ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PGS.TS ĐỖ HỒNG THÁI
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN
DẠY HỌC TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Sản phẩm của đề tài Khoa học và công nghệ cấp Bộ trọng điểm
Mã số: B2010-TN03-30TĐ)
1
Thái Nguyên, 2011
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Đề tài Khoa học và công nghệ cấp Bộ trọng điểm
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC DẠY HỌC TÍCH HỢP CHO
GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Mã số: B2010-TN03-30TĐ
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Nguyễn Phúc Chỉnh
Tham gia thực hiện đề tài:
1. PGS.TS Nguyễn Như Ất
2. PGS.TS Nguyễn Văn Khải
3. PGS.TS Đỗ Hồng Thái
4. TS Hoàng Hữu Bội
5. TS Hoàng Thị Chiên
6. Ths Tô Anh Tuấn
7. Ths Ngô Giang Nam - PPGD Sinh học
- PPGD Vật Lý
- PPGD Lịch sử
- PPGD Ngữ Văn
- PPGD Hoá học
- PPGD Địa lý
- Thư ký đề tài
2
Thái Nguyên, 2011
MỤC LỤC
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
1.1.Tích hợp trong định hướng giáo dục ...................................................................... 1
1.2. Tích hợp kiến thức trong chương trình và sách giáo khoa lịch sử......................... 3
Chương 2. TÍCH HỢP TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
2.1. Vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ..................................... 8
2.2. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ............................... 13
Chương 3. TÍCH HỢP TÀI LIỆU ĐỊA LÝ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
3.1. Sử dụng bản đồ tích hợp kiến thức địa lý để luận giải nội dung lịch sử ............... 27
3.2. Sử dụng kiến thức địa lý giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học lịch sử ......... 29
3.3. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rõ quan điểm lịch sử ..................................... 30
3.4. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rõ diễn biến sự kiện lịch sử .......................... 32
3.5. Sử dụng kiến thức địa lý trong dạy học lịch sử ở thực địa ................................... 35
Chương 4. TÍCH HỢP TÀI LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ
4.1. Tích hợp tài liệu địa phương trong dạy học lịch sử .............................................. 40
4.2. Tích hợp kiến thức địa phương trong thực hành lịch sử ....................................... 45
4.3. Tích hợp các tài liệu lịch sử địa phương, tài liệu văn học, tài liệu địa lí .............. 51
Chương 5. TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ
5.1. Khái quát về tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử ........................ 69
5.2. Yêu cầu về nội dung giáo dục bảo vệ môi trường ................................................ 70
5.3. Nguyên tắc tích hợp kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường ................................. 73
5.4. Hình thức, phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học LS .............. 73
5.5. Giới thiệu giáo án tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử ............... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 100
3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
1.1 Tích hợp trong định hướng giáo dục
Trong những năm gần đây xuất hiện thuật ngữ “tích hợp”-tương đương
với các từ “intégration” (tiếng Pháp) hay “intergation” (tiếng Anh). Thuật ngữ
“tích hợp” mang những nội dung khác nhau trong các lĩnh vực khoa học
(sinh, toán học, triết học, giáo dục học…). Từ điển bách khoa toàn thư Xô viết
định nghĩa, “tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, chỉ trạng thái
liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến
trạng thái này”.
Dưới góc độ giáo dục học, tích hợp (Intergration) được hiểu là sự kết
hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các kiến thức trong một môn học hoặc giữa
các môn học thành một nội dung thống nhất.
Tư tưởng tích hợp giáo dục, thể hiện ở việc xây dựng chương trình dạy
học của nhiều nước từ những năm 60 của thế kỉ XX và ngày càng được áp
dụng rộng rãi. Ở mức độ cao có thể tích hợp các môn học (vật lí, hóa học,
sinh học) thành một môn chung-môn khoa học tự nhiên, hoặc tích hợp các
môn lịch sử, văn học, địa lí... thành môn khoa học xã hội nhân văn. Những
môn tích hợp này là môn mới chứ không phải là ghép các môn riêng rẽ với
nhau, vẫn giữ vị trí độc lập trong một môn chung.
Ở mức độ vừa, các môn gần nhau, được ghép trong một môn chung
nhưng vẫn giữ vị trí độc lập và chỉ tích hợp ở các phần trùng nhau. Ví dụ,
trong môn văn, sử, địa, việc nghiên cứu các nước cổ đại (Hi Lạp, La Mã, Ai
Cập, Ấn Độ, Trung Quốc…) hoặc khi học về “sự phát triển khoa học-kĩ thuật,
văn học, nghệ thuật thời cận đại”, “sự phát triển của cách mạng khoa học-kĩ
4
thuật từ sau chiến tranh thế giới thứ II” giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu
về các vấn đề này ở góc độ lịch sử với sự tích hợp kiến thức tổng hợp trên
nhiều lĩnh vực tự nhiên và xã hội.
Điểm nổi bật của xu hướng giáo dục hiện đại trên thế giới là mọi hoạt
động giáo dục đều hướng vào người học dưạ trên nền kiến thức được tích hợp
từ nhiều môn khoa học liên ngành, những giá trị nhân văn được đặc biệt quan
tâm. Điều này đựơc thể hiện qua việc phân luồng học sinh theo sở thích cá
nhân, lấy năng khiếu của học sinh làm cơ sở bồi dưỡng hứng thú, say mê, phát
huy tính tích cực tự giác, nâng cao hiệu quả dạy học. Với triết lí“giáo dục dành
cho mọi người”, Mĩ và Ôxtrâylia là 2 quốc gia thực hiện việc dạy học theo
hướng đa dạng hóa các phương pháp nhằm đáp ứng mọi đối tượng đến từ nhiều
nơi trên thế giới, có nền văn khóa khác biệt và trình độ khác nhau trong cùng
lớp học. Đầu ra của sản phẩm đào tạo đạt chuẩn quốc tế có thể thích ứng với
mọi thị trường lao động toàn cầu. Các nước này tiến hành đào tạo theo tín chỉ
từ trường trung học phổ thông. Sau khi học xong chương trình giáo dục cơ bản
(Khoảng 9 năm ), học sinh có thể học các tín chỉ theo sở thích, năng khiếu của
riêng mình ngay từ cấp THPT để tạo cơ sở cho việc học tập tiếp theo ở bậc đại
học. Một số nước khác vẫn cho học sinh học chung chương trình ở các lớp đầu
cấp THPT, chỉ tiến hành phân ban ở lớp cuối cấp. Chẳng hạn, Cộng hoà Pháp
tiến hành phân ban từ lớp 11, Trung quốc, Nga chỉ phân ban ở lớp cuối cấp sau
khi đã hoàn tất chương trình chung ở lớp dưới.
Khu vực Bắc Âu, nơi mà người dân được hưởng các phúc lợi xã hội ưu
việt vào hàng bậc nhất thế giới, có mức sống cao và ổn định nhiều thập niên
qua, đã duy trì một nền giáo dục thoáng đãng, cởi mở và linh hoạt. Thuỵ Điển
đã cho phép học sinh học các tín chỉ theo khả năng, trình độ mỗi người,
không bị ràng buộc về thời gian. Vì lẽ đó, có học sinh hoàn thành chương
trình THPT trong 2 năm, có học sinh hoàn thành trong 4 năm, thậm chí học
sinh còn có thể lựa chọn thời điểm thi thích hợp với mình. Với cách đào tạo
5
như vậy, việc thi cử không tạo ra áp lực nặng nề về tâm lý đối với học sinh,
1.2. Tích hợp kiến thức trong chương trình và sách giáo khoa lịch sử
Điểm nổi bật của chương trình giáo dục phổ thông của các nước tiên
tiến là tiếp cận theo hướng phát triển năng lực. Do vậy, vấn đề tích hợp nội
dung giáo dục được xem trọng. Chương trình rất “ động” bởi luôn được phát
triển, bổ sung, điều chỉnh. Phát triển chương trình trở thành nhu cầu thường
xuyên, yêu cầu bắt buộc để đổi mới giáo dục theo hướng đáp ứng yêu cầu xã
hội. Với tinh thần đó, cùng một chương trình thống nhất của Bộ Giáo dục,
nhưng có thể có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau. Nước Anh có bộ sách
giáo khoa lịch sử ở cấp THPT chuẩn theo chương trình Oxford được sử dụng
rộng rãi cả trong và ngoài nước (ở Singapore, Thái Lan). Giáo viên dựa vào
chương trình quy định của Bộ Giáo dục Anh để hướng dẫn học sinh học tập,
thu lượm thông tin từ nhiều nguồn. Hơn 90% học sinh của Anh lấy kiến thức
lịch sử qua mạng internet. Pháp là một quốc gia tiên tiến cũng phải trải qua
bốn lần cải tiến ở nhiều thập kỉ mới có một bộ sách giáo khoa khác hẳn trước
đây. Chương trình, sách giáo khoa như vậy đã quy định phương pháp dạy học
lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Việc cá thể hoá, nhóm
6
hoá lớp học được tiến hành rộng rãi. Tại Hà Lan, sau nhiều năm tranh luận,
Trung Quốc từ năm học 2004-2005 bắt đầu thực hiện chương trình cải
cách giáo dục đại trà. Mục tiêu cải cách giáo dục hướng vào bồi dưỡng tố chất
và kỹ năng tổng hợp, phương pháp học tập gắn với tự nghiên cứu và hợp tác
của học sinh, tôn trọng cá tính và sự lựa chọn của người học. Chương trình
mới xây dựng một số môn học mới mang tính tích hợp nhiều loại kiến thức,
hình thành những kỹ năng thích ứng với thực tiễn đời sống, sinh hoạt và hoạt
hoạt động xã hội.
Mỗi môn học được cấu tạo thành nhiều môđun, trong đó có những
môđun bắt buộc (65%) và môđun tự chọn theo định hướng nghề nghiệp, hoặc
hứng thú, năng lực của cá nhân (35%). Chương trình toàn cấp quy định, học
sinh kết thúc học tập các lĩnh vực bắt buộc trong các lớp 10 và 11 (kết thúc
phần phổ thông cơ bản), sau đó lựa chọn các môđun tự chọn theo nhu cầu
phát triển và hứng thú của bản thân (lớp 12). Điều này giúp học sinh có thể tự
định hướng trong từng năm học bắt đầu hoặc kết thúc môđun tự chọn nào cho
phù hợp. Chủ trương “ nhất cương đa bản”(một chương trình, nhiều bộ sách
giáo khoa) được coi là khâu đột phá trong cải cách giáo dục của Trung Quốc
theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá, cạnh tranh lành mạnh, phát huy nguồn lực,
khai thác tiềm năng, dần xoá tư tưởng quan liêu, độc quyền,bảo thủ và trì trệ
7
trong giáo dục. Trung tâm phát triển chương trình, SGK giáo dục phổ thông
Sách giáo khoa của các nước phát triển không biên soạn theo phương
lối hàn lâm mà tích hợp những kiến thức cơ bản của các ngành khoa học.
Phần kênh chữ không nhiều, chú trọng kênh hình và coi đó là nguồn nhận
thức chứ không phải mang ý nghĩa minh hoạ. Đặc biệt, phần cơ chế sư phạm
được chú trọng nhằm tổ chức hướng dẫn hoạt động tư duy tích cực chủ động.
sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn, sách giáo khoa của Nhật Bản có rất nhiều
tài liệu trên kênh hình in màu (tranh ảnh, bản đồ), cuối sách có phần tra cứu
theo nhân vật, theo loại hình tri thức lịch sử tổng hợp (kinh tế, văn hoá, quân
sự...) hoặc theo biên niên (lịch đại) và đồng đại (so sánh với các nước cận kề
Trung Quốc, Hàn Quốc). Nhật Bản xây dựng chương trình phổ thông theo 2
loại cơ bản và tự chọn (nâng cao). Một cuốn sách giáo khoa trình bày kiến
thức toàn cấp trung học phổ thông(lớp 10, 11, 12), nhưng mỗi loại sách trình
bày kiến thức ở mức độ khác nhau dành cho các nhóm đối tượng có trình độ
khác nhau, hoặc tích hợp phần kiến thức địa phương theo từng khu vực.
Chẳng hạn, cuốn Lịch sử Nhật Bản, Nhà xuất bản Yamakaoa (sách dành cho
trình độ nâng cao, chú ý kiến thức địa phương); Lịch sử thế giới, Nhà xuất
bản Zikiô (dành cho trình độ thấp); Lịch sử Thế giới, Nhà xuất bản Sansêđo
(dành cho trình độ đại trà).
Chương trình, sách giáo khoa của Mĩ do từng bang quy định khác nhau.
Tuy nhiên, điểm chung nhất là sách được trình bày với nội dung hấp dẫn, kỹ
thuật ấn loát đẹp, phần cơ chế sư phạm được thể hiện một cách mẫu mực, có
hướng dẫn gợi mở, kích thích hoạt động tìm tòi của học sinh. Các mô hình, sơ
đồ thiết kế theo hướng giúp học sinh biết so sánh các sự kiện lịch sử ở nước
Mĩ với các sự kiện lịch sử thế giới. Các kiến thức lịch sử, địa lí, văn học,
nghệ thuật, kinh tế xã hội được tích hợp trong các chương bài. Nguồn tư
8
liệu phong phú, kênh hình sinh động, những nhận định, đánh giá thẳng thắn,
9
Quan sát những tấm ảnh chiến tranh trên sách, báo, tạp chí, phim ảnh. •
• Xem những trích dẫn thích hợp từ các chính khách và chính sách của
họ.
Sử dụng máy tính để dựng lại các đoạn thuyết minh. •
• Tổ chức các buổi thảo luận với việc quan sát các hình ảnh, trích dẫn,
thuyết minh các áp phích.
Thêm các bản viết tay hoặc thiết kế các bản vẽ, các hình ảnh khác. •
• Lưu các hình ảnh lịch sử của Mĩ trong thư mục của mình. Bạn sẽ trình
bày và có thể chia sẻ các hình ảnh khi kết thúc chương”.
Đầu bài học thường hướng học sinh những từ khóa mang ý nghĩa then
chốt của bài (đầu vào)và nêu vấn đề để học sinh theo dõi, hướng dẫn mục tiêu
bài học cần đạt (đầu ra).Ví dụ, trình bày về Ai Cập cổ đại, sách giáo khoa nêu
một số thuật ngữ như đặc điểm địa lí lưu vực sông Nin, tên các triều đại, các
vị vua…để yêu cầu học sinh cuối bài trả lời câu hỏi: “Tại sao nói, Ai Cập là
quà tặng của sông Nin” Hoặc ở bài học: “Kết thúc chiến tranh và hậu quả của
nó”, mục tiêu bài học được xác định: “Học về tổng thống Níchxơn và những
chính sách của ông ta, để hiểu vì sao chiến tranh lại để lại hậu quả nặng nề
cho nước Mĩ”.
Ở nước ta chương trình tích hợp được thực hiện ở môn “tự nhiên và xã
hội” ở cấp tiểu học. Chương trình cấp trung học thì chủ yếu thực hiện ở mức
thấp. Việc tích hợp này chủ yếu được thực hiện trong nguyên tắc dạy học liên
môn, trong đó mỗi môn học được học riêng rẽ nhưng chú ý đến những nội
dung có liên quan đến môn học khác nhằm tránh trùng lặp. Từ đó các môn học
được bổ xung cho nhau, hiểu sâu sắc hơn các sự kiện đang học. Mức độ phối
hợp liên môn đã bước đầu được thực thi trong quá trình xây dựng nội dung
chương trình cũng như kế hoạch dạy học của các môn học khoa học xã hội:
10
Lịch sử, địa lí, giáo dục công dân.
Chương 2
TÍCH HỢP TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
2.1. Vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
Đặc trưng của bộ môn lịch sử là nghiên cứu, nhận thức hiện thực lịch
sử qua những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra và không lặp lại, nếu có lặp lại
cũng không hoàn toàn như cũ. Như vậy, xét trên phương diện những nguyên
tắc của phương pháp luận sử học, lịch sử được “lặp lại trên cơ sở không lặp
lại”. Chính vì vậy, trong học tập lịch sử, do học sinh không thể trực tiếp quan
sát, tri giác các sự kiện, hiện tượng đã xảy ra nên việc lĩnh hội tri thức gặp
nhiều khó khăn, nhất là với những tri thức lịch sử cách xa với đời sống hiện
nay(“Chế độ chiếm hữu nô lệ”,”Chế độ chuyên chế”,v.v…).Vì lẽ đó, việc
hình thành tri thức lịch sử cho học sinh cần chú ý phương pháp Thông tin- tái
hiện nhằm khôi phục bức tranh lịch sử một cách sâu sắc.
Để tạo ra những biểu tượng lịch sử sinh động, chân xác, trong dạy học
lịch sử cần sử dụng nhiều loại tài liệu khác nhau trong đó tại liệu văn học
(TLVH) là một trong những nguồn tài liệu phong phú, có nhiều lợi thế.
Với chức năng phản ánh cuộc sống, TLVH đã góp phần dựng lại bức
tranh quá khứ lịch sử, trình bày các đặc trưng của các hiện tượng kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, những quy luật của đời sống ở từng thời đại một
cách sinh động, hấp dẫn bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật.
Giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít. Khoa học lịch sử
dựa vào những nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử có thật trong một giai
đoạn nhất định để khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách chân xác, khách
quan, còn văn học dựa trên chất liệu cuộc sống để xây dựng hình tượng, cốt
truyện, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình dấu ấn của thời đại.
Việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh
11
tránh được tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử , phân biệt rõ nhân vật lịch sử với
Ngoài ra, việc sử dụng TLVH còn giúphọc sinh củng cố và phát triển
kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, năng động của học sinh và gây hứng
thú học tập. Do đó, chất lượng dạy học lịch sử được nâng lên.
2.1.1. Ý nghĩa giáo dưỡng
Trong các nguồn tài liệu tham khảo, TLVH có khả năng to lớn trong
việc tạo biểu tượng cho học sinh bởi lẽ bản thân các tác phẩm văn học đã
chứa đựng những sự kiện lịch sử, cung cấp những tri thức có giá trị về mọi
mặt của đời sống xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đánh
giá rất cao khả năng của văn học trong việc cung cấp những kiến thức như
thế. Ăngghen khi đánh giá về tác phẩm “Tấn trò đời” của Bandắc đã viết:
“Bandắc…trong “Tấn trò đời” của mình đã trình bày cho chúng ta một câu
chuyện hiện thực tuyệt diệu nhất của xã hội Pháp khi ông mô tả lại ưới hình
thức một loại biên niên ký, theo sát từng năm một từ 1816 đến 1848 áp lực
ngày càng tăng của giai cấp tư sản đang lên đối với xã hội quý tộc… Xung
quanh bức tranh trung tâm này, Bandắc đã tập trung tất cả lịch sử của xã hội
Pháp, ở đây tôi biết được ngay cả theo ý nghĩa kinh tế học nhiều chi tiết
(chẳng hạn về sự phân phối lại động sản và bất động sản sau cuộc cách mạng)
hơn ở các quyển sách của tất cả những nhà chuyên môn – các sử gia, các nhà
kinh kinh tế học, các nhà thống kê của thời kì này gộp lại”.(1)
Đối tượng của văn học cũng như sử học là toàn bộ thế giới nhưng văn
học không miêu tả, tái hiện những con người cụ thể, cá biệt có thật trong đời
sống như lịch sử mà xuất phát từ những mẫu hình có thật để dựng nên những
hình tượng văn học giàu tính nghệ thuật khiến học sinh dễ hình dung kiến
(1) Trương Hữu Quýnh (CB), Đại cương lịch sử Việt Nam, NxbGD, 2001, 225-226.
12
thức và nhớ lâu. TLVH được sử dụng sẽ làm cho sự kiện trở nên cụ thể, sinh
Những hình ảnh văn học sinh động đó chính là cơ sở để tạo biểu tượng
lịch sử. Hiệu quả của việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó sử dụng TLVH có lợi thế đặc biệt. Trong dạy học lịch
sử, việc miêu tả, tường thuật, giải thích, so sánh, nêu đặc điểm nhân vật lịch
sử v.v…rất được coi trọng. TLVH có cơ sở để giúp giáo viên lịch sử thực
hiện điều đó. Chẳng hạn miêu tả cảnh phá ngục Bãti, ta không thể không sử
dụng bài thơ”14 tháng 7” của nhà thơ Tố Hữu, tố cáo tội ác của thực dân
Pháp đối với các nước thuộc địa ta có thể sử dụng tài liệu của Hồ Minh trong
tác phẩm” Bản án chế độ thực dân Pháp”, dựng lại chân dung của các nhân
vật lịch sử thời cận đại thế giới như Napôlêông Bônapac, Bĩmác, Chie
…không thể thiếu tài liệu miêu tả của các tác giả kinh điển tiêu biểu như Mác
trong “Ngày 18 tháng Sương mù của Napôlêông Bônapac” v.v…
Trong lịch sử dân tộc, nhiều tác phẩm nổi tiếng mà ở đó những kiến
thức lịch sử có giá trị văn học đã kết chặt trong nội dung, bố cục và phương
pháp thể hiện khiến cho nó trở thành những tác phẩm “văn sử bất phân”. Có
thể dẫn ra áng thơ thần của Lý Thường kiệt-“Nam quốc sơn hà” như một bản
tuyên ngôn bất hủ về độc lập, chủ quyền giang sơn gấm vóc và ý chí của một
dân tộc quyết bảo vệ cho được nền độc lập từng phải đấu tranh suốt ngàn năm
Bắc thuộc thảm khốc và đau thương. “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn
đâu chỉ thức tỉnh ba quân đang ham thích những vui thú thời bình mà còn đúc
kết những kinh nghiệm của cha ông trong lịch sử đấu tranh bảo vệ chủ quyền
của một quốc gia dân tộc thống nhất. “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi vang
vọng muôn đời cũng chính bởi những chiến công vang dội của cuộc kháng
chiến chống quân Minh, đã gắn kết với truyền thống ngàn năm văn hiến của
quốc gia Đại Việt. Cũng từ đó những bài học lịch sử được rút ra như” dùng
13
đoản chế trường, lấy yếu đánh mạnh”, “dùng quân mai phục, lấy ít địch
“ Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để răng đen
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Tiếp nối truyền thống quật cường đó, phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ 1930-1945 được
phản ánh trong nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng với nhiều thể loại phong
phú: hồi kí cách mạng (Những chặng đường lịch sử của Võ Nguyên Giáp,
Chặng đường nóng bỏng của Hoàng Quốc Việt, Từ núi rừng Batơ của
Phạm Kiệt… ), thơ với các tác giả nổi tiếng như: Tố Hữu, Sóng Hồng, Hồ Chí
Minh, văn học truyền miệng, báo chí v.v… Đặc biệt bản “ Tuyên ngôn độc
lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là một kiệt tác mẫu mực về ý
nghĩa lịch sử, giá trị nghệ thuật và phương pháp tư duy triết học sâu sắc.
Rõ ràng, mỗi tác phẩm văn học đều mang dấu ấn sâu sắc của thời đại,
phản ánh bức tranh đời sống xã hội dưới lăng kính nghệ thuật nên đây chính
là một nguồn tư liệu í nguồn tài liệu này.
14
2.1.2. Ý nghĩa giáo dục
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục lịch sử đang đặt ra những yêu
cầu cấp thiết. Nền kinh tế thị trường với những mặt tích cực ngày càng được
khẳng định trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước song mặt trái của cơ
chế thị trường đã làm thay đổi bậc giá trị của các môn học. Học sinh đua nhau
vào học những ngành có thể kiếm được nhiều tiền sau này, do vậy lịch sử là
môn học ít được quan tâm đúng mức. Trong xu thế phát triển của xã hội hiện
nay, những yếu tố hiện đại, những giá trị tiến bộ đích thực cần được khai thác
để làm phong phú đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta, xây dựng một
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa của nhân loại.
TLVH với sự phản ánh thực qua cách nhìn, thái độ quan điểm của tác
giả đối với hiện tượng được miêu tả nên có tác động mạnh mẽ vào tâm hồn
người đọc. Người đọc sẽ hình thành tình cảm tích cực hay tiêu cực qua tác
động của các tác phẩm văn học.
Học sinh không chỉ được giáo dục về tư tưởng, đạo đức khi tiếp xúc với
văn học mà những hình tượng văn học điển hình còn tạo hứng thú học tập lịch
sử cho các em, các hình tượng này chính là “chất nhụy kết tinh từ cuộc sống”,
là nguyên mẫu cuộc sống đã được nhà văn chọn lọc, tô đậm những nét điển
hình, gia tăng những chi tiết cần thiết, tái tạo lại thành một chỉnh thể thẩm mĩ,
tác động sâu sắc vào trí tuệ, gợi sự liên tưởng trong tâm trí người đọc. Do vậy,
việc sử dụng TLVH góp phần làm cho trái tim các em thực sự rung động, say
mê, hứng thú học tập lịch sử.
2.1.3. Ý nghĩa phát triển
Học lịch sử nhằm “ôn cố tri tân” để khai thức những giá trị tốt đẹp của
truyền thống dân tộc, đem những kinh nghiệm, những bài học lịch sử của cha
ông vận dụng vào việc thực hiện những nhiệm vụ trong hiện tại và hướng tới
tương lai, có như vậy mới thực hiện “ học đi đôi với hành, lí luận đi đôi với
15
thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội”.
Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử cũng là nhằm làm cho các
kiến thức lịch sử ấy dễ tiếp nhận đối với học sinh, các em dường như được
tham dự, chứng kiến lịch sử quá khứ. Đây là việc phát huy trí tưởng tượng tái
tạo cho học sinh, rất cần cho việc học tập lịch sử bởi nếu không hình dung
quá khứ khách quan thì không thể hiểu bản chất lịch sử, dễ rơi vào tình trạng
“hiện đại hóa” lịch sử. Do đó việc sử dụng TLVH trong bài giảng của giáo
viên là một việc làm thiết thực, một yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao hiệu quả
dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
2.2. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
2.2.1. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử giúp học sinh nắm kiến thức
lịch sử sâu sắc, toàn diện hơn, đặc biệt các em có sự liên hệ, tích hợp kiến
thức giữa các môn học, tránh được tình trạng rời rạc, tản mạn trong kiến thức
của học sinh, tính hệ thống của các tri thức đó sẽ giúp học sinh hiểu sự kiện,
có khả năng phân tích sự kiện, tìm ra bản chất, qui luật phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên không phải cứ đưa TLVH vào bài giảng lịch sử là giáo viên đã đạt
hiệu quả dạy học như trên mà việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử phải
tuân thủ theo những nguyên tắc dạy học nói chung và yêu cầu cụ thể sau đây.
- TLVH phải phù hợp với nội dung bài giảng và trình độ nhận thức của
học sinh.
- TLVH phải đảm bảo tính tiêu biểu, điển hình.
- Lựa chọn các biện pháp thích hợp để sử dụng TLVH.
- TLVH sử dụng trong sự kết hợp giữa các phương pháp, các loại tài liệu
khác nhau.
- TLVH đảm bảo tính khoa học và tính tư tưởng.
16
2.2.2. Một số phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
2.2.2.1. Kể chuyện lịch sử
Những mẩu chuyện lịch sử luôn cuốn hút học sinh, với ngữ điệu và các
thao tác sư phạm phù hợp, giáo viên khi kể một câu chuyện lịch sử không
những khiến học sinh dễ nhớ và nhớ lâu sự kiện mà tâm hồn, trái tim các em
cúng sẽ thực sự rung cảm.
Ví dụ, dạy bài “Phong trào cách mạng 1930-1931 và cuộc đấu tranh phục
hồi lực lượng cách mạng”, ta có thể sử dụng hồi kí của Nguyễn Duy Trinh để
kể chuyện về cuộc đấu tranh của các chiến sĩ ở trong tù thời kì 1932-1935.
Tại nhà lao Vinh, đồng chí Nguyễn Duy Trinh cùng những chiến sĩ cộng
sản nơi đây đã cho ra một tờ báo rất đặc biệt làm công cụ tuyên truyền và
tranh đấu. Đó là tờ báo hàng ngày, không cần in ấn mà là một tờ báo miệng,
đồng chí Nguyễn Duy Trinh kể lại “hàng ngày, vào đúng giờ bọn gác ngục
nghỉ trưa, chúng tôi cử từng người leo lên ô cửa ô vuông phòng giam, đọc
những bài mình được phân công chuẩn bị nói…Tờ báo miệng, hay nói đúng
đắn hơn, đài phát thanh của chúng tôi được anh em trong lao hết sức hoan
nghênh. Ngày nào cũng phát thanh rất nhiều mục, thơ có, văn có, anh chị em
nghe không chán, lại nói rất sát với hoàn cảnh nhà lao, người nghe càng thú
và người nọ truyền người kia” (1). Nhờ sự đấu tranh kiên trì, bất khuất của
những con người yêu nước đó mà sức sống của Đảng không bị tiêu diệt”.
2.2.2.2. Xây dựng các bài miêu tả, tường thuật
Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 như
“Bước đường cùng “ (Nguyễn Công Hoan), “Số đỏ”(Vũ Trọng Phụng), “Tắt
đèn” (Ngô Tất Tố) đã vạch trần bộ mặt của bọn thực dân, phong kiến và phản
ánh đời sống tối tăm, cực khổ của nhân dân ta, nhất là nông dân. Các hồi kí
cáh mạng như “Những năm tháng không thể nào quên” (Võ Nguyên Giáp),
(1) Nguyễn Văn Hoa, Phạm Hồng Việt, Hiểu thêm lịch sử qua các hồi kí, tùy bút,NxbGD,HN, 1997, tr24
17
“Những chặng đường nóng bỏng” (Hoàng Quốc Việt), “Đại thắng mùa xuân
Dạy bài Phong trào cách mạng 1930-1931, khí thế đấu tranh sôi sục ở
Nghệ Tĩnh được cụ thể hóa qua tài liệu văn thơ Xô viết Nghệ Tĩnh
“Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Giữa thành một trận xông pha
Bên kia đạn sắt bên ta gan vàng
Hơi nghĩa khí dồn vang bốn mặt
Dải đồng tâm thắt chặt muôn người
Lợi quyền ta cố ta đòi
Dần xương đế quốc, xẻo môi quan trường”(1).
Chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” và đạo luật 10/59 của chính quyền Mĩ
Diệm được sinh động hóa trong bài “ Lá thư Bến tre” của nhà thơ Tố Hữu:
“Biết không anh, Giồng Keo, Giồng Trôm
Thảm lắm anh à lũ ác ôn
Giết cả trăm người trong một sáng
Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn.
Anh biết không, Long Mĩ, Hiệp Hưng
Nó giết thanh niên ác quá chừng
Hăm sáu đầu trai bêu cọc sắt
Ba hôm mắt vẫn mở trừng trừng
(1) Thơ văn cách mạng (1930-1945) NxbGD, HN 1964, tr13
18
Có những ông già nó khảo tra
Không khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh không chịu nhục
Lấy vồ nó đập vọt thai ra…”
Giảng bài Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII , miêu tả cảnh quần
chúng cách mạng Pari tấn công phá ngục Baxti, ta có thể sử dụng đoạn trích
sau đây trong bài thơ" Ngày 14/7" của nhà thơ Tố Hữu:
"Và lớn, và bé, đàn ông, đàn bà
Tất cả chiếm, mỗi người đôi khí giới
Anh hàng thịt vung con dao sáng chói
Người lính già quắc thước múa chuôi gươm
Anh hàng giầy quần áo rách bươm
Anh thợ dệt nằm sau cửa xưởng
Cũng đứng dậy uy nghi như võ tướng
Cầm thanh gươm, khẩu súng nhảy ra ngoài
Và thằng con bé bỏng cũng giương oai
Phồng má thổi kèn vang sau gót bố "'
Ví dụ khác, khi giảng bài:" Công xã Pari” trình bày Sự thành lập
công xã ta có thể bám theo mạch logic sau:
- Sự tồn tại của đế chế 2 ( 1852-1870) khiến cho mâu thuẫn của quần
chúng nhân dân Pháp với giai cấp tư sản ăn bám thối nát ngày càng gay gắt"
Đế chế 2 là một chỗ hội hè lớn của làng bịp bợm khắp thiên hạ, bọn lừa đảo
thuộc tất cả các nước đổ xô đến theo tiếng gọi của nó để tham gia vào các
cuộc yến tiệc cuồng loạn và cướp bóc nhân dân Pháp"(1). Napôlêông III muốn
19
đẩy mâu thuẫn ra bên ngoài bằng cách phát động cuộc chiến tranh với Phổ.
(1)Các mác, Nội chiến ở Pháp 1871, ST, HN 1961, tr 98
(2) Đỗ Đức Hiểu, Văn học Công xã Pải, Nxb ĐH&THCN, HN, 1978, 26;
Không khí kích động chiến tranh "tinh thần dân tộc" bao trùm lên nước Pháp.
Nhưng quyền lợi sẽ thuộc về ai và đau thương mất mát ai là người phải gánh
chịu? Hãy nghe tâm sự của Hoàng hậu nước Pháp- con người nổi tiếng về
phản trắc và điêu ngoa sẽ rõ: "Tôi thương mỗi người lính như con trai tôi đẻ
ra... nhưng tôi thích chiến tranh bởi vì sự thể đã như thế này chiến tranh là
tốt"(2)
- Cuộc chiến tranh bùng nổ, Pháp hết sức chủ quan, lời tuyên bố ngạo
mạn của người chỉ huy quân đội là "đã chuẩn bị đến chiếc cúc cuối cùng trên
chiếc gệt của người lính cuối cùng" đã đưa quan đội Pháp lâm vào thảm họa,
thất bại nhục nhã ở chân thành Xơđăng, 10 vạn quân cùng Napôlêông III bị
bắt sống.
- Liền sau đó, ngày 4/9/1870 quần chúng Pari đã khởi nghĩa lật đổ dế chế
2, chính quyền lọt vào tay giai cấp tư sản. Nước Đức đã tấn công nước Pháp,
tấn công Pari chứ không phải "chỉ đánh Napôlêông" như chúng từng rêu rao
trước đó để loè bịp. Do áp lực của quần chúng Chính phủ vệ quốc phải lập
200 tiểu đoàn mới để chống lại quân xâm lược Đức. Vậy nhưng những kẻ
nắm quyền chẳng hề mảy may quan tâm đến kháng chiến, chỉ lo ăn chơi xa
đọa, sẵn sàng bán lợi ích của dân tộc mình vì quyền lợi ích kỉ cá nhân:
"Mặc đứa ngu nào yêu nước, cứ yêu đi,
Dưới đạn quân thù tha hồ chết,
Còn tớ đây sốt tỏi tớ đánh tì tì,
Các ngài ơi đổi Pari lấy bít tết"(1)
Cả một đám vô lại tập hợp nhau lại thành một Quốc hội mới (2/1871 )
để toan lo việc đầu hàng Đức, hãy xem những gương mặt tiêu biểu của chính
(1) Văn học Công xã, sđd, tr 31
20
phủ mới này;
Chie - kẻ đứng đầu chính phủ: Mác gọi hắn là "con quỷ lùn quái dị"
khét tiếng trong các vụ đàn áp đẫm máu phong trào công nhân từ những năm
30 của thế kỉ XIX: "Chie, con người bé nhỏ quái dị đó đã làm cho giai cáp tư
sản Pháp say mê từ non nửa thế kỉ nay. Bởi vì hắn đại diện cho cái tư tưởng
hoàn mĩ nhất chính ngay sự hư bại giai cấp của bọn tư sản đó... với cánh tay
bé nhỏ của một thằng lùn hắn ta thường thích giơ lên trước Châu Âu thanh
gươm của Napôlêông đệ nhất"(2))
Bên cạnh Chie là Tơrôsuy lịch sử xác minh là kẻ thù truyền kiếp của dân
nghèo khó, là một kẻ bảo thủ tới đường gân thớ thịt, một kẻ ham danh vọng
đến điên cuồng, cục cằn, thô lỗ và cô độc. Số còn lại đều nổi tiếng vì thành
tích bất hảo: Phavơrơ lành nghề trong việc làm các giấy tờ giả mạo,
Giuynximông hám danh vọng như hám vàng, Giuypheri kẻ bất tài vô lại hay
Clêmăngtônua, Vinoa coi mạng người như sâu bọ.v..v...
Khi mà "Chính phủ vệ quốc" đã lộ rõ nguyên hình là "Chính phủ phản
quốc" thì nhân dân đã lập tức bầu ra ủy ban trung ương vệ quốc quân - một
chính phủ cách mạng đối lập với chính phủ Véc sai.
- Khi thấy lực lượng Quốc dân quân triển khai kế hoạch phòng thủ
Paris, chính phủ Véc sai đã làm cái việc tày đình mà chính quân Đức không
hề dám đó là mưu toan cướp vũ khí của Quốcdân quân trên đồi Môngmác.
Sau khi tường thuật trận cướp vú khí ở đồi Mông mác ngày 18/3/1871, ta cho
học sinh thấy được sự bùng nổ của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trong lịch
sử nhân loại. Ngày 28/3/1871 công xã Paris ra đời trong niềm vui bất tận của
quần chúng cách mạng nước Pháp.
Mục "Công xã Paris thất bại, ý nghĩa Lịch sử của công xã có thể thực
(2) Các Mác, F. Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, NxbST, HN, 1962, 805, 806
21
hiện trình tự như sau:
- Trình bày cuộc tấn công Paris của quân đội Véc sai dẫn tới "tuần lễ
đẫm máu" (từ 21-28/5/1871) ta giới thiệu bức tranh "cuộc tàn sát đẫm máu
của quân đội Véc sai" và sau đó nêu lên một vài tấm gương chiến đấu hy sinh
anh dũng, tiêu biểu cho khí phách hiên ngang bất tử của công xã Paris "xông
lên đoạt trời" đó là cô giáo Luidơ Misen đã thét lên trước tòa án quân thù:
"Nếu các người để tôi sống tôi sẽ không ngớt kêu gọi báo thù"-" Nếu không
phải là những kẻ hèn nhát xin các người hãy giết tôi đi"(1).
Đặc biệt nhà thơ cách mạng Ơgien Pôchie trong những ngày Paris đẫm
máu bài thơ Quốc tế của ông đã ra đời sau này được Pie đơ Gâytơ phổ nhạc
(1888) trở thành bản quốc tế ca hoành tráng của vô sản thế giới :
"Vùng lên, hỡi các nô lệ của thế gian
Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn"
- Những sai lầm của công xã Pari thật đáng tiếc đã dẫn tới sự thất bại
đau lòng. Công xã Paris thất bại từ chính lòng nhân đạo của họ như Mác đã
chỉ ra và ngày ấy Ơgien Pôchie cũng từng nhìn thấy:
"Người không chiếm ngân hàng, ôi lầm lỗi,
Lẽ ra, Người phải đổi thay thế giới,
Người biết không muốn kẻ địch đầu hàng,
Phải tước vũ khí của quân địch”(2)
Sự ấu trĩ trong nhận thức cảu vô sản Paris biểu hiện qua bức tranh chiến
sĩ công xã khiến họ không phân biệt âm mưu chia rẽ của kẻ thù, hiểu lầm
người bạn đồng minh đáng tin cậy của mình là giai cấp nông nhân, khi dã
hiểu ra tìm cách liên hệ thì đã muộn. Những chú chim bồ câu đưa thư vốn yêu
hòa bình nay hoảng sợ tan tác vì súng đạn, những quả khinh khí cầu liên lạc
(1(2) Văn học Công Xã, sđd, tr 254; 208
22
hầu hết bị bắn rơi khi chưa ra khỏi ngoại ô Paris. Những sai lầm đó đã để lại
bài học quý báu cho giai cấp vô sản sau này Lênin đã chỉ rõ "Giành chính
quyền đã khó nhưng giữ chính quyền càng khó hơn" Đảng ta cũng nhấn mạnh
"Chính quyền cách mạng không trấn áp kẻ thù là tự sát" vấn đề liên minh
công nông, vấn đề lãnh đạo của đảng tiên phong... đều được nhắc nhở bằng
máu xương của các chiến sĩ công xã.
- Công xã thất bại nhưng hình ảnh của một nhà nước kiểu mới sẽ
trường tồn. Ngay sau khi thất bại Ăng ghen đã từng cảnh báo các chính khách
tư sản "Này các ngài, nếu các ngài muốn biết chuyên chính vô sản là gì ? Xin
hãy nhìn vào công xã Pari chuyên chính vô sản là thế đấy"(1). Đúng như lời
kết luận của Lênin "Công cuộc của công xã Paris không chết nó còn sống đến
ngày nay trong mỗi chúng ta, sự nghiệp của công xã là sự nghiệp của cách
mạng xã hội, sự nghiệp giải phóng hoàn toàn về chính trị, kinh tế của người
lao động, sựu nghiệp giai cấp vô sản toàn thế giới. Vì thế sự nghiệp đó là bất
diệt" (2)
2.2.2.3. Dùng tài liệu văn học để khắc sâu kiến thức
Giáo viên khi dạy học lịch sử nếu biết khắc sâu những kiến thức cơ bản
bằng các phương pháp phù hợp sẽ giúp học sinh hiểu bài sâu sắc, trên cơ sở
đó trình độ nhận thức của các em sẽ được nâng lên ở mức khái quát lí luận,
việc khắc sâu kiến thức cũng là một yếu tố quan trọng để giáo dục tư tưởng
chính trị, hình thành thế giới quan khoa học và phát triển năng lực tư duy của
hoc sinh.
Khi dạy bài “Cuộc vận động dân chủ 1936-1939” giáo viên khái quát
hóa bức tranh đấu tranh trong thời kì dân chủ 1936-1939- thời kì đấu tranh
công khai hợp pháp xen lẫn đấu tranh bí mật, bất hợp pháp, đấu tranh ở cả
nông thôn và thành thị:
(1) Nội chiến ở Pháp 1871, Sđd, 26.
(2) Theo : Văn học công xã, Sđd, tr 77
23
“Chống phát xít cường quyền hiếu chiến
Khắp năm châu, trận tuyến bình dân
Trùng trùng cách mạng ra quân
Phất cao cờ đỏ công nhân dẫn đầu
Còi máy gọi bến tàu hầm mỏ
Hòn Gai kêu Đất Đỏ đấu tranh
Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên
Đòi cơm áo, đòi quyền dân chủ
Đường càng đi đội ngũ càng đông
Suối ngàn đã chảy thành sông
Đố ai tát cạn được dòng nước xuôi”.(1) [20, Tr 111
Tài liệu văn học trong nhiều trường hợp là nguồn cung cấp sử liệu đáng
tin cậy khắc họa một sự kiện hay khái quát một thời kì lịch sử. Chẳng hạn,
giảng bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời”, khi trình bày ý nghĩa sự ra đời
của Đảng, giáo viên cần phan tích tình hình xã hội Việt Nam trước khi có
Đảng và dẫn câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khi chưa có Đảng tình hình
đen tối như không có đường ra” đặc biệt cố nhà thơ Chế Lan Viên đã khái
quát sâu sắc thời kì khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng trước khi
có Đảng:
“Ông cha xưa đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
(1) Trương Đức Hùng, Thơ Tố Hữu, NxbHN, 2002, tr 111.
24
Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi…” (2).
Trong hoàn cảnh đó, đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Sự kiện ra đời của Đảng là một bước ngoặt lịch sử, chấm dứt thời kì khủng
hoảng kéo dài về đường lối lãnh đạo cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam:
“Lần đêm bước đến khi hửng sáng
Mặt trời kia cờ Đảng dâng cao
Đảng ta con của phong trào
Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm
Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Không quê hương sương gió tơi bời”.(1)
2.2.2.4. Tài liệu văn học kết hợp với tài liệu khác
TLVH chỉ là một trong nhiều nguồn tài liệu sử dụng trong DHLS.
Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả DHLS, cần phải kết hợp TLVH với nhiều
loại tài liệu khác một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn. TLVH có thể kết hợp với
một số tài liệu sau:
- Thứ nhất, TLVH kết hợp với tài liệu của Hồ Chí Minh.
Tài liệu Hồ Chí Minh là nguồn tài liệu rất phong phú, góp phần làm
sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử. Tài liệu Hồ Chí Minh kết hợp với TLVH sẽ làm
cho bài học sinh động, cụ thể, học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc. Văn
kiện Đảng là nguồn tư liệu đáng tin cậy trong nghiên cứu và giảng dạy lịch
sử, góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn về quan diểm, đường lối cách mạng
của Đảng, về sự phát triển của lịch sử dân tộc qua mỗi thời kì đấu tranh cách
mạng. Sử dụng TLVH kết hợp với văn kiện Đảng sẽ làm cho học sinh hứng
(2) Chế Lan Viên toàn tập, Nxb VH, HN 2002, tập 1, 354-355.
(1) (1) Trương Đức Hùng, Thơ Tố Hữu, NxbHN, 2002, tr 109.
25
thú học tập, củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử.
Ví dụ, Khi dạy bài “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước”,
giáo viên sử dụng tài liệu văn học kết hợp với tại liệu của Hồ Chí minh và
Văn kiện Đảng như sau. Trình bày thời cơ cách mạng chín muồi và Lệnh tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, giáo viên dẫn chứng các tài
liệu:
“Chính phủ phát xít Nhật hoàng
Đã vô điều kiện đầu hàng Đồng minh
Thế là kết thúc chiến tranh
Á châu sẽ lại thái bình từ nay
Hỡi dân Nam Việt ta đây
Trong tình hình ấy làm ngay việc cần
Việt Minh hiệu triệu toàn dân
Lập ngay chính phủ nhân dân của mình” (1).
Để làm sáng rõ thời cơ “ngàn năm có một”, giáo viên hướng dẫn học
sinh đọc “Bản quân lệnh số 1” của Ủy ban khởi nghĩa, đặc biệt nhấn mạnh
đoạn: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh!
…Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả
cảm, vô cùng thận trọng!”.
Giọng đọc trang trọng, dõng dạc, dứt khoát thể hiện sự quyết tâm hành
động khi thời cơ cách mạng đến. Tiếp đó, một học sinh đọc thư của Hồ Chí
Minh kêu gọi toàn dân vùng đậy khởi nghĩa giành chính quyền:
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ
(1) Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc (1936-1945), Nxb Văn hóa dân tộc, 1977, tr242
(2) Phan Ngọc Liên (CB), Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, NxbĐHQG, 2002, tr 110
26
Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!” (2).
- Thứ hai, kết hợp với tại liệu trực quan trong dạy học lịch sử.
Việc sử dụng TLVH kết hợp với tài liệu trực quan giúp cho học sinh
củng cố khắc sâu kiến thức, hiểu bản chất sự kiện lịch sử. Dạy bài “ Mặt trận
Việt Minh ra đời và lãnh đạo đấu tranh”, giáo viên cho học sinh quan sát bức
ảnh “ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và hướng dẫn các em tìm
hiểu hoàn cảnh ra đời cũng như vì sao lại có tên “ Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân” qua đoạn trích:
“Bây giờ thời kì cách mạng phát triển hòa bình đã qua, nhưng thời kì
khởi nghĩa toàn dân chưa tới! Nếu bây giờ vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức
chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động phong
trào vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu
tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm
ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên.”(3)
Sau khi phân tích tình hình lúc bấy giờ, giáo viên nhấn mạnh: “Theo
chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” đã ra
đời. Hôm đó là ngày 22-12-1944, lúc 5 giờ chiều, “lễ thành lập được cử hành
trong một khu rừng nằm giữa tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám. Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ra đời dưới sự che chở của anh
linh hai đấng anh hùng dân tộc” (1). Giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh
34 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp đang trang nghiêm đọc 10
lời thề danh dự dưới lá cờ Tổ quốc thiêng liêng và gợi ý về lực lượng vũ trang
cách mạng của ta trong buổi đầu thành lập?
+ Về lực lượng cách mạng: còn non mỏng, thiếu thốn (quần áo nhiều
kiẻu khác nhau, vũ khí thô sơ).
(3) Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, NxbVăn học, 1977, tr 130
(1) (2) (3) Võ Nguyên Giáp, Sđd, 142; 140; 193
27
+ Về ý chí: đầy quyết tâm tin tưởng (nét mặt trang nghiêm)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp hồi tưởng lại những giờ phút thiêng liêng
đó: “Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng
ống thô sơ mà thấy đây là cả một đoàn quân gang thép, rắn chắc, không sức
mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù.”, và khẳng định: “Tuy
lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang” (2).
Khi dạy bài “ Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa
tháng Tám 1945”. Giáo viên sử dụng bản đồ “Khu giải phóng Việt Bắc”
Giáo viên đặt câu hỏi tình huống: “Vì sao Hồ Chí Minh quyết định
thành lập khu giải phóng Việt Bắc?” sau đó hướng dẫn học sinh nhận thức
rằng do những thắng lợi của cao trào kháng Nhật cứu nước, vùng giải phóng
được mở rộng bao gồm các tỉnh miền thượng du: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang (giáo viên chỉ bản đồ), địa thế
các tỉnh này nối liền nhau nên Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập khu giải
phóng. “Khu giải phóng phải trở thành một căn cứ địa vững chắc về mọi mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa để làm bàn đạp Nam tiến, giải phóng toàn
quốc”(3).
Tân Trào được chọn làm Thủ đô của khu giải phóng, trong khu giải
phóng đã thi hành 10 chính sách của Việt Minh, người dân bước đầu được
hưởng các quyền tự do, dân chủ. Khu giải phóng Việt Bắc chính là hình ảnh
thu nhỏ của nước Việt Nam mới:
“Ai lên xứ Lạng cùng anh
Thăm khu giải phóng, thăm thành Bắc Sơn
Suối trong in mặt trời tròn
Xem cô gái Thổ trèo non đi tuần”.(1)
(1) Hợp tuyển thơ văn yêu nước, thơ văn cách mạng (1913-1945), NxbVH, 1980, 540-541
28
*
* *
Tóm lại, TLVH là một nguồn tài liệu phong phú, còn ẩn chứa nhiều
tiềm năng có thể khai thác để sử dụng trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên cần
chú ý không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hoàn toàn, không có
nguồn tài liệu nào là duy nhất do vậy cần chú ý kết hợp hài hòa các nguồn tài
liệu, các phương pháp dạy học và các thao tác sư phạm để phát huy đến mức
29
cao nhất hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông.
Chương 3
TÍCH HỢP TÀI LIỆU ĐỊA LÍ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Sự kiện lịch sử gắn liền với vị trí không gian nhất định. Nhiều sự kiện
kịch sử xảy ra bắt nguồn từ đặc điểm địa lí hoặc do điều kiện địa lí tác động,
chi phối. Do vậy kiến thức địa lí có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong dạy học
lịch sử. Bài học lịch sử gắn với bản đồ và kiến thức địa lí luôn tạo ra sự hấp
dẫn, giúp học sinh nắm chắc sự kiện, biết lí giải bản chất sự kiện qua sự chi
phối của yếu tố địa lí.
3.1. Sử dụng bản đồ tích hợp kiến thức địa lí để luận giải nội dung lịch sử
Việc so sánh, phân tích để rút ra những kết luận khái quát, giải đáp
những vấn đề phức tạp của lịch sử phải dựa trên cơ sở nền tảng của hệ thống
tư liệu phong phú, logic đủ sức thuyết phục. Điều này rèn cho học sinh có
phong cách tư duy mạnh dạn táo bạo nhưng cẩn trọng, không vội vã hồ đồ.
Ví dụ, trình bày"Sự khủng hoảng chế độ phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX và cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp". Đây là chương trình
đồng tâm với cấp phổ thông cơ sở nên yêu cầu về trình độ lý luận phải cao
hơn. Sách giáo khoa trình bày sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt
Nam (từ vừa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX) biểu hiện trên các mặt:
kinh tế, chính trị, xã hội, cùng với những thách thức của Lịch sử và thái độ
thủ cựu của nhà Nguyễn đương thời. Vấn đề đặt ra là Việt Nam rơi vào tay
Pháp là tất yếu hay không? Trách nhiệm của nhà Nguyễn trước hiện trạng đó
thế nào? Có ý kiến cho rằng nếu thái độ ngoại giao khôn khéo Việt Nam vẫn
có thể tránh được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp (như Xiêm La)? Để hiểu
được điều đó, các em cần được biết, kết quả của hoạt động ngoại giao khi
chưa có chiến sự phụ thuộc vào thiện chí của cả hai bên, còn khi nổ ra chiến
tranh thì thắng lợi trên mặt trận quân sự luôn đóng vai trò quyết định. Hoạt
động ngoại giao của triều Nguyễn đối với thực dân Pháp lúc bấy giờ hoàn
30
toàn khác nhau về lập trường quan điểm. Nhà Nguyễn cố tìm cách giữ độc
lập, chủ quyền nhưng " lực bất tòng tâm" còn thực dân Pháp hoạt động ngoại
giao cũng chỉ nhằm xâm chiếm Việt Nam cho kỳ được. Điều này được bộc lộ
từ rất sớm trong lịch sử.
Không phải đến những năm 40 của thế kỷ XIX thực dân Pháp mới dòm
ngó và khiêu khích Việt Nam mà từ những năm 30 của thế kỷ XVII, ý đồ xâm
lược Việt Nam đã lộ rõ qua bản kiến nghị chiếm nước ta của giáo sĩ
Alexander De Rhodes. Sau này Bá Đa Lộc, giáo chủ đàng trong ra sức giúp
Nguyễn ánh chống Tây Sơn nhằm gây ảnh hưởng của Pháp ở xứ sở này. Hiệp
ước 1787 nếu không vướng phải cuộc Đại cách mạng 1789 ở Pháp hẳn đã có
hiệu lực . Nửa đầu thế kỷ XIX việc chuẩn bị xâm lược Việt Nam cũng ráo riết
về sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp đang đòi hỏi thị
trường để cung cấp tài nguyên, bóc lột nhân công và tiêu thụ hàng hóa ế thừa
của chính quốc.
Kết hợp với bản đồ địa lí khu vực Đông Nam Á, giáo viên hướng dẫn
học sinh nhận thức rừ vấn đề cốt lõi sau đây:
Bị thua và không thể địch nổi với đối thủ sừng sỏ là thực dân Anh ở ấn
Độ, Pháp tìm mọi cách giành giật quyền lợi với các nước tư bản để quốc ở thị
trường đông dân nhất thế giới là Trung Quốc. Vùng đất Quế Châu, Tứ Xuyên,
Vân Nam nổi tiếng về tài nguyên quí hiếm, đông dân, sức mua lớn... trở thành
điểm nóng trong mục tiêu xâm lược của đế quốc Pháp. Nhìn dải đất Việt Nam
như chiếc cầu nối Đông Nam á với vùng Tây Nam Trung Quốc, Pháp nghĩ
ngay việc khẩn trương và bằng mọi cách chiếm lấy vị trí chiến lược quan
trọng này. Đã quyết chiếm thì phải tìm mọi cách để chiếm và do đó, phương
cách ngoại giao của nhà Nguyễn dẫu có khéo léo đến đâu cũng không sao có
thể tránh khỏi hiểm họa này. Do vậy ta cũng không thể so sánh việc Pháp xâm
lược Việt Nam giống như Xiêm-La mảnh đất nằm trong thế đệm tranh chấp
31
của Anh và Pháp.
Tuy nhiên cần giúp học sinh phân biệt rõ nguy cơ bị xâm lược và vấn
đề mất nước lại hoàn toàn không phải là một. Ta đánh giá cao những nỗ lực
của triều Nguyễn trên các lĩnh vực củng cố bộ máy chính quyền, khẩn hoang,
phục hóa, lấn biển.v..v.. nhưng không thể không phê phán những sai lầm có
tính hệ thống và ngày càng nghiêm trọng, liên quan tới sự sống còn của một
quốc gia. Đó là sự bảo thủ, trì trệ khước từ mọi yêu cầu canh tân đất nước
đang đặt ra lúc bấy giờ. Nhiều quan lại cấp tiến như Phạm Phú Thứ, Trần
Đình Túc, Nguyễn Huy Tế,.v..v.. đã nhiều lần dâng sớ đề nghị cải cách, thông
thương, nhưng Triều đình vẫn" bế quan tỏa cảng". Tệ hại hơn, những nho sĩ
nhất mực "ái quốc, trung quân" dâng tờ trần đề nghị cải tiến chế độ khoa cử
lạc hậu thì bị đánh đòn như Ninh Kế (1825); hiến kế ngăn bão lũ, thiên tai thì
bị kết tội "lạm ngôn yêu quái" tống ngục chờ trảm như Nguyễn Tiến Chương
(1927); can ngăn Vua không nên tiêu xài hoang phí thì bị giáng chức, đẩy lên
biên giới xứ Lạng như Thám hoa Mai Anh Tuấn (1851).v..v.. Tiếp đó hàng
loạt đề nghị mở cửa, giao lưu kinh tế, buôn bán với Tây phương, cải cách
quân đội, học tập Nhật Bản canh tân đất nước... đều bị coi là "quá cao" hay là
"mọi rợ". Đặc biệt, Nguyễn Trường Tộ - một sĩ phu tài năng, tâm huyết, ròng
rã 10 năm (1863-1871 ) dâng hơn 40 bản điều trần, trình bày hệ thống việc cải
cách đất nước, tận tụy tới mức ngã bệnh rồi qua đời mà triều đình vẫn bặt lặng
tăm hơi. Chính những sai lầm đó "nhà Nguyễn biến việc nước ta bị mất vào
tay Pháp từ chỗ không tất yếu chở thành tất yếu".
3.2. Sử dụng kiến thức địa lí giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học lịch sử
Kiến thức Địa lí nói chung, bản đồ Địa lí nói riêng có ưu thế trong việc
khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh. Chẳng hạn, khi trình bày Nghị quyết
của Hội nghị Trung ương VIII (5/1941), giáo viên cung cấp cho học sinh
những kiến thức về vị trí chiến lược của Cao Bằng, từng được Nguyễn Ái
32
Quốc đã chỉ rõ: "Cao Bằng là một trong những vị trí quan trọng về chiến lược
của ta từ năm 1924 - 1925 đến sau này"(1) Đến năm 1941 Người lại khẳng
định:
"Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước
ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới lấy đó làm cơ sở
liên lực quốc tế thuận lợi. Nhưng Cao Bằng còn phải phát triển về Thái
Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối
phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ
trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ" (2).
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về địa lý Cao Bằng để tự giải
đáp vấn đề: “Vì sao Khi về nước, Nguyễn ái Quốc đã chỉ đạo xây dựng thí
điểm phong trào Việt Minh ở Cao Bằng?". Từ kinh nghiệm thành công của
phong trào Việt Minh ở Cao Bằng, Hội nghị Trung ương VIII quyết định thành
lập Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941).
3.2. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rõ quan điểm lịch sử
Ví dụ khác, sử dụng bản đồ lịch sử kết hợp với việc phân tích đặc
điểm địa hình để giúp cho học sinh hiểu sâu sắc hơn về cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân 1975. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân năm 1975 do nhiều yếu tố tạo nên, song trước hết và chủ yếu bắt
nguồn từ sự chỉ đạo kịp thời đúng đắn, sáng suốt của Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương. Đó là sự vận dụng nhuần
nhuyễn quy luật chiến tranh cách mạng, mà điểm mấu chốt là vấn đề tạo và
chớp thời cơ, chuyển từ tiến công chiến lược sang Tổng tiến công và nổi dậy
trên toàn miền Nam, giành thắng lợi hoàn toàn
Cần giúp học sinh nhận thức sâu sắc rằng, sau ngày kí kết Hiệp định
Pari, Mĩ buộc phải rút quân về nước song vẫn để lại hơn 2 vạn cố vấn quân
(1) Nông Văn Quang, con đường Nam tiến, NxbVHDT, 1995, tr11
(2) Vừ Nguyờn Giỏp, Những chặng đường lịch sử, (Sđd), tr38-39
33
sự ở miền Nam Việt Nam (núp dưới danh nghĩa các thương gia), tiếp tục
thực hiện mưu đồ "Việt Nam hóa chiến tranh" trong tình hình mới. Trước
những diễn biến phức tạp của cách mạng miền Nam, Hội nghị lần thứ 21
của Trung ương Đảng( 7 - 1973) đã nhấn mạnh:" Con đường cách mạng của
miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình hình nào ta
cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ
đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên"(1).
Việc chọn hướng chiến lược trong năm 1975 được Bộ Chính trị thảo
luận kỹ lưỡng, cẩn trọng. Trên cơ sở phân tích lực lượng địch và cách bố trí
theo thế " mạnh ở hai đầu", Bộ Chính trị nhận định , Tây Nguyên là địa bàn
chiến lược hết sức quan trọng bởi lẽ, lực lượng địch ở đây chỉ có 2 sư đoàn
vừa phải chiếm giữ Tây Nguyên vừa phải bảo vệ vùng đồng bằng duyên hải
miền Trung nên lực lượng bị dàn mỏng. Mặt khác, địa hình Tây Nguyên có
độ cao không đáng kể, thuân lợi cho ta cơ động lực lượng , vận chuyển lương
thực vũ khí , khí tài ...
Mặc dù vậy, Bộ Chính trị nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung đầy đủ thông tin trước khi đi tới kết luận chính thức. Từ đầu năm 1974,
Bộ chính trị đã trực tiếp nghe báo cáo cáo của các đồng chí chỉ huy các chiến
trường đặc biệt là chiến trường Nam bộ và Liên khu V.Trên cơ sở đó, Hội
nghị Bộ Chính trị mở rộng (họp từ ngày 18-12-1974 đến 8-1-1975) đã thảo
luận chi tiết kế hoạchgiải phóng miền Nam. Trong lúc hội nghị đang diễn ra,
ta nhận được tin chiến dịch đường số 14 gìanh thắng lợi, giải phóng thị xã
Phước Long, toàn tỉnh Phước Long với hơn 50 ngàn dân. Chiến thắng Phước
Long chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của chủ lực ta, khả năng mới của
quân, dân ta, đồng thời khẳng định lực lượng địch bị suy yếu rõ rệt. Những
phản ứng yếu ớt của Mĩ cho thấy chúng không có khả năng can thiệp trở lại
cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Những nhận định đó càng củng cố quyết
(1) Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Nxb QĐND, 1977, tr 15-16;
34
tâm để Bộ Chính trị hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam trong vòng 2
năm. Cụ thể, năm 1975 tranh thủ thời cơ tấn công rộng khắp, tạo điều kiện để
năm 1976 tiến hành “tổng công kích - tổng khởi nghĩa”, giải phóng hoàn toàn
miền Nam. Bộ Chính trị còn dự kiến phương án quan trọng:" Nếu thời cơ đến
vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm
1975". Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng thể hiện sự chủ động, sáng suốt của Bộ
Chính trị trong phân tích , đánh gía đúng đắn tình hình tương quan lực lượng
giữa ta và địch; nắm vững quy luật phát triển của chiến tranh; xác định đúng
thời cơ chiến lược để hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong vòng 2 năm.
3.3. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rừ diễn biến sự kiện lịch sử
Bản đồ lịch sử được tích hợp kiến thức địa lí giúp học sinh hiểu rừ sự
kiện lịch sử trên các khía cạnh, như: Tại sao xảy ra ở vị trí không gian đó?
Diễn biến thế nào? Mối liên quan của các sự kiện trong những vị trí không
gian khác nhau ra sao?
Ví dụ, trình bày diễn biến của cuộc Tổng tiến cụng và nổi dậy mùa
xuân năm 1975, giáo viên giúp học sinh hiểu rằng, thực hiện kế hoạch giải
phóng miền Nam, theo quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương,
Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên được thành lập. Sau khi nghiên cứu lực
lượng và cách bố phòng của địch ở Tây Nguyên, ta quyết định đánh lạc hướng
tấn công lên Plâycu và Kon Tum để tập trung lực lượng đánh Buôn Ma Thuột.
Sở dĩ chúng ta quyết định đánh Buôn Ma Thuột vì đây là vị trí chiến lược
quan trọng. Nếu làm chủ Buôn Ma Thuột, ta sẽ phá vỡ thế phòng thủ chiến
lược của địch ở Tây Nguyên, làm thay đổi cục diện chiến trường theo hướng
có lợi cho ta rõ rệt. Mặt khác do phán đoán sai hướng tiến công chiến lược
của ta nên lực lượng địch ở đây bố phòng không mạnh và có nhiều sơ hở.
Tướng Phạm Văn Phú- tư lệnh quân đoàn II ngụy cho rằng, ta sẽ đánh Plâycu
bởi lẽ, đây là địa đầu quan trọng của Tây Nguyên, nơi chỉ huy sở quân đoàn II
đóng giữ, là bàn đạp để tấn công Bình Định lại gần căn cứ tiếp tế của ta ở
35
Liên khu V. Nếu mất Plâycu, Buôn Ma Thuột cũng mất.
Từ nhận định đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời, chủ động và sáng tạo ,
cuộc tấn công đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột của ta đã gìanh thắng lợi
nhanh chóng trong vòng 32 giờ. Ngay sau khi giải phóng thị xã Buôn Ma
Thuột, Bộ Chính trị đã chỉ thị triển khai lực lượng để đánh tan ý đồ tái chiếm
của quân ngụy Sài Gòn, đồng thời cũng dự kiến về một cuộc rút lui của chúng
khỏi Tây Nguyên khi Plâycu bị uy hiếp. Chính những phán đoán nhạy cảm và
chính xác đó đã chỉ đạo lực lượng chủ lực của ta đập tan cuộc phản kích hòng
tái chiếm Buôn Ma Thuột của quân ngụy ( 12-3- 1975) đồng thời khép chặt
vòng vây đẩy mạnh truy kích địch khi chúng tìm đường rút chạy. Khoét sâu
những sai lầm chiến lược của địch , lực lượng chủ lực mặt trận Tây Nguyên
đã thần tốc, nắm vững thế chủ động tiến công, truy kích, giáng đòn quyết
định, làm tan rã lực lượng quân đoàn II ngụy, giải phóng Tây Nguyên với 60
vạn dân. Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên đã mở ra bước ngoặt từ thế
tiến công chiến lược sang tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
Dựa vào bản đồ, giáo viên cần chỉ cho học sinh nhận thức rõ rằng,
thuật ngữ “ Chiến dịch Huế - Đà Nẵng” trình bày trong sách giáo khoa là cách
nói tắt, giản đơn về 3 chiến dịch trong thế trận đồng thời và liên hoàn là:
Chiến dịch Trị -Thiên; chiến dịch Nam - Ngãi; Chiến dịch Đà Nẵng. Nhận
thức mới này được xuất phát từ thực tiễn chỉ đạo của cơ quan chỉ huy tối cao
là Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và thực tiễn diễn ra
trên chiến trường. Ngay trong khi chiến chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc,
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã kịp thời chỉ đạo mở chiến dịch Trị -
Thiên. Tại cuộc họp ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị nhận định rằng:" Thời cơ
chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng
miền Nam". Vì vậy, cần tập trung nhanh nhất mọi điều kiện vật chất, khí tài,
36
lực lượng, hành động nhanh chóng táo bạo bất ngờ, đánh cho địch không kịp
trở tay giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa."(1) song trước mắt phải tiêu diệt
hoàn toàn quân địch ở Huế và Đà Nẵng .
Sau những thắng lợi liên tiếp của quân dân ta ở Quảng Trị (19-3), Tam
Kỳ (24-3), Huế, Quảng Ngãi (25-3), Chu Lai(26-3) địch dồn về co cụm ở Đà
Nẵng trong thế bị bao vây tuyệt vọng . Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra
lệnh cho tướng Ngô Quang Trưởng cố thủ Đà Nẵng bằng mọi giá, nhưng hơn
10 vạn sĩ quan, binh lính ngụy ở đây đang hoang mang cực độ khiến cho
mệnh lệnh "tử thủ" trở nên vô hiệu. Bộ Chính trị nhận định, địch cố muốn
giữ Đà Nẵng cũng không thể được, do vậy cần mở cuộc tấn công Đà Nẵng
với tư tưởng chỉ đạo " táo bạo ,bất ngờ, kịp thời , chắc thắng". Ngày 25- 3 -
1975 Bộ tư lệnh mặt trận Quảng - Đà được thành lập. Sự chỉ đạo kịp thời của
Trung ương đã làm cho sức mạnh tấn công của lực lượng chủ lực mặt trận
Quảng- Đà được phát huy triệt để. Ngày 29-3 quân ta từ các hướng đồng loạt
tấn công làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, giải phóng hoàn toàn thành phố
Đà Nẵng.
Sau hơn một tháng tấn công và nổi dậy, quân dân miền Nam đã gìanh
được những thắng lợi có nghĩa chiến lược quan trọng. Với việc giải phóng
Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, ta đã làm chủ hơn nửa đất đai và dân số miền
Nam , chiếm giữ một khối lượng vật chất, vũ khí, phương tiện chiến tranh
khổng lồ. Đặc biệt lực lượng vũ trang của ta qua chiến đấu đã thể hiện rõ sức
mạnh đoàn kết và khả năng hiệp đồng tác chiến thuần thục, thống nhất. Lực
lượng địch bị suy yếu nghiêm trọng, buộc phải rút về xây dựng tuyến phòng
thủ Phan Rang.
Từ đầu tháng 4 năm1975, cả nước bước vào cuộc hành quân lịch sử
hướng về Sài gòn với khí thế khẩn trương và ý chí quyết tâm"đi nhanh đến,
đánh nhanh thắng". Ngày 6-4-1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ chỉ
37
huy chiến dịch Sài gòn - Gia Định. Theo sát những diễn biến của chiến
(1) Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, NxbCTQG, tr
237
trường, đánh giá đúng lực lượng địch qua từng trận đánh, từng chiến dịch,
Đảng ta luôn chỉ đạo các mặt trận nắm vững thời cơ, phát huy thế tiến công
chiến lược, thừa thắng xốc tới. Lúc này thời cơ chính là lực lượng, là sức
mạnh để đi đến thắng lợi. Ngày 7-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra
lệnh cho các đơn vị hành quân vào chiến trường: Thần tốc, thần tốc hơn nữa,
Táo bạo , táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận,
giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng ".(1)
Theo kế hoạch, đúng 5h30' ngày 30- 4-1975, các cánh quân chủ lực của
ta sẽ đồng loạt tấn công vào Sài Gòn. Riêng cánh quân phía Đông, theo đề
nghị của Trung tướng Lê Trọng Tấn xin được nổ súng sớm hơn 12 tiếng ( 18h
ngày 29-4 ) vì lực lượng đang tập kết ở vùng ven cách thành phố từ 15 -20 km
vừa đánh địch vừa phải vượt sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Việc điều
chỉnh kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh được Bộ
Chính trị và Quân ủy Trung ương nhất trí thông qua. Sự điều chỉnh kịp thời
đó đã phát huy sức mạnh chiến đấu, tạo thế hợp đồng binh chủng chặt chẽ,
đưa cuộc tiến công thần tốc giải phóng thành phố Sài Gòn đúng 11h30' ngày
30 -4- 1975.
3.4. Sử dụng kiến thức địa lí trong dạy học lịch sử ở thực địa
Việc sử dụng kiến thức địa lí với nhiều nguồn tài liệu khác có thể được
tiến hành trong bài học lịch sử ở thực địa. Bài học lịch sử tiến thành ở thực địa,
nơi xảy ra sự kiện và lưu giữ những hiện vật, di tích lịch sử liên quan tới sự kiện
đó, luôn hấp dẫn với học sinh. Bài lịch sử tiến hành ở thực địa là bài lịch sử nội
khoá, song không bị bó hẹp, khống chế về thời gian (như bài nội khóa trên lớp),
nên có thể kết hợp với hoạt động ngoại khoá sinh động cuốn hút học sinh Cũng
như các hình thức hoạt động ngoại khoá, việc tiến hành dạy bài lịch sử ở thực địa
phải được chuẩn bị công phu, từ lựa chọn địa điểm đến công việc tiến hành.
38
Không phải bài lịch sử nào cũng có thể tiến hành được ở thực địa, vì nó phụ
(1) (1) Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, NxbCTQG, tr 286.
thuộc vào nhiều yếu tố: Thời gian, nội dung bài học, điều kiện học tập, vị trí
không gian, phương tiện đi lại...Vì vậy, nơi nào có điều kiện cần cố gắng thực
hiện, bởi vì, nó là một hình thức tổ chức dạy học có tác dụng tốt trong giáo
dưỡng và giáo dục học sinh.
Khi dạy bài “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước", giáo viên
ở Trường THPT ATK (Tuyên Quang) có thể tổ chức giờ học thực địa tại khu di
tích Tân Trào, kết hợp với nhiều hoạt động ngoại khoá sinh động, hấp dẫn. Học
sinh được tiếp xúc với nhiều tài liệu thành văn, tài liệu hiện vật, tài liệu truyền
miệng liên quan đến kiến thức địa lớ. Điều đó giúp học sinh hứng thú trong học
tập, lĩnh hội kiến thức nhanh hơn, củng cố kiến thức bền vững hơn.
Chẳng hạn, tại khu di tích Pác Bó, khi vào hang Cốc Bó, giáo viên
lịch sử Trường Dân tộc nội trú (Hà Quảng - Cao Bằng) có thể gợi cho học
sinh nhớ đến những nội dung quan trọng của Nghị quyết Hội nghị Trung
ương VIII để các em tái hiện kiến thức. Ngắm nhìn chiếc bàn đá, nơi Bác
từng làm việc, nhìn dòng suối Lênin trong xanh uốn mình, in hình bóng núi
Các Mác, giáo viên hướng dẫn học sinh tưởng tượng những ngày gian khổ
mà Bác đã phải vượt qua mọi gian nan thử thách, luôn lạc quan, yêu đời,
tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng. Giáo viên gợi cho học sinh
nhớ lại bài thơ “Tức cảnh Pác Bó"nổi tiếng mà Người đã viết ở đây hồi
tháng 2/1941:
"Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang" (1).
Khi tham quan khu di tích Định Hoá (Thái Nguyên) ngắm nhìn di tích
(1) Hồ Chớ Minh Toàn tập, tập 3, NxbCTQG, HN, 2000, tr 169
39
Định Biên, nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
hợp thành Việt Nam giải phóng quân, giáo viên trường PT Nội trỳ Bỡnh Yờn
cho học sinh nhớ tới nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc kỳ (4/1945) về việc
thống nhất lực lượng vũ trang trong toàn quốc.
Hướng dẫn học sinh tại di tích Tân Trào, đến lán Nà Lừa, nơi Bác Hồ ở
và làm việc trong những ngày tiền khởi nghĩa, giáo viên Trường THPT ATK
(Tuyên Quang) có thể kể rằng: “Giữa lúc thời cơ cách mạng đang chín muồi,
Người bị ốm nặng, sốt li bì. Thấy mình yếu quá, nghĩ rằng khó qua khỏi, Bác
đã dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải
hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập"(2). Điều này làm học sinh hiểu sâu sắc rằng, Đảng ta
đã nhận thức đúng về thời cơ cách mạng và khi nắm được thời cơ “Ngàn năm
có một"thì kiên quyết hành động. Đó chính là nghệ thuật, sự sáng tạo tài tình
trong lãnh đạo cách mạng của Đảng .
Thăm đình Tân Trào, nơi diễn ra Quốc dân đại hội (16,17/8/1945),giáo
viên trường PTTH Sơn Dương - Tuyên Quang nên dẫn một tài liệu nói về
lòng dân với Đảng, với cách mạng, với Bác Hồ, được một đại biểu dự đại hội
kể lại: "Được tin Quốc dân đại hội, họp ở đình làng mình, nhân dân Kim
Long (Tân Trào) đã nô nức cùng nhau đến chúc mừng và ủng hộ đại hội.
Người đem gạo, người đem rau, bầu, bí, người đưa tới một con lợn, có người
dắt đến cả một con bò. Bác thay mặt đại biểu ra nhận quà và cảm ơn đồng
bào. Nhìn các cháu nhỏ không có quần áo, gầy guộc, xanh xao, đang nép
mình vào các chị, các mẹ, Bác nghẹn ngào nói với các đại biểu: “Đồng bào
ta đói khổ vậy, mà hết lòng vì cách mạng. Các cô, các chú tính sao để lấy lại
nước cho nhanh, để các cháu đói khổ thế kia, có cơm ăn, áo mặc, được học hành" .
Đứng bên gốc đa Tân Trào, nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc “Bản
quân lệnh số 1", ra lệnh cho đội Việt Nam giải phóng quân tiến về giải phóng
40
Thái Nguyên, giáo viên đề nghị một học sinh đọc lại bản quân lệnh này, và
(2) Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, (Sđd), tr 203
sau đó cho các em biết rằng, nhà sử học Trần Huy Liệu là tác giả bản quân
lệnh đó như ông đã kể trong hồi ký của mình: "Hôm ấy là đêm 13 tháng 8,
một căn nhà sàn lợp lá, tôi được đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) uỷ cho thảo
bản quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa. Mặc dầu ngồi dưới ngọn đèn dầu
lù mù mà những con tầm xuân, con thiêu thân bay quanh tới tấp, muỗi và rĩn
thi nhau đốt làm tôi lắm lúc nảy người lên, hay đập chân bành bạch, tôi vẫn
say sưa nghĩ đến cảnh nước mất, dân nhục hơn tám mưới năm, nghĩ đến sự
nghiệp cách mạng của mấy thế hệ qua... Bản quân lệnh số 1 lúc ấy tôi thảo ra
một mạch, đọc đi đọc lại vẫn không sửa một chữ nào"(1).
Những hoạt động ngoại khoá rất đa dạng, phong phú, cho phép giáo
viên kết hợp các loại tài liệu, các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
khác nhau. Những hoạt động ngoại khoá nêu trên, đã giúp cho giáo viên biết
cách tớch hợp tài liệu một cách khéo léo, nhẹ nhàng, sáng tạo mà hiệu quả .
Trong dạy học lịch sử ở địa phương Việt Bắc cần hết sức chú trọng
khai thác tài liệu trong các khu di tích thông qua tổ chức giờ học lịch sử ở
thực địa hoặc kết hợp với các hoạt động ngoại khoá như dạ hội, tham quan
v.v...Nguồn tài liệu hiện vật phong phú là bằng chứng hùng hồn, là dấu vết
của quá khứ lịch sử có tính thuyết phục cao, nhất là hiệu quả giáo dưỡng và
giáo dục lịch sử sâu sắc.
Chẳng hạn đề cập tới việc thực hiện nghị quyết của Hội nghị quân sự
Bắc Kỳ (4/1945) ta có thể gắn di tích Định Biên (Định Hoá - Thái Nguyên)
với chủ trương hợp nhất đội Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân (5/1945) hay di tích Khuổi Kịch (Tân Trào - Sơn Dương - Tuyên
Quang) nơi thành lập trường Quân Chính kháng Nhật (7/1945). Thăm lán Nà
Lừa trong khu di tích Tân Trào, ta có thể giúp học sinh hiểu rõ đây là nơi Bác
đã từng sống và làm việc trong những ngày tiền khởi nghĩa. Chính tại đây,
(1) Bác Hồ ở Tân trào, Hồi kí, Sở văn hóa thông tin Hà tuyên, 1985, tr 79
41
giữa lúc bệnh tình nguy kịch người đã dặn dò đồng chí Võ Nguyên Giáp như
là lời trăng trối và cũng là mệnh lệnh đối với dân tộc ta phải khởi nghĩa vũ
trang vì thời cơ cách mạng đang chín muồi: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới,
dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập".Hoặc thăm Đình Tân Trào, nơi diễn ra Đại hội
Quốc dân để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa. Tại đây lần đầu tiên lãnh tụ
Hồ Chí Minh ra mắt quốc dân đồng bào và được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban dân
tộc giải phóng. Mọi người còn nhớ mãi hình ảnh của một vĩ lãnh tụ giản dị
gần gũi mà vĩ đại. Đứng bên gốc đa Tân Trào toả bóng sum xuê, cần gợi nhắc
để học sinh tái hiện một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc. Dưới gốc đa
này chiều ngày 16/8/1945 Đội Việt Nam giải phóng quân nhận lệnh tiến về
giải phóng thị xã Thái Nguyên mở đầu cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong toàn quốc
Tóm lại, Sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn các loại tài liệu trong dạy
học lịch sử đã tạo sức cuốn hút học sinh, hiệu quả dạy học được nâng lên rõ
rệt. Nguyên tắc tích hợp hay liên môn cần được sử dụng ở mức độ phù hợp
với trình độ học sinh và điều kiện cụ thể của địa phương. Tích hợp ở mức độ
thấp, khi sử dụng các nguồn tài liệu liên quan trong mối quan hệ mật thiết hay
tích hợp ở mức độ cao được thực hiện qua việc đối chiếu, so sánh, kết hợp các
42
tài liệu để xác định những kiến thức cơ bản phù hợp với học sinh.
Chương 4
TÍCH HỢP TÀI LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
4.1. Tích hợp tài liệu địa phương trong dạy học lịch sử
Nghiên cứu lịch sử địa phương luôn gắn liền với nghiên cứu lịch sử dân
tộc. Bởi lẽ, lịch sử địa phương là bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc, lịch sử
dân tộc được xây dựng dựa trên cơ sở khái quát những sự kiện, hiện tượng
lịch sử điển hình ở các địa phương. Một sự kiện lịch sử xảy ra gắn liền với
một vị trí không gian cụ thể, trong khoảng thời gian nhất định, do vậy sự kiện
đó trước hết phải mang tính địa phương. Do quy mô mức độ ảnh hưởng khác
nhau mà sự kiện đó trở thành sự kiện lịch sử địa phương hay sự kiện lịch sử
dân tộc. Dù sao chăng nữa, những sự kiện, hiện tượng xảy ra, nhất là trong
quá trình đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, có mối liên hệ chặt
chẽ giữa các địa phương với nhau. Thực tế đó để từ đó giúp cho người nghiên
cứu khái quá hoá những nội dung chung nhất để xây dựng lịch sử dân tộc
hoặc đi sâu phản ánh những nét tiêu biểu có tính đặc thù ở mỗi địa phương.
Dựa vào hoạt động thâm nhập thực tế, ta có thể thực hiện việc nghiên cứu
những diễn biến chi tiết, cụ thể của các sự kiện, hiện tượng lịch sử diễn ra ở
các địa phương. Việc tìm hiểu, nắm vững tri thức lịch sử địa phương, khu vực
là cơ sở rút ra những nhận định, đánh giá, kết luận chính xác khi trình bày lịch
sử dân tộc. Chính vì vậy, nhiều nội dung của lịch sử dân tộc được cụ thể hoá,
được bổ sung, đính chính, hoàn thiện dựa trên kết quả nghiên cứu lịch sử địa
phương.
Chẳng hạn, sự kiện lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước hoạt động sau
30 năm bôn ba hải ngoại, nhiều tài liệu ghi đó là ngày 8/2/1941. Từ hoạt động
nghiên cứu lịch sử địa phương tại Cao Bằng nhóm cán bộ nghiên cứu của
khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc ( nay là ĐHSP- ĐHTN), đã
43
có những căn cứ để xem xét lại sự kiện nêu trên. Qua đối chiếu các tài liệu
điền dã do các nhân mối cung cấp, các hồi ký của các cán bộ cách mạng lão
thành và các nguồn sử liệu khác lưu giữ ở địa phương... đã xác định được
rằng, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước ngày 28/1/1941. Các nguồn tài liệu đó
chỉ rõ, đầu tháng giêng năm 1941 Nguyễn ái Quốc cùng một số đồng chí cán
bộ của Đảng rời Tĩnh Tây (Trung Quốc) tìm đường về nước hoạt động. Trước
lúc vượt biên giới Người đã dừng chân tại Nậm Quang, Ngàm Tảy - một làng
người Nùng kề biên giới Việt Trung, để huấn luyện cấp tốc 40 cán bộ, Đảng
viên người Cao Bằng đang hoạt động tại Tĩnh Tây. Giúp Người tham gia
huấn luyện còn có các đồng chí Võ Nguyễn Giáp, Phạm Văn Đồng, Phùng
Chí Kiên ...Đến ngày 29 tháng chạp (tức 26/1/1941) lớp học kết thúc. Sáng
mồng hai Tết Tân Tỵ (tức 28/1/1941) Nguyễn ái Quốc cùng với một số cán bộ
của Đảng và những thanh niên của lớp huấn luyện đã trở về Tổ quốc hoạt
động. Ngày 30/1/1941 Nguyễn ái Quốc cùng với các đồng chí Vũ Anh, Lê
Quảng Ba trực tiếp kiểm tra hang Cốc Bó, nhận thấy rằng đây là một vị trí bí
mật sát kề biên giới Việt - Trung, nằm giữa cơ sở Nà Sác, Lục Khu và Châu
Hà Quảng nơi có cơ sở cách mạng vững chắc. Người quyết định chọn Cốc Bó
làm nơi ở và làm việc. Sau một thời gian ở nhà một cơ sở cách mạng bí mật,
ngày 8/2/1941 Người chuyển lên hang Cốc Bó thuộc Pác Bó - Hà Quảng -
Cao Bằng để ở và làm việc. Những cứ liệu đó đã góp phần làm sáng tỏ sự
kiện nói trên và giờ đây sự kiện Nguyễn ái Quốc trở về nước được điều chỉnh
vào ngày 28/1/1941.
Một ví dụ khác: Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII ( 5/1941) Đảng ta
đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. Đã có những quan niệm chưa
chính xác rằng là: Mặt trận Việt Minh ra đời sau đó được xây dựng thí điểm ở
Cao Bằng, do vậy phong trao Việt Minh ở đây phát triển mạnh ( khắp 9 Châu
ở Cao Bằng đều có các tổ chức quần chúng của Mặt trận Việt Minh trong đó
có 3 Châu hoàn toàn).Vấn đề là ở chỗ Mặt trận Việt Minh đã từng được xây
dựng thí điểm trước đó (đầu năm 1941). Trước khi trở về nước, Nguyễn ái
44
Quốc đã trực tiếp huấn luyện 40 cán bộ người Cao Bằng ở Tĩnh Tây (Trung
Quốc) để chuẩn bị trở về quê hương xây dựng thí điểm phong trào Việt Minh.
Trên cơ sở đánh giá"Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách
mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó
làm cơ sở liên lạc Quốc tế rất thuận lợi”. Người chỉ rừ “Cao Bằng còn phải
phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn
quốc. Có nối phong trào với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu
tranh vũ trang lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ ". Từ
nhận định đó, Người chỉ thị xây dựng thí điểm phong trào ở 3 Châu Hoà An,
Hà Quảng, Nguyên Bình (Cao Bằng). Sau 3 tháng thí điểm các tổ chức quần
chúng đã tập hợp được hơn 2.000 hội viên thuộc nhiều thành phần dân tộc
khác nhau: Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông v.v...Phong trào mạnh nhất ở Tĩnh
Oa, Nhượng Bạn, Tượng Yên (Hoà An), Nà Sác, Trường Hà, Hoà Mục, Sóc
Hà ... (Hà Quảng), Gia Bằng, Kỳ Chỉ... (Nguyên Bình). Việc xây dựng thí
điểm thành công phong trào Việt Minh ở Cao Bằng là cơ sở thực tiễn đầy
thuyết phục để Trung ương Đảng và Nguyễn ái Quốc quyết định nhân rộng
mô hình đó ra phạm vi cả nước. Vì vậy tại Hội nghị Trung ương VIII (5/1941)
Đảng ta quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. Những tư liệu đó sẽ giúp
cho ta có cách nhìn toàn diện hơn về nội dung sự kiện lịch sử nói trên.
Từ thâm nhập thực tế, người nghiên cứu còn có những cứ liệu để xem
xét những đặc điểm có tính đặc thù của lịch sử địa phương trong tiến trình
phát triển chung của lịch sử dân tộc. Chẳng hạn nói tới hiện tượng "Khởi
nghĩa từng phần" sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), ta thường thấy là
các địa phương căn cứ vào bản chỉ thị: "Nhật Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta " của Thường vụ Trung ương Đảng ra ngày 12/3/1945, để tiến
hành khởi nghĩa giành thắng lợi. Tuy nhiên cũng có nơi căn cứ vào tình hình
cụ thể của địa phương mình, cán bộ lãnh đạo của Trung ương cùng Đảng bộ
địa phương đã quyết định phát động nhân dân khởi nghĩa khi thời cơ đang
thuận lợi. Ví dụ ngày 10/3/1945, ngay sau khi xảy ra cuộc đảo chính ở Nhật -
45
Pháp, tại Sơn Dương - Tuyên Quang, cuộc họp của Phân khu Nguyễn Huệ do
đồng chí Song Hào chủ trì đã nhận định "Thời cơ đã tới" do vậy phải "nhanh
chóng, mạnh dạn hành động". Ngay đêm đó cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền đã nổ ra giành thắng lợi ở Tổng Thanh La. Thừa thắng ta tiến tới giành
chính quyền ở các địa phương lân cận và tiến ra giành chính quyền ở huyện lỵ
Đăng Châu, chính quyền cách mạng Châu Tự do đã ra đời.
Trong quá trình dạy học lịch sử, tài liệu địa phương là nguồn sử liệu
phong phú, là căn cứ khoa học để giúp học sinh tìm hiểu những sự kiện lịch
sử diễn ra ở địa phương mình, từ đó có cách nhìn nhận về lịch sử dân tộc một
cách toàn diện, cụ thể, sinh động, hấp dẫn. Xâm nhập thực tế địa phương là cơ
hội tốt để thầy, trò hiểu rò hơn những chủ trương, chính sách quyết nghị quan
trọng của Đảng được xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể, gắn liền với
những tác động khách quan và chủ quan, do đó văn kiện cũng chứa đựng cả
hai yêu tố đó. Nếu mặt khách quan của văn kiện thể hiện ở chỗ bản thân nó là
lịch sử hoặc là tác nhân quan trọng để tạo ra lịch sử, thì mặt chủ quan được
thể hiện thông qua các nhận định, đánh giá, kết luận. Tính chính xác của văn
kiện được lịch sử kiểm chứng trong đó có những biểu hiện cụ thể thông qua
lịch sử địa phương. Từ nhận thức đó, có thể sử dụng tư liệu lịch sử địa
phương để làm sáng tỏ sự kiện lịch sử dân tộc.
Ví dụ: Dạy phần Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947 ở lớp 12 -
PTTH, dựa vào bản chỉ thị: "Phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp"
của TW Đảng - ngày 15/10/1947, giáo viên có thể làm sáng tỏ âm mưu và
hành động của Pháp khi chúng đưa quân tấn công lên Việt Bắc. Đặc biệt
những chiến công của quân dân Việt Bắc ngay từ ngày đầu chiến dịch được
Đảng ta ghi nhận trong văn kiện quan trọng này: "Học sinh trường võ bị Bắc
Kạn giết hơn 80 quân Pháp nhảy dù xuống cạnh nhà trường (7/10/1947); Đội
cao xạ của ta ở Cao Bằng hạ được 1 máy bay, giết chết 10 tên địch trong đó
có một võ quan cao cấp Pháp, Phó tham mưu quân đội Pháp ở Đông dương
46
(8/10/1947); Vệ quốc quân đánh lui địch đổ bộ lên Bình Ca, thuộc Tuyên
Quang (13/10/1947); Vệ quốc quân và dân quân du kích phối hợp đột kích
Chợ Mới, nã đại bác phá kho của địch (15/10/1947); Dân quân xã Thanh Mai
(Bắc Kạn) tiêu diệt hai quân nhảy dù, đoạt 1 Moócchie, 2 lựu đạn, 1 súng côn
(8/10/1947)..." (1).
Tư liệu lịch sử gắn với kiến thức thực tiễn có thể minh hoạ sáng tỏ hơn
những sự kiện lịch sử cụ thể ở từng địa phương trong quá trình dạy học. Như
vậy những địa danh quen thuộc ở quê hương gắn với những chiến công oai
hùng sẽ là niềm tự hào chân chính giúp cho các em có ý thức trân trọng, giữ
gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc độc đáo của địa phương mình
trong quá trình hội nhập và phát triển. Chẳng hạn, giáo viên ở Tuyên Quang
có thể khai thác đặc điểm địa hình tự nhiên hiểm trở tiện lợi cho ta bố trí trận
địa mai phục giành được những thắng lợi to lớn ở Bình Ca, ở km số 7 đường
Tuyên Quang - Hà Giang, đèo Gà, đầm Hồng (Chiêm Hoá - Tuyên Quang).
Thắng lợi đó chẳng những tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch mà
còn phá tan kế hoạch hợp quân tại Đài Thị - Chiêm Hoá của kẻ thù, buộc
chúng phải tìm đường rút chạy. Đèo Bông Lau (trên quốc lộ 4 Cao Bằng -
Lạng Sơn) nơi xảy ra cuộc phục kích của ta khiến cho quân Pháp phải kinh
hoàng, gọi đây là "con đường chết". Trận đánh bom của chiến sĩ tự vệ Thành
Tuyên để người Pháp coi đó là "tiếng nổ của hoả ngục", và chiến công ở Khe
Lau làm cho dòng Lô - Gâm "ngầu máu" mãi là nỗi ám ảnh đối với quân viễn
chinh Pháp về mảnh đất "nước độc, rừng thiêng" đầy "chết chóc" này.
Giáo viên ở Bắc Kạn có thể cho học sinh hiểu rõ hơn thực trạng của
những ngày đầu chiến dịch. Khi địch cho máy bay bắn phá và quân dù đổ bộ
chiếm một số vị trí quan trọng ở Chợ Mới, Cao Kỳ, Chợ Đồn, mở cuộc càn
quét chiếm Ty Ngân Khố, kho Quân y, Quân giới... làm cho cán bộ và nhân
dân lúng túng hoang mang tuỳ nghi sơ tán. Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ
(1) Văn kiện Đảng,Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , 2000,
tr 315
47
đạo khắc phục tình trạng đó qua bản "Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh uỷ
Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn - ngày
9/10/1947". Bản chỉ thị đó đã phân tích âm mưu hành động, điểm mạnh yếu
trong lực lượng kẻ thù để từ đó Trung ương có những chỉ đạo kịp thời về quân
sự, chính trị, kinh tế để Đảng bộ và quân, dân Bắc Kạn thực hiện. Chính vì
vậy Bắc Kạn đã nhanh chóng củng cố lại lực lượng, chấn chỉnh tư tưởng, tổ
chức đánh địch ở nhiều nơi, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não của kháng chiến
và buộc địch phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã cuối tháng 11/1947.
4.2. Tích hợp kiến thức địa phương trong thực hành lịch sử
Công tác thực hành trong dạy học lịch sử xuất phát từ nguyên lý giáo dục của
Đảng: ''Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận
gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội'' (1)
Theo cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, thực hành lịch sử góp phần làm cho
''Giáo dục phổ thông gắn liền với lịch sử thiên nhiên, xã hội, con người địa
phương, làm cho việc giảng dạy và học tập ở nhà trường thấm đậm hơn cuộc
đời thực. Học sinh ngay từ lúc còn đi học đã sống với thực tế xã hội xung
quanh'' .
Như vậy, công tác thực hành lịch sử là biện pháp tốt nhất để học sinh
biết tớch hợp kiến thức từ nhiều nguồn tài liệu, tớch hợp những kiến thức
tổng hợp với thực tiễn xã hội, biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
Nguyên lý Giáo dục của Đảng được thể chế hoá trong Luật Giáo dục
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội khoá IX thông
qua ngày 2/ 12/ 1998: ''Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
(1) (3) Luật Giáo dục. Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1998, Tr 8-
9;19
48
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
Công tác thực hành lịch sử góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục
tiêu đào tạo ở trường phổ thông. Hoạt động dạy học trong trường phổ thông
nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển thành những con người toàn diện, có trình
độ kiến thức phổ thông cơ bản, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực hành
động, đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đòi hỏi. Từ thực hành
lịch sử địa phương, học sinh được bổ sung, hoàn thiện tri thức lịch sử dân tộc
- một bộ phận tri thức phổ thông trước khi các em bước vào cuộc sống tự lập.
Những nhận thức về tính quy luật trong sự phát triển của lịch sử, những bài
học kinh nghiệm quý báu, việc vận dụng kiến thức lịch sử để giải thích những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra .v.v. đều được hình thành từ công tác thực hành
bộ môn, trong đó có thực hành lịch sử địa phương ở trường học. Từ hoạt động
thực hành lịch sử địa phương, học sinh có những nhận thức sâu sắc về nơi
mình sinh ra, lớn lên, ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với miền quê giàu
truyền thống lịch sử, văn hoá.
- Công tác thực hành lịch sử địa phương có ý nghĩa giáo dưỡng sâu sắc đối
với việc học tập lịch sử của học sinh trong trường phổ thông. Thông qua hoạt
động thực hành, học sinh biết cách vận dụng lý thuyết vào thực tiễn và cũng
chính từ hoạt động thực tiễn, những tri thức lịch sử được củng cố khắc sâu.
Không chỉ vậy, hoạt động thực hành lịch sử địa phương được coi là một trong
những nguồn nhận thức tri thức lịch sử. Từ thực tiễn sinh động, đa dạng của
hoạt động thực hành, học sinh có thể tự khám phá, lĩnh hội thêm những kiến
thức mới, bổ sung, hoàn thiện, củng cố những kiến thức cơ bản được học
trong nhà trường.
Hoạt động thực hành lịch sử địa phương luôn hấp dẫn đối với học sinh
49
phổ thông. Đây là hoạt động học tập, nghiên cứu ngoài nhà trường, nếu được
Theo lý luận dạy học hiện đại, trong thời đại bùng nổ thông tin, học sinh
có thể tiếp xúc với nhiều nguồn tài liệu khác nhau; vì vậy, giáo viên cần chú
trọng thực hành, hướng dẫn học sinh tiếp cận, tìm hiểu tài liệu, tiếp nhận tri
thức. Thực hành giúp học sinh nắm vững sự kiện, hiện tượng lịch sử, bồi
dưỡng hứng thú, say mê trong hoạt động nghiên cứu, sưu tầm tư liệu, chủ động
vận dụng những kiến thức đã học vào lý giải những vấn đề của thực tiễn.
Từ công tác thực hành, học sinh càng nhận thức rõ mối quan hệ chặt chẽ
giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc, thấy được sự phát triển của lịch
sử địa phương có những đặc điểm mang tính đặc thù, song luôn luôn tuân thủ
theo sự phát triển chung của lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới.
Công tác thực hành lịch sử địa phương rèn luyện cho học sinh những
kỹ năng sưu tầm, nghiên cứu tư liệu lịch sử. Đặc biệt, từ việc sưu tầm, xử lý
tư liệu, học sinh được rèn luyện các thao tác tư duy như phân tích, so sánh,
tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, cũng như những phán đoán, giả thuyết nêu ra và
hướng giải quyết trong nghiên cứu. Đó chính là cơ sở để rèn luyện khả năng
phát triển năng lực tư duy, độc lập, sáng tạo, bồi dưỡng niềm say mê, hướng
thú đối với hoạt động học tập nghiên cứu lịch sử địa phương cho học sinh
trong trường phổ thông.
Hoạt động thực hành lịch sử địa phương còn có ý nghĩa giáo dục sâu
sắc. Được trực tiếp tham gia hoạt động sưu tầm, nghiên cứu lịch sử địa
phương, học sinh có những nhận thức đúng đắn về giá trị lịch sử văn hoá của
50
địa phương mình. Càng tự hào về truyền thống của quê hương các em càng có
Công tác thực hành lịch sử địa phương giúp các em học sinh biết gắn
kết quả sưu tầm nghiên cứu vơí những mục tiêu kinh tế xã hội của địa
phương. Nguồn tài liệu phong phú trên các lĩnh vực kinh tế, lịch sử, văn hoá
.v.v. là những cứ liệu quan trọng giúp cho các cấp chính quyền địa phương có
những đề án quy hoạch mang tính chiến lược để khai thác hiệu quả, sử dụng
hợp lý tiềm năng kinh tế xã hội ở các địa phương. Điều đó còn góp phần bồi
dưỡng niềm tự hào chân chính cho nhân dân địa phương về những giá trị
truyền thống văn hoá của quê hương mình.
Như vậy, hoạt động thực hành là nhiệm vụ không thể thiếu trong công
tác nghiên cứu, dạy học lịch sử địa phương. Việc tổ chức, triển khai hiệu quả
hoạt động thực hành là trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng công tác
nghiên cứu và dạy học lịch sử địa phương trong trường phổ thông hiện nay.
Để làm tốt công tác thực hành lịch sử địa phương, chúng ta cần nắm vững nội
dung, hình thức tiến hành, phương pháp thực hiện trên tất cả các công việc
chủ yếu của hoạt động nghiên cứu lịch sử địa phương.
Ví dụ: Thực hành tìm hiểu Địa danh lịch sử
Nghiên cứu lịch sử địa phương ta bắt gặp nhiều tên gọi xóm làng, núi,
sông, đồng, ruộng, biển, hồ .v.v. Những cái tên đó đều có nguồn gốc của nó.
Tìm hiểu địa danh giúp ta hiểu được nguồn gốc của xóm làng, đặc điểm nghề
nghiệp truyền thống, điều kiện tự nhiên, xã hội liên quan đến địa phương.
Hướng dẫn tìm hiểu về địa danh luôn tạo ra sự hấp dẫn, hứng thú đối với học
sinh trong nhà trường. Ta có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu địa danh gần
51
gũi nhất là tên làng, tên phố.
- Tên làng gắn với đặc điểm địa lý tự nhiên.
Làng, xóm, Bản, Mường, buôn, sóc ... của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam đều gắn với một vùng đất nhất định (vị trí không gian). Ở những nơi đó
có những điều kiện tự nhiên chi phối trực tiếp cuộc sống của cộng đồng các
dân tộc. Chính vì vậy nhiều địa danh, tên làng trong quá trình hình thành gắn
liền với điều kiện tự nhiên nơi đó.
Làng Trung Sơn, Lam Sơn, Bắc Sơn ... gắn liền với vùng núi; Thanh
Châu, Hà Châu gắn liền với vùng đất phù sa bồi đắp ven sông; Nà Hang, Nà
Sản, Nà Ngần gắn liền với vùng ruộng bậc thang ven rừng của đồng bào Tày-
Thái; Khuổi Nậm, Khuổi Kịch là làng bản gắn liền với suối của đồng bào Tày
- Nùng.
- Tên làng, phố gắn liền với nghề truyền thống.
Các tên phố cổ ở Hà Nội như Hàng Thiếc, Hàng Đồng, Hàng Bạc,
Hàng Mã, Hàng Đào .v.v. đều gắn với nghề thủ công truyền thống của cư dân
Thăng Long ngàn năm văn hiến. Ở nhiều nơi, các tên Làng Chài, Làng Đúc,
Làng Bông .v.v. đều gắn với nghề nghiệp của phần lớn cư dân nơi đó.
- Tên làng gắn với những biến động xã hội.
Việc tách dân, di cư tự nhiên hoặc do những biến động xã hội, nhất là
chiến tranh, loạn lạc, nhiều bộ phận cư dân phải bỏ quê tìm nơi ở mới. Họ lập
xóm, dựng làng lấy tên làng cũ đặt cho tên làng mới để nhắc nhở cháu con
nhớ tới quê hương, gốc rễ cội nguồn. Chính vì thế một số địa phương có
những tên làng trùng nhau (Bắc Ninh có tới 9 làng mang tên Chờ).
- Tên làng gắn với những sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Làng Quan Triều (Thái Nguyên), quê hương của Dương Tự Minh - thủ
lĩnh Phủ Phú Lương. Ông là người có công lớn trong việc giành lại một vùng
đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống, giữ vững vùng biên ải phía Bắc, được nhà
52
Lý phong sắc ''Uy viễn Đôn Tĩnh Cao Sơn Quảng đô chí thần''. Từ khi ông
Tương tự như vậy, làng Dương Xá gắn liền với quê hương Dương Đình
Nghệ, Lưu Xá gắn liền với quê hương Lưu Khánh Đàm lưu gia thời Lý, làng
A Sào (Thái Bình) trước có tên là A Cảo (tiếng Việt cổ Cảo là gạo) gắn với
việc dựng kho gạo lớn của nhà Trần trước kia. Tân Trào (Tuyên Quang) tên
gọi cũ là Kim Long. Từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa từng phần sau ngày
Nhật đảo chính Pháp (9. 3. 1945), Kim Long giành được chính quyền về tay
nhân dân và trở thành ''thủ đô'' của khu giải phóng Việt Bắc (ra đời 6. 1945).
Tại đây phong trào Việt Minh phát triển rất mạnh, làng Kim Long được đổi
tên thành Tân Trào - nơi có phong trào cách mạng mới (phong trào Việt
Minh).
- Tên làng gắn với những truyền thuyết lịch sử.
Ở nhiều địa phương, tên làng, tên đất, tên đèo, tên núi, tên sông gắn
liền với những truyền thuyết lịch sử: Đèo Mã Phục gắn với truyền thuyết
ngựa đá biết bay của Nùng Trí Cao; Giang Tiên (Thái Nguyên) trước có tên là
Giang Ma, mảnh đất dân gian lưu truyền là ''vùng đất nghịch'' bởi yêu ma
thường xuyên quấy phá. Nhân dân nơi đây lập đền Trình cầu sự che chở của
Đức mẹ và thánh Đuổm Dương Tự Minh, nên mảnh đất được yên bình, dòng
sông Cầu trong xanh chảy qua đây trở thành nơi tắm mát, vui đùa của các
nàng tiên nữ. Vì vậy Giang Ma đổi thàng Giang Tiên.
Nhiều địa danh ở Cao Bằng gắn liền với truyền thuyết Báo Luông, Sao
Cải (hay gọi là Pú Luông). Truyền thuyết kể rằng, từ xa xưa trời mới sinh ra
hai người khổng lồ ở Cao Bằng là Báo Luông (anh to) và Sao Cải (chị lớn).
Họ lấy nhau và sinh được 100 người con. Họ sống lang thang săn bắt, hái
lượm sau đó biết trồng trọt, chăn nuôi. Nơi gia đình Báo Luông giã gạo trong
hộc đá nay là xóm Dộc Xăm (cối giã - theo tiếng Tày của đồng bào địa
53
phương). Nơi họ nấu cơm nay có tên là Nà Mò (ruộng nồi) thuộc xã Nam
Tuấn - Hoà An - Cao Bằng. Cha con Báo Luông bắt voi rừng về thuần dưỡng,
nay là Khe Giáp dạng (Khe voi) thuộc xã Hồng Việt. Nơi bắt nhốt trâu nay
gọi là Lũng Vài (Lũng trâu) ở Hồng Việt. Nơi chăn gà, vịt nay gọi là Rằng
Cáy (núi ổ gà), Lậu Pất (chuồng vịt) thuộc xã Bế Triều .v.v.
- Địa danh gắn với tên các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá.
Ở các thành phố, thị xã các tên phố, phường, đường, quận, thường
mang tên những nhân vật lịch sử, các danh nhân văn hoá, anh hùng dân tộc
.v.v. ở một số nơi, nhiều tên làng xã cũng đặt tên của các chiến sĩ cách mạng
tiêu biểu của địa phương. Chẳng hạn, xã Nam Tuấn (Hoà An- Cao Bằng), xã
Phi Hải, Hồng Định, Hồng Đại, Chí Thảo .v.v. (Quảng Hoà - Cao Bằng) đều
là tên thật hoặc bí danh của các chiến sĩ cách mạng ở địa phương mình.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu thân thế, sự nghiệp các nhân vật lịch sử, các
danh nhân văn hoá cũng chính là biện pháp nghiên cứu lịch sử phù hợp, hấp
dẫn
4.3. Tích hợp các tài liệu lịch sử địa phương, tài văn học, tài liệu địa lí
trong hoạt động ngoại khóa lịch sử.
Cùng với việc tiến hành bài học nội khóa, hoạt động ngọai khóa góp
phần thực hiện những mục tiêu giáo dục bộ môn, nâng cao chất lượng giáo
dục. Công tác ngoại khóa lịch sử góp phần bồi dưỡng, làm phong phú, sâu sắc
toàn diện tri thức lịch sử mà học sinh thu nhận trên lớp. Các hoạt động ngoại
khóa đã gắn việc học tập lịch sử của học sinh với đời sống, tạo cho các em ý
thức, trách nhiệm phục vụ xã hội, ngoài ra hoạt động ngoại khóa sẽ phát huy
năng lực nhận thức độc lập khả năng linh hoạt chủ động của học sinh.
Hướng vào những mục tiêu trên, TLVH để dạy học lịch sử dân tộc giai
đoạn 1930-1945 có thể phục vụ cho một số loại hình ngoại khóa sau:
54
4.3.1. Sưu tầm tài liệu văn học để sử dụng trong học tập lịch sử
Việc sưu tầm tài liệu được tiến hành theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Do nguồn TLVH vô cùng phong phú, giáo viên viên chỉ nên hướng dẫn học
sinh sưu tầm những tài liệu phục vụ thiết thực cho việc nắm vững kiến thức
cơ bản thuộc chương trình môn học theo các chủ đề:
- Hồi kí cách mạng
- Thơ văn tố cáo tội ác của thực dân Pháp – phát xít Nhật
- Thơ văn cách mạng thời kì 1930-1931
- Thơ ca tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh
- Thơ ca ca ngợi Đảng v.v…
Trong khi sưu tầm chú ý những tác phẩm thơ văn của Hồ Chí Minh.
Thơ của Hồ Chí Minh có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục sâu sắc. Là một chiến
sĩ cách mạng lỗi lạc, Người sử dụng tài liệu lịch sử, TLVH để tuyên truyền,
giác ngộ cách mạng rất tài tình, do vậy, nguồn tài liệu văn thơ của Người rất
phong phú, theo sát lịch sử dân tộc và có sức thuyết phục mạnh mẽ. Người đã
viết nhiều bài trên báo “Việt Nam độc lập” để vận động mọi tầng lớp, giai
câp, lứa tuổi, thành phần…tham gia Mặt trận Việt Minh, nhiều bài viết kêu
gọi, cổ vũ nhân dân đấu tranh giành độc lập.
Những tư liệu sưu tầm được có thể sử dụng để bổ sung kiến thức trong
bài nội khóa, chuẩn bị bài tập, chuẩn bị thảo luận…Qua công tác sưu tầm tài
liệu, học sinh sẽ được rèn luyện về khả năng tổng hợp kiến thức, bồi dưỡng
niềm say mê đối với hoạt động sưu tầm, nghiên cứu. Giáo viên cũng có thể
hướng dẫn học sinh sưu tầm các TLVH về các sự kiện lịch sử ở địa phương,
trong đó chú ý đến nguồn TLVH dân gian, qua đó các em nhận thức được mối
liên hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc, bồi dưỡng niềm tự hào,
tình yêu quê hương đất nước và ý thức, trách nhiệm của người công dân trong
tương lai.
55
4.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc hồi kí cách mạng
Hồi kí cách mạng là loại TLVH có tính chân thực lịch sử nhất thiết về
người thật, việc thật trong quá khứ. Khi đọc hồi kí cách mạng, chúng ta có
được những hiểu biết khá đầy đủ và chính xác về phong trào cách mạng trước
đây, về điều kiện sống và làm việc của các chiến sĩ cách mạng, những thủ
đoạn đàn áp, khủng bố của bọn thống trị. Hồi kí cách mạng có thể nói là một
nguồn sử liệu đáng tin cậy, có giá trị, phản ánh quá trình đấu tranh cách mạng
giải phóng dân tộc do Đảng ta lãnh đạo.
Việc đọc hồi kí cách mạng giúp các em hiểu cặn kẽ hơn, cụ thể hơn
những sự kiện lịch sử chủ yếu trong chặng đường đấu tranh cách mạng. Ví dụ
đọc tác phẩm “Những chặng đường lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
“Chặng đường nóng bỏng” của Hoàng Quốc Việt…học sinh hiểu sâu sắc một
thời kì đấu tranh cách mạng gian khổ dưới sự lãnh đạo của Đảng để đưa cách
mạng đi đến thắng lợi.
Mặt khác, những hình ảnh cụ thể và sinh động của người chiến sĩ cách
mạng trong hồi kí có sức hấp dẫn mãnh liệt và có tác dụng giáo dục rất lớn.
“Có thể nói đọc hồi kí, những tâm hồn bé nhỏ, tầm thường nhất cũng không
thể thản nhiên”.
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đọc một số hồi kí như: “Một
chuyến đi lịch sử” của Chu Văn Tấn để thấy tình đoàn kết gắn bó của nhân
dân Trung Quốc và Việt Nam để bảo vệ an toàn cho đoàn cán bộ đi dự Hội
nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Pác Bó (cao Bằng), hồi
kí “ Những mẩu chuyện súng” của Trần Độ kể lại những giai thoại về súng
trong thời kì Tiền khởi nghĩa khiến người đọc cảm phục, hồi kí “ Những ngày
cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ” của Trần Đăng Ninh đã dựng lên đầy đủ,
sâu sắc hình ảnh kiên cường của đồng chí Hoàng Văn Thụ trước lúc hy sinh,
hồi kí “Từ núi rừng Ba Tơ” của Phạm Kiệt đã mô tả cuộc khởi nghĩa cướp
56
chính quyền ở Ba Tơ (11-3-1945) đến ngày Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi
thật hào hùng... Những tài liệu ấy có ý nghĩa thiết thức đối với việc củng cố
kiến thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
4.3.3. Sử dụng tài liệu trong khu di tích lịch sử, cách mạng, nhà bảo tàng,
nhà truyền thống
Có nhiều địa phương hiện nay còn lưu giữ những hiện vật, nhứng di
tích gắn với một giai đoạn lịch sử, một sự kiện lịch sử của dân tộc nên việc
hướng dẫn học sinh tham quan có ý nghĩa quan trọng đối với việc học tập lịch
sử. Trong quá trình tham quan, giáo viên cần hướng dẫn học sinh liên hệ kiên
sthuwcs lịch sử với thực tiễn để tạo ấn tượng và giáo dục học sinh.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tham quan khu di tích Pác Bó
(Cao Bằng). Khi vào hang Cốc Bó, giáo viên nói rõ đây là nơi ở đầu tiên của
Bác Hồ khi Người trở về Tổ Quốc sau 30 năm xa cách:
“ Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về! Im lặng! Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”(1).
Chính tại Pác Bó này đã diễn ra Hội nghị Trung ương VIII (tháng 5-
1941) quyết định những vấn đề lịch sử trọng đại. Sau đó giáo viên nhắc lại
hoặc hỏi học sinh về nội dung hội nghị đã học.
Ngắm nhìn chiếc bàn đá, noi Bác từng làm việc, nhìn dòng suối Leenin
trong xanh uốn mình in bóng núi Các Mác, giáo viên giúp học sinh hình dung
những ngày tháng gian khổ mà Bác phải vượt qua, mặc dù vậy, tinh thần của
Bác vẫn luôn lạc quan, tin tưởng vào ngày toàn thắng của Cách mạng:
“ Sáng ra bờ suối, tối vào hang
(1) Phong Lan, Tố Hữu – về tác gia và tác phẩm, NxbVH, 1999, tr 669.
57
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đã chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.(1) [32, Tr 196]
Pác Bó hùng vĩ cũng chính là nơi mà cách mạng Việt Nam sẽ bùng
cháy dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác – Lênin
“Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà”.(2) [32, Tr 195]
Khi hướng dẫn học sinh tham quan khu di tích Tân Trào ( Tuyên
Quang), giáo viên có thể sử dụng hồi kí “Bác đến Tân Trào” của Song Hào:
“Đứng từ Tân Trào, gần hai gốc đa lớn ở giữa làng, nhìn về phía Bắc
thấy dãy núi Khao Hắp xanh rì, nhìn về phía Nam thấy chân núi Nà Lừa thấy
tre nứa ken dày, phảng phất như những khu rừng trúc trong các bức tranh
thủy mặc. Chính ở dưới chân núi này, Bác đã về trực tiếp chỉ đạo công cuộ
Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc...Nhìn xa hơn nữa là đỉnh núi màu lam già in
bật trên nền trời cao lồng lộng. Từ chân núi Hồng có một con suối gọi là
Khuôn Pén. Chính tại dòng Khuôn Pén này, Bác vẫn thường ra tắm và câu
cá. Cho mãi về sau, khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Bác về thăm
Tân Trào lại tắm giữa dòng suối thân thuộc như xưa”. (3)
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tân Trào, Người
đã nhanh chóng hòa nhập cuộc sống của đồng bào. Đồng bào địa phương
truyền tai nhau: “Có một đồng chí già mới về, yêu dân, yêu bộ đội đặc biệt lại
chăm chỉ lạ thường, đêm làm việc tới khuya, sáng mờ đất đã quét nhà, tưới
rau, lấy củi , đánh thức bộ đội dạy đi tập tành hoặc tăng gia giúp dân. Ông cụ
58
nhiều buổi cũng đi làm, luôn chăm lo nước tưới, thấy ruộng cạn là vận động
(1) (2) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (Sđd), tr 196; 195
(3) Trương Dĩnh, Hồi kí cách mạng , tập 2, NxbGD, tr71
bà con đi tát nước ngày. Có hôm thấy cụ lúi húi ngoài đồng, tưởng làm gì té
ra đắp bờ bị nẻ để giữ nước ruộng cho dân”
Do những thắng lợi của cao trào kháng Nhật cứu nước, tháng 6-1945,
Khu giải phóng Việt Bắc đã ra đời. Tân Trào trở thành thủ đô của khu giải
phóng, traistim của Cách mạng Việt Nam. Từ đây tỏa đi khắp chân trời của
đất nước mọi chỉ thị về đường lối, phương châm, sách lược của Đảng nhằm
đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.
Trong khu giải phóng đã thực hiện nếp sống tươi vui lành mạnh, người
dân được hưởng quyền dân chủ của mình, điều này được phản ánh qua tài liệu
truyền miệng ở địa phương còn lưu truyền đến ngày nay:
“ Việc văn đặt kể cũng nhiều
Còn như việc võ mọi điều kể qua
Để mà phòng thủ muôn nơi
Thấy ai phản động vậy thời điều tra” (1)
Thăm lán Nà Lừa, giáo viên kể rằng: Đây là nơi ở và làm việc của Bác
trong những ngày tiền khởi nghĩa. Giữa lúc thời cơ cách mạng đang chín
muồi thì Bác bị ốm nặng. Nghĩ mình khó qua khỏi, Bác đã căn dặn đồng chí
Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh đến đâu,
dù phải dốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập dân tộc”. Đó là lời căn dặn cũng là mệnh lệnh của Bác đối với lịch sử
nước nhà.
Thăm đình Tân Trào, nơi diễn ra Quốc dân đại hội (ngày 16 và 17-8-
1945), giáo viên dẫn một tài liệ nói về tấm lòng của dân với Đảng, với cách
mạng, với Bác Hồ: “Được tin Quốc dân đại hội họp ở đình làng mình, nhân
dân Kim Long (Tân Trào) đã nô nức cùng nhau đến chúc mừng và ủng hộ đại
(1) Tài liệu điễn dã tại Tân trào
59
hội. Người đem gạo, người đem rau, bầu bí, người đua tới một con lợn, có
người dắt tới cả một con bò. Bác thay mặt đại biểu ra nhận quà và cảm ơn
đồng bào. Nhìn các cháu nhỏ không có quần áo, gầy guộc, xanh xao đang nép
mình vào các chị, các mẹ, bác nghẹn ngào nói với các đại biểu: “Đồng bào ta
đói khổ vậy mà còn hết lòng vì cách mạng, các cô, các chú tính làm sao để lấy
lại nước cho nhanh, để các cháu đói khổ kia có cơm ăn, áo mặc, được học
hành”(1). Đây cũng là lần đầu tiên Bác ra mắt Quốc dân đồng bào và được
bầu làm Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng.
Đứng bên gốc đa Tân Trào, nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc “Bản
quân lệnh số 1” ngày 16-8-1945, ra lệnh cho Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho Tổng khởi
nghĩa ginàh chính quyền trong toàn quốc, giáo viên đề nghị một học sinh đọc
là bản Quân lệnh này và sau đó cho các em biết rằng nhà sử học Trần Huy
Liệu là tác giả của bản Quân lệnh. Quá trình ông viết bản Quân lệnh số 1 rất
nhanh chóng trong một bối cảnh đặc biệt: “Hôm ấy là đêm 13-8, tôi được
đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) ủy cho thảo bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban
khởi nghĩa. Mặc dầu ngồi dưới ngọn đèn dầu lù mù mà những con tầm xuân,
con thiêu thân bay quanh tới tấp, muỗi và dĩn thi nhau đốt làm tôi lắm lúc nảy
người lên hay đập chân bành bạch, tôi vẫn say sưa, nghĩ đến đến cảnh nước
mất, dân nhục hơn 80 năm, nghĩ đến sự nghiệp cách mạng của mấy thế hệ
qua...Bản quân lệnh số 1 lúc ấy tôi thảo ra một mạch, đọc đi đọc lại vẫn
không sửa một chữ nào”.
Qua đó học sẽ làm sống lại bối cảnh lịch sử sôi sục, hào hùng trong
những ngày Tổng khởi nghĩa.
Ngoài các hình thức ngoại khóa trên, có thể tổ chức dạ hội lịch sử, đêm
thơ cách mạng, tổ chức gặp mặt, nói chuyện với các vị lão thành cách mạng,
(1) Đỗ Hồng Thái, Nhận thức về Chủ tịch Hồ Chí Minh như là người thầy giáo dạy học lịch sử, Kỉ yếu Hội
thảo khoa học ĐHSPVB, tr28-33
60
hướng dẫn học sinh xây dựng các báo cáo ngoại khóa.
Ví dụ, Nhân kỉ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ 19-5, có thể tổ chức học
sinh trao đổi thảo luận sau khi nghe báo cáo ngoại khoá :
TỪ “GIÀ THU” PÁC BÓ ĐẾN “ÔNG KÉ” TÂN TRÀO
Sau 30 năm rời xa Tổ quốc, ngày 28/1/1941 lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về
nước để chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Những năm tháng hoạt
động ở Pác Bó - Cao Bằng và sau đó ở Tân Trào - Tuyên Quang, hình ảnh của
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã in đậm trong tâm trí của đồng bào
các dân tộc thiểu số. Người dân địa phương gọi Bác bằng những cái tên thân
mật như:" Già Thu" ở Pác Bó, " Ông Ké", " Ông Cụ" ở Tân Trào. Cách gọi
thân mật của đồng bào bắt nguồn từ chính đức tính khiêm nhường, giản dị,
cẩn trọng, chu toàn, chan hoà và gần gũi của một vị lãnh tụ vĩ đại, nhất mực
thương dân. Bác thật sự trở thành người thân trong mỗi gia đình, thành viên
của bản làng nơi Người hoạt động.
Dựa vào dân, lấy dân làm gốc, đoàn kết, giác ngộ nhân dân là quan
điểm quán xuyến trong mọi hoạt động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn aí
Quốc. Khi mới về nước, Người được các đồng chí Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm
bố trí ở tạm nhà cơ sở cách mạng trước khi chuyển vào hang Cốc Bó - Pác
Bó. Buổi gặp gỡ đầu tiên giữa Bác với ông cụ thân sinh của anh em nhà
Dương Đại Long, Dương Đại Lâm, thật không dễ dàng, bởi bất đồng ngôn
ngữ. Bác lấy bút viết mấy chữ nho lên giấy, ông cụ gật đầu. Vậy là cuộc "bút
đàm" đã nhanh chóng gắn kết hai người như hình với bóng. Sau này, ông cụ
ngỏ ý muốn kết nghĩa "huynh đệ" với " Già Thu'' như " Kết nghĩa vườn đào",
Bác đã viết cho ông cụ rằng: "Kết nghĩa vườn đào chỉ là anh hùng nhất
khoảnh. Kết nghĩa chúng ta phải mở rộng tất cả các dân tộc Kinh, Tày,
Nùng...Triệu người như một để đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phát xít Nhật để
cho nước ta độc lập, mọi người sung sướng, tự do" (1).
61
Ông cụ lại nói:
(1) ,(2) Bác Hồ về nước.(Hồi ký) .Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng, 1986.Tr108;118;
- Bọn đế quốc thì tôi chẳng biết, nhưng sờ sờ trước mắt là bọn tổng lý,
kỳ hào thì ác sao mà ác. Tôi cho bọn này là đáng ghét nhất.
- Bác giải thích:" Dân ta như cái cây, bọn tổng lý, kỳ hào như cái đinh,
mà bọn đế quốc như cái búa. Búa đập vào đinh thì đinh mới cắm vào cây.
Muốn cho đinh không cắm vào cây nữa thì cốt yếu phải giật cho được cái búa,
đánh gãy nó đi. Bọn đế quốc mà đánh qụy rồi thì những tổng lý, kỳ hào chẳng
qua cũng là người làng trên xóm dưới với ta cả, lo gì không uốn nắn được họ"
(2).
Tấm lòng rộng mở ,bao dung, tình cảm chân thành, mộc mạc của Bác
đã làm cho đồng bào địa phương nhất mực tin yêu. Sau ngày chủ trì Hôị nghị
Trung ương VIII ( 5/1941), Bác ở nhà cụ Mã Văn Hản người Nùng ở Lam
Sơn. Người dân địa phương gọi cụ Hản theo tên con trai đồng lòng là cụ Lén.
Trước kia cụ Lén là người khó tính, ít người muốn gần. Người ta nói
rằng, có lần cụ Lén ra chợ bán rau cải, người mua lấy thêm một tàu, cụ đuổi
theo giằng lại cho kì được, khi đó chỉ còn tàu lá cải đã rách bươm. Lại có lần
cụ Lén bán thịt lợn, người mua nhặt thêm mẩu xương, cụ cũng đòi lại. Vậy
mà ở bên Bác một thời gian, cụ Lén mang từng đùi lợn ủng hộ cán bộ cách
mạng. Được giác ngộ cách mạng, gia đình cụ Lén tham gia làm giao liên dẫn
đường cho cán bộ hoạt động. Cụ bị địch bắt, dù bị chúng đánh đập dã man
nhưng vẫn một lòng kiên trung, quyết không hé răng khai báo nửa lời.
Người đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, giác ngộ quần chúng
nhân dân. Những bài viết của Người trước khi đăng báo"Việt Nam độc lập",
thường đưa cho một số đồng chí cán bộ địa phương, những người mới được
giác ngộ, văn hoá còn thấp, truyền nhau đọc. Sau đó Bác ân cần hỏi mọi
người còn chỗ nào chưa hiểu, Bác viết lại cho thật dễ hiểu rồi mới cho in để
tuyên truyền. Theo Bác, việc tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho đồng bào
62
miền núi phải thật dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với trình độ nhận thức của người
Để chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến, đặc biệt việc nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc là quan
trọng hàng đầu, Bác cắt nghĩa một cách mộc mạc để đồng bào miền núi dễ
hiểu: "Đế quốc như gốc cây, tay sai như cành ngọn cây, nếu ta muốn chặt cây
mà chỉ chặt cành, chặt ngọn thì nó lại mọc cành khác, ngọn khác. Phải chặt
vào gốc, cây mới đổ. Đánh đế quốc tay sai cũng phải như thế. Cái chính là
phải đánh đổ bọn đế quốc"(1).
Trong đấu tranh cách mạng, bại vong là lẽ thường tình, song điều quan
trọng là giữ cho phong trào cách mạng của quần chúng luôn vững vàng, vượt
qua thử thách để đi tới thắng lợi cuối cùng. Phẩm chất người cách mạng là
thắng không kiêu, bại không nản, luôn cảnh giác, chớ chủ quan coi thường,
khinh địch, ngay cả khi cách mạng đang lên. Lúc hiểm nguy càng thể hiện ý
chí kiên cường, gan góc, giữ vững niềm tin vào thắng lợi cuối cùng. Bác đã
đưa ra một thí dụ sinh động đầy tính thuyết phục: "Đế quốc như nước trong
nồi, cách mạng như lửa, nước với lửa bao giờ cũng kỵ nhau. Lửa càng cháy,
càng bốc cao ngọn thì nước trong nồi càng nóng, đến độ nào đó sẽ sôi trào ra
(1) , Bác Hồ về nước.(Hồi ký) .Hội văn học nghệ thuật Cao
Bằng, 1986.Tr 118;
63
ngoài làm lửa tắt. Ta nhóm lại lửa, chất thêm củi vào, ngọn lửa to lên nước
Trong công tác dân vận người hướng dẫn cán bộ những việc nên làm
đồng thời cũng chỉ rõ những điều nên tránh, nhất là việc tuyên truyền hình
thức phô trương, lý thuyết suông, viển vông không thiết thực, tốn kém tiền
của, lãng phí thời gian. Theo Bác" học phải đi đôi với hành, lý luận phải đi
đôi với thực tiễn".
Tháng Tám năm 1942 trên đường công tác sang Trung Quốc, Bác bị
chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Hơn một năm bị đầy ải trong tù
ngục, phẩm chất cách mạng của Người càng thêm được tôi rèn và toả sáng.
Những kinh nghiệm đấu tranh của người chiến sĩ cách mạng chân chính cùng
với áp lực của phong trào cách mạng bên ngoài buộc chính quyền Tưởng Giới
Thạch phải trả tự do cho Bác. Cuối năm 1944 Người tìm đường trở về Tổ
quốc để chỉ đạo phong trào cách mạng. Sau khi nghe các đồng chí lãnh đạo
của Trung ương Đảng báo cáo tình hình, nhất là quyết nghị của Liên Tỉnh uỷ
Cao - Bắc - Lạng về chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa, Người nhận xét:
"Chủ trương phát động chiến tranh du kích ở Cao - Bắc - Lạng mới chỉ
căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong
toàn quốc, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục.Trong điều kiện bây
giờ, nếu phát động ngay nhân dân nhất tề nổi lên đánh du kích theo quy mô
và phương thức đã định trong nghị quyết thì sẽ gặp khó khăn. Có thể còn khó
khăn hơn thời kì bị khủng bố vừa rồi. Bởi vì các địa phương khác trong toàn
.Nhà xb Văn học
.Hà Nội
quốc tuy phong trào cách mạng đang lên nhưng hiện chưa có nơi nào có điều
kiện vũ trang chiến đấu để sắn sàng hưởng ứng" (1)
64
Sau đó Bác chỉ rõ:
(1) Bác Hồ về nước, Sđd
(1) (2) (3) Võ Nguyên Giáp.Những chặng đường lịch sử
.1977.Tr129;131;133;
"Bây giờ thời kì hoà bình phát triển đã qua, nhưng thòi kì toàn dân
khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính
trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang
khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu trang bây giờ
phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị
còn chậm hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể
đẩy mạnh phong trào tiến lên... Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh
hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến phải nhằm lấy ảnh
hưởng tốt về chính trị, do đó mà mở rộng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang.
Chúng ta sẽ thành lập Đội quân giải phóng".(2)
Từ quan điểm chỉ đạo đó, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập vào ngày 22/12/1944. Đây là đội quân chủ lực đầu tiên của
quân đội ta, hoạt động với phương châm chính trị trọng hơn quân sự, vũ trang
là để tuyên truyền. Vậy nhưng hoạt động của đội chủ lực sẽ như thế nào khi
tới các địa phương đã có lực lượng tự vệ và nửa vũ trang. Điều băn khoăn đó
của đồng chí Võ Nguyên Giáp đã được Bác giải thích: "Thống nhất chỉ đạo
cả chủ lực cả địa phương. Ba lực lượng ấy đoàn kết phối hợp chặt chẽ với
nhau. Đội chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt giúp đỡ các đội địa phương trưởng
thành"(3). Như vậy ngay từ lúc đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra
đời, Bác đã có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn cho hoạt động của lực
lượng vũ trang cách mạng , đồng thời Người cũng đặt cơ sở cho hướng xây
dựng lực lượng vũ trang với ba thứ quân ở giai đoạn sau này.
Từ sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp ngày 9/3/1945, Đảng ta chủ trương
phát động toàn dân dấy lên Cao trào kháng Nhật cứu nước để taọ ra những
tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong toàn quốc. Nhiều
địa phương có điều kiện thuận lợi đã tiến hành khởi nghĩa từng phần giành
65
thắng lợi, chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi, vùng giải
Lại thấy Bác miệt mài làm việc, thời gian rảnh rỗi luôn chăm chút việc
nhà, toan lo công việc đồng áng của nhân dân, đồng bào địa phương rỉ tai
nhau: "Có đồng chí già mới về, yêu dân, yêu bộ đội đặc biệt, lại chăm chỉ
khác thường, đêm làm việc tới khuya, sáng mờ đất đã quét nhà, tưới rau, lấy
củi, đánh thức bộ đội đi tập, hoặc tăng gia gíup dân. Ông cụ nhiều buổi cũng
đi làm cùng dân, rất chăm lo nước tưới, thăm đồng về thấy nước cạn là vận
động bà con đi tát nước ngay. Có hôm thấy cụ lúi húi ngoài đồng, tưởng làm
gì, té ra đắp một cái bờ bị nẻ để giữ nước cho dân" (1)
Luôn chăm lo tới cuộc sống đồng bào địa phương, Bác thường xuyên
nhắc nhở mọi người phải tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đùm
bọc giúp đỡ lẫn nhau lúc khó khăn, đói kém, tránh cờ bạc, rượu chè, nghiện
hút, lãng phí trong cưới xin, ma chay, cúng tế. Bác đặc biệt chú ý việc tuyên
truyền giáo dục nâng cao nhận thức chính trị cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Bác kể chuyện về tình hình thế giới, trong nước, liên hệ gắn với địa phương
một cách cụ thể, sinh động, súc tích nên đồng bào thích nghe, dễ hiểu, dễ nhớ
và nhớ lâu. Cụ cố Nguyễn Tiến Sự kể rằng, khi Bác mới về Tân Trào tạm ở
(1) Bắc Hồ ở Tân Trào, ( Trích Hồi kí) , Sở văn hoá thông tin Hà Tuyên ,
1985, tr 57
66
trong nhà cụ, Bác đã nhanh chóng hoà nhập gần gũi như thành viên trong gia
- Chú Sự tham gia cách mạng có thấy vất vả không?
- Thưa Bác, vất vả đấy nhưng được tham gia cách mạng để góp phần
giải phóng đất nước thì vui lắm.
- Vậy là chú giác ngộ rồi - Bác nói. Chú tham gia cách mạng để giải
phóng dân tộc không quản gian khổ, hy sinh. Một việc khó như thế mà chú
còn làm được, vậy thì việc giải phóng thím hai nhà mình chú có làm được
không? (Khi đó cụ Tiến Sự có hai vợ)
Câu hỏi chân tình của Bác trong một tình huống đó đã có ý nghĩa giáo
dục sâu sắc. Cụ Tiến Sự nói rằng, lúc đó tôi cảm thấy thật xấu hổ và như
người mắc lỗi với Bác. Sau đó tôi để cho bà hai nhà tôi được tự do.
Bác trở thành "Ông ké" của người dân Tân Trào_một "Ông ké" tài trí lạ
thường, am tường kim cổ, đồng bào mến phục, tin đồn truyền lan:" Có ông cụ
tuổi cao, sao mà nhanh nhẹn, tài giỏi đến thế. Dân mình lắm người tài, phen
này nhất định lấy lại được nước"). Những ngày ở làng Tân Lập, Bác sống
trong tình yêu thương, che chở, gắn bó của đồng bào địa phương, song tính
chất của công việc đòi hỏi sự bí mật và an toàn, các đồng chí cán bộ đã đưa
Bác lên ở và làm việc trong một căn lán nhỏ đơn sơ, bên núi Nà Lừa cách
làng chừng 3 km. Vị trí dựng lán vừa kín đáo lại gần nước, kề rừng, không
cách xa làng ,tiện đường liên lạc. Công việc bộn bề, Bác làm việc miệt mài
chẳng mấy lúc nghỉ ngơi. Sau khi nghe báo cáo về tình hình phát triển của
phong trào cách mạng, nghiên cứu địa thế liên hoàn nối liền các vùng giải
phóng thuộc phạm vi các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Hà Giang và một số vùng lân cận, Người chỉ thị thành lập Khu
67
giải phóng Việt Bắc.
Chấp hành chỉ thị đó, ngày 4/6/1945 Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội
nghị cán bộ tại Tân Trào ( Sơn Dương - Tuyên Quang) tuyên bố thành lập
Khu giải phóng Việt Bắc, đặt dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban chỉ huy lâm thơì.
Khu giải phóng bao gồm
Vùng giải phóng thuộc các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và các vùng ngoại vi thuộc các tỉnh Bắc
Giang, Phú Thọ, Yên Bái.v.v... Tân Trào nơi có địa hình hiểm trở, đảm bảo bí
mật thuận lợi cho việc liên lạc, chỉ đạo phong trào cách mạng nối liền miền
ngược với miền xuôi, được chọn làm thủ đô Khu giải phóng. Uỷ ban nhân dân
cách mạng trong Khu giải phóng đã thi hành rộng rãi các chính sách của mặt
trận Việt Minh. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành hình ảnh thu nhỏ của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà sau này.
Cách mạng đến, Bác Hồ về với quê hương, đồng bào các dân tộc thiểu
số ở Tân Trào được giải phóng khỏi gông xiềng, áp bức, bóc lột của đế quốc,
phát xít, phong kiến. Nghĩa nặng, ơn sâu, tình cảm của đồng bào địa phương
đối với Bác rất mộc mạc chân thành gần gũi mà tôn nghiêm, trân trọng tự hào
và khâm phục:
"Cụ Hồ, Người thật đảm đang
Truyền thanh, tuyến điện cụ mang trong mình
Ngoại giao, cụ thật tài tình
Nội trị thật cũng chẳng ai sánh cùng”(1)
Trong tư duy của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tân Trào, hình ảnh Bác
gắn liền với Đảng. Tin yêu Bác là tin yêu Đảng, tin yêu Đảng là hết lòng ủng
hộ Việt Minh, theo Việt Minh để bảo vệ Bác, Bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng
cũng chính là bảo vệ cuộc sống tự do trên quê hương mình:
(1) Tại liệu điền dó tại Tõn Trào – Sơn Dương –Tuyờn Quang
68
" Kể theo lịch sử chẳng sai
Đến năm ất Dậu ai ai một lòng
Từ giờ việc Pháp bỏ không
Bây giờ việc nước theo cùng Việt Minh
Giặc Tây đến lúc phải kinh
Việt Minh đã nổi dân tình đều theo
... Chánh phó tự vệ cắt ra
Canh gác túc trực lối ba, bốn người
Để mà phòng thủ muôn nơi
Xem ai phản động vậy thời điều tra"(1)
Đầu tháng Tám 1945, trước sức mạnh tấn công của Hồng quân Liên Xô
và lực lượng Đồng minh, quân Nhật đang đứng trước nguy cơ đại bại. Thời
cơ của cuộc tổng khởi nghĩa đang tới dần. Công việc bộn bề, khẩn thiết, Bác
làm việc kiệt sức và ốm nặng. Suốt mấy ngày Bác lên cơn sốt li bì, người
nóng ran, mê sảng. Thuốc men thiếu thốn, Bác uống mấy viên kí ninh nhưng
bệnh tình không hề thuyên giảm. Những lúc tỉnh ,Bác lại hỏi về công việc.
Khi thấy mình yếu quá, sợ rằng không qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo, Bác
nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp đang ở bên Bác trong lán Nà Lừa, như một
lời chỉ thị:" Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù có phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập" .
Được tin Bác ốm nặng đồng bào địa phương ai cũng sửng sốt, lo âu.
Không ai dám nói ra điều chẳng lành song đều nghĩ và lo sợ: Điều gì sẽ xảy ra
nếu những cơn sốt nghiệt ngã của miền rừng núi vẫn tiếp tục hoành hành, khi
sức Người đã quá yếu!?. Giữa lúc đó một ông ké người Tày đã kịp thời đến
lán, bắt mạch, đặt tay lên trán Bác rồi vội vã đốt rễ cây thuốc kiếm được trong
(1) Tại liệu điền dó tại Tõn trào
69
rừng hoà với cháo loãng, nâng cho Bác uống. Bác tỉnh dần. Thêm vài lần
uống tiếp, Bác thấy mình đỡ hơn. Lại có người ra bờ sông Đáy mò được con
ba ba, cắt tiết hoà với rượu làm thuốc cho Bác uống. Mấy hôm sau, Bác
gượng dậy được, lại lao vào công việc. Lúc này mọi người vần còn lo, song ai
nấy thở phào - nhẹ nhõm.
Từ ngày 13 - 15/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào,
ra nghị quyết lịch sử về việc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
Bác mới ốm dậy song vẫn cố đến dự hội nghị từ đầu.
Ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội khai mạc tại đình Tân Trào. Lần đầu
tiên, Bác ra mắt trước đại biểu quốc dân đồng bào với tên gọi Hồ Chí Minh!
Chính vì vậy,khi Quốc dân đại hội bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ủy ban dân
tộc giải phóng ,có một số đại biểu băn khoăn ,vì sao không bầu Nguyễn ái
Quốc?Sau khi biết Nguyễn ái Quốc chính là Hồ Chí Minh mọi người nhìn
nhau cười vui sướng. Nghe tin Đại hội quốc dân họp tại đình làng, bà con
làng Tân Lập và các xóm lân cận nô nức cùng nhau đem gạo, gà vịt, rau quả
tới ủng hộ cho đại hội. Có ông cụ xin ủng hộ một con bò. Bác thay mặt các
đại biểu Đại hội nhận quà và cảm ơn tình cảm của đồng bào địa phương đã
dành cho cách mạng. Chợt thấy những em bé gầy yếu, bụng ỏng, da xanh,
cháu thiếu quần, cháu không có áo đang dắt díu bám theo các bà, các mẹ, Bác
quay lại ngẹn ngào nói với các đại biểu:" Chúng ta phải nghĩ sao lấy lại nước
cho nhanh để các cháu bé đói khổ như thế kia ,có đủ cơm ăn, áo mặc, được
học hành". Lời Bác nói thật giản dị, nhẹ nhàng mà cảm động, thấm thía. Đồng
bào địa phương được biết lãnh tụ Hồ Chí Minh chính là" Ông Ké Tân Trào
mình" thì phấn khởi truyền tin cho nhau hay.
Sáng ngày 17 tháng Tám , ủy ban dân tộc giải phóng ra mắt quốc dân
đồng bào và làm lễ tuyên thệ.Bác thay mặt ủy ban,hướng lên lá cờ đỏ sao
vàng đọc lời tuyên thệ:"Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu
bầu vào ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhan dân
70
ta.Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc ,chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh
đạo nhan dân tiến lên,ra sức chiến đấu chống quân thù ,giành lại độc lập cho
Tổ quốc.Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng ,quyết không lùi bước .Xin
thề "(1).Mặc dù mới ốm dậy ,nhưng giọng Bác vẫn dõng dạc ,âm vang thể hiện
tinh thần quật khởi của một dân tộc đang kiên quyết đứng lên giành cho được
độc lập tự do .
Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, rồi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ thắng lợi,
Bác cùng với Trung ương Đảng tạm biệt đồng bào miền núi" Về lại Thủ đô".
ở Hà Nội, sống và làm việc trong ngôi nhà sàn gỗ giản dị, gần gũi với người
dân miền núi, Bác lại càng thấy nhớ nhung và gắn bó với đồng bào các dân
tộc thiểu số ở khắp các miền rẻo cao của Tổ quốc thân yêu. Bác thường xuyên
quan tâm, thăm hỏi và căn dặn: "Đồng bào các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ,
thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong một nhà"
Bác đã đi xa, song hình ảnh của "Già Thu Pác Bó"và" Ông ké Tân
Trào" cùng sự nghiệp vĩ đại của Người còn sống mãi với đồng bào các dân
tộc nơi đầu nguồn cách mạng và thủ đô khu giải phóng năm xưa.
Như vậy các hoạt động ngoại khóa rất phong phú, đa dạng cho phép
giáo viên kết hợp nhiều nguồn tài liệu với các phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học khác nhau. Giáo viên khi đã nhận thức và thực hiện một cách nghiêm
túc hoạt động ngoại kháo sẽ làm tăng hiệu quả giáo dưỡng, giáo dục, phát
(1).Bác Hồ ở Tân Trào.(Hồi ký).Sở Văn hoá thông tin Hà Tuyên.1985.Tr57;25-26.
71
triển học sinh.
Chương 5
TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
5.1. Khái quát về tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử
Điều 3, Luật Bảo vệ Môi trường 2005 định nghĩa: Môi trường bao
gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
Như vậy, môi trường sống của con người gồm hai yếu tố tự nhiên và xã hội:
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá
học, sinh học (ánh sáng, núi, sông, biển cả, khí hậu, động và thực vật, tài
nguyên...) tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng luôn chịu tác động của
con người.
- Môi trường xã hội: Là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với
con người thông qua các quy ước xã hội, định chế luật pháp, ứng xử, hành
vi...)
Lịch sử xã hội là một bộ phận của thế giới tự nhiên. Con người và xã
hội loài người gắn bó một cách một cách mật thiết, hữu cơ với môi trường
sinh sống: chịu ảnh hưởng của môi trường và tác động trở lại môi trường. Môi
trường đã có những ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự hình thành và phát
triển xã hội loài người, quá trình hình thành và đặc điểm văn hoá, văn minh
của từng cộng đồng xã hội. Mặt khác, tiến trình phát triển của lịch sử xã hội
cũng đồng thời là tiến trình con người tác động, cải tạo môi trường tự nhiên
Vì vậy, tìm hiểu lịch sử xã hội loài người không thể không tìm hiểu
những điều kiện tự nhiên mà con người tồn tại và phát triển. Môn Lịch sử
trang bị cho HS những kiến thức về sự phát triển của xã hội loài người. Quá
trình phát triển của xã hội loài người là quá trình con người, xã hội loài
72
người chịu ảnh hưởng tác động của môi trường, đồng thời là quá trình con
người tác động vào thế giới tự nhiên từ thời nguyên thuỷ đến ngày nay. Với
một ý nghĩa như vậy, môn Lịch sử có khả năng góp phần thực hiện giáo dục
BVMT cho HS.
Mặt khác, môn Lịch sử giúp cho HS hiểu được sự tác động của điều
kiện tự nhiên đối với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người (đặc
biệt là thời kì nguyên thuỷ và thời cổ đại); sự tác động của con người vào môi
trường tự nhiên, cũng như những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đối với môi
trường tự nhiên, qua đó góp phần dự báo những con đường tác động tiếp theo
của con người đối với thế giới tự nhiên và những hướng thay đổi tích cực đối
với MT.
Bên cạnh đó, việc GDBVMT trong môn Lịch sử giúp cho HS hiểu rõ
hơn, sâu hơn quá trình phát triển của xã hội loài người. ( Điều kiện tự nhiên
đã tác động tới đặc điểm văn hoá, văn minh nhân loại ở thời cổ đại như thế
nào;Trình độ văn minh của con người qua các thời kì lịch sử được đánh dấu ở
những sự kiện nào trong quan hệ đối với tự nhiên...) Với một ý nghĩa như
vậy, môn Lịch sử có khả năng góp phần thực hiện giáo dục bảo vệ môi
trường cho học sinh.
5.2. Yêu cầu về nội dung giáo dục bảo vệ môi trường qua trong dạy học
Lịch sử
Việc GDBVMT qua môn Lịch sử ở trường phổ thông nói chung,
trường THPT nói riêng phải thông qua nội dung môn học. Trên cơ sở tìm hiểu
nội dung CT-SGK Lịch sử lớp 10, 11, 12, chúng tôi xác định những yêu cầu
về nội dung cần GD cho HS là:
- Cung cấp cho HS những kiến thức về không gian nơi xảy ra sự kiện
lịch sử. Điều này hết sức quan trọng, vì mọi sự kiện, quá trình, nhân vật lịch
73
sử đều xảy ra trong những điều kiện tự nhiên, xã hội nhất định.
- Sự tác động của môi trường đối với sự hình thành con người, xã hội
loài người; sự hình thành và đặc điểm văn hoá, văn minh nhân loại (môi
trường tự nhiên khác nhau đã góp phần tạo ra sự khác nhau giữa các nền văn
minh cổ đại về thời gian ra đời và kết thúc, về đặc điểm và thành tựu...)
- Con người thích nghi với tự nhiên, khai thác, chinh phục thế giới như
thế nào?. Việc khai thác chinh phục thế giới tự nhiên, phục vụ đời sống và sự
phát triển của xã hội ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến môi trường sống.
- Sử dụng và bảo vệ tài nguyên, các nguồn năng lượng sạch ( năng
lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thực vật.) .
- Gìn giữ, bảo vệ các di tích lịch sử, các di sản văn hoá.
ây là một nôi dung đặc biệt quan trong cần chú ý khai thác khi dạy học
lịch sử . Những vấn đề này có thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam và
lịch sử thế giới.
Ví dụ, dạy phần kiến thức văn hóa cổ đại phương Đông cho học sinh
lớp 10, giáo viên có thể khai thác những tư liệu lịch sử sau đây để giáo dục
bảo vệ môi trường văn hóa lịch sử
+ Áctêmít
Khi Hy Lạp xâm lược phương Đông, chúng xây dựng ở Tiểu á Tây Bộ
nhiều thành phố nổi tiếng : Alêcxariđri, Halicacnat, Êpheolơ,.v..v... Êphedơ là
thành phố nổi tiếng về sự giàu có, nhà vua đức độ, quần thần tài hoa, đội ngũ
thủ công lành nghề, các kiến trúc sư tài giỏi
Êphêdơ thờ thần Áctêmít một trong mười hai vị thần nổi tiếng của Hy
Lạp. Áctêmít là núi thần biểu trưng cho sự thanh tao, trong trắng, hết lòng che
chở cho muông thú, cỏ cây, giữu gìn sự bình yên cho muôn loài. Vì vậy người
Êphơdơ muốn xây dựng đền thờ áctêmít nguy nga tráng lệ để thể hiện lòng
tôn kính của mình. Công việc đã được giao cho kiến trúc sư Khecxifhrôn-
74
người am tường nhiều lĩnh vực: Địa Lý, Lịch Sử, Triết học, Thiên văn ....
Công trình đồ sộ, thi công phức tạp, tốn kém, nhiều khi thiếu tiền của
dân chúng hoài nghi, phiến ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn tìm đến cái
chết. Sau đó nghị lực phi thường khiến ông trụ vững vượt qua và lại tiếp tục
công việc của mình. Ông đã cống hiến cả đời mình cho công trình Đại Đế, tới
khi nhắm mắt xuôi tay công việc vẫn còn ngổn ngang. Con trai ông là
MêTaghen đã tiếp tục công việc cha mình và hoàn thành cơ bản công trình có
một không hai đó. Từ khởi công đến hoàn thành 120 năm.
Một kẻ vô lại của thành phố Êphêdơ là Êrôxtrát đã muốn mình nổi danh
về thành tích bất hảo. Y đã đốt cháy ngôi đền áctêmít, niềm tự hào không chỉ
của người Êphêdơ mà còn là của nhân loại bởi nó là một kỳ quan của thế giới
cổ đại.
Hành động điên khùng đó, khiến cho người dân Êphêdơ đau buồn và
căm phẫn. Nhà vua Êphêdơ đã căm tức tới mức cấm người dân không được
nhắc tới tên của kẻ vô lại này không được nhắc đến vụ cháy khủng khiếp đó,
coi hắn không phải là của con người mà là một loại động vật không có tên
trên trái đất.
Căm phẫn tên vô lại, dân Êphêdơ đã quyết tâm quyên góp, tiền của, xây
dựng lại đền. Vị hoàng đế Alêcxăngđrơ trên đường chinh phục ấn Độ đã ghi
ghé lại Êphêdơ rất đỗi khâm phục người dân vùng này, ông đã cho tiền động
viên vì vậy, ngôi đền này một lần nữa được mọc lên đồ sộ hơn tráng kệ hơn.
Rồi một ngày kia Êphêdơ bị xâm lược kẻ xâm lược rất đỗi khâm phục tài
năng của người dân Êphêdơ, và vẻ đẹp lộng lẫy uy nghi của đền áctênít tái
hoàn. Chẳng hiểu từ đâu, người ta đồn rằng trong đền có vàng, thế là cả đám
quân xâm lược xông vào phá phách đào bới. Và lần này đền Áctêmít vĩnh
viễn ra đi.
+ Thư viện ở Alếchxăngđrơ ở Ai Cập, nơi lưu giữ lượng sách khổng
lồ được xây khoảng thế kỷ II trước CN. Thư viện sớm nhất thế giới. Đây là
75
nơi lưu giữ hầu hết các công trình nghiên cứu, các tác phẩm văn học nghệ
thuật của Hy Lạp cổ đại. Số sách ở đây lên tới 700 000 cuốn. Biết bao nhà
khoa học nổi tiếng đã từng làm việc ở đây Ơcơlít, Acsimet. Alếchxăngđrơ,
con vị vua Ptôlêmê rất có ý thức bảo vệ những di sản văn hoá nhân loại. Ông
cho người đi khắp nơi mua tất cả các tác phẩm viết bằng tiếng Hy Lạp .
Năm 48 – 47 trước CN quân xâm lược La Mã do Xêda cầm đầu đã tiến
công Alếchxăngđrơ, một số lượng lớn sách bị đột cháy, một số khác bị thu
làm chiến lợi phẩm đưa về La Mã bị lật thuyền.
Thế kỷ IV cuộc chiến tranh tôn giáo ( thiên chúa và các tôn giáo khác)
ở đây một lần nữa tàn phá thư viện.
Tệ hại hơn năm 641 quân Arập đánh Alếchxăngđrơ đã lấy toàn bộ sách
thư viện để đun nước tắm. Sách trở thành củi đốt trong 6 tháng. Sau thư viện bị
hoàn toàn tiêu huỷ lịch sử mãi nguyền rủa đám quân xâm lược vô văn hóa đó.
5.3. Nguyên tắc tích hợp kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy
học lịch sử
- Tích hợp nhưng không làm thay đổi đặc trưng môn học, không biến
bài học môn Lịch sử thành bài học giáo dục môi trường.
- Khai thác nội dung giáo dục bảo vệ môi trường có chọn lọc, đảm bảo
cho HS vừa nắm vững kiến thức bộ môn, vừa có được những kiến thức, kĩ
năng về giáo dục BVMT (Cả môi trường tự nhiên và xã hội).
- Việc tích hợp GDBVMT trong dạy học lịch sử không giới hạn trong
bài nội khoá mà cần phải tiến hành các hoạt động ngoại khoá, đặc biệt là các
bài về lịch sử địa phương, dạng bài thực địa...
-Việc lồng ghép giáo dục BVMT vào trong bài học lịch sử phải hết sức
nhẹ nhàng, tự nhiên, tránh gượng ép, sống sượng, khiên cưỡng áp đặt.
5.4. Hình thức, phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học
76
lịch sử
Trên cơ sở phương pháp dạy học bộ môn (Thông tin, tái hiện kiến thức
lịch sử; phân tích, so sánh tìm hiểu bản chất sự kiện và tìm tòi, nghiên cứu)
GV khéo léo kết hợp việc giáo dục lịch sử với GD môi trường. Chẳng hạn,
khi dạy về “Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965-1973)”
(lịch sử 12), GV đưa ra một số bức ảnh về sự phá hoại của đế quốc Mĩ bằng
rải bom B52, rải chất độc hoá học (chất diệt lá) xuống các cánh rừng Việt
Nam, qua đó HS thấy rõ tội ác của đế quốc Mĩ trong việc huỷ diệt sự sống và
môi trường và tác hại của nó kéo dài hàng chục năm sau cuộc chiến:
+ Miêu tả, tường thuật, kể chuyện, giải thích, nêu đặc điểm, sử dụng đồ
dùng trực quan để tái hiện hình ảnh lịch sử.
+ Trao đổi, thảo luận, vấn đáp, đàm thoại, phân tích, so sánh …để nhận
77
thức bản chất sự kiện, hiện tượng.
+ Nêu vấn đề, đưa ra các tình huống, các bài tập, tổ chức việc tự học
cho HS để các em tự tìm tòi, nghiên cứu, nâng cao nhận thức và vốn hiểu biết
lịch sử.
5.5. Giới thiệu giáo án tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử
Trong quá trình hướng dẫn thực hiện luận văn Cao học, TS Phạm Kim
Anh đã cho thực nghiệm sư phạm 2 giáo án sau đây. Chúng tôi giới thiệu để
các nhà khoa học nghiên cứu, cho ý kiến .
Bài soạn số 1
Chương IV. CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 - 1945)
Bài 17. CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 - 1945)
( Lớp 11- Ban cơ bản)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức
Sau khi học xong bài học, yêu cầu HS cần:
- Nắm được nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai, tính
chất của cuộc chiến tranh qua các giai đoạn khác nhau.
- Nắm được những nét lớn về diễn biến chiến tranh.
- Thấy được kết cục của chiến tranh, ý nghĩa và hệ quả của nó đối với
sự phát triển của tình hình thế giới.
- Từ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, nhận thức và rút ra bài học cho
78
cuộc đấu tranh bảo bệ hòa bình thế giới hiện nay.
- Hậu quả của việc Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố:
Nagaxiki và Hirosima đã gây hậu quả nghiêm trọng đến sự sống và môi
trường tự nhiên,
2. Tư tưởng, thái độ, tình cảm.
- Giúp HS thấy được tính chất phi nghĩa của chiến tranh đế quốc và bản
chất hiếu chiến, tàn bạo của chủ nghĩa phát xít. Từ đó, bồi dưỡng ý thức cảnh
giác, thái độ căm ghét và quyết tâm ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình
cho Tổ quốc và nhân loại.
- Biết quý trọng, đánh giá đúng vai trò của Liên Xô, các nước đồng
minh Mĩ, Anh, của nhân dân tiến bộ thế giới trong cuộc chiến tranh chống chủ
nghĩa phát xít.
- Giáo dục cho học sinh lòng yêu hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân,
chiến tranh hủy diệt... Bảo vệ trái đất nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ sự sống
của con người.
3. Kỹ năng
- Kỹ năng quan sát, khai thác tranh ảnh lịch sử.
- Kỹ năng quan sát, khai thác, sử dụng lược đồ, bản đồ chiến tranh.
- Kỹ năng phân tích, đánh giá, rút ra bản chất của các sự kiện lịch sử.
II. THIẾT BỊ, TÀI LIỆU DẠY VÀ HỌC
- Lược đồ Đức - Italia gây chiến tranh và bành trướng (từ tháng
10/1935 đến tháng 8/1939)
- Lược đồ Đức đánh chiếm châu Âu (1939 - 1941)
- Lược đồ chiến trường châu Á - Thái Bình Dương (1941 - 1945)
- Bản đồ: Chiến tranh thế giới thứ hai
79
- Các tranh ảnh có liên quan ...
- Các tài liệu tham khảo có liên quan.
II. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
1. Kiểm tra bài cũ
Nêu một số nét khái quát về phong trào độc lập dân tộc ở Đông Nam Á
giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới?
2. Dẫn dắt vào bài mới
Ở các chương trước, các em đã lần lượt tìm hiểu về Cách mạng tháng
10 Nga và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921 - 1941), về
các nước tư bản chủ nghĩa và tình hình các nước châu Á giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới (1918 - 1939). Tất cả các sự kiện các em đã tìm hiểu đều có mối
liên quan mật thiết với sự kiện lớn mà chúng ta sẽ học trong chương IV, đó là
cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945).
Con đường, nguyên nhân nào đã dẫn tới bùng nổ cuộc Chiến tranh thế
giới thứ hai (1939 - 1945). Chiến tranh thế giới thứ hai đã diễn ra qua các giai
đoạn, các Mặt trận, các trận đánh lớn như thế nào? Kết cục của chiến tranh có
tác động như thế nào đối với tình hình thế giới? Cần phải đánh giá sao cho
đúng về vai trò của Liên Xô, các nước đồng minh Mĩ, Anh, của nhân dân thế
giới trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít? Đó là những câu hỏi lớn các em
cần phải giải đáp qua tìm hiểu bài học này.
3. Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp:
Kiến thức cần đạt và nắm Hoạt động của thầy – trò vững
* Hoạt động 7: Theo nhóm III. Chiến tranh lan rộng
- GV dẫn dắt: Từ tháng 6/1941 đến tháng khắp thế giới (từ tháng 6/1941
11/1942, Chiến tranh thế giới thứ hai đã lan rộng đến tháng 11/1942)
khắp các châu lục trên thế giới. Tính chất của 1. Phát xít Đức tấn công Liên
80
chiến tranh có sự thay đổi, khối đồng minh Xô. Chiến sự ở Bắc Phi
chống phát xít hình thành. * Mặt trận Xô – Đức:
- GV chia lớp thành 4 nhóm. - Ngày 22/6/1941, phát xít Đức
tấn công Liên Xô theo kế hoạch
đã định.
- Tháng 12/1941, Hồng + Nhóm 1: Phát xít Đức đã tấn công vào lãnh
quân Liên Xô phản công quyết thổ Liên Xô như thế nào? Nhân dân Liên Xô đã
liệt, đẩy lùi quân Đức ta khỏi chiến đấu chống lại phát xít Đức ra sao?
cửa ngõ Matxcơva, làm phá sản + Nhóm 2: Chiến sự ở Bắc Phi bùng nổ và diễn
kế hoạch “Chiến tranh chớp biến ra sao?
nhoáng của Đức”. + Nhóm 3: Chiến tranh Thái Bình Dương bùng
- Cuối năm 1942 Đức nổ như thế nào?
chuyển mũi nhọn tấn công + Nhóm 4: Nguyên nhân nào dẫn tới sự ra đời
xuống phía Nam nhằm chiếm của khối đồng mình chống phát xít? Tại sao nói
Xtalingrat. việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản
cục diện chính trị và quân sự của cuộc chiến?
- Các nhóm quan sát bản đồ, lược đồ kết hợp với
SGK, thảo luận, cử đại diện trình bày.
- GV nhận xét, bổ sung và chốt ý:
* Mặt trận Bắc Phi:
- Tháng 9/1940, quân đội
Italia tấn công Ai Cập.
- Tháng 10/1942, liên quân
Mĩ - Anh giành thắng lợi lớn
trong trận En A-la-men (Ai
Cập) và chuyển sang phản công
trên toàn mặt trận.
2. Chiến tranh Thái Bình
81
Dương bùng nổ.
- Từ tháng 12/1941 - tháng
5/1942, Nhật Bản mở một loạt
cuộc tấn công và chiếm được
một vùng rộng lớn ở Đông Á,
Đông Nam Á và Thái Bình
Dương.
3. Khối đồng minh chống
phát xít hình thành.
- Nguyên nhân:
=> Việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn + Hành động xâm lược của phe
bản cục diện chính trị và quân sự của cuộc chiến. phát xít trên toàn thế giới.
+ Việc Liên Xô tham chiến đã Cuộc chiến tranh mà nhân dân Liên Xô tiến hành
cổ vũ mạnh mẽ cuộc kháng không vì mục tiêu tranh chấp đất đai như các
chiến của nhân dân các nước bị nước đế quốc mà là cuộc chiến tranh giữ nước vĩ
phát xít chiếm đóng, và khiến đại nhằm chống lại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ
cho Mĩ - Anh thay đổi thái độ, hòa bình cho dân tộc và nhân loại. Cuộc chiến
bắt tay cùng Liên Xô chống chủ tranh đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng
nghĩa phát xít. chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm
đóng. Nó còn tác động khiến các chính phủ Mĩ - - Sự thành lập: Ngày
Anh phải dần thay đổi thái độ, bắt tay với Liên 01/1/1942, 26 nước (đứng đầu
Xô trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít. là Liên Xô, Mĩ, Anh) ra tuyên
Ngày 1/1/1942, tại Oasinhtơn, 26 quốc gia (đứng ngôn cam kết cùng nhau tiến
đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh) đã ra bản “Tuyên ngôn hành cuộc chiến đấu chống phát
Liên hợp quốc” cam kết cùng nhau tiến hành xít. Khối Đồng minh chống
cuộc chiến đấu chống phát xít với toàn bộ lực phát xít được thành lập.
lượng của mình. - Ý nghĩa: Việc Liên Xô tham
- Việc Liên Xô tham chiến và sự thành lập chiến và sự ra đời của khối
82
khối Đồng minh chống phát xít đã làm cho tính Đồng minh chống phát xít làm
cho tính chất của Chiến tranh chất của Chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi. Từ
thế giới thứ hai thay đổi, trở chỗ một cuộc chiến tranh đế quốc, xâm lược, phi
thành một cuộc chiến tranh nghĩa, giờ đây nó đã trở thành một cuộc chiến
chống chủ nghĩa phát xít, bảo tranh của Liên Xô, Đồng minh và nhân dân thế
vệ hòa bình nhân loại. giới chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ chính
nghĩa và hòa bình nhân loại.
IV. Quân đồng minh chuyển * Hoạt động 8: Cả lớp và cá nhân
- GV sử dụng bản đồ Chiến tranh thế giới sang phản công. Chiến tranh thế
thứ hai. giới thứ hai kết thúc (từ tháng
GV tường thuật cho HS về trận phản công của 11/1942 đến tháng 8/1945).
Hồng quân Liên Xô tại Xtalingrát: 1. Quân đồng minh phản công
(từ tháng 11/1942 đến tháng
6/1944).
* Ở Mặt trận Xô-Đức:
- Từ tháng 11/1942 đến tháng
2/1943, Hồng quân Liên Xô
phản công, tiêu diệt và bắt sống
toàn bộ đạo quân tinh nhuệ gồm
33 vạn người của phát xít Đức
ở Xtalingrát.
- Sau khi tường thuật, GV đặt câu hỏi: Theo em,
với kết quả đặt được, chiến thắng Xtalingrát có ý
nghĩa lịch sử như thế nào?
- HS thảo luận, trả lời, bổ sung cho nhau.
Ý nghĩa: Đánh dấu bước GV nhận xét, phân tích và chốt ý.
ngoặt của chiến tranh thế giới, Tiếp đó, GV thông báo: Sau chiến thắng
buộc quân Đức phải chuyển từ Xtalingrát, Hồng quân đã nhanh chóng bẻ gãy
83
tấn công sang phòng ngự, mở ra cuộc phản công của quân Đức tại vòng cung
Cuốc-xcơ (từ ngày 5/7 đến ngày 23/8/1943). thời kỳ Liên Xô và phe Đồng
minh chuyển sang tổng tấn * Hoạt động 9: Cá nhân
công đồng loạt trên các Mặt
trận.
- Cuối tháng 8/1943,
Hồng quân bẻ gãy cuộc phản
công của Đức tại vòng cung
Cuốcxcơ, đánh tan 50 vạn quân
Đức.
=> Tháng 6/1944, phần lớn
lãnh thổ Liên Xô được giải
phóng.
* Ở Mặt trận Bắc Phi: Từ - GV nêu câu hỏi: Ở các Mặt trận khác, cuộc
tháng 3 đến tháng 5/1943, liên phản công của quân đồng minh diễn ra như thế
quân Mĩ – Anh phản công quét nào?
- HS đọc SGK, GV gọi một em trả lời câu hỏi. sạch quân Đức – Italia khỏi
Sau đó GV chốt ý (các sự kiện diễn ra ở Mặt trận châu Phi. Chiến sự ở châu Phi
Bắc Phi, ở Italia, ở Thái Bình Dương như SGK). chấm dứt.
* Ở Italia: Tháng 7/1943 đến
tháng 5/1945, liên quân Mĩ –
Anh tấn công truy kích quân
phát xít, làm cho chủ nghĩa phát
xít Italia bị sụp đổ.
* Ở Thái Bình Dương: Sau
chiến thắng quân Nhật trong trận
Gua-đan-ca-nan (1/1943) Mĩ
phản công đánh chiếm các đảo ở
84
Thái Bình Dương.
* Hoạt động 10: Làm việc theo nhóm 2. Phát xít Đức bị tiêu diệt.
- GV chia lớp thành 2 nhóm: Nhật Bản đầu hàng. Chiến
+ Nhóm 1: Phát xít Đức bị tiêu diệt như thế nào? tranh kết thúc.
Em đánh giá như thế nào về vai trò của Liên Xô
và đồng minh Mĩ – Anh trong việc tiêu diệt phát
xít Đức.
+ Nhóm 2: Phát xít Nhật đã bị tiêu diệt như thế
nào? Em đánh giá như thế nào về vai trò của
Liên Xô và đồng minh Mĩ - Anh trong việc tiêu
diệt phát xít Nhật?
- Các nhóm đọc sách, thảo luận, cử đại diện trả
lời.
GV nhận xét, bổ sung, chốt ý, kết hợp việc
hướng dẫn HS khai thác bản đồ Chiến tranh thế
giới thứ hai ở SGK.
a. Phát xít Đức bị tiêu diệt.
- Sau khi giải phóng các nước
Trung và Đông Âu (1944),
tháng 1/1945, Hồng quân Liên
Xô mở cuộc tấn công Đức ở
Mặt trận phía Đông.
- Tháng 2/1945, Liên Xô tổ chức
hội nghị Italia gồm 3 nước Liên
Xô, Mĩ, Anh bàn về việc tổ chức
lại thế giới sau chiến tranh.
- Năm 1944, Mĩ, Anh mở
Mặt trận thứ hai ở Tây Âu và bắt
85
đầu mở cuộc tận công quân Đức
ở Mặt trận phía Tây từ tháng
2/1945.
- Ngày 16/4 đến ngày
30/4/1945, Hồng quân Liên Xô
tấn công đánh bại hơn 1 triệu
quân Đức tại Béclin. Chủ nghĩa
phát xít Đức bị tiêu diệt.
- Tháng 5/1945, nước Đức Ngày 9/5/1945, nước Đức ký văn bản đầu hàng
đầu hàng không điều kiện. không điều kiện, chiến tranh chấm dứt ở châu
Chiến tranh chấm dứt ở châu Âu.
Về vai trò của Liên Xô và các nước Đồng minh Âu.
Mĩ, Anh trong việc tiêu diệt phát xít Đức: Liên
Xô và Mĩ, Anh đều là lực lượng trụ cột trong
việc tiêu diệt phát xít Đức.
* Nhóm 2: b. Nhật Bản đầu hàng. Chiến
tranh kết thúc.
- Từ năm 1944, Mĩ - Anh triển
khai tấn công quân Nhật ở
Miến Điện, Philíppin, các đảo ở
Thái Bình Dương.
- Mĩ tăng cường đánh phá các Ngày 6/8/1945, Mĩ ném quả bom nguyên
thành phố lớn của Nhật bằng tử đầu tiên xuống thành phố Hirôsima làm 8 vạn
không quân. Ngày 6/8/1945 và người thiệt mạng. Ngày 8/8, Liên Xô tuyên chiến
9/8/1945 Mĩ ném 2 quả bom với Nhật và tấn công như vũ bão vào đạo quân
nguyên tử xuống 2 thành phố Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu.
Ngày 9/8, Mĩ ném tiếp quả bom nguyên tử Hirôsima và Nagasaki giết hại
86
thứ hai hủy diệt thành phố Nagasaki, giết hại 2 hàng vạn người.
- Ngày 8/7, Liên Xô tuyên vạn người. Ngày 15/8, Nhật Bản chấp nhận đầu
chiến với Nhật và tấn công đạo hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ
quân Quan Đông gồm 70 vạn hai kết thúc.
quân chủ lực của Nhật ở Mãn - Về vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc tiêu
Châu. diệt phát xít Nhật (xét phạm vi thời gian 1944 -
- Ngày 15/8/1945, Nhật đầu 1945): Liên Xô, Mĩ, Anh đều là lực lượng trụ
hàng không điều kiện. Chiến cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt
tranh thế giới thứ hai kết thúc. chủ nghĩa phát xít Nhật. Cuộc tấn công của Mĩ,
Anh ở khu vực chiếm đóng của Nhật ở Đông
Nam Á đã thu hẹp dần thế lực của phát xít Nhật.
Việc quân Mĩ uy hiếp, đánh phá các thành phố
lớn của Nhật bằng không quân, đặc biệt việc Mĩ
ném 2 quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản đã có
tác dụng lớn trong việc phá hủy lực lượng phát
xít Nhật cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên
cũng không thể phủ nhận việc Mĩ ném 2 quả
bom nguyên tử xuống Nhật Bản là một tội ác, reo
rắc thảm họa chết chóc kinh hoàng cho nhân dân
Nhật Bản.
Đến đây GV dừng lại, đi sâu vào sự kiện
Mỹ ném hai quả bom nguyên tử huỷ diệt 2
thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-xi-ki của
Nhật Bản để HS thấy rõ một thảm hoạ về sự
huỷ diệt sự sống và môi trường. Trên cơ sở
đó, lồng ghép tích hợp nội dung GDBVMT
vào bài học lịch sử:
-Ngoài sử dụng một số bức tranh, ảnh trong
87
SGK (hoặc do GV sưu tầm), GV có thể sử
dụng một đoạn phim tư liệu chiếu trên màn
hình về sự kiện Mỹ ném bom nguyên tử.
- Sau khi HS xem xong,GV lần lượt đặt câu
hỏi cho HS thảo luận:
+ Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất
Nhật nhằm mục đích gì?, hậu quả của nó đối
với nước Nhật ra sao?
+Vũ khí nguyên tử đã gây tác động như thế
nào đối với môi trường và sự sống của con
người?
+Em có nhận xét gì về hành động của Mỹ?
Thái độ của các em ra sao?
+Các em sẽ làm gì và làm như thế nào để ngăn
chặn chiến tranh vũ khí hạt nhân trong thời
đại ngày nay?
-Sau khi HS trao đổi, thảo luận và trả lời câu hỏi,
GV có thể tổng kết lại như sau:
Chính phủ Mĩ dùng bom nguyên tử không để
88
chống lại các mục tiêu quân sự mà để chống dân
lành. Tại Hi-rô-si-ma, quả bom thứ nhất (do
trung tá phi công Pôn-ti-bê lái máy bay mang
theo quả bom nguyên tử có tên: Enolagay- tên
mẹ của tên phi công) đã ném vào các nhà trẻ của
các trẻ em sơ tán, san bằng 60.000 ngôi nhà trên
một vùng rộng 14 km2, giết chết 8 vạn người.
Ngày 9/8 Mĩ lại ném quả bom thứ 2 xuống Na-
ga-xa -ki, giết chết 2 vạn người. 10 năm sau các
bệnh tật do phóng xạ gây nên vẫn còn làm chết
nhiều người.
=> ĐQ Mĩ là kẻ phạm tội dã man, đã gây ra
tội ác kinh khủng đối với nhân loại. Chúng đã
hoàn toàn vứt bỏ các luật lệ sơ đẳng của luật
pháp quốc tế, các nguyên tắc nhân đạo. Người
Nhật Viết : "Những hình ảnh khủng khiếp về sự
chết chóc cứ luôn ám ảnh chúng tôi.Những
người nào đã nhìn thấy các con đường đầy xác
chết và xác tử thi trôi trên sông Sư-mi-da-ga-oa
thì không bao giờ quyên được".
=>Các quả bom nguyên tử không có tác dụng
quân sự trực tiếp chống lại bọn xâm lược Nhật,
không đưa các lãnh tụ Nhật đến đầu hàng mà
chỉ giết biết bao người dân vô tội. Đặc biệt, nó
đã gây nên một thảm hoạ về môi trường sống.
Qua mấy chục năm sau, những di chứng của
chất độc hoá học vẫn ảnh hưởng nặng nề đến
sức khoẻ và sự sống của con người, đến cỏ cây
89
đất và nước.
-Nhân loại không bao giờ tha thứ cho kẻ đã sản
sinh ra loại bom giết người và sử dụng nó vào
mục đích huỷ diệt. Chúng ta phải kiên quyết
ngăn chặn mọi ý đồ, hành vi sử dụng bom
nguyên tử vào bất cứ mục đích gì-dù chỉ là để
bảo vệ đất nước mình.
Sau khi tiêu diệt phát xít Đức, Liên Xô đã thực
hiện đúng cam kết cảu hội nghị Italia là tham gia
chiến tranh chống Nhật. Cuộc tấn công của Liên
Xô vào đạo quân Quan Đông - đạo quân chủ lực
của Nhật, đã góp phần quyết định buộc phát xít
Nhật phải đầu hàng 15/8/1945, kết thúc Chiến
tranh thế giới thứ hai.
* Hoạt động 11: Cả lớp, cá nhân
GV cho HS quan sát tranh Hirôsima sau khi bị
ném bom nguyên tử và bảng so sánh 2 cuộc
chiến tranh thế giới.
- GV đưa ra câu hỏi: Nêu kết cục của Chiến V. Kết cục của Chiến tranh thế
tranh thế giới thứ hai? Em hãy rút ra bài học giới thứ hai
90
cho cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới hiện
nay.
- Chủ nghĩa phát xít Đức - Italia - HS theo dõi SGK, trao đổi với nhau. GV gọi
- Nhật sụp đổ hoàn toàn. Thắng một số em phát biểu suy nghĩ của mình sau đó
lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc nhận xét, chốt ý.
trên thế giới đã kiên cường chiến
đấu chống chủ nghĩa phát xít. - GV đưa câu hỏi nhằm tích hợp nội dung
Trong đó, 3 cường Quốc Liên GDBVMT vào bài học
Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, + Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa lại
giữ vai trò quyết định trong việc cho con người những ảnh hưởng như thế nào
tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. về môi trường?
- Gây hậu quả và tổn thất + Trách nhiệm của em trong việc chống chiến
nặng nề nhất trong lịch sử nhân tranh đế quốc và cuộc chiến bảo vệ môi trường
loại, làm cho 60 triệu người chết, toàn cầu hiện nay?
90 triệu người bị thương, thiệt
hại về vật chất 4000 tỷ đô la.
- Ý nghĩa: Chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc đã dẫn đến
những biến đổi căn bản của tình
hình thế giới.
4. Củng cố, dặn dò:
a. Củng cố: GV củng cố kiến thức cho HS bằng cách yêu cầu các em
tổng hợp kiến thức đã học trả lời các câu hỏi như sau:
b. Dặn dò:
+ Tiếp tục suy nghĩ, trả lời các câu hỏi trên.
+ Sưu tầm tranh ảnh, tài liệu có liên quan đến cuộc Chiến tranh thế giới
91
thứ hai.
Bài soạn số 2
Chương VI. CÁCH MẠNG KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ VÀ XU THẾ
TOÀN CẦU HÓA
Bài 12: CÁCH MẠNG KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ VÀ XU THẾ
TOÀN CẦU HÓA
( Lớp 12 - Ban cơ bản)
I. MỤC TIÊU
Sau khi học bài này, học sinh có khả năng:
1. Về kiến thức:
-Hiểu được nguồn gốc, những thành tựu chủ yếu, ý nghĩa lịch sử và tác động
của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật diễn ra từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai.
- Biết được hệ quả của cuộc cách mạng này là tất yếu dẫn đến xu thế toàn của
cầu hóa diễn ra vào những năm cuối thế kỷ XX.
- Những thành tựu to lớn của cách mạng Khoa học kỹ thuật từ sau 1945 đến
nay trên tất cả các lĩnh vực: Công nghệ sinh học, Sinh học, Hóa học, Y học,
Vật lý… đã tác động to lớn tới môi trường sống của con người, góp phần
nâng cao chất lượng sống của con người. Đồng thời, những tác động tiêu cực
của cuộc cách mạng đã ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu.
2. Về kĩ năng:
Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, quan sát, tư duy, trước những thành tựu
to lớn mà con người đã đạt được trong lịch sử
92
3. Về tư tưởng, tình cảm, thái độ
- Khâm phục, tự hào đối với những thành tựu vĩ đại của trí tuệ nhân loại, giáo
dục HS ý thức cố gắng vươn lên trong học tập để chiếm lĩnh những thành tựu
khoa học- kĩ thuật.
- Có ý thức bảo vệ môi trường trong bối cảnh công nghiệp hoá, góp phần đấu
tranh với việc sử dụng những thành tựu khoa học – kĩ thuật vào mục đích
chiến tranh, phá huỷ môi trường.
II. THIẾT BỊ, ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
Một số tranh ảnh, hoặc phim tư liệu về những thành tựu khoa học – kĩ thuật từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay: công cụ sản xuất mới, nguồn năng
lượng mới, vật liệu mới, chinh phục vũ trụ...
III. TIẾN TRÌNH BÀI HỌC
1.Giới thiệu bài mới
Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật diễn ra từ những năm 40 của thế kỷ XX
đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực và có
những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của tất cả các quốc gia trên thế
giới cũng như đời sống con người.
Vậy nguồn gốc của sự phát triển này là do đâu? Cuộc cách mạng khoa học-kĩ
thuật đã đạt được những thành tựu gì?, Ý nghĩa và tác động của nó ra sao? Đó
là những nội dung cơ bản mà bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm
hiểu.
2. Tổ chức các hoạt động dạy và học
Hoạt động của thầy – trò Kiến thức cần đạt và nắm vững
I: Cuộc cách mạng khoa học- Hoạt động 1. Cá nhân và tập thể.
công nghệ. - GV đặt câu hỏi: Tại sao gọi cuộc cách mạng
Khoa học- kỹ thuật hiện đại là cuộc cách mạng 1: Nguồn gốc và đặc điểm.
93
Khoa học- Công nghệ?
HS phát biểu theo sự hiểu biết của mình, GV
nhận xét, sau đó phân tích, giải thích khái niệm
này một các cụ thể.
-GV đặt câu hỏi: Xuất phát từ đâu mà bùng nổ - Nguồn gốc: cuộc cách mạng khoa học- công nghệ?
+ Do đòi hỏi của sản xuất, của HS đọc SGK thảo luận và trả lời. GV nhận xét cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu và chốt lại. về vật chất và tinh thần của con
người.
+ Sự bùng nổ dân số, sự vơi cạn
của tài nguyên thiên nhiên.
- GV tiếp tục đặt câu hỏi: Những vấn đề cấp - Vấn đề cấp thiết mà cuộc cách
mạng khoa học- công nghệ cần bách mà cuộc cách mạng khoa học- công nghệ
cần phải giải quyết? giải quyết ngay: Chế tạo và tìm
kiếm những công cụ sản xuất mới Sau khi HS trả lời, HS khác bổ xung, GV chốt
có kỹ thuật và năng xuất cao; tạo lại 2 vấn đề mà cuộc cách mạng khoa học công
ra những vật liệu mới. nghệ cần giải quyết: Tìm ra vật liệu mới và
công cụ sản xuất mới.
- Đặc điểm: - GV đặt câu hỏi: Tại sao cuộc cách mạng khoa
học- công nghệ, khoa học đã trở thành lực + Mọi phát minh kỹ thuật đều bắt
lượng sản xuất trực tiếp? nguồn từ nghiên cứu khoa học.
HS dựa vào nội dung trong SGK và những hiểu + Khoa học trở thành lực lượng
biết của mình để trả lời câu hỏi. sản xuất trực tiếp.
GV nhận xét và giải thích rõ hơn: Khác với
cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII, trong
cuộc cách mạng khoa học- công nghệ mọi phát
94
minh đều bắt đầu từ nghiên cứu khoa học, khoa
học gắn liền với kỹ thuật, khoa học đi trước và
mở đường cho kỹ thuật, đến lượt mình kỹ thuật
lại đi trước mở đường cho sản xuất. Vì vậy,
khoa học đã trực tiếp tham gia vào sản xuất.
Hoạt động 2. Tìm hiểu những thành tựu chủ
2: Những thành tựu tiêu biểu yếu của cách mạng khoa học-kĩ thuật
-GV chia nhóm: a. Những thành tựu
+ Nhóm 1: Nêu những thành tựu trong lĩnh vực
khoa học cơ bản.
+Nhóm 2: Nêu những thành tựu trong lĩnh vực
chế tạo công cụ sản xuất mới.
+Nhóm 3: Nêu những thành tựu trong ngành
năng lượng.
+Nhóm 4: Nêu những thành tựu về sáng chế
những vật lệu mới.
+Nhóm 5: Nêu những thành tựu trong cuộc
“cách mạng xanh”(nông nghiệp).
-Trong lĩnh vực khoa học cơ bản: + Nhóm 6: Nêu những thành tựu trong giao
thông vận tải. +Các nhà khoa học đã tạo ra
được con cừu Đô-li (bằng phương +Nhóm 7: Nêu những thành tựu trong lĩnh vực
pháp sinh sản vô tính… chinh phục vũ trụ.
+Công bố “Bản đồ gen người”…
- Trong lĩnh vực chế tạo công cụ - Sau khi HS tìm hiểu, báo cáo kết quả, GV
sản xuất mới: đối chiếu kết quả, tiến hành phân tích, minh hoạ
bằng các hình ảnh cụ thể (qua tranh, ảnh, phim +Chế tao được máy tinh điện tử
95
tư liệu) (thành tựu kỹ thuật quan trọng
nhất). Cuối cùng chốt lại ghi lên bảng các nét chính:
+Máy tự động và hệ thống máy
tự động
-Trong ngành năng lượng: Tìm ra
nhiều nguồn năng lượng mới:
+Năng lượng nguyên tử
+Năng lượng mặt trời
+Năng lượng gió
+Năng lượng thuỷ triều. Năng lượng gió
-Về sáng chế những vật ilệu mới:
+ Chất dẻo Pô-li-me.
+Một số loại chất dẻo khác có
độ bền và chịu nhiệt lớn....
-Trong cuộc “cách mạng
xanh”(nông nghiệp):
Năng lượng mặt trời + Áp dụng cơ khí hoá, điện khí
hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. -Trong qúa trình tổng kết, GV vừa ghi, vừa
phân tích các mặt tích cực và tiêu cực của sự +Lai tạo giống mới, sản xuất
phát triển đó, đồng thời liên hệ với thực tiễn. thuốc trừ sâu...
Chẳng hạn, việc sản xuất ra các loại thuốc trừ - Trong giao thông vận tải và
sâu, chống sâu bệnh đem lại tác dụng và tác thông tin liên lạc:
hại gì? Việc lạm dụng thuốc trừ sâu đã làm +Chế tạo ra những máy bay siêu cho các loại rau quả hiện nay nhiễm độc thế âm khổng lồ (T.U 106; Boing nào? Làm thế nào để bảo vệ được độ phì 176), tàu hoả siêu tốc (300km/h).. nhiêu của đất do phân và thuốc hoá học gây
96
+Các phương tiện thông tin liên ra?
lạc, phát sóng vô tuyến, truyền Hoặc như, các loại sóng vô tuyến điện, rác
hình… thải trong sản xuất công nghiệp, trong vũ trụ
- Trong lĩnh vực chinh phục vũ đã ảnh hưởng thế nào đến môi trường.?...
trụ:
+Phóng vệ tinh nhân tạo của trái Hoạt động 3: Tìm hiểu ý nghĩa, tác động của
đất.(1957) cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật (làm việc
+Con người bay vào vũ trụ (1961) toàn lớp).
-GV Nêu câu hỏi: Cuộc cách mạng khoa học-kỹ + Thám hiểm mặt trăng (1969)
thuật có ý nghĩa và tác động như thế nào đối b. Những tác động, hạn chế
với sự tiến bộ nhân loại và cuộc sống của con * Ý nghĩa: người?
- Cách mạng khoa học – kĩ thuật -Tiếp đó, GV lần lượt cho HS trả lời câu hỏi: đánh dấu một cột mốc chói lọi
*Ý nghĩa của cuộc CM KH-KT là gì? trong lịch sử tiến hoá văn minh
của loài người, đem lại sự đổi *Tác động tích cực của cuộc cách mạng khoa
thay trong cuộc sống của con học-kỹ thuật?
người (nâng cao chất lượng cuộc *Tác động tiêu cực của cuộc cách mạng khoa
sống) học-kỹ thuật?
* Tác động: -GV nhận xét, chốt lại.
- Mặt tích cực:
+ Nâng cao năng xuất lao động.
+ Làm xuất hiện nhiều ngành
công nghiệp mới (công nghiệp
điện tử, nguyên tử, vũ trụ,…)
+ Làm thay đổi cơ cấu, vị trí các
ngành sản xuất (VD ngành than
97
giảm rõ rệt)
+ Đem đến cho con người những
sản phẩm hàng hoá, thiết bị, tiện
nghi sinh hoạt mới=>nâng cao
chất lượng cuộc sống
+ Làm thay đổi cơ cấu dân cư lao
động (trong nông nghiêp, công
nghiệp và dịch vụ).
=> Hình thành thị trường thế giới - GV tích hợp nội dung GDBVMT bằng việc
với xu thế toàn cầu hóa. cho HS thảo luận: Những tác động tiêu cực
của cuộc cách mạng KH- CN đã ảnh hưởng - Mặt tiêu cực:
tới sự sống và con người như thế nào? +Gây ra nạn ô nhiễm môi trường
(khí quyển, đại dương, sông, hồ,
vũ trụ…) do các chất thải công
nghiệp
+ Chế tạo ra các loại vũ khí,
phương tiện chiến tranh có sức
tàn phá và huỷ diệt lớn, tiêu diệt
cả sự sống trên hành tinh.
+ Làm cho trái đất nóng dần lên Sản xuất vũ khí nguyên tử -> hủy diệt môi (sự biến đổi khí hậu). trường sống.
98
+ Phát sinh những bệnh tật mới
Rác thải nhựa
Ô nhiễm nguồn nước
Nước thải công nghiệp
Rác thải vũ trụ
Ô nhiễm không khí
-GV cung cấp thêm số liệu:
99
+Năm 1970: thế giới thải ra 40 tỉ tấn chất
thải/năm.
+ Năm 2000: 100 tỉ tấn rác thải/năm
+Một công dân Mỹ thải 1 tấn rác/năm.
+Hàng năm gần 10 triệu tấn dầu và các sản
phẩm dầu mỏ thải ra đại dương.
+ Khí quyển tiếp nhận 20 tỉ tấn khí các-bon-
nic/năm=>gây nên những trận mưa bụi các-bo-
níc.
- Đến đây, GV tiếp tục tích hợp nội dung
GDBVMT bằng việc cho HS liên hệ:
-Hiện trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương
em như thế nào?
-Trước nạn ô nhiễm môi trường, em sẽ làm gì
để bảo vệ bản thân, cộng đồng và xã hội?
Hoạt động 4: Cá nhân và cả lớp.
- GV đặt câu hỏi: Tại sao đầu những năm 80
của thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh lạnh,
trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa?
Toàn cầu hóa là gì?
II. Xu thế toàn cầu hóa và ảnh HS thảo luận và trả lời, GV giải thích làm rõ
hưởng của nó. hơn vấn đề.
- Hệ quả của cách mạng khoa + Chiến tranh lạnh chấm dứt, xu thế đối thoại
học- công nghệ là xu thế toàn cầu trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế,
hóa, nhất là toàn cầu hóa về kinh những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-
100
tế, diễn ra mạnh sau chiến tranh công nghệ đã có điều kiện lan ra khắp thế giới,
lạnh. dẫn tới xu thế toàn cầu hóa, nhất là toàn cầu hóa
về kinh tế. - Về bản chất, toàn cầu hóa là quá
+ Toàn cầu hóa là sự phụ thuộc lẫn nhau trên trình tăng mạnh mẽ các mối liên
phạm vi toàn cầu, hình thành thị trường thế giới hệ, những ảnh hưởng tác động,
và sự phân công lao động quốc tế, sự lưu thông phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu
hàng hóa và tư bản, nhân công trên toàn cầu. vực, quốc gia, dân tộc trên thế
giới... =>GV chốt lại ý.
Hoạt động 5: Cả lớp.
- GV đặt câu hỏi: Xu thế toàn cầu hóa được
biểu hiện trên lĩnh vực nào? Tại sao nói toàn
cầu hóa là xu thế khách quan?
HS thảo luận dưới sự hướng dẫn của GV, lấy ví
dụ minh họa. Sau đó GV nhận xét và chốt ý,
nhấn mạnh: Xu thế toàn cầu hóa là không thể
- Những biểu hiện của toàn cầu đảo ngược.
hóa: - GV đặt câu hỏi: Hãy nêu những tác động của
+ Sự phát triển nhanh của thương xu thế toàn cầu hóa?
mại quốc tế. HS dựa vào SGK, những hiểu biết của mình để
+ Sự phát triển và tác động to lớn trả lời. Sau đó GV chốt ý.
của các công ty xuyên quốc gia.
+ Sự sát nhập và hợp nhất của các
công ty thành những tập đoàn lớn.
GV đưa câu hỏi và nêu vấn đề học sinh suy + Sự ra đời của các tổ chức liên nghĩ và trả lời: Tại sao nói: Toàn cầu hóa vừa kết kinh tế, thương mại, tài chính là cơ hội vừa là thách thức với các nước đang khu vực, quốc tế. phát triển( trong đó có Việt Nam)?
- Tác động của xu thế toàn cầu
101
hóa:
+ Mặt tích cực: Xã hội hóa lực
lượng sản xuất, đưa lại sự tăng
trưởng nhanh, góp phần vào
chuyển biến cơ cấu kinh tế, nâng
cao sức cạnh tranh và hiệu quả
của nền kinh tế.
+ Mặt tiêu cực: Cuộc sống của
con người kém an toàn; sự bất
công, khoảng cách giầu nghèo;
nguy cơ hòa nhập dẫn tới hòa tan
trong văn hóa, kinh tế.....
3. Củng cố:
+ GV nhắc lại những thành tựu chủ yếu của cách mạng khoa học – kĩ thuật từ
sau chiến tranh thế giới đến nay.
- Ý nghĩa và tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật?
4. Hướng dẫn học sinh học ở nhà.
- Liên hệ giữa sự phát triển của kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng với
102
sự ô nhiễm môi trường ở địa phương của HS.
KẾT LUẬN
Tích hợp trong dạy học nói chung, lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong giáo
dưỡng , giáo dục, rèn luyện và phát triển kĩ năng tư duy, phân tích tổng hợp,
khái quát hóa, trừu tượng hóa. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ
thuật trong giai đoạn hiện nay đang đòi hỏi sự thay đổi căn bản và toàn diện
về nội dung và phương pháp giáo dục. Từ cách tiếp cận nội dung, giáo dục
chuyển sang tiếp cận năng lực. Điều đó đặt ra những yêu cầu về nguyên tắc và
phương pháp giáo dục theo hướng tích hợp để giải quyết vấn đề đặt ra trên
103
đây.