
vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
122
Losken A và CS tiến hành một phân tích gộp lớn
bao gồm trên 8000 bệnh nhân được phẫu thuật
bảo tồn tại Mỹ, chia vào 2 nhóm: nhóm phẫu
thuật bảo tồn đơn thuần và nhóm phẫu thuật
bảo tồn kết hợp sử dụng các kỹ thuật tạo hình.
Kết quả phân tích cho thấy ở nhóm được phẫu
thuật bảo tồn đơn thuần, tỉ lệ phẫu thuật cắt lại
chung là 14.6%, so với 4% ở nhóm còn lại
(p<0.0001). Tỉ lệ diện cắt dương tính của hai
nhóm lần lượt là 21% và 12% (p<0.0001) [3].
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy kỹ thuật tạo
hình kiểu chữ B cải tiến đem lại kết quả thẩm mỹ
và mức độ hài lòng cao của người bệnh. Tác giả
SchÖndorf NK tiến hành nghiên cứu trên 62
bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm được phẫu
thuật bảo tồn sử dụng kỹ thuật tạo hình kiểu chữ
B cải tiến tại Đức. Nghiên cứu cho thấy trên 75%
bệnh nhân có kết quả thẩm mỹ đẹp và tốt [7].
Tìm hiểu tác động của các yếu tố khác đến kết
quả thẩm mỹ sau điều trị bảo tồn. Chúng tôi tiến
hành phân tích mối liên quan giữa một số yếu tố
và điểm thẩm mỹ (Bảng 3), kết quả bước đầu
cho thấy kích thước u trên MRI và sự cắt lại do
diện cắt dương tính liên quan có ý nghĩa thống
kê với điểm thẩm mỹ. Một số yếu tố khác bao
gồm cỡ áo ngực, số lượng u, khoảng cách u-núm
vú và thể mô bệnh học chưa chứng minh được
mối liên quan với điểm thẩm mỹ. Gần đây nhiều
tác giả sử dụng tỉ lệ thể tích u - thể tích tuyến vú
để tiên lượng kết quả thẩm mỹ [8]. Khi tỉ lệ thể
tích u – thể tích tuyến vú lớn (>20%), việc kết
hợp các kỹ thuật tạo hình là một lựa chọn phù
hợp. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng
khẳng định phẫu thuật cắt lại làm giảm điểm
thẩm mỹ (p<0.001).
V. KẾT LUẬN
Kỹ thuật tạo hình kiểu chữ B cải tiến an toàn
về mặt ngoại khoa và cho phép đạt được kết quả
thẩm mỹ và sự hài lòng cao trong khi vẫn đảm
bảo kết quả điều trị bệnh ung thư vú.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. B. Fisher, S. Anderson, J. Bryant và CS.
(2002), Twenty-year follow-up of a randomized
trial comparing total mastectomy, lumpectomy,
and lumpectomy plus irradiation for the treatment
of invasive breast cancer, N Engl J Med, 347(16),
tr. 1233-41.
2. A. Bodilsen, K. Bjerre, B. V. Offersen và CS.
(2016), Importance of margin width in breast-
conserving treatment of early breast cancer, J Surg
Oncol, 113(6), tr. 609-15.
3. A. Losken, C. S. Dugal, T. M. Styblo và CS.
(2014), A meta-analysis comparing breast
conservation therapy alone to the oncoplastic
technique, Ann Plast Surg, 72(2), tr. 145-9.
4. P. Regnault (1974), Reduction mammaplasty by the
"B" technique, Plast Reconstr Surg, 53(1), tr. 19-24.
5. A. Fancellu, D. Soro, P. Castiglia và CS.
(2014), Usefulness of magnetic resonance in
patients with invasive cancer eligible for breast
conservation: a comparative study, Clin Breast
Cancer, 14(2), tr. 114-21.
6. J. C. Boughey, T. J. Hieken, J. W. Jakub và
CS. (2014), Impact of analysis of frozen-section
margin on reoperation rates in women undergoing
lumpectomy for breast cancer: evaluation of the
National Surgical Quality Improvement Program
data, Surgery, 156(1), tr. 190-7.
7. N. K. Schondorf (2001), The technique of B-, S-,
or W-reduction mammaplasty in the conservative
therapy of breast carcinomas: experiences with a
new surgical technique, Breast, 10(6), tr. 501-7.
8. M. Lagendijk, E. L. Vos, A. H. J. Koning và CS.
(2017), TUmor-volume to breast-volume RAtio for
improving COSmetic results in breast cancer
patients (TURACOS); a randomized controlled trial,
BMC Cancer, 17(1), tr. 336.
NGHIÊN CỨU CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA BUPIVACAIN
SO VỚI LEVOBUPIVACAIN HOẶC ROPIVACAIN CÙNG PHỐI HỢP VỚI
FENTANYL TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐỂ MỔ LẤY THAI
Nguyễn Đức Lam*, Lương Thị Ngc Vân**, Nguyễn Hữu Tú*
TÓM TẮT32
Mục tiêu: So sánh các tác dụng không không
mong muốn của bupivacain với levobupivacain hoặc
*Trường Đại học Y Hà Nội
**Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Đức Lam
Email: lamgmhs75@gmail.com
Ngày nhận bài: 3.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 20.2.2020
Ngày duyệt bài: 24.3.2020
ropivacain cùng phối hợp với fentanyl trong gây tê tủy
sống để mổ lấy thai. Đối tượng, phương pháp
nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có so
sánh trên 99 bệnh nhân được gây tê tủy sống để mổ
lấy thai chia làm ba nhóm: 35 bệnh nhân ở nhóm 1
(bupivacain 8 mg+ fentanyl 30 mcg); 33 bệnh nhân ở
nhóm 2 (levobupivacain 8 mg + fentanyl 30 mcg); 31
bệnh nhân ở nhóm 3 (ropivacain 12 mg + fentanyl 30
mcg). Kết quả: Tỷ lệ tụt huyết áp trên 20% ở phút thứ
3 sau gây tê tủy sống của nhóm bupivacain tương
đương với nhóm levobupivacain nhưng cao hơn nhóm
ropivacain (82,1%; 90,9% so với và 29%), nhóm