BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
TRẦN THỊ YẾN
TÁC ĐỘNG CỦA NĂNG LỰC KẾ TOÁN VÀ VAI TRÒ
LÃNH ĐẠO ĐẾN CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH,
TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH VÀ THÀNH QUẢ HOẠT
ĐỘNG TRONG CÁC ĐƠN VỊ CÔNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
TRẦN THỊ YẾN
TÁC ĐỘNG CỦA NĂNG LỰC KẾ TOÁN VÀ VAI TRÒ
LÃNH ĐẠO ĐẾN CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH,
TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH VÀ THÀNH QUẢ HOẠT
ĐỘNG TRONG CÁC ĐƠN VỊ CÔNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 9340301
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN PHONG NGUYÊN
2. TS. HOÀNG CẨM TRANG
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ với đề tài “Tác động của năng lực kế toán và
vai trò lãnh đạo đến chất lượng báo cáo tài chính, trách nhiệm giải trình và thành
quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Luận án được thực hiện với sự hướng dẫn của hai nhà khoa học là
PGS.TS. Nguyễn Phong Nguyên và TS. Hoàng Cẩm Trang.
Trong quá trình hoàn thành các nội dung của luận án, tôi có tham khảo các
công trình nghiên cứu trước của thế giới và Việt Nam. Trong luận án, những phần
nội dung được kế thừa từ những nguồn tài liệu trước tôi đều trích dẫn và trình bày
nguồn cụ thể tại phần tài liệu tham khảo. Các kết quả của nghiên cứu mà tôi đã báo
cáo trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa được ai khác công bố trong bất kỳ
nghiên cứu nào (ngoại trừ một số bài báo có liên quan đến hướng nghiên cứu này đã
được chính tôi đăng báo để đảm bảo điều kiện đầu ra theo quy định của nhà trường).
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày ….tháng…. năm 2021
Nghiên cứu sinh
Trần Thị Yến
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với tập thể Quý Thầy, Cô tại
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh vì đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong quá
trình theo học tại Trường. Kế đến, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Thầy,
Cô tại Khoa Kế toán vì đã cung cấp cho tôi những kiến thức chuyên môn bổ ích
cũng như đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu để tôi có thể hoàn thành tốt luận án.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Phong Nguyên và
TS. Hoàng Cẩm Trang vì đã tận tình chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành tốt luận án
này. Tiếp theo, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy, Cô tại Khoa Quản
trị Kinh doanh vì đã giảng dạy những học phần cần thiết như: thiết kế nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Thông qua những học phần này,
tôi đã có thêm những kiến thức hữu ích về phương pháp nghiên cứu và nó đã hỗ trợ
cho tôi rất nhiều trong việc thực hiện luận án. Bên cạnh đó, tôi cũng xin cảm ơn
Viện Đào tạo Sau Đại học vì đã cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin liên quan
trong suốt thời gian tôi theo học chương trình tiến sĩ tại Trường.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế và Kế toán – Trường
Đại học Quy Nhơn vì đã tạo nhiều thuận lợi cho tôi trong công tác giảng dạy và làm
việc để tôi có thể tập trung và hoàn thành tốt chương trình nghiên cứu sinh của
mình. Ngoài ra, tôi cũng xin cảm ơn Quý chuyên gia, anh, chị, bạn bè và các đơn vị
đã hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập dữ liệu để tôi có thể hoàn thành tốt luận án.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày …..tháng …..năm 2021
Nghiên cứu sinh
Trần Thị Yến
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................... viii
DANH MỤC CÁC BẢNG .........................................................................................ix
DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... x
TÓM TẮT ..................................................................................................................xi
ABSTRACT ............................................................................................................ xiii
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Tính cần thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 5
3. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 7
6. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................................ 9
6.1. Đóng góp về mặt lý luận .............................................................................. 9
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn ........................................................................... 9
7. Kết cấu của đề tài .............................................................................................. 10
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ........................................................... 12
1.1. Giới thiệu ........................................................................................................ 12
1.2. Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài .......................................................... 12
1.2.1. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực công ................................................................................................................... 12
1.2.2. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực công ............................................................................................................ 17
1.2.3. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực công ............................................................................................................ 22
iv
1.3. Tổng quan các nghiên cứu trong nước ........................................................... 27
1.3.1. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực công ................................................................................................................... 27
1.3.2. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực công ............................................................................................................ 29
1.3.3. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực công ............................................................................................................ 29
1.4. Nhận xét tổng quan nghiên cứu ..................................................................... 31
1.4.1. Đối với nghiên cứu nước ngoài ............................................................... 31
1.4.2. Đối với nghiên cứu trong nước ............................................................... 33
1.5. Xác định khoảng trống nghiên cứu ................................................................ 36
1.6. Kết luận chương 1 .......................................................................................... 38
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ......................................................................... 39
2.1. Giới thiệu ........................................................................................................ 39
2.2. Tổng quan tài chính và kế toán các đơn vị thuộc khu vực công tại Việt Nam ............................................................................................................................... 39
2.3. Các khái niệm nền tảng .................................................................................. 41
2.3.1. Năng lực kế toán ..................................................................................... 41
2.3.2. Vai trò lãnh đạo ...................................................................................... 43
2.3.3. Chất lượng báo cáo tài chính .................................................................. 45
2.3.4. Trách nhiệm giải trình ............................................................................ 48
2.3.5. Thành quả hoạt động .............................................................................. 50
2.4. Lý thuyết nền .................................................................................................. 52
2.4.1. Lý thuyết quản lý công mới (New public management) .......................... 52
2.4.2. Lý thuyết thể chế (Institutional Theory) .................................................. 54
2.4.3. Lý thuyết bất định (Contingency Theory) ............................................... 58
2.4.4. Lý thuyết đại diện (Agency Theory) ........................................................ 60
2.5. Phát triển các giả thuyết nghiên cứu .............................................................. 63
2.5.1. Tác động của năng lực kế toán đến chất lượng báo cáo tài chính ......... 64
2.5.2. Tác động của vai trò lãnh đạo đến chất lượng báo cáo tài chính .......... 66
v
2.5.3. Tác động của vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình ..................... 68
2.5.4. Tác động của năng lực kế toán đến trách nhiệm giải trình .................... 69
2.5.5. Tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình .................. 71
2.5.6. Tác động của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động .................... 73
2.5.7. Tác động của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động.............. 74
2.5.8. Tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động thông qua vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình .................................. 76
2.6. Mô hình nghiên cứu đề xuất ........................................................................... 77
2.7. Kết luận chương 2 .......................................................................................... 78
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 79
3.1. Giới thiệu ........................................................................................................ 79
3.2. Quy trình nghiên cứu ..................................................................................... 79
3.3. Thang đo các khái niệm nghiên cứu .............................................................. 83
3.4. Phương pháp nghiên cứu định tính ................................................................ 87
3.4.1. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia ....................................................... 87
3.4.2. Chọn mẫu chuyên gia .............................................................................. 88
3.4.3. Thiết kế bảng phỏng vấn chuyên gia ....................................................... 90
3.4.4. Kết quả nghiên cứu định tính .................................................................. 91
3.5. Phương pháp nghiên cứu định lượng ............................................................. 91
3.5.1. Nghiên cứu định lượng sơ bộ .................................................................. 91
3.5.1.1. Mẫu và phương pháp chọn mẫu ........................................................... 92
3.5.1.2. Công cụ và phương pháp xử lý dữ liệu ................................................ 93
3.5.2. Nghiên cứu định lượng chính thức .......................................................... 95
3.5.2.1. Mẫu và phương pháp chọn mẫu ........................................................... 95
3.5.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu ............................................................. 98
3.5.2.3. Công cụ và phương pháp xử lý dữ liệu ................................................ 99
3.5.2.4. Các bước phân tích dữ liệu ................................................................ 100
3.6. Kết luận chương 3 ........................................................................................ 108
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................... 109
4.1. Giới thiệu ...................................................................................................... 109
vi
4.2. Kết quả nghiên cứu định tính ....................................................................... 109
4.2.1. Đánh giá sự phù hợp của mô hình nghiên cứu ..................................... 110
4.2.2. Đánh giá sự phù hợp của thang đo ....................................................... 111
4.3. Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ .......................................................... 115
4.3.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo ......................................................... 116
4.3.2. Đánh giá giá trị hội tụ của thang đo ..................................................... 117
4.3.3. Đánh giá giá trị phân biệt của thang đo ............................................... 118
4.4. Kết quả nghiên cứu định lượng chính thức .................................................. 120
4.4.1. Thống kê mô tả mẫu khảo sát ................................................................ 120
4.4.2. Kiểm định mô hình đo lường ................................................................. 123
4.4.3. Kiểm định chệch do phương pháp ........................................................ 124
4.4.4. Kiểm định mô hình cấu trúc .................................................................. 125
4.4.5. Kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm biến định tính .......................... 129
4.5. Bàn luận kết quả nghiên cứu ........................................................................ 133
4.6. Kết luận chương 4 ........................................................................................ 142
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý ................................................................. 143
5.1. Giới thiệu ...................................................................................................... 143
5.2. Kết luận ........................................................................................................ 143
5.2.1. Tổng kết quá trình nghiên cứu .............................................................. 143
5.2.2. Kết quả nghiên cứu định tính ................................................................ 144
5.2.2. Kết quả nghiên cứu định lượng ............................................................. 145
5.3. Hàm ý ........................................................................................................... 147
5.3.1. Hàm ý lý thuyết...................................................................................... 147
5.3.2. Hàm ý quản trị ...................................................................................... 151
5.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu mới .............................................................. 155
5.5. Kết luận chương 5 ........................................................................................ 158
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 159
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ................................. 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 2
vii
Phụ lục 1: Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực công ........................................................................................ 25
Phụ lục 2: Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực công .................................................................................... 31
Phụ lục 3: Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực công ................................................................................... 36
Phụ lục 4: Tổng kết các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực công ........................................................................................ 42
Phụ lục 5: Tổng kết các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực công .................................................................................... 46
Phụ lục 6: Tổng kết các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực công ................................................................................... 47
Phụ lục 7: Tóm tắt một số mô hình nghiên cứu có liên quan ................................... 48
Phụ lục 8: Tóm tắt cơ sở lý thuyết đưa ra các giả thuyết nghiên cứu ....................... 54
Phụ lục 9: Phiếu trao đổi với chuyên gia .................................................................. 56
Phụ lục 10: Danh sách chuyên gia phỏng vấn định tính ........................................... 64
Phụ lục 11: Tổng hợp ý kiến chuyên gia về sự phù hợp của mô hình ...................... 66
Phụ lục 12: Tổng hợp ý kiến chuyên gia về điều chỉnh thang đo ............................. 76
Phụ lục 13: Bảng câu hỏi khảo sát ............................................................................ 82
Phụ lục 14: Danh sách đơn vị khảo sát sơ bộ ............................................................ 89
Phụ lục 15: Kết quả phân tích dữ liệu nghiên cứu sơ bộ .......................................... 92
Phụ lục 16: Danh sách đơn vị khảo sát chính thức ................................................... 96
Phụ lục 17: Kết quả phân tích dữ liệu nghiên cứu chính thức ................................ 103
viii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
ADB Asian Development Bank
Ngân hàng Phát triển châu Á
BCTC Báo cáo tài chính
CB-SEM Covariance Based – Structural Equation Modeling
Mô hình phương trình cấu trúc dựa trên hiệp phương sai
Chuẩn mực kế toán CMKT
Hành chính sự nghiệp HCSN
Ủy ban nhân dân UBND
International Federation of Accountants IFAC
Liên đoàn kế toán quốc tế
International Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
International Public Sector Accounting Standard IPSAS
Chuẩn mực kế toán công quốc tế
IPSASB International Public Sector Accounting Standard Board
Ủy ban Chuẩn mực kế toán công quốc tế
Kiểm soát nội bộ KSNB
Ngân sách Nhà nước NSNN
Organization for Economic Co-operation and Development OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
PLS-SEM Partial Least Square – Structural Equation Modeling
Mô hình phương trình cấu trúc bình phương tối thiểu riêng phần
Transparency International - Tổ chức Minh bạch Quốc tế TI
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
World Bank WB
Ngân hàng thế giới
ix
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Chọn mẫu định mức theo loại hình đơn vị công ...................................... 98
Bảng 4.1: Kết quả kiểm tra độ tin cậy của thang đo với 100 mẫu .......................... 116
Bảng 4.2: Giá trị hội tụ của thang đo với 100 mẫu ................................................. 117
Bảng 4.3: Tiêu chí Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT) với 100 mẫu ................. 118
Bảng 4.4: Tiêu chí Fornell-Larcker với 100 mẫu ................................................... 119
Bảng 4.5: Thống kê mẫu khảo sát theo loại hình đơn vị công ................................ 121
Bảng 4.6: Thống kê mô tả các biến chính trong mô hình ....................................... 123
Bảng 4.7: Kết quả phân tích mô hình cấu trúc ........................................................ 125
x
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất ..................................................................... 77
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu đề xuất .................................................................... 82
xi
TÓM TẮT
Tiêu đề: Tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng
báo cáo tài chính, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động trong các đơn vị
công tại Việt Nam.
Tóm tắt: Gần đây, Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách tài chính công quan
trọng, đặc biệt là việc ban hành các chế độ kế toán mới áp dụng cho các lĩnh vực
công khác nhau. Các cải cách này nhằm giảm thiểu sự khác biệt giữa kế toán công ở
Việt Nam và các quốc gia trên thế giới. Trên nền tảng lý thuyết quản lý công mới,
lý thuyết thể chế, lý thuyết đại diện và lý thuyết bất định, nghiên cứu này được thực
hiện nhằm khám phá và kiểm định tác động của năng lực kế toán, tác động của vai
trò lãnh đạo đến chất lượng báo cáo tài chính và trách nhiệm giải trình. Đồng thời,
luận án này cũng xem xét tác động của chất lượng báo cáo tài chính và tác động của
trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
Bằng việc sử dụng phần mềm SmartPLS 3 với 235 mẫu khảo sát chính thức cùng
đáp viên chủ yếu là kế toán và nhà quản trị làm việc trong các đơn vị công tại Việt
Nam, tác giả đã kiểm định tám giả thuyết trong mô hình nghiên cứu của luận án.
Kết quả cho thấy: (1) Năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo có tác động dương đến
chất lượng báo cáo tài chính; (2) Năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo có tác động
dương đến trách nhiệm giải trình; (3) Chất lượng báo cáo tài chính có tác động
dương đến trách nhiệm giải trình; (4) Chất lượng báo cáo tài chính có tác động
dương đến thành quả hoạt động; (5) Trách nhiệm giải trình có tác động dương đến
thành quả hoạt động; (6) Trách nhiệm giải trình đóng vai trò trung gian cho tác
động gián tiếp của chất lượng báo cáo tài chính đến thành quả hoạt động. Kết quả
của nghiên cứu sẽ là đóng góp quan trọng về mặt lý luận và ý nghĩa thực tiễn cho
các đơn vị công tại Việt Nam trong việc thực hiện các chế độ kế toán mới theo
hướng áp dụng cơ sở dồn tích đầy đủ nhằm nâng cao chất lượng báo cáo tài chính,
phục vụ cho nhu cầu ngày càng gia tăng về trách nhiệm giải trình và tăng cường sự
xii
tin tưởng của người dân vào các đơn vị công. Từ đó, có thể góp phần hỗ trợ các đơn
vị công trong tiến trình củng cố và nâng cao thành quả hoạt động.
Từ khóa: Năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng báo cáo tài chính,
trách nhiệm giải trình, thành quả hoạt động, đơn vị công, Việt Nam.
xiii
ABSTRACT
Title: The impact of accounting competency and leadership on financial
reporting quality, accountability and performance in public organizations in
Vietnam.
Abstract: Recently, Vietnam has undergone many important public finance
reforms, especially the enactment of new accounting regimes that apply to different
public sectors. These reforms aim to minimize the difference between public
accounting in Vietnam and other countries around the world. Based on New public
management theory, institutional theory, agency theory and contingency theory, this
study explores and tests the effects of accounting capacity and leadership on
financial reporting quality and accountability. This study also examines the impact
of financial reporting quality and accountability on public organizations'
performance in Vietnam. By using SmartPLS 3 software with 235 survey samples
mainly from managers and accountants working in public units in Vietnam, the
author has tested eight hypotheses in the research model of the thesis. The research
results show that: (1) Accounting competency and leadership have a positive impact
on the quality of financial statements; (2) Accounting competency and leadership
have a positive impact on accountability; (3) Financial reporting quality has a
positive impact on accountability; (4) Financial reporting quality has a positive
impact on performance; (5) Accountability have a positive impact on performance;
(6) Accountability plays a mediating role in the relationship between financial
reporting quality and performance. These results bring some theoretical and
administrative implications for public organizations in Vietnam in implementing
new accounting regimes to apply a full accrual basis to improve the quality of
information on the financial statements. They also serve the need to increase
accountability, increase citizens' trust in public organizations and help improve the
performance of public organizations.
Keywords: Accounting competency, leadership, financial reporting quality,
accountability, performance, public organizations, Vietnam.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cần thiết của đề tài
Các tổ chức trong khu vực công luôn đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh
tế hiện hành nhưng thường bị đánh giá là hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Vì thế, xu
hướng phát triển của khu vực công ở các nước đang phát triển gần đây là đòi hỏi mạnh
mẽ hơn về trách nhiệm giải trình đối với các tổ chức công, bao gồm cả cấp trung ương
và cấp địa phương (Ohemeng và cộng sự, 2018). Van Helden và Ouda (2016) cho rằng
để đáp ứng cả những áp lực từ các tổ chức tài trợ quốc tế, các đơn vị công trong các
nền kinh tế mới nổi đang ngày càng sử dụng thường xuyên các công cụ kế toán cho
mục đích ra quyết định, kiểm soát và đánh giá trách nhiệm giải trình. Mục tiêu cuối
cùng của trách nhiệm giải trình là tính hợp pháp và hiệu quả trong quá trình sử dụng
các tài sản công (Wang, 2002). Đồng thời, kế toán là một trong những nhân tố đóng
vai trò quan trọng trong việc thực hiện tốt trách nhiệm giải trình và nâng cao kết quả
của các dịch vụ công đã cung ứng (Roberts và Scapens, 1985). Patton (1992) cũng đã
nhấn mạnh rằng thông tin kế toán là công cụ quan trọng nhằm đạt được trách nhiệm
giải trình. Và để đáp ứng mục đích này thì các BCTC của khu vực công phải đảm bảo
yêu cầu về chất lượng, đây là điều rất cần thiết và cũng là điều kiện tiên quyết (Cohen,
S. và Karatzimas, 2017). Từ đó, nhiều áp lực đặt ra cho khu vực công của các nước là
cần phải áp dụng IPSAS hoặc cơ sở kế toán dồn tích hoàn toàn (Nuhu và Appuhami,
2016) nhằm tăng cường minh bạch tài chính, trách nhiệm giải trình và hiệu quả hoạt
động trong khu vực công (Robbins và Lapsley, 2015). Tại các nước đang phát triển, có
thể thấy rằng quá trình thay đổi từ kế toán tiền sang kế toán dồn tích đang là xu hướng
phổ biến và là một phần quan trọng của toàn bộ cải cách tài chính công (Tallaki,
2019). Bởi lẽ, việc thực hiện kế toán dồn tích được coi là một nền tảng quan trọng để
có thể cung cấp được nhiều thông tin hơn cho người dùng cũng như đảm bảo được
chất lượng của thông tin kế toán (Christiaens và cộng sự, 2010). Kế toán dồn tích tăng
cường cơ sở thông tin để đánh giá tài sản và công khai rõ ràng các khoản nợ phải trả
(Ofoegbu, 2014). Tuy nhiên, việc áp dụng kế toán dồn tích cũng đòi hỏi phải sử dụng
các ước tính kế toán nhiều hơn và điều này dường như sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
các BCTC được cung cấp bởi các đơn vị công (Azmi và Mohamed, 2014). Đặc biệt,
2
các rào cản trong việc chuyển đổi sang kế toán dồn tích như năng lực kế toán hạn chế
hoặc thiếu sự hỗ trợ từ lãnh đạo là có ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện kế toán
dồn tích cũng như chất lượng thông tin kế toán và trách nhiệm giải trình của các đơn vị
công (Nakmahachalasint và Narktabtee, 2019). Trên nền tảng lý thuyết bất định và lý
thuyết thể chế, nghiên cứu này sẽ xem xét và đánh giá các nhân tố thuộc về nguồn lực
của tổ chức có tác động mạnh mẽ đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình.
Phần lớn các nghiên cứu trước đã cung cấp các bằng chứng mang tính thực tiễn
về ảnh hưởng của các nhân tố bất định đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình (Dewi và cộng sự, 2019; Mardinan và cộng sự, 2018; Nirwana và Haliah, 2018).
Nhóm nhân tố liên quan đến nhân lực được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ,
nguồn nhân lực là một nguồn lực đặc biệt và đóng vai trò quyết định đối với sự thành
bại của tổ chức (Brown, 2004). Cũng theo Brown (2004), nhân lực gồm toàn bộ các
tiềm năng về con người trong một tổ chức, từ nhân viên cho tới lãnh đạo cấp cao. Xét
trong phạm vi các nhân tố thuộc về nguồn nhân lực có tác động trực tiếp đến chất
lượng BCTC và trách nhiệm giải trình thì năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo được
xem những nhân tố chủ đạo và quan trọng nhất (Nakmahachalasint và Narktabtee,
2019). Mặc dù các nhân tố có ảnh hưởng đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình đã được một số nhà nghiên cứu trước tìm hiểu, nhưng việc xem xét tác động
đồng thời của các yếu tố thuộc nguồn nhân lực, cụ thể là năng lực kế toán và vai trò
lãnh đạo đến chất lượng BCTC, năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm
giải trình là chưa được công bố từ các nghiên cứu trước. Trong các nghiên cứu về chất
lượng BCTC và trách nhiệm giải trình thì hai nhân tố này có mối quan hệ mật thiết và
gắn kết chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, kế toán là người tạo ra BCTC và có trách nhiệm
giải trình các vấn đề về tài chính, còn thủ trưởng đơn vị công là người đại diện tổ chức
chịu trách nhiệm giải trình trước các bên liên quan về mọi hoạt động của đơn vị cũng
như có ảnh hưởng nhất định đến công việc của người kế toán. Hơn nữa, tác động của
vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình là chưa được các
nhà nghiên cứu trước quan tâm. Thêm vào đó, khu vực công tại Việt Nam đang có sự
thay đổi về các chế độ kế toán áp dụng đối với các lĩnh vực công khác nhau, ví dụ:
Thông tư 107/2017/TT-BTC, Thông tư 102/2018/TT-BTC, Thông tư 108/2018/TT-
BTC, Thông tư 70/2019/TT-BTC. Vì thế, nghiên cứu ảnh hưởng của năng lực kế toán
3
và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC cũng như trách nhiệm giải trình càng mang
tính cần thiết cho khu vực công tại Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt, kế toán khu vực công tại Việt Nam hiện vẫn còn nhiều điểm khác biệt
so với kế toán khu vực công trên thế giới như tồn tại nhiều chế độ kế toán công khác
nhau hay chưa ban hành bộ chuẩn mực kế toán công (Đậu Thị Kim Thoa, 2019). Điều
đáng chú ý là quá trình vận hành chế độ kế toán HCSN mới diễn ra tại các đơn vị công
chưa thật hiệu quả đã cho thấy các đơn vị này chưa đảm bảo việc cung cấp thông tin
kế toán hữu ích cho mục đích giải trình và ra quyết định (Yen và cộng sự, 2019).
Trong những năm gần đây, vấn đề tham nhũng tại Việt Nam là một trong những vấn
đề gây nhiều bức xúc cho xã hội và thu hút được nhiều sự quan tâm của mọi đối tượng,
cụ thể là các vụ án liên quan đến biển thủ tài sản công (Phạm Quang Huy, 2018). Năm
2019, Tổ chức Minh bạch Quốc tế đã phát hành báo cáo về chỉ số tham nhũng của 180
quốc gia dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia về vấn đề tham nhũng
trong khu vực công. Trong báo cáo này, Việt Nam đạt 37/100 điểm tương ứng xếp
hạng thứ 96/180 toàn cầu về tham nhũng. Nhiều chuyên gia đã nhận định rằng vấn đề
tham nhũng của khu vực công tại Việt Nam vẫn còn rất nghiêm trọng (Tổ chức Minh
bạch Quốc tế, 2019). Chính vì thế, nhu cầu về trách nhiệm giải trình của khu vực công
đã trở thành chủ đề trung tâm của xã hội và các bên có liên quan đến khu vực công tại
Việt Nam. Và để tạo áp lực cho các đơn vị công thực hiện tốt trách nhiệm giải trình,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP để quy định trách
nhiệm giải trình cho các tổ chức công khi thực hiện các nhiệm vụ cũng như các quyền
hạn đã được nhà nước giao (Chính Phủ, 2013a). Đồng thời, nhằm giúp các bên liên
quan có được những thông tin hữu ích để đánh giá trách nhiệm giải trình của các đơn
vị công thì những yêu cầu về chất lượng BCTC đã được thể hiện tại Luật kế toán. Tuy
nhiên, chất lượng BCTC có thật sự ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của các đơn
vị công hay không thì cần được làm rõ hơn trong bối cảnh của Việt Nam.
Đối với các nhà lãnh đạo trong các tổ chức thì việc đạt được thành quả hoạt động
cao là một mục tiêu được xem là quan trọng nhất (Andersen và cộng sự, 2016; Song và
Meier, 2018). Theo lý thuyết đại diện, việc cung cấp các BCTC có chất lượng và thực
hiện tốt trách nhiệm giải trình đóng vai trò là cơ chế kiểm soát hoạt động của các tổ
chức công nhằm tăng cường thành quả hoạt động (Brusca và Montesinos, 2016). Tức
4
là, để BCTC có ý nghĩa và mang lại lợi ích to lớn cho người dùng thì các đơn vị công
cần phải làm cho thông tin trên BCTC trở nên đáng tin cậy, thích hợp, kịp thời, có thể
hiểu được, có thể so sánh và có thể xác minh được (Cohen, S. và Karatzimas, 2017).
Khi đó, chất lượng BCTC tốt sẽ hỗ trợ tốt hơn cho việc ra quyết định, cải thiện trách
nhiệm giải trình và góp phần cải thiện thành quả hoạt động (Bukenya, 2014; Nirwana
và Haliah, 2018). Theo lý thuyết NPM thì các đơn vị công cần đặc biệt quan tâm đến
trách nhiệm giải trình vì việc thực hiện trách nhiệm giải trình tốt sẽ giúp các đơn vị
công củng cố niềm tin của các bên liên quan đối với việc cung cấp dịch vụ công và
cuối cùng là cải thiện thành quả hoạt động (Boston, 2016). Thế nhưng, Dubnick (2005)
lại cho rằng mối quan hệ giữa trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động trong khu
vực công là nghịch lý và giả mạo, do vậy, các nhà nghiên cứu cần tiến hành các nghiên
cứu thực nghiệm để làm sáng tỏ hơn mối quan hệ này (Christensen và Lægreid, 2015).
Điều này cũng cho thấy nghiên cứu về tác động của chất lượng BCTC và trách nhiệm
giải trình đến thành quả hoạt động của các đơn vị công là cần được bổ sung thêm
nhiều bằng chứng thực nghiệm.
Tóm lại, đa số các nghiên cứu trước chỉ tập trung tìm hiểu các các nhân tố tác
động đến chất lượng BCTC (Trát Minh Toàn (2016); Afiah và Rahmatika (2014);
Mardinan và cộng sự (2018)) và trách nhiệm giải trình (Phạm Quang Huy (2018);
Trương Á Bình (2017); Dewi và cộng sự (2019)). Tuy nhiên, sự tác động đồng thời
của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình của khu vực công là chưa được thực hiện trong các nghiên cứu trước. Hơn nữa,
nghiên cứu về sự tác động của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đến thành
quả hoạt động của khu vực công là thu hút không nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu trước cụ thể: tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình; tác
động của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động; tác động của trách nhiệm giải
trình đến thành quả hoạt động. Đặc biệt, vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình
trong tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đối với thành quả hoạt động là chưa
được đề cập trong các nghiên cứu trước. Vì thế, tác giả cho rằng việc tích hợp tác động
của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình cũng như tác động của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đến thành quả
hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam vào trong một mô hình nghiên cứu là rất
5
mới và cần thiết. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các hàm ý phù hợp nhằm cải thiện chất
lượng thông tin BCTC và trách nhiệm giải trình để có thể góp phần nâng cao thành
quả hoạt động cho các đơn vị công tại Việt Nam. Trước tiên, nghiên cứu này là đóng
góp quan trọng cho hệ thống cơ sở lý luận trong khu vực công của Việt Nam bằng
cách làm rõ ảnh hưởng cùng chiều của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với
chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình. Sự hiểu biết cụ thể và rõ ràng về tác động
cùng chiều của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình sẽ giúp cho các đơn vị công tại Việt Nam đưa ra các chiến lược tuyển
dụng, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực kế toán phù hợp. Các nhà quản lý đơn vị công
cũng sẽ quan tâm hơn đến vai trò của mình trong việc hỗ trợ kế toán khi họ thực hiện
nhiệm vụ hàng ngày nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên các BCTC và cải thiện
trách nhiệm giải trình của đơn vị. Tiếp theo, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc
cung cấp một BCTC có chất lượng đáng tin cậy, thích hợp, có thể kiểm chứng, có thể
hiểu được, có thể so sánh, kịp thời sẽ giúp các đơn vị công tăng cường hiệu quả khi
thực hiện trách nhiệm giải trình đối với các bên liên quan (nhân viên, đơn vị cấp trên,
cơ quan kiểm toán hoặc công dân). Cuối cùng, kết quả nghiên cứu này sẽ là đóng góp
hữu ích vào tài liệu về kế toán và quản lý công bằng cách khám phá cơ chế tăng cường
thành quả hoạt động thông qua nâng cao chất lượng BCTC và gia tăng hiệu quả trách
nhiệm giải trình trong bối cảnh khu vực công Việt Nam - nơi bị đánh giá là thành quả
hoạt động của các tổ chức công còn quá thấp (Nguyen Thang và cộng sự, 2017; Tran,
2014). Nhận thức được tính cấp thiết này, tác giả chọn đề tài “Tác động của năng lực
kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng báo cáo tài chính, trách nhiệm giải trình và
thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho
luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Luận án này nhằm xây dựng và kiểm định mô hình về tác
động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và trách nhiệm
giải trình; đồng thời, khám phá và kiểm định tác động của chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam. Các mục
tiêu cụ thể là:
- Xác định và đo lường mức độ tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh
6
đạo đến chất lượng BCTC trong các đơn vị công tại Việt Nam.
- Xác định và đo lường mức độ tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh
đạo đến trách nhiệm giải trình trong các đơn vị công tại Việt Nam.
- Xác định và đo lường mức độ tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm
giải trình trong các đơn vị công tại Việt Nam.
- Xác định và đo lường mức độ tác động của chất lượng BCTC đến thành quả
hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
- Xác định và đo lường mức độ tác động của trách nhiệm giải trình đến thành
quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
- Xác định và đo lường mức độ tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến
thành quả hoạt động thông qua vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình trong các
đơn vị công tại Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Dựa vào các mục tiêu nghiên cứu tổng quát và mục tiêu nghiên cứu cụ thể, tác
giả đưa ra sáu câu hỏi nghiên cứu như sau:
Câu hỏi số 1: Năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo có tác động đến chất lượng
BCTC của các đơn vị công tại Việt Nam hay không? Mức độ tác động của hai nhân tố
này đến chất lượng BCTC được thể hiện như thế nào?
Câu hỏi số 2: Năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo có tác động đến trách nhiệm
giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam hay không? Mức độ tác động của hai nhân
tố này đến trách nhiệm giải trình được thể hiện như thế nào?
Câu hỏi số 3: Chất lượng BCTC có tác động đến trách nhiệm giải trình của các
đơn vị công tại Việt Nam hay không? Mức độ tác động của chất lượng BCTC đến
trách nhiệm giải trình được thể hiện như thế nào?
Câu hỏi số 4: Chất lượng BCTC có tác động đến thành quả hoạt động của các
đơn vị công tại Việt Nam hay không? Mức độ tác động của chất lượng BCTC đến
thành quả hoạt động được thể hiện như thế nào?
Câu hỏi số 5: Trách nhiệm giải trình có tác động đến thành quả hoạt động của các
đơn vị công tại Việt Nam hay không? Mức độ tác động của trách nhiệm giải trình đến
thành quả hoạt động được thể hiện như thế nào?
Câu hỏi số 6: Chất lượng BCTC có tác động gián tiếp đến thành quả hoạt động
7
thông qua vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình trong các đơn vị công tại Việt
Nam hay không? Mức độ tác động gián tiếp này được thể hiện như thế nào?
Luận án sẽ tập trung giải quyết sáu câu hỏi trên, từ kết quả của luận án, tác giả hy
vọng sẽ đưa đến các hàm ý có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn quản lý cho
các đơn vị công của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ các mục tiêu nghiên cứu đã trình bày, đối tượng nghiên cứu của luận án gồm:
năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và thành
quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phạm vi khu vực
công tại Việt Nam. Tuy nhiên, do giới hạn về kinh phí và thời gian nên phạm vi khảo
sát chủ yếu của luận án là các cơ quan hành chính ở cấp địa phương: cấp tỉnh, cấp
huyện, thành phố, cấp xã, phường và các đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam. Tác
giả không nghiên cứu tại các doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Luận án được tiến hành với thời gian nghiên
cứu từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 01 năm 2021. Thời gian khảo sát dữ liệu định
lượng chính thức diễn ra từ tháng 09 năm 2019 đến tháng 08 năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trong luận án, tác giả sử dụng phương pháp hỗn hợp,
cụ thể là gồm phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định
lượng theo trình tự như sau:
Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng đầu tiên, tác giả sử dụng kỹ
thuật phỏng vấn chuyên gia và tiến hành phân tích tổng hợp ý kiến chuyên gia. Bước
nghiên cứu định tính được thực hiện để giải quyết mục tiêu cơ bản là xác định về sự
tồn tại của các mối quan hệ giữa các biến của mô hình đề xuất trong thực tế theo quan
điểm của chuyên gia, gồm: tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất
lượng BCTC; tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải
trình; tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình; tác động của chất
lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đối với thành quả hoạt động; và tác động gián
8
tiếp của chất lượng BCTC đối với thành quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt
Nam thông qua vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình. Cụ thể hơn, kết quả của
giai đoạn nghiên cứu định tính cung cấp thêm cơ sở khoa học về: (1) Xác nhận và giải
thích các mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu trong mô hình lý thuyết khi gắn với
bối cảnh khu vực công tại Việt Nam; (2) Xác nhận và điều chỉnh thang đo của các khái
niệm nghiên cứu trong mô hình để phù hợp với bối cảnh khu vực công tại Việt Nam,
bởi vì các thang đo trong mô hình được tác giả kế thừa từ nghiên cứu trước, quá trình
biên dịch sang tiếng Việt có thể vẫn còn các sai sót về ngữ nghĩa và có thể chưa phù
hợp hoàn toàn với bối cảnh Việt Nam.
Sau đó, tác giả sử dụng phương pháp tiếp theo là phương pháp định lượng. Cụ
thể, tác giả tiến hành thu thập dữ liệu bằng cách phát bảng khảo sát, dùng phần mềm
SmartPLS và phần mềm SPSS để phân tích dữ liệu. Bước nghiên cứu định lượng được
tác giả thực hiện nhằm giải quyết mục tiêu về kiểm định cũng như đo lường mức độ
liên quan đến: (1) tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng
BCTC; (2) tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải
trình; (3) tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình; (4) tác động của
chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động; (5) tác động của trách nhiệm giải trình đến
thành quả hoạt động; (6) tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt
động thông qua vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình trong các đơn vị công tại
Việt Nam. Trong bước này, nghiên cứu định lượng sơ bộ được tác giả tiến hành trước
rồi đến nghiên cứu định lượng chính thức. Cụ thể, bước định lượng sơ bộ được thực
hiện với một cỡ mẫu nhỏ nhằm kiểm định các thang đo đã kế thừa từ lý thuyết sau khi
có góp ý của chuyên gia. Từ đó, kiểm tra rằng các thang đo được dùng trong nghiên
cứu sơ bộ có đảm bảo tính đáng tin cậy, có đảm bảo tính hội tụ cũng như tính phân
biệt hay không. Kế tiếp, tác giả hoàn thiện bảng hỏi phục vụ cho khảo sát định lượng
chính thức. Cuối cùng, tác giả tiến hành khảo sát với cỡ mẫu lớn hơn để thực hiện giai
đoạn nghiên cứu chính thức, nhằm đảm bảo tính đại diện cho tổng thể, đảm bảo yêu
cầu về phân tích dữ liệu cho kiểm định mô hình đo lường, kiểm định chệch do phương
pháp, kiểm định mô hình cấu trúc và kiểm định sự khác biệt về các đặc tính của mẫu
khảo sát. Như vậy, kết quả giai đoạn nghiên cứu định lượng chính thức sẽ trả lời cho
các câu hỏi nghiên cứu và giải quyết mục tiêu nghiên cứu cụ thể đã đặt ra.
9
6. Ý nghĩa của đề tài
Quá trình tìm câu trả lời đối với các câu hỏi nghiên cứu giúp tác giả đạt được các
mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra. Điều này mang lại nhiều hàm ý lý thuyết cũng như các
hàm ý thực tiễn cho nghiên cứu kế toán công, cụ thể:
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Trước hết, nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên hình thành mô hình nghiên cứu
về tác động đồng thời của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC
và trách nhiệm giải trình, cũng như xem xét tác động của chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu này cũng đã góp phần làm rõ hơn các khái niệm và các
thang đo về năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải
trình và thành quả hoạt động trong bối cảnh khu vực công tại Việt Nam trên cơ sở kế
thừa các nghiên cứu trước trên thế giới.
Ngoài ra, kết quả của nghiên cứu còn cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm
ủng hộ cho nền tảng lý luận tiến bộ của lý thuyết NPM được áp dụng tại một quốc gia
thuộc nền kinh tế mới nổi như Việt Nam là việc tăng cường chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình sẽ giúp các đơn vị công cải thiện thành quả hoạt động. Theo đó, luận
án đã cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mới về vai trò trung gian của trách nhiệm
giải trình đối với tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động
trong bối cảnh khu vực công tại Việt Nam. Từ đó, các kết quả nghiên cứu của luận án
sẽ có giá trị tham khảo hữu ích cho các quốc gia đang phát triển khác trên thế giới.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án đã đưa đến những hàm ý quan trọng cho các bên
liên quan tại Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung mà có tiến
hành các cải cách kế toán công như Việt Nam. Cụ thể:
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước: Kết quả luận án cung cấp các cơ sở khoa học
vững chắc cho cơ quan ban hành chính sách tham khảo để từ đó đưa ra các giải pháp
phù hợp để cải thiện chất lượng BCTC, nâng cao trách nhiệm giải trình, góp phần nâng
cao thành quả hoạt động của các đơn vị công. Từ đó, giảm gánh nặng cho NSNN, cũng
như giảm nợ công, đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển tốt hơn trong tương lai.
10
Đối với các đơn vị công: Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp các cơ sở khoa
học giúp nhà lãnh đạo trong các đơn vị công nhận thức được tầm quan trọng của năng
lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với việc tăng cường chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình. Theo đó, nhà lãnh đạo cần chú ý nhiều hơn đến năng lực của đội ngũ
nhân viên kế toán khi tuyển dụng, cũng như có các chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi
ngộ và khen thưởng phù hợp để tăng cường năng lực kế toán. Đồng thời, bản thân nhà
lãnh đạo cũng cần phải phát huy tốt nhất vai trò của mình khi hỗ trợ nhân viên tuân thủ
các quy tắc, quy định, luật lệ của Nhà nước về thực hiện chế độ kế toán và thực hiện
trách nhiệm giải trình. Đặc biệt, kết quả luận án cũng là tài liệu hữu ích giúp cho nhà
lãnh đạo trong các đơn vị công nhận biết được những dấu hiệu cần thiết để cải thiện và
tăng cường thành quả hoạt động cho tổ chức mình. Cụ thể là các đơn vị công cần cung
cấp được các BCTC có chất lượng tốt và thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình.
Đối với các nhà nghiên cứu về kế toán: Hiện nay, các nghiên cứu đã công bố về
kế toán hành vi của kế toán công trên thế giới cũng như tại Việt Nam còn khá ít.
Nghiên cứu này đã bổ sung vào hệ thống cơ sở lí luận giao thoa giữa kế toán công và
quản trị công bằng cách bổ sung vào sự hiểu biết đang còn hạn chế về: (1) vai trò của
nhà lãnh đạo đối với tăng cường chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình; (2) vai
trò của chất lượng BCTC đối với tăng cường trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt
động; (3) vai trò của trách nhiệm giải trình đối với tăng cường thành quả hoạt động;
(4) vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình đối với tác động gián tiếp của chất
lượng BCTC đến thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Bên cạnh phần mở đầu và kết luận, Luận án có kết cấu 5 chương, cụ thể:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu. Chương này trước hết đề cập khái quát về
tình hình các nghiên cứu trong nước và nghiên cứu ngoài nước có liên quan đến hướng
nghiên cứu của luận án. Một là trình bày các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến
chất lượng BCTC trong khu vực công. Hai là trình bày các nghiên cứu về các nhân tố
tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực công. Ba là trình bày các nghiên cứu
về các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực công. Sau đó, nhà
nghiên cứu sẽ nhận xét các nghiên cứu đó để chỉ rõ khoảng trống nghiên cứu mà luận
án này dự định thực hiện.
11
Chương 2: Cơ sở lý thuyết. Trong chương này, đầu tiên, tác giả trình bày rõ bối
cảnh kế toán khu vực công tại Việt Nam. Sau đó, tác giả trình bày các khái niệm nền
tảng về năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và
thành quả hoạt động. Tiếp đó, tác giả phân tích các lý thuyết nền có liên quan đến việc
phát triển mô hình của luận án gồm lý thuyết NPM, lý thuyết thể chế, lý thuyết bất
định và lý thuyết đại diện. Trước khi trình bày mô hình nghiên cứu, tác giả phân tích
các giả thuyết nghiên cứu liên quan. Cuối cùng, tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu mà
luận án dự kiến thực hiện.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương này đưa ra các căn cứ khoa học
về phương pháp sử dụng khi phân tích dữ liệu nhằm thực hiện các mục tiêu nghiên cứu
của luận án. Trước hết, tác giả trình bày quy trình nghiên cứu đề xuất. Kế tiếp, tác giả
trình bày phương pháp nghiên cứu định tính gồm phương pháp phỏng vấn, chọn mẫu,
thiết kế bảng phỏng vấn. Sau đó, tác giả trình bày phương pháp nghiên cứu định
lượng. Ở bước nghiên cứu định lượng sơ bộ, tác giả mô tả về mẫu, phương pháp chọn
mẫu, công cụ và phương pháp xử lý dữ liệu. Còn trong bước nghiên cứu định lượng
chính thức, tác giả mô tả về mẫu nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu, phương pháp
thu thập dữ liệu, công cụ và phương pháp xử lý dữ liệu, các bước phân tích dữ liệu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu. Chương này sẽ trình bày các kết quả nghiên
cứu định tính cũng như kết quả nghiên cứu định lượng. Trước hết, tác giả trình bày kết
quả nghiên cứu định tính. Sau đó, tác giả trình bày kết quả nghiên cứu định lượng sơ
bộ và chính thức. Cuối cùng, nhà nghiên cứu sẽ trình bày phần bàn luận về các kết quả
mà luận án đạt được, làm cơ sở để đưa ra các hàm ý nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và hàm ý. Chương 5 trước hết sẽ tổng kết lại các kết quả
nghiên cứu định tính và các kết quả đạt được từ nghiên cứu định lượng. Trên cơ sở các
kết quả đạt được, chương này sẽ đưa ra một số hàm ý lý thuyết và hàm ý quản trị đối
với các nhà quản lý trong các đơn vị công tại Việt Nam. Cuối cùng, tác giả trình bày
một số hạn chế mà luận án gặp phải và đề xuất một số hướng nghiên cứu mới cho các
nhà nghiên cứu trong tương lai liên quan đến lĩnh vực này.
12
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thiệu
Chương 1 trình bày khái quát các nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài ở
phạm vi quốc tế và Việt Nam. Các nghiên cứu trước được trình bày theo ba hướng
nghiên cứu chính nhằm hỗ trợ và làm rõ các mối quan hệ trong luận án. Trước hết, tác
giả trình bày các nghiên cứu bàn luận về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC
đã được các nghiên cứu trước khám phá. Tiếp đó, tác giả trình bày khái quát các
nghiên cứu đã bàn về các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của khu vực
công. Cuối cùng, tác giả trình bày tổng quan các nghiên cứu bàn về các nhân tố ảnh
hưởng đến thành quả hoạt động của khu vực công. Trên cơ sở trình bày khái quát các
nghiên cứu có liên quan, tác giả phân tích và làm rõ các nghiên cứu trước, từ đó, chỉ ra
khoảng trống nghiên cứu.
1.2. Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài
1.2.1. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực
công
Nhìn chung, trong ba mươi năm qua, những cải cách hành chính công được thúc
đẩy bởi phong trào NPM đã được thực hiện rộng rãi. Nhiều quốc gia trên thế giới đã
và đang cố gắng thay đổi mô hình kế toán để tìm kiếm một mô hình phù hợp cho khu
vực công nhằm cung cấp những thông tin mang tính toàn diện, đáng tin cậy về tài
chính công và là cơ sở để cải thiện kiểm soát tài chính đối với hoạt động của các đơn
vị công (Rossi và cộng sự, 2019). Theo đó, IPSAS đã được coi là một con đường đúng
đắn để hướng tới hiện đại hóa kế toán khu vực công và những lợi ích mà IPSAS đem
lại đã làm cho rất nhiều quốc gia vẫn đang nỗ lực áp dụng (Dabbicco, 2015). Trong
thời gian gần đây, các cải cách kế toán trong khu vực công ở nhiều quốc gia đang phát
triển là tập trung vào sự chuyển đổi từ kế toán tiền mặt sang kế toán dồn tích trên cơ sở
tiếp cận IPSAS vì kế toán dồn tích giúp tăng cường hiệu quả quản trị và gia tăng trách
nhiệm giải trình (Mbelwa và cộng sự, 2019). Tuy nhiên, các rào cản trong quá trình
thực hiện các cải cải kế toán nói chung và áp dụng kế toán dồn tích nói riêng liên quan
chủ yếu đến năng lực kế toán và sự hỗ trợ của nhà quản lý trong bối cảnh từng tổ chức
(Dewi và cộng sự, 2019; Nakmahachalasint và Narktabtee, 2019). Vì thế, để thực hiện
13
các cải cách kế toán thành công thì các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển
cần phải giải quyết ổn thỏa các vấn đề về nhân lực để có thể đạt được các lợi ích mà
các cải cách kế toán dự kiến mang lại như nâng cao chất lượng BCTC, minh bạch tài
chính, nâng cao trách nhiệm giải trình và cải thiện thành quả hoạt động.
Khi đề cập đến các nhân tố có ảnh hưởng đối với chất lượng BCTC trong khu
vực công thì tác giả nhận thấy có khá nhiều quan điểm khác nhau. Trong đó, phần lớn
các nghiên cứu cho rằng việc áp dụng IPSAS và cơ sở dồn tích chính là hai nguyên
nhân vĩ mô cơ bản. Chẳng hạn, Rodríguez Bolívar và Galera (2013) đã kết luận rằng
nhiều quốc gia đã áp dụng hoặc dự định áp dụng IPSAS vì họ nhận thấy lợi ích của
IPSAS là góp phần cải thiện thông tin tài chính được báo cáo, cải thiện tính minh bạch,
nâng cao trách nhiệm giải trình và tăng cường thành quả hoạt động. Ijeoma (2014) tiếp
tục khẳng định việc vận dụng IPSAS cho phép cung cấp thông tin đảm bảo độ tin cậy
cao hơn, có ý nghĩa hơn và tăng cường khả năng so sánh giữa các nước trên phạm vi
quốc tế. Cùng hướng này, thông qua phân tích các tài liệu, Mhaka (2014) nhận định
rằng việc áp dụng IPSAS tại Zimbabwe sẽ thúc đẩy cải thiện chất lượng BCTC, hỗ trợ
chính phủ quản lý hiệu quả các khoản nợ trong và ngoài nước và sẽ cải thiện niềm tin
của các nhà tài trợ nội địa vì về cơ bản thì IPSAS là khuyến khích sự minh bạch và
tăng khả năng so sánh. Tương tự, Abang’a (2017) cũng nhận thấy chất lượng BCTC
được cải thiện đáng kể sau khi Kenya áp dụng IPSAS. Ngoài ra, nghiên cứu của
Cohen, S. và Karatzimas (2017) đã chỉ ra rằng việc thay đổi cơ sở kế toán tiền bằng áp
dụng cơ sở dồn tích ở Hy Lạp thực sự làm tăng cường chất lượng BCTC và dẫn đến
việc cung cấp thông tin kế toán trở nên hữu ích hơn cho người dùng khi đưa ra quyết
định và đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn vị công. Mặc dù, kết quả nghiên cứu
của Gamayuni (2018) cho thấy việc thực hiện kế toán dồn tích không có ý nghĩa đối
với chất lượng BCTC ở các đơn vị công thuộc tỉnh Lampung ở Indonesia. Thế nhưng,
Gamayuni (2018) đã lý giải kết quả này có thể do người được hỏi chưa hiểu về các
BCTC được lập dựa trên chế độ kế toán mới theo cơ sở dồn tích nên họ đã trả lời bảng
câu hỏi không đúng. Gamayuni (2018) đã khuyến nghị rằng khi thực hiện khảo sát về
các nhân tố tác động mà có ý nghĩa thống kê đến chất lượng BCTC thì việc tiếp cận
đúng đối tượng khảo sát là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của
nghiên cứu. Gần đây, sau khi phân tích dữ liệu trong một khảo sát bằng bảng hỏi đối
14
với các kế toán viên và trưởng phòng kế toán thuộc 218 cơ quan trung ương của Thái
Lan, Nakmahachalasint và Narktabtee (2019) đã chỉ rõ việc thực hiện kế toán dồn tích
thực sự có tác động cùng chiều đối với chất lượng thông tin kế toán của khu vực công.
Tiếp đó, nhiều nhà nghiên cứu trước cũng nhận thấy có một số nhân tố khác là có
tác động đáng kể đối với chất lượng BCTC trong khu vực công. Chẳng hạn, Xu và
cộng sự (2003) nhận ra các yếu tố thuộc về con người, hệ thống, tổ chức và các yếu tố
thuộc về môi trường bên ngoài có tác động cùng chiều đến chất lượng thông tin kế
toán ở các đơn vị công tại Úc. Cụ thể hơn, Korutaro Nkundabanyanga và cộng sự
(2013) thông qua khảo sát 120 nhân viên và các bên liên quan của Bộ Nước và Môi
trường ở Uganda đã cho thấy chuẩn mực kế toán và khung pháp lý có ảnh hưởng cùng
chiều đến chất lượng BCTC. Azmi và Mohamed (2014) cũng đã khảo sát các nhân
viên kế toán làm việc ở Bộ Giáo dục của Malaysia và chỉ ra rằng việc thực hiện kế
toán dồn tích trong khu vực công đã sẵn sàng; tuy nhiên, các đơn vị công cần quan tâm
nhiều hơn đến năng lực kế toán về kỹ năng, kiến thức, quá trình đào tạo, sự hỗ trợ của
các nhà quản lý cấp cao, cách tiếp cận lộ trình, sự tư vấn của bên ngoài và khung thời
gian hợp lý để quá trình thực hiện kế toán dồn tích được tốt hơn. Cũng trong nghiên
cứu này, Azmi và Mohamed (2014) nhấn mạnh đến yếu tố năng lực kế toán và sự hỗ
trợ của các nhà quản lý cấp cao là đặc biệt quan trọng đối với quá trình thực hiện thành
công chế độ kế toán mới theo cơ sở dồn tích nhằm tăng cường chất lượng BCTC của
khu vực công tại Malaysia. Bên cạnh đó, Mustapha và cộng sự (2017) cũng đã đánh
giá chất lượng kiểm toán nội bộ và năng lực của nhân viên là hai yếu tố chính ảnh
hưởng đến chất lượng BCTC khi áp dụng IPSAS theo cơ sở tiền mặt trong khu vực
công của Nigeria. Trên nền tảng lý thuyết bất định, Mustapha và cộng sự (2017) cho
rằng năng lực kế toán là một yếu tố tổ chức quan trọng mà các nhà nghiên cứu không
thể bỏ qua khi xem xét các yếu tố tác động đến chất lượng BCTC. Mustapha và cộng
sự (2017) đã đề nghị các nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo nên xem xét yếu tố năng
lực ở khía cạnh bao quát hơn, nghĩa là năng lực nên được thể hiện bằng một tập hợp
các kiến thức, kỹ năng và phẩm chất xác định của người kế toán. Cohen, S. và
Karatzimas (2017) đã kiểm tra nhận thức của bốn nhóm người dùng về các đặc tính
chất lượng của BCTC sau khi Hy Lạp áp dụng cơ sở dồn tích, gồm công dân, thủ
trưởng đơn vị công, nhà đầu tư, chủ nợ và người đứng đầu của cơ quan giám sát. Kết
15
quả cho thấy các nhóm người dùng khác nhau đưa ra những đánh giá khác nhau về
chất lượng BCTC và sự hữu ích của các thông tin kế toán trình bày trên BCTC. Cụ thể,
công dân đánh giá cao tính có thể hiểu được nhưng đánh giá thấp giá trị phản hồi và
giá trị dự đoán của thông tin (tính thích hợp); tức là theo họ báo cáo mới không phản
ánh chính xác về tình trạng tài chính của đất nước nên ít hữu ích với họ khi sử dụng để
ra quyết định hay đánh giá trách nhiệm giải trình. Về phía các nhà đầu tư thì họ đánh
giá kết quả của cải cách kế toán về chất lượng thông tin và tính hữu ích của quyết định
mới chỉ đạt gần mức trung bình, nghĩa là hệ thống kế toán mới tạo ra các báo cáo có
chất lượng vừa phải chứ chưa đáp ứng được kỳ vọng của họ. Còn đối với các thủ
trưởng đơn vị công và các cơ quan giám sát có vẻ hài lòng hơn với sự thay đổi này.
Nghiên cứu của Cohen, S. và Karatzimas (2017) đã cho thấy dường như sự hiểu biết
và tin tưởng của công dân đối với thông tin trong BCTC là thấp hơn so với các nhà
điều hành ở những cơ quan giám sát. Điều này có thể do sự hạn chế về kiến thức của
công dân trong lĩnh vực công hoặc việc đánh giá về các thông tin trình bày trên BCTC
là chưa phổ biến đối với họ. Như vậy, nhận thức khác nhau của các nhóm người dùng
BCTC cũng sẽ đưa đến những ảnh hưởng nhất định đến việc đánh giá chất lượng
BCTC. Ngoài ra, Abang’a (2017) còn nhận thấy các yếu tố như quy mô đơn vị, thời
gian thành lập và tính thanh khoản cũng có tác động đến chất lượng BCTC của các
đơn vị công tại Kenya. Đồng thời, thông qua khảo sát các tổ chức phi lợi nhuận tại
Brazil, nghiên cứu của Ramos và Klann (2019) đã chỉ rõ quy mô và thời gian thành lập
của các đơn vị có tác động cùng chiều và mang ý nghĩa thống kê đối với chất lượng
của thông tin trên BCTC.
Đặc biệt, tác giả cũng nhận thấy nhiều nghiên cứu được thực hiện ở Indonesia đã
bàn luận về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC. Việc thực hiện hệ thống kế
toán công mới theo cơ sở dồn tích tại Indonesia đã được áp dụng bắt đầu từ năm 2015
(Gamayuni, 2018). Các nhân tố có tác động đến chất lượng BCTC tại các đơn vị công
ở Indonesia là chủ yếu xoay quanh các nhân tố thuộc môi trường bên trong của tổ
chức. Tiêu biểu trong số đó là năng lực nguồn nhân lực và hệ thống KSNB đã được
nhiều nghiên cứu chứng minh qua thực tiễn, ví dụ: nghiên cứu của Nuryanto và Afiah
(2013); Afiah và Rahmatika (2014); Slamet và Fitriyah (2017); Putra và Rasmini
(2018); Mardinan và cộng sự (2018); Dewi và cộng sự (2019). Tuy nhiên, tác giả thấy
16
rằng những nghiên cứu này đã đưa đến những kết quả khác nhau, cụ thể: nghiên cứu
của Simon và cộng sự (2016) chỉ ra rằng hệ thống KSNB có ảnh hưởng ngược chiều
đối với chất lượng BCTC trong khi Afiah và Azwari (2015) nhận thấy ảnh hưởng này
là cùng chiều. Còn về khía cạnh năng lực nguồn nhân lực, hầu hết các nghiên cứu
trước đều xem xét năng lực dựa trên phương diện bao quát cả về kiến thức, kỹ năng,
thái độ và nhân cách cá nhân của nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, còn tồn tại các kết quả
nghiên cứu khác nhau về tác động của năng lực nguồn nhân lực đối với chất lượng
BCTC, chẳng hạn, kết quả nghiên cứu của Suliyantini và Kusmuriyanto (2017) thì cho
rằng năng lực nguồn nhân lực có tác động không đáng kể đến chất lượng BCTC trong
khi nhiều nghiên cứu trước đó cho thấy nhân tố này có ảnh hưởng cùng chiều và giữ
vai trò rất quan trọng (Dewi và cộng sự, 2019; Mardinan và cộng sự, 2018; Simon và
cộng sự, 2016). Những điều trên đã cho thấy các nghiên cứu trước là chưa bàn luận cụ
thể về tác động của năng lực kế toán đến chất lượng BCTC mà chỉ mới dừng lại ở yếu
tố năng lực nguồn nhân lực. Ngoài ra, trong các nghiên cứu trước, một số nhân tố khác
cũng được công bố là có tác động đối với chất lượng BCTC của các chính quyền địa
phương ở Indonesia như: cam kết tổ chức (Setiyawati, 2013), việc sử dụng công nghệ
thông tin (Nuryanto và Afiah, 2013; Suwanda, 2015), hệ thống thông tin kế toán
(Rahman và Fachri, 2016; Sagara, 2015), phong cách lãnh đạo (Mardinan và cộng sự,
2018) hay sự hiệu quả của kiểm toán nội bộ (Gamayuni, 2018).
Tóm lại, bằng việc phân tích các kết quả nghiên cứu trước trên thế giới về các
nhân tố có tác động đến chất lượng BCTC, tác giả thấy rằng nhân tố năng lực nguồn
nhân lực là nhận được sự quan tâm khá lớn của nhiều nhà nghiên cứu. Đặc biệt, phần
lớn các nhà nghiên cứu trước đều cho rằng năng lực nguồn nhân lực có tác động trực
tiếp và cùng chiều đến chất lượng BCTC của các đơn vị công. Một số công trình cũng
đã chú ý nhiều hơn đến nhân tố nhà lãnh đạo, cụ thể là sự hỗ trợ của họ đối với việc
đảm bảo chất lượng BCTC trong các tổ chức công. Do vậy, việc xem xét tác động
đồng thời của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC trong các đơn
vị công là phù hợp và cần thiết. Tác giả đã tổng kết đầy đủ các nghiên cứu bàn luận về
các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC trong khu vực công và cũng được trình
bày ngắn gọn như đính kèm tại Phụ lục 1.
17
1.2.2. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực
công
Các đơn vị trong khu vực công được tài trợ bằng tiền mặt thông qua các nguồn
khác nhau như NSNN, viện trợ hoặc các khoản vay, do đó các đơn vị công cần phải có
trách nhiệm giải trình trước công chúng về việc sử dụng các khoản mục này (Coy và
cộng sự, 2001). Trách nhiệm giải trình đại diện cho một trong những đặc điểm cốt lõi
của hoạt động quản trị đơn vị hữu hiệu và hiệu quả (Nelson và cộng sự, 2003). Tuy
nhiên, khái niệm trách nhiệm giải trình không được giải thích như nhau trên toàn thế
giới (Patton, 1992). Sinclair (1995) lưu ý rằng trách nhiệm giải trình cần phải đảm bảo
là những người có thẩm quyền đối với các nguồn lực công phải chứng minh được sự
tuân thủ, tính chính xác và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn tài nguyên đó. Do
vậy, khi đánh giá tính hiệu quả của việc thực hiện trách nhiệm giải trình tại từng đơn
vị công ở mỗi quốc gia thì cần phải xem xét một cách cẩn trọng vì trách nhiệm giải
trình có thể được hiểu khác nhau, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Bởi lẽ, so với
các nước phát triển thì các quốc gia có nền kinh tế thuộc diện đang phát triển sẽ có một
số đặc điểm thể chế riêng biệt mà nó có thể ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình trong
khu vực công, như: năng lực thể chế thấp, sự tham gia hạn chế của các bên liên quan,
sự tồn tại của tình trạng tham nhũng cao (Kim, 2009). Cho nên, các nước đang phát
triển có nhiều ràng buộc hơn trong việc nâng cao trách nhiệm giải trình công hơn so
với các nước phát triển (Goddard, 2010). Thế nhưng, các bằng chứng thực nghiệm gần
đây cho thấy việc thực hiện trách nhiệm giải trình ở những nước đang phát triển lại
chủ yếu tập trung vào khía cạnh tuân thủ các quy định chung chứ chưa thể hiện mức
độ cam kết trong việc đạt thành quả hoạt động cao. Qua khảo sát các bên liên quan,
Said và cộng sự (2015) đã xác nhận rằng các thực hành về trách nhiệm giải trình của
khu vực công tại Malaysia vẫn chưa tốt, cụ thể: trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực
hành chính, ngoại giao, giáo dục, y tế và dịch vụ chăm sóc sức khỏe là thấp hơn mức
trung bình chung. Tương tự, Sulu-Gambari và cộng sự (2018) cũng đã nghiên cứu về
việc thực hiện trách nhiệm giải trình công trong một nền kinh tế Châu Phi mới nổi như
Nigeria. Kết quả cho thấy việc thực hiện trách nhiệm giải trình công ở quốc gia này
còn cách một khoảng khá dài để có thể đi theo thông lệ quốc tế là hướng đến trách
nhiệm giải trình dựa trên thành quả hoạt động. Ngoài ra, trách nhiệm giải trình công
18
được chính thức áp đặt lên Chính phủ Thái Lan vào năm 1997 khi WB bắt buộc cải
cách khu vực công như là một điều kiện để Thái Lan được nhận viện trợ tài chính từ
WB nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế. Gần hai mươi năm thực hiện nhưng
Thái Lan vẫn bị phê bình về việc thực hiện trách nhiệm giải trình công kém, dẫn đến
tình trạng tham nhũng vẫn luôn còn tồn tại ở quốc gia này. Đồng thời, các khía cạnh cụ
thể của trách nhiệm giải trình công cần cải thiện chưa được xác định rõ ràng ở Thái
Lan như: các tiêu chí cụ thể để đo lường mức độ thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải
trình công, các cơ chế giám sát trách nhiệm giải trình công từ các bên liên quan, các
quy định xử phạt đối với hành vi không tuân thủ trách nhiệm giải trình
(Keerasuntonpong và cộng sự, 2019). Như vậy, một bức tranh chung là nhiều quốc gia
Châu Á đang cố gắng thúc đẩy trách nhiệm giải trình như là một phần của cải cách khu
vực công, nhưng tình hình thực hiện của họ vẫn không thỏa đáng so với các nước phát
triển.Vì thế, nghiên cứu các nhân tố có tác động đến trách nhiệm giải trình của các tổ
chức trong khu vực công đã trở thành một trong những vấn đề thu hút được khá nhiều
sự chú ý của các nhà nghiên cứu.
Khi đề cập đến các nhân tố có ảnh hưởng đối với trách nhiệm giải trình trong khu
vực công thì tác giả nhận thấy là có rất nhiều quan điểm khác nhau về chúng. Nhóm
nhân tố nhận được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu là các nhân tố thuộc môi
trường bên trong của tổ chức. Aramide và Bashir (2015); Babatunde và Shakirat
(2013) cho rằng sự hữu hiệu của hoạt động KSNB có ảnh hưởng cùng chiều đáng kể
đối với trách nhiệm giải trình tài chính của các đơn vị công ở Nigeria. Đồng thời, qua
đánh giá tài liệu, Aziz và cộng sự (2015) cho rằng hệ thống liêm chính, hệ thống
KSNB và hành vi lãnh đạo có tác động đến trách nhiệm giải trình. Đề cập đến hành vi
lãnh đạo, Aziz và cộng sự (2015) nhấn mạnh rằng các nhà lãnh đạo có các hành vi phù
hợp như tuân thủ pháp luật, tuân thủ giá trị đạo đức tốt, đảm bảo tính công bằng, tuân
thủ cam kết hoặc đề cao tính chính trực thì việc thực hiện trách nhiệm giải trình của tổ
chức công sẽ hiệu quả hơn. Ahyaruddin và Akbar (2016) nhận thấy rằng các quy định
pháp lý và cam kết quản lý có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các
đơn vị công tại Indonesia. Kewo (2017) đã nhận định rằng việc thực hiện KSNB và kết
quả quản lý có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình tài chính tại các chính
quyền địa phương ở Indonesia. Hơn nữa, thông qua thu thập và phân tích định lượng
19
các dữ liệu từ 109 phòng ban và cơ quan thuộc 24 bộ liên bang ở Malaysia, Alam và
cộng sự (2018) nhận thấy phẩm chất lãnh đạo có tác động cùng chiều đối với thực
hành trách nhiệm giải trình. Điều này được hiểu là để đạt được trách nhiệm giải trình
cao hơn trong các tổ chức công tại Malaysia, nhà lãnh đạo cần phải tập trung vào việc
phát triển các phẩm chất tốt của cá nhân như là: tính chính trực, liêm chính, trung thực,
tin cậy, can đảm, nhân ái, biết lắng nghe, truyền cảm hứng, có tầm nhìn xa, công tâm.
Thêm vào đó, qua khảo sát các kế toán viên và trưởng phòng kế toán làm việc tại 218
cơ quan trung ương Thái Lan, Nakmahachalasint và Narktabtee (2019) chỉ ra rằng các
rào cản khi chuyển đổi sang kế toán dồn tích có ảnh hưởng tiêu cực đến trách nhiệm
giải trình một cách trực tiếp và gián tiếp thông qua chất lượng thông tin kế toán. Các
rào cản chuyển đổi sang kế toán dồn tích tại Thái Lan được Nakmahachalasint và
Narktabtee (2019) liệt kê gồm nhiều yếu tố như: thiếu sự hỗ trợ của nhà lãnh đạo, thiếu
nguồn nhân lực có trình độ, thiếu năng lực công nghệ thông tin, thiếu sự hỗ trợ từ các
chuyên gia bên ngoài, văn hóa quản lý kém, thiếu các khuyến khích, thiếu quy định và
luật lệ tài chính, thiếu đào tạo và bồi dưỡng, thiếu chuẩn mực kế toán, thiếu chi phí
cho hệ thống kế toán mới,…Trong đó, Nakmahachalasint và Narktabtee (2019) đặc
biệt nhấn mạnh đến sự tác động của năng lực của nguồn nhân lực và sự hỗ trợ của nhà
lãnh đạo đối với việc thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại
Thái Lan. Để bàn luận rõ hơn về tác động của năng lực nguồn nhân lực đến trách
nhiệm giải trình, bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, Dewi và cộng sự (2019)
đã tiến hành khảo sát cảm nhận từ 161 nhân viên của các cơ quan hành chính thuộc
tỉnh Nam Sumatra, Indonesia. Kết quả nghiên cứu cho thấy năng lực nguồn nhân lực
thể hiện trên các khía cạnh kiến thức, kỹ năng và hành vi của nhân lực nói chung có
tác động tích cực một cách trực tiếp và gián tiếp đến trách nhiệm giải trình tài chính
thông qua chất lượng BCTC. Trong nghiên cứu này, Dewi và cộng sự (2019) chưa
xem xét cụ thể tác động của yếu tố năng lực kế toán đến trách nhiệm giải trình của các
đơn vị công tại Indonesia. Ngoài ra, nghiên cứu của Dewi và cộng sự (2019) còn cung
cấp thêm bằng chứng rằng hệ thống KSNB cũng có tác động tích cực một cách trực
tiếp và gián tiếp đến trách nhiệm giải trình tài chính của các chính quyền địa phương ở
Indonesia thông qua chất lượng BCTC. Rõ ràng, đa số các nghiên cứu trước đã cho
thấy nhà lãnh đạo (ví dụ: hành vi lãnh đạo, cam kết quản lý, phẩm chất lãnh đạo) có
20
tác động đến việc thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình, tuy nhiên, chưa có nghiên
cứu nào xem xét tác động của vai trò lãnh đạo theo góc nhìn là phân tích cách thức mà
các nhà lãnh đạo tương tác với nhân viên của họ, cụ thể là hỗ trợ nhân viên tuân thủ
pháp luật và thực hiện trách nhiệm giải trình. Như vậy, thông qua xem xét các nghiên
cứu trước, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu tác động đồng thời của năng lực kế toán
và vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình trong đơn vị công là rất cần thiết.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều nghiên cứu đã quan tâm đến sự tác động của tính
minh bạch đến trách nhiệm giải trình trong các đơn vị công. Theo Bakar và cộng sự
(2011), việc áp dụng các hệ thống đo lường thành quả phù hợp và công khai thông tin
kết quả hoạt động sẽ tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của khu vực
công tại Malaysia. Nghiên cứu của Tooley và cộng sự (2012) cho thấy nhiều khoản
mục thông tin trên báo cáo kế toán có ý nghĩa quan trọng đến công bố thông tin nhưng
chính quyền địa phương ở Malaysia đã không tiết lộ đầy đủ, do vậy, họ chưa thực hiện
tốt trách nhiệm giải trình công và thiếu minh bạch. Cùng ý tưởng này, bằng việc khảo
sát cảm nhận của các bên liên quan, Ramírez và Tejada (2018) đã chỉ ra rằng việc tiết
lộ thông tin tài chính nói chung hoặc thông tin cụ thể về các hoạt động quản trị nội bộ
của đơn vị sẽ giúp cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm giải trình tại các trường đại
học ở Tây Ban Nha. Nghiên cứu gần đây của Nakmahachalasint và Narktabtee (2019)
cũng chỉ rõ minh bạch tài chính có ảnh hưởng tích cực đến trách nhiệm giải trình của
các đơn vị công tại Thái Lan. Tuy nhiên Nakmahachalasint và Narktabtee (2019) đã
lưu ý rằng minh bạch tài chính cũng được thể hiện phần nào thông qua các đặc tính
chất lượng thông tin trên các loại BCTC mục đích chung trong khu vực công. Đây
chính là minh chứng cho sự gắn kết giữa chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình
trong khu vực công.
Bàn về mối quan hệ giữa chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình trong khu
vực công, trước hết, Patton (1992) nhận định BCTC mục đích chung là một nguồn
thông tin quan trọng về các đơn vị công, nó cho phép đơn vị công tiết lộ công khai
thông tin tài chính và phi tài chính về tổ chức và chịu trách nhiệm về hành động của
mình. Boyne và cộng sự (2002) còn nhấn mạnh thêm rằng các nhà quản lý trong các
đơn vị công cần tiết lộ nhiều thông tin phi tài chính trên BCTC mục đích chung để
giúp người dùng BCTC đánh giá trách nhiệm giải trình của tổ chức một cách toàn diện
21
hơn trên các mặt gồm cả trách nhiệm giải trình tài chính và trách nhiệm giải trình
công. Do vậy, trong mô hình được trình bày bởi Pablos và cộng sự (2002), việc báo
cáo hàng năm không chỉ là BCTC mà còn bao gồm phân tích nội dung và thông tin về
các dự án, mục tiêu, thành tích, thành quả hoạt động và quan hệ lao động để có thể
hình thành những đánh giá chính xác về thành quả đạt được trong thực tế. Ryan và
cộng sự (2002) đồng ý rằng báo cáo thường niên là một công cụ có giá trị để chứng
minh trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu lo rằng liệu thông tin mà
các đơn vị công cung cấp có đảm bảo chất lượng để có thể đáp ứng đầy đủ về mặt
trách nhiệm giải trình hay không (Coy và Dixon, 2004). Kết quả nghiên cứu của
Steccolini (2004) cho thấy chất lượng của thông tin trên báo cáo thường niên của các
chính quyền địa phương ở Ý là kém nên nó chưa thể hỗ trợ tốt cho người dùng khi
đánh giá trách nhiệm giải trình. Theo đó, Mack và Ryan (2006) nhấn mạnh rằng khi
các đơn vị công ở Úc cung cấp được các BCTC mục đích chung mà đảm bảo về chất
lượng thì nó sẽ rất hữu ích cho người dùng khi đánh giá trách nhiệm giải trình tài chính
và trách nhiệm giải trình công của đơn vị. Hơn nữa, Blanco và cộng sự (2011) nhận ra
có sự khác biệt đáng kể về chất lượng và số lượng thông tin trình bày trong báo cáo
thường niên và trong BCTC của các chính quyền địa phương ở Canada. Tuy đã có sự
cải thiện đáng kể về chất lượng thông tin công bố trong năm 2005 với so sánh năm
2003 nhưng chỉ số công bố tổng thể tại Canada vẫn ở mức thấp, điều này làm giảm
mức độ trách nhiệm giải trình đối với công chúng. Vì thế, Demirbas (2018) cho rằng
cách tốt nhất để hiểu rõ mức độ trách nhiệm giải trình của các đơn vị công là phân tích
các báo cáo hàng năm mà họ đã công bố cho công chúng.
Gần đây, đã xuất hiện một số nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng để
kiểm định tác động của chất lượng BCTC đối với trách nhiệm giải trình. Chẳng hạn,
Indriasih và Koeswayo (2014) đã khảo sát kế toán viên và kế toán trưởng của 60 cơ
quan hành chính cấp địa phương thuộc tỉnh Java, Indonesia. Sau khi phân tích và kiểm
định mô hình SEM bằng phương pháp PLS, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất
lượng BCTC có ảnh hưởng cùng chiều và giải thích 68,1% trách nhiệm giải trình kết
quả hoạt động của các chính quyền địa phương ở Indonesia. Điều này được hiểu là các
cơ quan hành chính cấp địa phương tại tỉnh Java, Indonesia cung cấp được các BCTC
đảm bảo tính thích hợp, tính đáng tin cậy, có thể so sánh và có thể hiểu được sẽ giúp
22
người dùng đánh giá chính xác hơn trách nhiệm giải trình của tổ chức trên các khía
cạnh liên quan đến hiệu quả hoạt động. Cùng hướng này, Dewi và cộng sự (2019)
nhận thấy các đặc tính chất lượng BCTC như tính thích hợp, đáng tin cậy, có thể so
sánh và có thể hiểu được là có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình tài chính
của các cơ quan hành chính địa phương tỉnh Sumatra, Indonesia. Gần đây,
Keerasuntonpong và cộng sự (2019) cũng đã thực hiện một nghiên cứu nhằm điều tra
vì sao Chính phủ Thái Lan thực hiện kém trách nhiệm giải trình công bằng việc phân
tích dữ liệu báo cáo hàng năm. Kết quả cho thấy độ tin cậy và tính kịp thời của việc
công bố báo cáo hàng năm là vấn đề ảnh hưởng nhiều nhất đến việc thực hiện kém
trách nhiệm giải trình công, vấn đề ảnh hưởng kế tiếp là khả năng tiếp cận và tính
thích hợp của thông tin. Các nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng để kiểm
định tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình như vừa nêu là chỉ xem
xét trách nhiệm giải trình theo các góc nhìn khác nhau (trách nhiệm giải trình kết quả,
trách nhiệm giải trình tài chính, trách nhiệm giải trình công) chứ chưa kiểm định tác
động tổng hợp của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình. Thực tế cho thấy,
trách nhiệm giải trình là một khái niệm phức tạp, tồn tại nhiều cách phân loại khác
nhau tùy theo góc nhìn (Nelson và cộng sự, 2003). Do vậy, cần có thêm nhiều bằng
chứng thực nghiệm để kiểm định tác động tổng hợp của chất lượng BCTC đến trách
nhiệm giải trình trong các tổ chức công.
Tóm lại, tác giả đã tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến
trách nhiệm giải trình trong khu vực công và cũng được trình bày ngắn gọn như đính
kèm tại Phụ lục 2.
1.2.3. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực
công
Thành quả hoạt động (performance) trong khu vực công được xem là một khái
niệm đa chiều (Pollitt, 2005). Các nghiên cứu trước cho rằng thành quả hoạt động của
khu vực công bao gồm nhiều chỉ số khác nhau thể hiện cho cả thành quả định tính và
thành quả định lượng (Baird và Harrison, 2017; Verbeeten, 2008; Verbeeten và
Speklé, 2015). Việc đạt được thành quả hoạt động cao là một trong những mục tiêu
quan trọng nhất đối với các nhà quản lý. Do đó, nhiều nghiên cứu tại những nước phát
23
triển cũng như đang phát triển đã được thực hiện nhằm tìm hiểu các nhân tố có ảnh
hưởng đến thành quả hoạt động của các đơn vị công.
Một số nhân tố được tìm thấy có tác động đến thành quả hoạt động của các tổ
chức trong khu vực công tại các nước phát triển gồm đặc tính tổ chức, văn hóa tổ chức,
việc sử dụng các phương pháp quản lý kết quả, hệ thống đo lường thành quả, việc sử
dụng thông tin kết quả, đặc tính chất lượng thông tin kế toán và trách nhiệm giải trình.
Cụ thể, Cohen, S. (2008) nhận thấy thành quả tài chính bị ảnh hưởng đáng kể bởi các
yếu tố xã hội như sự giàu có và quy mô của các thành phố ở Hy Lạp. Cùng hướng này,
kết quả nghiên cứu của Goeminne và George (2018) chỉ rõ hơn rằng các nhân tố bất
định thuộc đơn vị công như ngân sách, quy mô và thành quả tài chính năm trước có
ảnh hưởng cùng chiều đến thành quả tài chính. Còn các nhân tố bất định thuộc môi
trường bên ngoài như nhu cầu khách hàng và sự thiếu hụt khách hàng thì lại có ảnh
hưởng tiêu cực đến thành quả tài chính của các đơn vị công ở thành phố Flemish, Hà
Lan (Goeminne và George, 2018). Thêm vào đó, Verbeeten và Speklé (2015) đã chỉ ra
thêm một nhân tố bất định thuộc đơn vị công cũng có ảnh hưởng cùng chiều đến thành
quả hoạt động trong các đơn vị công ở Hà Lan là văn hóa hướng đến kết quả. Một
hướng nghiên cứu khác, Verbeeten (2008) nhận thấy việc sử dụng các phương pháp
quản lý kết quả có ảnh hưởng đối với thành quả hoạt động của các tổ chức công ở Hà
Lan. Quản lý kết quả là quá trình xác định các mục tiêu, lựa chọn các chiến lược để đạt
được các mục tiêu đó, phân bổ quyền quyết định, đo lường thành quả và khen thưởng.
Kết quả trong nghiên cứu này cụ thể đã cho thấy là việc xác định các mục tiêu rõ ràng
và có thể đo lường có ảnh hưởng tích cực đến thành quả hoạt động của các đơn vị công
ở Hà Lan. Tuy nhiên, việc sử dụng các khen thưởng chỉ có tác động tích cực đối với
các chỉ số thể hiện cho thành quả định lượng nhưng không ảnh hưởng đến các chỉ số
thể hiện cho thành quả định tính. Hơn nữa, Spekle và Verbeeten (2014) còn chỉ ra rằng
việc sử dụng hệ thống đo lường thành quả có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt
động của các đơn vị công ở Hà Lan. Cùng hướng này, Gomes, P. và cộng sự (2017)
cũng phát hiện ra rằng mức độ mà các đơn vị công sử dụng hệ thống đo lường thành
quả có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Bồ Đào
Nha. Ngoài ra, qua khảo sát những người có tham gia vào quy trình lập ngân sách tại
các đơn vị công ở Hoa Kỳ, Reck (2001) nhận thấy rằng thông tin kế toán có ảnh hưởng
24
mạnh đến việc ra quyết định của họ thông qua việc đánh giá các kết quả mà đơn vị đã
thực hiện và điều này sẽ ảnh hưởng đến thành quả hoạt động tương lai của đơn vị. Đặc
biệt, thông tin trên báo cáo kết quả dường như giữ vai trò quan trọng trong số các loại
BCTC còn lại, nó được giới thiệu như một cơ chế kiểm soát các hoạt động của các đơn
vị công nhằm tăng cường thành quả hoạt động (Brusca và Montesinos, 2016). Do vậy,
kết quả nghiên cứu của Nitzl và cộng sự (2019) gần đây cho thấy việc sử dụng thông
tin kết quả có ảnh hưởng đáng kể đến thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Ý.
Tuy nhiên, Caruana và Farrugia (2018) cũng lưu ý rằng để các chính trị gia ở Malta sử
dụng BCTC cho việc ra quyết định nhằm nâng cao thành quả hoạt động của đơn vị thì
thông tin trình bày trên BCTC phải đạt chất lượng tốt. Đặc biệt, thông tin trên BCTC
cần phải đảm bảo tính kịp thời, tức là thông tin cần được cung cấp nhanh chóng thì
mới hữu ích đối với ra quyết định của nhà quản lý, từ đó mới tăng cường thành quả
hoạt động. Hơn nữa, khi đề cập đến sự hài lòng và đây là một chỉ số quan trọng thể
hiện cho thành quả định tính của các đơn vị công (Andersen và cộng sự, 2016), nhân
tố trách nhiệm giải trình giữ vai trò then chốt để củng cố và tăng cường niềm tin của
các bên liên quan vào hoạt động của đơn vị công (Christensen và Lægreid, 2015). Và
hầu hết các nỗ lực cải cách theo lý thuyết NPM đều có mục tiêu là nâng cao thành quả
hoạt động của khu vực công thông qua việc tăng cường khả năng đáp ứng của các cơ
quan công đối với khách hàng và cải thiện trách nhiệm giải trình. Theo đó, một tiền đề
quan trọng là thành quả hoạt động tốt hơn sẽ xuất phát từ trách nhiệm giải trình theo
chiều dọc hiệu quả (Boston, 2016). Tuy nhiên, Dubnick (2005) lại nhận thấy ảnh
hưởng của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động thực sự phức tạp, ông cho
rằng mối quan hệ giữa trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động có thể là nghịch
lý và giả mạo giống như nhận định của Aucoin và Heintzman (2000). Chính vì thế,
Christensen và Lægreid (2015) cho rằng mặc dù lý thuyết NPM dựa trên giả định rằng
nâng cao trách nhiệm giải trình sẽ cải thiện thành quả hoạt động nhưng bằng chứng
thực nghiệm cho thấy điều này đã xảy ra là không thuyết phục; do vậy, mối quan hệ
này còn nhiều tranh cãi và cần nhiều nghiên cứu thực nghiệm dùng phương pháp
nghiên cứu định lượng để kiểm chứng. Gần đây, kết quả nghiên cứu của Han (2020)
đã ủng hộ ý tưởng của lý thuyết NPM là phù hợp trong bối cảnh một quốc gia phát
25
triển như Hoa Kỳ, tức là tăng cường trách nhiệm giải trình thì thành quả hoạt động của
đơn vị công sẽ được tăng cường.
Tại các nước đang phát triển, các nghiên cứu đã chỉ ra một số nhân tố được cho
là có tác động đến thành quả hoạt động của các đơn vị công gồm chất lượng BCTC
(Bukenya, 2014; Nirwana và Haliah, 2018), hiệu quả KSNB và vai trò kiểm toán nội
bộ (Simangunsong, 2014), sự tham gia của các cán bộ kế toán tài chính vào quá trình
cải cách tài chính (Ranjani và Ambe, 2016), cam kết quản lý (Ahyaruddin và Akbar,
2016), công nghệ thông tin, văn hóa trong đơn vị và mức độ hài lòng từ nhân viên
(Navimipour và cộng sự, 2018) và trách nhiệm giải trình (Halim, 2019). Chi tiết hơn,
Bukenya (2014) đã chứng minh rằng chất lượng thông tin kế toán có ảnh hưởng cùng
chiều đến thành quả tài chính của khu vực công ở Uganda thông qua quá trình sử dụng
thông tin kế toán cho việc ra quyết định. Cùng hướng này, Soyinka và cộng sự (2017)
nhận thấy tính thích hợp và trình bày trung thực của BCTC có tác động tích cực và có
ý nghĩa đáng kể đối với việc ra quyết định hữu ích của công chúng, nhưng các đặc tính
khác như tính kịp thời, tính có thể so sánh, tính có thể hiểu được và tính xác minh của
BCTC thì chưa đạt chất lượng theo mong muốn nên nó có ý nghĩa không đáng kể. Do
đó, Soyinka và cộng sự (2017) khuyến nghị rằng để BCTC có ý nghĩa hơn và mang lại
lợi ích to lớn cho công chúng, cần phải làm cho thông tin trong BCTC trở nên kịp thời,
có thể so sánh, có thể hiểu được và có thể xác minh được. Tiếp đó, nghiên cứu của
Nirwana và Haliah (2018) cũng đã cung cấp bằng chứng rằng chất lượng BCTC có tác
động tích cực đến thành quả hoạt động của các đơn vị công thuộc tỉnh Nam Sulawesi,
Indonesia. Ngoài ra, Nirwana và Haliah (2018) cũng nhấn mạnh thêm rằng nhân tố cá
nhân (năng lực), nhân tố quản trị (quy định), nhân tố chính trị đều ảnh hưởng gián tiếp
đến thành quả hoạt động thông qua chất lượng BCTC. Hơn nữa, bằng phương pháp
định lượng, kết quả nghiên cứu của Simangunsong (2014) đã cho thấy hiệu quả KSNB
và vai trò kiểm toán nội bộ có tác động tích cực đối với thành quả hoạt động, khảo sát
diễn ra tại chính quyền địa phương ở Indonesia. Ngoài ra, Ranjani và Ambe (2016)
nhận thấy sự tham gia cải cách của người chuẩn bị và người dùng thông tin tài chính
kế toán, quy trình hành chính có tác động tích cực đến thành quả hoạt động của chính
phủ ở Nigeria. Tuy nhiên, để quá trình cải cách hiệu quả cần phải: (1) đảm bảo quá
trình tham gia nhiệt tình của người lập và người sử dụng thông tin kế toán; (2) áp dụng
26
chuẩn mực kế toán quốc tế IPSAS dồn tích; (3) cam kết tổ chức phải được thực hiện
để tạo động lực cho nhân viên; (4) xác định rõ ràng chức năng và nhiệm vụ của từng
nhân viên trong việc thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Đề cập đến cam kết tổ
chức, kết quả nghiên cứu của Ahyaruddin và Akbar (2016) đã chỉ ra rằng cam kết quản
lý có ảnh hưởng tích cực đến thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Indonesia.
Bên cạnh đó, Navimipour và cộng sự (2018) còn nhận thấy văn hóa tổ chức, công
nghệ thông tin và sự hài lòng từ nhân viên cũng đóng vai trò khá quan trọng trong việc
tăng cường thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Iran. Gần đây, Halim (2019) đã
cung cấp được bằng chứng cho thấy ảnh hưởng tích cực của trách nhiệm giải trình đối
với thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Indonesia. Cụ thể, nghiên cứu này đã
chỉ ra rằng việc thực hiện hiệu quả các loại trách nhiệm giải trình như: trách nhiệm giải
trình tài chính, trách nhiệm giải trình kết quả và trách nhiệm giải trình pháp lý giúp các
đơn vị công ở Indonesia nâng cao được thành quả hoạt động. Cũng trong nghiên cứu
này, kết quả cho thấy trách nhiệm giải trình phân cấp và trách nhiệm giải trình chuyên
môn không có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các đơn vị công. Như vậy, kết
quả nghiên cứu của Halim (2019) không giống với nghiên cứu trước đây của
Ahyaruddin và Akbar (2016), mặc dù cả hai nghiên cứu cùng thực hiện ở Indonesia,
tập trung khảo sát mẫu ở tỉnh Yogyakarta. Nghiên cứu của Ahyaruddin và Akbar
(2016) cho thấy trách nhiệm giải trình (gồm trách nhiệm giải trình bên trong và trách
nhiệm giải trình bên ngoài) không có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các đơn
vị công. Qua đây, tác giả thấy rằng các nghiên cứu khác nhau cùng tìm hiểu về cùng
một mối quan hệ, thực hiện khảo sát tại cùng một địa điểm nhưng nếu các nghiên cứu
này sử dụng các thang đo khác nhau để đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu
thì kết quả có thể sẽ khác nhau, chẳng hạn như nghiên cứu của Ahyaruddin & Akbar
(2016) và Halim (2019).
Bằng việc phân tích kết quả các nghiên cứu trên thế giới, tác giả nhận thấy chất
lượng BCTC có tác động trực tiếp cũng như ảnh hưởng gián tiếp đến thành quả hoạt
động thông qua việc sử dụng thông tin kế toán khi đưa ra các quyết định của các bên
liên quan. Hơn nữa, sự tồn tại về tác động của trách nhiệm giải trình đến thành quả
hoạt động trong các đơn vị công là hiển nhiên, tuy nhiên, việc cung cấp bằng chứng về
27
mối quan hệ này còn rất hạn chế. Tác giả đã khái quát các nghiên cứu trên thế giới bàn
luận về các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Phụ lục 3.
1.3. Tổng quan các nghiên cứu trong nước
1.3.1. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực
công
Qua việc khảo sát thực tế các đề tài nghiên cứu kế toán công tại Việt Nam, phần
lớn nghiên cứu là tìm hiểu những tồn tại trong hệ thống kế toán công, sự khác biệt của
hệ thống kế toán công Việt Nam so với IPSAS, nghiên cứu chuẩn mực kế toán công tại
một số quốc gia khác; đưa ra các giải pháp để cải thiện sự khác biệt, tiến đến hài hòa
với thông lệ quốc tế và đề xuất hướng phát triển cho kế toán công của Việt Nam trong
quá trình xây dựng chuẩn mực (Nguyễn Thị Thu Hiền, 2015; Phạm Quang Huy, 2014;
Trần Văn Thảo, 2014). Bên cạnh đó, Cao Thị Cẩm Vân (2016) đã bàn luận về IPSAS
và nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IPSAS của khu vực công tại Việt Nam. Bằng
phương pháp định lượng, Cao Thị Cẩm Vân (2016) đã chỉ ra các yếu tố như pháp lý,
chính trị, văn hóa, điều kiện tổ chức, kỹ thuật xử lý, áp lực hội nhập và sự ra đời của
IPSAS có chi phối đến việc xây dựng CMKT công tại Việt Nam.
Vấn đề chất lượng BCTC cũng như các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC
trong các đơn vị công ở Việt Nam đã thu hút nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu
gần đây. Khi bàn về chất lượng BCTC của khu vực công, Phạm Quang Huy (2017),
bằng phương pháp tổng hợp tài liệu, đã giới thiệu khuôn mẫu lý thuyết theo IPSASB
khi nói về đặc điểm chất lượng mà BCTC của đơn vị công ở Việt Nam phải hướng đến
để tăng cường chất lượng thông tin phục vụ người dùng. Các đặc tính chất lượng thông
tin trên BCTC của khu vực công nên hướng tới theo quan điểm của IPSASB gồm có:
trình bày trung thực, tính thích hợp, tính có thể hiểu được, tính kịp thời, có thể so sánh
và có thể xác minh ((Diệp Tiên, 2016; Thanh và Yen, 2018b; Trát Minh Toàn, 2016).
Cũng theo quan điểm này, Pham và Vu (2019) nhấn mạnh vấn đề tăng cường chất
lượng BCTC của khu vực công đang được nhiều nước quan tâm.
Do đó, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm tìm hiểu về các nhân tố có tác
động đối với chất lượng BCTC hoặc chất lượng thông tin kế toán của khu vực công tại
Việt Nam. Một là nhóm các nhân tố thuộc yếu tố vĩ mô và mang tính chất bao quát
gồm có năm nhân tố được đề cập thường xuyên trong các nghiên cứu trước là: (1) môi
28
trường pháp lý, (2) môi trường kinh tế, (3) môi trường chính trị, (4) môi trường văn
hóa và (5) môi trường giáo dục (Nguyễn Thị Hồng Loan, 2018; Phạm Thị Kim Ánh,
2017). Hai là nhóm các nhân tố mang tính chất chi tiết và cụ thể được đề cập trong một
số nghiên cứu trước. Ưu điểm của nhóm nhân tố này là giúp cho nhà nghiên cứu đưa
ra được các kiến nghị hay giải pháp cụ thể, trực tiếp góp phần nâng cao tính khả thi
của giải pháp được đề ra. Chẳng hạn, Trát Minh Toàn (2016) đã chỉ ra rằng cơ sở kế
toán, khả năng nhận thức của người quản lý, quy định của cơ chế tài chính và khả năng
của kế toán viên có tác động cùng chiều đến chất lượng thông tin kế toán tại các
trường học công lập ở Vĩnh Long. Cùng hướng này, Trần Thị Yến và Hoàng Thị Thúy
(2018) cũng cho rằng năng lực kế toán, hoạt động thanh tra và nhận thức của nhà quản
lý có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC của các đơn vị sự nghiệp giáo dục
tại tỉnh Bình Định. Ở một khía cạnh khác, Mai Thị Hoàng Minh và Đoàn Thị Thảo
Uyên (2018) qua tổng kết các nghiên cứu trước đã rút ra nhận định rằng KSNB giữ vai
trò quan trọng đối với việc lập BCTC. Cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho nhận
định này, Thanh và Yen (2018b) đã chỉ ra rằng hệ thống KSNB, năng lực kế toán và
cơ sở kế toán áp dụng có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC của các đơn vị
công tại Bình Định. Gần đây, Pham và Vu (2019) cũng nhận thấy các yếu tố thuộc
KSNB gồm môi trường kiểm soát, hoạt động đánh giá rủi ro, yếu tố về hoạt động kiểm
soát, yếu tố về thông tin và truyền thông và hoạt động giám sát có tác động cùng chiều
đối với chất lượng thông tin BCTC trong các đơn vị công ngành giáo dục công lập ở
đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, Đậu Thị Kim Thoa (2019) cũng đã chỉ ra thêm
rằng mức độ am hiểu của kế toán trưởng, khả năng đáp ứng của thiết bị phần cứng và
phần mềm, khả năng tự chủ về tài chính và yếu tố văn hóa trong tổ chức có tác động
mạnh đến tính minh bạch tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên,
Đậu Thị Kim Thoa (2019) nhận thấy sự hỗ trợ của lãnh đạo lại không có ảnh hưởng
đến tính minh bạch tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tác giả đã khái quát các nghiên cứu trong nước bàn luận về các nhân tố tác động
đến chất lượng BCTC của các đơn vị công ở Phụ lục 4.
29
1.3.2. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực
công
Vấn đề nghiên cứu về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình của khu
vực công tại Việt Nam hiện nay rất ít được đề cập. Cao Thị Cẩm Vân (2016) đã nhận
định rằng chất lượng BCTC sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm giải trình của đơn
vị công, khi chất lượng BCTC được cải thiện thì khả năng giải trình cũng được nâng
cao. Tuy nhiên, Cao Thị Cẩm Vân (2016) chưa xây dựng mô hình nghiên cứu để kiểm
định cho mối quan hệ này. Trương Á Bình (2017) đã tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng
đến trách nhiệm giải trình thông tin BCTC trong khu vực công tại Việt Nam với mẫu
khảo sát chủ yếu thu thập ở TP. HCM, Đồng Nai và Đà Nẵng. Theo đó, các nhân tố
chỉ mang khái quát chứ không cụ thể gồm các yếu tố thuộc hệ thống chính trị, các yếu
tố thuộc hệ thống pháp lý, giáo dục và nghề nghiệp và các yếu tố thuộc văn hóa xã hội.
Ngoài ra, Trương Á Bình (2017) chưa đo lường được khái niệm trách nhiệm giải trình
mà chỉ mới đo lường các yêu cầu đặt ra để nâng cao trách nhiệm giải trình BCTC.
Phạm Quang Huy (2018) đã khẳng định rằng muốn nâng cao trách nhiệm giải trình
của các đơn vị công ở Việt Nam thì cần chú ý đến các nhân tố về cơ chế tài chính kế
toán công, hệ thống thông tin kế toán công, IPSAS, tính chính trực của ban lãnh đạo,
hệ thống KSNB, trình độ của kế toán viên và kiểm toán nhà nước. Tuy nhiên, đề tài
nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc khám phá các nhân tố có tác động đến trách nhiệm
giải trình, Phạm Quang Huy (2018) chưa xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng
nhân tố, tức là chưa xác định phương trình hồi quy với trách nhiệm giải trình trong khu
vực công tại Việt Nam. Gần đây, Yen và Nguyen (2020) đã cung cấp bằng chứng rằng
việc sử dụng hệ thống đo lường thành quả có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải
trình công của các đơn vị công tại Việt Nam.
Tóm lại, tác giả đã khái quát các nghiên cứu trong nước bàn luận về các nhân tố
tác động đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công ở Phụ lục 5.
1.3.3. Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực
công
Bàn về thành quả hoạt động trong khu vực công, Tran (2014) nhận thấy chính
phủ Việt Nam đã thực hiện rất nhiều các cải cách quản trị và hành chính công nhằm
mục đích xây dựng một xã hội thịnh vượng và bình đẳng. Để cải thiện thành quả hoạt
30
động cho khu vực công, những cải cách về quản trị ở Việt Nam đã nhấn mạnh ba trụ
cột chính gồm sự tham gia của công dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Qua
phân tích tập dữ liệu khảo sát chỉ số kết quả hoạt động hành chính công (PAPI) của
Việt Nam năm 2012, cụ thể dữ liệu tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ
Chí Minh và Cần Thơ, Tran (2014) đưa ra các kết quả như sau: Một là tính minh bạch
và trách nhiệm giải trình có tác động ngược chiều đối với tham nhũng. Hai là tính
minh bạch và trách nhiệm giải trình không có ảnh hưởng đối với thành quả hoạt động
hành chính công. Ba là tham nhũng có tác động tiêu cực đến thành quả hoạt động hành
chính công. Ngoài ra, Tran (2014) nhận thấy có mối lo ngại về các hình thức minh
bạch và trách nhiệm giải trình ở Việt Nam. Do đó, Tran (2014) đã đề nghị các nhà
nghiên cứu trong tương lai cần kiểm tra lại mối liên hệ giữa tính minh bạch, trách
nhiệm giải trình và thành quả hoạt động hành chính công ở Việt Nam.
Cùng hướng này, nghiên cứu của Nguyen Thang và cộng sự (2017) cũng chỉ ra
rằng tính minh bạch, sự tham gia của công dân và trách nhiệm giải trình cao hơn sẽ
làm giảm mức độ tham nhũng xuống mức thấp hơn. Đồng thời, nghiên cứu này cũng
cho thấy là vấn nạn tham nhũng có tác động tiêu cực đến chất lượng dịch vụ công tại
Việt Nam. Từ kết quả này, Nguyen Thang và cộng sự (2017) đã đưa ra hàm ý rằng
Việt Nam muốn nâng cao thành quả hoạt động của khu vực công nói chung và chất
lượng dịch vụ công nói riêng thì cần ban hành cơ chế kiểm soát để tăng tính minh bạch
và trách nhiệm giải trình của đơn vị công trước các bên liên quan; đồng thời, tăng
cường sự tham gia của công dân vào quá trình giám sát hoạt động của đơn vị công.
Khi đó, sự tham nhũng của các nhà lãnh đạo trong khu vực công sẽ bị hạn chế và thúc
đẩy tổ chức công hoạt động với kết quả tốt hơn. Hơn nữa, gần đây, Yen và Nguyen
(2020) thông qua khảo sát 214 đơn vị công tại Việt Nam cho thấy việc sử dụng hệ
thống đo lường thành quả và trách nhiệm giải trình công có tác động cùng chiều đến
thành quả hoạt động.
Những điều trên cho thấy các nhà nghiên cứu tại Việt Nam đã bắt đầu quan tâm
đến tác động của trách nhiệm giải trình đối với thành quả hoạt động. Tuy nhiên,
nghiên cứu tác động trực tiếp và gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt
động thông qua trách nhiệm giải trình vẫn còn là một vấn đề mới cần được xem xét tại
khu vực công Việt Nam. Tác giả đã khái quát các nghiên cứu trong nước bàn luận về
31
các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Phụ lục 6.
1.4. Nhận xét tổng quan nghiên cứu
1.4.1. Đối với nghiên cứu nước ngoài
Qua tổng quan các nghiên cứu nước ngoài về kế toán công, tác giả nhận thấy
phần lớn các nghiên cứu bàn luận về quá trình thực hiện các cuộc cải cách kế toán
công theo lý thuyết NPM, tập trung vào việc áp dụng IPSAS hoặc áp dụng cơ sở dồn
tích phục vụ cho việc lập BCTC nhằm tăng cường minh bạch tài chính và giảm tình
trạng tham nhũng gây thất thoát tài sản công (Cohen, S. và Karatzimas, 2017; Mbelwa
và cộng sự, 2019; Tallaki, 2019). Tuy nhiên, quá trình thực hiện cải cách kế toán cũng
gặp phải nhiều rào cản và các rào cản chuyển đổi này đã ảnh hưởng đến chất lượng
thông tin kế toán mà đơn vị cung cấp cho người dùng khi ra quyết định và đánh giá
trách nhiệm giải trình của khu vực công (Nakmahachalasint và Narktabtee, 2019). Các
rào cản của quá trình thực hiện các cải cải kế toán nói chung và áp dụng kế toán dồn
tích nói riêng tại các nước đang phát triển liên quan chủ yếu đến người thực hiện và
người hỗ trợ của từng tổ chức (Dewi và cộng sự, 2019; Nakmahachalasint và
Narktabtee, 2019). Vì thế, có khá nhiều nghiên cứu trên thế giới, tập trung nhiều ở các
nước đang phát triển, cụ thể là Indonesia bàn luận tác động của năng lực nguồn nhân
lực đến chất lượng BCTC (Dewi và cộng sự, 2019; Mardinan và cộng sự, 2018; Simon
và cộng sự, 2016). Các nhân tố khác cũng được tìm thấy có ảnh hưởng đối với chất
lượng BCTC trong khu vực công gồm các nhân tố về trình độ sử dụng công nghệ
thông tin, chất lượng hệ thống thông tin kế toán, KSNB, cam kết tổ chức, kiểm toán
viên nội bộ, phong cách lãnh đạo,… Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu có kết quả
không giống nhau, điều này có thể là do cách đo lường các biến nghiên cứu khác nhau
hoặc do phạm vi mẫu khảo sát không giống nhau. Điểm chung của phần lớn các nhân
tố trên là đều thuộc môi trường bên trong của đơn vị công (còn gọi là các nhân tố bối
cảnh tổ chức). Qua đó cho thấy các nhân tố bối cảnh tổ chức có ảnh hưởng quan trọng
đối với chất lượng BCTC. Do vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu về tác động của các
nhân tố thuộc bối cảnh tổ chức đối với chất lượng BCTC là cần thiết. Hơn nữa, các
nghiên cứu trước ở nước ngoài bàn luận về các nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng
BCTC thường tập trung khảo sát cho khu vực hành chính là chủ yếu như chính quyền
tại một hay một số địa phương hoặc chính quyền trung ương tại quốc gia đó, hầu như
32
chưa bao quát cho toàn bộ khu vực công. Từ đó, các nhà nghiên cứu tương lai cần mở
rộng phạm vi khảo sát cho toàn bộ khu vực công (chẳng hạn, cần khảo sát cho cơ quan
hành chính và khảo sát các đơn vị sự nghiệp thuộc các lĩnh vực) thì sẽ cho kết quả
mang tính đại diện khu vực công cao hơn.
Bàn về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình của khu vực công, tác giả
nhận thấy nhiều nghiên cứu bàn luận về tác động của các nhân tố bối cảnh tổ chức như
hệ thống đo lường thành quả, KSNB, thực hành lãnh đạo, cam kết quản lý, phẩm chất
lãnh đạo, năng lực nguồn nhân lực,…. Đều này giúp tác giả nhận ra ảnh hưởng quan
trọng của các nhân tố thuộc bối cảnh tổ chức đối với trách nhiệm giải trình trong khu
vực công. Hơn nữa, tính minh bạch cũng được xem là một nhân tố quan trọng có ảnh
hưởng trực tiếp đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công (Ferry và Murphy,
2017; Nakmahachalasint và Narktabtee, 2019; Tooley và cộng sự, 2012). Theo hướng
này, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng BCTC đảm bảo chất lượng là yếu tố quan trọng để
người dùng có thể đánh giá chính xác được trách nhiệm giải trình của các đơn vị công
(Mack và Ryan, 2006; Patton, 1992; Steccolini, 2004). Từ đó, một số nghiên cứu đã
nhận thấy tồn tại ảnh hưởng cùng chiều của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải
trình của khu vực công (Indriasih và Koeswayo, 2014; Keerasuntonpong và cộng sự,
2019), tuy nhiên, bằng chứng thực tiễn về quan hệ này vẫn còn hạn chế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các tổ chức trong khu vực
công cũng thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trước. Bởi lẽ nâng
cao thành quả hoạt động là mục tiêu quan trọng của các nhà quản lý trong khu vực
công tại cả nước phát triển và đang phát triển. Theo đó, tại các nước phát triển, các
nhân tố được tìm thấy có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động gồm các nhân tố đặc tính
tổ chức, văn hóa tổ chức, việc sử dụng các phương pháp quản lý kết quả, việc sử dụng
thông tin kết quả, hệ thống đo lường thành quả, đặc tính chất lượng thông tin kế toán
và trách nhiệm giải trình. Còn tại các nước đang phát triển, đặc biệt là tại Maylaysia và
Indonesia, các nhân tố có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các đơn vị công
gồm chất lượng BCTC, KSNB, vai trò kiểm toán nội bộ, sự tham gia của các cán bộ kế
toán tài chính vào quá trình cải cách, văn hóa tổ chức, cam kết quản lý, sự hài lòng từ
nhân viên và trách nhiệm giải trình. Như vậy, các nghiên cứu tại nước phát triển và
đang phát triển đều nhận thấy ảnh hưởng của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
33
trình đến thành quả hoạt động (Halim, 2019; Han, 2020), tuy nhiên, bằng chứng về các
mối quan hệ này còn hạn chế và cần thêm các nghiên cứu mới tại nhiều quốc gia khác
nhau để làm rõ mối quan hệ này (Christensen và Lægreid, 2015).
Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy các nhân tố thuộc bối cảnh tổ chức có
ảnh hưởng quan trọng đến việc thực hiện các cải cách kế toán, từ đó ảnh hưởng đến
chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình trong các đơn vị thuộc khu vực công. Theo
đó, năng lực nguồn nhân lực được quan tâm nhiều vì nó có tác động trực tiếp đến chất
lượng BCTC và trách nhiệm giải trình. Thế nhưng, nghiên cứu cụ thể tác động của
năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình
hầu như chưa được các nghiên cứu trước tiến hành đồng thời. Hơn nữa, phần lớn các
nghiên cứu trước chỉ dừng lại ở việc bàn luận riêng từng chủ đề về các tác động của
các nhân tố đối với chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình hoặc thành quả hoạt
động. Một số nghiên cứu gần đây có xem xét (1) tác động của chất lượng BCTC đến
trách nhiệm giải trình (Dewi và cộng sự, 2019; Indriasih và Koeswayo, 2014); (2) tác
động của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động (Bukenya, 2014; Nirwana và
Haliah, 2018) và (3) tác động của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động
(Christensen & Lægreid, 2014; Halim, 2019, Han, 2019). Nghĩa là, các nghiên cứu
trước chưa xem xét ảnh hưởng giữa chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và thành
quả hoạt động trong cùng một mô hình nghiên cứu. Hơn nữa, các nghiên cứu trước
được thực hiện tại mỗi quốc gia với hệ thống pháp lý, chính trị, kinh tế và trình độ
nguồn nhân lực khác nhau. Qua đó, tác giả thấy việc nghiên cứu các tác động đồng
thời của năng lực kế toán và vai trò đạo đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình; tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình; tác động của chất
lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động trong cùng một mô
hình nghiên cứu hầu như chưa được tìm thấy từ quá trình tổng quan các nghiên cứu
nước ngoài. Và đây cũng chính là khe hổng nghiên cứu mà tác giả muốn thực hiện cho
khu vực công tại Việt Nam.
1.4.2. Đối với nghiên cứu trong nước
Trước hết, phần lớn các nhà nghiên cứu đều có chung quan điểm là việc vận
dụng IPSAS hoặc áp dụng cơ sở dồn tích cho khu vực công tại Việt Nam sẽ giúp tăng
cường chất lượng thông tin, từ đó giúp cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm giải
34
trình đối với khu vực công (Cao Thị Cẩm Vân, 2016; Nguyễn Thị Thu Hiền, 2015;
Phạm Quang Huy, 2014). Và khi Bộ Tài chính Việt Nam ban hành chế độ kế toán
HCSN mới với việc áp dụng cơ sở dồn tích hoàn toàn, một số nghiên cứu đã chỉ ra
rằng các yếu tố thuộc môi trường bên trong như năng nhân viên kế toán và các yếu tố
thuộc môi trường bên ngoài tổ chức như cơ chế quản lý tài chính, chính sách kế toán,
môi trường kế toán quốc tế đều có tác động đến việc thực hiện công tác kế toán (Đỗ
Ngọc Trâm, 2019; Yen và cộng sự, 2019).
Nhận xét các nghiên cứu về các nhân tố có ảnh hưởng đối với chất lượng BCTC,
trước hết tác giả nhận thấy phần lớn các nghiên cứu trước được thực hiện tại các đơn
vị sự nghiệp công lập, vì thế tính đại diện của các nghiên cứu này cho khu vực công tại
Việt Nam vẫn còn hạn chế. Tiếp đó, các nhân tố được tìm thấy trong các nghiên cứu
trước thường mang tính chất hơi chung chung như nhân tố về môi trường chính trị,
pháp lý, kinh tế, văn hóa cũng như giáo dục (Nguyễn Thị Hồng Loan, 2018; Phạm Thị
Kim Ánh, 2017). Sau đó, một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra được các nhân tố mang
tính cụ thể như KSNB, khả năng của nhà quản lý, phần mềm kế toán HCSN, trình độ
kế toán, công nghệ thông tin hoặc nhận thức của người quản lý,…(Diệp Tiên, 2016;
Pham và Vu, 2019; Trát Minh Toàn, 2016). Như vậy, một số nghiên cứu đã cung cấp
bằng chứng rằng năng lực kế toán là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng
BCTC nhưng việc đo lường nhân tố này là chưa được bàn luận rõ ràng (Trát Minh
Toàn, 2016). Mặc dù một số nghiên cứu trước có nhận ra ảnh hưởng của nhà lãnh đạo
đến chất lượng BCTC, tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn chưa đề cập rõ về cách thức
các nhà lãnh đạo tương tác với nhân viên của họ, cụ thể là ảnh hưởng của vai trò lãnh
đạo đến chất lượng BCTC. Vì thế, nghiên cứu tác động đồng thời của năng lực kế toán
và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC là cần thiết và mang ý nghĩa thực tiễn cao.
Trong quá trình tìm hiểu về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong
khu vực công tại Việt Nam, tác giả nhận thấy có rất ít nghiên cứu thực hiện vấn đề
này. Các nhân tố có ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của khu vực công gồm có
các yếu tố thuộc hệ thống chính trị, giáo dục, pháp lý và văn hóa (Trương Á Bình,
2017). Tuy nhiên, Trương Á Bình (2017) chưa đo lường chính xác cho trách nhiệm
giải trình mà tác giả mới chỉ đo lường các yêu cầu đặt ra để nâng cao trách nhiệm giải
trình báo cáo tài chính chứ không phải là trách nhiệm giải trình. Ngoài ra, Phạm
35
Quang Huy (2018) nhận thấy tính chính trực của ban lãnh đạo cũng như trình độ của
kế toán viên có ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của khu vực công; tuy nhiên, tác
giả chưa kiểm định hồi quy cho các mối quan hệ này. Gần đây, Yen và Nguyen (2020)
có cung cấp bằng chứng rằng hệ thống đo lường thành quả có ảnh hưởng cùng chiều
đến trách nhiệm giải trình công. Như vậy, nghiên cứu tác động của năng lực kế toán và
vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam thực sự
cần thiết và mang nhiều tính mới.
Hơn nữa, một số nghiên cứu gần đây đã bàn luận các nhân tố có ảnh hưởng đến
thành quả hoạt động của khu vực công tại Việt Nam (Nguyen Thang và cộng sự, 2017;
Tran, 2014). Theo đó, yếu tố tham nhũng được nhận thấy là có tác động ngược chiều
đến thành quả hoạt động của khu vực công tại Việt Nam. Và các nghiên cứu trước còn
cho rằng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình cao có tác động làm giảm vấn nạn
tham nhũng trong các tổ chức công. Do vậy, việc xác định và kiểm định tác động của
chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động của các đơn vị
công mang nhiều tính mới tại Việt Nam.
Tóm lại, các nghiên cứu trước tại Việt Nam chỉ dừng lại ở việc xem xét các nhân
tố có tác động đến chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình hay thành quả hoạt động
của đơn vị công. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước chưa xem xét ảnh hưởng đồng thời
của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình. Theo đó, khoảng trống nghiên cứu đầu tiên được tìm thấy là nghiên cứu tác động
đồng thời của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình. Khoảng trống nghiên cứu thứ hai đặc biệt quan trọng và dễ nhìn thấy
ở các nghiên cứu trước tại Việt Nam là các nhà nghiên cứu chưa quan tâm đến mối
quan hệ giữa chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động. Cụ thể
là chưa xem xét ảnh hưởng của chất lượng BCTC đối với trách nhiệm giải trình, ảnh
hưởng của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đối với thành quả hoạt động. Do
đó, việc nghiên cứu về các ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của chất lượng BCTC đối
với thành quả hoạt động thông qua trách nhiệm giải trình trong khu vực công là một
điểm mới thứ hai mà nghiên cứu này dự định thực hiện.
36
1.5. Xác định khoảng trống nghiên cứu
Thông qua xem xét các tài liệu trước, tác giả nhận thấy có rất nhiều nhân tố có
thể xem là có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình của các đơn
vị công như chuẩn mực/chế độ kế toán, năng lực nguồn nhân lực, cam kết tổ chức, hệ
thống KSNB, kiểm toán viên nội bộ, phong cách lãnh đạo,…Trong đó, nhóm nhân tố
liên quan đến nhân lực được hầu hết các nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, nguồn nhân lực
là một nguồn lực đặc biệt không thể thiếu, quyết định tới sự tồn tại của tổ chức
(Brown, 2004). Hơn nữa, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII,
đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng luôn nhấn mạnh rằng nguồn nhân lực là yếu tố cơ
bản quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam trong mọi thời đại. Nhân lực là
một khái niệm rộng, Brown (2004) cho rằng nhân lực gồm toàn bộ các tiềm năng của
con người trong một tổ chức, từ nhân viên cho tới lãnh đạo cấp cao. Cụ thể, nhân lực
gắn với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình thì kế toán và nhà lãnh đạo được
xem là hai nhân tố có tác động trực tiếp và quan trọng nhất (Dewi và cộng sự, 2019;
Nakmahachalasint và Narktabtee, 2019; Nirwana và Haliah, 2018). Kế toán là người
trực tiếp tiến hành công tác kế toán, lập BCTC, hỗ trợ thủ trưởng giải trình các vấn đề
liên quan đến tài chính nên nhân tố năng lực kế toán là rất quan trọng đối với chất
lượng BCTC và trách nhiệm giải trình. Nhà lãnh đạo tuy không trực tiếp tác nghiệp
như kế toán nhưng họ có thể tác động và chi phối hành vi của kế toán để điều chỉnh
cách hạch toán kế toán nhằm đạt được mục tiêu của đơn vị. Hơn nữa, khi bàn đến nhà
lãnh đạo trong khu vực công, các nhà nghiên cứu thường quan tâm đến vai trò lãnh
đạo của họ. Gần đây, Tummers và Knies (2016) đã phát triển thang đo về bốn vai trò
cho các nhà lãnh đạo công được xác định liên quan đến việc cho phép nhân viên giải
quyết các vấn đề phát sinh từ (1) trách nhiệm giải trình, (2) tuân theo các luật lệ, (3)
lòng trung thành chính trị và (4) quản lý mạng lưới quan hệ. Đặc biệt, Van der Wal và
cộng sự (2008) còn lưu ý rằng lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải
trình là những giá trị rất quan trọng đối với nhà lãnh đạo, thể hiện được vai trò lãnh
đạo trong khu vực công. Vì thế, luận án này tập trung vào vai trò lãnh đạo theo luật và
lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình vì chúng quan trọng đối với đơn vị công (Van der
Wal và cộng sự, 2008). Tóm lại, việc chọn nghiên cứu nhân tố năng lực kế toán và vai
trò lãnh đạo có thể được lý giải vì đây là những nhân tố thuộc nhóm nguồn nhân lực,
37
nó mang tính cấp thiết và là nhóm nhân tố nền tảng khi xem xét chất lượng BCTC và
trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam. Như vậy, luận án này trước
hết sẽ nghiên cứu các tác động trực tiếp của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo (tập
trung vào lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình) đối với chất lượng
BCTC và trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
Hơn nữa, đa số các nghiên cứu trước dừng lại ở việc xem xét riêng từng chủ đề
về ảnh hưởng của các nhân tố đến các biến nghiên cứu là chất lượng BCTC, trách
nhiệm giải trình hay thành quả hoạt động. Một số nghiên cứu gần đây đã cung cấp
bằng chứng thực tiễn về (1) tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình
(Dewi và cộng sự, 2019; Indriasih và Koeswayo, 2014); (2) tác động của chất lượng
BCTC đến thành quả hoạt động (Bukenya, 2014; Nirwana và Haliah, 2018) và (3) tác
động của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động (Halim, 2019, Han, 2019).
Tuy nhiên, các nghiên cứu trước chưa xem xét mối quan hệ giữa chất lượng BCTC,
trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động trong cùng một mô hình nghiên cứu.
Hơn nữa, trách nhiệm giải trình là một khái niệm phức tạp và các nghiên cứu trước có
các cách tiếp cận khác nhau khi đo lường khái niệm trách nhiệm giải trình. Nghiên cứu
này sẽ tiếp cận cách đo lường trách nhiệm giải trình khi gắn với BCTC mục đích
chung trong khu vực công. Cụ thể, tác giả đo lường khái niệm trách nhiệm giải trình
theo Mack và Ryan (2006) thông qua trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải
trình tài chính. Khung lý thuyết của Mack và Ryan (2006) dựa trên cách tiếp cận theo
IPSASB đã chứng minh rằng BCTC mục đích chung trong khu vực công thật sự hữu
ích cho người dùng khi đánh giá trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình
tài chính. Thêm vào đó, tác giả nhận thấy bằng chứng thực nghiệm về cả 3 mối quan
hệ trên còn khá ít, đặc biệt chưa được thực hiện tại Việt Nam nên luận án này sẽ tiếp
tục nghiên cứu về tác động của chất lượng BCTC đối với trách nhiệm giải trình; tác
động của chất lượng BCTC đối với thành quả hoạt động và tác động của trách nhiệm
giải trình đến thành quả hoạt động. Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn nhận thấy tồn tại tác
động gián tiếp của chất lượng BCTC đối với thành quả hoạt động của các đơn vị công
thông qua vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình và điều này chưa được các nhà
nghiên cứu thực hiện. Vì thế, luận án này sẽ tiến hành khám phá và kiểm định về tác
38
động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả thông qua trách nhiệm giải trình
trong các đơn vị công tại Việt Nam.
Trên quan điểm kế thừa và tiếp tục phát triển những công trình nghiên cứu trước
ở trong và ngoài nước, đề tài nghiên cứu của tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu về kế toán
công tại Việt Nam. Qua việc xem xét các nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy rằng tại
Việt Nam hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào tích hợp và bàn luận trong cùng
một mô hình về tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng
BCTC và trách nhiệm giải trình; tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải
trình; cũng như tác động của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đến thành quả
hoạt động của các đơn vị công. Hơn nữa, hầu hết các nhà nghiên cứu trong nước đều
cho rằng chất lượng thông tin BCTC tại khu vực công Việt Nam hiện nay còn quá
thấp, chưa đảm bảo tính minh bạch và chưa đảm bảo độ tin cậy thông tin theo quy định
của IPSAS (Đậu Thị Kim Thoa, 2019). Đồng thời, các tổ chức trong khu vực công tại
Việt Nam chưa thực hiện tốt trách nhiệm giải trình theo Nghị định 90/2013/NĐ-CP
(Phạm Quang Huy, 2018). Vì thế, vấn đề cần thiết hiện nay là nên thực hiện các
nghiên cứu sử dụng kết hợp cả phương pháp định tính và định lượng nhằm xác định và
đo lường tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và
trách nhiệm giải trình; xác định và đo lường tác động của chất lượng BCTC đến trách
nhiệm giải trình; xác định và đo lường tác động của chất lượng BCTC và trách nhiệm
giải trình đến thành quả hoạt động tại các đơn vị công. Việc tìm hiểu rõ các mối quan
hệ này nhằm đưa ra các hàm ý phù hợp để cải thiện chất lượng BCTC, nâng cao trách
nhiệm giải trình cũng như ra quyết định hữu ích nhằm nâng cao thành quả hoạt động
cho khu vực công tại Việt Nam.
1.6. Kết luận chương 1
Trong Chương 1, tác giả trình bày tổng quan các nghiên cứu nước ngoài và Việt
Nam theo ba hướng nghiên cứu gồm: (1) các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến
chất lượng BCTC; (2) các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến trách nhiệm giải
trình; (3) các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu
vực công. Sau đó, tác giả tiến hành phân tích và đưa ra các nhận xét chi tiết về từng
hướng nghiên cứu được thực hiện tại nước ngoài cũng như Việt Nam. Trên cơ sở đó,
tác giả đã chỉ rõ các khoảng trống nghiên cứu mà luận án của tác giả dự kiến thực hiện.
39
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Giới thiệu
Chương 2 có những đóng góp quan trọng về mặt cơ sở lý luận cho luận án. Trong
chương này, trước hết, tác giả trình bày tổng quan tài chính và kế toán các đơn vị
thuộc khu vực công tại Việt Nam. Tiếp đó, các khái niệm nền tảng được trình bày chi
tiết gồm năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và
thành quả hoạt động. Sau khi làm rõ các khái niệm nghiên cứu, tác giả trình bày bốn lý
thuyết liên quan làm cơ sở cho việc đề xuất các giả thuyết nghiên cứu trong luận án,
gồm có: lý thuyết NPM, lý thuyết đại diện, lý thuyết bất định và lý thuyết thể chế. Hơn
nữa, trước khi đề xuất mô hình nghiên cứu, tác giả sẽ trình bày các cơ sở lý luận nhằm
lý giải cho các giả thuyết nghiên cứu. Cuối cùng, tác giả trình bày mô hình nghiên cứu
cùng tám giả thuyết nghiên cứu được đề xuất trong luận án.
2.2. Tổng quan tài chính và kế toán các đơn vị thuộc khu vực công tại Việt Nam
Theo Hiến pháp năm 2013, khu vực công được hiểu có phạm vi rất rộng (Quốc
hội, 2013), gồm có: Một là các cơ quan nhà nước thực thi quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp; Hai là các đơn vị sự nghiệp trực thuộc các cơ quan nhà nước;
Ba là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp
luật về hội như: Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam,… Như vậy, chúng ta
có thể hiểu khu vực công tại Việt Nam thường được gọi là khu vực nhà nước gồm có
các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các đơn vị công khác (Bộ Tài
chính, 2018a). Theo phân cấp quản lý tài chính, các đơn vị công tại Việt Nam được tổ
chức theo hệ thống dọc tương ứng với từng cấp ngân sách nhằm phù hợp với công tác
chấp hành ngân sách cấp đó, thường gồm: đơn vị dự toán cấp 1, đơn vị dự toán cấp 2
và đơn vị dự toán cấp 3. Trong khu vực công, đơn vị HCSN chiếm tỷ trọng cao nhất về
số lượng đơn vị (Nguyễn Thị Thu Hiền, 2015; Tổng Cục Thống Kê, 2018). Đơn vị
HCSN là những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực phi lợi nhuận, thực hiện chức năng
quản lý nhà nước và cung cấp các loại hình dịch vụ công cho xã hội. Căn cứ vào đặc
điểm quản lý, các đơn vị HCSN được chia làm hai loại là cơ quan hành chính nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập (Mai Thị Hoàng Minh và cộng sự, 2018). Căn cứ
40
vào mức độ tự chủ, cơ quan hành chính được phân làm hai loại: đơn vị được giao tự
chủ kinh phí và không được giao tự chủ kinh phí (Chính phủ, 2005, 2013b); còn đơn vị
sự nghiệp công được phân thành 4 loại (Chính phủ, 2015): (1) đơn vị tự bảo đảm chi
thường xuyên và chi đầu tư; (2) đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; (3) đơn vị tự bảo
đảm một phần chi thường xuyên; (4) đơn vị do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Tính đến thời điểm hiện tại, khu vực công ở Việt Nam tồn tại nhiều chế độ kế
toán khác nhau, chẳng hạn (Bộ Tài chính, 2018b): kế toán kho bạc theo Thông tư số
77/2017/TT-BTC; kế toán đơn vị HCSN theo Thông tư số 107/2017/TT-BTC; kế toán
bảo hiểm xã hội theo Thông tư số 102/2018/TT-BTC; kế toán dự trữ quốc gia theo
Thông tư số 108/2018/TT-BTC; còn kế toán đơn vị phường, xã được hướng dẫn theo
Thông tư số 70/2019/TT-BTC. Trong đó, một bộ phận quan trọng của kế toán công tại
Việt Nam là chế độ kế toán HCSN có phạm vi áp dụng nhiều nhất trong số các chế độ
kế toán còn lại (Nguyễn Thị Thu Hiền, 2015) đã được Bộ Tài chính sửa đổi lại cho
phù hợp hơn với xu hướng quốc tế là vận dụng theo nội dung của IPSAS. Chế độ kế
toán HCSN theo Thông tư số 107/2017/TT-BTC đã quy ước cách ghi nhận các nghiệp
vụ kinh tế theo cơ sở dồn tích đầy đủ và đưa ra các quy định về lập, trình bày và công
khai các loại BCTC nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của các nhóm người dùng khác
nhau. Hơn nữa, Thông tư 107/2017/TT-BTC cũng phù hợp với các hướng dẫn hiện
hành của Luật kế toán năm 2015, Luật NSNN năm 2015, các quy định về cơ chế tài
chính áp dụng cho cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, tạo được tính thống
nhất khi thực hiện (Trần Thị Yến, 2018). Điều này cũng tạo thuận lợi cho quá trình lập
BCTC tổng hợp của các đơn vị kế toán nhà nước là đơn vị kế toán cấp trên, tiến tới
phục vụ cho việc lập BCTC nhà nước (Bộ Tài chính, 2018a, 2018b).
Tóm lại, những thay đổi gần đây về chế độ kế toán của các đơn vị thuộc khu vực
công tại Việt Nam được xem như là một cuộc cải cách tài chính lớn. Cuộc cải cách này
dự kiến mang lại những lợi ích như tăng cường tính minh bạch tài chính, nâng cao tính
hữu ích của thông tin trên BCTC, tăng tính hiệu quả của hoạt động giải trình, góp phần
giảm tình trạng tham nhũng, cuối cùng là gia tăng thành quả hoạt động cho các đơn vị
công. Tuy nhiên, quá trình áp dụng các chế độ kế toán mới tại từng đơn vị công dự
kiến cũng sẽ gặp phải nhiều thách thức lớn. Nếu các đơn vị công không nhận thấy và
tìm cách khắc phục khó khăn thì mục tiêu cải cách kế toán công nhằm nâng cao chất
41
lượng thông tin trên BCTC của khu vực công sẽ không đạt được như mong đợi của cơ
quan ban hành chính sách (Yen và cộng sự, 2019).
2.3. Các khái niệm nền tảng
2.3.1. Năng lực kế toán
Ủy ban Giáo dục của IFAC năm 1998 và 2003 xác định năng lực kế toán
(accounting competency) được thể hiện thông qua các khả năng của kế toán để thực
hiện các nhiệm vụ và vai trò dự kiến của một kế toán chuyên nghiệp, cả người mới
hoàn thành việc học cũng như người có trình độ, kinh nghiệm, theo tiêu chuẩn mà nhà
tuyển dụng và công chúng mong đợi (Palmer và cộng sự, 2004). Sự phát triển của
ngành nghề kế toán đã tạo ra những thách thức và cơ hội mới cho các nhà thực hành và
các nhà giáo dục kế toán. Năm 1999, Viện Kế toán công chứng Hoa Kỳ đã cố gắng chỉ
đạo trong việc thực hiện các nghiên cứu để hiểu và đánh giá về những năng lực cần
thiết của kế toán. Căn cứ vào phương pháp tiếp cận năng lực dựa trên các yếu tố đầu
vào, năng lực kế toán gồm các kiến thức, các kỹ năng và các phẩm chất cá nhân khác
của kế toán được ưa chuộng bởi những tổ chức hành nghề kế toán (Boritz và
Carnaghan, 2003). Tiếp đó, bằng việc phân tích các công trình nghiên cứu về năng lực
kế toán của nhiều tổ chức nghề hành nghề kế toán, Palmer và cộng sự (2004) cũng
nhất trí rằng kiến thức kế toán, kiến thức kinh doanh tổng hợp, kiến thức công nghệ
thông tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng máy tính, kỹ năng
tương tác, thái độ và phẩm chất cá nhân tích cực là những tiêu chí cơ bản quan trọng
mà người kế toán có năng lực tốt sẽ thể hiện ra bên ngoài khi làm việc. Rõ ràng, quan
điểm về năng lực kế toán của Palmer và cộng sự (2004) đưa ra là khá toàn diện và phù
hợp với cách đánh giá của các tổ chức hành nghề kế toán được ưu chuộng trên thế giới
nên tác giả sử dụng các tiếp cận này cho nghiên cứu luận án. Tóm lại, năng lực kế toán
được thể hiện thông qua các loại kiến thức, các loại kỹ năng, các thái độ và phẩm chất
cá nhân mà người kế toán thể hiện ra bên ngoài khi thực hiện các nhiệm vụ và vai trò
dự kiến của một kế toán theo tiêu chuẩn mà nhà tuyển dụng và công chúng mong đợi.
Trước hết, một người kế toán cần những kiến thức về chuyên môn, kiến thức kinh
doanh tổng hợp và kiến thức về công nghệ thông tin (Mohamed và Lashine, 2003;
Palmer và cộng sự, 2004). Kiến thức chuyên môn bao gồm những chủ đề tạo nên
chuyên ngành kế toán, cũng như các kiến thức về chuyên ngành kinh doanh khác,
42
những kiến thức này cùng nhau tạo thành nền tảng kiến thức thiết yếu cho kế toán
chuyên nghiệp (International Federation of Accountants Education Committee, 2003).
Ngày nay, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã đưa đến sự chuyển đổi
mạnh mẽ về vai trò của kế toán. Kế toán không chỉ sử dụng và rèn luyện các kỹ năng
kiểm soát công nghệ thông tin mà còn giữ vị trí quan trọng khi đánh giá, thiết kế và
quản lý các hệ thống đó (International Federation of Accountants Education
Committee, 2003). Vì thế, kiến thức về công nghệ thông tin không chỉ giúp họ sáng
tạo tại nơi làm việc mà còn giúp họ thích nghi với môi trường làm việc mới nhanh hơn
(Mohamed và Lashine, 2003).
Hơn nữa, Nguyen và Leclerc (2011) cho rằng để hoàn thành tốt công việc, nhân
viên văn phòng cần rất nhiều kỹ năng, tuy nhiên, đối với nghề kế toán ngày nay,
Palmer và cộng sự (2004) nhận thấy kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ
năng máy tính (tin học) và kỹ năng tương tác là những kỹ năng cần thiết để họ hoàn
thành tốt nhiệm vụ và giúp họ có cơ hội thăng tiến trong tương lai. Trong đó, kỹ năng
giao tiếp được coi là bắt buộc để người kế toán có thể hòa hợp với mọi người trong
đơn vị và kỹ năng này cũng là nền tảng của sự thăng tiến trong công việc của họ
(Mohamed và Lashine, 2003). Bộ máy kế toán nói riêng và bộ máy tổ chức nói chung
luôn có sự gắn kết giữa các cá nhân. Các hoạt động giữa các bộ phận luôn chi phối lẫn
nhau, kỹ năng giao tiếp giúp công việc của kế toán diễn ra thuận lợi hơn. Còn kỹ năng
giải quyết vấn đề là khả năng thu thập dữ liệu hợp lý, xử lý và áp dụng các kỹ năng có
được để giúp xác định và giải quyết vấn đề. Và để giải quyết tốt vấn đề, kế toán cần
khả năng phân tích (Mohamed và Lashine, 2003). Với sự phát triển của công nghệ
thông tin, cụ thể cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đặt ra nhiều yêu cầu cho kế toán
không chỉ là thích nghi, làm quen với các giao diện phần mềm mới mà còn yêu cầu các
thao tác thực hành nhanh hơn để xử lý công việc nhanh chóng, kịp thời cung cấp thông
tin cho các nhà quản lý cũng như các cơ quan chức năng yêu cầu. Do đó, kỹ năng sử
dụng máy tính (kỹ năng tin học) không những cần thiết mà còn rất quan trọng đối với
nghề kế toán ngày nay. Ngoài ra, trong bộ máy kế toán, người phụ trách kế toán cần
phải có thêm kỹ năng tương tác. Kỹ năng này có thể hiểu là kỹ năng làm việc và quản
lý nhóm, nó được thể hiện ở khả năng tổ chức và ủy thác các nhiệm vụ, thúc đẩy và
gây ảnh hưởng đến người khác và giải quyết xung đột nhanh chóng, hiệu quả. Kỹ năng
43
làm việc và quản lý nhóm không phải tự nhiên có mà cần phải được liên tục học tập,
trau dồi kiến thức và rèn luyện, kỹ năng này dự kiến sẽ giúp kế toán dễ thăng tiến
trong tương lai (Mohamed và Lashine, 2003). Ngoài ra, các phẩm chất cá nhân khác
của kế toán như sự tự tin, niềm đam mê, tinh thần cầu tiến, ham học hỏi, yêu thích
công việc, thái độ nghiêm túc, trung thực, có ý thức trách nhiệm cao, phong thái hòa
đồng, tinh thần lạc quan,… cũng hỗ trợ rất nhiều cho các yêu cầu về năng lực của kế
toán (Mohamed và Lashine, 2003). Palmer và cộng sự (2004) cũng đồng ý rằng các giá
trị, đạo đức và thái độ tích cực như vậy sẽ giúp kế toán trở nên chuyên nghiệp, có năng
lực tốt hơn, giúp họ hoàn thành công việc hiệu quả hơn.
2.3.2. Vai trò lãnh đạo
Vai trò lãnh đạo (leadership) là một khái niệm quen thuộc trong quản trị công và
có nhiều quan điểm khác nhau khi mô tả khái niệm này (Crosby và Bryson, 2017).
Theo nghĩa rộng, có hai quan điểm về vai trò lãnh đạo trong các tổ chức (Howell và
Hall-Merenda, 1999). Một quan điểm là nhà lãnh đạo tập trung và cố gắng giải thích
hiệu quả bằng cách phân tích các hành vi lãnh đạo cụ thể mà họ thực hiện và liên kết
trực tiếp với các kết quả đầu ra. Quan điểm này được áp dụng trong các lý thuyết về
lãnh đạo giao dịch và chuyển đổi (Wright và Pandey, 2009). Quan điểm thứ hai là lãnh
đạo dựa trên mối quan hệ, phân tích cách các nhà lãnh đạo tương tác với nhân viên của
họ. Với mục đích của luận án nhằm phân tích vai trò của nhà lãnh đạo đối với quá
trình thực hiện công việc của kế toán và kết quả công việc của họ là chất lượng thông
tin kế toán cung cấp thông qua BCTC thì quan điểm thứ hai là phù hợp nhất. Theo đó,
vai trò lãnh đạo có thể được hiểu là quá trình người lãnh đạo ảnh hưởng đến nhân viên
thông qua chỉ đạo và hỗ trợ nhân viên thực hiện công việc nhằm đạt được mục tiêu của
tổ chức (Tummers và Knies, 2013). Hơn nữa, Crosby và Bryson (2017) cũng đồng ý
rằng lãnh đạo là nguồn cảm hứng của những người khác để thực hiện hành động tập
thể để theo đuổi lợi ích chung. Vì thế, trong luận án này, tác giả đề cập đến các vai trò
lãnh đạo mà tập trung vào mức độ nhà lãnh đạo hỗ trợ nhân viên xử lý các vấn đề của
khu vực công (Tummers và Knies, 2016). Đặc biệt, Van der Wal và cộng sự (2008)
cho rằng các nhà quản lý trong khu vực công đòi hỏi những kỹ năng và kiến thức khá
đặc biệt so với khu vực tư. Chẳng hạn, họ làm việc trong bối cảnh phải thực thi các
quy tắc và quy định của chính phủ (Hill và Hupe, 2014); giải thích các hành động cho
44
các đối tượng có liên quan ở ngoài tổ chức, chẳng hạn như các chính trị gia và giới
truyền thông (Bovens, 2007). Chính vì thế, Van der Wal và cộng sự (2008) cho rằng
trách nhiệm giải trình và tuân theo quy định, luật lệ của quản trị là những giá trị rất
quan trọng đối với nhà lãnh đạo trong khu vực công. Trong luận án này, nhà nghiên
cứu tập trung vào vai trò lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình vì
chúng quan trọng đối với đơn vị công. Và hai loại vai trò này đều liên quan đến thẩm
quyền pháp lý của một hệ thống quan liêu truyền thống (Tummers và Knies, 2016), cụ
thể như sau:
- Lãnh đạo theo luật (rule-following leadership) là nhà lãnh đạo khuyến khích
nhân viên của họ hành động theo các quy tắc, quy định, luật lệ của nhà nước
(Tummers và Knies, 2016). Việc tuân thủ theo các quy tắc, quy định và luật lệ của nhà
nước là một yêu cầu cơ bản của các nhà quản trị công (DeHart-Davis, 2008). Lane
(1994) cũng lưu ý rằng giá trị cốt lõi của hành chính công thể hiện ở việc thực thi luật
pháp nhà nước. Liên quan đến điều này, Van der Wal và cộng sự (2008) nhận thấy
rằng tuân theo các quy tắc hay luật lệ là giá trị rất quan trọng và không thể thiếu trong
khu vực công. Do đó, trong các đơn vị công có tính minh bạch cao, một vai trò quan
trọng của các nhà lãnh đạo là kích thích nhân viên của họ tuân theo các quy tắc, quy
định và luật lệ của nhà nước và ngăn chặn việc phá vỡ chúng (Bozeman và
Bretschneider, 1994).
- Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (accountability leadership) là nhà lãnh đạo
kích thích nhân viên biện minh và giải thích hành động của họ cho các bên liên quan
(Tummers và Knies, 2016). Đặc biệt, Crosby và Bryson (2017); Van der Wal và cộng
sự (2008) cho rằng trách nhiệm giải trình được coi là giá trị quan trọng nhất đối với
khu vực công. Thật vậy, vai trò này đặc biệt phù hợp với các nhà lãnh đạo đơn vị công
vì họ có trách nhiệm giải trình với một số bên liên quan điển hình chẳng hạn như chính
trị gia địa phương, khu vực và quốc gia, truyền thông, công dân, tổ chức phi chính phủ
và doanh nghiệp (Karsten, 2015).
Tóm lại, luận án này tập trung nghiên cứu mức độ mà các nhà lãnh đạo hỗ trợ
nhân viên giải quyết các vấn đề của khu vực công gồm: tuân thủ các quy định, luật lệ
của nhà nước (rule-following leadership) và hành động có trách nhiệm với các bên liên
quan (accountability leadership) đã được Tummers và Knies (2016) nghiên cứu.
45
2.3.3. Chất lượng báo cáo tài chính
Trong khu vực công, khi nói đến chất lượng BCTC thì phần lớn các nhà nghiên
cứu đề cập đến các đặc tính chất lượng của BCTC theo quan điểm của IPSASB
(2013). Theo đó, các đặc tính chất lượng của BCTC là những thước đo thực sự về chất
lượng cảm nhận của thông tin kế toán (Afiah và Azwari, 2015; Cohen, S. và
Karatzimas, 2017; Mardinan và cộng sự, 2018). Hơn nữa, Cohen, S. và Karatzimas
(2017) nhận thấy cả bốn cơ quan thiết lập CMKT quốc tế cho khu vực công, gồm Ủy
ban Chuẩn mực Kế toán Chính phủ (GASB) tại Hoa Kỳ, Ủy ban Chuẩn mực Kế toán
Úc (AASB), Viện Kế toán Công chứng Canada (CICA) và Ủy ban Chuẩn mực Kế
toán công quốc tế (IPSASB) đều đồng ý rộng rãi về sáu đặc tính chất lượng của BCTC
là tính thích hợp, tính đáng tin cậy, tính kịp thời, tính có thể hiểu được, tính có thể so
sánh và tính có thể kiểm chứng. Cụ thể, IPSASB (2013, 2018a) nhấn mạnh rằng chất
lượng BCTC là các thuộc tính làm cho thông tin trong BCTC thật sự hữu ích đối với
người dùng và hỗ trợ khả năng đạt được các mục tiêu của BCTC. Và mục tiêu của
BCTC trong khu vực công là cung cấp thông tin hữu ích cho các mục đích đánh giá
trách nhiệm giải trình và ra quyết định của người sử dụng. Tổng quát hơn, IPSASB
(2013, 2018a) đã chia các đặc tính chất lượng của BCTC thành 2 nhóm: đặc tính chất
lượng nền tảng gồm tính thích hợp và đáng tin cậy; còn đặc tính chất lượng bổ sung
gồm tính kịp thời, có thể hiểu được, có thể kiểm chứng, có thể so sánh. Theo đó,
Cohen, S. và Karatzimas (2017) đã chỉ rõ đặc tính chất lượng nền tảng là những đặc
tính làm cho thông tin BCTC đảm bảo tính hữu ích khi sử dụng, còn đặc tính chất
lượng bổ sung giúp thông tin BCTC tăng cường sự hữu ích khi sử dụng. Cụ thể, các
đặc tính chất lượng BCTC theo IPSASB (2013, 2018a) được phân tích như sau:
- Thông tin tài chính và thông tin phi tài chính có tính thích hợp nếu có thể tạo
được sự khác biệt trong việc đạt được các mục tiêu của BCTC. Theo đó, thông tin kế
toán có thể tạo ra sự khác biệt khi nó có giá trị xác nhận (phản hồi), giá trị dự đoán,
hoặc cả hai, đây được xem là đặc tính chất lượng nền tảng. Thông tin trên BCTC có
giá trị xác nhận nếu nó xác nhận các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ (hoặc hiện tại).
BCTC mục đích chung có thể đưa ra thông tin về các hoạt động, mục đích và chi phí
của các hoạt động cung cấp dịch vụ trong tương lai của tổ chức, số tiền và nguồn hình
thành của các nguồn lực được phân bổ để cung cấp các dịch vụ trong tương lai. Những
46
thông tin theo định hướng tương lai sẽ có giá trị tiên đoán. Ngoài ra, thông tin liên
quan đến các hiện tượng kinh tế và các hiện tượng khác đã tồn tại hoặc đã xảy ra cũng
có thể có giá trị tiên đoán trong việc giúp hình thành kỳ vọng về tương lai.
- Tính đáng tin cậy/trình bày trung thực được xem là đặc tính chất lượng nền tảng
để đảm bảo thông tin BCTC thật sự hữu ích cho người dùng. Theo đó, thông tin phải
trình bày trung thực các hiện tượng kinh tế và các hiện tượng khác mà nó nhằm mục
đích đại diện. Trình bày trung thực đạt được khi mô tả hiện tượng này là toàn diện,
không thiếu sót (đầy đủ), trung lập và nó không được có các sai sót trọng yếu. Việc bỏ
sót một vài thông tin có thể làm hiện tượng kinh tế hoặc các hiện tượng khác là không
đúng hoặc gây ra sự hiểu nhầm ý nghĩa; Do đó, nó sẽ không có hữu ích đối với người
dùng BCTC. Tính trung lập trong BCTC là sự vắng mặt của sự thiên vị, biểu thị cho
tính khách quan. Thông tin không có sai sót trọng yếu không đồng nghĩa với việc
thông tin đó là chính xác toàn bộ trên mọi khía cạnh. Theo đó, thông tin là trọng yếu
nếu như xác định sai hoặc bỏ sót nó sẽ ảnh hưởng đến quyết định hoặc nhận định đánh
giá của người sử dụng thông tin trong báo cáo kế toán.
- Tính có thể hiểu được là đặc tính chất lượng bổ sung của thông tin trên BCTC
cho phép người dùng dễ dàng hiểu được ý nghĩa mà thông tin cung cấp và có thể giải
thích nó một cách tương đối. Để đảm bảo tính có thể hiểu được thì BCTC cho mục
đích chung của các đơn vị trong khu vực công phải trình bày thông tin theo cách phù
hợp với nhu cầu và cơ sở tri thức của người sử dụng và tính chất của các thông tin
được trình bày. Tính có thể hiểu được của BCTC sẽ được tăng cường khi thông tin
được phân loại, mang tính đặc trưng, trình bày rõ ràng và súc tích. Hơn nữa, để thông
tin trình bày trên BCTC là có thể hiểu được thì người sử dụng BCTC cũng cần phải có
kiến thức cơ bản về các hoạt động của tổ chức và môi trường hoạt động.
- Tính kịp thời cũng được nhận định là một đặc tính chất lượng bổ sung của
thông tin trong BCTC, được hiểu theo nghĩa là thông tin có sẵn cho người dùng trước
khi thông tin mất đi tính hữu ích của nó cho các nhu cầu sử dụng thông tin của người
dùng. Việc đơn vị công cung cấp BCTC nhanh hơn so với quy định có thể giúp tăng
cường tính hữu ích của thông tin.
- Khả năng so sánh là một đặc tính chất lượng bổ sung của thông tin, nó cho phép
người dùng BCTC xác định được sự tương đồng và sự khác biệt giữa hai hay nhiều sự
47
kiện liên quan. Khả năng so sánh không phải là chất lượng của một mục thông tin cá
nhân, mà là chất lượng của mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều thông tin. Sự hữu ích của
thông tin được tăng cường nếu nó có thể được so sánh với thông tin tài chính cũng như
thông tin phi tài chính tiềm năng được trình bày cho kỳ báo cáo trước đó; Hoặc thông
tin tương tự về cùng một chủ thể cho một khoảng thời gian khác hoặc một số điểm
khác trong thời gian; Và thông tin tương tự về các chủ thể khác, ví dụ các đơn vị công
cung cấp các dịch vụ tương tự ở khu vực khác nhau, trong cùng kỳ báo cáo.
- Tính kiểm chứng được (khả năng xác minh) là đặc tính chất lượng bổ sung của
thông tin giúp người sử dụng đảm bảo rằng thông tin trong BCTC đại diện trung thực
cho các hiện tượng kinh tế mà nó ngụ ý để đại diện. Việc kiểm chứng có thể được thực
hiện bằng xác nhận trực tiếp hoặc gián tiếp và sẽ có giá trị hơn nếu được thực hiện bởi
một đơn vị chuyên nghiệp, độc lập và có uy tín.
Tại Việt Nam, theo Luật kế toán số 88/2015/QH13 không có mục riêng để nêu
các đặc tính có liên quan đến chất lượng BCTC, tuy nhiên có thể thấy những đặc tính
về chất lượng BCTC được liệt kê tại mục các yêu cầu kế toán (Chính phủ, 2016; Quốc
hội, 2015a) như: các yêu cầu về cung cấp thông tin kế toán cần đầy đủ, rõ ràng, chính
xác, trung thực, kịp thời, có thể hiểu được. Ngoài ra, theo chế độ kế toán HCSN ban
hành năm 2017 thì chất lượng BCTC được hiểu như là các yêu cầu kế toán cụ thể đặt
ra cho BCTC như là (Bộ Tài chính, 2017): BCTC phải được phản ánh một cách chính
xác, trung thực, mang tính khách quan và có hệ thống về nội dung; BCTC phải được
trình bày rõ ràng, có thể hiểu được, lập và nộp kịp thời, đúng thời gian quy định, có thể
so sánh. Do đó, có thể thấy rằng các đặc tính về chất lượng BCTC theo các quy định
pháp lý hiện hành tại Việt Nam cũng tương đồng với các đặc tính chất lượng BCTC
theo quan điểm của IPSASB. Theo đó, chất lượng BCTC có thể đạt được bằng cách
tuân thủ các đặc tính chất lượng nền tảng và đặc tính chất lượng bổ sung của thông tin
trong BCTC (Bukenya, 2014; Jonas và Blanchet, 2000; Korutaro Nkundabanyanga và
cộng sự, 2013). Trong phạm vi luận án, tác giả đánh giá chất lượng BCTC dựa theo
quan điểm IPSASB (2013, 2017a, 2018a), tức là dựa vào đặc tính chất lượng nền tảng
gồm tính thích hợp, tính đáng tin cậy và các đặc tính chất lượng bổ sung gồm có tính
có thể hiểu được, có thể so sánh, kịp thời, có thể kiểm chứng được.
48
2.3.4. Trách nhiệm giải trình
Xét về nguồn gốc hình thành, nhiều nghiên cứu cho rằng trách nhiệm giải trình
(accountability) gắn chặt với công tác kế toán và được thể hiện thông qua các loại sổ
sách ghi chép. Thuật ngữ trách nhiệm giải trình xuất hiện sau năm 1066 và nó gắn liền
với triều đại của Đức vua William Đệ Nhất nước Anh (Bovens, 2007). Trong những
thập kỷ sau cuộc chinh phục Norman năm 1066 của Anh, Đức vua William đã yêu cầu
tất cả những người nắm giữ tài sản trong quốc vương của mình phải đưa ra số lượng
những gì họ sở hữu. Khi đó, trách nhiệm giải trình được hiểu đơn giản là việc giải
thích các số liệu ghi chép trên sổ sách. Sau đó, khái niệm về trách nhiệm giải trình
nhận được sự quan tâm của khá nhiều nhà nghiên cứu, bởi lẽ, đây là một khái niệm
khá phức tạp, khó hiểu và được phân thành nhiều loại khác nhau tùy vào khía cạnh
quan sát (Parker và Gould, 1999). Hơn nữa, Bowrey (2007) đã nhấn mạnh thêm rằng
trách nhiệm giải trình không phải là một khái niệm có thể được giải quyết thỏa đáng
thông qua một định nghĩa. Ban đầu, trách nhiệm giải trình đòi hỏi một mối quan hệ
trong đó mọi người bắt buộc phải giải thích hành động của họ và đồng thời họ phải
chịu trách nhiệm cho các hành động của họ (Roberts và Scapens, 1985). Một mô tả
ngắn gọn nhất về trách nhiệm giải trình là nghĩa vụ phải giải thích và biện minh cho
hành vi (Romzek và Dubnick, 1987). Đặc biệt, Patton (1992) cho rằng khái niệm trách
nhiệm giải trình xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như kế toán, hành chính công, giáo
dục, khoa học hành vi, y học và khoa học chính trị. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh thông
tin kế toán là một công cụ quan trọng trong quá trình đạt được trách nhiệm giải trình
của các đơn vị công. Sinclair (1995) thì nhận định trách nhiệm giải trình là việc đảm
bảo rằng những người có thẩm quyền đối với các nguồn lực công phải cung cấp một
minh chứng về sự tuân thủ, tính chính xác và hiệu quả cho việc sử dụng các tài nguyên
đó. Parker và Gould (1999) tiếp tục nhấn mạnh rằng trách nhiệm giải trình được xem
là một phương tiện mà các bên liên quan theo dõi hoạt động của các đơn vị công và
đơn vị công phải chịu trách nhiệm liên quan đến hành động của họ, là một yếu tố quan
trọng của yêu cầu về tính hợp pháp. Hay nói cụ thể hơn, trách nhiệm giải trình là cung
cấp thông tin cũng như công bố thông tin về tất cả các hoạt động cho các bên liên quan
và chịu trách nhiệm về những kết quả đã thực hiện; khi đó, trách nhiệm giải trình được
xem là mục đích cao nhất của BCTC của khu vực công (Steccolini, 2004). Cùng
49
hướng này, Mack và Ryan (2006) nhấn mạnh thêm rằng BCTC là phương tiện hiệu
quả nhất để đạt được trách nhiệm giải trình và người dùng dựa vào thông tin trình bày
trên BCTC để đánh giá trách nhiệm giải trình của các đơn vị công. Gần đây, khi xem
xét định nghĩa về trách nhiệm giải trình, Hyndman và McKillop (2018) cho rằng cần
tìm câu trả lời cho hai câu hỏi chính thường xuất hiện là: đơn vị công chịu trách nhiệm
với ai và chịu trách nhiệm về cái gì? Đối với câu hỏi đơn vị công chịu trách nhiệm với
ai thì có thể hiểu đó là các bên liên quan, tuy nhiên, trong khu vực công thì phạm vi
các bên liên quan là rất rộng. Chẳng hạn như cơ quan quản lý cấp cao/cấp trên, nhà tài
trợ, công dân, người sử dụng dịch vụ. Vì thế, vấn đề làm thế nào các đơn vị công có
thể xác định các ưu tiên trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình là rất quan trọng vì
có vô số các bên liên quan. Hơn nữa, các đơn vị công chịu trách nhiệm về cái gì thì
đây là một phạm trù khá bao quát và tùy thuộc vào bên liên quan của họ là ai.
Tại Việt Nam, trách nhiệm giải trình được xem là một thuật ngữ mang tính chính
trị - pháp lý, nó được du nhập vào trong giai đoạn hội nhập và phát triển. Trách nhiệm
giải trình được sử dụng phổ biến trong công tác phòng và chống tham nhũng vì nó là
một trong các yếu tố thiết yếu để phòng và chống nạn tham nhũng một cách hiệu quả
(Phạm Quang Huy, 2018). Trong Nghị định số 90/2013/NĐ-CP của Chính phủ, trách
nhiệm giải trình là nghĩa vụ cung cấp thông tin, giải thích và làm rõ về quá trình thực
thi các nhiệm vụ, sử dụng quyền hạn mà nhà nước giao cũng như trách nhiệm của các
đơn vị công. (Chính Phủ, 2013a). Như vậy, cho đến nay, tác giả nhận thấy vẫn chưa có
sự thống nhất cho khái niệm trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, điểm chung nổi bật
trong các khái niệm trách nhiệm giải trình đã đề cập ở trên là nói đến việc các đơn vị
công phải báo cáo thông tin cho bên liên quan về việc tuân thủ, tính chính xác và hiệu
quả của quá trình sử dụng các nguồn lực công; đồng thời, chịu trách nhiệm đối với
hành động của mình. Do vậy, quan điểm của Parker và Gould (1999); Sinclair (1995)
đã phản ánh khá toàn diện khái niệm trách nhiệm giải trình. Trên cơ sở đó, khi bàn về
trách nhiệm giải trình gắn với BCTC mục đích chung trong khu vực công, Mack và
Ryan (2006) cho rằng trách nhiệm giải trình của đơn vị công được thể hiện thông qua
mức độ hiệu quả của việc đánh giá trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải
trình tài chính dựa vào thông tin mà đơn vị công cung cấp trên BCTC mục đích chung.
Luận án này xem xét trách nhiệm giải trình gắn với kế toán, cụ thể là chất lượng
50
BCTC, do vậy, tác giả đã tiếp cận quan điểm về trách nhiệm giải trình theo Mack và
Ryan (2006) để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của luận án.
Theo đó, trong luận án này, tác giả xem xét trách nhiệm giải trình theo hai phạm
trù là trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính theo quan điểm
của Mack và Ryan (2006). Cụ thể, trách nhiệm giải trình công được hiểu là trách
nhiệm giải trình không chính thức nhưng trực tiếp hơn đối với công chúng, các nhóm
cộng đồng và cá nhân quan tâm, thể hiện toàn bộ kết quả hoạt động hiện tại và cả
những tác động của chúng đến các hoạt động trong tương lai (Coy và Dixon, 2004;
Eivani và cộng sự, 2012). Mack và Ryan (2006) cũng chỉ rõ trách nhiệm giải trình
công gồm các đánh giá liên quan đến trách nhiệm giải trình chung hoặc tổng thể cho
các hoạt động của đơn vị công ở hiện tại và cả những ảnh hưởng của các hoạt động
trong tương lai. Còn trách nhiệm giải trình tài chính là việc tập trung vào giám sát đầu
vào và đầu ra hoặc kết quả, nhấn mạnh về năng lực tài chính, chi phí và kết quả tài
chính của đơn vị công mà người quản lý đơn vị sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm trước cơ
quan cấp trên (Sinclair, 1995). Cùng hướng này, Mack và Ryan (2006) cũng mô tả
trách nhiệm giải trình tài chính theo hướng nhấn mạnh đến hoạt động tài chính và hiệu
quả tài chính của đơn vị công bao gồm cả việc so sánh với các đơn vị công khác.
2.3.5. Thành quả hoạt động
Thành quả họat động (performance) của các tổ chức nói chung và tổ chức công
nói riêng là một khái niệm mơ hồ và khó đo lường (Nitzl và cộng sự, 2019). Định
nghĩa theo nghĩa rộng, thành quả hoạt động là thành tích thực tế của một đơn vị so với
thành tích dự định của họ, chẳng hạn như mức độ đạt được các mục tiêu (Im và Lee,
2012). Xét trên khía cạnh cụ thể, Van de Ven và Ferry (1980) nhận thấy thành quả
hoạt động trong khu vực công cần phải bao gồm các chỉ số thể hiện cho thành quả định
lượng và thành quả định tính mà đơn vị đã đạt được. Cụ thể, các chỉ số thể hiện chi tiết
cho thành quả hoạt động của đơn vị công là số lượng công việc đã thực hiện, chất
lượng công việc đã thực hiện, số lượng các đổi mới, danh tiếng, việc đạt được các mục
tiêu, sự hiệu quả của các hoạt động và tinh thần/sự hài lòng của nhân viên (Van de Ven
và Ferry, 1980). Kế thừa bộ chỉ số đo lường thành quả hoạt động áp dụng trong khu
vực công của Van de Ven và Ferry (1980), Williams và cộng sự (1990) mô tả chi tiết
hơn về bản chất của các chỉ số đo lường thành quả hoạt động như sau. Trước hết, chất
51
lượng, số lượng và việc đạt được mục tiêu được coi là thước đo của các mục tiêu đầu
ra của đơn vị công vì chúng phản ánh các thuộc tính của dịch vụ và sản phẩm. Tinh
thần/sự hài lòng của nhân viên được coi là một mục tiêu hệ thống vì nó liên quan đến
việc duy trì sự hài lòng trong công việc, thái độ và bầu không khí làm việc chung trong
đơn vị. Danh tiếng là một đại diện quan trọng của các mục tiêu môi trường vì nó xác
định sự hài lòng của các bên liên quan bên ngoài đối với đơn vị công, trong đó cho
thấy tính hợp pháp về các đánh giá của các bên liên quan về các hoạt động và thành
tích của đơn vị. Cuối cùng, sự hiệu quả và sự đổi mới là những thành phần quan trọng
của các mục tiêu hoạt động, đóng vai trò là phương tiện nhằm đạt được các mục tiêu
đầu ra. Như vậy, thành quả hoạt động của đơn vị công được hiểu là các chỉ số kết quả
thực tế mà đơn vị đã đạt được nhằm thực hiện các mục tiêu (Williams và cộng sự,
1990). Và quan điểm về thành quả hoạt động trong khu vực công của Van de Ven và
Ferry (1980) đã nhận được sự đồng tình của rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới theo
hướng đây là cách đánh giá toàn diện nhất về thành quả hoạt động của đơn vị công,
chẳng hạn Dunk và Lysons (1997), Verbeeten (2008), Verbeeten và Speklé (2015);
Nitzl và cộng sự. (2018). Hơn nữa, tính đến tháng 02/2021, nghiên cứu của Van de
Ven và Ferry (1980) có tới 2.970 trích dẫn, một số lượng trích dẫn khá cao. Do vậy,
thành quả hoạt động của đơn vị công trong luận án được tác giả đo lường theo Van de
Ven và Ferry (1980).
Ngoài ra, bàn về phương pháp đo lường thành quả hoạt động, các nhà nghiên cứu
thường đo lường thành quả hoạt động của tổ chức công theo hai cách: một là đo lường
lưu trữ bằng dữ liệu thứ cấp và hai là đo lường nhận thức bằng dữ liệu sơ cấp
(Andersen và cộng sự, 2016). Chỉ số thành quả hoạt động đo bằng dữ liệu thứ cấp
thường được đánh giá cao do không phụ thuộc vào các phán đoán nhận thức, tuy
nhiên, nó thường tập trung vào các khía cạnh định lượng và bỏ qua những gì thực sự
quan trọng đối với công dân, có thể không phản ánh chính xác chất lượng dịch vụ công
được cung cấp cho công dân (Andrews và cộng sự, 2006). Chẳng hạn như sự hài lòng
của công dân đối với các dịch vụ công hay sự hài lòng của nhân viên trong tổ chức
công về các kết quả mà tổ chức đạt được là những cách đo lường kết quả phổ biến,
được sử dụng rộng rãi vì nó phù hợp với bối cảnh của các tổ chức công (Andersen và
cộng sự, 2016). Hơn nữa, các biện pháp đo lường thành quả hoạt động bằng nhận thức
52
tri giác cũng cho phép so sánh dễ dàng hơn giữa các tổ chức công tồn tại trong các bối
cảnh chính sách hoặc quốc gia khác nhau (Song và Meier, 2018). Đồng thời, trong bối
cảnh khu vực công tại Việt Nam, việc tiếp cận các dữ liệu thứ cấp phản ánh thành quả
hoạt động của từng đơn vị công (gồm các chỉ số phản ánh kết quả định lượng và kết
quả định tính) là rất khó khăn và hầu như khó thực hiện. Vì thế, trong bối cảnh nghiên
cứu này, tác giả tiến hành đo lường thành quả hoạt động của đơn vị công thông qua
thực hiện khảo sát về cảm nhận của nhân viên và nhà quản lý trong đơn vị công đối
với các kết quả mà đơn vị đạt được theo quan điểm của Van de Ven và Ferry (1980).
2.4. Lý thuyết nền
2.4.1. Lý thuyết quản lý công mới (New public management)
Lý thuyết NPM có nguồn gốc từ sự kết hợp của hai luồng ý tưởng khác nhau, đó
là phong trào kinh tế học thể chế mới và một tập hợp mới nhất của một loạt các làn
sóng kinh doanh theo kiểu chủ nghĩa quản lý trong khu vực công (Hood, 1991). Trong
những năm 1980, Hood (1995) cho rằng các quốc gia OECD đã có một động thái mới
đối với lý thuyết NPM theo hướng nhấn mạnh trách nhiệm giải trình công. Đồng thời,
kế toán giữ vị trí quan trọng trong quan niệm mới về trách nhiệm giải trình công, tức
là, các hoạt động sử dụng nguồn lực công cần phải được theo dõi chặt chẽ hơn và được
đánh giá bằng các kỹ thuật kế toán (Hood, 1995). Vì thế, kể từ khi NPM xuất hiện, các
nước OECD đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các cải cách liên quan; cụ thể từ cuối những năm
1980 trở đi, OECD đã tổ chức một loạt các hội nghị để tập hợp các chuyên gia và đại
diện chính phủ cao cấp từ các quốc gia thành viên tham gia cải cách quản trị nội bộ.
Mục đích của các cuộc họp này là để chia sẻ kinh nghiệm và các thực hành tốt nhất để
giúp các quốc gia thành viên thực hiện và hoàn thiện chương trình cải cách của họ
(OECD, 2002). Tuy nhiên, qua ba mươi năm vận hành lý thuyết NPM, Hood và Dixon
(2015) nhận thấy các tác động của NPM là rất phức tạp, cả những tác động tích cực lẫn
tác động tiêu cực, tùy thuộc vào bối cảnh thể chế của từng quốc gia. Vì vậy, hệ thống
cơ sở lý luận trong mảng quản trị công đã bàn luận rất nhiều về các khía cạnh thể chế
của lý thuyết NPM (Tallaki, 2019). Các nhà nghiên cứu cho rằng các đặc điểm thể chế
có thể gây cản trở hoặc thúc đẩy việc thực hiện cải cách theo lý thuyết NPM tại từng
quốc gia (Adhikari và cộng sự, 2013; Tallaki, 2019). Tuy nhiên, Tallaki (2019) nhận
thấy lý thuyết NPM tiếp tục giữ vai trò chi phối trong các cải cách của khu vực công
53
đến nay, là chủ đề được nhiều nước quan tâm bao gồm nước phát triển cũng như đang
phát triển. Và mức độ ảnh hưởng của lý thuyết NPM đối với từng quốc gia là không
giống nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố thuộc bối cảnh từng quốc gia, thậm chí khi các
quốc gia đó đều là nhóm các quốc gia đang phát triển thì cũng không hoàn toàn giống
nhau (Manning, 2001; Tallaki, 2019).
Mục đích chính của lý thuyết NPM là khuyến khích đơn vị công sử dụng tài
nguyên hữu hiệu và hiệu quả bằng cách áp dụng các loại thực hành quản trị tiến bộ của
khu vực tư nhân (Hood, 1991, 1995). Parker và Gould (1999) tiếp tục khẳng định rằng
ý tưởng chính của lý thuyết NPM là việc áp dụng các kỹ thuật quản lý tiên tiến của
khu vực tư nhân cho khu vực công nhằm tăng cường thành quả hoạt động cho từng tổ
chức. Đặc biệt, lý thuyết NPM theo quan điểm của các nước OECD thường nhấn mạnh
đến minh bạch tài chính, cải thiện trách nhiệm giải trình và tăng cường thành quả hoạt
động cho khu vực công (Arellano-Gault và Lepore, 2011; Verbeeten và Speklé, 2015)
và cần được kết nối với kỹ thuật kế toán phù hợp (Hood, 1995). Theo đó, IPSASB đã
ban hành IPSAS dựa vào CMKT quốc tế của khu vực tư, nhằm tạo ra các hướng dẫn
thực hành phù hợp, tăng cường minh bạch tài chính, cải thiện trách nhiệm giải trình và
ra quyết định hữu ích cho khu vực công ở các nước trên thế giới (Rodríguez Bolívar và
Galera, 2013). Hơn nữa, lý thuyết NPM có thể được sử dụng để giải thích việc giới
thiệu kế toán dồn tích trong khu vực công như là một phần của cải cách tài chính đã và
đang diễn ra ở nhiều quốc gia (Carini và cộng sự, 2019), giúp nâng cao chất lượng
thông tin mà kế toán cung cấp, tăng tính hữu ích của BCTC cho mục đích ra quyết
định và đánh giá trách nhiệm giải trình (Cohen, S. và Karatzimas, 2017), cuối cùng là
cải thiện thành quả hoạt động của đơn vị công (Christensen và Lægreid, 2015). Tóm
lại, tác động của lý thuyết NPM đối với kế toán khu vực công là tập trung vào tăng
tính hữu ích của BCTC cho mục đích ra quyết định và trách nhiệm giải trình (IPSASB,
2013), tập trung vào trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính
(Bowrey và cộng sự, 2016; Coy và cộng sự, 2001; Mack và Ryan, 2006), qua đó kiểm
soát tốt hơn quá trình tiêu dùng tài sản công và gia tăng thành quả hoạt động trong các
tổ chức trong khu vực công (Christensen và Lægreid, 2015).
Trong nghiên cứu này, lý thuyết NPM rất hữu ích trong việc giải thích mục đích
của các cải cách kế toán công hiện nay ở các nước trên thế giới là nhằm nâng cao chất
54
lượng BCTC (Cohen, S. và Karatzimas, 2017), cải thiện trách nhiệm giải trình
(Bowrey và cộng sự, 2016) và cuối cùng là nâng cao thành quả hoạt động cho các đơn
vị công (Christensen và Lægreid, 2015). Chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình là
hai mối quan tâm hàng đầu của các bên liên quan nhằm đánh giá thành quả hoạt động
của đơn vị công về việc sử dụng các nguồn lực công khi thực hiện các nhiệm vụ mà
nhà nước phân công. Như vậy, theo khuyến nghị của lý thuyết NPM, các đơn vị công
cung cấp BCTC đảm bảo các yêu cầu về chất lượng tốt thì sẽ giúp tăng cường trách
nhiệm giải trình và ra quyết định hữu ích, từ đó dẫn đến gia tăng thành quả hoạt động
của tổ chức. Hơn nữa, tăng cường trách nhiệm giải trình sẽ giúp các bên liên quan
giám sát tốt hơn việc sử dụng nguồn lực công, tạo áp lực cho đơn vị công cải thiện
thành quả hoạt động (Hood, 1995). Tóm lại, lý thuyết NPM đã cung cấp cơ sở lý luận
về sự tồn tại (1) tác động cùng chiều của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình;
(2) tác động cùng chiều của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động; (3) tác động
cùng chiều của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động. Hơn nữa, tác động gián
tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động thông qua trách nhiệm giải trình
cũng được nhìn rõ thông qua lý thuyết này. Do vậy, các đơn vị công cần tăng cường áp
dụng các thực hành kế toán mới của khu vực tư nhân một cách phù hợp để nâng cao
chất lượng thông tin kế toán, đảm bảo minh bạch, cải thiện trách nhiệm giải trình, từ
đó, các đơn vị công sẽ hoạt động với kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, việc thực hiện các
thực hành kế toán mới để đạt chất lượng BCTC như mong đợi và thực hiện hiệu quả
trách nhiệm giải trình lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác và được giải thích thông qua
lý thuyết thể chế, lý thuyết đại diện cũng như lý thuyết bất định trong phần tiếp theo.
2.4.2. Lý thuyết thể chế (Institutional Theory)
Lý thuyết thể chế là một trong những quan điểm chủ đạo trong lý thuyết quản lý
và tổ chức (Tallaki, 2019). Các tài liệu về lý thuyết thể chế rất đa dạng với nhiều cách
giải thích khác nhau. Các quan điểm thể chế được đề cập đầu tiên bởi Meyer và
Rowan (1977). Meyer và Rowan (1977) nhận ra rằng thể chế như là một yếu tố quyết
định chính của cơ cấu tổ chức, cụ thể, dưới các áp lực từ các thành phần bên ngoài và
bên trong tổ chức nên tổ chức buộc phải tuân thủ một tập hợp các kỳ vọng để đạt được
tính hợp pháp, từ đó, tổ chức mới có thể tồn tại lâu dài. Hơn nữa, DiMaggio và Powell
(1983) nhận thấy các tổ chức luôn hoạt động trong khuôn khổ xã hội về các chuẩn
55
mực, giá trị và giả định về những gì cấu thành hành vi kinh tế phù hợp hoặc chấp nhận
được. Theo đó, lý thuyết thể chế mô tả một cấu trúc trong đó một tổ chức áp dụng một
cái gì đó phù hợp với quy tắc đạo đức, văn hóa và kỳ vọng xã hội dẫn đến tính hợp
pháp và nhận được hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài để tồn tại (Carpenter và Feroz,
2001). Tổng quát hơn, các thể chế gồm các cấu trúc nhận thức, quy phạm pháp luật và
các hoạt động đem lại sự ổn định và ý nghĩa cho hành vi; Và các cấu trúc tổ chức có
xu hướng phù hợp với các định chế được thể chế hóa trong xã hội (Scott, 2005).
Một số nhà nghiên cứu đã phân loại lý thuyết thể chế thành hai luồng nghiên cứu
(Tallaki, 2019): lý thuyết kinh tế thể chế cũ (thường gọi là lý thuyết thể chế cũ) và lý
thuyết xã hội thể chế mới (thường được gọi là lý thuyết thể chế mới). Trước hết, lý
thuyết thể chế cũ tập trung vào các quá trình thay đổi trong các tổ chức (Barley và
Tolbert, 1997; Burns và Scapens, 2000). Còn lý thuyết thể chế mới sử dụng các khái
niệm như hợp pháp hóa để giải thích áp lực của các tổ chức bên ngoài (DiMaggio và
Powell, 1983; Meyer và Rowan, 1977). Cụ thể hơn, lý thuyết thể chế cũ phân tích sự
tương tác của các quy trình nội bộ của tổ chức với việc giới thiệu một thể chế hoặc
logic mới, trong khi lý thuyết xã hội thể chế mới tập trung vào sự phổ biến và tính hợp
pháp của các thể chế hoặc logic mới. Nói cách khác, lý thuyết thể chế cũ nêu bật quy
trình nội bộ của việc thực hiện, trong khi lý thuyết thể chế mới nhấn mạnh quy trình
bên ngoài của việc chấp nhận. Trong những năm gần đây, lý thuyết thể chế cũ và lý
thuyết thể chế mới (gọi chung là lý thuyết thể chế) đã được sử dụng cùng với nhau để
cùng giải thích cho các cải cách kế toán trong khu vực công (Burns và Scapens, 2000;
Rajib và cộng sự, 2019; Tallaki, 2019). Và nội dung lý thuyết thể chế được DiMaggio
và Powell (1983) mô tả khá chi tiết và rõ ràng, được nhiều nghiên cứu trước sử dụng
khi bàn luận về chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình trong khu vực công
(Ahyaruddin và Akbar, 2016; Cohen, S. và Karatzimas, 2017). Vì thế, nghiên cứu này
đã tiếp cận quan điểm về lý thuyết thể chế theo DiMaggio và Powell (1983).
Tương tự, DiMaggio và Powell (1983) cho rằng cùng với thời gian, trong một
khu vực được thiết lập tốt, các tổ chức có xu hướng chuyển sang đồng nhất hóa, mặc
dù lúc đầu, chúng cho thấy sự đa dạng khá lớn. Một thuật ngữ thích hợp để mô tả quá
trình đồng nhất hóa là đẳng cấu (isomorphism). DiMaggio và Powell (1983) đã phân
biệt hai loại đẳng cấu: đẳng cấu cạnh tranh (competitive isomorphism) và đẳng cấu thể
56
chế (institutional isomorphism). Trong đó, đẳng cấu cạnh tranh đề cập đến tác động
của lực lượng thị trường, liên quan đến tính hiệu quả và tổ chức nên chọn một cách rẻ
hơn, tốt hơn hoặc hiệu quả hơn để hoạt động. Còn đẳng cấu thể chế đề cập đến tác
động của các tổ chức bên ngoài bao gồm các tổ chức chính phủ, các cơ quan chuyên
môn và các bên liên quan của đơn vị công. Đẳng cấu thể chế phát triển theo ba cơ chế:
cưỡng chế (coercive), bắt chước (mimetic) và quy chuẩn (normative). Đẳng cấu cưỡng
chế xuất phát từ ảnh hưởng chính trị và các vấn đề chính đáng; tức là, áp lực đến từ áp
lực chính thức hoặc không chính thức từ các bên liên quan của tổ chức. Trong khi
đẳng cấu bắt chước phát sinh là kết quả của một quá trình nhằm đáp ứng với sự không
chắc chắn của một môi trường trong khu vực nơi đơn vị đang hoạt động. Khi có sự
không chắc chắn, các tổ chức có xu hướng bắt chước các thực hành mà các tổ chức
khác đang thực hiện để đạt được tính hợp pháp. Cuối cùng, đẳng cấu quy chuẩn phát
sinh khi các cá nhân trong tổ chức phải chịu áp lực tuân thủ một bộ quy tắc và luật lệ
đã được phát triển bởi các nhóm nghề nghiệp hoặc cơ quan chuyên môn.
Lý thuyết thể chế được vận dụng cho nghiên cứu này như sau: Trước hết, đẳng
cấu cạnh tranh trong bối cảnh khu vực công tại nhiều nước trên thế giới hiện nay cũng
được thể hiện rõ hơn với việc tăng cường áp dụng cơ chế tự chủ tài chính. Mục đích
của cơ chế tự chủ tài chính nhằm giảm gánh nặng của ngân sách, tăng tính chủ động
của đơn vị công để hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ được giao và tạo áp lực để đơn vị
công sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách hiện có. Theo đó, các đơn vị công sẽ phải thực
hiện nhiều thay đổi để thích nghi, chẳng hạn tái cấu trúc, sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh
gọn, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng lao động, kinh phí quản lý
hành chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh để đạt kết quả hoạt động cao nhất có
thể. Do vậy, yếu tố quy mô và thời gian hoạt động được xem là các biến số kiểm soát
có thể ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các đơn vị công. Bởi lẽ, quy mô và thời
gian hoạt động thể hiện cho các đặc điểm cấu trúc bên trong của tổ chức, ảnh hưởng
đến khả năng tổ chức thay đổi để thích nghi với cơ chế tự chủ mới nhằm đạt được tính
hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Tiếp theo, đẳng cấu thể chế là một điều không thể tránh khỏi đối với khu vực
công, yếu tố thể chế là điều cần thiết trong việc hiểu mô hình hoạt động của các đơn vị
công (Nuhu và Appuhami, 2016). Người ta đã chứng minh rằng áp lực cưỡng chế chủ
57
yếu được gây ra bởi các nhà tài trợ/người cho vay quốc tế đòi hỏi các BCTC chất
lượng cao như một sự đảm bảo cho việc hỗ trợ tài chính của họ (Alon và Dwyer,
2014). Bên cạnh đó, trong bối cảnh là các đơn vị công, nguồn lực của đơn vị được tài
trợ chủ yếu bằng NSNN (tài sản của công dân) nên yêu cầu về tính minh bạch tài
chính thông qua việc đảm bảo chất lượng BCTC lại càng cần thiết, nhằm giúp người
dùng có cơ sở phù hợp khi đánh giá trách nhiệm giải trình và ra quyết định. Để đáp
ứng kỳ vọng xã hội, các đơn vị trong khu vực công phải tuân thủ mọi quy định của nhà
nước về quy trình lập và công khai BCTC đảm bảo chất lượng và thực hiện tốt trách
nhiệm giải trình. Thủ trưởng đơn vị công là người có quyền lực cao nhất và phải chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động của đơn vị (Chính phủ, 2005; Chính phủ, 2015). Dưới
áp lực cưỡng chế, thủ trưởng đơn vị công buộc phải thể hiện đúng vai trò lãnh đạo của
mình theo hướng tuân thủ luật và tuân thủ trách nhiệm giải trình khi chỉ đạo nhân viên
thực hiện nhiệm vụ mà nhà nước giao (Tummers và Knies, 2016). Vì thế, tồn tại tác
động cùng chiều của vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình trong các đơn vị công. Hơn nữa, dưới áp lực cưỡng chế được tạo ra bởi các bên
liên quan yêu cầu sự minh bạch tài chính trong các đơn vị công, nhiều quốc gia đang
thay đổi chế độ kế toán theo hướng tiếp cận IPSAS hoặc vận dụng cơ sở dồn tích nhằm
nâng cao chất lượng BCTC, đảm bảo minh bạch và cải thiện trách nhiệm giải trình
(Cohen, S. và Karatzimas, 2017). Tuy nhiên, quá trình vận hành chế độ kế toán mới là
thách thức lớn đối với kế toán, muốn áp dụng thành công chế độ kế toán mới đòi hỏi
kế toán phải có năng lực phù hợp (Yen và cộng sự, 2019). Mặc khác, thủ trưởng đơn vị
công là người trực tiếp chịu trách nhiệm giải trình về các kết quả mà đơn vị đã thực
hiện, thế nhưng, bộ phận kế toán cũng phải tham gia hỗ trợ thủ trưởng giải trình các
vấn đề về tài chính khi có sự thanh tra, kiểm tra từ các cơ quan chức năng như cơ quan
kiểm toán nhà nước. Do vậy, năng lực kế toán không những ảnh hưởng đến chất lượng
BCTC mà còn ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công. Bên cạnh đó,
đẳng cấu bắt chước đề cập đến việc bắt chước các thực hành mà các đơn vị hoặc quốc
gia khác đã thực hiện thành công và hợp pháp hơn. Theo logic này, áp lực bắt chước
bên ngoài phát sinh từ toàn cầu hóa thị trường, sự cởi mở đối với ngoại thương và cạnh
tranh ngày càng tăng thúc đẩy các nước áp dụng các thực hành kế toán tốt nhất như
IPSAS (Mnif Sellami và Gafsi, 2019). Hơn nữa, trong bối cảnh của một quốc gia, ở
58
những đơn vị công có cùng chế độ kế toán thì nhân viên kế toán cũng có xu hướng bắt
chước lẫn nhau khi thực hiện, tuy nhiên năng lực của từng nhân viên kế toán là không
giống nhau, do vậy, điều này dự kiến sẽ tác động đến chất lượng BCTC. Ngoài ra, các
áp lực quy chuẩn cũng góp phần tạo ra, phát triển và phổ biến các chuẩn mực kế toán
chuyên nghiệp, chẳng hạn như áp dụng IPSAS nhằm tạo ra các BCTC chất lượng cao
(Gomes, P. S. và cộng sự, 2015; Mnif Sellami và Gafsi, 2019). Chính vì thế, dưới áp
lực quy chuẩn, nhiều quốc gia đã và đang chuyển sang áp dụng các thực hành kế toán
mới được phát triển bởi các cơ quan chuyên môn như IPSASB. Khi đó, nhân viên kế
toán phải tự ý thức về việc nâng cao năng lực để thích ứng với bối cảnh cải cách, bởi
vì đây là yêu cầu cần thiết cho công việc mà họ đang thực hiện cũng như cơ hội thay
đổi môi trường công việc đối với kế toán. Tóm lại, dưới áp lực bắt chước và áp lực
quy chuẩn thì năng lực kế toán có tác động đến chất lượng BCTC.
Như vậy, lý thuyết thể chế đã chỉ rõ sự thay đổi chế độ kế toán khu vực công ở
nhiều quốc gia hiện nay xảy ra chủ yếu không phải chỉ vì tính hiệu quả của nó mà còn
do kết quả của một số áp lực thể chế muốn tăng cường tính minh bạch tài chính thông
qua cải thiện chất lượng BCTC phục vụ tốt hơn nhu cầu về thông tin của người dùng
khi đánh giá trách nhiệm giải trình và đưa ra các quyết định. Do đó, lý thuyết thể chế
là rất phù hợp trong nghiên cứu này vì nó giúp tác giả nhận diện rõ sự tác động của vai
trò lãnh đạo và năng lực kế toán đến chất lượng BCTC cũng như việc thực hiện trách
nhiệm giải trình của các đơn vị công.
2.4.3. Lý thuyết bất định (Contingency Theory)
Lý thuyết bất định được phát triển từ lý thuyết tổ chức vào khoảng giữa những
năm 1960, ban đầu là một cơ sở lý thuyết phục vụ cho việc giải thích cơ cấu tổ chức
trong quan hệ với các yếu tố thuộc môi trường xung quanh của nó (Lawrence và
Lorsch, 1967). Lý thuyết bất định được sử dụng cho lĩnh vực kế toán phát triển bắt đầu
vào giữa những năm 1970 trong việc giải thích các yếu tố có ảnh hưởng đến quá trình
thực hiện các cải cách kế toán trong tổ chức. Theo đó, Gordon và Miller (1976) đã chỉ
ra hai nhóm nhân tố bất định có ảnh hưởng đến việc tổ chức hệ thống kế toán của một
tổ chức là thuộc tính tổ chức và môi trường kinh doanh. Trong đó, Gordon và Miller
(1976) nhấn mạnh rằng thuộc tính tổ chức bao gồm các nguồn lực sẵn có và cách thức
mà doanh nghiệp đó được được tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp đến thiết kế hệ thống
59
kế toán của đơn vị. Sau đó, nhiều nghiên cứu đã sử dụng khung lý thuyết bất định
nhằm giải thích ảnh hưởng của các nhân tố bất định, chẳng hạn như quy mô, thời gian
hoạt động, sự không chắc chắn về môi trường,… đối với việc áp dụng các loại thực
hành kế toán quản trị trong kiểm soát quản lý doanh nghiệp (Otley, 1980, 2016).
Mặc dù lý thuyết bất định đã được phát triển trong khu vực tư nhân và được sử
dụng rất nhiều trong phạm vi kế toán quản trị (Hall, 2016; Otley, 2016). Nhưng cũng
có các nghiên cứu đã sử dụng quan điểm của lý thuyết bất định để giải thích các cải
cách quản lý và kế toán trong khu vực công (Van Helden và Ouda, 2016). Trong lĩnh
vực kế toán khu vực công, Luder (1992) được xem là một trong những người đầu tiên
đã đưa ra ứng dụng mô hình bất định để giải thích sự đổi mới kế toán của chính phủ.
Luder (1992) đã sử dụng cả hai biến số về bối cảnh và hành vi liên quan đến các kích
thích, biến cấu trúc, hệ thống hành chính chính trị và các rào cản thực thi để giải thích
các cải cách trong kế toán khu vực công (Upping và Oliver, 2011). Theo đó, mô hình
bất định tìm cách giải thích những gì và làm thế nào mà các yếu tố môi trường bên
trong và môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến sự phổ biến các đổi mới trong hệ thống
thông tin kế toán của khu vực công. Đề cập về hệ thống kế toán và BCTC, theo lý
thuyết bất định thì hệ thống kế toán mang tính đặc thù riêng, nó thể hiện sự phù hợp
với các yếu tố trong từng tổ chức nên không có một hệ thống kế toán nào hay mô hình
kế toán tổng quát nào mà có thể được áp dụng chung cho tất cả các tổ chức (Anessi
Pessina và cộng sự, 2008; Otley, 1980; Thomas, 1991). Các tổ chức sẽ phải áp dụng
các thông lệ kế toán mới nhằm tìm kiếm sự điều chỉnh tốt hơn giữa quy định kế toán
và các yếu tố bất định của tổ chức (Woods, 2009). Việc thiết kế và vận hành một hệ
thống kế toán mới sẽ phụ thuộc vào năng lực của tổ chức để nhận biết và thích ứng với
các thay đổi từ bên ngoài như các chính sách kế toán mới trong phạm vi quốc gia và
quốc tế (Pollitt và Bouckaert, 2004). Nói cách khác, sự phát triển và hỗ trợ cho chất
lượng thông tin kế toán được gia tăng trong bối cảnh cải cách kế toán của khu vực
công bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố thuộc tổ chức (Xu và cộng sự, 2003) phải được
tăng cường để cho phép thực hiện thành công cải cách đổi mới (Anessi Pessina và
cộng sự, 2008). Trước hết, năng lực kế toán là yếu tố tổ chức thực sự quan trọng nhằm
kích thích và làm nổi bật việc cung cấp thông tin tài chính, tạo lập các báo cáo kế toán
có chất lượng (Azmi và Mohamed, 2014; Sagara, 2015), cũng như có tham gia vào
60
công tác giải trình tài chính đối với các cơ quan thanh tra và kiểm toán. Hơn nữa, nhà
lãnh đạo là giữ vai trò quan trọng đối với quá trình cải cách kế toán diễn ra bên trong
đơn vị công (Van der Voet và cộng sự, 2015), đảm bảo các cam kết về việc tạo lập
thông tin kế toán có chất lượng (Mardinan và cộng sự, 2018) cũng như việc thực hiện
tốt trách nhiệm giải trình của đơn vị công (Dewi và cộng sự, 2019). Ngoài ra, lý thuyết
bất định cũng cho thấy các yếu tố bất định khác như quy mô và thời gian hoạt động sẽ
có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động mà đơn vị công đã thực hiện được.
Như vậy, theo lý thuyết bất định, các thuộc tính tổ chức liên quan đến nguồn lực
sẵn có sẽ có tác động trực tiếp đối với toàn bộ hoạt động trong một tổ chức, cụ thể là
nguồn nhân lực. Nhân lực được định nghĩa bao gồm toàn bộ các tiềm năng của con
người trong một tổ chức, từ nhân viên cho tới lãnh đạo cấp cao (Brown, 2004). Hơn
nữa, Đậu Thị Kim Thoa (2019) còn nhấn mạnh rằng một tổ chức sẽ không thể nào
hoạt động được nếu bộ máy chỉ có duy nhất nhà lãnh đạo, mà đòi hỏi bộ máy tổ chức
cần phải có sự tham gia của nhân viên nhằm giúp nhà lãnh đạo thực hiện được các
chính sách cũng như kế hoạch của mình. Cụ thể, người trực tiếp tạo lập, cung cấp
thông tin BCTC cũng như hỗ trợ thủ trưởng thực hiện giải trình vấn đề tài chính đó là
kế toán (Phạm Quang Huy, 2018). Do vậy, lý thuyết bất định giúp làm rõ ảnh hưởng
cùng chiều của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình. Ngoài ra, lý thuyết này còn giúp nhận diện ảnh hưởng của hai biến số
bất định khác được xem là có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động trong đơn vị công là
quy mô và thời gian hoạt động.
2.4.4. Lý thuyết đại diện (Agency Theory)
Lý thuyết đại diện được xuất hiện trong bối cảnh những năm 1970, ban đầu được
sử dụng phổ biến trong khu vực tư. Một số nghiên cứu được thực hiện đầu tiên chủ
yếu xoay quanh sự bất cân xứng về thông tin xảy ra bởi người sở hữu (người chủ) và
người quản lý (người đại diện) của ngành bảo hiểm (Jensen và Meckling, 1976), sau
đó, nhiều nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết này trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Zimmerman (1977) được xem là một trong những người đầu tiên giới thiệu lý thuyết
đại diện cho các nhà nghiên cứu kế toán khu vực công (Kurtenbach và Roberts,
1994).Vấn đề đại diện trong lý thuyết này liên quan chủ yếu tới người chủ sở hữu
(principals) hay còn được xem là người chủ của các nguồn lực và người đại diện
61
(agents) là người mà được người chủ sở hữu thuê hay còn gọi là người được ủy quyền
(người được thuê) (Giddens, 1979). Người đại diện được người chủ sở hữu trao một số
quyền lực nhất định khi quản lý các loại nguồn lực trong tổ chức nhằm phục vụ lợi ích
cho người chủ sở hữu. Lý thuyết đại diện cho rằng nếu chủ sở hữu và người đại diện
đơn vị đều muốn tối đa hóa lợi ích của chính họ thì có khả năng tin rằng người đại diện
đơn vị thường không muốn làm việc hết mình để mang lại lợi ích cao nhất cho chủ sở
hữu của họ (Kurtenbach và Roberts, 1994). Vì thế, lý thuyết này quan tâm đến việc tìm
ra các cơ chế để mà người đại diện có thể làm việc hết mình nhằm mang lại lợi ích tốt
nhất cho chủ sở hữu khi họ nắm nhiều thông tin hơn chủ sở hữu và có các lợi ích khác
biệt so với chủ sở hữu (Sinnadurai, 2018).
Đặc biệt, Zimmerman (1977) lưu ý rằng mối quan hệ đại diện thể hiện trong khu
vực công có phần phức tạp hơn khu vực tư, bởi vì khu vực công có nhiều chủ sở hữu
và người đại diện liên quan. Đối với khu vực công, NSNN thuộc sở hữu toàn dân, vì
thế, người dân vừa được xem là nhà đầu tư mà họ cũng vừa được xem là người sử
dụng dịch vụ công, tức là người chủ sở hữu; còn người đại diện của họ có thể là Quốc
hội, Chính phủ, cơ quan cấp trên hay các nhà quản lý trong các đơn vị công (Van
Helden và Ouda, 2016). Theo lý thuyết đại diện, vấn đề thông tin bất cân xứng trong
đơn vị công là khá phổ biến đối với quan hệ giữa nhà quản lý và các bên liên quan
(Kurtenbach và Roberts, 1994). Đặc biệt, Boston (2016) nhận thấy lý thuyết đại diện
càng trở nên có liên quan trong cải cách khu vực công theo lý thuyết NPM và ý tưởng
chính của lý thuyết này là nhà hoạch định chính sách cũng như nhà quản lý công
không có cùng lợi ích với công dân hay nhân viên của đơn vị. Do vậy, cần có cơ chế
và công cụ giám sát thích hợp để bảo vệ quyền lợi cho người dân và các bên liên quan
được xem là chủ sở hữu nguồn lực (Zimmerman, 1977). Trước hết, nhà hoạch định
chính sách cũng như nhà quản lý công cần phải chịu trách nhiệm về hành động của
mình để chứng minh rằng họ đã thực hiện các hành động theo đúng trách nhiệm
(Kurtenbach và Roberts, 1994). Chẳng hạn, bằng việc đưa ra các quy định pháp lý về
trách nhiệm giải trình (cơ chế giám sát), nhà quản lý công buộc phải giải trình đồng thời
họ phải chịu trách nhiệm về kết quả công việc khi họ chỉ đạo thực hiện đối với nhiều bên liên
quan như: nhà tài trợ, cơ quan cấp trên, nhân viên trong tổ chức, chính phủ, công
chúng,...(Đậu Thị Kim Thoa, 2019). Đảm bảo trách nhiệm giải trình đã được công
62
nhận là một nguyên tắc cơ bản để đạt được mục đích dự định của các đơn vị công, cuối
cùng là tăng cường thành quả hoạt động (Han, 2020). Và để đánh giá chính xác trách
nhiệm giải trình của đơn vị công thì các bên liên quan cần được cung cấp các BCTC
(công cụ giám sát) đảm bảo chất lượng (Dewi và cộng sự, 2019). Chính vì thế, trong
bối cảnh thông tin bất đối xứng (Rodríguez Bolívar và cộng sự, 2013) thì các BCTC
của đơn vị công là những công cụ mà người dùng bên ngoài (ví dụ như công dân, nhà
đầu tư, cơ quan cấp trên, cơ quan giám sát) và người dùng bên trong sử dụng nhằm
theo dõi các hoạt động, đánh giá kết quả hoạt động mà đơn vị đã thực hiện (Blanco và
cộng sự, 2011; Mack và Ryan, 2006), từ đó đưa ra các quyết định phù hợp. Như vậy,
yêu cầu về chất lượng thông tin cung cấp trên BCTC rất quan trọng đối với tất cả các
bên liên quan (Alcaide Muñoz và cộng sự, 2017) để phục vụ cho nhu cầu đánh giá
trách nhiệm giải trình và đưa ra quyết định liên quan đến đơn vị công (Cohen, S. và
Karatzimas, 2017; Rossi và cộng sự, 2019), từ đó, tạo áp lực cho các nhà quản lý điều
hành hiệu quả hơn.
Trong khu vực công, Quốc hội đại diện cho công chúng trao quyền quản lý và sử
dụng NSNN cho các đơn vị công (Đậu Thị Kim Thoa, 2019). Các đơn vị công có trách
nhiệm sử dụng hiệu quả các nguồn thu và nguồn ngân sách cấp phát và phải thực hiện
việc giải trình về các nguồn thu, khoản chi tiêu phát sinh tại đơn vị trình lên cơ quan
ngân sách cấp trên xét duyệt và công khai cho công chúng được biết (Phạm Quang
Huy, 2018). Thủ trưởng các đơn vị công, chính quyền và quan chức ở cấp thấp, cấp
trực tiếp sử dụng tài chính công dĩ nhiên sẽ có lợi thế hơn về thông tin, họ có thể sẽ cố
gắng đưa ra những thông tin có lợi cho họ để giải trình về các khoản ngân sách được
cấp nhằm hoàn thành trách nhiệm được giao, thậm chí trong trường hợp vì tư lợi cá
nhân họ sẽ cung cấp thông tin không chính xác che giấu những hành vi tư lợi cá nhân
(Cao Thị Cẩm Vân, 2016). Trong khi đó, Quốc hội đại diện cho công chúng và Chính
phủ cũng mong muốn nhận được thông tin minh bạch từ các đơn vị này để đánh giá
hiệu quả quản lý, vì thế xuất hiện thông tin bất cân xứng và luôn tồn tại một chi phí đại
diện (Nguyễn Thị Thu Hiền, 2015). Như vậy, để chi phí đại diện thấp nhất đòi hỏi
Quốc hội, Chính phủ phải thiết lập các quy định chặt chẽ về trách nhiệm giải trình và
công bố các BCTC đảm bảo chất lượng để các đơn vị công tuân thủ (Đậu Thị Kim
Thoa, 2019). Tóm lại, việc công bố các BCTC đảm bảo chất lượng và thực hiện tốt
63
trách nhiệm giải trình sẽ làm giảm bớt sự bất cân xứng về thông tin giữa người đại
diện và người chủ. Tuy nhiên, lý thuyết đại diện cho thấy luôn có sự tồn tại về các nhu
cầu lợi ích khác nhau giữa người quản lý và các bên liên quan của khu vực công
(Zimmerman, 1977). Sự không cân xứng thông tin là lý do chính làm cho chất lượng
BCTC của đơn vị cung cấp không đảm bảo độ tin cậy cao. Khi đó, chất lượng BCTC
sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng thông tin BCTC của người dùng cho mục đích đánh giá
trách nhiệm giải trình và ra quyết định. Theo lý thuyết này, tác giả nhận thấy các nhà
quản lý cũng như nhân viên kế toán dưới sự chỉ đạo của họ được xem là các yếu tố
chính ảnh hưởng đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình bởi vì họ đại diện cho
các bên có lợi thế về thông tin hơn so với người chủ trong khu vực công. Do vậy, nếu
nhà lãnh đạo đơn vị công có định hướng tuân thủ luật và định hướng trách nhiệm giải
trình thì bản thân họ cùng với nhân viên kế toán có năng lực tốt sẽ thực hiện đúng các
quy định của nhà nước về cung cấp các BCTC đảm bảo chất lượng và thực hiện tốt
trách nhiệm giải trình. Gia tăng trách nhiệm giải trình giúp thành quả hoạt động được
cải thiện, tức là quyền lợi của người dân cũng như các bên liên quan khác mà đóng vai
trò là người chủ trong khu vực công được đảm bảo (Han, 2020).
Tổng kết lại, qua việc phân tích trên, tác giả nhận thấy lý thuyết đại diện được sử
dụng xuyên suốt trong đề tài giúp tác giả nhận ra được tầm quan trọng của chất lượng
BCTC và trách nhiệm giải trình trong quá trình giám sát hoạt động của người đại diện
(tiêu biểu là nhà lãnh đạo) để đơn vị công hoạt động với kết quả tốt hơn, từ đó, đảm
bảo quyền lợi cho người chủ (tiêu biểu là công dân). Như vậy, lý thuyết này làm nổi
bật được tác động của vai trò lãnh đạo và năng lực kế toán đối với chất lượng BCTC
và trách nhiệm giải trình của các đơn vị công. Đồng thời, lý thuyết này cũng cho thấy
mục đích tăng cường chất lượng BCTC nhằm giúp tăng cường trách nhiệm giải trình
và thành quả hoạt động; hơn nữa, tăng cường trách nhiệm giải trình sẽ góp phần nâng
cao thành quả hoạt động của các đơn vị công. Do vậy, vai trò trung gian của trách
nhiệm giải trình đối với tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt
động cũng được hỗ trợ bởi lý thuyết đại diện.
2.5. Phát triển các giả thuyết nghiên cứu
Trong những năm qua đã có nhiều cuộc cải cách tài chính trong khu vực công
trên thế giới. Những nỗ lực cải cách tại từng quốc gia nhằm tăng cường tính minh
64
bạch, trách nhiệm giải trình và cuối cùng là nâng cao thành quả hoạt động của khu vực
công (Rossi và cộng sự, 2019). Theo đó, các nhà quản lý khu vực công có trách nhiệm
không chỉ đối với cách thức mà các quỹ công được phân phối mà còn liên quan đến cả
tính hữu hiệu và tính hiệu quả của việc sử dụng các quỹ đó. BCTC mục đích chung
trong khu vực công được nhiều nghiên cứu chỉ rõ là phương tiện quan trọng để các bên
liên quan đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn vị công (Han, 2020; Patton, 1992;
Steccolini, 2004). Hơn nữa, các khung khái niệm được phát triển bởi GASB, CICA,
AASB và IPSASB cũng đồng tình rằng BCTC mục đích chung trong khu vực công
giúp truyền đạt thông tin hữu ích cho người dùng khi ra quyết định và đánh giá trách
nhiệm giải trình của đơn vị công (Cohen, S. và Karatzimas, 2017). Vì thế, gần đây,
nhiều quốc gia đã và đang thay đổi chế độ kế toán áp dụng cho khu vực công nhằm
giúp tạo lập các BCTC có chất lượng tốt để cung cấp thông tin hữu ích cho người dùng
khi đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn vị công (Cohen, S. và Karatzimas, 2017;
Mbelwa và cộng sự, 2019; Tallaki, 2019). Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi chế độ kế
toán cũ sang chế độ kế toán mới cũng gặp phải nhiều rào cản (tập trung vào yếu tố
người thực hiện và người hỗ trợ) và các rào cản chuyển đổi này đã ảnh hưởng đến tính
hữu ích của thông tin được cung cấp cho người dùng (Nakmahachalasint và
Narktabtee, 2019). Như vậy, từ phương diện lý thuyết, tác giả nhận thấy có sự gắn kết
chặt chẽ giữa năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC, trách
nhiệm giải trình và thành quả hoạt động trong các đơn vị công. Sự gắn kết này còn
được thể hiện rõ hơn trong một số nghiên cứu nước ngoài nổi bật có liên quan, được
trình bày tại Phụ lục 7. Trên cơ sở lý luận này, trước khi trình bày mô hình nghiên cứu,
tác giả giải thích rõ hơn về các giả thuyết nghiên cứu liên quan trong phần sau đây.
2.5.1. Tác động của năng lực kế toán đến chất lượng báo cáo tài chính
Trước hết, tác động của năng lực kế toán đến chất lượng BCTC được giải thích
thông qua lý thuyết thể chế. Với đẳng cấu cưỡng chế, các áp lực bên ngoài đến từ cơ
quan thanh tra, kiểm toán hay các tổ chức tài trợ yêu cầu các đơn vị công phải đảm bảo
tính minh bạch tài chính, sản xuất và cung cấp được thông tin kế toán đảm bảo chất
lượng. Và Việt Nam đang trong giai đoạn thay đổi nhiều chế độ kế toán liên quan đến
khu vực công theo hướng vận dụng cơ sở dồn tích đầy đủ trong ghi nhận nghiệp vụ
kinh tế; cơ sở dồn tích yêu cầu nhân viên kế toán có sự am hiểu chuyên sâu về chuyên
65
môn, có nhiều nghiệp vụ kinh tế buộc kế toán phải sử dụng các xét đoán, ước tính
chuyên môn. Vì thế, kế toán buộc phải có kiến thức chuyên môn tốt thì mới có thể
hoàn thành tốt công việc của mình. Bên cạnh đó, dưới áp lực cưỡng chế, kế toán buộc
phải có thái độ làm việc cùng chiều, trung thực, ham học hỏi để tiếp thu các kiến thức
mới phục vụ công việc; điều này cũng góp phần tạo nên chất lượng cho BCTC. Hơn
nữa, trong xu hướng hội nhập quốc tế, với việc ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP), hiệp định thỏa thuận thương mại tự do, trong đó, nhu cầu việc làm
của nhân lực kế toán nói riêng cũng mở rộng hơn vì cho phép chuyển dịch nhân lực kế
toán giữa các quốc gia thuận lợi hơn; đồng thời rủi ro bị mất thị trường lao động cũng
đặt ra đối với nghề kế toán nếu họ không có năng lực thực hiện tốt công việc. Trong
lĩnh vực kế toán công, áp lực cạnh tranh về thị trường nhân sự kế toán không gay gắt
như khu vực tư nhân. Tuy nhiên, trong tương lai, nếu Việt Nam áp dụng IPSAS hoàn
toàn cho kế toán công thì khả năng cạnh tranh nghề nghiệp của kế toán cũng không
tránh khỏi. Vì vậy, đẳng cấu quy chuẩn cũng đặt ra yêu cầu cho kế toán cần nâng cao
năng lực để thích ứng với bối cảnh hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai.
Trước hết, kiến thức về chuyên môn là điều cần thiết nhất cho kế toán để đảm bảo các
đặc tính chất lượng nền tảng của BCTC; kiến thức về các vấn đề toàn cầu như các
CMKT công quốc tế và các quy định pháp lý khác cũng hết sức quan trọng đối với kế
toán (Mohamed và Lashine, 2003). Ngoài ra, với sự đổi mới của khoa học công nghệ,
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ làm cho nghề kế toán đang
chịu áp lực rất lớn. Trong bối cảnh này, kế toán muốn tạo ra một BCTC có chất lượng
tốt với các đặc tính chất lượng bổ sung thì họ cần có các kiến thức và kỹ năng tin học
phù hợp để có thể tăng tốc độ xử lý công việc, cung cấp thông tin kế toán kịp thời, có
thể hiểu được hơn cho người dùng (Rai và cộng sự, 2010).
Hơn nữa, theo lý thuyết bất định, quá trình cải cách kế toán cụ thể là áp dụng chế
độ kế toán mới bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố thuộc tổ chức (Xu và cộng sự, 2003).
Năng lực nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng trong bối cảnh tổ chức cần phải
được tăng cường để cho phép thực hiện thành công cải cách đổi mới (Anessi Pessina
và cộng sự, 2008). Người kế toán là yếu tố chính trong việc tạo ra BCTC có chất
lượng, họ là người có chuyên môn về chế độ kế toán áp dụng cho đơn vị công. Cho dù
chế độ kế toán được Nhà nước, cụ thể là Bộ tài chính ban hành tốt đến đâu, nếu kế
66
toán không có chuyên môn để vận hành thì chất lượng BCTC rất khó đạt được. Để tạo
ra các thông tin tài chính hữu ích, các BCTC phải được các nhân viên có năng lực liên
quan đến quản lý tài chính kế toán chuẩn bị (Mardinan và cộng sự, 2018). Vì thế,
Setiyawati (2013) nhận thấy rằng năng lực của kế toán viên nội bộ chi phối đáng kể
đến chất lượng BCTC. Cùng quan điểm này, Afiah và Rahmatika (2014) đã nhấn
mạnh rằng năng lực bộ máy kế toán của các cơ quan nhà nước có tác động cùng chiều
đến chất lượng BCTC. Các nghiên cứu khác cũng cung cấp bằng chứng cho thấy năng
lực kế toán có tác động cùng chiều và có ý nghĩa đối với chất lượng thông tin trên
BCTC (Agung và Winarningsih, 2016; Dewi và cộng sự, 2019; Nirwana và Haliah,
2018; Nuryanto và Afiah, 2013; Suwanda, 2015). Mặc dù, cũng có một vài nghiên cứu
cho rằng năng lực của kế toán không ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thông tin trên
BCTC (Sagara, 2015; Sukmaningrum và Harto, 2012; Suliyantini và Kusmuriyanto,
2017). Tuy nhiên, dựa trên khung lý thuyết bất định cho thấy năng lực kế toán là một
yếu tổ chức quan trọng cần được tăng cường để thực hiện thành công các cải cách kế
toán nhằm tăng cường chất lượng thông tin kế toán (Anessi Pessina và cộng sự, 2008).
Gần đây, bằng cách sử dụng lý thuyết bất định, Yen và cộng sự (2019) cũng nhận thấy
năng lực kế toán có tác động tích cực đến việc thực hiện BCTC tại các đơn vị hành
chính sự nghiệp ở Việt Nam. Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết 1: Năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC của
các đơn vị công tại Việt Nam.
2.5.2. Tác động của vai trò lãnh đạo đến chất lượng báo cáo tài chính
Theo lý thuyết bất định của Luder (1992) đã chỉ ra rằng các thực hành cải cách
kế toán trong khu vực công chịu sự chi phối bởi các yếu tố bối cảnh tổ chức, cụ thể là
đặc điểm cấu trúc tổ chức công. Trong đơn vị công, nhà lãnh đạo đóng vai trò rất quan
trọng đối với quá trình cải cách kế toán diễn ra bên trong tổ chức công, đảm bảo các
cam kết về việc tạo lập thông tin kế toán có chất lượng (Mardinan và cộng sự, 2018).
Thủ trưởng đơn vị công là người đứng đầu tổ chức, có quyền lực nhất và phải chịu
trách nhiệm liên quan đến mọi hoạt động của tổ chức (Chính phủ, 2005, 2013b, 2015).
Kết quả công việc của từng nhân viên trong tổ chức chịu tác động rất lớn bởi yếu tố
lãnh đạo của tổ chức (Fernandez, 2008). Báo cáo tài chính được tạo ra chính là sản
67
phẩm của kế toán, chất lượng của BCTC đại diện cho kết quả công việc của kế toán, vì
thế nó cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố lãnh đạo trong tổ chức.
Hơn nữa, theo lý thuyết thể chế của DiMaggio và Powell (1983), nguồn lực của
đơn vị công được tài trợ chủ yếu bằng ngân sách nên đặt ra nhu cầu minh bạch tài
chính công đối với đơn vị công, cụ thể đơn vị công cần cung cấp được các BCTC đảm
bảo chất lượng theo quy định (Alon và Dwyer, 2014). Cụ thể, trong Luật Kế toán năm
2015 cũng như Thông tư 107/2017/TT-BTC đã đưa ra các yêu cầu về việc cung cấp
BCTC đảm bảo độ tin cậy, trung thực, khách quan, chính xác, kịp thời, có thể hiểu
được và có thể xác minh (Bộ Tài chính, 2017; Quốc hội, 2015a). Từ đó, thủ trưởng
đơn vị công phải đảm bảo các cam kết công bố các BCTC có chất lượng tốt. Đặc biệt,
dưới áp lực cưỡng chế, thủ trưởng đơn vị công buộc phải thể hiện đúng vai trò lãnh
đạo của mình theo hướng tuân thủ luật và tuân thủ trách nhiệm giải trình khi chỉ đạo
nhân viên thực hiện công việc của mình (Tummers và Knies, 2016). Trước hết, lãnh
đạo theo luật sẽ khuyến khích nhân viên kế toán tuân thủ các nguyên tắc kế toán và
chế độ kế toán theo quy định hiện hành; và điều này rất quan trọng để tạo nên một
BCTC đảm bảo chất lượng. Khi đó, kế toán sẽ phải tạo ra các BCTC tuân thủ được các
yêu cầu đặt ra theo các quy định của các cơ quan nhà nước (Bộ Tài chính, 2017; Quốc
hội, 2015a). Vì thế, nhà lãnh đạo tại các đơn vị công mà có tâm lý tuân thủ luật tốt sẽ
ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC. Hơn nữa, lãnh đạo theo trách nhiệm giải
trình sẽ có xu hướng khuyến khích nhân viên tăng cường biện minh và giải thích hành
động của họ cho các bên liên quan (Tummers và Knies, 2016). Để có thể biện minh và
giải thích tốt hành động của đơn vị cho các bên liên quan như cơ quan kiểm toán,
thanh tra hay nhà tài trợ, kế toán cần phải cung cấp các BCTC đảm bảo chất lượng.
Khi đó, hoạt động biện minh và giải thích hành động của đơn vị công cho các bên liên
quan sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Tức là, lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình sẽ
ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC. Ngoài ra, bằng chứng thực nghiệm gần
đây của Mardinan và cộng sự (2018) đã cho thấy rằng hành vi của nhà lãnh đạo có tác
động dương đến chất lượng BCTC ở các đơn vị công tại Indonesia. Do vậy, trên cơ sở
các lập luận này, nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
Giả thuyết 2: Vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC của
các đơn vị công tại Việt Nam.
68
2.5.3. Tác động của vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình
Các học giả đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cải cách tài chính và kế toán đối
với sự thay đổi theo lý thuyết NPM là để tăng cả đo lường và đánh giá thành quả hoạt
động cũng như trách nhiệm giải trình của các chính trị gia và các nhà quản lý về việc
sử dụng các nguồn lực công (Maggina, 2011). Bởi lẽ, khu vực công cung cấp các loại
hình dịch vụ công cho xã hội nên nguồn tài chính chủ yếu được cung cấp từ NSNN, vì
thế, các đơn vị công phải chịu trách nhiệm giải trình đối với các bên liên quan khác
nhau về việc thực hiện nhiệm vụ (Melitski và Manoharan, 2014). Do đó, theo lý thuyết
thể chế, cụ thể là đẳng cấu cưỡng chế cũng giải thích cho việc đơn vị công cần phải
đảm bảo trách nhiệm giải trình trước các bên liên quan (Lindquist và Huse, 2017). Nhà
lãnh đạo là người đứng đầu đơn vị công, là người có quyền lực cao nhất và phải chịu
trách nhiệm liên quan đến tất cả các hoạt động của đơn vị (Chính phủ, 2013b, 2015).
Theo đó, thủ trưởng đơn vị công phải thể hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình theo
hướng tuân thủ luật và trách nhiệm giải trình khi chỉ đạo nhân viên thực hiện các
nhiệm vụ mà nhà nước đã giao phó (Tummers và Knies, 2016). Hơn nữa, lý thuyết đại
diện gắn với bối cảnh cải cách theo lý thuyết NPM cho thấy rằng các nhà hoạch định
chính sách và nhà quản lý công thường không có cùng lợi ích với công dân (Boston,
2016). Vì thế, nhà lãnh đạo cần phải chịu trách nhiệm về hành động của mình để
chứng minh rằng họ đã thực hiện theo trách nhiệm đã giao cho họ (Jensen và
Meckling, 1976; Kurtenbach và Roberts, 1994). Hơn nữa, do tồn tại sự bất cân xứng
thông tin nên việc yêu cầu đơn vị công phải cung cấp đầy đủ các thông tin về kết quả
công việc mà nhà nước đã giao cho đơn vị dường như cũng được luật hóa, tức là đơn
vị phải thực hiện nghĩa vụ giải trình đồng thời phải chịu trách nhiệm về những gì mà tổ
chức đã hoàn thành. Hơn nữa, Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định 90/2013/NĐ-CP
quy định về trách nhiệm giải trình đối với các đơn vị công khi thực hiện hoạt động
(Chính Phủ, 2013a). Do vậy, nhà lãnh đạo đơn vị công tại Việt Nam buộc phải thực
hiện vai trò lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình. Tức là, nhà lãnh
đạo của đơn vị công phải yêu cầu nhân viên tuân thủ các quy định của nhà nước và
thực hiện trách nhiệm giải trình phù hợp với vị trí công việc của từng nhân viên. Đồng
thời, bản thân nhà lãnh đạo phải thể hiện rõ các cam kết về thực hiện tốt các yêu cầu
69
trách nhiệm giải trình và điều này sẽ giúp tổ chức công tăng cường trách nhiệm giải
trình trước bên liên quan (Ahyaruddin và Akbar, 2016).
Tóm lại, đơn vị công muốn thực hiện tốt trách nhiệm giải trình thì đòi hỏi nhà
lãnh đạo phải hỗ trợ nhân viên tuân thủ pháp luật về trách nhiệm giải trình và tăng
cường giải thích hành động cho các bên liên quan. Bởi lẽ, lãnh đạo theo luật sẽ kích
thích nhân viên tuân thủ và cam kết thực hiện đúng các quy định của nhà nước về trách
nhiệm giải trình và điều này chiếm vị trí rất quan trọng trong việc đảm bảo trách
nhiệm giải trình và minh bạch trong đơn vị công (Aziz và cộng sự, 2015). Hơn nữa,
lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình sẽ rất quan trọng và phù hợp đối với các nhà lãnh
đạo công vì họ có trách nhiệm với một số bên liên quan điển hình của đơn vị công như
cơ quan kiểm toán, cơ quan cấp trên, cơ quan thanh tra, công dân, nhà tài trợ,… Lãnh
đạo theo trách nhiệm giải trình là những nhà lãnh đạo kích thích nhân viên biện minh
và giải thích hành động của họ cho các bên liên quan (Tummers và Knies, 2016). Và
điều này tiếp tục góp phần tăng cường trách nhiệm giải trình cho đơn vị công. Ngoài
ra, để đạt được trách nhiệm giải trình cao hơn trong các đơn vị công thì cần tập trung
phát triển các đặc tính phù hợp của lãnh đạo để đạt được uy tín lãnh đạo như tuân thủ
đạo đức, trung thực, công lý, đạo đức cao, chính trực, liêm chính,….(Alam và cộng sự,
2018). Gần đây, Phạm Quang Huy (2018) cũng nhấn mạnh thêm rằng tính chính trực
của ban lãnh đạo đơn vị có ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các
đơn vị công tại Việt Nam. Trên cơ sở này, tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết 3: Vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình
của các đơn vị công tại Việt Nam
2.5.4. Tác động của năng lực kế toán đến trách nhiệm giải trình
Theo lý thuyết NPM, các đơn vị công trên thế giới có xu hướng tăng cường việc
áp dụng các phương pháp và kỹ thuật quản lý của khu vực tư nhân vào quản lý khu
vực công. Cụ thể, việc áp dụng cơ sở dồn tích thuộc chương trình cải cách quản trị tài
chính trong khu vực công, thúc đẩy tính minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải
trình của đơn vị công (Ofoegbu, 2014). Năng lực của kế toán trong đơn vị công chịu
trách nhiệm về những thay đổi trong chính sách đầu ra (Hood, 1991). Bên cạnh đó, lý
thuyết bất định cũng đã chỉ rõ rằng sự thành công của việc áp dụng các thực hành kế
toán mới, cụ thể là việc áp dụng các chế độ kế toán mới trên cơ sở dồn tích phụ thuộc
70
vào sự tương thích của nó đối với các đặc điểm môi trường của tổ chức. Kế toán là
một yếu tố tổ chức quan trọng nên kế toán được xem là có ảnh hưởng đến trách nhiệm
giải trình thông qua công việc của mình. Như vậy, với sự hỗ trợ bởi lý thuyết bất định,
việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị chắc chắn sẽ phụ thuộc vào các yếu tố
thuộc bối cảnh tổ chức (Ahyaruddin và Akbar, 2016), cụ thể là năng lực của người kế
toán. Hơn nữa, mặc dù ban lãnh đạo đơn vị công giữ vị trí chủ yếu trong việc thực hiện
trách nhiệm giải trình nhưng tính giải trình trong đơn vị công tại Việt Nam cũng như
các nước khác gắn liền với tất cả các thành viên trong tổ chức (Phạm Quang Huy,
2018). Nhân viên kế toán chính là một loại nguồn lực giữ vị trí rất quan trọng bởi vì họ
là người trực tiếp vận dụng các quy định pháp luật có liên quan để thực hiện công tác
kế toán cho tổ chức, cuối cùng là cung cấp toàn bộ thông tin kế toán cho người sử
dụng. Vì thế, năng lực kế toán có tác động đến trách nhiệm giải trình.
Ngoài ra, theo lý thuyết thể chế, kế toán cũng phải có nghĩa vụ trực tiếp giải trình
đồng thời họ phải chịu trách nhiệm đối với kết quả công việc của mình trước các bên
liên quan, chẳng hạn giải trình cho nhân viên trong đơn vị về cách tính tiền công tác
phí, tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp,… hoặc giải trình với các bên liên quan bên ngoài
như cơ quan kiểm toán nhà nước, cơ quan thanh tra về cách ghi nhận và trình bày số
liệu trên BCTC. Mặc dù, nhà quản lý đơn vị công là người trực tiếp chịu trách nhiệm
giải trình với các bên liên quan, thế nhưng, đề cập đến vấn đề tài chính thì kế toán là
người hỗ trợ chính cho thủ trưởng để giải trình với các bên liên quan. Như vậy, để
phục vụ tốt cho công việc của mình cũng như khả năng thực hiện các yêu cầu giải
trình về tình hình tài chính, sử dụng kinh phí, tình hình lưu chuyển tiền cũng như kết
quả hoạt động thì kế toán cần có các yếu tố năng lực nhất định. Cụ thể hơn, Palmer và
cộng sự (2004); Mohamed và Lashine (2003) đã nhấn mạnh rằng năng lực kế toán cần
được đánh giá dựa trên các kiến thức, các kỹ năng và các khả năng cũng như thái độ
làm việc của nhân viên kế toán. Cùng hướng này, thông qua khảo sát thực nghiệm,
Aramide và Bashir (2015) nhận thấy việc thiếu hiểu biết về chính sách và thủ tục kế
toán trong đội ngũ nhân viên là nguyên nhân làm trách nhiệm giải trình tài chính yếu ở
các chính quyền địa phương ở Nigeria. Tương tự, kết quả nghiên cứu của Trương Á
Bình (2017) cho rằng năng lực của cán bộ, công chức kế toán, cụ thể là kiến thức
chuyên môn nghề nghiệp của kế toán có ảnh hưởng cùng chiều đến việc nâng cao trách
71
nhiệm giải trình các thông tin liên quan đến BCTC của khu vực công tại Việt Nam.
Đồng thời, thông qua tổng quan các nghiên cứu trước, Phạm Quang Huy (2018) cũng
nhận thấy rằng trình độ kế toán viên có ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải
trình. Gần đây, nghiên cứu của Dewi và cộng sự (2019) tiếp tục nhấn mạnh rằng năng
lực công chức kế toán có ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình tài chính
của của các chính quyền địa phương ở Indonesia. Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết 4: Năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình
của các đơn vị công tại Việt Nam.
2.5.5. Tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình
Ý tưởng cơ bản của lý thuyết NPM nhấn mạnh đến việc áp dụng các thực hành
kế toán của khu vực tư nhân vào khu vực công, cụ thể là áp dụng kế toán dồn tích hoàn
toàn theo quan điểm của IPSASB cho các đơn vị công trên thế giới (Carini và cộng sự,
2019). Mục đích của cải cách là nhằm tạo ra các BCTC có chất lượng tốt (Cohen, S. và
Karatzimas, 2017), giúp cho người dùng BCTC đánh giá được chính xác trách nhiệm
giải trình của đơn vị công (Bowrey, 2007; Mack và Ryan, 2006), đảm bảo tính minh
bạch tài chính công, giảm tình trạng tham nhũng và hoạt động chưa hiệu quả của các
đơn vị công (Barton, 2009; Kobayashi và cộng sự, 2016). Theo đó, bằng việc áp dụng
cơ sở dồn tích đầy đủ thì sự ra đời của các chế độ kế toán công mới (chẳng hạn, Thông
tư 107/2017/TT-BTC, Thông tư 102/2018/TT-BTC) tại Việt Nam có thể được xem là
một phần của cuộc cải cách tài chính công theo lý thuyết NPM. Và mục đích của việc
ban hành các chế độ kế toán công mới tại Việt Nam cũng nhằm cải thiện chất lượng
BCTC và cung cấp thông tin hữu ích hơn cho người dùng khi đánh giá trách nhiệm
giải trình của đơn vị công (Yen và Nguyen, 2020).
Ngoài ra, lý thuyết đại diện cho thấy rằng các thủ trưởng đơn vị công phải có
trách nhiệm giải thích về việc sử dụng các tài sản công và chịu trách về tính hiệu quả
của các hoạt động mà đơn vị đã thực hiện (Zimmerman, 1977). Bởi vì, các đơn vị công
hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn NSNN, đây là tài sản của nhân dân đóng góp thông
qua tiền thuế và các khoản khác, do vậy để hạn chế tiêu cực và tăng tính hiệu quả của
việc sử dụng nguồn lực công thì họ phải thực hiện nghĩa vụ giải trình thông qua việc
công bố BCTC đảm bảo chất lượng (Alcaide Muñoz và cộng sự, 2017). Và để giải
quyết sự bất đối xứng thông tin giữa người cung cấp nguồn lực và người sử dụng
72
nguồn lực khi theo đuổi các lợi ích khác nhau thì Wise (2010) gợi ý rằng các yêu cầu
về trách nhiệm giải trình và báo cáo cho người chủ nguồn lực có thể là một biện pháp
hiệu quả để thu hút sự quan tâm của người đại diện trong các đơn vị công. Vì vậy,
Zimmerman (1977) cho rằng trong khu vực công, người đại diện của các đơn vị công
phải chịu trách nhiệm về hành động của mình và họ cần chứng minh bằng cách cung
cấp thông tin BCTC đảm bảo yêu cầu chất lượng, đây được xem là một cách để hạn
chế xung đột giữa công dân và chính trị gia (Funnell và Cooper, 1998). trách nhiệm
giải trình là nhu cầu bắt buộc đối với các đơn vị công và nó được thể hiện thông qua
BCTC (Deaconu và cộng sự, 2011). Tức là chất lượng của các thông tin cung cấp trên
BCTC là cơ sở đánh giá tính hiệu quả của quá trình thực hiện trách nhiệm giải trình
của đơn vị công nói chung và nhà lãnh đạo nói riêng (Eivani và cộng sự, 2012;
Steccolini, 2004). Và cũng vì thế mà Steccolini (2004) nhận thấy rằng các chính phủ
đang cố gắng hết sức để cải thiện chất lượng BCTC nhằm tăng trách nhiệm giải trình
công. Đồng thời, Mack và Ryan (2006) cũng đã cung cấp bằng chứng rằng BCTC của
đơn vị công tập trung phục vụ người dùng đánh giá trách nhiệm giải trình công và
trách nhiệm giải trình tài chính. Như vậy, lý thuyết đại diện chỉ rõ vai trò của BCTC
như là một phương tiện giúp các đơn vị công chứng minh trách nhiệm giải trình của
mình nhằm giảm tình trạng bất đối xứng thông tin giữa người chủ và người đại diện.
Cũng cần lưu ý rằng, các đơn vị công phải thu thập và tiết lộ thông tin tài chính thích
hợp, đáng tin cậy, có thể hiểu được, kịp thời, có thể so sánh và có thể xác minh thì
người dùng BCTC mới có thể đánh giá chính xác trách nhiệm giải trình của các đơn vị
công (Wise, 2010). Và kết quả nghiên cứu của Dewi và cộng sự (2019); Indriasih và
Koeswayo (2014) đã cho thấy rằng chất lượng BCTC thực sự có tác động cùng chiều
đến trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Indonesia. Như vậy, sự tác
động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình là theo hướng cùng chiều, nghĩa
là BCTC càng có chất lượng tốt thì sẽ tăng cường tính hiệu quả cho người dùng khi
đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn vị công (Nakmahachalasint và Narktabtee,
2019), cho thấy đơn vị công đã thực hiện tốt trách nhiệm giải trình như thế nào (Afiah
và Azwari, 2015; Afiah và Rahmatika, 2014; Dewi và cộng sự, 2019). Dựa vào các cơ
sở biện luận trên, giả thuyết nghiên cứu sau đây được đề xuất là:
73
Giả thuyết 5: Chất lượng báo cáo tài chính có tác động cùng chiều đến trách
nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
2.5.6. Tác động của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động
Kế toán là quá trình xác định, đo lường và truyền đạt thông tin kinh tế để giúp
người sử dụng thông tin có căn cứ để đưa ra những đánh giá và các quyết định
(Nikolai và cộng sự, 2009). Các thông tin kế toán rất hữu ích cho nhà quản lý khi họ
đưa ra các quyết định liên quan đến việc phân bổ nguồn lực (Reck, 2001). Và khi
chính quyền các cấp quyết định phân bổ nguồn lực, họ tiếp tục cần các thông tin kế
toán để biết tác động của quyết định theo thời gian, đưa ra các lựa chọn chiến lược
sáng suốt nhằm phục vụ tốt nhất cho xã hội (Martin và Spano, 2015). Theo đó, thông
tin kế toán có thể phản ánh kết quả của các chính sách công và do đó, nó đóng vai trò
là phương tiện để truyền đạt các hiệu quả quản lý kinh tế của chính trị gia (Brusca và
Montesinos, 2006). Chẳng hạn, thông tin kết quả được một số người coi là công cụ
hiệu quả nhất cho cải thiện quản lý, sử dụng tài nguyên hiệu quả cũng như tăng tính
minh bạch trong cấp chính quyền địa phương (Cepiku và cộng sự, 2017). Đặc biệt,
BCTC được lập trên cơ sở dồn tích cung cấp thông tin hữu ích về mặt ra quyết định,
minh bạch, trách nhiệm giải trình và tính bền vững tài chính của chính sách công, cả
cho người sử dụng nội bộ và người sử dụng bên ngoài (Rossi và cộng sự, 2019). Cụ
thể hơn, BCTC dựa trên dồn tích cung cấp các biện pháp đo lường tốt hơn về tính hữu
hiệu và hiệu quả của đơn vị; do đó, nó rất cần thiết cho các nước đang phát triển
(Mbelwa và cộng sự, 2019; Nakmahachalasint và Narktabtee, 2019). Chính vì thế, gần
đây, Việt Nam cũng đã thay đổi chế độ kế toán cho các đơn vị công theo hướng áp
dụng kế toán dồn tích. Theo đó, BCTC được lập theo cơ sở dồn tích sẽ giúp cho người
dùng có được các thông tin thích hợp để đưa ra các đánh giá và quyết định phù hợp
nhằm thúc đẩy các đơn vị công sử dụng hiệu quả nguồn lực công (Carlin, 2005; Flynn
và cộng sự, 2016; Ofoegbu, 2014). Tuy nhiên, Barrett (2004) cũng lưu ý rằng để quản
lý tài chính hiệu quả cần tiếp cận được các thông tin phù hợp và đảm bảo rằng thông
tin là chính xác, phù hợp và an toàn. Chính vì thế, kết quả nghiên cứu của Bukenya
(2014) đã chỉ ra rằng chất lượng thông tin kế toán có ảnh hưởng cùng chiều đến thành
quả hoạt động tài chính của khu vực công ở Uganda, khảo sát tập trung vào các đơn vị
công thuộc thành phố Kampala. Bởi lẽ, Bukenya (2014) nhận thấy độ tin cậy, tính phù
74
hợp, có thể so sánh, tính kịp thời và có thể hiểu được là những thước đo thực sự về
chất lượng cảm nhận của thông tin kế toán và việc ra quyết định dựa trên những thông
tin kế toán có chất lượng tốt giúp các đơn vị công tăng cường thành quả hoạt động tài
chính (Bukenya, 2014). Gần đây, Nirwana và Haliah (2018) cũng cho rằng chất lượng
BCTC có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt động của các đơn vị công thuộc
chính quyền tỉnh Nam Sulawesi, Indonesia. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất giả thuyết:
Giả thuyết 6: Chất lượng báo cáo tài chính có tác động cùng chiều đến thành
quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam.
2.5.7. Tác động của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động
Hầu hết các nỗ lực cải cách theo lý thuyết NPM đều có mục tiêu tăng cường khả
năng đáp ứng của các cơ quan công đối với khách hàng của họ, cải thiện trách nhiệm
giải trình quản lý và cuối cùng là nâng cao thành quả hoạt động của khu vực công
(Christensen và Lægreid, 2011). Theo đó, việc thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải
trình là một tiền đề quan trọng để thành quả hoạt động của đơn vị công tốt hơn
(Christensen và Lægreid, 2015). Hơn nữa, học thuyết NPM tập trung chủ yếu vào việc
tăng cường trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính của tổ chức
mà đại diện là nhà quản lý (Behn, 2001), đòi hỏi phải có sự phân công về trách nhiệm
rõ ràng, tuyên bố mục tiêu rõ ràng và tập trung vào kết quả và hiệu quả liên quan đến
đầu ra. Và Bovens và cộng sự (2014) nhận thấy trách nhiệm giải trình công hoạt động
tốt nhất trong khu vực hành chính công; còn trách nhiệm giải trình tài chính thích hợp
hơn cho lĩnh vực dịch vụ công. Và cả hai loại trách nhiệm giải trình này đều quan
trọng trong việc tăng cường thành quả hoạt động của khu vực công (Ahyaruddin và
Akbar, 2016; Halim, 2019; Mack và Ryan, 2006). Thêm vào đó, lý thuyết đại diện
cũng được gắn kết với khuôn khổ lý thuyết NPM theo cách người lãnh đạo của đơn vị
công phải chịu trách nhiệm về hành động của mình để chứng minh rằng họ đã thực
hiện đúng trách nhiệm của họ vì họ thường không cùng lợi ích với công dân hay nhân
viên (Boston, 2016; Jensen và Meckling, 1976). Đặc biệt, đối với các quốc gia đã áp
đặt các quy định bắt buộc về trách nhiệm giải trình thì áp lực thực hiện trách nhiệm
giải trình đối với các nhà quản lý càng tăng cường, từ đó thúc đẩy đơn vị cần hoạt
động để đạt kết quả cao hơn (Keerasuntonpong và cộng sự, 2019). Tại Việt Nam,
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 90/2013/ND-CP đưa ra các quy định về việc
75
thực hiện trách nhiệm giải trình cho các cơ quan nhà nước cũng nhằm mục đích hạn
chế tham nhũng, tăng cường minh bạch tài chính và cuối cùng là cải thiện thành quả
hoạt động cho các đơn vị công (Yen và Nguyen, 2020). Nói cách khác, trách nhiệm
giải trình như là một phương tiện nhằm kiểm soát hành vi của đơn vị công để giúp đơn
vị hoạt động đúng theo chức năng và tăng cường thành quả hoạt động, đảm bảo lợi ích
cho công dân nói riêng và các bên liên quan nói chung.
Trách nhiệm giải trình là một khái niệm khá phức tạp, do đó, ảnh hưởng có thể
có của trách nhiệm giải trình đối với thành quả hoạt động là vấn đề còn nhiều tranh
cãi, nhất là vì thành quả hoạt động của đơn vị công rất phức tạp và khó đo lường
(Demirag và Khadaroo, 2011). Vì thế, một số nghiên cứu trước đã cho thấy trách
nhiệm giải trình vừa có tác động cùng chiều và ngược chiều đến thành quả hoạt động;
tức là mối quan hệ giữa trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động còn nhiều tranh
cãi (Christensen và Lægreid, 2015). Chẳng hạn, Aucoin và Heintzman (2000) cho rằng
việc cải thiện các thỏa thuận trách nhiệm giải trình không nhất thiết phải cải thiện
thành quả hoạt động. Hơn nữa, Steets (2010) khẳng định cơ chế trách nhiệm giải trình
tạo ra chi phí vì giám sát các hoạt động đòi hỏi những nỗ lực đáng kể và trách nhiệm
giải trình có thể cản trở sự linh hoạt, đổi mới và hành vi kinh doanh nên thành quả hoạt
động của đơn vị sẽ không được cải thiện. Tuy nhiên, trách nhiệm giải trình theo lý
thuyết NPM thường được coi là một công cụ để tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ
công của chính phủ, đó là khả năng chứng minh tính hiệu suất và hiệu quả hơn
(Demirag và Khadaroo, 2011; Dubnick, 2005). Minh chứng gần đây là nhiều đơn vị
công tại Hoa Kỳ đang cố gắng thực hiện tốt trách nhiệm giải trình nhằm cải thiện
thành quả hoạt động của đơn vị (Han, 2020). Và phần lớn các nhà nghiên cứu đã gợi ý
rằng các quy trình trách nhiệm giải trình hữu hiệu sẽ nâng cao nhận thức về tính hợp
pháp, hạn chế gian lận và tham nhũng, tăng trách nhiệm của các tổ chức chính phủ, cải
thiện sự hiểu biết của công chúng về lý do tại sao các mục tiêu về hiệu năng không thể
đạt được và cuối cùng là giúp tạo dựng lòng tin cho các bên liên quan (Halachmi và
Holzer, 2010; Halim, 2019; Lindquist và Huse, 2017). Bouckaert và Peters (2002) cho
rằng thành quả hoạt động của đơn vị công cần đề cập đến sự hài lòng và điều này lại
liên quan đến niềm tin của nhân viên và các bên liên quan khác. Bởi lẽ, lòng tin đối
với nhân viên sẽ giúp họ nỗ lực hơn trong công việc từ đó thúc đẩy thành quả của đơn
76
vị tăng lên cả về số lượng và chất lượng (Thoms và cộng sự, 2002); lòng tin của các
bên liên quan giúp đơn vị công nhận được thêm các nguồn lực tài chính để phát triển
hay tăng lượng dịch vụ cần cung cấp, thúc đẩy hoạt động của đơn vị trong bối cảnh cải
cách ngày nay (Navimipour và cộng sự, 2018; Rodríguez Bolívar và cộng sự, 2013).
Vì thế, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:
Giả thuyết 7: Trách nhiệm giải trình có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt
động của các đơn vị công tại Việt Nam.
2.5.8. Tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động thông qua
vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình
Trên cơ sở lý thuyết đại diện (Zimmerman, 1977), để giảm hiện tượng thông tin
bất đối xứng thì chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình được xem là những cơ chế
quan trọng của người chủ theo dõi các hoạt động cũng như kết quả hoạt động mà các
nhà hoạch định chính sách và nhà quản lý công đã thực hiện (Blanco và cộng sự, 2011;
Mack và Ryan, 2006). Hơn nữa, trọng tâm của việc áp dụng lý thuyết NPM từ góc độ
của các nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam nói riêng và các nước khác nói chung
là tăng cường trách nhiệm giải trình để gia tăng thành quả hoạt động của khu vực công
(Tran, 2014). Và việc đảm bảo chất lượng của các loại BCTC giúp các đơn vị công đạt
được trách nhiệm giải trình tốt hơn (Patton, 1992). Đồng thời, Hepworth (2017) đã
nhấn mạnh thêm rằng chất lượng thông tin kế toán cao sẽ góp phần cải thiện trách
nhiệm giải trình, tính minh bạch và dẫn đến nâng cao thành quả hoạt động của các đơn
vị công. Như vậy, qua phân tích lý thuyết, chúng ta có thể nhận thấy ảnh hưởng gián
tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động thông qua trách nhiệm giải trình
trong các đơn vị công. Hơn nữa, các bằng chứng thực nghiệm trước đây cho thấy chất
lượng BCTC có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công
(Dewi và cộng sự, 2019; Indriasih và Koeswayo, 2014; Keerasuntonpong và cộng sự,
2019) và các đơn vị công thực hiện tốt trách nhiệm giải trình sẽ nâng cao thành quả
hoạt động (Christensen và Lægreid, 2015; Halim, 2019; Han, 2020). Vì thế, trong
nghiên cứu này, tác giả đề xuất giả thuyết sau:
Giả thuyết 8: Chất lượng báo cáo tài chính có tác động gián tiếp đến thành quả
hoạt động thông qua trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
77
2.6. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Trên cơ sở các lý thuyết nền hỗ trợ và các kết quả nghiên cứu trước có liên quan,
tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu cho luận án như sau:
Chất lượng H1 (+)
BCTC H6 (+) Năng lực kế toán
Thành quả H4 (+)
H5 (+) hoạt động
H7 (+) H2 (+)
Trách nhiệm H3 (+)
Biến kiểm soát
- Quy mô - Thời gian hoạt động
Vai trò lãnh đạo giải trình
Nguồn: Tác giả đề xuất dựa trên lý thuyết nền và nghiên cứu trước
H8 (Giả thuyết trung gian)
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Theo Hình 2.1, mô hình nghiên cứu đề xuất có 8 giả thuyết, cụ thể như sau:
Giả thuyết H1: Năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC
của các đơn vị công tại Việt Nam.
Giả thuyết H2: Vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC của
các đơn vị công tại Việt Nam
Giả thuyết H3: Vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình
của các đơn vị công tại Việt Nam.
Giả thuyết H4: Năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải
trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
Giả thuyết H5: Chất lượng BCTC có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải
trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
Giả thuyết H6: Chất lượng BCTC có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt
động của các đơn vị công tại Việt Nam.
Giả thuyết H7: Trách nhiệm giải trình có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt
động của các đơn vị công tại Việt Nam.
Giả thuyết H8: Chất lượng BCTC có tác động gián tiếp đến thành quả hoạt động
thông qua trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
78
Ngoài ra, trong mô hình nghiên cứu trên, theo lý thuyết thể chế (đẳng cấu cạnh
tranh) và lý thuyết bất định, tác giả còn xem xét ảnh hưởng của các biến kiểm soát đối
với thành quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam, gồm quy mô và thời gian
hoạt động. Về cơ bản, hai biến kiểm soát này được phân tích giống như các biến độc
lập khác nhưng vì mục đích của nghiên cứu này không tập trung vào ảnh hưởng của
chúng đối với biến phụ thuộc nên tác giả chỉ sử dụng chúng để kiểm soát mức độ giải
thích đối với biến phụ thuộc (thành quả hoạt động). Đặc biệt, việc sử dụng các biến
kiểm soát được lựa chọn cẩn thận dựa trên nền tảng lý thuyết mạnh mẽ sẽ làm giảm
đáng kể các vấn đề nội sinh (Hà Nam Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019). Hơn
nữa, Nguyễn Đình Thọ (2013) còn lưu ý rằng khi biến kiểm soát không có ý nghĩa
thống kê thì cho thấy giá trị quan trọng hơn của các biến độc lập đang xem xét trong
mô hình, còn nếu biến kiểm soát có ý nghĩa thống kê thì lúc đó biến kiểm soát sẽ đóng
vai trò hỗ trợ thêm cho việc giải thích liên quan đến biến phụ thuộc. Nhiều nghiên cứu
đã dùng biến kiểm soát đối với thành quả hoạt động của đơn vị công, tập trung vào
biến quy mô và thời gian hoạt động (Gomes, P. và cộng sự, 2017; Song và Meier,
2018; Verbeeten, 2008). Vfi vậy, tác giả sử dụng biến kiểm soát (quy mô và thời gian)
đối với thành quả hoạt động trong nghiên cứu này. Quy mô và thời gian hoạt động là
hai biến kiểm soát của thành quả hoạt động nên tác giả không đặt ra giả thuyết nghiên
cứu liên quan. Nhà nghiên cứu chỉ cần sử dụng kỹ thuật bootstraping để đánh giá ý
nghĩa thống kê của biến kiểm soát để đưa ra kết luận rằng chúng có ảnh hưởng đến
biến phụ thuộc hay không (Hà Nam Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019). Tóm lại,
tác giả đã tổng kết cơ sở lý thuyết đưa ra mô hình của luận án tại Phụ lục 8.
2.7. Kết luận chương 2
Các lý thuyết nền và các kết quả nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài chính
là cơ sở quan trọng để tác giả đã hình thành mô hình nghiên cứu trong luận án. Theo
mô hình đề xuất, tác giả đã trình bày chi tiết năm khái niệm nghiên cứu chính của mô
hình. Tiếp đó, tác giả trình bày rõ hơn một số mô hình nghiên cứu có liên quan trực
tiếp đến luận án. Sau đó, tác giả cũng đã trình bày khá rõ ràng về các giả thuyết nghiên
cứu được đã đề xuất. Ngoài ra, tác giả có đề cập đến các biến kiểm soát đối với thành
quả hoạt động gồm quy mô và thời gian hoạt động. Kiến thức trong Chương 2 đóng
vai trò quan trọng, là nền tảng lý luận của việc đề xuất mô hình nghiên cứu.
79
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Giới thiệu
Trong Chương 3, tác giả trình bày các căn cứ khoa học về các phương pháp mà
tác giả đã dùng khi phân tích, đánh giá, tổng hợp và đưa ra các kết quả nghiên cứu.
Đầu tiên, tác giả giải thích quy trình nghiên cứu tổng quát của luận án, trong đó trình
bày sơ lược về phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, gồm phương pháp nghiên cứu định
tính kết hợp với nghiên cứu định lượng, đưa ra các lý giải cho việc lựa chọn phương
pháp cũng như quy trình các bước tiến hành. Trước khi trình bày phương pháp định
tính, tác giả trình bày chi tiết các thang đo của các khái niệm nghiên cứu được kế thừa.
Trong giai đoạn nghiên cứu định tính, tác giả trình bày rõ các căn cứ về phương pháp
phỏng vấn chuyên gia, chọn mẫu chuyên gia và thiết kế bảng câu hỏi phỏng vấn
chuyên gia. Mục đích cơ bản của phương pháp định tính là đánh giá sự phù hợp các
mối quan hệ và hoàn thiện thang đo đã kế thừa phù hợp với bối cảnh khu vực công tại
Việt Nam. Cuối cùng, tác giả trình bày phương pháp nghiên cứu định lượng gồm
nghiên cứu định lượng sơ bộ và nghiên cứu định lượng chính thức. Phần mềm SPSS
22 và phần mềm SmartPLS 3 sẽ được vận dụng trong nghiên cứu định lượng nhằm
phân tích bộ dữ liệu sơ bộ và bộ dữ liệu chính thức với các bước phân tích như thống
kê mô tả, kiểm định mô hình đo lường, kiểm tra chệch do phương pháp, kiểm định mô
hình cấu trúc và kiểm định sự khác biệt.
3.2. Quy trình nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu mà luận án đã đề ra, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu hỗn hợp (Creswell và Creswell, 2017; Creswell và Hirose, 2019). Phương
pháp nghiên cứu hỗn hợp được các nhà nghiên cứu đến từ nhiều quốc gia và lĩnh vực
nghiên cứu khác nhau sử dụng bắt đầu trong khoảng từ năm 1985 đến 1990. Việc dùng
phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với phương pháp nghiên cứu định lượng
đặc biệt quan trọng trong các nghiên cứu khảo sát dữ liệu vì chúng giúp tăng cường giá
trị cho kết quả nghiên cứu (Creswell và Hirose, 2019). Theo đó, trong luận án này, tác
giả tiến hành theo trình tự là phương pháp định tính được sử dụng đầu tiên rồi đến
phương pháp nghiên cứu định lượng. Cụ thể là phương pháp định tính được thực hiện
thông qua bước phỏng vấn chuyên gia. Mục đích đầu tiên ở bước nghiên cứu định tính
80
là tác giả muốn làm rõ hơn vai trò của BCTC trong khu vực công đối với người dùng
cũng như làm rõ hơn khái niệm về trách nhiệm giải trình tại Việt Nam bởi lẽ còn tồn
tại nhiều tranh luận về vấn đề này đến từ các nhà nghiên cứu trên thế giới (Bovens,
2007; Laughlin, 2012). Tiếp theo, kết quả nghiên cứu định tính giúp xác nhận tính khả
thi của mô hình nghiên cứu đề xuất dựa trên tổng kết lý thuyết trong điều kiện tại Việt
Nam. Vì hầu như tác giả chưa thấy các nghiên cứu tại Việt Nam bàn về tác động của
chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đối với thành quả hoạt động của đơn vị
công. Hơn nữa, khu vực công chịu sự chi phối rất lớn bởi yếu tố thể chế chính trị và
mang tính đặc thù riêng biệt nên bước phỏng vấn các chuyên gia có am hiểu chuyên
sâu về kế toán công là cần thiết để xác nhận lại, làm rõ thêm sự tồn tại của các mối
quan hệ trong mô hình nghiên cứu mà tác giả đã đề xuất trên cơ sở tiếp cận các lý
thuyết nền và tổng quan nghiên cứu có liên quan. Bên cạnh đó, các thang đo của các
khái niệm được kế thừa từ các nghiên cứu trước trên thế giới nên tác giả thực hiện việc
thảo luận thêm với chuyên gia về nội dung của các thang đo nhằm điều chỉnh cho phù
hợp với khu vực công tại Việt Nam. Cụ thể, quá trình trao đổi với chuyên gia sẽ giúp
làm rõ cách diễn đạt của thang đo cho phù hợp với nội dung thang đo gốc đã kế thừa
cũng như có những điều chỉnh nhất định về nội dung thang đo cho phù hợp với đặc
điểm thể chế tại Việt Nam. Kết thúc bước nghiên cứu định tính, tác giả tiến hành khảo
sát thử với mười đáp viên thuộc đối tượng khảo sát dự kiến để đảm bảo bảng câu hỏi
khảo sát được trình bày mạch lạc rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với cách hiểu của người trả
lời; qua đó nhằm hiệu chỉnh lại bảng khảo sát trước khi tiến hành bước nghiên cứu
định lượng sơ bộ và bước nghiên cứu định lượng chính thức. Như vậy, quá trình thảo
luận với chuyên gia về thang đo sẽ giúp tác giả có những điều chỉnh phù hợp đối với
các thang đo của các khái niệm nghiên cứu đã kế thừa, giúp cho người trả lời hiểu
được đúng nội dung bảng hỏi, tăng tính khả thi của đề tài.
Sau khi thực hiện xong phương pháp nghiên cứu định tính, tiếp đó, tác giả sẽ xây
dựng được mô hình nghiên cứu chính thức. Đồng thời, một bảng hỏi hoàn chỉnh sẽ
được sử dụng cho cuộc khảo sát sơ bộ trước khi tiến hành khảo sát chính thức nhằm
kiểm tra độ tin cậy, đánh giá giá trị hội tụ và kiểm tra giá trị phân biệt của thang đo
trong bảng hỏi. Sau bước này, một bảng hỏi với các thang đo đạt điều kiện của một
thang đo tốt sẽ được sử dụng cho bước khảo sát chính thức với một mẫu lớn hơn. Tác
81
giả sẽ gửi bảng hỏi này cho các đối tượng khảo sát đang làm việc tại các đơn vị công ở
Việt Nam theo các tiêu chí nhất định được trình bày trong các phần sau. Kết quả khảo
sát sau khi được thu thập sẽ được xử lý bằng phần mềm SmartPLS 3 và phần mềm
SPSS 22 nhằm kiểm định lại mô hình đo lường (thang đo), kiểm tra chệch do phương
pháp, sau đó kiểm định mô hình cấu trúc (đường dẫn) để xác định rõ mối quan hệ giữa
các biến nghiên cứu trong mô hình nghiên cứu đề xuất và thực hiện thêm bước kiểm
định xem có sự khác biệt về các đặc tính của mẫu khảo sát trong đánh giá thành quả
hoạt động tại các đơn vị công hay không. Sau đây, tác giả khái quát các bước tiến hành
trong quy trình nghiên cứu trong Hình 3.1 như sau:
82
Tổng kết lý thuyết
Quan sát thực tiễn
Thang đo nháp 1
Đề xuất mô hình nghiên cứu
Nghiên cứu định tính
Thang đo nháp 2
Mô hình nghiên cứu chính thức
Nghiên cứu định lượng sơ bộ
Kiểm định độ tin cậy, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt
Thang đo chính thức
Nghiên cứu định lượng chính thức
Làm sạch dữ liệu Thống kê mô tả
Kiểm định mô hình đo lường Kiểm định chệch do phương pháp Kiểm định mô hình cấu trúc Kiểm định sự khác biệt
Viết báo cáo nghiên cứu
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu đề xuất
83
3.3. Thang đo các khái niệm nghiên cứu
Như tác giả đã trình bày ở trên, thang đo sử dụng trong nghiên cứu định lượng sơ
bộ được kế thừa từ các công trình nghiên cứu trước đăng tải trên các tạp chí có uy tín.
Việc sử dụng các thang đo từ các nghiên cứu nước ngoài vào luận án có thể được xem
là phù hợp bởi lẽ Việt Nam hiện nay cũng giống như nhiều nước trên thế giới đang
tiến hành các cải cách về tài chính theo tư tưởng lý thuyết NPM và cải cách kế toán
công theo hướng tiệm cận với IPSAS nhằm cung cấp thông tin tài chính minh bạch
hơn, giảm tình trạng tham nhũng và hoạt động không hiệu quả của khu vực công (Yen
và cộng sự, 2021a, 2021b). Tuy nhiên, quá trình dịch nghĩa từ tiếng Anh sang tiếng
Việt cũng như các đặc điểm về thể chế tại Việt Nam có thể làm thang đo kế thừa chưa
thực sự phù hợp để vận dụng. Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả đã kết hợp với
phỏng vấn chuyên gia ở bước nghiên cứu định tính để hoàn thiện thang đo cho nghiên
cứu. Theo đó, các biến nghiên cứu chính trong mô hình được đo bằng nhiều mục (biến
quan sát). Cụ thể, mô hình nghiên cứu có 7 khái niệm nghiên cứu với tổng biến quan
sát dự kiến ban đầu là 55 gồm: năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC,
trách nhiệm giải trình, thành quả hoạt động, quy mô và thời gian hoạt động. Nội dung
đo lường cụ thể của từng khái niệm nghiên cứu đã kế thừa từ các công trình nghiên
cứu được trình bày chi tiết trong phần III của Phụ lục 9.
Trước hết, thang đo về năng lực kế toán được kế thừa dựa theo nghiên cứu của
Palmer và cộng sự (2004). Năng lực kế toán bao gồm kiến thức kinh doanh tổng hợp,
kiến thức kế toán, công nghệ thông tin, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng tương tác, kỹ năng máy tính, các thái độ và phẩm chất cá nhân mà người kế
toán thể hiện ra bên ngoài khi thực hiện công việc của mình. Như vậy, thang đo về
năng lực kế toán theo Palmer và cộng sự (2004) đã thể hiện khá toàn diện các khía
cạnh năng lực mà người kế toán trong thời đại ngày nay tại Việt Nam đang nỗ lực đạt
được để thích ứng với xu hướng hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng. Theo đó, thang
đo năng lực kế toán là thang đo kết quả và là thang đo đơn hướng gồm có 9 biến quan
sát, thể hiện mức độ đồng ý của các đáp viên về các phát biểu liên quan đến việc đánh
giá năng lực của người kế toán tại đơn vị công.
Tiếp đến, vai trò lãnh đạo trong nghiên cứu này đề cập đến khả năng hỗ trợ của
nhà lãnh đạo đối với nhân viên khi nhân viên thực hiện các nhiệm vụ của mình
84
(Tummers và Knies, 2016), cụ thể là tuân thủ các quy định, luật lệ của nhà nước (rule-
following leadership) và hành động có trách nhiệm đối với các bên liên quan
(accountability leadership). Thang đo vai trò lãnh đạo của Tummers và Knies (2016)
được phát triển dựa trên bối cảnh khu vực công tại Hà Lan, tuy nhiên, thang đo này có
thể cho thấy là phù hợp với đặc điểm thể chế tại Việt Nam. Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì thế, nhà lãnh
đạo trong các tổ chức công tại Việt Nam là người đi đầu trong tổ chức về việc tuân thủ
pháp luật và thực hiện trách nhiệm giải trình trước nhân viên và các bên liên quan. Khi
đó, nhà lãnh đạo cũng hỗ trợ nhân viên tuân thủ các quy định, luật lệ và thực hiện trách
nhiệm giải trình. Do vậy, luận án đã sử dụng thang đo vai trò lãnh đạo theo Tummers
và Knies (2016) để trao đổi với chuyên gia. Thang đo này là thang đo kết quả và là
thang đo đa hướng bậc hai được đo lường thông qua hai thang đo đơn hướng là lãnh
đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (Phụ lục 9). Lãnh đạo theo luật là
nhà lãnh đạo khuyến khích nhân viên hành động theo các quy định, luật lệ của nhà
nước. Đây là thang đo kết quả và được đo bằng 4 biến quan sát nhằm thể hiện mức độ
đồng ý của đáp viên về các phát biểu về lãnh đạo theo luật. Còn lãnh đạo theo trách
nhiệm giải trình là những nhà lãnh đạo kích thích nhân viên biện minh và giải thích
hành động của họ cho các bên liên quan. Thang đo này cũng là thang đo kết quả và
được đo lường bởi 6 biến quan sát nhằm thể hiện mức độ đồng ý của đáp viên về các
phát biểu về lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình được thể hiện trong đơn vị công.
Chất lượng BCTC là các đặc tính chất lượng của thông tin có trong BCTC mà
làm cho thông tin đó hữu ích đối với người dùng (IPSASB, 2013). IPSASB (2017a)
chỉ rõ các đặc tính chất lượng của thông tin trong BCTC mục đích chung của các đơn
vị trong khu vực công gồm tính thích hợp (relevance), tính đáng tin cậy/trình bày trung
thực (reliability/faithful representation), tính có thể hiểu được (understandability), tính
kịp thời (timeliness), tính có thể so sánh (comparability) và tính có thể kiểm chứng
(verifiability). Tuy nhiên, xét tổng quát thì chất lượng BCTC có thể chia thành 2 thành
phần chính là: đặc tính chất lượng nền tảng gồm tính thích hợp và tính đáng tin cậy; và
đặc tính chất lượng bổ sung gồm tính có thể hiểu được, tính kịp thời, tính có thể kiểm
chứng và tính có thể so sánh (IPSASB, 2013). Các đặc tính chất lượng theo quan điểm
của IPSASB (2013, 2017a, 2018a) đã được nhiều tác giả trên thế giới sử dụng khi
85
đánh giá chất lượng BCTC của tổ chức công như Cohen, S. và Karatzimas (2017);
Mardinan và cộng sự (2018); Kasim (2015a); Afiah và Azwari (2015). Hơn nữa, tại
Việt Nam, Bộ Tài chính cũng đã và đang thay đổi các chế độ kế toán áp dụng cho các
lĩnh vực công theo hướng tiệm cận với IPSAS (ví dụ: Thông tư 107/2017/TT-BTC).
Do vậy, trong luận án này, tác giả dùng thang đo chất lượng BCTC dựa theo quan
điểm của IPSASB (2013, 2017a, 2018a). Theo đó, chất lượng BCTC là thang đo đa
hướng bậc hai và là thang đo kết quả gồm có hai thang đo đơn hướng. Cụ thể, đặc tính
chất lượng nền tảng là thang đo kết quả gồm có 6 biến quan sát. Còn đặc tính chất
lượng bổ sung cũng là thang đo kết quả có 7 biến quan sát, chi tiết tại Phụ lục 9.
Trách nhiệm giải trình trong khu vực công đề cập đến việc đơn vị công phải
cung cấp các minh chứng và phải chịu trách nhiệm cho việc sử dụng các loại tài sản
công liên quan đến các khái cạnh tuân thủ, tính chính xác và hiệu quả (Parker và
Gould, 1999; Sinclair, 1995). Thang đo trách nhiệm giải trình được Mack và Ryan
(2006) xây dựng thông qua khảo sát các nhóm người dùng BCTC trong khu vực công
tại Úc. Sau khi phân tích dữ liệu, Mack và Ryan (2006) chỉ rõ BCTC mục đích chung
trong khu vực công rất hữu ích cho người dùng đánh giá trách nhiệm giải trình của các
tổ chức công tại Úc. Trong bối cảnh Việt Nam, Bộ Tài chính (2017) cũng đã nhấn
mạnh rằng thông tin BCTC giúp cho việc nâng cao trách nhiệm giải trình của đơn vị
công về việc tiếp nhận và sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật. Do vậy,
trách nhiệm giải trình khi gắn với BCTC mục đích chung trong khu vực công, tác giả
đã đo lường trách nhiệm giải trình theo quan điểm của Mack và Ryan (2006). Theo đó,
trách nhiệm giải trình của đơn vị công được thể hiện thông qua mức độ hiệu quả của
việc đánh giá trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính dựa vào
thông tin mà đơn vị công cung cấp trên BCTC mục đích chung. Như vậy, thang đo
trách nhiệm giải trình theo Mack và Ryan (2006) là thang đo đa hướng bậc hai và là
thang đo kết quả, được đo lường thông qua hai thang đo đơn hướng là trách nhiệm giải
trình công và trách nhiệm giải trình tài chính. Trách nhiệm giải trình công là thang đo
kết quả, nó liên quan đến các đánh giá của người dùng BCTC về trách nhiệm giải trình
chung hoặc tổng thể cho các hoạt động của đơn vị công ở hiện tại và cả những ảnh
hưởng của các hoạt động trong tương lai, gồm có 8 biến quan sát. Còn trách nhiệm giải
trình tài chính cũng là thang đo kết quả, nó nhấn mạnh đến các đánh giá của người
86
dùng BCTC về hoạt động tài chính và hiệu quả tài chính của đơn vị công bao gồm cả
việc so sánh với các đơn vị công khác, được đo bằng 6 biến quan sát. Cụ thể, người trả
lời sẽ đánh giá mức độ thực hiện trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình
tài chính của đơn vị công căn cứ vào các thông tin trên BCTC được cung cấp bởi chính
đơn vị theo thang đo Likert 5 mức độ (chi tiết tại Phụ lục 9).
Thành quả hoạt động của đơn vị công được Van de Ven và Ferry (1980) đo
lường bằng 7 biến quan sát, thể hiện khá toàn diện các loại thành quả hoạt động mà
đơn vị công đã đạt được. Thang đo này được phổ biến rộng rãi trong các nghiên cứu
hiện tại và được chấp nhận trong lĩnh vực học thuật, chẳng hạn như Dunk và Lysons
(1997); Nitzl và cộng sự (2019); Verbeeten (2008); Verbeeten và Speklé (2015);
Williams và cộng sự (1990). Hơn nữa, thang đo thành quả hoạt động của Van de Ven
và Ferry (1980) có số lượng trích dẫn rất cao, có tới 2.970 trích dẫn tra cứu từ trang
Google scholar tính đến tháng 2/2021. Ngoài ra, thang đo này đã sử dụng cách đo
lường nhận thức, điều này cho phép so sánh dễ dàng hơn giữa các tổ chức công trong
các lĩnh vực hoặc bối cảnh quốc gia khác nhau (Song và Meier, 2018). Do vậy, trong
luận án này, tác giả đã dùng thang đo thành quả hoạt động theo Van de Ven và Ferry
(1980) để thảo luận với chuyên gia trong bước nghiên cứu định tính. Tóm lại, thang đo
thành quả hoạt động là thang đo đơn hướng và đây là thang đo kết quả, gồm có 7 biến
quan sát (Van de Ven và Ferry, 1980; Verbeeten, 2008; Verbeeten và Speklé, 2015).
Và khi đo lường thành quả hoạt động, người được hỏi sẽ tự đánh giá thành quả hoạt
động của đơn vị mà họ đang làm việc so với thành quả hoạt động của các đơn vị công
khác cùng lĩnh vực theo 5 mức độ từ 1 = “thấp hơn mức trung bình chung rất nhiều”
đến mức 5 = “cao hơn mức trung bình chung rất nhiều” (chi tiết tại Phụ lục 9).
Ngoài ra, theo lý thuyết thể chế cũng như lý thuyết bất định, mô hình nghiên cứu
còn xem xét tác động của hai biến kiểm soát đối với thành quả hoạt động là quy mô và
thời gian hoạt động. Thang đo của hai biến kiểm soát này cũng được tác giả kế thừa từ
các nghiên cứu trước. Biến kiểm soát quy mô của đơn vị công được đo bằng tổng số
nhân viên toàn thời gian (biên chế, hợp đồng dài dạn) theo Verbeeten (2008). Còn biến
kiểm soát thời gian hoạt động của đơn vị công được kế thừa theo Glisson và Martin
(1980). Theo đó, thời gian hoạt động của một đơn vị công là số năm đơn vị đã tồn tại,
được tính từ thời điểm đơn vị bắt đầu thành lập đến tại thời điểm khảo sát và được làm
87
tròn số năm (Glisson và Martin, 1980). Như vậy, cả hai biến kiểm soát đều được đo
lường bằng một biến quan sát định lượng (chỉ báo). Bởi lẽ hai biến kiểm soát này đại
diện các đặc điểm có thể quan sát được nên chúng thuộc dạng các khái niệm có một
câu hỏi đo lường (Hà Nam Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019).
3.4. Phương pháp nghiên cứu định tính
3.4.1. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
Trong nghiên cứu này, các cuộc phỏng vấn sâu với từng chuyên gia được tác giả
áp dụng khi thực hiện nghiên cứu định tính. Ở đây, tác giả không chọn hình thức thảo
luận nhóm tập trung mà sử dụng hình thức phỏng vấn sâu (cá nhân) với từng chuyên
gia riêng biệt bởi vì hai lý do sau. Một là, kỹ thuật thảo luận nhóm tập trung thường
tốn kém chi phí nhiều hơn so với phỏng vấn cá nhân (Adams và Cox, 2008). Hai là,
các cuộc phỏng vấn sâu được đánh giá là khả thi hơn bởi vì việc mời những người
thâm niên, họ thường là người có địa vị xã hội cao (ví dụ: phó chủ tịch thành phố, phó
giám đốc sở, trưởng phòng, phó phòng) tham gia vào một nhóm tập trung có thể gặp
nhiều khó khăn (Krueger, 2014; Morgan, 1996). Vì thế, phương pháp phỏng vấn sâu
với từng chuyên gia dự kiến thực hiện trong nghiên cứu này là cần thiết và phù hợp.
Hơn nữa, nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận bằng bảng hỏi với dạng bán cấu
trúc để phỏng vấn sâu, chứ không sử dụng cách tiếp cận bảng hỏi có cấu trúc vì hình
thức bảng hỏi bán cấu trúc linh hoạt hơn hình thức bảng hỏi có cấu trúc. Việc sử dụng
phỏng vấn bằng bảng hỏi bán cấu trúc có tác dụng khuyến khích người cung cấp thông
tin bày tỏ rõ hơn sự hiểu biết của họ và họ không bị giới hạn bởi các câu hỏi định trước
hạn chế như trong cuộc phỏng vấn bằng bảng hỏi có cấu trúc (Silverman, 2015). Và
cuộc phỏng vấn chuyên sâu bằng bảng hỏi bán cấu trúc thường đề cập đến một cuộc
phỏng vấn trong đó người phỏng vấn có một danh sách các câu hỏi được chuẩn bị
trước ở dạng tổng quát; tuy nhiên, người phỏng vấn có thể điều chỉnh hoặc thay đổi
trật tự các câu hỏi tùy theo câu trả lời của người được phỏng vấn nhằm điều tra sâu
hơn các vấn đề đang nghiên cứu (Silverman, 2015). Theo đó, tác giả đã soạn trước một
số nội dung cơ bản để trao đổi với chuyên gia, chi tiết tại Phụ lục 9.
Vì địa điểm nghiên cứu là tại Việt Nam, cho nên tiếng Việt là ngôn ngữ được sử
dụng trong tất cả các cuộc phỏng vấn. Phần lớn các chuyên gia thường rất bận và họ
rất cẩn trọng về các nội dung khi trao đổi cho nên các cuộc phỏng vấn được thực hiện
88
ở một địa điểm an toàn và thuận tiện có thể bảo vệ quyền riêng tư của người tham gia
ở mức độ lớn nhất có thể (ví dụ: nhà riêng của chuyên gia, phòng riêng trong một quán
cà phê,…). Tuy nhiên, cũng có một vài chuyên gia trả lời phỏng vấn bằng cách gửi thư
qua email cho tác giả vì họ bận công việc cá nhân khi tác giả hẹn gặp. Thêm vào đó,
phần lớn các chuyên gia đều yêu cầu nhà nghiên cứu gửi email cho họ các nội dung dự
kiến phỏng vấn trước khi cuộc phỏng vấn diễn ra một tuần để họ có thể chủ động và
tiết kiệm thời gian. Đáng lưu ý hơn, hầu như các chuyên gia khi tham gia phỏng vấn
có tâm lý chung là khá cẩn trọng. Điều này gây khó khăn cho tác giả để ghi âm nội
dung các cuộc phỏng vấn. Cuối cùng, các chuyên gia này đã yêu cầu tác giả không
được ghi âm nội dung cuộc phỏng vấn mà chỉ được ghi chép bằng giấy; sau đó, tác giả
đánh máy lại nội dung trả lời của chuyên gia và gửi lại cho họ xác nhận lại trước khi
đưa vào nội dung của luận án. Và nhiều chuyên gia cũng lưu ý rằng không được công
khai thông tin cá nhân của họ, vì vậy, tác giả đã mã hóa các thông tin cá nhân của tất
cả các chuyên gia khi trình bày luận án này.
3.4.2. Chọn mẫu chuyên gia
Chuyên gia được tác giả chọn theo phương pháp thuận tiện kết hợp với phương
pháp phán đoán. Cả hai phương pháp này đều là phương pháp chọn mẫu phi xác suất
(Nguyễn Đình Thọ, 2013). Nghĩa là, nhà nghiên cứu có thể chọn các chuyên gia nào
mà nhà nghiên cứu có thể tiếp cận được và tự phán đoán mức độ phù hợp của các phần
tử để mời họ tham gia vào cuộc trao đổi. Theo đó, tính đại diện của mẫu sẽ phụ thuộc
chủ yếu vào kiến thức cũng như yếu tố kinh nghiệm của người nghiên cứu. Bản thân
tác giả hiện là một giảng viên có kinh nghiệm giảng dạy trong lĩnh vực kế toán công
gần 10 năm. Ngoài quá trình tham gia giảng dạy chuyên ngành kế toán HCSN, tác giả
thường xuyên tham gia giảng dạy các khóa học khác liên quan đến quản lý tài chính kế
toán công như chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng đơn vị HCSN, chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên với một số đơn vị liên kết. Thông qua
các chương trình giảng dạy liên kết, tác giả có cơ hội tiếp xúc trực tiếp, trao đổi với
nhiều nhà quản lý, nhiều kế toán trưởng và kế toán tổng hợp làm việc tại các đơn vị
công. Ngoài ra, tác giả cũng đã tham gia nhiều công trình nghiên cứu về mảng kế toán
công như viết sách kế toán HCSN, chủ nhiệm đề tài khoa học cấp cơ sở, viết báo đăng
trên các kỷ yếu hội thảo khoa học và tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Toàn bộ
89
quá trình công tác và nghiên cứu trước đó đã giúp tác giả có được những hiểu biết cơ
bản và cần thiết về lĩnh vực mà tác giả đang nghiên cứu đó là kế toán công. Điều này
giúp cho việc chọn mẫu (chuyên gia) theo phương pháp thuận tiện và phán đoán sẽ có
được tính đại diện tốt hơn trong nghiên cứu.
Về cỡ mẫu chuyên gia, khi sử dụng nghiên cứu định tính, tác giả lựa chọn người
được phỏng vấn và tiến hành thảo luận với họ cho đến khi thông tin thu thập được
không có sự khác biệt khi so sánh với thông tin mà nhà nghiên cứu đã thu thập được
trong các cuộc phỏng vấn trước đó (Silverman, 2015). Số lượng mẫu ở điểm này được
gọi là điểm tới hạn (bão hòa). Sau đó, tiếp tục chọn thêm một đối tượng phỏng vấn
nhằm khẳng định điểm bảo hòa. Và nếu nhà nghiên cứu không phát hiện thêm được bất
cứ thông tin gì mới thì nhà nghiên cứu sẽ ngừng lại và xác định được kích thước mẫu
cho nghiên cứu lý thuyết (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Tuy nhiên, để khắc phục hạn chế
về ngân sách và thời gian, mẫu được chọn theo phương pháp thuận tiện kết hợp phán
đoán nên tác giả chọn 10 chuyên gia để thực hiện nghiên cứu định tính bao gồm 3
chuyên gia là giảng viên và 7 chuyên gia là nhà thực hành có am hiểu về kế toán công.
Cỡ mẫu này là phù hợp cho các cuộc phỏng vấn sâu vì nó nằm trong phạm vi từ 6 đến
12 người theo như đề xuất của Guest và cộng sự (2006).
Các tiêu chí chọn mẫu đưa ra trong nghiên cứu này nhằm tìm kiếm các chuyên
gia có kiến thức chuyên sâu, am hiểu về lĩnh vực kế toán công, phục vụ tốt cho nghiên
cứu, cụ thể gồm: (1) số năm kinh nghiệm là trên 10 năm; (2) yêu cầu về bằng cấp đối
với giảng viên là từ tiến sĩ trở lên, còn đối với người thực hành (kế toán hay nhà quản
lý) thì yêu cầu bằng cấp là từ cử nhân trở lên; (3) có hiểu biết nhất định về vấn đề
nghiên cứu, được thể hiện ở vị trí công việc, nếu là giảng viên thì chuyên ngành giảng
dạy hay công trình nghiên cứu đã công bố phải thuộc lĩnh vực kế toán công; nếu là nhà
thực hành thì có thể là kế toán (người cung cấp thông tin kế toán) hay nhà quản lý cấp
cao (người thường xuyên có nhu cầu sử dụng thông tin kế toán) ở các đơn vị công tại
Việt Nam. Tiêu chí lựa chọn mẫu được nhà nghiên cứu quan tâm nhất là mức độ am
hiểu của chuyên gia về công tác kế toán nói chung và vai trò của BCTC đối với các
nhóm người dùng nói riêng tại các đơn vị công ở Việt Nam. Bởi lẽ, đặc thù đơn vị
công (phục vụ chủ yếu vì mục đích cộng đồng) khác so với doanh nghiệp (hoạt động
chủ yếu vì lợi nhuận), dẫn đến chế độ kế toán giữa hai lĩnh vực này có những quy định
90
khác nhau. Việc am hiểu các quy định về quản lý tài chính, công tác kế toán trong khu
vực công sẽ giúp chuyên gia nhận định chính xác hơn về các nội dung trao đổi. Hơn
nữa, các chuyên gia không phải là giảng viên (7 chuyên gia) được tác giả lựa chọn
tham gia vào các cuộc phỏng vấn sâu hiện đang làm việc ở các loại hình đơn vị công
khác nhau, chẳng hạn như cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công; Và các chuyên
gia làm việc ở nhiều lĩnh vực công khác nhau gồm kho bạc, cơ quan tài chính, giáo
dục, y tế, UBND, bảo hiểm xã hội và dự trữ quốc gia. Mục đích của việc lựa chọn này
là để đảm bảo thông tin phong phú, để xác định xem mô hình nghiên cứu đề xuất và
thang đo của các khái niệm nghiên cứu đã kế thừa có phù hợp cho tất cả các loại hình
và lĩnh vực khác nhau của khu vực công hay không. Điều này giúp kết quả nghiên cứu
trong giai đoạn phỏng vấn mang tính bao quát cho khu vực công tại Việt Nam. Thời
gian phỏng vấn chuyên gia kéo dài từ tháng 5/2019 đến tháng 7/2019. Danh sách
chuyên gia chi tiết tại Phụ lục 10.
3.4.3. Thiết kế bảng phỏng vấn chuyên gia
Trước khi bắt đầu nội dung cuộc phỏng vấn, tác giả có phần tự giới thiệu về
chính mình, bày tỏ lời cảm ơn đối với việc đồng ý tham gia thảo luận của các chuyên
gia. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện sự cam kết bảo mật các thông tin cá nhân và nội
dung trả lời của chuyên gia, tác giả chỉ sử dụng dữ liệu này cho nghiên cứu của tác giả,
không phục vụ các mục đích khác. Hơn nữa, trước khi hỏi về các vấn đề chính của
nghiên cứu, tác giả cũng giới thiệu sơ lược về bối cảnh cải cách kế toán công đang
diễn ra tại Việt Nam, nêu bật được lý do và tầm quan trọng của vấn đề mà tác giả đang
nghiên cứu. Điều này dự kiến cũng góp phần vào sự thành công trong phỏng vấn, bởi
vì, thông qua đó các chuyên gia sẽ nhận thấy được phần nào sự chân thành, nghiêm túc
của tác giả và ý nghĩa khoa học dự kiến của đề tài. Khi đó, các chuyên gia cũng sẽ cố
gắng hỗ trợ hết mức để giúp cuộc phỏng vấn được thành công.
Nội dung cuộc phỏng vấn bao gồm ba phần chính. Phần thứ nhất hỏi về các
thông tin cá nhân của chuyên gia như: họ và tên, tên đơn vị công tác, chức vụ và một
vài thông tin cá nhân khác. Trong phần này, tác giả tập trung nhiều vào kinh nghiệm
làm việc của chuyên gia nhằm đánh giá sự phù hợp của chuyên gia về lĩnh vực kế toán
công. Phần thứ hai bao gồm 10 câu hỏi liên quan đến việc xác nhận và làm rõ hơn các
mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu trong mô hình tác giả đề xuất. Phần thứ ba bao
91
gồm bảy câu hỏi liên quan đến việc xác nhận và làm rõ hơn việc đo lường các biến
nghiên cứu trong bối cảnh của khu vực công tại Việt Nam, gồm: năng lực kế toán, vai
trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình, thành quả hoạt động, quy mô
đơn vị và thời gian hoạt động. Nội dung cụ thể của các câu hỏi phỏng vấn được tác giả
trình bày ở Phụ lục 9.
3.4.4. Kết quả nghiên cứu định tính
Sau khi tiến hành các cuộc thảo luận với chuyên gia cũng như nhận bảng trả lời
câu hỏi của một số chuyên gia qua email, tác giả tiến hành chuyển các dữ liệu thô
thành bảng kết quả phỏng vấn. Trên cơ sở các kết quả thu được, tác giả tiến hành phân
tích, tổng hợp và trình bày kết quả nghiên cứu định tính, chi tiết được trình bày trong
Chương 4. Đồng thời, tác giả tiến hành thiết kế bảng khảo sát sơ bộ. Creswell và
Creswell (2017) nhận thấy có 3 cách để có thang đo sử dụng trong nghiên cứu: một là
sử dụng thang đo đã có sẵn; hai là bổ sung và điều chỉnh thang đo đã có cho phù hợp
với bối cảnh nghiên cứu và ba là xây dựng thang đo hoàn toàn mới. Trong luận án này,
nhà nghiên cứu sử dụng các thang đo đã có trên cơ sở kế thừa và điều chỉnh thông qua
ý kiến đóng góp của chuyên gia ở bước nghiên cứu định tính.
Hơn nữa, nhằm tăng tính khả thi cho quá trình thu thập dữ liệu chính thức, tác giả
còn tiến hành bước khảo sát thử với bảng hỏi được hình thành sau khi trao đổi với
chuyên gia vì đây cũng được xem là bước quan trọng trong việc hoàn thiện bảng câu
hỏi. Theo đó, trước khi gửi chính thức bảng câu hỏi cho các đối tượng khảo sát, tác giả
đã thử nghiệm bảng hỏi bởi 10 kế toán trưởng tại các đơn vị công ở Việt Nam. Mục
đích của bước này nhằm kiểm tra lại mức độ rõ ràng, dễ hiểu của bảng câu hỏi khảo
sát. Sau đó, bảng khảo sát hoàn thiện sẽ được sử dụng cho thu thập dữ liệu trong bước
nghiên cứu định lượng sơ bộ.
3.5. Phương pháp nghiên cứu định lượng
3.5.1. Nghiên cứu định lượng sơ bộ
Mục đích chính của bước này là điều tra sơ bộ một số các đối tượng với một mẫu
không lớn nhằm đánh giá các giá trị của thang đo được sử dụng theo kết quả nghiên
cứu định tính trước khi kiểm định các mối quan hệ (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Điều
này giúp cho nghiên cứu định lượng chính thức đạt kết quả với tính khả thi tốt hơn.
92
3.5.1.1. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Đơn vị phân tích trong luận án này là tổ chức. Trong mỗi đơn vị công, tác giả
chọn một người đại diện đơn vị để trả lời bảng câu hỏi khảo sát. Thêm vào đó, nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng khi tiến hành bước nghiên cứu sơ bộ, đối tượng nghiên cứu
càng gần giống với đối tượng nghiên cứu chính thức càng tốt và nên phản ánh những
đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu chính thức (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Vì thế, tác
giả chọn đối tượng khảo sát gồm có người tạo lập BCTC như các nhân viên kế toán và
người thường sử dụng BCTC của đơn vị công như nhà quản lý, công chức, viên chức
trong các đơn vị công tại Việt Nam. Ở đây, tác giả không khảo sát những người sử
dụng BCTC bên ngoài đơn vị công như cơ quan tài chính, kho bạc, cơ quan thống
kê,... hay người bên ngoài có mối quan tâm về chất lượng BCTC của đơn vị công. Bởi
vì, trong mô hình nghiên cứu này, có một số biến nghiên cứu được đo lường thông qua
các biến quan sát mà chỉ có người bên trong đơn vị mới có thể đánh giá chính xác.
Hơn nữa, với mục đích chính của bước nghiên cứu sơ bộ là kiểm định thang đo
nên tác giả chọn mẫu theo phương pháp thuận tiện để có thể thu được kết quả nhanh
chóng, tiết kiệm chi phí. Mặc dù, phương pháp lấy mẫu này mang tính đại diện cho
đám đông thấp nhưng phương pháp lấy mẫu này khá phổ biến hiện nay vì nó có nghĩa
là các nhà nghiên cứu có thể chọn các đối tượng mà họ có thể tiếp cập được (Hair, J.
và cộng sự, 2014a) và trong bối cảnh khu vực công tại Việt Nam thì tác giả nhận thấy
phương pháp này mang lại tính khả thi cao nhất cho kết quả nghiên cứu. Về cỡ mẫu,
Bolton (1993) cho rằng nghiên cứu sơ bộ không cần thực hiện trên một phạm vi mẫu
lớn, cỡ mẫu 100 là mức phù hợp cho nhà nghiên cứu thực hiện các kiểm tra của mình.
Vì thế, trong bước nghiên cứu sơ bộ này, tác giả chọn cỡ mẫu là 100. Tuy nhiên, để có
được cỡ mẫu này, tác giả đã gửi 150 bảng hỏi đến các đối tượng khảo sát thông qua
email và gửi bảng khảo sát trực tiếp. Thời gian khảo sát là từ tháng 7 năm 2019 đến
tháng 9 năm 2019. Kết quả thu thập tính đến ngày 11 tháng 9 năm 2019 có 112 phản
hồi, trong đó 97 phản hồi là nhờ vào việc gửi bảng hỏi trực tiếp và 15 phản hồi bằng
email, đạt tỷ lệ phản hồi cao là 74,6%. Sau khi loại trừ các trường hợp đáp viên phản
hồi không hoàn chỉnh, tác giả có được 100 phản hồi hợp lệ. Trong nghiên cứu sơ bộ,
tác giả dùng phần mềm SmartPLS 3 để kiểm định các giá trị của mô hình đo lường
gồm có kiểm định độ tin cậy nhất quán nội bộ của thang đo, kiểm định tính hội tụ của
93
thang đo và kiểm định tính phân biệt của thang đo nên cỡ mẫu sơ bộ với 100 mẫu là
phù hợp (Hà Nam Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019).
3.5.1.2. Công cụ và phương pháp xử lý dữ liệu
Vì mục đích chính của bước nghiên cứu định lượng sơ bộ là kiểm tra giá trị các
thang đo được phát triển từ lý thuyết và nghiên cứu định tính cho nên những hoạt động
cần thực hiện trong bước này là: (1) khảo sát mẫu sơ bộ, (2) kiểm tra độ tin cậy nhất
quán nội bộ của thang đo, (3) kiểm tra giá trị hội tụ của thang đo (4) kiểm tra tính phân
biệt của thang đo và (5) hình thành bảng hỏi chính thức. Tác giả thực hiện các thao tác
kiểm định mô hình đo lường trên phần mềm SmartPLS 3. Trong mô hình luận án có
một số khái niệm nghiên cứu bậc cao (bậc thứ hai) được đo lường thông qua các khái
niệm bậc thấp (bậc thứ nhất), cụ thể gồm vai trò lãnh đạo được đo lường thông qua
lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình, chất lượng BCTC được đo
lường thông qua đặc tính chất lượng nền tảng và đặc tính chất lượng bổ sung, trách
nhiệm giải trình được đo lường thông qua trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm
giải trình tài chính. Vì thế, khi kiểm định mô hình đo lường cho các khái niệm/biến
nghiên cứu bậc cao, theo hướng dẫn của Hair, J. F. và cộng sự (2017b), tác giả tiến
hành kiểm định độ tin cậy, kiểm định giá trị hội tụ cũng như kiểm định giá trị phân
biệt đối với các khái niệm nghiên cứu bậc thấp (thang đo bậc 1) của chúng tương ứng.
Cụ thể:
Một là, khi ứng dụng PLS-SEM, tác giả thực hiện kiểm tra độ tin cậy nhất quán
nội bộ bằng 3 tiêu chí: (1) sử dụng hệ số Cronbach’s alpha; (2) sử dụng độ tin cậy tổng
hợp (CR) và (3) hệ số rhoA. Theo Hair, J. F. và cộng sự (2017a) thì giá trị của hệ số
Cronbach’s alpha cũng như CR nên nằm trong ngưỡng 0,7 đến 0,95 thì cho thấy sự
phù hợp về độ tin cậy của các thang đo được sử dụng. Thêm vào đó, Dijkstra và
Henseler (2015) còn lưu ý rằng hệ số rhoA cần được quan tâm khi kiểm tra độ tin cậy
của thang đo bằng phương pháp PLS vì nó rất quan trọng. Tương tự, giá trị hệ số rhoA
của thang đo được xem là phù hợp khi nó nằm trong khoảng (0,7; 0,95). Mô hình
nghiên cứu của luận án hiện có 7 khái niệm nghiên cứu với 4 khái niệm nghiên cứu
bậc 1 (năng lực kế toán, thành quả hoạt động, quy mô, thời gian hoạt động) và 3 khái
niệm nghiên cứu bậc 2 (vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình).
Trong đó, 3 khái niệm nghiên cứu bậc hai được đo lường thông qua 6 thang đo bậc 1
94
tương ứng là lãnh đạo theo luật, lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình, đặc tính chất
lượng nền tảng, đặc tính chất lượng bổ sung, trách nhiệm giải trình công và trách
nhiệm giải trình tài chính. Như vậy, mô hình nghiên cứu có 10 thang đo bậc 1. Và việc
đánh giá độ tin cậy của 7 khái niệm nghiên cứu được thực hiện đối với 10 thang đo bậc
1 này gồm năng lực kế toán, lãnh đạo theo luật, lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình,
đặc tính chất lượng nền tảng, đặc tính chất lượng bổ sung, trách nhiệm giải trình công,
trách nhiệm giải trình tài chính, thành quả hoạt động, quy mô và thời gian hoạt động.
Hai là, theo hướng dẫn của Hair, J. F. và cộng sự (2017a), tác giả tiến hành kiểm
tra giá trị hội tụ của thang đo trong luận án bằng hệ số tải ngoài và phương sai trích
bình quân (AVE). Cụ thể, giá trị hệ số tải ngoài từ các biến quan sát thường lớn hơn
0,7 và giá trị AVE cần lớn hơn 0,5 là ngưỡng tốt cho việc chấp nhận thang đo có giá trị
hội tụ (Hair, J. F. và cộng sự, 2017a). Trong trường hợp hệ số tải ngoài các biến quan
sát nằm trong khoảng (0,4; 0,7) thì có thể cân nhắc loại biến quan sát nếu việc loại
chúng giúp giá trị CR và AVE tăng hơn trước; đồng thời việc loại biến quan sát đó
không ảnh hưởng nghiêm trọng đến nội dung thang đo. Thông thường các nhà nghiên
cứu thường loại biến quan sát khi hệ số tải ngoài của nó nhỏ hơn ngưỡng 0,4, tuy
nhiên họ cũng cân nhắc kỹ đến sự ảnh hưởng của chúng đến nội dung thang đo kế
thừa. Vì thế, Hulland (1999) đề xuất ngưỡng tối thiểu của hệ số tải ngoài của biến
quan sát nên là 0,50 để đảm bảo không loại nhiều biến quan sát vì điều này dễ ảnh
hưởng đến nội dung của thang đo đang dùng. Do đó, để đánh giá giá trị hội tụ trong
luận án này, trước tiên tác giả kiểm tra chỉ số AVE của từng thang đo bậc 1, sau đó
phân tích hệ số tải ngoài của các biến quan sát có đảm bảo ngưỡng tối thiểu là 0,5 hay
không và cân nhắc thật kỹ khi đưa ra quyết định loại biến quan sát.
Bà là tác giả tiến hành kiểm tra giá trị phân biệt của thang đo được dùng trong
nghiên cứu. Vì ứng dụng PLS-SEM, nên giá trị phân biệt được đánh giá bằng 3 cách là
tiêu chí Fornell-Larcker, hệ số tải chéo và đặc biệt cần sử dụng hệ số HTMT – đây là
một tiêu chí mới được đề xuất bởi Henseler và cộng sự (2015). Đối với hệ số tải chéo,
Hair, J. F. và cộng sự (2017a) chỉ ra rằng giá trị phân biệt của thang đo được tạo ra khi
hệ số tải của biến quan sát thuộc cấu trúc của nó (chỉ số tải ngoài) lớn hơn tất cả hệ số
tải chéo của nó lên các cấu trúc khác (còn gọi là biến nghiên cứu khác). Đối với tiêu
chí Fornell-Larcker, nhà nghiên cứu tiến hành so sánh căn bậc 2 của giá trị AVE trong
95
từng cấu trúc và phải đảm bảo lớn hơn hệ số tương quan của nó với các cấu trúc khác.
Thế nhưng, theo Henseler và cộng sự (2015) và Hair, J. F. và cộng sự (2017a) thì tiêu
chí Fornell-Larcker và tiêu chí về hệ số tải chéo không thật sự đáng tin cậy và phù hợp
khi kiểm tra giá trị phân biệt trong xử lý PLS-SEM và do đó, họ đã đề nghị các nhà
nghiên cứu nên dùng hệ số HTMT để kiểm tra giá trị phân biệt của thang đo trước tiên.
Bởi lẽ, hệ số tải chéo không chứng minh được giá trị phân biệt khi hai thang đo có
tương quan với nhau hoàn hảo trong các mô hình nghiên cứu có khái niệm bậc cao
được đo lường thông qua các thang đo bậc 1 (Henseler và cộng sự, 2015). Tương tự,
tiêu chí Fornell-Larcker thể hiện rất yếu khi hệ số tải của biến quan sát trong mỗi biến
nghiên cứu khác biệt nhau ít (chênh lệch ít hơn 0,2) thì nên dựa vào tiêu chí HTMT để
đánh giá giá trị phân biệt (Hair, J. F. và cộng sự, 2017a). Cũng vì thế mà Hair, J. F. và
cộng sự (2017a) cho rằng nếu sử dụng hệ số tải chéo để kiểm tra giá trị phân biệt thì
chỉ cần căn cứ vào hệ số tải của biến quan sát nằm trong cấu trúc của nó cần phải lớn
hơn tất cả hệ số tải chéo của nó lên các cấu trúc khác; chứ không nên căn cứ vào chênh
lệch giữa chúng phải lớn hơn 0,2 để đảm bảo giá trị phân biệt theo cách đánh giá
truyền thống. Để khắc phục, các nhà nghiên cứu khuyên nên sử dụng hệ số HTMT
trước tiên khi kiểm tra giá trị phân biệt, sau đó có thể sử dụng thêm các tiêu chí khác.
Và điều kiện đặt ra để thang đo có giá trị phân biệt là hệ số HTMT cần phải nhỏ hơn
ngưỡng giá trị 1 (Henseler và cộng sự, 2016) hay điều kiện chặt chẽ hơn là giá trị
HTMT phải nhỏ hơn 0,9 (Gold và cộng sự, 2001; Teo và cộng sự, 2008). Tóm lại, tác
giả sẽ kiểm tra giá trị phân biệt đạt được của thang đo dựa trên cả 3 tiêu chí sau: đầu
tiên là dùng tiêu chí HTMT; tiếp đó dùng tiêu chí Fornell-Larcker và cuối cùng sử
dụng thêm hệ số tải chéo (cross-loading).
3.5.2. Nghiên cứu định lượng chính thức
Mục tiêu của bước nghiên cứu định lượng chính thức là thực hiện các kỹ thuật
phân tích để kiểm định mô hình đo lường, tiến hành kiểm định chệch do phương pháp,
kiểm định mô hình cấu trúc (đường dẫn) và kiểm định sự khác biệt. Thông qua kết quả
kiểm định, tác giả sẽ trả lời các câu hỏi và thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đề ra.
3.5.2.1. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Giống như ở bước nghiên cứu định lượng sơ bộ, đơn vị phân tích trong mô hình
nghiên cứu là đơn vị công. Và trong mỗi đơn vị, tác giả chọn một người đại diện đơn
96
vị để trả lời bảng câu hỏi khảo sát. Cụ thể, đối tượng được khảo sát là người bên trong
tổ chức, tập trung vào người tạo lập BCTC như kế toán trưởng, người phụ trách kế
toán (ở những đơn vị không có kế toán trưởng), kế toán tổng hợp hoặc tập trung vào
người thường sử dụng BCTC như nhà quản lý cấp cao, nhà quản lý các phòng ban
hoặc nhân viên có am hiểu về tài chính của các đơn vị công tại Việt Nam. Đối với
nghiên cứu này, tác giả không khảo sát nhóm người dùng BCTC bên ngoài đơn vị
công như người dân, người sử dụng dịch vụ công, nhà tài trợ, cơ quan nhà nước có
chức năng thanh tra và giám sát hoạt động tài chính của đơn vị công,…. Điều này là
hợp lý vì trong mô hình nghiên cứu có xem xét một số nhân tố thuộc đặc điểm bối
cảnh của tổ chức (ví dụ: năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo) nên người ngoài tổ chức sẽ
không thể quan sát và trả lời được nội dung liên quan này. Hơn nữa, với đặc thù môi
trường thể chế tại Việt Nam, các đối tượng bên ngoài (trừ các cơ quan nhà nước có
chức năng thanh tra, kiểm tra) hầu như không có điều kiện để tiếp xúc với tất cả các
loại BCTC của tổ chức công. Luật Kế toán năm 2015 và các văn bản pháp lý khác đã
yêu cầu các đơn vị công phải công khai BCTC, tuy nhiên, các đơn vị công được lựa
chọn hình thức công khai (Quốc hội, 2015a, 2015b). Phần lớn các đơn vị công tại Việt
Nam hiện nay chọn hình thức công khai bằng bản giấy dán tại bảng tin đơn vị, có rất ít
đơn vị công khai bằng bản điện tử trên website. Điều này gây khó khăn cho các bên
liên quan bên ngoài trong vấn đề tiếp cận các loại BCTC của tổ chức công. Vì thế, việc
chọn đối tượng khảo sát là người bên trong đơn vị dự kiến mang tính khả thi cao hơn
cho quá trình thực hiện luận án và đã được tác giả áp dụng. Tác giả cũng đưa ra thêm
tiêu chí chọn đối tượng khảo sát là có thâm niên công tác tối thiểu 3 năm. Các tiêu chí
chọn mẫu nêu trên nhằm tìm kiếm các đáp viên giàu kinh nghiệm và có nhiều kiến
thức liên quan đến chủ đề nghiên cứu, giúp nâng cao độ tin cậy của dữ liệu thu thập.
Xác định cỡ mẫu là một công việc khá phức tạp trong nghiên cứu khoa học vì
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: độ tin cậy cần thiết; phương pháp xử lý là hồi quy hay
phân tích nhân tố khám phá hay kiểm định mô hình SEM,…Kích cỡ mẫu càng lớn thì
càng tốt nhưng lại tốn chi phí và thời gian. Hiện nay, hầu hết các nhà nghiên cứu trên
thế giới xác định cỡ mẫu cần thiết dựa vào phương pháp xử lý của đề tài (Hà Nam
Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019). Trong luận án, tác giả sử dụng mô hình SEM
nên đòi hỏi cỡ mẫu phải đủ lớn nhằm đảm bảo việc thực hiện các ước lượng cần thiết
97
của mô hình, thế nhưng, cũng cần lưu ý rằng khi áp dụng PLS-SEM thì yêu cầu cỡ
mẫu lớn cũng không nhất thiết phải đáp ứng. Bởi lẽ, đối với các nghiên cứu mà sử
dụng PLS-SEM thì chỉ cần đáp ứng yêu cầu về cỡ mẫu tối thiểu là được, cụ thể, cỡ
mẫu nhỏ nhất là phải gấp 10 lần số biến quan sát nguyên nhân lớn nhất được đo lường
cho một khái niệm hoặc 10 lần số đường dẫn lớn nhất tác động đến một một khái niệm
trong mô hình (Hair, J. F. và cộng sự, 2017a). Đối chiếu lại với mô hình nghiên cứu
của luận án hiện tại có số lượng đường dẫn lớn nhất tác động đến một khái niệm
(thành quả hoạt động) trong mô hình là 4 và số biến quan sát nguyên nhân lớn nhất đo
lường cho một khái niệm (trách nhiệm giải trình) là 14, do đó cỡ mẫu tối thiểu là 140
mẫu. Mặc dù, PLS nổi tiếng với khả năng xử lý các cỡ mẫu nhỏ nhưng điều đó không
có nghĩa là mục tiêu nghiên cứu chỉ là đáp ứng yêu cầu kích thức mẫu tối thiểu (Hà
Nam Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019). Hoyle (1995) cho rằng cỡ mẫu 100 đến
200 thường là điểm khởi đầu tốt để phân tích mô hình SEM. Bên cạnh đó, Cohen, J.
(1992) cho rằng cỡ mẫu khảo sát chính thức càng lớn so với yêu cầu về cỡ mẫu tối
thiểu thì sẽ giảm được các sai lệch trong quá trình thu thập dữ liệu và giúp tăng cường
độ tin cậy của kết quả nghiên cứu. Vì thế, trong bước nghiên cứu chính thức, tác giả
dự kiến dùng 300 mẫu.
Phương pháp chọn mẫu được tác giả sử dụng trong nghiên cứu định lượng chính
thức là chọn mẫu theo định mức. Nhà nghiên cứu sẽ căn cứ các đặc tính kiểm soát đã
được xác định cho đám đông, từ đó, nhà nghiên cứu chọn số phần tử của mẫu đảm bảo
sao cho chúng cùng tỷ lệ của đám đông (tổng thể) theo các đặc tính kiểm soát này. Về
mặt lý thuyết, chọn mẫu theo định mức là một dạng khác của chọn mẫu phi xác suất,
cũng có nhược điểm là mẫu được chọn không tổng quát hóa cho đám đông (tổng thể)
nghiên cứu (Hair, J. F. và cộng sự, 2014b; Nguyễn Đình Thọ, 2013). Tuy nhiên, trong
số các phương pháp chọn mẫu phi xác suất mà thường được dùng trong nghiên cứu
khảo sát thì chọn mẫu theo định mức được đánh giá cao nhất vì nó có thể đại diện cho
đám đông trong thực tiễn (Hair, J. F. và cộng sự, 2014b). Trong luận án này, nhà
nghiên cứu sử dụng thuộc tính kiểm soát của đám đông nghiên cứu (khu vực công hay
còn gọi là khu vực nhà nước) là loại hình hoạt động. Các số liệu này được căn cứ từ dữ
liệu thống kê năm 2017 của Tổng Cục Thống Kê (2018) nên các tỷ lệ của đặc tính này
thể hiện cho đám đông nghiên cứu. Căn cứ vào chức năng hoạt động, loại hình đơn vị
98
công được chia thành ba nhóm: cơ quan hành chính chiếm tỷ lệ là 24,8%; đơn vị sự
nghiệp công chiếm tỷ lệ là 50,3% và các loại hình khác như tổ chức chính trị, đoàn thể,
hiệp hội,… chiếm tỷ lệ là 24,9% (Tổng Cục Thống Kê, 2018). Với số lượng mẫu dự
kiến là 300, tác giả tính toán các thông số của mẫu khảo sát theo phương pháp chọn
mẫu định mức trong Bảng 3.1 như sau:
Bảng 3.1: Chọn mẫu định mức theo loại hình đơn vị công
Tỷ lệ phân bổ theo Tổng cục Thống kê (2018) Số lượng đơn vị công cần thu thập theo phương pháp định mức Loại hình đơn vị công được phân loại theo chức năng hoạt động
24,8% Cơ quan hành chính 74
50,3% 151
24,9% 75 Đơn vị sự nghiệp công lập Tổ chức khác (Ví dụ: tổ chức chính trị, đoàn thể, hiệp hội,…)
100% Tổng cộng N = 300
Nguồn: Tác giả tính theo tỷ lệ của Tổng cục Thống kê (2018)
3.5.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Bảng hỏi chính thức gồm có hai nội dung chính. Phần thứ nhất là những thông tin
mang tính chất thống kê chung liên quan đến (1) cá nhân người cung cấp thông tin
(người được khảo sát), chẳng hạn như: vị trí công việc, số năm kinh nghiệm và (2) các
thông tin về tổ chức mà người được khảo sát đang làm việc, chẳng hạn như: loại hình,
lĩnh vực, mức độ tự chủ tài chính, quy mô, thời gian hoạt động. Phần thứ hai là các nội
dung chính của đề tài liên quan đến việc đánh giá các vấn đề về năng lực kế toán, vai
trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động.
Để tiếp cận đối tượng khảo sát, tác giả dự kiến sử dụng một số cách như sau:
Trước hết, bản thân tác giả cũng từng thực hiện một số nghiên cứu về kế toán công, vì
vậy tác giả đã có sẵn danh sách thông tin liên lạc của khoảng 150 mẫu. Và để gửi bảng
hỏi cho các đối tượng này, tác giả dự kiến sẽ gọi điện thoại thăm hỏi, nhờ họ trả lời
bảng khảo sát và hỏi ý kiến của họ về hình thức gửi bảng hỏi (gửi bảng khảo sát thông
qua email, gửi bưu điện hay gửi trực tiếp,…). Bảng khảo sát trong nghiên cứu này có
nội dung khá dài và do đặc thù ngành công tại Việt Nam (người trả lời thường có tâm
lý e ngại, cẩn trọng) nên việc gọi điện trước cho người trả lời là cần thiết. Hơn nữa,
trong khoảng thời gian khảo sát dự kiến, tác giả được mời tham gia giảng dạy các lớp
99
bồi dưỡng chuyên đề về quản lý tài chính và các lớp kế toán trưởng đơn vị HCSN. Vì
thế, tác giả sẽ tận dụng các cơ hội này để phát bảng khảo sát cho các học viên có am
hiểu về tài chính – kế toán làm người đại diện đơn vị hoàn thành giúp bảng khảo sát.
Ngoài ra, tác giả dự định nhờ Thầy/Cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè và người thân gửi
giúp bảng hỏi cho các đối tượng khảo sát mà họ tiếp cận được. Quá trình này dự kiến
giúp kết quả khảo sát đảm bảo được tính khả thi. Thời gian khảo sát chính thức dự
kiến là từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 5 năm 2020.
3.5.2.3. Công cụ và phương pháp xử lý dữ liệu
Nghiên cứu này sử dụng mô hình phương trình cấu trúc tuyến tính (SEM). Theo
đó, mô hình SEM được sử dụng như một kỹ thuật phân tích để giải thích cho mối
tương quan xảy ra giữa các biến trong mô hình nghiên cứu. Lý do cho việc áp dụng mô
hình SEM là vì nó cho phép đánh giá đồng thời ảnh hưởng của nhiều biến độc lập lên
nhiều biến phụ thuộc, trái ngược với hồi quy tuyến tính đa biến (Van der Voet và cộng
sự, 2015). Cách tiếp cận hai bước với SEM đã được sử dụng để kiểm tra mô hình giả
thuyết (Anderson và Gerbing, 1988). Bước đầu tiên, kiểm định mô hình đo lường được
thực hiện bằng phần mềm SmartPLS 3 nhằm đánh giá lại thang đo để xem thang đo
dùng để đo lường cho các khái niệm nghiên cứu có đảm bảo độ tin cậy nhất quán nội
bộ, có đảm bảo giá trị hội tụ và có đảm bảo giá trị phân biệt hay không. Ngoài ra, độ
chính xác của dữ liệu thu thập bằng bảng hỏi phụ thuộc vào cảm nhận của người trả lời
và không thể đo lường một cách khách quan trong thực tiễn. Vì vậy, dữ liệu đại diện
cảm nhận của người trả lời có thể là rất dễ bị lỗi đo lường. Lỗi đo lường xuất hiện khi
khái niệm được đo lường không phản ánh được giá trị thực của nó. Theo đó, sai lệch
trong trả lời là một nguồn phổ biến dẫn đến lỗi trong đo lường và nó có thể bị gây ra
một cách cố tình hay vô tình bởi người trả lời (Hà Nam Khánh Giao và Bùi Nhất
Vương, 2019). Hơn nữa, vì mỗi bảng hỏi được một người đại diện tổ chức trả lời toàn
bộ nội dung nên tác giả cũng tiến hành kiểm định chệch do phương pháp và được xử lý
bằng phần mềm SPSS 22.
Ở bước thứ hai, mô hình cấu trúc được đề xuất theo khung lý thuyết. Mô hình này
được kiểm định để đánh giá mối quan hệ giữa các biến riêng lẻ trong mô hình, cũng
như sự phù hợp của toàn bộ mô hình lý thuyết. Có hai phương pháp chính để ước
lượng các mối quan hệ trong mô hình SEM đó là phương pháp dựa trên hiệp phương
100
sai truyền thống (CB) và phương pháp bình phương tối thiểu một phần (PLS) (Hà Nam
Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019; Hair, J. F. và cộng sự, 2017b). So với mô hình
phương trình cấu trúc dựa trên hiệp phương sai truyền thống (CB-SEM), PLS có xu
hướng đạt được mức công suất thống kê cao hơn trong những điều kiện giống nhau bởi
vì đây là phương pháp phi tham số dựa trên hồi quy bình phương nhỏ nhất thông
thường, và nó được thiết kế để tối đa hóa phương sai được giải thích (Reinartz và cộng
sự, 2009). Hơn nữa, Hair, J. F. và cộng sự (2017a) nhận thấy PLS-SEM hoạt động hiệu
quả với cỡ mẫu nhỏ và các mô hình phức tạp, mối quan hệ trong mô hình chồng chéo,
nhiều biến vừa đóng vai trò là biến độc lập vừa là biến phụ thuộc, giúp xử lý dễ dàng
các mô hình đo lường nguyên nhân - kết quả và không cần giả định về dữ liệu phân
phối chuẩn. Như đã đề cập, phương pháp PLS không đòi hỏi một mẫu lớn và nó ước
tính khá chính xác các tham số với một kích thước mẫu nhỏ. Kỹ thuật PLS-SEM hỗ
trợ các nhà nghiên cứu phân tích các mô hình có cả biến điều tiết, biến trung gian và
biến kiểm soát (Lee và cộng sự, 2011). Ngoài ra, PLS-SEM cũng là một kỹ thuật thống
kê được chấp nhận rộng rãi và áp dụng trong nhiều nghiên cứu thuộc lĩnh vực kế toán
công khác nhau (Carini và cộng sự, 2019; Nitzl, 2016; Verbeeten và Speklé, 2015). Do
đó, tác giả sử dụng phần mềm SmartPLS 3 với phương pháp PLS dùng để kiểm định
các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu của luận án.
3.5.2.4. Các bước phân tích dữ liệu
Sau khi dữ liệu thu thập đã được kiểm tra và loại bỏ những phiếu trả lời không
hợp lệ (gồm phiếu chưa hoàn thành, phiếu đánh bừa, phiếu đánh nhiều đáp án cho một
câu hỏi, phiếu trùng tên đơn vị,…), tác giả tiến hành mã hóa các biến nghiên cứu theo
các ký hiệu đã quy ước và nhập liệu vào excel. Sau đó, tác giả tiến hành các bước phân
tích dữ liệu cụ thể gồm: thống kê mô tả mẫu nghiên cứu, kiểm định mô hình đo lường,
kiểm định chệch do phương pháp, kiểm định mô hình cấu trúc, kiểm định sự khác biệt.
Đối với thống kê mô tả mẫu khảo sát, tác giả sử dụng phần mềm SPSS 22 với các
thông số thống kê như giá trị trung bình, trình bày thêm giá trị lớn nhất cũng như giá
trị nhỏ nhất, phương sai, độ lệch chuẩn. Đối với kiểm định chệch do phương pháp và
kiểm định sự khác biệt thì tác giả cũng sử dụng phần mềm SPSS 22. Còn việc kiểm
định mô hình đo lường và kiểm định mô hình cấu trúc thì được thực hiện bằng phần
mềm SmartPLS 3, chi tiết như sau:
101
Kiểm định mô hình đo lường
Thang đo của các khái niệm nghiên cứu trong mô hình cần phải đảm bảo độ tin
cậy, đảm bảo giá trị hội tụ và đảm bảo cả giá trị phân biệt (Hair, J. F. và cộng sự,
2017a). Và cũng cần lưu ý rằng việc kiểm định mô hình đo lường của các khái niệm
nghiên cứu bậc cao (bậc thứ hai) trong bước phân tích định lượng chính thức cũng
được thực hiện thông qua kiểm định mô hình đo lường của các thang đo bậc 1 (Hair, J.
F. và cộng sự, 2017b). Ngoài ra, tác giả còn thực hiện đánh giá ý nghĩa thống kê của
dữ liệu khảo sát, cụ thể là tác giả chạy boostraping với 2.000 lần theo Nevitt và
Hancock (2001) đã đề xuất nhằm tính giá trị t-value tương ứng của các biến quan sát.
Các bước phân tích kiểm định mô hình đo lường đã trình bày chi tiết ở mục 3.5.1.2.
Kiểm định chệch do phương pháp
Việc thu thập dữ liệu trong luận án này được thực hiện từ một nguồn duy nhất,
tức là một người trả lời toàn bộ nội dung các mục hỏi trong một bảng khảo sát có thể
gây ra tình trạng thiên lệch kết quả. Vì thế, Podsakoff và cộng sự (2003) cho rằng
chệch do phương pháp (Common Method Bias) cần được quan tâm vì nó làm cho kết
quả nghiên cứu bị phiến diện. Điều này có nghĩa là mối quan hệ giữa các biến độc lập
và biến phụ thuộc dễ có thể tương quan với nhau. Do đó, chệch do phương pháp
thường là một vấn đề mà các nhà nghiên cứu buộc phải kiểm soát nó bằng mọi cách có
thể (Podsakoff và cộng sự, 2003). Nhiều nhà nghiên cứu (ví dụ: Podsakoff và cộng sự
(2003); Podsakoff và cộng sự (2012); Tehseen và cộng sự (2017)) đã đề cập đến hai
cách tiếp cận chính có thể được sử dụng để kiểm soát sai lệch của phương pháp. Phương
pháp đầu tiên để giảm thiểu ảnh hưởng của sai lệch phương pháp là bằng quy trình thiết
kế nghiên cứu cẩn thận và cách tiếp cận thứ hai là sử dụng các biện pháp thống kê để
kiểm soát tác động của sai lệch phương pháp chung sau khi thu thập dữ liệu (Tehseen và
cộng sự, 2017). Hơn nữa, Chang và cộng sự (2010) cũng đặc biệt khuyến nghị sử dụng
nhiều biện pháp khắc phục để giải quyết các mối quan tâm khác nhau liên quan đến
thiên lệch do phương pháp. Do đó, trong nghiên cứu này, tác giả đã dùng kết hợp cả hai
nhóm biện pháp trên, cụ thể như sau:
- Khắc phục thiên lệch do phương pháp bằng các thủ tục ở giai đoạn thiết kế
nghiên cứu trước khi thu thập dữ liệu. Đây được xem là một trong những cách hữu
hiệu để tránh thiên lệch do phương pháp (Chang và cộng sự, 2010).Theo hướng dẫn
102
của một số nghiên cứu trước như Podsakoff và cộng sự (2003); Podsakoff và cộng sự
(2012); Tehseen và cộng sự (2017), tác giả đã tiến hành một số thủ tục sau liên quan
đến cách thiết kế và quản lý bảng khảo sát. Trước hết, tác giả thiết kế nội dung bảng
hỏi với những câu hỏi được diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, không sử dụng các thuật ngữ mơ
hồ, đa nghĩa; sử dụng các câu hỏi đơn giản, cụ thể và ngắn gọn. Những phương pháp
này làm giảm các vấn đề trong giai đoạn hiểu của quá trình phản hồi từ người trả lời.
Hơn nữa, người trả lời được đảm bảo về tính ẩn danh và tính bảo mật của nghiên cứu,
rằng không có câu trả lời đúng hay sai và họ nên trả lời trung thực nhất có thể. Đây là
biện pháp bảo vệ sự ẩn danh của người được hỏi và giảm thiểu sự e ngại khi đánh giá,
cũng là cách giảm thiểu sự sai lệch của phương pháp ở giai đoạn phản hồi (Chang và
cộng sự, 2010; Tehseen và cộng sự, 2017).
- Kiểm soát thiên lệch do phương pháp bằng các phương pháp thống kê ở giai
đoạn sau khi thu thập dữ liệu. Các biện pháp thống kê ở giai đoạn thiết kế nghiên cứu
có thể làm giảm tác động của chệch do phương pháp ở một mức độ nào đó (Chang và
cộng sự, 2010). Do đó, sẽ hữu ích khi sử dụng các biện pháp thống kê để kiểm soát tác
động của chệch do phương pháp đối với các kết quả nghiên cứu. Có nhiều biện pháp
thống kê được khuyến nghị từ các tài liệu hiện có, mỗi phương pháp có những ưu và
nhược điểm khác nhau (Podsakoff và cộng sự, 2003; Podsakoff và cộng sự, 2012).
Trong số đó, phương pháp kiểm tra nhân tố đơn Harman được khá nhiều các nhà nghiên
cứu trước sử dụng khi kiểm tra chệch do phương pháp có ảnh hưởng nghiêm trọng đến
kết quả nghiên cứu hay không (Chang và cộng sự, 2010; Tehseen và cộng sự, 2017).
Mặc dù, Podsakoff và cộng sự (2003) cũng lưu ý rằng thử nghiệm Harman không phải
là một phương thức hữu ích để giải quyết hoàn toàn vấn đề chệch do phương pháp.
Thế nhưng, phương pháp kiểm tra nhân tố đơn Harman có ưu điểm là đơn giản và dễ sử
dụng hơn đối với các nhà nghiên cứu (Tehseen và cộng sự, 2017). Do vậy, trong nghiên
cứu này, với những hạn chế nhất định, tác giả sử dụng phân tích nhân tố đơn Harman để
kiểm tra vấn đề chệch do phương pháp. Trong phương pháp này, tất cả các mục từ mọi
cấu trúc được tải vào một nhân tố phân tích để kiểm tra xem một nhân tố duy nhất có
xuất hiện hay không hoặc liệu nhân tố chung duy nhất có dẫn đến phần lớn hiệp phương
sai giữa các phép đo hay không; nếu không có yếu tố đơn lẻ nào xuất hiện và chiếm
phần lớn hiệp phương sai, điều này có nghĩa là chệch do phương pháp không phải là một
103
vấn đề phổ biến trong nghiên cứu (Chang và cộng sự, 2010). Kỹ thuật phân tích nhân tố
đơn Harman được xử lý bằng phần mềm SPSS 22. Nếu kết quả phân tích chỉ ra được
rằng nhân tố đơn Harman nhỏ hơn mức ngưỡng 50% tổng phương sai trích của mô
hình thì tình trạng thiện chệch do phương pháp dường như không ảnh hưởng nghiêm
trọng đến độ chính xác của kết quả nghiên cứu (Tehseen và cộng sự, 2017).
Kiểm định mô hình cấu trúc
Đánh giá mô hình cấu trúc (đường dẫn) nhằm tìm hiểu các mối quan hệ giữa các
biến nghiên cứu trong mô hình cấu trúc và người đọc thấy được khả năng dự báo của
mô hình. Cụ thể, các bước thực hiện trong kiểm định mô hình cấu trúc dự kiến bao
gồm (Hair, J. F. và cộng sự, 2017a): trước hết là đánh giá vấn đề đa cộng tuyến, tiếp
đó là đánh giá mức độ phù hợp cũng như trình bày ý nghĩa thống kê của các mối quan
hệ (đường dẫn), đánh giá mức độ hệ số xác định R2, kiểm định tác động trung gian và
đánh giá mức độ phù hợp của mô hình đối với bộ dữ liệu đã thu thập.
Một là đánh giá vấn đề đa cộng tuyến có xảy ra trong mô hình cấu trúc của luận
án hay không. Để đánh giá mức độ cộng tuyến giữa các biến trong mô hình cấu trúc,
tức là xem xét các biến độc lập của mô hình có tương quan chặt, có phụ thuộc lẫn nhau
hay không, các nhà nghiên cứu nên tính toán dung sai và hệ số phóng đại phương sai
(giá trị VIF). Trong kỹ thuật PLS-SEM, giá trị dung sai bằng 0,20 hoặc thấp hơn hoặc
giá trị VIF bằng 5 hoặc cao hơn chỉ ra một vấn đề đa cộng tuyến tiềm năng. Thông
thường, các nhà nghiên cứu thường dựa vào giá trị VIF, cụ thể, giá trị VIF trên 5 là
biểu hiện của đa cộng tuyến (Hair, J. F. và cộng sự, 2017a). Nếu mức độ cộng tuyến là
nghiêm trọng thì nhà nghiên cứu nên xem xét loại bỏ các cấu trúc hoặc tạo các cấu trúc
bậc cao hơn để xử lý các vấn đề về cộng tuyến.
Hai là đánh giá sự phù hợp và đánh giá ý nghĩa thống kê (thông qua giá trị t-
value) của các mối quan hệ. Sau khi chạy thuật toán PLS-SEM, các ước lượng thu
được cho các mối quan hệ (nghĩa là các hệ số đường dẫn), đại diện cho các mối quan
hệ giả thuyết giữa các biến nghiên cứu. Các hệ số đường dẫn có các giá trị chuẩn hóa
xấp xỉ giữa -1 và +1. Các hệ số đường dẫn ước lượng gần bằng +1 biểu thị các mối
quan hệ cùng chiều/cùng chiều/dương mạnh mẽ (và ngược lại cho các giá trị âm) mà
hầu như luôn mang ý nghĩa thống kê (nghĩa là khác 0 trong tổng thể). Các hệ số ước
lượng càng gần 0 thì các mối quan hệ càng yếu. Các giá trị rất thấp gần bằng 0 thường
104
không có ý nghĩa thống kê, tức là không khác biệt đáng kể so với 0. Cần chú ý rằng,
một hệ số có ý nghĩa thống kê phụ thuộc vào sai số chuẩn của nó thu được qua
phương pháp bootstrapping. Sai số chuẩn bootstrap cho phép tính toán được giá trị t
thực nghiệm và giá trị p cho tất cả các hệ số đường dẫn trong mô hình cấu trúc. Khi
giá trị t thực nghiệm lớn hơn giá trị tới hạn, tác giả kết luận rằng hệ số này có ý nghĩa
thống kê tại một xác suất sai số nhất định (nghĩa là, ở mức ý nghĩa nào đó). Các giá trị
tới hạn thường được sử dụng cho các kiểm định hai đuôi (two - tailed) là 1,65 (mức ý
nghĩa = 10%), 1,96 (mức ý nghĩa = 5%) và 2,57 (mức ý nghĩa = 1%). Nói chung, khi
một nghiên cứu có bản chất là khám phá, các nhà nghiên cứu thường chọn mức ý
nghĩa là 10%; tuy nhiên, việc lựa chọn các mức ý nghĩa phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên
cứu và mục tiêu nghiên cứu (Hair, J. F. và cộng sự, 2017a). Sau khi kiểm tra mức ý
nghĩa của các mối quan hệ, đánh giá sự liên quan các mối quan hệ là điều quan trọng.
Các hệ số đường dẫn trong mô hình cấu trúc có thể được diễn giải trong sự quan hệ lẫn
nhau. Nếu một hệ số đường dẫn lớn hơn một hệ số khác, ảnh hưởng của nó đến biến
tiềm ẩn nội sinh (biến phụ thuộc) sẽ lớn hơn. Cụ thể hơn, các hệ số đường dẫn riêng lẻ
của mô hình đường dẫn có thể được hiểu giống như các hệ số beta chuẩn hóa trong hồi
quy OLS: một đơn vị thay đổi của biến ngoại sinh (biến độc lập) sẽ thay đổi biến nội
sinh (biến phụ thuộc) bởi độ lớn của hệ số đường dẫn khi mọi thứ khác không đổi. Nếu
hệ số đường dẫn có ý nghĩa thống kê, giá trị của nó cho biết mức độ mà biến ngoại
sinh tác động đến biến nội sinh (Hà Nam Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019).
Ba là đánh giá giá trị mức độ hệ số xác định R2 trong mô hình. Biện pháp được
sử dụng phổ biến nhất để đánh giá mô hình cấu trúc là hệ số xác định (giá trị R2). Hệ
số này là thước đo dự báo mô hình và được tính bằng bình phương tương quan giữa
giá trị được dự báo và giá trị của biến nghiên cứu nội sinh cụ thể. Hệ số đại diện cho
tác động kết hợp của các biến tiềm ẩn ngoại sinh lên biến tiềm ẩn nội sinh. Đó là, các
hệ số biểu thị lượng phương sai trong biến nghiên cứu nội sinh được giải thích bởi tất
cả các biến nghiên cứu ngoại sinh được liên kết với nó. Bởi vì R2 là tương quan bình
phương của các giá trị thực tế và dự báo, như vậy, tất cả dữ liệu đã được sử dụng cho
ước lượng mô hình để đánh giá năng lực dự báo của mô hình, nó đại diện cho một
phép đo lường về năng lực dự báo trong mẫu (Sarstedt và cộng sự, 2014). Giá trị R2
nằm trong khoảng từ 0 đến 1, chỉ số càng cao cho thấy cấp độ dự báo càng chính xác
105
hơn. Rất khó để cung cấp quy tắc kinh nghiệm chấp nhận giá trị R2 vì điều này phụ
thuộc vào sự phức tạp của các mối quan hệ và lĩnh vực nghiên cứu (Hà Nam Khánh
Giao và Bùi Nhất Vương, 2019). Thông thường, giá trị R2 bằng 0,20 được xem là cao
trong các lĩnh vực nghiên cứu hành vi, mang tính chất khám phá (Hair, J. F. và cộng
adj) có thể
sự, 2017a). Tương tự như hồi quy bội, hệ số xác định được điều chỉnh (R2
được sử dụng làm tiêu chuẩn để tránh sai lệch đối với các mô hình phức tạp. Tiêu
chuẩn này được sửa đổi theo số lượng các biến ngoại sinh tương xứng với kích thước
adj làm giảm giá trị R2 thông qua số lượng biến giải thích và kích thước
mẫu. Giá trị R2
mẫu, do đó bù lại một cách có hệ thống cho việc thêm các biến ngoại sinh không có ý
nghĩa đơn thuần chỉ để làm tăng sự giải thích biến động của R2.
Bốn là kiểm định tác động trung gian. Zhao và cộng sự (2010) cho rằng có hai
dạng tác động trung gian: tác động trung gian một phần và tác động trung gian toàn
phần. Trong đó, tác động trung gian một phần gồm hai dạng: trung gian bổ sung (tác
động gián tiếp và trực tiếp đều có ý nghĩa và cùng hướng) và trung gian cạnh tranh (tác
động gián tiếp và trực tiếp đều có ý nghĩa và ngược hướng). Còn tác động trung gian
toàn phần có nghĩa là tác động gián tiếp có ý nghĩa nhưng không có tác động trực tiếp.
Trước đây, các nhà nghiên cứu thường kiểm định ý nghĩa của các tác động trung gian
dựa trên phương pháp Sobel (1982). Kiểm định Sobel được thực hiện bằng cách so
sánh mối quan hệ trực tiếp giữa các biến độc lập và các biến phụ thuộc với mối quan
hệ gián tiếp giữa các biến độc lập và các biến phụ thuộc mà trong đó có cả biến trung
gian (Henseler và Chin, 2010). Tuy nhiên, trong các nghiên cứu sử dụng PLS-SEM thì
kiểm định Sobel được xem là không phù hợp để kiểm tra biến trung gian. Thay vì sử
dụng kiểm định Sobel, Hair, J. F. và cộng sự (2017a) khuyên các nhà nghiên cứu nên
dùng kỹ thuật bootstrap phân phối mẫu về tác động gián tiếp. Bởi vì, Bootstrapping
không có giả định về hình dạng sự phân phối của biến hay phân phối mẫu của các số
liệu thống kê và có thể được áp dụng cho các cỡ mẫu nhỏ với độ tin cậy cao hơn. Do
đó, cách tiếp cận này hoàn toàn phù hợp với phương pháp PLS-SEM và được triển
khai trong phần mềm SmartPLS 3. Ngoài ra, hiệu suất tác động gián tiếp qua
bootstrapping có độ nhạy thống kê cao hơn so với kiểm định Sobel. Khi sử dụng kỹ
thuật bootstrap để kiểm định tác động trung gian, nhà nghiên cứu được yêu cầu phải
chạy một chuỗi các phân tích (Hair, J. F. và cộng sự, 2017a). Đầu tiên, nhà nghiên cứu
106
cần phải đánh giá ý nghĩa thống kê của các mối quan hệ gián tiếp được hình thành do
có sự xuất hiện của biến trung gian. Nếu có một tác gián tiếp không có ý nghĩa thì kết
luận mô hình không có tác động gián tiếp bởi biến trung gian đang xem xét. Nếu tất cả
các tác động gián tiếp trong mô hình đều có ý nghĩa thì cần tiếp tục kiểm tra ý nghĩa
thống kê từ mối quan hệ trực tiếp. Nếu tác động trực tiếp không có ý nghĩa thống kê
thì kết luận biến trung gian đang xem xét giữ vai trò là trung gian toàn phần. Còn nếu
tác động trực tiếp và gián tiếp đều có ý nghĩa thống kê thì chúng ta cần phân biệt giữa
tác động trung gian bổ sung hay cạnh tranh. Cụ thể: nếu kết quả của tác động gián tiếp
và trực tiếp là mang dấu dương (cùng chiều) thì đó là tác động trung gian bổ sung còn
ngược lại nếu mang dấu âm (ngược chiều) thì là tác động trung gian cạnh tranh.
Năm là tiến hành đánh giá sự phù hợp của mô hình đề xuất trong luận án. Việc
phân tích độ phù hợp của mô hình nhằm chỉ ra mức độ phù hợp từ mô hình cấu trúc
(đường dẫn) đối với dữ liệu thu thập, qua đó xác định các sai sót trong mô hình nghiên
cứu. Theo đề nghị của Tenenhaus và cộng sự (2004) thì việc nhận định về mức độ phù
hợp của mô hình so với bộ dữ liệu thu thập thực tế mà sử dụng kỷ thuật PLS-SEM càn
lưu ý rằng không nên sử dụng tiêu chí về chỉ số GoF (Goodness-of-fix index). Tác giả
Hair, J. F. và cộng sự (2017a) cũng cho rằng chỉ số GoF không thể hiện chính xác mức
độ phù hợp của mô hình đối với dữ liệu khảo sát trong các nghiên cứu dùng kỹ thuật
PLS-SEM mà nó chỉ phù hợp cho các nghiên cứu mà sử dụng kỹ thuật CB-SEM. Do
vậy, trong luận án này, tác giả kiểm tra mức độ phù hợp của mô hình bằng cách dùng
hệ số SRMR với ngưỡng 0,08 và hệ số RMStheta với ngưỡng 0,12 theo đề xuất của
Henseler và cộng sự (2016).
Kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm biến định tính của mẫu khảo sát
Khu vực công tại Việt Nam có phạm vi rất rộng, có khoảng 143,7 nghìn đơn vị
phân bố rộng khắp trên cả nước từ miền Bắc vào miền Nam theo số liệu của Tổng Cục
Thống kê (2018). Căn cứ vào loại hình, các đơn vị công được phân thành 3 nhóm: cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và các loại tổ chức công khác. Căn cứ vào
mức độ tự chủ tài chính, các đơn vị công được chia thành 6 nhóm: (1) Cơ quan nhà
nước được giao tự chủ kinh phí; (2) Cơ quan nhà nước không được giao tự chủ kinh
phí; (3) Đơn vị tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư; (4) Đơn vị tự chủ chi thường
xuyên; (5) Đơn vị tự chủ một phần chi thường xuyên; (6) Đơn vị do NSNN cấp kinh
107
phí. Các khác biệt về loại hình và mức độ tự chủ tài chính của các đơn vị công có thể
sẽ ảnh hưởng đến năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm
giải trình và thành quả hoạt động. Hơn nữa, để thu thập đủ số lượng mẫu như dự kiến,
quá trình khảo sát dữ liệu có thể sẽ diễn ra trong thời gian khá dài. Do đó, tác giả sử
dụng thêm kiểm định trị T-test và Anova để tiến hành các kiểm định sự khác biệt về
một số đặc tính của mẫu khảo sát đối với bộ dữ liệu khảo sát.
Trước hết, tác giả chọn các tiêu thức định lượng để so sánh giá trị trung bình giữa
các nhóm loại hình và các nhóm tự chủ tài chính gồm có: năng lực kế toán, vai trò lãnh
đạo, trách nhiệm giải trình, chất lượng BCTC và thành quả hoạt động của đơn vị công.
Tiếp đó, tác giả còn kiểm định sự khác biệt giữa các khu vực địa lý về việc đánh giá
thành quả hoạt động. Cuối cùng, tác giả cũng kiểm tra xem có sự khác biệt trong thu
thập dữ liệu giữa giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của quá trình thu thập dữ liệu hay
không. Tức là kiểm định sự khác biệt giữa hai mốc thời gian khảo sát dữ liệu khi đánh
giá thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam. Cần lưu ý rằng kiểm định
T-test đối với mẫu độc lập được sử dụng khi so sánh giá trị trung bình của hai nhóm
biến định tính. Còn trường hợp so sánh giá trị trung bình của nhiều hơn hai nhóm biến
định tính thì tác giả dùng phân tích phương sai Anova. Cụ thể như sau:
- Kiểm định trung bình Independent-samples t-test cho phép nhà nghiên cứu so
sánh hai trị trung bình của hai mẫu độc lập rút ra từ hai tổng thể này trong tổng thể
chung (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Trong kiểm định này, nếu trị
Sig. của kiểm định F (kiểm định Levene) < 0,05 thì phương sai giữa 2 nhóm biến định
tính khác nhau, khi đó nhà nghiên cứu lấy trị Sig. trong kiểm định t (t-test) ở dòng
phương sai không đồng nhất. Ngược lại, nếu trị Sig. của kiểm định F (kiểm định
Levene) >= 0,05 thì phương sai giữa 2 nhóm biến định tính không khác nhau, lúc này
nhà nghiên cứu lấy trị Sig. trong kiểm định t (t-test) ở dòng phương sai đồng nhất. Kết
quả chỉ ra rằng: nếu giá trị Sig. của kiểm định t >= 0,05 thì kết luận chưa có sự khác
biệt có ý nghĩa về trị trung bình giữa hai nhóm biến định tính, còn giá trị Sig. của kiểm
định t < 0,05 thì kết luận có sự khác biệt giữa hai nhóm biến định tính. Khi có sự khác
biệt giữa hai nhóm biến định tính, nhà nghiên cứu tiếp tục theo dõi giá trị trung bình ở
mỗi nhóm để xem nhóm nào có trị trung bình lớn hơn một cách có ý nghĩa thống kê so
với nhóm còn lại về đặc điểm của biến định lượng cần so sánh.
108
- Khi tiến hành so sánh trị trung bình của nhiều hơn 2 tổng thể độc lập trong tổng
thể chung thì phương pháp phân tích phương sai Anova cho phép thực hiện điều đó
(Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Cụ thể, phân tích phương sai một
yếu tố được sử dụng để phân loại các quan sát thành các nhóm khác nhau theo từng
biến yếu tố riêng biệt gồm năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách
nhiệm giải trình và thành quả hoạt động. Kết quả kiểm định Levene có trị Sig.< 0,05
thì kết luận phương sai giữa các lựa chọn của biến định tính ở trên khác nhau. Còn nếu
kiểm định Levene có trị Sig. >= 0,05 thì phương sai các nhóm không khác nhau một
cách có ý nghĩa. Khi đó, nhà nghiên cứu cần xem tiếp kết quả ở bảng Anova. Nếu giá
trị Sig. ở bảng Aanova >= 0,05 kết luận không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm
biến định tính, còn nếu giá trị Sig. ở bảng Anova < 0,05 thì có sự khác biệt giữa các
nhóm biến định tính. Tương tự như trên, khi có sự khác biệt giữa các nhóm của biến
định tính, nhà nghiên cứu tiếp tục theo dõi giá trị trung bình để xem nhóm nào có giá
trị trung bình về biến định lượng lớn nhất hoặc nhỏ nhất.
3.6. Kết luận chương 3
Trong Chương 3, đầu tiên, tác giả trình bày và giải thích quy trình nghiên cứu
tổng quát của luận án. Tiếp đó, trước khi trình bày phương pháp nghiên cứu định tính,
tác giả trình bày rõ các căn cứ khoa học về thang đo của các biến nghiên cứu. Sau đó,
tác giả trình bày rõ phương pháp nghiên cứu định tính gồm phương pháp phỏng vấn
chuyên gia, chọn mẫu chuyên gia, thiết kế bảng phỏng vấn và phương pháp khảo sát
thử. Cuối cùng, tác giả trình bày về phương pháp nghiên cứu định lượng. Đối với giai
đoạn nghiên cứu định lượng sơ bộ, tác giả trình bày mẫu và phương pháp chọn mẫu,
công cụ và phương pháp xử lý dữ liệu sơ bộ. Còn giai đoạn nghiên cứu định lượng
chính thức thì trình bày về mẫu và phương pháp chọn mẫu, phương pháp thu thập dữ
liệu, công cụ và phương pháp phân tích dữ liệu và các bước phân tích dữ liệu. Phần
mềm SmartPLS 3 và phần mềm SPSS 22 được sử dụng trong luận án để thống kê mô
tả, kiểm định mô hình đo lường, kiểm định chệch do phương pháp, kiểm tra mô hình
cấu trúc và kiểm định sự khác biệt.
109
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Giới thiệu
Chương 4 sẽ trình bày các kết quả nghiên cứu định tính và kết quả nghiên cứu
định lượng. Trước hết, tác giả trình bày kết quả nghiên cứu định tính, được thực hiện
thông qua phương pháp phỏng vấn chuyên gia. Cụ thể, tác giả phân tích các đánh giá
của chuyên gia về các mối quan hệ trong luận án. Sau đó, tác giả trình bày tổng quát
quan điểm của các chuyên gia về sự phù hợp của các thang đo đã kế thừa từ nghiên
cứu trước trên thế giới và trình bày các các điều chỉnh của chuyên gia. Tiếp tục, tác giả
trình bày kết quả của quá trình nghiên cứu định lượng sơ bộ và nghiên cứu định lượng
chính thức. Mục đích chính trong bước khảo sát sơ bộ là kiểm tra xem các thang đo
được kế thừa và điều chỉnh theo góp ý của chuyên gia có đảm bảo độ tin cậy, giá trị
hội tụ và giá trị phân biệt hay không. Kết thúc quá trình khảo sát sơ bộ, tác giả tiến
hành cuộc khảo sát chính thức với 235 mẫu. Sau khi bộ dữ liệu khảo sát chính thức
được thu thập, tác giả phân tích dữ liệu gồm: mô tả thống kê tập mẫu, kiểm định lại
mô hình đo lường, kiểm định chệch do phương pháp, tiến hành kiểm định mô hình cấu
trúc và kiểm định sự khác biệt. Cuối cùng, tác giả sẽ bàn luận chi tiết về các kết quả
nghiên cứu định lượng chính thức để làm rõ giá trị đóng góp của kết quả nghiên cứu
này và là cơ sở cho việc đề xuất các hàm ý chính sách.
4.2. Kết quả nghiên cứu định tính
Căn cứ vào các tiêu thức lựa chọn chuyên gia đã được tác giả đưa ra và khả năng
tiếp cận của mình, tức là chọn mẫu chuyên gia theo phương pháp thuận tiện kết hợp
với phán đoán, tác giả đã tiếp cận được 10 chuyên gia. Thời gian thực hiện phỏng vấn
chuyên gia diễn ra từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2019. Tác giả tiếp cận các chuyên gia
theo hai hình thức: gặp mặt phỏng vấn trực tiếp (gồm có 8 chuyên gia); gọi điện trao
đổi và gửi email nhờ chuyên gia trả lời (gồm có 2 chuyên gia). Ngoài ra, vì nội dung
của bảng phỏng vấn khá dài và một số chuyên gia không có nhiều thời gian để trả lời
hết tất cả các nội dung của bảng phỏng vấn nên để thuận lợi cho chuyên gia trong quá
trình trả lời, tác giả đã phân chuyên gia thành hai nhóm: nhóm 1 trả lời về các mối
quan hệ giữa các biến nghiên cứu (gồm có 9/10 chuyên gia); nhóm 2 trả lời về các
110
thang đo đo lường cho các biến nghiên cứu trong mô hình (gồm có 9/10 chuyên gia),
tức là có 8 chuyên gia trả lời được toàn bộ bảng phỏng vấn (chi tiết ở Phụ lục 10).
4.2.1. Đánh giá sự phù hợp của mô hình nghiên cứu
Tác giả đã trao đổi và nhận được ý kiến của 9 chuyên gia trong danh sách 10
chuyên gia về sự tồn tại của các mối quan hệ mà tác giả đã đề xuất dựa trên tổng quan
lý thuyết trước đó. Nội dung trao đổi chi tiết của từng chuyên gia về các mối quan hệ
được thể hiện rõ ở Phụ lục 11. Trước hết, đối với ảnh hưởng của năng lực kế toán đến
chất lượng BCTC, tất cả chuyên gia đều nhất trí rằng có sự tồn tại của mối quan hệ
này. Đặc biệt, các chuyên gia nhấn mạnh rằng ảnh hưởng theo hướng cùng chiều, tức
là kế toán có năng lực càng giỏi thì BCTC được lập càng chính xác và kịp thời, tức là
chất lượng BCTC càng tốt. Đối với ảnh hưởng của vai trò lãnh đạo đến chất lượng
BCTC, thì hầu hết (90%) chuyên gia đều khẳng định rằng nhà lãnh đạo có ảnh hưởng
đáng kể đối với chất lượng BCTC. Trong khi đó, Chuyên gia 4 lại không cho rằng vai
trò lãnh đạo có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Ông nói rằng: “Báo cáo tài chính là
do bộ phận kế toán lập và nhà quản lý thường ít can thiệp đến công tác kế toán”. Nhận
thấy sự khác biệt quan điểm giữa Chuyên gia 4 và các chuyên gia còn lại, tác giả đã
nhờ Chuyên gia 4 chia sẻ thêm lý do vì sao mà Chuyên gia 4 nhận định như vậy. Theo
đó, Chuyên gia 4 nhận thấy rằng tại đơn vị của Chuyên gia 4 thì nhà lãnh đạo không
can thiệp nhiều vào công tác kế toán, nhà lãnh đạo tin tưởng và giao cho Trưởng
phòng Kế hoạch – Tài chính quyết định mọi công việc của phòng. Từ đó, Chuyên gia 4
có nhận định là vai trò lãnh đạo không ảnh hưởng đến chất lượng BCTC được tạo ra
bởi bộ phận kế toán. Thế nhưng, qua việc tổng hợp ý kiến từ các chuyên gia khác về
tác động của vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC, tác giả có cơ sở tin rằng nhà lãnh
đạo trong đơn vị công có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng BCTC.
Tức là, vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC của các đơn vị
công tại Việt Nam. Đối với ảnh hưởng của vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình,
tất cả chuyên gia đều khẳng định là có ảnh hưởng. Cụ thể, vai trò lãnh đạo có tác động
cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam. Đối với ảnh
hưởng của năng lực kế toán đến trách nhiệm giải trình, tất cả ý kiến nhận được từ
chuyên gia đều khẳng định rằng là có tồn tại mối quan hệ này trong thực tế, theo
111
hướng là kế toán có năng lực tốt thì việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị
công sẽ được diễn ra thuận lợi hơn.
Đối với tác động của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình, tác giả nhận
thấy có 90% ý kiến chuyên gia cho rằng tồn tại tác động này theo hướng cùng chiều.
Tuy nhiên, Chuyên gia 2 khi được hỏi về vấn đề này thì chuyên gia trả lời là chưa rõ
hàm ý câu hỏi của tác giả. Điều này có thể là do quá trình trao đổi với Chuyên gia 2
không được thực hiện bằng hình thức trao đổi trực tiếp mà trao đổi qua thư điện tử
(email). Vì thế, câu hỏi gây ra sự khó hiểu đối với Chuyên gia 2. Trên cơ sở góp ý của
Chuyên gia 2, tác giả đã điều chỉnh cách diễn đạt của câu hỏi để các cuộc phỏng vấn
với các chuyên gia khác tiến hành được lợi hơn. Đối với ảnh hưởng của chất lượng
BCTC đến thành quả hoạt động, hầu hết các chuyên gia đều đồng tình với quan điểm
của nhà nghiên cứu (với tỷ lệ 90%). Tức là, chất lượng BCTC có tác động cùng chiều
đến thành quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam. Đối với ảnh hưởng của
trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động, ý kiến của toàn bộ chuyên gia là đều
đồng tình với mối quan hệ này, cụ thể phần lớn chuyên gia nhận định là thực hiện tốt
trách nhiệm giải trình thì thành quả hoạt động của đơn vị sẽ được cải thiện. Về vai trò
trung gian của trách nhiệm giải trình, tác giả nhận thấy có 90% ý kiến chuyên gia là
đồng ý, tức là, chất lượng BCTC còn ảnh hưởng gián tiếp đến thành quả hoạt động của
đơn vị công thông qua trách nhiệm giải trình. Về tác động của hai biến kiểm soát đối
với thành quả hoạt động, tất cả các chuyên gia đều đồng ý là tồn tại tác động này.
Như vậy, kết quả nghiên cứu định tính cho thấy mô hình nghiên cứu mà tác giả
đề xuất dựa vào tổng kết lý thuyết hoàn toàn phù hợp với quan điểm của phần lớn
chuyên gia tại Việt Nam. Vì thế, mô hình nghiên cứu đề xuất trước đó được giữ lại và
sử dụng mô hình này làm mô hình nghiên cứu chính thức cho luận án.
4.2.2. Đánh giá sự phù hợp của thang đo
Ở giai đoạn nghiên cứu định tính, tác giả còn tiến hành trao đổi với 9 chuyên gia
trong danh sách 10 chuyên gia ở Phụ lục 10, nhằm giúp hoàn thiện thang đo của các
khái niệm nghiên cứu trong bối cảnh khu vực công tại Việt Nam. Qua trao đổi với các
chuyên gia, tác giả tổng kết lại như sau:
Thang đo năng lực kế toán được ký hiệu là ACC, ban đầu được tác giả phát triển
dựa trên nghiên cứu của Palmer và cộng sự (2004). Việc đo lường năng lực kế toán
112
dựa trên các tiêu chí về kiến thức kế toán, kiến thức kinh doanh tổng hợp, kiến thức
công nghệ thông tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng máy tính,
kỹ năng tương tác, các thái độ và phẩm chất cá nhân tích cực mà Palmer và cộng sự
(2004) phát triển theo cách tiếp cận năng lực (International Federation of Accountants
Education Committee, 2001) cũng đã được các chuyên gia đánh giá rất cao vì nó cung
cấp khá đầy đủ các tiêu chí về năng lực kế toán. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sâu rộng như hiện nay tại Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói
chung thì chuyên gia 1, chuyên gia 6 và chuyên gia 10 cho rằng năng lực kế toán cần
bổ sung thêm một biến quan sát liên quan đến kiến thức về các vấn đề toàn cầu. Tra
cứu tài liệu lý thuyết, kiến thức về các vấn đề toàn cầu có thể hiểu như là các quy định
pháp lý, các CMKT quốc tế, CMKT công quốc tế, xu hướng toàn cầu hóa,… cũng hết
sức quan trọng đối với kế toán (Mohamed và Lashine, 2003). Đồng thời, các chuyên
gia còn nhận thấy hai biến quan sát mà Palmer và cộng sự (2004) đề cập liên quan đến
các thái độ và phẩm chất cá nhân còn quá chung chung và cần phải trình bày cụ thể
cho hai biến quan sát này người trả lời mới có thể trả lời được. Theo đó, chuyên gia 3,
chuyên gia 5, chuyên gia 6 và chuyên gia 8 lần lượt góp ý cho hai biến quan sát này.
Liên quan đến các thái độ cá nhân, các chuyên gia yêu cầu ghi rõ thành hai biến quan
sát là: (1) Thái độ làm việc rất tự tin và (2) Làm việc với thái độ nghiêm túc và trung
thực. Liên quan đến các phẩm chất cá nhân, các chuyên gia yêu cầu ghi rõ thành hai
biến quan sát là: (1) Tác phong làm việc nhanh nhẹn và (2) Ham học hỏi kiến thức
mới. Sau khi tổng hợp phần điều chỉnh từ các chuyên gia trên, tác giả đã tiến hành trao
đổi với những chuyên gia còn lại và nhận được sự đồng ý của họ. Đối chiếu lại tài liệu
lý thuyết liên quan đến thang đo năng lực kế toán của các nghiên cứu trước, chẳng hạn
như nghiên cứu của Mohamed và Lashine (2003), tác giả nhận thấy ý kiến của các
chuyên gia rất phù hợp và hữu ích cho việc đo lường toàn diện năng lực kế toán trong
giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế như ngày nay. Và sự điều chỉnh của
các chuyên gia đã giúp làm rõ hơn thang đo năng lực kế toán của Palmer và cộng sự
(2004) trong bối cảnh hiện tại. Vì thế, thang đo năng lực kế toán gồm 12 biến quan sát,
chi tiết tại Phụ lục 12.
Thang đo vai trò lãnh đạo được tác giả phát triển dựa trên nghiên cứu của
Tummers và Knies (2016) và được ký hiệu là LEAD. Theo đó, vai trò lãnh đạo là mức
113
độ mà các nhà lãnh đạo hỗ trợ nhân viên xử lý các vấn đề của khu vực công, tập trung
vào việc tuân thủ các quy tắc, luật lệ của nhà nước (lãnh đạo theo luật) và hành động
có trách nhiệm đối với các bên liên quan (lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình). Vì vậy,
thang đo vai trò lãnh đạo là thang đo bậc 2 được đo lường thông qua hai thang đo bậc
1 là lãnh đạo theo luật (ký hiệu là RL) và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (ký hiệu
là AL). Qua trao đổi với chuyên gia, 100% chuyên gia đều cho rằng việc đo lường vai
trò lãnh đạo thông qua lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình là
hoàn toàn phù hợp với bối cảnh khu vực công trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Và
cách đo lường lãnh đạo theo luật (gồm bốn biến quan sát) và lãnh đạo theo trách nhiệm
giải trình (gồm sáu biến quan sát) được phát triển bởi Tummers và Knies (2016) là
hoàn toàn có thể hiểu được, phù hợp với văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, các chuyên gia
có chỉnh sửa thêm về từ ngữ diễn đạt để việc khảo sát diễn ra thuận lợi hơn, tác giả
trình bày chi tiết tại Phụ lục 12.
Thang đo chất lượng BCTC trong khu vực công được tác giả tiếp cận theo
IPSASB (2013, 2017a, 2018a) và được ký hiệu là QUAL. Cụ thể, các đặc tính chất
lượng của thông tin có trong BCTC mục đích chung (gọi tắt là BCTC) là các thuộc
tính giúp thông tin đó hữu ích cho người dùng và hỗ trợ đạt được các mục tiêu của
BCTC (Berger, 2018). Theo khung khái niệm của IPSASB (2013) thì chất lượng
BCTC gồm có hai thành phần: đặc tính chất lượng nền tảng gồm tính thích hợp và
đáng tin cậy; còn đặc tính chất lượng bổ sung của BCTC gồm tính có thể hiểu được, có
thể so sánh được, kịp thời và có thể xác minh được. Qua trao đổi với chuyên gia, một
số chuyên gia góp ý điều chỉnh liên quan đến biến quan sát mô tả đặc tính đáng tin cậy
và đặc tính có thể hiểu được cũng như cách diễn đạt các đặc tính chất lượng khác của
BCTC khi tiến hành phát phiếu khảo sát (chi tiết xem Phụ lục 12). Như vậy, kết quả
nghiên cứu định tính cho thấy thang đo chất lượng BCTC là thang đo bậc 2 gồm hai
thang đo bậc 1 là đặc tính chất lượng nền tảng (ký hiệu là FQ), gồm 7 biến quan sát; và
đặc tính chất lượng bổ sung (ký hiệu là EQ) gồm có 6 biến quan sát.
Thang đo trách nhiệm giải trình sử dụng trao đổi với chuyên gia được tác giả kế
thừa theo quan điểm của Mack và Ryan (2006). Trách nhiệm giải trình được hiểu là
việc đơn vị công cần giải trình đồng thời phải tự chịu trách nhiệm liên quan đến hoạt
động tài chính, hiệu quả tài chính và toàn bộ kết quả của các hoạt động khác ở hiện tại
114
và cả những ảnh hưởng của hoạt động hiện tại đến thế hệ tương lai. Theo đó, thang đo
trách nhiệm giải trình là thang đo bậc hai được đo lường thông qua hai thang đo bậc
một là trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính (Mack và Ryan,
2006). Khi trao đổi với các chuyên gia về thang đo này, tác giả cũng nhận được nhiều
ý kiến khác nhau về khái niệm trách nhiệm giải trình được hiểu tại Việt Nam.
Tác giả nhận thấy các chuyên gia dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau để mô tả về
trách nhiệm giải trình nhưng nhìn chung nội dung chính của các ý kiến chuyên gia khá
tương đồng với quan điểm của Sinclair (1995); Parker và Gould (1999); Mack và Ryan
(2006). Tức là, trách nhiệm giải trình trong khu vực công đề cập đến việc đơn vị công
phải cung cấp các minh chứng và phải chịu trách nhiệm cho việc sử dụng các nguồn
lực công liên quan đến các khía cạnh tuân thủ, tính chính xác và hiệu quả. Hơn nữa,
điều này càng được khẳng định rõ hơn khi tác giả thảo luận với chuyên gia và nhận
được sự đồng tình của họ về thang đo trách nhiệm giải trình công và thang đo trách
nhiệm giải trình tài chính mà Mack và Ryan (2006) đã phát triển khi gắn với vai trò
của BCTC mục đích chung trong khu vực công. Cụ thể, trách nhiệm giải trình công
gồm các đánh giá liên quan đến trách nhiệm giải trình chung hoặc tổng thể cho các
hoạt động của đơn vị công ở hiện tại và tương lai, còn trách nhiệm giải trình tài chính
nhấn mạnh đến hoạt động tài chính và hiệu quả tài chính của đơn vị gồm cả so sánh
với các đơn vị công khác (Mack và Ryan, 2006). Tuy nhiên, các chuyên gia cũng có
góp ý và điều chỉnh về cách diễn đạt để làm rõ ý nghĩa của thang đo gốc đã kế thừa,
giúp cho người trả lời có thể hiểu được hơn khi được hỏi (chi tiết xem Phụ lục 12).
Thang đo trách nhiệm giải trình được ký hiệu là ACBI, được đo lường thông qua hai
thang đo bậc 1 là trách nhiệm giải trình công (PA) gồm có 8 biến quan sát và trách
nhiệm giải trình tài chính (FA) gồm có 6 biến quan sát.
Thang đo thành quả hoạt động (performance) của đơn vị công được Van de Ven
và Ferry (1980) đo lường bằng 7 biến quan sát, thể hiện thành quả hoạt động của đơn
vị công một cách toàn diện gồm các chỉ số thể hiện cho cả thành quả định tính và
thành quả định lượng. Sau khi trao đổi, các chuyên gia cũng đồng tình rằng việc xem
xét thành quả hoạt động của đơn vị công nên tập trung vào cả hai phương diện, các chỉ
số thể hiện cho thành quả định tính và định lượng. Tuy nhiên, các chuyên gia nhận
thấy cách diễn đạt các biến quan sát khi dịch sang tiếng Việt cần xem xét lại và các
115
chuyên gia cũng đã giúp tác giả diễn đạt lại các biến quan sát đo lường thành quả hoạt
động của các đơn vị công cho phù hợp với văn hóa tại Việt Nam, cụ thể tại Phụ lục 12.
Đối với thang đo của hai biến kiểm soát (quy mô và thời gian hoạt động) thì tất
cả các chuyên gia điều đồng ý với nội dung thang đo đã kế thừa và không có điều
chỉnh gì thêm. Cụ thể, quy mô đơn vị công được đo lường bởi 1 biến quan sát định
lượng theo Verbeeten (2008) và nó được đo bằng tổng số nhân viên toàn thời gian
(biên chế, hợp đồng dài dạn) đang làm việc tại đơn vị tính đến thời điểm khảo sát. Tuy
nhiên, để giảm độ lệch trong phân tích, thang đo về quy mô được tác giả thể hiện
thông qua giá trị logarit của tổng số lượng nhân viên toàn thời gian theo đề xuất của
các nghiên cứu trước (Gomes, P. và cộng sự, 2017; Verbeeten, 2008). Còn thang đo về
thời gian hoạt động được kế thừa theo Glisson và Martin (1980) cũng có 1 biến quan
sát định lượng. Cụ thể, thời gian hoạt động là số năm đơn vị đã tồn tại, được tính từ
thời điểm đơn vị bắt đầu thành lập đến tại thời điểm khảo sát và được làm tròn số năm
(Glisson và Martin, 1980).
Như vậy, kết quả nghiên cứu định tính liên quan đến điều chỉnh thang đo đã cung
cấp cho tác giả thêm một cơ sở khoa học để hoàn thiện bảng hỏi phục vụ cho nghiên
cứu định lượng. Và một bảng khảo sát được hoàn thiện sau đó với hai nội dung chính,
phần 1 là các thông tin mang tính chất thống kê liên quan đến cá nhân và tổ chức công
được khảo sát; phần 2 gồm các câu hỏi liên quan đến nội dung nghiên cứu chính của
luận án, chi tiết trong Phụ lục 11. Ngoài ra, để đảm bảo bảng hỏi mang tính có thể hiểu
được và phù hợp với người trả lời, tác giả tiến hành khảo sát thử với 10 kế toán trưởng
ở các đơn vị công. Kết quả cho thấy bảng hỏi đưa ra là mang tính có thể hiểu được đối
với người trả lời. Vì thế, bảng hỏi này được sử dụng cho khảo sát ở bước nghiên cứu
định lượng sơ bộ.
4.3. Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ
Khảo sát định lượng sơ bộ với phương pháp lấy mẫu thuận tiện được tiến hành từ
tháng 7/2019 đến tháng 9/2019. Kết quả thu thập được 100 mẫu đại diện cho 100 đơn
vị công thuộc các loại hình như: cơ quan hành chính (chiếm 40%), đơn vị sự nghiệp
công (chiếm 59%) và các tổ chức chính trị xã hội khác (chiếm 1%). Ngoài ra, mẫu
khảo sát sơ bộ cũng bao quát cho tất cả các lĩnh vực công khác nhau như: Ủy ban nhân
dân các cấp (chiếm 18%), giáo dục (chiếm 41%), y tế (chiếm 7%), lĩnh vực kinh tế
116
(chiếm 2%) và các lĩnh vực công khác (chiếm 32%). Danh sách gồm 100 đơn vị công
tham gia khảo sát định lượng sơ bộ trình bày chi tiết trong Phụ lục 14. Bằng việc sử
dụng phần mềm SmartPLS 3, tác giả đã tiến hành kiểm định mô hình đo lường cho các
khái niệm nghiên cứu trong mô hình đề xuất.
4.3.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo
Kết quả kiểm tra độ tin cậy của các thang đo trong luận án được trình bày ở Bảng
4.1. Kết quả kiểm tra tại Bảng 4.1 cung cấp các giá trị về hệ số Cronbach’s alpha, độ
tin cậy tổng hợp (CR) và hệ số rhoA của tám thang đo bậc 1 quan trọng của mô hình
gồm năng lực kế toán, lãnh đạo theo luật, lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình, đặc tính
chất lượng nền tảng, đặc tính chất lượng bổ sung, trách nhiệm giải trình công, trách
nhiệm giải trình tài chính, thành quả hoạt động đều đạt giá trị cao. Cụ thể, hệ số
Cronbach’s alpha của chúng có giá trị nằm trong khoảng từ 0,806 đến 0,937. Độ tin
cậy tổng hợp (CR) của các thang đo bậc một này nằm trong khoảng cao từ 0,860
đến 0,946. Và hệ số rhoA của chúng dao động từ 0,820 đến 0,943. Như vậy, chúng ta
có thể kết luận rằng các thang đo bậc một trên được sử dụng trong mô hình
nghiên cứu đều có độ tin cậy cao. Ngoài ra, hai biến kiểm soát là quy mô (SIZE)
và thời gian hoạt động (AGE) có hệ số Cronbach’s alpha, CR và hệ số rhoA đều
bằng 1,000 bởi vì hai biến này được đo lường bởi 1 biến quan sát nên chúng đều nhất
quán với chính nó.
Bảng 4.1: Kết quả kiểm tra độ tin cậy của thang đo với 100 mẫu
Thang đo bậc 1
Cronbach's Alpha 0,937 0,908
rho_A Composite Reliability 0,943 0,913
0,946 0,936
0,909
0,929
0,907
0,894 0,861 0,906
0,911 0,891 0,920
0,886 0,852 0,899
0,820
0,860
0,806
Năng lực kế toán (ACC) Lãnh đạo theo luật (RL) Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải trình công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
0,896 1,000 1,000
0,906 1,000 1,000
0,879 1,000 1,000
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu
117
4.3.2. Đánh giá giá trị hội tụ của thang đo
Kết quả đánh giá giá trị hội tụ của các thang đo bậc một sử dụng trong mô hình
trình bày tại Bảng 4.2. Vì thang đo của tám thang đo bậc 1 là thang đo kết quả nên tác
giả kiểm tra giá trị hội tụ bằng hệ số tải ngoài của biến quan sát kết hợp với giá trị
AVE. Kết quả trong Bảng 4.2 cho thấy hệ số tải ngoài của tất cả các biến quan sát (có
giá trị từ 0,64 đến 0,93) đều cao hơn ngưỡng tối thiểu đề xuất là 0,50 (Hulland,
1999). Đồng thời, tất cả các giá trị t tương ứng của các biến quan sát (có giá trị từ
7,27 đến 71,86) cũng đều đạt yêu cầu, đều lớn hơn 2,57 để mang ý nghĩa thống kê
ở mức 1%. Đặc biệt, giá trị AVE của tất cả thang đo bậc 1 trong mô hình đều chấp
nhận được bởi vì đều cao hơn 0,50 (dao động từ 0,509 đến 0,785) (Hair, J. F. và
cộng sự, 2017a). Như vậy, các thang đo bậc 1 sử dụng trong mô hình nghiên cứu
đề xuất đều đảm bảo giá trị hội tụ.
Bảng 4.2: Giá trị hội tụ của thang đo với 100 mẫu
Hệ số tải Giá trị t Biến quan sát Hệ số tải
Giá trị t
0,86 0,82 0,75 0,73 0,71 0,66
26,36 19,84 11,79 12,64 9,96 10,83
0,72 0,66 0,76 0,77 0,82 0,87 0,76 0,75 0,77 0,83 0,76 0,76
12,98 8,07 17,56 14,65 19,46 29,61 11,86 13,96 18,20 14,89 16,45 15,84
Biến quan sát Năng lực kế toán (AVE = 0,593) ACC1 ACC2 ACC3 ACC4 ACC5 ACC6 ACC7 ACC8 ACC9 ACC10 ACC11 ACC12 Lãnh đạo theo luật (AVE=0,785) RL1 RL2
0,91 0,90
40,51 34,00
12,91 71,86 11,77 17,94 15,85 26,49 9,00 8,20
0,74 0,93 0,69 0,78 0,77 0,82 0,73 0,66
trình
tài
chính
RL3
0,88
23,35
RL4
0,85
Đặc tính chất lượng bổ sung (AVE=0,578) EQ1 EQ2 EQ3 EQ4 EQ5 EQ6 Trách nhiệm giải trình công (AVE=0,592) PA1 PA2 PA3 PA4 PA5 PA6 PA7 PA8 Trách nhiệm giải (AVE=0,509) FA1
11,23
0,75
FA2
0,67
7,27
19,04 Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AVE=0,685) 0,78 0,85 0,90
16,18 23,80 33,39
AL1 AL2 AL3
FA3 FA4 FA5
0,64 0,75 0,81
6,83 15,31 20,18
0,64
9,77
16,34 13,93 20,74
118
FA6 Thành quả hoạt động (AVE=0,580) PER1
0,68
10,23
tính
0,81 0,79 0,83 lượng nền
tảng
chất
PER2
20,98
0,78
PER3 PER4 PER5 PER6 PER7 Log (size)
AL4 AL5 AL6 Đặc (AVE=0,598) FQ1 FQ2 FQ3 FQ4 FQ5 FQ6 FQ7
9,65 7,98 13,47 24,02 20,77 16,77 32,54 Age
0,64 0,66 0,78 0,82 0,82 0,81 0,86
0,71 0,66 0,83 0,85 0,80 1,00 1,00
11,18 9,06 22,67 27,83 22,78 AVE = 1,000 AVE = 1,000
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu
4.3.3. Đánh giá giá trị phân biệt của thang đo
Cuối cùng, tác giả kiểm tra giá trị phân biệt của thang đo bằng 3 cách, cụ thể,
tác giả dùng là hệ số tải chéo, một cách kiểm tra khác là dùng tiêu chí Fornell-Larcker
và một cách kiểm tra khác nữa là dùng hệ số HTMT. Đặc biệt, theo đề xuất từ
Henseler và cộng sự (2015) thì khi kiểm tra giá trị phân biệt mà nghiên cứu đang áp
dụng kỷ thuật PLS-SEM thì nhà nghiên cứu cần xem xét hệ số HTMT trước tiên, sau
đó có thể đánh giá thêm các tiêu chí khác. Kết quả tại Bảng 4.3 cho thấy hệ số HTMT
có giá trị cao nhất là 0,81, tức là thấp hơn so với mức 0,9. Vì vậy, các thang đo bậc 1
sử dụng trong nghiên cứu đều đạt được giá trị phân biệt.
Bảng 4.3: Tiêu chí Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT) với 100 mẫu
ACC RL AL FQ EQ PA FA PER SIZE AGE
Thang đo bậc 1 lực kế
toán
trách
0,56
0,73
0,36
0,30 0,32
0,36
0,38 0,40 0,81
0,58
0,56 0,69 0,50 0,66
0,45
0,50 0,54 0,52 0,55 0,76
0,56
0,41 0,38 0,52 0,43 0,51 0,37
Năng (ACC) Lãnh đạo theo luật (RL) 0,49 theo Lãnh đạo nhiệm giải trình (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải trình công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE)
0,12
0,05 0,06 0,17 0,27 0,11 0,12 0,09
0,07
0,08 0,12 0,17 0,16 0,09 0,12 0,04 0,11
Thời gian hoạt động (AGE)
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu
119
Tuy nhiên, tác giả dùng thêm thủ tục được đề xuất bởi Fornell và Larcker
(1981) để xem xét giá trị phân biệt có đảm bảo hay không. Kết quả phân tích chi
tiết tại Bảng 4.4 cho thấy giá trị căn bậc hai của phương sai trích bình quân (AVE)
của mỗi biến nghiên cứu (số nằm trên đường chéo) đều lớn hơn hệ số tương quan cao
nhất của nó với bất kỳ biến nghiên cứu nào khác trong mô hình. Bên cạnh đó, giá trị
phân biệt cũng được chứng minh khi tất cả các hệ số tương quan giữa các biến (số ở
phía dưới đường chéo, nằm trong khoảng từ 0,27 đến 0,73) đều nhỏ hơn giá trị CR (vì
nó có giá trị từ 0,86 đến 0,946).
Bảng 4.4: Tiêu chí Fornell-Larcker với 100 mẫu
ACC RL
AL
FQ EQ
PA
FA PER SIZE AGE
toán
Thang đo bậc 1 lực kế
0,77
luật
theo
0,46
0,89
0,53
0,67
0,83
0,33
0,27
0,27 0,77
0,34
0,34
0,36 0,73 0,76
0,54
0,51
0,63 0,44 0,58 0,77
0,41
0,45
0,48 0,43 0,47 0,66
0,71
0,52
0,38
0,36 0,47 0,39 0,47
0,34 0,76
-0,09 0,02
-0,05 0,16 0,24 0,10
-0,04 0,06
1,00
0,01
-0,07
-0,11 0,15 0,11
-0,03 0,08 0,01
0,11
1,00
Năng (ACC) Lãnh đạo (RL) Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải trình công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu
Ngoài ra, bằng việc phân tích hệ số tải chéo ở Phụ lục 15, tác giả cũng thấy
rằng tất cả các hệ số tải của các biến quan sát nằm trong cấu trúc của nó cao hơn hệ số
tải chéo của nó với các cấu trúc khác. Điều này càng khẳng định rằng giá trị phân biệt
của các thang đo sử dụng trong bước nghiên cứu định lượng sơ bộ là đạt được theo
Henseler và cộng sự (2015), Hair, J. F. và cộng sự (2017a).
120
Qua quá trình khảo sát sơ bộ với 100 mẫu, sử dụng phần mềm SmartPLS 3 để
phân tích dữ liệu, tác giả nhận thấy các thang đo sau khi trao đổi với chuyên gia dùng
để đo lường cho các khái niệm thuộc mô hình đề xuất đảm đều bảo các tiêu chí của
một thang đo tốt, cụ thể là đảm bảo độ tin cậy nhất quán nội bộ, đảm bảo giá trị hội tụ
và đảm bảo giá trị phân biệt. Kết quả chấp nhận hoàn toàn các thang đo được điều
chỉnh từ các nghiên cứu trước trên thế giới theo góp ý của chuyên gia vào bối cảnh
Việt Nam được xem là kết quả phù hợp. Bởi lẽ, trước hết, quá trình lựa chọn từng
thang đo áp dụng vào luận án đã được tác giả nghiên cứu cẩn thận trong một thời gian
dài (bắt đầu từ năm 2017). Hơn nữa, với kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu và
giảng dạy trong lĩnh vực kế toán công trong nhiều năm giúp tác giả nhận thấy được sự
phù hợp và tính khả thi của các thang đo được lựa chọn khi áp dụng vào bối cảnh Việt
Nam. Ngoài ra, với sự giúp đỡ nhiệt tình của quý chuyên gia có am hiểu chuyên sâu về
lý thuyết và thực hành kế toán công tại Việt Nam, các thang đo mà tác giả lựa chọn đã
được thảo luận sâu, đã được khảo sát thử và điều chỉnh phù hợp với văn hóa, trình độ
nhận thức của người trả lời nên nội dung các thang đo cũng mang tính dễ hiểu. Tóm
lại, bảng hỏi dùng cho khảo sát sơ bộ sẽ được tác giả sử dụng cho bước nghiên cứu
định lượng chính thức, chi tiết ở Phụ lục 13.
4.4. Kết quả nghiên cứu định lượng chính thức
4.4.1. Thống kê mô tả mẫu khảo sát
Dữ liệu được thu thập thông qua quy trình khảo sát trực tiếp bằng bảng giấy kết
hợp với gửi đường link khảo sát qua email cho các đối tượng được khảo sát. Thời gian
khảo sát kéo dài là từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020. Sau quá trình khảo sát,
tác giả đã thu được 235 phiếu trả lời hợp lệ, ít hơn so với dự tính ban đầu (300 mẫu) là
65 phiếu. Vì đơn vị phân tích của đề tài là cấp độ tổ chức nên mỗi tổ chức tham gia
khảo sát chỉ có một đại diện trả lời bảng câu hỏi. Tác giả cũng đã kiểm tra và không
nhận thấy sự trùng lắp về tổ chức ở các đáp viên trong mẫu phản hồi cuối cùng. Danh
sách các đơn vị tham gia khảo sát chính thức được trình bày chi tiết tại Phụ lục 16.
Theo kết quả mô tả tại Bảng 4.5, tỷ lệ đơn vị công đã khảo sát không đáp ứng tốt về
yêu cầu chọn mẫu theo phương pháp định mức mà tác giả mong muốn thực hiện để
tăng cường tính đại diện cho tổng thể là khu vực công tại Việt Nam. Tuy nhiên, cấu
trúc mẫu chọn vẫn cho thấy phần nào tính đại diện của tổng thể bởi vì số lượng các
121
đơn vị sự nghiệp công lập trong mẫu chọn chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 61,3%)
trong các loại hình đơn vị công. Trong nghiên cứu này, tác giả dùng phần mềm
SmartPLS 3 với kỹ thuật PLS-SEM nên cỡ mẫu 235 được xem là phù hợp cho các
bước phân tích dữ liệu (Hà Nam Khánh Giao và Bùi Nhất Vương, 2019; Hair, J. F. và
cộng sự, 2017a).
Bảng 4.5: Thống kê mẫu khảo sát theo loại hình đơn vị công
Loại hình đơn vị công Số lượng/Tỷ lệ đơn vị công thực tế đã khảo sát Số lượng đơn vị công cần thu thập theo phương pháp chọn mẫu định mức
Cơ quan hành chính 58 (=24,8% x 235) 85 (36,1%)
118 (=50,3% x 235) 144 (61,3%)
59 (=24,9% x 235) 6 (2,6%) Đơn vị sự nghiệp công lập Tổ chức khác (Ví dụ: tổ chức chính trị, đoàn thể, hiệp hội,…)
Tổng cộng N = 235 N = 235
Nguồn: Kết quả khảo sát dữ liệu
Ngoài ra, tác giả cũng có thống kê mô tả mẫu theo một số đặc điểm như sau, chi
tiết tại Phụ lục 17. Về vị trí công việc, trong số 235 đáp viên có 148 kế toán trưởng/kế
toán tổng hợp/phụ trách kế toán (chiếm tỷ lệ 63%), 64 kế toán viên (chiếm tỷ lệ
27,2%), có 13 nhà quản trị cấp cao chiếm tỷ lệ là 5,5%, còn nhân viên phụ trách các
bộ phận khác chiếm 4,3%. Thâm niên công tác của các đáp viên ở các đơn vị công chủ
yếu tập trung vào nhóm trên 10 năm (chiếm tỷ lệ 49,8%) và nhóm từ 6 đến 10 năm
(chiếm tỷ lệ 31,5%), điều này cho thấy các đáp viên có đủ kinh nghiệm và kiến thức về
vấn đề nghiên cứu và có thể đại diện cho tổ chức trả lời bảng câu hỏi khảo sát. Xét về
lĩnh vực hoạt động, lĩnh vực giáo dục chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 44,7%); lĩnh vực y
tế chiếm 12,8%; lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin và truyền thông, khoa
học và công nghệ chiếm tỷ lệ khá thấp (chỉ chiếm 2,5%), lĩnh vực kinh tế chiếm 7,2%,
UBND các cấp chiếm 12,4%, còn các lĩnh vực khác như kho bạc, thuế, bảo hiểm xã
hội, dự trữ quốc gia chiếm 20,4%. Hơn nữa, xét về mức độ tự chủ tài chính, đối với cơ
quan nhà nước thì tỉ lệ cơ quan nhà nước được giao tự chủ kinh phí (chiếm 34,5%) cao
hơn tỷ lệ cơ quan nhà nước không được giao tự chủ kinh phí (chỉ chiếm 0,9%). Còn
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập cũng như các tổ chức chính trị xã hội khác thì tỷ
lệ các đơn vị do NSNN cấp kinh phí (chiếm 29,8%) và đơn vị tự chủ một phần chi
122
thường xuyên (chiếm 20%), tức là cao hơn tỷ lệ đơn vị tự chủ toàn bộ chi thường
xuyên (chỉ chiếm 11,5%) và đơn vị tự chủ toàn bộ chi thường xuyên và chi đầu tư (chỉ
chiếm 3,4%). Và điều này cũng phù hợp với cấu trúc chung của khu vực công tại Việt
Nam hiện nay, các đơn vị công đang cố gắng tăng cường áp dụng cơ chế tự chủ tài
chính trong các hoạt động của tổ chức (Tổng Cục Thống Kê, 2018). Ngoài ra, các đơn
vị công trong mẫu khảo sát có số lượng nhân viên bình quân là 101 người. Và các đơn
vị công có thời gian làm việc trung bình là 27 năm, một khoảng thời gian khá dài để có
thể hình thành và phát triển bộ máy kế toán. Như vậy, bộ dữ liệu thu thập từ 235 mẫu
trong nghiên cứu định lượng chính thức mang tính khái quát ở mức tương đối và có
thể đại diện cho tổng thể là khu vực công tại Việt Nam.
Thêm vào đó, tác giả còn trình bày kết quả về số liệu mô tả các biến quan sát của
các khái niệm nghiên cứu chính tại Bảng 4.6, các chỉ tiêu gồm: khoảng biến thiên cụ
thể là giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất, tiếp đó là mức độ tập trung thông qua giá trị
trung bình và cuối cùng là mức độ phân tán thông qua độ lệch chuẩn. Nhìn chung giá
trị trung bình của các thang đo bậc 1 tiến gần đến giá trị 4 (trên thang đo điểm từ 1 đến
5) cho thấy các yếu tố được đánh giá ở mức trung bình khá. Tuy nhiên, thang đo RL
(lãnh đạo theo luật) có giá trị trung bình cao nhất, đạt giá trị trung bình là 4,06. Điều
này cho thấy đặc tính chung của mẫu khảo sát là các nhà lãnh đạo trong khu vực công
tại Việt Nam có xu hướng quản lý đơn vị theo hướng tuân thủ các quy định, quy tắc và
luật lệ mà Nhà nước ban hành một cách khá tốt. Bên cạnh đó, thang đo FA (trách
nhiệm giải trình tài chính) lại có giá trị trung bình thấp nhất, chỉ đạt 3,69. Chỉ số này
cho thấy các đơn vị công ở Việt Nam có khuynh hướng ít công khai, giải trình và chịu
trách nhiệm về tài chính. Điều này có nghĩa là các đơn vị công tại Việt Nam chủ yếu
tuân thủ tốt các quy định về quản lý hành chính nói chung chứ các quy định về trách
nhiệm giải trình tài chính thì chưa được tuân thủ tốt. Như vậy, các đặc điểm này của
mẫu khảo sát đã cho thấy được sự phù hợp của mẫu đối với văn hóa hành chính của
khu vực công tại Việt Nam. Hơn nữa, độ lệch chuẩn của từng quan sát trong các khái
niệm dao động trong khoảng 0,64 đến 0,75 (<1) cho thấy giá trị khảo sát có tính ổn
định. Tóm lại, qua các phân tích thống kê trên đã cho thấy bộ dữ liệu thu thập với 235
mẫu mang tính đại diện tổng thể ở mức tương đối, phù hợp cho kiểm định mô hình đo
lường và các giả thuyết nghiên cứu đã đề ra.
123
Bảng 4.6: Thống kê mô tả các biến chính trong mô hình
Ký hiệu
Số quan sát Nhỏ nhất
Lớn nhất
Trung bình Độ lệch chuẩn
PER FQ EQ PA FA RL AL ACC
235 235 235 235 235 235 235 235
1 1 2 1 1 1 1 1
5 5 5 5 5 5 5 5
0,75 0,70 0,64 0,70 0,73 0,69 0,73 0,73
3,86 3,84 3,86 3,73 3,69 4,06 3,78 3,84 Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu
4.4.2. Kiểm định mô hình đo lường
Tác giả đo lường các biến chủ đạo trong mô hình bằng cách kế thừa thang đo từ
các nghiên cứu trước và có sự điều chỉnh của chuyên gia ở phần nghiên cứu định tính.
Ở bước nghiên cứu định lượng sơ bộ, tác giả cũng đã tiến hành kiểm tra các thang đo
và kết quả là mô hình nghiên cứu gồm có 10 thang đo bậc 1 với tổng biến quan sát là
58. Kết quả đánh giá thang đo được thể hiện tại Phụ lục 17.
Đầu tiên, tác giả kiểm tra độ tin cậy của thang đo. Trước hết, độ tin cậy tổng
hợp (CR) của các thang đo bậc một có giá trị cao, dao động từ 0,887 đến 0,955;
Tiếp đó, hệ số Cronbach’s alpha có giá trị nằm trong khoảng từ 0,848 đến 0,949; Và
hệ số rhoA dao động từ 0,855 đến 0,951. Kết quả này cho thấy thang đo được sử
dụng đều có độ tin cậy cao. Hơn nữa, như đã giải thích ở trên, biến kiểm soát quy
mô và thời gian hoạt động có hệ số Cronbach’s alpha, CR và hệ số rhoA đều bằng 1
bởi vì hai biến này được đo lường bằng 1 biến quan sát nên chúng nhất quán với chính
bản thân nó. Vì thế, tác giả cũng không cần trình kiểm tra giá trị hội tụ cũng như phân
tích giá trị phân biệt đối với 2 biến kiểm soát này.
Tương tự, việc kiểm định giá trị hội tụ của các thang đo bậc một được thực hiện
thông qua hệ số tải ngoài của các biến quan sát và giá trị AVE. Kết quả tại Phụ lục 17
cho thấy hệ số tải ngoài của tất cả các biến quan sát (có giá trị trong ngưỡng từ 0,63
đến 0,91) đều cao hơn ngưỡng tối thiểu đề xuất là 0,50 (Hulland, 1999). Đồng thời,
tất cả các giá trị t tương ứng của các biến quan sát (nằm trong khoảng t ừ 9,06 đến
64,00) cũng đều đạt yêu cầu vì đều lớn hơn 2,57 để mang ý nghĩa thống kê ở mức
đáng kể. Hơn nữa, giá trị AVE của các thang đo bậc 1 đều chấp nhận được bởi vì
124
đều cao hơn 0,50, chúng dao động từ 0,558 đến 0,811 (Hair, J. F. và cộng sự,
2017a). Do vậy, tất cả các biến quan sát và các thang đo đều có giá trị hội tụ cao.
Cuối cùng, đánh giá giá trị phân biệt của các thang đo được thực hiện thông qua
ba tiêu chí: đầu tiên là tiêu chí HTMT, tiếp đó sử dụng thêm tiêu chí Fornell-Larcker
và cuối cùng tác giả dùng thêm hệ số tải chéo. Kết quả phân tích dữ liệu được thể
hiện ở Phụ lục 17. Trước hết, tác giả dùng hệ số HTMT để kiểm tra giá trị phân biệt
của thang đo (Henseler và cộng sự, 2015), một hệ số khắt khe hơn hệ số của Fornell và
Larcker (1981) và hệ số tải chéo khi đánh giá giá trị phân biệt của thang đo. Kết quả tại
Phụ lục 17 cho thấy giá trị hệ số HTMT cao nhất là 0,82, tức là thấp hơn so với mức
0,9. Điều này chứng minh chắc chắn rằng các thang đo trong mô hình nghiên cứu đạt
được giá trị phân biệt. Tiếp đó, tác giả dùng thêm thủ tục được đề xuất bởi Fornell
và Larcker (1981) để kiểm tra giá trị phân biệt của các thang đo trong mô hình. Tại
Phụ lục 17, giá trị căn bậc hai của phương sai trích bình quân (AVE) của tất cả các
biến tiềm ẩn (số nằm trên đường chéo) nằm trong khoảng 0,75 đến 0,90 và đều cao
hơn các hệ số tương quan giữa các biến (có giá trị trong khoảng từ 0,31 đến 0,72). Vì
vậy, các thang đo của các biến tiềm ẩn trong mô hình nghiên cứu đạt được giá trị phân
biệt. Bên cạnh đó, giá trị phân biệt của thang đo cũng được chứng minh khi tất cả các
hệ số tương quan giữa các biến (số ở phía dưới đường chéo, nằm trong khoảng từ 0,31
đến 0,72) đều nhỏ hơn giá trị CR (có giá trị nằm trong khoảng từ 0,887 đến 0,955).
Điều này cho thấy giá trị phân biệt của tất cả thang đo bậc 1 trong mô hình là đạt được.
Hơn nữa, sử dụng phân tích hệ số tải chéo ở Phụ lục 17, kết quả cho thấy rằng toàn
bộ hệ số tải của biến quan sát trong cấu trúc của nó cao hơn hệ số tải chéo của nó với
các cấu trúc khác. Như vậy, các thang đo trong mô hình nghiên cứu đã đảm bảo được
giá trị phân biệt rất tốt.
Tóm lại, qua bước đánh giá mô hình đo lường cho thấy rằng các thang đo sử
dụng trong nghiên cứu định lượng chính thức thỏa mãn các tiêu chí của một thang đo
tốt và thích hợp cho việc kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
4.4.3. Kiểm định chệch do phương pháp
Trước khi tiến hành kiểm định mô hình cấu trúc, tác giả xem xét vấn đề chệch do
phương pháp. Bởi vì dữ liệu trong nghiên cứu này được thu thập từ nhận thức của
người trả lời và từ một nguồn duy nhất, tức là một người trả lời cho toàn bộ bảng
125
khảo sát. Do đó, chệch do phương pháp (Common Method Bias) cần được quan tâm vì
nó có thể làm cho kết quả nghiên cứu bị phiến diện, tức là mối quan hệ của các biến
độc lập đến biến phụ thuộc dễ có thể tương quan với nhau (Podsakoff và cộng sự,
2003). Chính vì thế, tác giả đã dùng phương pháp thống kê thông qua phần mềm SPSS
22 để kiểm định chệch do phương pháp trong nghiên cứu này có ảnh hưởng đáng kể
kết quả nghiên cứu hay không. Cụ thể, tác giả dùng kĩ thuật phân tích nhân tố đơn
Harman. Kết quả phân tích ở Phụ lục 17 cho thấy nhân tố đơn Harman chỉ chiếm
32,9% tổng phương sai trích của toàn bộ mô hình, nhỏ hơn mức ngưỡng là 50%. Do
vậy, chệch do phương pháp không phải là vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến kết quả
nghiên cứu của luận án (Tehseen và cộng sự, 2017).
4.4.4. Kiểm định mô hình cấu trúc
Đầu tiên, tác giả kiểm tra vấn đề đa cộng tuyến trong mô hình cấu trúc. Cụ
thể, tác giả kiểm tra giá trị hệ số phóng đại phương sai (ký hiệu là VIF) để đánh giá
mức độ cộng tuyến giữa các biến nghiên cứu trong mô hình cấu trúc (O’brien, 2007).
Kết quả trình bày chi tiết ở Phụ lục 17 cho thấy các giá trị VIF bên trong của từng mối
quan hệ phát sinh giữa các biến nghiên cứu trình bày trong mô hình đề xuất có giá trị
lớn nhất là 1,55, thấp hơn nhiều so với tiêu chí ngưỡng 5 (Hair, J. F. và cộng sự,
2017a), do đó, cho thấy không có vấn đề về đa cộng tuyến trong nghiên cứu này.
Để đưa ra bằng chứng cho việc kiểm định liên quan đến tám giả thuyết đề xuất
trong luận án, tác giả tiến hành kiểm tra độ lớn của các mối quan hệ thông qua hệ số
đường dẫn (hệ số β) cũng như kiểm tra mức độ đảm bảo ý nghĩa thống kê của từng
đường dẫn trong mô hình cấu trúc bằng giá trị t-value. Bảng 4.7 báo cáo các chỉ số
được sử dụng để đánh giá mức độ phù hợp dự đoán của các đường dẫn riêng lẻ, bao
gồm hệ số β và giá trị t, cùng với R2 điều chỉnh cho từng biến phụ thuộc. Các chỉ số
được tính toán dựa trên 2.000 lần lấy mẫu bootstrapping. Kết quả phân tích dữ liệu thu
được cho thấy hệ số R2 điều chỉnh của ba biến phụ thuộc đều lớn hơn ngưỡng tối thiểu
là 0,1 (chất lượng BCTC là 0,18; trách nhiệm giải trình là 0,48 và thành quả hoạt động
là 0,27), chứng tỏ mô hình đề xuất có mức độ phù hợp đối với dữ liệu thu thập được.
Bảng 4.7: Kết quả phân tích mô hình cấu trúc
Biến phụ thuộc
Kết luận
Chất lượng BCTC t- β
Trách nhiệm giải trình β
t-value
Thành quả hoạt động t- β
value
value
126
Tác động trực tiếp
Biến độc lập
0,28 3,65 0,22 2,64
Năng lực kế toán Vai trò lãnh đạo Vai trò lãnh đạo Năng lực kế toán Chất lượng BCTC Chất lượng BCTC Trách nhiệm giải trình
0,37 0,16 0,35
6,40 2,65 6,44
Chấp nhận Chấp nhận Chấp nhận Chấp nhận Chấp nhận 3,29 Chấp nhận 5,26 Chấp nhận
Giả thuyết H1 H2 H3 H4 H5 H6 H7
0,24 0,36
Tác động gián tiếp
Chất lượng BCTC -> Trách nhiệm giải trình -> Thành quả hoạt động
Chấp nhận
H8
Trách nhiệm giải trình là biến trung gian cho tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động: β =0,12; t-value = 3,83
-0,04 0,04
0,63 0,73
Không Không
Biến kiểm soát Quy mô Thời gian hoạt động
0,18
0,48
0,27
Adjusted R2
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu
Giả thuyết H1 đề xuất rằng năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến chất
lượng BCTC của các đơn vị công tại Việt Nam. Điều này có thể được hiểu là một đơn
vị có các nhân viên kế toán với kiến thức chuyên môn tốt, kỹ năng và thái độ làm việc
chuyên nghiệp thì chất lượng BCTC mà đơn vị cung cấp sẽ được tăng cường. Kết quả
phân tích dữ liệu trong Bảng 4.7 cho thấy giả thuyết này được chấp nhận cao với mức
ý nghĩa thống kê 1% (t = 3,65), có hệ số β cho đường dẫn từ năng lực kế toán đến chất
lượng BCTC là 0,28. Giả thuyết H2 đề xuất rằng vai trò lãnh đạo có tác động cùng
chiều đến chất lượng BCTC của các đơn vị công tại Việt Nam, nghĩa là khi nhà lãnh
đạo trong tổ chức công tăng cường khuyến khích nhân viên của họ tuân thủ theo các
quy tắc, quy định và luật lệ của nhà nước và giải trình về công tác kế toán sẽ giúp chất
lượng BCTC tốt hơn. Giả thuyết này được ủng hộ bởi kết quả phân tích dữ liệu khi hệ
số β cho đường dẫn từ vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC có giá trị 0,22, có ý
nghĩa ở mức thống kê 1% (t =2,64). Ngoài ra, căn cứ vào hệ số β, tác giả nhận thấy
nhân tố năng lực kế toán có tác động đến chất lượng BCTC mạnh hơn so với nhân tố
vai trò lãnh đạo.
127
Tiếp theo, giả thuyết H3 đề xuất rằng vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến
trách nhiệm giải trình của các đơn vị công ở Việt Nam, tức là khi nhà lãnh đạo trong
đơn vị tăng cường khuyến khích nhân viên tuân thủ quy định của pháp luật và tăng
cường biện minh, giải thích hành động của họ cho các bên liên quan thì sẽ giúp đơn vị
công thực hiện trách nhiệm giải trình tốt hơn. Kết quả phân tích dữ liệu trong Bảng 4.7
cho thấy giả thuyết này được chấp nhận cao với mức ý nghĩa thống kê 1% (t = 6,40),
có hệ số β cho đường dẫn từ vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình có giá trị 0,37.
Giả thuyết H4 đề xuất rằng năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến trách nhiệm
giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam. Điều này có thể hiểu theo nghĩa là các đơn
vị công có nguồn nhân lực kế toán với năng lực tốt sẽ hỗ trợ đơn vị thực hiện trách
nhiệm giải trình tốt hơn. Theo kết quả ở Bảng 4.7, tác giả nhận thấy giả thuyết H4
được chấp nhận với mức ý nghĩa thống kê 1% (t = 2,65), có hệ số β cho đường dẫn từ
năng lực kế toán đến trách nhiệm giải trình là 0,16. Hơn nữa, giả thuyết H5 cho rằng
chất lượng BCTC có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị
công tại Việt Nam, nghĩa là khi đơn vị công tăng cường cung cấp thông tin kế toán
đảm bảo chất lượng tốt sẽ giúp việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị công sẽ
hiệu quả hơn. Giả thuyết này cũng được ủng hộ bởi kết quả nghiên cứu với hệ số β cho
đường dẫn từ chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình có giá trị là 0,35 và có ý
nghĩa đáng kể ở mức thống kê 1% (t = 6,44). Như vậy, giả thuyết H5 được chấp nhận
đã góp phần khẳng định được một mục đích quan trọng của BCTC trong khu vực công
là cung cấp thông tin cho người dùng để đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn vị
theo quan điểm của IPSASB (2013, 2017a). Hơn nữa, căn cứ vào hệ số đường dẫn của
các biến có ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình, tác giả nhận thấy nhân tố vai trò
lãnh đạo có ảnh hưởng mạnh nhất đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại
Việt Nam.
Tiếp theo, giả thuyết H6 đề xuất rằng chất lượng BCTC có tác động cùng chiều
đến thành quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam. Điều này có thể được hiểu
là khi đơn vị công cung các BCTC có chất lượng tốt thì giúp cho người dùng (đặc biệt
là nhà quản lý đơn vị) có được các thông tin thích hợp để đưa ra các đánh giá và quyết
định phù hợp nhằm thúc đẩy các tổ chức sử dụng hiệu quả nguồn lực công, tăng cường
thành quả hoạt động của đơn vị. Kết quả phân tích dữ liệu trong Bảng 4.7 cho thấy giả
128
thuyết này được chấp nhận cao với mức ý nghĩa thống kê là 1% (t =3,29), có hệ số β
cho đường dẫn từ chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động là 0,24. Bên cạnh đó, giả
thuyết H7 cũng cho rằng trách nhiệm giải trình có tác động cùng chiều đến thành quả
hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam. Tức là, các đơn vị công tăng cường giải
trình và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình sẽ giúp đơn vị công hạn chế tình
trạng quan liêu, tham nhũng, từ đó, giúp tạo dựng lòng tin cho các bên liên quan, thúc
đẩy thành quả hoạt động của tổ chức tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Rõ ràng,
giả thuyết này đã được xác nhận bởi vì hệ số β cho đường dẫn từ trách nhiệm giải trình
đến thành quả hoạt động là 0,36 và được chấp nhận cao với mức ý nghĩa thống kê là
1% (t = 5,26). Hơn nữa, căn cứ vào hệ số β của các đường dẫn, tác giả nhận thấy nhân
tố trách nhiệm giải trình có ảnh hưởng mạnh nhất đến thành quả hoạt động của các đơn
vị công ở Việt Nam.
Cuối cùng, tác giả kiểm tra giả thuyết H8, tức là kiểm tra tác động gián tiếp của
chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động thông qua biến trung gian là trách nhiệm
giải trình. Hair, J. F. và cộng sự (2017a) đưa ra điều kiện cần thiết để xác nhận sự tồn
tại của tác động trung gian là các tác động trực tiếp có liên quan phải có ý nghĩa thống
kê. Tức là, trách nhiệm giải trình là biến trung gian giữa chất lượng BCTC và thành
quả hoạt động thì (1) tác động trực tiếp của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình
và (2) tác động trực tiếp của trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động phải có ý
nghĩa thống kê. Và tác giả cũng đã kiểm tra mức ý nghĩa thống kê của hai giả thuyết
H5 và H7 như ở phần trên, kết quả cho thấy cả hai mối quan hệ này đều được chấp nhận
cao với mức ý nghĩa thống kê 1% (giá trị t-value lần lượt là 6,44 và 5,26). Hơn nữa,
kết quả kiểm định ở Bảng 4.7 cho thấy rằng tác động gián tiếp của chất lượng BCTC
đến thành quả hoạt động thông qua trách nhiệm giải trình (biến trung gian) đã được
xác nhận (β= 0,12, t-value = 3,83). Chi tiết hơn, với kết quả trong nghiên cứu này, theo
quan điểm của Zhao và cộng sự (2010) thì trách nhiệm giải trình đóng vai trò trung
gian một phần (trung gian bổ sung) cho mối quan hệ giữa chất lượng BCTC và thành
quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam. Đồng thời, kết quả về tổng tác động
(total effects) được trình bày ở Phụ lục 17 cho biết tổng tác động (tổng của tác động
trực tiếp và tác động gián tiếp) của biến chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động có
hệ số β = 0,367 được chấp nhận cao với mức ý nghĩa thống kê 1% với t-value = 6,286.
129
Ngoài ra, kết quả ở Bảng 4.7 cho thấy hai biến kiểm soát quy mô và thời gian
hoạt động không có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động (vì giá trị t-value của chúng
lần lượt là 0,63 và 0,73). Như vậy, với kết quả là các biến kiểm soát gồm quy mô và
thời gian hoạt động là không có ý nghĩa thống kê đối với thành quả hoạt động nên cho
thấy giá trị quan trọng hơn của các biến độc lập là chất lượng BCTC và trách nhiệm
giải trình đối với thành quả hoạt động trong mô hình nghiên cứu này (Hà Nam Khánh
Giao và Bùi Nhất Vương, 2019; Nguyễn Đình Thọ, 2013).
Bên cạnh đó, tác giả còn đánh giá mức độ phù hợp của mô hình cấu trúc đối với
dữ liệu bằng việc sử dụng hai tiêu chí là hệ số SRMR và hệ số RMStheta theo đề xuất
của Henseler và cộng sự (2016). Kết quả chi tiết tại Phụ lục 17 cho thấy hệ số SRMR
của mô hình đề xuất đạt giá trị 0,07 là nhỏ hơn ngưỡng 0,08 theo yêu cầu. Tuy nhiên,
hệ số RMStheta của mô hình cấu trúc có giá trị là 0,12, bằng đúng ngưỡng 0,12 theo đề
xuất của các nghiên cứu trước đã sử dụng cho kiểm định mức độ phù hợp ngoài tiêu
chí SRMR. Như vậy, các kết quả trên đã cho thấy được mô hình nghiên cứu của luận
án có độ phù hợp tương đối với bộ dữ liệu thu thập. Theo đó, các mối quan hệ trong
mô hình nghiên cứu này đảm bảo có ý nghĩa thực tiễn.
4.4.5. Kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm biến định tính
Trước hết, tác giả sử dụng kiểm định Anova, cụ thể là phân tích Anova một chiều
để kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm loại hình đơn vị công (cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công và các loại tổ chức công khác) đối với lần lượt các biến nghiên
cứu là năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và
thành quả hoạt động. Kết quả cụ thể như sau:
- Thứ nhất là kiểm tra sự khác biệt giữa 3 nhóm loại hình đơn vị công trong đánh
giá năng lực kế toán. Kết quả kiểm định Levene (chi tiết tại Phụ lục 17) cho thấy giá
trị Sig = 0,457 > 0,05 nên phương sai các nhóm không khác nhau một cách có ý nghĩa.
Tiếp đó, giá trị Sig. trong bảng Anova (=0,169) > 0,05 cho thấy rằng chưa có sự khác
biệt đáng kể có ý nghĩa thống kê về năng lực kế toán giữa các đơn vị công thuộc nhóm
cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức công khác.
- Thứ hai là kiểm tra sự khác biệt giữa 3 nhóm loại hình đơn vị công trong đánh
giá vai trò lãnh đạo. Tương tự, kết quả tại Phụ lục 17 cũng cho thấy chưa có sự khác
biệt đáng kể có ý nghĩa thống kê về vai trò lãnh đạo (gồm lãnh đạo theo luật và lãnh
130
đạo theo trách nhiệm giải trình) giữa các đơn vị công thuộc nhóm cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức công khác.
- Thứ ba là kiểm tra sự khác biệt giữa 3 nhóm loại hình đơn vị công trong đánh
giá chất lượng BCTC. Đối với các đặc tính chất lượng nền tảng, kết quả tại Phụ lục 17
cho thấy chưa có sự khác biệt đáng kể có ý nghĩa thống kê về các đặc tính chất lượng
nền tảng của BCTC giữa ba nhóm loại hình đơn vị công (vì giá trị Sig trong kiểm định
Levene (=0,345) > 0,05; giá trị Sig. trong bảng Anova (=0,057) > 0,05). Còn đối với
các đặc tính chất lượng bổ sung, kết quả kiểm định Levene cho thấy giá trị Sig = 0,022
< 0,05 nên phương sai (mức độ biến động) giữa ba nhóm khác nhau một cách có ý
nghĩa. Do vậy, nhà nghiên cứu chưa có đủ cơ sở để khẳng định chất lượng BCTC giữa
3 loại hình đơn vị công tại Việt Nam có thực sự khác nhau hay không.
- Thứ tư là kiểm tra sự khác biệt giữa 3 nhóm loại hình đơn vị công trong đánh
giá trách nhiệm giải trình. Kết quả tại Phụ lục 17 cho thấy rằng giữa 3 nhóm loại hình
đơn vị công chưa có sự khác biệt đáng kể có ý nghĩa thống kê về trách nhiệm giải trình
công (vì giá trị Sig trong kiểm định Levene và bảng Anova lần lượt là 0,285 và 0,056,
đều lớn hơn 0,05). Còn đối với trách nhiệm giải trình tài chính thì kết quả tại Phụ lục
17 cho thấy rằng giá trị Sig trong kiểm định Levene và trong bảng Anova lần lượt là
0,300 (>0,05) và 0,020 (<0,05). Do vậy, mức độ giải trình và chịu trách nhiệm về tài
chính giữa ba nhóm loại hình đơn vị công tại Việt Nam có sự khác biệt nhau đáng kể
có ý nghĩa thống kê. Trong đó, các đơn vị công thuộc nhóm cơ quan hành chính có
mức trách nhiệm giải trình tài chính cao nhất rồi đến nhóm đơn vị sự nghiệp công lập
và cuối cùng là nhóm các đơn vị công khác. Sự khác biệt này có thể được lý giải như
sau: Cơ quan hành chính hoạt động với chức năng chính là quản lý nhà nước, do đó,
nguồn kinh phí hoạt động phần lớn là do NSNN tài trợ nên yêu cầu giải trình và chịu
trách nhiệm về tài chính mang tính chất pháp lý cao hơn. Các đơn vị sự nghiệp công
hoạt động với chức năng cung cấp các loại hình dịch vụ công cho xã hội, vì thế, nguồn
thu của đơn vị được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Và nguồn NSNN tài trợ cho
các đơn vị sự nghiệp công nhiều hoặc ít tùy vào các mức độ tự chủ tài chính khác
nhau. Vì thế, áp lực giải trình và chịu trách nhiệm về tài chính không mang tính pháp
lý cao như các cơ quan hành chính. Cuối cùng, các loại hình tổ chức công khác được
nhà nước cấp vốn để tổ chức hoạt động theo mục tiêu chính trị- xã hội cụ thể (tổ chức
131
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp ,…) hoặc được thành lập theo
quy định của pháp luật về hội (Hội nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, …) thì các quy định về giải trình và chịu trách nhiệm về tài chính thường ít được
phổ biến, công khai nên giá trị trung bình về trách nhiệm giải trình tài chính đối với
loại hình này thấp nhất là phù hợp.
- Thứ năm là kiểm tra sự khác biệt giữa 3 nhóm loại hình đơn vị công trong đánh
giá thành quả hoạt động. Kết quả kiểm định Levene (chi tiết tại Phụ lục 17) cho thấy
trị Sig = 0,503 > 0,05 nên phương sai các nhóm không khác nhau một cách có ý nghĩa.
Tuy nhiên, kết quả phân tích Anova với giá trị Sig = 0,032 < 0,05 cho thấy có sự khác
biệt trong đánh giá thành quả hoạt động giữa ba loại hình đơn vị công tại Việt Nam. Đặc
biệt, căn cứ vào giá trị trung bình cho thấy thành quả hoạt động của nhóm các cơ quan
hành chính được đánh giá là cao nhất rồi đến nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập và thấp
nhấp là nhóm các đơn vị công khác. Như vậy, thành quả hoạt động của các cơ quan hành
chính được đánh giá là cao nhất, điều này có thể xem là phù hợp với những nỗ lực cải
cách hành chính tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Ví dụ, nghiên cứu của Lưu Phước
Vẹn và Trần Công Dũ (2020) cho thấy từ 2018 đến nay, Việt Nam đã thực hiện nhiều
cải cách hành chính về thể chế, thủ tục, tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ
công chức, viên chức, áp dụng các chính sách cải cách tài chính công phù hợp nên đã
giúp các cơ quan nhà nước hoạt động hiệu quả hơn, cung cấp dịch vụ hành chính công
tốt hơn thời gian trước đây rất nhiều.
Tiếp đó, tác giả đã tiến hành kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm tự chủ tài
chính trong các đơn vị công. Căn cứ vào mức độ tự chủ tài chính, các đơn vị công tại
Việt Nam được phân thành 6 nhóm với các mức độ tự chủ tài chính khác nhau (Chính
phủ, 2005, 2015): (1) Cơ quan nhà nước được giao tự chủ kinh phí; (2) Cơ quan nhà
nước không được giao tự chủ kinh phí; (3) Đơn vị tự chủ chi thường xuyên và chi đầu
tư; (4) Đơn vị tự chủ chi thường xuyên; (5) Đơn vị tự chủ một phần chi thường xuyên;
(6) Đơn vị do NSNN cấp kinh phí. Do vậy, tác giả cũng sử dụng kiểm định Anova một
chiều để kiểm tra xem có sự khác biệt giữa 6 nhóm đơn vị công này đối với việc đánh
giá lần lượt các biến nghiên cứu là năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng
BCTC, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động hay không. Kết quả tại Phụ lục
17 cho thấy rằng 6 nhóm đơn vị công này chưa có sự khác biệt đáng kể có ý nghĩa
132
thống kê về năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt
động. Tuy nhiên, chất lượng BCTC của 6 nhóm đơn vị công với các mức tự chủ tài
chính khác nhau có sự khác biệt đáng kể có ý nghĩa thống kê. Điều này cũng dễ hiểu
bởi vì ở các mức độ tự chủ khác nhau thì đặc điểm về nguồn lực tài chính ở mỗi đơn vị
khác nhau nhiều nên yêu cầu cung cấp thông tin kế toán phục vụ quản lý tài chính đặt
ra cũng có sự khác nhau đáng kể. Kết quả ở Phụ lục 17 cũng cho thấy chất lượng
BCTC của các đơn vị công tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư được đánh giá là tốt
nhất rồi đến nhóm cơ quan nhà nước không được giao tự chủ kinh phí, tiếp đến nhóm
cơ quan nhà nước được giao tự chủ kinh phí, nhóm đơn vị tự chủ một phần chi thường
xuyên, nhóm đơn vị do NSNN cấp kinh phí và cuối cùng là nhóm đơn vị công tự chủ
chi thường xuyên. Kết quả này phần nào cho thấy sự hợp lý khi chất lượng BCTC của
các đơn vị công tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư được đánh giá là cao nhất. Sự
hợp lý này có thể được giải thích như sau: Nguồn thu chính yếu của nhóm đơn vị này
là nguồn thu từ phí dịch vụ; thu từ huy động vốn góp của các tổ chức, cá nhân; thu từ
huy động vốn vay. Vì thế, dưới áp lực của các bên liên quan cũng như nhu cầu sử dụng
thông tin kế toán phục vụ cho quản lý tài chính hiệu quả từ nhà lãnh đạo thì yêu cầu
cung cấp BCTC đảm bảo chất lượng được đặt ra ngày càng tăng đối với loại hình này.
Hơn nữa, tác giả cũng tiến hành kiểm định sự khác biệt về khu vực địa lý trong
đánh giá thành quả hoạt động. Rà sót lại mẫu khảo sát, tác giả tự nhận thấy mẫu khảo
sát mới chỉ được thực hiện tại 21 tỉnh thành, tập trung chủ yếu ở các tỉnh thành miền
trung và miền nam, rất ít mẫu khảo sát ở các tỉnh thành phía Bắc. Do vậy, căn cứ vào
số lượng mẫu khảo sát phân bố ở các tỉnh, tác giả đã tự phân nhóm mẫu khảo sát thành
2 nhóm: nhóm 1 gồm có 3 tỉnh thành là Bình Định, Phú Yên và Quảng Ngãi (có 127
đơn vị công) và nhóm 2 gồm 18 tỉnh thành còn lại (có 108 đơn vị công). Sau đó, tác
giả sử dụng kiểm định T-test mẫu độc lập để kiểm tra xem có sự khác biệt về đánh giá
thành quả hoạt động giữa hai nhóm mẫu khi phân theo khu vực địa lý hay không. Tại
Phụ lục 17, tác giả nhận thấy giá trị Sig. trong kiểm định Levene (0,305) > 0,05 cho
thấy phương sai giữa hai nhóm khu vực địa lý là không khác nhau. Do vậy, tác giả đã
xem xét kết quả kiểm định t ở phần phương sai tổng thể đồng nhất (Equal variances
assumed). Kết quả tại Phụ lục 17 cho thấy rằng giá trị T-test (0,913) > 0,05 nên tác giả
133
kết luận là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thành quả hoạt động của các
đơn vị công ở các khu vực địa lý khác nhau trong nghiên cứu này.
Ngoài ra, tác giả còn tiến hành kiểm định sự khác biệt về thời điểm khảo sát
trong đánh giá thành quả hoạt động. Thời gian khảo sát của luận án kéo dài là từ tháng
9 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020. Điều này cho thấy nghiên cứu định lượng chính
thức được thu thập dữ liệu gần 1 năm, thời gian này là khá dài. Vì vậy, để bổ sung các
đánh giá về tính phù hợp của dữ liệu thu thập, tác giả đã thực hiện thêm kiểm định liên
quan đến thời điểm thu thập dữ liệu. Tức là kiểm tra xem có sự khác biệt trong dữ liệu,
cụ thể là liên quan đến đánh giá thành quả hoạt động giữa dữ liệu thu thập trước tháng
1 năm 2020 (từ tháng 9/2019 đến tháng 12/2019) và sau thời điểm này hay không (từ
tháng 1/2020 đến tháng 8/2020). Tác giả cũng đã sử dụng kiểm định T-test mẫu độc
lập cho việc kiểm định sự khác biệt về thời điểm khảo sát trong đánh giá thành quả
hoạt động. Kết quả tại Phụ lục 17 cho thấy giá trị Sig. trong kiểm định Levene (0,815)
> 0,05 cho thấy phương sai giữa hai mốc thời gian khảo sát là không khác nhau. Tiếp
đó, tác giả nhận thấy kết quả kiểm định giá trị t ở phần phương sai tổng thể đồng nhất
(Equal variances assumed) có giá trị T-test (0,05) = 0,05. Vì thế, tác giả có thể kết luận
là không có sự khác biệt đáng kể có ý nghĩa thống kê trong thu thập dữ liệu giữa giai
đoạn đầu và giai đoạn cuối của quá trình thu thập dữ liệu trong nghiên cứu này.
4.5. Bàn luận kết quả nghiên cứu
Với 235 mẫu nghiên cứu đã thu thập và được xử lý thông qua phần mềm
SmartPLS 3, kết quả cho thấy tám giả thuyết đề ra trong mô hình đều được chấp nhận
với mức ý nghĩa cao (1%). So với nghiên cứu trước ở nước ngoài và Việt Nam, các kết
quả này có một số điểm đáng quan tâm như sau:
Trước hết, kết quả nghiên cứu với việc chấp nhận giả thuyết năng lực kế toán có
tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC đã giúp làm rõ hơn vai trò của năng lực kế
toán trong quá trình cung cấp thông tin kế toán. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với
các nghiên cứu trong nước trước đó đã đề cập như nghiên cứu của Diệp Tiên (2016);
Trát Minh Toàn (2016). Tuy nhiên, so với các nghiên cứu trong nước thì nghiên cứu
này đã tiến hành đo lường năng lực kế toán và chất lượng BCTC một cách rõ ràng hơn.
Chẳng hạn, năng lực kế toán dựa theo góp ý của chuyên gia và nghiên cứu của Palmer
và cộng sự (2004), gồm các yếu tố liên quan đến kiến thức, các kỹ năng, các khả năng
134
và thái độ làm việc của nhân viên kế toán. Còn so với các nghiên cứu nước ngoài, thì
kết quả nghiên cứu này cũng giống như nghiên cứu của Mardinan và cộng sự (2018);
Setiyawati (2013); Xu và cộng sự (2003); Dewi và cộng sự (2019), tức là kế toán có
năng lực tốt thì chất lượng BCTC sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, kết quả này không giống như
nghiên cứu của Sagara (2015); Suliyantini và Kusmuriyanto (2017), vì các nghiên cứu
này cho rằng năng lực kế toán không ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Và sự khác
biệt này có thể do cách thu thập dữ liệu hay phạm vi cỡ mẫu của nghiên cứu. Ngoài ra,
kết quả này phù hợp với lý thuyết bất định (Luder, 1992). Lý thuyết bất định đã chỉ rõ
rằng sự thành công của việc áp dụng các thực hành kế toán mới, cụ thể là việc áp dụng
các chế độ kế toán mới trên cơ sở dồn tích phụ thuộc vào sự tương thích của nó đối với
các đặc điểm môi trường của tổ chức. Kế toán là một yếu tố tổ chức, cụ thể năng lực
kế toán là một yếu tố quan trọng để thực hiện thành công việc tạo lập thông tin tài
chính, tạo ra các BCTC đảm bảo chất lượng nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu thông tin
của người dùng (Azmi và Mohamed, 2014). Hơn nữa, dưới áp lực thể chế, người kế
toán buộc phải không ngừng nâng cao năng lực để thích ứng với sự thay đổi của tổ
chức cũng như xã hội; cụ thể là khi các quy định hướng dẫn công tác kế toán thay đổi
thì kế toán phải tăng cường ý thức học tập, nâng cao kiến thức, rèn luyện các kỹ năng
để có thể hoàn thành công việc theo yêu cầu và điều này sẽ góp phần nâng cao chất
lượng BCTC.
Thứ hai, giả thuyết rằng vai trò lãnh đạo có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng
BCTC được ủng hộ bởi nghiên cứu này. Và đều này tương thích với kết quả nghiên
cứu của Diệp Tiên (2016); Mardinan và cộng sự (2018); Trát Minh Toàn (2016). Tuy
nhiên, nghiên cứu này nhìn nhận ảnh hưởng của người lãnh đạo thông qua vai trò lãnh
đạo của họ, tức là tập trung vào mức độ mà các nhà lãnh đạo trong tổ chức công hỗ trợ
nhân viên xử lý các vấn đề của khu vực công, cụ thể là tuân thủ các quy định, luật lệ
và thực hiện trách nhiệm giải trình (Tummers và Knies, 2016). Hơn nữa, kết quả
nghiên cứu này cũng đã làm rõ hơn quan điểm của lý thuyết thể chế, lý thuyết đại diện
và lý thuyết bất định về ảnh hưởng của vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC. Theo lý
thuyết thể chế của DiMaggio và Powell (1983), dưới áp lực cưỡng chế thì nhà lãnh đạo
đơn vị công buộc phải thể hiện đúng vai trò lãnh đạo của mình theo hướng tuân thủ
luật và tuân thủ trách nhiệm giải trình khi chỉ đạo nhân viên trong tổ chức thực hiện
135
các nhiệm vụ mà nhà nước giao (Nuhu và Appuhami, 2016; Tummers và Knies,
2016). Cụ thể, lãnh đạo theo luật, tức là nhà lãnh đạo khuyến khích nhân viên kế toán
tuân thủ các nguyên tắc kế toán và chế độ kế toán theo quy định hiện hành và điều này
rất quan trọng để tạo nên một BCTC đảm bảo chất lượng, cụ thể là đặc tính đáng tin
cậy hay kịp thời. Còn lãnh đạo định hướng trách nhiệm giải trình có xu hướng khuyến
khích nhân viên tăng cường giải thích hành động của họ cho các bên liên quan. Để có
thể lý giải tốt hành động của đơn vị cho các bên liên quan như cơ quan kiểm toán,
thanh tra hay nhà tài trợ, người lãnh đạo sẽ khuyến khích kế toán cần phải cung cấp
các BCTC đảm bảo chất lượng. Đồng thời, theo lý thuyết đại diện, yêu cầu về cung
cấp thông tin BCTC đảm bảo chất lượng nhằm giúp cơ quan cấp trên quản lý cũng như
các bên liên quan theo dõi và giám sát hành động của người đại diện thuận lợi hơn để
dảm bảo họ không hành động vì tư lợi cá nhân. Ngoài ra, theo lý thuyết bất định của
Luder (1992) cũng chỉ ra rằng các thực hành cải cách kế toán trong khu vực công chịu
sự chi phối bởi các yếu tố bối cảnh tổ chức, cụ thể là đặc điểm cấu trúc của tổ chức
công. Trong đơn vị công, nhà lãnh đạo đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình cải
cách kế toán diễn ra bên trong tổ chức công (Van der Voet và cộng sự, 2015), đảm bảo
các cam kết về việc tạo lập thông tin kế toán có chất lượng tốt (Mardinan và cộng sự,
2018). Vì thế, vai trò lãnh đạo có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC của các
đơn vị công được xác nhận trong luận án là phù hợp và mang tính mới so với các
nghiên cứu trước.
Thứ ba, nghiên cứu này xác nhận rằng vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều
đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam. Như vậy, kết quả này phù
hợp với lý thuyết thể chế, cụ thể là đẳng cấu cưỡng chế và lý thuyết đại diện khi làm rõ
việc đơn vị công cần phải đảm bảo trách nhiệm giải trình trước các bên liên quan
(Lindquist và Huse, 2017). Trước hết, nhà lãnh đạo là người đứng đầu đơn vị công có
quyền lực nhất và phải chịu trách nhiệm liên quan đến tất cả hoạt động của đơn vị.
Thêm vào đó, Việt Nam đã ban hành Nghị định 90 quy định về trách nhiệm giải trình
đối với các đơn vị công (Chính Phủ, 2013a). Do đó, nhà lãnh đạo trong đơn vị công
buộc phải thực hiện vai trò lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình.
Tức là, nhà lãnh đạo của đơn vị công phải yêu cầu nhân viên tuân thủ các quy định của
nhà nước và thực hiện trách nhiệm giải trình phù hợp với vị trí công việc của từng
136
nhân viên. Đồng thời, bản thân nhà lãnh đạo cũng phải thực hiện tốt các yêu cầu về
trách nhiệm giải trình. Khi đó, trách nhiệm giải trình của đơn vị công sẽ được cải
thiện. Kết quả nghiên cứu này như một bằng chứng thực nghiệm cụ thể cho quan điểm
của các nhà nghiên cứu trước đây là có sự tồn tại về tác động của lãnh đạo đến việc
thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị công của (Alam và cộng sự, 2018; Phạm
Quang Huy, 2018). Hơn nữa, kết quả này cũng phù hợp với quan điểm của lý thuyết
bất định, vì lãnh đạo là một nhân tố tổ chức quan trọng, chi phối và tham gia vào quá
trình thực hiện các cải cách của đơn vị, cụ thể là thực hiện trách nhiệm giải trình theo
quy định hiện hành. Do vậy, kết quả nghiên cứu này cho thấy vai trò lãnh đạo có ảnh
hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của đơn vị công là phù hợp và mang tính
mới so với các nghiên cứu trước.
Thứ tư, việc chấp nhận giả thuyết H4 trong nghiên cứu này là hoàn toàn phù hợp,
cụ thể là năng lực kế toán có ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các
đơn vị công tại Việt Nam. Với sự hỗ trợ bởi lý thuyết bất định, việc thực hiện trách
nhiệm giải trình của đơn vị công chắc chắn sẽ phụ thuộc vào các yếu tố thuộc bối cảnh
tổ chức (Ahyaruddin và Akbar, 2016), cụ thể là năng lực của người kế toán. Hơn nữa,
mặc dù ban lãnh đạo đơn vị công giữ vị trí chủ chốt trong việc thực hiện trách nhiệm
giải trình nhưng việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong đơn vị công tại Việt Nam
cũng như các quốc gia khác nói chung cũng gắn liền với tất cả các thành viên trong
đơn vị (Phạm Quang Huy, 2018). Kế toán được xem là một nguồn nhân lực quan trọng
vì họ sử dụng các văn bản pháp luật có liên quan đề thực hiện công việc của mình. Và
theo lý thuyết thể chế, kế toán cũng phải có nghĩa vụ trực tiếp giải trình và chịu trách
nhiệm về công việc của mình trước các bên liên quan, chẳng hạn giải trình cho nhân
viên trong đơn vị về cách tính tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp,… hoặc giải trình với
các bên liên quan bên ngoài như cơ quan kiểm toán nhà nước, cơ quan thanh tra về
cách ghi nhận và trình bày số liệu trên BCTC. Như vậy, để phục vụ tốt cho công việc
của mình cũng như khả năng thực hiện các yêu cầu giải trình về tình hình tài chính, sử
dụng kinh phí, tình hình lưu chuyển tiền cũng như kết quả hoạt động thì kế toán cần có
các yếu tố năng lực nhất định. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với
nhận định của Aramide và Bashir (2015); Phạm Quang Huy (2018); Trương Á Bình
(2017) cũng như trùng khớp với kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Dewi và cộng sự
137
(2019) là năng lực kế toán càng tốt thì việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị
công càng tốt.
Như vậy, việc chấp nhận cả bốn giả thuyết H1, H2, H3, H4 trong luận án cho thấy
năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo thực sự có tác động đến chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình trong các đơn vị công tại Việt Nam. Thế nhưng, kết quả phân tích dữ
liệu của luận án cho thấy sự tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất
lượng BCTC chỉ chiếm giá trị là 18%. Vì thế, vẫn còn nhiều nhân tố khác có ảnh
hưởng đến chất lượng BCTC mà ghiên cứu này chưa xem xét và đây sẽ là khoảng
trống cho các nghiên cứu trong tương lai. Chẳng hạn, trong bối cảnh Việt Nam, hệ
thống kế toán khu vực công còn chậm trễ trong đổi mới nên thông tin trên BCTC còn
hạn chế lớn về tính thích hợp (ví dụ: cung cấp thông tin cần thiết, thuyết minh đầy đủ),
tính đáng tin cậy khi đo lường các yếu tố của BCTC. Thêm vào đó, mặc dù lãnh đạo
rất quan tâm và nhân viên kế toán đủ năng lực nhưng nếu thiếu các quy chế, quy định
thì quá trình triển khai các hoạt động và thực hiện công tác kế toán sẽ không thể đạt
được kết quả mong muốn. Do đó, chuẩn mực/chế độ kế toán và hệ thống kiểm soát nội
bộ có thể sẽ có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng BCTC, qua đó ảnh hưởng gián tiếp
đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công.
Thứ năm, kết quả luận án đã cung cấp bằng chứng rằng chất lượng BCTC có tác
động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam. Như
vậy, kết quả này hoàn toàn phù hợp với lý luận của lý thuyết NPM và lý thuyết đại
diện. Cụ thể, sự ra đời của các chế độ kế toán mới đang áp dụng cho các đơn vị công
tại Việt Nam hiện nay theo hướng vận dụng cơ sở dồn tích đầy đủ khi ghi nhận các
nghiệp vụ kinh tế, được xem là một phần của cuộc cải cách tài chính công theo lý
thuyết NPM. Và mục đích của việc ban hành chế độ kế toán HCSN mới là nhằm cải
thiện chất lượng báo cáo kế toán (Thanh và Yen, 2018a), cung cấp các thông tin kế
toán tài chính hữu ích hơn cho người dùng khi đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn
vị công. Hơn nữa, lý thuyết đại diện cho thấy rằng các đơn vị công hoạt động chủ yếu
dựa vào nguồn NSNN, đây là tài sản của nhân dân đóng góp thông qua tiền thuế và các
khoản khác, do vậy để hạn chế tiêu cực và tăng tính hiệu quả khi sử dụng tài sản công
thì họ phải thực hiện nghĩa vụ giải trình (Zimmerman, 1977) thông qua việc cung cấp
BCTC đảm bảo chất lượng (Alcaide Muñoz và cộng sự, 2017). Như vậy, lý thuyết đại
138
diện đã chỉ rõ vai trò của BCTC như là một phương tiện giúp các đơn vị công thể hiện
trách nhiệm giải trình của mình nhằm giảm tình trạng bất cân xứng về thông tin giữa
người chủ (người cung cấp nguồn lực công) và người đại diện (người sử dụng nguồn
lực công). Thêm vào đó, kết quả này cung cấp một minh chứng thực nghiệm rõ ràng
hơn cho nhận định của Mack và Ryan (2006) là chất lượng BCTC được xem là một
yếu tố quyết định đến tính hiệu quả của việc thực hiện trách nhiệm giải trình từ đơn vị
công. Ngoài ra, kết quả này cũng tương thích với nhận định của các nghiên cứu trước
là chất lượng BCTC có ảnh hưởng đến mức độ thực hiện trách nhiệm giải trình của các
đơn vị công (De Jesus và Eirado, 2012; Eivani và cộng sự, 2012; Keerasuntonpong và
cộng sự, 2019; Olomiyete, 2014). Đặc biệt, kết quả nghiên cứu này trùng khớp với
nghiên cứu của Indriasih và Koeswayo (2014); Dewi và cộng sự (2019) rằng chất
lượng BCTC có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của đơn vị công. Như
vậy, kết quả này là phù hợp với các nghiên cứu trước ở nước ngoài và hoàn toàn mới
tại Việt Nam, chưa được các nhà nghiên cứu trong nước thực hiện.
Thứ sáu, về tác động cùng chiều của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động
trong các đơn vị công đã được ủng hộ bởi nghiên cứu này. Cụ thể hơn, thông tin kế
toán đảm bảo độ tin cậy, tính thích hợp, tính chính xác, tính kịp thời, có thể hiểu được
và có thể kiểm chứng sẽ giúp đơn vị công tăng cường thành quả hoạt động thông qua
việc ra quyết định phù hợp của nhà quản lý hay cơ quan cấp trên khi phân bổ nguồn
lực; cũng như cải thiện khả năng quản lý, từ đó giúp sử dụng hiệu quả tài nguyên, tăng
tính minh bạch trong các cấp chính quyền, thúc đẩy đơn vị công hoạt động tốt hơn. Và
kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu gần đây của Cepiku và cộng sự
(2017); Nirwana và Haliah (2018) khi nhận thấy rằng thông tin kế toán có chất lượng
tốt thực sự giúp cải thiện thành quả hoạt động của đơn vị công. Hơn nữa, kết quả
nghiên cứu này cũng nhấn mạnh hơn về tầm ảnh hưởng của chất lượng BCTC đối với
cả thành quả tài chính cũng như thành quả phi tài chính; chứ không chỉ dừng lại ở
thành quả tài chính như nghiên cứu của Bukenya (2014) khi chỉ nhận thấy chất lượng
thông tin kế toán có ảnh hưởng cùng chiều đến thành quả tài chính của khu vực công ở
Uganda. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này cũng đã góp phần ủng hộ cho lý thuyết
NPM rằng việc áp dụng nhiều sự đổi mới kế toán trong khu vực công là nhằm cải tiến
cho việc ra quyết định và quản lý các đơn vị công, cuối cùng là cải thiện thành quả
139
hoạt động. Cụ thể, có sự đồng tình lớn rằng việc thực hiện kế toán dồn tích như một
phương tiện để làm cho các đơn vị công nhìn rõ hơn về giá trị các khoản chi phí và xác
định đúng thành quả hoạt động của đơn vị (Jarrar và Schiuma, 2007). Báo cáo tài
chính dựa trên cơ sở kế toán dồn tích cung cấp các biện pháp đo lường tốt hơn về tính
hữu hiệu cũng như sự hiệu quả khi thực hiện các hoạt động trong tổ chức (Gomes, P.
và cộng sự, 2017); do đó, nó rất cần thiết cho các nước đang phát triển (Athukorala và
Reid, 2003) và cụ thể là Việt Nam trong bối cảnh hiện tại. Đặc biệt, BCTC được lập
theo cơ sở kế toán dồn tích sẽ giúp cho người dùng có được các thông tin thích hợp để
đưa ra các đánh giá và quyết định phù hợp nhằm thúc đẩy các đơn vị công sử dụng
hiệu quả nguồn lực công, từ đó tăng cường thành quả hoạt động (Carlin, 2005; Flynn
và cộng sự, 2016; Ofoegbu, 2014). Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu này cũng phù
hợp với nền tảng lý luận theo lý thuyết đại diện. Bởi lẽ, yêu cầu về việc cung cấp một
BCTC đảm bảo chất lượng là cần thiết đối với người dùng nhằm giảm bớt tình trạng
thông tin bất đối xứng, đảm bảo cơ sở cho các quyết định của họ, từ đó góp phần cải
thiện thành quả hoạt động của đơn vị công thông qua các quyết định hữu ích của nhà
quản lý hoặc áp lực từ các bên có liên quan. Và theo sự tìm hiểu của tác giả thì chưa có
nghiên cứu nào tại Việt Nam khám phá mối quan hệ này.
Thứ bảy, với việc đưa ra giả thuyết rằng trách nhiệm giải trình có tác động cùng
chiều đến thành quả hoạt động, tác giả nhận thấy giả thuyết này đã được chấp nhận với
mức ý nghĩa cao. Do đó, kết quả này phù hợp với nhận định của Christensen và
Lægreid (2015) rằng việc thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình sẽ tạo ra một tiền
đề quan trọng để thành quả hoạt động của đơn vị công tốt hơn (Han, 2020). Đồng thời,
kết quả này cũng nhận được sự hỗ trợ bởi lý thuyết NPM và lý thuyết đại diện. Trước
hết, mục tiêu chính của các cải cách tài chính theo lý thuyết NPM là cải thiện thành
quả hoạt động của khu vực công thông qua các hình thức trách nhiệm giải trình liên
quan đến nhiều kết nối trực tiếp hơn giữa các nhà cung cấp và người sử dụng dịch vụ
công. Và lý thuyết NPM tập trung chủ yếu vào việc tăng cường trách nhiệm giải trình
công và trách nhiệm giải trình tài chính của đơn vị mà đại diện là nhà quản lý (Behn,
2001), đòi hỏi phải có sự phân chia các trách nhiệm một cách rõ ràng, tuyên bố mục
tiêu rõ ràng và tập trung vào kết quả và hiệu quả liên quan đến đầu ra. Thêm vào đó, lý
thuyết đại diện cũng được gắn kết với lý thuyết NPM theo cách người lãnh đạo của
140
đơn vị công phải chịu trách nhiệm về hành động của mình để chứng minh rằng họ đã
thực hiện theo trách nhiệm của họ bởi vì họ thường không cùng lợi ích với công dân
hay nhân viên trong tổ chức (Boston, 2016; Jensen và Meckling, 1976); cuối cùng là
nhằm kiểm soát hành vi của đơn vị mà đại diện là nhà quản lý để cải thiện thành quả
hoạt động. Hơn nữa, ảnh hưởng có thể có của trách nhiệm giải trình đối với thành quả
hoạt động là vấn đề còn nhiều tranh cãi, nhất là vì thành quả hoạt động của tổ chức
công rất phức tạp và khó đo lường (Demirag và Khadaroo, 2011). Do vậy, kết quả
nghiên cứu này đã cung cấp một minh chứng thực nghiệm ủng hộ cho việc nhiều đơn
vị công đang cố gắng thực hiện tốt trách nhiệm giải trình là nhằm cải thiện thành quả
hoạt động của đơn vị (Ahyaruddin và Akbar, 2016; Alcaide Muñoz và cộng sự, 2017;
Cavalluzzo và Ittner, 2004; Han, 2020). Bởi lẽ, việc thực hiện tốt trách nhiệm giải
trình sẽ giúp đơn vị công nhận được sự tin tưởng của các bên liên quan và giúp nâng
cao thành quả hoạt động của tổ chức công (Navimipour và cộng sự, 2018; Rodríguez
Bolívar và cộng sự, 2013). Như thế, kết quả này đã phủ nhận quan điểm rằng trách
nhiệm giải trình thực sự sẽ làm giảm thành quả hoạt động của đơn vị mà một vài
nghiên cứu trước đã nhận định như Steets (2010); Dubnick (2005); Bouckaert và
Peters (2002). Tóm lại, kết quả nghiên cứu này như là một minh chứng thực nghiệm
trong số ít các nghiên cứu tại các nước phát triển (Han, 2020) và đang phát triển
(Halim, 2019) chỉ ra được ảnh hưởng cùng chiều của trách nhiệm giải trình đối với
thành quả hoạt động của các đơn vị công.
Thứ tám, việc kiểm tra vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình trong tác
động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động đã được thực hiện trong
nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu xác nhận là trách nhiệm giải trình có đóng vai trò
trung gian cho tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động. Kết
quả này là một điểm mới không chỉ đối với các nghiên cứu trong nước mà còn mang
tính mới đối với các nghiên cứu nước ngoài mà tác giả đã tiếp cận được. Ngoài ra, kết
quả này cũng nhận được sự hỗ trợ bởi lý thuyết NPM theo các tác giả Arnaboldi và
cộng sự (2015); Lapsley (2009); Pollitt và Dan (2011). Chẳng hạn, vận dụng lý thuyết
NPM, Christensen và Lægreid (2015) tuyên bố rằng báo cáo kế toán đảm bảo chất
lượng là một yêu cầu thiết yếu trong nỗ lực quản lý kết quả, nó cải thiện giao tiếp với
các bên có liên quan ở bên trong và bên ngoài tổ chức, dẫn đến khả năng ra quyết định
141
tốt hơn và cuối cùng cải thiện thành quả hoạt động của tổ chức công. Ngoài ra, theo lý
thuyết đại diện thì việc cung cấp BCTC đảm bảo chất lượng và thực hiện tốt trách
nhiệm giải trình được xem là hai cách thức phổ biến để cơ quan cấp trên quản lý cũng
như các bên liên quan trong khu vực công kiểm soát, giám sát hành vi của người đại
diện, nhằm đảm bảo lợi ích cho cộng đồng. Chi tiết hơn, cung cấp BCTC đảm bảo chất
lượng và thực hiện tốt trách nhiệm giải trình là yêu cầu bắt buộc của khu vực công vì
phần lớn các đơn vị công sử dụng nguồn lực tài chính từ NSNN là chủ yếu; thông qua
hai cơ chế này các bên liên quan mới có cơ sở đánh giá kết quả và yêu cầu các đơn vị
công cải thiện thành quả hoạt động. Hơn nữa, Røge và Lennon (2018) cũng nhấn mạnh
vấn đề là thông tin kế toán có chất lượng tốt sẽ góp phần cải thiện trách nhiệm giải
trình với các bên liên quan và điều này sẽ dẫn đến tăng cường thành quả hoạt động của
đơn vị công. Từ đó, tác giả nhận thấy trách nhiệm giải trình đóng vai trò trung gian
cho tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động được xác nhận
trong luận án là hoàn toàn phù hợp với nền tảng lý thuyết cũng như nhận định của
Afiah và Azwari (2015); Afiah và Rahmatika (2014) trước đó. Do vậy, kết quả này đã
mang lại đóng góp mới so với các nghiên cứu trước.
Cuối cùng, trong nghiên cứu này, tác giả có kiểm tra thêm ảnh hưởng của hai
biến kiểm soát gồm quy mô và thời gian đến thành quả hoạt động của các đơn vị công
tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy quy mô của đơn vị công không có
ảnh hưởng đối với thành quả hoạt động vì t-value = 0,63. Kết quả này không giống
như các nghiên cứu trước đây, chẳng hạn, nghiên cứu của Gomes, P. và cộng sự
(2017); Verbeeten (2008) thì nhận thấy là các đơn vị công có quy mô càng lớn thì
thành quả hoạt động càng tốt. Thế nhưng, kết quả này lại giống với nghiên cứu trước
đây của Spekle và Verbeeten (2014) được thực hiện trong bối cảnh các đơn vị công ở
Hà Lan, cho thấy quy mô không ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của đơn vị.
Tương tự, nghiên cứu này cũng cho thấy thời gian hoạt động của đơn vị công không có
ảnh hưởng đối với thành quả hoạt động vì t-value = 0,73. Như vậy, kết quả này đã
không cung cấp bằng chứng thực tiễn phù hợp với nhận định trong nghiên cứu của
Glisson và Martin (1980); Song và Meier (2018) theo hướng là những đơn vị hoạt
động càng lâu năm thì sẽ có thành quả hoạt động cao hơn so với những đơn vị mới
thành lập hay có thời gian hoạt động ngắn hơn. Qua đó, chúng ta có thể nhận ra một
142
điều rằng là các đơn vị công trong môi trường thể chế tại Việt Nam có quy mô lớn, tức
là số lượng nhân viên nhiều hay có thời gian hoạt động lâu năm thì chưa thể kết luận
rằng những đơn vị đó có thành quả hoạt động tốt hơn những đơn vị có quy mô nhỏ
hơn, tức là số lượng nhân viên ít hơn hay có thời gian hoạt động ngắn hơn. Hay nói
cách khác, thành quả hoạt động của đơn vị công không bị chi phối bởi quy mô và thời
gian hoạt động.
4.6. Kết luận chương 4
Trong chương 4, tác giả trình bày rõ các kết quả nghiên cứu định tính cũng như
là các kết quả nghiên cứu định lượng. Trước hết, kết quả định tính cho thấy mô hình
nghiên cứu đề xuất có tính khả thi cao khi tiến hành khảo sát chính thức. Đồng thời,
một bảng hỏi sơ bộ được đưa ra với sự góp ý của các chuyên gia. Tiếp đó, sau khi tiến
hành khảo sát thử với 10 kế toán trưởng ở các đơn vị công, một bảng khảo sát sẽ được
hoàn thiện sau bước nghiên cứu định tính và được sử dụng cho nghiên cứu định lượng.
Bằng việc sử dụng phần mềm SmartPLS 3 với kỹ thuật PLS-SEM, tác giả đã tiến hành
phân tích định lượng sơ bộ và phân tích định lượng chính thức cho mô hình nghiên
cứu. Ở bước nghiên cứu định lượng sơ bộ, nhà nghiên cứu đã khảo sát 100 mẫu và tiến
hành kiểm tra các giá trị của thang đo gồm: đánh giá liên quan đến độ tin cậy, đánh giá
về giá trị hội tụ và kiểm tra giá trị phân biệt. Ở bước nghiên cứu định lượng chính
thức, tác giả thu thập dữ liệu được 235 mẫu và tiến hành các bước kiểm định. Kết quả
phân tích cho thấy các thang đo trong mô hình nghiên cứu đề xuất đã đáp ứng được
các tiêu chí của một thang đo tốt. Trước khi kiểm định mô hình cấu trúc, nhà nghiên
cứu đã kiểm tra chệch do phương pháp khảo sát. Sau đó, tác giả đã tiến hành kiểm
định lần lượt tám giả thuyết nghiên cứu đã đề xuất trước đó. Và các kết quả trong luận
án đã cung cấp bằng chứng rằng các giả thuyết đề xuất từ tổng kết lý thuyết và thông
qua phỏng vấn chuyên gia đều có ý nghĩa thực tiễn cao vì chúng đều được chấp nhận
trong kiểm định mô hình cấu trúc. Ngoài ra, tác giả cũng đã trình bày thêm một số kết
quả kiểm định bổ sung liên quan đến kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm biến định
tính. Cuối cùng, tác giả bàn luận chi tiết về các kết quả đã đạt được của luận án khi so
sánh với các nghiên cứu trước có liên quan. Kết quả nghiên cứu và bàn luận các kết
quả cung cấp thêm cơ sở cho việc đề xuất các hàm ý nghiên cứu trong Chương 5.
143
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý
5.1. Giới thiệu
Chương 5 tổng kết lại các kết quả nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng
được thực hiện trong Chương 4. Trên cơ sở các kết quả đạt được, chương này sẽ đưa
ra một số hàm ý mang tính lý luận và thực tiễn nhằm giúp các nhà quản lý trong các
đơn vị công tại Việt Nam nhận thấy được vai trò quan trọng của việc cung cấp BCTC
có chất lượng cũng như việc thực hiện tốt TNGT đối với thành quả hoạt động. Hơn
nữa, kết quả kiểm định các giả thuyết cũng đã làm rõ nguyên nhân chính làm ảnh
hưởng chất lượng BCTC và TNGT của đơn vị công. Theo đó, vai trò của nhà lãnh đạo
cũng như năng lực của nhân viên kế toán nên được quan tâm nhiều hơn. Cuối cùng, tác
giả trình bày một số hạn chế mà luận án gặp phải và đề xuất một số hướng nghiên cứu
mới cho các nhà nghiên cứu trong tương lai liên quan đến lĩnh vực này.
5.2. Kết luận
5.2.1. Tổng kết quá trình nghiên cứu
Với mục tiêu tổng quát của luận án đã đặt ra là khám phá và kiểm định tác động
của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình; đồng thời, nghiên cứu tác động của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình
đối với thành quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam, theo đó, nhà nghiên
cứu đã xem xét và giải quyết các mục tiêu nghiên cứu chi tiết như sau: (1) Xác định và
đo lường mức độ tác động của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng
BCTC trong các đơn vị công tại Việt Nam; (2) Xác định và đo lường mức độ tác động
của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình trong các đơn vị
công tại Việt Nam; (3) Xác định và đo lường mức độ tác động của chất lượng BCTC
đến trách nhiệm giải trình trong các đơn vị công tại Việt Nam; (4) Xác định và đo
lường mức độ tác động của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động trong các đơn
vị công tại Việt Nam; (5) Xác định và đo lường mức độ tác động của trách nhiệm giải
trình đến thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam; (6) Xác định và đo
lường mức độ tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động thông
qua vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình trong các đơn vị công tại Việt Nam.
144
Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể được thể hiện thông qua sáu câu hỏi nghiên cứu.
Từ các câu hỏi nghiên cứu, tác giả đã phát triển tám giả thuyết nghiên cứu dựa trên các
lý thuyết nền và tổng kết các nghiên cứu trước có liên quan để hình thành mô hình
nghiên cứu. Bốn lý thuyết nền được tác giả đề cập xuyên suốt trong quá trình nghiên
cứu là lý thuyết NPM, lý thuyết thể chế, lý thuyết bất định và lý thuyết đại diện. Ngoài
ra, tác giả cũng xem xét tác động của hai biến kiểm soát ảnh hưởng đến thành quả hoạt
động của đơn vị công theo đề xuất của các nghiên cứu trước là quy mô và thời gian
hoạt động. Để giải quyết tốt các mục tiêu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
hỗn hợp, phương pháp định tính kết hợp với phương pháp định lượng. Phương pháp
định tính được tiến hành trước nhằm làm rõ hơn các nội dung về (1) sự phù hợp của
từng mối quan hệ được đề xuất trong mô hình nghiên cứu khi gắn với thực tiễn và (2)
sự phù hợp về thang đo của các biến nghiên cứu trong mô hình khi gắn với bối cảnh
khu vực công tại Việt Nam. Tiếp đó, nghiên cứu định lượng sơ bộ được tiến hành với
100 mẫu nhằm đánh giá tính thích hợp của thang đo đã kế thừa và được điều chỉnh
trong bước nghiên cứu định tính. Cuối cùng, phương pháp định lượng chính thức được
tiến hành với 235 mẫu và xử lý bằng phần mềm SmartPLS 3 nhằm kiểm định các giả
thuyết nghiên cứu trong mô hình đề xuất trong bối cảnh khu vực công tại Việt Nam.
5.2.2. Kết quả nghiên cứu định tính
Mô hình nghiên cứu của luận án và các thang đo sử dụng để đo lường cho các
biến trong mô hình đề xuất ban đầu được tác giả xây dựng chủ yếu thông qua tổng kết
lý thuyết, tức là xác định vấn đề nghiên cứu từ lý thuyết là chủ yếu. Cụ thể là tác giả
đã dựa trên các nghiên cứu trước có liên quan, khung khái niệm của IPSASB (2013,
2017a, 2018a) và bốn lý thuyết nền (lý thuyết NPM, lý thuyết đại diện, tiếp đó là lý
thuyết thể chế cũng như lý thuyết bất định) để làm cơ sở đưa ra mô hình và thang đo
các biến nghiên cứu. Tuy nhiên, để tăng tính thuyết phục và khả thi cho đề tài luận án,
nghiên cứu này đã tiến hành bước nghiên cứu định tính, cụ thể là trao đổi với các
chuyên gia có am hiểu chuyên sâu về kế toán khu vực công tại Việt Nam. Tác giả đã
tiếp cận với 10 chuyên gia bằng nhiều hình thức khác nhau như gọi điện thoại, gửi thư
điện tử và gặp mặt trực tiếp. Trong số 10 chuyên gia được trao đổi, có 3 chuyên gia là
giảng viên và 7 chuyên gia là người thực hành trong các đơn vị công tại Việt Nam. Kết
quả về nội dung thảo luận xoay quanh hai vấn đề sau:
- Về các mối quan hệ của các biến trong mô hình ban đầu mà tác giả đề xuất
145
được phần lớn các chuyên gia đồng tình. Hơn nữa, các chuyên gia còn đưa ra những lý
giải chi tiết cho từng mối quan hệ trong thực tiễn vận hành tại một số loại hình đơn vị
công. Cụ thể, các mối quan hệ trong mô hình gồm: năng lực kế toán có tác động cùng
chiều đến chất lượng BCTC, vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến chất lượng
BCTC, vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình, năng lực kế
toán có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình, chất lượng BCTC có ảnh
hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình, chất lượng BCTC có tác động cùng chiều
đến thành quả hoạt động, trách nhiệm giải trình có tác động cùng chiều đến thành quả
hoạt động. Ngoài ra, phần lớn chuyên gia cũng đồng tình với tác giả về vai trò trung
gian của trách nhiệm giải trình đối với tác động gián tiếp của chất lượng BCTC đến
- Về thang đo để đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu, phần lớn chuyên
thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
gia đều đồng tình về nội dung chính của thang đo. Tuy nhiên, các chuyên gia có bổ
sung và điều chỉnh lại cách diễn đạt của các biến quan sát trong các thang đo để đảm
bảo phù hợp hơn với văn hóa và cách hiểu của người được khảo sát tại Việt Nam.
Theo đó, tám thang đo bậc một của 5 khái niệm nghiên cứu chính (năng lực kế toán,
vai trò lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động) với
tổng số biến quan sát là 56 và 2 biến quan sát định lượng của hai biến kiểm soát (quy
mô và thời hoạt động) được sử dụng cho nghiên cứu khảo sát định lượng.
Như vậy, sau quá trình trao đổi với chuyên gia, vấn đề nghiên cứu mà tác giả đã
xác định không những mang tính cần thiết về mặt lý thuyết mà còn cần thiết và phù
hợp đối với thực tiễn môi trường thể chế tại Việt Nam. Thêm vào đó, trước khi tiến
hành khảo sát định lượng, tác giả đã thử nghiệm bảng hỏi bởi 10 kế toán trưởng tại các
đơn vị công Việt Nam với mục đích nhằm kiểm tra lại mức độ rõ ràng và phù hợp của
bảng hỏi đối với người trả lời, tăng tính khả thi cho việc thu thập dữ liệu. Sau khi thực
hiện khảo sát thử, kết quả cho thấy bảng hỏi với các thang đo được thiết kế hoàn toàn
dễ hiểu đối với người trả lời nên tác giả sử dụng nó để tiến hành khảo sát định lượng.
5.2.2. Kết quả nghiên cứu định lượng
Giai đoạn tiến hành nghiên cứu định lượng sơ bộ được thực hiện với 100 mẫu,
khảo sát diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2019 nhằm mục đích kiểm tra lại giá trị
146
các thang đo được phát triển từ lý thuyết và phỏng vấn chuyên gia ở bước nghiên cứu
định tính. Dữ liệu sau khi thu thập, tác giả sử dụng phần mềm SmartPLS 3 để xử lý.
Kết quả cho thấy các thang đo được hoàn thiện ở bước nghiên cứu định tính hoàn toàn
đảm bảo các tiêu chí về độ tin cậy, đảm bảo giá trị hội tụ cũng như giá trị phân biệt.
Như vậy, tám thang đo bậc 1 của năm khái niệm nghiên cứu chính trong mô hình với
56 biến quan sát và 2 biến quan sát định lượng đo lường cho quy mô và thời gian hoạt
động của đơn vị công được sử dụng cho quá trình khảo sát chính thức. Sau nhiều tháng
thu thập dữ liệu thông qua nhiều kênh khác nhau như: tác giả trực tiếp phát bảng hỏi,
nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp, bạn bè và người thân,…tác giả đã thu thập được 235
mẫu chính thức. Bằng việc dùng kỹ thuật PLS-SEM, tác giả đã kiểm định mô hình đo
lường và kiểm định mô hình cấu trúc. Trước tiên, tác giả kiểm định mô hình đo lường.
Trong bước này, tác giả tiến hành đánh giá tiêu chí liên quan đến độ tin cậy, tiếp đó là
giá trị hội tụ và cuối cùng là xem xét giá trị phân biệt theo đề xuất của Hair, J. F. và
cộng sự (2017a). Kết quả kiểm định thang đo cho thấy các thang đo bậc 1 sử dụng
trong nghiên cứu này đảm bảo phù hợp cho kiểm định mô hình cấu trúc. Ngoài ra, tác
giả còn tiến hành kiểm tra chệch do phương pháp thu thập mẫu thông qua phần mềm
SPSS. Kết quả chỉ ra rằng chệch do phương pháp không phải là vấn đề có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến các kết quả kiểm định trong nghiên cứu này.
Tiếp theo, tác giả đã thực hiện kiểm định mô hình cấu trúc. Đầu tiên, tác giả kiểm
tra hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình. Bằng cách kiểm tra giá trị VIF, tác giả
nhận thấy không có vấn đề về đa cộng tuyến trong nghiên cứu này vì giá trị VIF lớn
nhất chỉ là 1,55 (nhỏ hơn ngưỡng 5 rất nhiều). Để kiểm tra 8 giả thuyết đề xuất trong
mô hình nghiên cứu lý thuyết và 2 ảnh hưởng của biến kiểm soát đối với thành quả
hoạt động, tác giả đánh giá độ lớn của hệ số đường dẫn và kiểm tra ý nghĩa thống kê
bằng giá trị t-value; xem xét giá trị hệ số xác định R2 điều chỉnh. Hơn nữa, để kiểm
định sự phù hợp của giả thuyết H8, tác giả dùng kỹ thuật bootstrap phân phối mẫu về
tác động gián tiếp. Kết quả cho thấy cả tám giả thuyết nghiên cứu này đều được chấp
nhận, cụ thể: (1) Năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC; (2)
Vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC; (3) Vai trò lãnh đạo có
tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình; (4) Năng lực kế toán có tác động cùng
chiều đến trách nhiệm giải trình; (5) Chất lượng BCTC có tác động cùng chiều đến
147
trách nhiệm giải trình; (6) Chất lượng BCTC có tác động cùng chiều đến thành quả
hoạt động; (7) trách nhiệm giải trình có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt động;
(8) Chất lượng BCTC có tác động gián tiếp đến thành quả hoạt động thông qua vai trò
trung gian của trách nhiệm giải trình. Tất cả các mối quan hệ được đề xuất trong luận
án đều đạt mức ý nghĩa thống kê cao là 1%. Hơn nữa, xét về mức độ tác động của từng
nhân tố đối với từng mô hình nghiên cứu nhỏ bên trong mô hình cấu trúc chung của
luận án thì tác giả nhận thấy: (1) Năng lực kế toán tác động mạnh đến chất lượng
BCTC (β=0,28), mạnh hơn so với vai trò lãnh đạo (β=0,22); (2) Vai trò lãnh đạo có
ảnh hưởng mạnh nhất đến trách nhiệm giải trình (β=0,37) mạnh hơn so chất lượng
BCTC (β=0,35) và năng lực kế toán (β=0,16); Và (3) trách nhiệm giải trình có ảnh
hưởng mạnh nhất đến thành quả hoạt động của đơn vị công (β=0,36). Như vậy, các kết
quả này đã giúp khẳng định được sự phù hợp của các lý thuyết nền (lý thuyết NPM, lý
thuyết thể chế, lý thuyết đại diện cũng như lý thuyết bất định) trong quá trình tác giả
phát triển giả thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu. Tuy nhiên, ảnh hưởng của biến
kiểm soát quy mô và thời gian hoạt động đến thành quả hoạt động không được chấp
nhận trong nghiên cứu này.
Ngoài ra, tác giả cũng bổ sung một số kiểm định nhằm kiểm tra xem có sự khác
biệt trong dữ liệu thu thập của các nhóm đối tượng khảo sát, các khu vực địa lý và thời
điểm thu thập dữ liệu hay không. Bằng việc sử dụng kiểm định trị t-test và kiểm định
Anova, kết quả cho thấy rằng: (1) có sự khác biệt giữa ba nhóm loại hình đơn vị công
(cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và các loại tổ chức công khác) trong
đánh giá thành quả hoạt động; (2) không có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực địa
lý trong đánh giá thành quả hoạt động; (3) không có sự khác biệt đáng kể trong thu
thập dữ liệu giữa giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của quá trình thu thập dữ liệu.
5.3. Hàm ý
5.3.1. Hàm ý lý thuyết
Nghiên cứu này đã có các đóng góp về mặt lý luận bằng việc đưa ra những hàm ý
lý thuyết sau: Thứ nhất, các nghiên cứu về sự tương tác giữa năng lực kế toán, vai trò
lãnh đạo, chất lượng BCTC, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động vẫn còn
khan hiếm, đặc biệt tại một quốc gia mới nổi như Việt Nam. Nghiên cứu này đã phân
tích các mối quan hệ tương tác giữa năng lực kế toán, vai trò lãnh đạo, chất lượng
148
BCTC, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động trong một mô hình tích hợp. Mặc
dù tác động cùng chiều của năng lực kế toán đến chất lượng BCTC đã được kiểm định
ở nhiều nghiên cứu trước, ví dụ như Mardinan và cộng sự (2018); Xu và cộng sự
(2003), việc kết hợp tác động cùng chiều của năng lực kế toán đối với trách nhiệm giải
trình theo đề xuất của Maggina (2011) vào trong cùng một mô hình tích hợp này đã
cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của năng lực kế toán đối với hoạt động giải trình của
đơn vị công (Dewi và cộng sự, 2019). Do vậy, kết quả nghiên cứu này ngụ ý rằng năng
lực kế toán vừa có tác động trực tiếp đến chất lượng BCTC vừa có tác động trực tiếp
đến trách nhiệm giải trình của đơn vị công tại Việt Nam.
Thứ hai, nghiên cứu này cũng đưa ra được bằng chứng thực tiễn để chứng minh
tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo, cụ thể là lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách
nhiệm giải trình theo đề xuất của Tummers và Knies (2016) đối với việc tăng cường
chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình của đơn vị công. Nghiên cứu này bổ sung
vào hệ thống lý luận giao thoa giữa kế toán công và quản trị công, bổ sung vào sự hiểu
biết đang còn hạn chế về vai trò của nhà lãnh đạo trong đơn vị công đối với hoạt động
tài chính - kế toán và hoạt động giải trình. Vai trò lãnh đạo theo Tummers và Knies
(2016) được hiểu là mức độ mà các nhà lãnh đạo công hỗ trợ nhân viên xử lý các vấn
đề của khu vực công, cụ thể trong nghiên cứu này là kích thích nhân viên tuân thủ
pháp luật, áp dụng đúng các chính sách kế toán và quy định của nhà nước về trách
nhiệm giải trình đối với các bên liên quan. Việc hỗ trợ nhân viên có thể được coi là
tiền đề của việc thực hiện thay đổi tổ chức thành công vì nó ảnh hưởng đến hành vi
cũng như thái độ của nhân viên (Fernandez, 2008). Thông qua việc hỗ trợ nhân viên
tuân thủ pháp luật về kế toán và trách nhiệm giải trình, đơn vị sẽ đảm bảo cung cấp
được các thông tin tài chính có chất lượng cao và thực hiện tốt trách nhiệm giải trình
và đây là tiền đề quan trọng giúp hạn chế gian lận, hoạt động hiệu quả, giảm tham
nhũng cũng như quản lý tài chính tốt hơn (Said và cộng sự, 2018). Từ đó, vai trò của
lãnh đạo thường được coi là thiết yếu trong quá trình thực hiện thay đổi tổ chức và sự
chú ý thường tập trung vào nhà quản lý cấp cao (Van der Voet và cộng sự, 2015). Như
vậy, kết quả nghiên cứu này cung cấp bằng chứng rõ ràng về tác động trực tiếp của vai
trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình trong khu vực công.
149
Thứ ba, trên cơ sở nhận định của các nhà nghiên cứu trước về vai trò của BCTC
đối với trách nhiệm giải trình (Mack và Ryan, 2006; Patton, 1992; Steccolini, 2004),
kết quả nghiên cứu này tiếp tục đưa ra bằng chứng thể hiện cho ảnh hưởng cùng chiều
của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công (Dewi và cộng
sự, 2019) tại một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Điều này ngụ ý rằng các đơn
vị công phải thu thập và tiết lộ thông tin tài chính thích hợp, đáng tin cậy, có thể hiểu
được, kịp thời, có thể so sánh và có thể xác minh thì người dùng BCTC mới có thể
đánh giá chính xác trách nhiệm giải trình của các đơn vị công (Wise, 2010). Hơn nữa,
trách nhiệm giải trình đặc biệt quan trọng đối với các đơn vị công ở các nước đang
phát triển (Keerasuntonpong và cộng sự, 2019). Bởi lẽ, các nhà tài trợ phương Tây và
các tổ chức tài chính quốc tế cho rằng hệ thống quản trị của các nước đang phát triển
còn yếu, chẳng hạn như: sự lãng phí tài nguyên và các dịch vụ không được cung cấp,
tham nhũng, sự bất ổn, luật pháp yếu kém, sự không chắc chắn về kinh tế và hoạt động
kém của các doanh nghiệp nhà nước có thể làm nghiêm trọng thêm các điểm yếu thể
chế của các nền kinh tế mới nổi nên các quốc gia này cần phải đảm bảo trách nhiệm
giải trình như một điều kiện tài trợ (Kim, 2009). Như thế, đơn vị công muốn củng cố
niềm tin của các bên liên quan thì họ cần thực hiện tốt trách nhiệm giải trình và điều
này đòi hỏi họ phải cung cấp được các BCTC có chất lượng tốt.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu tiếp tục cung cấp bằng chứng về tác động cùng chiều
của chất lượng BCTC đối với thành quả hoạt động của đơn vị công ở một nước đang
phát triển (Nirwana và Haliah, 2018). Cụ thể, BCTC được lập theo cơ sở dồn tích sẽ
giúp cho người dùng có được các thông tin thích hợp để đưa ra các đánh giá và quyết
định phù hợp để hỗ trợ đơn vị công sử dụng hiệu quả nguồn lực công (Carlin, 2005;
Flynn và cộng sự, 2016; Ofoegbu, 2014). Hơn nữa, các thông tin tài chính cũng như
phi tài chính đảm bảo chất lượng cũng rất hữu ích cho nhà quản lý khi đưa ra các quyết
định phân bổ nguồn lực (Reck, 2001). Do đó, việc áp dụng cơ sở dồn tích trong kế
toán công rất cần thiết cho các nước đang phát triển (Athukorala và Reid, 2003) vì nó
giúp cải thiện chất lượng BCTC (Cohen, S. và Karatzimas, 2017) và việc ra quyết định
dựa trên những thông tin kế toán có chất lượng tốt sẽ giúp đơn vị tăng cường thành
quả hoạt động (Bukenya, 2014). Qua đó, kết quả này đã giúp xác nhận rõ hơn về tầm
quan trọng của chất lượng BCTC đối với thành quả hoạt động của đơn vị công.
150
Thứ năm, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tác động gián tiếp của chất lượng
BCTC đến thành quả hoạt động thông qua trách nhiệm giải trình. Điều này cung cấp
một bằng chứng thực nghiệm cho việc xác nhận về một mục đích quan trọng của
BCTC trong khu vực công là giúp người dùng đánh giá hiệu quả trách nhiệm giải trình
của đơn vị công. Bởi lẽ, các nhà nghiên cứu trước đã tranh luận rất nhiều về ảnh hưởng
của BCTC đối với người dùng khi đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn vị công
(Bergmann, 2012; Laughlin, 2012; Patton, 1992). Kết quả này đã góp phần khẳng định
tầm quan trọng của BCTC đối với mục đích trách nhiệm giải trình, bao gồm cả trách
nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính theo như quan điểm của Mack
và Ryan (2006). Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu này cũng giúp làm rõ vấn đề là
trách nhiệm giải trình rất có ý nghĩa đối với việc cải thiện thành quả hoạt động của đơn
vị công. Cụ thể, trách nhiệm giải trình có thể xem là một cách thức hữu ích để hạn chế
hiện tượng quan liêu, tham nhũng (Keerasuntonpong và cộng sự, 2019); là một
phương tiện nhằm kiểm soát hành vi của đơn vị công để giúp đơn vị hoạt động đúng
theo chức năng cũng như nhiệm vụ, tạo áp lực cho các đơn vị công hoạt động tốt hơn
và tăng tính hiệu quả (Ahyaruddin và Akbar, 2016; Bisnow, 2004; Halim, 2019).
Ngoài ra, kết quả này cũng góp phần ủng hộ cho nhận định của Christensen và
Lægreid (2015) rằng việc thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình là một tiền đề quan
trọng giúp nâng cao thành quả hoạt động của đơn vị (Han, 2020); trái ngược với nhận
định của Dubnick (2005) theo hướng trách nhiệm giải trình thực sự sẽ làm giảm thành
quả của tổ chức công. Tóm lại, kết quả này giúp làm rõ vai trò của chất lượng BCTC
đối với việc tăng cường trách nhiệm giải trình và cuối cùng là nâng cao thành quả họat
động của đơn vị công (Roberts và Scapens, 1985; Røge và Lennon, 2018). Và trách
nhiệm giải trình thực sự quan trọng đối với các đơn vị công nếu muốn tăng cường
thành quả hoạt động (Halim, 2019; Han, 2020).
Ngoài ra, thông qua kết quả kiểm định tại các đơn vị công trong bối cảnh khu
vực công tại Việt Nam đang thực hiện nhiều cải cách tài chính kế toán quan trọng theo
hướng tiệm cận với quốc tế, cụ thể là áp dụng cơ chế tự chủ về tài chính và sử dụng cơ
sở kế toán dồn tích theo IPSAS, nghiên cứu này đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm
ủng hộ cho 4 lý thuyết nền. Cụ thể, kết quả nghiên cứu hỗ trợ cho lý thuyết thể chế
(DiMaggio và Powell, 1983) và lý thuyết bất định (Luder, 1992) trong việc giải thích
151
ảnh hưởng trực tiếp của năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và
trách nhiệm giải trình ở các đơn vị công Việt Nam. Và những phát hiện từ nghiên cứu
này cũng hỗ trợ lý thuyết quản lý công mới (Hood, 1995) và lý thuyết đại diện
(Zimmerman, 1977) trong trong việc giải thích ảnh hưởng của chất lượng BCTC và
trách nhiệm giải trình đối với thành quả hoạt động trong các đơn vị công. Hơn nữa, có
nhiều nghiên cứu gần đây hoài nghi về tính hữu ích của các cải cách theo lý thuyết
NPM đối với việc cải thiện tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt
động tại các nước đang phát triển (Keerasuntonpong và cộng sự, 2019; Tallaki, 2019).
Do vậy, đóng góp của các kết quả nghiên cứu này theo cách là ủng hộ tính ưu việt của
các sáng kiến cải cách của lý thuyết NPM đã được đề cập trước đó (Dunleavy và
Hood, 1994; Hood, 1995), các cải cách theo lý thuyết NPM đã và đang hoạt động cùng
chiều trong bối cảnh của một nền kinh tế mới nổi có nền kinh tế đang phát triển như
Việt Nam. Ngoài ra, dựa trên lý thuyết đại diện (Manning, 2001; Sinnadurai, 2018),
kết quả này còn cho thấy trong bối cảnh thông tin bất đối xứng thì các yêu cầu về chất
lượng thông tin của các BCTC và các quy định về trách nhiệm giải trình là những công
cụ được sử dụng bởi người dùng bên ngoài (ví dụ như công dân, cơ quan cấp trên, cơ
quan giám sát) và người dùng bên trong như nhân viên của đơn vị nhằm giám sát các
hoạt động của người đại diện đơn vị công (Blanco và cộng sự, 2011; Mack và Ryan,
2006), nhằm tạo sức ép cho họ để nâng cao thành quả hoạt động, đảm bảo cung ứng
các dịch vụ công tốt hơn cho người sử dụng.
5.3.2. Hàm ý quản trị
Bên cạnh những hàm ý lý thuyết, bài viết cũng đem lại một số hàm ý quản trị cho
các đơn vị công tại Việt Nam. Cụ thể, giá trị của nghiên cứu này thể hiện ở việc giúp
các đơn vị công nhìn thấy rõ nguyên nhân của việc thực hiện BCTC và trách nhiệm
giải trình không tốt, từ đó các hàm ý được tìm thấy để khắc phục tình trạng này. Đồng
thời, kết quả nghiên cứu cũng giúp cho nhà quản lý đơn vị công chú trọng hơn đến
chất lượng BCTC và việc thực hiện tốt trách nhiệm giải trình vì chúng có ảnh hưởng
quan trọng đến thành quả hoạt động của đơn vị. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, với việc đưa ra các bằng chứng thực nghiệm chứng minh tồn tại tác
động cùng chiều của năng lực kế toán đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình
thì nhà quản lý đơn vị công tại Việt Nam phải chú ý đến năng lực kế toán. Trước hết,
152
kế toán cần có kiến thức chuyên môn tốt, cần có thêm các kiến thức kinh doanh chung,
các hiểu biết cơ bản về các vấn đề toàn cầu và kiến thức liên quan đến yếu tố công
nghệ thông tin để thực hiện công việc được tốt nhất. Thêm vào đó, người kế toán cần
có các kỹ năng liên quan để hỗ trợ công việc, như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải
quyết vấn đề, kỹ năng máy tính hay kỹ năng lãnh đạo nhóm. Các kiến thức và kỹ năng
này giúp kế toán xử lý công việc nhanh chóng, kịp thời cung cấp thông tin hữu ích cho
các nhà quản lý cũng như các cơ quan chức năng yêu cầu. Hơn nữa, kế toán cần phải
có thái độ tích cực trong công việc như tự tin, nghiêm túc, trung thực, nhanh nhẹn,
ham học hỏi để hỗ trợ cung cấp thông tin chính xác, đảm bảo độ tin cậy và kịp thời;
góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động giải trình. Và để có được bộ phận kế toán với
đầy đủ năng lực như vậy thì nhà quản lý đơn vị công cần hết sức cẩn trọng trong khâu
tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng nhân sự kế toán. Chẳng hạn, trong khâu tuyển dụng,
đơn vị công cần tuyển dụng những nhân viên kế toán giỏi về kiến thức chuyên môn,
đồng thời có kỹ năng làm việc tốt và thái độ làm việc tích cực; tức là tuyển dụng dựa
trên năng lực của họ chứ không nên dựa vào các mối quan hệ thân quen hay tư lợi cá
nhân. Hơn nữa, đơn vị công cần có thêm các chính sách tuyển dụng tốt (ví dụ, đặc
cách xét tuyển đối với người có bằng tốt nghiệp đại học loại giỏi ở các trường đại học
có uy tín ở Việt Nam và quốc tế) nhằm thu hút nhân tài về làm việc trong các bộ phận
tài chính kế toán quan trọng của đơn vị. Ngoài ra, đơn vị công cũng cần có chính sách
đãi ngộ, khen thưởng cán bộ kế toán có năng lực tốt một cách hợp lý để phát huy năng
lực và tinh thần làm việc của họ. Thêm vào đó, hiện nay, Bộ Tài chính đã ban hành các
chế độ kế toán mới áp dụng cho một số lĩnh vực công theo hướng tiệm cận với IPSAS,
chẳng hạn như Thông tư 107/2017/TT-BTC, Thông tư 102/2018/TT-BTC, Thông tư
70/2019/TT-BTC. Do vậy, các đơn vị công cần đầu tư về chi phí bồi dưỡng và thời
gian, khuyến khích cho cán bộ kế toán tham gia các lớp bồi dưỡng, nâng cao kiến thức
chuyên môn, cập nhật thường xuyên các chính sách, quy định mới có liên quan đến
công tác tài chính kế toán để họ có thể thực hiện công việc một cách tốt nhất. Từ đó
giúp đơn vị công nâng cao chất lượng BCTC và thực hiện tốt trách nhiệm giải trình
trước các bên liên quan.
Thứ hai, với bằng chứng về tác động cùng chiều của vai trò lãnh đạo đối với
chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình trong nghiên cứu này có thể đem lại cho các
153
nhà quản trị ở các đơn vị công Việt Nam những hàm ý về việc nâng cao chất lượng
BCTC và tăng cường trách nhiệm giải trình thông qua việc phát huy vai trò của lãnh
đạo. Trước hết, lãnh đạo trong đơn vị công cần tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích
nhân viên thực hiện công việc theo các quy tắc, quy định hay luật lệ của chính phủ
(Tummers và Knies, 2016), chẳng hạn, quy định về trách nhiệm giải trình theo Nghị
định số 90 hoặc quy định về việc thực hiện kế toán của đơn vị HCSN theo Thông tư số
107/2017/TT-BTC. Cụ thể hơn, lãnh đạo cần khuyến khích kế toán tuân thủ đúng các
nguyên tắc kế toán và chế độ kế toán theo quy định hiện hành, điều này rất quan trọng
để tạo nên một BCTC đảm bảo chất lượng và sẽ thuận lợi cho hoạt động giải trình.
Hơn nữa, lãnh đạo cũng cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân viên
tăng cường giải thích hành động của họ cho các bên liên quan (Tummers và Knies,
2016). Chẳng hạn, lãnh đạo cần khuyến khích, kích thích, tạo điều kiện thuận lợi, nhấn
mạnh với nhân viên là cần giải trình đầy đủ và rõ ràng với các bên liên quan về các
hoạt động chức năng hàng ngày hoặc các vấn đề về tình hình tài chính hay kết quả
hoạt động của đơn vị khi có yêu cầu giải trình. Thậm chí, khi đơn vị thay đổi quy trình
hoạt động thì cần khuyến khích nhân viên thông báo cho các bên liên quan biết cách
thức làm việc mới của đơn vị. Tóm lại, thông qua nghiên cứu này, các đơn vị công cần
nhận ra rằng nhà lãnh đạo đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình cải cách các
hoạt động nói chung và cải cách hoạt động tài chính - kế toán nói riêng diễn ra bên
trong đơn vị (Van der Voet và cộng sự, 2015), nhằm đảm bảo các cam kết về việc tạo
lập thông tin kế toán có chất lượng (Mardinan và cộng sự, 2018) cũng như việc thực
hiện tốt trách nhiệm giải trình theo quy định hiện hành của nhà nước (Chen và cộng
sự, 2016).
Thứ ba, tác động cùng chiều của chất lượng BCTC đối với trách nhiệm giải trình
và thành quả hoạt động giúp cho nhà quản trị trong các đơn vị công cần quan tâm đến
công tài chính kế toán, cụ thể là tầm quan trọng của việc chuẩn bị và công bố BCTC
đảm bảo chất lượng. Bởi vì, việc cung cấp thông tin kế toán có chất lượng tốt sẽ giúp
quá trình kiểm soát và đánh giá trách nhiệm giải trình hiệu quả; là công cụ hiệu quả
nhất cho cải thiện quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên cũng như tăng tính minh
bạch trong cấp chính quyền địa phương (Cepiku và cộng sự, 2017). Thông tin tài chính
minh bạch trong khu vực công là rất quan trọng để cải thiện quản lý và xóa bỏ tham
154
nhũng (Hyndman và McKillop, 2018). Và điều này dường như cần thiết hơn ở các nền
kinh tế mới nổi như Việt Nam - nơi mà các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức quốc tế
đánh giá năng lực thể chế còn thấp với mức độ tham nhũng cao. Cụ thể, các đơn vị
công cần chú ý đến các đặc tính chất lượng nền tảng của thông tin kế toán như tính tin
cậy, tính phù hợp cũng như là các đặc tính chất lượng bổ sung như tính có thể so sánh,
tính kịp thời, tính có thể kiểm chứng và tính có thể hiểu được, vì chúng giúp quản lý
tài chính hiệu quả (Barrett, 2004). Gần đây, Eng và cộng sự (2019) tiếp tục nhấn mạnh
về tầm quan trọng của việc áp dụng IPSAS ở nhiều quốc gia trên thế giới vì nó giúp
cải thiện chất lượng BCTC. Vì thế, các đặc tính chất lượng của BCTC sẽ được tăng
cường khi tổ chức công vận dụng IPSAS hoặc cơ sở kế toán dồn tích hoàn toàn
(Cohen, S. và Karatzimas, 2017). Việt Nam cũng đang trong giai đoạn thay đổi các
chế độ kế toán trong khu vực công theo hướng áp dụng cơ sở kế toán dồn tích hoàn
toàn. Qua đây, các nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam cần nghiên cứu tạo các
điều kiện thuận lợi để mỗi đơn vị công có thể áp dụng thành công các quy định kế toán
mới vào thực tiễn. Chẳng hạn, Bộ Tài chính cần thay đổi nội dung và hình thức của
các chương trình tập huấn theo hướng áp dụng riêng cho từng lĩnh vực, khu vực địa lý
để nâng cao tính hiệu quả tập huấn đối với người tham gia.
Thứ tư, các đơn vị công trên thế giới cần nhận thức được tầm quan trọng của việc
thực hiện trách nhiệm giải trình, đặc biệt là các nền kinh tế nước mới nổi với các đặc
điểm như năng lực thể chế thấp, sự tham gia hạn chế của các bên liên quan hoặc mức
độ tham nhũng cao (Kim, 2009). Việt Nam cũng thuộc nhóm các nước có nền kinh tế
mới nổi trong khu vực Đông Nam Á, vì thế, thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình
rất cần thiết cho khu vực công tại Việt Nam. Bởi lẽ, khi các đơn vị công tăng cường
cung cấp thông tin và công bố thông tin về các hoạt động nói chung và hoạt động tài
chính nói riêng cho các bên liên quan, chịu trách nhiệm cho các kết quả mà tổ chức đạt
được sẽ tạo ra áp lực để giúp đơn vị cải thiện thành quả hoạt động. Hơn nữa, nếu đơn
vị công thực hiện tốt trách nhiệm giải trình thì sẽ có được niềm tin của các nhân viên
cũng như các bên liên quan khác như các công dân trong chính phủ, nhà nước và xã
hội. Lòng tin đối với nhân viên sẽ giúp họ nỗ lực hơn trong công việc từ đó thúc đẩy
thành quả hoạt động của tổ chức tăng lên cả về số lượng và chất lượng (Thoms và
cộng sự, 2002); Lòng tin của các bên liên quan giúp đơn vị công nhận được sữ hỗ trợ
155
thêm về các nguồn lực tài chính để phát triển hay tăng lượng dịch vụ cần cung cấp, từ
đó thúc đẩy các hoạt động của đơn vị phát triển tốt hơn (Navimipour và cộng sự, 2018;
Rodríguez Bolívar và cộng sự, 2013). Tóm lại, các đơn vị công tại Việt Nam nói riêng
và các nền kinh tế mới nổi nói chung cần quan tâm nhiều hơn đến việc thiết kế các cơ
chế trách nhiệm giải trình có liên quan, các điều kiện và bối cảnh để chúng hoạt động
tốt hơn cho việc cải thiện thành quả hoạt động (Bovens và Schillemans, 2014). Cũng
lưu ý thêm rằng, các đơn vị công không những nên thực hiện giải trình và chịu trách
nhiệm về các hoạt động tài chính, hiệu quả tài chính mà còn nên thực hiện giải trình và
chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả của các hoạt động khác ở thời điểm hiện tại và cả
những tác động của các chính sách hiện tại đối với thế hệ tương lai. Khi đó, ý nghĩa
của trách nhiệm giải trình mới được thể hiện đầy đủ và ảnh hưởng cùng chiều của nó
đối với thành quả hoạt động mới được phát huy rõ ràng.
Ngoài ra, kết quả trong nghiên cứu này cũng cho thấy rằng quy mô và thời gian
hoạt động của đơn vị công không có ảnh hưởng đáng kể đến thành quả hoạt động. Do
vậy, các đơn vị công mới thành lập hoặc có số lượng nhân viên ít vẫn có thể có được
thành quả hoạt động tốt nếu các đơn vị này tổ chức tốt các khâu, có mục tiêu hoạt động
rõ ràng và vận hành bộ máy hợp lý.
5.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu mới
Bên cạnh những kết quả đạt được, nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số hạn chế
cần khắc phục, cụ thể như sau:
Trước hết với dữ liệu ngang sử dụng bảng câu hỏi khảo sát tại một thời điểm,
nghiên cứu này đã không kiểm soát độ lệch thời gian khi tác giả đo lường biến độc lập
(vai trò lãnh đạo và năng lực kế toán) và biến phụ thuộc (chất lượng BCTC, trách
nhiệm giải trình và thành quả hoạt động) ở cùng một thời điểm mà người đại diện cho
đơn vị công trả lời bảng câu hỏi. Năng lực kế toán là một yếu tố được tích lũy thông
qua một giai đoạn nhất định và ảnh hưởng của nó đối với chất lượng BCTC và trách
nhiệm giải trình cần được quan sát trong thời gian dài. Hơn nữa, vai trò lãnh đạo cũng
được tích lũy trong một thời gian dài và tác động có thể có của nó đối với chất lượng
BCTC và trách nhiệm giải trình cũng cần được quan sát cẩn trọng trong suốt một giai
đoạn. Ngoài ra, khi thông tin kế toán kế tài chính được tạo lập, tác động của nó đến
trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động cần phải được nghiên cứu và quan sát
156
trong dài hạn. Vì vậy, thiết kế nghiên cứu trong một khoảng thời gian dài với dữ liệu
cho các biến được thu thập ở nhiều thời điểm khác nhau có thể giải thích tốt hơn
những mối quan hệ nguyên nhân – kết quả trong mô hình nghiên cứu này. Hơn nữa,
Wiley (2011) còn nhận ra rằng dữ liệu khảo sát cắt ngang có thể có một hạn chế liên
quan đến suy luận về nguyên nhân vì dữ liệu có thể được sử dụng để kiểm tra mối
tương quan giữa các biến, nhưng không ngụ ý các hướng nhân quả được giả định giữa
chúng. Tức là, các khảo sát cắt ngang không thể gợi ý các mối quan hệ nhân quả. Ví
dụ, một số nhà nghiên cứu có thể lập luận rằng khi các đơn vị công đạt được thành quả
hoạt động cao thì họ sẽ tăng cường thực hiện trách nhiệm giải trình hoặc công bố một
BCTC đảm bảo chất lượng theo quy định của pháp luật. Như thế, trình tự nhân quả
thay thế này có thể là các thách thức lớn cho các nhà nghiên cứu trong tương lai cần
thực hiện các nghiên cứu bổ sung để làm rõ các mối quan hệ này.
Hơn nữa, việc chọn mẫu nghiên cứu là nhân sự bên trong của tổ chức công (tập
trung vào kế toán trưởng, kế toán viên và nhà quản lý) mà không khảo sát các nhóm
người dùng BCTC bên ngoài đơn vị công (ví dụ: người dân, người sử dụng dịch vụ
công, nhà tài trợ, cơ quan nhà nước có chức năng thanh tra,...) có thể sẽ ảnh hưởng đến
việc đánh giá không mang tính khách quan. Mặc dù, tác giả cũng đã sử dụng các biện
pháp kiểm soát ngay từ khâu thiết kế nghiên cứu để tránh nguy cơ thiên lệch về
phương pháp. Đồng thời, tác giả cũng đã sử dụng kĩ thuật phân tích nhân tố đơn
Harman để kiểm tra xem vấn đề chệch do phương pháp chọn mẫu có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến các kết quả kiểm định của luận án hay không. Với kết quả phân tích
đã cung cấp bằng chứng rằng chệch do phương pháp chọn mẫu chưa có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến các kết quả kiểm định của luận án. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu
trong tương lai nên sử dụng phối hợp thêm các kỹ thuật phân tích thống kê khác nhằm
khẳng định việc loại trừ được nguy cơ thiên lệch về phương pháp, từ đó giúp tăng
cường độ tin cậy và tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu. Chẳng hạn, nhà nghiên
cứu trong tương lai có thể dùng kĩ thuật “biến đánh dấu” (Marker Variable Technique)
theo đề xuất của Lindell và Whitney (2001) để tăng tính thuyết phục cho việc chọn đối
tượng khảo sát là người bên trong tổ chức. Hoặc các nhà nghiên cứu trong tương lai có
thể kết hợp khảo sát cả người bên trong và người bên ngoài tổ chức công để có những
đánh giá phù hợp hơn trong nghiên cứu của mình.
157
Thêm vào đó, khu vực công tại Việt Nam là rất rộng. Tổng số đơn vị thuộc khu
vực công tại thời điểm 01/01/2017 là 143,7 nghìn đơn vị. Với những giới hạn nhất
định, tác giả đã tiếp cận được 100 đơn vị công ở bước nghiên cứu định lượng sơ bộ và
235 đơn vị công ở bước nghiên cứu định lượng chính thức. Tác giả cũng đã cố gắng
chọn mẫu theo phương pháp định mức để nó có thể đại diện tốt nhất cho đám đông
trong thực tiễn (Hair, J. F. và cộng sự, 2014b). Kết quả kiểm định sự khác biệt về
thành quả hoạt động giữa các khu vực địa lý cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng
kể về dữ liệu khảo sát giữa các khu vực địa lý. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu trong
tương lai nên cố gắng tăng thêm số lượng mẫu khảo sát để tính đại diện cho tổng thể
khu vực công tại Việt Nam được tốt hơn. Đồng thời, với kết quả tồn tại sự khác biệt
giữa các nhóm loại hình đơn vị công trong đánh giá trách nhiệm giải trình tài chính và
thành quả hoạt động mà luận án đã cung cấp, các nhà nghiên cứu trong tương lai có
thể tiến hành nghiên cứu các mối quan hệ này xét riêng cho từng loại hình đơn vị công
để có thể cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích hơn.
Bên cạnh đó, nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc xem xét tác động của năng lực
kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình. Qua tổng
quan các tài liệu nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy còn có nhiều nhân tố khác cũng
có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình, tiêu biểu trong số đó có
thể là chuẩn mực/chế độ kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì thế, các nhà nghiên
cứu trong tương lai có thể xem xét các tác động của chuẩn mực/chế độ kế toán và hệ
thống kiểm soát nội bộ đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình. Hơn nữa,
nghiên cứu này dừng lại ở việc xem xét hai khía cạnh quan trọng của vai trò lãnh đạo
là lãnh đạo theo luật và lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình ảnh hưởng đến chất lượng
BCTC và trách nhiệm giải trình, vì thế, các nghiên cứu trong tương lai có thể tiếp tục
xem xét ảnh hưởng của các giá trị lãnh đạo khác của vai trò lãnh đạo theo đề xuất của
Tummers và Knies (2016) như lãnh đạo về trung thành chính trị (political loyalty
leadership) và lãnh đạo về quản lý mạng lưới quan hệ (network governance leadership)
đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình trong các đơn vị công tại Việt Nam.
Đồng thời, luận án này mới chỉ chứng minh được các tác động trực tiếp của năng
lực kế toán và vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình. Tuy
nhiên, việc xem xét vai trò trung gian của chất lượng BCTC cho hai mối quan hệ giữa
158
(1) năng lực kế toán và trách nhiệm giải trình; (2) vai trò lãnh đạo và trách nhiệm giải
trình là cần thiết. Trước hết, vai trò trung gian của chất lượng BCTC cho mối quan hệ
giữa năng lực kế toán và trách nhiệm giải trình có thể được nhận thấy như sau: Kế toán
là người trực tiếp tạo ra các BCTC cho nên chất lượng BCTC chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ năng lực kế toán (Xu và cộng sự, 2003); hơn nữa, thông tin trên BCTC là cơ sở để
người dùng đánh giá mức độ hiệu quả về trách nhiệm giải trình của đơn vị, cụ thể là
trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính (Mack và Ryan, 2006).
Còn vai trò trung gian của chất lượng BCTC đối với mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo
và trách nhiệm giải trình cũng có thể được nhìn nhận bằng cách: Vai trò lãnh đạo trong
nghiên cứu này là lãnh đạo theo mối quan hệ, tức là xem xét cách mà các nhà lãnh đạo
tương tác với nhân viên của họ (Tummers và Knies, 2016), cụ thể là nhân viên kế toán,
theo hướng khuyến khích nhân viên kế toán tuân theo các quy định của nhà nước về
công tác tài chính kế toán và điều này giúp nâng cao chất lượng BCTC; Và Mack và
Ryan (2006) đã chỉ rõ mục đích quan trọng của BCTC là giúp người dùng đánh giá
chính xác trách nhiệm giải trình của đơn vị công. Từ đó, chúng ta có thể suy luận rằng
chất lượng BCTC có thể đóng vai trò trung gian cho mối quan hệ giữa (1) năng lực kế
toán và trách nhiệm giải trình cũng như đóng vai trò trung gian cho mối quan hệ giữa
(2) vai trò lãnh đạo và trách nhiệm giải trình. Do đó, các nghiên cứu trong tương lai có
thể kiểm định một mô hình cạnh tranh trong đó thể hiện vai trò trung gian của chất
lượng BCTC đối với tác động gián tiếp của năng lực kế toán đến trách nhiệm giải
trình; cũng như vai trò trung gian của chất lượng BCTC đối với tác động gián tiếp của
vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình.
5.5. Kết luận chương 5
Như vậy, Chương 5 đã tổng kết lại toàn bộ quá trình nghiên cứu, cũng như đưu ra
kết luận tổng thể cho những kết quả của nghiên cứu định tính và kết quả phân tích định
lượng thông qua khảo sát mẫu. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đạt được và bàn
luận về các kết quả trong Chương 4, tác giả đã đưa ra các hàm ý nghiên cứu có giá trị
về mặt lý thuyết cũng như các hàm ý quản trị có giá trị thực hành cho các nhà quản lý
đơn vị công tại Việt Nam. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng làm rõ được các mặt còn hạn
chế của luận án và đề xuất một số hướng nghiên cứu mới cho các nhà nghiên cứu trong
tương lai liên quan đến mảng nghiên cứu này.
159
KẾT LUẬN
Tóm lại, luận án đã có các đóng góp quan trọng bằng cách bổ sung thêm kiến
thức về kế toán công, một lĩnh vực còn nhiều hướng nghiên cứu mới chưa được khai
phá nhiều. Nghiên cứu được tiến hành để khám phá và kiểm tra thực tế ảnh hưởng của
năng lực kế toán và vai trò lãnh đạo đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải
trình; cũng như ảnh hưởng của chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình đến thành
quả hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam bằng phương pháp PLS-SEM. Mô
hình lý thuyết được phát triển chủ yếu dựa trên tổng quan nghiên cứu và lý thuyết nền.
Trên cơ sở lý thuyết, thang đo của các khái niệm nghiên cứu được đề xuất để sử dụng
cho việc đo lường các biến trong mô hình. Bằng nghiên cứu định tính, mô hình nghiên
cứu và thang đo được hoàn thiện hơn cho việc khảo sát định lượng. Trước khi tiến
hành khảo sát định lượng chính thức, tác giả tiến hành khảo sát sơ bộ với 100 mẫu
nhằm kiểm tra lại các giá trị của thang đo có đảm bảo đạt độ tin cậy, có đảm bảo đạt
giá trị hội tụ và có đảm bảo đạt giá trị phân biệt hay không. Sau khi kiểm tra định
lượng sơ bộ, kết quả cho thấy các thang đo sử dụng đảm bảo các tiêu chí của một
thang đo tốt. Tiếp đó, tác giả đã thực hiện khảo sát chính thức với 235 mẫu nhằm đánh
giá mô hình đo lường, tiếp đó kiểm định chệch do phương pháp và cuối cùng là kiểm
định mô hình cấu trúc. Những phát hiện của nghiên cứu này cho thấy tám giả thuyết đã
đề xuất được chấp nhận với mức ý nghĩa đáng tin cậy. Những phát hiện thu được từ
luận án khá phù hợp với các lý thuyết nền tảng và có những điểm mới nhất định so với
các nghiên cứu trước ở nước ngoài và tại Việt Nam. Bằng chứng thực nghiệm từ
nghiên cứu này đã góp phần bổ sung kiến thức giao thoa giữa kế toán công và quản trị
công. Các kết quả cũng có thể được sử dụng để cung cấp thông tin cho nhà quản lý của
đơn vị công để họ quan tâm hơn đến việc cung cấp BCTC đảm bảo chất lượng và thực
hiện tốt trách nhiệm giải trình, nhằm gia tăng sự tin tưởng của các bên liên quan, cuối
cùng là giúp cải thiện thành quả hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng
có một vài hạn chế như cỡ mẫu, phương pháp chọn mẫu hay phương pháp thu thập dữ
liệu. Vì vậy, các nghiên cứu trong tương lai cần khắc phục các hạn chế này.
1
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. Yen Thi Tran & Nguyen Phong Nguyen (2020). The impact of the
performance measurement system on the organizational performance of the public
sector in a transition economy: Is public accountability a missing link?. Cogent
Business & Management, 7(1), 1792669. Doi:10.1080/23311975.2020.1792669.
(ESCI, Scopus Q2)
2. Yen Thi Tran, Nguyen P. Nguyen & Lam Dang Nguyen (2020). Results-
oriented Culture and Organizational Performance: The Mediating Role of Financial
Accountability in Public Sector Organizations in Vietnam. International Journal of
Public Administration. Doi: 10.1080/01900692.2020.1841227. (ESCI, Scopus Q2)
3. Yen Thi Tran, Nguyen Phong Nguyen & Trang Cam Hoang (2021). Effects
of leadership and accounting capacity on accountability through the quality of
financial reporting by public organisations in Vietnam. Journal of Asia Business
Studies. Doi: 10.1108/JABS-02-2020-0077. (ESCI, Scopus Q2)
4. Yen Thi Tran, Nguyen Phong Nguyen & Trang Cam Hoang (2021). The role
of accountability in determining the relationship between financial reporting quality
and the performance of public organizations: Evidence from Vietnam. Journal of
Accounting and Public Policy, 40(1), 106801. Doi:
10.1016/j.jaccpubpol.2020.106801. (SSCI, Scopus Q1)
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Bộ Tài chính, 2017. Thông tư số 107/2017/TT-BTC về hướng dẫn chế độ kế toán hành chính, sự nghiệp. Hà Nội.
Bộ Tài chính, 2018a. Thông tư số 99/2018/TT-BTC hướng dẫn lập báo cáo tài chính tổng hợp của đơn vị kế toán nhà nước là đơn vị kế toán cấp trên. Hà Nội. Bộ Tài chính, 2018b. Thông tư 133/2018/TT-BTC hướng dẫn lập báo cáo tài chính nhà nước. Hà Nội.
Cao Thị Cẩm Vân, 2016. Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng chuẩn mực kế toán công Việt Nam trong điều kiện vận dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM. Chính phủ, 2005. Nghị định 130/2005/NĐ-CP ban hành ngày 17 tháng 10 năm 2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước. Hà Nội.
Chính Phủ, 2013a. Nghị định số 90/2013/NĐ-CP quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Hà Nội.
Chính phủ, 2013b. Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ban hành ngày 7 tháng 10 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước. Hà Nội. Chính phủ, 2015. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP về quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Hà Nội. Chính phủ, 2016. Nghị định số 174/2016/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều của Luật kế toán. Hà Nội.
Đậu Thị Kim Thoa, 2019. Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thông tin kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Diệp Tiên, 2016. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của đơn vị sự nghiệp công lập – Nghiên cứu trên địa bàn TP. HCM. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM. Đỗ Ngọc Trâm, 2019. Hoàn thiện kế toán trong các trường trung học chuyên nghiệp công lập Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Học viện Tài chính.
Hà Nam Khánh Giao & Bùi Nhất Vương, 2019. Giáo trình cao học phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh - Cập nhật SmartPLS. Hà Nội: Nhà xuất bản Tài chính. Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008. Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồng Đức.
3
Lưu Phước Vẹn & Trần Công Dũ, 2020. Thực trạng và giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính, 725(3), 11-15.
Mai Thị Hoàng Minh & Đoàn Thị Thảo Uyên, 2018. Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm nâng cao chất lượng báo cáo tài chính tại khu vực công Việt Nam. Tạp chí Kế toán và Kiểm toán(178), 35-39.
Mai Thị Hoàng Minh, Phạm Quang Huy, Phan Thị Thúy Quỳnh, Vũ Quang Nguyên, Lê Thị Cẩm Quỳnh & Đậu Thị Kim Thoa, 2018. Kế toán hành chính sự nghiệp. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. Nguyễn Đình Thọ, 2013. Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Hà Nội: Nhà xuất bản Tài chính.
Nguyễn Thị Hồng Loan, 2018. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính khu vực công – Nghiên cứu tại các đơn vị sự nghiệp Giáo dục Công lập trên địa bàn tỉnh Long An. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM. Nguyễn Thị Thu Hiền, 2015. Hoàn thiện báo cáo tài chính khu vực công Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM. Phạm Quang Huy, 2014. Hoàn thiện hệ thống kế toán thu, chi Ngân sách Nhà nước tại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Phạm Quang Huy, 2017. Giới thiệu khuôn mẫu lý thuyết về báo cáo tài chính khu vực công 2016 – Cơ sở cho việc nâng cao chất lượng thông tin tài chính. In Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia (pp. 237-242). Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Phạm Quang Huy, 2018. Nghiên cứu các nhân tố thuộc hệ thống kế toán công tại Việt Nam cho việc định hướng gia tăng trách nhiệm giải trình trong khu vực công. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Phạm Thị Kim Ánh, 2017. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán tại các đơn vị sự nghiệp y tế công lập trên địa bàn TP.HCM. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Quốc hội, 2013. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội. Quốc hội, 2015a. Luật kế toán số 88/2015/QH13. Hà nội. Quốc hội, 2015b. Luật ngân sách số 83/2015/QH13. Hà Nội. Tổ chức Minh bạch Quốc tế, 2019. Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) 2019. https://towardstransparency.vn: Transparency International Tổng Cục Thống Kê, 2018. Niên giám thống kê năm 2017. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. Trần Thị Yến, 2018. Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp và việc tiếp cận Chuẩn mực kế toán công quốc tế. Tạp chí Tài chính(675), 84-86.
Trần Thị Yến & Hoàng Thị Thúy, 2018. Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập tại Bình Định. Tạp chí Kế toán và Kiểm toán(172-173), 55-59.
Trần Văn Thảo, 2014. Bàn về bản chất khu vực công và kế toán khu vực công. In Kỷ yếu hội thảo khoa học: Kế toán khu vực công tại Việt Nam trong tiến
4
trình hội nhập kinh tế toàn cầu (pp. 11-21). Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Trát Minh Toàn, 2016. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán tại các Trường học công lập trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Trương Á Bình, 2017. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình báo cáo tài chính khu vực công Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Tiếng Anh
Abang’a Albert Ochien’g, 2017. Determinants of quality of financial reporting among semi-autonomous government agencies in Kenya. Thesis. Strathmore University.
Adams Anne & Cox Anna L, 2008. Questionnaires, in-depth interviews and focus groups. Research Methods for Human Computer Interaction(10), 17-34. Adhikari Pawan, Kuruppu Chamara & Matilal Sumohon, 2013. Dissemination and institutionalization of public sector accounting reforms in less developed countries: A comparative study of the Nepalese and Sri Lankan central governments. Paper presented at the Accounting Forum.
Afiah Nunuy Nur & Azwari Peny Cahaya, 2015. The effect of the implementation of government internal control system (GICS) on the quality of financial reporting of the local government and its impact on the principles of good governance: A research in district, city, and provincial government in South Sumatera. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 211, 811-818. Doi:10.1016/j.sbspro.2015.11.172
Afiah Nunuy Nur & Rahmatika Dien Noviany, 2014. Factors influencing the quality of financial reporting and its implications on good government governance. International Journal of Business, Economics and Law, 5(1), 111-121. Agung Mulyo & Winarningsih Srihadi, 2016. Effect Of Auditor And Internal Control Competence Apparatus For Local Government Quality Of Financial Reporting. European Journal of Accounting, Auditing and Finance Research, 4(7), 113-127.
Ahyaruddin Muhammad & Akbar Rusdi, 2016. The relationship between the use of a performance measurement system, organizational factors, accountability, and the performance of public sector organizations. Journal of Indonesian Economy and Business, 31(1), 1-22. Doi:10.22146/jieb.10317
in
Alam Md Mahmudul, Said Jamaliah & Abd Aziz Mohamad Azizal, 2018. Role of integrity system, internal control system and leadership practices on the the public sectors of Malaysia. Social accountability practices Responsibility Journal, 15(7), 955-976. Doi:10.1108/SRJ-03-2017-0051 Alcaide Muñoz Laura, Rodríguez Bolívar Manuel Pedro & López Hernández Antonio Manuel, 2017. Transparency in governments: a meta-analytic review of incentives for digital versus hard-copy public financial disclosures.
5
The American Review of Public Administration, 47(5), 550-573. Doi:10.1177/0275074016629008
Alon Anna & Dwyer Peggy D, 2014. Early adoption of IFRS as a strategic response influences. The International Journal of transnational and local to Accounting, 49(3), 348-370. Doi:10.1016/j.intacc.2014.07.003
Andersen Lotte Bøgh, Boesen Andreas & Pedersen Lene Holm, 2016. Performance space. Public the conceptual in public organizations: Clarifying administration review, 76(6), 852-862. Doi:10.1111/puar.12578
Anderson James C & Gerbing David W, 1988. Structural equation modeling in practice: A review and recommended two-step approach. Psychological bulletin, 103(3), 411. Andrews Rhys, Boyne George A & Walker Richard M, 2006. Subjective and
objective measures of organizational performance.
Anessi Pessina Eugenio, Nasi Greta & Steccolini Ileana, 2008. Accounting reforms: Determinants of local government's choices. Financial Accountability & Management, 24(3), 321-342. Doi:10.1111/j.1468-0408.2008.00455.x Aramide Samusi Fasilat & Bashir Mustapha Muhammaed, 2015. The effectiveness of internal control system and financial accountability at Local Government level in Nigeria. International Journal of Research in Business Management, 3(8), 1-6. Doi:51346229/2-78-1438337063-1
Arellano-Gault David & Lepore Walter, 2011. Transparency reforms in the public sector: Beyond the new economics of organization. Organization studies, 32(8), 1029-1050. Doi:10.1177/0170840611416741
Arnaboldi Michela, Lapsley Irvine & Steccolini Ileana, 2015. Performance management in the public sector: The ultimate challenge. Financial Accountability & Management, 31(1), 1-22. Doi:10.1111/faam.12049 Athukorala Sarath Lakshman & Reid Barry, 2003. Accrual budgeting and accounting in government and its relevance for developing member countries.
Aucoin Peter & Heintzman Ralph, 2000. The dialectics of accountability for in public management reform. International Review of performance Administrative Sciences, 66(1), 45-55.
Aziz Mohamad Azizal Abd, Ab Rahman Hilmi, Alam Md Mahmudul & Said Jamaliah, 2015. Enhancement of the accountability of public sectors through integrity system, internal control system and leadership practices: A review study. Procedia Economics and Finance, 28, 163-169. Doi:10.1016/S2212- 5671(15)01096-5
Azmi Azrina Hani & Mohamed Nafsiah, 2014. Readiness of Malaysian public sector employees in moving towards accrual accounting for improve accountability: The case of Ministry of Education (MOE). Procedia-Social and Behavioral Sciences, 164, 106-111. Doi:10.1016/j.sbspro.2014.11.057
Babatunde Shakirat Adepeju & Shakirat R, 2013. Stakeholders’ perception on the effectiveness of internal control system on financial accountability in the
6
Nigerian public sector. International Journal of Business and Management Invention, 2(1), 16-33.
Baird Kevin M & Harrison Graeme L, 2017. The association between organizational culture and the use of management initiatives in the public sector. Financial Accountability & Management, 33(3), 311-329. Doi:10.1111/faam.12125
Bakar Nur Barizah Abu, Saleh Zakiah & Mohamad Muslim Har Sani, 2011. Enhancing Malaysian public sector transparency and accountability: Lessons and issues. European Journal of Economics, Finance and Administrative Sciences, 31, 133-145.
Barley Stephen R & Tolbert Pamela S, 1997. Institutionalization and structuration: Studying the links between action and institution. Organization studies, 18(1), 93-117. Doi:10.1177/017084069701800106
Barrett Pat, 2004. Financial management in the public sector–how accrual accounting and budgeting enhances governance and accountability. Paper presented at the Address to the Challenge of Change: Driving Governance and Accountability, CPA Forum 2004.
Barton Allan, 2009. The use and abuse of accounting in the public sector financial in Australia. Abacus, 45(2), 221-248. management reform program Doi:10.1111/j.1467-6281.2009.00283.x Behn Robert D, 2001. Rethinking democratic accountability: Brookings Institution Press.
Berger Thomas Müller-Marqués, 2018. IPSAS explained: a summary of international public sector accounting standards: John Wiley & Sons. Bergmann Andreas, 2012. The influence of the nature of government accounting and reporting in decision-making: evidence from Switzerland. Public money & management, 32(1), 15-20. Doi:10.1080/09540962.2012.643050
Bisnow M, 2004. Performance and Accountability. Relmond Van Daniker’s interview with Mark Bisnow of Bisnow On Business’ about performance reporting Retrieved, 26.
Perspectives, 195-224. 10(3), Blanco Huguette, Lennard John & Lamontagne Sylvain, 2011. Annual reporting and accountability by municipalities in Canada: An empirical investigation. Accounting Doi:10.1111/j.1911- 3838.2011.00024.x Bolton Ruth N, 1993. Pretesting questionnaires: content analyses of respondents' concurrent verbal protocols. Marketing science, 12(3), 280-303.
Boritz J Efrim & Carnaghan Carla A, 2003. Competency‐based education and assessment for the accounting profession: A critical review. Canadian Accounting Perspectives, 2(1), 7-42. Doi:10.1506/5K7C-YT1H-0G32-90K0 Boston Jonathan, 2016. Basic NPM ideas and their development. In The Ashgate research companion to new public management (pp. 33-48): Routledge. Bouckaert Geert & Peters B Guy, 2002. Performance measurement and management: The Achilles’ heel in administrative modernization. Public
7
Review, 25(4), 359-362. Performance Management & Doi:10.1080/15309576.2002.11643672
Bovens Mark, 2007. Analysing and assessing accountability: A conceptual framework European law journal, 13(4), 447-468. Doi:10.1111/j.1468- 0386.2007.00378.x Bovens Mark, Goodin Robert E & Schillemans Thomas, 2014. The Oxford handbook public accountability: Oxford University Press. Bovens Mark & Schillemans Thomas, 2014. Meaningful accountability. In The Oxford handbook of public accountability.
Business Journal, Finance 1(3), and
Bowrey Graham, 2007. Have recent financial reforms improved financial accountability in the Australian Commonwealth public sector? Australasian 34-48. Accounting, Doi:10.14453/aabfj.v1i3.4
Bowrey Graham, Smark Ciorstan & Watts Ted, 2016. Financial accountability: The contribution of Senate Estimates. Australian Journal of Public Administration, 75(1), 28-38. Doi:10.1111/1467-8500.12116
Boyne George, Gould–Williams Julian, Law Jennifer & Walker Richard, 2002. Plans, performance information and accountability: the case of best value. Public administration, 80(4), 691-710. Doi:10.1111/1467-9299.00324 Bozeman Barry & Bretschneider Stuart, 1994. The “publicness puzzle” in organization theory: A test of alternative explanations of differences between public and private organizations. Journal of Public Administration Research and Theory, 4(2), 197-224. Brown Kerry, 2004. Human resource management in the public sector. Public
Management Review, 6(3), 303-309.
Brusca Isabel & Montesinos Vicente, 2006. Are citizens significant users of government financial information? Public Money and Management, 26(4), 205-209.
Bukenya MOSES, 2014. Quality of accounting
Brusca Isabel & Montesinos Vicente, 2016. Implementing performance reporting in local government: A cross-countries comparison. Public Performance & Management Review, 39(3), 506-534. Doi:10.1080/15309576.2015.1137768 information and financial performance of Uganda’s public sector. American Journal of Research Communication, 2(5), 183-203.
Burns John & Scapens Robert W, 2000. Conceptualizing management accounting change: an institutional framework. Management Accounting Research, 11(1), 3-25.
the Carini Cristian, Giacomini Davide & Teodori Claudio, 2019. Accounting reform in local government consolidated report. Journal of Public Administration, 42(3), 195-204. Italy and perceptions on International Doi:10.1080/01900692.2017.1423500
8
Carlin Tyrone M, 2005. Debating the impact of accrual accounting and reporting in the public sector. Financial Accountability & Management, 21(3), 309-336. Doi:10.1111/j.0267-4424.2005.00223.x
Carpenter Vivian L & Feroz Ehsan H, 2001. Institutional theory and accounting rule choice: an analysis of four US state governments' decisions to adopt generally accepted accounting principles. Accounting, organizations and society, 26(7-8), 565-596.
Caruana Josette & Farrugia Brady, 2018. The use and non-use of the government financial report by Maltese Members of Parliament. Accounting, Auditing & Accountability Journal, 31(4), 1124-1144.
innovations: Evidence
Cavalluzzo Ken S & Ittner Christopher D, 2004. Implementing performance from government. Accounting, society, 29(3-4), 243-267. Doi:10.1016/S0361- measurement organizations and 3682(03)00013-8
Cepiku Denita, Hinna Alessandro, Scarozza Danila & Savignon Andrea Bonomi, 2017. Performance information use in public administration: an exploratory study of determinants and effects. Journal of Management & Governance, 21(4), 963-991. Doi:10.1007/s10997-016-9371-3
Chang Sea-Jin, van Witteloostuijn Arjen & Eden Lorraine, 2010. From the Editors: Common method variance in international business research. Journal of International Business Studies, 41(2), 178-184. Doi:10.1057/jibs.2009.88
transformational leadership and core self-evaluation to
Economics Finance, 35, of Chen Chun-Hsi Vivian, Yuan Mei-Ling, Cheng Jen-Wei & Seifert Roger, 2016. Linking job performance: The mediating role of felt accountability. The North American Journal 234-246. and Doi:10.1016/j.najef.2015.10.012
Christensen Tom & Lægreid Per, 2011. Complexity and hybrid public administration—theoretical and empirical challenges. Public Organization Review, 11(4), 407-423. Doi:10.1007/s11115-010-0141-4
Christensen Tom & Lægreid Per, 2015. Performance and accountability—A theoretical discussion and an empirical assessment. Public Organization Review, 15(2), 207-225. Doi:10.1007/s11115-013-0267-2
Christiaens Johan, Reyniers Brecht & Rollé Caroline, 2010. Impact of IPSAS on reforming governmental financial information systems: a comparative study. International Review of Administrative Sciences, 76(3), 537-554. Doi:10.1177/0020852310372449
Cohen Jacob, 1992. A power primer. Psychological bulletin, 112(1), 155. Cohen Sandra, 2008. Identifying the moderator factors of financial performance in Greek Municipalities. Financial Accountability & Management, 24(3), 265- 294. Doi:10.1111/j.1468-0408.2008.00453.x
Cohen Sandra & Karatzimas Sotirios, 2017. Accounting information quality and decision-usefulness of governmental financial reporting: Moving from cash
9
to modified cash. Meditari accountancy research, 25(1), 95-113. Doi:10.1108/MEDAR-10-2015-0070
Coy David & Dixon Keith, 2004. The public accountability index: crafting a parametric disclosure index for annual reports. The British Accounting Review, 36(1), 79-106. Doi:10.1016/j.bar.2003.10.003
Coy David, Fischer Mary & Gordon Teresa, 2001. Public accountability: A new paradigm for college and university annual reports. Critical perspectives on accounting, 12(1), 1-31. Doi:10.1006/cpac.2000.0416 Creswell John W & Creswell J David, 2017. Research design: Qualitative, quantitative, and mixed methods approaches: Sage publications.
Creswell John W & Hirose Mariko, 2019. Mixed methods and survey research in family medicine and community health. Family Medicine and Community Health, 7(2), e000086. Doi:10.1136/fmch-2018-000086
Crosby Barbara C & Bryson John M, 2017. Why leadership of public leadership research matters: and what to do about it. Public Management Review, 20(9), 1265-1286.
Dabbicco Giovanna, 2015. The impact of accrual-based public accounting harmonization on EU macroeconomic surveillance and governments’ policy decision-making. International Journal of Public Administration, 38(4), 253- 267. Doi:10.1080/01900692.2015.999581
De Jesus MA Jorge & Eirado JSB, 2012. Relevance of accounting information to public sector accountability: A study of Brazilian federal public universities. Tekhne, 10(2), 87-98. Doi:10.1016/j.tekhne.2012.10.001
Deaconu Adela, Cristina Silvia Nistor & Crina Filip, 2011. The impact of accrual accounting on public sector management: An exploratory study for Romania. Transilvanian Review of Administrative Sciences(32E). Doi:SSRN- id1911285
of Management & Governance, 15(2), DeHart-Davis Leisha, 2008. Green tape: A theory of effective organizational rules. Journal of Public Administration Research and Theory, 19(2), 361-384. Demirag Istemi & Khadaroo Iqbal, 2011. Accountability and value for money: a theoretical framework for the relationship in public–private partnerships. 271-296. Journal Doi:10.1007/s10997-009-9109-6
Demirbas Tolga, 2018. The Role of Annual Reports in Ensuring Accountability: The Case of Development Agencies in Turkey. In Handbook of Research on Modernization and Accountability in Public Sector Management (pp. 446- 469): IGI Global.
Letters, 9(9), Dewi N, Azam S & Yusoff S, 2019. Factors influencing the information quality of financial accountability. financial statement and local government Management 1373-1384. Science Doi:10.5267/j.msl.2019.5.013 Dijkstra Theo K & Henseler Jörg, 2015. Consistent partial least squares path modeling. Mis Quarterly, 39(2).
10
DiMaggio Paul J & Powell Walter W, 1983. The iron cage revisited: Institutional isomorphism and collective rationality in organizational fields. American sociological review, 48(2), 147-160. Doi:10.2307/2095101
Dubnick Melvin, 2005. Accountability and the promise of performance: In search of the mechanisms. Public Performance & Management Review, 28(3), 376- 417. Doi:10.1080/15309576.2005.11051839
Dunk Alan S & Lysons Arthur F, 1997. An analysis of departmental effectiveness, participative budgetary control processes and environmental dimensionality within the competing values framework: A public sector study. Financial Accountability & Management, 13(1), 1-15. Doi:10.1111/1468-0408.00023
Dunleavy Patrick & Hood Christopher, 1994. From old public administration to new public management. Public money & management, 14(3), 9-16. Doi:10.1080/09540969409387823
Eivani Farzad, Nazari Kamran & Emami Mostafa, 2012. Public accountability and government financial reporting. African Journal of Business Management, 6(29), 8475-8482. Doi:10.5897/AJBM12.072
Eng Li Li, Lin Jing & Neiva De Figueiredo João, 2019. International financial reporting standards adoption and information quality: Evidence from Brazil. Journal of international financial management & accounting, 30(1), 5-29. Doi:10.1111/jifm.12092
Fernandez Sergio, 2008. Examining the effects of leadership behavior on employee perceptions of performance and job satisfaction. Public Performance & Management Review, 32(2), 175-205. Doi:10.2753/PMR1530-9576320201
Administration, 41(8), Ferry Laurence & Murphy Peter, 2017. What about financial sustainability of local government!—A critical review of accountability, transparency, and public assurance arrangements in England during austerity. International Journal of Public 619-629. Doi:10.1080/01900692.2017.1292285 Flynn Suzanne, Moretti Delphine & Cavanagh Joe, 2016. Implementing Accrual Accounting in the Public Sector. Retrieved from
Fornell Claes & Larcker David F, 1981. Structural equation models with unobservable variables and measurement error: Algebra and statistics. In: SAGE Publications Sage CA: Los Angeles, CA. Funnell Warwick & Cooper Kathie, 1998. Public sector accounting and accountability in Australia: UNSW Press.
Gamayuni Rindu Rika, 2018. The effect of internal audit function effectiveness and implementation of accrual based government accounting standard on financial reporting quality. Review of Integrative Business and Economics Research, 7, 46-58. Giddens Anthony, 1979. Agency, structure. In Central problems in social theory (pp. 49-95): Springer.
11
Glisson Charles A & Martin Patricia Yancey, 1980. Productivity and efficiency in human service organizations as related to structure, size, and age. Academy of management Journal, 23(1), 21-37. Doi:10.5465/255494
Goddard Andrew, 2010. Contemporary public sector accounting research–An international comparison of journal papers. The British Accounting Review, 42(2), 75-87. Doi:10.1016/j.bar.2010.02.006
Goeminne Stijn & George Bert, 2018. New development: Determinants of financial performance in public organizations. Public money & management, 39(1), 70-73.
Gold Andrew H, Malhotra Arvind & Segars Albert H, 2001. Knowledge management: An organizational capabilities perspective. Journal of management information systems, 18(1), 185-214.
Gomes Patrícia, Mendes Silvia M & Carvalho João, 2017. Impact of PMS on organizational performance and moderating effects of context. International Journal of Productivity and Performance Management, 66(4), 517-538. Doi:10.1108/IJPPM-03-2016-0057
Gomes Patrícia S, Fernandes Maria José & Carvalho João Baptista Da Costa, 2015. The international harmonization process of public sector accounting in Portugal: the perspective of different stakeholders. International Journal of Public Administration, 38(4), 268-281.
Gordon Lawrence A & Miller Danny, 1976. A contingency framework for the design of accounting information systems. In Readings in Accounting for Management Control (pp. 569-585): Springer.
Guest Greg, Bunce Arwen & Johnson Laura, 2006. How many interviews are enough? An experiment with data saturation and variability. Field methods, 18(1), 59-82.
Hair JF, Black WC, Babin BJ & Anderson RE, 2014a. Exploratory factor analysis. Multivariate data analysis, 7th Pearson new international ed. Harlow: Pearson.
Hair Joseph F, Black William C, Babin Barry J & Anderson Rolph E, 2014b. Multivariate data analysis: Pearson new international edition. Essex: Pearson Education Limited.
Hair Joseph F, Hult G Tomas M, Ringle Christian & Sarstedt Marko, 2017a. A primer on partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM). The United States of America: Sage
Hair Joseph F, Sarstedt Marko, Ringle Christian M & Gudergan Siegfried P, 2017b. Advanced issues in partial least squares structural equation modeling. The United States of America: Sage
Halachmi Arie & Holzer Marc, 2010. Citizen participation and performance measurement: operationalizing democracy through better accountability. Public Administration Quarterly, 34(3), 378-399. Doi:10.2307/41288353
Halim Abdul, 2019. Accountability and Performance of the Public Sector International Conference of Organization. Paper presented at the
12
CELSciTech 2019-Social Sciences and Humanities track (ICCELST-SS 2019).
Hall Matthew, 2016. Realising the richness of psychology theory in contingency- based management accounting research. Management Accounting Research, 31, 63-74. Doi:10.1016/j.mar.2015.11.002
Han Yousueng, 2020. The impact of accountability deficit on agency performance: performance-accountability regime. Public Management Review, 22(6), 927- 948. Doi:10.1080/14719037.2019.1679237
Henseler Jörg & Chin Wynne W, 2010. A comparison of approaches for the analysis of interaction effects between latent variables using partial least squares path modeling. Structural Equation Modeling: A Multidisciplinary Journal, 17(1), 82-109. Doi:10.1080/10705510903439003
Henseler Jörg, Hubona Geoffrey & Ray Pauline Ash, 2016. Using PLS path modeling in new technology research: Updated guidelines. Industrial Management & Data Systems, 116(1), 2-20. Doi:10.1108/IMDS-09-2015- 0382
Henseler Jörg, Ringle Christian M & Sarstedt Marko, 2015. A new criterion for assessing discriminant validity in variance-based structural equation modeling. Journal of the Academy of Marketing Science, 43(1), 115-135. Doi:10.1007/s11747-014-0403-8
Hepworth Noel, 2017. Is implementing the IPSASs an appropriate reform? Public 141-148. management, 37(2), & money Doi:10.1080/09540962.2016.1266174 Hill Michael & Hupe Peter, 2014. Implementing public policy: An introduction to
the study of operational governance: Sage.
Hood Christopher, 1991. A public management for all seasons? Public administration, 69(1), 3-19. Doi:10.1111/j.1467-9299.1991.tb00779.x Hood Christopher, 1995. The “New Public Management” in the 1980s: Variations on a theme. Accounting, organizations and society, 20(2-3), 93-109. Doi:10.1016/0361-3682(93)E0001-W
Hood Christopher & Dixon Ruth, 2015. What we have to show for 30 years of new public management: Higher costs, more complaints. Governance, 28(3), 265- 267. Doi:10.1111/gove.12150
Howell Jane M & Hall-Merenda Kathryn E, 1999. The ties that bind: The impact of leader-member exchange, transformational and transactional leadership, and distance on predicting follower performance. Journal of applied psychology, 84(5), 680.
Hoyle Rick H, 1995. The structural equation modeling approach: Basic concepts and fundamental issues. In Structural equation modeling: Concepts, issues, and applications (pp. 1-15). Thousand Oaks, CA, US: Sage Publications, Inc.
Hulland John S, 1999. The effects of country-of-brand and brand name on product evaluation and consideration: A cross-country comparison. Journal of
13
Consumer Marketing, 11(1), 23-40. International Doi:10.1300/J046v11n01_03
Hyndman Noel & McKillop Donal, 2018. Public services and charities: Accounting, accountability and governance at a time of change. The British Accounting Review, 50(2), 143-148. Doi:10.1016/j.bar.2018.01.001
Ijeoma NB, 2014. The impact of international public sector accounting standard (IPSAS) on reliability, credibility and integrity of financial reporting in state government administration in Nigeria. International Journal of Technology Enhancements and Emerging Engineering Research, 2(3), 2347-4289. Im Tobin & Lee Seung Jong, 2012. Does management performance impact citizen satisfaction? The American Review of Public Administration, 42(4), 419-436. Doi:10.1177/0275074011408589
in Indriasih Dewi & Koeswayo Poppy Sofia, 2014. The effect of government apparatus competence and the effectiveness of government internal control toward the quality of financial reporting and its impact on the performance local government. South East Asia Journal of accountability Contemporary Business, Economics and Law, 5(1), 90-100.
International Federation of Accountants Education Committee, 2001. Competence- based approaches to the preparation and work of professional accountants. Retrieved from New York: International Federation of Accountants Education Committee, 2003. Towards Competent Professional Accountants. Retrieved from New York: IPSASB, 2013. The conceptual framework for general purpose financial reporting by public sector entities: International Federation of Accountants.
IPSASB, 2017a. Handbook of
International Public Sector Accounting Pronouncements, 2017 edition volume I: International Federation of Accountants (IFAC). IPSASB, 2018a. Handbook of international public
sector accounting pronouncements (Vol. 2018 Edition Volume 1). New York, USA: International Federation of Accountants.
Jarrar Yasar & Schiuma Giovanni, 2007. Measuring performance in the public sector: challenges and trends. Measuring Business Excellence, 11(4), 4-8. Doi:10.1108/13683040710837883
Jensen Michael C & Meckling William H, 1976. Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and ownership structure. Journal of financial economics, 3(4), 305-360. Doi:10.1016/0304-405X(76)90026-X
Jonas Gregory J & Blanchet Jeannot, 2000. Assessing quality of financial reporting. Accounting horizons, 14(3), 353-363. Doi:10.2308/acch.2000.14.3.353 Karsten Niels, 2015. Scrutinize me, please! The drivers, manifestations and implications of accountability‐seeking behaviour. Public administration, 93(3), 684-699.
Kasim Erlynda Y, 2015a. Effect Of Government Accountants Competency And Implementation Of Internal Control To The Quality Of Government
14
Financial Reporting. International Journal of Business, Economics and Law, 8(1), 97-105.
Keerasuntonpong Prae, Manowan Pavinee & Shutibhinyo Wasatorn, 2019. Reforming government public accountability: the case of Thailand. Journal of Public Budgeting, Accounting & Financial Management(just-accepted), 00-00. Doi:10.1108/JPBAFM-05-2018-0051
Kewo Cecilia Lelly, 2017. The influence of internal control implementation and managerial performance on financial accountability local government in Indonesia. International Journal of Economics and Financial Issues, 7(1), 293-297.
Kim Pan Suk, 2009. Enhancing public accountability for developing countries: Journal of Public strategies. Australian constraints and
Major Administration, 68(1), S89-S100. Doi:10.1111/j.1467-8500.2009.00626.x
Kobayashi Mari, Yamamoto Kiyoshi & Ishikawa Keiko, 2016. The usefulness of accrual information in Non‐mandatory Environments: The case of Japanese local government. Australian Accounting Review, 26(2), 153-161. Doi:10.1111/auar.12093
Korutaro Nkundabanyanga Stephen, Tauringana Venancio, Balunywa Waswa & Naigo Emitu Stephen, 2013. The association between accounting standards, legal framework and the quality of financial reporting by a government ministry in Uganda. Journal of Accounting in Emerging Economies, 3(1), 65- 81. Krueger Richard A, 2014. Focus groups: A practical guide for applied research: Sage publications.
Kurtenbach James M & Roberts Robin W, 1994. Public sector research in accounting: a review and synthesis. Journal of Public Budgeting, Accounting & Financial Management, 6(2), 216-253. Doi:10.1108/JPBAFM-06-02- 1994-B003 Lane Jan-Erik, 1994. Will public management drive out public administration? Asian journal of public administration, 16(2), 139-151. Lapsley Irvine, 2009. New public management: The cruellest invention of the human spirit? Abacus, 45(1), 1-21. Doi:10.1111/j.1467-6281.2009.00275.x
Laughlin Richard, 2012. Debate: Accrual accounting: information for accountability or decision usefulness? Public money & management, 32(1), 45-46. Doi:10.1080/09540962.2012.643056 Lawrence Paul R & Lorsch Jay W, 1967. Differentiation and integration in complex organizations. Administrative science quarterly, 1-47.
Lee Lorraine, Petter Stacie, Fayard Dutch & Robinson Shani, 2011. On the use of partial least squares path modeling in accounting research. International Journal of Accounting Information Systems, 12(4), 305-328.
Lindell Michael K & Whitney David J, 2001. Accounting for common method variance in cross-sectional research designs. Journal of applied psychology, 86(1), 114-121. Doi:10.1037/0021-9010.86.1.114
15
Lindquist Evert A & Huse Irene, 2017. Accountability and monitoring government in the digital era: Promise, realism and research for digital‐era governance. Canadian Public Administration, 60(4), 627-656. Doi:10.1111/capa.12243
Luder Klaus, 1992. A contingency model of governmental accounting innovations in the political administrative environment. In Governmental and Nonprofit Accounting (Vol. 7, pp. 99-127): JAI Press Inc.
Mack Janet & Ryan Christine, 2006. Reflections on the theoretical underpinnings of the general-purpose financial reports of Australian government departments. Journal, 19(4), 592-612. Accounting, Auditing & Accountability Doi:10.1108/09513570610679146
Maggina Anastasia, 2011. Public sector accounting and accountability in Greece: A discussion. Journal of Public Administration and Governance, 1(1), 1-15. Doi:10.5296/jpag.v1i1.685
Manning Nick, 2001. The legacy of the New Public Management in developing countries. International Review of Administrative Sciences, 67(2), 297-312. Doi:10.1177/0020852301672009
Mardinan Trisdina, Dahlan Muhammad & Fitriyah Furry Khristianty, 2018. Effect of human resources, leadership style, the use of information technology and internal control on the quality of financial statements. Journal of Accounting Auditing and Business, 1(1), 47-61. Doi:10.24198/jaab.v1i1.18795
management, money & Public 35(4), Martin John & Spano Alessandro, 2015. From performance management to strategic local government leadership: lessons from different cultural settings. 303-310. Doi:10.1080/09540962.2015.1047276
Mbelwa Latifa, Adhikari Pawan & Shahadat Khandakar, 2019. Investigation of the institutional and decision-usefulness factors in the implementation of accrual accounting reforms in the public sector of Tanzania. Journal of Accounting in Emerging Economies, 9(3), 335-365. Doi:10.1108/JAEE-01-2018-0005
Melitski James & Manoharan Aroon, 2014. Performance measurement, accountability, and transparency of budgets and financial reports. Public Administration Quarterly, 38(1), 38-70.
Meyer John W & Rowan Brian, 1977. Institutionalized organizations: Formal structure as myth and ceremony. American journal of sociology, 83(2), 340- 363. Doi:10.1086/226550
Mhaka Charity, 2014. IPSAS, a guaranteed way of quality government financial reporting? A comparative analysis of the existing cash accounting and IPSAS based accounting reporting. International Journal of Financial Economics, 3(3), 134-141.
Mnif Sellami Yosra & Gafsi Yosra, 2019. Institutional and economic factors affecting the adoption of International Public Sector Accounting Standards. International Journal of Public Administration, 42(2), 119-131. Doi:10.1080/01900692.2017.1405444
16
Mohamed Ehab KA & Lashine Sherif H, 2003. Accounting knowledge and skills and the challenges of a global business environment. Managerial Finance, 29(7), 3-16. Doi:10.1108/03074350310768319
Morgan David L, 1996. Focus groups. Annual review of sociology, 22(1), 129-152. Mustapha Maruf, Ismail Ku Nor Izah Ku & Ahmad Halimah Nasibah, 2017. Contingency For Financial Reporting Quality In The Public Sector Under Cash-Basis IPSAS: A Conceptual Approach. Paper presented at the Global Conference on Business and Economics Research (GCBER) 2017, Universiti Putra Malaysia, Malaysia.
Technology Society, 55, Nakmahachalasint Oraphan & Narktabtee Kanogporn, 2019. Implementation of accrual accounting in Thailand’s central government. Public money & management, 39(2), 139-147. Doi:10.1080/09540962.2018.1478516 Navimipour Nima Jafari, Milani Farnaz Sharifi & Hossenzadeh Mehdi, 2018. A model for examining the role of effective factors on the performance of organizations. 166-174. in Doi:10.1016/j.techsoc.2018.06.003
Nelson Morton, Banks William & Fisher James, 2003. Improved accountability disclosures by Canadian universities. Canadian Accounting Perspectives, 2(1), 77-107. Doi:10.1506/1H5W-R5DC-U15T-KJPH
Nevitt Jonathan & Hancock Gregory R, 2001. Performance of bootstrapping approaches to model test statistics and parameter standard error estimation in structural equation modeling. Structural equation modeling, 8(3), 353-377.
Nguyen Nha & Leclerc André, 2011. The effect of service employees' competence on financial institutions' image: benevolence as a moderator variable. Journal of services marketing, 25(5), 349-360.
Nguyen Thang V., Bach Thang N., Le Thanh Q. & Le Canh Q., 2017. Local governance, corruption, and public service quality: Evidence from a national survey in Vietnam. International Journal of Public Sector Management, 30(2), 137-153. Doi:10.1108/IJPSM-08-2016-0128 Nikolai Loren A, Bazley John D & Jones Jefferson P, 2009. Intermediate Accounting (Book Only): Cengage Learning.
Nirwana & Haliah, 2018. Determinant factor of the quality of financial statements and performance of the government by adding contextual factors: Personal factor, system/administrative factor. Asian Journal of Accounting Research, 3(1), 28-40. Doi:10.1108/AJAR-06-2018-0014
Nitzl Christian, 2016. The use of partial least squares structural equation modelling (PLS-SEM) in management accounting research: Directions for future theory development. Journal of accounting literature, 37, 19-35.
Nitzl Christian, Sicilia MariaFrancesca & Steccolini Ileana, 2019. Exploring the links between different performance information uses, NPM cultural orientation, and organizational performance in the public sector. Public Management Review, 21(5), 686-710. Doi:10.1080/14719037.2018.1508609
17
Nuhu Nuraddeen Abubakar & Appuhami Ranjith, 2016. The association between the use of management accounting practices with organizational change and organizational performance. In Baird, Kevin (Ed.), Advances in Management Accounting (Vol. 26, pp. 67-98): Emerald Group Publishing Limited. Nuryanto Muhamad & Afiah Nunuy Nur, 2013. The impact of apparatus competence, information technology utilization and internal control on financial statement quality. World Review of Business Research, 3(4), 157- 171.
O’brien Robert M, 2007. A caution regarding rules of thumb for variance inflation factors. Quality & quantity, 41(5), 673-690. Doi:10.1007/s11135-006-9018-6 OECD, 2002. Implementing the vision: Addressing challenges to results-focused the meeting on management and budgeting. Paper presented at Implementation Challenges in Results Focused Management and Budgeting. Ofoegbu Grace N, 2014. New public management and accrual accounting basis for transparency and accountability in the Nigerian public sector. IOSR Journal of Business and Management, 16(7), 104-113.
from Ghana's public
Ohemeng Frank LK, Amoako‐Asiedu Emelia & Obuobisa‐Darko Theresa, 2018. The impact of employee perception on the successful institutionalisation and in developing implementation of performance management systems countries: The perspective service. Public administration and development, 38(2), 75-86. Doi:10.1002/pad.1823 Olomiyete I Ayobami, 2014. Accountability and Financial Reporting Issues in to Accrual Nigeria: Considering a Change from Cash Accounting Accounting. Sciences and Humanities, 30.
Otley David, 1980. The contingency
theory of management accounting: Achievement and prognosis. In Readings in accounting for management control (pp. 83-106): Springer. Otley David, 2016. The contingency theory of management accounting and control: 1980–2014. Management Accounting Research, 31, 45-62.
Pablos Jose Luis, Carcaba Ana & Lopez Antonio, 2002. The annual report as a tool for financial disclosure in local governments. International Journal of Management, 19(4), 651.
Palmer Kristine N, Ziegenfuss Douglas E & Pinsker Robert E, 2004. International knowledge, skills, and abilities of auditors/accountants: Evidence from recent competency studies. Managerial auditing journal, 19(7), 889-896. Doi:10.1108/02686900410549411 Parker LD & Gould Graeme, 1999. Changing public sector accountability: Critiquing new directions. Accounting Forum, 23(2), 109-135.
Patton James M, 1992. Accountability and governmental financial reporting. 165-180. & Management, 8(3), Financial Accountability Doi:10.1111/j.1468-0408.1992.tb00436.x
Pham Quang Huy & Vu Kien Phuc, 2019. The impact of constituent factors of internal control system on quality of financial statements information in the
18
public education sector in Mekong Delta Region Paper presented at the International Conference on Accounting and Finance (ICOAF 2019), Danang City, Vietnam.
Podsakoff Philip M, MacKenzie Scott B, Lee Jeong-Yeon & Podsakoff Nathan P, 2003. Common method biases in behavioral research: A critical review of the literature and recommended remedies. Journal of applied psychology, 88(5), 879-903. Doi:10.1037/0021-9010.88.5.879
Podsakoff Philip M, MacKenzie Scott B & Podsakoff Nathan P, 2012. Sources of method bias in social science research and recommendations on how to control it. Annual review of psychology, 63, 539-569. Doi:10.1146/annurev- psych-120710-100452
Pollitt Christopher, 2005. Performance management in practice: A comparative study of executive agencies. Journal of Public Administration Research and Theory, 16(1), 25-44. Doi:10.1093/jopart/mui045 Pollitt Christopher & Bouckaert Geert, 2004. Public management reform: A comparative analysis: Oxford University Press, USA. Pollitt Christopher & Dan Sorin, 2011. The impacts of the New Public Management in Europe: A meta-analysis. COCOPS work package, 1.
Putra I Made Endra Lesmana & Rasmini Ni Ketut, 2018. Style of leadership and organizational culture as moderator of influence of competence and internal control system towards report quality. International Research Journal of Management, IT and Social Sciences (IRJMIS), 5(3), 22-34.
Rahman Abdul & Fachri Zulkifli, 2016. Region’s Financial Accounting Information System and The Quality of Local Government Financial Reports. International Journal Of Information Management and Bussiness Review, 8(4), 64-68.
Rai Pranish, Vatanasakdakul Savanid & Aoun Chadi, 2010. Exploring perception of IT skills among Australian accountants: An alignment between importance and knowledge. Paper presented at the AMCIS 2010 Proceedings.
Rajib Salah Uddin, Adhikari Pawan, Hoque Mahfuzul & Akter Mahmuda, 2019. Institutionalisation of the cash basis International Public Sector Accounting Standard in the central government of Bangladesh: An example of delay and resistance. Journal of Accounting in Emerging Economies, 9(1), 28-50. Doi:10.1108/JAEE-10-2017-0096
Ramírez Yolanda & Tejada Ángel, 2018. Corporate governance of universities: transparency and accountability. International Journal of improving Disclosure and Governance, 15(1), 29-39.
Ramos Fernando M & Klann Roberto Carlos, 2019. Relationship between quality in accounting information and organizational characteristics of the third sector entities. Organizações & Sociedade, 26(88), 9-27. Doi:10.1590/1984- 9260881
Ranjani RPC & Ambe Alfred Neba, 2016. The Relationship between Governmental Performance and Participation in Public Sector Accounting and Financial
19
Processes: The Case of IPSAS Implementation in Nigeria. Journal of Emerging Trends in Economics and Management Sciences (JETEMS), 7(1), 13-21.
Reck Jacqueline L, 2001. The usefulness of financial and nonfinancial performance information in resource allocation decisions. Journal of Accounting and Public Policy, 20(1), 45-71. Doi:10.1016/S0278-4254(01)00018-7
Reinartz Werner, Haenlein Michael & Henseler Jörg, 2009. An empirical comparison of the efficacy of covariance-based and variance-based SEM. in Marketing, 26(4), 332-344. International Journal of research Doi:10.1016/j.ijresmar.2009.08.001
Review, British 47(1), Robbins Geraldine & Lapsley Irvine, 2015. From secrecy to transparency: Accounting and the transition from religious charity to publicly-owned hospital. 19-32. Accounting The Doi:10.1016/j.bar.2014.10.008
Roberts John & Scapens Robert, 1985. Accounting systems and systems of accountability—understanding accounting practices in their organisational contexts. Accounting, organizations and society, 10(4), 443-456. Doi:10.1016/0361-3682(85)90005-4
Public Management Journal, 16(4), Rodríguez Bolívar Manuel Pedro, Alcaide Muñoz Laura & López Hernández Antonio M, 2013. Determinants of financial transparency in government. International 557-602. Doi:10.1080/10967494.2013.849169
Rodríguez Bolívar Manuel Pedro & Galera Andrés Navarro, 2013. The effect of changes in public sector accounting policies on administrative reforms addressed to citizens. Administration & Society, 48(1), 31-72.
Røge Kristian Mohr & Lennon Niels Joseph, 2018. A study on the criteria of internal transparency, efficiency and effectiveness in measuring local government performance. Financial Accountability & Management, 34(4), 392-409. Doi:10.1111/faam.12176
Romzek Barbara S & Dubnick Melvin J, 1987. Accountability in the public sector: Lessons from the challenger tragedy. Public administration review, 47(3), 227-238. Doi:10.2307/975901
Rossi Francesca Manes, Caperchione Eugenio, Cohen Sandra & Brusca Isabel, 2019. Financial management and public sector accounting in an age of reforms: Developments and changes in public sector financial management. In Public Administration in Europe (pp. 235-246): Springer.
Ryan Christine M, Dunstan Keitha L & Brown Jennet, 2002. The value of public sector annual reports and annual reporting awards in organisational legitimacy. Accounting, Accountability and Performance, 8(1), 61-76. Sagara Yusar, 2015. The Effet of Implementation Accounting Information System and Competence of Human Resources on the Quality of Fiancial Reporting. Research Journal of Finance and Accounting Universitas Padjajaran, 6(10).
20
Said Jamaliah, Alam Md Mahmudul & Aziz MA, 2015. Public accountability system: Empirical assessment of public sector of Malaysia. Asian Journal of Scientific Research, 8(2), 225-236. Doi:10.3923/ajsr.2015.225.236
Said Jamaliah, Alam Md Mahmudul & Johari Razana Juhaida, 2018. Assessment of Accountability Practices in the Public Sector of Malaysia_APMAJ. pdf. Asia-Pacific Management Accounting Journal, 13(1), 167-184. Doi:0000- 0002-7360-1259
Sarstedt Marko, Ringle Christian M, Henseler Jörg & Hair Joseph F, 2014. On the emancipation of PLS-SEM: A commentary on Rigdon (2012). Long range planning, 47(3), 154-160.
Scott W Richard, 2005. Institutional theory: Contributing to a theoretical research program. Great minds in management: The process of theory development, 37(2005), 460-484.
Setiyawati Hari, 2013. The effect of Internal Accountants' Competence, Managers' Commitment to Organizations and the Implementation of the Internal Control System on the Quality of Financial Reporting. International Journal of Business and Management Invention, 2(11), 19-27. Silverman David, 2015. Interpreting qualitative data. London: SAGE. Simangunsong Rosma, 2014. The impact of internal control effectiveness and internal audit role toward the performance of local government. Research Journal of Finance and Accounting, 5(7), 50-58.
Simon Yulius, Mas' ud Masdar & Su'un Muhammad, 2016. The Role Of Apparatus Competence, Internal Control System On Good Governance And The Quality Of Financial Statement Information. Researchers World, 7(4), 123.
Sinclair Amanda, 1995. The chameleon of accountability: Forms and discourses. Accounting, organizations and society, 20(2-3), 219-237. Doi:10.1016/0361- 3682(93)E0003-Y
Sinnadurai Philip, 2018. A vision for Malaysian and other Asean researchers to contribute to the international agency theory-based literature. Asian Journal of Business and Accounting, 11(2), 1-54. Doi:10.22452/ajba.vol11no2.1 Slamet Triko & Fitriyah Nur, 2017. Determinant of the presentation of proxy of user assets report and its implication for the quality of financial statements (A case study at the Work Unit of KPPN Mataram). The Indonesian Accounting Review, 6(2), 207-226. Doi:10.14414/tiar.v6i2.610
Sobel Michael E, 1982. Asymptotic confidence intervals for indirect effects in structural equation models. Sociological methodology, 13, 290-312. Doi:10.2307/270723
Song Miyeon & Meier Kenneth J, 2018. Citizen satisfaction and the kaleidoscope of government performance: How multiple stakeholders see government performance. Journal of Public Administration Research and Theory, 28(4), 489-505. Doi:10.1093/jopart/muy006
Soyinka Kazeem Akanfe, Fagbayimu Michael Omotayo, Adegoroye Emmanuel & Ogunmola John Oladipo, 2017. Decision Usefulness and Financial
21
Reporting: The General Public Perspective. International Journal of Academic Research in Accounting, Finance and Management Sciences, 160- 168.
Research, 25(2), Spekle Roland F & Verbeeten Frank HM, 2014. The use of performance measurement systems in the public sector: Effects on performance. 131-146. Accounting Management Doi:10.1016/j.mar.2013.07.004
investigation into
Steccolini Ileana, 2004. Is the annual report an accountability medium? An local governments. Financial Italian empirical Accountability & Management, 20(3), 327-350. Doi:10.1111/j.0267- 4424.2004.00389.x Steets Julia, 2010. Accountability in public policy partnerships: Palgrave
Macmillan.
Sukmaningrum Tantriani & Harto Puji, 2012. Analisis Faktor-Faktor Yang Mempengaruhi Kualitas Informasi Laporan Keuangan Pemerintah Daerah (Studi Empiris pada Pemerintah Kabupaten dan Kota Semarang). Fakultas Ekonomika dan Bisnis.
Suliyantini Liani & Kusmuriyanto Kusmuriyanto, 2017. The Effect of Human Resources Competency and Accrual Based Government Accounting Standard Implementation on the Quality of Local Government Financial Statement with the Implementation of Internal Control System as a Mediating Variable. Accounting Analysis Journal, 6(1), 19-26.
Sulu-Gambari Waziri, Stafford Anne & Stapleton Pamela, 2018. Public accountability reform in a Nigerian ministry. Qualitative Research in Accounting & Management, 15(4), 485-509. Doi:10.1108/QRAM-10-2016- 0077
Suwanda Dadang, 2015. Factors Affecting Quality of Local Government Financial Statements to Get Unqualified Opinion (WTP) of Audit Board of the Republic of Indonesia (BPK). Research Journal of Finance and Accounting, 6(4), 139-157. Tallaki Mouhcine, 2019. NPM reforms and institutional characteristics
in developing countries: The case of Moroccan municipalities. Journal of Accounting in Emerging Economies, 9(1), 126-147. Doi:10.1108/JAEE-01- 2018-0010
Tehseen Shehnaz, Ramayah T & Sajilan Sulaiman, 2017. Testing and controlling for common method variance: A review of available methods. Journal of Management Sciences, 4(2), 142-168. Doi:10.20547/jms.2014.1704202 Tenenhaus Michel, Amato Silvano & Esposito Vinzi Vincenzo, 2004. A global goodness-of-fit index for PLS structural equation modelling. Paper presented at the Proceedings of the XLII SIS scientific meeting.
Teo Thompson SH, Srivastava Shirish C & Jiang Li, 2008. Trust and electronic government success: An empirical study. Journal of management information systems, 25(3), 99-132.
22
Thanh Tran Thi Cam & Yen Tran Thi, 2018a. Factors Have Affected The Application Of The New Accounting System: The Case Of The Public Service And Administration Units In Binh Dinh Province – Vietnam. Paper presented at the The 4th International Conference on Accounting and Finance - ICOAF 2018, Danang City, Vietnam.
Thanh Tran Thi Cam & Yen Tran Thi, 2018b. The Impact of Accounting Staff Capacity, Applied Accounting Basis and Implementation of Internal Control on Financial Statement Quality: The Case of Public Sector in Binh Dinh Province - Vietnam. Paper presented at the The 24th Eurasia Business and Economics Society (EBES) Conference – Bangkok, Thailand.
Thomas Andrew P, 1991. Towards a contingency theory of corporate financial reporting systems. Accounting, Auditing & Accountability Journal, 4(4). Thoms Peg, Dose Jennifer J & Scott Kimberly S, 2002. Relationships between accountability, job satisfaction, and trust. Human resource development quarterly, 13(3), 307-323. Doi:10.1002/hrdq.1033
Administration, 35(13), Tooley Stuart, Hooks Jill & Basnan Norida, 2012. Performance reporting: assessing the annual reports of Malaysian local authorities. International Journal of Public 853-863. Doi:10.1080/01900692.2012.684145
Tran Thi Bich, 2014. The cycle of transparency, accountability, corruption, and administrative performance: evidence from Vietnam. Journal of Economics and Development, 16(3), 32-48. Tummers Lars & Knies Eva, 2013. Leadership and meaningful work in the public sector. Public administration review, 73(6), 859-868.
Tummers Lars & Knies Eva, 2016. Measuring public leadership: Developing scales for four key public leadership roles. Public administration, 94(2), 433-451. Doi:10.1111/padm.12224
Upping Phetphrairin & Oliver Judy, 2011. Accounting change model for the public sector: adapting luder's model for developing countries. International Review of Business Research Papers, 7(1), 364-380. Van de Ven Andrew H & Ferry Diane L, 1980. Measuring and assessing organizations. New York: John Wiley & Sons.
Van der Voet Joris, Kuipers Ben S & Groeneveld Sandra, 2015. Implementing change in public organizations: The relationship between leadership and affective commitment to change in a public sector context. Public Management Review, 18(6), 842-865.
Van der Wal Zeger, De Graaf Gjalt & Lasthuizen Karin, 2008. What’s valued most? Similarities and differences between the organizational values of the public and private sector. Public administration, 86(2), 465-482.
Van Helden Jan & Ouda Hassan, 2016. Public sector accounting in emerging 1-7. perspectives accounting(40), on Critical economies. Doi:10.1016/j.cpa.2016.02.003
23
Verbeeten Frank HM, 2008. Performance management practices in public sector Impact on performance. Accounting, Auditing & organizations: Accountability Journal, 21(3), 427-454. Doi:10.1108/09513570810863996
Organization studies, 36(7), Verbeeten Frank HM & Speklé Roland F, 2015. Management control, results- oriented culture and public sector performance: Empirical evidence on new 953-978. public management. Doi:10.1177/0170840615580014
Wang Xiaohu, 2002. Assessing administrative accountability: Results from a national survey. The American Review of Public Administration, 32(3), 350- 370. Doi:10.1177/0275074002032003005
Wiley James B, 2011. Issues in theory testing using structural equation modeling: Causation and ontological status of models and constructs. Australasian Marketing Journal, 19(3), 151. Doi:10.1016/j.ausmj.2011.04.003
Williams John J, Macintosh Norman B & Moore John C, 1990. Budget-related behavior in public sector organizations: some empirical evidence. Accounting, organizations and society, 15(3), 221-246. Doi:10.1016/0361- 3682(90)90006-G
Wise Victoria, 2010. Theory and accountability: The case of government consolidated financial reporting. International Review of Business Research Papers, 6(5), 82-97. Doi:10536/DRO/DU:30031344
Woods Margaret, 2009. A contingency theory perspective on the risk management control system within Birmingham City Council. Management Accounting Research, 20(1), 69-81.
Wright Bradley E & Pandey Sanjay K, 2009. Transformational leadership in the public sector: Does structure matter? Journal of Public Administration Research and Theory, 20(1), 75-89.
Systems, 103(7), Xu Hongjiang, Horn Nord Jeretta, Daryl Nord G & Lin Binshan, 2003. Key issues of accounting information quality management: Australian case studies. 461-470. Industrial Management & Data Doi:10.1108/02635570310489160
Yen Thi Tran, Le Thi Bao Nhu & Nguyen Thi Phuong Thao, 2019. Measuring the impact of factors on the implementation of financial statements under the new accounting regime at the public service and administration units in Vietnam. Journal of Science and Technology, 37(1), 3-18. Doi:10.46242/jst- iuh.v37i01.313
Management, 7(1), Yen Thi Tran & Nguyen Phong Nguyen, 2020. The impact of the performance measurement system on the organizational performance of the public sector in a transition economy: Is public accountability a missing link? Cogent 1792669. & Business Doi:10.1080/23311975.2020.1792669
Yen Thi Tran, Nguyen Phong Nguyen & Trang Cam Hoang, 2021a. Effects of leadership and accounting capacity on accountability through the quality of
24
financial reporting by public organisations in Vietnam. Journal of Asia Business Studies. Doi:10.1108/JABS-02-2020-0077
Yen Thi Tran, Nguyen Phong Nguyen & Trang Cam Hoang, 2021b. The role of accountability in determining the relationship between financial reporting quality and the performance of public organizations: Evidence from Vietnam. Journal of Accounting and Public Policy, 40(1), 106801. Doi:10.1016/j.jaccpubpol.2020.106801
Zhao Xinshu, Lynch Jr John G & Chen Qimei, 2010. Reconsidering Baron and Kenny: Myths and truths about mediation analysis. Journal of consumer research, 37(2), 197-206. Doi:10.1086/651257
Zimmerman Jerold L, 1977. The municipal accounting maze: An analysis of incentives. Journal of Accounting Research, 15, 107-144.
political Doi:10.2307/2490636
25
Phụ lục 1: Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực công
TT Tác giả Năm Mục tiêu nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu
1 Xu et al. 2003
Bài báo đưa ra một mô hình cho các vấn đề chính tác động đến chất lượng thông tin kế toán: nghiên cứu ở Úc. Phương pháp định dụng tính. Sử tình nghiên cứu huống.
3 2013 Korutaro Nkundaban yanga et al. Phương pháp định lượng, sử dụng phần mềm SPSS. Kết quả chỉ ra các yếu tố thuộc về con người, hệ thống, yếu tố tổ chức và các yếu tố môi trường bên ngoài khác có tác động cùng chiều đến chất lượng thông tin kế toán. Kết quả cho thấy CMKT và khung pháp lý có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC của Bộ Nước và Môi trường ở Uganda.
4 2013 Nuryanto & Afiah Phương pháp định lượng
Năng lực bộ máy, việc dùng công nghệ thông tin và KSNB có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC ở các chính quyền địa phương tỉnh Jakarta, Indonesia.
5 Setiyawati 2013
Phương pháp định lượng, kiểm định mô hình hồi quy, dùng phần mềm SPSS 17. (1) Cam kết của các nhà quản lý nội bộ đối với các tổ chức và việc thực hiện KSNB có tác động đến chất lượng BCTC; (2) Năng lực của kế toán nội bộ có tác động đến chất lượng BCTC; (3) Cam kết của các nhà quản lý đối với các tổ
Kiểm tra mối liên hệ giữa các CMKT, khung pháp lý và chất lượng BCTC của Bộ Nước và Môi trường ở Uganda. Tìm hiểu tác động của năng lực bộ máy, việc sử dụng công nghệ thông tin và KSNB đối với chất lượng BCTC trong các đơn vị thuộc Chính quyền tỉnh Jakarta, Indonesia. Nghiên cứu nhằm kiểm tra ảnh hưởng đồng thời và lần lượt của năng lực kế toán nội bộ, cam kết của người quản lý đối với các tổ chức và việc thực hiện hệ thống KSNB đối với chất lượng BCTC của các chính quyền địa phương
26
tại Indonesia.
chức không ảnh hưởng đến chất lượng BCTC; (4) Việc thực hiện KSNB không ảnh hưởng đến chất lượng BCTC.
6 2014 Azmi & Mohamed
Bàn luận về sự sẵn sàng của nhân viên tại Bộ Giáo dục (MOE) Malaysia khi thực hiện kế toán dồn tích và các mối quan tâm chính cùng với những thách thức trong việc chuyển sang kế toán dồn tích. Phương pháp định tính, chọn mẫu thuận tiện, khảo sát nhân viên kế toán làm việc tại Bộ Giáo dục Malaysia. Nhân viên kế toán đã sẵn sàng cho việc thực hiện kế toán dồn tích. Mối quan tâm chính là năng lực gồm kỹ năng và kiến thức, quá trình đào tạo, các nhà quản lý hàng đầu, cách tiếp cận lộ trình, tư vấn bên ngoài và khung thời gian thực hiện.
liệu
7 Ijeoma 2014 Muốn cải thiện độ tin cậy, uy tín và tính toàn vẹn của các BCTC thì Nigeria cần vận dụng IPSAS. Xem xét tác động của IPSAS đối với độ tin cậy, uy tín và tính toàn vẹn của BCTC nhằm thực hiệc toán công ở chuẩn mực kế Nigeria. Phương pháp thu thập dữ là khảo sát và dùng công cụ thống kê là Chi-square và Kruskal Wallis.
8 2014 Afiah and Rahmatika Phương pháp định lượng, phân tích mô hình SEM dùng PLS. Năng lực bộ máy và KSNB có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC. Và chất lượng của BCTC có tác động tích cực đến quản trị chính phủ tốt. Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của năng lực bộ máy và kiểm soát nội bộ đối với chất lượng BCTC và các hệ lụy của nó đối với quản trị nhà nước tốt tại Indonesia.
27
9 Suwanda 2015
pháp Phương nghiên cứu định lượng, phân tích dùng quy, hồi phần mềm SPSS 17. Kết quả cho thấy việc thực hiện SAP, chất lượng nguồn nhân sự, việc thực hiện KSNB, cam kết tổ chức và sử dụng công nghệ thông tin có tác động đến chất lượng BCTC của các chính quyền địa phương tại Indonesia.
Kiểm tra xem việc thực hiện các chuẩn mực kế toán chính phủ (SAP), chất lượng nguồn nhân lực, việc thực hiện KSNB, cam kết tổ chức và việc sử dụng công nghệ thông tin có ảnh hưởng đối với chất lượng BCTC của các chính quyền địa phương tại Indonesia hay không.
10 Sagara 2015 Phương pháp định lượng, phân tích hồi quy. Hệ thống thông tin kế toán thực hiện có tác động đến chất lượng BCTC nhưng năng lực của nguồn nhân lực không tác động đến chất lượng BCTC. Kiểm tra tác động của việc thực hiện hệ thống thông tin kế toán và năng lực của nguồn nhân lực đối với chất lượng BCTC tại các đơn vị công ở Indonesia.
11 2015 Afiah & Azwari
Phương pháp định lượng. Nghiên cứu dùng dữ liệu sơ cấp và phân tích đường dẫn. Kết quả cho thấy: (1) Thực hiện KSNB có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC; (2) Chất lượng BCTC và KSNB ảnh hưởng cùng chiều đến quản trị chính phủ tốt. Nghiên cứu này nhằm kiểm tra sự ảnh hưởng của việc thực hiện hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chất lượng BCTC và ảnh hưởng của nó đối với quản trị tốt của khu vực công ở Indonesia.
12 2016 Rahman & Fachri Phương pháp định tính. Kết luận rằng việc sử dụng hệ thống thông tin kế toán có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng BCTC của chính quyền địa phương ở Indonesia. Nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích tác động của việc dùng hệ thống thông tin kế toán đối với chất lượng các BCTC của chính quyền địa phương ở Indonesia.
28
et 13 2016 Simon al. Phương pháp định lượng. Kiểm định mô hình SEM. Điều tra và kiểm tra ảnh hưởng của năng lực bộ máy, hệ thống KSNB đối với quản trị tốt và chất lượng thông tin về BCTC của các tổ chức công ở Indonesia. 1/ Năng lực bộ máy và KSNB có tác động cùng chiều đối với quản trị tốt. 2/ Năng lực bộ máy có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC 3/ KSNB và quản trị tốt có ảnh hưởng tiêu cực đối với chất lượng thông tin BCTC.
14 2016 Agung & Winarning sih Phương pháp định lượng, kiểm định mô hình SEM. Kiểm toán viên và năng lực của các cơ quan Chính phủ địa phương tác động cùng chiều đối với chất lượng BCTC. Đo lường và chứng minh ảnh hưởng của kiểm toán viên và năng lực của cơ quan địa phương ở Indonesia đối với chất lượng BCTC.
15 Abang’a 2017
Chất lượng BCTC được cải thiện sau khi áp dụng IPSAS. Quy mô, tuổi, tính thanh khoản có ý nghĩa thống kê. Đánh giá chất lượng BCTC trước và sau khi áp IPSAS. Và kiểm tra các nhân tố có tác động đến chất lượng BCTC của các cơ quan chính phủ ở Kenya. Dữ liệu được phân tích bằng T-Test, dùng thống kê mô tả và kiểm định hồi từng quy bước.
16 2017 Cohen & Karatzimas
Phương pháp hỗn hợp: định tính và lượng như định thử nghiệm phân tích phương sai chiều một (ANOVA). Việc thay đổi cơ sở kế toán làm tăng cường chất lượng BCTC và tăng cường tính hữu ích thông tin kế toán khi ra quyết định và đánh giá trách nhiệm giải trình. Các nhóm người dùng khác nhau đưa ra những đánh giá khác nhau về chất lượng BCTC cũng như tính hữu ích của BCTC. Sự thay đổi của cơ sở kế toán có làm lượng tăng cường chất BCTC và dẫn đến việc cung cấp thông tin kế toán hữu ích? Các nhóm người dùng khác nhau có nhận thức khác nhau về các đặc tính định tính và tính hữu ích của thông tin khi ra quyết định được cung cấp bởi báo cáo tài chính của chính phủ Hy Lạp không?
29
17 2017 Slamet & Fitriyah
Phương pháp định lượng, thu thập dữ liệu sơ cấp bằng bảng hỏi, xử lý mô hình SEM bằng SmartPLS 2.0 Năng lực nguồn nhân lực và KSNB có ảnh hưởng nhưng việc sử dụng công nghệ thông tin và cam kết tổ chức không ảnh hưởng đến việc trình bày báo cáo tài sản người dùng. Việc trình bày báo cáo tài sản người dùng có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Xác định ảnh hưởng của năng lực nguồn nhân lực, việc sử dụng công nghệ thông tin, kiểm soát nội bộ của chính phủ và cam kết của tổ chức đối với việc trình bày báo cáo tài sản người dùng và ảnh hưởng của việc trình bày báo cáo tài sản người dùng đến chất lượng BCTC.
18 2017
Suliyantini & Kusmuriya nto Phương pháp định lượng. Kiểm định mô hình SEM SmartPLS bằng 3.0 Thu thập bằng chứng về tác động của năng lực nguồn nhân lực và việc thực hiện các chuẩn mực kế toán chính phủ ở Indonesia dựa trên cơ sở dồn tích (GAS) đối với chất lượng BCTC, xem KSNB như một biến trung gian.
(1) Việc thực hiện GAS và KSNB có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC; (2) Năng lực nguồn nhân lực không có tác động đến chất lượng BCTC; (3) Năng lực nguồn nhân lực và việc thực hiện GAS có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC; (4) KSNB đóng vai trò trung gian cho mối quan hệ giữa năng lực nguồn nhân lực và việc thực hiện GAS đối với chất lượng BCTC.
19 2018 Putra & Rasmini Phương pháp định lượng. Dữ liệu sơ cấp. Kiểm định mô hình hồi quy. Kết quả cho thấy chỉ có văn hóa tổ chức đóng vai trò điều tiết cho 2 mối quan hệ: (1) năng lực nguồn nhân lực và chất lượng BCTC và (2) hệ thống kiểm soát nội bộ và chất lượng BCTC.
Thu thập bằng chứng về ảnh hưởng năng lực nguồn nhân lực và KSNB đối với chất lượng của BCTC chính quyền địa phương (LKPD) ở Indonesia; Đồng thời xem xét phong cách lãnh đạo và yếu tố văn hóa tổ chức như là các biến số điều tiết.
30
20 Gamayuni 2018
Phương pháp định lượng, thu thập dữ liệu qua khảo sát, phân tích PLS- SEM Hiệu quả kiểm toán nội bộ tác động đến chất lượng BCTC nhưng thực hiện các CMKT chính phủ dựa trên dồn tích thì không ảnh hưởng vì còn nhiều nhân viên không hiểu về nó. Thu thập bằng chứng về tác động của hiệu quả kiểm toán nội bộ và việc thực hiện các CMKT chính phủ dựa trên dồn tích (SAP) ở Indonesia đối với chất lượng BCTC.
21 2018 Mardinan et al. Phương pháp định lượng, phân tích hồi quy. Năng lực nhân sự, phong cách lãnh đạo, việc sử dụng công nghệ thông tin và KSNB có ảnh hưởng cùng chiều và đáng kể đến chất lượng BCTC.
Nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn nhân lực, phong cách lãnh đạo, sử dụng công nghệ thông tin và KSNB đối với chất lượng BCTC trong các đơn vị công ở Tổng cục Xây dựng, Bộ Công trình và Nhà công vụ tại Indonesia.
22 Mir et al. 2018
Đánh giá việc thực hiện hệ thống báo cáo kép theo chế độ kế toán mới trong các chính quyền địa phương ở Indonesia. Phương pháp định lượng dùng kỹ thuật thống kê mô tả
Việc triển khai hệ thống báo cáo kép giúp chính quyền địa phương đưa ra các báo cáo chứa nhiều thông tin và minh bạch hơn. Tuy nhiên, nội dung dựa trên dồn tích của các báo cáo kép do hệ thống báo cáo mới tạo ra không được sử dụng để ra quyết định.
23 2019 Ramos & Klann Phương pháp định lượng, sử dụng dữ liệu thứ cấp. Đánh giá mối quan hệ giữa chất lượng trong thông tin kế toán và đặc điểm tổ chức của các thực thể khu vực thứ ba ở Brazil. Các đặc điểm tổ chức về quy mô, thời gian thành lập và trình độ có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng thông tin kế toán của các tổ chức thuộc khu vực thứ ba ở Brazil.
31
Phụ lục 2: Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực công
TT Tác giả Năm Mục tiêu nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu
1 Patton 1992 Phương pháp nghiên cứu định tính. Phân tích rõ thuật ngữ trách nhiệm giải trình, xem xét vai trò BCTC chính phủ trong mối quan hệ với trách nhiệm giải trình.
2 Steccolini 2004 Phương pháp định tính, phân tích thực nghiệm.
Mục đích bài báo là để hiểu rõ hơn về vai trò thực tế của báo cáo thường niên của chính quyền địa phương như là một phương tiện để chứng minh trách nhiệm giải trình cho người dùng tiềm năng.
& 3 2006 Mack Ryan Phản ánh nền tảng lý thuyết của các BCTC mục đích chung tại các cơ quan chính phủ Úc. Phương pháp khảo sát để tiếp cận người dùng của các BCTC mục đích chung tại Úc. Kết quả nhấn mạnh rằng BCTC chính phủ cung cấp nguồn thông tin mà hữu ích đối với người dùng khi đánh giá trách nhiệm giải trình hơn là ra quyết định. Kết quả cho thấy rằng các báo cáo hàng năm dường như được sử dụng để thực hiện trách nhiệm giải trình đối với người sử dụng nội bộ, ngay cả khi không rõ liệu chúng có thực sự được đọc hay không. Còn đối với người sử dụng bên ngoài, nó không có ý nghĩa. BCTC mục đích chung được sử dụng bởi người dùng để đánh giá trách nhiệm giải trình tài chính và trách nhiệm giải trình công hơn là đưa ra quyết định.
32
4 Kim 2009 Phương pháp phân tích.
trách nhiệm giải trình là không phải là một khái niệm cố định. Các tùy chọn chính sách quy định để tăng cường trách nhiệm giải trình công ở các nước đang phát triển cần khác với các nước phát triển vì năng lực và tình huống khác nhau. Xem xét khái niệm trách nhiệm giải trình và sự phát triển của nó, tiếp theo là thảo luận về các hạn chế trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình công và cải cách khu vực công, các biện pháp chính để nâng cao trách nhiệm giải trình công và ý nghĩa của nó.
5 Bakar et al. 2011 Phương pháp nghiên cứu định tính. Bài viết này thảo luận về các khả năng và thách thức đối với Malaysia để đáp ứng các thực hành trách nhiệm giải trình.
6 2011 Blanco et al. Phương pháp định lượng, dữ liệu thứ cấp năm 2003 và 2005. So sánh chất lượng báo cáo hàng năm của các chính quyền địa phương ở Canada và giá trị của nó cho mục đích trách nhiệm giải trình đối với công chúng.
et 7 2012 Tooley al. Đánh giá mức độ và chất lượng báo cáo kết quả hiện tại của chính quyền địa phương ở Malaysia. Phương pháp nghiên cứu định lượng, dùng dữ liệu thứ cấp. Malaysia cần tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình của khu vực công thông qua áp dụng các hệ thống đo lường thành quả phù hợp và công khai thông tin kết quả. Có sự khác biệt đáng kể về chất lượng và số lượng thông tin được công bố trong báo cáo thường niên và trong BCTC của các chính quyền địa phương Canada năm 2003 với so sánh năm 2005. Chất lượng báo cáo kết quả của các chính quyền địa phương tại Malaysia cần phải được cải thiện để cung cấp đủ trách nhiệm giải trình công với cac bên liên quan.
33
8 2013 Babatunde & Shakirat Xem xét ảnh hưởng của tính hiệu quả của KSNB đối với trách nhiệm giải trình tài chính ở Nigeria. Phương pháp định lượng, khảo sát dữ liệu sơ cấp thông qua bảng hỏi. Tính hiệu quả của hoạt động KSNB có ảnh hưởng cùng chiều đáng kể đối với trách nhiệm giải trình tài chính của khu vực công.
9 2014 Indriasih and Koeswayo
pháp Phương nghiên cứu định lượng, phân tích mô hình cấu trúc SEM. Năng lực bộ máy chính phủ; hiệu quả của KSNB của chính phủ có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Chất lượng BCTC đóng góp cùng chiều 68,1% trách nhiệm giải trình kết quả.
phương địa
tổng 10 Aziz et al. 2015 Nghiên cứu quan tài liệu. Kết quả cho thấy có sự kết nối của trách nhiệm giải trình với hệ thống toàn vẹn, hệ thống KSNB và hành vi lãnh đạo trong các đơn vị công. Nghiên cứu này nhằm giải thích làm thế nào năng lực bộ máy chính phủ và hiệu quả KSNB của chính quyền địa phương tác động đến chất lượng BCTC và ảnh hưởng của nó đối đối với trách nhiệm giải thành quả của chính trình quyền ở Indonesia. Tăng cường trách nhiệm giải trình của khu vực công thông qua hệ thống toàn vẹn, hệ thống KSNB và hành vi lãnh đạo trong khu vực công: Nghiên cứu đánh giá.
11 2015 Aramide & Bashir Phương pháp nghiên cứu định lượng. Xem xét mối quan hệ giữa KSNB và trách nhiệm giải trình tài chính ở cấp chính quyền địa phương tại Nigeria. Kết quả cho thấy hệ thống KSNB có ý nghĩa cùng chiều đối với trách nhiệm giải trình tài chính tốt ở các chính quyền địa phương ở Nigeria.
34
12 Said et al. 2015 Phương pháp định lượng, thu thập dữ liệu sơ cấp. Nghiên cứu này đánh giá tình trạng thực hành trách nhiệm giải trình của khu vực công tại Malaysia. trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực hành chính và ngoại giao, giáo dục, y tế và dịch vụ chăm sóc sức khỏe thấp hơn mức trung bình chung.
thể 13 Kewo 2017
Việc thực hiện KSNB và thành quả quản lý có ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình tài chính tại các chính quyền địa phương ở Indonesia. Kiểm tra xem trách nhiệm giải trình tài chính có bị ảnh hưởng bởi KSNB và kết quả quản lý của chính quyền địa phương ở Indonesia hay không. Phương pháp định lượng, cụ là kiểm định mô hình SEM bằng phương pháp PLS.
& 14 2017 Ferry Murphy Phương pháp phân tích.
Bình luận tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương liên quan đến trách nhiệm giải trình, minh bạch và các đảm bảo công bằng ở Anh.
15 2018 Ramírez & Tejada
Xem xét nhận thức của các bên liên quan của trường đại học Tây Ban Nha đối với việc tiết lộ thông tin về cấu trúc và cơ chế quản trị hợp tác. Phương pháp tình nghiên cứu thực nghiệm, sử dụng thống kê mô tả. Đưa ra năm chủ đề liên quan đến trách nhiệm giải trình và các cuộc dàn xếp tính minh bạch ở Anh. Tác giả cho rằng trách nhiệm giải trình chuyên nghiệp tốn tiền và thời gian nên Anh có thể chọn cách thúc đẩy tính minh bạch như người thay thế. Các bên liên quan của trường đại học Tây Ban Nha rất coi trọng việc tiết lộ thông tin cụ thể về các khía cạnh của quản trị hợp tác, điều này sẽ giúp cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.
16 2018 Sulu- Gambari et al. Nigeria vẫn còn một khoảng cách dài để đi theo quan niệm quốc tế về trách nhiệm giải trình công Phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu tình huống. Xem xét thực hành trách nhiệm giải trình công trong một nền kinh tế mới nổi không phụ thuộc vào tài nguyên như Nigeria.
35
trạng
17 Alam et al. 2018
Thống kê mô tả, tiếp đó là phân tích hồi quy thứ tự và mô hình SEM. Đánh giá trách thực nhiệm giải trình và mối quan hệ của nó với thực tiễn của hệ thống liêm chính, hệ thống KSNB và thực hành lãnh đạo trong khu vực công Malaysia. Các hực hành của hệ thống liêm chính và chất lượng lãnh đạo có mối quan hệ cùng chiều đối với các thực hành trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, các thực hành KSNB không ảnh hưởng đến các thực hành trách nhiệm giải trình.
18 2019 Nakmahach alasint & Narktabtee
Đánh giá kết quả của việc thực hiện kế toán dồn tích tại chính quyền trung ương Thái Lan. rào cản Nguyên cứu các chuyển đổi và các tác động của nó. Phương pháp định lượng. Khảo sát 218 cơ quan cấp trung ương, phân tích mô hình SEM bằng phần mềm LISREL.
19 2019 Keerasunto npong et al. Phương pháp định lượng, dùng dữ liệu thứ cấp. Nghiên cứu tìm hiểu lý do vì sao Chính phủ Thái Lan thực hiện kém trách nhiệm giải trình công.
20 Dewi et al. 2019
Phương pháp định lượng, dùng dữ liệu sơ cấp, sau đó tiến hành kiểm định mô hình SEM. Nghiên cứu ảnh hưởng của KSNB và năng lực nguồn nhân lực đối với chất lượng BCTC và trách nhiệm giải trình tài chính của các chính quyền địa phương ở Indonesia. Các rào cản khi chuyển đổi có ảnh hưởng tiêu cực đối với việc thực hiện kế toán dồn tích, minh bạch tài chính và trách nhiệm giải trình. Việc thực hiện kế toán dồn tích có ảnh hưởng cùng chiều đối với minh bạch tài chính và trách nhiệm giải trình. Và minh bạch tài chính có ảnh hưởng cùng chiều đối với trách nhiệm giải trình. Độ tin cậy và tính kịp thời của công bố báo cáo hàng năm là vấn đề ảnh hưởng nhất, tiếp theo là khả năng tiếp cận và tính thích hợp. Các quy định về trừng phạt còn nhẹ đối với sự không tuân thủ của các công chức chính phủ. KSNB và năng lực nhân lực ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình tài chính trực tiếp và gián tiếp qua trung gian chất lượng BCTC. Chất lượng BCTC ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm giải trình tài chính.
36
Phụ lục 3: Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực công
TT Tác giả Năm Mục tiêu nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu
& 1 2000 Aucoin Heintzman Tiếp cận lý thuyết, phương pháp bình luận. Xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động trong cải cách quản lý công.
2 Reck 2001 pháp Phương nghiên cứu định lượng. Kiểm tra vai trò của thông tin tài chính và thông tin phi tài chính đối với việc ra quyết định phân phối nguồn lực. Cải thiện trách nhiệm giải trình chưa chắc dẫn đến gia tăng về thành quả hoạt động, nhưng chiều ngược lại thì có thể đúng. Kết quả cho thấy thông tin phi tài chính không liên quan đáng kể đến các quyết định phân bổ nguồn lực nhưng thông tin tài chính thì có ảnh hưởng mạnh đến việc ra quyết định.
3 Dubnick 2005 Cách tiếp cận lý thuyết.
Nghiên cứu xác định cơ sở cho mối quan hệ giả định giữa trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động của các tổ chức công.
4 Cohen 2008 Xem xét các nhân tố điều tiết cho thành quả tài chính của các thành phố ở Hy Lạp. Phương pháp định lượng, dùng dữ liệu thứ cấp. Mối quan hệ giữa trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động là nghịch lý và giả mạo hoặc quá phụ thuộc để đưa ra các câu hỏi về cải cách hành chính dựa trên nó. Thành quả tài chính bị ảnh hưởng đáng kể bởi các yếu tố thuộc kinh tế xã hội như sự giàu có và quy mô của thành phố ở Hy Lạp.
37
5 Verbeeten 2008
Điều tra xem các thực hành quản lý kết quả có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động trong các tổ chức công tại Hà Lan hay không. Phương pháp định lượng, khảo sát 93 tổ chức công ở Hà Lan, sử dụng kỹ thuật PLS.
Nghiên cứu cho thấy định nghĩa về các mục tiêu rõ ràng và đo lường được liên quan cùng chiều với thành quả hoạt động. Việc sử dụng các ưu đãi có liên quan cùng chiều với thành quả định lượng nhưng không liên quan đến thành quả định tính. Cuối cùng, ảnh hưởng của thực hành quản lý kết quả trong các tổ chức công bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thể chế.
6 Simangunsong 2014
Đánh giá tác động của hiệu quả KSNB và vai trò kiểm toán nội bộ đến thành quả hoạt động trong các chính quyền địa phương ở Indonesia. Hiệu quả KSNB và vai trò kiểm toán nội bộ có ảnh hưởng cùng chiều đến thành quả hoạt động của chính quyền địa phương một cách đồng thời và một phần.
& 7 2014 Spekle Verbeeten Việc sử dụng hệ thống đo lường thành quả (PMS) có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt động của các tổ chức công ở Hà Lan. Xem xét các tác động của việc sử dụng hệ thống đo lường thành quả đến thành quả hoạt động của khu vực công ở Hà Lan. Phương pháp phân tích dữ liệu để kiểm tra giả thuyết là phân tích hồi quy bằng phần mềm SPSS. Khảo sát từ 101 tổ công. chức pháp Phương nghiên cứu định lượng.
8 2014 Christensen & Lægreid
Nghiên cứu tài liệu và đánh giá thực nghiệm, sử dụng dữ liệu thứ cấp để phân tích. Xem xét ảnh hưởng của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động trong các tổ chức công với trọng tâm đặc biệt về cải cách quản trị theo lý thuyết NPM. Khái niệm trách nhiệm giải trình là đa chiều, tồn tại mối quan hệ lẫn nhau giữa trách nhiệm giải trình, cải cách hành chính và thành quả. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa trách nhiệm giải trình và thành quả vẫn còn nhiều tranh cãi tại Na Uy và cần thêm bằng chứng.
38
9 Bukenya 2014
Có mối quan hệ cùng chiều có ý nghĩa với khoảng 58% mức độ thành quả tài chính do chất lượng thông tin tài chính ảnh hưởng. Nghiên cứu nhằm thiết lập mối quan hệ giữa chất lượng thông tin kế toán và thành quả tài chính của khu vực công ở Uganda. Phương pháp định lượng. Lấy mẫu tầng ngẫu phân nhiên, dùng dữ liệu sơ cấp. Dùng SPSS kiểm định giả thuyết.
10 2015 Verbeeten & Speklé Kiểm tra tính hợp lệ của những ý tưởng theo lý thuyết NPM của OECD về mặt lý thuyết và thực nghiệm. Phương pháp định tích lượng, phân SEM bằng phương pháp PLS.
11 Andersen et al. 2016 Làm rõ và khái niệm hóa cho thành quả hoạt động trong khu vực công. Tổng quan các nghiên cứu, phân tích và tổng hợp.
& 12 2016 Ranjani Ambe
Tìm hiểu ảnh hưởng của sự tham gia cải cách và quy trình hành chính đến thành quả hoạt động của chính phủ ở Nigeria. Bên cạnh đó, các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia cũng được xem xét. Nghiên cứu định lượng gồm kiểm tra độ tin cậy, tiếp đó tích là phân EFA và kiểm tra tương quan mối Pearson.
13 2016 Ahyaruddin & Akbar Phương pháp hỗn lượng hợp: định trước định tính sau. Phương pháp Văn hóa hướng đến kết quả có liên quan cùng chiều đến thành quả hoạt động nhưng tìm thấy rất ít sự hỗ trợ cho các lợi ích giả định của hợp đồng kết quả loại NPM. Bài viết này định nghĩa và thảo luận về sáu sự phân biệt trung tâm cần thiết để xây dựng một không gian khái niệm về thành quả hoạt động. Sự tham gia của các cán bộ kế toán tài chính vào quá trình cải cách trong khu vực công ảnh hưởng cùng chiều đến thành quả hoạt động của chính phủ. Và để tăng cường sự tham gia cải cách thì cần chú ý đến cam kết tổ chức, giảm thiểu sự mơ hồ về vai trò của nhân viên. Cam kết quản lý có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt động. Các quy định pháp lý có tác động cùng chiều đến
Bài báo nghiên cứu mối quan hệ giữa việc sử dụng hệ thống đo lường thành quả, các nhân tố tổ chức, trách nhiệm giải
39
trình và thành quả hoạt động của các tổ chức công ở Indonesia.
định sử lượng dụng phân tích mô hình SEM bằng phần mềm SmartPLS 3.0 trách nhiệm giải trình. Việc sử dụng hệ thống đo lường thành quả không có tác động đến thành quả hoạt động. Và trách nhiệm giải trình cũng không có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động.
& 14 2016 Brusca Montesinos Phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp. Nghiên cứu các vấn đề chính trong việc thực hiện báo cáo kết quả của chính quyền địa phương ở 17 quốc gia. Ở nhiều quốc gia, báo cáo kết quả đã được chính quyền trung ương và khu vực giới thiệu như một cơ chế kiểm soát các hoạt động của chính quyền địa phương để tăng cường thành quả.
15 Gomes et al. 2017
Khám phá tác động của các hệ thống đo lường kết quả (PMS) đến thành quả hoạt động và điều tra các tác động điều tiết của nhân tố thuộc bối cảnh tổ chức trong các cơ quan nhà nước ở Bồ Đầu Nha. Phương pháp định lượng: thống kê mô tả mẫu, kiểm định độ tin cậy, sau đó phân tích EFA và dùng kiểm định hồi quy.
16 Soyinka et al. 2017
Nghiên cứu xem xét cách mà chất lượng của BCTC hỗ trợ người sử dụng thông tin kế toán (công chúng) tại Nigeria để đưa ra quyết định sáng suốt. Phương pháp định lượng, dùng dữ liệu sơ cấp qua khảo sát, áp dụng phương pháp hồi quy OLS. Mức độ mà các cơ quan sử dụng PMS có liên quan cùng chiều đến thành quả hoạt động. Ngoài ra, thành quả hoạt động phụ thuộc vào sự phù hợp giữa PMS và bối cảnh của cơ quan (đặc biệt là yếu tố liên quan đến định hướng về công dân và mức độ cạnh tranh). Kết quả cho thấy tính thích hợp và trình bày trung thực có ảnh hưởng cùng chiều đối với việc ra quyết định của công chúng, nhưng độ tin cậy, có thể hiểu được, khả năng so sánh, tính kịp thời và tính xác minh của BCTC thì không ảnh hưởng đáng kể.
40
& 17 2018 Caruana Farrugia
Xem xét việc sử dụng và không sử dụng BCTC của chính phủ bởi các thành viên quốc hội của Malta. Kết hợp các công cụ nghiên cứu định tính (phỏng vấn) và lượng định (bảng câu hỏi) Các đặc điểm của thông tin có thể là nguyên nhân chính của quá tải thông tin, dẫn đến việc các chính trị gia ở Malta không sử dụng BCTC để ra quyết định.
18 2018 Goeminne & George Phương pháp định lượng. Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến thành quả tài chính trong các tổ chức công tại Flemish. Tác động của các yếu tố bối cảnh tổ chức là thực sự cùng chiều, trong khi đó các yếu tố bối cảnh môi trường thực sự là tiêu cực.
19 2018 Navimipour et al. Kiểm tra các nhân tố có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các tổ chức trong khu vực công ở Iran. Yếu tố công nghệ thông tin, văn hóa tổ chức cũng như sự hài lòng từ nhân viên có tác động nhiều đến thành quả hoạt động của các tổ chức ở Iran. Phương pháp định lượng, thống kê mô tả dùng SPSS 22, phân tích mô hình SEM dùng SmartPLS 2.
lượng
& 20 2018 Nirwana Haliah
Phương pháp định lượng. Sử dụng phân tích phương trình SEM, dùng SmartPLS để phân tích tác động trực tiếp và gián tiếp. lượng chất Kiểm tra lại các nhân tố quyết định đến chất lượng BCTC và thành quả hoạt động của các chính quyền địa phương ở Indonesia bằng cách thêm các yếu tố theo ngữ cảnh, như yếu tố cá nhân, yếu tố hành chính và yếu tố chính trị.
(1) Năng lực các nhân tố cá nhân, quy định các nhân tố quản trị, các nhân tố chính trị ảnh hưởng cùng chiều đến chất BCTC. (2) Năng lực các nhân tố cá nhân, quy định các nhân tố quản trị, các nhân tố chính trị đều không ảnh hưởng trực tiếp đến thành quả, nhưng gián tiếp thông BCTC. qua (3) Chất lượng BCTC ảnh hưởng cùng chiều đến thành quả hoạt động.
41
21 Nitzl et al. 2018
Phương pháp định lượng. Tập dữ liệu tích được phân bằng phân tích PLS phần với mềm SmartPLS 3
Xem xét mối quan hệ giữa việc sử dụng hệ thống đo lường thành quả và thành quả hoạt động trong các đơn vị công ở Ý có bị ảnh hưởng bởi các loại sử dụng thông tin kết quả và có bị điều tiết định hướng văn hóa quản lý công mới hay không.
22 Halim 2019 bằng
Tìm hiểu ảnh hưởng của trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Indonesia.
Phương pháp định lượng, cụ thể là kiểm định mô hình SEM kỹ thuật PLS, sử dụng mềm phần WarpPLS 3.0. Việc sử dụng các đo lường thành quả theo dõi và tập trung chú ý có tác động trực tiếp đến thành quả hoạt động, trong khi việc sử dụng quyết định chiến lược và hợp pháp hóa không liên quan trực tiếp đến thành quả. Ngoài ra, định hướng NPM điều tiết cùng chiều đến ảnh hưởng của việc sử dụng giám sát của thông tin kết quả đến thành quả; đồng thời nó điều tiết ngược chiều đến ảnh hưởng của việc sử dụng hợp pháp hóa đến thành quả hoạt động. Kết quả chỉ ra rằng trách nhiệm giải trình tài chính, trách nhiệm giải trình kết quả và trách nhiệm giải trình pháp lý có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt động. Còn trách nhiệm giải trình phân cấp và trách nhiệm giải trình chuyên môn không có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của đơn vị công.
23 Han 2019
Nghiên cứu ảnh hưởng của trách nhiệm giải trình thể chế đối với thành quả hoạt động trong các đơn vị công ở Hoa Kỳ. Kết quả cho thấy trách nhiệm giải trình thể chế theo ba cơ chế (cung cấp thông tin, đánh giá và hậu quả) có ảnh hưởng cùng chiều đối với thành quả hoạt động trong các đơn vị công ở Hoa Kỳ.
Phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng dữ liệu thứ cấp, sau đó phân tích thống kê và kiểm định mô hình hồi quy.
42
Phụ lục 4: Tổng kết các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến chất lượng BCTC trong khu vực công
TT Tác giả Năm Vấn đề nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu
Văn 1 2014 pháp tài cứu Trần Thảo Bàn về bản chất KVC và kế toán trong KVC. Phương nghiên liệu.
Tác giả định rõ thuật ngữ khu vực công, bản chất khu vực công; sau đó đưa ra một cái nhìn tổng quan về đặc điểm kế toán khu vực công; tổng hợp tình hình nghiên cứu về kế toán khu vực công của các quốc gia phát triển; nêu ra những yêu cầu nội tại và khoảng cách trong nghiên cứu kế toán công ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp lấp đầy khoảng cách nghiên cứu được đưa ra.
2 2014 Phạm Quang Huy Hoàn thiện hệ thống kế toán thu, chi Ngân sách Nhà nước tại Việt Nam. Trình bày thực trạng kế toán thu, chi ngân sách tại Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất được hệ thống các giải pháp chung, giải pháp cụ thể và các kiến nghị trong việc hoàn thiện hệ thống kế toán thu chi ngân sách tại Việt Nam. Phương pháp khảo sát, thống kê mô tả, kiểm định chi bình phương và kiểm định Binary Logistic.
3 2015 Nguyễn Thị Thu Hiền Hoàn thiện BCTC khu vực công Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
Tác giả tập trung nghiên cứu nội dung thông tin trên BCTC mục đích chung của khu vực công tại Việt Nam. Kết quả cho thấy khu vực công Việt Nam hiện nay tồn tại song song quá nhiều chế độ kế toán. Chính vì vậy, BCTC của khu vực công hiện nay cũng không thống nhất, chưa hướng đến người sử dụng là công chúng
43
4 2016 Cao Thị Cẩm Vân Phương pháp định tính và Phương pháp nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng chuẩn mực kế toán công Việt Nam trong điều kiện vận dụng IPSAS.
5 Diệp Tiên 2016 pháp Phương nghiên cứu định tính và định lượng. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của đơn vị sự nghiệp công lập – Nghiên cứu trên địa bàn TP. HCM và chưa cung cấp các thông tin giải trình của đơn vị. Từ đó, đề xuất giải pháp để việc cải cách, đổi mới kế toán khu vực công Việt Nam. Kết quả cho thấy 6 nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến việc xây dựng chuẩn mực kế toán công: Hệ thống pháp lý; Hệ thống chính trị, văn hóa và môi trường hoạt động; Kỹ thuật nghiệp vụ; Điều kiện tổ chức; Áp lực từ hội nhập kinh tế và tác động của IPSAS. Từ đó đề xuất các giải pháp xây dựng CMKT công. Môi trường pháp lý, phần mềm kế toán HCSN, chế độ đào tạo – đãi ngộ và trình độ công nghệ thông tin là các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán BCTC tại các trường học, đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập trong khu vực TP. HCM.
6 2016 Trát Minh Toàn Phương pháp nghiên cứu định lượng. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán tại các Trường học công lập trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán gồm có cở sở kế toán áp dụng, nhận thức của người quản lý, cơ chế tài chính và khả năng của kế toán viên.
tài 7 2017 Phạm Quang Huy Nghiên cứu liệu.
Giới thiệu khuôn mẫu lý thuyết về báo cáo tài chính khu vực công 2016 – Cơ sở cho việc nâng cao chất lượng thông tin tài chính Tác giả giới thiệu về khuôn mẫu lý thuyết cùng với những tính chất về đặc điểm chất lượng mà BCTC của đơn vị công phải hướng đến để nâng cao chất lượng thông tin cho người dùng.
44
Thị 8 2017 Phạm Kim Ánh Phương pháp định tính và định lượng
Kết quả chỉ ra 5 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán là: (1) môi trường pháp lý, (2) môi trường chính trị, (3) môi trường kinh tế, (4) môi trường giáo dục, (5) môi trường văn hóa.
Basis
9 2018 Thanh Tran Thi Cam & Yen Tran Thi Phương pháp hỗn hợp gồm nghiên cứu định tính và định lượng. Kết quả chỉ rõ năng lực kế toán, cơ sở kế toán áp dụng và việc thực hiện KSNB có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC tại các đơn vị công ở tỉnh Bình Định.
10 2018 Nguyễn Thị Hồng Loan
Phương pháp hệ thống, phân tích tổng hợp, khảo sát, thống kê mô tả, phân tích nhân tố. Môi trường chính trị, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa, môi trường giáo dục và hệ thống thông tin là các nhân tố ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng thông tin trên BCTC. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán tại các đơn vị sự nghiệp y tế công lập trên địa bàn TP. HCM The Impact of Accounting Staff Capacity, Applied Accounting and Implementation of Internal Control Financial on Statement Quality: The Case of Public Sector in - Binh Dinh Province Vietnam. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên BCTC khu vực công – nghiên cứu tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Long An
11 2018 pháp tổng Phương nghiên cứu quan tài liệu. Thị Mai Hoàng Minh và Đoàn Thị Thảo Uyên Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm nâng cao chất lượng báo cáo tài chính tại khu vực công Việt Nam
Tác giả tổng kết các nghiên cứu trước đã rút ra nhận định rằng một hệ thống KSNB vững mạnh là một yếu tố hết sức cần thiết cho việc lập BCTC đáng tin cậy. Trên cơ sở này, tác giả đưa ra các kiến nghị cho cơ quan quản lý Nhà nước và các đơn vị thuộc khu vực công nhằm hoàn thiện KSNB.
45
on quality
2019 12
Pham Quang Huy & Vu Kien Phuc Kết quả cho thấy các yếu tố của hệ thống KSNB có tác động cùng chiều đối với chất lượng thông tin BCTC trong ngành giáo dục công lập ở đồng bằng sông Cửu Long.
Phương pháp định lượng, phân tích độ tin cậy, phân tích EFA, phân tích CFA và mô hình SEM. The impact of constituent factors of internal control system of financial statements information in the public education sector in Mekong Delta Region.
2019 13 Đậu Thị Kim Thoa
Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thông tin kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam.
Phương pháp định tính và định lượng, dùng mô hình phương trình cấu trúc kết hợp với kỹ thuật PLS-SEM, thu thập dữ liệu từ 164 đơn vị SNCL ở Việt Nam. Đặc điểm văn hóa, mức độ đáp ứng của thiết bị phần cứng, mức độ tự chủ tài chính, sự am hiểu của kế toán trưởng và mức độ đáp ứng của phần mềm tác động mạnh đến minh bạch thông tin tài chính. Nhưng sự hỗ trợ của lãnh đạo, sự am hiểu của kế toán viên, mức độ đáp ứng của công nghệ truyền thông và đặc điểm cơ cấu lại không ảnh hưởng minh bạch thông tin tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập.
46
Phụ lục 5: Tổng kết các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến trách nhiệm giải trình trong khu vực công
TT Tác giả Năm Kết quả nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Vấn đề nghiên cứu
1 2017 Trương Á Bình Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình báo cáo tài chính khu vực công Việt Nam Kết quả nghiên cứu chỉ ra 4 nhân tố có ảnh hưởng đáng kể đến trách nhiệm giải trình công BCTC là hệ thống chính trị, hệ thống pháp lý, giáo dục và nghề nghiệp, văn hóa xã hội. Phương pháp nghiên cứu hỗn hợp gồm nghiên cứu định tính và định lượng.
2 2018 Phạm Quang Huy
Nghiên cứu các nhân tố thuộc hệ thống kế toán công cho việc định hướng gia tăng TNGT trong KVC tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu hỗn hợp gồm nghiên cứu định tính và định lượng. Các nhân tố được xác định là có ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình công là cơ chế tài chính kế toán công, hệ thống thông tin kế toán công, IPSAS, tính chính trực của ban lãnh đạo, hệ thống KSNB, trình độ của kế toán viên và nhân tố kiểm toán nhà nước.
of impact
Thi & 2020 3 in Yen Tran Nguyen Phong Nguyen the The performance measurement system on the organizational the public performance of transition a sector public Is economy: accountability a missing link? Phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng phần mềm SmartPLS kiểm định mô hình SEM. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống đo lường thành quả có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình công trong KVC tại Việt Nam. Đặc biệt, trách nhiệm giải trình công công đóng vai trò trung gian cho mối quan hệ giữa PMS và thành quả hoạt động.
47
Phụ lục 6: Tổng kết các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến thành quả hoạt động trong khu vực công
TT Tác giả Năm Kết quả nghiên cứu Vấn đề nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu
Thi 1 Tran Bich 2014
The cycle of transparency, corruption, accountability, and administrative performance: evidence from Vietnam Phương pháp định lượng, áp dụng phương pháp phân tích độ tương hợp đa chiều (MCA) để phân tích bộ dữ liệu PAPI đại diện quốc gia năm 2012. Kết quả cho thấy tính minh bạch và TNGT cao đi kèm với mức độ nhận thức thấp về tham nhũng. Tham nhũng là một trong những yếu tố chính làm giảm chất lượng dịch vụ hành chính công. Tuy nhiên, tính minh bạch và TNGT không có tác động đến thành quả hoạt động hành chính công.
2 2017 Nguyen Thang et al governance, Local corruption, and public service quality: Evidence from a national survey in Vietnam Mức độ minh bạch, sự tham gia và TNGT cao hơn có liên quan đến mức độ tham nhũng thấp hơn và tham nhũng có liên quan tiêu cực đến chất lượng dịch vụ công tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng bộ dữ liệu khảo sát cấp độ cá nhân từ năm 2011 đến 2014, sử dụng mô hình probit có trật tự để hồi quy.
of impact
Thi & 2020 3 in Phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng phần mềm SmartPLS kiểm định mô hình SEM. Yen Tran Nguyen Phong Nguyen Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống đo lường thành quả (PMS) và trách nhiệm giải trình công có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt động trong các đơn vị công tại Việt Nam.
the The performance measurement system on the organizational performance of the public transition a sector economy: public Is accountability a missing link?
48
Phụ lục 7: Tóm tắt một số mô hình nghiên cứu có liên quan
Nghiên cứu của Mack và Ryan (2006): được xem là một trong số các nghiên
cứu thực nghiệm đầu tiên chỉ rõ mục đích quan trọng của các BCTC mục đích
chung trong khu vực công. Bằng việc sử dụng phương pháp khảo sát qua thư để tiếp
cận người dùng của các BCTC mục đích chung, nghiên cứu đã khảo sát rộng rãi các
nhóm người dùng trong khu vực công ở Úc. Theo đó, người dùng được tác giả chia
thành nhóm: người dùng bên ngoài (người trả tiền dịch vụ/người nộp thuế, các nhà
cung cấp tài nguyên khác, những người nhận dịch vụ, cơ quan giám sát và các tổ
chức tương tự khác) và người dùng nội bộ (các quan chức được bầu và quản lý nội
bộ). Nhóm tác giả đã sử dụng kỹ thuật thống kê mô tả, tiếp theo là kiểm định độ tin
cậy và cuối cùng là phân tích nhân tố khám phá trong nghiên cứu của mình. Kết quả
của nghiên cứu cho thấy BCTC mục đích chung trong khu vực công được người
dùng sử dụng chủ yếu để đánh giá trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải
trình tài chính của đơn vị công, chứ không tập trung vào mục đích ra quyết định như
khu vực tư. Kết quả này đã làm rõ và cung cấp minh chứng cho khung lý thuyết đại
diện mà Mack và Ryan (2006) đã đề cập trước đó liên quan đến ý nghĩa của vấn đề
trách nhiệm giải trình trong khu vực công; trách nhiệm giải trình được xem như cơ
chế giám sát hành vi của người đại diện (nhà quản lý), giúp người chủ (công dân và
các bên liên quan) nhằm đảm bảo được lợi ích của mình. Ngoài ra, nghiên cứu còn
chỉ rõ phần lớn người dùng yêu cầu BCTC mục đích chung cần báo cáo đủ thông tin
về kết quả hoạt động của đơn vị, vị trí tài chính của đơn vị, các hoạt động tài chính
và đầu tư của đơn vị và các vấn đề tuân thủ ngân sách theo quy định. Đặc biệt, các
đơn vị công cần tập trung cung cấp các thông tin giúp người dùng đánh giá được
hiệu quả hoạt động của đơn vị trong việc đáp ứng các mục tiêu của đơn vị. Và các
đơn vị công cần đảm bảo việc trình bày thông tin trên các BCTC phải có thể hiểu
được cho tất cả các nhóm người dùng trong khu vực công. Sau đây, tác giả khái
quát mô hình nghiên cứu của Mack và Ryan (2006) như sau:
49
Trách nhiệm giải trình
công
BCTC mục đích chung trong khu vực công (General-purpose financial reports in public sector)
Trách nhiệm giải trình tài chính (Fnancial accountability)
Ra quyết định (Decision making)
Nguồn: Mô hình nghiên cứu của Mack và Ryan (2006)
Nghiên cứu của Nirwana và Haliah (2018): nhằm kiểm tra lại các yếu tố có
ảnh hưởng đối với chất lượng BCTC và thành quả hoạt động trong các cơ quan
hành chính ở Indonesia bằng cách thêm các yếu tố bất định, như yếu tố cá nhân (cụ
thể là năng lực cá nhân), yếu tố hành chính (cụ thể là quy định) và yếu tố chính trị.
Đơn vị phân tích trong nghiên cứu này được thực hiện ở cấp độ tổ chức. Nhóm tác
giả chọn mẫu theo phương pháp thuận tiện và đã khảo sát bằng bảng hỏi 803 cơ
quan địa phương tại tỉnh Nam Sulawesi, Indonesia. Dữ liệu được xử lý bằng phần
mềm SmartPLS. Mô hình nghiên cứu lý thuyết của Nirwana và Haliah (2018) được
trình bày trong hình bên dưới. Kết quả cho thấy: (1) Năng lực cá nhân có ảnh hưởng
cùng chiều đến chất lượng BCTC; (2) Quy định hành chính có ảnh hưởng cùng
chiều đến chất lượng BCTC; (3) Nhân tố chính trị có ảnh hưởng cùng chiều đến
chất lượng BCTC; (4) Năng lực cá nhân không có tác động trực tiếp đến thành quả
hoạt động mà có ảnh hưởng gián tiếp đến thành quả hoạt động thông qua chất lượng
BCTC; (5) Quy định hành chính không có tác động trực tiếp đến thành quả hoạt
động mà có ảnh hưởng gián tiếp đến thành quả hoạt động thông qua chất lượng
BCTC; (6) Nhân tố chính trị không có tác động trực tiếp đến thành quả hoạt động
mà có ảnh hưởng gián tiếp đến thành quả hoạt động thông qua chất lượng BCTC;
Và (7) chất lượng BCTC có ảnh hưởng cùng chiều đối với thành quả hoạt động.
50
Năng lực cá nhân (Personal competence)
Chất lượng BCTC (Quality of Financial
Thành quả hoạt động
Quy định (Regulation)
Statements)
(Performance)
Yếu tố chính trị (Political Factor)
Nguồn: Mô hình nghiên cứu của Nirwana và Haliah (2018)
Nghiên cứu của Nakmahachalasint và Narktabtee (2019): nhằm đánh giá kết
quả của việc thực hiện kế toán dồn tích tại chính quyền trung ương Thái Lan. Tác
giả Nakmahachalasint và Narktabtee (2019) đã khảo sát bằng bảng hỏi đối với các
kế toán viên và trưởng phòng kế toán trong 218 cơ quan chính phủ trung ương Thái
Lan. Dữ liệu sau khi thu thập được xử lý thông qua phần mềm LISREL với kỷ thuật
PLS-SEM bằng hai bước phân tích là kiểm định mô hình đo lường và mô hình cấu
trúc. Kết quả cho thấy các rào cản khi chuyển đổi có ảnh hưởng tiêu cực đối với
việc thực hiện kế toán dồn tích, minh bạch tài chính và trách nhiệm giải trình. Việc
thực hiện kế toán dồn tích có ảnh hưởng cùng chiều đối với minh bạch tài chính và
trách nhiệm giải trình. Và minh bạch tài chính có ảnh hưởng cùng chiều đối với
trách nhiệm giải trình. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn chỉ rõ thêm về các rào cản
có ý nghĩa đáng kể đối với việc chuyển đổi sang kế toán dồn tích tập trung vào
người thực hiện và người hỗ trợ, cụ thể bao gồm thiếu các ưu đãi, văn hóa quản lý,
thiếu hướng dẫn sử dụng kế toán và việc không hiểu được thông tin kế toán dồn
tích. Mô hình nghiên cứu lý thuyết được trình bày như sau.
51
Việc thực hiện kế toán dồn tích (Implementation of accrual accounting)
Minh bạch tài chính (Financial transparency)
Các rào cản chuyển đổi sang kế toán dồn tích (Transition barriers of accrual accounting implementation)
Trách nhiệm giải trình (Perceived accountability)
Nguồn: Mô hình nghiên cứu của Nakmahachalasint và Narktabtee (2019)
Nghiên cứu của Dewi và cộng sự (2019): nhằm xem xét ảnh hưởng của hệ
thống KSNB và năng lực nhân lực đối với chất lượng thông tin BCTC và trách
nhiệm giải trình tài chính của các chính quyền địa phương ở Indonesia. Mô hình
nghiên cứu lý thuyết được trình bày theo hình bên dưới. Dewi và cộng sự (2019) đã
thu thập dữ liệu bằng bảng hỏi, cỡ mẫu khảo sát là 161 nhân viên phụ trách tài
chính – kế toán làm việc trong 26 cơ quan hành chính thuộc tỉnh Nam Sumatra,
Indonesia. Dữ liệu được xử lý bằng cách sử dụng phần mềm SPSS 20 với kiểm tra t
và phân tích đường dẫn. Kết quả chỉ ra rằng: (1) Hệ thống KSNB và năng lực nhân
lực có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng thông tin BCTC; (2) Hệ thống KSNB
và năng lực nhân lực cũng có ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình tài
chính cả trực tiếp và gián tiếp bởi vai trò trung gian của chất lượng thông tin BCTC;
Và (3) chất lượng thông tin BCTC của các chính quyền địa phương có tác động trực
tiếp và cùng chiều đến trách nhiệm giải trình tài chính của các đơn vị.
Năng lực nhân lực (Human resource competence)
Chất lượng BCTC
Trách nhiệm giải trình tài chính (Financial accountability)
Hệ thống kiểm soát nội bộ (Internal control system)
Nguồn: Mô hình nghiên cứu của Dewi và cộng sự (2019)
52
Nghiên cứu của Keerasuntonpong và cộng sự (2019). Trách nhiệm giải
trình công đã được áp đặt chính thức lên chính phủ Thái Lan vào năm 1997 khi WB
bắt buộc cải cách khu vực công như một điều kiện để bảo lãnh đất nước khỏi phá
sản. Mặc dù đã quy định để thúc đẩy trách nhiệm giải trình công trong 20 năm
nhưng trách nhiệm giải trình công của chính phủ Thái Lan vẫn bị chỉ trích là kém.
Do đó, nghiên cứu của Keerasuntonpong và cộng sự (2019) nhằm tìm hiểu các lý do
mà chính phủ Thái Lan thực hiện kém trách nhiệm giải trình công.
Keerasuntonpong và cộng sự (2019) nhận thấy các tài liệu trước đây đã hỗ trợ rằng
các báo cáo hàng năm như là phương tiện thiết yếu để các đơn vị công thực hiện tốt
trách nhiệm giải trình công của họ. Cụ thể, khả năng truy cập công khai, tính kịp
thời, tính đáng tin cậy và đầy đủ của các báo cáo hàng năm là cơ sở đánh giá trách
nhiệm giải trình của đơn vị công, từ đó, người dùng có thể giám sát thành quả hoạt
động của đơn vị. Vì thế, Keerasuntonpong và cộng sự (2019) đã tiến hành đánh giá
các khía cạnh này của các báo cáo thường niên năm 2016 của 162 cơ quan hành
chính cấp trung ương ở Thái Lan nhằm làm rõ nguyên nhân của việc thực hiện kém
trách nhiệm giải trình công của các đơn vị này. Kết quả cho thấy độ tin cậy và tính
kịp thời của công bố báo cáo hàng năm là vấn đề khó khăn nhất của các cơ quan ở
Thái Lan, tiếp theo là khả năng tiếp cận và tính đầy đủ của thông tin trên báo cáo
hàng năm. Và đây là những lý do chính dẫn đến các cơ quan hành chính trung ương
ở Thái Lan thực hiện kém trách nhiệm giải trình công. Hơn nữa, kết quả của
Keerasuntonpong và cộng sự (2019) còn cho thấy rằng các quy định hiện hành chỉ
cung cấp các biện pháp trừng phạt nhẹ đối với các hành vi không tuân thủ của công
chức trong các cơ quan. Ngoài ra, bằng chứng thống kê cho thấy các cơ quan có quy
mô lớn thực hiện trách nhiệm giải trình công tốt hơn cơ quan quy mô nhỏ. Qua đó,
Keerasuntonpong và cộng sự (2019) khuyến nghị các đơn vị công cần quan tâm đến
năng lực người lập báo cáo (kế toán) và động lực của người chịu trách nhiệm về
công bố BCTC (lãnh đạo) để đảm bảo thực hiện tốt trách nhiệm giải trình công. Tác
giả khái quát mô hình nghiên cứu của Keerasuntonpong và cộng sự (2019) như sau:
53
Trách nhiệm giải trình
công
Khả năng tiếp cận, sự kịp thời, sự tin cậy và sự đầy đủ của báo cáo hàng năm (Annual reporting’s accessibility, timeliness, reliability and adequacy)
(Public accountability)
Nguồn: Mô hình nghiên cứu của Keerasuntonpong và cộng sự (2019)
Nghiên cứu của Halim (2019): nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của trách nhiệm
giải trình đối với thành quả hoạt động của các đơn vị công ở Indonesia. Phương
pháp nghiên cứu đã được dùng là phương pháp định lượng. Halim (2019) thu thập
dữ liệu bằng bảng khảo sát, được thực hiện với 114 mẫu, tập trung vào các đơn vị
công ở tỉnh Yogyakarta, thuộc Indonesia. Sau khi thu thập và làm sạch dữ liệu,
Halim (2019) đã sử dụng phần mềm WarpPLS 3.0 với kỷ thuật PLS-SEM để kiểm
định mô hình đo lường và mô hình cấu trúc. Trong nghiên cứu này, Halim (2019)
đã xem xét trách nhiệm giải trình gồm có 5 loại khác nhau: trách nhiệm giải trình
kết quả, trách nhiệm giải trình tài chính, trách nhiệm giải trình phân cấp, trách
nhiệm giải trình chuyên môn và trách nhiệm giải trình pháp lý. Đồng thời, Halim
(2019) đã đo lường thành quả hoạt động một cách toàn diện gồm cả các chỉ số thể
hiện cho kết quả định lượng và kết quả định tính. Đặc biệt, kết quả phân tích từ
nghiên cứu của Halim (2019) cho thấy trách nhiệm giải trình tài chính, trách nhiệm
giải trình kết quả và trách nhiệm giải trình pháp lý có ảnh hưởng cùng chiều đến cả
kết quả định lượng và kết quả định tính (thành quả hoạt động) của các đơn vị công.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Halim (2019) không tìm thấy sự hỗ trợ rằng trách nhiệm
giải trình phân cấp và trách nhiệm giải trình chuyên môn ảnh hưởng đến thành quả
hoạt động của các đơn vị công. Tác giả khái quát mô hình nghiên cứu của Halim
(2019) như sau:
Thành quả hoạt động
Trách nhiệm giải trình (Accountability)
đơn vị (Organizational performance)
Nguồn: Mô hình nghiên cứu của Halim (2019)
54
Phụ lục 8: Tóm tắt cơ sở lý thuyết đưa ra các giả thuyết nghiên cứu
TT Mối quan hệ
Lý thuyết nền
Các nghiên cứu có liên quan
Kỳ vọng
Giả thuyết
Các nghiên cứu cho rằng mối quan hệ này là cùng chiều (+) gồm: Xu và
cộng sự (2003); Setiyawati (2013); Nuryanto và Afiah (2013); Afiah và
Tác động của
Lý thuyết thể
Rahmatika (2014); Suwanda (2015); (2016); Agung và Winarningsih
(+)
H1
1
năng lực kế toán đến chất lượng
chế Lý thuyết bất
Mardinan và cộng sự (2018); Thanh và Yen (2018a); Dewi và cộng sự
báo cáo tài chính
định
(2019). Các nghiên cứu nhận thấy không tồn
tại mối quan hệ này gồm: Sukmaningrum và Harto (2012);
(2015); Suliyantini
và
Sagara Kusmuriyanto (2017).
Tác động của
Lý thuyết thể chế
Nghiên cứu cho rằng mối quan hệ
(+)
H2
2
vai trò lãnh đạo đến chất lượng
Lý thuyết đại diện
này là cùng chiều (+) là: Mardinan và cộng sự (2018)
báo cáo tài chính
Lý thuyết bất định
Lý thuyết thể
Nghiên cứu cho rằng mối quan hệ (+) gồm: này
là cùng chiều
(+)
H3
3
Ahyaruddin và Akbar (2016); Alam và cộng sự (2018); Phạm Quang Huy
Tác động của vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình
(2018).
chế Lý thuyết đại diện Lý thuyết bất định
Tác động của năng lực kế toán
Lý thuyết thể chế
Nghiên cứu cho rằng mối quan hệ này là cùng chiều (+) là: Trương Á
(+)
H4
4
đến trách nhiệm giải trình
Lý thuyết bất định
Bình (2017); Phạm Quang Huy (2018); Dewi và cộng sự (2019).
(+)
H5
5
Tác động của lượng chất
thuyết Lý quản lý công
Các nghiên cứu cho rằng mối quan hệ này là cùng chiều (+) gồm:
BCTC đến trách
mới
Indriasih và Koeswayo (2014); Dewi
nhiệm giải trình
cộng
sự
Lý thuyết đại diện
(2019); và Nakmahachalasint và Narktabtee
(2019); Keerasuntonpong và cộng sự (2019).
Tác động
trực
Lý
thuyết
của
Các nghiên cứu cho rằng mối quan hệ này là cùng chiều (+) gồm:
tiếp lượng
chất BCTC
quản lý công mới
(+)
H6
55
6
thành quả
Bukenya (2014); Nirwana và Haliah (2018).
đến hoạt động
Lý thuyết đại diện
Lý
thuyết
Các nghiên cứu cho rằng mối quan hệ này là cùng chiều (+) gồm: Halim
Tác động của
quản lý công mới
(2019); Han (2019). Các nghiên cứu cho rằng mối quan
(+)
H7
7
trách nhiệm giải trình đến thành
quả hoạt động
Lý thuyết đại diện
hệ này là nghịch chiều (-) gồm: (2000); và Heintzman Aucoin
Dubnick (2005).
Tác động gián
của
tiếp lượng
chất BCTC
Lý thuyết quản lý công
Tác giả đề xuất mới dựa trên tổng kết
(+)
H8
8
lý thuyết nghiên cứu.
thành quả đến hoạt động thông
mới Lý thuyết đại
diện
qua trách nhiệm giải trình
Tác động của đến quy mô
Lý thuyết thể chế
Các nghiên cứu cho rằng tồn tại mối quan hệ này là gồm: P. Gomes và
Có
Biến kiểm
9
cộng sự (2017); Verbeeten (2008).
soát
thành quả hoạt động
Lý thuyết bất định
Tác động của
Lý thuyết thể
Các nghiên cứu cho rằng tồn tại mối quan hệ này là gồm: Glisson và
Có
Biến kiểm
10
thời gian hoạt động đến thành
chế Lý thuyết bất
Martin (1980); Song (2018).
soát
quả hoạt động
định
Nguồn: Tác giả tổng kết từ tổng quan lý thuyết
56
Phụ lục 9: Phiếu trao đổi với chuyên gia
Kính chào Quý Ông/Bà!
Tôi tên là Trần Thị Yến, hiện là nghiên cứu sinh ngành Kế toán tại Trường Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và đang công tác tại Trường Đại học Quy Nhơn. Hiện
nay, tôi đang làm nghiên cứu liên quan đến kế toán công. Để thu thập thông tin hỗ trợ cho
đề tài nghiên cứu của mình, tôi rất mong Ông/Bà dành một ít thời gian quý báu để trả lời
một số vấn đề dưới đây. Tôi xin cam đoan nội dung trả lời của Ông/Bà chỉ nhằm mục đích
nghiên cứu, ý kiến cá nhân của Ông/Bà không mang tính chất đúng hay sai mà có ý nghĩa
rất quan trọng và đóng góp lớn cho kết quả nghiên cứu, vì vậy mọi thông tin cá nhân của
Ông/Bà đều được bảo mật.
Hiện nay, chế độ kế toán mới của các loại hình đơn vị công có yêu cầu đơn vị phải
lập thêm 4 loại báo cáo tài chính giống như doanh nghiệp (ngoài các báo cáo quyết toán):
Báo cáo tình hình tài chính, Báo cáo kết quả hoạt động, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết
minh Báo cáo tài chính. Ví dụ: Thông tư 107/2017/TT-BTC (chế độ kế toán HCSN);
Thông tư 102/2018/TT-BTC (chế độ kế toán BHXH) hay Thông tư 108/2018/TT-BTC
(chế độ kế toán Dự trữ quốc gia). Các chế độ kế toán này đã sử dụng cơ sở dồn tích đầy đủ
để quy định cách ghi nhận các nghiệp vụ phát sinh tại đơn vị. Quy định về lập, nộp và công
khai các báo cáo tài chính và các báo cáo quyết toán (gọi chung là BCTC) của các đơn vị
công tại Việt Nam đã được quy định rõ trong các văn bản pháp lý. Tuy nhiên, chất lượng
các BCTC của từng đơn vị công hiện nay có thực sự đạt được như kỳ vọng của người dùng
hay không; cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC và ảnh hưởng của chất
lượng BCTC đến người dùng là một vấn đề quan trọng cần được xem xét và bàn luận. Qua
đó, tôi đã tiến hành nghiên cứu các nhân tố đặc trưng trong đơn vị công là nhà lãnh đạo và
năng lực kế toán có ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng BCTC cũng như việc thực hiện
trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng xem xem
mức độ ảnh hưởng của chất lượng BCTC đến trách nhiệm giải trình và thành quả hoạt
động. Vì thế, nhà nghiên cứu kính nhờ chuyên gia chia sẻ thêm những hiểu biết của mình
về các nội dung sau đây.
PHẦN I/ THÔNG TIN CHUNG
57
1. Họ và tên:
2. Đơn vị công tác hiện tại:
3. Một số thông tin cá nhân khác
- Vị trí công việc hiện tại
- Kinh nghiệm công việc
- Trình độ học vấn
- Năm sinh
- Lĩnh vực đang nghiên cứu
PHẦN II/ BÀN LUẬN VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ
1/ Theo Ông/Bà thì chất lượng báo cáo tài chính có bị ảnh hưởng bởi năng lực
nhân viên kế toán không? Xin nêu rõ và cho ví dụ?
2/ Theo Ông/Bà thì chất lượng báo cáo tài chính có bị ảnh hưởng bởi nhà lãnh
đạo đơn vị công (vai trò của lãnh đạo) hay không? Xin nêu rõ và cho ví dụ?
3/ Theo Ông/Bà thì nhà lãnh đạo có ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của
đơn vị công hay không? Xin nêu rõ và cho ví dụ?
4/ Theo Ông/Bà thì nhân viên kế toán mà cụ thể là năng lực của họ (thể hiện qua
kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và thái độ) có ảnh hưởng đến trách
nhiệm giải trình của đơn vị công hay không? Xin nêu rõ và cho ví dụ?
5/ Theo Ông/Bà thì chất lượng báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến khả năng
đánh giá của người sử dụng báo cáo tài chính đối với việc thực hiện trách nhiệm
giải trình của đơn vị công hay không? Hay nói cách khác chất lượng BCTC có ảnh
hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của đơn vị công hay không? Vì sao?
6/ Ông/Bà có cho rằng chất lượng BCTC càng tốt thì đơn vị công hoạt động
càng hiệu quả hay không? Hay nói cách khác chất lượng BCTC có ảnh hưởng cùng
chiều đến thành quả hoạt động của đơn vị công hay không? Vì sao? Cho ví dụ?
7/ Ông/Bà có đồng ý với quan điểm rằng: “khi đơn vị công thực hiện tốt trách
nhiệm giải trình thì mọi thông tin về tình hình tài chính hay kết quả hoạt động của
đơn vị sẽ được trả lời, giải đáp rõ ràng; từ đó, giúp đơn vị nhận thấy rõ hơn về
58
nguyên nhân và cách khắc phục để cải thiện các kết quả hoạt động của đơn vị” hay
không? Hay nói cách khác trách nhiệm giải trình có ảnh hưởng cùng chiều đến
thành quả hoạt động của đơn vị công hay không? Xin giải thích thêm?
8/ Ông/Bà có đồng ý với quan điểm rằng: “chất lượng báo cáo tài chính càng
cao thì cho thấy đơn vị công thực hiện tốt trách nhiệm giải trình và điều này sẽ có
ảnh hưởng tốt đối với kết quả hoạt động của đơn vị công” hay không? Hay nói cách
khác chất lượng báo cáo tài chính ảnh hưởng gián tiếp đến thành quả hoạt động của
đơn vị công thông qua trách nhiệm giải trình có đúng hay không? Xin nêu rõ?
9/ Ông/Bà có đồng ý với nhận định rằng các đơn vị công có quy mô càng lớn thì
có thành quả hoạt động tốt hơn so với đơn vị công có quy mô nhỏ hay không? Xin
nêu rõ hơn quan điểm của Ông/Bà?
10/ Ông/Bà có đồng ý với nhận định rằng các đơn vị công hoạt động càng lâu
năm thì sẽ có thành quả họat động tốt hơn so với những đơn vị công có thời gian
hoạt động ngắn hơn hay không? Xin nêu rõ hơn quan điểm của Ông/Bà?
PHẦN III/ BÀN LUẬN VỀ THANG ĐO CHO CÁC KHÁI NIỆM
Tác giả xây dựng các thang đo của các khái niệm nghiên cứu chủ yếu dựa trên
việc kế thừa công trình của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Theo Ông/Bà thì nội
dung thang đo của các khái niệm bên dưới có phù hợp và có thể hiểu được (từ ngữ)
đối với bối cảnh khu vực công ở Việt Nam hay không? Và Ông/Bà có điều chỉnh gì
cho nội dung thang đo các khái niệm hay không? Xin Ông/Bà nói rõ hơn?
1/ Năng lực kế toán bao gồm kiến thức kinh doanh tổng hợp, kiến thức kế toán,
công nghệ thông tin, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tương
tác, kỹ năng máy tính, các thái độ và phẩm chất cá nhân mà người kế toán thể hiện
ra bên ngoài khi thực hiện công việc của mình. Thang đo năng lực kế toán theo
Palmer và cộng sự (2004) gồm có 9 biến quan sát. Cụ thể, người trả lời sẽ thể hiện
mức độ đồng ý của họ về các phát biểu liên quan đến các đặc điểm năng lực kế toán
tại đơn vị mà họ đang công tác theo thang đo Likert 5 mức độ, mức 1 là hoàn toàn
không đồng ý đến mức 5 là rất đồng ý. Nội dung thang đo kế thừa như sau:
59
Ý kiến chuyên gia
Thang đo gốc Accounting competency Accounting knowledge General business knowledge Information technology Communications skills Problem-solving skills Computer skills Interpersonal skills Personal attitudes Personal capabilities
Ý kiến tác giả Năng lực kế toán Kiến thức kế toán Kiến thức kinh doanh chung Kiến thức công nghệ thông tin Kỹ năng giao tiếp Kỹ năng giải quyết vấn đề Kỹ năng máy tính Kỹ năng tương tác Các thái độ cá nhân Các khả năng cá nhân
2/ Vai trò lãnh đạo trong đơn vị công được thể hiện ở 2 khía cạnh chính: Một là
khuyến khích nhân viên hành động theo các quy tắc, quy định, luật lệ của nhà nước
(lãnh đạo theo luật); Và hai là khuyến khích nhân viên biện minh và giải thích hành
động của họ cho các bên liên quan (lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình). Tóm lại,
người trả lời sẽ thể hiện mức độ đồng ý của họ về các phát biểu liên quan đến các
vai trò của nhà lãnh đạo tại đơn vị mà họ đang công tác theo thang đo Likert 5 mức
độ, mức 1 là hoàn toàn không đồng ý đến mức 5 là rất đồng ý. Cụ thể như sau:
Thang đo gốc
Ý kiến tác giả
Ý kiến chuyên gia
Leadership Rule-following leadership Emphasizes to me and my colleagues that it is important to follow the law
properly
to
Gives me and my colleagues the follow means governmental rules and regulations
Emphasizes that my colleagues and I should carry out government policies properly Ensures that we accurately follow the rules and procedures. Accountability leadership Encourages me and my colleagues to to various explain our actions stakeholders
Vai trò lãnh đạo Lãnh đạo theo luật Nhấn mạnh với tôi và các đồng nghiệp của tôi rằng điều quan trọng là phải tuân thủ luật pháp Cung cấp cho tôi và các đồng nghiệp của tôi các phương tiện để tuân thủ đúng các quy tắc và quy định của chính phủ Nhấn mạnh rằng các đồng nghiệp của tôi và tôi nên thực hiện đúng chính sách của chính phủ Đảm bảo rằng chúng tôi tuân thủ chính xác các quy tắc và thủ tục. Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình Khuyến khích tôi và các đồng nghiệp của tôi giải thích hành động của chúng tôi cho các bên liên quan khác nhau
Stimulates us to inform stakeholders of our way of working.
Provides us with the possibility to explain our behavior to stakeholders.
Emphasizes that it is important that we answer questions from clients.
explain
to
Strives to ensure that we are openly and honestly share the actions of our organizational unit with others to us Stimulates stakeholders why certain decisions were taken
Kích thích chúng tôi thông báo cho các bên liên quan về cách làm việc của chúng tôi. Cung cấp cho chúng tôi khả năng giải thích hành vi của chúng tôi cho các bên liên quan Nhấn mạnh rằng điều quan trọng là chúng tôi trả lời các câu hỏi từ khách hàng Cố gắng đảm bảo rằng chúng tôi chia sẻ cởi mở và trung thực các hành động của đơn vị chúng tôi với những người khác Kích thích chúng tôi giải thích cho các bên liên quan tại sao một số quyết định được đưa ra
60
3/ Chất lượng báo cáo tài chính là những đặc tính chất lượng mà thông tin cần có
để làm cho BCTC trở nên hữu ích đối với người sử dụng, được thể hiện ở 2 khía cạnh
sau: Các đặc tính chất lượng nền tảng làm nổi bật việc phân biệt thông tin báo cáo
tài chính hữu ích với thông tin không hữu ích, gồm tính thích hợp và đáng tin
cậy/trình bày trung thực (gọi là đặc tính chất lượng nền tảng); Và các đặc tính chất
lượng bổ sung giúp phân biệt thông tin BCTC hữu ích hơn với thông tin ít hữu ích
hơn, gồm tính có thể so sánh, kịp thời, có thể xác minh và có thể hiểu được (gọi là
đặc tính chất lượng bổ sung). Cụ thể, người trả lời sẽ thể hiện mức độ đồng ý của họ
về các đặc điểm thông tin trên BCTC được cung cấp bởi chính đơn vị mà họ đang
công tác theo thang đo Likert 5 mức độ, mức 1 là hoàn toàn không đồng ý đến mức
5 là rất đồng ý. Nội dung thang đo chi tiết như sau:
Ý kiến chuyên gia
qualitative
Ý kiến tác giả Chất lượng báo cáo tài chính Đặc tính chất lượng nền tảng
Thang đo gốc Financial reporting quality Fundamental characteristics Relevance + Confirmatory value + Predictive value Faithful representation + Complete information + Information is neutral + The information describes the nature + Free from material error
Tính thích hợp + Giá trị xác nhận + Giá trị dự đoán Trình bày trung thực + Thông tin đầy đủ + Thông tin khách quan + Thông tin mô tả đúng bản chất + Không có sai sót trọng yếu
61
qualitative
Đặc tính chất lượng bổ sung
Enhancing characteristics Timeliness + Having information available for users before it loses its capacity to be useful Understandability + Plain language + Presented in a manner
comparisons between
Comparability + Consistency of application of accounting policies + Internal comparisons across time + External entities
Verifiability
Tính kịp thời + Thông tin có sẵn cho người dùng trước khi nó mất đi tính hữu ích Tính có thể hiểu được + Ngôn ngữ trình bày có thể hiểu được + Hình thức trình bày có thể hiểu được Tính so sánh + Sử dụng nhất quán các chính sách kế toán + Có thể so sánh với số liệu kỳ trước tại đơn vị + Có thể so sánh với số liệu của các đơn vị khác Tính kiểm chứng
4/ Trách nhiệm giải trình (accountability) đề cập đến việc những người có thẩm
quyền đối với các nguồn lực công phải cung cấp một minh chứng về sự tuân thủ,
tính chính xác và hiệu quả cho việc sử dụng các nguồn lực công; đồng thời, chịu
trách nhiệm về hành động của mình. Trách nhiệm giải trình được thể hiện ở hai khía
cạnh chính: trách nhiệm giải trình công và trách nhiệm giải trình tài chính. Trách
nhiệm giải trình công liên quan đến các đánh giá về trách nhiệm giải trình chung
hoặc tổng thể cho các hoạt động của đơn vị công ở hiện tại và cả những ảnh hưởng
của các hoạt động trong tương lai, gồm có 8 biến quan sát. Còn trách nhiệm giải
trình tài chính nhấn mạnh đến hoạt động tài chính và hiệu quả tài chính của đơn vị
công bao gồm cả việc so sánh với các đơn vị công khác, được đo bằng 6 biến quan
sát. Theo đó, người trả lời sẽ đánh giá mức độ thực hiện trách nhiệm giải trình công
và trách nhiệm giải trình tài chính của đơn vị công căn cứ vào các thông tin trên
BCTC được cung cấp bởi chính đơn vị theo thang đo Likert 5 mức độ, mức 1 là
không hiệu quả đến mức 5 là rất hiệu quả, cụ thể như sau:
Ý kiến chuyên gia
Ý kiến tác giả Trách nhiệm giải trình Trách nhiệm giải trình công
Thang đo gốc Accountability Public accountability To determine if organisation has Xác định xem tổ chức có hoạt
in best
interest of
operated community To determine if organisation has conducted operations its effectively To determine if organisation has conducted operations its efficiently To decide if resources used as intended
To determine effect of current operations on future generations
the effect of future
62
động vì lợi ích tốt nhất của cộng đồng hay không. Xác định xem tổ chức đã tiến hành các hoạt động có hữu hiệu không. Xác định xem tổ chức đã tiến hành các hoạt động có hiệu quả không. Xác định xem tổ chức sử dụng tài nguyên có đúng như dự định không. Xác định xem các hoạt động hiện tại của tổ chức có ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai không. Xác định xem việc sử dụng tiền công có phù hợp không. Xác định xem các hoạt động hiện tại có tác động đến nguồn quỹ trong tương lai không. Đưa ra quyết định làm đơn vị đại diện cho nguồn quỹ. Trách nhiệm giải trình tài chính
To determine if public money used appropriately To determine current operations on funding To make representations for funding Financial accountability To determine financial viability Xác định khả năng tài chính To determine if organisation can meet its short term liabilities
To determine if organisation can meet its long term liabilities
Xác định xem tổ chức có thể đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của mình hay không Xác định xem tổ chức có thể đáp ứng các khoản nợ dài hạn của mình hay không Xác định xem tổ chức có tuân thủ ngân sách hay không Xác định xem tổ chức có đạt được các mục tiêu đã đưa ra hay không So sánh kết quả với các tổ chức khác
To determine if organisation has adhered to budget To determine if organisation has met its objectives To compare results with other similar organisation
5/ Thành quả hoạt động (performance) của đơn vị công hiểu là các chỉ số kết quả
thực tế mà đơn vị đã hoàn thành nhằm thực hiện các mục tiêu. Thành quả hoạt động
của đơn vị công trong nghiên cứu này được nhìn nhận ở hai khía cạnh: các thành
quả được định lượng rõ ràng và các thành quả mang tính chất định tính. Khi đo
lường thành quả hoạt động, người được hỏi sẽ tự đánh giá thành quả hoạt động của
đơn vị mà họ đang làm việc so với thành quả hoạt động của các đơn vị công khác
63
cùng lĩnh vực theo 5 mức độ từ 1 là thấp hơn mức trung bình chung rất nhiều đến
mức 5 là cao hơn mức trung bình chung rất nhiều, cụ thể như sau:
Ý kiến chuyên gia
Ý kiến tác giả Thành quả hoạt động Số lượng hoặc khối lượng công việc đã thực hiện Chất lượng hoặc độ chính xác của công việc đã thực hiện Số lượng các đổi mới hoặc ý tưởng mới của đơn vị
Thang đo gốc Performance The quantity or amount of work produced The quality or accuracy of work produced The number of innovations or new ideas by the unit Reputation of ‘work excellence’ Danh tiếng của “công việc xuất
Attainment of unit production or service goals
Efficiency of unit operations
Morale of unit personnel
sắc” Việc đạt được các mục tiêu cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm Sự hiệu quả của các hoạt động tại đơn vị Tinh thần/sự hài lòng của nhân viên tại đơn vị
6/ Quy mô của đơn vị công được đo bằng tổng số nhân viên toàn thời gian, tức
là bao gồm các nhân viên biên chế, hợp đồng dài dạn tại đơn vị.
7/ Thời gian hoạt động của đơn vị công là số năm đơn vị đã tồn tại, tính từ thời
điểm đơn vị bắt đầu thành lập đến tại thời điểm khảo sát và được làm tròn số năm.
Nhà nghiên cứu xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ ý kiến của Quý Ông/Bà!
64
Phụ lục 10: Danh sách chuyên gia phỏng vấn định tính
Nội dung TT Họ tên Trình độ Đơn vị công tác Mô tả kinh nghiệm tham gia
lời bộ
1 Chuyên gia 1 Trường Đại học Quy Nhơn Trả toàn bảng phỏng vấn Phó giáo sư, Tiến sĩ
2 Tiến sĩ Chuyên gia 2 Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
3 Thạc sĩ Chuyên gia 3 Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định Trả lời phần 1 và 2 phần của bảng phỏng vấn lời Trả toàn bộ bảng phỏng vấn
lời bộ
4 Đại học Trả toàn bảng phỏng vấn Chuyên gia 4 Trường Đại học Quy Nhơn
lời bộ
nhà Trả toàn bảng phỏng vấn 5 Thạc sĩ Chuyên gia 5 bạc Kho nước Bình Định
lời bộ 6 Thạc sĩ Chuyên gia 6 Từng làm kế toán trưởng trường đại học, hiện đang là trưởng khoa kinh tế & kế toán, có tham gia viết sách và nghiên cứu về kế toán công. Tham gia giảng dạy chương trình đại học, chương trình sau đại học, viết sách và thực hiện các nghiên cứu về kế toán công. Kinh nghiệm làm kế toán ngành BHXH trên 15 năm. Hiện tại là Phó phụ trách Phòng Kế hoạch - Tài chính tại đơn vị Có 2 năm làm kế toán xây dựng, 16 năm làm kế toán Bưu điện, hơn 8 năm làm Trưởng phòng Kế hoạch – Tài chính tại Trường Đại học Quy Nhơn. Gần 20 năm làm công tác kế toán ở một số đơn vị: Chi cục thuế, Phòng tài chính, KBNN huyện và KBNN tỉnh. Hiện tại là Phó Trưởng phòng kế toán nhà nước tại đơn vị. Hơn 17 năm làm trong lĩnh vực nhà nước, các chức vụ từng làm: Phó Chánh Văn Trả toàn bảng Ủy ban nhân dân Thành phố Quy Nhơn
65
phỏng vấn
chính 7 Thạc sĩ Chuyên gia 7 Sở Tài Bình Định
lời Trả phần 1 và 3 phần của bảng phỏng vấn
lời bộ 8 Thạc sĩ Chuyên gia 8 Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghĩa Bình Trả toàn bảng phỏng vấn
lời bộ
9 Thạc sĩ Trả toàn bảng phỏng vấn Chuyên gia 9 Bệnh viện Quận 11, TP. Hồ Chí Minh
lời
Trả toàn bộ 10 Tiến sĩ Chuyên gia 10 phòng; Chánh Văn phòng HĐND & UBND TP. Quy Nhơn; Trưởng Phòng Quản lý Đô thị TP. Quy Nhơn. Hiện tại là Phó Chủ tịch TP. Quy Nhơn, có tham gia quản lý mảng tài chính. Công tác tại Sở Tài chính đã được 24 năm, thực hiện nhiệm vụ quản lý tài chính các đơn vị dự toán tại tỉnh Bình Định. Hiện tại là Phó giám đốc đơn vị Công tác tại Phòng Tài chính Kế toán của đơn vị hơn 10 năm, kinh nghiệm trải qua các công việc như: kế toán thanh toán, kế toán xây dựng cơ bản,…Hiện tại là Phó phòng Tài chính – Kế toán, phụ trách lập và tổng hợp Báo cáo kế toán tại đơn vị và toàn Cục. Hiện tại là Trưởng phòng Tài chính – Kế toán, phụ trách tổng hợp Báo cáo kế toán và kiểm tra công tác kế toán tại Bệnh viện Quận 11, đã làm 21 năm. Tham gia giảng dạy, viết sách và nghiên cứu về kế toán công. Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
66
Phụ lục 11: Tổng hợp ý kiến chuyên gia về sự phù hợp của mô hình
Vấn đề bàn luận Tác động của năng lực kế toán đến chất lượng BCTC
Kết luận Tất cả các chuyên gia đều đồng ý rằng năng lực kế toán có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC của các đơn vị công tại Việt Nam.
Quan điểm của chuyên gia Chuyên gia 1 nói rằng kiến thức của nhân viên kế toán là một nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng BCTC vì họ là những người trực tiếp thực hiện công việc kế toán tại đơn vị nên nếu năng lực nhân viên kế toán không đáp ứng yêu cầu sẽ làm chất lượng BCTC của đơn vị xấu đi. Bên cạnh kiến thức chuyên môn, số năm kinh nghiệm làm việc tại đơn vị, tinh thần ham học hỏi và cầu tiến thì nhân viên kế toán cần có trình độ sử dụng công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu về năng lực, góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện và phát triển hệ thống BCTC, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng thông tin hay việc giám sát, điều hành của cơ quan chủ quản. Vì thế, năng lực kế toán có ảnh hưởng thuận chiều đến chất lượng thông tin BCTC. Chuyên gia 3 còn thêm rằng nói rằng năng lực của kế toán yếu thì chất lượng BCTC kém. Chuyên 2 và Chuyên gia 10 còn khẳng định rằng mối quan hệ này đã được nhiều nghiên cứu trước kiểm định và kết quả là năng lực kế toán có ảnh hưởng cùng chiều đối với chất lượng BCTC Chuyên gia 4 nói rằng phần nhiều chất lượng BCTC bị ảnh hưởng bởi năng lực nhân viên kế toán. Ví dụ như tổng hợp sai lệch các nguồn thu, dẫn đến sai lệch về thuế giá trị gia tăng phải nộp và sai luôn kết quả hoạt động kinh doanh của từng dịch vụ. Ngoài ra, Chuyên gia 5 còn đưa ra ví dụ là nếu nhân viên kế toán không nắm vững các chỉ tiêu thể hiện trên BCTC sẽ lập ra các BCTC bị sai lệch, không phản ánh được thực tế tình hình của đơn vị. Ví dụ: Khi lập Báo cáo tình hình tài chính, nhân viên kế toán không nắm vững được chỉ tiêu nào phản ánh nguồn vốn hoặc tài sản sẽ không lập được báo cáo này, như chỉ tiêu Phải trả người bán (TK 331) cuối kỳ có số dư bên nợ, thể hiện phần tiền đơn vị đã trả trước cho người bán mà hàng hóa, dịch vụ chưa nhận hay chưa thực hiện, do đó cuối năm khi lập Báo cáo tình hình tài chính phải thể hiện bên phần tài sản của đơn vị. Chuyên gia 6 tiếp tục khẳng định rằng chất lượng BCTC phụ thuộc nhiều vào năng lực nhân viên kế toán. Tốt thì khoe, xấu thì che hoặc ngược lại đều phụ thuộc vào năng lực nhân viên kế toán áp dụng đúng quy định hoặc vận dụng những quy định cho phép... Ngoài ra, năng lực nhân viên kế toán quyết định đến quá trình thu thập số liệu, thông tin kế toán phục vụ cho công tác quản lý, quản trị (kịp thời, đầy đủ, chính xác và hoạch định kế hoạch...).
67
Tác động của vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC
Phần lớn (90%) các chuyên gia đều đồng ý rằng vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC của các đơn vị công tại Việt Nam.
Chuyên gia 8 nói thêm rằng khi kế toán viên không theo dõi chi tiết khoản nợ phải trả từng khách hàng thì kế toán viên thường không phản ánh đúng chỉ tiêu nợ phải trả trên BCTC, tức là làm chất lượng BCTC không đảm bảo cho người sử dụng. Chuyên gia 9 tiếp tục nhấn mạnh thêm rằng chất lượng BCTC bị ảnh hưởng trực tiếp bởi năng lực nhân viên kế toán. Ví dụ: Khi các chính sách, chế độ thay đổi mà nhân viên kế toán không cập nhật kịp thời hoặc do hạn chế năng lực nhân viên kế toán không thể hiểu hết các chính sách mới nên không kịp thời thực hiện. Chuyên gia 1, Chuyên gia 2, Chuyên gia 3 và Chuyên gia 5 đều cho rằng nhà lãnh đạo chi phối rất nhiều đến công tác kế toán, cụ thể, nhà lãnh đạo có phẩm chất liêm chính, trung thực sẽ góp phần nâng cao chất lượng BCTC. Chuyên gia 4 lại không cho rằng vai trò lãnh đạo có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Ông nói rằng báo cáo tài chính là do bộ phận kế toán lập và nhà quản lý thường ít can thiệp đến công tác kế toán. Chuyên gia 6 đồng tình với tác động của vai trò lãnh đạo đến chất lượng BCTC và còn nói rõ thêm là nếu quan điểm của nhà lãnh đạo là muốn che dấu vấn đề nào đó thì họ sẽ yêu cầu nhân viên kế toán thực hiện các cách để có thể che dấu số liệu hoặc khai khống số liệu, điều này làm cho số liệu BCTC không đảm bảo tính trung thực, tính thích hợp cho người dùng; hoặc nhà lãnh đạo không thích theo định hướng trách nhiệm giải trình thì họ chỉ đạo nhân viên cấp dưới của họ không muốn tường minh hết các vấn đề liên quan của đơn vị cho các bên liên quan biết. Chuyên gia 8 nói rằng vai trò lãnh đạo có tác động đến chất lượng BCTC, vì một vị lãnh đạo theo dõi sát tình hình dự toán được cấp, theo dõi chặt chẽ các nguồn kinh phí thu chi từ các bộ phận tham mưu có đúng định mức, đúng với các chế độ chính sách hay không rồi đưa ra các quyết định của mình. Điều này ảnh hưởng rất quan trọng đến các số liệu đưa lên BCTC. Do đó chất lượng BCTC bị ảnh hưởng phần nào bởi quyết định bởi vai trò lãnh đạo. Chuyên gia 9 khẳng định rằng chất lượng BCTC bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nhà lãnh đạo. Do nhà lãnh đạo là người quyết định các khoản thu, chi, mức trích lập các quỹ phục vụ yêu cầu quản lý của nhà lãnh đạo. Chuyên gia 10 còn nhấn mạnh thêm rằng chất lượng BCTC có bị ảnh hưởng nếu có sự tác động của nhà lãnh đạo đơn vị công theo hướng không trung thực. ví dụ: Các đơn vị công hiện nay có nhiều nguồn thu dù ít hay nhiều, nhưng vẫn được Ngân sách nhà nước đảm bảo chi, nếu nhà lãnh
68
Tác động của vai trò lãnh đạo đến trách nhiệm giải trình
Tất cả ý kiến của các chuyên gia đều nhất trí rằng vai trò lãnh đạo có tác động cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
đạo trung thực muốn thể hiện hết tất cả các nguồn thu của đơn vị, báo cáo về tình hình hoạt động của đơn vị sẽ công khai được tính minh bạch của ban giám đốc và đơn vị đến với cơ quan cấp trên và người lao động và phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ như nộp thuế, trích lập các nguồn quỹ theo quy định, từ đó đánh giá được năng lực thực sự của đơn vị. Nếu nhà lãnh đạo muốn báo cáo tình hình thu chi thấp bỏ một số doanh thu ngoài sổ sách không theo dõi, sẽ phản ánh không trung thực về doanh thu của đơn vị, nguồn thu không đảm bảo chi cho đơn vị, nhà nước vẫn phải đảm bảo chi cho đơn vị nhiều hơn, nhà nước sẽ mất đi nguồn thu từ nghĩa vụ đóng thuế. Chuyên gia 1 nói rằng nhà lãnh đạo phải thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao nên họ chắc chắn ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình. Chuyên gia 2 lưu ý rằng lãnh đạo cần phải nắm rõ thông tin của các nội dung mà đơn vị phụ trách để giải trình toàn bộ hoạt động khi có yêu cầu. Chuyên gia 3 nói thêm bởi vì toàn bộ số liệu báo cáo thu, chi đều có ý kiến chỉ đạo, quyết định của nhà lãnh đạo. Ví dụ như thu BHXH, BHYT, BHTN không đạt kế hoạch thì nhà lãnh đạo phải có trách nhiệm giải trình. Chuyên gia 4 khẳng định nhà lãnh đạo có ảnh hưởng quan trọng đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị. Cụ thể, ông nói rằng nhà lãnh đạo đơn vị mà thích lãnh đạo theo luật thì việc giải trình sẽ thực hiện theo đúng quy định pháp luật, nhưng có thể sẽ kém linh hoạt và giải trình bị hạn chế khi không có căn cứ pháp lý rõ ràng, chi tiết. Và nhà quản lý cấp cao mà thích lãnh đạo định hướng trách nhiệm giải trình thì việc giải trình sẽ được linh hoạt hơn, tuy nhiên, việc giải trình chưa hẳn tuân thủ đúng quy định pháp luật. Do vậy, nhà lãnh đạo trong đơn vị công nên kết hợp cả hai vai trò này lại với nhau khi thực hiện quản lý đơn vị. Chuyên gia 6 còn phân tích: Người mà thích lãnh đạo theo luật hoặc/và người thích lãnh đạo định hướng trách nhiệm giải trình đều có tác động đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị công. Bởi vì, thực chất lãnh đạo theo luật và lãnh đạo định hướng trách nhiệm giải trình là 2 phương pháp lãnh đạo bổ trợ lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu quản lý, quản trị; và đương nhiên nó ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của đơn vị (có thể theo nhiều chiều hướng khác nhau: cùng chiều, tiêu cực, chung chung; tuy nhiên thường là cùng chiều). Hơn nữa, khi đề cập đến vai trò của nhà lãnh đạo trong thực hiện trách nhiệm giải trình, Chuyên gia 8 còn khẳng định: Tại Điều 16 của Nghị Định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 đã nói rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan Nhà nước trong tổ chức thực hiện trách nhiệm giải trình.
Vì vậy nhà lãnh đạo không chỉ có ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình mà còn là người đứng đầu chịu trách nhiệm trong việc: Cụ thể hóa việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong Nội quy, Quy chế làm việc của cơ quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan mình; Tổ chức, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý thực hiện hiện nghiêm túc các quy định về trách nhiệm giải trình và xử lý trong trường hợp vi phạm quy định về trách nhiệm giải trình. Thêm vào đó, làm rõ hơn về mối quan hệ này trong thực tế, Chuyên gia 9 nói rằng: Vì nhà lãnh đạo là người có quyền ra quyết định về các vấn đề của đơn vị, dó đó khi có vấn đề xảy ra, nhà lãnh đạo phải giải trình với các cơ quan cấp trên về vấn đề đó, giải trình để làm rõ được các quyết định đã đưa ra là đúng hay sai. Ví dụ: Việc thu viện phí tại các cơ sở y tế, cuối năm báo cáo tài chính thể hiện có thặng dư, trích lập được các nguồn quỹ theo quy định, nhưng khi kiểm tra nguồn tiền tại đơn vị thì lại không đủ để đảm bảo nguồn tiền đó, đơn vị kiểm tra bắt đơn vị phải giải trình tại sao? Nhà lãnh đạo phải nắm bắt nguyên nhân tại sao mới lý giải được vấn đề trên. Qua phân tích đánh giá nguồn tiền không đảm bảo cho các nguồn quỹ thặng dư là do một số yếu tố sau: đơn vị đã trả tiền trước cho người bán nhiều, chưa thu nợ của khách hàng, chi thâm một số quỹ so với lượng được trích lập,…Do đó nhà lãnh đạo phải nắm bắt được các nguyên nhân để giải trình một cách hợp lý để người kiểm tra hoặc sử dụng báo cáo tài chính nắm được vấn đề và tìm biện pháp khắc phục. Sau đó, Chuyên gia 9 đã khẳng định lại như sau: Nhà lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị. Do nhà lãnh đạo là người đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều hành mọi hoạt động của đơn vị. Ngoài ra, các chuyên gia còn lại (Chuyên gia 5 và Chuyên gia 10) cũng giải thích xoay quanh vấn đề là nhà lãnh đạo đóng vai trò then chốt khi thực hiện trách nhiệm giải trình; cụ thể, nếu nhà lãnh đạo có đức tính trung thực, sống nguyên tắc và chính trực thì họ có xu hướng thích minh bạch, rõ ràng, công khai mọi hoạt động của đơn vị cũng như giải thích cụ thể về tình hình tài chính của đơn vị. Đồng thời, họ sẵn sàng chịu trách nhiệm trước cơ quan chức năng về các sai phạm của mình nếu có. Chuyên gia 1 giải thích rằng: Khi giải trình các vấn đề về tài chính, mặc dù thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm giải trình nhưng kế toán đóng vai trò cơ bản, là người hỗ trợ nhà lãnh đạo khi giải trình. Vì vậy, kế toán có chuyên môn giỏi, có khả năng diễn đạt tốt sẽ giúp đơn vị thực hiện tốt trách nhiệm giải trình khi có yêu cầu của các bên liên quan.
Như vậy, tất cả các chuyên gia đều đồng tình rằng năng lực kế
69
Tác động của năng lực kế toán đến trách nhiệm giải trình
toán ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
Chuyên gia 3 nêu rõ: năng lực kế toán có ảnh hưởng nhiều đến việc giải trình của đơn vị, kế toán giỏi, nắm vững nghiệp vụ chuyên môn thì việc giải trình sẽ được sự chấp thuận của người yêu cầu Chuyên gia 2, Chuyên gia 4, Chuyên gia 5 cũng như Chuyên gia 6 đều đồng tình rằng năng lực của kế toán có ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình. Thể hiện ở chỗ kế toán là người am hiểu nhất về BCTC do mình làm ra và kế toán phải hiểu và đọc được BCTC thì mới để giải trình khi có yêu cầu. Chuyên gia 8 nói rằng: Theo cá nhân tôi thì năng lực kế toán ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị. Tùy vào năng lực am hiểu nắm bắt công việc như thế nào mà kế toán có thể giải trình được. Ví dụ như để giải trình một vấn đề gì đó cho lãnh đạo, ủy ban kiểm tra hoặc với kiểm toán thì bản thân người kế toán đó phải có năng lực nắm bắt bao quát công việc cho đến chi tiết, hiểu tường tận vấn đề để thực hiện trách nhiệm giải trình tốt hơn. Chuyên gia 9 còn phân tích thêm như sau: Khi thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị đối với cơ quan cấp trên hoặc đoàn kiểm tra, thanh tra. Nếu năng lực của nhân viên kế toán yếu, không nắm vững được các văn bản pháp luật, xâu chuỗi các sự kiện lại với nhau thì dễ bị sai sót trong việc thu chi tại đơn vị. Nếu năng lực của nhân viên kế toán tốt, nắm vững được các văn bản sẽ giải trình theo trình tự, áp dụng đúng theo từng văn bản pháp luật để tránh tình trạng xuất toán ngân sách của đơn vị. Ví dụ: Trong công tác phòng chống dịch bệnh sốt xuất huyết, có hoạt động phun thuốc hóa chất để phòng chống sốt xuất huyết cần thuê nhân công để thực hiện, đơn vị chi cho mỗi máy phun tiền thuê nhân công là 150.000đ/công/ngày x 2 công = 300.000đ – Đoàn kiểm tra hỏi tại sao lại xây dựng mức chi này, tại sao không cao hơn hay thấp hơn? - Nhân viên kế toán phải biết được mức chi cụ thể theo Thông tư 26/2018/TT-BTC về Quy định, quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện mục tiêu y tế dân số từ 2016-2020, Nghị định 141/2017/NĐ- CP về Quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, Quyết định 3711/QĐ-BYT ngày 19/09/2014 về việc hướng dẫn giám sát và phòng, chống bệnh sốt xuất huyết Dengue. Từ các văn bản trên nhân viên kế toán sẽ xây dựng được mức chi hợp lý, phù hợp. Chuyên gia 10 khẳng định rằng: Kế toán có năng lực tốt thì sẽ giúp cho việc giải trình được chuẩn hơn và ít bị sai sót trong việc giải trình. Chuyên gia 1 và Chuyên gia 5, cho thấy rằng chất lượng BCTC ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình, nghĩa là, BCTC có chất lượng tốt thì sẽ giúp cho người dùng có đủ cơ sở đánh
Tóm lại, phần lớn ý kiến chuyên gia
70
Tác động của chất lượng BCTC đến
71
trách nhiệm giải trình
đều đồng ý với tác giả là chất lượng BCTC có ảnh hưởng cùng chiều đến trách nhiệm giải trình của các đơn vị công tại Việt Nam.
Hầu hết (90%) chuyên gia cho rằng chất lượng
Tác động trực tiếp của lượng chất BCTC đến thành
giá trách nhiệm giải trình của đơn vị, cũng như khuyến khích đơn vị tăng cường nghĩa vụ giải trình Chuyên gia 2 cho rằng chất lượng BCTC có thể không ảnh hưởng nhiều đến trách nhiệm giải trình. Chuyên gia 3 còn nói thêm rằng: chất lượng BCTC tốt ảnh hưởng cùng chiều đến việc giải trình của đơn vị công, vì nó thể hiện được tính hợp lý, chính xác trung thực của BCTC. Chuyên gia 4 trao đổi thêm: Theo tôi thì chất lượng BCTC có ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của đơn vị. Ví dụ: nhầm lẫn trong việc thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, tức là thông tin trên BCTC cung cấp không chính xác dẫn đến sai lệch trong thông tin giải trình trách nhiệm của đơn vị đối với ngân sách nhà nước. Chuyên gia 6 còn nói: Chất lượng BCTC có tác động đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị công (đánh giá trách nhiệm của đơn vị công), bởi vì, khi đánh giá một vấn đề nói chung hoặc đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn vị thì người dùng cần thu thập đủ lượng thông tin cần thiết một cách chính xác, đầy đủ, có kiểm chứng thì phạm vi đánh giá mới đủ độ tin cậy. Chuyên gia 8 tiếp tục nhấn mạnh rằng: Theo cá nhân của tôi thì chất lượng BCTC có tác động đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị công. Vì chất lượng BCTC tốt, số liệu rõ ràng thì việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị công khá dễ dàng và ngược lại số liệu BCTC không trùng khớp, không rõ ràng thì việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị công khá phức tạp và vất vả. Ngoài ra, Chuyên gia 9 khẳng định thêm: Chất lượng BCTC chi phối nhiều đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình của đơn vị. Cụ thể là khi một BCTC đạt chất lượng tốt thì việc giải trình sẽ không căng thẳng, không cần giải trình gì nhiều. Nhưng khi một BCTC không đạt chất lượng, các số liệu trong BCTC chưa chính xác, nêu bật được tính trung thực hợp lý thì nhà lãnh đạo phải thực hiện trách nhiệm giải trình nhiều hơn. Chuyên gia 10 khẳng định lại thêm rằng: Chất lượng BCTC có ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm giải trình. Chất lượng BCTC kém, có nhiều sai xót sẽ làm hạn chế khả năng giải trình của đơn vị. Chuyên gia 2 cho rằng thành quả hoạt động của đơn vị công rất khó đo lường nên ảnh hưởng của chất lượng BCTC đến thành quả hoạt động là không rõ ràng. Chuyên gia 3 giải thích thêm rằng: chất lượng BCTC tốt nó thể hiện được sự trung thực về số
có
72
quả hoạt động
BCTC tác động cùng chiều thành quả đến hoạt động của các đơn vị công tại Việt Nam.
liệu, phản ánh rõ ràng chính xác tình hình ưu, nhược điểm của kết quả hoạt động của đơn vị công, từ đó lãnh đạo có trách nhiệm nghiên cứu đề ra giải pháp cho hoạt động đơn vị công. Chuyên gia 4 tiếp tục nhấn mạnh rằng: Chắc chắn có mối quan hệ giữa chất lượng BCTC và thành quả hoạt động của tổ chức. Vì thông tin kế toán được cung cấp kịp thời, có độ chính xác cao sẽ giúp cho nhà lãnh đạo sử dụng thông tin phù hợp cho các quyết định; khi đó, các quyết định sẽ được chính xác, khắc phục được các yếu kém, khuyết tật, đẩy mạnh các lợi thế, ưu diểm, từ đó nâng cao được hiệu quả kinh doanh”. Chuyên gia 4 còn nói thêm rằng: “Vì các thông tin trên BCTC cho biết về thực trạng tài chính của đơn vị, những điểm mạnh, điểm yếu so với năm trước, từ đó có những quyết định cho tương lại. Ví dụ như tình hình tồn kho vật tư tăng hay giảm so cùng kỳ, xác định nguyên do, từ đó có quyết định cho chính sách tồn kho vật tư của đơn vị. Chuyên gia 5 nhấn mạnh rằng: Chất lượng BCTC có ảnh hưởng cùng chiều đến thành quả hoạt động của đơn vị công, cụ thể là chất lượng BCTC kém sẽ gây khó khăn cho người muốn khai thác thông tin, thiếu cơ sở ra quyết định để cải thiện kết quả. Ngoài ra, Chuyên gia 6 còn lưu ý thêm rằng: Chất lượng BCTC cơ bản cũng có thể không ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của đơn vị hiện tại nhưng nó có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động tương lai thông qua việc cung cấp thông tin ra quyết định, bởi vì, thông tin báo cáo có chính xác, cụ thể, có định hướng... thì quyết định sẽ chính xác. Hơn nữa, Chuyên gia 8 giải thích thêm là: Vì thành quả hoạt động của đơn vị như thế nào đều được thể hiện trên BCTC nên chất lượng các số liệu của BCTC càng chính xác giúp người đọc BCTC biết rõ hơn về tình hình hoạt động; từ đó, đưa ra các quyết định của mình một cách chính xác hơn và ảnh hưởng của quyết định đến kết quả hoạt động của đơn vị tùy thuộc vào người ra quyết định là ai. Ví dụ, nếu người sử dụng thông tin là thủ trưởng đơn vị thì trên cơ sở thông tin chính xác họ sẽ biết được lý do vì sao kết quả hoạt động hiện tại ở đơn vị mình bị thâm hụt để có thể đưa ra các phương án nhằm cải thiện kết quả hoạt động. Còn nếu người sử dụng thông tin BCTC là công dân, thông qua đọc thông tin trên BCTC họ nhận thấy được các thông tin trình bày rõ ràng, kịp thời, trung thực về kết quả hoạt động thì họ sẽ tăng niềm tin vào khu vực công; trong trường hợp đơn vị bị thâm hụt thì công dân, người nộp thuế, nhà đầu tư sẽ tăng cường áp lực để tổ chức công có thể hoạt động tốt hơn. Chuyên gia 9 tiếp tục khẳng định rằng chất lượng BCTC có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động vì nhà quản lý căn cứ vào báo cáo tài chính để ra quyết định. Ông giải thích như sau: Nếu các chỉ
73
của động Tác trách nhiệm giải trình đến thành quả hoạt động
Tổng quát hóa, nhận định của chuyên gia tương với thích giả ra đặt thuyết trong luận án, tức là trách nhiệm giải trình có tác động cùng chiều đến thành quả hoạt động trong các đơn vị công ở Việt Nam.
số trên BCTC không phản ánh đúng thực trạng của thì đơn vị thì rất dễ dẫn đến những quyết định sai lầm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của đơn vị. Chuyên gia 10 tiếp tục bổ sung: Khi đơn vị chủ quản nhìn vào BCTC sẽ đánh giá được kết quả hoạt động của đơn vị công trong năm có đạt so với dự toán cao thấp; sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước cấp hoặc hoạt động kinh doanh có dư để tiến tới tự chủ được hay không. Ví dụ: dựa trên BCTC của đơn vị, thặng dư (thâm hụt) từ các nguồn thu bằng 0, từ đó, đơn vị chủ quản cho rằng hiệu quả của đơn vị công chưa được tốt trong công tác thu và chi tại đơn vị, cần phải đầu tư phát triển thu hút nguồn thu từ các dịch vụ cung cấp, tiết kiệm các khoản chi để tạo thặng dư – Quan điểm này khá tương đồng với ý kiến của Chuyên gia 1. Chuyên gia 1, Chuyên gia 2 và Chuyên gia 3 đều đồng ý rằng trách nhiệm giải trình có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động. Chuyên gia 1 nói thêm là tác động này theo hướng cùng chiều. Chuyên gia 4 nói rằng: Theo tôi, khi đơn vị thực hiện tốt trách nhiệm giải trình thì thành quả hoạt động của đơn vị có thể được cải thiện. Vì trách nhiệm giải trình tốt thì tạo được niềm tin cho những người quan tâm (nhân dân, khách hàng, nhà đầu tư...) và cả các cơ quan quản lý, từ đó họ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc cùng tham gia (đầu tư, liên doanh, liên kết, tài trợ...) với đơn vị, họ sẽ sử dụng dịch vụ của đơn vị,... cuối cùng là nâng cao được hiệu quả kinh doanh cho đơn vị. Chuyên gia 5 còn đưa ra ví dụ như sau: Khi đánh giá khả năng tự trang trải từ kết quả hoạt động thu phí điểm du lịch A, đơn vị cung cấp BCTC không phân biệt rõ kết quả từ hoạt động sự nghiệp và kinh doanh; vì thế đơn vị đã không thể giải trình được lý do để tăng giá vé du lịch trước Hội đồng thẩm định; cho nên kế hoạch tăng giá vé vào cổng không được chấp nhận. Và điều này sẽ tác động đến kết quả hoạt động tại đơn vị. Thêm vào đó, Chuyên gia 6 bổ sung thêm rằng: Khi đơn vị công thực hiện tốt trách nhiệm giải trình thì thành quả hoạt động của đơn vị sẽ được cải thiện trong tương lai, bởi vì, việc giải trình rõ ràng giúp cho đơn vị tự nhận thấy các ưu và khuyết điểm trong các chính sách trước đó, thông qua đó, họ sẽ cải tiến các chiến lược, chính sách để hoạt động tốt hơn; cuối cùng, quyết định tốt thì đương nhiên kết quả hoạt động tốt. Cùng quan điểm với Chuyên gia 6, Chuyên gia 8 nói rằng: Theo tôi thì khi đơn vị thực hiện tốt trách nhiệm giải trình thì kết quả hoạt động của đơn vị được cải thiện. Ví dụ khi đơn vị có kiểm tra hoặc kiểm toán, đơn vị thực hiện tốt trách nhiệm giải trình, sẽ rút được kinh nghiệm hữu ích ở những điểm chưa hoàn thiện từ đó cải thiện hoạt động của đơn vị tốt hơn.
74
Tác động gián tiếp của lượng chất BCTC đến thành quả hoạt động thông qua trách nhiệm giải trình
Như vậy, vai trò trung gian của trách nhiệm giải tác trình trong tiếp động gián lượng của chất BCTC đến thành quả hoạt động đã nhận được sự đồng ý của phần lớn (90%) các chuyên gia tham gia trao đổi.
Chuyên gia 9 bổ sung thêm rằng: Khi đơn vị thực hiện tốt trách nhiệm giải trình thì nêu rõ được nguyên nhân đạt được kết quả tốt hoặc xấu. Từ đó, đưa ra được các giải pháp cải thiện tình hình để đạt kết quả tốt hơn. Ví dụ, tại các bệnh viện thực hiện dịch vụ khám chữa bệnh, năm trước đạt thu viện phí thấp gần bằng dự toán giao, Ban giám đốc thấy được bệnh viện chưa phát triển được nhiều dịch vụ kỷ thuật, cần phải đầu tư phát triển và thấy rằng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền có doanh thu cao nên quyết định năm nay phát triển khoa y học cổ truyền để tăng nguồn thu cho đơn vị. Chuyên gia 10 khẳng định lại: Khi đơn vị thực hiện tốt trách nhiệm giải trình thì thành quả hoạt động của đơn vị được cải thiện. Vì nếu tình hình tài chính của đơn vị công khai, minh bạch, rõ ràng sẽ thu hút được các khoản đầu tư, không xảy ra tình trạng bất ổn nội bộ do báo cáo tài chính, thu chi không minh bạch. Chuyên gia 1 tiếp tục nhấn mạnh rằng: “Về mặt lý luận thì vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình có thể nhận thấy được nhưng xét về mặt thực tiễn thì nó hơi trừu tượng. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu được nó bởi vì một BCTC cung cấp thông tin kịp thời, có thể hiểu được, có thể so sánh hay đáng tin cậy thì sẽ giúp cho việc giải trình của đơn vị thực hiện dễ dàng hơn; trên cơ sở này, sẽ tạo được niềm tin của các cơ quan cấp trên, người dân, nhà đầu tư hay nhân viên. Sau đó, đơn vị sẽ nhận được sự hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần cho các kế hoạch phát triển của đơn vị, điều này đến lượt nó sẽ giúp cải thiện hay nang cao thành quả hoạt động của đơn vị”. Chuyên gia 2 không chắc chắn tồn tại vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình trong thực tế. Chuyên gia 6 giải thích thêm là: Nếu BCTC trung thực, phản ánh đúng sự thật về tình hình hoạt động của đơn vị giúp cho việc giải trình được rõ ràng hơn về các nguyên nhân gây ảnh hưởng đến kết quả. Từ đó, đưa ra quyết định đúng cho nhà đầu tư. Ngược lại, BCTC không trung thực, số liệu mập mờ làm việc giải trình không được trung thực, bị che dấu làm ảnh hưởng đến quyết định của thủ trưởng đơn vị, nhà đầu tư cuối cùng chi phối đến thành quả hoạt động của đơn vị. chuyên gia 8 còn nói thêm rằng: Vào thời điểm hiện tại quan niệm trách nhiệm giải trình vẫn còn khá mới ở Việt Nam. trách nhiệm giải trình có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Nền hành chính công tại Việt Nam vận hành dựa trên quyền lực từ trên xuống với kỷ luật và trách nhiệm rõ ràng. Vì vậy, chất lượng BCTC tác động đến kết quả của đơn vị công thông qua trách nhiệm giải trình. Chẳng hạn, kết quả hoạt động của đơn vị công như thế nào thì được thể hiện rõ trên BCTC. Và BCTC càng đảm bảo chất lượng thì việc đánh giá trách nhiệm giải trình của đơn
75
Tác động của quy mô đơn vị đến thành quả hoạt động
vị càng dễ dàng, thông qua đó người dùng cũng như thủ trưởng đơn vị có thể làm rõ hơn tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động, biết được các nguyên nhân của thâm hụt để đưa ra các điều chỉnh phù hợp và cải thiện kết quả. Do đó, theo tôi thì ba yếu tố này có ảnh hưởng liên quan lẫn nhau. Chuyên gia 9 còn nhấn mạnh lại rằng: Chất lượng BCTC ảnh hưởng đến kết quả hoạt động thông qua việc đánh giá trách nhiệm giải trình. Thông qua việc đánh giá trách nhiệm giải trình, nhà quản trị cho thấy được khả năng quản trị của mình tốt hay xấu tới kết quả hoạt động của đơn vị. Từ đó các cơ quan cấp trên sẽ có những quyết định đúng đắn để thúc đẩy kết quả hoạt động của đơn vị ngày một cải thiện. Chuyên gia 10 kết luận lại rằng: Vai trò trung gian của trách nhiệm giải trình là không có gì bàn cãi vì chất lượng BCTC ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình và trách nhiệm giải trình ảnh hưởng trực tiếp đến thành quả hoạt động như đã thảo luận ở trên. Các chuyên gia 3, 4 và 5 cũng đồng tình với quan điểm này. Tất cả ý kiến nhận được từ các chuyên gia là đều đồng ý. Chuyên gia 1 và Chuyên gia 10 nhấn mạnh thêm là những đơn vị công có quy mô được thể hiện bởi số lượng nhân viên hoặc quy mô tài sản càng lớn thì có nhiều nguồn lực hơn để đầu tư, mở rộng cơ sở vật chất, từ đó cung cấp dịch vụ công tốt hơn và điều này sẽ thu hút nhiều khách hàng, góp phần nâng cao thành quả hoạt động cho đơn vị.
Quy mô có ảnh hưởng cùng chiều đến thành quả hoạt động trong các tổ chức công.
Tất cả ý kiến nhận được từ các chuyên gia là đều đồng ý. Chuyên gia 6 và Chuyên gia 8 khẳng định thêm là đơn vị công hoạt động càng lâu năm thì có nhiều kinh nghiệm hơn trong công tác quản lý nguồn lực, dễ dàng thích nghi với các thay đổi từ môi trường bên ngoài nên thường hoạt động ổn định và tốt hơn nhưng đơn vị mới được thành lập.
Tác động của thời gian hoạt động đến thành quả hoạt động
Thời gian hoạt ảnh có động hưởng cùng chiều đến thành quả hoạt động trong các tổ chức công.
76
Phụ lục 12: Tổng hợp ý kiến chuyên gia về điều chỉnh thang đo
Thang đo gốc
Ý kiến tác giả
Ý kiến chuyên gia
Thang đo chính thức
Accounting competency
Năng lực kế toán
Năng lực kế toán
Năng lực kế toán
Accounting knowledge
Kiến thức kế toán
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Có kiến thức chuyên môn về kế toán tốt
General business knowledge
Kiến thức kinh doanh chung
Có kiến thức kinh doanh tổng hợp tốt
Đưa ra hai câu để làm rõ nghĩa của thang đo gốc
Có kiến thức về các vấn đề toàn cầu tốt
Information technology
Kiến thức công nghệ thông tin
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Có kiến thức về công nghệ thông tin tốt
Communications skills
Kỹ năng giao tiếp
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Có kỹ năng giao tiếp tốt
Problem-solving skills
Kỹ năng giải quyết vấn đề
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Có kỹ năng giải quyết công việc tốt
Computer skills
Kỹ năng máy tính
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Có kỹ năng thực hành tin học tốt
Interpersonal skills
Kỹ năng tương tác
Có kỹ năng làm việc và quản lý nhóm tốt
Thay đổi lại thuật ngữ nhằm diễn đạt cho rõ nghĩa hơn
attitudes
and
Thái độ làm việc rất tự tin
Personal capabilities
Các thái độ và phẩm chất cá nhân
Tách làm bốn câu để rõ nghĩa của thang đo gốc
Tác phong làm việc nhanh nhẹn
Ham học hỏi kiến thức mới
Làm việc với thái độ nghiêm túc và trung thực
Leadership
Lãnh đạo
Vai trò lãnh đạo
Vai trò lãnh đạo
Rule-following leadership
Lãnh đạo theo luật
Lãnh đạo theo luật
Lãnh đạo theo luật
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Nhấn mạnh với nhân viên trong đơn vị rằng điều quan trọng là phải tuân thủ luật pháp
Emphasizes to me and my colleagues that it is important to follow the law
Nhấn mạnh với tôi và các đồng nghiệp của tôi rằng điều quan trọng là phải tuân thủ luật pháp
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Gives me and my colleagues the means to properly follow
Cung cấp cho tôi và các đồng nghiệp của tôi các phương tiện
Cung cấp cho nhân viên trong đơn vị các phương tiện để tuân thủ đúng các luật lệ và
rules
and
quy định của nhà nước
governmental regulations
để tuân thủ đúng các quy tắc và quy định của chính phủ
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
I
Nhấn mạnh với các nhân viên trong đơn vị là phải thực hiện đúng chính sách của nhà nước
Emphasizes that my colleagues and carry out should government policies properly
Nhấn mạnh rằng các đồng nghiệp của tôi và tôi nên thực hiện đúng chính sách của chính phủ
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
that we accurately and rules the
Đảm bảo rằng nhân viên tuân thủ chính xác các luật lệ và thủ tục khi xử lý công việc.
Ensures follow procedures.
Đảm bảo rằng chúng tôi tuân thủ chính xác các quy tắc và thủ tục.
77
Accountability leadership
Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình
Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình
Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Encourages me and my explain our to colleagues actions to various stakeholders
Khuyến khích các nhân viên trong đơn vị giải thích hành động của mình cho các bên liên quan khác nhau.
Khuyến khích tôi và các đồng nghiệp của tôi giải thích hành động của chúng tôi cho các bên liên quan khác nhau
to
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
inform us Stimulates stakeholders of our way of working.
Kích thích chúng tôi thông báo cho các bên liên quan về cách làm việc của chúng tôi.
Kích thích các nhân viên trong đơn vị thông báo cách làm việc của mình cho các bên liên quan.
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Provides us with the possibility to to explain our behavior stakeholders.
Cung cấp cho chúng tôi khả năng giải thích hành vi của chúng tôi cho các bên liên quan
Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhân viên trong đơn vị khả năng để giải thích thái độ làm việc của mình cho các bên liên quan khác nhau
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Emphasizes that it is important that we answer questions from clients.
Nhấn mạnh rằng điều quan trọng là chúng tôi trả lời các câu hỏi từ khách hàng
Nhấn mạnh với nhân viên trong đơn vị rằng việc trả lời các câu hỏi từ khách hàng là rất quan trọng.
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Luôn cố gắng đảm bảo rằng nhân viên trong đơn vị chia sẻ cởi mở và trung thực các hoạt động của đơn vị với những người khác.
Strives to ensure that we are openly and honestly share the actions of our organizational unit with others
Cố gắng đảm bảo rằng chúng tôi chia sẻ cởi mở và trung thực các hành động của đơn vị chúng tôi với những người khác
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa hơn
Stimulates us to explain to stakeholders why certain decisions were taken
Kích thích chúng tôi giải thích cho các bên liên quan tại sao một số quyết định được đưa ra
Kích thích nhân viên trong đơn vị giải thích cho các bên liên quan khác nhau về việc tại sao một số quyết định được đưa ra bởi đơn vị.
78
Financial reporting quality
Chất lượng báo cáo tài chính
Chất lượng báo cáo tài chính
Chất lượng báo cáo tài chính
qualitative
Đặc tính chất lượng nền tảng Đặc tính chất lượng nền tảng
Đặc tính chất lượng nền tảng
Fundamental characteristics
Relevance
Tính thích hợp
Thông tin trên Báo cáo tài chính thể hiện các sự kiện kinh tế đã xảy ra trong quá khứ
+ Confirmatory value
+ Giá trị xác nhận
Đồng ý và có góp ý về cách diễn đạt lại các biến quan sát thành câu hỏi cho rõ nghĩa hơn
+ Predictive value
+ Giá trị dự đoán
Thông tin trên Báo cáo tài chính giúp người dùng có thể dự đoán tương lai dựa trên thông tin về kết quả của các sự kiện xảy ra trong quá khứ và hiện tại
Faithful representation
Trình bày trung thực
Thông tin trên Báo cáo tài chính mô tả đầy đủ các sự kiện đã phát sinh tại đơn vị
+ Complete information
+ Thông tin đầy đủ
+ Information is neutral
+ Thông tin khách quan
Nên dịch là tính đáng tin cậy, có góp ý và đưa ra 5 câu hỏi nhằm diễn đạt rõ ràng và đầy đủ ý nghĩa của các biến quan sát liên quan.
+ Thông tin mô tả đúng bản chất
Thông tin trên BCTC mô tả các sự kiện phát sinh tại đơn vị một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người lập
+ The information describes the nature
+ Không có sai sót trọng yếu
+ Free from material error
Thông tin trên BCTC mô tả trung thực các sự kiện phát sinh
Thông tin trên Báo cáo tài chính mô tả đúng bản chất của các sự kiện đã phát sinh tại đơn vị
Thông tin trên Báo cáo tài chính mô tả các sự kiện phát sinh tại đơn vị không có sai sót ở các khía cạnh trọng yếu
qualitative
Đặc tính chất lượng bổ sung
Đặc tính chất lượng bổ sung
Đặc tính chất lượng bổ sung
Enhancing characteristics
Timeliness
Tính kịp thời
Đồng ý và diễn đạt lại cho phù hợp
Thông tin trên BCTC được cung cấp kịp thời
cho người dùng
Having information available for users before it loses its capacity to be useful
Thông tin có sẵn cho người dùng trước khi nó mất đi tính hữu ích
Understandability
Tính có thể hiểu được
+ Plain language
Thông tin được trình bày trong Báo cáo tài chính mang tính có thể hiểu được đối với người sử dụng
+ Ngôn ngữ trình bày có thể hiểu được
+ Presented in a manner
Nên gộp 2 biến quan sát này lại, chỉ cần dùng 1 câu để diễn đạt thì người đọc có thể biết nó đang nói về đặc tính có thể hiểu được.
+ Hình thức trình bày có thể hiểu được
Comparability
Tính so sánh
Đồng ý và góp ý về cách diễn đạt
Thông tin trên Báo cáo tài chính được tạo ra từ việc áp dụng nhất quán các chính sách kế toán
+ Consistency of application of accounting policies
+ Sử dụng nhất quán các chính sách kế toán
Thông tin trên Báo cáo tài chính có thể dùng để so sánh với các báo cáo tài chính năm trước tại đơn vị
+ Internal comparisons across time
+ Có thể so sánh với số liệu kỳ trước tại đơn vị
External
comparisons
+ between entities
+ Có thể so sánh với số liệu của các đơn vị khác
Thông tin trên Báo cáo tài chính có thể dùng để so sánh với các báo cáo tài chính của các đơn vị khác có cùng chế độ kế toán
Verifiability
Tính kiểm chứng
Đồng ý và góp ý về cách diễn đạt
Thông tin trên Báo cáo tài chính có thể kiểm chứng được
79
Accountability
Trách nhiệm giải trình
Trách nhiệm giải trình
Trách nhiệm giải trình
Public accountability
Trách nhiệm giải trình công
Trách nhiệm giải trình công
Trách nhiệm giải trình công
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức Xác định xem đơn vị có hoạt động vì lợi ích
tốt nhất của cộng đồng hay không.
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức; diễn đạt rõ từ hữu hiệu
To determine if organisation has operated in best interest of community To determine if organisation has conducted its operations effectively To determine if organisation has conducted its operations
Xác định xem tổ chức có hoạt động vì lợi ích tốt nhất của cộng đồng hay không. Xác định xem tổ chức đã tiến hành các hoạt động có hữu hiệu không. Xác định xem tổ chức đã tiến hành các hoạt động có hiệu quả
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức; diễn đạt rõ từ hiệu quả
Xác định xem đơn vị đã tiến hành các hoạt động có đạt được kết quả như mong muốn hay không. Xác định xem đơn vị đã tiến hành các hoạt động có đạt hiệu quả hay không khi so sánh
các kết quả đạt được với tổng chi phí bỏ ra
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức Xác định xem đơn vị sử dụng tài nguyên có
efficiently To decide if resources used as intended
đúng như dự định không.
on
To determine effect of current operations future generations
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức Xác định xem các hoạt động hiện tại của đơn vị có ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai không.
Bổ sung từ đơn vị
Bổ sung từ đơn vị
Diễn đạt lại cho rõ nghĩa
80
To determine if public money used appropriately the effect of To determine current operations on future funding To make representations for funding Financial accountability
Trách nhiệm giải trình tài chính
Xác định xem đơn vị sử dụng quỹ công có phù hợp không. Xác định xem các hoạt động hiện tại của đơn vị có tác động đến nguồn quỹ trong tương lai không. Xác định xem đơn vị có thích hợp làm đơn vị đại diện cho quỹ không. Trách nhiệm giải trình tài chính
không. Xác định xem tổ chức sử dụng tài nguyên có đúng như dự định không. Xác định xem các hoạt động hiện tại của tổ chức có ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai không. Xác định xem việc sử dụng tiền công có phù hợp không. Xác định xem các hoạt động hiện tại có tác động đến nguồn quỹ trong tương lai không. Đưa ra quyết định làm đơn vị đại diện cho nguồn quỹ. Trách nhiệm giải trình tài chính
Xác định khả năng tài chính của đơn vị
Bổ sung từ đơn vị Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức Xác định xem đơn vị có thể đáp ứng các khoản
short
nợ ngắn hạn của mình hay không
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức Xác định xem tổ chức có thể đáp ứng các
long
khoản nợ dài hạn của mình hay không
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức Xác định xem đơn vị có tuân thủ ngân sách hay không Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức Xác định xem đơn vị có đạt được các mục tiêu
To determine financial viability Xác định khả năng tài chính To determine if organisation can meet term its liabilities To determine if organisation can meet term its liabilities To determine if organisation has adhered to budget To determine if organisation has met its objectives
đã đưa ra hay không
Xác định xem tổ chức có thể đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của mình hay không Xác định xem tổ chức có thể đáp ứng các khoản nợ dài hạn của mình hay không Xác định xem tổ chức có tuân thủ ngân sách hay không Xác định xem tổ chức có đạt được các mục tiêu đã đưa ra hay không So sánh kết quả với các tổ chức khác Thành quả hoạt động
To compare results with other similar organisation Performance
Dùng từ đơn vị thay cho từ tổ chức, diễn đạt rõ hơn. Thành quả hoạt động
So sánh kết quả của đơn vị với các đơn vị công khác Thành quả hoạt động
Bỏ bớt từ số lượng
Khối lượng công việc mà đơn vị đã thực hiện
Bỏ bớt từ chất lượng
Thay đổi từ ngữ diễn đạt
Mức độ chính xác của công việc mà đơn vị đã thực hiện Số lượng các sáng kiến của đơn vị
‘work
of
Điều chỉnh từ ngữ diễn đạt
Danh tiếng/Thành tích thi đua của đơn vị
Diễn giải chi tiết hơn
The quantity or amount of work produced The quality or accuracy of work produced The number of innovations or new ideas by the unit Reputation excellence’ Attainment of unit production or service goals
Mức độ đạt được các mục tiêu cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm mà đơn vị đã đề ra
Efficiency of unit operations
Số lượng hoặc khối lượng công việc đã thực hiện Chất lượng hoặc độ chính xác của công việc đã thực hiện Số lượng các đổi mới hoặc ý tưởng mới của đơn vị Danh tiếng của “công việc xuất sắc” Việc đạt được các mục tiêu cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm Sự hiệu quả của các hoạt động tại đơn vị
Morale of unit personnel
Cần mô tả rõ hơn về thuật ngữ hiệu quả để người trả lời dễ tiếp nhận khi được hỏi Thay đổi từ ngữ diễn đạt
Mức độ hiệu quả của các hoạt động mà đơn vị đã thực hiện khi so sánh các kết quả đạt được với tổng chi phí bỏ ra Sự hài lòng của nhân viên tại đơn vị
Tinh thần/Sự hài lòng của nhân viên tại đơn vị
81
82
Phụ lục 13: Bảng câu hỏi khảo sát
Kính chào Quý Ông/Bà!
Tôi tên là Trần Thị Yến, hiện là nghiên cứu sinh ngành Kế toán tại Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và đang công
tác tại Trường Đại học Quy Nhơn. Hiện nay, tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực kế toán công. Để thu thập
thông tin hỗ trợ cho đề tài nghiên cứu của mình, tôi rất mong Ông/Bà dành một ít thời gian quý báu để trả lời bảng câu hỏi dưới đây. Sự
giúp đỡ và ý kiến của Ông/Bà sẽ đóng góp rất lớn vào kết quả của cuộc nghiên cứu. Tôi xin cam đoan nội dung trả lời của Ông/Bà chỉ
nhằm mục đích nghiên cứu, ý kiến cá nhân của Ông/Bà không mang tính chất đúng hay sai mà có ý nghĩa rất quan trọng và đóng góp
lớn cho kết quả nghiên cứu, vì vậy mọi thông tin cá nhân của Ông/Bà đều được bảo mật. Nếu Ông/Bà quan tâm đến kết quả nghiên cứu
của đề tài hoặc có một số ý kiến đóng góp khác liên quan đến đề tài, Ông/Bà có thể gửi thư đến địa chỉ email của tác giả là
tranyen@qnu.edu.vn, số điện thoại cá nhân là 0935262037.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Quý Ông/Bà!
PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG
1. Họ và tên (có thể không ghi):………………………………………. 2. Thông tin liên lạc (SĐT/Email, có thể không ghi):………………………………….. 3. Tên đơn vị mà Ông/Bà đang công tác: ………………………………………………… 4. Tổng số lượng nhân viên (CC-VC, HĐ 68) đang làm việc tại đơn vị: ………………… 5. Đơn vị của Ông/Bà thành lập được bao nhiêu năm:…………………….... 6. Hiện tại, Ông/Bà đang công tác ở loại hình đơn vị nào:
Cơ quan hành chính Đơn vị sự nghiệp công lập Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã hội - nghề nghiệp hay các loại tổ chức khác.
83
7. Theo mức độ tự chủ tài chính hiện hay thì đơn vị của Ông/Bà thuộc loại nào:
Cơ quan nhà nước được giao tự chủ kinh phí Cơ quan nhà nước không được giao tự chủ kinh phí Đơn vị tự chủ chi thường xuyên và đầu tư Đơn vị tự chủ chi thường xuyên Đơn vị tự chủ một phần chi thường xuyên Đơn vị do NSNN cấp kinh phí
8. Lĩnh vực hoạt động (ngành) của đơn vị mà Ông/Bà công tác:
Ủy ban nhân dân các cấp Giáo dục Y tế Văn hóa, thể thao, du lịch Thông tin và truyền thông Khoa học và công nghệ Lĩnh vực kinh tế như nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải, công thương, xây dựng, lao động thương binh và xã hội, tư pháp. Lĩnh vực khác
9. Hiện tại, Ông/Bà đang công tác ở vị trí nào trong đơn vị: Nhà quản lý cấp cao (Trưởng/Phó đơn vị) Kế toán trưởng/người phụ trách kế toán, kế toán tổng hợp Kế toán viên Vị trí khác 10. Ông/Bà vui lòng cho biết số năm kinh nghiệm công tác ở đơn vị: Từ 3 năm đến 5 năm Trên 10 năm
Dưới 3 năm Từ 6 đến 10 năm
84
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Với từng vấn đề nghiên cứu được đề cập bên dưới, Ông/Bà vui lòng chọn 1 trong 5 mức để đánh dấu (X) vào mức độ nào mà Ông/Bà
nhận thấy nó phù hợp với suy nghĩ của mình.
Mức độ đồng ý
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
Xin cho biết mức độ đồng ý của Ông/Bà đối với các phát biểu sau đây. Nhân viên kế toán tại đơn vị thì:
Đồng ý
Rất đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
Không đồng ý
Bình thường
1. Có kiến thức chuyên môn về kế toán tốt (ACC1)
2. Có kiến thức kinh doanh tổng hợp tốt (ACC2)
3. Có kiến thức về các vấn đề toàn cầu tốt (ACC3)
4. Có kiến thức về công nghệ thông tin tốt (ACC4)
5. Có kỹ năng giao tiếp tốt (ACC5)
6. Có kỹ năng giải quyết công việc tốt (ACC6)
7. Có kỹ năng thực hành tin học tốt (ACC7)
8. Có kỹ năng làm việc và quản lý nhóm tốt (ACC8)
9. Thái độ làm việc rất tự tin (ACC9)
10. Tác phong làm việc nhanh nhẹn (ACC10)
11. Ham học hỏi kiến thức mới (ACC11)
12. Làm việc với thái độ nghiêm túc và trung thực (ACC12)
Mức độ đồng ý
Xin cho biết mức độ đồng ý của Ông/Bà đối với các phát biểu sau đây. Nhà lãnh đạo cấp cao của Ông/Bà thì:
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
Đồng ý
Rất đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
Không đồng ý
Bình thường
1. Nhấn mạnh với nhân viên trong đơn vị rằng điều quan trọng là phải
tuân thủ luật pháp (RL1)
2. Cung cấp cho nhân viên trong đơn vị các phương tiện để tuân thủ đúng
các luật lệ và quy định của chính phủ (RL2)
3. Nhấn mạnh với các nhân viên trong đơn vị là phải thực hiện đúng
chính sách của chính phủ (RL3)
4. Đảm bảo rằng nhân viên tuân thủ chính xác các luật lệ và thủ tục khi
xử lý công việc. (RL4)
5. Khuyến khích các nhân viên trong đơn vị giải thích hành động của
mình cho các bên liên quan khác nhau. (AL1)
6. Kích thích các nhân viên trong đơn vị thông báo cách làm việc của
mình cho các bên liên quan. (AL2)
7. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhân viên trong đơn vị khả năng để giải thích thái độ làm việc của mình cho các bên liên quan khác nhau (AL3)
8. Nhấn mạnh với nhân viên trong đơn vị rằng việc trả lời các câu hỏi từ
khách hàng là rất quan trọng. (AL4)
9. Luôn cố gắng đảm bảo rằng nhân viên trong đơn vị chia sẻ cởi mở và trung thực các hoạt động của đơn vị với những người khác. (AL5)
10. Kích thích nhân viên trong đơn vị giải thích cho các bên liên quan khác nhau về việc tại sao một số quyết định được đưa ra bởi đơn vị. (AL6)
85
Thông tin kế toán được trình bày trên Báo cáo tài chính (BCTC) mà
Mức độ đồng ý
86
đơn vị Ông/Bà cung cấp cho người dùng có các đặc điểm sau:
(4) Đồng ý
(5) Rất đồng ý
1. Thông tin trên Báo cáo tài chính thể hiện các sự kiện kinh tế đã xảy ra
(1) Hoàn toàn không đồng ý
(2) Không đồng ý
(3) Bình thường
trong quá khứ (FQ1)
2. Thông tin trên Báo cáo tài chính giúp người dùng có thể dự đoán tương lai dựa trên thông tin về kết quả của các sự kiện xảy ra trong quá khứ và hiện tại (FQ2)
3. Thông tin trên Báo cáo tài chính mô tả đầy đủ các sự kiện đã phát sinh
tại đơn vị (FQ3)
4. Thông tin trên Báo cáo tài chính mô tả các sự kiện phát sinh tại đơn vị một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người lập (FQ4)
5. Thông tin trên BCTC mô tả trung thực các sự kiện phát sinh (FQ5)
6. Thông tin trên Báo cáo tài chính mô tả đúng bản chất của các sự kiện
đã phát sinh tại đơn vị (FQ6)
7. Thông tin trên Báo cáo tài chính mô tả các sự kiện phát sinh tại đơn vị
không có sai sót ở các khía cạnh trọng yếu (FQ7)
8. Thông tin trên BCTC được cung cấp kịp thời cho người dùng (EQ1)
9. Thông tin được trình bày trong Báo cáo tài chính mang tính có thể
hiểu được đối với người sử dụng (EQ2)
10. Thông tin trên Báo cáo tài chính được tạo ra từ việc áp dụng nhất
quán các chính sách kế toán (EQ3)
11. Thông tin trên Báo cáo tài chính có thể dùng để so sánh với các báo
cáo tài chính năm trước tại đơn vị (EQ4)
12. Thông tin trên Báo cáo tài chính có thể dùng để so sánh với các báo
cáo tài chính của các đơn vị khác có cùng chế độ kế toán (EQ5)
13. Thông tin trên Báo cáo tài chính có thể kiểm chứng được (EQ6)
87
Mức độ hiệu quả
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
Không hiệu quả
Hiệu quả
Rất hiệu quả
Ông/Bà vui lòng đánh giá mức độ hiệu quả của các hoạt động sau của những người dùng báo cáo tài chính được cung cấp bởi đơn vị của Ông/Bà:
Kém hiệu quả
Bình thường
1. Xác định xem đơn vị có hoạt động vì lợi ích tốt nhất của cộng đồng
hay không. (PA1)
2. Xác định xem đơn vị đã tiến hành các hoạt động có đạt được kết quả
như mong muốn hay không. (PA2)
3. Xác định xem đơn vị đã tiến hành các hoạt động có đạt hiệu quả hay không khi so sánh các kết quả đạt được với tổng chi phí bỏ ra (PA3)
4. Xác định xem đơn vị sử dụng tài nguyên có đúng như dự định không.
(PA4)
5. Xác định xem các hoạt động hiện tại của đơn vị có ảnh hưởng đến các
thế hệ tương lai không. (PA5)
6. Xác định xem đơn vị sử dụng quỹ công có phù hợp không. (PA6)
7. Xác định xem các hoạt động hiện tại của đơn vị có tác động đến nguồn
quỹ trong tương lai không. (PA7)
8. Xác định xem đơn vị có thích hợp làm đơn vị đại diện cho quỹ không.
(PA8)
9. Xác định khả năng tài chính của đơn vị (FA1)
10. Xác định xem đơn vị có thể đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của
mình hay không (FA2)
11. Xác định xem tổ chức có thể đáp ứng các khoản nợ dài hạn của mình
hay không (FA3)
12. Xác định xem đơn vị có tuân thủ ngân sách hay không (FA4)
13. Xác định xem đơn vị có đạt được các mục tiêu đã đưa ra hay không
(FA5)
14. So sánh kết quả của đơn vị với các đơn vị công khác (FA6)
88
Mức độ so sánh
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
Ông/Bà hãy so sánh thành quả hoạt động của đơn vị so với các đơn vị khác trong cùng lĩnh vực hoạt động trên các tiêu chí sau:
Thấp hơn mức trung bình chung rất nhiều
Dưới mức trung bình chung
Bằng mức trung bình chung
Trên mức trung bình chung
Cao hơn mức trung bình chung rất nhiều
1. Khối lượng công việc mà đơn vị đã thực hiện (PER1)
2. Mức độ chính xác của công việc mà đơn vị đã thực hiện (PER2)
3. Số lượng các sáng kiến của đơn vị (PER3)
4. Danh tiếng/Thành tích thi đua của đơn vị (PER4)
5. Mức độ đạt được các mục tiêu cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm mà
đơn vị đã đề ra (PER5)
6. Mức độ hiệu quả của các hoạt động mà đơn vị đã thực hiện khi so sánh
các kết quả đạt được với tổng chi phí bỏ ra (PER6)
7. Sự hài lòng của nhân viên tại đơn vị (PER7)
89
Phụ lục 14: Danh sách đơn vị khảo sát sơ bộ
Tên đơn vị
TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 Trường THPT số 1 An Nhơn Trường THPT Vân Canh Trường THPT Ngô Mây Trường THPT số 2 Phù Mỹ Trường THPT Nguyễn Du Trường THPT An Lão Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS & THPT Vân Canh Trường THPT Nguyễn Trân Trường THPT số 1 Tuy Phước Trường THPT Nguyễn Trung Trực Trường THPT Bình Dương Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu Trường THPT số 2 An Nhơn Trường THPT Phan Bội Châu Trường THPT Nguyễn Diêu Trường THPT Hùng Vương Trường THPT Hoài Ân Trường THPT Chuyên Chu Văn An Trường THPT Trần Cao Vân Chi cục Hải quan Cửa khẩu Cảng Quy Nhơn UBND Phường Bình Định UBND Tỉnh Bình Định Chi cục Dự trữ Nhà nước Tây Sơn Chi cục Thuế Thị xã Sông cầu Trường THCS Hùng Vương Chi cục Kiểm lâm Bình Định Kho bạc Nhà nước An Lão UBND Huyện Tuy Phước Sở Tài chính Phú Yên Trường Tiểu học Số 2 Võ Xán Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Anh Sơn UBND Thị trấn Bình Dương Phòng Nội vụ Huyện Vĩnh Thạnh Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
90
35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69
70
Phòng Lao động - Thương binh - Xã hội Huyện Phù Cát Bảo hiểm xã hội Tỉnh Bình Định Bảo hiểm xã hội Huyện Vân Canh Bảo hiểm xã hội Huyện Hoài Ân Bảo hiểm xã hội Thành phố Quy Nhơn Phòng Nội vụ huyện Phù Mỹ Kho bạc Nhà nước Hoài Nhơn Hội Liên hiệp Phụ nữ Huyện Vĩnh Thạnh Trung tâm Y tế Huyện Vĩnh Thạnh Bệnh viện Lao và Phổi Bình Định Cục quản lí Thị trường Bình Định Bảo hiểm xã hội Huyện Tuy Phước Trung tâm Y tế Huyện Hoài Nhơn Kho bạc Nhà nước Tương Dương Trường Mẫu giáo Vĩnh Thạnh UBND Huyện Phù Mỹ Bảo hiểm xã hội Huyện Vĩnh Thạnh Bảo hiểm xã hội Huyện Phù Cát Sở y tế Bình Định Chi cục Thống kê Huyện Vĩnh Thạnh Trung tâm Y tế Thị xã An Nhơn UBND Phường Trần Phú Sở khoa học và công nghệ Bình Định Bảo hiểm xã hội Huyện Tây Hòa Trung tâm Văn hóa Thông tin Thể thao Huyện Phú Hòa Trung tâm Hoạt động Thanh Thiếu niên Phú Yên UBND Xã Ba Vì UBND Xã Nghĩa Lâm UBND Thị trấn Mộ Đức UBND Xã Phổ Minh UBND Huyện Minh Long UBND Xã Nghĩa Thọ UBND Xã Sơn Hải UBND Xã Hành Thiểu UBND Xã Nghĩa Sơn Trung tâm Giáo dục Nghề nghiệp - Giáo dục Thường xuyên huyện Tây Sơn Trung tâm Đào tạo Nghiệp vụ Giao thông Vận tải Bình Định 71
91
72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Bình Định UBND Huyện Tây sơn Trường Tiểu học Số 1 Võ Xán Bảo hiểm xã hội Huyện Tây Sơn Trung tâm Y tế Huyện Tây Sơn Tòa án nhân dân Huyện Tây sơn Trường Tiểu học Bình Tân Trường Tiểu học Bình Thành UBND Thị Trấn Phú Phong Trường Quốc học Quy Nhơn Trường THPT Tăng Bạt Hổ Trường THPT Xuân Diệu Trường THPT Số 3 Phù Cát Trường THPT An Lương Trường THPT Số 1 Phù Cát Kho bạc Nhà nước An Lão UBND Phường Lê Lợi Kho bạc Nhà nước Phù Mỹ Kho bạc Nhà nước Tuy Phước Kho bạc Nhà nước Quy Nhơn Kho bạc Nhà nước Vân Canh Trường THCS Vĩnh Hảo Trường THCS Tam Quan Bắc Trường Tiểu học Vĩnh Hảo Trường Tểu học Vạn Phú 2 Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Giáo dục Hòa nhập tỉnh Quảng Ngãi Phòng Giáo dục và Đào tạo Hoài Nhơn Trường THCS Phước Hòa Trường THPT Ngô Lê Tân
92
Phụ lục 15: Kết quả phân tích dữ liệu nghiên cứu sơ bộ
rho_A
15.1. Độ tin cậy nhất quán nội bộ của các thang đo Construct Reliability and Validity
Thang đo bậc 1
Cronbach's Alpha
0,937 0,908 0,907 0,886 0,852 0,899
0,943 0,913 0,909 0,894 0,861 0,906
Composite Reliability 0,946 0,936 0,929 0,911 0,891 0,920
Average Variance Extracted (AVE) 0,593 0,785 0,685 0,598 0,578 0,592
0,806
0,820
0,860
0,509
0,879 1,000 1,000
0,896 1,000 1,000
0,906 1,000 1,000
0,580 1,000 1,000
Năng lực kế toán (ACC) Lãnh đạo theo luật (RL) Lãnh đạo theo TNGT (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải trình công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
15.2. Trọng số tải và giá trị t của các biến quan sát
Giá trị t Biến quan sát Hệ số tải Giá trị t
Biến quan sát ACC1 ACC2 ACC3 ACC4 ACC5 ACC6 ACC7 ACC8 ACC9 ACC10 ACC11 ACC12 RL1 RL2 RL3 RL4 AL1 AL2
Hệ số tải 0,72 0,66 0,76 0,77 0,82 0,87 0,76 0,75 0,77 0,83 0,76 0,76 0,91 0,90 0,88 0,85 0,78 0,85
EQ1 EQ2 EQ3 EQ4 EQ5 EQ6 PA1 PA2 PA3 PA4 PA5 PA6 PA7 PA8 FA1 FA2 FA3 FA4
12,98 8,07 17,56 14,65 19,46 29,61 11,86 13,96 18,20 14,89 16,45 15,84 40,51 34,00 23,35 19,04 16,18 23,80
0,86 0,82 0,75 0,73 0,71 0,66 0,74 0,93 0,69 0,78 0,77 0,82 0,73 0,66 0,75 0,67 0,64 0,75
26,36 19,84 11,79 12,64 9,96 10,83 12,91 71,86 11,77 17,94 15,85 26,49 9,00 8,20 11,23 7,27 6,83 15,31
AL3 AL4 AL5 AL6 FQ1 FQ2 FQ3 FQ4 FQ5 FQ6 FQ7
33,39 16,34 13,93 20,74 9,65 7,98 13,47 24,02 20,77 16,77 32,54
FA5 FA6 PER1 PER2 PER3 PER4 PER5 PER6 PER7 Log (size) Age
0,90 0,81 0,79 0,83 0,64 0,66 0,78 0,82 0,82 0,81 0,86
0,81 0,64 0,68 0,78 0,71 0,66 0,83 0,85 0,80 1,00 1,00
20,18 9,77 10,23 20,98 11,18 9,06 22,67 27,83 22,78
93
15.3. Giá trị phân biệt của các thang đo Discriminant Validity
Tiêu chí Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT)
ACC RL AL FQ EQ PA FA PER SIZE AGE
toán
Thang đo bậc 1 lực kế
luật
theo
0,49
0,56 0,73
0,36 0,30 0,32
0,36 0,38 0,40 0,81
0,58 0,56 0,69 0,50 0,66
0,45 0,50 0,54 0,52 0,55 0,76
0,56 0,41 0,38 0,52 0,43 0,51 0,37
0,12 0,05 0,06 0,17 0,27 0,11 0,12 0,09
0,07 0,08 0,12 0,17 0,16 0,09 0,12 0,04
0,11
Năng (ACC) Lãnh đạo (RL) Lãnh đạo theo TNGT (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải trình công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
Tiêu chí Fornell-Larcker
ACC RL
AL
FQ EQ
PA
FA PER SIZE AGE
0,77
Thang đo bậc 1 Năng lực kế toán (ACC)
0,46
94
0,89
0,53
0,67
0,83
0,33
0,27
0,27 0,77
0,34
0,34
0,36 0,73 0,76
0,54
0,51
0,63 0,44 0,58 0,77
0,41
0,45
0,48 0,43 0,47 0,66
0,71
0,52
0,38
0,36 0,47 0,39 0,47
0,34 0,76
-0,09 0,02
-0,05 0,16 0,24 0,10
-0,04 0,06
1,00
0,01
-0,07
-0,11 0,15 0,11
-0,03 0,08 0,01
0,11
1,00
Lãnh đạo theo luật (RL) Lãnh đạo theo trách nhiệm trình giải (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải trình công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
Hệ số tải chéo - Cross Loadings
ACC RL
AL
FQ EQ
PA
FA
PER SIZE AGE
0,72 0,66 0,76 0,77 0,82 0,87 0,76 0,75 0,77 0,83 0,76 0,76 0,33 0,37 0,40 0,45 0,56 0,50 0,01
0,46 0,17 0,27 0,39 0,43 0,33 0,32 0,26 0,25 0,39 0,45 0,42 0,50 0,46 0,52 0,55 0,63 0,64 -0,07
0,40 0,31 0,51 0,46 0,52 0,39 0,37 0,48 0,30 0,37 0,35 0,33 0,78 0,85 0,90 0,81 0,79 0,83 -0,11
0,36 0,30 0,47 0,43 0,59 0,45 0,36 0,44 0,39 0,38 0,35 0,35 0,41 0,43 0,54 0,56 0,63 0,55 -0,03
0,28 0,18 0,40 0,30 0,36 0,28 0,18 0,32 0,33 0,30 0,41 0,38 0,35 0,28 0,35 0,44 0,51 0,42 0,08
0,44 0,25 0,29 0,38 0,47 0,41 0,37 0,45 0,44 0,46 0,37 0,42 0,22 0,26 0,24 0,27 0,41 0,36 0,01
0,05 -0,07 -0,03 -0,04 -0,03 -0,07 -0,14 -0,11 -0,16 -0,17 -0,06 -0,10 -0,02 -0,11 -0,06 0,01 -0,09 0,01 0,11
0,44 0,34 0,17 0,23 0,17 0,24 0,23 0,17 0,34 0,34 0,18 0,24 0,21 0,17 0,22 0,22 0,21 0,15 0,18 0,22 0,30 0,33 0,33 0,37 0,30 0,26 0,19 0,28 0,14 0,23 0,22 0,33 0,30 0,35 0,21 0,31 0,15 0,11
Biến quan sát ACC1 ACC2 ACC3 ACC4 ACC5 ACC6 ACC7 ACC8 ACC9 ACC10 ACC11 ACC12 AL1 AL2 AL3 AL4 AL5 AL6 Age
0,04 0,04 -0,04 -0,07 0,03 -0,02 0,08 -0,07 0,08 -0,02 0,07 0,02 -0,02 -0,18 -0,06 0,02 -0,12 -0,19 1,00
0,26 0,33 0,18 0,22 0,24 0,28 0,32 0,25 0,24 0,41 0,36 0,13 0,27 0,30 0,27 0,26 0,26 0,25 0,22 -0,09 0,54 0,56 0,43 0,28 0,35 0,41 0,36 0,36 0,35 0,43 0,40 0,27 0,42 0,37 0,49 0,43 0,42 0,41 0,36
0,34 0,30 0,20 0,27 0,22 0,26 0,33 0,28 0,26 0,41 0,46 0,25 0,24 0,40 0,20 0,09 0,18 0,28 0,13 -0,05 0,53 0,64 0,41 0,34 0,53 0,49 0,53 0,36 0,12 0,32 0,19 0,20 0,33 0,30 0,36 0,66 0,60 0,60 0,49
95
0,61 0,86 0,64 0,82 0,52 0,75 0,37 0,73 0,35 0,71 0,66 0,73 0,33 0,37 0,23 0,25 0,23 0,30 0,41 0,41 0,35 0,37 0,30 0,27 0,64 0,43 0,66 0,47 0,78 0,57 0,82 0,56 0,82 0,63 0,81 0,63 0,86 0,62 0,16 0,24 0,36 0,45 0,39 0,52 0,29 0,42 0,34 0,44 0,44 0,57 0,39 0,50 0,30 0,43 0,20 0,22 0,26 0,24 0,42 0,37 0,31 0,27 0,24 0,21 0,36 0,27 0,40 0,32 0,42 0,34 0,32 0,38 0,15 0,24 0,21 0,31 0,26 0,26
0,56 0,54 0,42 0,41 0,36 0,33 0,47 0,35 0,45 0,55 0,60 0,34 0,40 0,38 0,31 0,30 0,44 0,28 0,32 0,10 0,74 0,93 0,69 0,78 0,77 0,82 0,73 0,66 0,30 0,37 0,35 0,24 0,33 0,44 0,41 0,44 0,51 0,44 0,40
0,44 0,46 0,25 0,31 0,38 0,28 0,75 0,67 0,64 0,75 0,81 0,64 0,39 0,45 0,30 0,38 0,34 0,22 0,30 -0,04 0,52 0,52 0,31 0,36 0,55 0,57 0,62 0,56 0,14 0,34 0,21 0,15 0,19 0,31 0,39 0,43 0,38 0,41 0,37
0,24 0,38 0,27 0,21 0,26 0,38 0,32 0,11 0,14 0,33 0,34 0,16 0,41 0,32 0,27 0,32 0,40 0,38 0,43 0,06 0,29 0,45 0,29 0,37 0,35 0,40 0,36 0,32 0,68 0,78 0,71 0,66 0,83 0,85 0,80 0,37 0,35 0,28 0,32
0,12 0,25 0,23 0,24 0,19 0,10 -0,09 -0,17 0,02 -0,02 -0,04 0,12 0,15 0,14 0,13 0,12 0,16 0,07 0,11 1,00 0,07 0,07 0,06 0,11 0,15 0,01 0,07 0,06 0,11 0,13 -0,01 0,08 0,02 0,08 -0,04 0,02 0,03 -0,04 0,08
0,19 -0,01 -0,08 0,11 0,13 0,18 0,10 0,17 -0,05 0,07 0,04 0,03 -0,06 0,04 0,16 0,16 0,15 0,10 0,18 0,11 -0,01 -0,12 -0,12 -0,09 0,06 0,10 0,01 -0,02 -0,03 -0,01 0,04 -0,02 -0,03 0,07 0,00 -0,06 -0,07 -0,11 -0,03
0,35 0,21 0,09 0,32 0,25 0,32 0,38 0,04 0,18 0,54 0,44 0,24 0,21 0,27 0,21 0,20 0,15 0,21 0,22 0,02 0,36 0,48 0,32 0,29 0,29 0,46 0,42 0,48 0,27 0,27 0,23 0,19 0,39 0,29 0,34 0,91 0,90 0,88 0,85
EQ1 EQ2 EQ3 EQ4 EQ5 EQ6 FA1 FA2 FA3 FA4 FA5 FA6 FQ1 FQ2 FQ3 FQ4 FQ5 FQ6 FQ7 Log (size) PA1 PA2 PA3 PA4 PA5 PA6 PA7 PA8 PER1 PER2 PER3 PER4 PER5 PER6 PER7 RL1 RL2 RL3 RL4
96
Phụ lục 16: Danh sách đơn vị khảo sát chính thức
Tên đơn vị Địa điểm
TT 1 2 3 4 5 6 7 8 Nghệ An Quảng Ngãi Quảng Ngãi Quảng Ngãi Quảng Ngãi Quảng Ngãi Quảng Ngãi Bình Định
9
10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 Phòng Giáo dục và Đào tạo Huyện Tương Dương UBND Xã Đức Tân UBND Xã Nghĩa Hà UBND Xã Ba Giang UBND Xã Nghĩa An UBND Xã Tịnh Châu UBND Huyện Nghĩa Hành Sở Giao thông Vận tải Bình Định Chi cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm Sản và Thủy Sản Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thuế Tỉnh Tây Ninh Chi Cục Thuế Huyện Vĩnh Thạnh Ban Tôn giáo tỉnh Phú Yên UBND Xã Xuân Cảnh UBND Xã Sơn Thành Đông UBND Phường Ngô Mây Phòng Tài chính - Kế hoạch Huyện Tuy An UBND Phường Nguyễn Văn Cừ Chi cục Thuế huyện Châu Thành Phòng Giáo dục và Đào tạo Vân Canh Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Định Kho bạc Nhà nước Tây Sơn Kho bạc Nhà nước Bình Định Liên đoàn Lao động Thành phố Quy Nhơn Chi cục Thi hành Án Dân sự Huyện Tây Sơn Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Định Sở Thông tin và Truyền thông Bình Định Sở Công Thương Bình Định Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Nghệ An Cục Dự trữ Nhà nước Khu vực Nghĩa Bình UBND Thành phố Quy Nhơn Sở Tài chính Bình Định Kho bạc Nhà nước Phù Mỹ Cục Quản lí Thị trường Bình Định UBND Huyện Vĩnh Thạnh Bình Định TP. Hồ Chí Minh Tây Ninh Bình Định Phú Yên Phú Yên Phú Yên Bình Định Phú Yên Bình Định Long An Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Nghệ An Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định
97
36 37 38 Bình Định Bình Định Nghệ An
39
40 41 42 43 44 45 46 Bình Định Nghệ An Gia Lai Bình Định Bình Định Bình Định Gia Lai Vĩnh Long
47
48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 Gia Lai Gia Lai Bình Định Bình Định Bình Dương Mỹ Tho Tiền Giang Bình Định Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Bình Định Bình Thuận
62
63 UBND Huyện Hoài Nhơn UBND Xã Vĩnh Kim UBND xã Tam Quang, huyện Tương Dương Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Huyện Vĩnh Thạnh Phòng Giáo dục và Đào tạo Huyện Con Cuông Kho bạc Nhà nước An Khê Thanh tra tỉnh Bình Định Phòng Giáo dục và Đào tạo Vân Canh Chi Cục dự trữ Nhà nước Quy Nhơn Cục Dữ trự nhà nước Khu vực Bắc Tây Nguyên Cục Dữ trữ nhà nước Khu vực Cửu Long Phòng Lao động-Thương binh Xã hội Huyện ĐakPơ Phòng Công tác và Môi trường Tỉnh ĐăkPơ UBND Huyện Vĩnh Sơn Chi cục Thủy sản Cục Dữ trự Nhà nước Khu vực Đông Nam Bộ UBND Thành phố Mỹ Tho Phòng Giáo dục và Đào tạo Thành phố Mỹ Tho Cục thuế tỉnh Bình Định UBND Xã Sơn Phước UBND Xã Hai Xuân Tây UBND Huyện Sơn Hòa UBND Xã Cà Lúi UBND Xã Sơn Trà Phòng nội vụ huyện Phù Mỹ Kho bạc Nhà nước La Gi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Định UBND Xã Vĩnh Kim
64
65 66 67 68 69 70 71 Kiểm toán Nhà nước Khu vực XIII Tòa án Nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh Phòng Giáo dục và Đào tạo Huyện Vĩnh Thạnh UBND Thị Trấn Vĩnh Thạnh Viện Kiểm Sát Nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh Chi cục Thống Kê Thị Xã An Nhơn Phòng Tài Chính - Kế Hoạch Huyện Phú Hào Chi cục Thống kê Thành phố Mỹ Tho Bình Định Bình Định Bà Rịa - Vũng Tàu Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Phú Yên Tiền Giang
98
72 73 74 75 76 77 78 79 Ninh Thuận Bình Định Phú Yên Bình Định Bình Định Bình Thuận Bình Phước Tây Ninh
80
81 82 83 84 85 86 87 88 89 Quảng Ngãi Quảng Ngãi Bình Định Đăk Lăk
90 Bình Định
91
92 TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh
Bình Định 93
Kho bạc Nhà nước Ninh Thuận Cục Hải Quan tỉnh Bình Định Viện Kiểm sát Nhân dân Huyện Phú Hòa Phòng Tài nguyên - Môi trường Thị xã An Nhơn UBND Thị xã An Nhơn Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Thuận Sở Giao Thông Vận tải Bình Phước Sở Tài Chính Tây Ninh Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Tỉnh Bình Phước Bình Phước Nghệ An UBND Huyện Tương Dương Phú Yên Sở Tài Nguyên và Môi Trường Tỉnh Phú Yên Nghệ An Bảo hiểm xã hội huyện Bố Trạch UBND xã Yên Hòa, huyện Tương Dương Nghệ An Phòng Tài chính - Kế hoạch Huyện Tương Dương Nghệ An Trung Tâm Phát triển Quỹ đất Huyện Mộ Đức Phòng Nội vụ Huyện Ba Tơ Ban Quản lý Dự án Giao thông Tỉnh Bình Định Trường THCS Chu Văn An Trường Cao đẳng Cơ Điện -Xây Dựng và Nông lâm Trung Bộ Trung tâm Dịch vụ Phân tích Thí nghiệm TP. Hồ Chí Minh Kiểm toán Nhà nước Khu vực IV Ban Quản lý Dự án Đầu tư Xây dựng Huyện Hoài Ân Trung tâm Y tế Huyện Tây Hòa Trung tâm Y tế Huyện Đông Hòa Trường Tiểu học và THCS Lê Duẩn Cảng vụ Hàng hải Quy Nhơn Bệnh viện Sản nhi Phú yên Trường THCS Trần Quang Diệu Trường THPT Nguyễn Huệ
94 95 96 97 98 99 100 101 Bệnh viện Răng Hàm Mặt TP. Hồ Chí Minh 102 Phú Yên Phú Yên Phú Yên Bình Định Phú Yên Bình Định Bình Định TP. Hồ Chí Minh Đăk Lăk
103 TP. Hồ Chí Minh
104
105 106 Trường Tiểu học Hà Huy Tập Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TP. Hồ Chí Minh Trường Cao đẳng Công nghệ Ladec Trường THCS Nam Định TP. Hồ Chí Minh Long An Tiền Giang
99
Trạm Vật tư Thuốc Thú y Bình Định Trung tâm Y tế Huyện Chợ Gạo Trường THCS Xuân Diệu Trường Tiểu học Tháu Sanh Hạnh Trường Tiểu học Nguyễn Huệ Trường THCS Tân Mỹ Chánh Trường THPT Số 3 Tuy Phước Trường THPT Quang Trung Trường THPT Lý Tự Trọng Trường THPT Võ Lai Trường THPT Nguyễn Hữu Quang Trường THPT Số 3 An Nhơn Trường THPT Tam Quan Trường THPT Nguyễn Huệ Trường Tiểu học Lê Quý Đôn Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám Trường Đại Học Quy Nhơn
Bình Định Tiền Giang Tiền Giang Tiền Giang Tiền Giang Tiền Giang Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Bình Định Đăk Lăk Bình Thuận Bình Định Bình Định Bình Định Nghệ An
127
128 129 130
131
107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 Bảo hiểm xã hội Huyện An Lão 125 Trung tâm Y tế Huyện Phù Cát 126 Trung tâm Y tế Huyện Anh Sơn Trung tâm Giáo dục Nghề nghiệp - Giáo dục Thường xuyên Tp Quy Nhơn Bình Định Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú THCS Vĩnh Sơn Bình Định Bình Định Trường THPT Vĩnh Thạnh Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai Đăk Lăk Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Tỉnh Quảng Nam Trường THCS Mai Xuân Thưởng Trường Cao đẳng Y tế Bình Định Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Hoài Ân Trường Tiểu học và THCS Đỗ Trạc
132 133 134 135 136 Bệnh viện Tâm thần Bình Định Quảng Nam Gia Lai Bình Định Bình Định Gia Lai Bình Định
137
Trung tâm Giáo dục Nghề nghiệp - Giáo dục Thường xuyên huyện ĐakPơ 138 Trường Đại học Phú Yên 139 Trung tâm Y tế Huyện Ia Grai 140 Trung tâm Kỹ thuật và Công nghệ Sinh học 141 Bệnh viện Phong - Da liễu Trung Ương Quy Hòa 142 143 Trường THCS Mai Xuân Thưởng Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh Gia Lai Phú Yên Gia Lai Tiền Giang Bình Định Bình Định TP. Hồ Chí Minh
100
Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
144 145 146 Bệnh viện Mắt Bình Định 147 Bệnh viện Đa khoa Huyện Krông Năng 148 149 150 151 TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh Bình Định Đăk Lăk Bình Định Gia Lai Bình Định Nghệ An
152 Trung tâm Phát triển Quỹ đất Huyện Tây Sơn Trường Mẫu giáo Hoa Pơ Lang Trung tâm Y tế Thành phố Quy Nhơn Trung tâm Y tế Huyện Long Thành Ban Quản lý Dự án Đầu tư Xây dựng Thành phố Quy Nhơn
153 Bệnh viện Đa Khoa Tỉnh Bình Định 154 Bệnh viện Đa khoa Thành phố Quy Nhơn 155 Bệnh viện Đa Khoa Thành phố Hội An 156 Bình Định Bình Định Bình Định Đà Nẵng Gia Lai
157
Trường Tiểu học Phạm Văn Đồng Trung tâm Gíao dục Nghề nghiệp - Giáo dục Thường xuyên Tương Dương Trường Tiểu học Hòa Tú 2 Trường THCS Nguyễn Du Trường THCS Thị Trấn Phú Hòa Trường Tiểu học Thị Trấn Phú Hòa Trường THCS Hòa Quang Trường Mầm Non Hòa Hối Trường Tiểu học Hòa Quang Bắc Trường Tiểu học Hòa Thắng 1 Trường TH Hòa An 2 Trường Mầm Non Hòa Trị Trường THCS Trần Hào Trường Tiểu học Hòa Tri 1 Trường THCS Nguyễn Thế Bảo Trường Tiểu học Hòa Thắng 2 Trường THCS Hòa Định Tây Trường THCS Lương Văn Chính Trường THCS Trần Phú Trường Tiểu học Hòa Quang Nam Trường Tiểu học Lạc Long Quân Trường THCS Nguyễn Hữu Trọ Trường Mầm non Hòa Quang Bắc Trung Tâm Y tế Thành phố Tuy Hòa Trường Đại học Công Nghiệp TP. Hồ Chí Minh
158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 Bệnh viện Quận Bình Thạnh Nghệ An Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên Phú Yên TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh
101
182 Bệnh viện Quận 11 183 Bệnh viện Huyện Bình Chánh 184 Bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh 185 Bệnh viện Quận 5 186 187 188 189 TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh Bình Định Phú Yên Bình Định
190
191 192 193 Đăk Lăk Đăk Lăk
194
Trung tâm Thể dục Thể thao Phú Nhuận Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Quy Nhơn Trung tâm Y tế Huyện Phú Hòa Trường Mầm Non Huyện Tuy Phước Trung Tâm Ứng dụng Công nghệ Sinh học Đồng Nai Đồng Nai Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị Huyện Vĩnh Thạnh Bình Định Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi Trường Đại học Tây Nguyên Ban Quản lý Dự án Đầu tư Xây dựng Công trình Quận Bình Thạnh Trường Cao Đẳng Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
195 196 Bệnh viện Đa Khoa Tỉnh Bình Thuận TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh Bình Thuận
197
Trường Đại học Công Nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh Trung tâm Y tế Huyện Tương Dương
Trung tâm Y tế Huyện Nam Đàn
198 199 Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An 200 201 Bệnh viện Đa khoa Thành phố Vinh 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 Trường Tiểu học Tam Quang 1 Trường THCS Xã Tam Quang Trường THPT Tương Dương 2 Trường THPT Tánh Linh Trường THPT Nguyễn Trường Tộ Trường THCS Ngô Mây Trường THCS Tô Vĩnh Diện Trường THCS Ngô Quyền Trường THPT Nguyễn Huệ Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Khánh Vĩnh Trường Mầm non Hoa Phượng Trường Tiểu Học Khánh Đông Trường Tiểu Học Khánh Thượng Trường Tiểu học Cầu Bà Trường Mầm non Họa My Trường Tiểu học Thị trấn Khánh Vĩnh Trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm TP. Hồ Chí Minh Nghệ An Nghệ An Nghệ An Nghệ An Nghệ An Nghệ An Nghệ An Bình Thuận Bình Thuận Đăk Lăk Đăk Lăk Đăk Lăk Bình Thuận Khánh Hòa Khánh Hòa Khánh Hòa Khánh Hòa Khánh Hòa Khánh Hòa Khánh Hòa Khánh Hòa
102
Trường Mầm non Hoa Lan Trường THCS Thị Trấn Khánh Hòa Trường Mầm non Anh Đào Trường Mầm non Hoa Hồng Trường Tiểu Học Khánh Trung Trường THCS Nguyễn Thái Bình Trường Mầm non Hương Sen Trường Mầm non Hoa Mai Trường Tiểu học Khánh Thành Trường THCS Lê Văn Tám Trường Tiểu Học Khánh Bình
Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Định
Liên đoàn lao động Huyện Tây Sơn
219 Khánh Hòa 220 Khánh Hòa 221 Khánh Hòa 222 Khánh Hòa 223 Khánh Hòa 224 Khánh Hòa 225 Khánh Hòa 226 Khánh Hòa 227 Khánh Hòa 228 Khánh Hòa 229 Khánh Hòa 230 Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Định Bình Định 231 Bình Định 232 Hội Chữ Thập đỏ huyện ĐăkPơ Gia Lai 233 Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai Gia Lai 234 Bình Định 235 Hội Chữ Thập đỏ Huyện Vĩnh Thạnh Bình Định
103
Phụ lục 17: Kết quả phân tích dữ liệu nghiên cứu chính thức
17.1. Thống kê mô tả mẫu khảo sát
Statistics
Loai hinh Tu chu Linh vuc Vi tri Kinh nghiem
N
Valid Missing
235 0
235 0
235 0
235 0
235 0
Loai hinh
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
36,1 97,4 100,0
Co quan hanh chinh Don vi su nghiep To chuc cong khac Total
85 144 6 235
36,1 61,3 2,6 100,0
36,1 61,3 2,6 100,0
Tu chu
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
81
34,5
34,5
34,5
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi
2
,9
,9
35,3
Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi
8
3,4
3,4
38,7
27
11,5
11,5
50,2
47
20,0
20,0
70,2
100,0
Don vi tu chu chi thuong xuyen va dau tu Don vi tu chu chi thuong xuyen Don vi tu chu mot phan chi thuong xuyen Don vi do NSNN cap kinh phi Total
70 235
29,8 100,0
29,8 100,0
Linh vuc
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Giao duc Y te
105 30
44,7 12,8
44,7 12,8
44,7 57,4
1 1 4
,4 ,4 1,7
,4 ,4 1,7
57,9 58,3 60,0
17
7,2
7,2
67,2
Van hoa, the thao, du lich Thong tin va truyen thong Khoa hoc va cong nghe Linh vuc kinh te nhu nong nghiep, tai nguyen, giao thong,...
87,7 100,0
Linh vuc khac Uy ban nhan dan cac cap Total
48 29 235
20,4 12,4 100,0
20,4 12,4 100,0
104
Vi tri
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
148
63,0
63,0
63,0
Ke toan truong/Ke toan tong hop/Phu trach ke toan
68,5 95,7 100,0
Nha quan cap cao Ke toan vien Vi tri khac Total
13 64 10 235
5,5 27,2 4,3 100,0
5,5 27,2 4,3 100,0
Kinh nghiem
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
18,7 50,2 100,0
Tu 3 den 5 nam Tu 6 den 10 nam Tren 10 nam Total
44 74 117 235
18,7 31,5 49,8 100,0
18,7 31,5 49,8 100,0
17.2. Thống kê mô tả biến quan sát
Descriptive Statistics
N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
LOG (size)
0 3 4 3 1.500 90 1,64 100,84 26,52 0,52 205,58 15,52
Quy mo Thoi gian Valid N (listwise) 235 235 235 235
105
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
235 235 235 235 235 235 235
3 2 1 1 2 2 2
5 5 5 5 5 5 5
3,98 3,98 3,37 3,71 3,96 3,97 4,08
0,72 0,74 0,81 0,75 0,74 0,74 0,75
235
1
5
3,86
0,75
PER1 PER2 PER3 PER4 PER5 PER6 PER7 Thành quả hoạt động (PER)
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
235 235 235 235 235 235 235
2 1 1 1 1 2 2
5 5 5 5 5 5 5
3,86 3,61 3,91 3,89 3,78 3,85 3,99
0,71 0,68 0,69 0,76 0,74 0,65 0,65
235
1
5
3,84
0,70
FQ1 FQ2 FQ3 FQ4 FQ5 FQ6 FQ7 Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ)
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
235 235 235 235 235 235
2 2 2 2 2 2
5 5 5 5 5 5
3,83 3,81 3,88 3,90 3,73 4,02
0,69 0,65 0,59 0,69 0,66 0,58
235
2
5
3,86
0,64
EQ1 EQ2 EQ3 EQ4 EQ5 EQ6 Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ)
PA1
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean 3,75 235
5
1
Std. Deviation 0,70
235 235 235 235 235 235 235
5 5 5 5 5 5 5
3,78 3,82 3,74 3,54 3,77 3,61 3,83
0,62 0,67 0,73 0,75 0,73 0,73 0,68
2 1 1 1 1 1 1
106
235
5
3,73
0,70
1
PA2 PA3 PA4 PA5 PA6 PA7 PA8 Trách nhiệm giải trình công (PA)
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
235 235 235 235 235 235
5 5 5 5 5 5
3,72 3,49 3,46 3,94 3,83 3,72
0,71 0,76 0,85 0,68 0,68 0,67
2 1 1 1 2 2
235
5
3,69
0,73
1
FA1 FA2 FA3 FA4 FA5 FA6 Trách nhiệm giải trình tài chính (FA)
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
RL1 RL2 RL3 RL4 Lãnh đạo theo luật (RL)
235 235 235 235 235
5 5 5 5 5
4,09 4,04 4,06 4,06 4,06
0,72 0,69 0,68 0,68 0,69
1 1 1 1 1
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean 3,72 235 3,71 235 3,72 235 3,86 235 3,89 235 3,80 235
1 2 2 2 2 1
5 5 5 5 5 5
Std. Deviation 0,76 0,71 0,71 0,71 0,70 0,78
235
1
5
3,78
0,73
AL1 AL2 AL3 AL4 AL5 AL6 Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AL)
107
Descriptive Statistics N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
ACC1 ACC2 ACC3 ACC4 ACC5 ACC6 ACC7 ACC8 ACC9 ACC10 ACC11 ACC12 Năng lực kế toán (ACC)
5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5
4,05 3,60 3,48 3,83 3,85 3,94 3,87 3,60 3,90 3,91 4,00 4,07 3,84
0,71 0,74 0,76 0,74 0,76 0,73 0,79 0,75 0,67 0,74 0,72 0,70 0,73
235 235 235 235 235 235 235 235 235 235 235 235 235
1 2 1 2 1 1 1 2 2 2 2 2 1
17.3. Độ tin cậy nhất quán nội bộ của các thang đo
Thang đo bậc 1
Cronbach's Alpha rho_A Composite Reliability
0,951 0,924
0,955 0,945
0,949 0,922
0,907
0,928
0,906
0,872 0,864 0,907
0,898 0,895 0,923
0,866 0,859 0,904
0,855
0,887
0,848
0,910 1,000 1,000
0,916 1,000 1,000
0,892 1,000 1,000
Năng lực kế toán (ACC) Lãnh đạo theo luật (RL) Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải trình công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
17.4. Giá trị hội tụ của các thang đo
Biến quan sát
Hệ số tải Giá trị t
Biến quan sát
Hệ số tải Giá trị t
Năng lực kế toán (AVE = 0,641)
Đặc tính chất lượng bổ sung (AVE=0,588)
ACC1 ACC2 ACC3
0,78 0,70 0,73
23,90 16,44 23,35
EQ1 EQ2 EQ3
0,82 0,81 0,79
32,87 29,51 22,69
EQ4 EQ5 EQ6
0,77 0,71 0,69
23,82 17,14 16,17
108
Trách nhiệm giải trình công (AVE=0,603)
0,84 0,82 0,88 0,81 0,71 0,83 0,86 0,82 0,81
34,19 30,81 53,57 27,95 17,58 38,40 36,91 34,96 33,85
ACC4 ACC5 ACC6 ACC7 ACC8 ACC9 ACC10 ACC11 ACC12
Lãnh đạo theo luật (AVE=0,811)
0,91 0,89
54,90 35,85
PA1 PA2 PA3 PA4 PA5 PA6 PA7 PA8
24,29 32,67 24,25 27,44 19,83 23,16 15,65 9,06
RL1 RL2
tài
chính
0,79 0,88 0,78 0,80 0,76 0,79 0,75 0,64 trình
0,91
49,64
RL3
Trách nhiệm giải (AVE=0,569)
0,89
38,73
FA1
0,82
28,85
RL4
FA2
0,77
17,97
Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AVE=0,682)
FA3 FA4 FA5 FA6
0,71 0,74 0,82 0,66
14,90 16,09 34,51 16,26
Thành quả hoạt động (AVE=0,611)
0,80 0,83 0,88 0,84 0,81 0,78
25,68 29,84 41,72 31,42 26,19 20,70
PER1
0,68
15,78
chất
lượng nền
tảng
AL1 AL2 AL3 AL4 AL5 AL6 tính
PER2
0,81
39,66
Đặc (AVE=0,558)
0,63 0,69 0,78 0,74 0,79 0,80 0,79
13,51 15,97 22,00 15,69 22,63 25,05 24,37
PER3 PER4 PER5 PER6 PER7 Log (size) Age
0,68 0,73 0,87 0,89 0,78 1,00 1,00
17,21 19,79 49,35 64,00 24,43
FQ1 FQ2 FQ3 FQ4 FQ5 FQ6 FQ7
17.5. Giá trị phân biệt của các thang đo
Tiêu chí Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT)
Thang đo bậc 1
ACC RL AL FQ EQ PA FA PER SIZE AGE
0,53
Năng lực kế toán (ACC) Lãnh đạo theo luật (RL) Lãnh đạo theo trách nhiệm 0,54 0,67
0,42 0,30 0,35
0,38 0,32 0,41 0,82
trình
0,53 0,44 0,64 0,54 0,59
0,46 0,40 0,57 0,48 0,50 0,76
0,46 0,34 0,43 0,50 0,40 0,53 0,43
0,04 0,02 0,05 0,04 0,06 0,11 0,10
0,05
0,13 0,04 0,03 0,05 0,07 0,04 0,14
0,06 0,16
giải trình (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
109
Tiêu chí Fornell-Larcker
Thang đo bậc 1
FQ EQ PA FA PER SIZE AGE
ACC RL AL 0,80 0,50 0,90
0,50
0,62
0,83
0,39
0,27
0,31
0,75
0,35
0,29
0,36
0,72
0,77
trình
0,49
0,40
0,58
0,48
0,52 0,78
0,42
0,37
0,51
0,41
0,43 0,67 0,75
0,43
0,31
0,40
0,45
0,36 0,48 0,39
0,78
0,02
0,01
0,05
-0,03 0,06 0,10 0,07
0,01
1,00
0,12
0,04
-0,02
-0,01 0,05 0,00 0,12
0,06
0,16
1,00
Năng lực kế toán (ACC) Lãnh đạo theo luật (RL) Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AL) Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) Đặc tính chất lượng bổ sung (EQ) Trách nhiệm giải công (PA) Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) Thành quả hoạt động (PER) Quy mô (SIZE) Thời gian hoạt động (AGE)
Hệ số tải chéo - Cross Loadings
Biến quan sát ACC1 ACC2 ACC3 ACC4 ACC5 ACC6
EQ PA FA PER SIZE AGE -0,02 0,08 0,32 0,39 0,34 0,38 -0,03 0,09 0,24 0,32 0,30 0,27 0,14 0,02 0,25 0,41 0,41 0,34 0,06 0,04 0,26 0,45 0,38 0,34 0,04 0,04 0,29 0,43 0,32 0,36 0,07 0,01 0,27 0,38 0,30 0,31
FQ 0,43 0,23 0,20 0,32 0,31 0,29
ACC RL AL 0,78 0,51 0,42 0,70 0,24 0,37 0,73 0,24 0,45 0,84 0,44 0,44 0,82 0,48 0,42 0,88 0,48 0,39
ACC7 ACC8 ACC9 ACC10 ACC11 ACC12 AL1 AL2 AL3 AL4 AL5 AL6 Age EQ1 EQ2 EQ3 EQ4 EQ5 EQ6 FA1 FA2 FA3 FA4 FA5 FA6 FQ1 FQ2 FQ3 FQ4 FQ5 FQ6 FQ7 LOG (size) PA1 PA2 PA3 PA4 PA5 PA6 PA7
110
0,81 0,44 0,39 0,71 0,21 0,45 0,83 0,36 0,32 0,86 0,47 0,39 0,82 0,44 0,39 0,81 0,48 0,41 0,33 0,43 0,80 0,37 0,42 0,83 0,40 0,46 0,88 0,44 0,53 0,84 0,48 0,61 0,81 0,47 0,58 0,78 0,12 0,04 -0,02 0,29 0,24 0,32 0,37 0,22 0,27 0,23 0,20 0,27 0,23 0,26 0,28 0,20 0,15 0,21 0,27 0,24 0,29 0,33 0,31 0,42 0,30 0,16 0,32 0,28 0,16 0,28 0,39 0,38 0,43 0,37 0,39 0,50 0,21 0,22 0,33 0,23 0,18 0,22 0,27 0,15 0,31 0,31 0,25 0,23 0,30 0,21 0,13 0,32 0,19 0,23 0,34 0,19 0,29 0,23 0,21 0,21 0,02 0,01 0,05 0,47 0,27 0,47 0,51 0,39 0,56 0,43 0,27 0,43 0,30 0,30 0,36 0,31 0,22 0,43 0,34 0,34 0,42 0,34 0,37 0,52
0,06 0,00 0,07 0,01 0,06 0,15 -0,02 0,06 0,20 0,04 0,14 0,08 0,01 0,06 -0,01 0,00 -0,01 0,04 0,00 0,08 -0,07 0,06 -0,01 0,00 0,16 1,00 0,04 0,03 0,05 0,04 -0,03 0,06 0,04 0,07 0,15 0,06 0,00 0,02 0,09 0,09 0,16 0,06 0,16 0,03 0,04 0,07 0,00 0,09 -0,06 0,12 -0,03 0,02 -0,01 -0,06 -0,02 -0,09 -0,03 0,02 -0,02 0,06 -0,01 -0,03 -0,05 0,00 0,16 1,00 0,02 0,06 -0,04 0,04 -0,04 0,04 -0,03 0,05 0,02 0,03 0,01 0,09 0,08 0,17
0,26 0,22 0,38 0,27 0,30 0,27 0,27 0,41 0,35 0,37 0,29 0,22 0,39 0,32 0,35 0,28 0,26 0,35 0,31 0,35 0,37 0,34 0,38 0,37 0,35 0,39 0,38 0,39 0,37 0,37 0,29 0,29 0,46 0,39 0,33 0,28 0,33 0,44 0,39 0,37 0,25 0,29 0,58 0,43 0,37 0,25 0,34 0,52 0,48 0,28 0,26 0,29 0,47 0,44 0,34 0,24 0,41 0,38 0,27 0,21 -0,01 0,05 0,00 0,12 0,06 0,82 0,49 0,35 0,28 0,59 0,81 0,44 0,34 0,29 0,64 0,79 0,38 0,30 0,24 0,53 0,77 0,36 0,32 0,25 0,43 0,71 0,34 0,33 0,25 0,40 0,69 0,37 0,33 0,32 0,67 0,36 0,53 0,82 0,36 0,33 0,26 0,42 0,77 0,21 0,23 0,23 0,43 0,71 0,21 0,20 0,38 0,64 0,74 0,37 0,41 0,36 0,58 0,82 0,31 0,34 0,32 0,41 0,66 0,28 0,32 0,43 0,40 0,30 0,36 0,63 0,48 0,37 0,34 0,32 0,69 0,57 0,34 0,30 0,29 0,78 0,48 0,28 0,31 0,32 0,74 0,54 0,40 0,31 0,37 0,79 0,62 0,37 0,27 0,38 0,80 0,62 0,35 0,32 0,33 0,79 -0,03 0,06 0,10 0,07 0,01 0,41 0,79 0,58 0,38 0,40 0,47 0,88 0,51 0,40 0,41 0,39 0,78 0,43 0,39 0,38 0,37 0,80 0,43 0,35 0,37 0,42 0,76 0,52 0,33 0,39 0,35 0,39 0,79 0,56 0,39 0,42 0,75 0,58 0,39 0,35
PA8 PER1 PER2 PER3 PER4 PER5 PER6 PER7 RL1 RL2 RL3 RL4
0,35 0,64 0,55 0,37 0,20 0,31 0,22 0,68 0,33 0,40 0,38 0,81 0,20 0,37 0,24 0,68 0,23 0,30 0,22 0,73 0,31 0,38 0,31 0,87 0,34 0,49 0,40 0,89 0,29 0,37 0,31 0,78 0,31 0,37 0,37 0,29 0,26 0,43 0,31 0,34 0,23 0,29 0,31 0,22 0,22 0,35 0,33 0,28
0,17 0,00 -0,07 0,00 0,05 0,03 0,00 0,03 0,08 0,04 -0,05 0,05 0,05 0,03 0,08 0,02 0,00 0,04 -0,02 0,02 0,03 0,01 0,06 0,06
0,30 0,23 0,40 0,28 0,27 0,39 0,42 0,42 0,28 0,23 0,21 0,24
0,32 0,34 0,42 0,19 0,23 0,19 0,36 0,28 0,36 0,31 0,21 0,25 0,29 0,15 0,25 0,34 0,26 0,34 0,39 0,28 0,38 0,43 0,28 0,34 0,47 0,91 0,60 0,47 0,89 0,57 0,42 0,91 0,53 0,46 0,89 0,50
111
17.6. Kiểm định chệch do phương pháp bằng phân tích nhân tố đơn Harman
Total Variance Explained
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared Loadings
Rotation Sums of Squared Loadings
Component
Total
Total
Total
% of Variance
Cumulative %
% of Variance
Cumulative %
% of Variance
Cumulative %
1
16,804
32,948
16,804
32,948
32,948
32,948
8,018
15,722
15,722
2
4,708
9,231
42,180
4,708
9,231
42,180
5,603
10,987
26,709
3
3,519
6,901
49,080
3,519
6,901
49,080
4,498
8,819
35,528
4
2,725
5,343
54,423
2,725
5,343
54,423
4,124
8,086
43,614
5
1,852
3,631
58,053
1,852
3,631
58,053
3,828
7,506
51,120
6
1,738
3,408
61,461
1,738
3,408
61,461
3,000
5,882
57,002
7
1,421
2,787
64,248
1,421
2,787
64,248
2,590
5,079
62,081
8
1,314
2,577
66,825
1,314
2,577
66,825
2,205
4,324
66,405
9
1,134
2,224
69,049
1,134
2,224
69,049
1,348
2,643
69,049
Extraction Method: Principal Component Analysis.
17.7. Kết quả đánh giá vấn đề đa cộng tuyến
Collinearity Statistics (VIF)
Inner VIF Values
Biến nghiên cứu ACC LEAD RL AL QUAL FQ EQ ACBI PA FA PER
lực kế
1,46
1,55
1. Năng toán (ACC)
1,00 1,00
1,46
1,51
lượng
1,00 1,00
1,24
1,44
1,00 1,00 1,45
2. Vai trò lãnh đạo (LEAD) 2a. Lãnh đạo theo luật (RL) 2b. Lãnh đạo theo trách nhiệm giải trình (AL) 3. Chất BCTC (QUAL) 3a. Đặc tính chất lượng nền tảng (FQ) 3b. Đặc tính chất lượng sung bổ (EQ) 4. Trách nhiệm giải trình (ACBI) 4a. Trách nhiệm giải công trình (PA) 4b. Trách nhiệm giải trình tài chính (FA) 5. Thành quả hoạt động (PER)
1,04
6. Quy mô (SIZE)
1,03
7. Thời gian hoạt động (AGE)
112
17.8. Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc
Path Coefficients - Specific Direct Effects
Biến nghiên cứu
Trách nhiệm giải trình 0,16 0,37 0,35
Thành quả hoạt động 0,24 0,36 -0,04 0,04
Chất lượng BCTC 0,28 0,22
1. Năng lực kế toán 2. Vai trò lãnh đạo 3. Chất lượng BCTC 4. Trách nhiệm giải trình 5. Thành quả hoạt động 6. Quy mô 7. Thời gian hoạt động
113
Path Coefficients - Specific Indirect Effects
Mối quan hệ gián tiếp
Specific Indirect Effects
0,10
0,08
0,07
0,05
1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình 1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC -> 5. Thành quả hoạt động 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC -> 5. Thành quả hoạt động
0,06
0,13
0,03
1. Năng lực kế toán -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 2. Vai trò lãnh đạo -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động
0,12
0,03
3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động
Mean, STDEV, T-Values, P-Values Specific Direct Effects
Mối quan hệ trực tiếp
T Statistics
P Values
Original Sample (O)
Sample Mean (M)
Standard Deviation (STDEV)
0,28
0,28
0,08
3,65
0,00
0,16
0,16
0,06
2,65
0,01
0,22
0,22
0,08
2,64
0,01
0,37
0,37
0,06
6,40
0,00
0,35
0,35
0,05
6,44
0,00
0,24
0,24
0,07
3,29
0,00
1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC 1. Năng lực kế toán -> 4. Trách nhiệm giải trình 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC 2. Vai trò lãnh đạo -> 4. Trách nhiệm giải trình 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình 3. Chất lượng BCTC -> 5. Thành quả hoạt động 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành
0,36
0,36
0,07
5,26
0,00
-0,04
-0,04
0,06
0,63
0,53
0,04
0,04
0,06
0,73
0,46
quả hoạt động 6. Quy mô -> 5. Thành quả hoạt động 7. Thời gian hoạt động -> 5. Thành quả hoạt động
114
Mean, STDEV, T-Values, P-Values
Specific Indirect Effects
Mối quan hệ gián tiếp
T Statistics
P Values
Original Sample (O)
Sample Mean (M)
Standard Deviation (STDEV)
0,10
0,10
0,03
3,06
0,00
0,08
0,08
0,03
2,34
0,02
0,07
0,07
0,03
2,35
0,02
0,05
0,05
0,03
1,94
0,05
0,06
0,06
0,03
2,26
0,02
0,13
0,13
0,03
4,11
0,00
0,03
0,04
0,01
2,51
0,01
0,12
0,13
0,03
3,83
0,00
0,03
0,03
0,01
2,03
0,04
1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình 1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC -> 5. Thành quả hoạt động 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC -> 5. Thành quả hoạt động 1. Năng lực kế toán -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 2. Vai trò lãnh đạo -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động
115
Total Effects - Path Coefficients
Biến nghiên cứu
1. Năng lực kế toán 2. Vai trò lãnh đạo 3. Chất lượng BCTC 4. Trách nhiệm giải trình 5. Thành quả hoạt động 6. Quy mô 7. Thời gian hoạt động
Chất lượng BCTC 0,277 0,217
Trách nhiệm giải trình 0,258 0,442 0,348
Thành quả hoạt động 0,159 0,210 0,367 0,356 -0,037 0,042
Total Effects Mean, STDEV, T-Values, P-Values
Mối quan hệ giữa các biến
T Statistics (|O/STDEV|)
P Values
Original Sample (O)
Sample Mean (M)
Standard Deviation (STDEV)
0,277
0,279
0,076
3,648
0,000
0,258
0,260
0,062
4,137
0,000
0,159
0,162
0,038
4,180
0,000
0,217
0,218
0,082
2,639
0,008
0,442
0,442
0,063
7,051
0,000
0,210
0,212
0,044
4,795
0,000
0,348
0,348
0,054
6,440
0,000
0,367
0,369
0,058
6,286
0,000
0,356
0,359
0,068
5,257
0,000
-0,037
-0,037
0,058
0,634
0,526
0,042
0,043
0,057
0,734
0,463
1. Năng lực kế toán -> 3. Chất lượng BCTC 1. Năng lực kế toán -> 4. Trách nhiệm giải trình 1. Năng lực kế toán -> 5. Thành quả hoạt động 2. Vai trò lãnh đạo -> 3. Chất lượng BCTC 2. Vai trò lãnh đạo -> 4. Trách nhiệm giải trình 2. Vai trò lãnh đạo -> 5. Thành quả hoạt động 3. Chất lượng BCTC -> 4. Trách nhiệm giải trình 3. Chất lượng BCTC -> 5. Thành quả hoạt động 4. Trách nhiệm giải trình -> 5. Thành quả hoạt động 6. Quy mô -> 5. Thành quả hoạt động 7. Thời gian hoạt động -> 5. Thành quả hoạt động
116
R Square
Biến nội sinh
3. Chất lượng BCTC 4. Trách nhiệm giải trình 5. Thành quả hoạt động
R Square 0,19 0,49 0,28
R Square Adjusted 0,18 0,48 0,27
17.9. Sơ đồ hệ số đường dẫn giữa các mối quan hệ trong mô hình
117
17.10. Sơ đồ mức ý nghĩa (t-value) giữa các mối quan hệ trong mô hình
17.11. Kiểm tra mức độ phù hợp của mô hình nghiên cứu
Model_Fit 1/ Fit Summary
Tiêu chí Saturated Model Estimated Model
0,07 0,07 SRMR
7,90 3,61 8,79 3,63 d_ULS d_G
118
4.091,07 4.103,20 Chi-Square
0,64 0,64 NFI
2/ RMS Theta
0,12 rms Theta
17.12. Kiểm tra sự khác biệt giữa các nhóm biến định tính
Oneway
Kiểm định sự khác biệt về năng lực kế toán theo loại hình đơn vị công
Descriptives
NANG LUC KE TOAN
95% Confidence Interval for Mean
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
Lower Bound
Upper Bound
85
0,155
1,047
0,114
-0,071
0,381
-3,551
2,603
vi
su
144
-0,078
0,973
0,081
-0,238
0,082
-1,814
1,990
6
-0,327
0,793
0,324
-1,159
0,505
-1,571
0,867
Co quan hanh chinh Don nghiep To chuc cong khac
235
0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-3,551
2,603
Total
Test of Homogeneity of Variances
NANG LUC KE TOAN
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
,785
2
232
,457
ANOVA
NANG LUC KE TOAN
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
,169
1,782 1,794 ,993
Between Groups Within Groups Total
3,563 230,437 234,000
2 232 234
Kiểm định sự khác biệt về vai trò lãnh đạo theo loại hình đơn vị công
119
Descriptives
LANH DAO THEO LUAT
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean Upper Lower Bound Bound
85
0,083
1,087
0,118
-0,152
0,317
-4,902
1,501
Co quan hanh chinh
144
-0,036
0,946
0,079
-0,192
0,119
-2,090
1,501
chuc
6
-0,301
1,037
0,423
-1,389
0,787
-1,304
1,501
Don vi su nghiep To cong khac Total
235
0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-4,902
1,501
Test of Homogeneity of Variances
LANH DAO THEO LUAT
Levene Statistic
df1 2
df2 232
Sig. ,859
,152
ANOVA
LANH DAO THEO LUAT
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Between Groups
1,316
2
,658
,656
,520
Within Groups
232,684
232
1,003
Total
234,000
234
Descriptives
LANH DAO THEO TNGT
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean Upper Lower Bound Bound
85 0,084
1,063
0,115
-0,146
0,313
-2,974
2,031
144
-0,038
0,973
0,081
-0,198
0,123
-2,974
2,031
6
-0,287
0,666
0,272
-0,986
0,411
-1,306
0,363
Co quan hanh chinh Don vi su nghiep To chuc cong khac Total
235 0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-2,974
2,031
120
Test of Homogeneity of Variances
LANH DAO THEO TNGT
df1
df2
Sig.
Levene Statistic ,455
2
232
,635
ANOVA
Sum of Squares
df
Sig.
F ,646
,525
Mean Square ,648 1,003
LANH DAO THEO TNGT Between Groups Within Groups Total
1,296 232,704 234,000
2 232 234
Kiểm định sự khác biệt về chất lượng BCTC theo loại hình đơn vị công
Descriptives
CHAT LUONG NEN TANG
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean Upper Lower Bound Bound
85 0,204
0,994
0,108
-0,011
0,418
-3,512
2,233
Co quan hanh chinh
144
-0,108
1,001
0,083
-0,273
0,057
-3,414
2,233
6
-0,292
0,643
0,263
-0,967
0,383
-1,531
0,252
Don vi su nghiep To chuc cong khac Total
235 0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-3,512
2,233
Test of Homogeneity of Variances
CHAT LUONG NEN TANG
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
1,068
2
232
,345
ANOVA
Sum of Squares
df Mean Square
F
Sig.
CHAT LUONG NEN TANG Between Groups
5,720
2,860 2,907 ,984
Within Groups Total
2 228,280 232 234,000 234
,057
121
Descriptives
CHAT LUONG BO SUNG
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean Upper Lower Bound Bound
85 0,127
0,867
0,094
-0,060
0,314
-1,991
2,240
144
-0,054
1,071
0,089
-0,231
0,122
-2,791
2,240
6
-0,502
0,823
0,336
-1,365
0,362
-1,595
0,322
Co quan hanh chinh Don vi su nghiep To chuc cong khac Total
235 0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-2,791
2,240
Test of Homogeneity of Variances
CHAT LUONG BO SUNG
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
3,892
2
232
,022
ANOVA
CHAT LUONG BO SUNG
df
Sum of Squares
Mean Square
F
Sig.
Between Groups
Within Groups Total
3,302 230,698 234,000
2 232 234
1,651 ,994
1,660
,192
Kiểm định sự khác biệt về trách nhiệm giải trình theo loại hình đơn vị công
Descriptives
TNGT CONG
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean Upper Lower Bound Bound
85
0,176
0,989 0,107
-0,038
0,389
-2,022
2,330
Co quan hanh chinh
144
-0,078
1,006 0,084
-0,244
0,088
-3,966
2,330
Don vi su nghiep
6
-0,612
0,511 0,208
-1,148
-0,076
-1,349
0,069
To chuc cong khac Total
235
0,000
1,000 0,065
-0,129
0,129
-3,966
2,330
122
Test of Homogeneity of Variances
TNGT CONG
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
1,263
2
232
,285
ANOVA
TNGT CONG
Between Groups Within Groups
Sum of Squares 5,746 228,254
df 2 232
Mean Square 2,873 ,984
F 2,920
Sig. ,056
Total
234,000
234
Descriptives
TNGT TAI CHINH
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean Upper Lower Bound Bound
85 0,222
1,018
0,110 0,002
0,441
-2,393
2,373
Co quan hanh chinh
144
-0,107
0,982
0,082
-0,269
0,054
-2,812
2,373
6
-0,564
0,517
0,211
-1,107
-0,022
-1,285
-0,016
Don vi su nghiep To chuc cong khac Total
235 0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-2,812
2,373
Test of Homogeneity of Variances
TNGT TAI CHINH
df1
df2
Sig.
Levene Statistic 1,209
2
232
,300
ANOVA
TNGT TAI CHINH
Sum of Squares
Mean Square
F
Sig.
df
Between Groups
7,761
3,881
3,979
2
123
,020
Within Groups
226,239
,975
232
Total
234,000
234
Kiểm định sự khác biệt về thành quả hoạt động theo loại hình đơn vị công
Descriptives
THANHQUA (PER)
N Mean
Minimum Maximum
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean Upper Lower Bound Bound
quan
85
0,194
1,001 0,109
-0,022
0,410
-1,988
1,906
Co hanh chinh
144
-0,088
0,991 0,083
-0,251
0,076
-2,203
1,906
chuc
6
-0,647
0,727 0,297
-1,409
0,116
-1,232
0,733
Don vi su nghiep To cong khac
Total
235
0,000
1,000 0,065
-0,129
0,129
-2,203
1,906
Test of Homogeneity of Variances
THANHQUA
df1
df2
Sig.
Levene Statistic ,689
2
232
,503
ANOVA
THANHQUA
Sum of Squares
df
Sig.
F 3,481
,032
Mean Square 3,409 ,979
Between Groups Within Groups Total
6,818 227,182 234,000
2 232 234
Kiểm định sự khác biệt về năng lực kế toán theo mức độ tự chủ
Descriptives
NANG LUC KE TOAN
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
95% Confidence Interval for Mean
Mini mum
Maxi mum
Lower Bound
Upper Bound
81 0,180
1,047
0,116
-0,051
0,412
-3,551
2,603
2
-0,272
0,000
0,000
-0,272
-0,272
-0,272
-0,272
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi
8 0,190
0,741
0,262
-0,429
0,810
-0,789
1,547
tu chu chi
27 0,003
0,937
0,180
-0,368
0,374
-1,571
1,774
47
-0,133
0,901
0,131
-0,397
0,132
-1,814
1,807
tu chu chi DV thuong xuyen va dau tu DV thuong xuyen DV tu chu mot phan chi thuong xuyen
70
-0,135
1,058
0,126
-0,387
0,118
-1,919
1,990
DV do NSNN cap kinh phi
Total
235 0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-3,551
2,603
124
Test of Homogeneity of Variances
df1
df2
Sig.
NANG LUC KE TOAN Levene Statistic 1,268
5
229
,279
ANOVA
NANG LUC KE TOAN
df
Sig.
F 1,034
,398
Mean Square 1,033 ,999
Between Groups Within Groups Total
Sum of Squares 5,166 228,834 234,000
5 229 234
Kiểm định sự khác biệt về vai trò lãnh đạo theo mức độ tự chủ
Descriptives
LANH DAO THEO LUAT
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
Maxi mum
95% Confidence Interval for Mean Mini mum Upper Lower Bound Bound
81 0,082
1,115 0,124
-0,165
0,329
-4,902
1,501
2
0,000 0,000
-0,100
-0,100
-0,100
-0,100
- 0,100
8 0,198
1,042 0,368
-0,672
1,069
-1,701
1,501
tu chu chi
27
0,766 0,147
-0,419
0,187
-1,701
1,501
- 0,116
47
0,895 0,131
-0,320
0,206
-1,701
1,501
- 0,057
70
1,031 0,123
-0,278
0,214
-2,090
1,501
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi DV tu chu chi thuong xuyen va dau tu DV thuong xuyen DV tu chu mot phan chi thuong xuyen DV do NSNN cap kinh phi
- 0,032
235 0,000
1,000 0,065
-0,129
0,129
-4,902
1,501
125
Total
Test of Homogeneity of Variances
LANH DAO THEO LUAT
Levene Statistic
Sig.
df1 5
df2 229
1,093
,365
ANOVA
LANH DAO THEO LUAT
Sum of Squares
df Mean Square
F
Sig.
Between Groups
1,465
5
,293
,289
,919
Within Groups
232,535
229
1,015
Total
234,000
234
Descriptives
LANH DAO THEO TNGT
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
Maxi mum
95% Confidence Interval for Mean Minim um Upper Lower Bound Bound
81 0,056
1,091
0,121
-0,185
0,297
-2,974
2,031
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi
2 0,363
0,000
0,000
0,363
0,363
0,363
0,363
Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi
8 0,405
1,078
0,381
-0,495
1,306
-1,306
2,031
DV tu chu chi thuong xuyen va dau tu
tu chu chi
27
0,964
0,185
-0,449
0,314
-2,142
2,031
- 0,068
47 0,061
1,014
0,148
-0,236
0,359
-2,974
2,031
DV thuong xuyen DV tu chu mot phan chi thuong xuyen
70
0,899
0,107
-0,351
0,078
-2,974
2,031
DV do NSNN cap kinh phi
- 0,137
Total
235 0,000
1,000
0,065
-0,129
0,129
-2,974
2,031
126
Test of Homogeneity of Variances
LANH DAO THEO TNGT
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
,810
5
229
,544
ANOVA
LANH DAO THEO TNGT
Sum of Squares
df Mean Square
F
Sig.
Between Groups
3,438
5
,688
,683
,637
1,007
Within Groups Total
230,562 234,000
229 234
Kiểm định sự khác biệt về chất lượng BCTC theo mức độ tự chủ
Descriptives
CHAT LUONG NEN TANG
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
Maxi mum
95% Confidence Interval for Mean Mini mum Upper Lower Bound Bound
81 0,21
1,02
0,11
-0,02
0,43
-3,51
2,23
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi
2 0,35
0,14
0,10
-0,91
1,61
0,25
0,45
8 0,53
0,69
0,24
-0,04
1,11
-0,16
1,82
Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi DV tu chu chi thuong xuyen va dau tu DV tu chu chi thuong xuyen
27
-0,31
0,84
0,16
-0,64
0,03
-1,73
1,31
47 0,02
0,80
0,12
-0,21
0,26
-1,84
2,02
DV tu chu mot phan chi thuong xuyen
70
-0,21
1,13
0,14
-0,48
0,06
-3,41
2,23
DV do NSNN cap kinh phi
Total
235 0,00
1,00
0,07
-0,13
0,13
-3,51
2,23
127
Test of Homogeneity of Variances
CHAT LUONG NEN TANG
df1
df2
Sig.
Levene Statistic
1,853
5
229
,103
ANOVA
CHAT LUONG NEN TANG
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Between Groups
11,492
5
2,298
2,366
,041
Within Groups
222,508
229
,972
Total
234,000
234
Descriptives
CHAT LUONG BO SUNG
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
Maxi mum
95% Confidence Interval for Mean Mini mum Upper Lower Bound Bound
81
0,13
0,88
0,10
-0,07
0,32
-1,99
2,24
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi
2
0,32
0,00
0,00
0,32
0,32
0,32
0,32
8
0,13
1,16
0,41
-0,84
1,10
-1,57
2,24
tu chu chi
27
-0,14
1,01
0,19
-0,54
0,26
-1,96
2,24
47
0,06
1,02
0,15
-0,24
0,36
-2,79
2,24
70
-0,16
1,10
0,13
-0,42
0,11
-2,35
2,24
Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi DV tu chu chi thuong xuyen va dau tu DV thuong xuyen DV tu chu mot phan chi thuong xuyen DV do NSNN cap kinh phi Total
235
0,00
1,00
0,07
-0,13
0,13
-2,79
2,24
128
Test of Homogeneity of Variances
CHAT LUONG BO SUNG df1 Levene Statistic
df2
Sig.
2,337
5
229
,043
ANOVA
CHAT LUONG BO SUNG
Sum of Squares
df Mean Square
F
Sig.
Between Groups
4,051
5
,810
,807
,546
Within Groups
229,949
229
1,004
Total
234,000
234
Kiểm định sự khác biệt về trách nhiệm giải trình theo mức độ tự chủ
Descriptives
TNGT CONG
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
Maxi mum
95% Confidence Interval for Mean Mini mum Lower Bound
Upper Bound
81 0,15
1,02
0,11
-0,08
0,37
-2,02
2,33
2 0,49
0,00
0,00
0,49
0,49
0,49
0,49
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi
8 0,28
1,12
0,40
-0,66
1,21
-0,95
2,33
tu chu chi
27
-0,16
0,89
0,17
-0,51
0,20
-1,60
2,33
47
-0,02
1,02
0,15
-0,32
0,28
-2,90
2,33
70
-0,14
1,00
0,12
-0,38
0,09
-3,97
2,33
DV tu chu chi thuong xuyen va dau tu DV thuong xuyen DV tu chu mot phan chi thuong xuyen DV do NSNN cap kinh phi Total
235 0,00
1,00
0,07
-0,13
0,13
-3,97
2,33
129
Test of Homogeneity of Variances
TNGT CONG
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
,812
5
229
,542
ANOVA
TNGT CONG
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Between Groups
4,970
5
,994
,994
,422
Within Groups
229,030
229
1,000
Total
234,000
234
Descriptives
TNGT TAI CHINH
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
Maxi mum
95% Confidence Interval for Mean Mini mum Upper Lower Bound Bound
81 0,22
1,04
0,12
-0,01
0,45
-2,39
2,37
2 0,40
0,20
0,14
-1,44
2,24
0,25
0,54
8
-0,02
1,42
0,50
-1,21
1,17
-2,81
1,48
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi DV tu chu chi thuong xuyen va dau tu
tu chu chi
27
-0,32
0,92
0,18
-0,69
0,05
-2,48
1,81
47
-0,10
0,94
0,14
-0,38
0,18
-2,22
2,08
70
-0,07
0,96
0,11
-0,30
0,16
-2,52
2,37
DV thuong xuyen DV tu chu mot phan chi thuong xuyen DV do NSNN cap kinh phi Total
235 0,00
1,00
0,07
-0,13
0,13
-2,81
2,37
130
Test of Homogeneity of Variances
TNGT TAI CHINH Levene Statistic
df1
df2
Sig.
,883
5
229
,493
ANOVA
TNGT TAI CHINH
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1,585
,165
1,566 ,988
Between Groups Within Groups Total
7,828 226,172 234,000
5 229 234
Kiểm định sự khác biệt về thành quả hoạt động theo mức độ tự chủ
Descriptives
THANHQUA
N Mean
Std. Deviation
Std. Error
Maxi mum
95% Confidence Interval for Mean Mini mum Lower Bound
Upper Bound
81
0,12
1,00
0,11
-0,10
0,34
-1,99
1,91
2
0,74
0,76
0,54
-6,07
7,55
0,20
1,28
Co quan nha nuoc duoc giao tu chu kinh phi Co quan nha nuoc khong duoc giao tu chu kinh phi
8
-0,04
1,13
0,40
-0,99
0,90
-1,50
1,91
DV tu chu chi thuong xuyen va dau tu
tu chu chi
27
-0,15
1,02
0,20
-0,55
0,25
-1,50
1,91
DV thuong xuyen
tu chu mot thuong
47
-0,04
0,96
0,14
-0,32
0,24
-2,06
1,91
70
-0,08
1,02
0,12
-0,32
0,17
-2,20
1,91
DV phan chi xuyen DV do NSNN cap kinh phi Total
235
0,00
1,00
0,07
-0,13
0,13
-2,20
1,91
131
Test of Homogeneity of Variances
df1
df2
Sig.
THANHQUA Levene Statistic ,170
5
229
,973
ANOVA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
THANHQUA Between Groups
,681
,638
,686 1,007
Within Groups Total
3,430 230,570 234,000
5 229 234
T-Test
Kiểm định sự khác biệt theo khu vực địa lý
Group Statistics
Mien dia ly
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
BATINH
127
0,007
1,036
0,092
THANHQUA
KHAC
108
-0,008
0,960
0,092
t-test for Equality of Means
Levene's Test for Equality of Variances
F
Sig.
t
df
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
95% Confidence Interval of the Difference Lower Upper
1,058
,305
,109
233
,913
0,014
0,131
-0,244 0,273
Equal variances assumed
PER
,110 231,276
,913
0,014
0,130
-0,243 0,271
Equal variances not assumed
132
T-Test
Kiểm định sự khác biệt theo thời gian khảo sát Group Statistics
Thoi diem khao sat
N Mean
Std. Error Mean
Std. Deviation
TRUOC
131
0,116
1,000
0,087
THANHQUA
SAU
104
-0,146
0,985
0,097
Independent Samples Test
t-test for Equality of Means
Levene's Test for Equality of Variances
F
Sig.
t
df
Mean Difference
Std. Error Difference
Sig. (2- tailed)
95% Confidence Interval of the Difference Lower Upper
,055
,815 2,010
233
,05
0,262
0,130
0,005
0,519
PER
2,013 222,49
,05
0,262
0,130
0,006
0,519
Equal variances assumed Equal variances not assumed