TỔNG QUAN Y KHOA
Số 8 (Tháng 11/2022) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 2
CÁC VẤN ĐỀ VI SINH LÂM SÀNG TRONG NHIỄM TRÙNG HUYẾT
TS. BS. Phạm Hùng Vân*
*Hiệu trưởng Đại học Phan Châu Trinh
Khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết
Ở người bình thường, máu là vô trùng và không
có sự hiện diện của bất kỳ vi sinh vật nào. Máu
có thể bị vi khuẩn xâm nhập và có mặt trong hai
trường hợp sau đây:
Khuẩn huyết (bacteremia): Là tình trạng tìm
thấy vi khuẩn trong máu nhưng không có các
triệu chứng của nhiễm trùng nhiễm độc máu gây
ra do vi khuẩn mà chúng ta thường gọi là sepsis.
Khuẩn huyết có thể xảy ra tạm thời (transient
bacteremia), đó là các trường hợp vi khuẩn từ
miệng vào máu sau khi nhổ răng hoặc các thủ
thuật nha khoa và thường chỉ sau một thời gian
rất ngắn các vi khuẩn xâm nhập này sẽ nhanh
chóng bị loại trừ nhờ hệ miễn dịch của cơ thể.
Trong các trường hợp nhiễm trùng như viêm
màng não mủ, viêm phổi, vi khuẩn gây bệnh
cũng có thể hiện diện trong máu tạm thời trước
khi gây nhiễm trùng ở mô đích (màng não,
phổi…) nhưng sau đó sẽ không còn hiện diện
nữa. Khuẩn huyết cũng có thể xuất hiện ngắt
quãng (intermittent bacteremia) do vi khuẩn
được phóng thích vào máu có chu kỳ từ một
nguồn nhiễm trùng như viêm nội tâm mạc bán
cấp, nhiễm trùng tiểu, nhiễm trùng đường
mật…; hay từ các màng sinh học (biofilm) mà vi
khuẩn thành lập được trên các ống thông hay vật
liệu đặt trong cơ thể (van tim nhân tạo, khớp
nhân tạo..). Khuẩn huyết cũng có thể kéo dài
(continuous bacteremia) do nguồn gốc là từ các
nhiễm trùng cấp từ mạch máu như viêm nội tâm
mạc cấp tính, viêm động mạch. Riêng với một số
bệnh nhân bị giảm sức đề kháng thì khuẩn huyết
kéo dài có thể có nguồn gốc nhiễm trùng từ bên
ngoài mạch máu như từ các áp xe trong ổ bụng…
Nhiễm trùng huyết (septicemia): Là tình trạng
có sự hiện diện thường trực vi khuẩn trong máu
và có hội chứng nhiễm trùng nhiễm độc máu
(sepsis) với 4 triệu chứng cơ bản của một hội
chứng đáp ứng viêm toàn thân (SIRS: Systemic
Inflammatory Response Syndrome), đó là: Sốt
trên 38oC hay thân nhiệt thấp dưới 36oC; Nhịp
tim trên 90/phút; Nhịp thở trên 20/phút và
PaCO2 dưới 32mmHg (4.3Kpa); Bạch cầu trên
12K/ml hay dưới 4K/ml hay có hiện diện dạng
dải (band). Nhiễm trùng huyết là một bệnh lý
nặng đe dọa tính mạng, dẫn đến tử vong do suy
đa cơ quan, xuất huyết tiêu hóa, xuất huyết mao
mạch, và nguy hiểm nhất là choáng nhiễm trùng
(septic shock), một diễn tiến của nhiễm trùng
huyết với các triệu chứng của suy tuần hoàn cấp
làm tụt huyết áp, kèm theo suy nhiều phủ tạng
(suy hô hấp, suy thận cấp, suy tim cấp...).
Nguyên nhân của choáng nhiễm trùng là do độc
tố hoặc nội độc tố của vi khuẩn phóng thích ra
kích thích đáp ứng viêm toàn thân gây choáng
kéo dài. Phải phân biệt nhiễm trùng huyết với
sepsis và với đáp ứng viêm toàn thân. Sepsis
chính là một đáp ứng viêm toàn thân do nhiễm
trùng trong cơ thể và nhiễm trùng này có thể là
nhiễm trùng huyết nhưng cũng có thể không phải
là nhiễm trùng huyết mà là nhiễm trùng tại các
nơi khác như da, niêm mạc hay tại các cơ quan.
Đáp ứng viêm toàn thân (systemic inflammatory
response syndrome) là một tình trạng nhiễm độc
huyết gây ra do sự đáp ứng viêm của toàn cơ thể
mà nguyên nhân có thể là do nhiễm trùng mà
cũng có thể không do nhiễm trùng như chấn
thương, bỏng, viêm tuỵ cấp…
Nguồn gốc của nhiễm trùng huyết
Các nhiễm trùng có nguồn gốc bên trong hệ
tuần hoàn
Là từ các nhiễm trùng như viêm nội tâm mạc cấp
(acute endocarditis) hay bán cấp (subacute
endocarditis), viêm tắc tĩnh mạch nhiễm trùng,
từ các catheter tĩnh mạch hay các thiết bị đặt nội
mạch.
Tác nhân gây viêm nội tâm mạc cấp tính thường
có độc lực cao như S. aureus diễn tiến nhanh với
sốt cao và nhiễm độc, tử vong cao nếu không
điều trị kháng sinh kịp thời. Tác nhân gây viêm
nội tâm mạc bán cấp thường có độc lực thấp hơn
như viridans streptococci, diễn tiến chậm hơn,
sốt nhẹ, sụt cân, mồ hôi đêm và nếu không điều
trị cũng sẽ dẫn đến suy kiệt và tử vong. Các tác
nhân vi khuẩn gây viêm nội tâm mạc được trình
bày trong bảng 1.1.
Tác nhân gây viêm nội tâm mạc còn có thể phát
hiện được trong một số tình huống đặc biệt như
chích ma túy, nhiễm trùng thiết bị valve tim giả
hay những trường hợp suy giảm miễn dịch hay
bị bệnh mãn tính (bảng 1.2).