
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Sự tái diễn của các cuộc khủng hoảng của tài chính trong thời gian gần
đây đã khiến các quốc gia tìm mọi biện pháp để bảo vệ nền kinh tế trước những
rủi ro thách thức của tài chính. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm
1996-1997 mức dự trữ ngoại hối thực tế trên toàn cầu đã tăng hơn gấp ba lần.
Dự trữ ngoại hối được coi là một biện pháp đề phòng rủi ro về độ mở tài chính,
cụ thể là việc đảo chiều đột ngột của dòng vốn và các cuộc khủng hoảng tài
chính. Sau hậu quả của khủng hoảng tài chính châu Á, IMF nhấn mạnh tầm
quan trọng của dự trữ ngoại hối như là một phương tiện để ngăn ngừa và quản
lý khủng hoảng.
Theo Nugee (1999), dự trữ ngoại hối được các quốc gia sử dụng để hỗ trợ
chính sách tiền tệ và chính sách ngoại hối, và các mục đích khác, nhằm đáp ứng
các mục tiêu kinh tế vĩ mô như ổn định tiền tệ và ổn định hệ thống thanh toán
trong nước và hỗ trợ xuất khẩu. Những nghiên cứu gần đây của Blanchard và
cộng sự (2010) cũng như nghiên cứu của Aizenman và Sun (2010) đã cho thấy
ngay cả các quốc gia có mức dự trữ ngoại hối cao cũng đã buộc phải sử dụng
(hoặc sụt giảm) dự trữ của mình. Các nghiên cứu này đã tìm thấy một số bằng
chứng cho thấy dự trữ ngoại hối là một “tấm đệm giảm sốc” quan trọng cho nền
kinh tế trước cuộc khủng hoảng tài chính. Thật vậy, một lượng tài sản dự trữ
cao trước khủng hoảng có thể bảo vệ quốc gia chống lại các cuộc tấn công đầu
cơ, mà có thể làm sụt giảm dự trữ, dẫn tới các nguy cơ tấn công tiền tệ khác có
thể xảy ra. Dự trữ trong bối cảnh này có thể hiểu nôm na giống như chức năng
người cho vay cuối cùng của Ngân hàng trung ương. Dự trữ ngoại hối góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc tác động tới hàng loạt biến số vĩ mô khác
như tăng trưởng GDP, cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái và lạm phát. Duy trì
dự trữ ngoại như thế nào để có thể giúp một quốc gia có thể đứng vững trước
những ảnh hưởng từ các cú sốc kinh tế từ bên ngoài là vấn đề nghiên cứu mà
nhiều nhà kinh tế và hoạch định chính sách quan tâm. Sự cần thiết của dự trữ
ngoại hối phụ thuộc vào chế độ tỷ giá mà quốc gia cam kết theo đuổi. Dự trữ
ngoại hối đặc biệt quan trọng dưới chế độ tỷ giá cố định vì ngân hàng trung
ương phải liên tục can thiệp vào thị trường ngoại hối đẻ giữ vững tỷ giá đã ấn
định (Edwards, 1983). Dự trữ quốc tế càng lớn, khả năng can thiệp của ngân
2
hàng trung ương càng được mở rộng và niềm tin của thị trường vào những
tuyên bố về tỷ giá của nhà điều càng vững chắc. Trong khi đó, dưới chế độ tỷ
giá thả nổi, ngân hàng trung ương không cần phải can thiệp giữ vững tỷ giá, mà
tỷ giá sẽ vận hành theo quy luật cung cầu; do vậy dự trữ quốc thế là không cần
thiết (Crockett, 1978). Trong thực tế, các chính phủ dù theo đuổi chế độ tỷ giá
nào đều rất quan tâm đến sự biến động của tỷ giá, vì vậy, duy trì và củng cố
mức dự trữ ngoại hối luôn là sự quan tâm của các nhà điều hành chính sách
(Calvo và Reinhart, 2000). Ngoài việc được sử dụng để can thiệp vào tỷ giá,
khi một quốc gia ngày càng gia tăng mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
đặc biệt là hội nhập tài chính, đặc biệt là đối với các nước mới nổi. Dự trữ
ngoại hối không chỉ đơn thuần để đảm bảo khỏi nguy cơ và tác động của khủng
hoảng, dự trữ ngoại hối được xây dựng để vô hiệu hoá, chặn trước tấn công từ
các thế lực đầu cơ và có thể giải quyết tốt hơn những cú sốc vĩ mô do dòng vốn
đảo chiều đột ngột. Việc tự bảo hiểm cho nền kinh tế bằng dự trữ ngoại hối cũng
giúp giảm mức độ phụ thuộc vào sự cứu trợ từ cộng đồng quốc tế như IMF hay
WB, vì nó không chỉ tạo ra sự phụ thuộc vào các tổ chức này, mà còn đưa đến
những hệ lụy về chính trị, vị thế quốc gia... và đôi khi sự viện trợ này còn làm
cho tình hình trở nên trầm trọng hơn. Thậm chí đối với những nước không bị ảnh
hưởng trực tiếp từ khủng hoảng, thì dự trữ ngoại hối cũng đóng một vai trò quan
trọng, để phòng trường hợp dòng vốn bị rút ra đột ngột do khủng hoảng niềm tin
đối với các nước đang phát triển. Nếu một quốc gia có nguồn dự trữ quá lớn thì
sẽ làm phát sinh chi phí cho việc nắm giữ dự trữ ngoại hối do lợi nhuận thu được
từ đầu tư dự trữ ngoại hối thường thấp hơn chi phí đi vay vốn nước ngoài. Còn
nếu quốc gia có một lượng dự trữ quá mỏng thì sẽ gây tác động tiêu cực tới khả
năng thanh toán cũng như an ninh tài chính quốc gia.
Dự trữ ngoại hối còn được các quốc gia sử dụng để hỗ trợ tiền tệ và chính
sách ngoại hối. Trong hai thập kỷ qua, dự trữ ngoại hối của các nước đã gia
tăng rõ rệt , đặc biệt là các nước châu Á, mức dự trữ khổng lồ tại các nước này
là kết quả của nhu cầu phòng ngừa, phản ánh mong muốn tự bảo hiểm chống lại
những hạn chế do vay vốn đột ngột từ các nước khác nhằm ổn định kinh tế vĩ
mô. Ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong các
mối quan tâm về kinh tế vĩ mô hiện đại trên thế giới. Cân bằng kinh tế vĩ mô
gần đây đã bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, gây ra bởi quá trình toàn cầu hoá
đang diễn ra trên thế giới.