Thận hại thuốc, thuốc hại thận

Hai cơ quan làm nhiệm vụ thải trừ thuốc là gan và thận. Gan thải trừ thuốc bằng sự

chuyển hóa tạo thành chất khác và thuốc bị chuyển hóa vẫn còn trong cơ thể, trong

khi thận thải trừ bằng cách loại bỏ thuốc ra khỏi cơ thể qua nước tiểu. Trong quá

trình loại bỏ thuốc ra khỏi cơ thể, hoạt động của thận sẽ ảnh hưởng đến tác dụng

của thuốc, nói nôm na là “thận hại thuốc”.

Ngược lại, thận tiếp xúc và bài tiết thuốc ra khỏi cơ thể thì chính nó cũng bị thuốc

gây những tổn thương hoặc làm suy giảm chức năng và nói tắt là “thuốc hại thận”.

Thận hại thuốc

Khi thận hoạt động bình thường thì sự đào thải thuốc là bình thường. Thận chỉ hại

thuốc khi chức năng thận thay đổi, làm tác dụng điều trị của thuốc giảm đi hoặc

tác dụng phụ có hại của thuốc tăng lên.

Khi chức năng bài tiết của thận giảm đi có thể làm giảm gắn kết thuốc với protein

(chủ yếu là albumin) có trong máu khi thuốc được phân bố đi khắp cơ thể. Sự

giảm gắn kết protein sẽ tăng lượng thuốc tự do có trong máu, gây tăng tác dụng

điều trị của thuốc và cũng tăng cả tác dụng phụ có hại. Điển hình của thuốc giảm

sự gắn kết protein máu đưa đến phầntự do có trong máu tăng khi chức năng thận

giảm là phenytoin chống động kinh. Do phần tự do của phenytoin có tác dụng

dược lý tăng nên nồng độ toàn phần để thuốc có tác dụng điều trị phải giảm để

không làm hại.

Khi chức năng bài tiết của thận giảm đi có thể làm thay đổi hoặc giảm chuyển hóa

thuốc ở gan. Điển hình của thận hại thuốc kiểu này là thuốc trị tim mạch

propranolol, nicardipin. Khi giảm chuyển hóa ở gan tức sự thải trừ thuốc giảm, đòi

hỏi phải giảm liều dùng, nếu dùng liều thông thường có khi là có hại do tác dụng

dược lý của thuốc tăng lên.

Khi chức năng bài tiết của thận giảm đi có thể làm tăng tính nhạy cảm với thuốc.

Các thuốc như thuốc phiện, thuốc an thần nhóm benzodiazepin, thuốc ngủ

barbiturat, phenothiazin đều tăng tác dụng đối với hệ thần kinh trung ương ở người

mà chức năng thận thận giảm so với người chức năng thận bình thường. Nguyên

nhân chưa rõ nhưng cũng có thể do tăng tính thấm của hàng rào máu – não. Các

thuốc hạ huyết áp cũng thường gây hạ huyết áp tư thế nhiều hơn ở người suy thận,

có thể là do thay đổi cân bằng natri trong máu.

Trong trường hợp “thận hại thuốc” kể ở trên hay “thuốc hại thận” kể sau này, phải

điều chỉnh liều dùng thuốc để an toàn cho người bệnh. Đối với nhiều loại thuốc

mà tác dụng phụ chỉ liên quan rất ít hoặc không liên quan đến liều dùng thì thường

không phải tính liều điều chỉnh một cách thật chính xác khi chức năng thận suy

giảm mà chỉ cần một phác đồ giảm liều đơn giản. Đối với các thuốc độc hại hơn,

có khoảng an toàn hẹp thì khi thận suy phải điều chỉnh liều dựa vào mức lọc cầu

thận. Tổng liều duy trì hàng ngày của mỗi thuốc có thể giảm xuống bằng cách hạ

thấp liều dùng hàng ngày hoặc kéo dài khoảng cách giữa các liều (nhịp cho thuốc

trong ngày thưa hơn). Trong bệnh viện, giới chuyên môn phải tính toán rất kỹ để

điều chỉnh liều thuốc ở người có chức năng thận suy giảm. Trong quá trình điều trị

phải thăm dò liều cẩn thận, dựa trên đáp ứng lâm sàng và định lượng nồng độ

thuốc trong huyết tương.