LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của nghiên cứu

Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, tự do hóa thương mại có những tác động trực tiếp và gián tiếp tới ô nhiễm môi trường của một ngành và một quốc gia. Nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều nước trên thế giới như Hettige và cộng sự (1996), Edward (1993), Mani và Wheeler (1999), Dean (2002), Ederington (2004), Mani và Jha (2005), Guminlang (2011) đã cho thấy, không phải mọi tác động là như nhau mà có sự khác nhau xuất phát từ đặc thù riêng của từng ngành và từng quốc gia. Nhưng tổng hợp lại thì tác động tiềm tàng của tự do hóa thương mại đến môi trường gồm: (i) tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường; (ii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua sự chuyên môn hóa, chuyển dịch cơ cấu trong ngành; (iii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua kênh đầu tư, chuyển giao công nghệ; (iv) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường bằng hiệu ứng trực tiếp. Do vậy, cần có những công trình nghiên cứu tiếp theo ở mức độ chi tiết hơn những kênh nào cũng như những yếu tố nào diễn ra tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường và mức độ tác động của nó đến các ngành và các doanh nghiệp.

công… khiến mức tăng trưởng chậm lại và hiệu quả thấp. Giai đoạn 2011-2015, sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số phát triển công nghiệp 2015 tăng khoảng 10%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng mạnh. Cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực. Công nghiệp khai khoáng giảm từ 37,1% năm 2011 xuống khoảng 33,1% năm 2015; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 50,1% năm 2011 lên 51,5% năm 2015. Sau 10 năm gia nhập WTO, độ mở nền kinh tế Việt Nam đã tăng từ 144% năm 2007 lên 173% năm 2016 (Bộ Công Thương, 2017). Như vậy, tự do thương mại đã thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong những năm qua. Nhưng sự phát triển đó có tác động đến chất lượng môi trường hay không? Đã có những nghiên cứu thực địa chứng minh rằng, có mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (Hettige và cộng sự, 1996) hay (Dean, 2002; Edwards, 1993; Ederington và cộng sự, 2004; Nguyen Duy Loi, 2010). Ở Việt Nam, các nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại với ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và cho rằng đó là mối quan hệ thuận chiều (Mani và Jha.S, 2005) (Pham Thai Hung và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, nghiên cứu này thực hiện khi Việt Nam mới bắt đầu gia nhập WTO, vì vậy chưa có nhiều thời gian để kiểm định. Ngân hàng thế giới cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa thương mại và ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam (WB, 2007), nhưng nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc xếp hạng các ngành gây ô nhiễm môi trường .

Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới - WTO (World Trade Organization) từ năm 2007. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới. Tự do hóa thương mại trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, có tác động trực tiếp và nhanh nhất đến thương mại quốc tế và đầu tư, từ đó lan tỏa đến sản xuất trong nước, tạo việc làm và giảm nghèo. Ngoài ra, tự do hóa thương mại còn có những tác động vô hình khác như làm gia tăng nhận thức của xã hội về nhu cầu hội nhập, đổi mới mạnh mẽ thể chế nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ. Tuy nhiên, Việt Nam không thể né tránh những vấn đề thương mại và suy thoái môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và trong WTO nói riêng. Vấn đề thương mại và môi trường trong các Hiệp định của WTO; hiệp định thương mại song phương, đa phương được thể hiện dưới dạng tiêu chuẩn về quy trình sản xuất và chế biến, các quy định về nhãn mác, các hệ thống phí, lệ phí liên quan đến môi trường đối với các sản phẩm xuất nhập khẩu (MUTRAP, 2015).

Tóm lại, tự do thương mại có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam, nhưng đồng thời cũng gây ra những tác động tới môi trường. Tuy nhiên, tác động này chưa được xác định rõ và đầy đủ trên cả phương diện định tính và định lượng. Từ thực tế đó việc nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn đề tài “Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng cả mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn quản lý ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành này.

Mục tiêu cụ thể - Nghiên cứu cơ sở lý luận tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng toàn nền kinh tế của Việt Nam vì đây là ngành lớn, đóng góp hơn 70% tỷ trọng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa, đóng góp khoảng 18% vào GDP của cả nước. Khu vực sản xuất công nghiệp từ giai đoạn năm 2007-2011 chịu ảnh hưởng lớn của sự tăng giá đầu vào, lạm phát, suy thoái kinh tế thế giới, khủng hoảng nợ

- Phân tích thực trạng của tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam; - Phân tích tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ xuất khẩu, tỷ lệ nhập khẩu và tỷ lệ tổng kim ngạch để làm thước đo của tự do hóa thương mại, đây là thước đo được sử dụng rộng rãi ở trên thế giới, nhưng còn hạn chế ở Việt Nam. ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp hạn chế tác động của tự do hóa thương mại tới ô

nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của tự do hóa thương mại Bằng chứng thực nghiệm khẳng định tự do hóa thương mại có tác động đến ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Cụ thể, tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam biến thiên ngược chiều. Đây là kết quả khác biệt so với những kết quả nghiên cứu trước đây. tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu: + Nội dung: Luận án nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam thông qua doanh nghiệp trong ngành, các doanh nghiệp được sử dụng theo ngành cấp 4 và các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra, NCS còn nghiên cứu theo loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và phân vùng kinh tế. + Thời gian: từ năm 2006 đến năm 2014, các giải pháp, kiến nghị được đề Bên cạnh đó, chỉ có sự tương tác là tích số giữa tự do hóa thương mại và loại hình, quy mô doanh nghiệp, ngành có tác động đến ô nhiễm môi trường. Đồng thời, trong cùng một môi trường tự do hóa thương mại, ô nhiễm môi trường do doanh nghiệp FDI gây ra lớn hơn DN ngoài NN. Còn DN lớn gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn DN nhỏ và DN siêu nhỏ. Đặc biệt, tốc độ gây ô nhiễm môi trường của ngành bẩn lớn hơn nhiều lần ngành sạch. Cuối cùng, khu vực Miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là nơi tập trung nhiều DN gây ô nhiễm nhất. Đồng bằng sông Cửu Long và Miền núi phía Bắc là hai khu vực được nhận thấy ô nhiễm nhiều nhất do ngành bẩn gây ra. xuất đến 2025, tầm nhìn 2035;

Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án đưa ra các kiến nghị nhằm giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.

+ Không gian: Luận án nghiên cứu trên phạm vi cả nước Việt Nam, dựa trên 7 vùng kinh tế là Thành phố Trung Ương, Đồng bằng sông Hồng, Miền núi phía Bắc, Duyên Hải, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. 4. Đóng góp mới của luận án

Luận án này, nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Bên cạnh những kế thừa, luận án đã khắc phục được một số hạn chế của các nghiên cứu đi trước. Sau đây là một số đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn.

Thiếu hụt dữ liệu về ô nhiễm môi trường là một hạn chế trong nghiên cứu, nhưng trong luận án này, NCS đã nghiên cứu và xử lý để có bộ dữ liệu về cường độ ô nhiễm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Đây là một phần đóng góp của luận án về cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Điểm mới này được các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý môi trường đánh giá cao. Bên cạnh đó, tác giả đã phân loại ngành sạch và ngành bẩn ở cấp độ chi tiết 4 chữ số bằng việc sử dụng bộ dữ liệu GES và IPPS. Đây là cấp phân loại ngành sạch – bẩn nối giữa VSIC và ISIC chi tiết nhất hiện nay. 5. Cấu trúc của luận án Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận về tác động của tự do Về mặt lý luận: Luận án khẳng định tự do hóa thương mại có tác động tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong cùng một môi trường tự do thương mại như nhau thì loại hình, quy mô, khu vực phân bố của doanh nghiệp có tác động đến ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở những cấp độ khác nhau. hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu Chương 3. Đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam

Chương 4. Định hướng và giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở Việt Nam Về mặt thực tiễn: Luận án có khung lý thuyết vững, sử dụng mô hình nghiên cứu của nhà kinh tế học Hettige và cộng sự cùng bộ dữ liệu mảng được ghép nối từ bộ số liệu của GES và IPPS giai đoạn từ năm 2006 đến 2014. Ngoài các biến thể hiện đặc điểm doanh nghiệp như yếu tố đầu vào, tuổi, vùng phân bố thì luận án còn sử dụng thêm các biến kiểm soát như: i) loại hình, quy mô doanh nghiệp, ngành; ii) biến tương tác là tích số giữa tự do thương mại lần lượt với loại hình và quy mô doanh nghiệp, ngành. Đặc biệt, luận án sử dụng tỷ lệ

từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dựa trên lượng thải. Từ đó, NCS sử dụng phương pháp định lượng để nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo qua thành phần ô nhiễm là nước, không khí, chất độc và kim loại ở cấp độ DN thuộc ngành. Bởi hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp luôn thải ra chất thải ở thể lỏng và khí, các thành phần ô nhiễm: nước, không khí, chất độc, kim loại được nghiên cứu nhiều ở trên thế giới. Tình trạng ô nhiễm nước, không khí, chất độc, kim loại đang là vấn đề môi trường trầm trọng ở Việt Nam. Tác động này được kiểm định qua biến loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, phân loại ngành.

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI TỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO 1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 1.1.1 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp định tính 1.1.2 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp định lượng 1.1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu của luận án

Cuối cùng, NCS tiến hành phỏng vấn sâu để bổ sung vào kết quả định lượng và gợi ý chính sách để giảm nhẹ những tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở nước ta. 1.2 Cơ sở lý luận về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 1.2.1 Một số vấn đề lý luận về tự do hóa thương mại 1.2.2 Một số vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 1.2.3 Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 1.2.3.1 Khái niệm về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Các nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu IPPS và GSO để đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đều khẳng định rằng: quá trình hội nhập kinh tế thế giới, tự do thương mại đã tác động đến môi trường, Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó.Tuy nhiên, đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam trong thời gian Việt Nam gia nhập WTO tới nay thì còn hạn chế. Đặc biệt là sử dụng mô hình của Hettige và cộng sự để đánh giá tác động của tự do thương mại lên ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam còn ít. Vì vậy NCS lựa chọn mô hình lý thuyết của Hettige và cộng sự để phân tích tác động động của tự do thương mại tới ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam dưới hai góc độ: Doanh nghiệp và ngành.

Tự do hóa thương mại tác động tích cực, tiêu cực đến các khía cạnh môi trường xuất phát từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo gọi là tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. 1.2.3.2 Tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Tóm lại, có 03 nhóm các quy định thương mại để xử lý các vấn đề môi trường: - Để xử lý các vấn đề môi trường bên ngoài lãnh thổ thông qua các công cụ thương mại như: cấm, hạn ngạch…; - Để bù đắp đối với các quốc gia nới lỏng các quy định/ tiêu chuẩn về môi trường thông qua đánh thuế hoặc biện pháp về hải quan;

Về mặt lý thuyết, từ các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, tự do hóa thương mại tác động tới môi trường cả mặt tích cực lẫn tiêu cực và bằng cả phương pháp định lượng lẫn định tính. Vì vậy trong nghiên cứu của mình, NCS sử dụng cả phương pháp định lượng và phỏng vấn chuyên gia để nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua các kênh: quy định môi trường; thay đổi quy mô sản xuất và thay đổi cơ cấu nền kinh tế; di cư ô nhiễm từ các nước phát triển qua các nước đang phát triển thông qua đầu tư. Đây là nghiên cứu chi tiết hơn các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam. Ngoài ra, xét dưới góc độ ngành, nghiên cứu của WB thực hiện ở Việt Nam năm 2008 chỉ dừng lại ở xếp loại ngành sạch, ngành bẩn theo mã ngành ISIC bản sửa đổi lần 3. Nhưng trong nghiên cứu này, ngoài xếp loại ngành sạch ngành bẩn chi tiết nhất ở cấp độ 4 chữ số theo VSIC bản sửa đổi lần 4 thì NCS còn so sánh tốc độ gia tăng ô nhiễm giữa hai ngành sạch và bẩn để từ đó thấy được sự thay đổi cơ cấu trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn, NCS tiến hành đo lường tình trạng ô nhiễm môi trường - Các biện pháp phía sau biên giới: các biện pháp môi trường nội địa không trực tiếp vào các quốc gia khác. Đây là nhóm công cụ không rõ ràng và dễ bị cho là có nhiều nguy cơ gây ra các tranh chấp thương mại và tạo ra các rào cản thương mại, như: thuế và các quy định nội địa của quốc gia nhập khẩu được áp dụng không phân biệt đối xử với các sản phẩm được sản xuất trong nước và nhập khẩu có thể tạo ra rào cản thương mại cho quốc gia xuất khẩu nếu các quy định môi trường ở quốc gia nhập khẩu cao hơn so với quốc gia xuất khẩu. Các trợ cấp cho hàng

hóa xuất khẩu gây ra sự gia tăng các vấn đề môi trường.

1.2.3.3 Tự do hóa thương mại tác động tới tăng năng suất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu

Tự do hóa thương mại

Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp sản xuất. Để trả lời câu hỏi nghiên cứu và kiểm định giả thuyết nghiên cứu, NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với sự hỗ trợ của phần mềm kinh tế lượng Stata 12 và phương pháp phỏng vấn, thống kê cùng với khung phân tích được sử dụng trong nghiên cứu này như sau:

Chuyển dịch cơ cấu sản xuất

Tăng quy mô doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp bẩn

Nơi trú ẩn ô nhiễm thông qua nguồn vốn FDI

Ô nhiễm môi trường

Như vậy, tự do hóa thương mại tác động lên toàn bộ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.Tác động này bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn, cũng như cả khu vực phi chính thức và chính thức. Đối với khu vực kinh tế chính thức, việc giảm thuế hàng hóa cuối cùng làm tăng năng suất trung bình, với sự gia tăng lớn nhất là kênh phân phối. Nếu các DN đầu tư công nghệ và phân phối lại lực lượng sản xuất để tăng năng suất thì tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường sẽ giảm đi và DN đó có khả năng thành công trong môi trường tự do hóa thương mại. Ngược lại, nếu DN tăng năng suất bằng sản xuất nhiều hơn sẽ dẫn đến sự phá sản và gia tăng ô nhiễm bởi cạn kiệt tài nguyên và gia tăng chất thải. 1.2.3.4 Tự do hóa thương mại tạo sự di cư của các ngành công nghiệp bẩn đến các nước đang phát triển

Quy định môi trường

Sơ đồ 2.1: Khung phân tích

Nguồn: NCS Tổng hợp từ cơ sở lý luận Từ các mối quan hệ của khung phân tích này và dựa trên tổng quan nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra để kiểm định thực nghiệm như sau:

Giả thuyết 1: Khi tự do thương mại gia tăng thì ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam gia tăng. (Dean, 2002) (Gumilang, 2011; Mani và Wheeler, 1998). Từ lý thuyết của các nhà kinh tế đưa ra, NCS sử dụng dữ liệu để xem xét, trong tiến trình tự do hóa thương mại, Việt Nam có nằm trong quy luật là “ổ chứa ô nhiễm” của một nước đang phát triển thông qua dòng vốn FDI mà các nhà kinh tế đã đưa ra? Thành phần môi trường bị ô nhiễm được xét đến trong nghiên cứu này là nước, không khí, chất độc và kim loại. 1.2.3.5 Tự do hóa thương mại tạo sự chuyên môn hóa trong ngành công nghiệp bẩn Với việc Việt Nam khai thác lợi thế cạnh tranh chính trong các mặt hàng thâm dụng lao động và thâm dụng tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu sang các đối tác thương mại chính. Những đối tác nhìn chung có các quy định môi trường nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, sự mở cửa thương mại ấn tượng của Việt Nam có thể có những ảnh hưởng tiêu cực lên môi trường. Bởi vì, để tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng như những năm vừa qua, Việt Nam có thể “chuyên môn hóa” trong những ngành “thâm dụng ô nhiễm” hay những ngành có cường độ ô nhiễm cao (ngành bẩn). Nghiêm cứu thực nghiệm của Mani và Jha năm 2005 đã cho chúng ta thấy điều đó (Mani và Jha.S, 2005). Như vậy, từ lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy, các nước đang phát triển đang “chuyên môn hóa” trong những ngành “thâm dụng ô nhiễm”. Vậy, Việt Nam có nằm trong quy luật đó hay không chính là mục tiêu của nghiên cứu này. 1.2.3.6 Tự do thương mại tác động đến đến môi trường bằng chuyển giao công nghệ, tri thức và đầu tư

Tự do hóa thương mại sẽ tạo điều kiện cho quốc gia tham gia giảm thiểu ô nhiễm môi trường bằng việc áp dụng những công nghệ tiên tiến, công nghệ xanh. Nhưng ngược lại, tự do thương mại sẽ tạo ra áp lực cho môi trường nếu quốc gia đó bị hạn chế về tài chính, chính sách.

Giả thuyết nghiên cứu: dưới góc độ ngành và Doanh nghiệp Dưới góc độ ngành: Giả thuyết 2: Khi tự do thương mại gia tăng thì tải lượng ô nhiễm từ ngành bẩn lớn hơn ngành sạch. Hay nói cách khác, khi tự do hóa thương mại gia tăng thì cơ cấu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam dịch chuyển theo chiều hướng gia tăng ngành công nghiệp bẩn. (Mani và Jha.S, 2005) (Mani và Wheeler, 1999; Copeland và Taylor, 1994)

Dưới góc độ Doanh nghiệp: Giả thuyết 3: Khi tự do hóa thương mại gia tăng thì Doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác (Grossman and Krueger, 1993) (Ederington và cộng sự, 2004). yếu tố ngẫu nhiên, ci là biến không quan sát được (thể hiện đặc điểm riêng của từng quan sát hoặc từng đơn vị), uit thỏa mãn các giả thiết của phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu OLS. Mô hình hồi quy gộp POLS Nếu không có cit thì mô hình (4) khi được viết lại dưới dạng mô hình hồi quy gộp (Pooled Model) như sau: (4.1) Yit = β0 + βi*Xit + uit Trong đó Yit là biến phụ thuộc ; Xit là véc- tơ các biến giải thích trong phương trình 4.

Mô hình tác động cố định FEM Mô hình FEM có dạng như sau: (4.2) Yit = β0 + βi*Xit + ci + uit

+

Mô hình FEM được ước lượng bằng phương pháp hồi quy cổ điến với Giả thuyết 4: Khi tự do thương mại gia tăng thì các doanh nghiệp có quy mô lớn gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác. (Copeland và Tayor, 2003) ((Mani và Jha.S, 2005) 2.2 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1 Phương pháp thống kê mô tả 2.2.2 Phươg pháp nghiên cứu định lượng 2.2.2.1 Mô hình đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường Để ước lượng tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường ngành công nghiệp, NCS sử dụng mô hình dưới dạng hàm tải lượng ô nhiễm tổng quát được đề xuất trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự (Hettige và cộng sự, 1996) như sau: biến giả hoặc phương pháp biến đổi dọc như sau:

(

it

i

it

t

it

i

YY

Có : Yi = β0 + βi*Xi + ci + uit − β1 =

)uuXX ( )

P = β0 + β1 X+ β2 T+ β3 D+ui (1) Trong đó, P là mức độ ô nhiễm, X là véc- tơ các yếu tố đầu vào, T là biến đại diện cho tự do hóa thương mại, D là véc – tơ tập hợp các biến giả, ui là số hạng sai số ngẫu nhiên. Từ hàm tải lượng ô nhiễm tổng quát, NCS xây dựng mô hình nghiên cứu Phương pháp này giúp loại bỏ những ảnh hưởng theo chiều ngang của ci và chỉ còn lại những ảnh hưởng theo chiều dọc. Vì thế hàm còn có tên gọi là ước lượng dọc. tải lượng ô nhiễm của một doanh nghiệp và biểu diễn dạng tuyến tính như sau:

Mô hình hồi quy ngẫu nhiên REM Cuối cùng, mô hình được lựa chọn sẽ sử dụng hồi quy robust để kiểm soát các vi phạm về phương sai thay đổi và tự tương quan của sai số ngẫu nhiên (Wooldridge, 2002), (Greene, 2003). 2.2.2.3 Dữ liệu i) Nguồn dữ liệu

Pijt = β0 + β1 Xijt + β2 Tijt +Dijt β3 +ui (2) Trong đó, Pijt là mức độ ô nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim loại, nước, không khí) của doanh nghiệp thứ i thuộc ngành j theo thời gian t; Xijt là yếu tố đầu vào; T là biến số đại diện cho mở cửa thương mại ; D là véc tơ các biến kiểm soát bao gồm kiểm soát về quy mô doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp và vùng miền phân bố; β là các véc – tơ hệ số của các tham số phù hợp; ui là số hạng sai số ngẫu nhiên.

Ngoài ra, để đánh giá tổng quát hơn về tác động của tự do hóa thương mại đến ô nhiễm môi trường ở cấp độ ngành, mô hình được sử dụng dưới dạng tuyến tính là:

Trong nghiên cứu này NCS sử dụng dữ liệu doanh nghiệp được chiết từ bộ Điều tra Doanh nghiệp (GES) do Tổng cục Thống kê (GSO) thực hiện trong giai đoạn 2006 – 2014. Bộ dữ liệu điều tra doanh nghiệp cung cấp một nguồn thông tin phong phú ở cấp độ doanh nghiệp, ngành, bao gồm: giá trị xuất nhập khẩu, năm thành lập, ngành hoạt động, hình thức sở hữu, cơ cấu vốn, cơ cấu việc làm, vùng miền phân bố. Các thông tin này được khai thác để có một tập hợp dữ liệu về đặc điểm của doanh nghiệp, ngành để sử dụng cho khung phân tích đã nêu trên.

Cường độ ô nhiễm được định nghĩa là: lượng ô nhiễm trên một đơn vị hoạt động gây ra bởi các chất gây ô nhiễm. Sau đó, cường độ ô nhiễm được dùng làm mức ô nhiễm ước tính, Hettige và cộng sự đã đưa ra nghiên cứu về cường độ ô nhiễm năm 1996 (Hettige và cộng sự, 1996). Pjt = β0 + β1 Xjt + β2 Tjt + Djt β3 +ui (3) Trong đó, Pjt là mức độ ô nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim loại, nước, không khí) của ngành thứ j theo thời gian t; Xjt là yếu tố đầu vào; T là biến số đại diện cho mở cửa thương mại; D là véc tơ các biến kiểm soát bao gồm kiểm soát về loại ngành và vùng miền phân bố; β là các véc – tơ của các hệ số của các tham số phù hợp; ui là số hạng sai số ngẫu nhiên. 2.2.2.2 Phương pháp ước lượng Mô hình chung của dạng số liệu mảng như sau: Cường độ ô nhiễm = Lượng ô nhiễm Một đơn vị hoạt động gây ra ô nhiễm Yit = β0 + βi*Xit + vit hay Yit = β0 + βi*Xit +ci + uit (vit = ci + uit) (4) Trong đó Yit là biến phụ thuộc; Xit là véc tơ các biến giải thích, vit là các

ii) Xử lý dữ liệu iii) Biến số và thước đo

Cường độ ô nhiễm =

1.000 (Lao động)

Lượng ô nhiễm (kg) * Tổng lao động của doanh nghiệp

Tải lượng ô nhiễm =

1.000 (Lao động)

Halit (2003) ước tính tác động của tự do hóa thương mại đối với tăng trưởng cho 120 quốc gia trong giai đoạn 1970-1997. Ông đã sử dụng hai phương pháp đo độ mở của thương mại. Phương pháp đầu tiên được tính bằng cách sử dụng khối lượng thương mại, bao gồm các tỷ lệ khác nhau của biến thương mại là: xuất khẩu, nhập khẩu, tổng kim ngạch với GDP (Halit, 2003). Bên cạnh đó, Santos-Paulino (2002) đã kiểm tra tác động của tự do hoá thương mại đối với tăng trưởng với 22 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1972-1998. Ông đã sử dụng thước đo tăng trưởng xuất khẩu làm đại diện cho độ mở của nền kinh tế. Kết quả ước lượng bằng phương pháp OLS cho thấy tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn ở các nền kinh tế mở (Paulino, 2002). Iscan Talan (1998) đã phân tích hiệu quả của sự mở cửa thương mại đối với tăng trưởng năng suất tổng sản phẩm cho các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Mexico trong giai đoạn 1970-1990. Để xác định hiệu quả năng suất của sự tự do hóa thương mại, thước đo đại diện cho độ mở của thương mại chính là giá trị xuất khẩu. Kết quả là tự do hoá thương mại có những tác động tích cực đến tăng trưởng năng suất (Talan, 1998). * Biến phụ thuộc Hệ thống IPPS sử dụng ba loại hệ số ô nhiễm, bao gồm: (i) các hệ số dựa vào sản lượng; (ii) các hệ số dựa vào giá trị gia tăng; (iii) các hệ số dựa vào việc làm. Cả ba loại hệ số trên đều được nhận thấy có tương quan cao với nhau. Nhưng ô nhiễm và việc làm được nhận thấy có biến thiên cùng chiều nên các hệ số dựa vào việc làm thường được dùng để ước tính ô nhiễm ở các nước đang phát triển. Điều này được giải thích trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự năm 1995. Ngoài ra, hệ thống IPPS được kiểm tra với bộ dữ liệu ngành ở Mỹ và ở Indonesia cho ô nhiễm nguồn nước, nghiên cứu cho thấy sự thay đổi cao đối với cường độ ô nhiễm dựa trên hệ số lao động. Mặc khác, bộ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO không có các thông tin về sản lượng, giá trị gia tăng. Vì vậy trong luận án, NCS dựa vào việc làm để suy tính giá trị ước tính tải lượng ô nhiễm . Lượng ô nhiễm (kg)

Ngoài tình trạng thiếu đồng thuận về thước đo mức độ mở cửa của thương mại, việc xây dựng một thước đo mở cửa thương mại phù hợp đòi hỏi phải có đầy đủ dữ liệu. Do đó, việc lựa chọn thước đo tự do thương mại trong các nghiên cứu thực nghiệm phụ thuộc vào sự sẵn có của số liệu và các mục tiêu nghiên cứu cụ thể. Trong nghiên cứu này, để đo lường biến tự do thương mại, NCS sử dụng thước đo, bao gồm: (i) Tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu với tổng doanh thu của Tải lượng ô nhiễm được lấy logarit trước khi đưa vào mô hình nghiên ngành cứu. (ii) Tỷ lệ giữa giá trị nhập khẩu với tổng doanh thu của ngành (iii) Tỷ lệ giữa tổng kim ngạch với tổng doanh thu của ngành

Đối với mỗi chất ô nhiễm không khí, nước và các chất độc hại cho hơn 240 hóa chất và kim loại, IPPS cung cấp một giá trị giới hạn thấp, giá trị giới hạn cao và giá trị giới hạn trung vị. Trong nghiên cứu của WB áp dụng IPPS để tính ảnh hưởng ô nhiễm từ các ngành công nghiệp năm 2008, đã sử dụng giá trị giới hạn thấp của cường độ ô nhiễm, để áp dụng cho nhiều biện pháp bảo toàn của cường độ ô nhiễm. Vì vậy, trong luận án này NCS cũng sử dụng giá trị giới hạn thấp của cường độ ô nhiễm.

Cuối cùng, dựa vào nghiên cứu của Hettige và cộng sự (1995, trang 4) thì “các cường độ ô nhiễm theo ngành luôn luôn có phân phối theo hàm số mũ, với một ít ngành cường độ cao và nhiều ngành cường độ rất thấp”. Như vậy các giá trị ước tính ô nhiễm nên được thực hiện ở càng chi tiết càng tốt. Vì vậy NCS sử dụng các hệ số ô nhiễm ở cấp độ 4 chữ số, đây là cấp độ chi tiết nhất hiện có trong hệ thống IPPS. Trong đó, với cấp độ DN: giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và tổng kim ngạch được xác định bởi giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và tổng kim ngạch của doanh nghiệp thuộc cùng ngành tương ứng; tổng doanh thu được xác định bằng tổng doanh thu của ngành cấp 4 tương ứng. Với cấp độ ngành: giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu được xác định bằng tổng giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu của ngành cấp 2 tương ứng. Ngoài ra, luận án sử dụng biến tương tác là tích số giữa biến tự do hóa thương mại với biến giả loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, ngành để đánh giá ảnh hưởng của tự do hóa thương mại đến ô nhiễm môi trường so sánh giữa loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh.

Nhóm biến kiểm soát đặc điểm của doanh nghiệp bao gồm: loại hình doanh nghiệp, được chia thành doanh nghiệp Ngoài nhà nước (không bao gồm DN FDI) (DN ngoài NN), doanh nghiệp FDI (DNFDI), doanh nghiệp trong nước (DNNN) (Tổng cục thống kê, 2015); quy mô doanh nghiệp, được chia * Nhóm biến giải thích Yếu tố đầu vào sản xuất được đo bằng K (nguồn vốn). Nguồn vốn (K) được đại diện bởi nguồn vốn bình quân (trung bình cộng của nguồn vốn đầu năm và nguồn vốn cuối năm) (Nguyễn Thị Cành, 2004; Bernanke và Gilchrist, 1996). Biến số này được logarit hóa khi đưa vào mô hình hồi quy.

thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ (Chính Phủ, 2009); ngành nghề kinh doanh và tuổi của doanh nghiệp. Đối với biến loại hình doanh nghiệp, hai biến giả được sử dụng là DNNN và DN ngoài NN. Trong đó, các biến số được gán giá trị bằng 1 nếu là đối tượng khảo sát và 0 nếu khác. DN FDI được lựa chọn làm cơ sở để so sánh. Long, các biến giả được gán giá trị 1 nếu thuộc đối tượng nghiên cứu và 0 nếu khác, trong đó thành phố trung ương được lựa chọn làm cơ sở để so sánh. Trong luận án này, NCS sử dụng biến kiểm soát về mặt địa lý nhằm mục đích đánh giá quá trình phân bố lực lượng sản xuất của Việt Nam trong quá trình tự do hóa thương mại. 1.2.3 Phương pháp phỏng vấn chuyên gia

Đối với biến quy mô doanh nghiệp, ba biến giả được sử dụng là DN siêu nhỏ, DN nhỏ và DN vừa. Trong đó, cá biến số được gán giá trị bằng 1 nếu là đối tượng khảo sát và 0 nếu khác. DN lớn được lựa chọn làm cơ sở để so sánh.

Sở dĩ NCS sử dụng loại hình doanh nghiệp và quy mô doanh nghiệp làm nhóm biến kiểm soát là vì: với loại hình doanh nghiệp, NCS tiến hành kiểm định theo giả thuyết H3; còn đối với quy mô doanh nghiệp, NCS tiến hành kiểm định theo giả thuyết H4. Tuổi doanh nghiệp được tính bằng hiệu số giữa năm điều tra khảo sát với năm doanh nghiệp thành lập. Để giải thích thêm cho các kết quả nghiên cứu thu được từ phương pháp định lượng, NCS tiến hành phỏng vấn các chuyên gia với mong muốn có những dữ liệu định tính để đối chiếu với kết quả nghiên cứu định lượng. NCS thực hiện phỏng vấn hai nhóm chuyên gia: chuyên gia môi trường và chuyên gia thương mại. Các chuyên gia được phỏng vấn là những người quản lý, tư vấn chính sách pháp lý cho Chính phủ Việt Nam trong quản lý môi trường và thương mại. Câu hỏi phỏng vấn là các câu hỏi mở, tập trung vào triết lý và mục tiêu của các chính sách môi trường, thương mại trong tiến trình hội nhập, bảng câu hỏi được trình bày trong phụ lục 4

CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI TỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM 3.1 Thực trạng tự do hóa thương mại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam 3.1.1 Quá trình cải cách thương mại của Việt Nam 3.1.2 Những yêu cầu về môi trường của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong thương mại quốc tế và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 3.1.3 Tình hình tự do hóa thương mại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam 3.1.3.1 Thực trạng xuất nhập khẩu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam

Từ năm 2007 đến 2014, khoảng cách nhập siêu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam đang thu hẹp, đến năm 2014, cán cân xuất nhập của Việt Nam đã gần cân bằng. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tới các nền kinh tế thu nhập thấp và trung bình rất đa dạng. Liên minh Châu Âu (EU) và Bắc Mỹ (Hoa Kỳ và Canada) trở thành thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, chủ yếu là hàng dệt may, giày dép và thủy sản. Mặc dù thị phần ở Bắc Mỹ, EU chiếm bình quân không đến 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng giá trị xuất khẩu đến hai thị trường này mang lại gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2014. Djt là biến kiểm soát của ngành j theo thời gian t, bao gồm: ngành sạch và ngành bẩn. Một biến giả được sử dụng là ngành sạch. Các biến số được gán giá trị bằng 1 nếu là đối tượng khảo sát và 0 nếu khác. Ngành bẩn được lựa chọn làm cơ sở để so sánh. Trên thế giới, cách tiếp cận “ngành sạch” và “ngành bẩn” được sử dụng khá phổ biến. Đặc biệt là những nghiên cứu phân tích tác động của các hoạt động sản xuất và chính sách thương mại tới môi trường. Theo nghiên cứu của Min năm 1996, thì những ngành có chi phí giảm ô nhiễm trên một đơn vị sản lượng cao thì được cho là ngành bẩn (Min, 1996). Theo Vutha và Jalilian (Vutha và Jalilian.H, 2008), các ngành công nghiệp được phân loại dựa trên tổng lượng chất thải độc hại thải ra môi trường nước, không khí và đất trên 1 triệu USD sản lượng. Các ngành công nghiệp có tổng lượng chất thải độc hại ra môi trường lớn hơn 1.500 pound/ 1 triệu USD sản lượng là ngành bẩn nhất; từ 500 - 1.500 pound/1 triệu USD sản lượng là ngành bẩn trung bình; bé hơn 500 pound/ 1 triệu USD sản lượng là ngành ít bẩn (hay ngành sạch). Một phương pháp khác để phân biệt ngành “bẩn” hay “sạch” là dựa vào cường độ ô nhiễm thực tế như trong nghiên cứu của Wheeler và cộng sự năm 1998 (Mani và Wheeler, 1998). Trong nghiên cứu này, những ngành có tải lượng ô nhiễm lớn là ngành “bẩn”, những ngành có tải lượng ô nhiễm ít là ngành sạch. Cách phân loại này giúp ước lượng các chênh lệch ô nhiễm liên ngành đồng thời kiểm soát được các đặc điểm doanh nghiệp khác nhau thuộc ngành. Từ những lý thuyết trên, luận án sẽ sử dụng phương pháp phân loại ngành của Wheeler năm 1998. Theo đó, NCS chia tải lượng ô nhiễm ngành cấp 4 làm 3 khoảng, khoảng các ngành có tải lượng ô nhiễm lớn nhất là ngành bẩn và khoảng các ngành có tải lượng ô nhiễm thấp nhất là ngành sạch.

3.1.3.2 Thực trạng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam Các nhân tố về mặt địa lý, 6 biến giả sẽ được sử dụng để đại diện cho 7 vùng kinh tế của cả nước là thành phố trung ương, Đồng bằng Sông Hồng, Miền núi phía Bắc, Duyên Hải, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu

mại. DN ngoài Nhà nước là loại hình DN có tải lượng thải gây ô nhiễm không khí nhiều nhất và tăng đều từ năm 2006 đến 2011, từ 408 tấn lên đến 671 tấn. Doanh nghiệp FDI luôn là loại hình doanh nghiệp dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu (XK) của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. DN lớn cũng là những DN nhập khẩu và tham gia thị trường nhập khẩu DN lớn là quy mô DN có tải lượng ô nhiễm nhiều nhất và bình quân ô

nhiều nhất, đạt mốc 50.000 triệu USD năm 2012. 3.1.3.3 Thực trạng thuế quan của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam

nhiễm cũng lớn nhất. 3.3 Đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam 3.3.1 Mô tả thống kê và tương quan biến 3.3.1.1 Mô tả thống kê 3.3.2 Kết quả ước lượng và phân tích ảnh hưởng của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cấp độ doanh nghiệp ở Việt Nam

Hiện nay, để khuyến khích các doanh nghiệp, Chính phủ Việt Nam áp dụng miễn thuế cho hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, một số rất nhỏ hàng hóa chịu thuế xuất khẩu là các loại tài nguyên. 3.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam 3.2.1 Thực trạng các chính sách môi trường tác động tới ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên thế giới và ở Việt Nam 3.2.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam 3.2.2.1 Ô nhiễm chất độc trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam Năm 2006 lượng chất độc của ngành chỉ ở mức 220 tấn, nhưng đến năm 2014 con số này đã tăng lên 366 tấn. Như vậy, thương mại và ô nhiễm chất độc có mối quan hệ thuận chiều.

Lượng chất độc tăng đều trong tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. DN ngoài Nhà nước là loại hình DN thải ra lượng chất độc cao nhất, hơn 200 tấn vào năm 2011 Tự do hóa thương mại có tác động tích cực giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Các biến về xuất- nhập khẩu và tổng kim ngạch có tác động ngược chiều với lượng thải trong hầu hết các mô hình đánh giá. Điều này cho thấy khi xuất- nhập khẩu và tổng kim ngạch gia tăng, thì lượng thải các dạng chất độc, kim loại, nước và không khí từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng giảm. Tại cùng mức độ tự do hóa thương mại thì doanh nghiệp (DN) FDI gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn DN Ngoài Nhà nước và DN Nhà nước. Việt Nam dường như đang là “nơi trú ẩn ô nhiễm” thông qua các dự án FDI. 3.3.3 Kết quả ước lượng và phân tích về ảnh hưởng của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cấp độ ngành ở Việt Nam DN nhỏ là những DN gây ô nhiễm chất độc cao nhất cả về lượng thải và

bình quân 3.2.2.2 Ô nhiễm kim loại trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam Theo số liệu thống kê, ô nhiễm kim loại trong ngành công nghiệp chế biến, Luận án đã phân loại ngành sạch, ngành bẩn dựa vào bộ dữ liệu cường độ ô nhiễm công nghiệp của Ngân hàng thế giới và bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp. Phân loại ngành sạch, ngành bẩn chi tiết đến cấp độ 4 chữ số theo mã VSIC là bộ dữ liệu chi tiết nhất hiện nay. chế tạo ở Việt Nam gia tăng trong suốt khoảng thời gian từ năm 2006 đến 2014.

DN ngoài Nhà nước là loại hình DN gây ô nhiễm kim loại nhiều nhất, tăng từ 124 tấn năm 2006 lên 250 tấn năm 2011, sau đó giảm và giữ mức gần 220 tấn DN lớn là những DN có tải lượng ô nhiễm kim loại lớn nhất, từ 134 tấn năm

2006 tăng lên 226 tấn năm 2014 3.2.2.3 Ô nhiễm nước trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam Ô nhiễm nước trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam gia Tóm lại, kết quả ước lượng cấp ngành củng cố thêm cho kết quả ước lượng cấp doanh nghiệp rằng tự do thương mại không làm trầm trọng thêm vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Ngành bẩn là ngành gây ô nhiễm môi trường với tốc độ lớn hơn ngành sạch. Đặc biệt, Việt Nam đang ưu tiên đầu tư, mở rộng quy mô các doanh nghiệp thuộc ngành bẩn. Đây chính là hướng chuyển dịch cơ cấu đáng lo ngại ở nước ta. Vì vậy, Chính phủ cần có chiến lược, lựa chọn ngành để hướng tới phát triển bền vững. 3.4 Đánh giá kết quả chung 3.4.1 Kết quả tăng đều từ năm 2006 đến 2014.

DN ngoài Nhà nước là những DN gây ô nhiễm môi trường nước lớn nhất, tăng từ 138 tấn năm 2006 lên 233 tấn năm 2011, sau đó giảm nhưng không đáng kể. Ô nhiễm nước trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam

chịu sự tác động lớn của các DN thuộc quy mô DN lớn. 3.2.2.4 Ô nhiễm không khí trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam Ô nhiễm môi trường không khí gia tăng trong quá trình tự do hóa thương Tự do hóa thương mại không làm cho vấn đề môi trường trở nên trầm trọng hơn là kết quả nghiên cứu định lượng. Điều này cũng được sự đồng thuận của các chuyên gia mà NCS phỏng vấn. Bởi vì, trong quá trình tự do hóa thương mại các quy định, chính sách môi trường nhận được sự quan tâm và ưu tiên trong cả hai lĩnh vực, thương mại và môi trường. Những chính sách thương mại và môi trường được thực hiện dưới góc độ Chiến lược, chương trình hành động quốc gia, quy định, rào cản, pháp lệnh…

4.2 Một số quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam 4.2.1 Quan điểm phát triển bền vững 4.2.2 Lựa chọn mô hình phát triển bền vững 4.2.3 Đảm bảo sự tiến bộ xã hội 4.2.4 Gắn tăng trưởng với chống ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu 4.3 Kiến nghị và gợi ý chính sách Trong quá trình tự do hóa thương mại chính sách thương mại, môi trường đều được ưu tiên ở mức độ cao và qua các giai đoạn: Ban hành chính sách, thực thi, bắt buộc và tự nguyện. Chính sách môi trường, thương mại được ưu tiên, đổi mới qua các giai đoạn. Tự do hóa thương mại giúp nhận thức môi trường tăng lên, Việt Nam học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các quốc gia, cũng như đáp ứng được các yêu cầu của FTA 3.4.2 Hạn chế

Kết quả định lượng và phỏng vấn cho thấy, tự do hóa thương mại thúc đẩy quá trình sản xuất gia tăng để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, vì vậy gia tăng khả năng khai thác tài nguyên hoặc nhập khẩu nhiên liệu. Mặt khác, gia tăng sản lượng sẽ gia tăng áp lực lên môi trường. Bởi vì, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có khả năng tài chính để đổi mới, đầu tư công nghệ. Tự do thương mại thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam với tốc độ gia tăng mạnh mẽ. Và lý thuyết đã chứng minh ô nhiễm dư cư từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển thông qua kênh FDI. Kết quả thực nghiệm ở nghiên cứu này cũng cho thấy điều đó. Như vậy, FDI cũng gây ra tác động tiêu cực cho môi trường ở Việt Nam. 3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Với mục tiêu phát triển kinh tế và trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, vì vậy, một số động cơ khuyến khích kinh tế của Việt Nam ảnh hưởng đến môi trường.

Việt Nam đang thu hút nguồn vồn FDI, vì vậy, DN FDI được ưu ái hơn về chính sách đầu tư. Thông thường các dự án FDI là các dự án quy mô lớn, nhưng lại đang tập trung ở những ngành gây ô nhiễm sâu. Mặt khác, các dự án FDI được phân biệt đối xử với chính sách môi trường. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đạt được, cho thấy rằng, tự do hóa thương mại đóng vai trò rất lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên tự do hóa thương mại cũng tác động lớn tới môi trường, vì vậy Chính phủ Việt Nam đã có các chiến lược để thay đổi môi trường Quốc gia một cách toàn diện. Các hệ thống quản trị đang được thay đổi liên tục thông qua quá trình cải cách hành chính công. Trở thành thành viên của các tổ chức thương mại quốc tế và thỏa thuận ký kết các hiệp định thương mại cũng là những yếu tố bổ sung vào quy mô và động lực cho sự thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam. Mỗi điều luật mới được Quốc hội thông qua chính là sự cải cách mạnh mẽ của Chính phủ và các ngành nhằm thúc đẩy sự tiến bộ trong nước, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, như việc sửa đổi: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Quản lý tài nguyên. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng đã được điều chỉnh.Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của Chính phủ trong cải cách hành chính thì vấn đề môi trường đang có dấu hiệu suy giảm. Đây chính là cảnh báo để có những giải pháp giải quyết những thách thức về môi trường xuất phát từ sản xuất công nghiệp như: ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên, thâm dụng lao động. Sau đây NCS xin đưa ra một số giải pháp hàm ý chính sách để cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.

Về mặt công nghệ, hệ thống quy chuẩn môi trường Việt Nam chưa kiểm soát hết giá trị thông số cao, số lượng thông số ít hơn các nước. Đánh giá công nghệ không có sự sàng lọc, công nghệ sản xuất không có rào cản, ngưỡng để kiểm soát. Việt Nam cần ưu tiên kiểm soát các ngành gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, cần có các yêu cầu về bảo vệ môi trường cao và tập trung vào các ngành gây ô nhiễm môi trường lớn.

Cơ sở hạ tầng và sự phát triển thiếu quy hoạch cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường cục bộ giữa các vùng trong cả nước. Vì vậy, cần có các chính sách để phân bổ lại các khu công nghiệp trên cả nước. Thứ nhất, Chính phủ cần có các chính sách để đáp ứng các yêu cầu môi trường trong thương mại quốc tế. Kết quả thực nghiệm cho thấy, tự do hóa thương mại không làm trầm trọng thêm vấn đề ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng được cơ hội của quá trình tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế nhưng đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực của nó đối với các vấn đề xã hội và môi trường. Vì vậy, cần thiết phải có sự phối hợp chính sách trong phát triển thương mại và bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa.

Về phía Chính phủ: - Điều chỉnh các chính sách thương mại phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế; - Có các biện pháp hữu hiệu và kịp thời ngăn ngừa và đối phó với nguy cơ ô nhiễm môi trường qua biên giới; - Bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học và các nguồn tài nguyên không tái CHƯƠNG 4 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢM THIỂU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO TRONG BỐI CẢNH TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 4.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế liên quan đến thương mại và môi trường 4.1.1 Bối cảnh quốc tế liên quan đến thương mại và môi trường 4.1.2 Bối cảnh trong nước liên quan đến thương mại và môi trường tạo khác, hạn chế ô nhiễm do tăng trưởng nóng của nền kinh tế;

- Đáp ứng các yêu cầu môi trường đối với sản phẩm để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường; - Quản lý chặt chẽ thị trường trong nước để hạn chế đến mức tối đa ảnh hưởng đối với môi trường do đẩy mạnh sản xuất; - Thực thi triển khai áp dụng hệ thống quản lý môi trường của doanh

nghiệp chặt chẽ và quết liệt. Về phía doanh nghiệp: - Thường xuyên cập nhật thông tin về các tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường từ các nước nhập khẩu; - Chủ động đầu tư, đổi mới công nghệ, xây dựng quy trình sản xuất chế cũng có thể thực hiện bằng cách sử dụng hệ thống thông tin từ IPPS, thông tin này sẽ là kỹ thuật hỗ trợ cho GSO trong thiết kế bổ sung cho các cuộc điều tra tiếp theo. Đặc biệt, thông tin này sẽ giúp Chính phủ lựa chọn tài chính một cách hợp lý để thực hiện yêu cầu kiểm soát ô nhiễm ở ngành công nghiệp với các vấn đề nghiêm trọng nhất. Nhiều doanh nghiệp không thể tự mình thực hiện hoặc đầu tư xử lý chất thải một cách có hệ thống và doanh nghiệp không có nguồn lực để đầu tư vào những gì họ cho là phi sản xuất để kiểm soát ô nhiễm, vì với doanh nghiệp hành vì tối đa hóa lợi ích kinh tế luôn được đặt lên hàng đầu. Điều đó đặt ra cho Chính phủ Việt Nam một câu hỏi, một hệ thống vốn về quản lý ô nhiễm là cần thiết? biến đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường trong nước và quốc tế;

- Triển khai áp dụng các hệ thống quản lý tiêu chuẩn chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường nhằm nâng cao khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu, tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng bền vững toàn cầu.

Trong quá trình hội nhập, để quản lý ô nhiễm công nghiệp thì các chương trình trợ cấp đặc biệt cần được đảm bảo. Nhưng theo thời gian Chính phủ cần các nguồn kinh phí khác. Hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng cần có sự hướng dẫn và khuyến khích doanh nghiệp huy động các nguồn lực tài chính để đầu tư xử lý ô nhiễm. Các doanh nghiệp hiện nay thiếu sự chủ động và hỗ trợ trong tìm kiếm sự hỗ trợ từ các quỹ tín dụng và ngân hàng. Tóm lại là Việt Nam đang thiếu vắng các cơ chế tài chính cho đầu tư môi trường, làm hạn chế sự lựa chọn cho doanh nghiệp khi họ cần hỗ trợ. Nguồn vốn của quốc gia và địa phương về môi trường cần được phát triển để lấp đầy khoảng trống này.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu cho thấy, DN lớn là những DN gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn các quy mô DN khác. Vì vậy, Chính phủ cần có các chính sách, công nghệ, quy chuẩn để kiểm soát theo quy mô DN. Hiện nay, hệ thống quy chuẩn môi trường của nước ta chưa kiểm soát hết giá trị thông số cao, số lượng thông số ít, chưa có rào cản về công nghệ, ngưỡng kiểm soát. Vì vậy, việc kiểm soát tải lượng chất thải của các DN lớn gặp nhiều khó khăn.

Trên thực tế, các DN lớn có ý thức tuân thủ tốt và thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ môi trường như tiết kiệm năng lượng, tái chế chất thải và xử lý nước thải hơn các DN vừa và nhỏ. Do đó, điều cần thiết là phải có các quy định về môi trường theo quy mô DN.

Thứ tư, cần có chính sách quản lý môi trường ưu tiên đối với các thành phần môi trường. Trong luận án này, NCS lựa chọn ô nhiễm chất độc, ô nhiễm kim loại, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí để đánh giá tác động của tự do hóa thương mại lên ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Kết quả thực nghiệm cũng như thực trạng đều cho thấy, tình trạng ô nhiễm của bốn thành phần môi trường này đang là vấn đề báo động ở Việt Nam. Tải lượng ô nhiễm của bốn thành phần này gia tăng cùng với quá trình tự do hóa thương mại. Vì vậy, cần nâng tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, nước thải sinh hoạt và công nghiệp đúng quy chuẩn; đối với khí thải cần giám sát công nghệ, quá trình xử lý các doanh nghiệp, khu công nghiệp chặt chẽ hơn. Thứ hai, trong đề án tái cơ cấu nền kinh tế cần hạn chế phát triển các ngành công nghiệp bẩn. Theo mô hình tăng trưởng và theo định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 cũng như kết quả nghiên cứu thì Việt Nam đang ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp “bẩn” vì vậy Chính sách quản lý môi trường cần ưu tiên quản lý và can thiệp đối với các ngành công nghiệp bẩn. Theo kết quả đánh giá, đã xác định được thành phần môi trường ô nhiễm, ngành ô nhiễm và khu vực ô nhiễm trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Vì vậy, để giải quyết các vấn đề môi trường cần tiếp cận dưới nhu cầu của quốc gia để xác định thành phần ô nhiễm quan trọng nhất, các doanh nghiệp, khu vực cho sự ưu tiên. Với nguồn lực và khả năng có hạn Chính phủ không thể thực hiện khắp cả nước mà cần phải có sự ưu tiên. Các ngành gây ô nhiễm nhất cần phải có một khuôn khổ chính sách tốt và chương trình xử lý tại chỗ. Bên cạnh đó cũng đòi hỏi sự củng cố, liên tục, điều chỉnh và quản lý một cách hiệu quả hơn các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ví dụ, quản lý hóa chất đã được chú trong nhiều thập kỷ qua nhưng hệ thống quản lý khá phức tạp và nhiều khoảng trống, vì vậy, cần một khuôn khổ bao quát hơn và các thể chế tập trung hơn. Đối với chất thải và chất ô nhiễm độc hại phải có sự ưu tiên quản lý. Trong nghiên cứu này, bằng những số liệu cụ thể cho thấy khu vực và ngành gây ô nhiễm độc hại, đây là thông tin quan trọng để xác định được đối tượng gây ô nhiễm một cách rõ ràng. Do vậy, với nguồn lực và tài chính có hạn nên ưu tiên tập trung xử lý và kiểm soát ô nhiễm độc hại, vì đây là vấn đề nghiêm trọng không chỉ hiện tại mà còn là tương lai của Việt Nam. Để xử lý và kiểm soát độc hại trong cả nước thì Chính phủ sẽ phải chi một khoản tiền rất lớn nhưng cần thiết và nếu so với vấn đề sức khỏe, năng suất mà con người phải đối mặt với ô nhiễm thì đây còn là chi phí ít tốn kém hơn. Để đánh giá tình trạng ô nhiễm công nghiệp chế biến, chế tạo ban đầu Thực trạng cho thấy, quá trình công nghiệp hóa đang làm cho nguồn nước mặt từ sông, ao hồ của Việt Nam lâm vào tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Rất

nhiều hệ thống sông đã trở thành sông chết. Mặc dù Chính phủ đã có đề án cải thiện các hệ thống sông Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai, nhưng các hệ thống sông này hiện tại vẫn nằm trong tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng.

cáo môi môi trường hiện trạng của Việt Nam đã được thực hiện thường xuyên, định kỳ hằng năm. Nhưng báo cáo này chỉ mang tính hành chính không phản ánh trung thực hiện trạng môi trường doanh nghiệp. Vì vậy, cơ quan quản lý môi trường cần phối hợp và có chế tài để doanh nghiệp có sự quan trắc, thu thập số liệu môi trường một cách trung thực nhất.

Trong báo cáo phân tích hiện trạng môi trường không khí xung quanh Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), cho thấy, ô nhiễm không khí tập trung ở các đô thị phát triển, các khu, cụm công nghiệp. Một số ngành công nghiệp như ngành khai khoáng, nhiệt điện, xi măng…đang hoạt động vẫn tiếp tục phát thải vào môi trường không khí một lượng bụi lớn, đây là những ngành được chia vào nhóm ngành công nghiệp bẩn trong luận án này (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014). Vì vậy sự cần thiết đối với Chính phủ Việt Nam là phải ưu tiên tập trung giải quyết những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay như nước và không khí.

- Cần phải nỗ lực đáng kể để tăng số phòng thí nghiệm được công nhận có thể cung cấp, lấy mẫu và phân tích cho các cơ sở công nghiệp để thực hiện yêu cầu tự báo cáo của họ. Điều này đi song song với sự cần thiết cho một hệ thống đáng tin cậy của các phòng thí nghiệm cấp giấy chứng nhận, trong đó có tiêu chí, lệ phí, và hình phạt đối với sự thiếu tuân thủ với các yêu cầu chứng nhận. Các phòng thí nghiệm của Sở TN & MT không nên được phép ký hợp đồng với các cơ sở công nghiệp cho các mục đích mà họ phải thực hiện yêu cầu tự báo cáo. Các khu vực tư nhân cũng nên được phép nhận các lĩnh vực hoạt động này, vì điều này giúp minh bạch hóa thông tin.

- Quản lý và phân tích dữ liệu là rất quan trọng để đánh giá, sử dụng hiệu quả các thông tin và cải thiện chất lượng môi trường một cách hiệu quả. Hiện nay, các thông tin thu thập được ít được sử dụng cho mục đích đưa ra quyết định như vậy mục tiêu nhắm vào hiệu quả của hoạt động chưa được thực hiện. Ví dụ: chúng ta chỉ thực hiện nhằm vào các nhà máy bị thanh tra và nhà máy chỉ xuất hiện để được báo cáo sai phạm hoặc vi phạm tiêu chuẩn. Còn các thông tin thực tế của các doanh nghiệp báo cáo thì ít khi được sử dụng làm thông tin nghiên cứu hoặc đưa ra quyết định.

Thứ năm, cần có các chính sách tăng cường quản lý môi trường trong chính sách thu hút vốn đầu tư cũng như các DN FDI. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, Việt Nam đang là quốc gia “chứa ô nhiễm” thông qua các dự án FDI. Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, vì vậy, các chính sách khuyến khích kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài chưa thực sự chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường. Thật vậy, Việt Nam cần hạn chế những dự án FDI gây ô nhiễm môi trường sâu. Vị trí địa lý để thực hiện những dự án FDI cũng là điều rất quan trọng, quy hoạch tổng để phòng ngừa các sự cố môi trường xảy ra. Bên cạnh đó, cần thẩm định công nghệ trước quá trình thực hiện dự án, tránh những công nghệ lạc hậu đội lốt đầu tư. Mặt khác, trên thực tế, nước sở tại không có thẩm quyền trong công tác quản lý môi trường ở các doanh nghiệp FDI cũng là bất cập rất lớn. Chính sách, tỷ lệ ký quỹ, bảo hiểm đối với các dự án khai thác khoáng - Nên có hệ thống điểm chuẩn cần được thiết kế đúng và công bố thông tin của hoạt động môi trường của chính quyền địa phương, đi kèm với một hệ thống khen thưởng. sản là rất cần thiết để hạn chế sự cạn kiệt tài nguyên.

Thứ sáu, tăng cường công tác BVMT tại các khu, cụm công nghiệp, quy hoạch khu công nghiệp phù hợp. Bất chấp những nỗ lực gần đây và quan trọng để tăng biên chế, nguồn lực và năng lực của chính quyền địa phương để giám sát hành vi và hoạt động môi trường của các cơ sở công nghiệp, nhưng hệ thống giám sát còn yếu. Để có thể góp phần làm giảm bớt điểm yếu này, một số vấn đề quan trọng cần được giải quyết: - Cuối cùng, kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng như thực trạng cho thấy, hầu hết các vùng đều có tác động đên ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, một số vùng điển hình như Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ là những vùng nhận thấy ô nhiễm nhất. Trên thực tế, những khu vực này tập trung số lượng DN nhiều hơn các khu vực khác. Vì vậy, cần có những chính sách phân bổ hợp lý số lượng doanh nghiệp và quy hoạch cơ sở hạ tầng đảm bảo công tác quản lý môi trường tại các Khu công nghiệp.

Thứ bảy, Chính phủ Việt Nam cần xây dựng hài hòa giữa chính sách thương mại và môi trường đáp ứng các quy định về môi trường trong thương mại quốc tế, như:

- Quyền và trách nhiệm của kiểm soát ô nhiễm, thanh tra cần được xác định rõ ràng. Trên thực tế, các khu công nghiệp thường xuyên cấm không cho thanh tra kiểm soát ô nhiễm. Hoặc có công văn thông báo trước khi thanh tra, điều này đã tạo cho doanh nghiệp, khu công nghiệp có sự chuẩn bị để đối phó với cơ quan quản lý, vì vậy không phản ánh chân thực công tác xử lý môi trường của doanh nghiệp.

- Phải có một hệ thống những yêu cầu tự báo cáo cho các cơ sở công nghiệp, cùng với các hình phạt hành chính về hành vi tự báo cáo thiếu, và hình phạt nghiêm khắc đối với cố ý báo cáo thông tin sai hoặc sai phạm. Hiện nay, báo Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2011 - 2020, định hướng tới năm 2030 theo Quyết định 950/QĐ-TTg ngày 25/7/2012 đã đề ra mục tiêu chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm thân thiện với môi trường và việc giảm dần nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản thô.

Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiên dùng bền vững giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn đến 2030 theo quyết định số 76/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 11 tháng 01 năm 2016 đưa ra mục tiêu về xuất khẩu bền vững với việc nâng dần tỷ trọng sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường trong cơ cấu xuất khẩu.

ngạch có tác động ngược chiều với ô nhiễm môi trường ở cả cấp doanh nghiệp cũng như cấp độ ngành. Kết quả này đúng với thực tiễn, bởi khi tham gia các hiệp định thương mại quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao công nghệ, chất lượng sản phẩm để xuất khẩu những sản phẩm đạt tiêu chuẩn với thị trường quốc tế, người tiêu dùng khắt khe. Như vậy, tự do hóa thương mại không làm trầm trọng thêm vấn đề môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Kết quả này không ủng hộ giả thuyết H1 cũng như các nghiên thực nghiệm trước đây ở Việt Nam. Thứ tám, khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Bên cạnh đó cần xử lý nghiêm những doanh nghiệp sử dụng, nhập khẩu công nghệ lạc hậu, gây tổn hại đến môi trường.

Những chính sách để hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận, sử dụng những sản phẩm thân thiện với môi trường. Một số sản phẩm thân thiện với môi trường nhưng chỉ dùng để xuất khẩu mà chưa đến được với người dân Việt Nam.

Thật vậy, kết quả nghiên cứu trong luận án này nhận thấy kênh đầu tư là tác nhân gây ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp trong quá trình tự do hóa thương mại ở Việt Nam. Bởi vì, DN FDI là doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn nhất, đồng thời cũng là loại hình DN gây ô nhiễm môi trường lớn nhất trong hầu hết thành phần của môi trường. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế, ủng hộ giả thuyết H3 và một lần nữa ủng hộ lý thuyết các nước đang phát triển là “nơi trú ẩn ô nhiễm” của Ederington và cộng sự; Rober Hoffmann; Grossman và Krueger. Cuối cùng, nâng cao nhận thức cộng đồng, người lao động trong công tác bảo vệ môi trường là điều cần thiết. Vì yếu tố đầu vào lao động ảnh hưởng lớn tới ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp sản xuất. Do đó, cần có những chương trình giáo dục, đào tạo, truyền thông bắt buộc về bảo vệ môi trường cho người lao động. KẾT LUẬN

Bên cạnh đó, kết quả ước lượng trong luận án cho thấy, DN lớn là DN gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất trong hầu hết các thành phần môi trường được xét đến. Kết quả này ủng hộ giả thuyết H4. Mặc dù, DN lớn chỉ chiếm tỷ lệ 6% trong tổng số DN ở Việt Nam và DN thuộc ngành bẩn. Vì vậy, Việt Nam không nên dựa vào lợi thế so sánh của mình để tăng quy mô doanh nghiệp. Thực tế, các doanh nghiệp có quy mô lớn ở Việt Nam như: dệt may, giày da, hóa chất, sắt thép… là những doanh nghiệp phát triển dựa vào nguồn lao động giá rẻ. Do đó, ngoài chính sách vĩ mô để quản lý đầu tư, công nghệ, chiều sâu thì các quy định về xử lý chất thải tại các khu công nghiệp và người lao động cũng rất cần thiết để có thể giúp giảm ô nhiễm công nghiệp.

Thương mại đã biến Việt Nam từ một nền kinh tế nhập khẩu thành một nền kinh tế hết sức tự do hóa. Việt Nam đã trở thành thành viên, đối tác của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cải cách thương mại và Đổi mới đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hoạt động tốt hàng đầu trong các nước đang phát triển, theo nghiên cứu của Glewwe và đồng nghiệp năm 2004 (Glewwe và cộng sự, 2004). GDP bình quân đầu người của Việt Nam thuộc nhóm tăng nhanh nhất thế giới, đạt mức 5,5% trong thập kỉ 1990 và 6,4% trong thập kỉ 2000. Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng trong năm 2015 với tốc độ tăng trưởng ước đạt 6,7%. Kinh tế Việt Nam giảm nhẹ trong nửa đầu năm 2016, với mức tăng trưởng GDP đạt 5,5%, so với 6,3% của cùng kỳ năm 2015. Sự suy giảm này được cho là hậu quả tác động của đợt hạn hán nghiêm trọng ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp (WB, 2016). Nhưng các nhà kinh tế môi trường có lý do để lo lắng về sự thành công của nền kinh tế vì sự tăng trưởng nhanh chóng hàng xuất khẩu thâm dụng tài nguyên và thâm dụng lao động cũng như sự thay đổi chiều hướng thương mại hướng tới những đối tác thương mại nói chung có các quy định môi trường nghiêm ngặt hơn có hại cho môi trường như đã từng thấy ở một số nước đang phát triển.

Nghiên cứu thực nghiệm của luận án đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam đã chỉ ra rằng, hầu hết các biến của tự do thương mại đều có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Chứng tỏ rằng, hầu hết những thay đổi của tự do thương mại đều ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trước hết là chỉ tiêu tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ nhập khẩu và tỷ lệ tổng kim Mặt khác, ở cấp độ ngành, kết quả ước lượng của luận án cho thấy, tốc độ gây ô nhiễm môi trường của ngành bẩn lớn hơn rất nhiều lần ngành sạch trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế và ủng hộ giả thuyết H2. Để thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách cơ cấu ngành hợp lý. Bởi theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm này, Việt Nam đang thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa ở những ngành bẩn. Thật vậy, dệt may, sản xuất thép, sản xuất giấy, sản xuất xi măng… là những ngành có tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu lớn ở Việt Nam. Như vậy, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách để cải cách thương mại song song với nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Cuối cùng, khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ được nhận thấy là những vùng ô nhiễm nhất ở Việt Nam. Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách quy hoạch lại các khu công nghiệp, khuyến khích các vùng kinh tế khác phát triển. Song song với điều này thì Chính phủ cũng cần có các chính sách, chế tài để khắc phục môi trường hiện

trạng ở các khu công nghiệp.

Tóm lại, để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam cần thực hiện đồng bộ ở ba cấp là Chính phủ, ngành, doanh nghiệp