của doanh nghiệp FDI. Như trong nghiên cứu của Mencinger
(2003) về vai trò của FDI tới tăng trưởng của 8 nước chuyển đổi ở Đông Âu sử dụng
số liệu hỗn hợp cho thời kỳ 1994-2001 lại chỉ ra rằng FDI làm giảm khả năng bắt kịp
về tăng trưởng của các nước này với EU. Nguyên nhân có thể là do quy mô nhỏ của
các nền kinh tế này và FDI quá tập trung vào thương mại và tài chính nên đã làm
8
giảm tác động tràn về năng suất trong các ngành kinh tế nói chung. FDI cũng không
nhất thiết tăng áp lực cạnh tranh do các đối thủ cạnh tranh của nước nhận đầu tư hầu
hết là mới và nhỏ, do vậy dễ bị đẩy ra khỏi cuộc chơi.
1.1.2. Lý thuyết về phân cấp tài khóa.
Sau thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam đã đẩy mạnh việc phân cấp quản lý kinh
tế bao trùm nhiều lĩnh vực: quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển; ngân sách
nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch vụ
công; và tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Chính phủ kỳ vọng rằng chính sách phân
cấp sẽ giúp phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Vậy phân cấp là gì?
Phân cấp được hiểu là một quá trình chuyển giao trách nhiệm và quyền hạn từ
chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương hay khu vực tư nhân (World
Bank, 2001). Tùy thuộc vào các chức năng cụ thể được chuyển từ các cơ quan chính
quyền trung ương, có ba loại phân cấp chính: Phân cấp hành chính chuyển trách
nhiệm về thủ tục hành chính; phân cấp chính trị đại biểu quyền bầu cử và lập pháp
cho chính quyền địa phương; phân cấp tài chính chuyển cả nguồn lực và trách nhiệm
tài trợ cho các dịch vụ của chính phủ cho chính quyền địa phương. Ở một số quốc gia
đang tiến hành chuyển đổi hệ thống kinh tế như Việt Nam, phân cấp còn bao hàm sự
chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm từ chính quyền trung ương cho các doanh
nghiệp nhà nước và cho thị trường. Các hình thức phân cấp này có đặc điểm chung
là đều bắt đầu với sự minh định lại vai trò của nhà nước, để trên cơ sở đó tiến hành
phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, giữa nhà nước với thị
trường, và giữa khu vực nhà nước với khu vực tư nhân và khu vực dân sự.
Phân cấp tài khóa liên quan đến sự phân phối nguồn lực công giữa chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương trong đó nhấn mạnh hai vấn đề cơ bản là sự
phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi (Davey, 2003). Theo Hanai và Huyen (2004),
phân cấp tài khóa có thể định nghĩa là sự phân công trách nhiệm và quyền hạn, cũng
như lợi ích, giữa các cấp khác nhau của chính quyền về quản lý và thực hiện ngân
9
sách. Có thể nói phân cấp ngân sách là trọng tâm của mọi biện pháp phân cấp. Mỗi
đơn vị phân cấp chỉ có thể độc lập thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp khi họ có
đủ các nguồn lực cần thiết và có quyền đưa ra các quyết định chi tiêu. Bốn nội dung
trọng tâm của phân cấp ngân sách bao gồm
(i) chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm chi tiêu;
(ii) chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm thu ngân sách;
(iii) chuyển giao ngân sách từ trung ương cho địa phương và điều tiết ngân
sách từ địa phương về trung ương;
(iv) quy định về khả năng đi vay và phát hành nợ của chính quyền địa phương.
Nghiên cứu của Mello và Barenstein (2001) sử dụng dữ liệu bảng của 78 quốc
gia từ năm 1980 đến năm 1992 đã cho thấy sự phân cấp tài khóa và quản trị công có
tác động tích cực đến tăng trường kinh tế. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tích
cực của phân cấp tài khóa cũng được tìm thấy tại Pasikan trong hai giai đoạn 1971-
2005 và 1972-2009 (Malik và cộng sự, 2005).Với bộ dữ liệu của 28 tỉnh tại Trung
Quốc trong giai đoạn từ 1970 đến 1993, Lin và Liu (2000) cũng tìm thấy kết quả
tương tự.
Các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm ủng hộ việc phân cấp tài khóa đều
cho rằng nhờ ở gần dân hơn so với chính quyền trung ương, chính quyền địa phương
có thông tin tốt hơn về nhu cầu và ý muốn của người dân, đồng thời thấu hiểu hơn
những điều kiện đặc thù của địa phương. Vì vậy, chính quyền địa phương có thể đáp
ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn trước các yêu cầu của người dân so với chính quyền
trung ương (Ebel & Yilmaz, 2002). Ngược lại, vì người dân ở gần chính quyền địa
phương nên tiếng nói của họ sẽ có tác động trực tiếp đến chính quyền địa phương
trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình (Dabla, 2006). Hơn nữa, việc thúc đẩy phân cấp tài khóa không những thúc
đẩy cải thiện hiệu quả Pareto mà còn giảm sự bất bình đẳng về kinh tế giữa các địa
phương (Ezcurra & Pasucal, 2008)
Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc phân cấp tài khóa cũng có những điểm rủi ro
đáng phải lưu ý, đặc biệt là khi phân cấp tài khóa quá mạnh mẽ (Morgan, 2002).
10
Trước hết, đó là việc gia tăng bất bình đẳng về tài chính giữa các địa phương do việc
thu thuế không tương xứng với quy mô chi tiêu của địa phương. Hai là, việc gia tăng
phân cấp có thể tăng rủi ro trong quản lý nguồn lực địa phương (ADB, 2004). Nghiên
cứu của Roden (2002) cho rằng phân cấp tài khóa là tiêu cực, đặc biệt là ở các quốc
gia đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi. Ông lập luận rằng các vấn đề
thường đi kèm với phân cấp là thâm hụt ngân sách, tham nhũng, tác động của các
nhóm lợi ích, gia tăng bất bình đẳng và cuối cùng là nền kinh tế giảm tăng trưởng.
Mello (2000) khẳng định thất bại của việc phân cấp tài khóa là do thành kiến về thâm
hụt tài khóa và quản trị công yếu kém, không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của chính
sách phi tập trung hóa. Nghiên cứu tại Nigeria của Philip và Isah (2012) cũng cho
thấy phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì quá
trình phân cấp chi ngân sách đã xuất hiện những hạn chế như: quá trình phân cấp tràn
lan, thiếu quy hoạch và phân tán dẫn đến chi tiêu quá nhiều gây thâm hụt ngân sách;
chất lượng quy hoạch kém dẫn tới kém hiệu quả trong đầu tư công, tính minh bạch
và trách nhiệm giải trình thấp (Vũ Thành Tự Anh, 2012). Chính điều này đã dẫn đến
xuất hiện hiện tượng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân, làm giảm tăng trưởng kinh tế
trong những năm gần đây (Tô Trung Thành và Nguyễn Chí Dũng, 2011).
1.1.3. Lý thuyết về xung đột đất đai
Đất đai đang ngày trở nên khan hiếm do sự gia tăng dân số và do nhu cầu sử
dụng đất của mỗi cá nhân đang ngày càng gia tăng. Thật vậy, đất đai là thứ mà Bogale
và các cộng sự gọi là tài nguyên cơ bản nhất (Bogale và các cộng sự, 2006). Xung
đột đất đai xảy ra là do sự mâu thuẫn giữa nhu cầu sử dụng đất hiện tại với quan điểm
về việc sử dụng và quản lý quỹ đất trong tương lai của các cơ quan quản lý (O’Neill
& Walsh, 2000). Cốt lõi của nhiều xung đột thực tế là do đất đai cũng như xã hội luôn
thay đổi liên tục. Những thay đổi sử dụng đất được thúc đẩy bởi các đổi mới xã hội,
thể chế và công nghệ là những nguồn xung đột quan trọng nhất (Brown & Raymond,
2014; Ianos và cộng sự, 2012; Torre và cộng sự, 2006). Mối quan tâm ngày càng tăng
về môi trường, phát triển bền vững và sự phát triển đô thị cũng như mối quan tâm về
11
điều kiện môi trường sống của con người đã dẫn đến nhiều mối quan tâm hơn về xung
đột sử dụng đất (Haase và cộng sự, 2014; Torre và cộng sự, 2014).
Xung đột sử dụng đất được định nghĩa là các tình huống trong đó các bên liên
quan của các thành phần có lợi ích không tương thích liên quan đến việc sử dụng một
thửa đất nhất định (Von der Dunk và cộng sự, 2011). Thường xảy ra xung đột khi các
cá nhân tham gia vào việc phản đối dự án khỏi bị hiện thực hóa, nhưng cũng có khi
mọi người trở nên tích cực vì họ đánh giá lại các tác động có lợi/hại của dự án (Joerin
và cộng sự, 2010). Do đó, hầu hết các tranh chấp sử dụng đất phát sinh từ lợi ích cá
nhân. Bên cạnh đó, xung đột cũng có thể nảy sinh về những ý tưởng sự phát triển
trong tương lai của một khu vực.
Tuy nhiên, nếu xét theo một khía cạnh khác, xung đột đất đai không phải hoàn
toàn là tiêu cực. Xung đột có thể là chất xúc tác cho những cải tiến trong quản trị đất
đai và đổi mới trong tư duy quản lý, cũng như giúp phát hiện hoặc thậm chí là ngăn
chặn thói quen quan liêu (Forester, 2013; Griggs và cộng sự, 2014).
Hầu hết các nước phát triển đều được trang bị khung pháp lý điều chỉnh quyền
sở hữu, sử dụng đất và tìm cách phối hợp sử dụng theo cách giảm thiểu khả năng xảy
ra xung đột (Hersperger và cộng sự., 2014). Hơn nữa, có nhiều nghiên cứu về các kỹ
thuật để quản lý các bất đồng về tài nguyên và môi trường, bao gồm xung đột sử dụng
đất (Brody và cộng sự, 2004). Đàm phán xung đột, còn được gọi là hòa giải hoặc giải
quyết, được khái niệm hóa như các phương pháp và quy trình liên quan đến việc tạo
điều kiện kết thúc hòa bình của xung đột thường bằng cách tham gia đàm phán tập
thể.
Tại Việt Nam, xung đột đất đai gia tăng nhanh chóng từ năm 1994, khi Nhà
nước bắt đầu thực hiện chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các
chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư từ nước ngoài. Từng bước,
chính sách đất đai ngày càng cởi mở hơn để thu hút đầu tư nhất là đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (FDI). Từ năm 1994 đến năm 2004, Nhà nước vẫn sử dụng chính sách
“Nhà nước thu hồi đất“ để giao cho mọi loại đầu tư được Nhà nước phê duyệt. Đó
cũng là nguồn căn của xung đột đất đai.
12
Từ năm 2004 đến nay, khi Luật Đất đai 2003, 2013 được ban hành thì cơ chế
Nhà nước thu hồi đất được được hạn chế phạm vi áp dụng chỉ cho những dự án vì lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng, quốc phòng, an ninh và các dự án có ý nghĩa kinh tế
lớn. Tuy nhiên, trên thực tế các chủ đầu tư vẫn có nhiều cách để “lách luật“ với sự
ủng hộ của chính quyền địa phương, có thể vì mục tiêu kêu gọi đầu tư cho địa phương
và cũng có thể liên quan đến nham nhũng.
Hệ quả của chính sách mở rộng đầu tư công nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm cho
nền kinh tế Việt Nam có tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao, cả công nghiệp và dịch vụ
đều tăng trưởng khá tốt. Tuy nhiên, quá trình này cũng tạo sự gia tăng vấn đề tham
nhũng trong quản lý địa phương và khiếu kiện tập thể của những người mất đất. Tiêu
biểu là việc thu hồi đất sai thẩm quyền, không đúng chủ trương tại Khu đô thị Thủ
Thiêm, Tp Hồ Chí Minh khiến người dân khiếu kiện suốt 20 năm và chính quyền
Thành phố Hồ Chí Minh vẫn đang tìm cách khắc phục.
1.2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ phân cấp tài khóa, FDI xung đột đất đai
1.2.1. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và FDI
Theo lý thuyết, việc phân cấp, nhất là phân cấp tài khóa sẽ mở ra không gian
để chính quyền địa phương có thể phát huy thế mạnh của mình. Chính quyền địa
phương sẽ tận dụng tốt hơn lợi thế so sánh của địa phường mình để thu hút dòng vốn
FDI như cơ sở hạ tầng, quy hoạch, tính liên kết vùng…Trong nghiên cứu của mình
nhóm tác giả Diệp Gia Luật, Bùi Duy Tùng (2016) đã tìm thấy bằng chứng cho thấy
phân cấp tài khóa có tác động tích cực và ảnh hưởng đáng kể đến thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài khi kiểm tra mối quan hệ của phân cấp tài khóa và tăng
trưởng kinh tế của 62 tỉnh thành Việt Nam từ năm 2005 đến 2016.
Tuy nhiên, Cao và các cộng sự (2010) chỉ ra rằng chính phủ có xu hướng đưa
ra giá đất thấp để thu hút nguồn vốn FDI, điều này lại trở thành con dao hai lưỡi khi
tạo ra một cuộc đua về ưu đãi, nhất là ưu đãi về đất đai ở Việt Nam. Nguyên nhân là
do phân cấp ở Việt Nam không cân đối trên ít nhất hai khía cạnh. Thứ nhất là các nội
dung khác nhau của phân cấp không song hành với nhau, và do vậy không những
không tạo ra tác dụng cộng hưởng mà còn hạn chế hiệu quả của phân cấp. Chẳng hạn
13
như phân cấp về quản lý đất đai (đặc biệt là liên quan đến chuyển đổi mục đích sử
dụng đất) và quản lý FDI. Trong một chừng mực nào đó, phân cấp tài khóa đã diễn
ra khá mạnh mẽ, song lại không được đi kèm với phân cấp chính trị. Điều này có
nghĩa là không gian tự quyết của địa phương được mở rộng, nhưng cơ chế để buộc
chính quyền địa phương hành động thực sự vì lợi ích của người dân địa phương không
được cải thiện một cách tương ứng. Kết quả là không gian tự chủ rộng rãi hơn này có
thể bị lạm dụng, thậm chí đi ngược lại lợi ích của một bộ phận dân chúng địa phương.
Tiêu biểu đó là phong trào “xé rào” trong ưu đãi đầu tư FDI của 32 tỉnh - thành phố
trong giai đoạn 2001-2005 trong bối cảnh phân cấp quản lý FDI đang tiếp tục được
đẩy mạnh (Vũ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, và Võ Tất Thắng (2007)). Cụ thể là các
tỉnh này đã đưa ra những ưu đãi trái hoặc vượt quá khuôn khổ chính quyền trung
ương quy định cho các nhà đầu tư, đặc biệt là trong các khu công nghiệp. Trước tình
hình này, chính phủ đã ra lệnh chấm dứt ngay lập tức các ưu đãi đầu tư trái quy định
mà 32 tỉnh đang áp dụng. Nhiều bộ, trong đó có Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên Môi trường, và Văn phòng Chính
phủ đã tham gia vào việc ban hành Quyết định này. Quyết định của Thủ tướng cũng
đã yêu cầu UBND của tất cả 64 tỉnh thành phải báo cáo về tất cả các vi phạm trong
các quy định về ưu đãi đầu tư. 32 tỉnh xé rào ngoài ra còn được yêu cầu phải báo cáo
về các biện pháp mà họ đã thực hiện để khắc phục những vi phạm đã mắc phải. Mặc
dù hạn nộp báo cáo là ngày 01/03/ 2006, nhưng cho đến ngày 2/8/2006, vẫn còn 22
tỉnh chưa nộp. Trong số 42 tỉnh đã nộp báo cáo, một số tỉnh báo cáo một cách chiếu
lệ về những biện pháp khắc phục mà không hề đưa ra một danh sách các vi phạm như
chính quyền trung ương đã yêu cầu. Ví dụ này cho thấy mức độ tuân thủ của chính
quyền địa phương đối với quyết định của chính quyền trung ương (còn gọi là trách
nhiệm giải trình lên trên) là rất hạn chế.
1.2.2. Mối quan hệ phân cấp tài khóa và xung đột đất đai
- Tác động tích tích cực:
Việc phân cấp tài khóa sẽ tác động đến xung đột đất đai ở thái cực:
14
Việc phân cấp tài khóa, trong cả phân cấp thu và phân cấp chi ngân sách, đều
có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế địa phương (Diệp Gia Luật, Nguyễn Đào
Anh (2019).
Về phân cấp chi, việc gia tăng phân cấp tài khóa cho địa phương sẽ giúp chính
quyền địa phương sử dụng nguồn lực tốt hơn do ở gần dân hơn, hiểu được nhu cầu
của người dân hơn chính quyền trung ương. Do đó, chính quyền địa phương có thể
đáp ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn trước các yêu cầu của người dân so với chính
quyền trung ương (Ebel & Yilmaz, 2002). Ngược lại, vì người dân ở gần chính quyền
địa phương nên tiếng nói của họ sẽ có tác động trực tiếp đến chính quyền địa phương
trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình (Dabla, 2006) từ đó giúp hạn chế các xung đột xã hội sảy ra, trong đó có
xung đột về đất đai.
Về phân cấp thu, phân cấp tài chính khuyến khích chính quyền địa phương
đầu tư vào cơ sở hạ tầng để gia tăng cơ sở thuế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, phân cấp tài khóa đang khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tại Việt Nam
khai thác tốt hơn về tìm lực của mình. Một trong số đó là nguồn thu từ đất đai. Điều
này sẽ bắt buộc chính quyền phải nâng cao việc quản trị, nhất là quản trị về đất công.
Điển hình là việc yêu cầu các đơn vị sự nghiệp của TP Hồ Chí Minh phải thực hiện
đấu giá khi sử dụng đất công cho mục đích liên doanh – liên kết. Từ đó, giúp chống
thất thu cho ngân sách và chính quyền địa phương sẽ có đủ nguồn lực để thực hiện
các chính sách đầu tư, an sinh xã hội góp phần cải thiện đời sống của người dân và
-
giảm được các xung đột phát sinh.
Về mặt tiêu cực:
+ Thứ nhất, Việc phân cấp tài chính cũng làm tăng áp lực lên chính quyền địa
phương để tăng doanh thu. Với doanh thu thuế không đủ, họ sẽ phụ thuộc nhiều hơn
vào tài chính đất đai để trang trải chi tiêu (Nitikin, Shen, Zou, 2012). Áp lực tăng thu
nhập và khuyến khích thu hút vốn từ đó dẫn đến việc gia tăng thu hồi đất và cuối
cùng có thể dẫn đến xung đột với người bị thu hồi đất (Cao 2008). Một phương pháp
đang được chính quyền địa phương áp dụng đó là thu hồi đất từ nông dân và xây dựng
15
các khu công nghiệp, khu chế xuất cho các nhà đầu tư thuê lại với giá thấp. Điều này
sẽ giúp thu hút được các nhà đầu tư, do lợi thế về chi phí, đặc biệt là các nhà đầu tư
nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, chi phí thu hồi và chuẩn bị đất ở các khu công
nghiệp có thể cao hơn nhiều so với doanh thu cho thuê dẫn đến giá đền bù cho nông
dân chỉ có thể được giữ ở mức thấp để cân bằng ngân sách.
+ Thứ hai, Việc phân cấp nhưng không đi kèm với yêu cầu giải trình sẽ dẫn
đến vấn nạn tham nhũng. Roden (2002) lập luận rằng các vấn đề thường đi kèm với
phân cấp là thâm hụt ngân sách, tham nhũng, tác động của các nhóm lợi ích, gia tăng
bất bình đẳng và cuối cùng là nền kinh tế giảm tăng trưởng. Do đó, để phân cấp một
cách hiệu quả và công bằng thì phân cấp phải được thực hiện cùng với các điều kiện
về minh bạch thông tin, tiếng nói, trách nhiệm giải trình, nguồn lực, và quy mô. Và
để đo lường về tính minh bạch, trách nhiệm giải trình chúng ta có thể sử dụng Chỉ số
hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) như một công cụ để đánh giá
khá tốt. Chỉ số PAPI được đo lường ở Việt Nam từ năm 2010 và nó đã cho thấy mức
độ minh bạch về thông tin rất thấp. Chẳng hạn như trong cả hai năm 2010 và 2011,
có tới khoảng một phần ba số người được phỏng vấn chưa từng nghe đến khẩu hiệu
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mặc dù khẩu hiệu này đã được nói đi nói
lại nhiều lần từ Đại hội Đảng VI năm 1986 đến nay. Với tính giải trình không cao,
lúc này, các quyết sách của chính quyền sở tại sẽ không vì lợi ích của toàn xã hội nữa.
Chính điều này sẽ gây ra sự nghi ngờ của người dân đối với các quyết định của chính
quyền địa phương nhất là các quyết định về thu hồi đất. Ngoài ra, việc phân cấp cho
chính quyền thực hiện việc thu hồi đất với diện tích lớn để xây dựng các khu công
nghiệp, nhưng lại xây dựng phương án bồi thường, phương án tái định cư cho người
dân không hợp lý cũng gây ra mâu thuẫn của người dân với chính quyền địa phương.
Với giá đền bù quá thấp như hiện nay, người bị thu hồi đất - nhất là đất nông nghiệp
- không đủ khả năng để tái đầu tư, dẫn đến không đảm bảo được sinh kế, buộc lòng
họ phải đáu tranh và dẫn đến khiếu nại kéo dài.
+ Thứ ba, việc phân cấp tài khóa giúp thúc đẩy phát triển kinh tế cũng có mặt
không tốt, đó là vấn đề đô thị hóa quá nhanh. Khi việc đô thị hóa nhanh sẽ thúc đẩy
16
nhu cầu về nhà ở. Giá của bất động sản ngày một gia tăng cũng là một trong những
nguyên nhân xảy ra xung đột về đất đai.
1.2.3. Mối quan hệ FDI và xung đột đất đai
Thực tiễn đã cho thấy, nguồn vốn FDI đi nào nước ta chủ yếu tập trung tại lĩnh
vực Công nghiệp chế biến, chế tạo và Hoạt động Kinh doanh bất động sản (chiếm
76%), cụ thể, chỉ riêng trong năm 2017 tổng số vốn FDI đăng ký đầu tư vào lĩnh vực
bất động sản là 8,253 tỷ USD chiếm 23% trên tổng số vốn FDI đăng ký, và lũy kế
các dự án còn hiệu lực đến năm 2017 thì lĩnh vực Bất động sản cũng chiếm đến 17%
với 53,2 tỷ USD.(bảng 1.1)
Bảng 1.1. Tổng vốn FDI đăng ký năm 2017 và lũy kế đến năm 2017 Đvt: Triệu đô la
Lĩnh Vực Tổng vốn đăng ký năm 2017
Tổng vốn đăng ký lũy kế đến năm 2017 319.613,1 3.521,2 4.876,0 186.514,2 20.820,9 36.368,6 180,6 26,3 19.378,0 1.817,4
299,8 2.338,5
10.846,5 6.200,0 659,2 1.727,6
Tổng số Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Khai khoáng Công nghiệp chế biến, chế tạo Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải Xây dựng Bán buôn và bán lẻ; sử chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác Vận tải, kho bãi Dịch vụ lưu trú và ăn uống Thông tin và truyền thông Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Giáo dục và đào tạo Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 4.646,7 12.004,2 3.336,5 1.487,8 53.226,0 3.096,3 527,1 759,9 1.867,0 440,8 373,8 591,8 34,3 8.253,3 997,0 193,8 79,7 154,1
17
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí Hoạt động dịch vụ khác 1.138,6 22,5 2.781,6 762,8
(nguồn Tổng cục thống kê)
Về mặt lý thuyết, FDI cũng có tác động đến vấn đề xung đột đất đai ở hai khía
- Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản
cạnh:
lý và trình độ của người lao động, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu
cải thiện năng lực của bộ máy chính quyền. Ngoài ra, FDI còn giúp cải thiện vấn đề
dân chủ, do đó, gia tăng tính minh bạch thông tin. Từ đó, giúp giảm thiểu các vấn đề
- Nguồn vốn FDI là một nguồn vốn bổ sung quan trọng và tác động tới tăng
tranh chấp, khiếu nại, nhất là ở lĩnh vực đất đai.
- Tuy nhiên, đi kèm với tăng trưởng kinh tế là sự đô thị hóa và gia tăng nhu
trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau như đã phân tích ở Chương 1.
cầu về nhà ở. Dẫn đến giá của các tài sản này gia tăng nhanh chóng, từ đó, sẽ xảy ra
- Ngoài ra các dự án FDI còn làm tăng nhu cầu sở hữu nhà ở, bất động sản
các xung đột về quyền sở hữu các loại tài sản này
ở hai lý do. Thứ nhất, các dự án FDI làm gia tăng tốc độ đô thị hóa, tập trung dân cư,
dẫn đến nhu cầu về nhà ở gia tăng nóng tại các khu vực xung quanh dự án. Thứ hai,
là do FDI giúp tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình tích lũy tài sản và bất động
sản được xem là một kênh đầu tư an toàn và lợi nhuận tốt. Ở chiều ngược lại, nguồn
tài nguyên về đất đai thì gần như không hoặc rất ít có sự gia tăng. Một điều tất yếu,
khi nhu cầu gia tăng và nguồn cung hạn hẹp thì giá của các tài sản này đã gia tăng
chóng mặt, kéo theo các vấn đề về tranh chấp, xung đột trong xã hội cũng gia tăng
theo(Trương Thanh Cảnh, Trần Nguyễn Cẩm Lai, Nguyễn Hoàng Tuấn (2015).
1.2.4. Mối quan hệ phân cấp tài khóa, FDI và xung đột đất đai
Từ các phân tích trên có thể thấy, FDI và phân cấp tài khóa vừa có tác động
- Cả FDI và phân cấp tài chính về mặt lý thuyết điều cho thấy rằng sẽ giúp
tích cực cũng như tiêu cực đến vấn đề xung đột đất.
tăng trưởng kinh tế (Kumar và Pradhan (2002); Mello và Barenstein (2001); Diệp Gia
18
Luật, Nguyễn Đào Anh (2019). Diệp Gia Luật, Bùi Duy Tùng (2016) đã tìm thấy
bằng chứng cho thấy phân cấp tài khóa có tác động tích cực và ảnh hưởng đáng kể
đến thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phân cấp tài chính mạnh hơn, sẽ
tạo động lực để chính quyền địa phương cải thiện môi trường đầu tư, quản trị quỹ đất
công và tận dụng ưu thế của mình để thu hút được các nhà đầu tư. Trong đó, việc thu
hút được các dự án FDI sẽ là một nguồn lực bổ sung rất quan trọng, giúp tăng trưởng
kinh tế, cải thiện đời sống xã hội (Freeman (2000), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003),
Nguyễn Mại (2004). Ngoài ra, để thu hút được các dự án lớn (đã phần là các dự án
FDI) đòi hỏi chính quyền phải cải thiện cơ sở hạ tầng của địa phương. Việc đầu tư
vào cơ sở hạ tầng sẽ mang lại lợi ích cho cả người dân và doanh nghiệp bản địa, dẫn
- Tuy nhiên, khi chính sách phân cấp tài khóa cho địa phương được gia tăng.
đến giảm thiểu các xung đột trong xã hội.
Điều này đã buộc địa phương phải có biện pháp gia tăng nguồn thu, và việc thu hút
được nguồn vốn FDI được xem như “cây đũa thần” để giải quyết bài toán tạo nguồn
thu này. Và để các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn địa phương mình, chính quyền địa
phương đã cố gắn đưa ra các ưu đãi quá mức và dành những khu đất đẹp, lợi thế cho
họ, như là một lợi thế cạnh tranh. Cao và các cộng sự (2010) chỉ ra rằng chính phủ có
xu hướng đưa ra giá đất thấp để thu hút nguồn vốn FDI. Để làm được điều đó, chính
quyền địa phương đã sử dụng quyền điều chỉnh quy hoạch đất, theo hướng gia tăng
tỉ lệ đất phi nông nghiệp giảm tỷ lệ đất nông nghiệp, cụ thể tính đến ngày 31/12/2010
tại Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long đất nông lâm nghiệp là 4.794,8 nghìn
Ha thì đến ngày 31/12/2017 đã giảm 60,6 nghìn Ha xuống còn 4.734,2 nghìn Ha.
Việc điều chỉnh này không phải lúc nào cũng có kết quả tốt, nhất là đối với các địa
phương gặp các vấn đề về tham nhũng; tính công khai minh bạch không cao sẽ dẫn
đến sự vụ lợi trong công tác quy hoạch, bồi thường. Hệ quả đó là gây ra bức xúc,
- Ngoài ra, cả FDI và phân cấp tài khóa đều có một mẫu số chung là làm gia
khiếu nại của người bị thu hồi đất.
tốc quá trình đô thị hóa. Nhu cầu về nhà ở gia tăng dẫn đến giá cả của tài sản này
19
cũng gia tăng nhanh chóng đã như là một chất xúc tác làm bùng nổ các tranh chấp
liên quan đến quyền sở hữu của các tài sản này.
Có thể nói, sự tác động của nguồn vốn FDI và phân cấp tài khóa đến xung đột
đất đai không chỉ là tác động riêng lẻ, mà nói còn là một tác động kép. Cả ở tác động
tích cực lẫn tiêu cực.
1.3. Lược khảo các nghiên cứu trước
1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài
1.3.1.1. Guangzhong Cao, Changchun Feng, Ran Tao (2008)
Trong bài viết này, nhóm tác giả xem xét vấn đề tài chính đất đai của địa
phương, trong bối cảnh mở rộng đô thị nhanh chóng của Trung Quốc. Mục đích
nghiên cứu của nhóm tác giả là: Tại sao chính quyền địa phương ở Trung Quốc rất
nhiệt tình trong việc mở rộng không gian đô thị? Làm thế nào có thể hợp lý hóa các
hoạt động phát triển đất đai địa phương như vậy dưới nền tảng thể chế hiện có của
Trung Quốc? Những hành động nào đã được Chính phủ Trung ương thực hiện để
kiềm chế sự điên cuồng phát triển khu công nghiệp cục bộ của địa phương? Những
hành động này có đủ để giải quyết các vấn đề không, và nếu không, có thể thực hiện
những bước nào nữa?
Tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh thực nghiệm giữa số liệu từ năm 2000
đến 2005 với khoản thời gian từ năm 1995 đến 1999, về tỷ lệ đô thị hóa chính thức
(tỷ lệ dân số đô thị trong tổng dân số), diện tích xây dựng và việc sử dụng đất, hệ
thống cho thuê công cộng của Trung Quốc. Kết quả đã chỉ ra rằng, mức độ đô thị hóa
đã tăng từ 29,0 lên 43,0% (NBS, 2006). Đô thị hóa nhanh chóng đã được đi kèm với
mở rộng đô thị lớn. Trong thập kỷ qua, mỗi năm khoảng 150000 ha đất trồng trọt
được chuyển đổi cho mục đích phát triển đô thị. Từ năm 1998 đến năm 2005, diện
tích xây dựng của các thành phố Trung Quốc đã tăng từ 214000 lên 325000 km2, mức
tăng đáng kinh ngạc là hơn 50%. Mở rộng đô thị tăng tốc ở nhiều khu vực. Ví dụ, ở
tỉnh ven biển khan hiếm đất Chiết Giang, khu đô thị mới được xây dựng cao tới 126,4
km2 mỗi năm từ năm 2000 đến 2004 cao gấp 3,4 lần mức trung bình hàng năm từ
20
năm 1995 đến 1999. Việc mở rộng đô thị nhanh chóng đã dẫn đến rất nhiều đất canh
tác được sử dụng cho mục đích phi nông nghiệp và hàng triệu nông dân bị phế truất.
Đến cuối năm 2003, đã có 3837 khu công nghiệp được xây dựng bởi nhiều cấp chính
quyền địa phương trên cả nước, và con số này đã nhảy vọt lên mức 6015 đáng kinh
ngạc vào cuối năm 2006. Mỗi năm, khoảng 2,5 đến 3 triệu nông dân bị mất đi do mở
rộng đô thị.
Nhóm tác giả đã kết luận rằng việc thu hồi đất với chi phí thấp là nguyên nhân
cơ bản của những biến dạng liên quan đến đất đai đã xảy ra trong quá trình đô thị hóa
của Trung Quốc. Theo đó, trao cho nông dân quyền đàm phán trực tiếp với người sử
dụng đất trong quá trình mở rộng đô thị, kết hợp với cải cách thuế đất phối hợp để
củng cố cơ sở thuế địa phương là chìa khóa để Trung Quốc đạt được cả hiệu quả sử
dụng đất và mở rộng đô thị.
1.3.1.1. R Tan, F Qu, N Heerink, E Mettepenningen (2011)
Trong nghiên cứu về chuyển đổi đất từ nông thôn sang thành thị ở Trung Quốc,
nhóm tác giả nhận thấy, hệ thống hiện tại chuyển đổi đất nông nghiệp sang sử dụng
đất đô thị ở Trung Quốc có thể được mô tả như một hệ thống kết hợp kiểm soát của
chính phủ với chuyển nhượng dựa trên thị trường. Với lập luận rằng cấu trúc quản trị
hỗn hợp này gây ra sự chuyển đổi quá mức đất nông nghiệp từ nông thôn sang thành
thị.
Sử dụng một bộ dữ liệu với thông tin chi tiết về việc mua lại đất nông nghiệp
và giao dịch đất đô thị ở thành phố Yingtan ở tỉnh Giang Tây, kết quả của cho thấy tỷ
lệ chuyển đổi quá mức 33,5% tổng diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi tại
thành phố này từ năm 1999 đến 2003.
Phúc lợi của chủ sở hữu đất nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi việc chuyển đổi
giảm 1,38 tỷ RMB, trong khi tổn thất phúc lợi xã hội ròng tương đương hơn 270 triệu
RMB trong cùng thời kỳ Chính quyền địa phương đã thu được 380 triệu RMB doanh
thu bằng cách bán lại đất nông nghiệp thành đất đô thị thông qua các cơ chế vận
21
chuyển cạnh tranh từ năm 2002 đến 2005, trong khi lĩnh vực sản xuất thu được khoảng
280 triệu RMB từ việc mua quyền sử dụng đất với giá tương đối thấp.
Tác giả kết luận rằng chính sách tăng cường chuyển nhượng đất đô thị hiện
nay thông qua các cơ chế cạnh tranh không giải quyết được hai nguyên nhân cơ bản
của chuyển đổi quá mức và bảo vệ đất nông nghiệp sẽ được phục vụ tốt hơn bằng
cách thay thế cấu trúc thị trường đất nông thôn hiện tại thành đất cạnh tranh bằng đất
cạnh tranh thị trường.
1.3.1.2. Nghiên cứu của Yan Wu, Nico Heerink (2016)
Tranh chấp đất đai là một rủi ro quan trọng đối với sự ổn định xã hội ở Trung
Quốc kể từ đầu thế kỷ. Do đó, nhóm tác giả điều tra các tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) và phân cấp tài chính đối với xung đột quyền tài phán về đất đai.
Thông qua việc sử dụng của 30 tỉnh về việc sử dụng đất bất hợp pháp trong
giai đoạn 1999 - 2010 như là một đại diện cho cường độ của xung đột đất đai để điều
tra các tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và phân cấp tài chính đối với
xung đột quyền tài phán.
Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng FDI nói riêng và toàn cầu hóa nói chung
là những con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế Trung Quốc. FDI có thể ảnh hưởng tích
cực đến tăng trưởng kinh tế chung nhưng cũng có thể có tác động tiêu cực khi có
những nhóm có quyền chính trị và tài sản (đất của nông dân trong trường hợp của
chúng ta) không được bảo vệ tốt. Sự xấu đi của phúc lợi (tương đối) của họ mang
theo hạt giống của sự phản kháng, cách mạng và xung đột quân sự. Những tác động
tiêu cực như vậy cũng được báo cáo trong nghiên cứu gần đây ở các nền kinh tế đang
phát triển khác ở Đông Á, Mỹ Latinh và Châu Phi (Goldberg & Pavcnik, 2007). Một
nghiên cứu thú vị của Bezemer và Jong-A-Pin (2013) cho thấy toàn cầu hóa làm gia
tăng bạo lực sắc tộc ở các nền kinh tế do các nhóm thiểu số thống trị.
Phát hiện của nhóm tác giả cho thấy căng thẳng xã hội đối với đất đai ở Trung
Quốc cũng là một trong những tác dụng phụ của toàn cầu hóa và sự thống trị của
chính phủ đối với nền kinh tế địa phương. Để quản lý lợi ích của sự bùng nổ giá trị
22
đất ở Trung Quốc, các thỏa thuận tài chính có thể được cải thiện hơn nữa bằng cách
phân loại lại các nguồn thu và trách nhiệm chi tiêu của chính quyền địa phương để
hạn chế khuyến khích tham gia vào tài chính đất đai. Các quy tắc trưng dụng đất có
thể cần được tăng cường để bảo vệ hiệu quả quyền sử dụng đất của nông dân (và các
tổ chức tập thể của họ) và cho phép nông dân được hưởng lợi từ giá trị gia tăng được
tạo ra bằng cách lắp ráp và phát triển đất.
1.3.2. Các nghiên cứu trong nước.
1.3.2.1. Nghiên cứu của Phan Tân (2007)
Thông qua bài nghiên cứu “Một số loại hình xung đột về đất đai ở nông thôn
Hà Tây", tác giả muốn tìm hiểu các chủ thể của xung đột đất là những ai? và mục
đích tham gia xung đột của các chủ thể này là gì?
Sau khi phân tích dữ liệu về các chủ thể chủ động xung đột đất đai và các chủ
thể tham gia xung đột ở tỉnh Hà Tây từ năm 1995 – 2005, cũng như xem xét mức độ,
hình thức, quy mô số người, nhóm xã hội tham gia. Tác giả đã kết luận rằng: xung
đột xã hội về đất đai ở Hà Tây ở thời kỳ đổi mới có nhiều hình thức loại hình, từ cấp
độ cá nhân (xung đột giữa cá nhân với cá nhân về quyền sử dụng đất) đến cấp nhóm
(xung đột giữa các thôn với nhau, các làng với nhau) và đặc biệt là loại hình xung đột
giữa người dân và các tổ chức kinh tế; người dân và chính quyền địa phương.
Thực tế, ở Hà Tây qua nghiên cứu còn cho thấy xung đột thể hiện đa dạng
dưới nhiều loại hình như xung đột liên quan đến lợi ích, sự phân chia lợi ích không
công bằng qua quá trình chuyển đổi hợp tác xã, thực hiện chính sách đền bù giải tỏa
mặt bằng và xung đột để xác định quyền sở hữu và không sở hữu, quyền sử dụng và
không sử dụng đất đai hưởng lợi từ đất... Có những xung đột được gắn với việc khẳng
định hệ giá trị văn hóa, danh dự, tôn giáo, dân tộc.
Xung đột đất đai còn được biểu hiện từ những xung đột đơn giản( xung đột
trong nội bộ nhóm nhỏ quần chúng) đến xung đột phức tạp có thủ lĩnh cầm đầu lôi
kéo, có đặt ra vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc... Và mức độ diễn ra các xung đột
23
cũng đa dạng từ những mâu thuẫn nhỏ đến những đụng độ sâu sát lớn gây thiệt hại
về con người, tài sản, để lại di chứng nặng nề về vật chất và tinh thần.
1.3.2.2. Nghiên cứu của Trương Thanh Cảnh, Trần Nguyễn Cẩm Lai, Nguyễn
Hoàng Tuấn (2015)
Trong bài nghiên cứu về “Đánh giá xung đột phát sinh trong sử dụng tài
nguyên đất từ quá trình đô thị hóa tại Thành phố Đà Nẵng", nhóm tác giả tiến hành
điều tra , thu thập số liệu và khảo sát trên ba nhóm đối tượng chính: người dân địa
phương, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và các công ty, doanh nghiệp thực hiện
dự án bất động sản liên quan đến vấn đề sử dụng đất tại 2 quận Sơn Trà và Cẩm Lệ
(đại diện cho đặc trưng đô thị hóa) từ năm 2000 đến năm 2010. Thông qua việc phỏng
vấn đối với người dân, phát phiếu khảo sát tại các cơ quan quản lý về đất đai và công
ty, doanh nghiệp hoạt động bất động sản để nhận diện các vấn đề xung đột và mức
độ xung đột.
Từ kết quả thu được, nhóm đã chỉ ra có 7 nhóm xung đột chính. Trong đó,
nhóm các xung đột giữa lợi ích người dân với thực hiện quản lý của chính quyền địa
phương là do hạn chế, vi phạm trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch sử dụng đất,
giải toả đền bù, vấn nạn tham nhũng; hệ thống Luật, chính sách phức tạp, thiếu rõ
ràng, đồng bộ. Còn nhóm Xung đột giữa các hình thức sử dụng đất theo các mục đích
khác nhau là do hậu quả của chính sách phát triển đô thị, hạn chế trong công tác quy
hoạch không gian đô thị và do sự gia tăng dân số. Cả 2 nhóm xung đột này được
nhóm tác giả chi ra rằng có mức độ xung đột cao, phạm vi rộng.
1.3.2.3. Nghiên cứu của Đặng Hùng Võ (2012)
Trong nghiên cứu về Phân cấp quyền của Nhà nước đối với quản lý đất đai,
quản lý đất đai và việc giám sát – đánh giá sự cần thiết ở Việt Nam của Đặng Hùng
Võ – Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Sau khi phân tích, so sánh
sự thay đổi trong quy định của Luật Đất đai 2003 với Luật Đất đai 1993, đã chỉ ra
rằng pháp luật hiện hành về quản lý giá đất được phân thành 2 cấp: Chính phủ quy
định khung giá đất; UBND cấp tỉnh quy định bảng giá đất. Từ đó dẫn đến các bất cập
24
chủ yếu gồm 3 điểm: một là pháp luật chưa quy định về trình tự, thủ tục về việc quyết
định giá đất phù hợp thị trường; hai là giá đất do Nhà nước quy định thấp hơn giá thị
trường rất nhiều; ba là cơ quan quyết định về đất đai lại quyết định luôn về giá đất
làm tăng nguy cơ tham nhũng trong quản lý đất đai.
Đặc biệt, cơ chế phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh vừa ban hành quyết định
thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất và lại vừa ban hành quyết định về giá đất để tính
giá trị tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà nhà đầu tư phải nộp cũng như tính giá trị bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất luôn chứa đựng một nguy cơ tham
nhũng rất cao và là nguyên nhân dẫn tới tình trạng khiếu kiện của người bị thu hồi
đất ngày càng nhiều, giải quyết rất khó khăn.
1.4. Kết luận chương 1
Tóm lại trong phần này chủ yếu trình bày cơ sở lý thuyết về FDI, phân cấp tài
khóa và xung đột đất đai. Các mối quan hệ giữa FDI – Phân cấp tài khóa, FDI – xung
đột đất đai, Phân cấp tài khóa – xung đột đất đai.
Từ đó, bài nghiên cứu đưa ra 3 giả thuyết:
Thứ nhất, FDI khi được đầu vào một địa phương sẽ giúp tăng trưởng kinh tế,
nâng cao vốn con người, gia tăng dân chủ và cải thiện bộ máy chính quyền. Từ đây,
các dịch vụ công được đáp ứng tốt hơn và việc khiếu nại tố cáo sẽ có xu hướng giảm
đi. Tuy nhiên, FDI cũng làm gia tăng sự đô thị hóa và tích lũy xã hội dẫn đến nhu cầu
và giá cả đất đai gia tăng từ đó gây ra các xung đột về đất đai.
Thứ hai, việc phân cấp tài khóa mạnh cho chính quyền địa phương sẽ giúp
chính quyền sở tại có đủ không gian để thực hiện các chính sách thu hút FDI giúp
tăng trưởng kinh tế - xã hội từ đó đáp ứng được các nhu cầu và giảm đi khiếu nại của
người dân. Tuy nhiên, việc gia tăng phân cấp không đi kèm với gia tăng kiểm soát và
việc phân cấp còn nhiều bất cập đã dẫn đến tham nhũng, lợi dụng quá mức quyền hạn
(đưa ra ưu đãi thu hút đầu tư) từ đó dẫn đến xung đột đất đai.
25
Thứ ba, để thu hút được nguồn vốn FDI chính quyền địa phương buộc phải
đầu tư vào các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng; và để có được quỹ đất chính quyền
địa phương phải thực hiện việc thu hồi đất từ người dân. Từ đây, các khiếu nại về
công tác bồi thường sẽ phát sinh. Tuy nhiên, nếu chính quyền địa phương thực hiện
tốt các vấn đề này, cộng hưởng với các lợi ích mà dự án FDI đem lại sẽ giúp cải thiện
kinh tế - xã hội, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của người dân, chính điều này sẽ giúp
giảm đi các việc khiếu nại.
26
CHƯƠNG 2:
TÌNH HÌNH PHÂN CẤP TÀI KHÓA, NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI TẠI
VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN TỪ 2012-2016
2.1.Thực trạng nguồn FDI tại Việt Nam
2.1.1.Đánh giá về nguồn vốn FDI
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2017 đã có 2741 dự án FDI được
cấp phép mới, với số vốn đăng ký đạt hơn 37,1 tỷ USD, tăng 5% về số dự án và tăng
38% về vốn đăng ký so với năm 2016. Số dự án được cấp mới hằng năm đã tăng từ
1237 dự án năm 2010 lên 2741 dự án năm 2017 và chỉ duy nhất năm 2011 là số dự
án có hiện tượng giảm.
Lũy kế đến ngày 31/12/2017, số dự án FDI còn hiệu lực là 27.454 dự án với
tổng số vốn là 340,85 tỷ USD. Tính đến ngày 31/12/2017, tất cả các tỉnh thành đều
có dự án FDI, đứng đầu là TP. Hồ Chí Minh với 8.123 dự án với tổng vốn đăng ký
là 62,63 tỷ USD, thấp nhất là tỉnh Điện Biên, Lai Châu với 1 dự án. Trong số 71 quốc
gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam đến ngày
31/12/2017, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 62,6 tỷ, chiếm 18,37% tổng vốn lũy
kế; tiếp đến là Nhật Bản chiếm 17%,...
Bảng 2.1. Thống kê về số dự án và vốn FDI đăng ký từ năm 2010 - 2017
1.237,0 1.186,0 1.287,0 1.530,0 1.843,0 2.120,0 2.613,0 2.741,0
19.886,8 15.598,1 16.348,0 22.352,2 21.921,7 24.115,0 26.890,5 37.100,6
Số dự án Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)
Nă m 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
(nguồn Tổng cục thống kê)
27
Bảng 2.2. Thống kê về số dự án, vốn FDI còn hiệu lực theo đối tác đầu tư đến ngày 31/12/2017
Đối tác đầu tư Số dự án Tỉ lệ (%) Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)
340.849,90 62.630,30 57.372,10 31.406,20 13.414,20 TỔNG SỐ Hàn Quốc Nhật Bản Đài Loan CHND Trung Hoa 27.454,00 7.487,00 4.007,00 2.597,00 2.168,00
18% 17% 9% 4% 14%
46.718,20 19.845,10 2.161,00 1.437,00 6%
3%
9.348,00 20.793,60 904 793 6%
79201,4 5727 23% Xin-ga-po Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) Hoa Kỳ Quần đảo Virgin thuộc Anh 63 quốc gia, vùng lãnh thổ khác
Bảng 2.3. Thống kê về số dự án, vốn FDI còn hiệu lực theo địa phương đến ngày 31/12/2017
Địa phương Số dự án ST T Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) Tỉ Lệ (%)
CẢ NƯỚC 340.849,90
27.454 A Top 5 Tỉnh thành có vốn đầu tư FDI lũy kế cao nhất 8.123 1 45.194,30 13,26% TP.Hồ Chí Minh
9,72% 9,32%
2 Hà Nội 3 Bình Dương 4 Bà Rịa - Vũng 5.110 3.519 414 33.134,70 31.758,50 29.882,30 8,77%
Tàu 5 Đồng Nai 1.560 28.658,80 8,41%
B
Top 5 tỉnh thành có tổng vốn đầu tư FDI lũy kế thấp nhất 1 Bắc Kạn 2 Gia Lai 3 Hà Giang 4 Điện Biên 5 Lai Châu 4 5 8 1 1 13,2 0,0039% 12,2 0,0036% 6,6 0,0019% 3 0,0009% 1,5 0,0004%
(Tổng hợp theo thống kê của Tổng cục thống kê)
28
Hiện nay, Việt Nam đang giành rất nhiều ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư các
dự án trong các lĩnh vực: Nông nghiệp, chế biến , sản xuất phần mềm và năng lượng
tái tạo. Tuy nhiên, đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành nông nghiệp
mới chỉ chiếm chưa đến 1% trong tổng vốn FDI đăng ký năm 2017. Nguồn vốn này
tập trung chủ yếu đầu tư vào ngành bất động sản và chế biến, chế tạo với hơn 76% số
vốn đăng ký. (bảng 1.1)
Bên cạnh đó, để thu hút các nhà đầu tư vào các địa bàn kém phát triển, nhiều
chính sách ưu đãi cao về thuế đã được đưa ra, tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hiệu quả
không cao. Điểm chung của các địa bàn kém phát triển gặp nhiều khó khăn trong thu
hút đầu tư do những hạn chế về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng và chất lượng nguồn nhân
lực. Ngược lại, các địa phương thu hút được nhiều dự án đầu tư chủ yếu là các tỉnh,
thành phố có hệ thống kết cấu hạ tầng tốt, vị trí địa lý gần các thành phố lớn, thuận
tiện về giao thông, gần cảng biển, đường cao tốc và có tỉ lệ lao động đã qua đào tạo
cao hơn mức trung bình cả nước. Việc này đã góp phần thúc đẩy quá mức sự đô thị
hóa tại các thành phố lớn, kéo theo đó là rất nhiều hệ lụy từ khiếu kiện, quá tải cơ sở
hạ tầng, bong bóng bất động sản...Điều này lại một lần nữa cũng cố cho lập luận của
bài luận về vấn đề: có cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp thu hút các nhà đầu tư, chính vì thế
các địa phương muốn mời gọi các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư ngoại, thì việc
chi đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất quan trọng.
Bên cạnh đó, mặc dù chiếm tỷ lệ không nhiều liên quan đến các vấn đề vi
phạm pháp luật, nhưng các vi phạm của các doanh nghiệp FDI bị phát hiện lại có tác
động rất lớn đến đời sống nhân dân và môi trường. Các vụ vi phạm này cũng bộc lộ
sự thiếu trách nhiệm trong quản lý của các cơ quan chức năng có liên quan.
2.1.2. Nguyên nhân
Có thể phân chia nguyên nhân của những hạn chế về chính sách ưu đãi thu hút
đầu tư FDI theo 2 nhóm sau: Nhóm liên quan đến quá trình thiết kế chính sách và
nhóm liên quan đến quá trình thực thi chính sách.
29
Thứ nhất, chưa nhất quán giữa các mục tiêu của chính sách ưu đãi thu hút FDI.
Ví dụ như đồng thời thu hút đầu tư vào địa bàn khó khăn và vào khu công nghiệp,
khu chế xuất; đồng thời, ưu đãi thu hút đầu tư dự án công nghệ cao và các dự án sử
dụng nhiều lao động thường có công nghệ không cao.
Thứ hai, chưa nhất quán giữa mục tiêu và biện pháp thực hiện: Một trong
những mục tiêu của chính sách ưu đãi thu hút là thu hút các DN FDI sử dụng công
nghệ cao, tuy nhiên, việc ưu đãi lại bằng thuế, tiền thuê đất hoặc dựa trên số lao động
mà không dựa trên các tiêu chí về công nghệ được sử dụng.
Thứ ba, các chính sách ưu đãi thu hút được áp dụng chung cho toàn bộ các
tỉnh thành, chưa dựa trên lợi thế cạnh tranh, đặc thù của mỗi địa phương. Thực tế trên
đã dẫn tới tình trạng cạnh tranh về thu hút FDI giữa các địa phương.
2.2. Thực trạng phân cấp tài khóa tại Việt Nam
2.2.1. Khung pháp lý về phân cấp tài khóa
Việc phân cấp tài khóa tại Việt Nam hiện đang được thực hiện theo Luật Ngân
sách nhà nước (NSNN) năm 2015. Theo đó, tại Việt Nam, ngân sách nhà nước được
chia thành Ngân sách Trung ương (NSTW) và Ngân sách địa phương (NSĐP). Trong
NSĐP được chia thành Ngân sách cấp Tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp
xã.
Ngược dòng lich sử, Luật NSNN ra đời đầu tiên vào năm 1996 để đáp ứng các
yêu cầu về tính thời đại và quản lý NSNN. Theo nhận xét của Bạch Thị Minh Huyền,
Kiyoshito Hanai (2002) thì Luật NSNN ra đời đã góp phần tăng cường vai trò của
NSNN trong quá trình phát triển, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Năm 2002, Luật NSNN năm 2002 được ban hành và đã cải thiện đáng kể về
phân cấp tài khoá và có một sự đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Về tổng thể, NSĐP và NSTW cơ bản được xác định đầy đủ.
Luật NSNN năm 2015 tiếp tục kế thừa các quy định của Luật NSNN 2002
bảo đảm tính thống nhất của ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của NSTW; tăng
30
cường phân cấp quản lý ngân sách, phát huy tính chủ động của ngân sách các cấp
chính quyền địa phương trong quản lý và sử dụng NSNN. Đồng thời, khắc phục
những tồn tại về phân cấp quản lý NSNN của Luật NSNN năm 2002.
2.2.2. Về phân cấp nguồn thu
Theo Luật NSNN năm 2002 và năm 2015 về cơ bản đều giống nhau về
cách phân chia:
Nguồn thu của Ngân sách trung ương gồm:
+ Các khoản thu ngân sách trung ương (NSTW) hưởng 100%, đây thường là
các khoản thu lớn gắn liền với hoạt động kinh tế của do Trung ương quản lý ,các
khoản thu có tính chất đối ngoại và tương đối dễ thu (thuế xuất nhập khẩu, tiêu thụ
đặc biệt hàng nhập khẩu...).
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương:
Nguồn thu của Ngân sách địa phương (NSĐP) gồm:
+ Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%: 2. Các khoản thu phân
chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương;
+ Thu bổ sung từ ngân sách trung ương;
+ Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy
định tại khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN.
Riêng khoản thu từ Khoản thuế thu nhập doanh nghiệp đơn vị hạch toán toàn
ngành trong Luật NSNN năm 2015 là khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP,
còn trong Luật NSNN năm 2002 là khoản thu của NSTW hưởng 100%.
2.2.3. Về phân cấp nhiệm vụ chi
Nhiệm vụ chi của NSTW:
+ Chi đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do trung ương quản lý.
31
+ Chi thường xuyên: Các hoạt động liên quan đến con người và hoạt động
quản lý của cấp trung ương về các vấn đề sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội,
văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi
trường...; các hoạt động khác.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ chi của NSĐP:
+ Chi đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội và các khoản chi khác do địa phương quản lý.
+ Chi thường xuyên: Các hoạt động liên quan đến con người và hoạt động về
các vấn đề sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin văn học nghệ
thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường...; các hoạt động khác.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
2.2.4. Về trách nhiệm giải trình tài khóa của chính quyền địa phương
Việt Nam đang rất nổ lực trong việc gia tăng sự công khai minh bạch về ngân
sách của các cấp chính quyền thông qua cơ quan giám sát là Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp.
Tại địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã), hiện nay, việc giám sát sẽ do
Hội đồng nhân dân các cấp thực hiên. Về cơ chế pháp lý, Hội đồng nhân dân được
xuất hiện đầu tiên trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 1958, theo đó
HĐND ban đầu được lập ra để lãnh đạo các ngành công tác, các mặt sinh hoạt, và
quyết định tất cả công việc Nhà nước trong phạm vi địa phương được quyền quản lý,
dưới sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của trung ương, mang khuynh hướng điều
hành là chính. Qua nhiều lần thay đổi tại các năm 1962, 1983, 1990, 1994, 2003 và
2015. Lúc này nhiệm vụ của HĐND được quy định Luật về tổ chức HĐND và Ủy
ban nhân dân năm 2003 là thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát
32
việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương. Và các nhiệm vụ quyền hạn được
nêu chi tiết hơn trong Luật chính quyền địa phương năm 2015. Nhưng về bản chất,
có thể nói HĐND được lập ra để thực hiện quyền giám sát của người dân đến chính
quyền sở tại.
Hằng năm, chính quyền các cấp phải báo cáo việc lập dự toán, quyết toán trình
HĐND cùng cấp thông qua. Bên cạnh đó, trong lúc chấp hành dự toán hằng năm, các
cấp chính quyền cũng sẽ chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Có thể nói, HĐND
là cơ quan có quyền giám sát tất cả chu trình ngân sách từ khâu lập, chấp hành và
quyết toán. Do đó, chu trình ngân sách có tốt hay không đều có liên quan một phần
đến hoạt động của cơ quan này.
2.3. Thực trạng về xung đột đất đai tại Việt Nam
2.3.2. Cơ sở hình thành giá đất và bồi thường.
Việc xây dựng và hình thành giá đất trong bảng giá đất ở nước ta hiện nay
được dựa trên Luật đất đai năm 2013. Theo đó, Khung giá đất được Nhà nước ban
hành, còn các tỉnh, thành phố được phép điều chỉnh cho phù hợp với địa phương (hệ
số K) nhưng theo quy định không vượt quá 30%.
Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổ chức xây dựng, trình
Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần. Bộ Tài chính có trách
nhiệm tổ chức thẩm định khung giá đất. Khi giá đất phổ biến trên thị trường tăng từ
20% trở lên so với giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá đất tối thiểu
trong khung giá đất trong khoảng thời gian từ 180 ngày trở lên thì Chính phủ điều
chỉnh khung giá đất.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xây dựng bảng giá đất cụ thể cho địa phương và
trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua. Bảng giá đất sẽ được điều chỉnh khi
Khung giá đất của Chính phủ ban hành tăng hoặc giảm 20% trở lên so với giá đất tối
đa/ tối thiểu trong bảng giá đất của loại đất tương tự hoặc khi giá đất phổ biến trên thị
33
trường tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá
đất tối thiểu trong bảng giá đất trong khoảng thời gian từ 180 ngày trở lên.
Có 5 phương pháp để xác định giá đất để xây dựng Khung giá đất và Bảng giá
- Phương pháp so sánh trực tiếp là phương pháp định giá đất thông qua việc
đất:
phân tích mức giá của các thửa đất trống tương tự đã chuyển nhượng trên
thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất để so sánh, xác định giá của
- Phương pháp chiết trừ là phương pháp định giá đất đối với thửa đất có tài
thửa đất cần định giá.
sản gắn liền với đất bằng cách loại trừ phần giá trị tài sản gắn liền với đất
-
ra khỏi tổng giá trị bất động sản.
Phương pháp thu nhập là phương pháp định giá đất khi so sánh thu nhập
- Phương pháp thặng dư là phương pháp định giá đất đối với thửa đất có tiềm
bình quân trên một diện tích đất với lãi suất tiền gửi.
năng phát triển theo quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc được
- Phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất là phương pháp định giá đất bằng
phép chuyển mục đích sử dụng đất để sử dụng cao.
cách sử dụng hệ số điều chỉnh giá đất nhân với giá đất trong bảng giá đất
do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.
Hiện nay, bảng giá đất để thực hiện giải phóng mặt bằng được xây dựng dựa
trên Luật Đất đai. Việc Bảng giá đất không vượt quá 30% vo với giá của cùng loại
đất trong Khung giá đất được Nhà nước ban hành đã làm cho bảng giá đất do nhà
nước quy định chỉ bằng 30-60% do với giá thị trường. Điều này có thể lý giải là giá
đất luôn bị thị trường điều chỉnh nên có sự thay đổi hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng,
trong khi đó quyết định của cơ quan Nhà nước phải có tính ổn định trong một thời
gian nhất định. Để an toàn, các nhà hoạch định chính sách phải để mức giá đất dưới
mức giá thị trường, vì nếu giá đất thấp hơn cũng không thiệt hại cho Nhà nước. Tuy
34
nhiên, việc đưa ra bảng giá đất thấp lại ảnh hưởng rất lớn đến đối tượng bị thu hồi đất
và gây ra khiếu kiện về đất đai kéo dài.
2.3.2. Chính sách và pháp luật về khiếu nại tố cáo, tiếp công dân ở nước ta
Hiến pháp 1992 tại điều 8 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức
Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân". Tính chất giám sát của nhân dân đối với Nhà nước
trong giải quyết khiếu nại được biểu hiện ở chỗ khi khiếu nại nhân dân đã chuyển đến
cho cơ quan nhà nước những thông tin, phát hiện về những việc làm vi phạm pháp
luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân để
trên cơ sở đó Nhà nước kiểm tra lại hoạt động, hành vi của các cơ quan và các viên
chức của mình thông qua việc giải quyết khiếu nại.
Ngày 18/4/1970, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 176/CT-TW về việc tăng cường công
tác kiểm tra, kiểm sát, thanh tra và giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Chỉ thị
yêu cầu các cấp, các ngành phải coi trọng việc xem xét giải quyết các đơn thư khiếu
nại... của quần chúng, cố gắng khắc phục tình trạng để các vụ khiếu nại tố cáo ứ đọng
lại nhiều hoặc lâu ngày, hoặc chuyển đơn cho cấp dưới mà không theo dõi, kiểm tra
cách giải quyết.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay,
ngày 29/11/2005, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu tìm hiểu và
thực thi các quy định mới của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Luật sửa đổi, bổ sung
năm 2004 và năm 2005 được "nhất thể hóa" từ Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và
những phần được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
khiếu nại, tố cáo 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố
cáo năm 2005. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 có 9 chương và 103 điều.
2.3.3. Khiếu nại tố cáo về Đất đai
Theo Báo cáo của Chính phủ gửi Quốc Hội năm 2017 có nêu: năm 2011 có
đến 82,44% đơn khiếu nại thuộc lĩnh vực đất đai, nhà ở; năm 2012 là 78,9%; năm
35
2013 là 60,9%; năm 2014 là 76,38%; năm 2015 là 76,7%; năm 2016 là 74%, năm
2017 là 72,1%. Cụ thể hơn, Năm 2017 trong 57.983 đơn khiếu nại thì có 35.021 đơn
khiếu nại là về liên quan đến đất đai, 6.784 đơn về nhà ở. Nghiên cứu Báo cáo của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, các vụ án hành chính thuộc lĩnh vực đất đai, các
quyết định hành chính về đất đai cũng chiếm 74,6%; các tranh chấp vụ án về dân sự
chiếm tỷ lệ lớn là tranh chấp về đất đai. (bảng 2.3, 2.4)
Bảng 2.4. Bảng tổng hợp Tỉ lệ khiếu nại lĩnh vực đất đai nhà ở các cơ quan chính phủ
Năm Tỷ Lệ (%) Năm Tỷ Lệ (%)
2015 2016 2017 76,70% 74% 72,10%
2011 2012 2013 2014 82,44% 78,90% 60,90% 76,40%
(Nguồn báo cáo chính phủ trình Quốc Hội tại kỳ họp thứ 4 Quốc Hội khóa XIV)
Bảng 2.5. Bảng tổng hợp số đơn khiếu nại, tố cáo lĩnh vực đất đai nhà ở các cơ quan chính phủ năm 2016-2017
Năm Tỉ lệ Tổng số Đơn tố cáo Tổng số Đơn khiếu nại Tỉ lệ khiếu nại về đất đai và nhà ở Số đơn thư khiếu nại liên quan đến đất đai, nhà ở
2016 74,0% 14.040 63,4%
52.956 57.983 39.187 41.922 15.555 72,3% Số đơn tố cáo cán bộ, công chức vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội 8.901 9.691
2017 62,3% (Theo báo cáo 471/NC-CP về Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2017 của Chính Phủ)
36
Điều này chứng tỏ, chính sách về đất đai đang có vấn đề. Cụ thể, Luật Đất đai
có quá nhiều bất cập, tạo điểm nghẽn trong phát triển phát triển nền nông nghiệp công
nghệ cao, nông nghiệp hiện đại, chưa có chính sách thông thoáng để doanh nghiệp
đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chưa giải quyết hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh
nghiệp và người sử dụng đất.(Đại biểu Quốc hội Đỗ Thị Lan– tỉnh Quảng Ninh tại
kỳ hợp thứ 4, Quốc hội khóa XIV).
Thực trạng khiếu nại về đất đai hiện nay thường thể hiện ở các nội dung chủ
- Thứ nhất, là khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
- Thứ hai, là khiếu nại về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Thứ ba, là khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm chế
yếu sau:
- Thứ tư, là khiếu nại việc giải quyết các tranh chấp về đất đai của các cơ quan
độ quản lý, sử dụng đất đai.
nhà nước.
Về thực trạng tố cáo liên quan đến đất đai hiện nay thường thể hiện ở các nội
- Thứ nhất, tố cáo cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng các chương
dung chủ yếu sau:
trình, dự án của Nhà nước để bao chiếm ruộng đất, chia chác đất đai, nhất là đối với
- Thứ hai, tố cáo cán bộ cửa quyền, nhũng nhiễu trong việc thực hiện các thủ
chương trình trồng rừng, các dự án phát triển khu dân cư, các dự án tái định cư.
tục hành chính về đất đai như: giao đất; cho thuê đất; cho phép chuyển nhượng quyền
sử dụng đất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không thực hiện đăng trình tự,
- Thứ ba, tố cáo UBND giao đất trái thẩm quyền; giao đất, cho thuê đất không
thủ tục thu hồi đất, đền bù, hỗ trợ.
đúng đối tượng, không đúng quy hoạch; sử dụng tiền thu từ quỹ đất công ích (5%)
trái quy định của pháp luật.
37
- Thứ tư, tố cáo hành vi gian lận trong việc lập phương án bồi thường về đất đai
để tham ô như lập hai phương án bồi thường (cho người có đất bị thu hồi riêng để
- Thứ năm, tố cáo hành vi trục lợi về đất đai thông qua việc lập phương án hoặc điều chỉnh phương án quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn không phù hợp với thực tế, gây xáo trộn không cần thiết đối với đời sống nhân dân.
thanh toán với Nhà nước riêng).
38
CHƯƠNG 3:
MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục đích chính của phân tích thực nghiệm của luận văn là kiểm tra các tác
động (riêng biệt và kết hợp) của FDI và phân cấp tài chính đối với các xung đột đất
đai. Do đó, luận văn sẽ đi xác định liệu sự tăng trưởng của FDI và mức độ phân cấp
tài chính địa phương có thể giúp giải thích những thay đổi trong xung đột đất đai hay
không?
Mô hình nghiên cứu này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Y.Wu,
N.Heerink (2016), về mối quan hệ tác động của FDI và phân cấp tài khóa với xung
đột đất đai ở giai đoạn 1999 – 2010 đối với 30 tỉnh thuộc Trung Quốc.
3.1. Mô hình nghiên cứu
3.1.1. Mô hình lý thuyết
Theo lý thuyết, FDI, phân cấp tài khóa và sự tương tác của FDI và phân cấp
tài khóa sẽ là ba yếu tố chính tác động đến xung đột đất đai. Do đó, mô hình hồi quy
cơ bản như sau:
ΔlnLCit = a + β1ΔlnFDIit + β2 FDit + β3ΔlnFDIit*FDit + β5Xit + λt + μi + εit (1)
Trong đó:
ΔlnLCit là sự thay đổi trong lôgarit của thư khiếu nại tại tỉnh i trong năm t đại
biểu cho sự biến chuyển về tình hình xung đột đất đai trong năm t tại tỉnh i.
ΔlnFDIit là sự thay đổi trong logarit của dòng vốn FDI chia cho quy mô dân số
của tỉnh i trong năm t.
FDit biểu thị thước đo phân cấp tài khoá.
Xit là các biến kiểm soát cấp tỉnh bao gồm GDP bình quân đầu người của tỉnh,
tỷ lệ chi của chính quyền tỉnh, sự đô thị hóa.
λt là biểu thị một tập hợp đầy đủ các biến giả năm để đại diện các tác động
theo thời gian.
39
μi là hiệu ứng đặc thù của tỉnh không quan sát được.
εit là sai số ngẫu nhiên.
a và β1,.., β5 là các hệ số ước lương.
Nếu kết quả cho hệ số biến tương tác là âm và có ý nghĩa thống kê thì FDI và
phân cấp tài khóa, tương tác giữa FDI và phân cấp tài khóa giúp tăng năng lực quản
trị giúp giảm các xung đột về đất đai, ổn định trật tự xã hội. Ngược lại, nếu hệ số
dương của biến FDI và phân cấp tài khóa, tương tác giữa FDI và phân cấp tài khóa
và có ý nghĩa thống kê ngược lại, các biến này sẽ là tác nhân gây ra các xung đột về
đất đai.
3.1.2. Mô tả các biến trong mô hình
- Biến phụ thuộc ở đây là biến xung đột đất đai được đo lường sự thay đổi số
đơn thư khiếu nại thuộc lĩnh vực đất đai, bồi thường. Mặc dù sử dụng diện tích đất
bất hợp pháp là thước đo tốt nhất theo (Y.Wu, N.Heerink 2016), tuy nhiên, ở Việt
Nam vẫn không có một thống kê chính thức nào đối với sự việc này, thêm vào đó,
người sử dụng đất bất hợp pháp có động cơ che dấu hành vi của mình. Theo
Meligrana, Li và Zhang (2011) hay Pils (2005) thì sự gia tăng của tranh chấp đất đai
được phản ánh trong sự tăng trưởng của các lá thư thỉnh nguyện liên quan đến đất
đai. Vì thế, bài luận văn sử dụng biến biến phụ thuộc ΔlnLCit là sự thay đổi trong
lôgarit của thư khiếu nại tại tỉnh i trong năm t đại biểu cho sự biến chuyển về tình
hình xung đột đất đai trong năm t tại tỉnh i.
- Biến độc lập được sử dụng theo mô hình của Y.Wu, N.Heerink (2016), theo
đó, mô hình sẽ gồm 3 biến độc lập: ΔlnFDIit là sự thay đổi trong logarit của dòng
vốn FDI chia cho quy mô dân số của tỉnh i trong năm t; FDit biểu thị thước đo phân
cấp tài khoá bởi tỉ lệ giữa thu ngân sách và chi ngân sách và biến tương quan giữa
nguồn vốn FDI thay đổi hằng năm t với thước đo phân cấp tài khóa của tỉnh i.
Vốn đầu tư nước ngoài được đo bằng dòng vốn FDI bình quân đầu người hàng
năm bởi vì FDI trên đầu người phản ánh cường độ vốn khu vực, có liên quan đến biến
40
phụ thuộc hơn so với giá trị tuyệt đối của FDI. Và luận văn cũng dụng vốn FDI hiện
tại thay vì tích lũy vốn FDI vì các khoản đầu tư diễn ra nhiều những năm trước không
có khả năng ảnh hưởng đến xung đột đất đai hiện tại.
- Các biến kiểm soát gồm 2 nhóm: nhóm kiểm soát phát triển kinh tế khu vực
và chất lượng thể chế.
Nhóm biến kiểm soát kinh tế khu vực nhằm mục đích kiểm soát tác động của
phát triển kinh tế và đô thị hóa đến xung đột đất đai bằng các biến GDP bình quân
đầu người và tỉ lệ dân số đô thị. Theo đó, số liệu về GDP của tỉnh được lấy theo Niên
giám thống kê do chi cục thống kê của tình phát hành. Số liệu về dân số và số dân cư
ở tại đô thị được lấy theo niên giám thống kê hằng năm của Tổng cục thống kê.
Nhóm biến kiểm soát thể chế nhằm mục đích nắm bắt các nỗ lực của địa
phương trong việc công khai thông tin, chính sách, quy hoạch đến người dân, ở đây
luận văn sẽ sử dụng hệ số PAPI để đo lường biến kiểm soát này. Số liệu về chỉ số
PAPI được lấy theo báo cáo Papi từ năm 2012-2016.
Bảng 3.1: Mô tả các biến và kỳ vọng dấu trong mô hình.
Biến Nội dung Hệ số Kết quả kỳ vọng
Thay đổi dòng vốn FDI (+/-) ΔlnFDIit β1
bình quân đầu người
hàng năm.
Phân cấp tài chính. (+/-) FDit β2
Tương tác giữa FDI và (+/-) ΔlnFDIit*FDit β3
phân cấp tài chính.
3.2. Mô tả dữ liệu.
41
Luận văn sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 19 tỉnh Việt Nam và đang nằm ở khu
vực quản lý của Thanh tra Chính phủ Khu vực 3 trong 5 năm kể từ năm 2012 đến
2016. Bảng sau sẽ trình bày tên các tỉnh được sử dụng làm mẫu nghiên cứu:
Bảng 3.2. Các tỉnh trong mẫu nghiên cứu.
STT TỈNH THÀNH STT TỈNH THÀNH
1 AN GIANG 11 HẬU GIANG
2 BẠC LIÊU 12 TP. HỒ CHÍ MINH
3 BẾN TRE 13 KIÊN GIANG
4 BÌNH DƯƠNG 14 LONG AN
5 BÌNH PHƯỚC 15 SÓC TRĂNG
6 BÌNH THUẬN 16 TÂY NINH
7 CÀ MAU 17 TIỀN GIANG
8 CẦN THƠ 18 TRÀ VINH
9 ĐỒNG NAI 19 VĨNH LONG
10 ĐỒNG THÁP
Theo đó, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị loại ra vì số liệu về đơn thư khiếu nại
của Tỉnh chỉ báo cáo lên Thanh Tra Khu vực III trong năm 2012, các năm còn lại
không có số liệu. Ngoài ra, tỉnh Bình Thuận cũng thuộc khu vực quản lý của đơn vị
này nên vẫn đảm bảo tính thống nhất của số liệu. Bên cạnh đó, tỉnh Bình Thuận cũng
là một tỉnh có sự thay đổi về đơn thư khiếu nại về đất đai khá cao và đây cũng là nơi
tiếp nhận dòng vốn FDI khá lớn với 138 dự án với tổng vốn 3,57 tỉ USD lũy kế đến
năm 2017.
Biến phụ thuộc ở đây là biến xung đột đất đai được đo lường sự thay đổi số
đơn thư khiếu nại thuộc lĩnh vực đất đai, bồi thường. Được lấy theo báo cáo hằng
năm của Thanh tra khu vực III từ năm 2012-2016.Trong nghiên cứu của luận văn, tại
19 tỉnh được quan sát từ giai đoạn từ 2012 đến năm 2016 thì giá trị Ln của sự thay
đổi hằng năm các đơn thư khiếu nại giảm nhiều nhất là -2,77 tại tỉnh Bình Thuận năm
2015 (giảm từ 2083 đơn xuống 130 đơn) và tăng cao nhất là 4.31 tại tỉnh Đồng Tháp
42
trong năm 2014 (từ 105 đơn lên 7.797 đơn). Nhìn chung 19 tỉnh thì điểm của ΔlnLCit
gia tăng trung bình 0,35/năm.
Vốn đầu tư nước ngoài được đo bằng dòng vốn FDI bình quân đầu người hàng
năm. Số liệu về FDI và dân số của các tỉnh được lấy theo niên giám thống kê của
Tổng cục thống kê từ năm 2012 đến năm 2016. Về sự thay đổi của Ln dòng vốn FDI
bình quân trên đầu người qua hằng năm, nhìn chung có sự gia tăng tại 19 tỉnh với
điểm tăng bình quân là 0,3. Trong đó, giảm nhiều nhất tại tỉnh Bạc Liêu năm 2016
với 10,96 điểm. Ở chiều ngược lại, tỉnh Cà Mau có số điểm gia tăng là 10,57 trong
năm 2016
Đối với phân cấp tài chính, có nhiều biện pháp đo lường phân cấp tài chính,
trong luận văn này, tác giả sử dụng tỉ lệ giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Số thu
và chi ngân sách các tỉnh được lấy theo Niên giám thống kê do chi cục thống kê của
tình phát hành. Mức độ phân cấp tài chính cũng có sự gia tăng bình quân 0,92%, mức
gia tăng thấp nhất là 0,2% tại tỉnh An Giang năm 2016 và tăng cao nhất là 4,89% tại
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2016. Biến này cho thấy cùng chiều với sự gia tăng của
số đơn thư khiếu nại.
Biến tương tác ΔlnFDIit*FDit có giá trị thay đổi trung bình là – 69,06 năm, lớn
nhất là 12.549 tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2013, nhưng tại năm 2016 giá trị
tương tác của Thành phố Hồ Chí Minh đặt thấp nhất trong các quan sát -14.855. Từ
đó, có thể thấy biến tương tác này có tác động không đồng nhất theo thời gian.
Bảng 3.3 Thống kê mô tả các biến trong mô hình.
Biến Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Độ lệch chuẩn Số quan sát
95 95 95 0,35 1,25 0,96 0,92 0,30 2,62 - 2,77 0,20 - 10,96 4,31 4,89 10,57 ΔLnLCit FDit ΔlnFDIit
- 69,06
95 95 95 95 ΔlnFDIit*FDit PAPI Dothihoa GDP/nguoi 3.104,74 35,93 1,69 0,31 0,20 23,27 36,76 -14.855,47 32,59 0,10 15,26 12.549,34 39,75 0,83 117,79
43
Nguồn: Từ kết quả phân tích phần mềm Stata
3.3. Phương pháp ước lượng
Trước tiên, bài nghiên cứu sẽ sử dụng lần lượt các phương pháp OLS, hồi quy
theo hiệu ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên mà không giải quyết các vấn đề nội
sinh và các ước lượng bị chệch. Tiếp đó, sau tác giả thực hiện các kiểm định
Wooldridge cho ước lượng REM và kiểm định Wald cho ước lượng FEM.
Do đặc thù mẫu nghiên cứu có số quan sát theo không gian (19 tỉnh) lớn hơn
thời gian (5 năm), đồng thời mô hình có thể sẽ gặp vấn đề tự tương quan và nội sinh,
do đó, tác giả sẽ sử dụng mô hình GMM để kiểm định lại kết quả thu được trong
trường này. Về Mô hình GMM đã được Arellano và Bond (1991) lần đầu tiên đề xuất
cho các mô hình dữ liệu bảng động. Nó lấy sự khác biệt đầu tiên của dữ liệu và sau
đó sử dụng các giá trị độ trễ của các biến nội sinh làm công cụ. Tuy nhiên, như
Arellano và Bover (1995) đã lưu ý, mức độ trễ là công cụ yếu cho sự khác biệt đầu
tiên khi các biến giải thích vẫn tồn tại theo thời gian, cho nên tác giả áp dụng ước
lượng GMM-D cho luận văn này.
44
CHƯƠNG 4:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TÁC ĐỘNG
NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI, PHÂN
CẤP TÀI KHÓA VỚI XUNG ĐỘT ĐẤT ĐAI
4.1. Kiểm định mô hình
4.1.1. Kiểm định các biến trong mô hình nghiên cứu
Hệ số tương quan là một chỉ số thống kê đo lường mối liên hệ tương quan giữa
hai biến số. Hệ số tương quan có giá trị từ -1 đến 1. Hệ số tương quan bằng 0 (hay
gần 0) có nghĩa là hai biến số không có liên hệ gì với nhau; ngược lại nếu hệ số bằng
-1 hay 1 có nghĩa là hai biến số có một mối liên hệ tuyệt đối.
Vấn đề tự tương quan có thể hiểu là sự tương quan giữa các thành phần của
chuỗi các quan sát được sắp xếp theo thứ tự thời gian (trong các số liệu chuỗi thời
gian) hoặc không gian (trong số liệu chéo).
Trong phạm vi hồi quy, mô hình tuyến tính cổ điển giả thiết rằng không có sự
tương quan giữa các nhiễu , nghĩa là
Nói một cách khác, mô hình cổ điển giả thiết rằng thành phần nhiễu gắn với
một quan sát nào đó không bị ảnh hưởng bởi thành phần nhiễu gắn với một quan sát
khác.
Tuy nhiên trong thực tế có thể xảy ra hiện tượng mà thành phần nhiễu của các
quan sát lại có thể phụ thuộc lẫn nhau nghĩa là:
Có nhiều hệ số tương quan, hệ số tương quan thông dụng nhất: hệ số tương
quan Pearson r, dùng để kiểm tra mối liên hệ tuyến tính giữa các biến độc lập và biến
phụ thuộc. Nếu các biến độc lập với nhau có tương quan chặt thì phải lưu ý đến vấn
đề đa cộng tuyến khi phân tích hồi quy (giả thuyết H0: hệ số tương quan bằng 0).
45
Bảng 4.1 trình bày ma trận tương quan của các biến trong mô hình. Nhìn vào
kết quả các hệ số tương quan giữa các biến khá yếu, đa số nhỏ hơn 0.5. Riêng hệ số
tương quan giữa biến phân cấp tài chính FD với GDP trên đầu người với có hệ số
0.8012 và có ý nghĩa do kiểm định Peason có P-value < 5%. Sự tương quan giữa biến
phân cấp tài chính FD và đô thị hóa 0.8229 cũng có ý nghĩa do P-value <5%. Vì thế
hàm hồi quy có các biến này có khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.
Bảng 4.1. Ma trận tương quan các biến trong mô hình.
Nguồn sử lý từ phần mềm Stata
Việc sử dụng ma trận tương quan giữa các biến độc lập có thể phát hiện ra các
hệ số tương quan cao giữa hai biến độc lập. Tuy nhiên phương pháp này có hai nhược
điểm lớn là phải tính nhiều hệ số tương quan nếu mô hình có nhiều biến độc lập và
ma trận tương quan không phát hiện được hiện tượng đa cộng tuyến giữa một biến và
một nhóm biến các biến độc lập khác. Vì vậy, ta cần sử dụng thêm nhân tử phóng đại
phương sai để kiểm tra lại hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu. Với
46
Kiểm định VIF tại bảng 4.2 cho kết quả đều nhỏ hơn 10 vì vậy có thể kết luận
tương quan giữa các biến độc lập này là yếu và mô hình ít có khả năng xảy ra hiện
tượng đa cộng tuyến.
Bảng 4.2. Kiểm định VIF.
Nguồn sử lý từ phần mềm Stata
Do bài nghiên cứu này sử dụng dữ liệu bảng, bài luận sẽ sử dụng kiểm định
về sự tự tương quan Wooldridge, với giả Ho: không có sự tự tương quan trong dữ
liệu bảng.
Với kết quả thu được ở bảng 4.3 giá trị P-value là 0.0657, giả thuyết Ho được
chấp nhận ở mức ý nghĩa 5%, tuy nhiên, ta vẫn có thể nghi ngờ sự tự tương quan
trong trường hợp mức ý nghĩa là 10%. Do đó, không thể chắc chắn không có sự
tương quan trong dữ liệu bảng của bài nghiên cứu.
Bảng 4.3. Kết quả kiểm định Wooldridge.
47
4.2.2. Kết quả kiểm định mô hình
Từ phương trình (1), tác giả ước lượng theo phương pháp bình phương nhỏ
nhất OLS. Có thể thấy, với giả định bản chất địa phương sẽ có các đặc điểm ảnh
hưởng đến các biến giải thích. Do đó, mô hình FEM và REM giúp kiểm soát các ảnh
hưởng này ra khỏi biến giải thích để kiểm tra xem liệu bản chất của các địa phương
có tác động tới kết quả không, ta thực hiện lần lượt phương pháp ước lượng tác động
cố định (FEM) và phương pháp ước lượng tác động ngẫu nhiên REM, bảng 4.4 thể
hiện kết quả của các ước lượng như sau:
Bảng 4.4. Kết quả hồi quy POLS, FEM, REM
OLS (1) REM (2) FEM (3)
ΔLnLCit ΔLnLCit ΔLnLCit
0.0288 0.0288 0.0241
(0.65) (0.65) (0.51) ΔlnFDIit
0.0528 0.0528 -0.885
(0.24) (0.24) (-0.97) FDit
-0.000198*** -0.000198*** -0.000242*
(-5.18) (-5.18) (-5.78) ΔlnFDIit*FDit
-0.0122 -0.0122 -0.0999*
GDP/nguoi (-1.18) (-1.18) (-2.94)
1.007 1.007 11.49
Dothihoa (0.96) (0.96) (1.28)
0.0807 0.0807 0.0621
PAPI (1.17) (1.17) (0.64)
-2.486 -2.486 -0.939
_cons (-1) (-1) (-0.18)
N 95 95 95
Prob>F 0.0003 0.0000 0.0001
R2 0.2432 0.2559 0.3497
48
(Nguồn phần mềm Stata)
4.2.3. Các kiểm định chi tiết.
Để lựa chọn được mô hình ước lượng tối ưu, bài luận sẽ đi thực hiện các kiểm
định các vấn đề nội sinh tự tương quan, phương sai thay đổi của các mô hình.
Theo đó, một giả định của mô hình OLS đó là đồng nhất về phương sai của
phần dư. Nên để thỏa mãn tính chất ước lượng không chệch tuyến tính tốt nhất của
mô hình OLS, ta cần phải thỏa mãn cả 2 giả định quan trọng:
(i) E(y) = β0 + β1x1 +…+ βkxk + u
(ii) E(u)= 0
Và hai giả định này sẽ bị vi phạm nghiêm trọng trong trường hợp mô hình tồn
tại hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan phần dư.
Vì thế, sau khi ước lượng bằng mô hình OLS, bài luận kiểm tra xem mô hình
có hiện tượng phương sai thay đổi hay không bằng kiểm định Breusch-Pagan. Kết
quả tại bảng 4.5 như sau:
Bảng 4.5. Bảng kết quả kiểm định Breusch-Pagan
Nguồn phần mềm Stata
Với giá trị Prob>chi2 = 0.0073 < mức ý nghĩa 0,05, ta chấp nhận Ho: phương
sai cố định, hay E(u2x1,x1,…,xk) = ð2). Vì thế, mô hình OLS không có hiện tượng
phương sai thay đổi.
49
Tiếp theo, bài luận sử dụng kiểm định Durbin-Watson để kiểm định liệu có
một liên hệ tương quan phần dư hay không. Giả thuyết Ho của kiểm định là phần
dư là độc lập chuỗi (tức là không tự tương quan). (dữ liệu bảng ko chạy được)
Do kiểm định Wooldrige cho kết quả chưa thật sự thuyết phục cho nên ưu tiên
lựa chọn Mô hình FEM hoặc REM hơn mô hình OLS. Và để biết mô hình FEM hay
REM thích hợp hơn. Tác giả sẽ sử dụng kiểm định Hausman nhằm mục đích xác định
mô hình FEM hay REM là phù hợp trong mô hình dữ liệu bảng. Kiểm định này nhằm
xác định sai số ui có tương quan với các biến giải thích hay không. Giả thuyết H0 của
mô hình cho rằng không có tương quan giữa sai số và cái biến giải thích
Với kết quả thu được tại bảng 4.6, giá trị P-value là 0,028 < 0,05, giả thuyết
Ho đã bị bác bỏ, theo đó, sai số ui và các biến giải thích có sự tương quan với nhau,
điều này cho thấy mô hình FEM sẽ phù hợp hơn mô hình REM.
Bảng 4.6. Kết quả kiểm định Hausman.
Nguồn: Kết quả tính từ phần mềm Stata
Sau đó, tác giả kiểm tra lại một lần nữa khi thêm độ trễ vào mô hình, với độ
trễ là 1 và 2, biến tương tác đều ý nghĩa thống kê ở mô hình REM. Còn ở mô hình
FEM biến tương tác có ý nghĩa thống kê ở mức độ trễ là 1 và không có ý nghĩa thống
50
kê ở độ trễ là 2. Một điều đáng lưu ý nữa, biến tương tác đã thay đổi chiều khi có xem
xét đến độ trễ ở cả 2 mô hình FEM và REM. (bảng 4.7)
FEM
FEM
FEM
REM
REM
REM
Lag(2)
Lag(1)
Lag(0)
Lag(2)
Lag(1)
Lag(0)
Bảng 4.7. Kết quả hồi quy FEM và REM khi có độ trễ
Lưu ý: (*) (**) (***) lần lượt có ý nghĩa ở 10% 5% 1%
Nguồn: Kết quả tính từ phần mềm Stata
51
Tuy nhiên, do đặc thù của mẫu nghiên cứu số tỉnh quan sát lớn hơn thời gian
quan sát, tác giả kiểm định lại bằng mô hình GMM-D để cũng cố kết quả thu được.
(bảng 4.8). Ngoài khả năng khắc phục các khuyết tật của mô hình gồm, hiện tượng
phương sai sai số thay đổi, một điểm mạnh của phương pháp ước lượng GMM là
giải quyết được hiện tượng nội sinh trong mô hình.
Bảng 4.8. Kết quả mô hình GMM.
Biến Kết quả
ΔlnFDIit .127375
(.1466166)
FDit -7.281736 ***
(2.520873)
ΔlnFDIitFDit -.0003229 ***
(.0001404)
Số quan sát 76
Các biến công cụ 9 instrument ,D.(gdpnguoi dothihoa
papi)
Arellano-bond test AR2 Pr > z = 0.138
tests of
Difference-in-Sargan exogeneity of instrument subsets:
Sargan test Prob > chi2 = 0.503
Difference (null H = exogenous) Prob > chi2 = 0.870
Lưu ý: (*) (**) (***) lần lượt có ý nghĩa ở 10% 5% 1%
Nguồn: Kết quả tính từ phần mềm Stata
52
Kết quả ước lượng bằng GMM cũng cố một lần nữa cũng cố tác động của biến
tương tác ΔlnFDIit*Fdit đến biến ΔlnLCit. Một điểm mới trong kiểm định bằng GMM
là biến phân cấp FD cũng có tác động nghịch biến đến biến phụ thuộc.
Qua thực hiện các biến kiểm định, kết quả của mô hình FEM là ước lượng tốt
nhất. Tuy nhiên, ước lượng của mô hình GMM cũng cung cấp các gợi ý đáng lưu ý.
Vì thế bài luận sẽ sử dụng cả hai kết quả của mô hình FEM và GMM để thảo luận.
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Kết quả ước lượng từ mô hình nghiên cứu và các kiểm định cho thấy, hệ số
của biến ΔlnFDIit không có giá trị thống kê ở cả 3 mô hình và kiểm định bằng GMM
cũng cho giá trị tương tự. Chưa đủ bằng chứng để nhận định rằng nguồn vốn FDI có
tác động trực tiếp đến các xung đột về đất đai tại 19 tỉnh nghiên cứu, kết quả này
không như kỳ vọng ban đầu và đây cũng là điểm khác biệt với nghiên cứu của Y.Wu,
N.Heerink (2016) khi họ tìm thấy ý nghĩa thống kê cho tác động của FDI đến xung
đột đất đai tại 30 tỉnh ở Trung Quốc từ năm 1999 đến năm 2010. Điều này có thể là
do các tác động tích cực của FDI như cải thiện vốn con người, tăng dân chủ, cải thiện
hệ thống hành chính công... đã phát huy giúp làm suy yếu các vấn đề tiêu cực như
gây ra xung đột đất đai. Tuy nhiên, biến tương tác giữa FDI và phân cấp tài khóa lại
có ý nghĩa thống kê cho thấy một tác động gián tiếp của FDI thông qua sự tương tác
với sự phân cấp tài chính cho chính quyền địa phương.
Biến phân cấp tài khóa có giá trị thống kê trong mô hình GMM với giá trị -
7,28 và có ý nghĩa ở mức thống kê 1% cho thấy việc phân cấp tài khóa sẽ làm giảm
thiểu các xung đột về đất đai và điều này tương đồng với kết quả mà Y.Wu, N.Heerink
(2016). Điều này, cho thấy chính quyền địa phương ở gần dân nên sẽ dễ thấu hiểu
nhu cầu của người dân hơn chính quyền Trương ương. Bên cạnh đó, chỉ số Papi đang
ngày càng được cải thiện cũng cho thấy kết quả này là phù hợp. Khi sự công khai
minh bạch được gia tăng, người dân có nhiều thông tin hơn và hoạt động giám sát
của họ cũng được thực thi nhiều hơn. Điều này đã hạn chế việc tham nhũng, nhũng
53
nhiễu của chính quyền các cấp. Từ đó, các sai phạm của chính quyền địa phương có
chiều hướng giảm so với trước đây.
Kết quả hồi quy theo mô hình FEM của biến tương tác là giá trị âm 0.0002419
và có giá trị thống kê với mức ý nghĩa 5%. Ngoài ra, biến tương tác có ý nghĩa thống
kê ở mức ý nghĩa 1% ở mô hình OLS và REM và mô hình GMM, kết quả này cũng
đồng nhất với kết luận của Y.Wu, N.Heerink (2016) khi ông đã tìm thấy FDI làm
giảm các vấn đề về đất đai khi mức độ phân cấp tài khoá theo quy mô thấp.
Ngoài ra, biến tương tác giữa FDI và phân cấp tài khóa với giá trị âm ở đô trễ
bằng 0 và dương ở độ trễ một và hai, bên cạnh đó, biến phân cấp luôn dương nên dấu
của biến tương tác dự chủ yếu vào sự biến thiên của FDI, điều này đã cho thấy dòng
vốn FDI được thu hút bới các chính sách ưu đãi của chính quyền địa phương ban đầu
sẽ tác động lan tỏa tích cực ngay tức thời như cải thiện kinh tế - xã hội địa phương
làm dịu đi các xung đột xã hội. Tuy nhiên, về sau các vấn đề xung đột sẽ bắt đầu phát
sinh, điều này là do việc bồi thường cho người dân không thỏa đáng. Giá đất theo quy
định không phù hợp với thị trường đã dẫn đến công tác bồi thường gặp nhiều bất cập
và gây bức xúc cho người dân. Nguyên dân là do những quy định mang nặng tính số
học trong Luật, chưa thể hiện được đầy đủ đặc tính kinh tế của đất đai, chưa phù hợp
với thực tế của thị trường đất đai: Một là, thực tế chỉ hình thành giá đất, không bao
giờ hình thành giá của ba loại đất khác nhau (đất ở, đất thương mại, dịch vụ, sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp). Việc quy định 3 loại đất khác nhau đãn đến khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp sau đó điều chỉnh quy hoạch và chuyển đổi mục đích
sử dụng đã đẩy giá khu đất lên cao hàng chục lần. Hai là, giá đất không có thời hạn,
việc quy định giá đất có thời hạn là phi thực tế và sự nhầm lẫn giữa tiền thuê đất với
giá đất. Ba là, mức giá tại các bảng giá đất do địa phương quy định cao nhất chỉ bằng
30% mức giá tối đa phổ biến trên thị trường; ở nhiều đường phố tại các đô thị lớn, cá
biệt có trường hợp không bằng 20%. (Nguyễn Văn Xa, 2014)
Cộng hưởng với việc giá đất ngày càng tăng lên, những người dân có đất bị
thu hồi sẽ cảm thấy sự đền bù của chính quyền ngày càng không thỏa đáng, dẫn đến
54
các khiếu kiện về bồi thường. Bên cạnh đó, khi giá đất ngày càng tăng, việc tranh
chấp đất giữa người dân với nhau cũng sẽ ngày một trầm trọng hơn.
55
CHƯƠNG 5:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
5.1. Kết luận nghiên cứu.
Bài luận văn này được thực hiện dựa trên mô hình nghiên cứu của Y.Wu,
N.Heerink (2016). Tuy nhiên, do số liệu về diện tích đất bị sử dụng sai mục đích tại
Việt Nam gần như không thể thu thập được, tác giả đã thực hiện thay đổi để phù hợp
hơn với thực tiễn tại Việt Nam. Theo đó, thay vì sử dụng số liệu về diện tích đất bị
sử dụng sai mục đích, bài luận lựa chọn biến đơn thư khiếu nại về lĩnh vực đất đai
như một thay thế. Biến đơn thư khiếu nại đã được Meligrana, Li và Zhang (2011) hay
Pils (2005) chứng minh rằng sẽ phản ánh được sự gia tăng về tranh chấp đất đai.
Qua thực hiện các kiểm định, kết quả của mô hình FEM là ước lượng tốt nhất.
Tuy nhiên, kiểm định của mô hình GMM cũng cung cấp các gợi ý đáng lưu ý.
Trên cơ sở các kết quả thu được tại Chương 2 và trong sự giới hạn của nguồn
dữ liệu, luận văn đã chỉ ra được: thứ nhất, FDI mặc dù không có tác động trực tiếp
đến xung đột đất đai nhưng lại có tác động gián tiếp. Thứ hai, gia tăng việc phân cấp
tài khóa phải kết hợp với việc gia tăng tính công khai minh bạch sẽ giúp cải thiện
được sự xung đột đất đai. Và cuối cùng, sự tương tác của FDI và phân cấp tài khoá
ban đầu sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực đến giảm thiểu sự xung đột đất đai, tuy nhiên, hiệu
ứng này chỉ trong ngắn hạn.
5.2. Khuyến nghị chính sách.
Từ các kết quả và phân tích nguyên nhân trên, bài luận đưa ra các gợi ý về
chính sách để khắc phục các xung đột đất đai.
5.2.1. Tăng cường trách nhiệm giải trình và tính công khai minh bạch
Thứ nhất, cần gia tăng không gian tự chủ và tự chịu trách nhiệm của người dân
mà đại diện là Hội đồng nhân dân các cấp. Cơ chế giải trình và chịu trách nhiệm của
chính quyền địa phương trước người dân cần được thực chất hóa chứ không chỉ mang
tính hình thức như hiện nay. Muốn được như vậy cần tách biệt rõ ràng giữa cấp quản
56
lý (bộ máy hành chính) và cấp giám sát (hội đồng nhân dân). Việc kiêm nhiệm ở cả
cơ quan nhà nước và Hội đồng nhân dân của đại biểu đã dẫn đến việc lấy phiếu tín
nhiệm không còn khách quan, vừa “đá bóng, vừa thổi còi”.
Thứ hai, việc phân công giám sát cần đúng chuyên môn của đại biểu phụ trách,
nhất là đối với Hội đồng nhân dân cấp phường xã. Theo quy định hiện hành hội đồng
nhân dân sẽ thành lập các tổ để thẩm tra các quyết sách của Ủy ban nhân dân cùng
cấp, tuy nhiên, việc được phân công thẩm tra trong lĩnh vực mình không hiểu biết đã
làm công tác này chỉ mang hình thức, các vấn đề chất vấn chỉ để “cho có báo cáo“.
Việc này chỉ gây lãng phí thời gian và nguồn lực.
Thứ ba, việc giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp luôn được thực hiện
thường xuyên, tuy nhiên, các báo báo về hoạt động giám sát gần như không được
công khai đại chúng và chỉ “lưu hành nội bộ“, do đó, chất lượng của việc giám sát,
hay việc khắc phục hậu giám sát đều là một ẩn số. Do đó, cần quy định công khai kết
quả giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Đây cũng sẽ là một thang đo chất lượng
hoạt động của các đại biểu dân cử.
Thứ tư, cần tăng cường công khai, lấy ý kiến của người dân sở tại về các vấn
đề quy hoạch đất đai. Trước hết cần tăng cường chất lượng quy hoạch của địa phương
trên tổng thể quy hoạch vùng của Trung ương. Việc quy hoạch tại địa phương phải
có tầm nhìn dài hạn và có chế tài thích hợp tránh tình trạng thay đổi quy hoạch để
“hợp thức hóa”. Sau đó, xem xét các phản hồi dựa trên ý kiến của người dân, chuyên
gia để đưa ra quy hoạch thích hợp.
5.2.2. Đối quản lý quản lý dự án FDI, quỹ đất công và bảng giá đất
Về quản lý dự án FDI: Trước khi cấp phép các dự án FDI, cần nghiên cứu hiệu
quả - chi phí của dự án ở góc nhìn xã hội, và cần ước lượng việc xung đột đất đai do
dự án gián tiếp tạo ra như một chi phí của dự án. Từ việc so sánh đó sẽ giúp chính
quyền địa phương đưa ra quyết định đúng đắn hơn.
Về quản lý quỹ đất công: Đất đai là một nguồn tài nguyên có hạn, do đó, việc
tận dụng nó hiệu quả sẽ giúp thúc đẩy kinh tế địa phương. Vì vậy, việc giao quyền sử
57
dụng quỹ đất công (có sẵn hay thông qua thu hồi của người dân) cần được thực hiện
thông qua việc đấu giá mới có thể tối đa hóa nguồn thu của chính quyền địa phương
góp phần mở rộng không gian chi tiêu. Ngoài ra việc đấu giá còn giúp công khai minh
bạch, hạn chế sự tham nhũng của chính quyền địa phương.
Về tính giá trị đất: Hiện nay theo cơ chế bồi thường về đất sẽ được thực hiện
bằng phương pháp lấy giá đất trên bảng giá do UBND cấp tỉnh ban hành nhân với hệ
điều chỉnh. Việc ban hành bảng giá đất và để tính ra hệ số điều chỉnh được Hội đồng
bồi thường dựa trên giá trị giao dịch ghi trong hợp đồng giao dịch dân sự. Cách làm
này luôn cho giá rất thấp. Điều này là do người dân (bên bán) có xu hướng ghi vào
hợp đồng giao dịch với giá trị thấp để né tránh các nghĩa vụ thuế với nhà nước. Ngoài
ra, bảng giá đất do các địa phương quy định thấp nhiều hơn so với giá đất phổ biến
trên thị trường lại là một căn cứ quan trọng để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt giá đất tính thu tiền sử dụng đất. Chính điều này đã làm thất thu tiền sử dụng
đất – một nguồn thu mà chính quyền địa phương được hưởng 100%. Do đó, cần:
Thứ nhất, gia tăng tính tự chủ của địa phương, trước hết cần cởi bỏ “chiếc áo
quá chật” về khung giá đất do chính phủ ban hành. Nên để địa phương tự quyết định
giá đất trong điều kiện phải có sự giám sát của người dân.
Thứ hai, nên quy định các loại thuế phí sẽ nộp theo tỉ lệ với giá đất trong bảng
giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành. Việc này có hai lợi ích. Một là, lúc này việc đưa
ra bảng giá đất lúc này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của chính quyền địa
phương, do đó họ sẽ có động lực khảo sát và đưa ra bảng giá đất sát với thị trường.
Hai là, việc quy định các khoản thuế, phí không còn tính theo “giá trong hợp đồng”,
sẽ giúp xóa bỏ động lực trốn thuế và người dân sẽ thể hiện chính xác giá trị đất giao
dịch để bảo vệ quyền lợi của mình (vì hợp đồng là cơ sở bồi thường thiệt hại dân sự
nếu có phát sinh). Từ đó, chính quyền sẽ có thể thu thập, xây dựng dữ liệu về đất đai
tốt hơn và một lần nữa giúp đưa ra được bảng giá đất tốt nhất.
5.3. Kết luận chung
58
Bài luận đã chỉ ra được một mối liên hệ gián tiếp của FDI và phân cấp tài khóa
đến xung đột đất đai tại 19 tỉnh. Trên cơ sở đó, tác giả bước đầu đưa ra các khuyến
nghị chính sách về việc gia tăng việc giám sát, nhất là của HĐND và việc giải trình,
đây là yếu tố bắt buộc khi chúng ta gia tăng sự phân cấp cho chính quyền cấp dưới.
Bên cạnh đó, bài luận cũng đề nghị nên gia tăng không gia tự chủ của chính quyền
địa phương về bảng giá đất trên cơ sở giám sát của người dân. Đồng thời thay đổi
cách tiến tiền thuế trong một giao dịch về đất đai nên được tính theo bảng giá đất cấp
tỉnh, việc này sẽ tạo động lực cho chính quyền địa phương đưa ra bảng giá đất sát với
thị trường và giúp người dân sẽ trung thực hơn trong việc ký kết hợp đồng giao dịch
về quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, dữ liệu về số đơn thư khiếu nại chỉ thu thập được từ năm 2012-
2016, đây là một hạn chế của bài nghiên cứu. Và việc mới chỉ xem xét tại 19/63 tỉnh,
nên chưa thể khái quát hoàn toàn kết quả cho các vùng miền khác. Để khắc phục,
hướng nghiên cứu tiếp theo có thể nghiên cứu cho cả 63 tỉnh thành. Một hướng khác
nữa có thể nghiên cứu khoản thời gian từ năm 2017 trở lại đây khi luật ngân sách năm
2015 có hiệu l
Tài liệu tham khảo.
Tài liệu tiếng Việt.
Đặng Hùng Võ, 2012. Phân cấp quyền của nhà nước đối với đất đai, quản lý đất đai và việc
giám sát - đánh giá cần thiết ở Việt Nam. Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế mùa Thu 2012 –
Trường Đại học quốc gia Hà Nội.
Diệp Gia Luật, BD Tùng, 2016. Tác động của phân cấp tài khoá đến thu hút dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, JED, Vol.27(5).
Nguyễn Đào Anh,2019. Phân cấp tài khóa và tăng trưởng kinh tế địa phương tại Việt Nam.
Luận văn tốt nghiệp năm 2019 – Trường Đại học kinh tế TP HCM.
Phan Tân, 2007; Xung đột đất đai ở Hà Tây; Viện Xã hội học, num 04-2007.
Tô Trung Thành, 2011. Đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân, Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm
VECM. Hội thảo kinh tế Việt Nam những vấn đề đặt ra trong trung và dài hạn.
Trương Thanh Cảnh, Trần Nguyễn Cẩm Lai, Nguyễn Hoàng Tuấn, 2015. Đánh giá xung đột
phát sinh trong sử dụng tài nguyên đất từ quá trình đô thị hoá tại Thành phố Đà Nẵng.
Science & Technology Development, Vol 18, No.T6-2015.
Vũ Thành Tự Anh, 2012. Phân cấp kinh tế ở Việt Nam nhìn từ góc độ thể chế. Chương trình
giảng dạy kinh tế Fulbright.
Vũ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, và Võ Tất Thắng, 2007. Xé rào ưu đãi của các tỉnh trong
bối cảnh mở rộng phân cấp ở Việt Nam: “sáng kiến” hay “lợi bất cập hại”?. Nghiên
cứu chính sách của UBDP tháng 11/2007
Tài liệu tiếng Anh.
Alfaro, Chanda, Kalemli-Ozcan,(2004). FDI and economic growth: The role of local
financial markets. Journal of International Economics, 64(1),89–112.
Arellano and Bond, 1991. Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence
and an application to employment equations. Review of Economic Studies, 58(2),
277–297.
Ayalneh Bogale, Mohammed Taeb, Mitsugi Endo, 2006. Land ownership and conflicts over
the use of resources: implication for household vulnerability in eastern Ethiopia.
Ecological Economics 58 (2006) 134 – 145.
Borensztein, De Gregorio, Lee, 1998. How does foreign direct investment affect economic
growth?. Journal of International Economics, 45(1), 115–135.
D. Brody, Wes Highfield, Virginia Carrasco, 2004. Measuring the collective planning
capabilities of local jurisdictions to manage ecological systems in southern Florida.
Landscape and Urban Planning 69 (2004) 33–50.
G Brown, CM Raymond, 2014. Methods for identifying land use conflict potential using
participatory mapping. Landscape and Urban Planning, 2455, No. of Pages13.
E Dabla-Norris, 2006. The Challenge of Fiscal Decentralisation in Transition Countries.
Comparative Economic Studies, 2006, 48, (100–131).
Davey, K. (2003); Book: Fiscal Decentralization;
Ebel Yilmaz, 2002. On the measurement and impact of fiscal decentralization. World Bank
Institute - policy research working paper 28 09.
Ezcurra, P Pascual, 2008. Fiscal decentralization and regional disparities: evidence from
several European Union countries. Environment and Planning A: Economy and
Space,40: 1185-1201.
Forester 2013. Planning in the face of conflict: the surprising possibilities of facilitative
leadership. APA Planners Press - Chicago. 288 pages.
Freeman Nick J, 2000. Foreign Direct Investment in Vietnam: An Overview. Paper
presented for the DFID workshop on Globalisation and Poverty in Vietnam, Hanoi
23-24 September, 2000.
Griggs, S., Norval, A. J. & Wagenaar, H., 2014. Practices of Freedom. Decentred
Governance, Conflict and Democratic Participation. Cambridge University Press,
329 pages.
Guangzhong Cao, Changchun Feng, Ran Tao, 2008. Local “Land Finance” in China’s Urban
Expansion: Challenges and Solutions. China & World Economy / 19–30, Vol. 16,
No. 2, 2008.
Hanai, Kiyohito, and Bach Thi Minh Huyen, 2004; ‘‘Revenue Assignment between the
Central and Local Budgets in Vietnam.’’; In Reform of the Vietnamese Tax System,
ed. Eiji Tajika and Quach Duc Phap. Hanoi: Ministry of Finance, 219–60.
Hersperger et al, 2014; Actors, decisions and policy changes in local urbanization; European
Planning studies, 22 (6) (2014), pp. 1301-1319.
Joerin, Shaw, 2010, "Chapter 9 Climate change adaptation and urban risk management",
Shaw, R., Pulhin, J. and Jacqueline Pereira, J. (Ed.) Climate Change Adaptation and
Disaster Risk Reduction: Issues and Challenges (Community, Environment and
Disaster Risk Management, Vol. 4), Emerald Group Publishing Limited, Bingley,
pp. 195-215.
Kokko, 1994; “Technology, Market Characteristics and Spillovers”, Journal of Development
Economics, num 43, 1994, pp. 279-293.
Lin, J.Y., & Liu, Z, 2000; Fiscal decentralization and economic growth in China; Economic
Development and Cultural Change, 49(1), 1–21.
Meligrana, Li, & Zhang, 2011. Resolving land use disputes in China: An analysis of a
method of dealing with citizen complaints. Environment and Urbanization ASIA,
2(2), 251–264.
Mello và Barenstein 2001; Fiscal decentralization and governance: A cross-country analysis;
Book: Govermance, Corruption and Economic performance, George T.Abed,
Sanjeev Gupta editors; International Monetary Fund.
Mencinger (2003); Does foreign direct investment always enhance economic growth?;
KYKLOS, Vol 56 – 2003.
Nitikin, D., Shen, C., & Zou, 2012; Land taxation in China: Assessment of prospects for
politically and economically sustainable reform; Annals of Economics and Finance,
13(2), 489–528.
Pils, 2005. Land disputes, rights assertion, and social unrest in China: A case from Sichuan.
Columbia Journal of Asian Law, 19, 235.
Tan, Qu, Heerink, Mettepenningen, 2011. Rural to urban land conversion in China — How
large is the over-conversion and what are its welfare implications?. China Economic
Review, 22(4), 474–484.
Torre, A., et al, 2006. Conflits et tensions autour des usages de l’espace dans les territoires
ruraux et périurbains. Le cas de six zones géographiques francaises. Revue
d’Economie Régionale et Urbaine 2006 (3), 415–453.
Von der Dunka, Adrienne Grêt-Regamey, Thomas Dalanga, Anna M. Hersperger, 2011.
Defining a typology of peri-urban land-use conflicts – A case study from
Switzerland. Landscape and Urban Planning 101 (2011) 149–156.
Yan Wu, Nico Heerink, 2016. Foreign direct investment, fiscal decentralization and land
conflicts in China. China Economic Review 38 (2016) 92–107.
Wooldridge, J. M, 2002; Econometric Analysis of Cross Section and Panel Data.
Cambridge: MA: MIT Press.