TÁI SỐC TRONG SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE

TÓM TẮT

Sốt xuất huyết Dengue là vấn đề y tế quan trọng ở các nước vùng nhiệt đới. Hiện nay,

trong quá trình điều trị sốc sốt xuất huyết, tỉ lệ tái sốc vẫn còn cao.

Mục tiêu: xác định các yếu tố liên quan đến tái sốc ở bệnh nhân sốc sốt xuất huyết

nhập viện Bệnh Viện Nhi Đồng 1.

Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu bệnh chứng. Nhóm bệnh là nhóm sốc sốt xuất

huyết bị tái sốc sau khi sốc đã ổn định tối thiểu 2 giờ, nhóm chứng là nhóm không bị

tái sốc. Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh Viên Nhi Đồng 1 từ tháng 04/ 2007 đến

tháng 05/ 2008.

Kết quả: Nhóm sốc sốt xuất huyết bị tái sốc có 48 bệnh nhân, nhóm sốc sốt xuất

huyết không bị tái sốc có 85 bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố liên

quan đến tái sốc là bệnh nhân được chuyển từ tuyến trước đến (OR điều chỉnh =4,3;

Khoảng tin cậy 95% =1,7 – 10,7; P=0,02); suy hô hấp (OR điều chỉnh =7,03; Khoảng

tin cậy 95% =2,8- 18; P=0,001); dung tích hồng cầu (Hct) lúc vào sốc (OR điều chỉnh

=0,89; Khoảng tin cậy 95% =0,8-0,99; P=0,03).

Kết luận: Khả năng tái sốc cao ở bệnh nhân được chuyển viện từ tuyến trước đến,

suy hô hấp. Với điều trị hiện nay, tỷ lệ tái sốc cải thiện đáng kể ở bệnh nhân có hiệu

áp lúc vào sốc thấp hơn 10mm Hg và Hct lúc vào sốc cao.

ABSTRACT

FACTORS ASSOCIATED WITH RECURRENT DENGUE SHOCK SYNDROME

AT CHILDREN’S HOSPITAL No.1 IN 2007-2008

Ly To Khanh, Nguyen Thanh Hung, Bui Quoc Thang

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 200 - 206

Background: Dengue hemorrhagic fever (DHF) is the important medical problem of

tropical countries. The rate of recurrent shock still remains high in treatment of

Dengue shock syndrome (DSS).

Objective: Determining relevant associated factors with recurrent shock in DSS

patients admitted at Children’s Hospital No.1.

Method: Case-control study. The study group consists of DSS patients with recurrent

shock after having a stable condition for 2 hours. The control group consists of DSS

patients without recurrent shock. The study period was from April 12007 to May

2008 at Children’s Hospital No. 1 in Ho Chi Minh City.

Result: There were 48 patients in the study group and 85 patients in the control

group. Results of the study showed that referral from provincial/district hospitals

(OR=4.3; 95% CI=1.7 – 10.7; P=0.02); respiratory failure (OR =7.03; 95% CI =2.8-

18; P=0.001); the value of hematocrit at the time when patient went into shock

(OR=0.89; 95% CI =0.8-0.99; P=0.03) were associated with recurrent shock in DSS

patients.

Conclusion: DSS patients who were referred from provincial/district hospitals and

the patients with respiratory failure had higher risk of getting recurrent shock. With

the current treatment the rate of recurrent shock among patients with high value of

hematocrit at the time of shock and patients with pulse blood pressure less than 10

mmHg at the onset of shock was significantly improved.

ĐẶT VẤN ĐỀ:

Sốt xuất huyết Dengue là vấn đề y tế quan trọng ở các nước vùng nhiệt đới. Theo báo

cáo của Bộ Y Tế năm 2006 (Error! Reference source not found.), trong 6 tháng đầu

năm 2006 tỷ lệ mắc sốt xuất huyết tăng lên và số tử vong tăng hơn 10 trường hợp so

với cùng kỳ năm 2005. Hiện nay, trong quá trình điều trị sốc sốt xuất huyết tái sốc có

khả năng xảy ra với tỷ lệ cao. Bệnh nhân sốc sốt xuất huyết khi bị tái sốc điều trị khó

khăn, phức tạp và tiên lượng xấu hơn bệnh nhân không tái sốc. Chúng tôi khảo sát các

yếu tố liên quan đến tái sốc nhằm nâng cao kết quả điều trị bệnh sốt xuất huyết

Dengue.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Xác định các yếu tố liên quan đến tái sốc trong điều trị sốc sốt xuất huyết Dengue tại

Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 4/ 2007 – 5/ 2008.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

Thiết kế nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện từ tháng 4/ 2007 đến tháng 5/ 2008

tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1 TP. HCM. Tất cả các trẻ nhỏ hơn 15 tuổi được chẩn đoán

sốc sốt xuất huyết theo tiêu chuẩn của Tổ Chức Y tế thế giới (TTYTTG) được xác

định bằng xét nghiệm Mac-Elisa chẩn đoán sốt xuất huyết dương tính, không bị bệnh

mãn tính và sốc kéo dài xẩy ra trong 6 giờ đầu chống sốc. Nhóm bệnh là nhóm sốc

sốt huyết có tái sốc, nhóm chứng là nhóm không tái sốc. Tái sốc là sốc thứ phát sau

khi huyết động đã ổn định tối thiểu là 2 giờ.

KẾT QUẢ:

Có 133 trường hợp sốc sốt xuất huyết Dengue theo tiêu chuẩn nhận bệnh, trong đó 48

trường hợp tái sốc và 85 trường hợp không tái sốc.

Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Đặc điểm dịch tễ

Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ:

Đặc Tái sốc Không OR KTC P

điểm tái sốc 95% N =48

N=85

Tuổi 6,5±3,6 6,8±3,2 0,5**

trung

bình ±

Độ lệch

(năm)

Nhỏ 2 tháng - 4 tháng-

nhất – 15 15

lớn nhất

Giới: 29 40 0,27

0,14** Nữ (n (60,4) (47,1) 0,58 –

(%)) 1,27

Nam (n 19(39,6) 45

(%)) (52,9)

Địa

phương

cư trú

Tỉnh (n 35 49 1,98 0,87 0,08**

(%)) (72,9) (57,7) –

4,66 Thành 13 36

phố (n (27,1) (42,3)

(%))

Hình

thức

nhập

viện

1,9 –

4,5 0,001** Chuyển 32 26 10,4

viện (n (66,7) (30,6)

(%))

Tự đến 16 59

(n (%)) (33,3) (69,4)

Béo phì 8 (16,7) 11 0,42

(n (%)) (13,1) 1,32 – 0,5**

3,95

**: phép kiểm ÷2, ***: T test, d: chi bình phương khuynh hướng.

Đa số bệnh nhân tái sốc nhập viện do tuyến trước chuyển đến. Tuổi, giới, địa phương

cư trú và tình trạng béo phì không khác nhau giữa 2 nhóm.

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị

Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị:

Đặc Tái Không OR KTC P

điểm Sốc tái sốc 95%

N = 48 N = 85

Ngày 4,7 ± 4,8 ± 1,0

vào sốc 0,9

TB ± ĐL

(ngày) 0,3***

Sớm 2- 6 2- 7

nhất –

trễ nhất

Đặc Tái Không OR KTC P

điểm Sốc tái sốc 95%

N = 48 N = 85

Gan to 24 (50) 28 2,03 0,92 0,052**

(n (%)) (32,9) –

4,47

Xuất 10 9 (10,6) 2,22 0,73 0,10**

– huyết (20,8)

6,72 tiêu hóa

(n (%))

Độ sốt

xuất

huyết

Độ III (n 48 77 0 0,051d

(%)) (100) (90,6)

Độ IV (n 0 8 (9,4) 1 0,2 -

(%)) 1

Mạch 119 ± 114 ± 41 0,3***

(l/phút) 12

Đặc Tái Không OR KTC P

điểm Sốc tái sốc 95%

N = 48 N = 85

TB ± ĐL

Giới hạn 86-150 82 - 200

Hiệu áp 2 (4,2) 12 0,23 0,13 0,07**

thấp (14,1) –

(n%) 1,28

Thời 1,1±0,3 1,15±0,4 0,45***

gian ra

sốc TB ±

ĐL(giờ)

Giới hạn 1 – 3 1 – 3

Suy hô 33 26 4,99 2,18 0,001**

hấp (n (68,8) (30,6) –

(%)) 11,6

Hct TB± 43,8 ± 46,5 ± 0,004***

ĐL (%) 4,3 5,2

Đặc Tái Không OR KTC P

điểm Sốc tái sốc 95%

N = 48 N = 85

Giới hạn (32 – (29 –

55) 60)

Tiểu cầu 42,9 ± 59,8 ± 0,003***

(103 3,8 4,8

/mm3)

Bạch cầu 6,9 ± 7,8 ± 1, 0,65***

(103 1,7

/mm3)

**: phép kiểm 2, *** phép kiểm T test, d: chi bình phương khuynh hướng.

TB ± ĐL: trung bình ± Độ lệch

Ngày vào sốc trung bình là 5, đa số sốt xuất huyết độ III. Tình trạng lúc vào sốc, gan

to, xuất huyết tiêu hóa khác nhau giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê.

Đa số bệnh nhân suy hô hấp trong nhóm tái sốc chiếm tỷ lệ 68,8% và nhóm không tái

sốc chỉ có 30,6%.

Hct và tiểu cầu lúc vào sốc ở nhóm tái sốc thấp hơn nhóm không tái sốc.

Tất cả các bệnh nhân tái sốc đều được sử dụng cao phân tử trong điều trị, nhóm bệnh

nhân không bị tái sốc chỉ có 49% sử dụng cao phân tử. Lượng cao phân tử ở nhóm

không tái sốc trung bình 82,8 ± 31,2 ml/kg gần bằng nhóm tái sốc là 83,4 ± 39,7

ml/kg với P>0,05. Tỷ lệ dùng cao phân tử > 60 ml/kg ở 2 nhóm tái sốc và không tái

sốc lần lượt là 79,2%; 83,3% (P=0,6).

Kết quả điều trị và biến chứng

Không có trường hợp nào tử vong trong nghiên cứu chúng tôi, tất cả các trường hợp

tái sốc đều đáp ứng với truyền dịch thay thế. Tại thời điểm tái sốc có 47/48 (97,9%)

trường hợp có Hct tăng đạt bằng hoặc cao hơn Hct lúc vào sốc. Chỉ có 1 trường hợp

Hct không tăng, trường hợp này bệnh nhân có xuất huyết tiêu hóa trước khi vào sốc.

Trước khi tái sốc từ 1 đến 2 giờ có 35 trường hợp (72,9%) có biểu hiện Hct và mạch

tăng hơn 90% so với Hct và mạch lúc vào sốc.

Qua kết quả phân tích đơn biến, chúng tôi ghi nhận các yếu tố chỉ điểm liên quan đến

tái sốc là chuyển viện, suy hô hấp, Hct lúc vào sốc và số lượng tiểu cầu sốc có liên

quan đến tái sốc, xuất huyết tiêu hóa, hiệu áp lúc vào sốc thấp, thời gian ra sốc kéo dài

hơn 1 giờ và béo phì.

Mối liên quan các yếu tố với tái sốc

Phân tích đa biến với hồi qui logistic

Bảng 3: Những yếu tố liên quan đến tái sốc

Đơn biến Đa biến Các

biến số OR KTC P OR KTC P

95% điều 95%

chỉnh

Chuyển 4,5 1,99 - 0,001 4,3 1,7 – 0,02

viện 10,4 10,7

Suy hô 35 2,2 – 0,001 7,03 2,8 – 0,001

hấp 11,58 18

Xuất 2,2 0,73 – 0,10 2,5 0,7 – 0,15

huyết 6,7 8,4

tiêu hóa

Hiệu áp 0,23 0,24 – 0,07 0,12 0,02 0,03

sốc thấp 1,23 – 0,8

Thời 0,7 0,25 – 0,45 0,33 0,1 – 0,11

gian ra 1,9 1,27

sốc

Hct 0,34 0,14 - 0,006 0,89 0,8 – 0,03

0,78 0,99

Béo phì 1,32 0,48 -0,56 2,8 0,7 –0,13

3,61 10,3

Qua kết quả phân tích đơn biến, chúng tôi ghi nhận các yếu tố chỉ điểm liên quan đến

tái sốc là chuyển viện, suy hô hấp, Hct lúc vào sốc và số lượng tiểu cầu sốc có liên

quan đến tái sốc, xuất huyết tiêu hóa, hiệu áp lúc vào sốc thấp, thời gian ra sốc kéo dài

hơn 1 giờ và béo phì. Phân tích đa biến cho thấy các yếu tố liên quan đến tái sốc là

bệnh nhân được chuyển từ tuyến trước đến (OR điều chỉnh =4,3; Khoảng tin cậy 95%

=1,7 – 10,7; P=0,02); suy hô hấp (OR điều chỉnh =7,03; Khoảng tin cậy 95% =2,8-

18; P=0,001); dung tích hồng cầu (Hct) lúc vào sốc (OR điều chỉnh =0,89; Khoảng

tin cậy 95% =0,8-0,99; P=0,03).

BÀN LUẬN

Các đặc điểm dịch tễ lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị

Đặc điểm địch tể

Tuổi trung bình là 7, tỷ lệ nữ trong nhóm tái sốc là 60,4%. Không có sự khác biệt về

tuổi, giới và béo phì giữa 2 nhóm. Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương tự kết quả

nghiên cứu của tác giả Lê Thị Huyền Trang và Chu Văn Thiện.

Đặc điểm lâm sàng, cận lâ sàng, điều trị

Ngày vào sốc trung bình là 5. Kết quả này phù hợp với giai đoạn thất thoát huyết

tương nhiều nhất trong sốt xuất huyết. Kết quả nghiên cứu của Lê Thị Huyền Trang

và Chu Văn Thiện đa số vào sốc ngày 4, 5 của bệnh.

Tình trạng lúc vào sốc, xuất huyết tiêu hóa giữa 2 nhóm khác nhau không có ý nghĩa

thống kê. Kết quả nghiên cứu chúng tôi khác kết quả của tác giả Chu Văn Thiện có lẽ

do chúng tôi đã loại các trường hợp sốc kéo dài xẩy ra trong 6 giờ đầu và điều trị hiện

nay đã khác trước đây về sử dụng cao phân tử.

Đặc điểm cận lâm sàng:

Hct và tiểu cầu lúc vào sốc thấp hơn nhóm tái sốc. Theo nghiên cứu của tác giả Lê

Thị Huyền Trang và Chu Văn Thiện Hct và tiểu cầu lúc vào sốc giữa 2 nhóm khác

nhau không có ý nghĩa thống kê. Hct càng cao khả năng thất thoát huyết tương càng

nhiều dễ diễn tiến tái sốc chính vì vậy trên thực tế bệnh nhân vào sốc có Hct càng cao

càng được theo dõi sát để phát hiện dọa tái sốc sớm và điều trị kịp thời nhằm giảm

nguy cơ tái sốc.

Các yếu tố liên quan đến tái sốc

Mối liên quan giữa chuyển viện và tái sốc

Bệnh nhân sốc sốt xuất huyết được chuyển viện nguy cơ tái sốc gấp 4,3 lần so với

bệnh nhân tự đến. Đa số bệnh nhân nhập viện do tuyến trước thường là sốc sốt xuất

huyết nặng, hoặc có tiên lượng nặng. Theo tác giả Nguyễn Minh Tiến hơn 70% bệnh

nhân sốc sốt xuất huyết bị sốc kéo dài nhập viên do tuyến trước chuyển đến(Error!

Reference source not found.) Bệnh nhân chuyển viện có nguy cơ tái sốc so với tự đến do các lý

do sau:

- Chuyển viện không an toàn của tuyến trước: Trong nghiên cứu chúng tôi bệnh nhân

tái sốc do tuyến trước chuyển đến có 14 trường hợp tái sốc ngay lúc nhập viện.Tất cả

các trường hợp này đều do dịch truyền không chảy hoăc chảy rất ít trong lúc chuyển

viện, một số bệnh nhân trong quá trình theo dõi được phát hiện triệu chứng tiền sốc

bệnh nhân được truyền ngay một liều đại phân tử và chuyển viện.

- Một số bệnh nhân nhập viện Bệnh viện Nhi Đồng 1 đã qua nhiều cơ sở y tế ở tuyến

trước. Tuy nhiên do trình độ hạn chế về chuyên môn của một số cơ sở y tế như không

lấy được đường truyền, không khả năng điều trị sốc sốt xuất huyết nặng nên làm tăng

thêm tỷ lệ tái sốc của bệnh nhân sốc sốt xuất huyết.

Mối liên quan giữa suy hô hấp và tái sốc

Trong nghiên cứu chúng tôi ghi nhận bệnh nhân suy hô hấp khả năng tái sốc gấp 7,03

lần so với bệnh nhân không bị suy hô hấp. Nguyên nhân suy hô hấp trong sốc sốt xuất

huyết bao gồm: tràn dịch đa màng (màng phổi, màng bụng), quá tải, phù phổi, hội

chứng nguy ngập hô hấp cấp, xuất huyết phổi, viêm phổi do Dengue. Trong đó tràn

dịch đa màng đóng vai trò quan trọng ở bệnh nhân sốc sốt xuất huyết có suy hô hấp.

Theo tác giả Bạch Văn Cam và cộng sự(Error! Reference source not found.) đa số bệnh nhân suy

hô hấp có biểu hiện 92% tràn dịch màng phổi và 33% có thâm nhiễm mô kể trên

Xquang phổi. Tình trạng thất thoát huyết tương nhiều gây tràn dịch màng phổi, tràn

dịch màng bụng đồng thời cũng gây giảm thể tích nếu truyền dịch không đủ và không

thích hợp bệnh nhân có thể bị tái sốc. Theo tác giả Lê Nguyễn Thanh Nhàn(Error!

Reference source not found.) ghi nhận các yếu tố nguy cơ suy hô hấp là tuổi nhỏ hơn 7, béo

phì, sốt xuất huyết độ IV, thời gian ra sốc kéo dài hơn 2 giờ, bệnh nhân có xuất huyết

tiêu hóa, tái sốc, thể tích dịch truyền sử dụng lớn hơn 130 ml/kg cân nặng và Xquang

phổi có tràn dịch màng phổi với chỉ số tràn dịch màng phổi lớn hơn 25% và hoặc có

phù mô kẽ.

Trên thực tế lâm sàng khi điều trị bệnh nhân sốc sốt xuất huyết bị suy hô hấp gặp

nhiều khó khăn hơn bệnh nhân sốc sốt xuất huyết không bị suy hô hấp. Nếu bồi hoàn

thể tích dịch không đủ, sử dụng dịch truyền không thích hợp dẫn đến nguy cơ tái sốc,

sốc kéo dài và tử vong; ngược lại nếu truyền dịch quá nhanh, quá nhiều có thể đưa

đến phù phổi làm tăng nguy cơ suy hô hấp. Việc đánh giá sốc ở bệnh nhân sốc sốt

xuất huyết bị suy hô hấp cũng khó khăn do mạch và huyết áp lúc này bị ảnh hưởng

bởi tình trạng suy hô hấp, mức độ tràn dịch màng phổi, màng bụng. Bệnh nhân sốc

sốt xuất huyết có suy hô hấp đã được đo CVP, việc quyết định tốc độ dịch truyền đôi

lúc cũng không dễ vì hiện nay chưa có khuyến cáo cụ thể về chỉ số CVP tối ưu ở bệnh

nhân sốc sốt xuất huyết có suy hô hấp nặng. Một nghiên cứu của tác giả Bạch Văn

Cam(Error! Reference source not found.) thực hiện tại khoa hồi sức Bệnh viện Nhi Đồng 1 ghi

nhận có 5/16 bệnh nhân sốc sốt xuất huyết có chỉ số lớn hơn 12 cm nước vẫn chưa có

biểu hiện quá tải, có 2 trường hợp phải truyền dịch thêm sau 1 giờ sử dụng vận

mạch(Error! Reference source not found.).

Mối liên quan giữa Hct lúc vào sốc - tái sốc

Trong nghiên cứu chúng tôi Hct vào sốc tăng 1% tỉ lệ tái sốc giảm 11% với KTC

95% là 0,79–0,97. Hct phản ánh tình trạng thất thoát huyết tương, Hct càng cao tình

trạng thất thoát huyết tương càng nhiều, trong điều trị nếu tình trạng thất thoát huyết

tương tiếp tục diễn tiến và sử dụng dịch truyền không đủ và không phù hợp bệnh

nhân có nguy cơ tái sốc. Chính vì vậy khi bệnh nhân sốt xuất huyết khi vào sốc có

Hct tăng cao thường được theo dõi sát phát hiện các dấu hiệu dọa tái sốc sớm, điều trị

kịp thời có thể giảm được tỉ lệ tái sốc.

Việc sử dụng cao phân tử trong điều trị sốc sốt xuất huyết theo tác giả Ngô Thị

Nhân(Error! Reference source not found.), Nguyễn Minh Dũng(Error! Reference source not found.), ghi

nhận: cao phân tử chỉ được sử dụng trong 1 giờ đầu chống sốc tỷ lệ tái sốc giữa các

nhóm điện giải và cao phân tử không khác nhau. Nhưng nhóm sử dụng cao phân tử

có thời gian ra sốc, Hct giảm nhanh hơn so với điện giải và thời gian tái sốc chậm hơn

nhiều so với điện giải. Hiện nay, theo phác đồ hướng dẫn của Bộ Y Tế(Error! Reference

source not found.) cao phân tử được duy trì và giảm liều dần trước khi chuyển sang điện

giải, trong khi đó các nghiên cứu của Lê Thị Huyền Trang(Error! Reference source not found.),

Chu Văn Thiện(Error! Reference source not found.), cao phân tử chỉ được sử dụng 1 giờ và được

chuyển sang điện giải ngay. Trong nghiên cứu chúng tôi, tỷ lệ dùng cao phân tử và

lượng cao phân tử trung bình cao hơn các nghiên cứu trước đây. Chính vì các lý do

trên mà tỷ lệ tái sốc ở bệnh nhân có Hct cao giảm được nguy cơ tái sốc.

Kết quả nghiên cứu chúng tôi khác kết quả nghiên cứu trước đây của các tác giả Lê

Huyền Trang(Error! Reference source not found.), Chu Văn Thiện(Error! Reference source not found.) Hct

vào sốc không liên quan đến tái sốc. Theo chúng tôi sự khác biệt này do đặc điểm

mẫu nghiên cứu khác nhau: tiêu chuẩn chọn bệnh chúng tôi chọn cả bệnh nhân từ

tuyến trước chuyển đến có Mac-Elisa dương tính, và loại các trường hợp sốc kéo dài

xảy ra sớm trong 6 giờ đầu chống sốc. Điểm khác quan trọng là thiết kế nghiên cứu

của chúng tôi là bệnh chứng còn của tác giả Lê Thị Huyền Trang và Chu Văn Thiện

là cắt ngang mô tả phân tích. Thời điểm nghiên cứu hiện nay đã có nhiều thay đổi và

tiến bộ trong điều trị sốt xuất huyết (cao phân tử được chỉ định kịp thời, được duy trì

và giảm liều dần trước khi chuyển sang sử dụng điện giải). Hiện nay, điều trị sốc sốt

xuất huyết cao phân tử được dùng trong các trường hợp sốc sốt xuất huyết được chỉ

định sớm và rộng hơn trước đây. Trên thực tế lâm sàng, khi Hct có khuynh hướng

tăng lên kèm theo bệnh nhân có một trong các biểu hiện lâm sàng như: mạch nhanh

lên, đau bụng, buồn nôn, nôn, bức rức nếu được điều trị cao phân tử, máu hợp lý ngay

có thể giảm được khả năng tái sốc.

Mối liên quan giữa hiệu áp lúc vào sốc và tái sốc

Theo kết quả phân tích đa biến với hồi qui logistic bệnh nhân vào sốc có hiệu áp thấp

hơn 10mmHg tỉ lệ tái sốc giảm 88%. Kết quả nghiên cứu chúng tôi khác hẳn các

nghiên cứu trước đây của các tác giả Ngô Thị Nhân(Error! Reference source not found.), Chu

Văn Thiện(Error! Reference source not found.), Lê Thị Huyền Trang(Error! Reference source not found.),

Nguyễn Minh Dũng(Error! Reference source not found.) bệnh nhân sốc sốt xuất huyết có hiệu áp

thấp ≤ 10 mmHg tỉ lệ tái sốc cao hơn không tái sốc. Sốc sốt xuất huyết có hiệu áp

càng thấp tương đương sốc tiến triển hay sốc mất bù tiên lượng càng nặng, nếu điều

trị không tốt bệnh nhân khó ra khỏi sốc và diễn tiến tái sốc, sốc kéo dài, và tử vong.

Theo tác giả Tạ Văn Trầm(Error! Reference source not found.) đa số bệnh nhân sốc kéo dài trong

sốt xuất huyết Dengue có liên quan đến điều trị không tốt và theo dõi bệnh nhân

không sát. Vì vậy bệnh nhân sốc sốt xuất huyết có hiệu áp thấp khi vào sốc được theo

dõi sát, phát hiện các biến chứng sớm và điều trị kịp thời để tránh khả năng tái sốc,

sốc kéo dài và tử vong. Ngoài ra lượng cao phân tử trung bình và tỷ lệ sử dụng cao

phân tử trong nghiên cứu chúng tôi cao hơn nhiều so với các nghiên cứu trước đây.

Do dung dịch cao phân tử làm tăng thể tích huyết tương nhanh và thời gian lưu lại

trong lòng mạch lâu hơn so với điện giải, vì vậy việc sử dụng cao phân tử phù hợp có

thể làm giảm tỷ lệ tái sốc ở bệnh nhân sốc sốt huyết nặng có hiệu áp lúc vào sốc thấp.

Để xác định điều này chúng tôi cần nghiên cứu thêm vai trò của cao phân tử trong

diễn tiến tái sốc ở bệnh nhân sốc sốt xuất huyết.

Trong nghiên cứu chúng tôi chỉ số huyết áp có độ chính sát chưa cao vì huyết áp đo

được là huyết áp không xâm lấn ghi nhận bằng đồng hồ huyết áp kế và đa số bệnh

nhân nhập viện được tuyến trước chuyển đến. Do đó cần nghiên cứu thêm để xác

định mối liên quan của hiệu áp lúc vào sốc thấp với tái sốc.

Mối liên quan giữa béo phì và tái sốc

Ở bệnh nhân béo phì có có khả năng tái sốc gấp 2,8 lần bệnh nhân không béo phì với

KTC 95% là 0,7–10,3; P=0,13. Chúng tôi đề nghị cần nghiên cứu thêm để xác định

liên quan giữa béo phì và tái sốc. Theo tác giả Lương Anh Tuấn(Error! Reference source not

found.) bệnh nhân béo phì có nhiều nguy cơ suy hô hấp 3,4 lần, sốc kéo dài 1,5 lần cần

sử dụng cao phân tử trong điều trị. Hiện nay vấn đề điều trị bệnh nhân béo phì chưa

thống nhất, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Qua các nghiên cứu sốc sốt xuất huyết ở

trẻ béo phì nhận thấy trẻ béo phì có nhiều nguy cơ suy hô hấp, sốc kéo dài, tổn

thương đa cơ quan và tử vong hơn trẻ không béo phì(Error! Reference source not found.,Error!

Reference source not found.). Do đó khi điều trị trẻ béo phì sốc sốt xuất huyết cần theo dõi sát,

đo CVP sớm.

KẾT LUẬN

Khả năng tái sốc cao ở bệnh nhân được chuyển viện từ tuyến đến, suy hô hấp. Với

điều trị hiện nay, tỷ lệ tái sốc cải thiện dáng kể ở bệnh nhân có hiệu áp lúc vào sốc

thấp hơn 10mm Hg và Hct lúc vào sốc cao.

Để hạn chế tỉ lệ tái sốc ở bệnh nhân sốc sốt xuất huyết, chúng tôi đề xuất một số biện

pháp như sau:

* Đối với tuyến trước

Tăng cường huấn luyện và trang bị đầy đủ cho tuyến trước để có khả năng điều trị sốc

sốt xuất huyết nặng. Tuân thủ nguyên tắc chuyển viện an toàn trong sốc sốt xuất

huyết, huấn luyện nhân viên y tế chuyển viện có khả năng theo dõi và giải quyết các

tình huống nặng có khả năng xảy ra trên đường chuyển viện

* Đối với Bệnh Viện Nhi Đồng 1

Cần theo dõi sát và đo CVP sớm ở những bệnh nhân sốc sốt xuất huyết được tuyến

trước chuyến đến và bệnh nhân có suy hô hấp.