BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐINH CÔNG NHẬN
TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐINH CÔNG NHẬN
BỘ QUỐC PHÒNG TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ LÊ THỊ TUYẾT Mã số: 60 31 01 02
T¸C ®éng cña ®« thÞ hãa Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS NGUYỄN TRỌNG XUÂN ®Õn kinh tÕ n«ng th«n hµ néi hiÖn nay
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 60 31 01 02
HÀ NỘI - 2013
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Chữ Viết Tắt
Chữ Viết đầy đủ Ngân Hàng Thương mại cổ phần Á Châu Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - VBARD Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng thương ACB Agribank BIDV
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam) Ngân Hàng Thương mại cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam - EIB Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội Ngân hàng nhà nước Ngân hàng thương mại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín - STB Thương mại cổ phần Công ty cho thuê máy bay Ngân hàng phát triển Việt Nam Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - VCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - CTG Eximbank MB NHNN NHTM SacomBank TMCP VALC VDB Vietcombank Vietinbank
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁI
CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT
8 1.1. NAM Một số vấn đề lý luận về tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và
8 29 1.2. Chương 2 Phát triển Việt Nam Thực trạng tái cơ cấu BIDV thời gian qua QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TÁI CƠ CẤU
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. 2.2. Quan điểm chỉ đạo thúc đẩy tái cơ cấu BIDV Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tái cơ cấu BIDV
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 48 48 51 88 90 93
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Những thập kỷ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam đã có nhiều thay đổi quan trọng, trong đó có sự đóng góp không nhỏ
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Tuy nhiên từ năm 2008 đến nay,
trong bối cảnh thị trường thế giới khó khăn, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng có
những diễn biến phức tạp. Kinh tế khó khăn, tổng cầu giảm mạnh, doanh nghiệp không
tiêu thụ được hàng hóa, do đó nhu cầu vay và khả năng trả nợ vay ngân hàng của các
doanh nghiệp và hộ sản xuất giảm sút. Vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế không tăng.
Trong khó khăn của nền kinh tế, những tồn tại, hạn chế nội tại của hệ thống ngân hàng
Việt Nam được tích tụ trong nhiều năm qua chưa được giải quyết triệt để đã bộc lộ ngày
càng nhiều.
Trước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, trước yêu cầu
của giai đoạn phát triển mới, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (Khóa
XI) đã ra Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011 nêu rõ: “Trong 5 năm tới, cần tập trung
vào ba lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại
thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính; tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước”. Hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung, BIDV nói riêng ngày càng hội nhập sâu
rộng và chịu tác động đa chiều từ những biến động của thị trường tài chính toàn cầu, đặc
biệt sau thời điểm 01/01/2011, khi Việt Nam chính thức mở cửa toàn diện hoạt động ngân
hàng theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự tham gia của các
ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam làm gia tăng cạnh tranh cũng như áp lực
đối với các ngân hàng trong nước, trong đó có BIDV. Điều đó đặt ra cho BIDV phải đổi
mới hoạt động theo hướng hiện đại và chuẩn mực hơn. Với định hướng trở thành 1 trong 2
ngân hàng ngang tầm khu vực đến 2015, BIDV cần phải tập trung tái cấu trúc để nâng cao
năng lực cạnh tranh, tính minh bạch. Thời gian qua, BIDV đã tích cực cơ cấu lại và bước
đầu đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, cũng
còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục trong quá trình cơ cấu lại của BIDV. Làm thế nào để
cơ cấu lại BIDV có hiệu quả là một câu hỏi lớn cần phải được trả lời có cơ sở khoa học.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài:
Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là BIDV giai đoạn hiện nay là một
nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt và có tính quyết định đến sự phát triển bền vững của
toàn hệ thống ngân hàng và cho bản thân BIDV, nên đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu và cho đăng tải các công trình trên các báo, tạp chí, các trang Websete.
Tiêu biểu là:
Hà My với bài “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước - giải bài toán chất lượng
hiệu quả”, đăng trên Báo Sài Gòn giải phóng ngày 25 tháng 10 năm 2011; Tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước để xứng đáng với kỳ vọng “quả đấm thép”, đăng trên Báo Đại
đoàn kết, ngày 14/10/2011, của Thúy Hằng; “Tái cơ cấu mạnh mẽ doanh nghiệp Nhà
nước” của Đỗ Phú Thọ, đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày 9/9/2012; “Tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước: Không thể trì hoãn”, của Linh Đan, đăng trên Báo điện tử
Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, ngày 24/7/2012... “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước: Chấm dứt đầu tư ngoài ngành”, của Việt Nguyễn đăng trên Báo Gia đình ngày
23/7/2012.
Các bài viết trên đây đều khẳng định tái cơ cấu nền kinh tế nước ta, mà trọng
tâm là tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu hệ thống
tài chính (trọng tâm là tái cơ cấu ngân hàng thương mại) là một vấn đề tất yếu, mang
tính cấp bách. Đặc biệt các bài viết đã tập trung phân tích tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước và đều khẳng định: hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước không tưng xứng với đầu tư của nhà nước; để doanh nghiệp nhà nước làm tốt
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì tất yếu phải tái cơ. Một số tác giả đã đề
xuất nguyên tắc, giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Kinh nghiệm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại một số nước Đông nam
Á, Tài liệu hội thảo tái cơ cấu các NHTM Nhà nước, NHNN Việt Nam Hà nội 2005 của
Bùi Thị Thuỷ, Phan Thị Diệu Hương; Phạm Chí Quang (2000), Cạnh tranh trong hoạt
động ngân hàng giai đoạn hiện nay, Tạp chí Ngân hàng`, số 6. Hai bài viết này của các
tác giả mặc dù chưa đề cập đến khái niệm, nội hàm của tái cơ cấu ngân hàng, song đã
phân tích khá sâu sắc bối cảnh cạnh tranh hiện nay của các ngân hàng thương mại trên
thế giới và đặc biệt là ở Đông Nam Á; từ đó chỉ ra những kinh nghiệm quý mà các ngân
hàng thương mại Việt Nam có thể nghiên cứu học tập trong quá trình tái cơ cấu.
Lê Xuân Nghĩa, Một số vấn đề về chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt
Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Tài liệu hội thảo khoa học về Vai
trò của hệ thống ngân hàng trong 20 năm đổi mới ở Việt Nam, tháng 1/2006 – Hà nội.
Công trình đã đề cập đến vai trò của ngân hàng thương mại; trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp chiến lược phát triển ngân hàng thương mại đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020.
PGS.TS Nguyễn Thị Mùi - Trường Đào tạo & PTNNL VietinBank đã có bài viết
“Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam và những vấn đề đặt ra”, đăng trên trang
tin nội bộ VietinBank. Bài viết đã hệ thống hóa ngân hàng thương mại Việt Nam, phân
tích những ưu điểm, hạn chế, bất cập hiện nay của hệ thống ngân hàng thương mại, từ
đó khẳng định tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại nước ta là một tất yếu, mang
tính cấp bách. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập sâu đến hệ thống giải pháp để tái cơ cấu
ngân hàng thương mại.
Tổng quan về tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền tệ của Tiến sỹ Nguyễn Thị
Kim Thanh - Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển Ngân hàng đăng trên
http://ecna.gov.vn; Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam của Tiến sỹ Vũ Đình
Ánh, đăng trên http://www.ameco.com.vn/; Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng Việt Nam
của của Tiến sỹ Vũ Văn Thực, đăng trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập; Lê Xuân
Nghĩa, Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngân hàng thương mại nhà nước theo đề án, Tạp
chí Tài chính số tháng 8/2004.
Các bài viết của các tác giả trên đã phân tích sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam và đề xuất các giải pháp để tái cơ cấu. Tuy nhiên,
trong mỗi bài viết các tác giả chưa đề cập một cách hệ thống các vấn đề lý luận, thực tiễn
của tái cơ cấu ngân hàng thương mại Việt Nam mà mới bàn đến các khía cạnh khác
nhau của tái cơ cấu ngân hàng thương mại.
Vũ Duy Tín, Một số vấn đề về xây dựng mô hình quản trị rủi ro hiệu quả tại
các NHTM Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 18/2006. Trong bài viết này tác giả đã
phân tích khá sâu sắc biện pháp kỹ thuật trong xây dựng mô hình quản trị rủi ro tại
các ngân hàng thương mại.
Lê Xuân Nghĩa (2004), Những vướng mắc và một số giải pháp thực hiện thành công
cổ phần hoá NHTM Nhà nước, Tạp chí Ngân hàng số chuyên đề Cổ phần hoá. Tác giả đã
phân tích những bất cập vướng mắc trong tái cơ cấu ngân hàng thương mại; từ đó đề xuất
hệ thống các giải pháp khá đồng bộ để tái cơ cấu ngân hàng thương mại trong thời gian tới.
Định hướng chiến lược của BIDV trong giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến
2020 trên trang BIDV Internet 27/12/201. Bài viết đã đề cập đến thực trạng BIDV, mục
tiêu và giải pháp định hướng chiến lược phát triển BIDV đến năm 2020.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào bàn đến tái cơ cấu BIDV một cách
hệ thống hoàn chỉnh với cơ sở lý luận, thực tiễn, và hệ thống giải pháp khả thi để thúc
đẩy tái cơ cấu BIDV. Vì vậy đề tài lựa chọn không trùng lặp với các công trình đã
được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích: Luận giải những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn của tái cơ cấu BIDV; trên cơ sở đó đề
xuất quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện tái cơ cấu BIDV trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ: - Phân tích cơ sở lý luận của tái cơ cấu BIDV - Phân tích thực trạng của tái cơ cấu BIDV thời gian qua. - Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy tái cơ cấu
BIDV trong thời gian tới.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tái cơ cấu ngân hàng
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (Từ tháng 5/2012 là Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam), thời gian nghiên cứu từ năm 2001 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm chủ trương của
Đảng và Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu
lại hệ thống tài chính ngân hàng.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa kinh tế chính trị là
phương pháp trừu tượng hóa hoa học; cùng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của việc tái cơ cấu BIDV hiện nay.
- Luận văn góp phần giúp các nhà quản lý BIDV tham khảo các giải pháp để thúc
đẩy thực hiện tái cơ cấu BIDV có hiệu quả.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo giảng dạy, học tập môn kinh tế chính trị
trong các học viện, trường đại học ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
1.1.1. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và tái cơ cấu Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam
* Ngân hàng
Hệ thống ngân hàng trên thế giới đã ra đời từ những năm đầu thế kỷ XV và có sự
phát triển lâu dài, từ ngân hàng sơ khai đến ngân hàng hiện đại như ngày nay. Cùng với sự
phát triển đó có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về Ngân hàng.
Nghiên cứu tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra: Tư bản cho vay
dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản tiền tệ trong tuần hoàn của tư bản công
nghiệp tách ra và vận động độc lập. Lợi tức cho vay là cái giá mà nhà tư bản hoạt động (tư bản
công nghiệp, tư bản thương nghiệp) phải trả cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được
tạm thời sử dụng khoản tư bản tiền tệ của người đó. Nguồn gốc duy nhất của lợi tức là một
phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong lĩnh vực sản xuât. Trong chủ nghĩa tư bản, tính
dụng chính là hình thức vận động của tư bản cho vay. Có hai hình thức tín dụng là tính dụng
thương nghiệp và tính dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa những
người có tiền và cho những người sản xuất kinh doanh vay tiền qua ngân hàng làm môi giới.
Ngân hàng là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người cho vay và người đi vay.
Theo WordBank: “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng
không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ
hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm). Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động tín dụng, người ta
chia ngân hàng ra thành: Ngân hàng thương mại chỉ tham gia vào các hoạt động nhận tiền
gửi, cho vay ngắn hạn và trung dài hạn; Các ngân hàng đầu tư hoạt động buôn bán chứng
khoán và bảo lãnh phát hành; Các Ngân hàng nhà ở cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát
triển nhà ở và nhiều loại khác nữa. Tại một số nước còn có các ngân hàng tổng hợp kết hợp
hoạt động ngân hàng thương mại với hoạt động ngân hàng đầu tư và đôi khi thực hiện cả
dịch vụ bảo hiểm”. [12 - tr24]
Theo Peter S.Rose: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán.
Và cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế”. [27 - tr 30]
Theo luật pháp nước Mỹ: “bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép
khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và
cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân
hàng”. [27 - tr31]
- Theo luật 6 - 41 của Pháp “những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên, nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng vào các
nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính thì được coi là Ngân hàng”. [28 - tr 38]
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, dưới sự tác động của môi trường cạnh
tranh và hợp tác đã tạo nên sự xâm nhập lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại với các
định chế tài chính phi ngân hàng, với các công ty hình thành nên những tập đoàn kinh tế
lớn. Từ đó làm cho việc rút ra một định nghĩa chính xác về ngân hàng thương mại không
phải là điều dễ dàng.
- Theo quy định tại Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X thông qua, thì:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách và các loại hình ngân hàng khác”. [9 – tr12]
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán”. [9 – tr12,13]
Từ những cách định nghĩa khác nhau trên về ngân hàng, có thể rút ra:
- Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính làm cầu nối giữa những người tiết
kiệm và đầu tư.
- Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt - đó là
tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Vì vậy có thể nói các ngân hàng thương mại là những doanh
nghiệp đặc biệt. Thể hiện ở số vốn điều lệ, dịch vụ thực hiện và những ràng buộc về hạn
mức kinh doanh.
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp cung cấp các danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.
* Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam)
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập ngày 23/4/2012,
theo Giấy phép số 84/GP-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cùng ngày, Thống
đốc NHNN có văn bản số 2454/NHNN - TTGSNH xác nhâ ̣n BIDV đã đăng ký bản Điều lê ̣
tổ chức và hoạt đô ̣ng của BIDV (đính kèm văn bản số 252/TTr-HĐQT ngày 15/3/2012 của
BIDV) với NHNN.
Theo đó Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Viê ̣t Nam được thành lâ ̣p trên cơ
sở cổ phần hóa và chuyển đổi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Viê ̣t Nam 100% vốn Nhà
nước chính thức từ tháng 5/2012. (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được chính
thức thành lập ngày 26 tháng 4 năm 1957 theo quyết định 177/TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Theo thời gian, Ngân hàng có các tên gọi khác nhau: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam
từ ngày 26 tháng 4 năm 1957; Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 24 tháng 6
năm 1981; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14 tháng 11 năm 1990; Ngân hàng
Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 01 tháng 5 năm 2012).
Tên đầy đủ của ngân hàng này bằng Tiếng Viê ̣t là Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Đầu tư và Phát triển Viê ̣t Nam; tên đầy đủ bằng tiếng Anh là: Joint Stock
Commercial Bank for Investment and Development of Vietnam; tên giao dịch là: BIDV.
BIDV được thành lâ ̣p dưới hình thức công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân, có con
dấu riêng theo quy định của Pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam. BIDV có vốn điều lê ̣ là 28.251.382 triệu
đồng và có thời hạn hoạt đô ̣ng là 99 năm kể từ ngày cấp giấy phép thành lâ ̣p và hoạt đô ̣ng.
BIDV thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình
Tổng công ty Nhà nước (Tập đoàn). BIDV là NHTM hoạt động đầy đủ các chức năng của
một ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng, bao gồm: nhâ ̣n tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiê ̣m và các loại tiền gửi khác; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu; cấp tín dụng; mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; cung
ứng các phương tiê ̣n thanh toán; cung ứng các dịch vụ thanh toán; vay vốn của NHNN
dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luâ ̣t Ngân hàng Nhà nước Viê ̣t nam; vay vốn
của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp
luâ ̣t; mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, tài khoản thanh toán tại tổ chức tín dụng khác và mở
tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh toán ở nước ngoài theo quy định của pháp luâ ̣t về ngoại
hối; tổ chức và tham gia các hê ̣ thống thanh toán; góp vốn, mua cổ phần; tham gia đấu thầu
tín phiếu kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho
bạc, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tê ̣; kinh doanh, cung
ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh; ủy thác, nhâ ̣n ủy thác, đại lý trong lĩnh vực
liên quan đến hoạt đô ̣ng ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của
NHNN; các hoạt đô ̣ng kinh doanh khác của NHTM. Các nô ̣i dung hoạt đô ̣ng này của
BIDV được quy định cụ thể, chi tiết trong giấy phép thành lâ ̣p và hoạt đô ̣ng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của BIDV : “Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
có trụ sở chính tại Tháp BIDV, số 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngân hàng đã phát
triển mạng lưới truyền thống và hiện đại rộng khắp, phủ kín 63 tỉnh thành phố trên cả nước, tổng
Cây rút tiền tự động/Máy chấp nhận thanh toán thẻ, với 18.000 cán bộ nhân viên, là một
số mạng lưới của BIDV đến 31/12/2012 với 118 chi nhánh và trên 528 điểm mạng lưới, 1.295
trong 3 ngân hàng thương mại Nhà nước có mạng lưới rộng nhất Việt Nam. Ngoài ra BIDV còn
có 5 công ty con: Công ty cho thuê tài chính Trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên 100% vốn BIDV
(BLC) ; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quản lý Nợ và khai thác tài sản BIDV (BAMC) 100%
vốn BIDV; Công ty cổ phần chứng khoán BIDV (BSC) vốn 88,12% của BIDV; Tổng công ty cổ
phần Bảo hiểm BIDV (BIC) vốn 82,30% của BIDV; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quốc tế
BIDV vốn 100% BIDV). BIDV tham gia góp vốn liên doanh: Ngân hàng liên doanh Việt – Nga
(BRB, vốn 51%); Ngân hàng Lào – Việt (LVB, vốn 50%); Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Capuchia (BIDC, vốn 50%); Ngân hàng liên doanh Việt nam – Malaysia (VID – Public Bank,
vốn 50%); Công ty liên doanh quản lý đầu tư (BVIM, vốn 50%); Công ty liên doanh tháp BIDV
(BTC, vốn 55%) Tiến tới Ngân hàng Việt Nam – Myanma); tham gia góp vốn Công ty cổ phần
đường cao tôc (BEDC, vốn 25%); Công ty cho thuê Máy bay (VALC, vốn 20%)”. [1]
* Khái niệm, nội dung tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam (nay là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam)
Cơ cấu ngân hàng, là mối tương quan tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành theo các tiêu
chí khác nhau của một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có những đặc thù riêng sẽ có những cơ
cấu riêng phù hợp với ngân hàng mình. Tuy nhiên, không phải mọi mối tương quan tỷ lệ
đều nói lên cơ cấu (dù cơ cấu là tỷ lệ). Chỉ có những tỷ lệ quan trọng, quyết định đến sự an
toàn và sinh lợi của ngân hàng mới tạo nên cơ cấu. Nhìn chung, cơ cấu của ngân hàng
thương mại bao gồm: cơ cấu tài chính; cơ cấu hoạt động; cơ cấu tổ chức; cơ cấu nhân lực.
Khi nghiên cứu cơ cấu của các ngân hàng thương mại, chúng ta thường chú trọng
đến thực tế cơ cấu hiện tại của các ngân hàng có phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế hay
không. Cơ cấu chỉ một trạng thái thông qua các tỷ lệ, do đó nó có thể ổn định trong một
khoảng thời gian nhất định, cũng có thể có sự thay đổi nếu các ngân hàng cần thay đổi cho
phù hợp với tình hình cụ thể. Quá trình thay đổi đó cũng chính là quá trình tái cơ cấu.
Theo tác giả thì: Tái cơ cấu ngân hàng là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một
số phần hay toàn bộ cơ cấu tài chính, cơ cấu hoạt động, cơ cấu tổ chức và quản lý, cơ cấu
nguồn nhân lực để đạt được hiệu quả trong kinh doanh, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh bền vững,
nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Trong đó những tỷ lệ quan trọng về vốn, tài sản, năng lực
quản lý nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn, nâng cao sức cạnh tranh và sinh lợi cho ngân
hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
BIDV là một ngân hàng TMCP Nhà nước, được thành lập và hoạt động theo hiến
pháp, pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, BIDV cũng phải hoạt động trong môi trường
cạnh tranh quyết liệt. Để đứng vững trong môi trường cạnh tranh, doanh nghiệp phải
không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh. Tái cơ cấu doanh nghiệp
là công việc diễn ra thường xuyên, đặc biệt vào những thời điểm có sự thay đổi lớn của
môi trường kinh doanh như khủng hoảng kinh tế, tài chính, tình trạng cạnh tranh gia tăng,
chính sách thay đổi hoặc có sự xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh mới cần được triệt để
khai thác... Đây là một quá trình tạo ra sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong quá trình
phát triển của doanh nghiệp.
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng: Tái cơ cấu Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam là việc tổ chức sắp xếp lại Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển Việt Nam cho phù hợp với điều kiện tình hình mới, bảo đảm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt vai trò chủ đạo của BIDV trên thị trường; các nội
dung phải tái cơ cấu là cơ cấu lại tài chính, cơ cấu lại hoạt động, cơ cấu lại tổ chức, cơ cấu
lại nhân lực.
Chủ thể tiến hành tái cơ cấu BIDV: là Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc
các đơn vị thành viên của BIDV. Trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng, Pháp luật Nhà
nước, hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước và thực tế của BIDV, Hội đồng quản trị, Tổng
giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên tiến hành tái cơ cấu đơn vị mình trong phạm vi
chức trách được phân công. Tái cơ cấu là việc làm trọng đại, liên quan đến mọi lực lượng
trong BIDV nói chung, các đơn vị thành viên nói riêng, do đó muốn tái cơ cấu có hiệu quả
phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp ủy đảng các cấp, sự đồng tình ủng hộ của toàn
thể cán bộ, nhân viên trong BIDV.
Đối tượng của tái cơ cấu BIDV: là tất cả các đơn vị thành viên của BIDV.
Mục tiêu của tái cơ cấu BIDV: là củng cố nâng cao năng lực hoạt động đảm bảo
hiệu quả, an toàn và bền vững, tạo lập nền tảng vững chắc cho BIDV hoạt động nhằm nâng
cao vai trò dẫn dắt, vị trí chủ đạo của BIDV trên thị trường, có năng lực quản trị tiên tiến,
có phạm vi hoạt động và quy mô hàng đầu Việt Nam, kinh doanh an toàn, hiệu quả. Phấn
đấu đến 2015 trở thành một trong hai ngân hàng đạt quy mô và trình độ tương đương với
các ngân hàng khác trong khu vực về quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh, có
thương hiệu uy tín, phát huy vai trò là đối tác kinh tế lớn và tin cậy trong các mối quan hệ
kinh tế quốc tế quan trọng trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Cụ thể (theo Đề án
Chiến lược kinh doanh giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2020):
- Tăng trưởng bình quân qui mô tổng tài sản ở mức tối thiểu 20%. Giai đoạn 2013-2015
tổng tài sản tăng bình quân 20%, huy động vốn tăng bình quân 25%.
- Năng lực tài chính, năng lực vốn: đảm bảo đạt tăng trưởng lợi nhuận bình quân ở
toán Việt Nam (VAS) và trên 8% theo chuẩn mực báo cáo tài chính Quốc tế (IFRS).
mức 34% giai đoạn 2013-2015 và hệ số an toàn vốn (CAR) đạt trên 10% theo Chuẩn mực Kế
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả: Tỷ lệ nợ xấu kiểm soát ≤ 2,4% hết 2013 và ≤ 2%
sở hữu (ROE) đạt tối thiểu theo thông lệ và trung bình ngành, đảm bảo cạnh tranh trên thị
đến 2015; Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA), Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ
trường.
- Tăng cường năng suất lao động và đảm bảo nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên.
Đáp ứng đầy đủ lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư, đảm bảo cổ tức cho cổ đông ở mức cạnh
tranh so với thị trường, tối thiểu bằng mức lãi suất tiết kiệm 12 tháng. Trở thành 1 trong những
ngân hàng được xếp hạng tín nhiệm tốt nhất tại Việt Nam bởi các tổ chức định hạng tín nhiệm
quốc tế; đảm bảo năng lực nhà phát hành nội tệ và ngoại tệ đạt trần quốc gia.
Nội dung tái cơ cấu BIDV: được tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu sau:
Một là, cơ cấu lại tài chính của BIDV
Nội dung trọng tâm của cơ cấu lại tài chính của BIDV là xử lý nợ xấu và tăng vốn.
Việc xử lý nợ xấu lành mạnh hoá tài chính của BIDV trong chương trình cơ cấu lại
BIDV là vô cùng quan trọng. Bởi vì: nợ xấu lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ của hệ thống BIDV;
nợ xấu tạo ra gánh nặng chi phí cho BIDV, suy giảm khả năng huy động vốn và cho vay đối
với nền kinh tế, làm giảm lòng tin của dân chúng và uy tín quốc tế đối với hệ thống của BIDV;
nợ xấu làm cản trở quá trình hội nhập, làm giảm khả năng cạnh tranh của BIDV.
Song song với việc giải quyết nợ tồn đọng lành mạnh hóa tài chính của BIDV
là việc tăng cường khả năng về vốn tự có để phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Năng
lực tài chính của BIDV thể hiện trước hết ở quy mô vốn tự có của BIDV. Quy mô vốn
tự có như là tấm đệm để đảm bảo cho mỗi ngân hàng có khả năng chống đỡ trước
những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng như những rủi ro của môi trường kinh
doanh. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng chống đỡ cao hơn
với những “cú sốc” của môi trường kinh doanh. Điều này ngày càng trở nên quan trọng trong
điều kiện môi trường kinh doanh có nhiều biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như hiện nay luôn tiềm ẩn
những rủi ro bất ngờ. Vốn tự có còn ảnh hưởng đến mức đầu tư và công nghệ ngân hàng vì
ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn tự có để đầu tư vào công nghệ. Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế
(IMF) thì một NHTM Nhà nước phải có số vốn điều lệ lớn hơn 300 triệu Đồng đô la Mỹ
(USD) thì mới được coi là ngân hàng loại trung bình.
Do đó khi tiến hành cơ cấu lại tài chính BIDV đòi hỏi phải có những biện pháp
nhằm tăng vốn để có thể tăng khả năng tài chính cho ngân hàng. Giúp BIDV có thể tự
tin và chủ động trong những biện pháp cũng như hoạt động của ngân hàng mình.
Mặt khác cần phải thực hiện các hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực theo tiêu
lý rủi ro (Basel II). Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%.
Hai là, cơ cấu lại hoạt động của BIDV
chuẩn Hiệp ước về vốn (BaselI) và Quy định chủ yếu về 3 nguyên tắc cơ bản về quản
Cơ cấu lại hoạt động ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
đáp ứng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Đồng thời tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát
các hoạt động ngân hàng với mục tiêu tăng cường chất lượng tín dụng, dịch vụ ngân hàng
nhưng vẫn đảm bảo quyền tự chủ của ngân hàng trong việc ra quyết định kinh doanh.
- Cơ cấu lại quản lý tín dụng, nhằm mục đích hướng tới
khách hàng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng với chất
lượng cao. Đồng thời đảm bảo quản lý tín dụng một cách an
toàn dựa trên các quy định và nguyên tắc về hoạt động tín
dụng theo chuẩn mực ngân hàng quốc tế.
Cơ cấu lại hoạt động của BIDV bao gồm các nội dung chính:
- Cơ cấu lại công tác quản lý vốn, nhằm phục vụ tốt mục tiêu chiến lược kinh doanh, đồng
thời giảm chi phí huy động vốn, giảm thiểu rủi ro, tăng năng lực tài chính. Thông thường để đạt
được hiệu quả trong công tác quản lý vốn BIDV phải thành lập ban quản lý tài sản nợ - tài sản có
- Quản lý rủi ro, là một trong những vấn đề quan trọng
trong quản trị của BIDV. Xây dựng các thiết chế quản lý rủi ro
nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động của ngân hàng: rủi ro tín
dụng; rủi ro thanh khoản; rủi ro lãi suất; rủi ro hoạt động; rủi ro
tỷ giá. Về mặt lý thuyết, quản lý rủi ro là một quá trình quan
trọng được dựa trên cơ sở kết hợp lý thuyết xác suất và lý
thuyết rủi ro. Nó phụ thuộc vào chính sách của Ngân hàng Nhà
nước, chính sách của BIDV. Hoạt động quản lý rủi ro ngân hàng
có thể được xem như một chu kỳ bao gồm 4 giai đoạn: xác định
rủi ro; định lượng rủi ro; quản lý rủi ro; kiểm soát rủi ro
trực thuộc ban điều hành của ngân hàng.
- Hoàn thiện hệ thống kế toán, kiểm toán, tiến hành áp dụng hệ thống kế toán quốc tế
hoặc phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đánh giá đúng thực trạng tài chính của BIDV, đồng thời
xây dựng các thiết chế an toàn cho hoạt động của BIDV phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Ba là, cơ cấu lại tổ chức và quản lý của BIDV
Cơ cấu tổ chức và quản lý của BIDV hiện còn nhiều bất cập, hoạt động chưa thực sự có
hiệu quả. Bởi vậy khi cơ cấu lại BIDV, nội dung được đề cập đến như một tất yếu đó là cơ cấu
lại mô hình tổ chức và quản lý ngân hàng.
Các nội dung cơ bản khi tiến hành cơ cấu lại tổ chức và quản lý BIDV là:
- Tổ chức bộ máy và cơ cấu điều hành: Nguyên tắc cơ bản là sự phân tách giữa chức
năng điều hành và chức năng giám sát để đảm bảo sự kiểm tra toàn diện và cân bằng về
nguồn lực.
- Công cụ và chính sách quản lý:
+ Cần phải có những công cụ và chính sách quản lý hiện đại và có hiệu quả (đặc
biệt là trong lĩnh vực tín dụng).
+ Hệ thống thông tin báo cáo phải khoa học, tránh sự chồng chéo nhằm cung cấp
kịp thời cho các nhà lãnh đạo của BIDV những biến động của lãi suất, tỉ giá cũng như
những biến động thị trường.
+ Hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ phải có sự phân biệt rõ ràng. Kiểm soát nội
bộ là một công cụ của Ban Giám đốc nhằm đảm bảo việc tuân thủ những chính sách và thủ
tục, ngăn chặn các hành động lạm dụng và vi phạm quy chế cũng như tăng cường công tác
quản lý rủi ro và điều hành trong toàn hệ thống.
Kiểm toán nội bộ là đảm bảo tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính do
bộ phận kế toán lập để cung cấp cho Ban Giám đốc theo định kỳ hoặc tiến hành những
cuộc kiểm tra cụ thể theo yêu cầu của Ban Giám đốc.
- Bộ phận phân tích thị trường: chiến lược kinh doanh càng cụ thể, rõ ràng thì càng dễ
dàng được nhận thức và cụ thể hoá bằng những chính sách và giải pháp kinh doanh hiệu quả. Vì
vậy cần có một bộ phận phân tích thị trường và lập kế hoạch kinh doanh riêng rẽ.
- Mạng lưới chi nhánh và mô hình tổ chức: Tổ chức theo mô hình hiện đại, hướng theo
khối khách hàng và sản phẩm. Mô hình này cho phép BIDV có thể theo sát với nhu cầu của
khách hàng, nhanh chóng nhận ra động thái của đối thủ cạnh tranh để có thể đưa ra giải pháp đối
Bốn là, tái cơ cấu nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ
phó kịp thời khi gặp rủi ro.
- Tái cơ cấu nguồn nhân lực: Để BIDV có đủ năng lực cạnh tranh trong nền
kinh tế, bên cạnh những yếu tố như năng lực tài chính mạnh, mô hình tổ chức hiện
đại, thì cơ cấu nhân lực phải đảm bảo hợp lý và hiệu quả. Có thể nói trình độ của
nhân viên ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với BIDV. Yếu tố con người góp
phần đảm bảo sự hoạt động hiệu quả của BIDV trong một thị trường và môi trường
công nghệ liên tục phát triển thay đổi. Trong điều kiện hiện nay buộc nhà quản lý
ngân hàng phải chú ý hơn tới hoạt động Marketing và những phản ứng từ phía cổ
đông. Những hoạt động mới này đòi hỏi ngân hàng phải có một đội ngũ nhân viên
quản lý có thể đầu tư thời gian và có năng lực trong việc khảo sát nhu cầu, phát triển
các dịch vụ mới thay đổi các dịch vụ cũ cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Hiện nay do sức ép của hội nhập và toàn cầu hoá, hoạt động của BIDV có tính
nhạy cảm cao do kinh doanh tiền tệ, tiêu chí của một ngân hàng là kinh doanh đa
năng, cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ hiện đại, ứng dụng được các thành tựu của
công nghệ thông tin... Do vậy, trong cơ cấu nhân lực của BIDV là phải tạo dựng được
đội ngũ cán bộ quản lý tinh thông nghiệp vụ, quản lý giỏi và thực sự năng động.
Trong xu hướng hiện đại của nền kinh tế, BIDV cần phải xây dựng cho mình
một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn. Đây là điểm mấu chốt mà trong cơ
cấu nhân lực BIDV phải quan tâm tới. Việc củng cố và nâng cao chất lượng cán bộ
đủ năng lực quản lý trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá, vững về chính
trị, tinh thông nghiệp vụ ngân hàng và các nhạy bén với các vấn đề kinh tế khác, có
khả năng sử dụng ngoại ngữ, phong cách hiện đại, tác phong công nghiệp, kỷ luật cao
và đặc biệt nắm vững kỹ năng quản lý. Xây dựng được đội ngũ cán bộ như vậy trong
cơ cấu của mình sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của BIDV
trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay.
- Phát triển công nghệ: Từng bước hiện đại hóa công nghệ của BIDV nhằm nâng
cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt là trong
thời kỳ hội nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng mạnh trên thế giới. Theo quy luật, ngân
hàng yếu sẽ bị thất bại, ngân hàng mạnh sẽ giành thế chủ động trong thị trường. Hiện đại hoá công
nghệ ngân hàng bao gồm:
Hiện đại về trang thiết bị, máy móc, đây là những yếu tố cốt lõi để “sản xuất” ra các
sản phẩm ngân hàng tiện ích.
Hiện nay bên cạnh các nghiệp vụ truyển thống BIDV muốn thu hút khách hàng cần phải
đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn hiện nay chủ yếu là dịch
vụ từ công nghệ. Sản phẩm của BIDV đều liên quan đến công nghệ. Nếu không hiện đại hoá
công nghệ chắc chắn sản phẩm của BIDV sẽ bị lạc hậu. Các sản phẩm công nghệ chủ yếu của
BIDV hiện nay là các loại thẻ thanh toán. Sự đa năng và tiện ích của các sản phẩm này không
chỉ dừng lại ở một hoặc hai giao dịch mà còn phải có nhiều chức năng “thông minh” hơn khi
sử dụng. Để làm được điều đó đòi hỏi BIDV cần phải hiện đại hoá công nghệ của mình.
Hiện đại hoá công nghệ còn thể hiện ở các quy trình làm việc trong hệ thống
của BIDV. Giao dịch một cửa; bộ máy làm việc tách rời nhưng cùng hệ thống… tạo
ra sự hiệu quả và làm giảm chi phí nhân lực cho BIDV rất nhiều.
Hệ thống kiểm tra, giám sát, theo dõi khách hàng, hệ thống kế toán… của BIDV đòi
hỏi phải có sự chuẩn xác và hợp lý. Giúp cho BIDV trong việc dự báo, phòng ngừa và
khắc phục rủi ro.
Hiện đại hoá công nghệ là một nội dung tất yếu trong lộ trình cơ cấu lại BIDV. Bởi
không thể tách rời cơ cấu nội dung khác với công nghệ ngân hàng. Muốn nâng cao năng
lực tài chính hay cơ cấu tổ chức, quản lý cho BIDV thì đóng góp của công nghệ ngân hàng
là không thể thiếu. Đặc biệt là trong giai đoạn là công nghệ bùng nổ hiện nay.
1.1.2. Sự cần thiết phải tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
( nay Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam)
Trong giai đoạn hiện nay, việc tái cơ cấu BIDV được xuất phát từ những lý do sau:
Một là, tái cơ cấu lại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chính là
việc chấp hành chủ trương của Đảng và Chính phủ về cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín
dụng nhằm tránh rủi ro cho ngân hàng
Hội nghị Trung ương III (khóa XI) của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ tái cơ cấu nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ then chốt đối với kinh tế Việt
Nam. Trong đó, tái cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính là một trong 3 lĩnh vực cần tập trung
thực hiện trong giai đoạn 2011-2015. Thực hiện chủ trương trên, ngày 01/3/2012, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 254 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống
các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Mục tiêu của tái cơ cấu là tập trung lành
mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng;
cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các Tổ chức tin dụng; nâng cao trật
tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tái cơ cấu thị trường tài chính, trong đó
trọng tâm là tái cơ cấu ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính là hoàn toàn đúng
đắn. Điều này được xuất phát từ vai trò, vị trí của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính đối với nền kinh tế và từ những nguy cơ gặp rủi ro của tổ chức này hiện nay.
Thực tế cho thấy, tuy đạt được một số kết quả trong hoạt động, song thời gian qua,
các ngân hàng thương mại đã bộc lộ không ít dấu hiệu bất ổn thể hiện qua nhiều vấn đề
như nợ xấu gia tăng, tính thanh khoản yếu, dịch vụ nghèo nàn, lách luật, chạy đua lãi suất
gây xáo trộn thị trường. Khi nền kinh tế khó khăn kéo dài, bất động sản và chứng khoán sa
sút, tín dụng đen đổ bể các vấn đề đó càng trở nên gay gắt, đòi hỏi phải tái cấu trúc lại hệ
thống ngân hàng thương mại để tránh những hậu quả khó lường.
“Tính đến tháng 12 năm 2012, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm: 5
ngân hàng thương mại nhà nước; 1 ngân hàng chính sách xã hội; 37 ngân hàng thương mại
cổ phần; 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng liên doanh; 47 văn phòng đại
diện ngân hàng nước ngoài; 16 công ty tài chính; 13 công ty cho thuê tài chính. Ngoài
ra, Việt Nam còn có Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) và Quỹ Tín dụng nhân
dân Trung ương với 915 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Hệ thống tài chính của Việt
Nam đã phát triển rất mạnh kể từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay và đã đóng
sản phẩm quốc nội (GDP), trong đó, tổng vốn tín dụng cho nền kinh tế đã tăng rất
góp rất lớn vào sự phát triển của đất nước. Với tổng tài sản gấp hơn 2 lần so với Tổng
nhanh và lên đến 125% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cuối năm 2010, hệ
thống các Tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung, ngân hàng thương mại nói riêng đã
trở thành nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, cả vốn ngắn, trung và dài hạn,
chức tín dụng (TCTD) lớn đã vươn lên thành tập đoàn tài chính với quy mô vốn điều
cả vốn bằng đồng Việt Nam (VND) cũng như bằng ngoại tệ. Một số NHTM và Tổ
lệ tương đương hàng trăm triệu đồng đô la Mỹ (USD), hoạt động đầu tư trong nhiều
lĩnh vực như chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, vàng và ngoại tệ, cho thuê tài
chính… thông qua hệ thống hàng trăm chi nhánh, sử dụng hàng vạn lao động, thành
lập nhiều công ty con đạt lợi nhuận mỗi năm tới hàng ngàn tỉ đồng (VNĐ)”. [1]
Tuy nhiên, chính sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ
thống ngân hàng trong thời gian vừa qua đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ lớn tác động
trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống NHTM. Đó là nguyên nhân quan trọng
nhất buộc Việt Nam phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nói riêng, cơ cấu lại hệ thống tài
chính nói chung, nhằm ngăn chặn rủi ro hệ thống, trước khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài
chính có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống, như bài học từ các cuộc khủng hoảng kinh
tế tài chính quốc tế đã chỉ ra.
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó
tích tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô,
khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản lao dốc;
hay do các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn
chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu
cầu… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả cơ cấu lại
từng ngân hàng, cũng như cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, hệ thống ngân
hàng Việt Nam đang đối mặt với những rủi ro ngày một gia tăng, nổi bật là:
Rủi ro tín dụng: Một mặt, để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp và người dân, trong khi nguồn vốn kinh doanh chỉ chủ yếu dựa vào
hệ thống ngân hàng, nên đã có hiện tượng “tín dụng nóng”. Tuy nhiên, khi nền kinh tế tăng
trưởng chậm lại, người vay nợ gặp khó khăn thì rủi ro tín dụng gia tăng, nhất là trong
những trường hợp ngân hàng quá dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho vay và không thực
hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ. Đặc biệt, sự hấp dẫn của thị trường bất động
sản và thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua đã khiến nhiều NHTM tập trung quá
nhiều vốn cho những thị trường đầy rủi ro này, góp phần không nhỏ vào thổi phồng “bong
bóng” bất động sản và chứng khoán. Song, khi những thị trường này đảo chiều đi xuống thì
nguy cơ rủi ro lại tăng cao.
Mặt khác, do một số NHTM mới thành lập nên mặc dù qui mô vốn không lớn song
vẫn cần tăng nhanh qui mô tín dụng, để qui mô tài sản phù hợp với qui mô vốn, đồng thời
nhằm đáp ứng yêu cầu lợi nhuận của cổ đông, cũng như thỏa mãn tham vọng nhanh chóng
vươn lên bằng các NHTM có qui mô lớn và bề dày kinh nghiệm khác. Trong điều kiện đó,
những ngân hàng này đã bất chấp các qui tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc
độ tăng tín dụng tới hàng chục phần trăm mỗi năm, kể cả tín dụng cho những lĩnh vực rủi
ro cao. Khi Ngân hàng Nhà nước quyết định thắt chặt tín dụng cho bất động sản, chứng
khoán và tiêu dùng xuống thì rủi ro tín dụng của những NHTM này tãng vọt. Ngoài ra, rủi
ro ðạo ðức do sử dụng vốn tín dụng sai mục ðích cũng tãng cao, hậu quả là tỷ lệ nợ xấu có
xu hýớng tăng mạnh.
Rủi ro thanh khoản: “Do một số NHTM có tốc độ tăng dư nợ tín dụng và tài sản có
quá cao, trong khi quy mô vốn còn hạn chế nên tính thanh khoản của những NHTM này
xuống thấp, thậm chí có những thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả là, để bảo đảm tính
thanh khoản, một số NHTM đã phải chấp nhận lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới
20% - 30%/năm, thậm chí trên 40%/ năm bất chấp lãi suất tái chiết khấu do NHNN công bố
hiện nay chỉ là 13%/ năm” [1]. Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến hàng chục
ngàn tỉ đồng (VND) trên thị trường mở và thị trường liên ngân hàng để bảo đảm thanh khoản
cho toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản còn đi đôi với rủi ro kỳ hạn khi tuyệt đại đa số vốn
huy động có kỳ hạn ngắn, thậm chí rất ngắn song các NHTM lại cấp tín dụng ở tất cả các kỳ
hạn với một tỷ lệ không nhỏ dành cho vay trung và dài hạn.
Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái: Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát
cao và những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ thống NHTM trước
những rủi ro rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn, đột ngột về lãi suất, cả huy động và
cho vay, cùng với những biện pháp điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính đã
khiến cho các NHTM thường xuyên trong trạng thái đối phó, khi thì chạy đua tăng lãi suất
huy động, khi lại giữ lãi suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến động lãi suất. Vì
vậy, hiện tượng “vượt trần, phá rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến làm giảm hiệu
lực của các chính sách tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của không ít
cán bộ quản lý cũng như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng... Hoạt động của
không ít NHTM rất bấp bênh, chênh vênh giữa trạng thái lãi - lỗ, kỷ luật kinh doanh không
được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
Chính vì vậy, chúng ta phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để khắc phục những yếu
kém tồn tại trong hệ thống, nhằm lành mạnh hóa toàn bộ hệ thống ngân hàng, bảo đảm hệ
thống hoạt động an toàn, thông suốt, trở thành kênh dẫn vốn đáng tin cậy và hiệu quả, giảm
thiểu các rủi ro. BIDV là một Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà nước cũng nằm trong
tình trạng như các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước nói riêng, ngân hàng thương
mại nói chung. Vì vậy, việc BIDV phải tái cơ cấu lại là một tất yếu khách quan.
Hai là, tái cơ cấu BIDV nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giành lại vị thế của
BIDV trên thị trường
Sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện kế hoạch chiến lược 2006-2010, BIDV đã đạt
được nhiều thành tựu khả quan trong việc đổi mới mô hình tổ chức và quản trị kinh doanh,
xác lập các dấu mốc quan trọng về quy mô, cơ cấu, chất lượng và hiệu quả hoạt động. Tuy
nhiên, trước xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, mặc dù BIDV vẫn
tăng trưởng về quy mô và hiệu quả hoạt động nhưng lại có nguy cơ suy giảm về thứ hạng
trên thị trường. Bên cạnh đó, hệ thống vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, hạn chế chưa
được giải quyết triệt để, sức cạnh tranh trong tương quan ngành còn chưa thể hiện đúng khả
năng, nội lực. Đặc biệt, với việc thực hiện cổ phần hóa thành công, BIDV chính thức trở thành
Ngân hàng TMCP đòi hỏi toàn hệ thống phải nâng cao chất lượng hoạt động để nâng cao hiệu
quả kinh doanh đáp ứng yêu cầu của cổ đông và nhà đầu tư. Do vậy, tái cơ cấu toàn diện hệ
thống BIDV là một nhu cầu cấp thiết và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với BIDV trong
giai đoạn hiện nay nhằm giành lại vị thế của BIDV trên thị trường.
Về quy mô tổng tài sản: “Kể từ năm 2006, BIDV luôn giữ vị thế thứ hai trên thị
trường cả về quy mô tổng tài sản, huy động vốn và dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, từ năm
2010, tổng tài sản của Vietinbank đã bắt đầu vượt lên BIDV đứng thứ 2 trong toàn hệ
thống (Vietinbank: 368 nghìn tỷ, BIDV: 366 nghìn tỷ). Đến hết năm 2011, Vietinbank
lại tiếp tục giữ vị trí thứ 2 về qui mô tổng tài sản tuy nhiên với khoảng cách này càng
cách xa BIDV (trên 54 nghìn tỷ). Trong năm 2012, Vietinbank đặt mục tiêu tăng quy
mô tổng tài sản lên 550 nghìn tỷ đồng và tăng gấp đôi trong vòng 5 năm tới với quy
mô khoảng 50 tỷ USD. Nếu không có những chính sách mạnh mẽ, quyết liệt thì BIDV
sẽ khó giành lại vị thế trên thị trường”. [1]
Về huy động vốn: “Trong giai đoạn 2006 - 2008, BIDV là ngân hàng có lợi thế
cạnh tranh trong công tác huy động vốn với nguồn vốn tương đối vững chắc, quy mô huy
động vốn (bao gồm tiền gửi của khách hàng và phát hành giấy tờ có giá) của BIDV đứng
thứ 2 toàn hệ thống chỉ sau Agribank. Tuy nhiên, kể từ năm 2008, thị phần huy động vốn
của BIDV giảm đáng kể. Và cho đến năm 2011, thị phần huy động vốn của BIDV đã giảm
xuống dưới mức 10% và Vietinbank lại tiếp tục vượt BIDV để chiếm lĩnh vị trí thứ 2 về thị
phần huy động vốn với khoảng cách huy động vốn giữa hai ngân hàng là trên 20.000 tỷ
đồng”. [1]
Về hiệu quả: “Kể từ năm 2009, BIDV đã vượt qua Agribank đứng thứ 2 về lợi
nhuận sau thuế trên thị trường và tiếp tục giữ vị thế này trong năm 2010, chỉ xếp sau
Vietcombank. Lợi nhuận sau thuế năm 2010 của BIDV cao hơn so với Vietinbank 346 tỷ,
so với ngân hàng ACB cao hơn 1.425 tỷ, so với ngân hàng Eximbank cao hơn 1.946 tỷ.
Tuy nhiên, năm 2011, BIDV đã tụt hạng về lợi nhuận sau thuế so với Vietinbank (6.280
tỷ); mặt khác, các ngân hàng thương mại cổ phần lớn cũng đã rút ngắn khoảng cách nhanh
chóng với BIDV về lợi nhuận. Năm 2011, lợi nhuận hợp nhất sau thuế của ACB và
Eximbank đã đạt xấp xỉ so với BIDV”. [1]
“Do phải trích dự phòng rủi ro tín dụng cho vay khách hàng ở mức lớn (4.844 tỷ)
trong năm 2011 cho nên dù chênh lệch thu chi tăng trưởng ở mức cao 47% nhưng lợi
nhuận trước thuế của BIDV giảm 8,8% so với năm 2010. Điều này cho thấy, chất lượng tín
dụng suy giảm đang gây ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh lời của BIDV. Bên cạnh đó,
hiệu quả quản lý chi phí ở BIDV còn hạn chế so với các đối thủ cạnh tranh, tỷ lệ chi phí
quản lý so với tổng thu nhập ròng năm 2010 -2011 của BIDV cao hơn hầu hết các Ngân
hàng TMCP và cao hơn so với Vietcombank, Vietinbank”. [1]
“Hiệu quả hoạt động kinh doanh của BIDV chưa tương xứng với tiềm năng và
sản (ROA) đạt 0,83%, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 13,16%, giảm
nguồn lực của BIDV. Đặc biệt, với kết quả năm 2011, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/tổng tài
hơn so với năm 2010 và trung bình 2006 - 2010 (do trích lập dự phòng rủi ro lớn nên lợi
nhuận sụt giảm). Các chỉ số này của BIDV thấp hơn trung bình ngành và đặc biệt thấp hơn
nhiều so với nhiều ngân hàng cổ phần khác như Vietinbank, Vietcombank, ACB, MB”. [1]
Các số liệu trên cho thấy năng lực cạnh tranh và vị thế của BIDV đang sụt giảm so
với một số ngân hàng thương mại hiện nay. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, lấy lại vị thế
của BIDV, tất yếu BIDV phải tái cơ cấu lại cho phù hợp với điều kiện, tình hình kinh
doanh mới.
Ba là, tái cơ cấu lại BIDV để đáp ứng quá trình toàn cầu hoá về kinh tế và toàn
cầu hóa ngân hàng
Quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang phát triển ngày càng
mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ. Toàn cầu hoá kinh tế cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của công nghệ thông tin đã tạo ra sự liên kết thị trường hàng hóa, dịch vụ và tài chính
xuyên biên giới. Công nghệ thông tin góp phần làm cho thị trường hoạt động hiệu quả
hơn, đồng thời cũng đóng góp vào việc toàn cầu hoá quá trình sản xuất và phát triển
của thị trường vốn. Công nghệ thông tin vượt qua những khoảng cách về địa lý và thời
gian làm cho các nhà cung cấp phản ứng nhanh chóng đối với sự thay đổi của khách
hàng. Để sử dụng có hiệu quả quá trình tự động hoá và những đổi mới công nghệ đòi
hỏi các ngân hàng phải có cơ cấu hợp lý và đủ lực cả về tài chính lẫn nhân lực.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa là sự bành trướng về địa lý và hợp nhất
các ngân hàng cũng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ của một quốc gia và lan
rộng ra với quy mô toàn cầu. Các ngân hàng mạnh nhất trên thế giới cạnh tranh
với nhau trên tất cả các lục địa. Mặt khác xu hướng hiện nay l à hội nhập, do vậy
việc cho phép những ngân hàng ở nước này sở hữu và quản lý chi nhánh ngân hàng ở
nước kia là hoàn toàn có thể. Điều này đòi hỏi tất yếu tất cả các ngân hàng đều phải
sẵn sàng có sự chuẩn bị để “toàn cầu hoá ”, thậm chí phải thay đổi toàn bộ cơ cấu
thực tại nếu thấy cần thiết.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và chịu tác động đa
chiều từ những biến động của thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt sau thời điểm
01/01/2011, khi Việt Nam chính thức mở cửa toàn diện hoạt động ngân hàng theo cam kết
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). BIDV hơn lúc nào hết phải tập trung tái cấu
trúc để nâng cao năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và khả năng ứng phó với những tác
động bất lợi của môi trường xung quanh; chủ động thực hiện lộ trình đáp ứng các quy định
của Ủy ban Basel trong quản trị ngân hàng; phấn đấu mức định hạng tín nhiệm nhà phát
hành cũng như năng lực tài chính độc lập tiệm cận với trình độ, tầm mức của các ngân
hàng trong khu vực.
Ngoài những lý do như trên, BIDV là một Ngân hàng TMCP Nhà nước, ngoài chức
năng hoạt động sản xuất kinh doanh, BIDV còn phải thực hiện vai trò của một doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tức là, phải đi
đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả kinh doanh, chấp hành pháp luật;
dẫn dắt, hỗ trợ các tổ chức tín dụng khác cùng phát triển; là lực lượng quan trọng để Nhà
nước điều tiết nền kinh tế… Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, muốn làm
được vai trò chủ đạo của mình, BIDV phải tái cơ cấu lại để kinh doanh có hiệu quả, trở
thành 1 trong 2 Ngân hàng TMCP Nhà nước đứng đầu trong hệ thống NHTM Việt Nam.
1.2. Thực trạng tái cơ cấu BIDV thời gian qua
1.2.1. Thành tựu và hạn chế tái cơ cấu BIDV
* Thành tựu:
Sau hơn 10 năm thực hiện kế hoạch tái cơ cấu 2001-2012, trong bối cảnh khủng
khoảng kinh tế toàn cầu, nền kinh tế phải trải qua những giai đoạn thăng trầm đầy khó
khăn, thử thách, song BIDV đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đóng góp không nhỏ vào
sự phát triển của thị trường tài chính và công cuộc ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước.
BIDV đã tăng cường hội nhập quốc tế và mở rộng hoạt động ra nước ngoài, từng bước
khẳng định vị thế, uy tín không chỉ đối với thị trường trong nước mà cả trong quan hệ hợp
tác kinh tế quốc tế. Đến nay, BIDV đã mở rộng quan hệ đại lý, thanh toán với gần 1.600
định chế tài chính trong nước và quốc tế. BIDV đã triển khai thành công Dự án Tài chính
nông thôn 1 và 2, được đánh giá là dự án được quản lý tốt nhất trong số các dự án nông
thôn của Ngân hàng thế giới (World Bank) tài trợ trên toàn thế giới. Năm 2008, BIDV đã
được Ngân hàng thế giới (World Bank - WB) tiếp tục lựa chọn là định chế bán buôn thực
hiện dự án Tài chính nông thôn 3 với giá trị 200 triệu đồng đô la Mỹ (USD) để hỗ trợ phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Một trong những thành tựu của BIDV là có những
bước đi chủ động, chắc chắn để thâm nhập vào thị trường tài chính các nước: Lào,
Campuchia, Myanmar, Nga, Séc. BIDV đã cùng các đối tác Lào, Campuchia, Myanmar
tạo nên một cầu nối hữu hiệu cho quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa 3 nước Đông
Dương; là công cụ quan trọng, hiệu quả của Đảng, Chính phủ trong thực thi các nhiệm vụ
đặc biệt được giao, được Chính phủ Việt Nam và các nước trong khu vực đánh giá cao vai
trò đầu mối, mở đường dẫn dắt hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài.
BIDV còn là ngân hàng đi đầu trong việc áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong
hoạt động. Từ năm 2006, BIDV là ngân hàng đầu tiên chủ động thuê tổ chức định hạng tín
nhiệm quốc tế (Moody’s) để xếp hạng tín nhiệm. Đồng thời, cũng trong năm này, BIDV là
Quy định của NHNN Việt nam về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các
TCTD điều 7 (QĐ 493), hệ thống được đánh giá là đáp ứng được tiêu chuẩn phân loại nợ
ngân hàng đầu tiên áp dụng thành công hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và phân loại nợ theo
NHNN Việt nam về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các TCTD điều 6
(QĐ 493). Bên cạnh đó, hàng năm, BIDV vẫn thực hiện thuê kiểm toán độc lập thực hiện
quốc tế và ưu việt hơn hệ thống đang được các ngân hàng khác áp dụng theo Quy định của
kiểm toán báo cáo tài chính của ngân hàng theo cả chuẩn mực Việt Nam và chuẩn mực quốc
tế. BIDV cũng là ngân hàng đầu tiên đưa vào áp dụng cơ chế quản lý vốn tập trung (FTP) giúp
BIDV điều hành vốn hiệu quả đặc biệt trong giai đoạn 2009-2011 với bối cảnh thị trường
vốn diễn biến phức tạp.
Năng lực tài chính của BIDV được tăng cường, hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Về quy mô: “Tổng tài sản của BIDV tăng gấp 8,4 lần; tăng từ 48.561 tỷ đồng (năm
2000) lên 405.755 tỷ đồng (năm 2011); Huy động vốn tăng gấp 8 lần từ 30.888 tỷ đồng
(năm 2000) lên 244.898 tỷ đồng (năm 2011); tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010
đạt 24,8%/năm; Dư nợ tín dụng tăng gấp 8 lần, từ 36.573 tỷ đồng (năm 2000) lên 293.937
tỷ đồng (năm 2011); vốn chủ sở hữu tăng gấp 13,2 lần, từ 1.841 tỷ đồng (năm 2000) lên
24.390 tỷ đồng (năm 2011)”. [1]
Về hiệu quả: “Lợi nhuận trước thuế tăng gấp 14,8 lần: từ 285 tỷ đồng (năm
2000) lên 4.220 tỷ đồng (năm 2011). Đặc biệt trong giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ tăng
trưởng lợi nhuận bình quân đạt mức 46%. Với nhịp độ tăng trưởng ổn định về quy mô
và hiệu quả hoạt động, kể từ năm 2009, các chỉ tiêu sinh lời của BIDV đã đạt mức
sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) > 15-17%)”.[1]
thông lệ quốc tế tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA) > 1%, tỷ lệ lợi nhuận
Lành mạnh hóa tài chính, chất lượng tín dụng được cải thiện
Một trong những thành tựu nổi bật của BIDV trong giai đoạn 2001-2012 đó là : “khắc
phục tình trạng nợ xấu, cải thiện chất lượng tín dụng để đạt được mục tiêu kinh doanh an toàn,
hiệu quả. Với những biện pháp quyết liệt từ tập trung thu hồi nợ xấu, xử lý nợ xấu bằng quỹ dự
phòng rủi ro cho đến xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo chuẩn mực quốc tế, kể từ
năm 2008, tỷ lệ nợ xấu của BIDV đã giảm từ mức 9,6% năm 2006 xuống dưới 3%. Trong các
năm tiếp theo tiếp tục kiểm soát tỷ lệ nợ xấu dưới 3% ngay cả trong bối cảnh môi trường kinh
doanh không thuận lợi, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về vấn đề tài chính”. [1]
BIDV đã chuyển đổi thành công mô hình tổ chức gắn với đổi mới mô hình kinh
doanh hướng tới ngân hàng bán lẻ hiện đại.
“Hơn 10 năm qua, BIDV đã trải qua 2 lần thay đổi mô hình tổ chức ở cả Hội sở chính
và các chi nhánh tương ứng theo khuyến nghị của dự án chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt
động lần 1 (TA1) và dự án chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động lần 2 (TA2). Sau hai lần
chuyển đổi mô hình tổ chức, đặc biệt là lần chuyển đổi mô hình tổ chức chức hoạt động lần 2
(TA2) năm 2008, cổ phần hóa BIDV tháng 5/2012. Về cơ bản, mô hình tổ chức của BIDV
được chuyển đổi từ mô hình truyền thống mang tính phân tán sang mô hình theo hướng tập
trung hoá, quản lý tập trung theo khối chức năng chuyên sâu theo dòng sản phẩm từ Hội sở
chính đến các đơn vị thành viên, đồng thời đáp ứng yêu cầu về quản trị rủi ro khi quy trình tác
nghiệp được tách bạch qua ba chức năng: kinh doanh (front office), quản lý rủi ro (middle
office) và tác nghiệp (back office). Đi đôi với chuyển đổi mô hình tổ chức, BIDV cũng đã
bước đầu có những định hướng chuyển đổi mô hình kinh doanh từ chủ yếu dựa trên hoạt động
tài trợ các dự án lớn, khách hàng lớn (bán buôn) sang mô hình tăng trưởng các sản phẩm ngân
hàng bán lẻ hiện đại. Trong giai đoạn 2008-2012, huy động vốn bán lẻ của BIDV đã tăng
trưởng bình quân 31%/năm, tín dụng bán lẻ tăng trưởng 32 %/năm, cao hơn mức tăng trưởng
chung của toàn hệ thống các NHTM”. [1]
* Hạn chế:
Bên cạnh những ưu điểm như trên, việc tái cơ cấu của BIDV vẫn còn rất nhiều tồn
tại, yếu kém và hạn chế cụ thể:
Chất lượng tín dụng được cải thiện so với giai đoạn trước nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn
cao hơn mức trung bình của ngành và tiềm ẩn nhiều rủi ro: “Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đã giảm
mạnh mẽ trong những năm gần đây, tuy nhiên đến cuối năm 2011 và năm 2012, tỷ lệ nợ
xấu của BIDV đã tăng trở lại và có nguy cơ vượt ngưỡng 3%. Tỷ lệ nợ xấu của BIDV đến
năm 2010 vẫn cao hơn so với mức trung bình của hệ thống, năm 2012 có thấp hơn mức
trung bình ngành nhưng đã ở mức 2,96%, tăng so với năm 2011 (2,72%) và cao hơn những
đối thủ cạnh tranh nằm trong nhóm dẫn đầu (Năm 2012, tỷ lệ nợ xấu trung bình của ngành
là 3,3%; năm 2010 là 2,19%). Mặc dù do không áp dụng cùng 1 chuẩn mực về phân loại
nợ nên việc so sánh chỉ mang tính tương đối. Với tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng tăng và
bùng phát trở lại, trong khi BIDV vẫn kiểm soát chặt chẽ về tăng trưởng tín dụng thì đây là
điều để BIDV cần phải xem xét lại chất lượng tín dụng một cách triệt để”. [1]
“Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ nhóm 2 của BIDV vẫn luôn duy trì ở mức trên 10%, trong
khi khuyến nghị của Tổ chức định hạng tín nhiệm quốc tế (Moodys) trong nhiều năm
liền là BIDV cần phải giảm tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 2% và nợ nhóm 2 xuống dưới 10%.
Trong bối cảnh, nợ xấu và nợ nhóm 2 còn chứa đựng nguy cơ bùng phát trong điều kiện
kiểm soát tín dụng và thắt chặt cung tiền như hiện nay, thì vấn đề rà soát đánh giá đúng
thực trạng chất lượng tín dụng và có biện pháp mạnh mẽ để cải thiện chất lượng tín dụng
tiếp tục là yêu cầu cấp thiết đối với BIDV”. [1]
Hoạt động đầu tư kém hiệu quả, không tương xứng với nguồn lực BIDV đã đầu tư:
“Quy mô đầu tư góp vốn của BIDV tương đối cao so với các ngân hàng lớn, tuy nhiên
hiệu quả hoạt động đầu tư thấp hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh như Vietinbank
(CTG), Vietcombank (VCB). Năm 2011, đầu tư, góp vốn của BIDV chiếm 15% vốn
chủ sở hữu, tuy nhiên tỷ suất sinh lời (ROI) chỉ mới đạt 3,7% thấp hơn rất nhiều so
với tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) của BIDV”. [1]
“ Đối với các công ty con và công ty liên kết, BIDV phải thường xuyên hỗ trợ bằng
nhiều hình thức để tài trợ vốn cho hoạt động, trong đó tại thời điểm 31/12/2011, số dư cho vay
Công ty cho thuê tài chính BIDV (BLC) là khoảng 2.800 tỷ, tổng số dư hỗ trợ cho các công ty
khác là 8.037 tỷ. Dự phòng giảm giá cho các khoản góp vốn, đầu tư dài hạn tăng từ 195 tỷ năm 2010
lên 299 tỷ năm 2011”. [1]
Đánh giá cụ thể tồn tại yếu kém của từng khối công ty như sau:
Đối với khối công ty trực thuộc và liên doanh: “Vốn đầu tư của BIDV vào các đơn
vị này chiếm 62% tổng giá trị danh mục. Tuy nhiên, phần lớn các đơn vị này hoạt động
khó khăn, lợi nhuận thấp hoặc chưa có lợi nhuận nên ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
đầu tư chung của BIDV. Năm 2011, tổng trích dự phòng của BIDV đối với các Công ty
con, liên doanh là 244 tỷ đồng. Các công ty con chiếm 38% giá trị danh mục nhưng tỷ suất
lợi nhuận bình quân hàng năm cũng chỉ ở mức 3,8%/năm (năm 2011 thậm chí bị lỗ). Các
đơn vị liên doanh như Ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB) và Liên doanh Tháp
(BTC) chiếm 15% giá trị danh mục nhưng chưa có lợi nhuận, trong khi một số đơn vị có
Bank Berhad Malaysia (VPB) và Công ty Liên Doanh Quản Lý Quỹ Đầu Tư BIDV -
lợi nhuận khá và cao như Ngân hàng liên doanh giữa BIDV và Ngân hàng Public
VIETNAM PARTNERS (BVIM) chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong danh mục (10%). Các công ty
con, công ty liên doanh của BIDV chưa có bề dày kinh nghiệm, uy tín, năng lực tài chính
như BIDV, hoạt động mang tính độc canh hoặc đặc thù nên rất khó đạt được tỷ suất lợi
nhuận cao và ổn định như BIDV. Do đó, nếu tiếp tục định hướng phát triển theo hướng
Công ty mẹ hoặc ngân hàng đa dịch vụ, BIDV sẽ phải liên tục hỗ trợ một số công ty con,
công ty liên doanh phù hợp với mục tiêu của BIDV và xem xét giải thể, chuyển nhượng
hoặc giảm tỷ lệ góp vốn tại các công ty không cần thiết. Đặc biệt, đối với khối Ngân hàng
Berhad Malaysia (VPB) hiện vẫn đang cân đối được vốn huy động từ nền kinh tế để cho
liên doanh hiện đang tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Ngoại trừ Ngân hàng Public Bank
vay, Ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB) và Ngân hàng liên doanh Lào - Việt
(LVB) đều gặp khó khăn về thanh khoản, xuất phát từ khả năng huy động vốn thấp, phụ
thuộc nhiều vào sự hỗ trợ của BIDV và các biện pháp kỹ thuật trên thị trường liên ngân
hàng, trong đó cá biệt Ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB) luôn thường trực khả
năng đổ vỡ thanh khoản. Chất lượng tín dụng cũng là điểm đáng lưu ý trong hoạt động
khối Ngân hàng liên doanh thời gian qua. Tình trạng bùng phát nợ xấu (trên 17% tổng dư
nợ) tại Ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB) và tỷ lệ nợ xấu thực tế cao hơn kế
hoạch đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng”. [1]
Đối với các khoản đầu tư góp vốn dài hạn khác: BIDV tham gia chủ yếu với vai trò là
đơn vị cổ đông sáng lập, cổ đông chiến lược để hỗ trợ triển khai dự án. Tuy nhiên do tác động
ảnh hưởng suy thoái kinh tế từ 2008 đến nay cũng như việc triển khai nhiều dự án chưa đúng tiến
độ khiến cho thủ tục thoái vốn rất phức tạp, thậm chí không thể thực hiện thoái vốn được tại thời
điểm này.
Đối với các khoản đầu tư sẵn sàng để bán (niêm yết hoặc có giao dịch trên thị
trường giao dịch không chính thức - OTC): Với quy định của NHNN như hiện nay, đối
với các khoản góp vốn đầu tư bằng việc mua cổ phần của các công ty mà BIDV tham gia,
BIDV chỉ bán mà không mua được để bình quân giá. Nên phần sụt giảm giá trị đầu tư của
BIDV (đặc biệt là các cổ phiếu niêm yết), có sự đóng góp không nhỏ của việc pha loãng cổ
phiếu của doanh nghiệp mà BIDV không thực hiện quyền, hoặc phải chuyển nhượng quyền
giá thấp và càng không thể đảo danh mục như các nhà đầu tư tổ chức khác thường làm, trong
điều kiện thị trường suy giảm như vừa qua (bán toàn bộ cổ phiếu cũ trước ngày chốt quyền rồi
thực hiện quyền mua để thu hồi một phần vốn đầu tư).
Cơ cấu hoạt động kinh doanh chưa có nhiều chuyển biến tích cực: “So với các
đối thủ cạnh tranh thì trong cơ cấu tài sản có của BIDV dư nợ tín dụng vẫn chiếm tỷ
trọng khá lớn. Cơ cấu dư nợ tín dụng ròng trên tổng tài sản của BIDV trong 5 năm
2006-2010 hầu như không có sự thay đổi đáng kể (năm 2005 tỷ lệ này là 68%, đến năm
2009-2010, tỷ lệ này vẫn là 68% và 71%), trong khi tỷ lệ này theo khuyến nghị của tư
vấn quốc tế chỉ nên ở mức dưới 65%”.[1]
Mức độ tập trung tín dụng tại BIDV theo ngành nghề và theo nhóm khách hàng là
khá cao: Dư nợ cho vay 20 khách hàng lớn nhất so với vốn chủ sở hữu có xu hướng tăng
từ năm 2008 và cao hơn so tiêu chuẩn trung bình của tổ chức định hạng (tiêu chuẩn để
nâng hạng C theo Tổ chức định hạng tín nhiệm quốc tế - Moody’s là 100%).
Theo ngành nghề: Trong giai đoạn 2006-2010, danh mục tín dụng của BIDV vẫn
tập trung nhiều nhất vào ngành xây dựng và tỷ lệ dự nợ của ngành này trên tổng dư nợ
thường xuyên duy trì ở mức trên 20% trong tổng dư nợ. Trong giai đoạn nền kinh tế có
nhiều bất ổn, cùng với những chính sách kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, dư nợ cho vay
lĩnh vực bất động sản thì ngành xây dựng là ngành tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong khi đó nhiều
đối thủ cạnh tranh của BIDV như Vietinbank đã tập trung cho vay các ngành chế biến, hộ
kinh doanh gia đình là những ngành có thời gian quay vòng vốn nhanh, ít chịu ảnh hưởng
bởi những khó khăn từ nền kinh tế. Từ năm 2011, mặc dù danh mục tín dụng theo ngành
nghề của BIDV có sự thay đổi đột ngột khi tỷ trọng dư nợ ngành xây dựng giảm xuống chỉ
còn 14,5% trong tổng dư nợ. Tuy nhiên, mức độ tập trung tín dụng theo ngành nghề vẫn
cao khi dư nợ của 4 nhóm ngành lớn nhất tại BIDV đã chiếm đến 71% tổng dư nợ.
Cơ cấu tín dụng chưa có sự thay đổi tích cực: “Kế hoạch chiến lược của BIDV
giai đoạn 2006-2010 đã đề ra mục tiêu kiểm soát tỷ lệ dư nợ trung dài hạn đến năm 2010
dưới 40%, tuy nhiên BIDV chưa thực sự quyết liệt trong việc kiểm soát tỷ lệ này trong suốt
giai đoạn 2006-2011. Đến năm 2012, tỷ lệ dư nợ trung dài hạn của BIDV tuy đã có giảm
nhẹ nhưng vẫn ở mức cao so với các đối thủ cạnh tranh. Việc duy trì tỷ lệ dư nợ trung dài
hạn ở mức cao một mặt làm gia tăng mức độ rủi ro của danh mục tín dụng, mặt khác tạo
sức ép về cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn”. [1]
Cơ cấu thu nhập chưa có sự chuyển dịch tích cực và còn thiếu bền vững:
“Mặc dù BIDV đã có nhiều nỗ lực trong việc đa dạng hóa cơ cấu thu nhập, gia tăng
tỷ lệ thu nhập phi lãi trong tổng thu nhập hoạt động nhưng xu hướng này chưa thật sự bền
vững, đến năm 2012, thu nhập ròng từ lãi chiếm 82% tổng thu nhập của BIDV. Tuy nhiên,
đây cũng là đặc trưng chung của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi đa số các
ngân hàng đều có nguồn thu nhập lớn đến từ hoạt động tín dụng;
Thu dịch vụ ròng của BIDV hiện vẫn dẫn đầu toàn hệ thống, nhưng vẫn phụ thuộc
vào các dòng dịch vụ chủ yếu là bảo lãnh và thanh toán, trong khi những dòng thu dịch vụ
này chịu ảnh hưởng từ hoạt động tín dụng.
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối, hoạt động mua/bán chứng khoán
chịu nhiều ảnh hưởng từ biến động môi trường kinh doanh nên chưa thực sự là nguồn thu
ổn định của ngân hàng.
Thu nhập từ hoạt động đầu tư chưa tương xứng với quy mô đầu tư, góp vốn. Hiện
nay, so với các đối thủ cạnh tranh, BIDV duy trì quy mô đầu tư, góp vốn tương đối lớn,
chiếm 15% vốn chủ sở hữu nhưng tỷ suất sinh lời (ROI) chỉ đạt 6%. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt
động đầu tư góp vốn/ tổng thu nhập của BIDV không được cải thiện qua các năm, thậm chí
có chiều hướng suy giảm từ năm 2009. So với các ngân hàng lớn khác như Vietinbank,
Vietcombank, ACB, BIDV vẫn ở vị trí thấp nhất”. [1]
Công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển và cạnh tranh: Với tình hình
cạnh tranh gay gắt như hiện nay và nhu cầu ngày một gia tăng và đa dạng của khách hàng
về sản phẩm dịch vụ ngân hàng, có thể thấy hệ thống công nghệ vẫn chưa hỗ trợ được
tối đa yêu cầu phát triển xứng tầm với quy mô và vị thế của BIDV. Một số vấn đề có
thể kể đến như: hệ thống hiện tại còn hạn chế trong phát triển các dịch vụ ngân hàng
điện tử, mới chỉ phát hành được thẻ tín dụng (không dùng tiền mặt) chấp nhận thanh
toán tại nhiều quốc gia thông qua hệ thống ngân hàng (VISA) mà chưa phát hành đa
dạng các loại thẻ tín dụng mang nhiều tính năng chuyên biệt khác như Master, JCB…
để tạo sự thuận tiện cho khách hàng; chưa có hệ thống hỗ trợ khách hàng như trung
tâm liên lạc, hệ thống quản lý quan hệ khách hàng, khởi tạo tín dụng…
Hạn chế trong phát triển các hệ thống hỗ trợ quản lý: các phần mềm phục vụ cho
mảng thông tin báo cáo có quy mô nhỏ và do BIDV tự thực hiện nên gây khó khăn cho
công tác quản trị; hệ thống thông tin quản lý (MIS) có tốc độ xử lý chậm, kém linh hoạt,
không có công cụ phân tích…
Hệ thống phần mềm tích hợp các ứng dụng tin học trong quản lý thông tin, tài sản,
giao dịch, quản trị rủi ro … trong hệ thống ngân hàng (core) chậm tích hợp ngân hàng bán
lẻ và chưa hỗ trợ hiệu quả mô hình tổ chức, không hỗ trợ cho phân bổ chi phí theo sản
phẩm, dẫn đến chậm phát triển sản phẩm dịch vụ ứng dụng công nghệ.
Công tác truyền thông, phát triển thương hiệu chưa tạo dựng được hình ảnh nổi
bật cho BIDV, chưa hỗ trợ được tối đa cho công tác phát triển mạng lưới, phát triển sản
phẩm: BIDV chưa có chiến lược phát triển thương hiệu, kế hoạch truyền thông chưa được
xây dựng và thực hiện một cách đồng bộ, phát huy hiệu quả chung góp phần bồi đắp thương
hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút khách hàng.
Thông điệp truyền thông thương hiệu tổng thể chưa hoàn chỉnh mà chỉ mới dừng
lại ở thông điệp nhận diện hình ảnh thương hiệu. Những thông điệp mang tính khái quát
cao như: tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi, mục tiêu định vị thương hiệu trong từng giai
đoạn, theo từng phân khúc công chúng, vùng miền… chưa được xác định, do vậy các ấn
phẩm chính thức để làm công cụ chuyển tải thông điệp thương hiệu chung chưa có đầy đủ
hoặc có nhưng không nhất quán. Trong khi đó, thông điệp bằng hình ảnh, bản in… còn
chưa đồng nhất có thể ảnh hưởng đến cảm nhận của công chúng đối với thương hiệu chung
và không gia tăng sức mạnh cộng hưởng tương hỗ giữa các chương trình quảng cáo.
Không gian giao dịch, cây rút tiền tự động (ATM), biển hiệu… chưa tuân thủ triệt để
nhận diện thương hiệu; chưa có một qui hoạch thiết kế chuẩn cho từng hạng mục không gian
giao dịch. Qua công tác kiểm tra, khảo sát cho thấy còn nhiều bất cập trong việc triển khai các
cấu phần này như việc vẫn còn tồn tại song song nhiều hạng mục nhận diện cũ và mới tại
nhiều chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tín dụng; nhiều biển hiệu, không gian giao dịch xuống
cấp, cabin cây rút tiền tự động (ATM) mất vệ sinh còn tồn tại ở nhiều nơi...
Việc thực hiện quảng cáo truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng còn
bị động, dàn trải, phân tán, dẫn đến hiệu quả của công tác truyền thông quảng cáo chưa cao.
Hơn nữa, hiện tại cũng chưa có công cụ đo lường, lượng hóa hiệu quả của công tác truyền
thông, quảng cáo. Hình ảnh quảng cáo công cộng còn khá khiêm tốn so với các thương hiệu
ngân hàng khác về loại hình (chủ yếu tập trung làm biển tấm lớn), ít về số lượng và tần suất
xuất hiện. Một số chi nhánh được giao quản lý biển quảng cáo trên địa bàn còn chưa thực sự
quan tâm bảo dưỡng trong quá trình quảng cáo hình ảnh.
Công tác truyền thông nội bộ còn một số hạn chế, chưa có nhiều đổi mới mạnh mẽ,
còn thực hiện theo lối mòn, chưa có nhiều sáng tạo, vẫn còn thông tin một chiều, chưa thu
hút và hấp dẫn người lao động toàn hệ thống tham gia. Trang website của BIDV còn đơn
điệu, chưa thực sự hấp dẫn để trở thành 01 kênh giới thiệu sản phẩm, hay 01 kênh bán
hàng. Khi lượng truy cập nhiều hoặc dung lượng tải tài liệu lớn có thể ảnh hưởng đến tốc
độ truy cập.
Định hạng tín nhiệm không được cải thiện qua nhiều năm: Sau 5 năm thực hiện
định hạng tín nhiệm bởi các tổ chức định hạng quốc tế, mức định hạng của BIDV vẫn duy
trì từ năm 2007 đến nay ở mức E+. Cả hai tổ chức đều đã ghi nhận thương hiệu và vị thế
mạnh của BIDV tại Việt Nam, tuy nhiên các chỉ tiêu về vốn và khả năng thanh khoản được
đánh giá còn khiêm tốn, chất lượng tài sản yếu so với tiêu chuẩn quốc tế và khả năng sinh
tín nhiệm quốc tế (Moody’s), tuy nhiên định hạng tiền gửi ngoại tệ có triển vọng tiêu cực
lời ở mức trung bình. Triển vọng định hạng của BIDV là ổn định theo Tổ chức định hạng
do bị giới hạn mức trần quốc gia. Trong khi đó triển vọng định hạng của BIDV là tiêu cực,
phản ánh triển vọng định hạng ngoại tệ của Chính phủ Việt Nam với dự kiến việc bất ổn
định kinh tế vĩ mô hiện tại của Việt Nam sẽ tiếp tục làm suy yếu hỗ trợ đối với ổn định tài
chính tại Việt Nam. Với thực trạng nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn hiện nay sẽ ảnh
hưởng đến kết quả định hạng, BIDV sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì và nâng hạng
tín nhiệm trong thời gian tới nếu không thực sự có sự cải tổ từ bên trong hệ thống BIDV.
Mạng lưới hoạt động còn nhiều hạn chế, phân bố điểm mạng lưới còn dàn trải,
chưa tập trung tại các khu vực trọng điểm: “So sánh về số lượng các điểm mạng lưới của
BIDV so với các đối thủ cạnh tranh chính trên toàn quốc và hai địa bàn thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh (số liệu 31/12/2012). Về số lượng các điểm mạng lưới của BIDV tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì mạng lưới của BIDV cũng đứng vị trí thứ 3. Đó là sự
phân bố chưa hợp lý về vị trí điểm đặt cụ thể là khu vực địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và cụm động lực phía Nam nói chung (mức độ nhìn nhận so sánh với chính trong hệ
thống BIDV chứ chưa so sánh với các đối thủ cạnh tranh) cho thấy công tác phát triển mạng
lưới tại địa bàn này còn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng địa bàn”. [1]
Quy mô hoạt động, hiệu quả hoạt động/điểm mạng lưới còn thấp: “ Đánh giá
quy mô và hiệu quả hoạt động của các điểm mạng lưới của BIDV cũng như một số
đối thủ cạnh tranh (số liệu thực hiện đến 31/12/2012). Xét về hiệu quả hoạt động của
điểm mạng lưới thì dẫn đầu vẫn là Vietcombank, các NHTM cổ phần lớn hiệu quả cao
hơn so với các NHTM nhà nước và đang dần mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị phần
mở rộng qui mô hoạt động. Tốc độ mở rộng mạng lưới chưa tương xứng với tốc độ
tăng trưởng quy mô, thị phần hoạt động, nhiều điểm mạng lưới mặc dù hoạt động có
sự tăng trưởng nhưng hiệu quả hoạt động không cao, nhiều điểm để phát sinh nợ xấu,
lãi treo cao”. [1]
Mô hình quản trị kinh doanh hoạt động hiệu quả chưa cao, khó khăn trong công
tác quản lý: Hiện nay BIDV là ngân hàng có số lượng quỹ tiết kiệm lớn nhất, trong khi chỉ
còn duy nhất BIDV và VietinBank còn duy trì mô hình này. Việc tồn tại mô hình quỹ tiết
kiệm hiện nay chủ yếu với chức năng huy động vốn, chưa phát triển được dịch vụ đi kèm với
công tác tín dụng. Tiêu chí mỗi điểm mạng lưới có thể cung cấp đầy đủ các sản phẩm cho
khách hàng phần nào bị hạn chế với mô h́ nh quỹ tiết kiệm. Theo quy định, quỹ tiết kiệm trực
thuộc quản lý của chi nhánh song hầu hết chi nhánh đều giao lại cho Phòng dịch vụ khách
hàng, phòng giao dịch quản lý do vậy sẽ phần nào ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các
quỹ tiết kiệm trong hệ thống.
Công tác quản lý, giám sát mạng lưới phòng giao dịch/ quỹ tiết kiệm còn nhiều bất
cập: Tại BIDV cũng như các NHTM nhà nước khác như (Vietcombank, Vietinbank,
Agribank), mạng lưới phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh quản lý. Chi nhánh quản lý toàn
bộ hoạt động kinh doanh của phòng giao dịch từ giao kế hoạch kinh doanh, đánh giá kết quả
kinh doanh, quyết định bổ nhiệm nhân sự, lao động, thu – chi, mức phán quyết... Tại các
NHTM cổ phần, Ngân hàng nước ngoài, mô hình phòng giao dịch trên danh nghĩa thuộc chi
nhánh quản lý, tuy nhiên thực tế Hội sở chính quản lý toàn bộ các hoạt động liên quan đến phòng
giao dịch. Phòng giao dịch thực sự là một chi nhánh thu nhỏ được giao kế hoạch kinh doanh, thu
nhập trên cơ sở gắn với kết quả kinh doanh, khi vượt thẩm quyền đều trình Hội sở chính quyết
định (không qua cấp Chi nhánh).
Việc mở rộng mạng lưới còn chưa tập trung tại Hội sở chính mà có phân cấp ủy
quyền cho chi nhánh, dẫn đến tình trạng nhiều chi nhánh chưa thực sự quan tâm đến phát
triển mạng lưới. Phát triển mạng lưới không phù hợp với quy mô, tốc độ phát triển của thị
trường; với tổng lượng khách hàng, mức độ tập trung của các ngân hàng, tần số sử dụng các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng, điểm mạnh, yếu của các đối thủ cạnh tranh. Qua đánh giá hiệu
quả hoạt động các phòng giao dịch mới thành lập thì chất lượng của các phòng giao dịch này
tương đối thấp và chưa đạt với tiêu chí sau 3 năm đi vào hoạt động.
Cơ chế giám sát: hoạt động mạng lưới chưa thực sự có hiệu quả cao. Hiện nay,
BIDV chưa có chương trình phần mềm khai thác thông tin báo cáo từ hệ thống quản lý
lý thông tin khách hàng (BDS). Chương trình hệ thống quản lý thông tin khách hàng
thông tin khách hàng (SIBS) đối với các phòng giao dịch/quĩ tiết kiệm không có mã quản
(SIBS) hiện tại của BIDV chỉ hỗ trợ báo cáo đối với các chi nhánh và phòng giao dịch có
mã quản lý thông tin khách hàng (BDS). BIDV chưa có hệ thống tiểu khoản hạch toán,
phân bổ các khoản thu nhập, chi phí cho các phòng giao dịch. Do đó việc đánh giá chính
xác hiệu quả hoạt động của từng mặt nghiệp vụ tại phòng giao dịch chưa thể thực hiện
được và gây nhiều khó khăn trong công tác quản trị điều hành.
Cơ chế thu nhập: chưa có cơ chế động lực, đặc biệt là cơ chế lương khuyến khích,
đẩy mạnh kết quả hoạt động của phòng giao dịch. Trong cùng 1 chi nhánh, các phòng giao
dịch quy mô lớn cũng được hưởng thu nhập như các phòng giao dịch quy mô nhỏ. Cơ chế
lương hiện hành không gắn với hiệu quả hoạt động của từng đơn vị (phòng giao dịch,quĩ
tiết kiệm) mà chủ yếu theo hiệu quả chung của chi nhánh.
Cơ chế động lực trong bán lẻ: việc mở mạng lưới phòng giao dịch với mục đích đẩy
mạnh huy động vốn, các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, song kết quả đánh giá hoạt động năm 2012
của khối phòng giao dịch thì hoạt động bán lẻ tại các phòng giao dịch chậm được cải thiện. Dư
nợ bán lẻ tại các phòng giao dịch giảm 9% so với năm 2010, phần lớn các khu vực đều giảm dư
nợ bán lẻ. Cơ chế hiện hành đa phần mới chỉ hướng đến cấp chi nhánh, chưa theo sát đến đơn vị
mạng lưới của từng chi nhánh trong khi đó mạng lưới các đơn vị trực thuộc (phòng giao dịch,quĩ
tiết kiệm) chính là kênh phân phối mạng lưới bán lẻ hiệu quả nhất.
Chưa quan tâm đúng mức tới đầu tư phát triển nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và
công tác quảng bá hình ảnh: Việc bố trí nguồn nhân lực còn bị coi nhẹ, hiện nay nhiều chi
nhánh đã cử cán bộ yếu/mới còn thiếu kinh nghiệm về nghiệp vụ và quản trị điều hành
quản lý hoạt động của các phòng giao dịch mới mở, nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của phòng giao dịch nói riêng và hiệu quả công tác phát triển mạng lưới nói chung.
Việc trang bị cơ sở vật chất, phương tiện quảng bá thiếu sự quan tâm thích đáng, thậm
chí là coi nhẹ đã ảnh hưởng đến thương hiệu của BIDV và khả năng thu hút khách hàng của các
điểm mạng lưới. Nhiều địa điểm hoạt động, diện tích trụ sở của các phòng giao dịch chưa theo
quy chuẩn nên thực tế còn nhiều bất cập (diện tích quá nhỏ hoặc quá lớn, bị che khuất, không có
chỗ để xe thuận tiện cho khách hàng, tại những nơi thiếu an toàn…). Nguyên nhân chủ yếu
chính là sự coi nhẹ công tác khảo sát địa điểm của cả chi nhánh và Hội sở chính. Để tránh tình
trạng này, cần phải đặt vấn đề khảo sát thực tế mạng lưới, quy định một số nội dung yêu cầu chi
nhánh phải thực hiện trong công tác mạng lưới, được coi là một trong những nhân tố quyết định
đến hiệu quả kinh doanh của phòng giao dịch.
Công tác quảng bá hình ảnh, thương hiệu của BIDV chưa được thực hiện đồng bộ
như: biển hiệu, nhận diện thương hiệu do đó cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp thị khách
hàng. Việc phối hợp trong việc xây dựng một chiến lược marketing tổng thể, thiết lập hệ thống
hỗ trợ về sản phẩm, công nghệ... phát triển nguồn nhân lực, xây dựng văn hóa doanh nghiệp
nhằm hỗ trợ cho công tác phát triển mạng lưới chưa được quan tâm một cách đúng mức.
1.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Trong giai đoạn 2008-2012, môi trường kinh tế vĩ mô bộc lộ nhiều bất ổn, thị
trường tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế biến động phức tạp, chính sách kinh tế vĩ mô
của Chính phủ chưa đồng bộ và thiếu sự ổn định đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh
doanh của các NHTM trong đó có BIDV. Tuy nhiên, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, với
bối cảnh kinh tế vĩ mô chung, tác động đến toàn bộ các ngân hàng trong hệ thống nhưng
nhiều ngân hàng vẫn vươn lên cả về quy mô và hiệu quả, có nhiều chuyển biến tích cực,
tạo vị thế trên thị trường. Do đó, những yếu kém, hạn chế nội tại của BIDV phần lớn vẫn
xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan như sau:
- BIDV đã có sự tăng trưởng nhanh, liên tục trong nhiều năm trở lại đây đặc biệt
giai đoạn 2006-2009 nhưng là sự tăng trưởng chưa có tính bền vững, chưa cao. Trong khi
đó, năng lực quản trị, điều hành, khả năng kiểm soát rủi ro còn nhiều hạn chế, chậm được
cải thiện, không theo kịp đà tăng trưởng dẫn đến tăng trưởng nhanh kèm theo mức độ rủi
ro tiềm ẩn gia tăng.
- Cơ chế điều hành, quy trình ra quyết định, khả năng triển khai dự án còn chậm
nên không tận dụng được nguồn lực. Tầm nhìn, định hướng, chiến lược đã được Ban lãnh
đạo xác định nhưng việc triển khai thực hiện thực tế lại chưa kịp thời và hiệu quả chưa cao.
- Hoạt động đầu tư được chú trọng trong giai đoạn này vì vậy BIDV cũng đã phân
bổ nguồn lực (tài chính, nhân sự) và dành nhiều mối quan tâm cho các hoạt động này tuy
nhiên hiệu quả mang lại thấp, không tương xứng.
- Kế hoạch kinh doanh hàng năm thiếu gắn kết với kế hoạch chiến lược dài hạn.
Sau kỳ thực hiện chiến lược 5 năm, các chỉ tiêu tài chính đã đạt được nhưng vẫn chưa đạt
được hầu hết các chỉ tiêu định tính.
- Nhận thức, tư duy, quan điểm trong mọi hoạt động chưa thực sự mang tính thị trường và
chưa có sự nhìn nhận, đánh giá đúng về các đối thủ cạnh tranh.
- Điều hành nội bộ còn mang tính hành chính, chưa thực sự hướng đến khách hàng,
chưa đặt mục tiêu lợi nhuận, hiệu quả lên hàng đầu.
- Trong điều hành hoạt động kinh doanh, từ nhận thức đến hành động vẫn còn
mang đậm dấu ấn của tư duy kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước, các sai phạm được
phát hiện chậm, xử lý không triệt để, ít có tác dụng.
- Chế độ lương thưởng chưa gắn với kết quả kinh doanh của từng đơn vị, cá nhân
người lao động; công tác đánh giá chưa khẳng định, đề cao sự sáng tạo, tinh thần xông xáo,
dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, chưa tạo được môi trường lành mạnh để cán bộ
bộc lộ hết khả năng của mình qua đó được đánh giá và trả công xứng đáng.
1.2.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong tái cơ cấu BIDV hiện nay
Thực tiễn cho thấy để tái cơ cấu BIDV thành công thời gian tới phải giải quyết
tốt các mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa mục tiêu, yêu cầu tái cơ cấu BIDV với đảm bảo lợi nhuận tối đa
và yêu cầu phải tuân thủ cơ chế chính sách hiện nay
BIDV là ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ, một trong những lĩnh vực
nhạy cảm và có tác động hầu hết đến các lĩnh vực trong nền kinh tế. Do vậy, hoạt
động của BIDV luôn bị luật pháp kiểm soát một cách chặt chẽ bởi những quy định
riêng trong hoạt động của mình. Về tổng thể, những quy định ràng buộc này tạo
thuận lợi cho BIDV trong việc hạn chế và phòng chống những rủi ro xảy ra. Tuy
nhiên, vì mục đích kinh doanh của BIDV là lợi nhuận, do vậy trong một số trường
hợp thì những quy định này lại chính là những rào cản trong việc tìm kiếm lợi nhuận
của BIDV. Theo lý thuyết quản lý của nhà kinh tế học George Stigler thì các công ty
trong những ngành chịu sự quản lý chặt chẽ thường tìm cách thoát khỏi hàng rào quy
định, tạo ra lợi nhuận mang tính độc quyền bởi vì thực tế là các quy định thường
ngăn cản sự gia nhập của các công ty khác vào những ngành được kiểm soát. Như
vậy việc thay đổi các quy định của luật pháp đối với ngành kinh doanh đặc thù của
các NHTM, đặc biệt là BIDV là rất khó khăn. Thậm chí nền kinh tế càng phát triển
và hiện đại thì những quy định này càng có xu hướng chặt chẽ hơn. Do đó để thích
nghi với những quy định, BIDV phải thay đổi cơ cấu của mình cho phù hợp nhằm tối
đa hoá hiệu quả hoạt động của mình.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có đồng bộ cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận
lợi cho BIDV tái cơ cấu với thực trạng cơ chế, chính sách của ta còn thiếu, chưa đồng bộ
như hiện nay
Thực tế cho thấy, hành lang pháp lý của Nhà nước ở lĩnh vực ngân hàng nói chung,
cho tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nói riêng còn nhiều bất cập. Vì vây, đã ảnh
hưởng trực tiếp tới việc tái cơ cấu của các ngân hàng thương mại, trong đó có tái cơ cấu
của BIDV. Do đó, các cấp có thẩm quyền cần xây dựng khung pháp lý về hoạt động ngân
hàng nói chung, phục vụ tái cơ cấu nói riêng thật công khai, minh bạch và công bằng. Có
như vậy mới hình thành môi trường lành mạnh, tạo ra sự bình đẳng cho các NHTM trong
cạnh tranh; bảo đảm an toàn hệ thống, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực
quốc tế về an toàn đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng; xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các
NHTM và loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp trong lĩnh vực ngân hàng.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có đội ngũ cán bộ quản trị BIDV vừa có đức, vừa có tài
và thực trạng đội ngũ cán bộ BIDV hiện nay còn nhiều hạn chế
Để đảm bảo thực hiện tốt việc quản trị điều hành BIDV yêu cầu phải có đội ngũ cán bộ
quản trị, đội ngũ lãnh đạo làm việc hiệu quả, có trình độ nghiệp vụ tinh thông, có kinh nghiệm
trong công tác. Tuy nhiên, BIDV là Ngân hàng được thành lập từ 1957 với chức năng ban đầu
là cấp phát vốn đầu tư xây dựng, từ năm 1995 chuyển hẳn hoạt động sang kinh doanh ngân hàng
thương mại, do vậy đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng về cơ
bản còn thiếu kinh nghiệm về nghiệp vụ và quản trị điều hành quản lý hoạt động, làm việc không
hiệu quả, quản trị nguồn nhân sự yếu kém; sự phối hợp hoạt động trong tổ chức không hiệu quả do
cơ cấu chưa hợp lý, bố trí nguồn nhân lực chưa thật sự khoa học; song theo qui định của pháp luật
về lao động của Việt Nam hiện nay thì BIDV không thể loại bỏ ngay những cán bộ yếu kém do
quá khứ để lại.
Thời gian qua, mặc dù đội ngũ cán bộ, nhân viên của BIDV đã có những bước tiến
bộ cả về trình độ, nhận thức cũng như kỹ năng hoạt động kinh doanh ngân hàng, tuy nhiên
để đáp ứng được hoạt động của ngân hàng trong thời kỳ hội nhập thì đội ngũ cán bộ này
còn nhiều bất cập. Tỷ lệ cán bộ, nhân viên được đào tạo có trình độ cao đẳng, đại học và
sau đại học tại BIDV thấp hơn so với các Ngân hàng cổ phần và Ngân hàng nước ngoài.
Trong số nhân viên có trình độ đại học, thì một bộ phận lớn được đào tạo trong thời kỳ
kinh tế tập trung, do đó thiếu kiến thức nền kinh tế thị trường và hoạt động của một NHTM
hiện đại.
Nhiều nhân viên tại BIDV còn thiếu một số trình độ cơ bản tối thiểu của một nhân
viên trong ngân hàng hiện đại như tin học, ngoại ngữ, marketing, giao tiếp. Điều này phản ánh
hạn chế của BIDV trong việc thực thi chiến lược, thực hiện các hoạt động marketing, ứng dụng
công nghệ.
Đặc biệt, việc lựa chọn nhân sự trong BIDV vừa qua chủ yếu còn mang tính ngoại
giao hoặc “giúp đỡ” nên số lượng những người có trình độ kém vào làm việc tại BIDV rất
lớn. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến việc phát triển cũng như hiệu quả hoạt động của
BIDV trong giai đoạn hiện nay.
Việc sử dụng cán bộ của các chi nhánh cũng là một vấn đề bất hợp lý. Một số cán
bộ đã qua đào tạo chuyên môn đựợc bố trí làm những việc giản đơn như kiểm ngân, trong
khi những cán bộ chỉ đào tạo trung cấp hoặc đại học không chuyên lại được bố trí làm
những công việc phức tạp cần nhiều hiểu biết về chuyên môn như tín dụng, kế toán. Ngoài
ra sự phân bổ cán bộ có trình độ chuyên môn, được đào tạo cũng có sự khác biệt lớn giữa
nông thôn và thành thị. Phần lớn cán bộ, nhân viên có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại
học tập trung nhiều tại các đô thị lớn, còn các khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa thì ít
hơn.
*
* *
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một doanh nghiệp
nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước (Tập đoàn). BIDV
là NHTM hoạt động đầy đủ các chức năng của một ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa ngành.
Các nô ̣i dung hoạt đô ̣ng này của BIDV được quy định cụ thể, chi tiết trong giấy phép thành lâ ̣p
và hoạt đô ̣ng.
Trong giai đoạn hiện nay, tái cơ cấu BIDV là một tất yếu khách quan. Đó là quá
trình tổ chức sắp xếp lại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam cho phù hợp với
điều kiện tình hình mới, bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt vai
trò chủ đạo của BIDV trên thị trường. Các nội dung phải tái cơ cấu là cơ cấu lại tài chính, cơ
cấu lại hoạt động, cơ cấu lại tổ chức, cơ cấu lại nhân lực.
Những năm qua BIDV đã tiến hành tái cơ cấu và bước đầu đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, tuy nhiên còn rất nhều hạn chế khuyết điểm cần phải tiếp tục khắc phục
trong thời gian tới. Nguyên nhân của hạn chế có nhiều, song chung quy lại là do nhận thức
của cán bộ, nhân viên trong cộng ty chưa thực sự đúng đắn về tái cơ cấu; năng lực tổ chức
thực hiện của đội ngũ lãnh đạo các cấp trong công ty trong tái cơ cấu còn nhiều bất cập; cơ
chế chính sách phục vụ cho tái cơ cấu ngân hàng nói chung của nhà nước còn thiếu và chưa
đồng bộ; đội ngũ cán bộ, nhân viên còn nhiều hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, bố trí cán
bộ chưa thực sự khách quan, khoa học...
Để tái cơ cấu thành công đòi hỏi phải khắc phục được những hạn chế, yếu điểm và
phải có hệ thống các giải pháp đồng bộ.
Chương 2
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Quan điểm chỉ đạo thúc đẩy tái cơ cấu BIDV
2.1.1. Cơ cấu lại BIDV là một quá trình thường xuyên, liên tục nhằm đáp ứng tốt
hơn yêu cầu phát triển thị trường tài chính tiền tệ, nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn
mới
Cơ cấu lại BIDV là việc làm thường xuyên, liên tục, nhằm củng cố, phát triển một
cách an toàn, hiệu quả, vững chắc, phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của thị
trường tài chính, tiền tệ trong nền kinh tế hội nhập, mở cửa hiện nay. Trong điều kiện Việt
Nam mở cửa hội nhập, thực hiện cam kết mở cửa lĩnh vực tài chính, tiền tệ thì hệ thống các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, các tổ chức tài chính
quốc tế phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Do đó, cạnh tranh giữa các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng trong nước sẽ ngày càng quyết liệt hơn. Vì vậy, để đứng vững trong cạnh tranh,
kinh doanh có hiệu quả, làm tốt vai trò chủ đạo của một doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ thì BIDV phải không ngừng đổi mới toàn diện cả về tài chính, tổ
chức, hoạt động, nhân sự…
Để BIDV thường xuyên tiến hành cơ cấu lại có hiệu quả đòi hỏi cấp ủy đảng các
cấp trong BIDV phải quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng, chủ trương của
Nhà nước về tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, hệ thống tài chính tiền tệ nói riêng; đồng
thời có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng cơ quan, đơn vị mình tiến hành tái
cơ cấu một cách khoa học, có kế hoạch, hiệu quả, đảm bảo chất lượng. Tăng cường công
tác giáo dục chính trị tư tưởng để cán bộ, nhân viên trong đơn vị nhận thức đúng chủ
trương tái cơ cấu của cơ quan, đơn vị; xác định tốt vai trò trách nhiệm cá nhân trong thực
hiện nhiệm vụ được phân công. Sử dụng đồng bộ các giải pháp, trong đó đặc biệt phải
quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực
cho đội ngũ cán bộ, nhân viên trong đơn vị; đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ, lựa
chọn những cán bộ có đức, có tài vào các vị trí lãnh đạo của đơn vị; sắp xếp lại hệ thống
mạng lưới kinh doanh; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, công tác kiểm toán, kế toán,
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của mọi đơn vị trực thuộc, cũng như của
cả hệ thống; quan tâm tới việc nâng cao đời sống vật chất tinh cho cán bộ, nhân viên trong
các đơn vị.
2.1.2. Tái cơ cơ cấu toàn diện BIDV, có lộ trình, bước đi phù hợp, bảo đảm
quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ của các bên có liên quan
Thực hiện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị, nhân lực, công
nghệ của BIDV theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp phù hợp với đặc điểm
điều kiện của BIDV nói chung cũng như của từng đơn vị thành viên trong BIDV nói riêng.
Quán triệt quan điểm này sẽ khắc phục được cả hai khuynh hướng: khuynh hướng
làm được chăng, hay chớ, không tích cực, quyết liệt, thực hiện các biện pháp nửa vời, thiếu
đồng bộ; hoặc là khuynh hướng tiến hành quá nôn nóng, nóng vội, khi chưa chuẩn bị đủ
các yếu tố, các điều kiện đã tiến hành dẫn đế hậu quả sẽ khôn lường.
Tái cơ cấu toàn diện BIDV là tái cơ cấu trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động
của BIDV, tập trung trọng tâm vào: tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu hoạt động, tái cơ cấu tổ
chức, quản lý, tái cơ cấu nhân lực và tăng cường cơ sở vật chất. Để tái cơ cấu toàn diện đòi
hỏi BIDV phải có các giải pháp đồng bộ, tổng thể trên các mặt, các lĩnh vực đã xác định. Tạo
được sự đồng thuận, phát huy được vai trò trách nhiệm của cán bộ, nhân viên trong toàn BIDV
trong quá trình tái cơ cấu. Tiến hành tái cơ cấu toàn diện song phải có trọng tâm, trọng điểm,
phải biết tập trung đột phá vào những mặt, lĩnh vực quan trọng tạo ra bước chuyển về chất trong
hoạt động của BIDV. Quá trình tiến hành phải có kế hoạch có lộ trình bước đi phù hợp; có mục
tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn, thực hiện mục tiêu ngắn hạn là từng bước để thực hiện mục
tiêu dài hạn.
Quá trình tái cơ cấu phải không được để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động của cả hệ
thống. Chấp hành đúng quy định của luật pháp Nhà nước, quy định của Ngân hàng Nhà nước, bảo
đảm lợi ích chính đáng của khách hàng, của đơn vị.
2.1.3. Tăng cường sự lãnh đạo cuả các cấp ủy đảng, sự điều hành của Chính
quyền, phát huy vai trò trách nhiệm của toàn thể cán bộ, nhân viên trong BIDV trong tái
cơ cấu
Đảng ủy BIDV lãnh đạo là nhân tố quyết định đến mọi thắng lợi của BIDV. Tái cơ
cấu là công việc trọng đại của BIDV trong giai đoạn hiện nay, có ý nghĩa sống còn đối với sự
tồn tại, phát triển của đơn vị, đến lợi ích của người lao động. Do đó, càng phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng ủy Hội sở chính nói chung, các cấp bộ đảng trong các đơn vị trực thuộc
nói riêng đối với việc tái cơ cấu BIDV.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy BIDV, các cấp bộ đảng trong hệ
thống, trước hết các cấp bộ đảng phải thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước về tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, về lĩnh vực
tài chính, tiền tệ, ngân hàng nói riêng; kịp thời đề ra những quyết định lãnh đạo cơ
quan, đơn vị mình thực hiện tái cơ cấu một cách đúng đắn.
Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của các chi
nhánh thành viên về quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, biện pháp tái cơ cấu của
Đảng ủy BIDV. Thường xuyên tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời
để bổ sung chủ trương và chỉ đạo thực tiễn thực hiện tái cơ cấu thuộc phạm vi lãnh đạo của
các cấp uỷ đảng.
Tổng Giám đốc BIDV, Giám đốc các công ty con, các chi nhánh trong BIDV phải
làm đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Phát huy
vai trò trách nhiệm cá nhân là người đứng đầu đơn vị trong quản lý, điều hành thực hiện tái
cơ cấu trong phạm vi mình được phân công. Cụ thể hóa chủ trương lãnh đạo của cấp ủy
đảng thành các biện pháp thực hiện tái cơ cấu một cách khoa học. Xây dựng và chỉ đạo
thực hiện kế hoạch tái cơ cấu ở cơ quan, đơn vị mình phụ trách một cách cụ thể, khoa học.
Phát huy vai trò trách nhiệm của cán bộ cấp dưới, của trợ lý, nhân viên trong cơ quan tham
mưu đề xuất, trong tổ chức thực hiện các mục tiêu tái cơ cấu. Đổi mới phương pháp, tác
phong công tác, phương pháp quản lý, điều hành cơ quan đơn vị thực hiện tái cơ cấu nói riêng,
hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan đơn vị mình nói chung.
2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tái cơ cấu BIDV
2.2.1.Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
thống nhất nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử của cán bộ,
nhân viên về việc tái cơ cấu của BIDV
Đây là giải pháp giữ vị trí quan trọng, bảo đảm cho việc tái cơ cấu BIDV có hiệu
quả. Bởi vì, nhận thức bao giờ cũng là cơ sở của hành động, nhận thức đúng là cơ sở của hành
động đúng và ngược lại. Thực tiễn tái cơ cấu BIDV vừa qua cho thấy hiệu quả chưa đặt được
như mong muốn vì trong nhận thức còn nhiều cán bộ, nhân viên chưa thông, một bộ phận cán
bộ, nhân viên không muốn tái cơ cấu vì ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm.
Để nâng cao ý thức, thái độ và hành vi ứng xử cho cán bộ, nhân viên BIDV về việc tái
cơ cấu doanh nghiệp, cần tập trung làm tốt các giải pháp cơ bản sau:
Một là, Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng để mọi cán bộ, nhân
viên trong cơ quan nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng về tái cơ cấu nền kinh
tế nói riêng, tái cơ cấu hệ thống tài chính, trong đó có tái cơ cấu ngân hàng thương mại
nói riêng.
Giáo dục để cán bộ, nhân viên hệ thống nắm vững tính tất yếu phải tái cơ cấu
lại BIDV, trong đó cần quán triệt sâu sắc về: mục tiêu, chủ trương, giải pháp, lộ trình
của tái cơ cấu BIDDV, nhất là chế độ chính sách đối với người lao động trong quá trình
tái cơ cấu, để từ đó mọi người có nhận thức, có động cơ, thái độ đúng đắn đối với việc
tái cơ cấu BIDV. Đây là việc làm thường xuyên, liên tục trong quá trình tái cơ cấu
BIDV.
Hai là, Phát huy vai trò của các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ
nữ của BIDV trong việc giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ nhân viên về tái cơ
cấu BIDV.
Các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ có một vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc tập hợp lực lượng quần chúng thực hiện các nhiệm vụ của
BIDV nói chung, trong việc giáo dục, nâng cao nhận thức cho Phát huy vai trò của
các tổ chức trong việc nâng cao ý thức về việc thực hiện tái cơ cấu BIDV cho cán bộ,
nhân viên không chỉ là trách nhiệm của Các cấp ủy Đảng mà còn là trách nhiệm của
các tổ chức đoàn thể, Chính quyền và từng cán bộ nhân viên trong hệ thống. Trong
đó, cần phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức Đảng, đoàn thể trong các đơn vị
trực thuộc, đặc biệt là vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt các đơn vị. Để nâng cao vai
trò của các tổ chức, các lực lượng trong việc nâng cao ý thức thực hiện tái cơ cấu
BIDV cho cán bộ, nhân viên, trước hết cần tổ chức tuyên truyền quán triệt thông tin
về mục đích, yêu cầu, sự cần thiết và lộ trình, chương trình kế hoạch cụ thể về tái cơ
cấu BIDV cho cán bộ chủ chốt Đảng, đoàn thể, Chính quyền các đơn vị trong hệ
thống. Việc làm đó, không chỉ trực tiếp bồi dưỡng kiến thức trong việc thực hiện tái
cơ cấu cho đội ngũ này mà còn nâng cao nhận thức về vị trí vai trò, tầm quan trọng,
kiến thức và kỹ năng tổ chức hoạt động tái cơ cấu trong các đơn vị. Từ đó, mà tăng
cường sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo và phát huy vai trò, trách nhiệm của các lực
lượng đối với công tác tái cơ cấu cho cán bộ, nhân viên. Sự quan tâm của các tổ chức
đối với công tác này phải được thể hiện bằng những biện pháp thiết thực như: tạo
điều kiện thuận lợi về thời gian, cơ sở vật chất cho việc tuyên truyền, tập huấn về tái
cơ cấu; tạo điều kiện và phát huy vai trò của đoàn thanh niên, công đoàn trong tuyên
truyền vận động đoàn viên, người lao động gương mẫu thực hiện những việc liên
quan đến tái cơ cấu…
Ba là, Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, truyền thống dân tộc, yêu
ngành yêu nghề, truyền thống của BIDV, ý thức xây dựng phát triển đơn vị vững
mạnh cho cán bộ, nhân viên.
Để nâng cao trình độ nhận thức, ý thức trách nhiệm và thái độ hành xử đúng đắn
đối với việc tái cơ cấu cho cán bộ chủ chốt các đơn vị, cán bộ nhân viên hiện nay, việc
thường xuyên làm tốt công tác giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, yêu ngành, yêu nghề, ý
thức xây dựng phát triển đơn vị vững mạnh, truyền thống của BIDV là biện pháp rất
quan trọng. chính đó là cơ sở cội nguồn để nần cao ý thức học thực hiện tái cơ cấu cho
cán bộ nhân viên trong BIDV.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, yêu ngành, yêu nghề đòi hỏi phải làm cho cán
bộ, nhân viên nhận thức đúng đắn và kiên định với mục tiêu phát triển của ngành,
của đơn vị gắn với mục tiêu phát triển của đất nước, cũng như mục đích quyền lợi
của bản thân. Phải làm cho mọi người thấy rằng, sự lựa chọn thực hiện tái cơ cấu
BIDV hiện nay là hoàn toàn phù hợp với sự vận dộng của thị trường tài chính tiền tệ
và xu thế phát triển, hội nhập của Ngân hàng, cũng như là cơ hội để BIDV tự điều
chỉnh để phát triển bền vững.
Trong bối nền kinh tế đất nước hiện nay, việc thực hiện tái cơ cấu là yêu cầu
cấp bách do đó đòi hỏi phải làm cho các cán bộ nhân viên, nhất là cán bộ chủ chốt các
đơn vị thành viên chuyển biến một cách sâu sắc từ nhận thức tư tưởng đến hành động
của mỗi người về việc tái cơ cấu BIDV.
Bốn là, kết hợp các biện pháp tuyên truyền giáo dục với các biện pháp hành
chính trong giáo dục nâng cao ý thức thực hiện tái cơ cấu cho cán bộ, nhân viên, nhất
là cán bộ chủ chốt.
Để nâng cao ý thức thực hiện cho cán bộ, nhân viên trong hệ thống BIDV nhất
là các cán bộ chủ chốt các đơn vị thành viên, BIDV phải kết hợp chặt chẽ giữa giáo
dục chính trị tư tưởng với giáo dục pháp luật; giữa biện pháp giáo dục với biện pháp
hành chính; phải có các chế tài cụ thể chặt chẽ đối với từng lộ trình, kế hoạch tái cơ
cấu làm cơ sở để các đơn vị trực thuộc, cán bộ ,nhân viên, cán bộ chủ chốt các đơn vị
thực hiện. Cần tạo môi trường tuyên truyền giáo dục để kết hợp nầng cao nhận thức
về tái cơ cấu với nâng cao kỷ luật lao động thông qua các hình thức đa dạng như: tổ
chức cho cán bộ, nhân viên thi tìm hiểu về tái cơ cấu; tổ chức làm điểm rút kinh
nghiệm theo lộ trình một cách nghiêm túc có nề nếp sau khi triển khai thực hiện.
Năm là, đổi mới công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật đối với các đơn vị, cán bộ,
nhân viên, nhất là cán bộ chủ chốt các đơn vị trong việc thực hiện tái cơ cấu.
Đối với các đơn vị cán bộ, nhân viên, cán bộ chủ chốt có ý thức thực hiện và
kết quả thực hiện kế hoạch tái cơ cấu BIDV đề ra cần có hình thức khen th ưởng thoả
đáng; với những các đơn vị cán bộ, nhân viên viên có ý thức thực hiện kém, vi phạm
kỷ luật phải có hình thức kỷ luật thích đáng. Đồng thời tích cực tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin về những gương tập thể, cá nhân có thành tích tốt trong tổ
chức thực hiện tái cơ cấu.
Đây là giải pháp hết sức quan trọng trong hệ thống các
giải pháp, thực hiện tốt giải pháp này sẽ đảm bảo cho việc tái
cơ cấu BIDV được tiến thành một cách thuận lợi, tuần tự, chặt
chẽ; khắc phục được tình trạng nóng vội, làm được chăng hay
chớ. Để thực hiện giải pháp này phải tiến hành thực hiện tốt
các nội dung, các bước sau:
2.2.2. Xây dựng, bổ sung điều chỉnh kế hoạch tái cơ cấu một cách khoa học
Buớc 1: Xác định rõ mục tiêu cơ cấu lại
Do đặc thù của BIDV là kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt, đó là tiền tệ và
tín dụng. Vì vậy khi cơ cấu lại cần xác định mục tiêu là phải đảm bảo cho hoạt động
gặp ít rủi ro và sản phẩm tiện ích. Các tiêu chí mà BIDV phải đặt lên hàng đầu của
tái cơ cấu là:
- Khả năng về tài chính
- Năng lực về quản trị ngân hàng
- Công nghệ ngân hàng
- Nguồn nhân lực
Bước 2: Ph©n tÝch ®¸nh gi¸ cơ cấu hiện tại để t×m ra c¸c ®iÓm
m¹nh yÕu cÇn ®îc ®iÒu chØnh.
Mỗi Ng©n hµng hoạt động trong nền kinh tế đều ít nhất có những đặc thù
riêng, truyền thống nghiệp vụ và thế mạnh riêng của mình. Trên cơ sở hoạt động, bản
thân Ng©n hµng sẽ xác định được thế mạnh và điểm yếu của chính Ng©n
hµng mình. Từ đó có thể có những lộ trình từng bước điều chỉnh, phát triển cho phù
hợp.
Việc điều chỉnh này cũng chính là một phần trong chiến lược cơ cấu lại các
Để có cơ sở bổ sung kế hoạch phải đánh giá thật đúng
việc thực hiện kế hoạch; phải sơ kết, tổng kết chỉ ra những nội
dung, mục tiêu đã đạt được, chưa đạt được trong quá trình
thực hiện tái cơ cấu của BIDV; đánh giá đúng ưu điểm, hạn
chế và chỉ ra được nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế
đó; từ đó phân tích những mâu thuẫn bất cập nảy sinh trong
quá trình thực hiện tái cơ cấu BIDV vừa qua.
ngân hàng.
Bước 3: Xây dựng kế hoạch cơ cấu lại. Đề ra cụ thể các nhiệm vụ, lộ trình, biện
pháp thực hiện bao gồm cả các vấn đề liên quan đến tài chính.
Việc cơ cấu lại BIDV đòi hỏi phải có lộ trình cụ thể. Bởi khi cơ cấu lại sẽ có rất
nhiều việc phải làm. Phải xây dựng kế hoạch đảm bảo phù hợp với thực tế của BIDV
nói chung, các đơn vị thành viên nói riêng; học hỏi kinh nghiệm của các Ng©n
hµng quốc tế đã từng cơ cấu lại để có những biện pháp thiết thực và phù hợp với
ngân hàng cần tái cơ cấu.
Thậm chí khi cơ cấu lại có thể sẽ làm thay đổi tình thế của ngân hàng. Một mặt
Ng©n hµng sẽ tốt lên nhưng mặt khác cũng có thể bị đảo ngược nếu việc cơ cấu lại
quá chậm để Ng©n hµng khác cạnh tranh. Hoặc cách thức thực hiện, giải pháp cho
cơ cấu lại không phù hợp cũng sẽ dẫn đến nhiều hậu quả khác.
Do đó đây được coi là bước quan trọng trong việc cơ cấu lại của BIDV đòi hỏi
cần phải được tính toán và xác định kỹ càng.
Bước 4: Triển khai thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá rút kinh nghiệm và xử lý
các phát sinh kịp thời đảm bảo bám sát mục tiêu cơ cấu lại đã đề ra.
Đây được coi là bước quyết định sự thành công hay thất bại của việc cơ cấu lại
đối với BIDV. Khi thực hiện cơ cấu lại sẽ có rất nhiều sự thay đổi trong hoạt động của
ngân hàng. Sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, về quản trị, về nhân lực, về tài chính… sẽ
dẫn đến sự thay đổi một mô hình hoàn toàn mới. Nếu không có sự chuẩn bị về tâm lý,
chuyên môn và nhiều yếu tố khác chắc chắn những người lao động sẽ gặp khó khăn.
Trên cơ sở đó Ngân hàng cũng sẽ tăng thêm nhiều chi phí phát sinh.
Vì vậy khi tiến hành cơ cấu lại, BIDV phải tiến hành theo lộ trình từng nội
dung. Cách làm này vừa không quá sức, vừa có thể rút kinh nghiệm cho những nội
dung cơ cấu tiếp theo của BIDV.
Mặt khác, cơ cấu lại BIDV đòi hỏi phải đảm bảo khả năng tài chính là rất lớn,
mô hình sở hữu phải phù hợp… Do đó khi thực hiện cần phải cẩn thận và cần phải có
sự giúp sức của Chính phủ.
2.2.3. Hoàn thiện đồng bộ cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho tái
Để cho BIDV nói chung, các đơn vị thành viên của BIDV
nói riêng tái cơ cấu có hiệu quả, đúng kế hoạch, đạt được mục
tiêu đã đề ra phải có một khung pháp lý đồng bộ. Tái cơ cấu
BIDV được diễn ra trên nhiều nội dung, liên quan đến nhiều
lực lượng, do đó hệ thống cơ chế chính sách phải đảm bảo
tính toàn diện, đồng bộ và phù hợp với đặc thù hoạt động của
BIDV. Đây là một công việc không dễ dàng và càng không thể
thực hiện ngày một, ngày hai mà phải có một quá trình
nghiên cứu tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm. Từ thực
tiễn hoạt động tái cơ cấu của BIDV thời gian qua, tác giả cho
rằng Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu khẩn trương ban
hành một số cơ chế chính sách sau:
cơ cấu BIDV
Thứ nhất, Đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý về hoạt động ngân
hàng, bao gồm:
Ban hành chuẩn mực an toàn vốn phù hợp với quy định chủ yếu về 3 nguyên tắc cơ bản
về quản lý rủi ro (Basel II); Đổi mới, hoàn thiện các quy định an toàn hoạt động của tổ chức tín
dụng, đặc biệt là các tỷ lệ về khả năng chi trả để hạn chế và kiểm soát có hiệu quả các rủi ro trong
hoạt động của tổ chức tín dụng;
Sửa đổi, bổ sung quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng rủi
ro theo hướng chặt chẽ và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế;
Quy định về công bố thông tin của các tổ chức tín dụng phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và các nguyên tắc hệp ước về vốn của Ủy ban Basel;
Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Phòng, chống rửa tiền;
Hoàn thiện các quy định về cấp phép thành lập tổ chức tín dụng, mở và chấm dứt hoạt động của các
chi nhánh, điểm giao dịch của tổ chức tín dụng;
Ban hành các nguyên tắc, chuẩn mực quản trị rủi ro đối với các tổ chức tín dụng;
Sửa đổi, bổ sung hệ thống kế toán của các tổ chức tín dụng phù hợp hơn với chuẩn mực kế
toán quốc tế;
Hoàn thiện các chính sách và quy định về thanh toán qua ngân hàng và thanh toán
dùng tiền mặt; triển khai thực hiện Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt giai
đoạn 2011 - 2015 theo Quyết định số 2459/QĐ-TTg ngày 27 tháng 12 năm 2011 của Thủ
tướng Chính phủ.
Thứ hai, Điều hành chủ động, linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách
tiền tệ, tỷ giá, lãi suất theo nguyên tắc thị trường để bảo đảm an toàn hệ thống ngân
hàng, giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế, đồng thời góp phần kiểm soát lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng: Hoàn thiện
mô hình tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Thực hiện thanh
tra, giám sát trên cơ sở rủi ro và giám sát tổng hợp tổ chức tín dụng; phát triển hệ thống
giám sát theo tiêu chuẩn các chỉ tiêu cấu thành hệ thống xếp hạng đối với một ngân hàng
(CAMELS), hệ thống đánh giá rủi ro đối với tổ chức tín dụng và cảnh báo sớm trong hoạt
động ngân hàng. Tập trung nâng cao chất lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ thanh tra,
giám sát ngân hàng.
Xử lý nghiêm các sai phạm trong quản trị, điều hành và vi phạm pháp luật của các
tổ chức tín dụng.
Thứ ba, Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương tái cơ cấu ngân
hàng thương mại của Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương
đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng và Chính
phủ về cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng nhằm tạo ổn định tâm lý và sự đồng thuận
Thứ tư, Bổ sung vốn điều lệ và tăng vốn tự có của các NHTM nhà nước
trong xã hội.
Hiện nay tiềm lực tài chính của các NHTM nhà nước Việt Nam là quá nhỏ bé. Có
thể thấy một nghịch lý trong nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, thì tiềm lực
tài chính của khu vực tài chính lại thua xa khu vực công nghiệp. Thông thường theo kinh
nghiệm các nước (đặc biệt là các nước công nghiệp), trong giai đoạn đầu của quá trình
công nghiệp hoá, tư bản tài chính phải có mức tích luỹ lớn hơn nhiều tư bản công nghiệp
mới có thể tạo điều kiện để thực hiện cách mạng công nghiệp và tiến trình công nghiệp
hoá.
Theo quy định hiện hành về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, vốn tự có của NHTM nhà nước gồm: vốn cấp 1 (vốn điều lệ và các quỹ theo quy định,
lợi nhuận không chia) và vốn cấp 2 (giá trị tăng thêm của tài sản cố định, chứng khoán đầu tư,
trái phiếu chuyển đổi và các công cụ nợ khác và dự phòng chung). Trong đó, giới hạn vốn cấp
2 tối đa bằng vốn cấp 1. Như vậy, việc tăng vốn tự có của NHTM để bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn
theo thông lệ quốc tế sẽ được tiến hành đồng thời với việc bổ sung vốn cấp 1 và tạo lập vốn
cấp 2. trong đó bảo đảm vốn cấp 1 tối thiểu đạt 4%, vốn cấp 2 tối đa 4% tổng tài sản có rủi ro.
Thực tế hiện nay vốn của các NHTM nhà nước chủ yếu là vốn cấp 1 trong đó
phần lớn là vốn điều lệ. Nếu xét về tỷ trọng cơ cấu vốn thì vốn cấp 1 của các NHTM
nhà nước đã đạt tỷ lệ trên 4% tổng tài sản có rủi ro. Tuy nhiên vốn cấp 2 hầu như
chưa được xác định và tạo lập.
Thứ năm, Tiếp tục hiện đại hóa và phát triển đồng bộ hệ thống công nghệ ngân
hàng, đặc biệt là hệ thống thông tin quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hệ thống
thanh toán ngân hàng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các hệ thống thanh toán trọng
yếu của Ngân hàng Thanh toán quốc tế.
2.2.4. Thực hiện các giải pháp nghiệp vụ để tái cơ cấu lại tài chính, tái cơ
cấu lại hoạt động, tái cơ cấu lại tổ chức quản lý của BIDV
2.2.4.1.Giải pháp cơ cấu lại tài chính
Cơ cấu lại tài chính bao gồm xử lý nợ xấu và tăng vốn lành mạnh hoá tài chính là vấn
đề quan trọng hàng đầu trong tái cơ cấu đối với BIDV. Nếu xử lý được vấn đề nợ xấu và tăng
vốn thì sẽ đáp ứng được các chuẩn mực tài chính quốc tế, nâng cao uy tín của BIDV trên
trường quốc tế; tập trung vào công tác cải cách và hướng nguồn lực cho các hoạt động sinh lời
lành mạnh; tạo cơ sở để mở rộng khả năng huy động vốn, sử dụng vốn; nâng cao hiệu quả hoạt
* Đối với xử lý nợ xấu:
động BIDV. Để xử lý nợ xấu và tăng vốn phải tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, phân nhóm các loại nợ để có những biện pháp xử lý linh hoạt
Một trong những đòi hỏi cần thiết trong tiến trình cơ cấu lại tài chính của BIDV là
phải xác định, nắm rõ chính xác con số nợ tồn đọng của ngân hàng là bao nhiêu, trên cơ sở
Việc phân loại các khoản nợ xấu tồn đọng không căn cứ
vào thời gian quá hạn cụ thể mà căn cứ vào tính chất và khả
năng thu hồi nợ, thông qua các biện pháp bảo đảm của khoản
vay và tình trạng pháp lý của khách hàng. Theo đó có 3 nhóm
nợ với các cơ chế xử lý khác nhau, bao gồm: nợ tồn đọng có tài
sản bảo đảm; nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không
còn đối tượng thu hồi; nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm
nhưng con nợ đang còn tồn tại, hoạt động.
Để xử lý nợ tồn đọng, thông thường thực hiện làm 2 giai
đoạn:
đó để có các bước xử lý có hiệu quả.
Giai đoạn 1: Xử lý dứt điểm đối với các khoản nợ tồn đọng khoá sổ đến trước thời
Giai đoạn 2: Khi cơ cấu lại các khoản nợ, BIDV phải có lộ
trình cụ thể. Vì vậy trong thời gian này vẫn có thể có những
khoản nợ xấu phát sinh, đòi hỏi phải xử lý trong giai đoạn sau
thời điểm bắt đầu lộ trình cơ cấu lại.
điểm bắt đầu cơ cấu lại.
Cần có bước đi hiệu quả hơn nữa trong việc xử lý nợ nhóm; cần chấp nhận sự thiệt thòi
cần thiết để xử lý dứt điểm nợ nhóm 2 (Nhóm nợ không có bảo đảm và không còn đối tượng
để thu nợ). Xử lý linh hoạt hơn, khẩn trương hơn đối với nợ nhóm 3 (nhóm nợ không có tài
sản đảm bảo mà người vay còn tồn tại nhưng đang gặp khó khăn trong việc trả nợ). Trước mắt
đề xuất với Chính phủ tăng cường vai trò của công ty mua bán nợ quốc gia trực thuộc Bộ tài
chính, xúc tiến thành lập công ty quản lý nợ (AMC) của Chính phủ nhằm giải quyết công tác
xử lý nợ.
Hai là, thực hiện xử lý mạnh mẽ nợ xấu thông qua các biện pháp
Tiến hành đánh giá lại chất lượng tài sản đảm bảo nợ vay, khả năng thu hồi, tích
cực xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro. Xem
xét bán các khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm cho Công ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng
của doanh nghiệp. Xem xét bán các khoản nợ xấu cho các doanh nghiệp không phải tổ
chức tín dụng, công ty mua bán nợ tư nhân và công ty mua bán nợ của các ngân hàng
thương mại. Đề xuất Chính phủ cho xoá nợ bằng nguồn Ngân sách Nhà nước đối với các
khoản nợ xấu phát sinh không có tài sản bảo đảm, không có khả năng thu hồi do thực hiện
cho vay theo chỉ đạo hoặc chủ trương, chính sách của Chính phủ. Nghiên cứu, lựa chọn để
thực hiện chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp vay. Rà soát, tổng hợp các
công trình, bất động sản thế chấp vay ngân hàng sắp hoàn thành hoặc đã hoàn thành nhưng
chưa bán được để báo cáo, kiến nghị Chính phủ xem xét, lựa chọn và mua lại các bất động sản
này để phục vụ cho mục đích an sinh xã hội và hoạt động của các cơ quan nhà nước, đồng thời
chuyển nguồn vốn để ngân hàng thu hồi nợ đã cho vay.
Đối với các các khoản nợ thuộc đối tượng được xử lý nợ theo văn bản số
774/NHNN-TD.tym ngày 06/10/2011 của NHNN Việt Nam đã được Đoàn công tác Liên bộ
NHNN – TC – GTVT thẩm định và xác định thuộc đối tượng được xử lý với tổng số tiền là
3.907 tỷ đồng (đã quy đổi) được xử lý riêng theo chương trình của Chính phủ với thời gian
xử lý khoảng 3 – 5 năm tính từ ngày Chính phủ ra quyết định xử lý chính thức.
Đối với các khoản nợ còn lại triển khai xử lý nợ (khoanh nợ, cơ cấu nợ) theo đúng
chỉ đạo của Chính phủ. Với các khoản nợ không thuộc đối tượng được xử lý khoanh nợ, cơ
cấu nợ, cần có đánh giá và có kế hoạch thu hồi nợ đối với các khoản nợ luân chuyển bình
thường, đối với các khoản nợ xấu sẽ được phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro
theo quy định với thời gian dự kiến từ 3 – 5 năm.
Ba là, tập trung thu hồi nợ xấu (cả nội và ngoại bảng)
Tập trung thu hồi nợ xấu bằng các biện pháp quyết liệt, kết hợp các biện pháp pháp
luật hành chính với biện pháp kinh tế; xác định trách nhiệm tập thể, cá nhân gây ra nợ xấu,
phân định trách nhiệm đối với thu hồi nợ với lộ trình biện pháp cụ thể, thực hiện kiểm tra
ðịnh giá thýờng xuyên.
* Tăng cường năng lực tài chính thông qua việc tăng vốn
Song song với việc giải quyết nợ tồn đọng lành mạnh hóa tài chính của BIDV
là việc tăng cường khả năng về vốn tự có để phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Theo
quy định hiện hành về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, vốn
tự có của BIDV gồm: vốn cấp 1 (vốn điều lệ và các quỹ theo quy định, lợi nhuận không
chia) và vốn cấp 2 (giá trị tăng thêm của tài sản cố định, chứng khoán đầu tư, trái phiếu
chuyển đổi, các công cụ nợ khác và dự phòng chung). Trong đó, giới hạn vốn cấp 2
tối đa bằng vốn cấp 1. Như vậy, việc tăng vốn tự có của BIDV để bảo đảm tỷ lệ an
toàn vốn theo thông lệ quốc tế sẽ được tiến hành đồng thời với việc bổ sung vốn cấp 1
và tạo lập vốn cấp 2. Trong đó bảo đảm vốn cấp 1 tối thiểu đạt 4%, vốn cấp 2 tối đa
bằng 4% tổng tài sản có rủi ro. Để tăng vốn, BIDV phải tiến hành đồng bộ các biện
pháp sau:
Khuyến khích các chi nhánh tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh để bổ sung
vốn tự có. Phát hành thêm vốn, bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược: trên cơ sở hoàn
thành việc tăng vốn thông qua phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng và bán cổ phần ưu
đãi cho người lao động, thực hiện bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược, nhằm gia tăng
vốn. Tăng lợi nhuận để lại góp phần tăng vốn chủ sở hữu, đối với BIDV có thể ổn định
mức nộp ngân sách trong một số năm để khuyến khích các chi nhánh phấn đấu vượt chỉ
tiêu lợi nhuận, cho phép lấy phần vượt để bổ sung vốn tự có. Tính toán phương án phát
hành trái phiếu để tăng vốn.
2.2.4.2. Giải pháp cơ cấu lại hoạt động
* Về hoạt động tín dụng
Một là, tăng trưởng quy mô bền vững, duy trì và phát triển thị phần huy động vốn
trên thị trường, cụ thể:
Tạo sự đột phá và quyết liệt trong chỉ đạo điều hành huy động vốn. Xây dựng cơ
chế giao kế hoạch huy động vốn gắn với chính sách động lực và chế tài xử phạt mạnh mẽ
để khuyến khích cũng như tạo áp lực đủ lớn đến từng cán bộ, từng đơn vị/ điểm giao dịch
trong công tác huy động vốn.
Quán triệt nhận thức, phân công nhiệm vụ rõ ràng và chỉ đạo cụ thể, quyết liệt
trong công tác huy động vốn của khối quan hệ khách hàng từ tổ chức kinh tế bên cạnh
nghiệp vụ tín dụng.
Giữ vững định hướng phát triển nền vốn huy động từ dân cư, tích cực triển khai
sớm cơ chế khuyến khích động lực đối với đội ngũ cán bộ làm công tác huy động vốn dân
cư.
Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện cơ chế, chính sách khách hàng tập trung hướng
tới khách hàng tiền gửi mục tiêu. Trong chính sách khách hàng cụ thể tối đa chính sách cho
từng phân đoạn khách hàng mục tiêu, chỉnh sửa cải tiến cơ chế quản lý vốn tập trung
(FTP) để phát huy hiệu quả cao nhất.
Nâng cao chất lượng, sự sắc bén trong công tác phân tích, dự báo diễn biến thị
trường tài chính tiền tệ, chỉ số giá tiêu dùng và các thị trường hàng hóa liên quan mật thiết
đến công tác nguồn vốn, lãi suất tiền gửi như vàng, đô la…để kịp thời có các giải pháp
quản trị điều hành nguồn vốn hiệu quả.
Nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng và phong cách phục vụ khách hàng để
thu hút khách hàng gửi tiền; rà soát bộ nhận diện thương hiệu để đồng bộ hoá và thống
nhất thực hiện trong toàn hệ thống.
Hai là, gia tăng các nguồn vốn có kỳ hạn dài
Đẩy mạnh các kênh huy động vốn dài hạn như: phát hành giấy tờ có giá trung dài
hạn, vay thương mại định chế tài chính nước ngoài, vay qua hiệp định khung, vay cơ cấu
vốn trung dài hạn bằng đối ứng tiền gửi ngắn hạn.
Đẩy mạnh phát hành trái phiếu (trong nước và quốc tế) để tăng nguồn vốn trung dài hạn và
phát triển các sản phẩm huy động vốn khác trên thị trường vốn nợ.
Tăng cường hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế, các Bộ ngành của Chính phủ
để tiếp nhận nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vay thương mại của
Chính phủ từ các tổ chức tài chính quốc tế và tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn trên
thị trường tài chính quốc tế.
Ba là, kiểm soát tăng trưởng tín dụng phù hợp với quy mô và cơ cấu kỳ hạn của
nguồn vốn, cũng như tuân thủ theo chỉ đạo điều hành của NHNN
Điều hành tăng trưởng tín dụng hàng năm của toàn hệ thống phù hợp với định
hướng của Ngân hàng Nhà nước và tuân thủ nguyên tắc tốc độ tăng trưởng tín dụng không
vượt quá tốc độ tăng trưởng huy động vốn và tỷ lệ Tín dụng/Huy động vốn <100% theo
khuyến nghị của Tổ chức định hạng tín nhiệm quốc tế (Moody’s).
Đổi mới cơ chế giao kế hoạch tăng trưởng tín dụng cho các chi nhánh theo hướng
lấy hiệu quả tín dụng của chi nhánh (sau khi trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro trên cơ sở
phân loại nợ chính xác) làm căn cứ chính, giảm giới hạn tín dụng các chi nhánh không có
hiệu quả hoạt động tín dụng hoặc có hiệu quả thấp để phân bổ cho các chi nhánh hoạt động
hiệu quả cao.
Bốn là, cơ cấu lại danh mục tín dụng
Ưu tiên vốn tín dụng cho các ngành, lĩnh vực được Nhà nước ưu tiên và các ngành,
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu,
phát triển nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp sản xuất - chế biến, doanh nghiệp nhỏ và
vừa… nhằm góp phần cơ cấu lại nền kinh tế.
Lựa chọn khách hàng tốt, đa dạng hóa hơn nữa lĩnh vực ngành nghề kinh doanh để
giảm thiểu rủi ro, giảm cho vay đối với những lĩnh vực rủi ro cao như kinh doanh chứng
khoán, bất động sản, xây lắp… chú trọng hơn vào các ngành có tiềm năng phát triển dài
hạn như dầu khí, y tế, giáo dục…
Xây dựng cơ chế, phương tiện để triển khai quản lý danh mục tín dụng theo từng
sản phẩm, khối kinh doanh, theo ngành nghề, cụ thể: hàng năm Hội sở chính sẽ có báo cáo
thống kê những ngành nghề có độ rủi ro cao, yêu cầu chi nhánh áp dụng mức lãi suất cho
vay cao hơn mặt bằng chung để hạn chế cấp tín dụng và tăng thu nhập từ lãi vay để bù đắp
rủi ro. Hàng quý, hoặc 6 tháng một lần Hội sở chính sẽ có văn bản cảnh báo các ngành
đang có tiềm ẩn rủi ro, chất lượng tín dụng ngành giảm sút (nợ cơ cấu, nợ quá hạn tăng
cao, lãi chưa thu lớn…) để các Chi nhánh hạn chế, không tiếp cận cho vay mới. Đồng thời
đối với khách hàng đang còn dư nợ chi nhánh cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh
của khách hàng, đẩy mạnh hoạt động thu hồi nợ và có các biện pháp ứng phó kịp thời khi
có tình huống xấu xảy ra.
Giảm mức độ tập trung tín dụng: giảm dần tỷ lệ cho vay khu vực xây lắp, tỷ lệ dư
nợ của 20 khách hàng lớn nhất theo khuyến cáo của tổ chức định hạng tín nhiệm. Theo đó,
đến hết năm 2013, giảm tỷ lệ dư nợ của 20 khách hàng lớn nhất so với vốn cấp 1 xuống
dưới 120%; giảm tỷ lệ dư nợ đối với một nhóm ngành so với vốn cấp 1 xuống dưới 180%.
Thực hiện quản lý giới hạn theo ngành, theo tỷ trọng dư nợ của ngành trên tổng dư nợ và
tỷ trọng dư nợ theo ngành trên vốn tự có (vốn điều lệ, vốn cấp 1) của BIDV. Trên cơ sở đó,
Hội sở chính đề xuất quản lý giới hạn theo ngành trên góc độ toàn hệ thống. Hàng tháng
Hội sở chính sẽ có báo cáo Ban Lãnh đạo đánh giá tình hình thực hiện tăng trưởng tín dụng
các ngành, cảnh báo những ngành đang có có xu hướng vượt hoặc gần sát với giới hạn
ngành. Trường hợp dư nợ ngành vượt hoặc gần sát định hướng Hội đồng quản trị, Hội sở
chính có văn bản thông báo tới các chi nhánh hạn chế, hoặc ngưng tiếp cận cho vay các
khách hàng, dự án hoạt động trong các ngành đó. Các trường hợp đặc biệt trình Hội sở
chính xem xét quyết định.
Năm là, giảm dần và kiểm soát tỷ lệ dư nợ trung dài hạn của toàn hệ thống đến hết
năm 2013 xuống dưới 40%, 2015 không quá 38%:
Thu hẹp thẩm quyền phán quyết cho vay trung dài hạn của các chi nhánh, tiếp tục
kiểm soát danh mục các dự án được phép giải ngân trong năm.
Tăng cường trách nhiệm của các tập thể, cá nhân trong việc đánh giá phân loại nợ,
định hạng tín dụng doanh nghiệp; nghiên cứu thực hiện đánh giá, phân loại nợ tập trung tại
Hội sở chính đối với các chi nhánh chất lượng tín dụng thấp; các Doanh nghiệp lớn, các
ngành nghề rủi ro cao.
Thu hẹp thẩm quyền phán quyết tín dụng đối với các chi nhánh có nợ xấu, nợ nhóm
2 cao, trong một số trường hợp chi nhánh không được phép tăng trưởng tín dụng mà chỉ
tập trung thu nợ.
Áp dụng các chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm, tập trung đối với các chế tài
xử phạt đối với tập thể, cá nhân phát sinh nợ xấu như việc khấu trừ thu nhập. Chế tài cao
nhất là đình chỉ, cách chức lãnh đạo và cá nhân liên quan đến thiệt hại.
Quản trị tín dụng theo lĩnh vực, ngành nghề: xác lập hạn mức tín dụng, cơ chế
chính sách, dự báo rủi ro theo ngành nghề, không chỉ dừng lại ở mức cảnh báo đối với
những ngành có rủi ro cao. Tập trung nguồn lực, ưu tiên cho hoạt động tín dụng, hướng tới
khách hàng tốt và giảm bớt các hoạt động tín dụng thuộc diện chính sách.
Xây dựng áp dụng quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Quy định chủ yếu về 3 nguyên tắc
cơ bản về quản lý rủi ro (Basel 2) và nghiên cứu lựa chọn, sử dụng phần mềm khởi tạo cho vay
(LOS) để tự động hóa trong nghiệp vụ cấp tín dụng.
Chỉnh sửa, sắp xếp lại mô hình hoạt động khối Quản lý rủi ro theo hướng phần lớn hoạt
động cấp tín dụng được quản lý tập trung tại Hội sở chính, các chi nhánh trở thành các đơn
vị bán hàng trực tiếp.
* Về quản lý vốn đầu tư
Đối với khối công ty trực thuộc Thực hiện việc chào bán cho cổ đông chiến lược
đối với Tổng Công ty Bảo hiểm BIDV (BIC) và xây dựng phương án chào bán cổ phần
cho cổ đông chiến lược đối với Công ty Chứng khoán BIDV (BSC) để nâng cao năng lực
tài chính, năng lực quản trị điều hành tại các đơn vị này. Cụ thể:
-Đối với Công ty Chứng khoán BIDV (BSC): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/
vốn chủ sở hữu. Chỉ đạo, hỗ trợ Công ty Chứng khoán BIDV (BSC) xây dựng đề án tái cơ
cấu hoạt động kinh doanh (đặc biệt là hoạt động đầu tư), đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá
công nghệ thông tin, tập trung nâng cao công tác quản lý rủi ro, cơ cấu lại bộ máy hoạt
động và nâng cao chất lượng nhân sự, đặc biệt là nhân sự các khối kinh doanh; thực hiện
chính sách lương thưởng trên cơ sở gắn thu nhập của người lao động với hiệu quả kinh
doanh chung của công ty và mức độ đóng góp của người lao động. Tập trung cơ cấu toàn
bộ danh mục đầu tư theo hướng cải thiện thanh khoản, không gia tăng quy mô danh mục
đầu tư.
- Đối với Tổng Công ty Bảo hiểm BIDV (BIC): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận sau
thuế/vốn chủ sở hữu. Trong giai đoạn trước mắt tạm thời không đặt vấn đề mở rộng quy
mô hoạt động mà tập trung nâng cao chất lượng các mảng hoạt động hiện tại đồng thời
triển khai đề án tái cấu trúc mô hình hoạt động theo hướng nghiên cứu mở rộng sang các
mảng hoạt động liên quan và bổ trợ cho hoạt động bảo hiểm; cơ cấu mạng lưới công ty
thành viên; nghiên cứu phương án mở rộng hoạt động sang lĩnh vực nhân thọ.
- Đối với Công ty Cho thuê tài chính BIDV (BLC): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận
sau thuế/vốn chủ sở hữu. Hợp tác chặt chẽ với các Chi nhánh của BIDV để phát triển dư
nợ nội ngành, việc cho thuê mới chỉ thực hiện đối với các dự án có hiệu quả, có khả năng
thu hồi vốn tốt, cho thuê các tài sản dễ chuyển nhượng, có thể quản lý được và là khách
hàng tốt của các chi nhánh BIDV, không cho thuê mới đối với lĩnh vực tàu biển, việc giải
ngân tiếp đối với các con tàu dở dang chỉ thực hiện khi đảm bảo chắc chắn khả năng trả nợ
của khách hàng và được Hội đồng thành viên Công ty phê duyệt; theo dõi sát dòng tiền của
Doanh nghiệp để có biện pháp thu hồi nợ hợp lý nhằm giảm dần tỷ trọng dư nợ vận tải
biển, dư nợ ngoại ngành. Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn trên cơ sở phối hợp chặt chẽ
với BIDV, các chi nhánh của BIDV cũng như dựa trên mối quan hệ sẵn có của Ban lãnh
đạo Công ty, tăng vốn điều lệ cho Công ty, hỗ trợ Công ty xây dựng hệ thống công nghệ
thông tin và có đủ mức vốn pháp định theo quy định để thực hiện nghiệp vụ cho vay vốn
lưu động nhằm cải thiện tình trạng độc canh cho thuê tài chính, tạo thêm nguồn thu nhập
cho Công ty. Trong điều kiện pháp luật kinh tế, thực tế kinh doanh của các Tổ chức tín
dụng chưa tạo điều kiện cho loại hình công ty cho thuê tài chính hoạt động. Trên cơ sở việc
thực hiện đề án tái cơ cấu công ty, nếu tình hình không được cải thiện, nghiên cứu phương
án chuyển hoạt động công ty theo hướng thu gọn (chi nhánh, nhân sự…) để đảm bảo hiệu
quả kinh doanh và sử dụng hữu hiệu lao động của hệ thống.
* Đối với khối liên doanh
- Ngân hàng liên doanh Lào - Việt (LVB): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/
hàng liên doanh Lào - Việt (LVB), bàn giao giữa hai ngân hàng, chuyển đổi mô hình tổ
vốn chủ sở hữu. Hoàn tất việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu của các ngân hàng mẹ tại Ngân
chức, ban hành mới văn bản quản lý nội bộ sau khi thay đổi tỷ lệ sở hữu của các bên. Đồng
thời, tăng vốn điều lệ của Ngân hàng liên doanh Lào - Việt (LVB) theo định hướng. Đối
Ngân hàng liên doanh Lào - Việt (LVB) tập trung tăng trưởng huy động để giảm sự phụ
với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên doanh Lào - Việt (LVB), BIDV chỉ đạo
thuộc vào thị trường liên ngân hàng (đặc biệt là thị trường Việt Nam), tăng cường công tác
thu hồi nợ xấu và lãi treo, phát triển dịch vụ và nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, đảm bảo tỷ
lệ thu nhập thuần từ dịch vụ và kinh doanh ngoại tệ (DV&KDNT) chiếm khoảng 30-40%
lợi nhuận trước thuế và dự phòng rủi ro (LNTT & DPRR); tập trung nâng cao chất lượng
tín dụng toàn hệ thống; hoàn thành việc triển khai Hệ thống phần mềm tích hợp các ứng
dụng tin học trong quản lý thông tin, tài sản, giao dịch, quản trị rủi ro … trong hệ thống
ngân hàng (corebanking). Tập trung phát triển kinh doanh tại thị trường Lào, thu hẹp hoạt
động kinh doanh ở Việt Nam;
- Ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/
vốn chủ sở hữu. Đánh giá khả năng hoạt động, nghiên cứu phương án giải thể hoặc hình
thành chi nhánh hoặc Văn phòng đại diện tại Nga. Tập trung xử lý nợ xấu bằng mọi hình
thức, đảm bảo thu hồi vốn cho Ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB), xây dựng lộ trình
giảm nợ xấu; Sử dụng quỹ dự phòng để xử lý ngoại bảng các khoản nợ xấu đủ điều kiện, lành
mạnh hoá tình hình tài chính; Tập trung huy động vốn trên cả hai khu vực thị trường, thị
trường trong nước và thị trường Nga. Xác định nhóm khách hàng chiến lược để có chính sách
phù hợp, lâu dài, giảm dần mức độ tập trung vào một số ít khách hàng lớn để hạn chế rủi ro lãi
suất phát sinh và hướng tới sự ổn định của nền vốn. Tạm dừng đầu tư dưới hình thức đầu tư
tiền gửi, cấp tín dụng và các hình thức đầu tư khác ra nước ngoài để tập trung củng cố chất
lượng hoạt động trong nước.
- Ngân hàng liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và
Ngân hàng Public Bank Berhad – Malaysia (VPB): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận sau
thuế/vốn chủ sở hữu. Trong thời gian chờ xin NHNN phê duyệt cho BIDV chuyển nhượng
phần vốn góp và chuyển thành NH 100% vốn nước ngoài, tập trung cải thiện hiệu quả hoạt
động của các đơn vị trực thuộc, đặc biệt là các chi nhánh có hiệu quả hoạt động chưa cao.
Xây dựng phương án chuyển đổi một phần vốn điều lệ sang đồng Việt Nam để cải thiện
tình trạng thiếu đồng Việt Nam trong thời gian qua. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh trong đó tập trung tăng cường công tác huy động vốn, nâng cao chất lượng tín dụng
và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới, nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Công ty Liên Doanh Quản Lý Quỹ Đầu Tư BIDV - VIETNAM PARTNERS
(BVIM): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu. Bám sát và tận dụng cơ hội
thị trường để cơ cấu các khoản đầu tư, tập trung vào các cổ phiếu tốt trong danh mục hiện
tại, hoàn tất thanh lý Quỹ Đầu tư Việt Nam II, tìm hiểu và nghiên cứu về khả năng các nhà
đầu tư là Doanh nghiệp nhà nước tại Quỹ đầu tư Việt Nam đang chịu sức ép từ thoái vốn
theo yêu cầu của Chính phủ để có hướng xử lý, nghiên cứu triển khai sản phẩm mới để huy
động vốn. Đa dạng hoá các sản phẩm đầu tư (bất động sản, năng lượng, hạ tầng, phát triển
nông nghiệp, các công ty gặp khó khăn) để đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng nhà đầu
tư, đồng thời tranh thủ được các cơ hội đầu tư tốt; nghiên cứu phát triển sản phẩm Quỹ mở
dựa trên các khung pháp lý mới; nghiên cứu phát triển dịch vụ quản lý tài khoản cho các
công ty tư nhân và gia đình giàu có.
- Liên doanh tháp (BTC): Giao chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu. Phối
hợp với công ty theo dõi tình hình cho thuê, ðôn ðốc Công ty tích cực tìm kiếm khách hàng để
tăng tỷ lệ lấp đầy; triển khai phương án đàm phán với công ty mua lại tòa tháp, chấm dứt hoạt
động của công ty liên doanh.
* Đối với khối đơn vị đầu tư khác
- Chỉ đạo Công ty cổ phần Phát triển Đường cao tốc (BEDC) khẩn trương bàn
giao dự án cho Bộ Giao thông vận tải để thu hồi vốn đầu tư và hoàn trả dần vốn góp cho
các cổ đông.
- Phối hợp với Tổng công ty hang không Việt Nam (VNA) đề xuất phương án cơ cấu
hoạt động, cân đối lại dòng tiền để đảm bảo khả năng thanh khoản và đủ nguồn vốn để thực hiện
dự án mua máy bay Airbus (A321), làm việc với các đơn vị liên quan để hoàn tất việc chuyển
nhượng hợp đồng máy bay B787 cho Airlease qua đó có dòng tiền bổ sung cho dự án mua máy
bay Airbus A321.
- Tiếp tục tìm kiếm đối tác để chuyển nhượng một số khoản đầu tư lớn (OTC):
Công ty cổ phần Lọc Hoá dầu Nam Việt, Công ty cổ phần Thuỷ điện Việt Lào, Công ty cổ
phần Nhiệt điện Nhơn Trạch, Công ty cổ phần Chế tạo Gian khoan Dầu khí…
- Theo dõi sát diễn biến thị trường để cơ cấu kịp thời một số khoản đầu tư niêm yết
ngoại ngành hoặc khối lượng sở hữu nhỏ để làm gọn danh mục đầu tư, xem xét cơ cấu
từng phần các khoản đầu tư đang có lãi để cân bằng thu nhập từ hoạt động đầu tư trong cả
giai đoạn.
* Về quản trị rủi ro
Thiết lập Ủy ban Quản lý rủi ro để thực hiện chức năng thẩm định, đánh giá rủi ro
các khoản đầu tư tại Hội sở chính, đặc biệt tăng cường vai trò của Ủy viên HĐQT độc lập
(thành viên bắt buộc trong Ủy ban Quản lý rủi ro). Tăng cường thẩm quyền của Hội đồng
tín dụng các cấp, đặc biệt là Hội đồng tín dụng Chi nhánh và Trung ương, nghiên cứu đánh
giá lại điều kiện để quản lý tín dụng tập trung (luật pháp, Kinh tế xã hội, tình hình hoạt
động và tập quán kinh doanh ngân hàng hiện nay; độ minh bạch và tính chấp hành pháp
luật của các doanh nghiệp; điều kiện và khả năng xử lý tập trung của Hội sở chính) đưa ra
lộ trình thực hiện thích hợp.
Tuân thủ đầy đủ chính sách, quy định, hệ thống hạn mức, kiểm soát quản lý rủi ro;
triển khai có hiệu quả các công cụ quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế. Tiếp tục phát triển
các công cụ, giải pháp quản lý rủi ro mới. Đưa vào áp dụng thực tế các hệ thống công cụ
quản trị rủi ro (các phần mềm hỗ trợ và các kênh thu thập thông tin) đối với tất cả các loại
rủi ro, từng bước tiến tới quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế.
Dựa trên cơ sở áp dụng hệ thống đo lường quản trị rủi ro, thường xuyên theo dõi, quản
lý chặt chẽ các chỉ tiêu về rủi ro từ đó đưa ra cảnh báo, tác động trực tiếp đến quyết định kinh
doanh. Luôn đảm bảo mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi
ro tác nghiệp theo quy định của Basel II. Định kỳ (tối thiểu 2 lần/năm) Ban lãnh đạo họp
chính thức về toàn bộ các vấn đề rủi ro của ngân hàng. Tăng cường thực hiện kiểm soát
rủi ro qua hệ thống hạn mức.
Triển khai có hiệu quả dự án tăng cường năng lực quản lý rủi ro tác nghiệp trong
khuôn khổ Dự án nông thôn III. Tiếp tục tách bạch triệt để bộ phận kinh doanh và bộ
phận quản trị rủi ro theo dự án chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động lần 2 (TA2).
Nâng cao hơn nữa hiệu quả của hệ thống thông tin của ngân hàng, đảm bảo khai thác
thông tin nhanh chóng, chính xác và phù hợp với các yêu cầu quản lý rủi ro của Hội
đồng Quản trị và Ban điều hành.
2.2.4.3. Giải pháp cơ cấu lại tổ chức và quản lý
Mô hình tổ chức hiện đang được áp dụng tại BIDV về cơ bản vẫn được coi là mô
hình truyền thống với việc tổ chức các phòng ban dựa trên cơ sở nghiệp vụ. Trong điều kiện
BIDV hoạt động với quy mô nhỏ, tính chất đơn giản thì mô hình trên tỏ ra là phù hợp, đảm
bảo cho việc tập trung quản lý cao độ. Song khi BIDV phát triển với quy mô lớn với khối
lượng và tính chất công việc ngày càng nhiều và phức tạp hơn thì mô hình này bộc lộ nhiều
điểm bất hợp lý. Có sự chồng chéo trong chức năng nhiệm vụ giữa các phòng: cùng một
khách hàng, song lại là đối tượng phục vụ của nhiều phòng khác nhau; hoặc có khách
hàng đặt ra các yêu cầu đòi hỏi phải được ngân hàng xử lý một cách tổng thể, song
công việc của một phòng nghiệp vụ không thể giải quyết được. Mối quan hệ công tác
giữa các phòng lỏng lẻo, thiếu sự liên kết giữa các phòng trong giải quyết công việc.
Chính vì vậy phải cơ cấu lại mô hình tổ chức, quản lý BIDV, việc tái cơ cấu theo
hướng:
Thứ nhất, thay đổi lại tiêu thức phân định phòng, ban từ phân theo loại hình
nghiệp vụ thuần tuý sang phân theo đối tượng khách hàng, kết hợp với sản phẩm
nhằm phục vụ tốt hơn các yêu cầu cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng dịch
vụ ngân hàng. Tách biệt rõ ràng theo luật định về mối quan hệ chức năng, quyền
hạn giữa Hội đồng quản trị và bộ máy điều hành tác nghiệp, theo hướng tập trung
các vấn đề mang tính chiến lược phát triển cho Hội đồng quản trị. Ngoài ra cần
phải nâng cao năng lực quản trị, điều hành của các thành viên của Hội đồng quản
trị và các thành viên trong Ban Giám đốc. Thành lập bộ phận hỗ trợ Hội đồng quản
trị trong việc quản lý chiến lược, quản lý rủi ro và xây dựng các chuẩn mực trong hoạt
động của NHTM nhà nước. Đặc biệt cần phải nâng cao hiệu lực quản lý của Hội đồng
quản trị trong mối quan hệ với bộ phận quản lý hoạt động kinh doanh trực tiếp của
Ngân hàng.
Thứ hai, hoàn thiện mô hình, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị theo Dự án
chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động lần 2 (TA2): Tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành
mô hình tổ chức, bảo đảm toàn bộ hoạt động phải hướng đến khách hàng, vì mục tiêu tăng
Với mô hình được sắp xếp lại như vậy sẽ khắc phục cơ
bản những mặt hạn chế, nâng cao hiệu quả quản lý cho BIDV.
Kiểm soát được rủi ro (rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường khách
hàng, rủi ro hoạt động và rủi ro hối đoái); nâng cao năng lực
kiểm soát; phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng
cao trình độ nghiệp vụ và năng lực ứng dụng công nghệ mới
ngang tầm khu vực và quốc tế. Tạo điều kiện phục vụ khách
hàng tốt nhất, tăng cường khả năng tiếp cận và cung cấp các
sản phẩm đặc thù cho từng loại đối tượng khách hàng, đưa ra
chính sách phù hợp cho mỗi loại khách hàng. Nâng cao chất
lượng dịch vụ ngân hàng, giảm bớt chi phí, tăng hiệu quả
kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, đáp ứng chiến lược kinh
doanh của ngân hàng. Tăng cường năng lực quản trị, điều
hành của các cấp lãnh đạo, quản lý từ hội sở chính xuống
đến các chi nhánh. Nâng cao khả năng hiệu quả hoạt động
kiểm tra, kiểm toán, nội bộ theo hướng nâng cao tính độc lập
của kiểm tra nội bộ cơ sở đối với giám đốc chi nhánh và quản
lý rủi ro của ngân hàng.
trưởng lợi nhuận và hiệu quả của BIDV.
Các giải pháp cơ cấu cần tập trung vào:
* Cải cách hành chính:
Rà soát mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm thông qua
đánh giá công tác chỉ đạo điều hành, cơ chế phối hợp, cơ chế phân cấp uỷ quyền…đối với tất
cả các lĩnh vực hoạt động tại BIDV. Đặc biệt, đối với hoạt động tín dụng - bảo lãnh, đầu tư xây
dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị…
Rà soát, đánh giá quy chế điều hành, quy trình giải quyết công việc ở các cấp, cơ
chế phân cấp uỷ quyền tại Hội sở và của Hội sở đối với các chi nhánh, đơn vị thành viên.
Rà soát các quy định về hệ thống báo cáo nội bộ, tránh chồng chéo, đảm bảo thông tin một
đầu mối và được khai thác phù hợp với các chức năng nhiệm vụ của các ban, các đơn vị
trong hệ thống.
Rà soát quy trình, quy định đối với từng mặt nghiệp vụ, đặc biệt là đối với hoạt
động tín dụng, bảo lãnh nhằm xem xét, đánh giá, bãi bỏ hoặc sửa đổi theo hướng đơn giản,
giải quyết nhanh chóng, thuận lợi đối với cá nhân, tổ chức doanh nghiệp là khách hàng của
BIDV, đồng thời đảm bảo an toàn tài sản nhằm nâng cao khả năng quản trị kinh doanh,
kiểm soát rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tín dụng.
Cải thiện mối quan hệ giữa các cấp, các đơn vị thuộc hệ thống BIDV trong giải
quyết công việc; cải thiện chất lượng phục vụ khách hàng, tăng cường mối quan hệ giữa
khách hàng với ngân hàng.
Tiến hành cải cách 3 nội dung: hoàn thiện quy chế điều hành các cấp (chủ tịch Hội
đồng quản trị, Tổng giám đốc/ Phó tổng Giám đốc, Giám đốc/Phó Giám đốc các chi nhánh,
đơn vị thành viên, các ban tại Hội sở chính...); cải cách hành chính thuộc lĩnh vực tín dụng -
bảo lãnh; cải cách hành chính thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản và trang bị tài sản.
* Quản trị điều hành:
- Thực hiện đúng, đầy đủ các nguyên tắc và nội dung cơ bản của quy tắc quản trị
doanh nghiệp đối với các công ty niêm yết nhằm bảo đảm tính khách quan, minh bạch
trong hoạt động của BIDV
Tăng tính minh bạch hóa hoạt động của BIDV gắn với yêu cầu về cơ chế công bố
thông tin cho cổ đông sau khi chính thức chuyển đổi thành NHTM cổ phần. Thực hiện
niêm yết cổ phiếu BIDV trên thị trường chứng khoán khi chuyển đổi thành NHTM cổ
phần. Khẩn trương hoàn thành công tác lựa chọn và bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược
nước ngoài theo đúng Phương án cổ phần hóa đã được Chính phủ phê duyệt, giảm tỷ lệ sở
hữu của Nhà nước xuống dưới 80%, cổ đông chiến lược nước ngoài sẽ tham gia quản trị,
điều hành Ngân hàng ngay sau khi hoàn thành giao dịch.
Đổi mới, hoàn thiện cơ cấu quản trị, điều hành, thẩm quyền và phân cấp ủy quyền,
kiểm tra giám sát, quản lý thông tin trong mọi hoạt động, cụ thể: xây dựng quy chế tổ chức
và hoạt động của Hội đồng quản trị NHTM cổ phần BIDV, bảo đảm quyền lực phải được
tập trung vào Hội đồng quản trị một cách nhất quán và đồng bộ trên tất cả các mặt hoạt
động của BIDV. Xây dựng lại các quy chế làm việc đảm bảo tính chuyên nghiệp đồng thời
tách bạch rõ chức năng quản trị của Hội đồng quản trị với chức năng điều hành của Ban
điều hành. Xây dựng cơ chế giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban điều hành bảo đảm
chặt chẽ, lấy hiệu quả kinh doanh là thước đo chủ yếu để đánh giá kết quả hoạt động của
Ban điều hành. Hội đồng quản trị có toàn quyền miễn nhiệm, cách chức hoặc có các biện
pháp xử lý phù hợp đối với Ban điều hành trong trường hợp không hoàn thành các yêu cầu,
nhiệm vụ theo Nghị quyết của Hội đồng quản trị. Xây dựng quy chế, cách thức xử lý công
việc giữa Hội sở chính, các chi nhánh, công ty thành viên vừa đáp ứng yêu cầu quản lý tập
trung đối với các vấn đề cốt lõi của Hội sở chính, tránh trùng lặp, chồng chéo; đồng thời
đảm bảo quyền chủ động của các chi nhánh trong xử lý tác nghiệp hàng ngày; thiết lập một
hệ thống báo cáo thống kê, lưu trữ thông tin quản lý hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu khai thác
và sử dụng hiệu quả kho dữ liệu chung của các đơn vị tại Hội sở chính, tránh việc chi
nhánh phải báo cáo nhiều lần cùng loại thông tin cho nhiều đơn vị tại Hội sở chính.
Thực hiện lựa chọn được ủy viên Hội đồng quản trị độc lập đáp ứng các yêu cầu
của BIDV bảo đảm cơ cấu Hội đồng quản trị có tính “mở”, tăng cường sự minh bạch trong
hoạt động của Hội đồng quản trị và trách nhiệm giải trình của các thành viên Hội đồng quản
trị. Thành lập các Ủy ban giúp việc của Hội đồng quản trị theo thông lệ quản trị doanh
nghiệp nói chung và Điều lệ của NHTM Cổ phần BIDV (Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban
nhân sự, Ủy ban Chiến lược và tổ chức) kèm theo là Quy chế về tổ chức và cơ chế hoạt
động của các Ủy ban này, bảo đảm việc tham mưu, tư vấn cho Hội đồng quản trị trong việc
quyết định các vấn đề quan trọng của Ngân hàng.
Nghiên cứu, đề xuất thành lập Ủy ban Kiểm toán theo thông lệ quốc tế. Thành lập
bộ phận kiểm toán nội bộ thuộc Ban Kiểm soát (do đại hội cổ đông bầu) và xây dựng Quy
chế kiểm toán nội bộ theo đúng yêu cầu tại Thông tư số 44/2011/TT-NHNN. Ban Kiểm
soát (do đại hội cổ đông bầu bầu) phải nhanh chóng tăng cường, bổ sung nhân sự nhằm
bảo đảm cơ cấu, thành phần đủ để triển khai nhiệm vụ, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế,
chế độ nội bộ của Ban Kiểm soát hoạt động nhằm bảo đảm hoạt động thực chất, hiệu quả,
hiệu lực, đảm bảo bảo vệ được quyền lợi của cổ đông.
- Đổi mới cách thức giao và đánh giá kế hoạch kinh doanh hàng năm
Xây dựng lại hệ thống chỉ tiêu trong đó lấy chỉ tiêu lợi nhuận bình quân đầu người
là chỉ tiêu cốt lõi để đánh giá kết quả kinh doanh, tạo sự chủ động cho các đơn vị đăng ký
các nhóm chỉ tiêu quản lý phù hợp để thực hiện được chỉ tiêu cốt lõi.
Xây dựng cơ chế sử dụng kết quả hoàn thành kế hoạch để đánh giá năng lực điều
hành, khả năng tiếp tục giữ chức vụ, vị trí công việc của các cán bộ quản lý điều hành.
- Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động kiểm tra, giám sát và xử lý sai phạm, vi
phạm
Rà soát, đánh giá lại về tính hợp lý trong việc bố trí lực lượng cán bộ kiểm tra của
Hội sở chính, tăng cường tính độc lập cũng như các điều kiện hỗ trợ cho đội ngũ này để có
đủ thẩm quyền xử lý đối với từng cấp trong hệ thống điều hành.
Đổi mới quy trình và phương thức kiểm tra, kiểm soát bao gồm việc kiểm tra định
kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chương trình và công tác tự kiểm tra. Đổi mới việc xử
lý sau khi đã có kết luận về kiểm tra, kiểm soát đảm bảo kịp thời, chính xác, minh bạch, có
tác dụng răn đe cao. Đổi mới việc chấn chỉnh, khắc phục sau thanh tra, kiểm tra, quy định
rõ trách nhiệm của từng cấp trong việc khắc phục.
Có những chế tài cụ thể đối với từng trường hợp chậm khắc phục, để những sai
phạm tương tự tiếp xảy ra. Củng cố, nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ
máy quản trị, điều hành; kiểm soát, kiểm toán nội bộ phù hợp với quy mô hoạt động, mức
độ rủi ro của BIDV. Tăng cường công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ, đặc biệt đối với
việc chấp hành các quy định của Ngân hàng Nhà nước trong hoạt động cấp tín dụng để chủ
động phát hiện và ngăn chặn vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng.
2.2.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường năng lực cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin quản lý; phát triển mạng lưới và thương hiệu để phục vụ tốt nhất
quá trình tái cơ cấu
2.2.5.1. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao từ các cấp quản trị, quản lý
điều hành đến nhân viên tác nghiệp
Cán bô ̣, nhân viên là khâu quyết định hiê ̣u quả kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngân hàng. Kết quả này phụ thuô ̣c rất lớn vào trình đô ̣ chuyên môn, nghiê ̣p vụ, tính
năng đô ̣ng sáng tạo, đạo đức nghề nghiê ̣p, thái đô ̣ phục vụ của cán bô ̣ ngân hàng. Do vậy, để
góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và tạo được hình ảnh thân thiê ̣n
trong lòng khách hàng thì viê ̣c nâng cao chất lượng đô ̣i ngũ cán bô ̣, nhân viên chính là mô ̣t
giải pháp rất quan trọng, có giá trị trong mọi giai đoạn phát triển của BIDV. Thực hiê ̣n giải
pháp này, BIDV nên tập trung trên các phương diê ̣n sau:
Hoàn thiện việc xây dựng hệ thống chức danh, bảng mô tả công việc áp dụng triển
khai trong toàn hệ thống. Hoàn thiện và đổi mới công tác đánh giá nhân sự và sắp xếp nhân
sự (tiêu chí cụ thể, quy trình minh bạch, công khai, gắn trách nhiệm đánh giá nhân sự đối
với người đứng đầu đơn vị).
Phát triển nhanh đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành và nghiệp vụ có chất lượng cao,
đồng thời có chính sách hợp lý để thu hút, sử dụng và quản lý có hiệu quả cán bộ; tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao
ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cán bộ.
Nâng cao điều kiện, tiêu chuẩn về năng lực quản trị, kinh nghiệm công tác và trình
độ chuyên môn đối với chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Xây dựng và hoàn thiện
khung giáo trình đào tạo chuẩn của BIDV, tập trung đào tạo đối với đội ngũ cán bộ quan
hệ khách hàng, quản lý rủi ro; chú trọng đánh giá sau đào tạo gắn với thưởng, phạt. Triển
khai đào tạo chuyên gia trong các lĩnh vực, nghiệp vụ ngân hàng cơ bản.
Xây dựng quy chế về đào thải cán bộ nhân viên nếu không chủ động học hỏi,
luyện rèn kỹ năng để nâng cao tính chuyên nghiệp, không đáp ứng được yêu cầu tại vị trí
công việc được giao. Xây dựng phương án hàng năm loại bỏ lao động của hệ thống nhưng
phải đảm bảo tính thuyết phục, dân chủ, khách quan và có tiêu chí cụ thể.
Đổi mới trong công tác cán bộ từ quy hoạch, bổ nhiệm, đánh giá, luân chuyển, chế
tài xử lý, kỷ luật. Hoàn thiện cơ chế đánh giá và giám sát chặt chẽ đảm bảo có thể quản lý
được rủi ro, có chế tài đủ mạnh để răn đe cũng như xử lý kịp thời, nhanh chóng những vi
phạm của cán bộ. Tổ chức rà soát, đánh giá cán bộ trong toàn hệ thống thông qua việc tổ
chức sát hạch về chuyên môn nghiệp vụ kỹ năng làm việc. Kết quả sát hạch là căn cứ để
đánh giá cán bộ, chi trả lương, thưởng thu nhập và qua đó tạo sức ép và ý thức học tập
nâng cao trình độ đối với cán bộ. Kiểm soát chặt chẽ và nâng cao việc nhận xét, đánh giá
đối với cán bộ khi bổ nhiệm mới và bổ nhiệm lại. Các trường hợp hạn chế về năng lực,
phẩm chất đạo đức, đề nghị kiên quyết không bổ nhiệm lại khi hết thời hạn hoặc cho miễn
nhiệm chức vụ mà không chờ đến hết nhiệm kỳ. Kiên quyết triển khai việc luân chuyển, bố
trí công tác khác đối với các đồng chí lãnh đạo đã giữ vị trí công tác quá lâu (trên 2 nhiệm
kỳ hoặc trên 6 năm) để tránh sức ỳ, lối mòn và sự tập quyền trong chỉ đạo điều hành hoạt
động đơn vị. Kiên quyết miễn nhiệm thủ trưởng các đơn vị thành viên, chi nhánh để xảy ra
kinh doanh thua lỗ chất lượng và hiệu quả kinh doanh sa sút trong 2 năm kế hoạch liên tiếp
(nếu do nguyên nhân chủ quan điều hành kém).
Xây dựng cơ chế mới về tiền lương và thu nhập: đổi mới hình thức thể hiện bảng lương
theo các mức lương cụ thể ứng với vị trí chức danh công việc, không phân phối tiền lương theo hệ
số cơ bản; đổi mới cơ chế phân phối tiền thưởng trên cơ sở kết quả hoàn thành công việc của người
lao động và kết quả xếp hạng của đơn vị, trong đó việc xếp hạng chi nhánh theo quy định riêng của
BIDV.
Xây dựng mô ̣t quy trình tuyển dụng nhân viên khoa học, chính xác và hợp lý nhằm
tuyển dụng được những nhân viên có trình đô ̣ và phù hợp với yêu cầu công viê ̣c. Định kỳ tổ
chức các khoá đào tạo kỹ năng nghiê ̣p vụ chuyên môn cho đô ̣i ngũ cán bô ̣ nhân viên về khả
năng thực hiê ̣n công viê ̣c với kỹ thuật công nghê ̣ hiê ̣n đại, khả năng ứng xử khi tiếp xúc với
khách hàng. Đồng thời, lập kế hoạch cử các cán bô ̣ trẻ có năng lực đi đào tạo chuyên sâu ở
các lĩnh vực kinh doanh chủ chốt, các dịch vụ mới nhằm xây dựng được đội ngũ chuyên
gia giỏi, làm nòng cốt cho nguồn nhân lực trong tương lai.
Tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ chuyên môn, thể thao và các vấn đề xã hội khác.
Qua việc kiểm tra khả năng ứng xử của nhân viên, BIDV có thể mô ̣t mặt khen thưởng để
khích lệ, mặt khác có thể rút ra những yếu kém hiện tại để có thể có biện pháp cải
thiện kịp thời. Từ đó, ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ của BIDV. Đối với những
nhân viên mới lẫn nhân viên cũ, cần làm cho họ hiểu rõ tầm quan trọng của việc thường
xuyên nghiên cứu, học tập để cập nhật những kiến thức về chuyên môn và những
kiến thức xã hô ̣i, gắn lý luận với thực tiễn để có thể vận dụng mô ̣t cách linh hoạt, sáng
tạo và có hiệu quả.
Trong chính sách đãi ngô ̣ cán bô ̣ cần chú trọng đến trình đô ̣, năng lực của cán bô ̣ và
có chính sách thoả đáng đối với những cán bộ có trình đô ̣ chuyên môn cao, có nhiều đóng
góp cho ngân hàng.
Đổi mới phong cách giao dịch, thể hiện sự văn minh lịch sự của cán bô ̣ nhân
viên đối với khách hàng. Có cơ chế khuyến khích vật chất đối với cán bô ̣ trong ngân hàng
như: cần thiết có chế đô ̣ lương, thưởng khác nhau đối với những nhiê ̣m vụ quan trọng khác
nhau để khuyến khích sự làm viê ̣c của đô ̣i đô ̣i ngũ cán bô ̣ ngân hàng. Nâng cao tính kỷ
cương, kỷ luật của cán bô ̣ và nhân viên trong ngân hàng.
Nâng cao khả năng giao tiếp của cán bộ giao dịch ngân hàng khi tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng. Trong hoạt đô ̣ng kinh doanh ngân hàng, nếu như chất lượng dịch vụ
là mục tiêu quan trọng mà mỗi ngân hàng hướng tới, thì khả năng giao tiếp chính là những
công cụ đưa sản phẩm đó đến với khách hàng. Kỹ năng giao tiếp của cán bô ̣ giao dịch là
mô ̣t trong những yếu tố quan trọng tạo ấn tượng tốt đẹp, sự tin tưởng nhất định của khách
hàng đối với ngân hàng, quyết định đến việc họ trở thành khách hàng của ngân hàng. Như
vậy, giao tiếp của cán bô ̣ ngân hàng tác đô ̣ng trực tiếp đến tiến trình quyết định sử dụng
sản phẩm dịch vụ của khách hàng và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt đô ̣ng kinh doanh
của ngân hàng. Chính vì vậy, nâng cao khả năng giao tiếp của cán bô ̣ giao dịch là mô ̣t việc
cần phải thực hiện.
Để làm được việc này, cán bô ̣ giao dịch của BIDV phải hiểu rằng khi tiếp xúc
với khách hàng ngoài việc nắm vững chuyên môn còn cần thực hiện tốt các nguyên tắc
sau:
Một là, nguyên tắc tôn trọng khách hàng. Tôn trọng khách hàng thể hiện ở việc
cán bô ̣ giao dịch biết cách cư xử công bằng, bình đẳng giữa các loại khách hàng. Tôn
trọng khách hàng còn biểu hiện ở việc cán bô ̣ giao dịch biết lắng nghe ý kiến phản hồi của
khách hàng, biết khắc phục, ứng xử khéo léo, linh hoạt và làm hài lòng khách hàng; biết cách
sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, có văn hoá, trang phục gọn gàng, đúng quy định của ngân hàng,
đón tiếp khách hàng với thái đô ̣ tươi cười, niềm nở, nhiê ̣t tình, thân thiê ̣n và thoải mái…
Hai là, nguyên tắc giao dịch viên góp phần tạo nên và duy trì sự khác biệt về sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng. Sự khác biệt không chỉ ở chất lượng của dịch vụ mà còn
biểu hiện ở nét văn hoá trong phục vụ khách hàng của cán bô ̣ giao dịch, làm cho khách
hàng thấy thoải mái, hài lòng và nhận thấy sự khác biệt đó để lựa chọn khi sử dụng dịch vụ
của ngân hàng.
Ba là, nguyên tắc biết lắng nghe hiệu quả và biết cách nói. Cán bô ̣ giao dịch khi
tiếp xúc trực tiếp với khách hàng phải biết hướng về phía khách hàng, luôn nhìn vào mắt
họ và biết mỉm cười đúng lúc. Khi khách hàng đang nói, cán bô ̣ giao dịch cần bày tỏ sự
chú ý và không nên ngắt lời trừ khi muốn làm rõ mô ̣t vấn đề nào đó. Cán bô ̣ giao dịch
cần khuyến khích khách hàng chia sẻ những mong muốn của họ về loại sản phẩm mà họ
đang sử dụng, biết kiềm chế cảm xúc, biết sử dụng ngôn ngữ trong sáng dễ hiểu và bình
tĩnh giải quyết các tình huống khi gặp sự phản ứng của khách hàng; biết lắng nghe, tiếp
nhận thông tin phản hồi từ khách hàng để việc trao đổi tiếp nhận thông tin mang tính hai
chiều, giúp cho cán bô ̣ giao dịch nắm bắt thông tin kịp thời, tư vấn cho lãnh đạo cấp trên
đưa ra những cải tiến về các sản phẩm dịch vụ cũng như giảm bớt thủ tục hành chính
không cần thiết trong giao dịch.
Bốn là, nguyên tắc trung thực trong giao dịch với khách hàng. Mỗi cán bô ̣ giao
dịch cần hướng dẫn cẩn thận, tỉ mỉ, nhiệt tình và trung thực cho khách hàng những thủ
tục hành chính đúng với quy định của ngân hàng; quyền lợi và trách nhiệm của khách
hàng khi sử dụng loại hình dịch vụ đó. Trung thực còn biểu hiện ở việc thẩm định đúng
thực trạng hồ sơ khách hàng, không có bất cứ đòi hỏi và yêu cầu nào với khách hàng để
vụ lợi.
Năm là, nguyên tắc kiên nhẫn, biết chờ đợi và tìm điểm tương đồng, mối quan tâm
chung để cung cấp dịch vụ, hợp tác hai bên cùng có lợi. Trong quá trình tiếp xúc trực tiếp,
cán bô ̣ giao dịch cần biết chờ đợi, biết chọn điểm dừng, biết tạo ấn tượng để khách hàng sử
dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mình, hiểu được tâm lý, nhu cầu của khách hàng,
tư vấn cho khách hàng về lợi ích khi họ sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Sáu là, nguyên tắc gây dựng niềm tin và duy trì mối quan hê ̣ lâu dài với khách hàng. Trên
thực tế, nếu muốn gây dựng niềm tin bền vững, muốn duy trì mối quan hê ̣ với khách hàng lâu dài
thì cán bô ̣ giao dịch nên hiểu rằng: viê ̣c khách hàng chấp nhận sử dụng các sản phẩm dịch vụ của
ngân hàng mới chỉ là bắt đầu cho mô ̣t chiến lược tiếp cận làm hài lòng khách hàng , mà còn phải
thông qua các dịch vụ chăm sóc khách hàng sau khi giao dịch được thực hiê ̣n.
2.2.5.2. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin quản lý
Mục tiêu là nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin; xây dựng hệ thống
công nghệ thông tin hiện đại phục vụ việc phát triển kinh doanh dịch vụ; xây dựng hệ thống hỗ
trợ tốt cho hoạt động quản trị; xây dựng hệ thống công nghệ thông tin cho các đơn vị thành
viên, hỗ trợ các công ty thành viên của BIDV triển khai các hệ thống công nghệ thông tin cốt
lõi. Để phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, BIDV cần tập trung thực hiện các biện
pháp sau:
- Tập trung hoàn thành các dự án trọng điểm: Nâng cấp ngân hàng cốt lõi; thực
hiện dự án phòng chống rửa tiền (profiling); mua sắm hệ thống thông tin quản lý (MIS); tư vấn
xây dựng hệ thống phân bổ thu nhập chi phí, thiết kế Trung tâm dữ liệu mới. Triển khai mở rộng
hệ thống bảo mật. Xây dựng hệ thống phần mềm tích hợp các ứng dụng tin học trong quản lý
thông tin, tài sản, giao dịch, quản trị rủi ro … phục vụ cho nhu cầu liên lạc, chăm sóc khách
hàng, bán hàng qua điện thoại giữa doanh nghiệp và khách hàng, thị trường trong hệ thống ngân
hàng (Contact Center), xây dựng Hệ thống quản lý thông tin quan hệ khách hàng (CRM), quản
lý chi nhánh tập trung (Thay thế hệ thống BDS hiện tại và giảm thiểu các rủi ro tại Chi nhánh).
Nâng cấp, mua hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tác nghiệp. Trang bị hệ thống
công nghệ quản lý rủi ro thị trường; hệ thống quản lý tri thức ; thực hiện cổng thông tin điện tử.
- Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin cho các đơn vị thành viên, hỗ trợ các công ty thành
viên của BIDV triển khai các hệ thống công nghệ thông tin cốt lõi
Thực hiện dự án xây dựng, mua sắm và triển khai hệ thống lõi của Công ty chứng
khoán BIDV. Đầu tư trọn gói cho hệ thống công nghệ thông tin của Công ty Cho thuê Tài
chính BIDV. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phần mềm ứng dụng tại Công ty bảo hiểm
BIDV.
- Xây dựng cơ chế động lực, quản lý giám sát hoạt động các điểm mạng lưới
Thay đổi mạnh mẽ về quan điểm chỉ đạo đối với khối phòng giao dịch: cần thiết có
sự xem xét, thay đổi quan điểm về vị trí pháp lý và địa vị của phòng giao dịch; thí điểm
chọn các phòng giao dịch lớn được trang bị Hệ thống quản lý thông tin khách hàng (BDS)
là bán hàng, thực hiện mô hình là chi nhánh bán lẻ thuộc trụ sở chính. Thực hiện triển khai
chương trình phần mềm chiết xuất số liệu các đơn vị trực thuộc (phòng giao dịch/quĩ tiết
kiệm) đảm bảo kiểm soát tốt hoạt động các phòng giao dịch từ chi nhánh và Hội sở chính.
Hội sở chính cũng cần xây dựng các chương trình phần mềm khác để đánh giá được chính
xác kết quả hoạt động của cán bộ tại chi nhánh theo từng mặt nghiệp vụ làm cơ sở đánh giá
và áp dụng cơ chế thu nhập phù hợp. Hoạt động của các phòng giao dịch thống nhất theo
nguyên tắc phục vụ hoạt động huy động vốn; phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, thực
hiện xếp hạng phòng giao dịch hàng năm và gắn cơ chế phân phối thu nhập với
2.2.5.3. Phát triển mạng lưới
- Xây dựng các cơ chế động lực nhằm thúc đẩy hoạt động của mạng lưới phòng
giao dịch
Phát triển hệ thống mạng lưới để phục vụ hữu hiệu cho công tác huy động vốn,
phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ của BIDV, định hạng của phòng giao dịch, qua đó
khuyến khích, nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới phòng giao dịch. Xây dựng các
cơ chế động lực nhằm thúc đẩy hoạt động của mạng lưới phòng giao dịch như cơ chế quản
lý giám sát, cơ chế lương, cơ chế động lực bán lẻ, chỉ khi đó thì hiệu quả hoạt động gắn với
thu nhập sẽ tạo ra sự công bằng, tạo động lực hoạt động tại các điểm mạng lưới.
- Sắp xếp lại mạng lưới hoạt động cho phù hợp và hiệu quả
Đối với mạng lưới chi nhánh: nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua cơ chế phân
phối tiền lương và đưa ra các chế tài đủ mạnh đối với cấp điều hành chi nhánh.
Đối với mạng lưới phòng giao dịch, thực hiện nguyên tắc phát triển mạng lưới phục
vụ huy động vốn, phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt
động của các phòng giao dịch, đề xuất xây dựng mô hình phòng giao dịch, củng cố và phát
triển hệ thống phòng giao dịch gồm 3 loại: phòng giao dịch quy mô lớn sẽ trở thành chi
nhánh bán lẻ; phòng giao dịch hỗn hợp định hướng bán lẻ; phòng giao dịch quy mô nhỏ -
hạn chế chức năng cho vay - chính là nâng cấp từ mô hình quĩ tiết kiệm, phù hợp với quan
điểm của NHNN Việt Nam về phát triển mạng lưới, bỏ mô hình quĩ tiết kiệm trong hệ
thống mạng lưới của NHTM.
Đối với các quĩ tiết kiệm: tiến hành khảo sát, đánh giá phân loại đối với những quĩ
tiết kiệm có điều kiện nâng cấp có thể nâng cấp (thí điểm mô hình phòng giao dịch 2 cấp
như Ngân hàng Công thương đang thực hiện hoặc mô phòng giao dịch hạn chế cho vay).
Những quĩ tiết kiệm tại những khu vực không phát triển hoạt động kém hiệu quả có thể
xem xét chấm dứt hoạt động.
Đối với mạng lưới Cây rút tiền tự động (ATM): quy hoạch lại mạng lưới Cây rút
tiền tự động (ATM), bố trí sắp xếp lại mạng lưới Cây rút tiền tự động (ATM) tại các
tỉnh/thành phố lớn theo hướng gom lại thành ngân hàng tự động (Autobank) để tăng cường
quảng bá, giảm tải tác nghiệp ngân hàng như: kiểm quỹ, chăm sóc vệ sinh, hình ảnh, bảo
đảm an ninh, an toàn kho quỹ và tài sản của ngân hàng, khách hàng giao dịch.
Từ năm 2010, quan điểm quản lý của NHNN là hạn chế mở rộng mạng lưới của các
NHTM, do vậy không nên đề cập đến việc cắt giảm số lượng các điểm mạng lưới. Giải
pháp chung là cần phải sắp xếp lại mạng lưới hoạt động cho hiệu quả và phù hợp. Một số
giải pháp đồng bộ như sau: chuyển địa điểm; thay đổi nhân sự lãnh đạo; xây dựng cơ chế
động lực khuyến khích hoạt động của các điểm mạng lưới; xây dựng cơ chế thưởng/phạt
trong công tác phát triển mạng lưới.
- Phát triển mạng lưới một cách linh hoạt phù hợp với những thay đổi trong chính
sách quản lý mạng lưới của NHNN
Tập trung mở mạng lưới kênh phân phối truyền thống tại hai khu vực trọng điểm Phía
Bắc, Phía Nam (đặc biệt là TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) để mở rộng số lượng điểm mạng
lưới hiện có. Trong điều kiện NHNN hạn chế việc mở mạng lưới truyền thống, tập trung phát
triển các kênh phân phối hiện đại, mở rộng mạng lưới đội ngũ bán hàng (sale) tại nhà (đã được
các Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng nước ngoài phát triển mạnh trong thời gian gần đây).
Phát triển mạng lưới NHTM cổ phần BIDV thông qua mua lại/chuyển giao các chi
nhánh Ngân hàng liên doanh Lào – Việt (LVB), Ngân hàng liên doanh Việt – Nga (VRB).
Nghiên cứu phát triển mạng lưới kinh doanh tại các thị trường: Lào, Campuchia, Mianma, Trung
quốc, Hồng Kông, Séc... do đây là các nước mà trong những năm qua BIDV đã có bước đầu tiếp
cận thâm nhập thi trường.
2.2.4.4. Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông và phát triển thương hiệu
Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, phát triển thương hiệu nhằm tạo dựng hình
ảnh BIDV phù hợp với quy mô, vị thế, mạng lưới, khả năng nhận diện cao và có sức thu hút
đối với khách hàng, các cổ đông hiện tại và tương lai. Công tác truyền thông, quảng bá thương
hiệu hỗ trợ tối đa cho mục tiêu mở rộng khách hàng, tạo ra ngày càng nhiều doanh thu phù hợp
với sự phát triển, mở rộng của mạng lưới. Nâng cao hiệu quả của truyền thông nội bộ, đảm bảo
mọi thông điệp quản trị được truyền tải nhanh chóng, đầy đủ, chính xác đến từng cán bộ nhân
viên để quán triệt, thực hiện đúng đắn, kịp thời nhất chủ trương, định hướng phát triển của toàn
hệ thống. Để nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, phát triển thương hiệu BIDV cần thực
hiện tốt các biện pháp sau:
Thuê tư vấn chuyên nghiệp xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu trong dài
hạn cho BIDV; xây dựng được những giá trị cốt lõi của thương hiệu làm cơ sở cho công
tác truyền thông; tác định cấu trúc thương hiệu.
Tiếp tục cập nhật, hoàn thiện Cẩm nang nhận diện Thương hiệu BIDV phiên bản
mới với tên gọi “Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam” bao gồm đầy đủ các
cấu phần làm cơ sở để thực hiện và tổ chức triển khai đồng bộ trên toàn hệ thống công tác
nhận diện Thương hiệu. Xây dựng chế tài cụ thể trong việc áp dụng qui định chung về
nhận diện thương hiệu của BIDV, cơ chế phối hợp trong thực hiện hoạt động truyền thông;
thiết kế, sản xuất các ấn phẩm truyền thông, quảng cáo…
Tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả của từng chiến dịch truyền thông, kênh
truyền thông để có sự lựa chọn đúng đắn và xây dựng kế hoạch truyền thông; từng bước
hoàn thiện hệ thống đo lường hiệu quả công tác truyền thông quảng cáo; gắn hoạt động
truyền thông quảng cáo với kết quả hoặc trong từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh…
Xác định mô hình quản trị phát triển thương hiệu và truyền thông của cả BIDV để
thực hiện các chức năng hoạch định, tổ chức thực hiện và chức năng kiểm tra giá sát. Hoàn
thiện bộ máy tổ chức và hoạt động từ Hội sở đến các đơn vị thành viên để tổ chức thực
hiện nhiệm vụ truyền thông, phát triển Thương hiệu.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp gắn với phát triển truyền thông nội bộ để phát huy
sức mạnh của sự đồng thuận, đồng lòng trong tập thể đội ngũ cán bộ công nhân viên
BIDV. Thông qua đó, gia tăng uy tín và năng lực cạnh tranh của Thương hiệu BIDV.
*
* *
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc cơ cấu lại BIDV và những vấn đề đặt ra
cần phải giải quyết trong tái cơ cấu lại BIDV ở chương 1, chương 2 luận văn luận án
đã đề xuất 3 quan điểm và 5 nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy tái cơ cấu BIDV trong
thời gian tới.
Các quan điểm mang tính chỉ đạo, bao gồm: Cơ cấu lại BIDV là một quá trình
thường xuyên, liên tục nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển thị trường tài chính tiền
tệ, nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới; Tái cơ cơ cấu toàn diện BIDV, có lộ trình,
bước đi phù hợp, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ của các
bên có liên quan đến công ty; Tăng cường sự lãnh đạo cuả các cấp ủy đảng, sự điều
hành của Chính quyền, phát huy vai trò trách nhiệm của toàn th ể cán bộ, nhân viên trong
BIDV trong tái cơ cấu.
Các giải pháp là một hệ thống toàn diện, đồng bộ, bao gồm: giải pháp về nâng
cao nhận thức, thống nhất về tư tưởng; giải pháp hoàn thiện kế hoạch tái cơ cấu; giải
pháp hoàn thiện cơ chế chính sách; giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ; giải pháp về nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp trên chắc chắn sẽ nâng cao được hiệu quả
tái cơ cấu BIDV trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
BIDV là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng
công ty Nhà nước (tập đoàn), là một trong 4 Ngân hàng thương mại nhà nước lớn. Trong
những năm qua, BIDV đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần quyết định đến sự
phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Cơ cấu lại BIDV để nó phát
triển vững mạnh, phát triển ổn định vững chắc phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là vấn đề được Đảng
và Nhà nước quan tâm. Chính vì vậy, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương chính sách và biện pháp cụ thể nhằm củng cố tăng cường sức mạnh cho các doanh
nghiệp nhà nước, đặc biệt là đối với các tổ chức tín dụng và hệ thống các Ngân hàng
thương mại nhà nước trong đó có BIDV.
Cơ cấu lại BIDV là yêu cầu khách quan và cấp thiết ở nước ta hiện nay nhằm đảm
bảo cho BIDV thực hiện tốt vai trò chức năng của mình trong nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu
lại BIDV là gải pháp mang tính chiến lược nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta về sắp xếp đổi mới phát triển nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu lại BIDV là vấn đề lớn hết sức nhạy
cảm, không chỉ động chạm nhiều đến thị trường tài chính tiền tệ, tác động lớn đến những vấn
đề kinh tế - xã hội mà còn tác động đến việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đến ổn
định chính trị, an ninh quốc phòng ở nước ta hiện nay.
Cơ cấu lại BIDV làm thay đổi hệ thống Ngân hàng thương mại nhà nước mang lại
sức sống mới cho thị trường tài chính tiền tệ, nền kinh tế nước ta, nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Trên cơ sở đó góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ, tiềm lực
quốc phòng - an ninh, giữ vững độc lập chủ quyền. Do vậy, cơ cấu lại BIDV là công việc
đòi hỏi phải kết hợp những hình thức, bước đi phù hợp với thực tiễn thị trường tài chính
tiền tệ, nền kinh tế đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Để thúc đẩy quá trình
cơ cấu lại BIDV phát huy những tác động tích cực, hạn chế khắc phục những tác động tiêu
cực của quá trình cơ cấu lại BIDV tác giả đề xuất ba quan điểm và năm nhóm giải pháp.
Các quan điểm, giải pháp này thể hiện một cách toàn diện, đồng bộ vừa mang tính định
hướng, vừa là những khuyến nghị trên cả bình diện vĩ mô và vi mô. Vì vậy những quan
điểm, giải pháp này cần được vận dụng một cách phù hợp với từng tiến trình, giai đoạn cơ
cấu lại BIDV.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BIDV, Báo cáo sau cổ phần hóa tháng 3/2013 BIDV.
2. BIDV, Đề án Chiến lược kinh doanh giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2020.
3. Bộ ngoại giao (2002), Việt nam hội nhập kinh tế trong xu hướng toàn cầu hoá vấn
đề và giải pháp, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
4. Chính phủ (2002), Nghị định của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối
với DNNN, (69/2002/NĐ – CP).
5. David cox, biên dịch (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia.
6. Đại học kinh tế quốc dân (2001), Biên dịch Peter S.Rose, Quản trị ngân hàng
thương mại, Nhà xuất bản tài chính.
7. Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015”. Website:
www.sbv.gov.vn .
8. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ.
9. Luật các Tổ chức tín dụng (1997) và các văn bản hướng dẫn từ năm 2002-2005, Ngân
hàng nhà nước Việt nam.
10. Luật Ngân hàng nhà nước (1997), Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
11. Nguyễn Đắc Hưng (2005), “Kinh nghiệm tái cơ cấu lại các NHTM NN của Trung
Quốc và một số đề xuất đối với Việt nam”, Tài liệu Hội thảo Tái cơ cấu
NHTM NN.
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2000), Quyết định của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước ban hành về việc phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, (488/2000/QĐ-
NHNN).
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước ban hành về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, (493/2005/
QĐ- NHNN).
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản trực thuộc NHTM, (1990/2001/QĐ- NHNN).
15. Ngân hàng Ngoại thương (2003), “Thực tiễn hoạt động xử lý nợ tồn đọng tại
Ngân hàng ngoại thương Việt nam”; “Giải pháp xử lý nợ xấu trong quá trình
tái cơ cấu NHTM VN”, Tài liệu hội thảo, NHNN VN.
16. Ngân hàng Nhà nước (2005), Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng đến năm 2010 và tầm
nhìn 2020, (kỷ yếu hội thảo khoa học), Nhà xuất bản Phương đông
17. Ngân hàng Nhà nước, Những kinh nghiệm tốt nhất về tái cấu trúc ngân hàng, Tp
Hồ Chí Minh.
18. Ngân hàng Nhà nước (2006), Tài liệu hội thảo cải cách Ngân hàng Nhà nước,
tháng 3- Hà nội.
19. Bản công bố thông tin bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng BIDV 2012.
20. Đỗ Tất Ngọc, Đổi mới tổ chức hoạt động của NHTM để phát triển và hội nhập
quốc tế, Tài liệu hội thảo năm 2003, “Những thách thức của Ng©n hµng
thương mại Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế”, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam.
21. Tô kim Ngọc (2004), “Tuân thủ yêu cầu của Basel 1 tiêu chuẩn đo lường khả năng hội
nhập của hệ thống NHTM Nhà nước”, Tạp chí ngân hàng, số 11/2004.
22. Lê Xuân Nghĩa, “Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngân hàng thương mại nhà nước
theo đề án”, Tạp chí tài chính, số tháng 8/2004.
23. Lê Xuân Nghĩa, “Một số vấn đề về chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt
nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, Tài liệu hội thảo khoa học
về Vai trò của hệ thống ngân hàng trong 20 năm đổi mới ở Việt nam. Tháng
1/2006 – Hà nội.
24. Phạm Chí Quang (2000), “Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng giai đoạn hiện
nay”, Tạp chí NH, số 6.
25. Peter S.Rose (2001), Quản trị Ngân hàng thương mại, Đại học kinh tế quốc dân,
Nhà xuất bản tài chính.
26. Hoàng Xuân Quế (2002), Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương, Nhà xuất bản thống
kê.
27. Tạp chí Ngân hàng (2003, 2004, 2005, 2006).
28. Bùi Thị Thuỷ, Phan Thị Diệu Hương, “Kinh nghiệm tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng thương mại một số nước Đông Nam á”, Tài liệu hội thảo tái cơ cấu các
NHTM NN, NHNN VN. Hà nội 2005.
29. Viện thông tin Khoa học xã hội (2002), Những thách thức của sự phát triển trong
xã hội thông tin, Nhà xuất bản khoa học xã hội.
30. Vũ Duy Tín, “Một số vấn đề về xây dựng mô hình quản trị rủi ro hiệu quả tại
các NHTM Việt Nam”, Tạp chí NH. số 18/2006.
31. Trang Web: w
32. ww sbv.gov.vn, Vấn đề xử lý nợ tồn đọng của các NHTM.
33. Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng (2003), Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến
trình tái cơ cấu các NHTM Việt nam, (kỷ yếu hội thảo). Nhà xuất bản thống
kê Hà nội.
Websites:
1. www.bidv.com.vn
2. www.sbv.gov.vn
3. www.vneconomy.com.vn
4. www.vietcombank.com.vn
5. www.tintucvietnam.com
6. www.vtv.vn
7. www.vnexpress.net
8. www.vietnamnet.vn
9. www.tiasang.com.vn
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Qui mô, hiệu quả, chất lượng của BIDV so với một số NHTM
BIỂU 1
Cơ cấu thu nhập của một số NHTM năm 2012
(Theo báo cáo sau cổ phần hóa BIDV tháng 3/2013)
Chỉ tiêu BIDV (%) CTG (%) VCB (%) ACB (%) STB (%) EIB (%) MB (%)
Trung bình toàn ngành
85 101 74,2 82 90 87,9 90 87
1/Thu nhập ròng từ lãi
9 13 16,5 14 5 6,2 10,4 15
2/ Thu nhập ròng từ dịch vụ
-1,4 -2 2,6 2 2 7,9 -2,1 3
3/ Thu nhập ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
-2,7 -2 0 -8 0,11 0 -1,6 -3
4/ Thu nhập từ hoạt động mua bán chứng khoán
0,9 -11 1,7 0,75 1 7 3,4 -4
5/ Thu nhập từ hoạt động đầu tư, góp vốn
6/ Thu nhập khác
5 2 3,9 -8,7 0,3 6,4 7 4,9
BIỂU 2
Số lượng điểm mạng lưới của một số ngân hàng đến 31/12/2012
(Theo báo cáo sau cổ phần hóa BIDV tháng 3/2013)
Toàn hệ thống Hà Nội TP HCM
Ngân hàng Tổng số
CN PGD
CN
CN
QT K
Tổng số
PG D
QT K
Tổng số
QT K
PG D
2.280
921
1.359
304
34
270
204
48
156
AGB
1.085
159
879
47
202
20
159
123
21
23
98
4
ICB
377
79
298
68
9
59
78
12
66
VCB
646
118
379
149
152
20
89
65
12
43
52
1
BIDV
BIỂU 3
Bảng qui mô hiệu quả hoạt động mạng lưới của một số NHTM
(Theo báo cáo sau cổ phần hóa BIDV tháng 3/2013)
Điểm mạng lưới 31/12/2012
Số liệu bq/ điểm mạng lưới
Ngân hàng
Tổng
CN
PGD
QTK
ATM
Dư nợ
Tổng tài sản
Huy động vốn
Dịch vụ ròng
Lợi nhuận trước thuế
2.280
921
1.359
2.100
238
222
194,5
0,64
2,5
AGB
1.085
159
879
47
1.829
424
279
291
1.382
7,5
CTG
646
118
379
149
1.295
653
444
427
3,266
6,6
BIDV
377
79
298
1.626
979
609
557
2,86
15,1
VCB
322
76
246
442
866
444
316
1,62
13
ACB
399
71
327
684
351
187
197
0,67
5,1
Sacombank
8.694
2.296
5.759
639
12.811
Tổng
Phụ lục 2
Mô hình tổ chức của Ngân hàng đơn giản, hiện đại và Mô hình tổ chức của BIDV hiện tại
C¸c thµnh viªn qu¶n lý cao cÊp (bao gåm Sơ đồ1.1: Mô hình tổ chức của NHTM đơn giản Chñ tÞch Héi ®ång qu¶n trÞ vµ Tæng gi¸m ®èc)
Bé phËn cho vay Bé phËn tÝn kh¸c Bé phËn giao dÞch vµ kÕ to¸n Bé phËn marketing vµ huy ®éng vèn
Nh©n viªn
Phßng kÕ to¸n vµ kiÓm to¸n TÝn kh¸c c¸ nh©n Nh©n viªn tÝn dông th ¬ng m¹i giao dÞch
C¸c tµi kho¶n míi
TÝn kh¸c
Nh©n viªn tÝn dông tiªu dïng
c«ng ty
Qu¶ng c¸o vµ lªn kÕ ho¹ch
C¸c giao dÞch (bï trõ sÐc, th«ng b¸o tµi kho¶n vµ tr¶ lêi th¾c m¾c)
Héi ®ång qu¶n trÞ: Ban ®iÒu hµnh cao cÊp – Chñ tÞch héi ®ång qu¶n trÞ, tæng gi¸m ®èc hoÆc c¸n bé ®iÒu hµnh cao cÊp vµ c¸c phã tæng gi¸m ®èc cao cÊp
Bé phËn sö dông vèn
Bé phËn cung cÊp dÞch vô tµi chÝnh c¸ nh©n Bé dÞch vô ng©n hµng c¸c nh©n
Sơ đồ 1.2: Mô hình tổ chức của NHTM hiện đại
Bé phËn qu¶n lý vèn vµ huy ®éng vèn Nhãm tµi trî vµ ®Çu t
DÞch vô tÝn kh¸c
Nhãm cung cÊp dÞch vô tµi chÝnh th ¬ng m¹i Phßng tÝn dông th ¬ng m¹i
Bé phËn theo dâi thÞ tr êng tiÒn tÖ vµ qu¶n lý danh môc ®Çu t Phßng ph¸p chÕ ng©n hµng
Phßng thÞ tr êng vèn Qu¶n lý tµi s¶n/nî
Phßng bÊt ®éng s¶n th ¬ng m¹i Phßng doanh nghiÖp Phßng thÎ tÝn dông
Phßng kÕ ho¹ch
Nhãm c¸c ng©n hµng thµnh viªn
Nhãm kiÓm tra c¸c kho¶n vay
Phßng dÞch vô chuyªn nghiÖp vµ ®iÒu hµnh Phßng cho vay mua nhµ Phßng dÞch vô kh¸ch hµng Phßng tiÒn göi an toµn Nhãm dÞch vô t vÊn Phßng ng©n hµng di ®éng Phßng marketing
Nhãm t¹o lËp c¸c kho¶n cho vay
Phßng giao dÞch
Phßng ng©n hµng quèc tÕ
Nhãm v¨n phßng n íc ngoµi
Tµi trî th ¬ng m¹i
Cho vay ®a quèc gia
Phßng kiÓm so¸t vµ kiÓm to¸n Phßng qu¶n lý chi nh¸nh Phßng nh©n lùc Phßng thanh to¸n Phßng chøng kho¸n Nhãm ph¸p chÕ
Sơ đồ1.3 Mô hình tổ chức của BIDV tại Hội sở chính
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, CÁC ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Các Ban
1. Ban Kiểm soát 2. Ủy ban nhân sự 3. Ủy ban chiến lược Các Hội đồng: 1.Hội đồng xử lý rủi ro; 2.Hội đồng Quản lý tín dụng; 3.Hội đồng Thi đua khen thưởng; 4.Hội đồng Công nghệ thông tin;
BAN ĐIỀU HÀNH TỔNG GIÁM ĐỐC, CÁC PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC, KẾ TOÁN TRƯỞNG
1.Hội đồng ALCO 3.Hội đồng bán nợ hoạch toán ngoại bảng 2.Hội đồng tín dụng
V. Khối Tài chính kế toán: Gồm 03 đơn vị: 1. Ban Kế toán 2. Ban Tài chính 3. Ban Thông tin quản lý và Hỗ trợ ALCO
I. Khối Ngân hàng bán buôn: Gồm 04 đơn vị: 1.Ban Định chế tài chính 2.Ban Khách hàng doanh nghiệp 3.Ban Phát triển sản phẩm và tài trợ thương mại 4.Ban Đầu tư
VI. Khối Tác nghiệp: Gồm 03 đơn vị: 1. Trung tâm Dịch vụ khách hàng 2. Trung tâm Tác nghiệp tài trợ thương mại 3. Trung tâm Thanh toán
II. Khối Ngân hàng bán lẻ và mạng lưới: Gồm 03 đơn vị: 1. Ban Phát triển ngân hàng bán lẻ 2. Ban quản lý Chi nhánh 3. Trung tâm Thẻ
III. Khối vốn và kinh doanh vốn: Gồm 01 đơn vị: 1. Ban vốn và kinh doanh vốn
IV. Khối Quản lý rủi ro: Gồm 03 đơn vị: 1. Ban Quản lý rủi ro thị trường và tác nghiệp 2. Ban Quản lý rủi ro tín dụng 3. Ban Quản lý tín dụng
VII. Khối Hỗ trợ: Gồm 13 đơn vị: 1. Ban Công nghệ 2. Ban Kế hoạch phát triển 3. Ban Pháp chế 4. Ban Quản lý dự án khu vực phía Bắc 5. Ban Quản lý dự án khu vực phía Nam 6. Ban Quản lý tài sản nội ngành 7. Ban Thương hiệu và quan hệ công chúng 8. Ban Tổ chức cán bộ 9. Văn phòng 10. Văn phòng Công đoàn 11. Văn phòng Đảng ủy. 12.Trung tâm Công nghệ thông tin 13.Trung tâm đào tạo
Sơ đồ1.4 Mô hình tổ chức của BIDV
NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Khối Công ty con : 1.Công ty Cho thuê tài chính 2.Công ty BAMC 3.Công ty TNHH quốc tế BIDV 4.Tổng công ty bảo hiểm BIC Công ty chứng khoán BSC Khối Ngân hàng: 1. Các Chi nhánh/Sở giao dịch 2. Các văn phòng đại diện 3. Trung tâm Công nghệ thông tin 4.Trung tâm đào tạo
Khối liên doanh
Khối góp vốn:
1.Công ty cổ phần đường cao tốc
2.Công ty cho thuê máy bay
1.Ngân hàng liên doanh VIP 2.Ngân hàng liên doanh Lào – Việt 3.Ngân hàng liên doanh Việt – Nga 4.Công ty liên doanh tháp BIDV 5.Công ty liên doanh quản lý đầu tư - BVIM
Sơ đồ1.5 Mô hình tổ chức của BIDV tại Chi nhánh
BAN GIÁM ĐỐC GIÁM ĐỐC, CÁC PHÓ GIÁM ĐỐC
Khối Quan hệ khách hàng: Phòng QKHH 1,2,3,4, cá nhân
Khối trực thuộc: Các phòng Giao dịch, Quĩ tiết kiệm Khối Quản lý nội bộ: Phòng TCKT, TCHC, KHTH, Điện toán
Khối Quản lý rủi ro:
GDKH DN, Phòng QTTD, GDKHCN, Quản lý Kho quĩ, TTQT
Ghi chú
Loại hình
Số lượng
Số TT
Biểu: Hệ thống các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam đến hết năm 2012
1
Ngân hàng TMNN
5
AGB, BIDV, CTG, VCB, MHB
2
Ngân hàng Chính sách
1
3 Quĩ tín dụng Nhân dân TƯ
1
4
Ngân hàng TMCP
37
5
Ngân hàng Liên doanh
5
6
Ngân hàng 100% vốn cổ phần
5
7
Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
48
8
47
Văn phòng đại diện Ngân hàng nước ngoài
9
Công ty tài chính
16
10 Công ty cho thuê tài chính
13
Phụ lục 3
Số lượng chất lượng cán bộ BIDV đến 31/12/2013
Số
Chỉ tiêu
Số lượng
Ghi chú
TT
1
Tổng số
18.000
2
Chuyên môn nghiệp vụ
-Trên Đại học
1.699
-Đại học, Cao đẳng
14.313
-Trung cấp, chưa qua đào tạo
1.988
3
Ngoại ngữ
14.991
-Cử nhân
1.132
-Trình độ C
9.867
Trình độ B
3.992
4
Tuổi đời bình quân
32
5
13.001
Trực tiếp làm chuyên môn nghiệp vụ Ngân hàng
6
1.900
Làm việc tại đơn vị liên doanh, công ty cổ phần trực thuộc
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2012 của BIDV