ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PGS.TS ĐỖ HỒNG THÁI TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN

DẠY HỌC TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC

LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

(Sản phẩm của đề tài Khoa học và công nghệ cấp Bộ trọng điểm

Mã số: B2010-TN03-30TĐ)

1

Thái Nguyên, 2011

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Đề tài Khoa học và công nghệ cấp Bộ trọng điểm HÌNH THÀNH NĂNG LỰC DẠY HỌC TÍCH HỢP CHO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Mã số: B2010-TN03-30TĐ

Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Nguyễn Phúc Chỉnh Tham gia thực hiện đề tài:

1. PGS.TS Nguyễn Như Ất 2. PGS.TS Nguyễn Văn Khải 3. PGS.TS Đỗ Hồng Thái 4. TS Hoàng Hữu Bội 5. TS Hoàng Thị Chiên 6. Ths Tô Anh Tuấn 7. Ths Ngô Giang Nam - PPGD Sinh học - PPGD Vật Lý - PPGD Lịch sử - PPGD Ngữ Văn - PPGD Hoá học - PPGD Địa lý - Thư ký đề tài

2

Thái Nguyên, 2011

MỤC LỤC

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

1.1.Tích hợp trong định hướng giáo dục ...................................................................... 1

1.2. Tích hợp kiến thức trong chương trình và sách giáo khoa lịch sử......................... 3

Chương 2. TÍCH HỢP TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

2.1. Vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ..................................... 8

2.2. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ............................... 13

Chương 3. TÍCH HỢP TÀI LIỆU ĐỊA LÝ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

3.1. Sử dụng bản đồ tích hợp kiến thức địa lý để luận giải nội dung lịch sử ............... 27

3.2. Sử dụng kiến thức địa lý giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học lịch sử ......... 29

3.3. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rõ quan điểm lịch sử ..................................... 30

3.4. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rõ diễn biến sự kiện lịch sử .......................... 32

3.5. Sử dụng kiến thức địa lý trong dạy học lịch sử ở thực địa ................................... 35

Chương 4. TÍCH HỢP TÀI LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

4.1. Tích hợp tài liệu địa phương trong dạy học lịch sử .............................................. 40

4.2. Tích hợp kiến thức địa phương trong thực hành lịch sử ....................................... 45

4.3. Tích hợp các tài liệu lịch sử địa phương, tài liệu văn học, tài liệu địa lí .............. 51

Chương 5. TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

5.1. Khái quát về tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử ........................ 69

5.2. Yêu cầu về nội dung giáo dục bảo vệ môi trường ................................................ 70

5.3. Nguyên tắc tích hợp kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường ................................. 73

5.4. Hình thức, phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học LS .............. 73

5.5. Giới thiệu giáo án tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử ............... 75

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 100

3

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

1.1 Tích hợp trong định hướng giáo dục

Trong những năm gần đây xuất hiện thuật ngữ “tích hợp”-tương đương

với các từ “intégration” (tiếng Pháp) hay “intergation” (tiếng Anh). Thuật ngữ

“tích hợp” mang những nội dung khác nhau trong các lĩnh vực khoa học

(sinh, toán học, triết học, giáo dục học…). Từ điển bách khoa toàn thư Xô viết

định nghĩa, “tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, chỉ trạng thái

liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến

trạng thái này”.

Dưới góc độ giáo dục học, tích hợp (Intergration) được hiểu là sự kết

hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các kiến thức trong một môn học hoặc giữa

các môn học thành một nội dung thống nhất.

Tư tưởng tích hợp giáo dục, thể hiện ở việc xây dựng chương trình dạy

học của nhiều nước từ những năm 60 của thế kỉ XX và ngày càng được áp

dụng rộng rãi. Ở mức độ cao có thể tích hợp các môn học (vật lí, hóa học,

sinh học) thành một môn chung-môn khoa học tự nhiên, hoặc tích hợp các

môn lịch sử, văn học, địa lí... thành môn khoa học xã hội nhân văn. Những

môn tích hợp này là môn mới chứ không phải là ghép các môn riêng rẽ với

nhau, vẫn giữ vị trí độc lập trong một môn chung.

Ở mức độ vừa, các môn gần nhau, được ghép trong một môn chung

nhưng vẫn giữ vị trí độc lập và chỉ tích hợp ở các phần trùng nhau. Ví dụ,

trong môn văn, sử, địa, việc nghiên cứu các nước cổ đại (Hi Lạp, La Mã, Ai

Cập, Ấn Độ, Trung Quốc…) hoặc khi học về “sự phát triển khoa học-kĩ thuật,

văn học, nghệ thuật thời cận đại”, “sự phát triển của cách mạng khoa học-kĩ

4

thuật từ sau chiến tranh thế giới thứ II” giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu

về các vấn đề này ở góc độ lịch sử với sự tích hợp kiến thức tổng hợp trên

nhiều lĩnh vực tự nhiên và xã hội.

Điểm nổi bật của xu hướng giáo dục hiện đại trên thế giới là mọi hoạt

động giáo dục đều hướng vào người học dưạ trên nền kiến thức được tích hợp

từ nhiều môn khoa học liên ngành, những giá trị nhân văn được đặc biệt quan

tâm. Điều này đựơc thể hiện qua việc phân luồng học sinh theo sở thích cá

nhân, lấy năng khiếu của học sinh làm cơ sở bồi dưỡng hứng thú, say mê, phát

huy tính tích cực tự giác, nâng cao hiệu quả dạy học. Với triết lí“giáo dục dành

cho mọi người”, Mĩ và Ôxtrâylia là 2 quốc gia thực hiện việc dạy học theo

hướng đa dạng hóa các phương pháp nhằm đáp ứng mọi đối tượng đến từ nhiều

nơi trên thế giới, có nền văn khóa khác biệt và trình độ khác nhau trong cùng

lớp học. Đầu ra của sản phẩm đào tạo đạt chuẩn quốc tế có thể thích ứng với

mọi thị trường lao động toàn cầu. Các nước này tiến hành đào tạo theo tín chỉ

từ trường trung học phổ thông. Sau khi học xong chương trình giáo dục cơ bản

(Khoảng 9 năm ), học sinh có thể học các tín chỉ theo sở thích, năng khiếu của

riêng mình ngay từ cấp THPT để tạo cơ sở cho việc học tập tiếp theo ở bậc đại

học. Một số nước khác vẫn cho học sinh học chung chương trình ở các lớp đầu

cấp THPT, chỉ tiến hành phân ban ở lớp cuối cấp. Chẳng hạn, Cộng hoà Pháp

tiến hành phân ban từ lớp 11, Trung quốc, Nga chỉ phân ban ở lớp cuối cấp sau

khi đã hoàn tất chương trình chung ở lớp dưới.

Khu vực Bắc Âu, nơi mà người dân được hưởng các phúc lợi xã hội ưu

việt vào hàng bậc nhất thế giới, có mức sống cao và ổn định nhiều thập niên

qua, đã duy trì một nền giáo dục thoáng đãng, cởi mở và linh hoạt. Thuỵ Điển

đã cho phép học sinh học các tín chỉ theo khả năng, trình độ mỗi người,

không bị ràng buộc về thời gian. Vì lẽ đó, có học sinh hoàn thành chương

trình THPT trong 2 năm, có học sinh hoàn thành trong 4 năm, thậm chí học

sinh còn có thể lựa chọn thời điểm thi thích hợp với mình. Với cách đào tạo

5

như vậy, việc thi cử không tạo ra áp lực nặng nề về tâm lý đối với học sinh,

1.2. Tích hợp kiến thức trong chương trình và sách giáo khoa lịch sử

Điểm nổi bật của chương trình giáo dục phổ thông của các nước tiên

tiến là tiếp cận theo hướng phát triển năng lực. Do vậy, vấn đề tích hợp nội

dung giáo dục được xem trọng. Chương trình rất “ động” bởi luôn được phát

triển, bổ sung, điều chỉnh. Phát triển chương trình trở thành nhu cầu thường

xuyên, yêu cầu bắt buộc để đổi mới giáo dục theo hướng đáp ứng yêu cầu xã

hội. Với tinh thần đó, cùng một chương trình thống nhất của Bộ Giáo dục,

nhưng có thể có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau. Nước Anh có bộ sách

giáo khoa lịch sử ở cấp THPT chuẩn theo chương trình Oxford được sử dụng

rộng rãi cả trong và ngoài nước (ở Singapore, Thái Lan). Giáo viên dựa vào

chương trình quy định của Bộ Giáo dục Anh để hướng dẫn học sinh học tập,

thu lượm thông tin từ nhiều nguồn. Hơn 90% học sinh của Anh lấy kiến thức

lịch sử qua mạng internet. Pháp là một quốc gia tiên tiến cũng phải trải qua

bốn lần cải tiến ở nhiều thập kỉ mới có một bộ sách giáo khoa khác hẳn trước

đây. Chương trình, sách giáo khoa như vậy đã quy định phương pháp dạy học

lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Việc cá thể hoá, nhóm

6

hoá lớp học được tiến hành rộng rãi. Tại Hà Lan, sau nhiều năm tranh luận,

Trung Quốc từ năm học 2004-2005 bắt đầu thực hiện chương trình cải

cách giáo dục đại trà. Mục tiêu cải cách giáo dục hướng vào bồi dưỡng tố chất

và kỹ năng tổng hợp, phương pháp học tập gắn với tự nghiên cứu và hợp tác

của học sinh, tôn trọng cá tính và sự lựa chọn của người học. Chương trình

mới xây dựng một số môn học mới mang tính tích hợp nhiều loại kiến thức,

hình thành những kỹ năng thích ứng với thực tiễn đời sống, sinh hoạt và hoạt

hoạt động xã hội.

Mỗi môn học được cấu tạo thành nhiều môđun, trong đó có những

môđun bắt buộc (65%) và môđun tự chọn theo định hướng nghề nghiệp, hoặc

hứng thú, năng lực của cá nhân (35%). Chương trình toàn cấp quy định, học

sinh kết thúc học tập các lĩnh vực bắt buộc trong các lớp 10 và 11 (kết thúc

phần phổ thông cơ bản), sau đó lựa chọn các môđun tự chọn theo nhu cầu

phát triển và hứng thú của bản thân (lớp 12). Điều này giúp học sinh có thể tự

định hướng trong từng năm học bắt đầu hoặc kết thúc môđun tự chọn nào cho

phù hợp. Chủ trương “ nhất cương đa bản”(một chương trình, nhiều bộ sách

giáo khoa) được coi là khâu đột phá trong cải cách giáo dục của Trung Quốc

theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá, cạnh tranh lành mạnh, phát huy nguồn lực,

khai thác tiềm năng, dần xoá tư tưởng quan liêu, độc quyền,bảo thủ và trì trệ

7

trong giáo dục. Trung tâm phát triển chương trình, SGK giáo dục phổ thông

Sách giáo khoa của các nước phát triển không biên soạn theo phương

lối hàn lâm mà tích hợp những kiến thức cơ bản của các ngành khoa học.

Phần kênh chữ không nhiều, chú trọng kênh hình và coi đó là nguồn nhận

thức chứ không phải mang ý nghĩa minh hoạ. Đặc biệt, phần cơ chế sư phạm

được chú trọng nhằm tổ chức hướng dẫn hoạt động tư duy tích cực chủ động.

sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn, sách giáo khoa của Nhật Bản có rất nhiều

tài liệu trên kênh hình in màu (tranh ảnh, bản đồ), cuối sách có phần tra cứu

theo nhân vật, theo loại hình tri thức lịch sử tổng hợp (kinh tế, văn hoá, quân

sự...) hoặc theo biên niên (lịch đại) và đồng đại (so sánh với các nước cận kề

Trung Quốc, Hàn Quốc). Nhật Bản xây dựng chương trình phổ thông theo 2

loại cơ bản và tự chọn (nâng cao). Một cuốn sách giáo khoa trình bày kiến

thức toàn cấp trung học phổ thông(lớp 10, 11, 12), nhưng mỗi loại sách trình

bày kiến thức ở mức độ khác nhau dành cho các nhóm đối tượng có trình độ

khác nhau, hoặc tích hợp phần kiến thức địa phương theo từng khu vực.

Chẳng hạn, cuốn Lịch sử Nhật Bản, Nhà xuất bản Yamakaoa (sách dành cho

trình độ nâng cao, chú ý kiến thức địa phương); Lịch sử thế giới, Nhà xuất

bản Zikiô (dành cho trình độ thấp); Lịch sử Thế giới, Nhà xuất bản Sansêđo

(dành cho trình độ đại trà).

Chương trình, sách giáo khoa của Mĩ do từng bang quy định khác nhau.

Tuy nhiên, điểm chung nhất là sách được trình bày với nội dung hấp dẫn, kỹ

thuật ấn loát đẹp, phần cơ chế sư phạm được thể hiện một cách mẫu mực, có

hướng dẫn gợi mở, kích thích hoạt động tìm tòi của học sinh. Các mô hình, sơ

đồ thiết kế theo hướng giúp học sinh biết so sánh các sự kiện lịch sử ở nước

Mĩ với các sự kiện lịch sử thế giới. Các kiến thức lịch sử, địa lí, văn học,

nghệ thuật, kinh tế xã hội được tích hợp trong các chương bài. Nguồn tư

8

liệu phong phú, kênh hình sinh động, những nhận định, đánh giá thẳng thắn,

9

Quan sát những tấm ảnh chiến tranh trên sách, báo, tạp chí, phim ảnh. •

• Xem những trích dẫn thích hợp từ các chính khách và chính sách của

họ.

Sử dụng máy tính để dựng lại các đoạn thuyết minh. •

• Tổ chức các buổi thảo luận với việc quan sát các hình ảnh, trích dẫn,

thuyết minh các áp phích.

Thêm các bản viết tay hoặc thiết kế các bản vẽ, các hình ảnh khác. •

• Lưu các hình ảnh lịch sử của Mĩ trong thư mục của mình. Bạn sẽ trình

bày và có thể chia sẻ các hình ảnh khi kết thúc chương”.

Đầu bài học thường hướng học sinh những từ khóa mang ý nghĩa then

chốt của bài (đầu vào)và nêu vấn đề để học sinh theo dõi, hướng dẫn mục tiêu

bài học cần đạt (đầu ra).Ví dụ, trình bày về Ai Cập cổ đại, sách giáo khoa nêu

một số thuật ngữ như đặc điểm địa lí lưu vực sông Nin, tên các triều đại, các

vị vua…để yêu cầu học sinh cuối bài trả lời câu hỏi: “Tại sao nói, Ai Cập là

quà tặng của sông Nin” Hoặc ở bài học: “Kết thúc chiến tranh và hậu quả của

nó”, mục tiêu bài học được xác định: “Học về tổng thống Níchxơn và những

chính sách của ông ta, để hiểu vì sao chiến tranh lại để lại hậu quả nặng nề

cho nước Mĩ”.

Ở nước ta chương trình tích hợp được thực hiện ở môn “tự nhiên và xã

hội” ở cấp tiểu học. Chương trình cấp trung học thì chủ yếu thực hiện ở mức

thấp. Việc tích hợp này chủ yếu được thực hiện trong nguyên tắc dạy học liên

môn, trong đó mỗi môn học được học riêng rẽ nhưng chú ý đến những nội

dung có liên quan đến môn học khác nhằm tránh trùng lặp. Từ đó các môn học

được bổ xung cho nhau, hiểu sâu sắc hơn các sự kiện đang học. Mức độ phối

hợp liên môn đã bước đầu được thực thi trong quá trình xây dựng nội dung

chương trình cũng như kế hoạch dạy học của các môn học khoa học xã hội:

10

Lịch sử, địa lí, giáo dục công dân.

Chương 2

TÍCH HỢP TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

2.1. Vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học trong dạy học lịch sử

Đặc trưng của bộ môn lịch sử là nghiên cứu, nhận thức hiện thực lịch

sử qua những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra và không lặp lại, nếu có lặp lại

cũng không hoàn toàn như cũ. Như vậy, xét trên phương diện những nguyên

tắc của phương pháp luận sử học, lịch sử được “lặp lại trên cơ sở không lặp

lại”. Chính vì vậy, trong học tập lịch sử, do học sinh không thể trực tiếp quan

sát, tri giác các sự kiện, hiện tượng đã xảy ra nên việc lĩnh hội tri thức gặp

nhiều khó khăn, nhất là với những tri thức lịch sử cách xa với đời sống hiện

nay(“Chế độ chiếm hữu nô lệ”,”Chế độ chuyên chế”,v.v…).Vì lẽ đó, việc

hình thành tri thức lịch sử cho học sinh cần chú ý phương pháp Thông tin- tái

hiện nhằm khôi phục bức tranh lịch sử một cách sâu sắc.

Để tạo ra những biểu tượng lịch sử sinh động, chân xác, trong dạy học

lịch sử cần sử dụng nhiều loại tài liệu khác nhau trong đó tại liệu văn học

(TLVH) là một trong những nguồn tài liệu phong phú, có nhiều lợi thế.

Với chức năng phản ánh cuộc sống, TLVH đã góp phần dựng lại bức

tranh quá khứ lịch sử, trình bày các đặc trưng của các hiện tượng kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội, những quy luật của đời sống ở từng thời đại một

cách sinh động, hấp dẫn bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật.

Giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít. Khoa học lịch sử

dựa vào những nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử có thật trong một giai

đoạn nhất định để khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách chân xác, khách

quan, còn văn học dựa trên chất liệu cuộc sống để xây dựng hình tượng, cốt

truyện, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình dấu ấn của thời đại.

Việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh

11

tránh được tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử , phân biệt rõ nhân vật lịch sử với

Ngoài ra, việc sử dụng TLVH còn giúphọc sinh củng cố và phát triển

kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, năng động của học sinh và gây hứng

thú học tập. Do đó, chất lượng dạy học lịch sử được nâng lên.

2.1.1. Ý nghĩa giáo dưỡng

Trong các nguồn tài liệu tham khảo, TLVH có khả năng to lớn trong

việc tạo biểu tượng cho học sinh bởi lẽ bản thân các tác phẩm văn học đã

chứa đựng những sự kiện lịch sử, cung cấp những tri thức có giá trị về mọi

mặt của đời sống xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đánh

giá rất cao khả năng của văn học trong việc cung cấp những kiến thức như

thế. Ăngghen khi đánh giá về tác phẩm “Tấn trò đời” của Bandắc đã viết:

“Bandắc…trong “Tấn trò đời” của mình đã trình bày cho chúng ta một câu

chuyện hiện thực tuyệt diệu nhất của xã hội Pháp khi ông mô tả lại ưới hình

thức một loại biên niên ký, theo sát từng năm một từ 1816 đến 1848 áp lực

ngày càng tăng của giai cấp tư sản đang lên đối với xã hội quý tộc… Xung

quanh bức tranh trung tâm này, Bandắc đã tập trung tất cả lịch sử của xã hội

Pháp, ở đây tôi biết được ngay cả theo ý nghĩa kinh tế học nhiều chi tiết

(chẳng hạn về sự phân phối lại động sản và bất động sản sau cuộc cách mạng)

hơn ở các quyển sách của tất cả những nhà chuyên môn – các sử gia, các nhà

kinh kinh tế học, các nhà thống kê của thời kì này gộp lại”.(1)

Đối tượng của văn học cũng như sử học là toàn bộ thế giới nhưng văn

học không miêu tả, tái hiện những con người cụ thể, cá biệt có thật trong đời

sống như lịch sử mà xuất phát từ những mẫu hình có thật để dựng nên những

hình tượng văn học giàu tính nghệ thuật khiến học sinh dễ hình dung kiến

(1) Trương Hữu Quýnh (CB), Đại cương lịch sử Việt Nam, NxbGD, 2001, 225-226.

12

thức và nhớ lâu. TLVH được sử dụng sẽ làm cho sự kiện trở nên cụ thể, sinh

Những hình ảnh văn học sinh động đó chính là cơ sở để tạo biểu tượng

lịch sử. Hiệu quả của việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh phụ thuộc vào

nhiều yếu tố, trong đó sử dụng TLVH có lợi thế đặc biệt. Trong dạy học lịch

sử, việc miêu tả, tường thuật, giải thích, so sánh, nêu đặc điểm nhân vật lịch

sử v.v…rất được coi trọng. TLVH có cơ sở để giúp giáo viên lịch sử thực

hiện điều đó. Chẳng hạn miêu tả cảnh phá ngục Bãti, ta không thể không sử

dụng bài thơ”14 tháng 7” của nhà thơ Tố Hữu, tố cáo tội ác của thực dân

Pháp đối với các nước thuộc địa ta có thể sử dụng tài liệu của Hồ Minh trong

tác phẩm” Bản án chế độ thực dân Pháp”, dựng lại chân dung của các nhân

vật lịch sử thời cận đại thế giới như Napôlêông Bônapac, Bĩmác, Chie

…không thể thiếu tài liệu miêu tả của các tác giả kinh điển tiêu biểu như Mác

trong “Ngày 18 tháng Sương mù của Napôlêông Bônapac” v.v…

Trong lịch sử dân tộc, nhiều tác phẩm nổi tiếng mà ở đó những kiến

thức lịch sử có giá trị văn học đã kết chặt trong nội dung, bố cục và phương

pháp thể hiện khiến cho nó trở thành những tác phẩm “văn sử bất phân”. Có

thể dẫn ra áng thơ thần của Lý Thường kiệt-“Nam quốc sơn hà” như một bản

tuyên ngôn bất hủ về độc lập, chủ quyền giang sơn gấm vóc và ý chí của một

dân tộc quyết bảo vệ cho được nền độc lập từng phải đấu tranh suốt ngàn năm

Bắc thuộc thảm khốc và đau thương. “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn

đâu chỉ thức tỉnh ba quân đang ham thích những vui thú thời bình mà còn đúc

kết những kinh nghiệm của cha ông trong lịch sử đấu tranh bảo vệ chủ quyền

của một quốc gia dân tộc thống nhất. “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi vang

vọng muôn đời cũng chính bởi những chiến công vang dội của cuộc kháng

chiến chống quân Minh, đã gắn kết với truyền thống ngàn năm văn hiến của

quốc gia Đại Việt. Cũng từ đó những bài học lịch sử được rút ra như” dùng

13

đoản chế trường, lấy yếu đánh mạnh”, “dùng quân mai phục, lấy ít địch

“ Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để răng đen

Đánh cho nó chích luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.

Tiếp nối truyền thống quật cường đó, phong trào đấu tranh cách mạng

của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ 1930-1945 được

phản ánh trong nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng với nhiều thể loại phong

phú: hồi kí cách mạng (Những chặng đường lịch sử của Võ Nguyên Giáp,

Chặng đường nóng bỏng của Hoàng Quốc Việt, Từ núi rừng Batơ của

Phạm Kiệt… ), thơ với các tác giả nổi tiếng như: Tố Hữu, Sóng Hồng, Hồ Chí

Minh, văn học truyền miệng, báo chí v.v… Đặc biệt bản “ Tuyên ngôn độc

lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là một kiệt tác mẫu mực về ý

nghĩa lịch sử, giá trị nghệ thuật và phương pháp tư duy triết học sâu sắc.

Rõ ràng, mỗi tác phẩm văn học đều mang dấu ấn sâu sắc của thời đại,

phản ánh bức tranh đời sống xã hội dưới lăng kính nghệ thuật nên đây chính

là một nguồn tư liệu í nguồn tài liệu này.

14

2.1.2. Ý nghĩa giáo dục

Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục lịch sử đang đặt ra những yêu

cầu cấp thiết. Nền kinh tế thị trường với những mặt tích cực ngày càng được

khẳng định trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước song mặt trái của cơ

chế thị trường đã làm thay đổi bậc giá trị của các môn học. Học sinh đua nhau

vào học những ngành có thể kiếm được nhiều tiền sau này, do vậy lịch sử là

môn học ít được quan tâm đúng mức. Trong xu thế phát triển của xã hội hiện

nay, những yếu tố hiện đại, những giá trị tiến bộ đích thực cần được khai thác

để làm phong phú đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta, xây dựng một

nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh

hoa của nhân loại.

TLVH với sự phản ánh thực qua cách nhìn, thái độ quan điểm của tác

giả đối với hiện tượng được miêu tả nên có tác động mạnh mẽ vào tâm hồn

người đọc. Người đọc sẽ hình thành tình cảm tích cực hay tiêu cực qua tác

động của các tác phẩm văn học.

Học sinh không chỉ được giáo dục về tư tưởng, đạo đức khi tiếp xúc với

văn học mà những hình tượng văn học điển hình còn tạo hứng thú học tập lịch

sử cho các em, các hình tượng này chính là “chất nhụy kết tinh từ cuộc sống”,

là nguyên mẫu cuộc sống đã được nhà văn chọn lọc, tô đậm những nét điển

hình, gia tăng những chi tiết cần thiết, tái tạo lại thành một chỉnh thể thẩm mĩ,

tác động sâu sắc vào trí tuệ, gợi sự liên tưởng trong tâm trí người đọc. Do vậy,

việc sử dụng TLVH góp phần làm cho trái tim các em thực sự rung động, say

mê, hứng thú học tập lịch sử.

2.1.3. Ý nghĩa phát triển

Học lịch sử nhằm “ôn cố tri tân” để khai thức những giá trị tốt đẹp của

truyền thống dân tộc, đem những kinh nghiệm, những bài học lịch sử của cha

ông vận dụng vào việc thực hiện những nhiệm vụ trong hiện tại và hướng tới

tương lai, có như vậy mới thực hiện “ học đi đôi với hành, lí luận đi đôi với

15

thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội”.

Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử cũng là nhằm làm cho các

kiến thức lịch sử ấy dễ tiếp nhận đối với học sinh, các em dường như được

tham dự, chứng kiến lịch sử quá khứ. Đây là việc phát huy trí tưởng tượng tái

tạo cho học sinh, rất cần cho việc học tập lịch sử bởi nếu không hình dung

quá khứ khách quan thì không thể hiểu bản chất lịch sử, dễ rơi vào tình trạng

“hiện đại hóa” lịch sử. Do đó việc sử dụng TLVH trong bài giảng của giáo

viên là một việc làm thiết thực, một yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao hiệu quả

dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.

2.2. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử

2.2.1. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử

Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử giúp học sinh nắm kiến thức

lịch sử sâu sắc, toàn diện hơn, đặc biệt các em có sự liên hệ, tích hợp kiến

thức giữa các môn học, tránh được tình trạng rời rạc, tản mạn trong kiến thức

của học sinh, tính hệ thống của các tri thức đó sẽ giúp học sinh hiểu sự kiện,

có khả năng phân tích sự kiện, tìm ra bản chất, qui luật phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên không phải cứ đưa TLVH vào bài giảng lịch sử là giáo viên đã đạt

hiệu quả dạy học như trên mà việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử phải

tuân thủ theo những nguyên tắc dạy học nói chung và yêu cầu cụ thể sau đây.

- TLVH phải phù hợp với nội dung bài giảng và trình độ nhận thức của

học sinh.

- TLVH phải đảm bảo tính tiêu biểu, điển hình.

- Lựa chọn các biện pháp thích hợp để sử dụng TLVH.

- TLVH sử dụng trong sự kết hợp giữa các phương pháp, các loại tài liệu

khác nhau.

- TLVH đảm bảo tính khoa học và tính tư tưởng.

16

2.2.2. Một số phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử

2.2.2.1. Kể chuyện lịch sử

Những mẩu chuyện lịch sử luôn cuốn hút học sinh, với ngữ điệu và các

thao tác sư phạm phù hợp, giáo viên khi kể một câu chuyện lịch sử không

những khiến học sinh dễ nhớ và nhớ lâu sự kiện mà tâm hồn, trái tim các em

cúng sẽ thực sự rung cảm.

Ví dụ, dạy bài “Phong trào cách mạng 1930-1931 và cuộc đấu tranh phục

hồi lực lượng cách mạng”, ta có thể sử dụng hồi kí của Nguyễn Duy Trinh để

kể chuyện về cuộc đấu tranh của các chiến sĩ ở trong tù thời kì 1932-1935.

Tại nhà lao Vinh, đồng chí Nguyễn Duy Trinh cùng những chiến sĩ cộng

sản nơi đây đã cho ra một tờ báo rất đặc biệt làm công cụ tuyên truyền và

tranh đấu. Đó là tờ báo hàng ngày, không cần in ấn mà là một tờ báo miệng,

đồng chí Nguyễn Duy Trinh kể lại “hàng ngày, vào đúng giờ bọn gác ngục

nghỉ trưa, chúng tôi cử từng người leo lên ô cửa ô vuông phòng giam, đọc

những bài mình được phân công chuẩn bị nói…Tờ báo miệng, hay nói đúng

đắn hơn, đài phát thanh của chúng tôi được anh em trong lao hết sức hoan

nghênh. Ngày nào cũng phát thanh rất nhiều mục, thơ có, văn có, anh chị em

nghe không chán, lại nói rất sát với hoàn cảnh nhà lao, người nghe càng thú và người nọ truyền người kia” (1). Nhờ sự đấu tranh kiên trì, bất khuất của

những con người yêu nước đó mà sức sống của Đảng không bị tiêu diệt”.

2.2.2.2. Xây dựng các bài miêu tả, tường thuật

Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 như

“Bước đường cùng “ (Nguyễn Công Hoan), “Số đỏ”(Vũ Trọng Phụng), “Tắt

đèn” (Ngô Tất Tố) đã vạch trần bộ mặt của bọn thực dân, phong kiến và phản

ánh đời sống tối tăm, cực khổ của nhân dân ta, nhất là nông dân. Các hồi kí

cáh mạng như “Những năm tháng không thể nào quên” (Võ Nguyên Giáp),

(1) Nguyễn Văn Hoa, Phạm Hồng Việt, Hiểu thêm lịch sử qua các hồi kí, tùy bút,NxbGD,HN, 1997, tr24

17

“Những chặng đường nóng bỏng” (Hoàng Quốc Việt), “Đại thắng mùa xuân

Dạy bài Phong trào cách mạng 1930-1931, khí thế đấu tranh sôi sục ở

Nghệ Tĩnh được cụ thể hóa qua tài liệu văn thơ Xô viết Nghệ Tĩnh

“Trên gió cả cờ đào phất thẳng

Dưới đất bằng giấy trắng tung ra

Giữa thành một trận xông pha

Bên kia đạn sắt bên ta gan vàng

Hơi nghĩa khí dồn vang bốn mặt

Dải đồng tâm thắt chặt muôn người

Lợi quyền ta cố ta đòi

Dần xương đế quốc, xẻo môi quan trường”(1).

Chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” và đạo luật 10/59 của chính quyền Mĩ

Diệm được sinh động hóa trong bài “ Lá thư Bến tre” của nhà thơ Tố Hữu:

“Biết không anh, Giồng Keo, Giồng Trôm

Thảm lắm anh à lũ ác ôn

Giết cả trăm người trong một sáng

Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn.

Anh biết không, Long Mĩ, Hiệp Hưng

Nó giết thanh niên ác quá chừng

Hăm sáu đầu trai bêu cọc sắt

Ba hôm mắt vẫn mở trừng trừng

(1) Thơ văn cách mạng (1930-1945) NxbGD, HN 1964, tr13

18

Có những ông già nó khảo tra

Không khai, nó chém giữa sân nhà

Có chị gần sinh không chịu nhục

Lấy vồ nó đập vọt thai ra…”

Giảng bài Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII , miêu tả cảnh quần

chúng cách mạng Pari tấn công phá ngục Baxti, ta có thể sử dụng đoạn trích

sau đây trong bài thơ" Ngày 14/7" của nhà thơ Tố Hữu:

"Và lớn, và bé, đàn ông, đàn bà

Tất cả chiếm, mỗi người đôi khí giới

Anh hàng thịt vung con dao sáng chói

Người lính già quắc thước múa chuôi gươm

Anh hàng giầy quần áo rách bươm

Anh thợ dệt nằm sau cửa xưởng

Cũng đứng dậy uy nghi như võ tướng

Cầm thanh gươm, khẩu súng nhảy ra ngoài

Và thằng con bé bỏng cũng giương oai

Phồng má thổi kèn vang sau gót bố "'

Ví dụ khác, khi giảng bài:" Công xã Pari” trình bày Sự thành lập

công xã ta có thể bám theo mạch logic sau:

- Sự tồn tại của đế chế 2 ( 1852-1870) khiến cho mâu thuẫn của quần

chúng nhân dân Pháp với giai cấp tư sản ăn bám thối nát ngày càng gay gắt"

Đế chế 2 là một chỗ hội hè lớn của làng bịp bợm khắp thiên hạ, bọn lừa đảo

thuộc tất cả các nước đổ xô đến theo tiếng gọi của nó để tham gia vào các cuộc yến tiệc cuồng loạn và cướp bóc nhân dân Pháp"(1). Napôlêông III muốn

19

đẩy mâu thuẫn ra bên ngoài bằng cách phát động cuộc chiến tranh với Phổ. (1)Các mác, Nội chiến ở Pháp 1871, ST, HN 1961, tr 98 (2) Đỗ Đức Hiểu, Văn học Công xã Pải, Nxb ĐH&THCN, HN, 1978, 26;

Không khí kích động chiến tranh "tinh thần dân tộc" bao trùm lên nước Pháp.

Nhưng quyền lợi sẽ thuộc về ai và đau thương mất mát ai là người phải gánh

chịu? Hãy nghe tâm sự của Hoàng hậu nước Pháp- con người nổi tiếng về

phản trắc và điêu ngoa sẽ rõ: "Tôi thương mỗi người lính như con trai tôi đẻ

ra... nhưng tôi thích chiến tranh bởi vì sự thể đã như thế này chiến tranh là tốt"(2)

- Cuộc chiến tranh bùng nổ, Pháp hết sức chủ quan, lời tuyên bố ngạo

mạn của người chỉ huy quân đội là "đã chuẩn bị đến chiếc cúc cuối cùng trên

chiếc gệt của người lính cuối cùng" đã đưa quan đội Pháp lâm vào thảm họa,

thất bại nhục nhã ở chân thành Xơđăng, 10 vạn quân cùng Napôlêông III bị

bắt sống.

- Liền sau đó, ngày 4/9/1870 quần chúng Pari đã khởi nghĩa lật đổ dế chế

2, chính quyền lọt vào tay giai cấp tư sản. Nước Đức đã tấn công nước Pháp,

tấn công Pari chứ không phải "chỉ đánh Napôlêông" như chúng từng rêu rao

trước đó để loè bịp. Do áp lực của quần chúng Chính phủ vệ quốc phải lập

200 tiểu đoàn mới để chống lại quân xâm lược Đức. Vậy nhưng những kẻ

nắm quyền chẳng hề mảy may quan tâm đến kháng chiến, chỉ lo ăn chơi xa

đọa, sẵn sàng bán lợi ích của dân tộc mình vì quyền lợi ích kỉ cá nhân:

"Mặc đứa ngu nào yêu nước, cứ yêu đi,

Dưới đạn quân thù tha hồ chết,

Còn tớ đây sốt tỏi tớ đánh tì tì,

Các ngài ơi đổi Pari lấy bít tết"(1)

Cả một đám vô lại tập hợp nhau lại thành một Quốc hội mới (2/1871 )

để toan lo việc đầu hàng Đức, hãy xem những gương mặt tiêu biểu của chính

(1) Văn học Công xã, sđd, tr 31

20

phủ mới này;

Chie - kẻ đứng đầu chính phủ: Mác gọi hắn là "con quỷ lùn quái dị"

khét tiếng trong các vụ đàn áp đẫm máu phong trào công nhân từ những năm

30 của thế kỉ XIX: "Chie, con người bé nhỏ quái dị đó đã làm cho giai cáp tư

sản Pháp say mê từ non nửa thế kỉ nay. Bởi vì hắn đại diện cho cái tư tưởng

hoàn mĩ nhất chính ngay sự hư bại giai cấp của bọn tư sản đó... với cánh tay

bé nhỏ của một thằng lùn hắn ta thường thích giơ lên trước Châu Âu thanh gươm của Napôlêông đệ nhất"(2))

Bên cạnh Chie là Tơrôsuy lịch sử xác minh là kẻ thù truyền kiếp của dân

nghèo khó, là một kẻ bảo thủ tới đường gân thớ thịt, một kẻ ham danh vọng

đến điên cuồng, cục cằn, thô lỗ và cô độc. Số còn lại đều nổi tiếng vì thành

tích bất hảo: Phavơrơ lành nghề trong việc làm các giấy tờ giả mạo,

Giuynximông hám danh vọng như hám vàng, Giuypheri kẻ bất tài vô lại hay

Clêmăngtônua, Vinoa coi mạng người như sâu bọ.v..v...

Khi mà "Chính phủ vệ quốc" đã lộ rõ nguyên hình là "Chính phủ phản

quốc" thì nhân dân đã lập tức bầu ra ủy ban trung ương vệ quốc quân - một

chính phủ cách mạng đối lập với chính phủ Véc sai.

- Khi thấy lực lượng Quốc dân quân triển khai kế hoạch phòng thủ

Paris, chính phủ Véc sai đã làm cái việc tày đình mà chính quân Đức không

hề dám đó là mưu toan cướp vũ khí của Quốcdân quân trên đồi Môngmác.

Sau khi tường thuật trận cướp vú khí ở đồi Mông mác ngày 18/3/1871, ta cho

học sinh thấy được sự bùng nổ của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trong lịch

sử nhân loại. Ngày 28/3/1871 công xã Paris ra đời trong niềm vui bất tận của

quần chúng cách mạng nước Pháp.

Mục "Công xã Paris thất bại, ý nghĩa Lịch sử của công xã có thể thực

(2) Các Mác, F. Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, NxbST, HN, 1962, 805, 806

21

hiện trình tự như sau:

- Trình bày cuộc tấn công Paris của quân đội Véc sai dẫn tới "tuần lễ

đẫm máu" (từ 21-28/5/1871) ta giới thiệu bức tranh "cuộc tàn sát đẫm máu

của quân đội Véc sai" và sau đó nêu lên một vài tấm gương chiến đấu hy sinh

anh dũng, tiêu biểu cho khí phách hiên ngang bất tử của công xã Paris "xông

lên đoạt trời" đó là cô giáo Luidơ Misen đã thét lên trước tòa án quân thù:

"Nếu các người để tôi sống tôi sẽ không ngớt kêu gọi báo thù"-" Nếu không phải là những kẻ hèn nhát xin các người hãy giết tôi đi"(1).

Đặc biệt nhà thơ cách mạng Ơgien Pôchie trong những ngày Paris đẫm

máu bài thơ Quốc tế của ông đã ra đời sau này được Pie đơ Gâytơ phổ nhạc

(1888) trở thành bản quốc tế ca hoành tráng của vô sản thế giới :

"Vùng lên, hỡi các nô lệ của thế gian

Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn"

- Những sai lầm của công xã Pari thật đáng tiếc đã dẫn tới sự thất bại

đau lòng. Công xã Paris thất bại từ chính lòng nhân đạo của họ như Mác đã

chỉ ra và ngày ấy Ơgien Pôchie cũng từng nhìn thấy:

"Người không chiếm ngân hàng, ôi lầm lỗi,

Lẽ ra, Người phải đổi thay thế giới,

Người biết không muốn kẻ địch đầu hàng,

Phải tước vũ khí của quân địch”(2)

Sự ấu trĩ trong nhận thức cảu vô sản Paris biểu hiện qua bức tranh chiến

sĩ công xã khiến họ không phân biệt âm mưu chia rẽ của kẻ thù, hiểu lầm

người bạn đồng minh đáng tin cậy của mình là giai cấp nông nhân, khi dã

hiểu ra tìm cách liên hệ thì đã muộn. Những chú chim bồ câu đưa thư vốn yêu

hòa bình nay hoảng sợ tan tác vì súng đạn, những quả khinh khí cầu liên lạc

(1(2) Văn học Công Xã, sđd, tr 254; 208

22

hầu hết bị bắn rơi khi chưa ra khỏi ngoại ô Paris. Những sai lầm đó đã để lại

bài học quý báu cho giai cấp vô sản sau này Lênin đã chỉ rõ "Giành chính

quyền đã khó nhưng giữ chính quyền càng khó hơn" Đảng ta cũng nhấn mạnh

"Chính quyền cách mạng không trấn áp kẻ thù là tự sát" vấn đề liên minh

công nông, vấn đề lãnh đạo của đảng tiên phong... đều được nhắc nhở bằng

máu xương của các chiến sĩ công xã.

- Công xã thất bại nhưng hình ảnh của một nhà nước kiểu mới sẽ

trường tồn. Ngay sau khi thất bại Ăng ghen đã từng cảnh báo các chính khách

tư sản "Này các ngài, nếu các ngài muốn biết chuyên chính vô sản là gì ? Xin hãy nhìn vào công xã Pari chuyên chính vô sản là thế đấy"(1). Đúng như lời

kết luận của Lênin "Công cuộc của công xã Paris không chết nó còn sống đến

ngày nay trong mỗi chúng ta, sự nghiệp của công xã là sự nghiệp của cách

mạng xã hội, sự nghiệp giải phóng hoàn toàn về chính trị, kinh tế của người

lao động, sựu nghiệp giai cấp vô sản toàn thế giới. Vì thế sự nghiệp đó là bất diệt" (2)

2.2.2.3. Dùng tài liệu văn học để khắc sâu kiến thức

Giáo viên khi dạy học lịch sử nếu biết khắc sâu những kiến thức cơ bản

bằng các phương pháp phù hợp sẽ giúp học sinh hiểu bài sâu sắc, trên cơ sở

đó trình độ nhận thức của các em sẽ được nâng lên ở mức khái quát lí luận,

việc khắc sâu kiến thức cũng là một yếu tố quan trọng để giáo dục tư tưởng

chính trị, hình thành thế giới quan khoa học và phát triển năng lực tư duy của

hoc sinh.

Khi dạy bài “Cuộc vận động dân chủ 1936-1939” giáo viên khái quát

hóa bức tranh đấu tranh trong thời kì dân chủ 1936-1939- thời kì đấu tranh

công khai hợp pháp xen lẫn đấu tranh bí mật, bất hợp pháp, đấu tranh ở cả

nông thôn và thành thị:

(1) Nội chiến ở Pháp 1871, Sđd, 26. (2) Theo : Văn học công xã, Sđd, tr 77

23

“Chống phát xít cường quyền hiếu chiến

Khắp năm châu, trận tuyến bình dân

Trùng trùng cách mạng ra quân

Phất cao cờ đỏ công nhân dẫn đầu

Còi máy gọi bến tàu hầm mỏ

Hòn Gai kêu Đất Đỏ đấu tranh

Áo nâu liền với áo xanh

Nông thôn cùng với thị thành đứng lên

Đòi cơm áo, đòi quyền dân chủ

Đường càng đi đội ngũ càng đông

Suối ngàn đã chảy thành sông

Đố ai tát cạn được dòng nước xuôi”.(1) [20, Tr 111

Tài liệu văn học trong nhiều trường hợp là nguồn cung cấp sử liệu đáng

tin cậy khắc họa một sự kiện hay khái quát một thời kì lịch sử. Chẳng hạn,

giảng bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời”, khi trình bày ý nghĩa sự ra đời

của Đảng, giáo viên cần phan tích tình hình xã hội Việt Nam trước khi có

Đảng và dẫn câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khi chưa có Đảng tình hình

đen tối như không có đường ra” đặc biệt cố nhà thơ Chế Lan Viên đã khái

quát sâu sắc thời kì khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng trước khi

có Đảng:

“Ông cha xưa đấm nát tay trước cửa cuộc đời

Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa

Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời

Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ

(1) Trương Đức Hùng, Thơ Tố Hữu, NxbHN, 2002, tr 111.

24

Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi…” (2).

Trong hoàn cảnh đó, đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.

Sự kiện ra đời của Đảng là một bước ngoặt lịch sử, chấm dứt thời kì khủng

hoảng kéo dài về đường lối lãnh đạo cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng là

nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam:

“Lần đêm bước đến khi hửng sáng

Mặt trời kia cờ Đảng dâng cao

Đảng ta con của phong trào

Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm

Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ

Không quê hương sương gió tơi bời”.(1)

2.2.2.4. Tài liệu văn học kết hợp với tài liệu khác

TLVH chỉ là một trong nhiều nguồn tài liệu sử dụng trong DHLS.

Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả DHLS, cần phải kết hợp TLVH với nhiều

loại tài liệu khác một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn. TLVH có thể kết hợp với

một số tài liệu sau:

- Thứ nhất, TLVH kết hợp với tài liệu của Hồ Chí Minh.

Tài liệu Hồ Chí Minh là nguồn tài liệu rất phong phú, góp phần làm

sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử. Tài liệu Hồ Chí Minh kết hợp với TLVH sẽ làm

cho bài học sinh động, cụ thể, học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc. Văn

kiện Đảng là nguồn tư liệu đáng tin cậy trong nghiên cứu và giảng dạy lịch

sử, góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn về quan diểm, đường lối cách mạng

của Đảng, về sự phát triển của lịch sử dân tộc qua mỗi thời kì đấu tranh cách

mạng. Sử dụng TLVH kết hợp với văn kiện Đảng sẽ làm cho học sinh hứng

(2) Chế Lan Viên toàn tập, Nxb VH, HN 2002, tập 1, 354-355. (1) (1) Trương Đức Hùng, Thơ Tố Hữu, NxbHN, 2002, tr 109.

25

thú học tập, củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử.

Ví dụ, Khi dạy bài “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước”,

giáo viên sử dụng tài liệu văn học kết hợp với tại liệu của Hồ Chí minh và

Văn kiện Đảng như sau. Trình bày thời cơ cách mạng chín muồi và Lệnh tổng

khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, giáo viên dẫn chứng các tài

liệu:

“Chính phủ phát xít Nhật hoàng

Đã vô điều kiện đầu hàng Đồng minh

Thế là kết thúc chiến tranh

Á châu sẽ lại thái bình từ nay

Hỡi dân Nam Việt ta đây

Trong tình hình ấy làm ngay việc cần

Việt Minh hiệu triệu toàn dân

Lập ngay chính phủ nhân dân của mình” (1).

Để làm sáng rõ thời cơ “ngàn năm có một”, giáo viên hướng dẫn học

sinh đọc “Bản quân lệnh số 1” của Ủy ban khởi nghĩa, đặc biệt nhấn mạnh

đoạn: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh!

…Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả

cảm, vô cùng thận trọng!”.

Giọng đọc trang trọng, dõng dạc, dứt khoát thể hiện sự quyết tâm hành

động khi thời cơ cách mạng đến. Tiếp đó, một học sinh đọc thư của Hồ Chí

Minh kêu gọi toàn dân vùng đậy khởi nghĩa giành chính quyền:

“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy

đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ

(1) Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc (1936-1945), Nxb Văn hóa dân tộc, 1977, tr242 (2) Phan Ngọc Liên (CB), Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, NxbĐHQG, 2002, tr 110

26

Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!” (2).

- Thứ hai, kết hợp với tại liệu trực quan trong dạy học lịch sử.

Việc sử dụng TLVH kết hợp với tài liệu trực quan giúp cho học sinh

củng cố khắc sâu kiến thức, hiểu bản chất sự kiện lịch sử. Dạy bài “ Mặt trận

Việt Minh ra đời và lãnh đạo đấu tranh”, giáo viên cho học sinh quan sát bức

ảnh “ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và hướng dẫn các em tìm

hiểu hoàn cảnh ra đời cũng như vì sao lại có tên “ Đội Việt Nam tuyên truyền

giải phóng quân” qua đoạn trích:

“Bây giờ thời kì cách mạng phát triển hòa bình đã qua, nhưng thời kì

khởi nghĩa toàn dân chưa tới! Nếu bây giờ vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức

chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động phong

trào vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu

tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm

ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên.”(3)

Sau khi phân tích tình hình lúc bấy giờ, giáo viên nhấn mạnh: “Theo

chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” đã ra

đời. Hôm đó là ngày 22-12-1944, lúc 5 giờ chiều, “lễ thành lập được cử hành

trong một khu rừng nằm giữa tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám. Đội

Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ra đời dưới sự che chở của anh linh hai đấng anh hùng dân tộc” (1). Giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh

34 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp đang trang nghiêm đọc 10

lời thề danh dự dưới lá cờ Tổ quốc thiêng liêng và gợi ý về lực lượng vũ trang

cách mạng của ta trong buổi đầu thành lập?

+ Về lực lượng cách mạng: còn non mỏng, thiếu thốn (quần áo nhiều

kiẻu khác nhau, vũ khí thô sơ).

(3) Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, NxbVăn học, 1977, tr 130 (1) (2) (3) Võ Nguyên Giáp, Sđd, 142; 140; 193

27

+ Về ý chí: đầy quyết tâm tin tưởng (nét mặt trang nghiêm)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp hồi tưởng lại những giờ phút thiêng liêng

đó: “Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng

ống thô sơ mà thấy đây là cả một đoàn quân gang thép, rắn chắc, không sức

mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù.”, và khẳng định: “Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang” (2).

Khi dạy bài “ Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa

tháng Tám 1945”. Giáo viên sử dụng bản đồ “Khu giải phóng Việt Bắc”

Giáo viên đặt câu hỏi tình huống: “Vì sao Hồ Chí Minh quyết định

thành lập khu giải phóng Việt Bắc?” sau đó hướng dẫn học sinh nhận thức

rằng do những thắng lợi của cao trào kháng Nhật cứu nước, vùng giải phóng

được mở rộng bao gồm các tỉnh miền thượng du: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng

Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang (giáo viên chỉ bản đồ), địa thế

các tỉnh này nối liền nhau nên Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập khu giải

phóng. “Khu giải phóng phải trở thành một căn cứ địa vững chắc về mọi mặt

chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa để làm bàn đạp Nam tiến, giải phóng toàn quốc”(3).

Tân Trào được chọn làm Thủ đô của khu giải phóng, trong khu giải

phóng đã thi hành 10 chính sách của Việt Minh, người dân bước đầu được

hưởng các quyền tự do, dân chủ. Khu giải phóng Việt Bắc chính là hình ảnh

thu nhỏ của nước Việt Nam mới:

“Ai lên xứ Lạng cùng anh

Thăm khu giải phóng, thăm thành Bắc Sơn

Suối trong in mặt trời tròn

Xem cô gái Thổ trèo non đi tuần”.(1)

(1) Hợp tuyển thơ văn yêu nước, thơ văn cách mạng (1913-1945), NxbVH, 1980, 540-541

28

*

* *

Tóm lại, TLVH là một nguồn tài liệu phong phú, còn ẩn chứa nhiều

tiềm năng có thể khai thác để sử dụng trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên cần

chú ý không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hoàn toàn, không có

nguồn tài liệu nào là duy nhất do vậy cần chú ý kết hợp hài hòa các nguồn tài

liệu, các phương pháp dạy học và các thao tác sư phạm để phát huy đến mức

29

cao nhất hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông.

Chương 3

TÍCH HỢP TÀI LIỆU ĐỊA LÍ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

Sự kiện lịch sử gắn liền với vị trí không gian nhất định. Nhiều sự kiện

kịch sử xảy ra bắt nguồn từ đặc điểm địa lí hoặc do điều kiện địa lí tác động,

chi phối. Do vậy kiến thức địa lí có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong dạy học

lịch sử. Bài học lịch sử gắn với bản đồ và kiến thức địa lí luôn tạo ra sự hấp

dẫn, giúp học sinh nắm chắc sự kiện, biết lí giải bản chất sự kiện qua sự chi

phối của yếu tố địa lí.

3.1. Sử dụng bản đồ tích hợp kiến thức địa lí để luận giải nội dung lịch sử

Việc so sánh, phân tích để rút ra những kết luận khái quát, giải đáp

những vấn đề phức tạp của lịch sử phải dựa trên cơ sở nền tảng của hệ thống

tư liệu phong phú, logic đủ sức thuyết phục. Điều này rèn cho học sinh có

phong cách tư duy mạnh dạn táo bạo nhưng cẩn trọng, không vội vã hồ đồ.

Ví dụ, trình bày"Sự khủng hoảng chế độ phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XIX và cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp". Đây là chương trình

đồng tâm với cấp phổ thông cơ sở nên yêu cầu về trình độ lý luận phải cao

hơn. Sách giáo khoa trình bày sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt

Nam (từ vừa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX) biểu hiện trên các mặt:

kinh tế, chính trị, xã hội, cùng với những thách thức của Lịch sử và thái độ

thủ cựu của nhà Nguyễn đương thời. Vấn đề đặt ra là Việt Nam rơi vào tay

Pháp là tất yếu hay không? Trách nhiệm của nhà Nguyễn trước hiện trạng đó

thế nào? Có ý kiến cho rằng nếu thái độ ngoại giao khôn khéo Việt Nam vẫn

có thể tránh được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp (như Xiêm La)? Để hiểu

được điều đó, các em cần được biết, kết quả của hoạt động ngoại giao khi

chưa có chiến sự phụ thuộc vào thiện chí của cả hai bên, còn khi nổ ra chiến

tranh thì thắng lợi trên mặt trận quân sự luôn đóng vai trò quyết định. Hoạt

động ngoại giao của triều Nguyễn đối với thực dân Pháp lúc bấy giờ hoàn

30

toàn khác nhau về lập trường quan điểm. Nhà Nguyễn cố tìm cách giữ độc

lập, chủ quyền nhưng " lực bất tòng tâm" còn thực dân Pháp hoạt động ngoại

giao cũng chỉ nhằm xâm chiếm Việt Nam cho kỳ được. Điều này được bộc lộ

từ rất sớm trong lịch sử.

Không phải đến những năm 40 của thế kỷ XIX thực dân Pháp mới dòm

ngó và khiêu khích Việt Nam mà từ những năm 30 của thế kỷ XVII, ý đồ xâm

lược Việt Nam đã lộ rõ qua bản kiến nghị chiếm nước ta của giáo sĩ

Alexander De Rhodes. Sau này Bá Đa Lộc, giáo chủ đàng trong ra sức giúp

Nguyễn ánh chống Tây Sơn nhằm gây ảnh hưởng của Pháp ở xứ sở này. Hiệp

ước 1787 nếu không vướng phải cuộc Đại cách mạng 1789 ở Pháp hẳn đã có

hiệu lực . Nửa đầu thế kỷ XIX việc chuẩn bị xâm lược Việt Nam cũng ráo riết

về sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp đang đòi hỏi thị

trường để cung cấp tài nguyên, bóc lột nhân công và tiêu thụ hàng hóa ế thừa

của chính quốc.

Kết hợp với bản đồ địa lí khu vực Đông Nam Á, giáo viên hướng dẫn

học sinh nhận thức rừ vấn đề cốt lõi sau đây:

Bị thua và không thể địch nổi với đối thủ sừng sỏ là thực dân Anh ở ấn

Độ, Pháp tìm mọi cách giành giật quyền lợi với các nước tư bản để quốc ở thị

trường đông dân nhất thế giới là Trung Quốc. Vùng đất Quế Châu, Tứ Xuyên,

Vân Nam nổi tiếng về tài nguyên quí hiếm, đông dân, sức mua lớn... trở thành

điểm nóng trong mục tiêu xâm lược của đế quốc Pháp. Nhìn dải đất Việt Nam

như chiếc cầu nối Đông Nam á với vùng Tây Nam Trung Quốc, Pháp nghĩ

ngay việc khẩn trương và bằng mọi cách chiếm lấy vị trí chiến lược quan

trọng này. Đã quyết chiếm thì phải tìm mọi cách để chiếm và do đó, phương

cách ngoại giao của nhà Nguyễn dẫu có khéo léo đến đâu cũng không sao có

thể tránh khỏi hiểm họa này. Do vậy ta cũng không thể so sánh việc Pháp xâm

lược Việt Nam giống như Xiêm-La mảnh đất nằm trong thế đệm tranh chấp

31

của Anh và Pháp.

Tuy nhiên cần giúp học sinh phân biệt rõ nguy cơ bị xâm lược và vấn

đề mất nước lại hoàn toàn không phải là một. Ta đánh giá cao những nỗ lực

của triều Nguyễn trên các lĩnh vực củng cố bộ máy chính quyền, khẩn hoang,

phục hóa, lấn biển.v..v.. nhưng không thể không phê phán những sai lầm có

tính hệ thống và ngày càng nghiêm trọng, liên quan tới sự sống còn của một

quốc gia. Đó là sự bảo thủ, trì trệ khước từ mọi yêu cầu canh tân đất nước

đang đặt ra lúc bấy giờ. Nhiều quan lại cấp tiến như Phạm Phú Thứ, Trần

Đình Túc, Nguyễn Huy Tế,.v..v.. đã nhiều lần dâng sớ đề nghị cải cách, thông

thương, nhưng Triều đình vẫn" bế quan tỏa cảng". Tệ hại hơn, những nho sĩ

nhất mực "ái quốc, trung quân" dâng tờ trần đề nghị cải tiến chế độ khoa cử

lạc hậu thì bị đánh đòn như Ninh Kế (1825); hiến kế ngăn bão lũ, thiên tai thì

bị kết tội "lạm ngôn yêu quái" tống ngục chờ trảm như Nguyễn Tiến Chương

(1927); can ngăn Vua không nên tiêu xài hoang phí thì bị giáng chức, đẩy lên

biên giới xứ Lạng như Thám hoa Mai Anh Tuấn (1851).v..v.. Tiếp đó hàng

loạt đề nghị mở cửa, giao lưu kinh tế, buôn bán với Tây phương, cải cách

quân đội, học tập Nhật Bản canh tân đất nước... đều bị coi là "quá cao" hay là

"mọi rợ". Đặc biệt, Nguyễn Trường Tộ - một sĩ phu tài năng, tâm huyết, ròng

rã 10 năm (1863-1871 ) dâng hơn 40 bản điều trần, trình bày hệ thống việc cải

cách đất nước, tận tụy tới mức ngã bệnh rồi qua đời mà triều đình vẫn bặt lặng

tăm hơi. Chính những sai lầm đó "nhà Nguyễn biến việc nước ta bị mất vào

tay Pháp từ chỗ không tất yếu chở thành tất yếu".

3.2. Sử dụng kiến thức địa lí giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học lịch sử

Kiến thức Địa lí nói chung, bản đồ Địa lí nói riêng có ưu thế trong việc

khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh. Chẳng hạn, khi trình bày Nghị quyết

của Hội nghị Trung ương VIII (5/1941), giáo viên cung cấp cho học sinh

những kiến thức về vị trí chiến lược của Cao Bằng, từng được Nguyễn Ái

32

Quốc đã chỉ rõ: "Cao Bằng là một trong những vị trí quan trọng về chiến lược

của ta từ năm 1924 - 1925 đến sau này"(1) Đến năm 1941 Người lại khẳng

định:

"Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước

ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới lấy đó làm cơ sở

liên lực quốc tế thuận lợi. Nhưng Cao Bằng còn phải phát triển về Thái

Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối

phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ" (2).

Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về địa lý Cao Bằng để tự giải

đáp vấn đề: “Vì sao Khi về nước, Nguyễn ái Quốc đã chỉ đạo xây dựng thí

điểm phong trào Việt Minh ở Cao Bằng?". Từ kinh nghiệm thành công của

phong trào Việt Minh ở Cao Bằng, Hội nghị Trung ương VIII quyết định thành

lập Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941).

3.2. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rõ quan điểm lịch sử

Ví dụ khác, sử dụng bản đồ lịch sử kết hợp với việc phân tích đặc

điểm địa hình để giúp cho học sinh hiểu sâu sắc hơn về cuộc Tổng tiến công

và nổi dậy mùa Xuân 1975. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy

mùa xuân năm 1975 do nhiều yếu tố tạo nên, song trước hết và chủ yếu bắt

nguồn từ sự chỉ đạo kịp thời đúng đắn, sáng suốt của Bộ Chính trị Ban chấp

hành Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương. Đó là sự vận dụng nhuần

nhuyễn quy luật chiến tranh cách mạng, mà điểm mấu chốt là vấn đề tạo và

chớp thời cơ, chuyển từ tiến công chiến lược sang Tổng tiến công và nổi dậy

trên toàn miền Nam, giành thắng lợi hoàn toàn

Cần giúp học sinh nhận thức sâu sắc rằng, sau ngày kí kết Hiệp định

Pari, Mĩ buộc phải rút quân về nước song vẫn để lại hơn 2 vạn cố vấn quân

(1) Nông Văn Quang, con đường Nam tiến, NxbVHDT, 1995, tr11 (2) Vừ Nguyờn Giỏp, Những chặng đường lịch sử, (Sđd), tr38-39

33

sự ở miền Nam Việt Nam (núp dưới danh nghĩa các thương gia), tiếp tục

thực hiện mưu đồ "Việt Nam hóa chiến tranh" trong tình hình mới. Trước

những diễn biến phức tạp của cách mạng miền Nam, Hội nghị lần thứ 21

của Trung ương Đảng( 7 - 1973) đã nhấn mạnh:" Con đường cách mạng của

miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình hình nào ta

cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên"(1).

Việc chọn hướng chiến lược trong năm 1975 được Bộ Chính trị thảo

luận kỹ lưỡng, cẩn trọng. Trên cơ sở phân tích lực lượng địch và cách bố trí

theo thế " mạnh ở hai đầu", Bộ Chính trị nhận định , Tây Nguyên là địa bàn

chiến lược hết sức quan trọng bởi lẽ, lực lượng địch ở đây chỉ có 2 sư đoàn

vừa phải chiếm giữ Tây Nguyên vừa phải bảo vệ vùng đồng bằng duyên hải

miền Trung nên lực lượng bị dàn mỏng. Mặt khác, địa hình Tây Nguyên có

độ cao không đáng kể, thuân lợi cho ta cơ động lực lượng , vận chuyển lương

thực vũ khí , khí tài ...

Mặc dù vậy, Bộ Chính trị nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ

sung đầy đủ thông tin trước khi đi tới kết luận chính thức. Từ đầu năm 1974,

Bộ chính trị đã trực tiếp nghe báo cáo cáo của các đồng chí chỉ huy các chiến

trường đặc biệt là chiến trường Nam bộ và Liên khu V.Trên cơ sở đó, Hội

nghị Bộ Chính trị mở rộng (họp từ ngày 18-12-1974 đến 8-1-1975) đã thảo

luận chi tiết kế hoạchgiải phóng miền Nam. Trong lúc hội nghị đang diễn ra,

ta nhận được tin chiến dịch đường số 14 gìanh thắng lợi, giải phóng thị xã

Phước Long, toàn tỉnh Phước Long với hơn 50 ngàn dân. Chiến thắng Phước

Long chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của chủ lực ta, khả năng mới của

quân, dân ta, đồng thời khẳng định lực lượng địch bị suy yếu rõ rệt. Những

phản ứng yếu ớt của Mĩ cho thấy chúng không có khả năng can thiệp trở lại

cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Những nhận định đó càng củng cố quyết

(1) Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Nxb QĐND, 1977, tr 15-16;

34

tâm để Bộ Chính trị hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam trong vòng 2

năm. Cụ thể, năm 1975 tranh thủ thời cơ tấn công rộng khắp, tạo điều kiện để

năm 1976 tiến hành “tổng công kích - tổng khởi nghĩa”, giải phóng hoàn toàn

miền Nam. Bộ Chính trị còn dự kiến phương án quan trọng:" Nếu thời cơ đến

vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm

1975". Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng thể hiện sự chủ động, sáng suốt của Bộ

Chính trị trong phân tích , đánh gía đúng đắn tình hình tương quan lực lượng

giữa ta và địch; nắm vững quy luật phát triển của chiến tranh; xác định đúng

thời cơ chiến lược để hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong vòng 2 năm.

3.3. Sử dụng bản đồ giúp học sinh hiểu rừ diễn biến sự kiện lịch sử

Bản đồ lịch sử được tích hợp kiến thức địa lí giúp học sinh hiểu rừ sự

kiện lịch sử trên các khía cạnh, như: Tại sao xảy ra ở vị trí không gian đó?

Diễn biến thế nào? Mối liên quan của các sự kiện trong những vị trí không

gian khác nhau ra sao?

Ví dụ, trình bày diễn biến của cuộc Tổng tiến cụng và nổi dậy mùa

xuân năm 1975, giáo viên giúp học sinh hiểu rằng, thực hiện kế hoạch giải

phóng miền Nam, theo quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương,

Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên được thành lập. Sau khi nghiên cứu lực

lượng và cách bố phòng của địch ở Tây Nguyên, ta quyết định đánh lạc hướng

tấn công lên Plâycu và Kon Tum để tập trung lực lượng đánh Buôn Ma Thuột.

Sở dĩ chúng ta quyết định đánh Buôn Ma Thuột vì đây là vị trí chiến lược

quan trọng. Nếu làm chủ Buôn Ma Thuột, ta sẽ phá vỡ thế phòng thủ chiến

lược của địch ở Tây Nguyên, làm thay đổi cục diện chiến trường theo hướng

có lợi cho ta rõ rệt. Mặt khác do phán đoán sai hướng tiến công chiến lược

của ta nên lực lượng địch ở đây bố phòng không mạnh và có nhiều sơ hở.

Tướng Phạm Văn Phú- tư lệnh quân đoàn II ngụy cho rằng, ta sẽ đánh Plâycu

bởi lẽ, đây là địa đầu quan trọng của Tây Nguyên, nơi chỉ huy sở quân đoàn II

đóng giữ, là bàn đạp để tấn công Bình Định lại gần căn cứ tiếp tế của ta ở

35

Liên khu V. Nếu mất Plâycu, Buôn Ma Thuột cũng mất.

Từ nhận định đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời, chủ động và sáng tạo ,

cuộc tấn công đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột của ta đã gìanh thắng lợi

nhanh chóng trong vòng 32 giờ. Ngay sau khi giải phóng thị xã Buôn Ma

Thuột, Bộ Chính trị đã chỉ thị triển khai lực lượng để đánh tan ý đồ tái chiếm

của quân ngụy Sài Gòn, đồng thời cũng dự kiến về một cuộc rút lui của chúng

khỏi Tây Nguyên khi Plâycu bị uy hiếp. Chính những phán đoán nhạy cảm và

chính xác đó đã chỉ đạo lực lượng chủ lực của ta đập tan cuộc phản kích hòng

tái chiếm Buôn Ma Thuột của quân ngụy ( 12-3- 1975) đồng thời khép chặt

vòng vây đẩy mạnh truy kích địch khi chúng tìm đường rút chạy. Khoét sâu

những sai lầm chiến lược của địch , lực lượng chủ lực mặt trận Tây Nguyên

đã thần tốc, nắm vững thế chủ động tiến công, truy kích, giáng đòn quyết

định, làm tan rã lực lượng quân đoàn II ngụy, giải phóng Tây Nguyên với 60

vạn dân. Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên đã mở ra bước ngoặt từ thế

tiến công chiến lược sang tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.

Dựa vào bản đồ, giáo viên cần chỉ cho học sinh nhận thức rõ rằng,

thuật ngữ “ Chiến dịch Huế - Đà Nẵng” trình bày trong sách giáo khoa là cách

nói tắt, giản đơn về 3 chiến dịch trong thế trận đồng thời và liên hoàn là:

Chiến dịch Trị -Thiên; chiến dịch Nam - Ngãi; Chiến dịch Đà Nẵng. Nhận

thức mới này được xuất phát từ thực tiễn chỉ đạo của cơ quan chỉ huy tối cao

là Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và thực tiễn diễn ra

trên chiến trường. Ngay trong khi chiến chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc,

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã kịp thời chỉ đạo mở chiến dịch Trị -

Thiên. Tại cuộc họp ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị nhận định rằng:" Thời cơ

chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng

miền Nam". Vì vậy, cần tập trung nhanh nhất mọi điều kiện vật chất, khí tài,

36

lực lượng, hành động nhanh chóng táo bạo bất ngờ, đánh cho địch không kịp

trở tay giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa."(1) song trước mắt phải tiêu diệt

hoàn toàn quân địch ở Huế và Đà Nẵng .

Sau những thắng lợi liên tiếp của quân dân ta ở Quảng Trị (19-3), Tam

Kỳ (24-3), Huế, Quảng Ngãi (25-3), Chu Lai(26-3) địch dồn về co cụm ở Đà

Nẵng trong thế bị bao vây tuyệt vọng . Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra

lệnh cho tướng Ngô Quang Trưởng cố thủ Đà Nẵng bằng mọi giá, nhưng hơn

10 vạn sĩ quan, binh lính ngụy ở đây đang hoang mang cực độ khiến cho

mệnh lệnh "tử thủ" trở nên vô hiệu. Bộ Chính trị nhận định, địch cố muốn

giữ Đà Nẵng cũng không thể được, do vậy cần mở cuộc tấn công Đà Nẵng

với tư tưởng chỉ đạo " táo bạo ,bất ngờ, kịp thời , chắc thắng". Ngày 25- 3 -

1975 Bộ tư lệnh mặt trận Quảng - Đà được thành lập. Sự chỉ đạo kịp thời của

Trung ương đã làm cho sức mạnh tấn công của lực lượng chủ lực mặt trận

Quảng- Đà được phát huy triệt để. Ngày 29-3 quân ta từ các hướng đồng loạt

tấn công làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, giải phóng hoàn toàn thành phố

Đà Nẵng.

Sau hơn một tháng tấn công và nổi dậy, quân dân miền Nam đã gìanh

được những thắng lợi có nghĩa chiến lược quan trọng. Với việc giải phóng

Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, ta đã làm chủ hơn nửa đất đai và dân số miền

Nam , chiếm giữ một khối lượng vật chất, vũ khí, phương tiện chiến tranh

khổng lồ. Đặc biệt lực lượng vũ trang của ta qua chiến đấu đã thể hiện rõ sức

mạnh đoàn kết và khả năng hiệp đồng tác chiến thuần thục, thống nhất. Lực

lượng địch bị suy yếu nghiêm trọng, buộc phải rút về xây dựng tuyến phòng

thủ Phan Rang.

Từ đầu tháng 4 năm1975, cả nước bước vào cuộc hành quân lịch sử

hướng về Sài gòn với khí thế khẩn trương và ý chí quyết tâm"đi nhanh đến,

đánh nhanh thắng". Ngày 6-4-1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ chỉ

37

huy chiến dịch Sài gòn - Gia Định. Theo sát những diễn biến của chiến (1) Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, NxbCTQG, tr 237

trường, đánh giá đúng lực lượng địch qua từng trận đánh, từng chiến dịch,

Đảng ta luôn chỉ đạo các mặt trận nắm vững thời cơ, phát huy thế tiến công

chiến lược, thừa thắng xốc tới. Lúc này thời cơ chính là lực lượng, là sức

mạnh để đi đến thắng lợi. Ngày 7-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra

lệnh cho các đơn vị hành quân vào chiến trường: Thần tốc, thần tốc hơn nữa,

Táo bạo , táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng ".(1)

Theo kế hoạch, đúng 5h30' ngày 30- 4-1975, các cánh quân chủ lực của

ta sẽ đồng loạt tấn công vào Sài Gòn. Riêng cánh quân phía Đông, theo đề

nghị của Trung tướng Lê Trọng Tấn xin được nổ súng sớm hơn 12 tiếng ( 18h

ngày 29-4 ) vì lực lượng đang tập kết ở vùng ven cách thành phố từ 15 -20 km

vừa đánh địch vừa phải vượt sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Việc điều

chỉnh kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh được Bộ

Chính trị và Quân ủy Trung ương nhất trí thông qua. Sự điều chỉnh kịp thời

đó đã phát huy sức mạnh chiến đấu, tạo thế hợp đồng binh chủng chặt chẽ,

đưa cuộc tiến công thần tốc giải phóng thành phố Sài Gòn đúng 11h30' ngày

30 -4- 1975.

3.4. Sử dụng kiến thức địa lí trong dạy học lịch sử ở thực địa

Việc sử dụng kiến thức địa lí với nhiều nguồn tài liệu khác có thể được

tiến hành trong bài học lịch sử ở thực địa. Bài học lịch sử tiến thành ở thực địa,

nơi xảy ra sự kiện và lưu giữ những hiện vật, di tích lịch sử liên quan tới sự kiện

đó, luôn hấp dẫn với học sinh. Bài lịch sử tiến hành ở thực địa là bài lịch sử nội

khoá, song không bị bó hẹp, khống chế về thời gian (như bài nội khóa trên lớp),

nên có thể kết hợp với hoạt động ngoại khoá sinh động cuốn hút học sinh Cũng

như các hình thức hoạt động ngoại khoá, việc tiến hành dạy bài lịch sử ở thực địa

phải được chuẩn bị công phu, từ lựa chọn địa điểm đến công việc tiến hành.

38

Không phải bài lịch sử nào cũng có thể tiến hành được ở thực địa, vì nó phụ (1) (1) Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, NxbCTQG, tr 286.

thuộc vào nhiều yếu tố: Thời gian, nội dung bài học, điều kiện học tập, vị trí

không gian, phương tiện đi lại...Vì vậy, nơi nào có điều kiện cần cố gắng thực

hiện, bởi vì, nó là một hình thức tổ chức dạy học có tác dụng tốt trong giáo

dưỡng và giáo dục học sinh.

Khi dạy bài “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước", giáo viên

ở Trường THPT ATK (Tuyên Quang) có thể tổ chức giờ học thực địa tại khu di

tích Tân Trào, kết hợp với nhiều hoạt động ngoại khoá sinh động, hấp dẫn. Học

sinh được tiếp xúc với nhiều tài liệu thành văn, tài liệu hiện vật, tài liệu truyền

miệng liên quan đến kiến thức địa lớ. Điều đó giúp học sinh hứng thú trong học

tập, lĩnh hội kiến thức nhanh hơn, củng cố kiến thức bền vững hơn.

Chẳng hạn, tại khu di tích Pác Bó, khi vào hang Cốc Bó, giáo viên

lịch sử Trường Dân tộc nội trú (Hà Quảng - Cao Bằng) có thể gợi cho học

sinh nhớ đến những nội dung quan trọng của Nghị quyết Hội nghị Trung

ương VIII để các em tái hiện kiến thức. Ngắm nhìn chiếc bàn đá, nơi Bác

từng làm việc, nhìn dòng suối Lênin trong xanh uốn mình, in hình bóng núi

Các Mác, giáo viên hướng dẫn học sinh tưởng tượng những ngày gian khổ

mà Bác đã phải vượt qua mọi gian nan thử thách, luôn lạc quan, yêu đời,

tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng. Giáo viên gợi cho học sinh

nhớ lại bài thơ “Tức cảnh Pác Bó"nổi tiếng mà Người đã viết ở đây hồi

tháng 2/1941:

"Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang" (1).

Khi tham quan khu di tích Định Hoá (Thái Nguyên) ngắm nhìn di tích

(1) Hồ Chớ Minh Toàn tập, tập 3, NxbCTQG, HN, 2000, tr 169

39

Định Biên, nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân

hợp thành Việt Nam giải phóng quân, giáo viên trường PT Nội trỳ Bỡnh Yờn

cho học sinh nhớ tới nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc kỳ (4/1945) về việc

thống nhất lực lượng vũ trang trong toàn quốc.

Hướng dẫn học sinh tại di tích Tân Trào, đến lán Nà Lừa, nơi Bác Hồ ở

và làm việc trong những ngày tiền khởi nghĩa, giáo viên Trường THPT ATK

(Tuyên Quang) có thể kể rằng: “Giữa lúc thời cơ cách mạng đang chín muồi,

Người bị ốm nặng, sốt li bì. Thấy mình yếu quá, nghĩ rằng khó qua khỏi, Bác

đã dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải

hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"(2). Điều này làm học sinh hiểu sâu sắc rằng, Đảng ta

đã nhận thức đúng về thời cơ cách mạng và khi nắm được thời cơ “Ngàn năm

có một"thì kiên quyết hành động. Đó chính là nghệ thuật, sự sáng tạo tài tình

trong lãnh đạo cách mạng của Đảng .

Thăm đình Tân Trào, nơi diễn ra Quốc dân đại hội (16,17/8/1945),giáo

viên trường PTTH Sơn Dương - Tuyên Quang nên dẫn một tài liệu nói về

lòng dân với Đảng, với cách mạng, với Bác Hồ, được một đại biểu dự đại hội

kể lại: "Được tin Quốc dân đại hội, họp ở đình làng mình, nhân dân Kim

Long (Tân Trào) đã nô nức cùng nhau đến chúc mừng và ủng hộ đại hội.

Người đem gạo, người đem rau, bầu, bí, người đưa tới một con lợn, có người

dắt đến cả một con bò. Bác thay mặt đại biểu ra nhận quà và cảm ơn đồng

bào. Nhìn các cháu nhỏ không có quần áo, gầy guộc, xanh xao, đang nép

mình vào các chị, các mẹ, Bác nghẹn ngào nói với các đại biểu: “Đồng bào

ta đói khổ vậy, mà hết lòng vì cách mạng. Các cô, các chú tính sao để lấy lại

nước cho nhanh, để các cháu đói khổ thế kia, có cơm ăn, áo mặc, được học hành" .

Đứng bên gốc đa Tân Trào, nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc “Bản

quân lệnh số 1", ra lệnh cho đội Việt Nam giải phóng quân tiến về giải phóng

40

Thái Nguyên, giáo viên đề nghị một học sinh đọc lại bản quân lệnh này, và (2) Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, (Sđd), tr 203

sau đó cho các em biết rằng, nhà sử học Trần Huy Liệu là tác giả bản quân

lệnh đó như ông đã kể trong hồi ký của mình: "Hôm ấy là đêm 13 tháng 8,

một căn nhà sàn lợp lá, tôi được đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) uỷ cho thảo

bản quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa. Mặc dầu ngồi dưới ngọn đèn dầu

lù mù mà những con tầm xuân, con thiêu thân bay quanh tới tấp, muỗi và rĩn

thi nhau đốt làm tôi lắm lúc nảy người lên, hay đập chân bành bạch, tôi vẫn

say sưa nghĩ đến cảnh nước mất, dân nhục hơn tám mưới năm, nghĩ đến sự

nghiệp cách mạng của mấy thế hệ qua... Bản quân lệnh số 1 lúc ấy tôi thảo ra một mạch, đọc đi đọc lại vẫn không sửa một chữ nào"(1).

Những hoạt động ngoại khoá rất đa dạng, phong phú, cho phép giáo

viên kết hợp các loại tài liệu, các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học

khác nhau. Những hoạt động ngoại khoá nêu trên, đã giúp cho giáo viên biết

cách tớch hợp tài liệu một cách khéo léo, nhẹ nhàng, sáng tạo mà hiệu quả .

Trong dạy học lịch sử ở địa phương Việt Bắc cần hết sức chú trọng

khai thác tài liệu trong các khu di tích thông qua tổ chức giờ học lịch sử ở

thực địa hoặc kết hợp với các hoạt động ngoại khoá như dạ hội, tham quan

v.v...Nguồn tài liệu hiện vật phong phú là bằng chứng hùng hồn, là dấu vết

của quá khứ lịch sử có tính thuyết phục cao, nhất là hiệu quả giáo dưỡng và

giáo dục lịch sử sâu sắc.

Chẳng hạn đề cập tới việc thực hiện nghị quyết của Hội nghị quân sự

Bắc Kỳ (4/1945) ta có thể gắn di tích Định Biên (Định Hoá - Thái Nguyên)

với chủ trương hợp nhất đội Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải

phóng quân (5/1945) hay di tích Khuổi Kịch (Tân Trào - Sơn Dương - Tuyên

Quang) nơi thành lập trường Quân Chính kháng Nhật (7/1945). Thăm lán Nà

Lừa trong khu di tích Tân Trào, ta có thể giúp học sinh hiểu rõ đây là nơi Bác

đã từng sống và làm việc trong những ngày tiền khởi nghĩa. Chính tại đây,

(1) Bác Hồ ở Tân trào, Hồi kí, Sở văn hóa thông tin Hà tuyên, 1985, tr 79

41

giữa lúc bệnh tình nguy kịch người đã dặn dò đồng chí Võ Nguyên Giáp như

là lời trăng trối và cũng là mệnh lệnh đối với dân tộc ta phải khởi nghĩa vũ

trang vì thời cơ cách mạng đang chín muồi: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới,

dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên

quyết giành cho được độc lập".Hoặc thăm Đình Tân Trào, nơi diễn ra Đại hội

Quốc dân để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa. Tại đây lần đầu tiên lãnh tụ

Hồ Chí Minh ra mắt quốc dân đồng bào và được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban dân

tộc giải phóng. Mọi người còn nhớ mãi hình ảnh của một vĩ lãnh tụ giản dị

gần gũi mà vĩ đại. Đứng bên gốc đa Tân Trào toả bóng sum xuê, cần gợi nhắc

để học sinh tái hiện một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc. Dưới gốc đa

này chiều ngày 16/8/1945 Đội Việt Nam giải phóng quân nhận lệnh tiến về

giải phóng thị xã Thái Nguyên mở đầu cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính

quyền trong toàn quốc

Tóm lại, Sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn các loại tài liệu trong dạy

học lịch sử đã tạo sức cuốn hút học sinh, hiệu quả dạy học được nâng lên rõ

rệt. Nguyên tắc tích hợp hay liên môn cần được sử dụng ở mức độ phù hợp

với trình độ học sinh và điều kiện cụ thể của địa phương. Tích hợp ở mức độ

thấp, khi sử dụng các nguồn tài liệu liên quan trong mối quan hệ mật thiết hay

tích hợp ở mức độ cao được thực hiện qua việc đối chiếu, so sánh, kết hợp các

42

tài liệu để xác định những kiến thức cơ bản phù hợp với học sinh.

Chương 4

TÍCH HỢP TÀI LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

4.1. Tích hợp tài liệu địa phương trong dạy học lịch sử

Nghiên cứu lịch sử địa phương luôn gắn liền với nghiên cứu lịch sử dân

tộc. Bởi lẽ, lịch sử địa phương là bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc, lịch sử

dân tộc được xây dựng dựa trên cơ sở khái quát những sự kiện, hiện tượng

lịch sử điển hình ở các địa phương. Một sự kiện lịch sử xảy ra gắn liền với

một vị trí không gian cụ thể, trong khoảng thời gian nhất định, do vậy sự kiện

đó trước hết phải mang tính địa phương. Do quy mô mức độ ảnh hưởng khác

nhau mà sự kiện đó trở thành sự kiện lịch sử địa phương hay sự kiện lịch sử

dân tộc. Dù sao chăng nữa, những sự kiện, hiện tượng xảy ra, nhất là trong

quá trình đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, có mối liên hệ chặt

chẽ giữa các địa phương với nhau. Thực tế đó để từ đó giúp cho người nghiên

cứu khái quá hoá những nội dung chung nhất để xây dựng lịch sử dân tộc

hoặc đi sâu phản ánh những nét tiêu biểu có tính đặc thù ở mỗi địa phương.

Dựa vào hoạt động thâm nhập thực tế, ta có thể thực hiện việc nghiên cứu

những diễn biến chi tiết, cụ thể của các sự kiện, hiện tượng lịch sử diễn ra ở

các địa phương. Việc tìm hiểu, nắm vững tri thức lịch sử địa phương, khu vực

là cơ sở rút ra những nhận định, đánh giá, kết luận chính xác khi trình bày lịch

sử dân tộc. Chính vì vậy, nhiều nội dung của lịch sử dân tộc được cụ thể hoá,

được bổ sung, đính chính, hoàn thiện dựa trên kết quả nghiên cứu lịch sử địa

phương.

Chẳng hạn, sự kiện lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước hoạt động sau

30 năm bôn ba hải ngoại, nhiều tài liệu ghi đó là ngày 8/2/1941. Từ hoạt động

nghiên cứu lịch sử địa phương tại Cao Bằng nhóm cán bộ nghiên cứu của

khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc ( nay là ĐHSP- ĐHTN), đã

43

có những căn cứ để xem xét lại sự kiện nêu trên. Qua đối chiếu các tài liệu

điền dã do các nhân mối cung cấp, các hồi ký của các cán bộ cách mạng lão

thành và các nguồn sử liệu khác lưu giữ ở địa phương... đã xác định được

rằng, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước ngày 28/1/1941. Các nguồn tài liệu đó

chỉ rõ, đầu tháng giêng năm 1941 Nguyễn ái Quốc cùng một số đồng chí cán

bộ của Đảng rời Tĩnh Tây (Trung Quốc) tìm đường về nước hoạt động. Trước

lúc vượt biên giới Người đã dừng chân tại Nậm Quang, Ngàm Tảy - một làng

người Nùng kề biên giới Việt Trung, để huấn luyện cấp tốc 40 cán bộ, Đảng

viên người Cao Bằng đang hoạt động tại Tĩnh Tây. Giúp Người tham gia

huấn luyện còn có các đồng chí Võ Nguyễn Giáp, Phạm Văn Đồng, Phùng

Chí Kiên ...Đến ngày 29 tháng chạp (tức 26/1/1941) lớp học kết thúc. Sáng

mồng hai Tết Tân Tỵ (tức 28/1/1941) Nguyễn ái Quốc cùng với một số cán bộ

của Đảng và những thanh niên của lớp huấn luyện đã trở về Tổ quốc hoạt

động. Ngày 30/1/1941 Nguyễn ái Quốc cùng với các đồng chí Vũ Anh, Lê

Quảng Ba trực tiếp kiểm tra hang Cốc Bó, nhận thấy rằng đây là một vị trí bí

mật sát kề biên giới Việt - Trung, nằm giữa cơ sở Nà Sác, Lục Khu và Châu

Hà Quảng nơi có cơ sở cách mạng vững chắc. Người quyết định chọn Cốc Bó

làm nơi ở và làm việc. Sau một thời gian ở nhà một cơ sở cách mạng bí mật,

ngày 8/2/1941 Người chuyển lên hang Cốc Bó thuộc Pác Bó - Hà Quảng -

Cao Bằng để ở và làm việc. Những cứ liệu đó đã góp phần làm sáng tỏ sự

kiện nói trên và giờ đây sự kiện Nguyễn ái Quốc trở về nước được điều chỉnh

vào ngày 28/1/1941.

Một ví dụ khác: Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII ( 5/1941) Đảng ta

đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. Đã có những quan niệm chưa

chính xác rằng là: Mặt trận Việt Minh ra đời sau đó được xây dựng thí điểm ở

Cao Bằng, do vậy phong trao Việt Minh ở đây phát triển mạnh ( khắp 9 Châu

ở Cao Bằng đều có các tổ chức quần chúng của Mặt trận Việt Minh trong đó

có 3 Châu hoàn toàn).Vấn đề là ở chỗ Mặt trận Việt Minh đã từng được xây

dựng thí điểm trước đó (đầu năm 1941). Trước khi trở về nước, Nguyễn ái

44

Quốc đã trực tiếp huấn luyện 40 cán bộ người Cao Bằng ở Tĩnh Tây (Trung

Quốc) để chuẩn bị trở về quê hương xây dựng thí điểm phong trào Việt Minh.

Trên cơ sở đánh giá"Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách

mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó

làm cơ sở liên lạc Quốc tế rất thuận lợi”. Người chỉ rừ “Cao Bằng còn phải

phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn

quốc. Có nối phong trào với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu

tranh vũ trang lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ ". Từ

nhận định đó, Người chỉ thị xây dựng thí điểm phong trào ở 3 Châu Hoà An,

Hà Quảng, Nguyên Bình (Cao Bằng). Sau 3 tháng thí điểm các tổ chức quần

chúng đã tập hợp được hơn 2.000 hội viên thuộc nhiều thành phần dân tộc

khác nhau: Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông v.v...Phong trào mạnh nhất ở Tĩnh

Oa, Nhượng Bạn, Tượng Yên (Hoà An), Nà Sác, Trường Hà, Hoà Mục, Sóc

Hà ... (Hà Quảng), Gia Bằng, Kỳ Chỉ... (Nguyên Bình). Việc xây dựng thí

điểm thành công phong trào Việt Minh ở Cao Bằng là cơ sở thực tiễn đầy

thuyết phục để Trung ương Đảng và Nguyễn ái Quốc quyết định nhân rộng

mô hình đó ra phạm vi cả nước. Vì vậy tại Hội nghị Trung ương VIII (5/1941)

Đảng ta quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. Những tư liệu đó sẽ giúp

cho ta có cách nhìn toàn diện hơn về nội dung sự kiện lịch sử nói trên.

Từ thâm nhập thực tế, người nghiên cứu còn có những cứ liệu để xem

xét những đặc điểm có tính đặc thù của lịch sử địa phương trong tiến trình

phát triển chung của lịch sử dân tộc. Chẳng hạn nói tới hiện tượng "Khởi

nghĩa từng phần" sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), ta thường thấy là

các địa phương căn cứ vào bản chỉ thị: "Nhật Pháp bắn nhau và hành động

của chúng ta " của Thường vụ Trung ương Đảng ra ngày 12/3/1945, để tiến

hành khởi nghĩa giành thắng lợi. Tuy nhiên cũng có nơi căn cứ vào tình hình

cụ thể của địa phương mình, cán bộ lãnh đạo của Trung ương cùng Đảng bộ

địa phương đã quyết định phát động nhân dân khởi nghĩa khi thời cơ đang

thuận lợi. Ví dụ ngày 10/3/1945, ngay sau khi xảy ra cuộc đảo chính ở Nhật -

45

Pháp, tại Sơn Dương - Tuyên Quang, cuộc họp của Phân khu Nguyễn Huệ do

đồng chí Song Hào chủ trì đã nhận định "Thời cơ đã tới" do vậy phải "nhanh

chóng, mạnh dạn hành động". Ngay đêm đó cuộc khởi nghĩa giành chính

quyền đã nổ ra giành thắng lợi ở Tổng Thanh La. Thừa thắng ta tiến tới giành

chính quyền ở các địa phương lân cận và tiến ra giành chính quyền ở huyện lỵ

Đăng Châu, chính quyền cách mạng Châu Tự do đã ra đời.

Trong quá trình dạy học lịch sử, tài liệu địa phương là nguồn sử liệu

phong phú, là căn cứ khoa học để giúp học sinh tìm hiểu những sự kiện lịch

sử diễn ra ở địa phương mình, từ đó có cách nhìn nhận về lịch sử dân tộc một

cách toàn diện, cụ thể, sinh động, hấp dẫn. Xâm nhập thực tế địa phương là cơ

hội tốt để thầy, trò hiểu rò hơn những chủ trương, chính sách quyết nghị quan

trọng của Đảng được xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể, gắn liền với

những tác động khách quan và chủ quan, do đó văn kiện cũng chứa đựng cả

hai yêu tố đó. Nếu mặt khách quan của văn kiện thể hiện ở chỗ bản thân nó là

lịch sử hoặc là tác nhân quan trọng để tạo ra lịch sử, thì mặt chủ quan được

thể hiện thông qua các nhận định, đánh giá, kết luận. Tính chính xác của văn

kiện được lịch sử kiểm chứng trong đó có những biểu hiện cụ thể thông qua

lịch sử địa phương. Từ nhận thức đó, có thể sử dụng tư liệu lịch sử địa

phương để làm sáng tỏ sự kiện lịch sử dân tộc.

Ví dụ: Dạy phần Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947 ở lớp 12 -

PTTH, dựa vào bản chỉ thị: "Phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp"

của TW Đảng - ngày 15/10/1947, giáo viên có thể làm sáng tỏ âm mưu và

hành động của Pháp khi chúng đưa quân tấn công lên Việt Bắc. Đặc biệt

những chiến công của quân dân Việt Bắc ngay từ ngày đầu chiến dịch được

Đảng ta ghi nhận trong văn kiện quan trọng này: "Học sinh trường võ bị Bắc

Kạn giết hơn 80 quân Pháp nhảy dù xuống cạnh nhà trường (7/10/1947); Đội

cao xạ của ta ở Cao Bằng hạ được 1 máy bay, giết chết 10 tên địch trong đó

có một võ quan cao cấp Pháp, Phó tham mưu quân đội Pháp ở Đông dương

46

(8/10/1947); Vệ quốc quân đánh lui địch đổ bộ lên Bình Ca, thuộc Tuyên

Quang (13/10/1947); Vệ quốc quân và dân quân du kích phối hợp đột kích

Chợ Mới, nã đại bác phá kho của địch (15/10/1947); Dân quân xã Thanh Mai

(Bắc Kạn) tiêu diệt hai quân nhảy dù, đoạt 1 Moócchie, 2 lựu đạn, 1 súng côn (8/10/1947)..." (1).

Tư liệu lịch sử gắn với kiến thức thực tiễn có thể minh hoạ sáng tỏ hơn

những sự kiện lịch sử cụ thể ở từng địa phương trong quá trình dạy học. Như

vậy những địa danh quen thuộc ở quê hương gắn với những chiến công oai

hùng sẽ là niềm tự hào chân chính giúp cho các em có ý thức trân trọng, giữ

gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc độc đáo của địa phương mình

trong quá trình hội nhập và phát triển. Chẳng hạn, giáo viên ở Tuyên Quang

có thể khai thác đặc điểm địa hình tự nhiên hiểm trở tiện lợi cho ta bố trí trận

địa mai phục giành được những thắng lợi to lớn ở Bình Ca, ở km số 7 đường

Tuyên Quang - Hà Giang, đèo Gà, đầm Hồng (Chiêm Hoá - Tuyên Quang).

Thắng lợi đó chẳng những tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch mà

còn phá tan kế hoạch hợp quân tại Đài Thị - Chiêm Hoá của kẻ thù, buộc

chúng phải tìm đường rút chạy. Đèo Bông Lau (trên quốc lộ 4 Cao Bằng -

Lạng Sơn) nơi xảy ra cuộc phục kích của ta khiến cho quân Pháp phải kinh

hoàng, gọi đây là "con đường chết". Trận đánh bom của chiến sĩ tự vệ Thành

Tuyên để người Pháp coi đó là "tiếng nổ của hoả ngục", và chiến công ở Khe

Lau làm cho dòng Lô - Gâm "ngầu máu" mãi là nỗi ám ảnh đối với quân viễn

chinh Pháp về mảnh đất "nước độc, rừng thiêng" đầy "chết chóc" này.

Giáo viên ở Bắc Kạn có thể cho học sinh hiểu rõ hơn thực trạng của

những ngày đầu chiến dịch. Khi địch cho máy bay bắn phá và quân dù đổ bộ

chiếm một số vị trí quan trọng ở Chợ Mới, Cao Kỳ, Chợ Đồn, mở cuộc càn

quét chiếm Ty Ngân Khố, kho Quân y, Quân giới... làm cho cán bộ và nhân

dân lúng túng hoang mang tuỳ nghi sơ tán. Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ

(1) Văn kiện Đảng,Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , 2000, tr 315

47

đạo khắc phục tình trạng đó qua bản "Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh uỷ

Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn - ngày

9/10/1947". Bản chỉ thị đó đã phân tích âm mưu hành động, điểm mạnh yếu

trong lực lượng kẻ thù để từ đó Trung ương có những chỉ đạo kịp thời về quân

sự, chính trị, kinh tế để Đảng bộ và quân, dân Bắc Kạn thực hiện. Chính vì

vậy Bắc Kạn đã nhanh chóng củng cố lại lực lượng, chấn chỉnh tư tưởng, tổ

chức đánh địch ở nhiều nơi, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não của kháng chiến

và buộc địch phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã cuối tháng 11/1947.

4.2. Tích hợp kiến thức địa phương trong thực hành lịch sử

Công tác thực hành trong dạy học lịch sử xuất phát từ nguyên lý giáo dục của

Đảng: ''Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội'' (1)

Theo cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, thực hành lịch sử góp phần làm cho

''Giáo dục phổ thông gắn liền với lịch sử thiên nhiên, xã hội, con người địa

phương, làm cho việc giảng dạy và học tập ở nhà trường thấm đậm hơn cuộc

đời thực. Học sinh ngay từ lúc còn đi học đã sống với thực tế xã hội xung

quanh'' .

Như vậy, công tác thực hành lịch sử là biện pháp tốt nhất để học sinh

biết tớch hợp kiến thức từ nhiều nguồn tài liệu, tớch hợp những kiến thức

tổng hợp với thực tiễn xã hội, biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.

Nguyên lý Giáo dục của Đảng được thể chế hoá trong Luật Giáo dục

của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội khoá IX thông

qua ngày 2/ 12/ 1998: ''Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính

tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của

(1) (3) Luật Giáo dục. Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1998, Tr 8- 9;19

48

từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận

Công tác thực hành lịch sử góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục

tiêu đào tạo ở trường phổ thông. Hoạt động dạy học trong trường phổ thông

nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển thành những con người toàn diện, có trình

độ kiến thức phổ thông cơ bản, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực hành

động, đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đòi hỏi. Từ thực hành

lịch sử địa phương, học sinh được bổ sung, hoàn thiện tri thức lịch sử dân tộc

- một bộ phận tri thức phổ thông trước khi các em bước vào cuộc sống tự lập.

Những nhận thức về tính quy luật trong sự phát triển của lịch sử, những bài

học kinh nghiệm quý báu, việc vận dụng kiến thức lịch sử để giải thích những

vấn đề thực tiễn đang đặt ra .v.v. đều được hình thành từ công tác thực hành

bộ môn, trong đó có thực hành lịch sử địa phương ở trường học. Từ hoạt động

thực hành lịch sử địa phương, học sinh có những nhận thức sâu sắc về nơi

mình sinh ra, lớn lên, ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với miền quê giàu

truyền thống lịch sử, văn hoá.

- Công tác thực hành lịch sử địa phương có ý nghĩa giáo dưỡng sâu sắc đối

với việc học tập lịch sử của học sinh trong trường phổ thông. Thông qua hoạt

động thực hành, học sinh biết cách vận dụng lý thuyết vào thực tiễn và cũng

chính từ hoạt động thực tiễn, những tri thức lịch sử được củng cố khắc sâu.

Không chỉ vậy, hoạt động thực hành lịch sử địa phương được coi là một trong

những nguồn nhận thức tri thức lịch sử. Từ thực tiễn sinh động, đa dạng của

hoạt động thực hành, học sinh có thể tự khám phá, lĩnh hội thêm những kiến

thức mới, bổ sung, hoàn thiện, củng cố những kiến thức cơ bản được học

trong nhà trường.

Hoạt động thực hành lịch sử địa phương luôn hấp dẫn đối với học sinh

49

phổ thông. Đây là hoạt động học tập, nghiên cứu ngoài nhà trường, nếu được

Theo lý luận dạy học hiện đại, trong thời đại bùng nổ thông tin, học sinh

có thể tiếp xúc với nhiều nguồn tài liệu khác nhau; vì vậy, giáo viên cần chú

trọng thực hành, hướng dẫn học sinh tiếp cận, tìm hiểu tài liệu, tiếp nhận tri

thức. Thực hành giúp học sinh nắm vững sự kiện, hiện tượng lịch sử, bồi

dưỡng hứng thú, say mê trong hoạt động nghiên cứu, sưu tầm tư liệu, chủ động

vận dụng những kiến thức đã học vào lý giải những vấn đề của thực tiễn.

Từ công tác thực hành, học sinh càng nhận thức rõ mối quan hệ chặt chẽ

giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc, thấy được sự phát triển của lịch

sử địa phương có những đặc điểm mang tính đặc thù, song luôn luôn tuân thủ

theo sự phát triển chung của lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới.

Công tác thực hành lịch sử địa phương rèn luyện cho học sinh những

kỹ năng sưu tầm, nghiên cứu tư liệu lịch sử. Đặc biệt, từ việc sưu tầm, xử lý

tư liệu, học sinh được rèn luyện các thao tác tư duy như phân tích, so sánh,

tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, cũng như những phán đoán, giả thuyết nêu ra và

hướng giải quyết trong nghiên cứu. Đó chính là cơ sở để rèn luyện khả năng

phát triển năng lực tư duy, độc lập, sáng tạo, bồi dưỡng niềm say mê, hướng

thú đối với hoạt động học tập nghiên cứu lịch sử địa phương cho học sinh

trong trường phổ thông.

Hoạt động thực hành lịch sử địa phương còn có ý nghĩa giáo dục sâu

sắc. Được trực tiếp tham gia hoạt động sưu tầm, nghiên cứu lịch sử địa

phương, học sinh có những nhận thức đúng đắn về giá trị lịch sử văn hoá của

50

địa phương mình. Càng tự hào về truyền thống của quê hương các em càng có

Công tác thực hành lịch sử địa phương giúp các em học sinh biết gắn

kết quả sưu tầm nghiên cứu vơí những mục tiêu kinh tế xã hội của địa

phương. Nguồn tài liệu phong phú trên các lĩnh vực kinh tế, lịch sử, văn hoá

.v.v. là những cứ liệu quan trọng giúp cho các cấp chính quyền địa phương có

những đề án quy hoạch mang tính chiến lược để khai thác hiệu quả, sử dụng

hợp lý tiềm năng kinh tế xã hội ở các địa phương. Điều đó còn góp phần bồi

dưỡng niềm tự hào chân chính cho nhân dân địa phương về những giá trị

truyền thống văn hoá của quê hương mình.

Như vậy, hoạt động thực hành là nhiệm vụ không thể thiếu trong công

tác nghiên cứu, dạy học lịch sử địa phương. Việc tổ chức, triển khai hiệu quả

hoạt động thực hành là trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng công tác

nghiên cứu và dạy học lịch sử địa phương trong trường phổ thông hiện nay.

Để làm tốt công tác thực hành lịch sử địa phương, chúng ta cần nắm vững nội

dung, hình thức tiến hành, phương pháp thực hiện trên tất cả các công việc

chủ yếu của hoạt động nghiên cứu lịch sử địa phương.

Ví dụ: Thực hành tìm hiểu Địa danh lịch sử

Nghiên cứu lịch sử địa phương ta bắt gặp nhiều tên gọi xóm làng, núi,

sông, đồng, ruộng, biển, hồ .v.v. Những cái tên đó đều có nguồn gốc của nó.

Tìm hiểu địa danh giúp ta hiểu được nguồn gốc của xóm làng, đặc điểm nghề

nghiệp truyền thống, điều kiện tự nhiên, xã hội liên quan đến địa phương.

Hướng dẫn tìm hiểu về địa danh luôn tạo ra sự hấp dẫn, hứng thú đối với học

sinh trong nhà trường. Ta có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu địa danh gần

51

gũi nhất là tên làng, tên phố.

- Tên làng gắn với đặc điểm địa lý tự nhiên.

Làng, xóm, Bản, Mường, buôn, sóc ... của cộng đồng các dân tộc Việt

Nam đều gắn với một vùng đất nhất định (vị trí không gian). Ở những nơi đó

có những điều kiện tự nhiên chi phối trực tiếp cuộc sống của cộng đồng các

dân tộc. Chính vì vậy nhiều địa danh, tên làng trong quá trình hình thành gắn

liền với điều kiện tự nhiên nơi đó.

Làng Trung Sơn, Lam Sơn, Bắc Sơn ... gắn liền với vùng núi; Thanh

Châu, Hà Châu gắn liền với vùng đất phù sa bồi đắp ven sông; Nà Hang, Nà

Sản, Nà Ngần gắn liền với vùng ruộng bậc thang ven rừng của đồng bào Tày-

Thái; Khuổi Nậm, Khuổi Kịch là làng bản gắn liền với suối của đồng bào Tày

- Nùng.

- Tên làng, phố gắn liền với nghề truyền thống.

Các tên phố cổ ở Hà Nội như Hàng Thiếc, Hàng Đồng, Hàng Bạc,

Hàng Mã, Hàng Đào .v.v. đều gắn với nghề thủ công truyền thống của cư dân

Thăng Long ngàn năm văn hiến. Ở nhiều nơi, các tên Làng Chài, Làng Đúc,

Làng Bông .v.v. đều gắn với nghề nghiệp của phần lớn cư dân nơi đó.

- Tên làng gắn với những biến động xã hội.

Việc tách dân, di cư tự nhiên hoặc do những biến động xã hội, nhất là

chiến tranh, loạn lạc, nhiều bộ phận cư dân phải bỏ quê tìm nơi ở mới. Họ lập

xóm, dựng làng lấy tên làng cũ đặt cho tên làng mới để nhắc nhở cháu con

nhớ tới quê hương, gốc rễ cội nguồn. Chính vì thế một số địa phương có

những tên làng trùng nhau (Bắc Ninh có tới 9 làng mang tên Chờ).

- Tên làng gắn với những sự kiện, hiện tượng lịch sử.

Làng Quan Triều (Thái Nguyên), quê hương của Dương Tự Minh - thủ

lĩnh Phủ Phú Lương. Ông là người có công lớn trong việc giành lại một vùng

đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống, giữ vững vùng biên ải phía Bắc, được nhà

52

Lý phong sắc ''Uy viễn Đôn Tĩnh Cao Sơn Quảng đô chí thần''. Từ khi ông

Tương tự như vậy, làng Dương Xá gắn liền với quê hương Dương Đình

Nghệ, Lưu Xá gắn liền với quê hương Lưu Khánh Đàm lưu gia thời Lý, làng

A Sào (Thái Bình) trước có tên là A Cảo (tiếng Việt cổ Cảo là gạo) gắn với

việc dựng kho gạo lớn của nhà Trần trước kia. Tân Trào (Tuyên Quang) tên

gọi cũ là Kim Long. Từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa từng phần sau ngày

Nhật đảo chính Pháp (9. 3. 1945), Kim Long giành được chính quyền về tay

nhân dân và trở thành ''thủ đô'' của khu giải phóng Việt Bắc (ra đời 6. 1945).

Tại đây phong trào Việt Minh phát triển rất mạnh, làng Kim Long được đổi

tên thành Tân Trào - nơi có phong trào cách mạng mới (phong trào Việt

Minh).

- Tên làng gắn với những truyền thuyết lịch sử.

Ở nhiều địa phương, tên làng, tên đất, tên đèo, tên núi, tên sông gắn

liền với những truyền thuyết lịch sử: Đèo Mã Phục gắn với truyền thuyết

ngựa đá biết bay của Nùng Trí Cao; Giang Tiên (Thái Nguyên) trước có tên là

Giang Ma, mảnh đất dân gian lưu truyền là ''vùng đất nghịch'' bởi yêu ma

thường xuyên quấy phá. Nhân dân nơi đây lập đền Trình cầu sự che chở của

Đức mẹ và thánh Đuổm Dương Tự Minh, nên mảnh đất được yên bình, dòng

sông Cầu trong xanh chảy qua đây trở thành nơi tắm mát, vui đùa của các

nàng tiên nữ. Vì vậy Giang Ma đổi thàng Giang Tiên.

Nhiều địa danh ở Cao Bằng gắn liền với truyền thuyết Báo Luông, Sao

Cải (hay gọi là Pú Luông). Truyền thuyết kể rằng, từ xa xưa trời mới sinh ra

hai người khổng lồ ở Cao Bằng là Báo Luông (anh to) và Sao Cải (chị lớn).

Họ lấy nhau và sinh được 100 người con. Họ sống lang thang săn bắt, hái

lượm sau đó biết trồng trọt, chăn nuôi. Nơi gia đình Báo Luông giã gạo trong

hộc đá nay là xóm Dộc Xăm (cối giã - theo tiếng Tày của đồng bào địa

53

phương). Nơi họ nấu cơm nay có tên là Nà Mò (ruộng nồi) thuộc xã Nam

Tuấn - Hoà An - Cao Bằng. Cha con Báo Luông bắt voi rừng về thuần dưỡng,

nay là Khe Giáp dạng (Khe voi) thuộc xã Hồng Việt. Nơi bắt nhốt trâu nay

gọi là Lũng Vài (Lũng trâu) ở Hồng Việt. Nơi chăn gà, vịt nay gọi là Rằng

Cáy (núi ổ gà), Lậu Pất (chuồng vịt) thuộc xã Bế Triều .v.v.

- Địa danh gắn với tên các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá.

Ở các thành phố, thị xã các tên phố, phường, đường, quận, thường

mang tên những nhân vật lịch sử, các danh nhân văn hoá, anh hùng dân tộc

.v.v. ở một số nơi, nhiều tên làng xã cũng đặt tên của các chiến sĩ cách mạng

tiêu biểu của địa phương. Chẳng hạn, xã Nam Tuấn (Hoà An- Cao Bằng), xã

Phi Hải, Hồng Định, Hồng Đại, Chí Thảo .v.v. (Quảng Hoà - Cao Bằng) đều

là tên thật hoặc bí danh của các chiến sĩ cách mạng ở địa phương mình.

Hướng dẫn học sinh tìm hiểu thân thế, sự nghiệp các nhân vật lịch sử, các

danh nhân văn hoá cũng chính là biện pháp nghiên cứu lịch sử phù hợp, hấp

dẫn

4.3. Tích hợp các tài liệu lịch sử địa phương, tài văn học, tài liệu địa lí

trong hoạt động ngoại khóa lịch sử.

Cùng với việc tiến hành bài học nội khóa, hoạt động ngọai khóa góp

phần thực hiện những mục tiêu giáo dục bộ môn, nâng cao chất lượng giáo

dục. Công tác ngoại khóa lịch sử góp phần bồi dưỡng, làm phong phú, sâu sắc

toàn diện tri thức lịch sử mà học sinh thu nhận trên lớp. Các hoạt động ngoại

khóa đã gắn việc học tập lịch sử của học sinh với đời sống, tạo cho các em ý

thức, trách nhiệm phục vụ xã hội, ngoài ra hoạt động ngoại khóa sẽ phát huy

năng lực nhận thức độc lập khả năng linh hoạt chủ động của học sinh.

Hướng vào những mục tiêu trên, TLVH để dạy học lịch sử dân tộc giai

đoạn 1930-1945 có thể phục vụ cho một số loại hình ngoại khóa sau:

54

4.3.1. Sưu tầm tài liệu văn học để sử dụng trong học tập lịch sử

Việc sưu tầm tài liệu được tiến hành theo sự hướng dẫn của giáo viên.

Do nguồn TLVH vô cùng phong phú, giáo viên viên chỉ nên hướng dẫn học

sinh sưu tầm những tài liệu phục vụ thiết thực cho việc nắm vững kiến thức

cơ bản thuộc chương trình môn học theo các chủ đề:

- Hồi kí cách mạng

- Thơ văn tố cáo tội ác của thực dân Pháp – phát xít Nhật

- Thơ văn cách mạng thời kì 1930-1931

- Thơ ca tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh

- Thơ ca ca ngợi Đảng v.v…

Trong khi sưu tầm chú ý những tác phẩm thơ văn của Hồ Chí Minh.

Thơ của Hồ Chí Minh có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục sâu sắc. Là một chiến

sĩ cách mạng lỗi lạc, Người sử dụng tài liệu lịch sử, TLVH để tuyên truyền,

giác ngộ cách mạng rất tài tình, do vậy, nguồn tài liệu văn thơ của Người rất

phong phú, theo sát lịch sử dân tộc và có sức thuyết phục mạnh mẽ. Người đã

viết nhiều bài trên báo “Việt Nam độc lập” để vận động mọi tầng lớp, giai

câp, lứa tuổi, thành phần…tham gia Mặt trận Việt Minh, nhiều bài viết kêu

gọi, cổ vũ nhân dân đấu tranh giành độc lập.

Những tư liệu sưu tầm được có thể sử dụng để bổ sung kiến thức trong

bài nội khóa, chuẩn bị bài tập, chuẩn bị thảo luận…Qua công tác sưu tầm tài

liệu, học sinh sẽ được rèn luyện về khả năng tổng hợp kiến thức, bồi dưỡng

niềm say mê đối với hoạt động sưu tầm, nghiên cứu. Giáo viên cũng có thể

hướng dẫn học sinh sưu tầm các TLVH về các sự kiện lịch sử ở địa phương,

trong đó chú ý đến nguồn TLVH dân gian, qua đó các em nhận thức được mối

liên hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc, bồi dưỡng niềm tự hào,

tình yêu quê hương đất nước và ý thức, trách nhiệm của người công dân trong

tương lai.

55

4.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc hồi kí cách mạng

Hồi kí cách mạng là loại TLVH có tính chân thực lịch sử nhất thiết về

người thật, việc thật trong quá khứ. Khi đọc hồi kí cách mạng, chúng ta có

được những hiểu biết khá đầy đủ và chính xác về phong trào cách mạng trước

đây, về điều kiện sống và làm việc của các chiến sĩ cách mạng, những thủ

đoạn đàn áp, khủng bố của bọn thống trị. Hồi kí cách mạng có thể nói là một

nguồn sử liệu đáng tin cậy, có giá trị, phản ánh quá trình đấu tranh cách mạng

giải phóng dân tộc do Đảng ta lãnh đạo.

Việc đọc hồi kí cách mạng giúp các em hiểu cặn kẽ hơn, cụ thể hơn

những sự kiện lịch sử chủ yếu trong chặng đường đấu tranh cách mạng. Ví dụ

đọc tác phẩm “Những chặng đường lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,

“Chặng đường nóng bỏng” của Hoàng Quốc Việt…học sinh hiểu sâu sắc một

thời kì đấu tranh cách mạng gian khổ dưới sự lãnh đạo của Đảng để đưa cách

mạng đi đến thắng lợi.

Mặt khác, những hình ảnh cụ thể và sinh động của người chiến sĩ cách

mạng trong hồi kí có sức hấp dẫn mãnh liệt và có tác dụng giáo dục rất lớn.

“Có thể nói đọc hồi kí, những tâm hồn bé nhỏ, tầm thường nhất cũng không

thể thản nhiên”.

Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đọc một số hồi kí như: “Một

chuyến đi lịch sử” của Chu Văn Tấn để thấy tình đoàn kết gắn bó của nhân

dân Trung Quốc và Việt Nam để bảo vệ an toàn cho đoàn cán bộ đi dự Hội

nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Pác Bó (cao Bằng), hồi

kí “ Những mẩu chuyện súng” của Trần Độ kể lại những giai thoại về súng

trong thời kì Tiền khởi nghĩa khiến người đọc cảm phục, hồi kí “ Những ngày

cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ” của Trần Đăng Ninh đã dựng lên đầy đủ,

sâu sắc hình ảnh kiên cường của đồng chí Hoàng Văn Thụ trước lúc hy sinh,

hồi kí “Từ núi rừng Ba Tơ” của Phạm Kiệt đã mô tả cuộc khởi nghĩa cướp

56

chính quyền ở Ba Tơ (11-3-1945) đến ngày Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi

thật hào hùng... Những tài liệu ấy có ý nghĩa thiết thức đối với việc củng cố

kiến thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh.

4.3.3. Sử dụng tài liệu trong khu di tích lịch sử, cách mạng, nhà bảo tàng,

nhà truyền thống

Có nhiều địa phương hiện nay còn lưu giữ những hiện vật, nhứng di

tích gắn với một giai đoạn lịch sử, một sự kiện lịch sử của dân tộc nên việc

hướng dẫn học sinh tham quan có ý nghĩa quan trọng đối với việc học tập lịch

sử. Trong quá trình tham quan, giáo viên cần hướng dẫn học sinh liên hệ kiên

sthuwcs lịch sử với thực tiễn để tạo ấn tượng và giáo dục học sinh.

Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tham quan khu di tích Pác Bó

(Cao Bằng). Khi vào hang Cốc Bó, giáo viên nói rõ đây là nơi ở đầu tiên của

Bác Hồ khi Người trở về Tổ Quốc sau 30 năm xa cách:

“ Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về! Im lặng! Con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”(1).

Chính tại Pác Bó này đã diễn ra Hội nghị Trung ương VIII (tháng 5-

1941) quyết định những vấn đề lịch sử trọng đại. Sau đó giáo viên nhắc lại

hoặc hỏi học sinh về nội dung hội nghị đã học.

Ngắm nhìn chiếc bàn đá, noi Bác từng làm việc, nhìn dòng suối Leenin

trong xanh uốn mình in bóng núi Các Mác, giáo viên giúp học sinh hình dung

những ngày tháng gian khổ mà Bác phải vượt qua, mặc dù vậy, tinh thần của

Bác vẫn luôn lạc quan, tin tưởng vào ngày toàn thắng của Cách mạng:

“ Sáng ra bờ suối, tối vào hang

(1) Phong Lan, Tố Hữu – về tác gia và tác phẩm, NxbVH, 1999, tr 669.

57

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đã chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang”.(1) [32, Tr 196]

Pác Bó hùng vĩ cũng chính là nơi mà cách mạng Việt Nam sẽ bùng

cháy dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác – Lênin

“Non xa xa, nước xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là

Đây suối Lênin, kia núi Mác

Hai tay xây dựng một sơn hà”.(2) [32, Tr 195]

Khi hướng dẫn học sinh tham quan khu di tích Tân Trào ( Tuyên

Quang), giáo viên có thể sử dụng hồi kí “Bác đến Tân Trào” của Song Hào:

“Đứng từ Tân Trào, gần hai gốc đa lớn ở giữa làng, nhìn về phía Bắc

thấy dãy núi Khao Hắp xanh rì, nhìn về phía Nam thấy chân núi Nà Lừa thấy

tre nứa ken dày, phảng phất như những khu rừng trúc trong các bức tranh

thủy mặc. Chính ở dưới chân núi này, Bác đã về trực tiếp chỉ đạo công cuộ

Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc...Nhìn xa hơn nữa là đỉnh núi màu lam già in

bật trên nền trời cao lồng lộng. Từ chân núi Hồng có một con suối gọi là

Khuôn Pén. Chính tại dòng Khuôn Pén này, Bác vẫn thường ra tắm và câu

cá. Cho mãi về sau, khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Bác về thăm Tân Trào lại tắm giữa dòng suối thân thuộc như xưa”. (3)

Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tân Trào, Người

đã nhanh chóng hòa nhập cuộc sống của đồng bào. Đồng bào địa phương

truyền tai nhau: “Có một đồng chí già mới về, yêu dân, yêu bộ đội đặc biệt lại

chăm chỉ lạ thường, đêm làm việc tới khuya, sáng mờ đất đã quét nhà, tưới

rau, lấy củi , đánh thức bộ đội dạy đi tập tành hoặc tăng gia giúp dân. Ông cụ

58

nhiều buổi cũng đi làm, luôn chăm lo nước tưới, thấy ruộng cạn là vận động (1) (2) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (Sđd), tr 196; 195 (3) Trương Dĩnh, Hồi kí cách mạng , tập 2, NxbGD, tr71

bà con đi tát nước ngày. Có hôm thấy cụ lúi húi ngoài đồng, tưởng làm gì té

ra đắp bờ bị nẻ để giữ nước ruộng cho dân”

Do những thắng lợi của cao trào kháng Nhật cứu nước, tháng 6-1945,

Khu giải phóng Việt Bắc đã ra đời. Tân Trào trở thành thủ đô của khu giải

phóng, traistim của Cách mạng Việt Nam. Từ đây tỏa đi khắp chân trời của

đất nước mọi chỉ thị về đường lối, phương châm, sách lược của Đảng nhằm

đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.

Trong khu giải phóng đã thực hiện nếp sống tươi vui lành mạnh, người

dân được hưởng quyền dân chủ của mình, điều này được phản ánh qua tài liệu

truyền miệng ở địa phương còn lưu truyền đến ngày nay:

“ Việc văn đặt kể cũng nhiều

Còn như việc võ mọi điều kể qua

Để mà phòng thủ muôn nơi

Thấy ai phản động vậy thời điều tra” (1)

Thăm lán Nà Lừa, giáo viên kể rằng: Đây là nơi ở và làm việc của Bác

trong những ngày tiền khởi nghĩa. Giữa lúc thời cơ cách mạng đang chín

muồi thì Bác bị ốm nặng. Nghĩ mình khó qua khỏi, Bác đã căn dặn đồng chí

Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh đến đâu,

dù phải dốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc

lập dân tộc”. Đó là lời căn dặn cũng là mệnh lệnh của Bác đối với lịch sử

nước nhà.

Thăm đình Tân Trào, nơi diễn ra Quốc dân đại hội (ngày 16 và 17-8-

1945), giáo viên dẫn một tài liệ nói về tấm lòng của dân với Đảng, với cách

mạng, với Bác Hồ: “Được tin Quốc dân đại hội họp ở đình làng mình, nhân

dân Kim Long (Tân Trào) đã nô nức cùng nhau đến chúc mừng và ủng hộ đại

(1) Tài liệu điễn dã tại Tân trào

59

hội. Người đem gạo, người đem rau, bầu bí, người đua tới một con lợn, có

người dắt tới cả một con bò. Bác thay mặt đại biểu ra nhận quà và cảm ơn

đồng bào. Nhìn các cháu nhỏ không có quần áo, gầy guộc, xanh xao đang nép

mình vào các chị, các mẹ, bác nghẹn ngào nói với các đại biểu: “Đồng bào ta

đói khổ vậy mà còn hết lòng vì cách mạng, các cô, các chú tính làm sao để lấy

lại nước cho nhanh, để các cháu đói khổ kia có cơm ăn, áo mặc, được học hành”(1). Đây cũng là lần đầu tiên Bác ra mắt Quốc dân đồng bào và được

bầu làm Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng.

Đứng bên gốc đa Tân Trào, nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc “Bản

quân lệnh số 1” ngày 16-8-1945, ra lệnh cho Đội Việt Nam tuyên truyền giải

phóng quân tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho Tổng khởi

nghĩa ginàh chính quyền trong toàn quốc, giáo viên đề nghị một học sinh đọc

là bản Quân lệnh này và sau đó cho các em biết rằng nhà sử học Trần Huy

Liệu là tác giả của bản Quân lệnh. Quá trình ông viết bản Quân lệnh số 1 rất

nhanh chóng trong một bối cảnh đặc biệt: “Hôm ấy là đêm 13-8, tôi được

đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) ủy cho thảo bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban

khởi nghĩa. Mặc dầu ngồi dưới ngọn đèn dầu lù mù mà những con tầm xuân,

con thiêu thân bay quanh tới tấp, muỗi và dĩn thi nhau đốt làm tôi lắm lúc nảy

người lên hay đập chân bành bạch, tôi vẫn say sưa, nghĩ đến đến cảnh nước

mất, dân nhục hơn 80 năm, nghĩ đến sự nghiệp cách mạng của mấy thế hệ

qua...Bản quân lệnh số 1 lúc ấy tôi thảo ra một mạch, đọc đi đọc lại vẫn

không sửa một chữ nào”.

Qua đó học sẽ làm sống lại bối cảnh lịch sử sôi sục, hào hùng trong

những ngày Tổng khởi nghĩa.

Ngoài các hình thức ngoại khóa trên, có thể tổ chức dạ hội lịch sử, đêm

thơ cách mạng, tổ chức gặp mặt, nói chuyện với các vị lão thành cách mạng,

(1) Đỗ Hồng Thái, Nhận thức về Chủ tịch Hồ Chí Minh như là người thầy giáo dạy học lịch sử, Kỉ yếu Hội thảo khoa học ĐHSPVB, tr28-33

60

hướng dẫn học sinh xây dựng các báo cáo ngoại khóa.

Ví dụ, Nhân kỉ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ 19-5, có thể tổ chức học

sinh trao đổi thảo luận sau khi nghe báo cáo ngoại khoá :

TỪ “GIÀ THU” PÁC BÓ ĐẾN “ÔNG KÉ” TÂN TRÀO

Sau 30 năm rời xa Tổ quốc, ngày 28/1/1941 lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về

nước để chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Những năm tháng hoạt

động ở Pác Bó - Cao Bằng và sau đó ở Tân Trào - Tuyên Quang, hình ảnh của

lãnh tụ Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã in đậm trong tâm trí của đồng bào

các dân tộc thiểu số. Người dân địa phương gọi Bác bằng những cái tên thân

mật như:" Già Thu" ở Pác Bó, " Ông Ké", " Ông Cụ" ở Tân Trào. Cách gọi

thân mật của đồng bào bắt nguồn từ chính đức tính khiêm nhường, giản dị,

cẩn trọng, chu toàn, chan hoà và gần gũi của một vị lãnh tụ vĩ đại, nhất mực

thương dân. Bác thật sự trở thành người thân trong mỗi gia đình, thành viên

của bản làng nơi Người hoạt động.

Dựa vào dân, lấy dân làm gốc, đoàn kết, giác ngộ nhân dân là quan

điểm quán xuyến trong mọi hoạt động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn aí

Quốc. Khi mới về nước, Người được các đồng chí Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm

bố trí ở tạm nhà cơ sở cách mạng trước khi chuyển vào hang Cốc Bó - Pác

Bó. Buổi gặp gỡ đầu tiên giữa Bác với ông cụ thân sinh của anh em nhà

Dương Đại Long, Dương Đại Lâm, thật không dễ dàng, bởi bất đồng ngôn

ngữ. Bác lấy bút viết mấy chữ nho lên giấy, ông cụ gật đầu. Vậy là cuộc "bút

đàm" đã nhanh chóng gắn kết hai người như hình với bóng. Sau này, ông cụ

ngỏ ý muốn kết nghĩa "huynh đệ" với " Già Thu'' như " Kết nghĩa vườn đào",

Bác đã viết cho ông cụ rằng: "Kết nghĩa vườn đào chỉ là anh hùng nhất

khoảnh. Kết nghĩa chúng ta phải mở rộng tất cả các dân tộc Kinh, Tày,

Nùng...Triệu người như một để đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phát xít Nhật để cho nước ta độc lập, mọi người sung sướng, tự do" (1).

61

Ông cụ lại nói: (1) ,(2) Bác Hồ về nước.(Hồi ký) .Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng, 1986.Tr108;118;

- Bọn đế quốc thì tôi chẳng biết, nhưng sờ sờ trước mắt là bọn tổng lý,

kỳ hào thì ác sao mà ác. Tôi cho bọn này là đáng ghét nhất.

- Bác giải thích:" Dân ta như cái cây, bọn tổng lý, kỳ hào như cái đinh,

mà bọn đế quốc như cái búa. Búa đập vào đinh thì đinh mới cắm vào cây.

Muốn cho đinh không cắm vào cây nữa thì cốt yếu phải giật cho được cái búa,

đánh gãy nó đi. Bọn đế quốc mà đánh qụy rồi thì những tổng lý, kỳ hào chẳng

qua cũng là người làng trên xóm dưới với ta cả, lo gì không uốn nắn được họ" (2).

Tấm lòng rộng mở ,bao dung, tình cảm chân thành, mộc mạc của Bác

đã làm cho đồng bào địa phương nhất mực tin yêu. Sau ngày chủ trì Hôị nghị

Trung ương VIII ( 5/1941), Bác ở nhà cụ Mã Văn Hản người Nùng ở Lam

Sơn. Người dân địa phương gọi cụ Hản theo tên con trai đồng lòng là cụ Lén.

Trước kia cụ Lén là người khó tính, ít người muốn gần. Người ta nói

rằng, có lần cụ Lén ra chợ bán rau cải, người mua lấy thêm một tàu, cụ đuổi

theo giằng lại cho kì được, khi đó chỉ còn tàu lá cải đã rách bươm. Lại có lần

cụ Lén bán thịt lợn, người mua nhặt thêm mẩu xương, cụ cũng đòi lại. Vậy

mà ở bên Bác một thời gian, cụ Lén mang từng đùi lợn ủng hộ cán bộ cách

mạng. Được giác ngộ cách mạng, gia đình cụ Lén tham gia làm giao liên dẫn

đường cho cán bộ hoạt động. Cụ bị địch bắt, dù bị chúng đánh đập dã man

nhưng vẫn một lòng kiên trung, quyết không hé răng khai báo nửa lời.

Người đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, giác ngộ quần chúng

nhân dân. Những bài viết của Người trước khi đăng báo"Việt Nam độc lập",

thường đưa cho một số đồng chí cán bộ địa phương, những người mới được

giác ngộ, văn hoá còn thấp, truyền nhau đọc. Sau đó Bác ân cần hỏi mọi

người còn chỗ nào chưa hiểu, Bác viết lại cho thật dễ hiểu rồi mới cho in để

tuyên truyền. Theo Bác, việc tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho đồng bào

62

miền núi phải thật dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với trình độ nhận thức của người

Để chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống

phong kiến, đặc biệt việc nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc là quan

trọng hàng đầu, Bác cắt nghĩa một cách mộc mạc để đồng bào miền núi dễ

hiểu: "Đế quốc như gốc cây, tay sai như cành ngọn cây, nếu ta muốn chặt cây

mà chỉ chặt cành, chặt ngọn thì nó lại mọc cành khác, ngọn khác. Phải chặt

vào gốc, cây mới đổ. Đánh đế quốc tay sai cũng phải như thế. Cái chính là phải đánh đổ bọn đế quốc"(1).

Trong đấu tranh cách mạng, bại vong là lẽ thường tình, song điều quan

trọng là giữ cho phong trào cách mạng của quần chúng luôn vững vàng, vượt

qua thử thách để đi tới thắng lợi cuối cùng. Phẩm chất người cách mạng là

thắng không kiêu, bại không nản, luôn cảnh giác, chớ chủ quan coi thường,

khinh địch, ngay cả khi cách mạng đang lên. Lúc hiểm nguy càng thể hiện ý

chí kiên cường, gan góc, giữ vững niềm tin vào thắng lợi cuối cùng. Bác đã

đưa ra một thí dụ sinh động đầy tính thuyết phục: "Đế quốc như nước trong

nồi, cách mạng như lửa, nước với lửa bao giờ cũng kỵ nhau. Lửa càng cháy,

càng bốc cao ngọn thì nước trong nồi càng nóng, đến độ nào đó sẽ sôi trào ra

(1) , Bác Hồ về nước.(Hồi ký) .Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng, 1986.Tr 118;

63

ngoài làm lửa tắt. Ta nhóm lại lửa, chất thêm củi vào, ngọn lửa to lên nước

Trong công tác dân vận người hướng dẫn cán bộ những việc nên làm

đồng thời cũng chỉ rõ những điều nên tránh, nhất là việc tuyên truyền hình

thức phô trương, lý thuyết suông, viển vông không thiết thực, tốn kém tiền

của, lãng phí thời gian. Theo Bác" học phải đi đôi với hành, lý luận phải đi

đôi với thực tiễn".

Tháng Tám năm 1942 trên đường công tác sang Trung Quốc, Bác bị

chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Hơn một năm bị đầy ải trong tù

ngục, phẩm chất cách mạng của Người càng thêm được tôi rèn và toả sáng.

Những kinh nghiệm đấu tranh của người chiến sĩ cách mạng chân chính cùng

với áp lực của phong trào cách mạng bên ngoài buộc chính quyền Tưởng Giới

Thạch phải trả tự do cho Bác. Cuối năm 1944 Người tìm đường trở về Tổ

quốc để chỉ đạo phong trào cách mạng. Sau khi nghe các đồng chí lãnh đạo

của Trung ương Đảng báo cáo tình hình, nhất là quyết nghị của Liên Tỉnh uỷ

Cao - Bắc - Lạng về chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa, Người nhận xét:

"Chủ trương phát động chiến tranh du kích ở Cao - Bắc - Lạng mới chỉ

căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong

toàn quốc, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục.Trong điều kiện bây

giờ, nếu phát động ngay nhân dân nhất tề nổi lên đánh du kích theo quy mô

và phương thức đã định trong nghị quyết thì sẽ gặp khó khăn. Có thể còn khó

khăn hơn thời kì bị khủng bố vừa rồi. Bởi vì các địa phương khác trong toàn

.Nhà xb Văn học

.Hà Nội

quốc tuy phong trào cách mạng đang lên nhưng hiện chưa có nơi nào có điều kiện vũ trang chiến đấu để sắn sàng hưởng ứng" (1)

64

Sau đó Bác chỉ rõ: (1) Bác Hồ về nước, Sđd (1) (2) (3) Võ Nguyên Giáp.Những chặng đường lịch sử .1977.Tr129;131;133;

"Bây giờ thời kì hoà bình phát triển đã qua, nhưng thòi kì toàn dân

khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính

trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang

khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu trang bây giờ

phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị

còn chậm hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể

đẩy mạnh phong trào tiến lên... Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh

hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến phải nhằm lấy ảnh

hưởng tốt về chính trị, do đó mà mở rộng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang. Chúng ta sẽ thành lập Đội quân giải phóng".(2)

Từ quan điểm chỉ đạo đó, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

được thành lập vào ngày 22/12/1944. Đây là đội quân chủ lực đầu tiên của

quân đội ta, hoạt động với phương châm chính trị trọng hơn quân sự, vũ trang

là để tuyên truyền. Vậy nhưng hoạt động của đội chủ lực sẽ như thế nào khi

tới các địa phương đã có lực lượng tự vệ và nửa vũ trang. Điều băn khoăn đó

của đồng chí Võ Nguyên Giáp đã được Bác giải thích: "Thống nhất chỉ đạo

cả chủ lực cả địa phương. Ba lực lượng ấy đoàn kết phối hợp chặt chẽ với

nhau. Đội chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt giúp đỡ các đội địa phương trưởng thành"(3). Như vậy ngay từ lúc đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra

đời, Bác đã có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn cho hoạt động của lực

lượng vũ trang cách mạng , đồng thời Người cũng đặt cơ sở cho hướng xây

dựng lực lượng vũ trang với ba thứ quân ở giai đoạn sau này.

Từ sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp ngày 9/3/1945, Đảng ta chủ trương

phát động toàn dân dấy lên Cao trào kháng Nhật cứu nước để taọ ra những

tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong toàn quốc. Nhiều

địa phương có điều kiện thuận lợi đã tiến hành khởi nghĩa từng phần giành

65

thắng lợi, chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi, vùng giải

Lại thấy Bác miệt mài làm việc, thời gian rảnh rỗi luôn chăm chút việc

nhà, toan lo công việc đồng áng của nhân dân, đồng bào địa phương rỉ tai

nhau: "Có đồng chí già mới về, yêu dân, yêu bộ đội đặc biệt, lại chăm chỉ

khác thường, đêm làm việc tới khuya, sáng mờ đất đã quét nhà, tưới rau, lấy

củi, đánh thức bộ đội đi tập, hoặc tăng gia gíup dân. Ông cụ nhiều buổi cũng

đi làm cùng dân, rất chăm lo nước tưới, thăm đồng về thấy nước cạn là vận

động bà con đi tát nước ngay. Có hôm thấy cụ lúi húi ngoài đồng, tưởng làm gì, té ra đắp một cái bờ bị nẻ để giữ nước cho dân" (1)

Luôn chăm lo tới cuộc sống đồng bào địa phương, Bác thường xuyên

nhắc nhở mọi người phải tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đùm

bọc giúp đỡ lẫn nhau lúc khó khăn, đói kém, tránh cờ bạc, rượu chè, nghiện

hút, lãng phí trong cưới xin, ma chay, cúng tế. Bác đặc biệt chú ý việc tuyên

truyền giáo dục nâng cao nhận thức chính trị cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Bác kể chuyện về tình hình thế giới, trong nước, liên hệ gắn với địa phương

một cách cụ thể, sinh động, súc tích nên đồng bào thích nghe, dễ hiểu, dễ nhớ

và nhớ lâu. Cụ cố Nguyễn Tiến Sự kể rằng, khi Bác mới về Tân Trào tạm ở

(1) Bắc Hồ ở Tân Trào, ( Trích Hồi kí) , Sở văn hoá thông tin Hà Tuyên , 1985, tr 57

66

trong nhà cụ, Bác đã nhanh chóng hoà nhập gần gũi như thành viên trong gia

- Chú Sự tham gia cách mạng có thấy vất vả không?

- Thưa Bác, vất vả đấy nhưng được tham gia cách mạng để góp phần

giải phóng đất nước thì vui lắm.

- Vậy là chú giác ngộ rồi - Bác nói. Chú tham gia cách mạng để giải

phóng dân tộc không quản gian khổ, hy sinh. Một việc khó như thế mà chú

còn làm được, vậy thì việc giải phóng thím hai nhà mình chú có làm được

không? (Khi đó cụ Tiến Sự có hai vợ)

Câu hỏi chân tình của Bác trong một tình huống đó đã có ý nghĩa giáo

dục sâu sắc. Cụ Tiến Sự nói rằng, lúc đó tôi cảm thấy thật xấu hổ và như

người mắc lỗi với Bác. Sau đó tôi để cho bà hai nhà tôi được tự do.

Bác trở thành "Ông ké" của người dân Tân Trào_một "Ông ké" tài trí lạ

thường, am tường kim cổ, đồng bào mến phục, tin đồn truyền lan:" Có ông cụ

tuổi cao, sao mà nhanh nhẹn, tài giỏi đến thế. Dân mình lắm người tài, phen này nhất định lấy lại được nước"). Những ngày ở làng Tân Lập, Bác sống

trong tình yêu thương, che chở, gắn bó của đồng bào địa phương, song tính

chất của công việc đòi hỏi sự bí mật và an toàn, các đồng chí cán bộ đã đưa

Bác lên ở và làm việc trong một căn lán nhỏ đơn sơ, bên núi Nà Lừa cách

làng chừng 3 km. Vị trí dựng lán vừa kín đáo lại gần nước, kề rừng, không

cách xa làng ,tiện đường liên lạc. Công việc bộn bề, Bác làm việc miệt mài

chẳng mấy lúc nghỉ ngơi. Sau khi nghe báo cáo về tình hình phát triển của

phong trào cách mạng, nghiên cứu địa thế liên hoàn nối liền các vùng giải

phóng thuộc phạm vi các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,

Tuyên Quang, Hà Giang và một số vùng lân cận, Người chỉ thị thành lập Khu

67

giải phóng Việt Bắc.

Chấp hành chỉ thị đó, ngày 4/6/1945 Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội

nghị cán bộ tại Tân Trào ( Sơn Dương - Tuyên Quang) tuyên bố thành lập

Khu giải phóng Việt Bắc, đặt dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban chỉ huy lâm thơì.

Khu giải phóng bao gồm

Vùng giải phóng thuộc các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái

Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và các vùng ngoại vi thuộc các tỉnh Bắc

Giang, Phú Thọ, Yên Bái.v.v... Tân Trào nơi có địa hình hiểm trở, đảm bảo bí

mật thuận lợi cho việc liên lạc, chỉ đạo phong trào cách mạng nối liền miền

ngược với miền xuôi, được chọn làm thủ đô Khu giải phóng. Uỷ ban nhân dân

cách mạng trong Khu giải phóng đã thi hành rộng rãi các chính sách của mặt

trận Việt Minh. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành hình ảnh thu nhỏ của nước

Việt Nam dân chủ cộng hoà sau này.

Cách mạng đến, Bác Hồ về với quê hương, đồng bào các dân tộc thiểu

số ở Tân Trào được giải phóng khỏi gông xiềng, áp bức, bóc lột của đế quốc,

phát xít, phong kiến. Nghĩa nặng, ơn sâu, tình cảm của đồng bào địa phương

đối với Bác rất mộc mạc chân thành gần gũi mà tôn nghiêm, trân trọng tự hào

và khâm phục:

"Cụ Hồ, Người thật đảm đang

Truyền thanh, tuyến điện cụ mang trong mình

Ngoại giao, cụ thật tài tình

Nội trị thật cũng chẳng ai sánh cùng”(1)

Trong tư duy của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tân Trào, hình ảnh Bác

gắn liền với Đảng. Tin yêu Bác là tin yêu Đảng, tin yêu Đảng là hết lòng ủng

hộ Việt Minh, theo Việt Minh để bảo vệ Bác, Bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng

cũng chính là bảo vệ cuộc sống tự do trên quê hương mình:

(1) Tại liệu điền dó tại Tõn Trào – Sơn Dương –Tuyờn Quang

68

" Kể theo lịch sử chẳng sai

Đến năm ất Dậu ai ai một lòng

Từ giờ việc Pháp bỏ không

Bây giờ việc nước theo cùng Việt Minh

Giặc Tây đến lúc phải kinh

Việt Minh đã nổi dân tình đều theo

... Chánh phó tự vệ cắt ra

Canh gác túc trực lối ba, bốn người

Để mà phòng thủ muôn nơi

Xem ai phản động vậy thời điều tra"(1)

Đầu tháng Tám 1945, trước sức mạnh tấn công của Hồng quân Liên Xô

và lực lượng Đồng minh, quân Nhật đang đứng trước nguy cơ đại bại. Thời

cơ của cuộc tổng khởi nghĩa đang tới dần. Công việc bộn bề, khẩn thiết, Bác

làm việc kiệt sức và ốm nặng. Suốt mấy ngày Bác lên cơn sốt li bì, người

nóng ran, mê sảng. Thuốc men thiếu thốn, Bác uống mấy viên kí ninh nhưng

bệnh tình không hề thuyên giảm. Những lúc tỉnh ,Bác lại hỏi về công việc.

Khi thấy mình yếu quá, sợ rằng không qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo, Bác

nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp đang ở bên Bác trong lán Nà Lừa, như một

lời chỉ thị:" Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù có phải đốt

cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập" .

Được tin Bác ốm nặng đồng bào địa phương ai cũng sửng sốt, lo âu.

Không ai dám nói ra điều chẳng lành song đều nghĩ và lo sợ: Điều gì sẽ xảy ra

nếu những cơn sốt nghiệt ngã của miền rừng núi vẫn tiếp tục hoành hành, khi

sức Người đã quá yếu!?. Giữa lúc đó một ông ké người Tày đã kịp thời đến

lán, bắt mạch, đặt tay lên trán Bác rồi vội vã đốt rễ cây thuốc kiếm được trong

(1) Tại liệu điền dó tại Tõn trào

69

rừng hoà với cháo loãng, nâng cho Bác uống. Bác tỉnh dần. Thêm vài lần

uống tiếp, Bác thấy mình đỡ hơn. Lại có người ra bờ sông Đáy mò được con

ba ba, cắt tiết hoà với rượu làm thuốc cho Bác uống. Mấy hôm sau, Bác

gượng dậy được, lại lao vào công việc. Lúc này mọi người vần còn lo, song ai

nấy thở phào - nhẹ nhõm.

Từ ngày 13 - 15/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào,

ra nghị quyết lịch sử về việc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.

Bác mới ốm dậy song vẫn cố đến dự hội nghị từ đầu.

Ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội khai mạc tại đình Tân Trào. Lần đầu

tiên, Bác ra mắt trước đại biểu quốc dân đồng bào với tên gọi Hồ Chí Minh!

Chính vì vậy,khi Quốc dân đại hội bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ủy ban dân

tộc giải phóng ,có một số đại biểu băn khoăn ,vì sao không bầu Nguyễn ái

Quốc?Sau khi biết Nguyễn ái Quốc chính là Hồ Chí Minh mọi người nhìn

nhau cười vui sướng. Nghe tin Đại hội quốc dân họp tại đình làng, bà con

làng Tân Lập và các xóm lân cận nô nức cùng nhau đem gạo, gà vịt, rau quả

tới ủng hộ cho đại hội. Có ông cụ xin ủng hộ một con bò. Bác thay mặt các

đại biểu Đại hội nhận quà và cảm ơn tình cảm của đồng bào địa phương đã

dành cho cách mạng. Chợt thấy những em bé gầy yếu, bụng ỏng, da xanh,

cháu thiếu quần, cháu không có áo đang dắt díu bám theo các bà, các mẹ, Bác

quay lại ngẹn ngào nói với các đại biểu:" Chúng ta phải nghĩ sao lấy lại nước

cho nhanh để các cháu bé đói khổ như thế kia ,có đủ cơm ăn, áo mặc, được

học hành". Lời Bác nói thật giản dị, nhẹ nhàng mà cảm động, thấm thía. Đồng

bào địa phương được biết lãnh tụ Hồ Chí Minh chính là" Ông Ké Tân Trào

mình" thì phấn khởi truyền tin cho nhau hay.

Sáng ngày 17 tháng Tám , ủy ban dân tộc giải phóng ra mắt quốc dân

đồng bào và làm lễ tuyên thệ.Bác thay mặt ủy ban,hướng lên lá cờ đỏ sao

vàng đọc lời tuyên thệ:"Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu

bầu vào ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhan dân

70

ta.Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc ,chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh

đạo nhan dân tiến lên,ra sức chiến đấu chống quân thù ,giành lại độc lập cho

Tổ quốc.Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng ,quyết không lùi bước .Xin thề "(1).Mặc dù mới ốm dậy ,nhưng giọng Bác vẫn dõng dạc ,âm vang thể hiện

tinh thần quật khởi của một dân tộc đang kiên quyết đứng lên giành cho được

độc lập tự do .

Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng

hoà ra đời, rồi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ thắng lợi,

Bác cùng với Trung ương Đảng tạm biệt đồng bào miền núi" Về lại Thủ đô".

ở Hà Nội, sống và làm việc trong ngôi nhà sàn gỗ giản dị, gần gũi với người

dân miền núi, Bác lại càng thấy nhớ nhung và gắn bó với đồng bào các dân

tộc thiểu số ở khắp các miền rẻo cao của Tổ quốc thân yêu. Bác thường xuyên

quan tâm, thăm hỏi và căn dặn: "Đồng bào các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ,

thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong một nhà"

Bác đã đi xa, song hình ảnh của "Già Thu Pác Bó"và" Ông ké Tân

Trào" cùng sự nghiệp vĩ đại của Người còn sống mãi với đồng bào các dân

tộc nơi đầu nguồn cách mạng và thủ đô khu giải phóng năm xưa.

Như vậy các hoạt động ngoại khóa rất phong phú, đa dạng cho phép

giáo viên kết hợp nhiều nguồn tài liệu với các phương pháp, hình thức tổ chức

dạy học khác nhau. Giáo viên khi đã nhận thức và thực hiện một cách nghiêm

túc hoạt động ngoại kháo sẽ làm tăng hiệu quả giáo dưỡng, giáo dục, phát

(1).Bác Hồ ở Tân Trào.(Hồi ký).Sở Văn hoá thông tin Hà Tuyên.1985.Tr57;25-26.

71

triển học sinh.

Chương 5

TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

5.1. Khái quát về tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử

Điều 3, Luật Bảo vệ Môi trường 2005 định nghĩa: Môi trường bao

gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh

hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.

Như vậy, môi trường sống của con người gồm hai yếu tố tự nhiên và xã hội:

- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá

học, sinh học (ánh sáng, núi, sông, biển cả, khí hậu, động và thực vật, tài

nguyên...) tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng luôn chịu tác động của

con người.

- Môi trường xã hội: Là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với

con người thông qua các quy ước xã hội, định chế luật pháp, ứng xử, hành

vi...)

Lịch sử xã hội là một bộ phận của thế giới tự nhiên. Con người và xã

hội loài người gắn bó một cách một cách mật thiết, hữu cơ với môi trường

sinh sống: chịu ảnh hưởng của môi trường và tác động trở lại môi trường. Môi

trường đã có những ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự hình thành và phát

triển xã hội loài người, quá trình hình thành và đặc điểm văn hoá, văn minh

của từng cộng đồng xã hội. Mặt khác, tiến trình phát triển của lịch sử xã hội

cũng đồng thời là tiến trình con người tác động, cải tạo môi trường tự nhiên

Vì vậy, tìm hiểu lịch sử xã hội loài người không thể không tìm hiểu

những điều kiện tự nhiên mà con người tồn tại và phát triển. Môn Lịch sử

trang bị cho HS những kiến thức về sự phát triển của xã hội loài người. Quá

trình phát triển của xã hội loài người là quá trình con người, xã hội loài

72

người chịu ảnh hưởng tác động của môi trường, đồng thời là quá trình con

người tác động vào thế giới tự nhiên từ thời nguyên thuỷ đến ngày nay. Với

một ý nghĩa như vậy, môn Lịch sử có khả năng góp phần thực hiện giáo dục

BVMT cho HS.

Mặt khác, môn Lịch sử giúp cho HS hiểu được sự tác động của điều

kiện tự nhiên đối với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người (đặc

biệt là thời kì nguyên thuỷ và thời cổ đại); sự tác động của con người vào môi

trường tự nhiên, cũng như những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đối với môi

trường tự nhiên, qua đó góp phần dự báo những con đường tác động tiếp theo

của con người đối với thế giới tự nhiên và những hướng thay đổi tích cực đối

với MT.

Bên cạnh đó, việc GDBVMT trong môn Lịch sử giúp cho HS hiểu rõ

hơn, sâu hơn quá trình phát triển của xã hội loài người. ( Điều kiện tự nhiên

đã tác động tới đặc điểm văn hoá, văn minh nhân loại ở thời cổ đại như thế

nào;Trình độ văn minh của con người qua các thời kì lịch sử được đánh dấu ở

những sự kiện nào trong quan hệ đối với tự nhiên...) Với một ý nghĩa như

vậy, môn Lịch sử có khả năng góp phần thực hiện giáo dục bảo vệ môi

trường cho học sinh.

5.2. Yêu cầu về nội dung giáo dục bảo vệ môi trường qua trong dạy học

Lịch sử

Việc GDBVMT qua môn Lịch sử ở trường phổ thông nói chung,

trường THPT nói riêng phải thông qua nội dung môn học. Trên cơ sở tìm hiểu

nội dung CT-SGK Lịch sử lớp 10, 11, 12, chúng tôi xác định những yêu cầu

về nội dung cần GD cho HS là:

- Cung cấp cho HS những kiến thức về không gian nơi xảy ra sự kiện

lịch sử. Điều này hết sức quan trọng, vì mọi sự kiện, quá trình, nhân vật lịch

73

sử đều xảy ra trong những điều kiện tự nhiên, xã hội nhất định.

- Sự tác động của môi trường đối với sự hình thành con người, xã hội

loài người; sự hình thành và đặc điểm văn hoá, văn minh nhân loại (môi

trường tự nhiên khác nhau đã góp phần tạo ra sự khác nhau giữa các nền văn

minh cổ đại về thời gian ra đời và kết thúc, về đặc điểm và thành tựu...)

- Con người thích nghi với tự nhiên, khai thác, chinh phục thế giới như

thế nào?. Việc khai thác chinh phục thế giới tự nhiên, phục vụ đời sống và sự

phát triển của xã hội ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến môi trường sống.

- Sử dụng và bảo vệ tài nguyên, các nguồn năng lượng sạch ( năng

lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thực vật.) .

- Gìn giữ, bảo vệ các di tích lịch sử, các di sản văn hoá.

ây là một nôi dung đặc biệt quan trong cần chú ý khai thác khi dạy học

lịch sử . Những vấn đề này có thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam và

lịch sử thế giới.

Ví dụ, dạy phần kiến thức văn hóa cổ đại phương Đông cho học sinh

lớp 10, giáo viên có thể khai thác những tư liệu lịch sử sau đây để giáo dục

bảo vệ môi trường văn hóa lịch sử

+ Áctêmít

Khi Hy Lạp xâm lược phương Đông, chúng xây dựng ở Tiểu á Tây Bộ

nhiều thành phố nổi tiếng : Alêcxariđri, Halicacnat, Êpheolơ,.v..v... Êphedơ là

thành phố nổi tiếng về sự giàu có, nhà vua đức độ, quần thần tài hoa, đội ngũ

thủ công lành nghề, các kiến trúc sư tài giỏi

Êphêdơ thờ thần Áctêmít một trong mười hai vị thần nổi tiếng của Hy

Lạp. Áctêmít là núi thần biểu trưng cho sự thanh tao, trong trắng, hết lòng che

chở cho muông thú, cỏ cây, giữu gìn sự bình yên cho muôn loài. Vì vậy người

Êphơdơ muốn xây dựng đền thờ áctêmít nguy nga tráng lệ để thể hiện lòng

tôn kính của mình. Công việc đã được giao cho kiến trúc sư Khecxifhrôn-

74

người am tường nhiều lĩnh vực: Địa Lý, Lịch Sử, Triết học, Thiên văn ....

Công trình đồ sộ, thi công phức tạp, tốn kém, nhiều khi thiếu tiền của

dân chúng hoài nghi, phiến ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn tìm đến cái

chết. Sau đó nghị lực phi thường khiến ông trụ vững vượt qua và lại tiếp tục

công việc của mình. Ông đã cống hiến cả đời mình cho công trình Đại Đế, tới

khi nhắm mắt xuôi tay công việc vẫn còn ngổn ngang. Con trai ông là

MêTaghen đã tiếp tục công việc cha mình và hoàn thành cơ bản công trình có

một không hai đó. Từ khởi công đến hoàn thành 120 năm.

Một kẻ vô lại của thành phố Êphêdơ là Êrôxtrát đã muốn mình nổi danh

về thành tích bất hảo. Y đã đốt cháy ngôi đền áctêmít, niềm tự hào không chỉ

của người Êphêdơ mà còn là của nhân loại bởi nó là một kỳ quan của thế giới

cổ đại.

Hành động điên khùng đó, khiến cho người dân Êphêdơ đau buồn và

căm phẫn. Nhà vua Êphêdơ đã căm tức tới mức cấm người dân không được

nhắc tới tên của kẻ vô lại này không được nhắc đến vụ cháy khủng khiếp đó,

coi hắn không phải là của con người mà là một loại động vật không có tên

trên trái đất.

Căm phẫn tên vô lại, dân Êphêdơ đã quyết tâm quyên góp, tiền của, xây

dựng lại đền. Vị hoàng đế Alêcxăngđrơ trên đường chinh phục ấn Độ đã ghi

ghé lại Êphêdơ rất đỗi khâm phục người dân vùng này, ông đã cho tiền động

viên vì vậy, ngôi đền này một lần nữa được mọc lên đồ sộ hơn tráng kệ hơn.

Rồi một ngày kia Êphêdơ bị xâm lược kẻ xâm lược rất đỗi khâm phục tài

năng của người dân Êphêdơ, và vẻ đẹp lộng lẫy uy nghi của đền áctênít tái

hoàn. Chẳng hiểu từ đâu, người ta đồn rằng trong đền có vàng, thế là cả đám

quân xâm lược xông vào phá phách đào bới. Và lần này đền Áctêmít vĩnh

viễn ra đi.

+ Thư viện ở Alếchxăngđrơ ở Ai Cập, nơi lưu giữ lượng sách khổng

lồ được xây khoảng thế kỷ II trước CN. Thư viện sớm nhất thế giới. Đây là

75

nơi lưu giữ hầu hết các công trình nghiên cứu, các tác phẩm văn học nghệ

thuật của Hy Lạp cổ đại. Số sách ở đây lên tới 700 000 cuốn. Biết bao nhà

khoa học nổi tiếng đã từng làm việc ở đây Ơcơlít, Acsimet. Alếchxăngđrơ,

con vị vua Ptôlêmê rất có ý thức bảo vệ những di sản văn hoá nhân loại. Ông

cho người đi khắp nơi mua tất cả các tác phẩm viết bằng tiếng Hy Lạp .

Năm 48 – 47 trước CN quân xâm lược La Mã do Xêda cầm đầu đã tiến

công Alếchxăngđrơ, một số lượng lớn sách bị đột cháy, một số khác bị thu

làm chiến lợi phẩm đưa về La Mã bị lật thuyền.

Thế kỷ IV cuộc chiến tranh tôn giáo ( thiên chúa và các tôn giáo khác)

ở đây một lần nữa tàn phá thư viện.

Tệ hại hơn năm 641 quân Arập đánh Alếchxăngđrơ đã lấy toàn bộ sách

thư viện để đun nước tắm. Sách trở thành củi đốt trong 6 tháng. Sau thư viện bị

hoàn toàn tiêu huỷ lịch sử mãi nguyền rủa đám quân xâm lược vô văn hóa đó.

5.3. Nguyên tắc tích hợp kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy

học lịch sử

- Tích hợp nhưng không làm thay đổi đặc trưng môn học, không biến

bài học môn Lịch sử thành bài học giáo dục môi trường.

- Khai thác nội dung giáo dục bảo vệ môi trường có chọn lọc, đảm bảo

cho HS vừa nắm vững kiến thức bộ môn, vừa có được những kiến thức, kĩ

năng về giáo dục BVMT (Cả môi trường tự nhiên và xã hội).

- Việc tích hợp GDBVMT trong dạy học lịch sử không giới hạn trong

bài nội khoá mà cần phải tiến hành các hoạt động ngoại khoá, đặc biệt là các

bài về lịch sử địa phương, dạng bài thực địa...

-Việc lồng ghép giáo dục BVMT vào trong bài học lịch sử phải hết sức

nhẹ nhàng, tự nhiên, tránh gượng ép, sống sượng, khiên cưỡng áp đặt.

5.4. Hình thức, phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học

76

lịch sử

Trên cơ sở phương pháp dạy học bộ môn (Thông tin, tái hiện kiến thức

lịch sử; phân tích, so sánh tìm hiểu bản chất sự kiện và tìm tòi, nghiên cứu)

GV khéo léo kết hợp việc giáo dục lịch sử với GD môi trường. Chẳng hạn,

khi dạy về “Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965-1973)”

(lịch sử 12), GV đưa ra một số bức ảnh về sự phá hoại của đế quốc Mĩ bằng

rải bom B52, rải chất độc hoá học (chất diệt lá) xuống các cánh rừng Việt

Nam, qua đó HS thấy rõ tội ác của đế quốc Mĩ trong việc huỷ diệt sự sống và

môi trường và tác hại của nó kéo dài hàng chục năm sau cuộc chiến:

+ Miêu tả, tường thuật, kể chuyện, giải thích, nêu đặc điểm, sử dụng đồ

dùng trực quan để tái hiện hình ảnh lịch sử.

+ Trao đổi, thảo luận, vấn đáp, đàm thoại, phân tích, so sánh …để nhận

77

thức bản chất sự kiện, hiện tượng.

+ Nêu vấn đề, đưa ra các tình huống, các bài tập, tổ chức việc tự học

cho HS để các em tự tìm tòi, nghiên cứu, nâng cao nhận thức và vốn hiểu biết

lịch sử.

5.5. Giới thiệu giáo án tích hợp giáo dục môi trường trong dạy học lịch sử

Trong quá trình hướng dẫn thực hiện luận văn Cao học, TS Phạm Kim

Anh đã cho thực nghiệm sư phạm 2 giáo án sau đây. Chúng tôi giới thiệu để

các nhà khoa học nghiên cứu, cho ý kiến .

Bài soạn số 1

Chương IV. CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 - 1945)

Bài 17. CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 - 1945)

( Lớp 11- Ban cơ bản)

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

Sau khi học xong bài học, yêu cầu HS cần:

- Nắm được nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai, tính

chất của cuộc chiến tranh qua các giai đoạn khác nhau.

- Nắm được những nét lớn về diễn biến chiến tranh.

- Thấy được kết cục của chiến tranh, ý nghĩa và hệ quả của nó đối với

sự phát triển của tình hình thế giới.

- Từ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, nhận thức và rút ra bài học cho

78

cuộc đấu tranh bảo bệ hòa bình thế giới hiện nay.

- Hậu quả của việc Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố:

Nagaxiki và Hirosima đã gây hậu quả nghiêm trọng đến sự sống và môi

trường tự nhiên,

2. Tư tưởng, thái độ, tình cảm.

- Giúp HS thấy được tính chất phi nghĩa của chiến tranh đế quốc và bản

chất hiếu chiến, tàn bạo của chủ nghĩa phát xít. Từ đó, bồi dưỡng ý thức cảnh

giác, thái độ căm ghét và quyết tâm ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình

cho Tổ quốc và nhân loại.

- Biết quý trọng, đánh giá đúng vai trò của Liên Xô, các nước đồng

minh Mĩ, Anh, của nhân dân tiến bộ thế giới trong cuộc chiến tranh chống chủ

nghĩa phát xít.

- Giáo dục cho học sinh lòng yêu hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân,

chiến tranh hủy diệt... Bảo vệ trái đất nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ sự sống

của con người.

3. Kỹ năng

- Kỹ năng quan sát, khai thác tranh ảnh lịch sử.

- Kỹ năng quan sát, khai thác, sử dụng lược đồ, bản đồ chiến tranh.

- Kỹ năng phân tích, đánh giá, rút ra bản chất của các sự kiện lịch sử.

II. THIẾT BỊ, TÀI LIỆU DẠY VÀ HỌC

- Lược đồ Đức - Italia gây chiến tranh và bành trướng (từ tháng

10/1935 đến tháng 8/1939)

- Lược đồ Đức đánh chiếm châu Âu (1939 - 1941)

- Lược đồ chiến trường châu Á - Thái Bình Dương (1941 - 1945)

- Bản đồ: Chiến tranh thế giới thứ hai

79

- Các tranh ảnh có liên quan ...

- Các tài liệu tham khảo có liên quan.

II. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC

1. Kiểm tra bài cũ

Nêu một số nét khái quát về phong trào độc lập dân tộc ở Đông Nam Á

giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới?

2. Dẫn dắt vào bài mới

Ở các chương trước, các em đã lần lượt tìm hiểu về Cách mạng tháng

10 Nga và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921 - 1941), về

các nước tư bản chủ nghĩa và tình hình các nước châu Á giữa hai cuộc chiến

tranh thế giới (1918 - 1939). Tất cả các sự kiện các em đã tìm hiểu đều có mối

liên quan mật thiết với sự kiện lớn mà chúng ta sẽ học trong chương IV, đó là

cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945).

Con đường, nguyên nhân nào đã dẫn tới bùng nổ cuộc Chiến tranh thế

giới thứ hai (1939 - 1945). Chiến tranh thế giới thứ hai đã diễn ra qua các giai

đoạn, các Mặt trận, các trận đánh lớn như thế nào? Kết cục của chiến tranh có

tác động như thế nào đối với tình hình thế giới? Cần phải đánh giá sao cho

đúng về vai trò của Liên Xô, các nước đồng minh Mĩ, Anh, của nhân dân thế

giới trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít? Đó là những câu hỏi lớn các em

cần phải giải đáp qua tìm hiểu bài học này.

3. Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp:

Kiến thức cần đạt và nắm Hoạt động của thầy – trò vững

* Hoạt động 7: Theo nhóm III. Chiến tranh lan rộng

- GV dẫn dắt: Từ tháng 6/1941 đến tháng khắp thế giới (từ tháng 6/1941

11/1942, Chiến tranh thế giới thứ hai đã lan rộng đến tháng 11/1942)

khắp các châu lục trên thế giới. Tính chất của 1. Phát xít Đức tấn công Liên

80

chiến tranh có sự thay đổi, khối đồng minh Xô. Chiến sự ở Bắc Phi

chống phát xít hình thành. * Mặt trận Xô – Đức:

- GV chia lớp thành 4 nhóm. - Ngày 22/6/1941, phát xít Đức

tấn công Liên Xô theo kế hoạch

đã định.

- Tháng 12/1941, Hồng + Nhóm 1: Phát xít Đức đã tấn công vào lãnh

quân Liên Xô phản công quyết thổ Liên Xô như thế nào? Nhân dân Liên Xô đã

liệt, đẩy lùi quân Đức ta khỏi chiến đấu chống lại phát xít Đức ra sao?

cửa ngõ Matxcơva, làm phá sản + Nhóm 2: Chiến sự ở Bắc Phi bùng nổ và diễn

kế hoạch “Chiến tranh chớp biến ra sao?

nhoáng của Đức”. + Nhóm 3: Chiến tranh Thái Bình Dương bùng

- Cuối năm 1942 Đức nổ như thế nào?

chuyển mũi nhọn tấn công + Nhóm 4: Nguyên nhân nào dẫn tới sự ra đời

xuống phía Nam nhằm chiếm của khối đồng mình chống phát xít? Tại sao nói

Xtalingrat. việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản

cục diện chính trị và quân sự của cuộc chiến?

- Các nhóm quan sát bản đồ, lược đồ kết hợp với

SGK, thảo luận, cử đại diện trình bày.

- GV nhận xét, bổ sung và chốt ý:

* Mặt trận Bắc Phi:

- Tháng 9/1940, quân đội

Italia tấn công Ai Cập.

- Tháng 10/1942, liên quân

Mĩ - Anh giành thắng lợi lớn

trong trận En A-la-men (Ai

Cập) và chuyển sang phản công

trên toàn mặt trận.

2. Chiến tranh Thái Bình

81

Dương bùng nổ.

- Từ tháng 12/1941 - tháng

5/1942, Nhật Bản mở một loạt

cuộc tấn công và chiếm được

một vùng rộng lớn ở Đông Á,

Đông Nam Á và Thái Bình

Dương.

3. Khối đồng minh chống

phát xít hình thành.

- Nguyên nhân:

=> Việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn + Hành động xâm lược của phe

bản cục diện chính trị và quân sự của cuộc chiến. phát xít trên toàn thế giới.

+ Việc Liên Xô tham chiến đã Cuộc chiến tranh mà nhân dân Liên Xô tiến hành

cổ vũ mạnh mẽ cuộc kháng không vì mục tiêu tranh chấp đất đai như các

chiến của nhân dân các nước bị nước đế quốc mà là cuộc chiến tranh giữ nước vĩ

phát xít chiếm đóng, và khiến đại nhằm chống lại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ

cho Mĩ - Anh thay đổi thái độ, hòa bình cho dân tộc và nhân loại. Cuộc chiến

bắt tay cùng Liên Xô chống chủ tranh đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng

nghĩa phát xít. chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm

đóng. Nó còn tác động khiến các chính phủ Mĩ - - Sự thành lập: Ngày

Anh phải dần thay đổi thái độ, bắt tay với Liên 01/1/1942, 26 nước (đứng đầu

Xô trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít. là Liên Xô, Mĩ, Anh) ra tuyên

Ngày 1/1/1942, tại Oasinhtơn, 26 quốc gia (đứng ngôn cam kết cùng nhau tiến

đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh) đã ra bản “Tuyên ngôn hành cuộc chiến đấu chống phát

Liên hợp quốc” cam kết cùng nhau tiến hành xít. Khối Đồng minh chống

cuộc chiến đấu chống phát xít với toàn bộ lực phát xít được thành lập.

lượng của mình. - Ý nghĩa: Việc Liên Xô tham

- Việc Liên Xô tham chiến và sự thành lập chiến và sự ra đời của khối

82

khối Đồng minh chống phát xít đã làm cho tính Đồng minh chống phát xít làm

cho tính chất của Chiến tranh chất của Chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi. Từ

thế giới thứ hai thay đổi, trở chỗ một cuộc chiến tranh đế quốc, xâm lược, phi

thành một cuộc chiến tranh nghĩa, giờ đây nó đã trở thành một cuộc chiến

chống chủ nghĩa phát xít, bảo tranh của Liên Xô, Đồng minh và nhân dân thế

vệ hòa bình nhân loại. giới chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ chính

nghĩa và hòa bình nhân loại.

IV. Quân đồng minh chuyển * Hoạt động 8: Cả lớp và cá nhân

- GV sử dụng bản đồ Chiến tranh thế giới sang phản công. Chiến tranh thế

thứ hai. giới thứ hai kết thúc (từ tháng

GV tường thuật cho HS về trận phản công của 11/1942 đến tháng 8/1945).

Hồng quân Liên Xô tại Xtalingrát: 1. Quân đồng minh phản công

(từ tháng 11/1942 đến tháng

6/1944).

* Ở Mặt trận Xô-Đức:

- Từ tháng 11/1942 đến tháng

2/1943, Hồng quân Liên Xô

phản công, tiêu diệt và bắt sống

toàn bộ đạo quân tinh nhuệ gồm

33 vạn người của phát xít Đức

ở Xtalingrát.

- Sau khi tường thuật, GV đặt câu hỏi: Theo em,

với kết quả đặt được, chiến thắng Xtalingrát có ý

nghĩa lịch sử như thế nào?

- HS thảo luận, trả lời, bổ sung cho nhau.

Ý nghĩa: Đánh dấu bước GV nhận xét, phân tích và chốt ý.

ngoặt của chiến tranh thế giới, Tiếp đó, GV thông báo: Sau chiến thắng

buộc quân Đức phải chuyển từ Xtalingrát, Hồng quân đã nhanh chóng bẻ gãy

83

tấn công sang phòng ngự, mở ra cuộc phản công của quân Đức tại vòng cung

Cuốc-xcơ (từ ngày 5/7 đến ngày 23/8/1943). thời kỳ Liên Xô và phe Đồng

minh chuyển sang tổng tấn * Hoạt động 9: Cá nhân

công đồng loạt trên các Mặt

trận.

- Cuối tháng 8/1943,

Hồng quân bẻ gãy cuộc phản

công của Đức tại vòng cung

Cuốcxcơ, đánh tan 50 vạn quân

Đức.

=> Tháng 6/1944, phần lớn

lãnh thổ Liên Xô được giải

phóng.

* Ở Mặt trận Bắc Phi: Từ - GV nêu câu hỏi: Ở các Mặt trận khác, cuộc

tháng 3 đến tháng 5/1943, liên phản công của quân đồng minh diễn ra như thế

quân Mĩ – Anh phản công quét nào?

- HS đọc SGK, GV gọi một em trả lời câu hỏi. sạch quân Đức – Italia khỏi

Sau đó GV chốt ý (các sự kiện diễn ra ở Mặt trận châu Phi. Chiến sự ở châu Phi

Bắc Phi, ở Italia, ở Thái Bình Dương như SGK). chấm dứt.

* Ở Italia: Tháng 7/1943 đến

tháng 5/1945, liên quân Mĩ –

Anh tấn công truy kích quân

phát xít, làm cho chủ nghĩa phát

xít Italia bị sụp đổ.

* Ở Thái Bình Dương: Sau

chiến thắng quân Nhật trong trận

Gua-đan-ca-nan (1/1943) Mĩ

phản công đánh chiếm các đảo ở

84

Thái Bình Dương.

* Hoạt động 10: Làm việc theo nhóm 2. Phát xít Đức bị tiêu diệt.

- GV chia lớp thành 2 nhóm: Nhật Bản đầu hàng. Chiến

+ Nhóm 1: Phát xít Đức bị tiêu diệt như thế nào? tranh kết thúc.

Em đánh giá như thế nào về vai trò của Liên Xô

và đồng minh Mĩ – Anh trong việc tiêu diệt phát

xít Đức.

+ Nhóm 2: Phát xít Nhật đã bị tiêu diệt như thế

nào? Em đánh giá như thế nào về vai trò của

Liên Xô và đồng minh Mĩ - Anh trong việc tiêu

diệt phát xít Nhật?

- Các nhóm đọc sách, thảo luận, cử đại diện trả

lời.

GV nhận xét, bổ sung, chốt ý, kết hợp việc

hướng dẫn HS khai thác bản đồ Chiến tranh thế

giới thứ hai ở SGK.

a. Phát xít Đức bị tiêu diệt.

- Sau khi giải phóng các nước

Trung và Đông Âu (1944),

tháng 1/1945, Hồng quân Liên

Xô mở cuộc tấn công Đức ở

Mặt trận phía Đông.

- Tháng 2/1945, Liên Xô tổ chức

hội nghị Italia gồm 3 nước Liên

Xô, Mĩ, Anh bàn về việc tổ chức

lại thế giới sau chiến tranh.

- Năm 1944, Mĩ, Anh mở

Mặt trận thứ hai ở Tây Âu và bắt

85

đầu mở cuộc tận công quân Đức

ở Mặt trận phía Tây từ tháng

2/1945.

- Ngày 16/4 đến ngày

30/4/1945, Hồng quân Liên Xô

tấn công đánh bại hơn 1 triệu

quân Đức tại Béclin. Chủ nghĩa

phát xít Đức bị tiêu diệt.

- Tháng 5/1945, nước Đức Ngày 9/5/1945, nước Đức ký văn bản đầu hàng

đầu hàng không điều kiện. không điều kiện, chiến tranh chấm dứt ở châu

Chiến tranh chấm dứt ở châu Âu.

Về vai trò của Liên Xô và các nước Đồng minh Âu.

Mĩ, Anh trong việc tiêu diệt phát xít Đức: Liên

Xô và Mĩ, Anh đều là lực lượng trụ cột trong

việc tiêu diệt phát xít Đức.

* Nhóm 2: b. Nhật Bản đầu hàng. Chiến

tranh kết thúc.

- Từ năm 1944, Mĩ - Anh triển

khai tấn công quân Nhật ở

Miến Điện, Philíppin, các đảo ở

Thái Bình Dương.

- Mĩ tăng cường đánh phá các Ngày 6/8/1945, Mĩ ném quả bom nguyên

thành phố lớn của Nhật bằng tử đầu tiên xuống thành phố Hirôsima làm 8 vạn

không quân. Ngày 6/8/1945 và người thiệt mạng. Ngày 8/8, Liên Xô tuyên chiến

9/8/1945 Mĩ ném 2 quả bom với Nhật và tấn công như vũ bão vào đạo quân

nguyên tử xuống 2 thành phố Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu.

Ngày 9/8, Mĩ ném tiếp quả bom nguyên tử Hirôsima và Nagasaki giết hại

86

thứ hai hủy diệt thành phố Nagasaki, giết hại 2 hàng vạn người.

- Ngày 8/7, Liên Xô tuyên vạn người. Ngày 15/8, Nhật Bản chấp nhận đầu

chiến với Nhật và tấn công đạo hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ

quân Quan Đông gồm 70 vạn hai kết thúc.

quân chủ lực của Nhật ở Mãn - Về vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc tiêu

Châu. diệt phát xít Nhật (xét phạm vi thời gian 1944 -

- Ngày 15/8/1945, Nhật đầu 1945): Liên Xô, Mĩ, Anh đều là lực lượng trụ

hàng không điều kiện. Chiến cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt

tranh thế giới thứ hai kết thúc. chủ nghĩa phát xít Nhật. Cuộc tấn công của Mĩ,

Anh ở khu vực chiếm đóng của Nhật ở Đông

Nam Á đã thu hẹp dần thế lực của phát xít Nhật.

Việc quân Mĩ uy hiếp, đánh phá các thành phố

lớn của Nhật bằng không quân, đặc biệt việc Mĩ

ném 2 quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản đã có

tác dụng lớn trong việc phá hủy lực lượng phát

xít Nhật cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên

cũng không thể phủ nhận việc Mĩ ném 2 quả

bom nguyên tử xuống Nhật Bản là một tội ác, reo

rắc thảm họa chết chóc kinh hoàng cho nhân dân

Nhật Bản.

Đến đây GV dừng lại, đi sâu vào sự kiện

Mỹ ném hai quả bom nguyên tử huỷ diệt 2

thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-xi-ki của

Nhật Bản để HS thấy rõ một thảm hoạ về sự

huỷ diệt sự sống và môi trường. Trên cơ sở

đó, lồng ghép tích hợp nội dung GDBVMT

vào bài học lịch sử:

-Ngoài sử dụng một số bức tranh, ảnh trong

87

SGK (hoặc do GV sưu tầm), GV có thể sử

dụng một đoạn phim tư liệu chiếu trên màn

hình về sự kiện Mỹ ném bom nguyên tử.

- Sau khi HS xem xong,GV lần lượt đặt câu

hỏi cho HS thảo luận:

+ Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất

Nhật nhằm mục đích gì?, hậu quả của nó đối

với nước Nhật ra sao?

+Vũ khí nguyên tử đã gây tác động như thế

nào đối với môi trường và sự sống của con

người?

+Em có nhận xét gì về hành động của Mỹ?

Thái độ của các em ra sao?

+Các em sẽ làm gì và làm như thế nào để ngăn

chặn chiến tranh vũ khí hạt nhân trong thời

đại ngày nay?

-Sau khi HS trao đổi, thảo luận và trả lời câu hỏi,

GV có thể tổng kết lại như sau:

Chính phủ Mĩ dùng bom nguyên tử không để

88

chống lại các mục tiêu quân sự mà để chống dân

lành. Tại Hi-rô-si-ma, quả bom thứ nhất (do

trung tá phi công Pôn-ti-bê lái máy bay mang

theo quả bom nguyên tử có tên: Enolagay- tên

mẹ của tên phi công) đã ném vào các nhà trẻ của

các trẻ em sơ tán, san bằng 60.000 ngôi nhà trên một vùng rộng 14 km2, giết chết 8 vạn người.

Ngày 9/8 Mĩ lại ném quả bom thứ 2 xuống Na-

ga-xa -ki, giết chết 2 vạn người. 10 năm sau các

bệnh tật do phóng xạ gây nên vẫn còn làm chết

nhiều người.

=> ĐQ Mĩ là kẻ phạm tội dã man, đã gây ra

tội ác kinh khủng đối với nhân loại. Chúng đã

hoàn toàn vứt bỏ các luật lệ sơ đẳng của luật

pháp quốc tế, các nguyên tắc nhân đạo. Người

Nhật Viết : "Những hình ảnh khủng khiếp về sự

chết chóc cứ luôn ám ảnh chúng tôi.Những

người nào đã nhìn thấy các con đường đầy xác

chết và xác tử thi trôi trên sông Sư-mi-da-ga-oa

thì không bao giờ quyên được".

=>Các quả bom nguyên tử không có tác dụng

quân sự trực tiếp chống lại bọn xâm lược Nhật,

không đưa các lãnh tụ Nhật đến đầu hàng mà

chỉ giết biết bao người dân vô tội. Đặc biệt, nó

đã gây nên một thảm hoạ về môi trường sống.

Qua mấy chục năm sau, những di chứng của

chất độc hoá học vẫn ảnh hưởng nặng nề đến

sức khoẻ và sự sống của con người, đến cỏ cây

89

đất và nước.

-Nhân loại không bao giờ tha thứ cho kẻ đã sản

sinh ra loại bom giết người và sử dụng nó vào

mục đích huỷ diệt. Chúng ta phải kiên quyết

ngăn chặn mọi ý đồ, hành vi sử dụng bom

nguyên tử vào bất cứ mục đích gì-dù chỉ là để

bảo vệ đất nước mình.

Sau khi tiêu diệt phát xít Đức, Liên Xô đã thực

hiện đúng cam kết cảu hội nghị Italia là tham gia

chiến tranh chống Nhật. Cuộc tấn công của Liên

Xô vào đạo quân Quan Đông - đạo quân chủ lực

của Nhật, đã góp phần quyết định buộc phát xít

Nhật phải đầu hàng 15/8/1945, kết thúc Chiến

tranh thế giới thứ hai.

* Hoạt động 11: Cả lớp, cá nhân

GV cho HS quan sát tranh Hirôsima sau khi bị

ném bom nguyên tử và bảng so sánh 2 cuộc

chiến tranh thế giới.

- GV đưa ra câu hỏi: Nêu kết cục của Chiến V. Kết cục của Chiến tranh thế

tranh thế giới thứ hai? Em hãy rút ra bài học giới thứ hai

90

cho cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới hiện

nay.

- Chủ nghĩa phát xít Đức - Italia - HS theo dõi SGK, trao đổi với nhau. GV gọi

- Nhật sụp đổ hoàn toàn. Thắng một số em phát biểu suy nghĩ của mình sau đó

lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc nhận xét, chốt ý.

trên thế giới đã kiên cường chiến

đấu chống chủ nghĩa phát xít. - GV đưa câu hỏi nhằm tích hợp nội dung

Trong đó, 3 cường Quốc Liên GDBVMT vào bài học

Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, + Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa lại

giữ vai trò quyết định trong việc cho con người những ảnh hưởng như thế nào

tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. về môi trường?

- Gây hậu quả và tổn thất + Trách nhiệm của em trong việc chống chiến

nặng nề nhất trong lịch sử nhân tranh đế quốc và cuộc chiến bảo vệ môi trường

loại, làm cho 60 triệu người chết, toàn cầu hiện nay?

90 triệu người bị thương, thiệt

hại về vật chất 4000 tỷ đô la.

- Ý nghĩa: Chiến tranh thế giới

thứ hai kết thúc đã dẫn đến

những biến đổi căn bản của tình

hình thế giới.

4. Củng cố, dặn dò:

a. Củng cố: GV củng cố kiến thức cho HS bằng cách yêu cầu các em

tổng hợp kiến thức đã học trả lời các câu hỏi như sau:

b. Dặn dò:

+ Tiếp tục suy nghĩ, trả lời các câu hỏi trên.

+ Sưu tầm tranh ảnh, tài liệu có liên quan đến cuộc Chiến tranh thế giới

91

thứ hai.

Bài soạn số 2

Chương VI. CÁCH MẠNG KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ VÀ XU THẾ

TOÀN CẦU HÓA

Bài 12: CÁCH MẠNG KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ VÀ XU THẾ

TOÀN CẦU HÓA

( Lớp 12 - Ban cơ bản)

I. MỤC TIÊU

Sau khi học bài này, học sinh có khả năng:

1. Về kiến thức:

-Hiểu được nguồn gốc, những thành tựu chủ yếu, ý nghĩa lịch sử và tác động

của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật diễn ra từ sau chiến tranh thế giới thứ

hai.

- Biết được hệ quả của cuộc cách mạng này là tất yếu dẫn đến xu thế toàn của

cầu hóa diễn ra vào những năm cuối thế kỷ XX.

- Những thành tựu to lớn của cách mạng Khoa học kỹ thuật từ sau 1945 đến

nay trên tất cả các lĩnh vực: Công nghệ sinh học, Sinh học, Hóa học, Y học,

Vật lý… đã tác động to lớn tới môi trường sống của con người, góp phần

nâng cao chất lượng sống của con người. Đồng thời, những tác động tiêu cực

của cuộc cách mạng đã ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu.

2. Về kĩ năng:

Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, quan sát, tư duy, trước những thành tựu

to lớn mà con người đã đạt được trong lịch sử

92

3. Về tư tưởng, tình cảm, thái độ

- Khâm phục, tự hào đối với những thành tựu vĩ đại của trí tuệ nhân loại, giáo

dục HS ý thức cố gắng vươn lên trong học tập để chiếm lĩnh những thành tựu

khoa học- kĩ thuật.

- Có ý thức bảo vệ môi trường trong bối cảnh công nghiệp hoá, góp phần đấu

tranh với việc sử dụng những thành tựu khoa học – kĩ thuật vào mục đích

chiến tranh, phá huỷ môi trường.

II. THIẾT BỊ, ĐỒ DÙNG DẠY HỌC

Một số tranh ảnh, hoặc phim tư liệu về những thành tựu khoa học – kĩ thuật từ

sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay: công cụ sản xuất mới, nguồn năng

lượng mới, vật liệu mới, chinh phục vũ trụ...

III. TIẾN TRÌNH BÀI HỌC

1.Giới thiệu bài mới

Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật diễn ra từ những năm 40 của thế kỷ XX

đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực và có

những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của tất cả các quốc gia trên thế

giới cũng như đời sống con người.

Vậy nguồn gốc của sự phát triển này là do đâu? Cuộc cách mạng khoa học-kĩ

thuật đã đạt được những thành tựu gì?, Ý nghĩa và tác động của nó ra sao? Đó

là những nội dung cơ bản mà bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm

hiểu.

2. Tổ chức các hoạt động dạy và học

Hoạt động của thầy – trò Kiến thức cần đạt và nắm vững

I: Cuộc cách mạng khoa học- Hoạt động 1. Cá nhân và tập thể.

công nghệ. - GV đặt câu hỏi: Tại sao gọi cuộc cách mạng

Khoa học- kỹ thuật hiện đại là cuộc cách mạng 1: Nguồn gốc và đặc điểm.

93

Khoa học- Công nghệ?

HS phát biểu theo sự hiểu biết của mình, GV

nhận xét, sau đó phân tích, giải thích khái niệm

này một các cụ thể.

-GV đặt câu hỏi: Xuất phát từ đâu mà bùng nổ - Nguồn gốc: cuộc cách mạng khoa học- công nghệ?

+ Do đòi hỏi của sản xuất, của HS đọc SGK thảo luận và trả lời. GV nhận xét cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu và chốt lại. về vật chất và tinh thần của con

người.

+ Sự bùng nổ dân số, sự vơi cạn

của tài nguyên thiên nhiên.

- GV tiếp tục đặt câu hỏi: Những vấn đề cấp - Vấn đề cấp thiết mà cuộc cách

mạng khoa học- công nghệ cần bách mà cuộc cách mạng khoa học- công nghệ

cần phải giải quyết? giải quyết ngay: Chế tạo và tìm

kiếm những công cụ sản xuất mới Sau khi HS trả lời, HS khác bổ xung, GV chốt

có kỹ thuật và năng xuất cao; tạo lại 2 vấn đề mà cuộc cách mạng khoa học công

ra những vật liệu mới. nghệ cần giải quyết: Tìm ra vật liệu mới và

công cụ sản xuất mới.

- Đặc điểm: - GV đặt câu hỏi: Tại sao cuộc cách mạng khoa

học- công nghệ, khoa học đã trở thành lực + Mọi phát minh kỹ thuật đều bắt

lượng sản xuất trực tiếp? nguồn từ nghiên cứu khoa học.

HS dựa vào nội dung trong SGK và những hiểu + Khoa học trở thành lực lượng

biết của mình để trả lời câu hỏi. sản xuất trực tiếp.

GV nhận xét và giải thích rõ hơn: Khác với

cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII, trong

cuộc cách mạng khoa học- công nghệ mọi phát

94

minh đều bắt đầu từ nghiên cứu khoa học, khoa

học gắn liền với kỹ thuật, khoa học đi trước và

mở đường cho kỹ thuật, đến lượt mình kỹ thuật

lại đi trước mở đường cho sản xuất. Vì vậy,

khoa học đã trực tiếp tham gia vào sản xuất.

Hoạt động 2. Tìm hiểu những thành tựu chủ

2: Những thành tựu tiêu biểu yếu của cách mạng khoa học-kĩ thuật

-GV chia nhóm: a. Những thành tựu

+ Nhóm 1: Nêu những thành tựu trong lĩnh vực

khoa học cơ bản.

+Nhóm 2: Nêu những thành tựu trong lĩnh vực

chế tạo công cụ sản xuất mới.

+Nhóm 3: Nêu những thành tựu trong ngành

năng lượng.

+Nhóm 4: Nêu những thành tựu về sáng chế

những vật lệu mới.

+Nhóm 5: Nêu những thành tựu trong cuộc

“cách mạng xanh”(nông nghiệp).

-Trong lĩnh vực khoa học cơ bản: + Nhóm 6: Nêu những thành tựu trong giao

thông vận tải. +Các nhà khoa học đã tạo ra

được con cừu Đô-li (bằng phương +Nhóm 7: Nêu những thành tựu trong lĩnh vực

pháp sinh sản vô tính… chinh phục vũ trụ.

+Công bố “Bản đồ gen người”…

- Trong lĩnh vực chế tạo công cụ - Sau khi HS tìm hiểu, báo cáo kết quả, GV

sản xuất mới: đối chiếu kết quả, tiến hành phân tích, minh hoạ

bằng các hình ảnh cụ thể (qua tranh, ảnh, phim +Chế tao được máy tinh điện tử

95

tư liệu) (thành tựu kỹ thuật quan trọng

nhất). Cuối cùng chốt lại ghi lên bảng các nét chính:

+Máy tự động và hệ thống máy

tự động

-Trong ngành năng lượng: Tìm ra

nhiều nguồn năng lượng mới:

+Năng lượng nguyên tử

+Năng lượng mặt trời

+Năng lượng gió

+Năng lượng thuỷ triều. Năng lượng gió

-Về sáng chế những vật ilệu mới:

+ Chất dẻo Pô-li-me.

+Một số loại chất dẻo khác có

độ bền và chịu nhiệt lớn....

-Trong cuộc “cách mạng

xanh”(nông nghiệp):

Năng lượng mặt trời + Áp dụng cơ khí hoá, điện khí

hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. -Trong qúa trình tổng kết, GV vừa ghi, vừa

phân tích các mặt tích cực và tiêu cực của sự +Lai tạo giống mới, sản xuất

phát triển đó, đồng thời liên hệ với thực tiễn. thuốc trừ sâu...

Chẳng hạn, việc sản xuất ra các loại thuốc trừ - Trong giao thông vận tải và

sâu, chống sâu bệnh đem lại tác dụng và tác thông tin liên lạc:

hại gì? Việc lạm dụng thuốc trừ sâu đã làm +Chế tạo ra những máy bay siêu cho các loại rau quả hiện nay nhiễm độc thế âm khổng lồ (T.U 106; Boing nào? Làm thế nào để bảo vệ được độ phì 176), tàu hoả siêu tốc (300km/h).. nhiêu của đất do phân và thuốc hoá học gây

96

+Các phương tiện thông tin liên ra?

lạc, phát sóng vô tuyến, truyền Hoặc như, các loại sóng vô tuyến điện, rác

hình… thải trong sản xuất công nghiệp, trong vũ trụ

- Trong lĩnh vực chinh phục vũ đã ảnh hưởng thế nào đến môi trường.?...

trụ:

+Phóng vệ tinh nhân tạo của trái Hoạt động 3: Tìm hiểu ý nghĩa, tác động của

đất.(1957) cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật (làm việc

+Con người bay vào vũ trụ (1961) toàn lớp).

-GV Nêu câu hỏi: Cuộc cách mạng khoa học-kỹ + Thám hiểm mặt trăng (1969)

thuật có ý nghĩa và tác động như thế nào đối b. Những tác động, hạn chế

với sự tiến bộ nhân loại và cuộc sống của con * Ý nghĩa: người?

- Cách mạng khoa học – kĩ thuật -Tiếp đó, GV lần lượt cho HS trả lời câu hỏi: đánh dấu một cột mốc chói lọi

*Ý nghĩa của cuộc CM KH-KT là gì? trong lịch sử tiến hoá văn minh

của loài người, đem lại sự đổi *Tác động tích cực của cuộc cách mạng khoa

thay trong cuộc sống của con học-kỹ thuật?

người (nâng cao chất lượng cuộc *Tác động tiêu cực của cuộc cách mạng khoa

sống) học-kỹ thuật?

* Tác động: -GV nhận xét, chốt lại.

- Mặt tích cực:

+ Nâng cao năng xuất lao động.

+ Làm xuất hiện nhiều ngành

công nghiệp mới (công nghiệp

điện tử, nguyên tử, vũ trụ,…)

+ Làm thay đổi cơ cấu, vị trí các

ngành sản xuất (VD ngành than

97

giảm rõ rệt)

+ Đem đến cho con người những

sản phẩm hàng hoá, thiết bị, tiện

nghi sinh hoạt mới=>nâng cao

chất lượng cuộc sống

+ Làm thay đổi cơ cấu dân cư lao

động (trong nông nghiêp, công

nghiệp và dịch vụ).

=> Hình thành thị trường thế giới - GV tích hợp nội dung GDBVMT bằng việc

với xu thế toàn cầu hóa. cho HS thảo luận: Những tác động tiêu cực

của cuộc cách mạng KH- CN đã ảnh hưởng - Mặt tiêu cực:

tới sự sống và con người như thế nào? +Gây ra nạn ô nhiễm môi trường

(khí quyển, đại dương, sông, hồ,

vũ trụ…) do các chất thải công

nghiệp

+ Chế tạo ra các loại vũ khí,

phương tiện chiến tranh có sức

tàn phá và huỷ diệt lớn, tiêu diệt

cả sự sống trên hành tinh.

+ Làm cho trái đất nóng dần lên Sản xuất vũ khí nguyên tử -> hủy diệt môi (sự biến đổi khí hậu). trường sống.

98

+ Phát sinh những bệnh tật mới

Rác thải nhựa

Ô nhiễm nguồn nước

Nước thải công nghiệp

Rác thải vũ trụ

Ô nhiễm không khí

-GV cung cấp thêm số liệu:

99

+Năm 1970: thế giới thải ra 40 tỉ tấn chất

thải/năm.

+ Năm 2000: 100 tỉ tấn rác thải/năm

+Một công dân Mỹ thải 1 tấn rác/năm.

+Hàng năm gần 10 triệu tấn dầu và các sản

phẩm dầu mỏ thải ra đại dương.

+ Khí quyển tiếp nhận 20 tỉ tấn khí các-bon-

nic/năm=>gây nên những trận mưa bụi các-bo-

níc.

- Đến đây, GV tiếp tục tích hợp nội dung

GDBVMT bằng việc cho HS liên hệ:

-Hiện trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương

em như thế nào?

-Trước nạn ô nhiễm môi trường, em sẽ làm gì

để bảo vệ bản thân, cộng đồng và xã hội?

Hoạt động 4: Cá nhân và cả lớp.

- GV đặt câu hỏi: Tại sao đầu những năm 80

của thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh lạnh,

trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa?

Toàn cầu hóa là gì?

II. Xu thế toàn cầu hóa và ảnh HS thảo luận và trả lời, GV giải thích làm rõ

hưởng của nó. hơn vấn đề.

- Hệ quả của cách mạng khoa + Chiến tranh lạnh chấm dứt, xu thế đối thoại

học- công nghệ là xu thế toàn cầu trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế,

hóa, nhất là toàn cầu hóa về kinh những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-

100

tế, diễn ra mạnh sau chiến tranh công nghệ đã có điều kiện lan ra khắp thế giới,

lạnh. dẫn tới xu thế toàn cầu hóa, nhất là toàn cầu hóa

về kinh tế. - Về bản chất, toàn cầu hóa là quá

+ Toàn cầu hóa là sự phụ thuộc lẫn nhau trên trình tăng mạnh mẽ các mối liên

phạm vi toàn cầu, hình thành thị trường thế giới hệ, những ảnh hưởng tác động,

và sự phân công lao động quốc tế, sự lưu thông phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu

hàng hóa và tư bản, nhân công trên toàn cầu. vực, quốc gia, dân tộc trên thế

giới... =>GV chốt lại ý.

Hoạt động 5: Cả lớp.

- GV đặt câu hỏi: Xu thế toàn cầu hóa được

biểu hiện trên lĩnh vực nào? Tại sao nói toàn

cầu hóa là xu thế khách quan?

HS thảo luận dưới sự hướng dẫn của GV, lấy ví

dụ minh họa. Sau đó GV nhận xét và chốt ý,

nhấn mạnh: Xu thế toàn cầu hóa là không thể

- Những biểu hiện của toàn cầu đảo ngược.

hóa: - GV đặt câu hỏi: Hãy nêu những tác động của

+ Sự phát triển nhanh của thương xu thế toàn cầu hóa?

mại quốc tế. HS dựa vào SGK, những hiểu biết của mình để

+ Sự phát triển và tác động to lớn trả lời. Sau đó GV chốt ý.

của các công ty xuyên quốc gia.

+ Sự sát nhập và hợp nhất của các

công ty thành những tập đoàn lớn.

GV đưa câu hỏi và nêu vấn đề học sinh suy + Sự ra đời của các tổ chức liên nghĩ và trả lời: Tại sao nói: Toàn cầu hóa vừa kết kinh tế, thương mại, tài chính là cơ hội vừa là thách thức với các nước đang khu vực, quốc tế. phát triển( trong đó có Việt Nam)?

- Tác động của xu thế toàn cầu

101

hóa:

+ Mặt tích cực: Xã hội hóa lực

lượng sản xuất, đưa lại sự tăng

trưởng nhanh, góp phần vào

chuyển biến cơ cấu kinh tế, nâng

cao sức cạnh tranh và hiệu quả

của nền kinh tế.

+ Mặt tiêu cực: Cuộc sống của

con người kém an toàn; sự bất

công, khoảng cách giầu nghèo;

nguy cơ hòa nhập dẫn tới hòa tan

trong văn hóa, kinh tế.....

3. Củng cố:

+ GV nhắc lại những thành tựu chủ yếu của cách mạng khoa học – kĩ thuật từ

sau chiến tranh thế giới đến nay.

- Ý nghĩa và tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật?

4. Hướng dẫn học sinh học ở nhà.

- Liên hệ giữa sự phát triển của kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng với

102

sự ô nhiễm môi trường ở địa phương của HS.

KẾT LUẬN

Tích hợp trong dạy học nói chung, lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong giáo

dưỡng , giáo dục, rèn luyện và phát triển kĩ năng tư duy, phân tích tổng hợp,

khái quát hóa, trừu tượng hóa. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ

thuật trong giai đoạn hiện nay đang đòi hỏi sự thay đổi căn bản và toàn diện

về nội dung và phương pháp giáo dục. Từ cách tiếp cận nội dung, giáo dục

chuyển sang tiếp cận năng lực. Điều đó đặt ra những yêu cầu về nguyên tắc và

phương pháp giáo dục theo hướng tích hợp để giải quyết vấn đề đặt ra trên

103

đây.