Lời Nói Đầu

GDP là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhất, phản ánh kết quả hoạt động sản xuất của

một quốc gia, là thước đo đánh giá hiệu qủa sản xuất xã hội không những của toàn

bộ nền kinh tế mà còn của từng ngành sản xuất thực hiện trên lãnh thổ kinh tế quốc

gia đó. Qua chỉ tiêu GDP người ta đánh giá được mức tăng trưởng kinh tế, thực

trạng của nền kinh tế. GDP còn là cơ sở giúp các tổ chức hiểu rõ hơn về nền kinh tế

cuả một quốc gia, so sánh kết quả sản xuất xã hội, mức sống, sự giàu nghèo... của

quốc gia đó với các quốc gia khác, các nước khác trong khu vực. Nó còn làm cơ sở

cho các nhà doanh nghiệp nghiên cứu, xem xét thực tế hoạt động, kết quả các

ngành, hiệu quả sử dụng vốn để từ đó có chính sách đầu tư thích hợp, thực hiện liên

kết, liên doanh trong việc lập ngành nghề mới trên lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó.

Không những thế, GDP còn gíp cho các nhàd nghiên cứu kinh tế tầm vĩ mô xem xét

thực trạng nền kinh tế nước nhà, từ đó đề ra các chính sách chiến lược kinh tế (ngắn

hạn, dài hạn) cho quốc gia, cho vùng, lãnh thổ, cho địa phương. GDP ngoài tính cho

một quốc gia còn được tính cho khu vực, thành phố, tỉnh hoặc vùng lãnh thổ trong

một quốc gia.

Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của chỉ tiêu GDP và tình hình thực tế tại thị xã Tam

Kỳ, là nơi vừa xảy ra một sự kiện lớn. Năm 1997, tỉnh Quãng Nam được tái lập,

Tam Kỳ trở thành thị xã tỉnh lỵ của Quãng Nam, chắc chắn sẽ đạt được nhiều thành

tựu, cũng như những bước thay đổi lớn trong phát triển kinh tế. Do đó em đã mạnh

dạn chọn đề tài : “Nghiên cứu biến động GDP của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000

- 2002 “

Kết cấu của đề tài được chia làm 3 phần chính :

Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tế của đề tài

Chương 2 : Phân tích biến động GDP của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002

Chương 3 : Kết luận và kiến nghị

Vì trình độ bản thân còn hạn chế, hơn nữa thời gian nghiên cứu và xâm nhập thực tế

cũng hạn chế. Do đó không tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự thông cảm

và đóng góp ý kiến. Xin chân thành cảm ơn.

Sinh viên thực hiện

Bùi Thị Hoài Thuỷ

Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tế của đề tài

1.1 Cơ sở lý luận của đề tài

1.1.1 Những tiền đề cơ bản xác định chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

1.1.1.1Thế nào là hoạt động sản xuất

Quan niệm thế nào là sản xuất; những hoạt động nào, những yếu tố nào được coi là

tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải cho xã hội. Đây là một trong những tiền

đề cơ bản xác định chỉ tiêu tổng sản phẩm nội địa (GDP).

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, đã có nhiều nhà kinh tế chính trị thuộc

trường phái này, hoặc trường phái khác cùng với điều kiện lịch sử kinh tế của đất

nước trong các thời kỳ đó đã đưa ra những khái niệm về sản xuất và nguồn gốc tạo

ra của cải xã hội. Ngày nay, trong bối cảnh mới của hoạt động kinh tế xã hội, vấn đề

trên được quan niệm như thế nào ?

- Nhà kinh tế Irving Sirken đã khái quát về hoạt động sản xuất : "Là quá trình

chuyển hoá các đầu vào bao gồm hàng hoá và dịch vụ, thành các đầu ra (sản lượng)

có ích hơn các đầu vào... Sảnphẩm của các đơn vị sản xuất có thể là hữu hình như

hàng hoá được sản xuất ra ở các nông trại và nhà máy,nhưng cũng có thể là vô hình,

những cái mà chúng ta gọi là dịch vụ do các cửa hàng sữa chữa, trạm phát điện,cửa

hàng bán lẻ, trường học, bệnh viện... sản xuất ra".

- Theo Tiến sĩ Vũ Quang Việt, cố vấn dự án " Thực hiện hệ thống TKQG ở Việt

Nam " (VIE 88.032) thì phạm trù sản xuất là những hoạt động sản xuất ra hàng hoá

và dịch vụ mà có thể giao cho người khác hoặc một đơn vị khác làm thay được.Ăn,

ngủ không thuộc phạm trù sản xuất vì không thể giao cho người khác làm thay

được.

- Có định nghĩa về sản xuất như sau : Sản xuất là mọi hoat động của con người,

với tư cách là các nhân, hay một tổ chức bằng năng lực quản lý của mình, cùng với

các yếu tố về đất và vốn (tư bản) sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ

hữu ích và có hiệu quả cao nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng để phục vụ cho nhu cầu

sử dụng cuối cùng cho đời sống sinh hoạt dân cư và xã hội, xuất khẩu ra nước

ngoài, cho tích luỹ để mở rộng sản xuất và đời sống ... Quá trình trên tồn tại và vận

động khách quan không ngừng được lặp đi, lặp lại trong năm.

Như vậy, quá trình hoạt động sản xuất có các đặc trưng chung sau :

Là hoạt động có mục đích, có thể làm thay được của con người.

Bao gồm cả hoạt động sản xuất sản phẩm vật chất và hoạt động sản xuất sản phẩm

dịch vụ, nhằm thoả mãn không chỉ yêu cầu cá nhân mà cả nhu cầu chung toàn xã

hội.

Toàn bộ sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra có thể đem bán

trên thị trường và không đem bán trên thị trường.

Tuy nhiên, tuỳ điều kiện và quy định của từng quốc gia, trong một số trường hợp

hoạt động của con người không được coi là hoạt động sản xuất :

Những hoạt động tự phục vụ cho mìnhkhông tạo ra thu nhập như : ăn uống, tắm

rửa, tự sửa chữa đồ dùnh trong gia đình;

Những hoạt động nội trợ khác của hộ gia đình dân cư;

Những hoạt động sản xuất và dịch vụ quốc cấm : buôn lậu, buôn ma tuý, hoạt động

mê tín dị đoan, chơi hụi, đánh bạc...

1.1.1.2. Lãnh thổ kinh tế :

Lãnh thổ kinh tế của một quốc gia là lãnh thổ địa lý của quốc gia đó, không kể

phần địa giới các sứ quán, lãnh sự quán, khu vực quân sự, cơ quan làm việc của các

tổ chức quốc tế... mà các quốc gia khác, các tổ chức liên hợp quốc, các tổ chức phi

chính phủ ... thuê và hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đó và được tính thêm phần địa

giới các tổ chức tương ứng của quốc gia đó thuê và hoạt động trên lãnh thổ địa lý

của quốc gia khác.

Nói một cách cụ thể lãnh thổ kinh tế của một quốc gia bao gồm :

- Lãnh thổ địa lý bao gồm : Đất liền, hải đảo, vùng trời, vùng biển thuộc quốc

gia, trừ phần địa giới các sứ quán, lãnh sự quán, khu vực quân sự, cơ quan làm việc

của các tổ chức quốc tế... mà các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế thuê và hoạt

động trên lãnh thổ địa lý của quốc gia đó.

- Vùng trời, mặt nước, vùng đất nằm ở vùng biển quốc tế mà ở đó quốc gia

được hưởng các quyền đặc biệt về mặt pháp lý như khai thác hải sản, khoáng sản,

dầu khí...

- Vùng lãnh thổ nằm ở nước khác được chính phủ thuê và hoạt động vì mục

đích ngoại giao, quân sự, khoa học ... như các sứ quán, lãnh sự quán, các căn cứ

quân sự, trạm nghiên cứu khoa học ...

1.1.1.3 Đơn vị thường trú:

Một tổ chức hay cá nhân đuợc gọi là đơn vị thường trú trên lãnh thổ kinh tế của một

quốc gia nếu tổ chức, cá nhân đó thuộc quốc gia sở tại hay nước ngoài có kế hoạch

cam kết hoạt động lâu dài(trên 1 năm) và chịu mọi sự kiểm soát về pháp luật của

quốc gia đó.

Ví dụ: Hãng Điện tử Samsung của Cộng hoà Hàn quốc đang hoạt động ở Việt Nam

trong nhiều năm nay là đơn vị thường trú trên lãnh thổ Việt Nam.

Xí nghiệp xây dựng cầu đường Z của Việt Nam sang hoạt động ở nước bạn-Lào từ

năm 1991 đến nay là đơn vị thường trú của lãnh thổ kinh tế Lào.

Theo khái niệm đó, đơn vị thường trú trên lãnh thổ kinh tế của một quốc gia bao

gồm :

- Các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế thuộc tát

cả các hình thức sở hữu : Nhà nước, tập thể, tư nhân, hổn hợp, cá thể ... của quốc

gia hoạt động trên lãnh thổ địa lý của quốc gia.

Các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế của nước -

ngoàiđầu tư trực tiếp, hợp tác liên doanh quốc gia với thời gian trên 1 năm.

Các tổ chức hoặc tư nhân của quốc gia đó đi công tác, làm việc ở nước -

ngoài, kể cả học sinh đi du học ở nước ngoài trên một năm.

Các đại sứ quán, lãnh sự quán, đại diện quóc phòng, an ninh làm việc ở nước -

ngoài.

Ngược lại, một tổ chức hay cá nhân được coi là không thường trú trên lãnh thổ kinh

tế của một quốc gia nếu tổ chức, cá nhân đó đến quốc gia sở tại làm việc, học tập,

nghiên cứu, tham quan ... dưới thời gian một năm.

1.1.1.4 Phân ngành Kinh Tế Quốc Dân

Nền kinh tế quốc dân : là toàn bộ các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế có chức

năng hoạt động khác nhau, tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhau được hình

thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

Phân ngành kinh tế quốc dân là sự phân chia nền kinh tế quốc dân thành các tổ

khác nhau (gọi là các ngành kinh tế quốc dân) dựa trên cơ sở vị trí, chức năng hoạt

động của các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế trong hệ thống phân công lao động

xã hội.

Trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nền kinh tế quốc dân được phân chia

thành 17 ngành (hoạt động) cấp I thuộc 3 nhóm (khu vực) lớn khác nhau theo quy

trình và hình thức hoạt động tự nhiên. Cụ thể :

- Nhóm I được gọi là nhóm ngành khai thác bao gồm các ngành khai thác thuỷ

sản từ tự nhiên, như nông nghiệp và lâm nghiệp, thuỷ sản, khai thác mỏ.

- Nhóm II được gọi là nhòm ngành chế biến, bao gồm các ngành chế biến sản

phẩmkhai thác từ tự nhiên như công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện,khí

đốt và nước, xây dựng.

- Nhóm III được gọi là nhóm ngành dịch vụ, bao gồm các ngành sản xuất ra

sản phẩm dịch vụ (dịch vụ sản xuất và dịch vụ không sản xuất) như thương nghiệp,

vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo ...

Ở Việt Nam dựa vào bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh tế

(ISIC) của hệ thông tài khoản quốc gia (SNA), ngày 27/10/93 Chính phủ đã ra Nghị

định số 75CP ban hành hệ thống ngành kinh té quốc dân gồm 20 ngành cấp I như

sau :

1. Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp,

2. Ngành thuỷ sản,

3. Nhành công nghiệp khai thác mỏ,

4. Ngành công nghiệp chế biến,

5. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước,

6. Ngành xây dựng,

7. Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ,mô tô,xe máy, đồ dùng cá nhân

và gia đình,

8. Ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc,

9. Ngành khách sạn, nhà hàng,

10. Ngành tài chính, tín dụng,

11. Ngành hoạt động khoa học và công nghệ,

12. Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn,

13. Ngành quản lý nhà nướcvà an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc,

14. Ngành giáo dục và đào tạo,

15. Ngành y tế và hoạt động cứu trợ xã hội,

16. Hoạt động văn hoá và thể thao,

17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội,

18. Ngành hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng,

19. Ngành hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân,

20. Ngành hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.

1.1.1.5 Vấn đề giá cả :

Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong hệ thống tài khoản quốc gia được tính theo 2

loại giá : giá thực tế và giá so sánh năm gốc.

• Giá thực tế :

Giá thực tế là giá phát sinh trong quá trình giao dịch của năm báo cáo. Giá thực tế

phản ánh sự vận động thống nhất của giá trị sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong sản

xuất - kinh doanh, trong quá trình lưu thông, phân phối và sử dụng cuối cùng với sự

vận động tiền tệ, tài chính, thanh toán. Qua đó giúp ta nhận thức đúng đắn thực tiễn

khách quan về cơ cấu kinh tế, mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong sản xuất, mối

quan hệ phân phối thu nhập, mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với phần huy động

vào ngân sách ... trong từng năm.

Giá thực tế báo cáo trong SNA là giá thị trường, tức là giá xuất hiện trên thị trường,

giá theo đó người bán sản phẩm và người mua mua sản phẩm trên thị trường, bao

gồm giá cơ bản, giá sản xuất và giá sử dụng cuối cùng theo phạm vi tính và nội

dung kinh tế của từng loại giá.

Giá cơ bản (giá bán buôn xí nghiệp trước đây) = Chi phí sản xuất +

Lợi nhuận xí nghiệp

Giá sản xuất = Giá cơ bản + Thuế sản xuất và thuế hàng hoá (đã trừ các

khoản trợ giúp của Nhà nước)

Giá sử dụng = Giá sản xuất + Chi phí lưu thông

(thương nghiệp và vận tải)

Mối quan hệ giữa các loại giá như sau :

Chi phí sản xuất Lợi nhuận xí nghiệp

Giá cơ bản Thuế sản xuất và hàng hoá

Giá sản xuất Chi phí lưu thông

Giá sử dụng

Căn cứ mục đích nghiên cứu mà tính theo loại giá thích hợp.

• Giá so sánh năm gốc :

Giá so sánh năm gốc là lấy giá sản xuất thực tế của một năm nào đó, trên cơ sở đó

tính đổi các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của các năm khác theo giá năm gốc, nhằm loại

trừ sự ảnh hưởng của yếu tố giá trong mỗi năm để nghiên cứu sự thay đổi thuần về

khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.

Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, năm được chọn làm gốc để tính giá so sánh có

thể là năm trước hoặc năm sau năm báo cáo. Trong thực tế thường chọn năm trước

năm đầu của 5 năm kế hoạch. Ví dụ, thời kỳ kế hoạch 1990 -1995 chọn giá sản xuất

thực tế năm 1989 làm gốc; thời kỳ kế hoạch 1995 - 2000 chọn giá sản xuất thực tế

năm 1994 làm gốc. Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp theo giá năm

gốc.

Ngoài ra, kết quả sản xuất còn được tính theo giá cố định. Giá cố định là loại giá so

sánh đặc biệt, do nhà nước tính toán, ban hành và thường được cố định trong một

thời kỳ dài.

1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của tổng sản phẩm quốc nội

1.1.2.1. Khái niệm

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) là toàn bộ sản phẩm vật

chất và dịch vụ do tất cả các ngành kinh tế mới sáng tạo ra trong từng thời kỳ. Là

một bộ phận của giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí trung gian. Đó là bộ

phận giá trị mới do lao động sản xuất tạo ra và khấu hao TSCĐ trong một thời kỳ

nhất định ( thường là một năm ).

Hay nói cách khác, tổng sản phẩm quốc nội bằng tổng giá trị tăng thêm của tất cả

các ngànhvà thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân tạo ra trong một thời kỳ

nhất định.

Giá trị tăng thêm (VA - Value Added) và tổng sản phẩm quốc nội giống nhau về nội

dung (các yếu tố giá trị hợp thành C1+ V + M ) nhưng khác nhau về phạm vi tính

toán. C1 + V + M của các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân được gọi là giá trị

tăng thêm (VA), C1 +V + M của toàn bộ nền KTQD được gọi là tổng sản phẩm

quốc nội (GDP).

Quy mô tổng sản phẩm quốc nội là chỉ tiêu tuyệt đối thời kỳ, được tính theo đơn vị

giá trị (theo giá hiện hành, so sánh và cố định).

1.1.2.2 Ý nghĩa

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan

trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các ngành, thành

phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định( thường là

một năm ). Đó là nguồn gốc mọi khoản thu nhập, nguồn gốc sự giàu có và phồn

vinh của xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của tái sản xuất theo chiều sâu mà

cả hiệu quả tái sản xuất theo chiều rộng, là một trong những cơ sở quan trọng để

tính các chỉ tiêu kinh tế khác.

Tổng sản phẩm quốc nội là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá sự tăng

trưởng kinh tế của một quốc gia, nghiên cứu khả năng tích luỹ, huy động vốn, tính

toán các chỉ tiêu đánh giá mức sống dân cư, so sánh quốc tế, xác định trách nhiệm

của mỗi nước đối với các tổ chức quốc tế...

1.1.2.3 Cơ cấu tổng sản phẩmquốc nội

Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội có thể được nghiên cứu theo các tiêu thức :

Ngành, vùng, thành phần kinh tế nhằm chỉ rõ vai trò của từng ngành, vùng, -

thành phần kinh tế trong việc tạo ra tổng sản phẩm quốc nội.

Yếu tố cấu thành giá trị : Toàn bộ tổng sản phẩm quốc nội gồm : C1, V, M. -

Loại thu nhập : Toàn bộ tổng sản phẩm quốc nội chia ra thu nhập của các hộ -

(người lao động), thu nhập của các doanh nghiệp và của nhà nước.

Theo mục đích sử dụng -

Xét theo quan điểm vật chất, tổng sản phẩm quốc nội bao gồm : tiêu dùng cuối

cùng vủa cá nhân và xã hội, tích luỹ, xuất khẩu hàng hoá thuần.

Xét theo quan điểm tài chính, tổng sản phẩm quốc nội bao gồm : chi cho tiêu

dùng cuối cùng của hộ và chính phủ, tiết kiệm, số dư quan hệ kinh tế với nước

ngoài.

1.1.3 Nguyên tắc tính tổng sản phẩm quốc nội

Là một bộ phận của tống giá trị sản xuất, tổng sản phẩm quốc nội được tính theo

nguyên tắc sau :

Nguyên tắc thường trú (hay theo lãnh thổ kinh tế ) : Chỉ được tính vào GDP -

kết quả sản xuất của các đơn vị thường trú.

Tính theo thời điểm sản xuất : Kết quả sản xuất của thời kỳ nào được tính -

vào GDP của thời kỳ đó.

- Tính theo giá thị trường

Các nguyên tắc trên cần được quán triệt khi tính toán, phân tích các chỉ tiêu thuộc

GDP phù hợp với các đặc điểm cụ thể của chúng.

1.1.4 Các phương pháp tính tổng sản phẩm quốc nội

Là một chỉ tiêu biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất, GDP vận động trải qua ba

giai đoạn : được sản xuất ra trong các ngành sản xuất, được phân phối để hình thành

các khoản thu nhập, được đem sử dụng để thoả mãn các nhu cầu của cá nhân và xã

hội. Tương ứng với ba giai đoạn vận động của nó có ba phương pháp tính tổng sản

phẩm quốc nội (phương pháp sản xuất, phương pháp phân phối và phương pháp sử

dụng cuối cùng).

Tổng sản phẩm quốc nội thường được tính theo ba phương pháp theo quá trình vận

động từ sản xuất - phân phối đến sử dụng.

1.1.4.1 Phương pháp sản xuất

1.1.4.1.1 Công thức tổng quát :

Tổng sản phẩm quốc nội = Tổng giá trị sản xuất - Chi phí trung gian

GDP = GO - IC

• Tổng giá trị sản xuất là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh

tế theo từng kỳ : quý, 6 tháng, năm. Chỉ tiêu này được xác định bằng tổng giá trị sản

xuất của từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế.

Tổng giá trị sản xuất bao gồm toàn bộ các yếu tố : Chi phí trung gian và giá trụ mới

tăng thêm, tổng giá trị sản xuất đã sản xuất ra trong kỳ được sử dụng cho nhu cầu

sản xuất, cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và xã hội (Nhà nước), cho tích luỹ

tài sản và xuất khẩu ra nước ngoài.

Như vậy, tổng giá trị của toàn bộ nền kinh tế đã tính trùng giữa các thành phần chi

phí trung gian. Ví dụ : giá trị sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra đã tính vào giá trị

sản xuất ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp chế biến lương thực lại tính một

lần nữa sản phẩm nông nghiệp đã sử dụng cho sản xuất trong ngành này. Giá trị sản

phẩm vật liệu xây dựng đã tính vào giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến.

Ngành xây dựng sử dụng sản phẩm trên vào xây dựng các công trình nên trong giá

trị sản xuất ngành xây dựng lại tính thêm một lần nữa giá trị sản phẩm của ngành

công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng...

Sự tính trùng trong chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất phụ thuộc vào mức độ chi tiết của

phân ngành kinh tế quốc dân. Phân ngành kinh tế càng chi tiết, mức độ tính trùng

của chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất càng lớn.

•Chi phí trung gian là bộ phận cấu thành tổng giá trị sản xuất bao gồm những

chi phí vật chất và dịch vụ cho sản xuất (không kể khấu hao). Đó là chi phí sản

phẩm các ngành khác nhau để sản xuất sản phẩm của một ngành nào đó.

Chi phí trung gian bao gồm :

Chi phí vật chất

Nguyên vật liệu chính, phụ -

Bán thành phẩm -

Nhiên liệu -

Động lực -

Giá trị công cụ lao động là vật rẻ tiền mau hỏng được phân bổ trong năm, -

quần áo, dụng cụ bảo hộ lao động dùng trong thời gian làm việc.

Sửa chữa nhỏ nhà xưởng, máy móc -

Thiệt hại tài sản lưu động trong định mức -

Chi phí vật chất khác -

Chi phí dịch vụ

Cước vận tải, bưu điện -

Chi phí tuyên truyền, quảng cáo ; -

Phí dịch vụ trả ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm ; -

Công tác phí ( không kể phụ cấp đi đường,lưu trú ); -

- Chi phí đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, chuyên gia

- Chi phí bảo vệ, vệ sinh môi trường ;

- Chi phí dịch vụ pháp lý ;

- Chi phí phòng cháy chửa cháy ;

- Chi nhà trẻ, mẫu giáo;

- Chi thường xuyên về y tế, văn hoá, thể dục thể thao

- Chi tiếp khách

- Dịch vụ khác

Cần lưu ý là, chi phí trung gian là một bộ phận của giá trị sản xuất. Trong cấu thành

chi phí trung gian không có chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí thù lao lao động.

Chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và chi phí trung gian là VA, còn chênh lệch

giữa doanh thu và chi phí sản xuất là lợi nhuận. Trong chi phí trung gian còn bao

gồm những khoản chi phí trước đây không được tính vào chi phí sản xuất như chi

phí cho nghỉ mát, điều dưỡng ... do doanh nghiệp trả. Các hoạch toán như vậy cho

phép tính đầy đủ chi phí mà doanh nghiệp đã thực tế bỏ ra và xác định chính xác

hơn hiệu quả chi phí.

Cần phân biệt hai phạm trù, hai chỉ tiêu khác nhau có liên quan với nhau : chi phí

trung gian và tiêu dùng trung gian.

Xét về nội dung : Khái niệm và nội dung chi phí trung gian đã được trình bày ở

trên, còn tiêu dùng trung gian là tiêu dùng cho sản xuất. Nói chi phí trung gian tức

là nói để sản xuất sản phẩm một ngành cần chi phí bao nhiêu sản phẩm các ngành.

Nói tiêu dùng trung gían là nói trong số sản phẩm được sản xuất ra của một ngành,

có bao nhiêu sản phẩm được dùng làm tư liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm các

ngành.

Xét về quy mô : Trong phạm vi từng ngành, chi phí trung gian thường khác tiêu

dùng trung gian. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổng chi phí trung

gian bằng tổng tiêu dùng trung gian.

Xét về tác dụng : Chi phí trung gian là cơ sở tính giá trị tăng thêm. Xét chi phí

trung gian là xét sản xuất theo quan điểm tài chính. Tiêu dùng trung gian liên quan

đến chỉ tiêu tiêu dùng cuối cùng và sử dụng cuối cùng, xét tiêu dùng trung gian là

xét sản xuấ theo quan điểm vật chất.

Chi phí trung gian được tính theo nguyên tắc :

- Chỉ những yếu tố nào đã được tính vào tổng giá trị sản xuất mới được tính

vào chi phí trung gian.

- Giá tính chi phí trung gian là giá sử dụng khi tính giá trị sản xuất của các yếu

tố thuộc chi phí trung gian.

1.1.4.1.2 Xác định tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo phương pháp sản xuất

Xác định tổng sản phẩm quốc nội theo phương pháp sản xuất là xác định trực tiếp từ

người sản xuất thông qua các yếu tố chi phí và doanh thu đạt được trong kỳ nghiên

cứu ( thường là một năm)

Công thức tổng quát :

Tổng sản phẩm quốc nội = Tổng giá trị sản xuất của các ngành KT -

Tổng chi phí trung gian của các ngành

(TSPQN) (TGTSX) (CPTG)

GDP = VA = ( GO - IC ) = GO - IC

Như trên đã nói, trong phạm vi toàn bọ nền KTQD, tổng chi phí trung gian bằng

tổng tiêu dùng trung gian. Do vậy, còn có công thức tính GDP như sau :

Tổng sản phẩm quốc nội = Tông giá trị sản xuất của các ngành KT -

Tổng tiêu dùng trung gian SP của các ngành

(TSPQN) (TGTSX) (TDTG)

Công thức này không dùng được khi tính giá trị tăng thêm các ngành, các đơn vị, vì

trong phạm vi từng ngành,chi phí trung gian thường không bằng tiêu dùng trung

gian.

Như trên đã nói, GDP là nguồn gốc mọi khoản thu nhập. Khi tổng hợp giá trị tăng

thêm (C1 + V + M ) các ngành để có (C1 + V + M) của toàn bộ nền KTQD (GDP)

chưa tính đến thu nhập từ thuế nhập khẩu nên trong thực tế GDP được tính theo

công thức :

GDP = Tổng giá trị sản xuất của các ngành KT - Tổng chi phí trung

gian các ngành + Tổng thuế nhập khẩu sản phẩm vật chất và dịch vụ

GOi - ICi + Ti

= Tổng giá trị tăng thêm + Tổng thuế nhập khẩu sản phẩm vật chất và dịch

vụ

= ( C1i + V1 + Mi ) + Ti

Trong đó :

GOi : Tổng giá trị sản xuất ngành i

ICi : Chi phí trung gian của ngành i

( C1i + V1 + Mi ) : Giá trị tăng thêm ngành i

Ti : Tổng thuế nhập khẩu sản phẩm vật chất và dịch vụ

1.1.4.2 Phương pháp phân phối :

Tổng sản phẩm quốc nội bao gồm các yếu tố sau :

- Thu nhập từ sản xuất (SX) của người sản xuất

+ Tiền lương, tiền trả công lao động

+ Trích bảo hiểm xã hội trả thay lương

+ Thu nhập khác từ sản xuất

- Thuế sản xuất (không bao gồm thuế lợi tức, thuế thu nhập và các lệ phí khác

không coi là thuế sản xuất)

- Khấu hao tài sản cố định

- Giá trị thặng dư

- Thu nhập hỗn hợp từ sản xuất

Nếu chỉ tiêu Tổng giá trị sản xuất bị tính trùng giữa các ngành và thành phần kinh tế

thì Tổng sản phẩm quốc nội không bị tính trùng trong từng ngành, từng thành phần

kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Thuế sản xuất bao gồm :

+ Thuế doanh thu hoặc VAT

+ Thuế tiêu thụ đặc biệt

+ Thuế xuất khẩu

+ Thuế nhập khẩu

+ Thuế vốn

+ Thuế tài nguyên : đất, rừng, hầm mỏ

+ Thuế môn bài

+ Các lệ phí khác coi như thuế sản xuất

- Giá trị thặng dư là phần còn lại của giá trị sản xuất sau khi trừ đi phần trả thù

lao cho người sản xuất, nộp thuế sản xuất cho nhà nước, khấu hao TSCĐ. Trong đó

bao gồm : trả lợi tức kinh doanh cho bên ngoài; trả lãi tiền vay (sau khi trừ đi dịch

vụ tiền vay đã tính vào chi phí trung gian); trả lợi tức thuê đất, tài nguyên, vùng trời,

vùng biển; lợi tức nộp cấp trên; thuế lợi tức, thuế thu nhâp của doanh nghiệp; lợi tức

thuần từ hoạt động kinh doanh còn lại của doanh nghiệp.

- Thu nhập hỗn hợp bao gồm phần thu nhập của người sản xuất và lợi tức kinh

doanh. Chỉ tiêu này thường được tính đối với thành phần kinh tế cá thể, sản xuất

của hộ gia đình, hoạt động của khu vực kinh tế không chính quy (Informal sector).

Phương pháp phân phối cũng được tính cho từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế

rồi tổng hợp cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

1.1.4.3 Phương pháp sử dụng cuối cùng :

Tổng sản phẩm quốc nội được tính theo phương pháp này trên phạm vi toàn bộ nền

kinh tế theo công thức sau :

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) = Tiêu dùng cuối cùng của dân cư, hộ gia

đình và xã hội (nhà nước) + Tích luỹ tài sản (TSCĐ, TSLĐ) + Xuất

khẩu hàng hoá và dịch vụ (giá FOB) - Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ

(giá FOB)

- Tiêu dùng cuối cùng (TDCC) của hộ gia đình là toàn bộ giá trị sản phẩm vật

chất và dịch vụ hộ gia đình (cá nhân) đã sử dụng phục vụ cuộc sống thường nhật .

TDCC của hộ gia đình bao gồm TDCC từ thu nhập cuối cùng của hộ gia đình và

TDCC được hưởng không phải trả tiền từ các tổ chức dịch vụ nhà nước và từ các

đơn vị không vì lợi phục vụ trực tiếp cho hộ gia đình.

- TDCC của Nhà nước là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ Nhà

nước đã sử dụng để chi tiêu cho các nhu cầu thường xuyên của Nhà nước về quản lý

Nhà nước, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc...

- Tích luỹ TSCĐ bao gồm : tích luỹ mới và sữa chửa lớn TSCĐ hữu hình ; tích

luỹ TSCĐ vô hình; chi phí đầu tư làm tăng giá trị TSVĐ hữu hình không phải là kết

quả sản xuất ; tích luỹ tài sản thuê tài chính...

- Tích luỹ tài sản lưu động bao gồm : nguyên, nhiên, vật liệu dự trữ cho sản

xuất; thành phẩm, bán thành phẩm tồn kho; sản phẩm dở dang.

- Xuất, nhập khẩu bao gồm toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ được mua

bán, trao đổi, chuyển nhượng ... giữa các đơn vị thường trú và không thường trú của

nền kinh tế quốc dân. Xuất nhập khẩu bao gồm xuất nhập khẩu tại chổ và xuất nhập

khẩu qua biên giới.

1.2 Đặc điểm tình hình thị xã Tam Kỳ

Năm 1997 tỉnh Quảng Nam được tái lập theo Nghị quyết Quốc hội kỳ họp thứ 10,

khoá VIII, Tam Kỳ trở thành thị xã tỉnh lỵ là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá

của tỉnh Quảng Nam.

Thị xã Tam Kỳ cách thành phố Đà Nẵng 70km về phía Bắc, cách khu công nghiệp

Dung Quất 40km về phía Nam, nằm trong vùng phát triển kinh tế Đà Nẵng - Dung

Quất, vùng trọng điểm phát triển kinh tế của miền Trung. Diện tích tự nhiên

343,72km2, có 21 đơn vị hành chính (gồm 8 phường và 13 thị xã), diện tích đất đô

thị 36km2 (3562 ha) chiếm 10,6% tổng diện tích, diện tích đất xây dựng đô thị

14,6km2 chiếm trên 40% diện tích đất đô thị. Dân số trung bình 172.378 người

(năm 2002), trong đó dân số thành thị 55.073 người, chiếm 31,94% tổng số dân.

Mật độ dân số bình quân toàn thị xã 502 người/km2.

Cùng với việc lãnh đạo phát triển kinh tế, trên lĩnh vực quy hoạch, đầu tư xây dựng

cơ sở hạ tầng đã được chú trọng : Công tác quy hoạch được tập trung, đã hoàn thành

quy hoạch khu nội thị, khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai), khu văn hoá du lịch

biển Tam Thanh, khu dân cư thương mại Bạch Đằng, hệ thống giao thông, mạng

lưới chợ nông thôn và nội thị, các khu dân cư mới. Đang xúc tiến quy hoạch và xử

lý rác thải, mạng lưới trường học, nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống thuỷ lợi, vùng

nguyên liệu.

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có bước khởi sắc đáng kể. Trong 6 năm đã đầu tư

trên địa bàn hơn 720 tỷ đồng. Trong đó, thị xã làm chủ đầu tư 176 tỷ đồng, chiếm

24,1%. Ngoài ra, còn huy động sự đóng góp trong dân với phương châm “Nhà nước

và nhân dân cùng làm”, “dân làm Nhà nước hỗ trợ” như : bê tông hoá giao thông

nông thôn, đường kiệt nội thị, kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi, lát vỉa hè, giải toả

xây dựng các công trình công cộng, mở rông đường Trần Cao Vân... sự đóng góp ấy

là to lớn, chưa thể thống kê hết.

Trong 6 năm qua, cơ bản hình thành cơ sở hạ tầng khu hành chính tỉnh lỵ. Nhiều

công trình đã đưa vào sử dụng như : trụ sở làm việc của các cơ quan Trung ương,

tỉnh, thị xã, các cơ sở phúc lợi xã hội như : Đài phát thanh truyền hình tỉnh, trung

tâm văn hoá thông tin tỉnh, bệnh viện Quảng Nam, bệnh viện y học dân tộc tỉnh,

Trung tâm thể thao, hạ tầng kinh tế kỹ thuật như : hệ thống tài chính - ngân hàng,

điện lực, bưu chính viễn thông khá hoàn chỉnh, góp phần đáng kể cho sự phát triển

đô thị. Các tuyến đường ngang, dọc khu hành chính tỉnh, đương Hùng Vương, cầu

Tam Kỳ 2, cầu Nguyễn Văn Trỗi.... các tuyến nội thị đã chỉnh trang nâng cấp trên

15km đường nhựa. Cùng với việc mở rông đô thị có 12 khu dân cư mới hình thành

với tổng kinh phí đầu tư trên 35 tỷ đồng. Hệ thống cấp nước sạch, điện chiếu sáng,

cảnh quan, môi trường sinh thái đô thị, hệ thống cây xanh vỉa hè, đường kiệt nội thị,

thu gom xử lý rác thải được đầu tư nâng cấp mở rộng và xây dựng mới.

Mặc dầu Tam Kỳ là một đô thị nhưng khu vực nông thôn có một vùng rông lớn,

chiếm hơn 2/3 diện tích và dân số toàn thị xã, lại là vùng còn nhiều khó khăn nhất, 6

năm qua đã tập trung gần 100 tỷ đồng, xây dựng mới, sữa chửa nhiều cầu cống và

các tuyến giao thông liên xã, liên thôn, hệ thống trạm xá được đầu tư tu sữa nâng

cấp, 9/13 xã được xây dựng trụ sở làm việc mới, nhiều trường học ở vùng lũ, ở

vùng trọng điểm được đầu tư tầng hoá. Bộ mặt nông thôn đã đổi thay, đời sống

nhân dân được tăng lên đáng kể, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị được rút

ngắn.

Trên lĩnh vực thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn

tăng bình quân hằng năm 10 %, đảm bảo được nhu cầu chi thường xuyên và giành

một phần cho đầu tư phát triển. Năm 2002 tổng chi ngân sách tăng gấp 4 lần so với

năm 1996 và cơ cấu chi đầu tư phát triển chiếm 44 % tổng chi.

Trong 6 năm qua, đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài trên 63 tỷ đồng. Trong đó dự án

điện OPEC trên 10 tỷ, dự án cơ sở hạ tầng nông thôn 10 tỷ, dự án nhà máy nước 30

tỷ và các nguồn viện trợ khác tăng 3 tỷ đồng (chưa kể các dự án do tỉnh, trung ương

làm chủ đầu tư), và hiện đang lập các dự án kêu gọi đầu tư khoảng 47 triệu USD.

Xuâït phát từ quan điểm “ Phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết tốt các vấn đề

VH - XH “, trong những năm qua, trên lĩnh vực văn hoá xã hội đã có nhiều cố gắng,

giải quyết tốt những những vấn đề bức xúc như đảm bảo cơ sở vật chất tối thiểu cho

dạy và học, đa dạng hoá các loại hình trường lớp ở các cấp học, bậc học. Khuyến

học, khuyến tài phát triển sâu rộng đến tận thôn tổ, tộc họ; từng bước chuẩn hoá

được đội ngũ; hoàn thành phổ cập tiểu học và xoá mù chữ, 8/20 xã, phường đã phổ

cập THCS trong độ tuổi. Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đã

được chú trọng, 20/20 trạm y tế xã, phường được nâng cấp, xây mới. Đội ngũ thầy

thuốc ngày được nâng cao về chất lượng, 60 % trạm xá xã, phường có bác sĩ.

Thựchiện có kết quả nhiều chương trình y tế quốc gia như TCMR, thanh tóan bệnh

phong ...

Trong định hướng phát triển kinh tế, thị xã tỉnh lỵ Tam Kỳ chuyển dịch theo hướng

công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch - nông nghiệp . Chính vì vậy, việc thu

hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với các chính sách ưu đãi để đầu tư phát

triển công nghiệp tại khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai), cụm công nghiệp

TTCN Trường Xuân, các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nội thị, ven đô

khác và khai thác tiềm năng du lịch tại hồ Phú Ninh, biển Tam Thanh, tháp Chiên

Đàn, địa đạo Kỳ Anh, nhà tưởng niệm cụ Phan Châu Trinh là nhiệm vụ trọng tâm

trong thời gian đến.

Khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai)

Nằm trên tuyến phát triển phía tây của thị xã Tam Kỳ, cách trung tâm thị xã tỉnh lỵ

2 Km, cách quốc lộ 1A một Km về phía tây và nhà ga Tam Kỳ 1 Km về phiá nam,

thuộc địa phận xã Tam Đàn. Tổng diện tích quy hoạch 225 ha, đất công nghiệp 110

ha, quy hoạch giai đoạn 150 ha.

Đây là một trong những khu công nghiệp tập trung các loại hình thuộc các ngành :

sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất

hàng gia dụng, may da giày xuất khẩu...

Thị xã Tam Kỳ khuyến khích vào khu công nghiệp Thuận Yên các ngành công

nghiệp như : sản xuất đồ gia dụng, dệt may, giày da xuất khẩu, cơ khí chế tạo, sản

xuất vật liệu xây dựng, bao bì đóng gói, công nghiệp hoá chất, đồ nhựa...

Cụm công nghiệp TTCN Trường Xuân

Có diện tích 10 ha, cách đường sắt Bắc nam 200 m và quốc lộ 1A một Km về phía

tây. Cụm công nghiệp TTCN Trường Xuân có các lợi thế : giao thông thuận tiện, cơ

sở hạ tầng sẳn có, giá đất thấp, ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hổ trợ một

phần lãi suất sau đầu tư, thủ tục giải quyết nhanh gọn...

Các ngành nghề khuyến khích đầu tư vào cụm công nghiệp TTCN Trường Xuân :

công nghiệp dệt may, giày da xuất khẩu, công nghiệp bao bì đóng gói, công nghiệp

sản xuất đồ gia dụng, công nghiệp cơ khí chế tạo, gia công vật liệu xây dựng, công

nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ hải sản.

Du lịch - dịch vụ

Du lịch dịch vụ trên địa bàn thị xã Tam Kỳ đang trên đà khởi sắc, tiềm năng sẽ

được khơi dậy khi các trục kinh tế Chu Lai - Dung Quất, các khu công nghiệp

Quãng Nam phát triển sôi động, nối liền với các tour du lịch đã và đang khai thác

như : Hội An - Mỹ Sơn - Cù Lao Chàm...Du lịch Tam Kỳ phát triển với 2 loại hình

chính : du lịch sinh thái và du lịch văn hoá.

Chương 2 :Phân tích biến động GDP thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002

2.1 Tình hình thực hiện kế hoạch GDP

2.1.1Tình hình thực hiện kế hoạch GDP năm 2000

Biểu 1 :

Nhóm ngành Kế hoạch Thực hiện % HTKH Số tuyệt đối

Nông, lâm, thuỷ sản 210391 224698 106.8 14307

Công nghiệp - xây dựng 140110 151599 108.2 11489

Dịch vụ 186735 206067 110.35 19332

TỔNG 537236 582364 108.4 45128

Nhìn chung, việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch GDP của thị xã năm 2000 là hoàn

thành, vượt mức kế hoạch đề ra là 8.4 % hay 45128 triệu đồng. Cụ thể, trong năm

2000, do hậu quả thiên tai để lại trong năm 1999 đã gây ảnh hưởng rất nhiều đến

tình hình sản xuất và đời sống người dân, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Trong

năm, khu vực kinh tế nông, lâm, thuỷ sản chỉ vượt mức kế hoạch 6.8 %. Ngoài ra,

thiên tai năm trước còn để lại ảnh hưởng rất lớn đến nguồn cung cấp nguyên vật liệu

cho hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, kết

quả thực hiện trong năm của khu vực kinh tế công nghiệp, xây dựng là 151559 triệu

đồng, đạt 108.2 % kế hoạch được giao. Khu vực kinh tế dịch vụ hoàn thành kế

hoạch với tỷ lệ khá cao, 10.35 %

2.1.2 Tình hình thực hiện kế hoạch GDP năm 2001

Biểu 2 :

Nhóm ngành Kế hoạch Thực hiện % HTKH Số tuyệt đối

Nông, lâm, thuỷ sản 215316 242016 112.4 11648

Công nghiệp - xây dựng 167661 181611 109.32 24450

Dịch vụ 192241 244171 111.1 19003

TỔNG 605218 667798 110.34 55101

So với kế hoạch đề ra thì trong năm, tổng sản phẩm trên địa bàn thị xã đã hoàn

thành vượt mức kế hoạch đề ra, đạt 110.34 %. Trong đó, năm 2001, thực hiện nghị

quyết 06/NQ-TW của BCH Trung ương khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Thị uỷ Tam Kỳ đã xây dựng đề án chú trọng

phát triển nông nghiệp - nông thôn. Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ,

cũng như việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ KHKT tiếp tục được đẩy mạnh.

Các đề án về phát triển kinh tế VAC và kinh tế trang trại đã bắt đầu có tác dụng.

Trong năm, khu vực kinh tế nông, lâm, thuỷ sản đạt giá trị 242016 triệu đồng, vượt

12.4 % kế hoạch được giao, cao hơn tỷ lệ hoàn thành chung của toàn thị xã là 10.34

%.

Tuy nhiên, cũng trong năm 2001, ngành công nghiệp cả nước nói chung , thị xã

Tam Kỳ nói riêng cũng đứng trước nhiều thử thách. Tình hình kinh tế thế giới có

những biến động làm thu hẹp thị trường xuất khẩu một loạt các ngành hàng công

nghiệp, trong đó nặng nhất là dệt, may, dày... Các mặt hàng hải sản, quế xuất khẩu

của Tam Kỳ... từng có lợi thế nhưng đã bị rớt giá, tiêu thụ rất khó khăn. Mặc dù vậy

nhưng ngành công nghiệp, xây dựng đã rất cố gắng hoàn thành được kế hoạch đặt ra

(109.32 %)

2.1.3 Tình hình thực hiện kế hoạch GDP năm 2002

Biểu 3 :

Nhóm ngành Kế hoạch Thực hiện % HTKH Số tuyệt đối

Nông, lâm, thuỷ sản 221175 253058 113.9 30882

Công nghiệp - xây dựng 183799 214126 116.5 30372

Dịch vụ 270515 311456 115.1 40941

TỔNG 676490 778640 115.1 102150

Sang năm 2002, rút kinh nghiệm từ các năm trước, năm nay được sự tập trung chỉ

đạo của các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện, đi sát với các chỉ tiêu đã

đề ra, kế hoạch thực hiện năm 2002 đã được đảm bảo rất tốt, vượt 15.1 % so với kế

hoạch. Tất cả các ngành đều vượt mức kế hoạch xuất sắc, cao hơn hai năm 2000,

2001. Nông, lâm, thuỷ sản đạt 113.9 %, công nghiệp xây dựng đạt 16.5 %, thương

mại dịch vụ đạt 15.1 %, lưu thông hàng hoá phát triển, thị trường được mở rộng,các

doanh nghiệp mạnh dạn mở rộng quy mô kinh doanh, đưa ra nhiều mặt hàng mới lạ,

đáp ứng tốt nhu cầu thị trường.

Như vậy, nhìn chung qua ba năm 2000 - 2002, các chỉ tiêu kế hoạch GDP thị xã đều

đạt và vượt kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước.

2.2 Phđn tích biến động GDP của thị xê qua câc năm

2.2.1 Tình hình biến động GDP của thị xê Tam Kỳ qua ba nă m 2000 - 2002 (theo

giâ năm 1994)

Sau 6 năm từ khi tâch tỉnh Quảng Nam – Đă Nẵng (năm 1997), Tam Kỳ trở thănh

thị xê tỉnh lỵ, quy mô nền kinh tế thị xê đê có những bước thay đổi đâng kể.Nếu

như năm 1997, khối lượng tổng sản phẩm xê hội (GDP) trín địa băn thị xê lă

311122 triệu đồng (giâ so sânh năm 1994) thì đến năm 2002, con số năy đê vượt lín

đến 539973 triệu đồng, tăng gần gấp 2 lần so với năm 1997. Để đi sđu hơn, chúng

ta hêy ngiín cứu tình hình biến động GDP của thị xê qua ba năm 2000 – 2002.

Biểu 4 :

CHỈ TIÍU Đvt NĂM

2000 2001 2002

GDP theo giâ 1994 trđồng 426553 479550 539973

Tốc độ tăng liín hoăn % 12.42 12.6

Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liín hoăn trđồng 52997 60423

Tốc độ tăng bình quđn % 12.5

Lượng tăng (giảm) bình quđn trđồng 56710

Qua ba năm 2000 – 2002, ta thấy tốc độ tăng trưởng GDP của thị xê tăng cả về

tuyệt đối lẫn tương đối. Nếu năm 2001, GDP tăng 12.42 % so với năm 2000 hay

tăng 52997 triệu đồng thì đến năm 2002, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 12.6 %, lăm

tăng 60423 triệu đồng. Sở dĩ có sự tăng trưởng cao như vậy lă do trong ba năm qua

đê có sự chuyển dịch hợp lý trong cơ cấu nền kinh tế của thị xê, tăng tỷ trọng câc

ngănh công nghiệp dịch vụ vă giảm dần tỷ trọng câc ngănh nông, lđm, thuỷ sản.

Đồng thời, việc thu hút nhiều dự ân đầu tư nhằm khai thâc nhiều tiềm năng có thế

mạnh của thị xê đê được đẩy mạnh.

2.2.2 Tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế

Biểu 5 :

Ngănh 2000 2001 2002 2001/2000 (%) 2002/2001 (%)

Nông, lđm, thuỷ sản 166745 173003 177847 3,75 2,8

Công nghiệp – Xđy dựng 102598 122430 142475 19,32 16,3

Dịch vụ 157210 184117 219651 17,11 19,3

Qua số liệu trín ta thấy qua 3 năm 2000 – 2002, tốc độ tăng trưởng của khu vực

nông, lđm, thuỷ sản thấp vă có xu hướng giảm dần, từ chổ tăng 3.75 % năm 2001

xuống còn 2.8 % năm 2002. Ngược lại, khu vực công nghiệp, xđy dựng, dịch vụ

tăng rất cao (16 – 19 %), tăng gấp 3 lần so với khu vực nông, lđm, thuỷ sản. Năm

2002, công nghiệp, xđy dựng tăng 16.3 %, trong đó xđy dựng tăng 17.4 %, công

nghiệp tăng 16.5 %, chủ yếu lă phât triển câc ngănh như chế biến thực phẩm, may

mặc, sản xuất sản phẩm từ kim loại…Câc ngănh dịch vụ tăng khâ vă đang có xu

hướng gia tăng, tăng 19.3 %, thị trường xê hội bước đầu phât triển,câc lĩnh vực văn

hoâ, giâo dục, y tế được ưu tiín đầu tư phât triển, ANQP, trật tự an toăn xê hội được

đảm bảo.

Như vậy, tốc độ tăng câc ngănh kinh tếcũng đê có sự chuyển dịch theo hướng tăng

câc ngănh, những sản phẩm có giâ trị vă hiệu quả kinh tế cao.

2.2.3 Tốc độ tăng trưởng của các thành phần kinh tế :

( Giâ so sânh 1994 )

Biểu 6

2000 2001 2002 2001/2000 2002/2001

Tổng số 426553 479550 539973 12.42 12.6

- Kinh tế nhă nước 176713 204407 236090 15.7 15.5

- Kinh tế ngoăi nhă nước 249841 257143 303883 10.13 10.4

+ Tập thể 27956 29801 31679 6.6 6.3

+ Tư nhđn 5726 7349 9782 28.34 33.1

+ Câ thể 213258 234143 257126 9.79 9.8

+ Hỗn hợp 2901 3849 5296 32.68 40.2

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của câc thănh phần kinh tế có sự khâc nhau. Khu vực

nhă nước tăng cao nhưng đê có xu hướng giảm, ổn định. Năm 2001 tăng 15.7 %,

năm 2002 tăng 15.5 %. Khu vực kinh tế ngoăi nhă nước có tốc độ tăng trưởng cao,

riíng kinh tế tư nhđn vă hỗn hợp tăng nhanh (kinh tế tư nhđn tăng 28.34 % năm

2001 vă tăng 33.1 % năm 2002, kinh tế hỗn hợp tăng từ 32.68 % năm 2001 lín 40.2

% năm 2002). Điều năy lý giải trong những năm gần đđy trín địa băn thị xê sau khi

có luật doanh nghiệp được nhă nước ban hănh, câc doanh nghiệp ngoăi nhă nước

trín địa băn phât triển nhanh vă có tốc độ tăng trưởng khâ. Hiện nay trín toăn thị xê

có 1325 cơ sở sản xuất, tăng 31 cơ sở so với năm 2001, trong đó công ty TNHH

tăng 11 cơ sở, DNTN, kinh tế câ thể tăng 15 cơ sở, DNNN tăng 5 cơ sở. Kinh tế tập

thể tốc độ tăng trưởng chậm vă giảm. Nguyín nhđn chủ yếu lă do hình thức kinh tế

năy dần dần kĩm hiệu quả vă ít được ưa chuộng.

2.2.4 Cơ cấu GDP theo ngănh kinh tế

Biểu 7 ĐVT : (%)

Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002

TỔNG SỐ 100 100 100

I Nông, lđm, thuỷ sản 38.58 36.24 32.5

II Công nghiệp – Xđy dựng 26.04 27.2 27.5

III Dịch vụ 35.38 36.56 40

1.Nông nghiệp 32.29 31.32 27.89

2.Lđm ngiệp 2.85 2.52 2.19

3.Thuỷ sản 2.45 2.40 2.42

4.Công nghiệp 16.62 17.12 17.35

5.Ngănh xđy dựng 9.41 10.07 10.15

6.Vận tải – Bưu điện 8.32 8.29 8.45

7.Thương mại 10.08 10.83 12.42

8.Khâch sạn – nhă hăng 1.62 1.75 2.176

9.Tăi chính tín dụng 4.77 4.73 4.82

10.Khoa học công nghệ 0.24 0.30 0.43

11.HĐ liín quan đến DVTV 0.21 0.25 0.27

12.Quản lý nhă nước 4.32 4.27 4.39

13.Giâo dục đăo tạo2.85 2.95 3.52

14.Y tế vă HĐ cứu trợ xê hội 1.71 1.81 2.01

15.Văn hoâ, TDTT 0.23 0.26 0.33

16.Hoạt động Đảng đoăn thể 0.36 0.38 0.39

17.Hiệp hội 0.03 0.03 0.034

18.Phục vụ câ nhđn cộng đồng 0.66 0.71 0.76

Từ kết quả tính toân ở biểu 7 níu trín ta có thể kết luận rằng :

Nếu xĩt GDP theo nhóm ngănh kinh tế cơ cấu GDP đang chuyển dịch theo hướng

giảm tỷ trọng câc ngănh nông, lđm, thuỷ sản, từ 38.58 % năm 2000, đến 36.24 %

năm 2001, vă chỉ còn 32.5 % năm 2002, tăng tỷ trọng câc ngănh công nghiệp, xđy

dựng, dịch vụ. Cụ thể, khu vực kinh tế công nghiệp, xđy dựng từ 26.24 % lín 27.2

%, lín 27.5 % lần lượt trong 3 năm 2000, 2001, 2002, khu vực dịch vụ tăng từ 35.38

% đến 36.56 % đến 40 % lần lượt trong 3 năm 2000, 2001, 2002. Nhìn chung cơ

cấu khu vực kinh tế CN – XD - dịch vụ tăng dần nhưng tốc độ chuyển dịch còn

chậm.

Nếu xĩt cơ cấu GDP theo ngănh thì nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, xđy

dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Năm 2000, giâ trị gia tăng của câc ngănh năy chiếm

69.4 %, năm 2001 chiếm 69.34 %,năm 2002 chiếm trín 67 %. Trong đó, ngănh

nông nghiệp tuy giảm nhanh song tỷ trọng chiếm vẫn còn lớn trong GDP. Sản xuất

nông nghiệp đê chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, phần lớn diện tích lúa được chuyển từ

sản xuất 3 vụ sang 2 vụ năm, đưa văo sản xuất câc loại giống mới, con vật nuôi có

giâ trị kinh tế cao. Kinh tế vườn, kinh tế trang trại đê hình thănh vă hoạt động bước

đầu có hiệu quả. Cơ cấu ngănh xđy dựng hăng năm đều tăng. Năm 2002 chiếm tỷ

trọng 10.15 % so với GDP toăn thị xê. Điều năy phù hợp với nhịp độ đầu tư của thị

xê tỉnh lỵ, song còn chậm so với yíu cầu.

Câc ngănh khâch sạn, nhă hăng, vận tải – bưu điện, tăi chính tín dụng, QLNN, câc

đơn vị hoạt động sự nghiệp y tế, văn hoâ, giâo dục. Toăn bộ khu vực kinh tế năy

chiếm xấp xĩ 22 % trong GDP năm 2002. Sau khi trở thănh thị xê tỉnh lỵ, câc ngănh

năy phât triển khâ. Năm 2002, giâ trị sản xuất của câc ngănh QLNN, y tế, văn hoâ,

giâo dục, KHCN tăng nhanh vă chiếm tỷ trọng lớn trong toăn tỉnh. Bín cạnh đó, câc

ngănh thương mại – KS nhă hăng, dịch vụ phât triển nhanh, năm 2002, giâ trị sản

xuất ngănh thương mại tăng 26.7 %, khâch sạn nhă hăng tăng 31.5 % so với năm

2001.ư2.2.5 Cơ cấu GDP theo thănh phần kinh tế

Theo kết quả điều tra, trín địa băn thị xê Tam kỳ hầu hết câc thănh phần kinh tế đều

có mặt vă đóng góp văo GDP của thị xê. Năm 2002, trong tổng giâ trị GDP lă

778640 triệu đồng, trong đó khu vực kinh tế nhă nước lă 340265 triệu đồng, chiếm

43.7 % trong GDP của thị xê. Khu vực kinh tế ngoăi nhă nước 438374 triệu đồng,

chiếm 56.3 %, chủ yếu lă kinh tế câ thể (47.6%), tập trung ở một số ngănh như nông

nghiệp, công nghiệp – TTCN vă thương mại. Tổng sản phẩm trín địa băn thị xê chỉ

do kinh tế trong nước tạo ra, không có kinh tế có vốn đầu tư nước ngoăi.

Biểu 8 ĐVT : (%)

Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002

Tổng số 100 100 100

- Kinh tế nhă nước 41.9 42.63 43.7

- Kinh tế ngoăi nhă nước 58.1 57.37 56.3

+ Tập thể 6.50 6.18 5.86

+ Tư nhđn 1.23 1.41 1.81

+ Câ thể 49.65 48.94 47.6

+ Hỗn hợp 0.72 0.84 0.98

Cơ cấu GDP trín địa băn thị xê theo thănh phần kinh tế qua 3 năm 2000 – 2002 có

sự chuyển biến. Kinh tế nhă nước tỷ trọng ngăy căng lớn vă giữ được vai trò chủ

đạo của nền kinh tế, chiếm trín 41 %. Kinh tế ngoăi nhă nước ngăy căng phât triển

trín mọi lĩnh vực, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế vă tập trung ở câc ngănh kinh

tế quan trong nông, lđm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp – TTCN, thương mại, khâch

sạn nhă hăng. Kinh tế câ thể chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực kinh tế thị xê, chiếm

trín 47 %, trong đó ngănh thương mại kinh tế câ thể chiếm tỷ trọng chủ yếu trong

GDP của ngănh. Tỷ trọng của khu vực kinh tế tập thể giảm đâng kể, từ 6.5 % năm

2000 xuống còn 5.86 % năm 2002. Kinh tế tư nhđn vă kinh tế hỗn hợp chiếm tỷ

trọng thấp, song xu hướng phât triển nhanh.

Tỷ trọng câc thănh phần kinh tế nhă nước, tư nhđn, câ thể, hỗn hợp trong GDP lă

hợp lý, phản ânh được thực trạng kinh tế, hiệu quả vă xu hướng phât triển kinh tế

của từng thănh phần kinh tế trín địa băn thị xê.

2.2.6 Cơ cấu GDP năm 2002 phđn theo loại hình kinh tế

Biểu 9 ĐVT : (%)

Tổng số Kinh tế nhă nước KT ngoăi nhă nước

Tổng số 100 43.7 56.3

Nông, lđm, thuỷ sản 32.5 1.6 30.9

Công nghiệp – Xđy dựng 27.5 14.2 13.3

Dịch vụ 40 27.9 12.1

Như vậy, tỷ trọng khu vực kinh tế nhă nước chiếm 43.7 % nhưng chủ yếu lă khu

vực dịch vụ, chiếm 27.9 %, khu vực nông, lđm nghiệp, thuỷ sản chỉ chiếm 1.6 %.

Khu vực kinh tế ngoăi nhă nước chiếm trín 50 %, trong đó nông lđm nghiệp thuỷ

sản đê chiếm 30.9 %, còn lại công nghiệp – xđy dựng vă dịch vụ (25.4 %). Tốc độ

chuyển dịch kinh tế phi nông nghiệp ngoăi nhă nước còn chậm.

2.2.7 Phđn tích biến động GDP do ảnh hưởng của câc nhđn tố

2.2.7.1 Mô hình 1 :

Phđn tích biến động GDP theo giâ hiện hănh do ảnh hưởng của hai nhđn tố :

1. Giâ cả tổng sản phẩm trín địa băn thị xê (ký hiệu p)

2. Khối lượng tổng sản phẩm trín địa băn (ký hiệu q)

Ta có phương trình kinh tế :

GDP = VA = (p x r)

Mô hình phđn tích :

•Hệ thống chỉ số :

Ipr = Ip x Ir

Trong đó :

Ipr : Chỉ số GDP theo giâ hiện hănh

Ip : Chỉ số giâ GDP

Ir : Chỉ số khối lượng GDP

pr : Lượng tăng (giảm) tuyệt đối GDP kỳ nghiín cứu so với kỳ gốc theo giâ hiện

hănh

pr (p) : Lượng tăng (giảm) tuyệt đối GDP kỳ nghiín cứu so với kỳ gốc do ảnh

hưởng biến động giâ GDP

pr (r) : Lượng tăng (giảm) tuyệt đối GDP kỳ nghiín cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng

biến động khối lượng GDP

Ipr : Tốc độ tăng (giảm) GDP kỳ nghiín cứu so với kỳ gốc

Ipr (p) : Tốc độ tăng (giảm) GDP kỳ nghiín cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng biến

động giâ GDP

Ipr (r) : Tốc độ tăng (giảm) GDP kỳ nghiín cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng biến

động khối lượng GDP

por1 : GDP kỳ nghiín cứu theo giâ kỳ gốc so sânh, được xâc định bằng câch điều

chỉnh giâ trị tăng thím riíng cho từng ngănh ở kỳ nghiín cứu theo giâ kỳ gốc so sânh

dựa văo công thức (*) hoặc (**) rồi sau đó tổng hợp lại.

Căn cứ văo kết quả dòng tổnh cộng ở biểu 10 vă dựa văo mô hình 1 ta tính được kết

quả phđn tích sau :

Biểu 11

Câc chỉ tiíu Đvt pr (p) (r)

Chỉ số phât triển % 114.67 101.9 112.53

Lượng tăng GDP trđồng 85434 12435 72999

Tốc độ tăng GDP % 14.67 2.14 12.53

Cơ cấu tăng GDP % 100 14.4 85.6

Như vậy, năm 2001 so với năm 2000

Tổng sản phẩm trín địa băn thị xê (GDP) theo giâ hiện hănh tăng 14.67 %, tức tăng

thím 85434 triệu đồng do ảnh hưởng cuả hai nhđn tố :

Do giâ GDP tăng 1.9 % đê lăm cho GDP tăng 12435 triệu đồng, tức lăm -

GDP tăng thím 2.14 % (chiếm 14.4 % trong tổng số tăng GDP).

Do khối lượng GDP tăng 12.53 % đê lăm cho GDP tăng 72999 triệu đồng, -

tức lăm GDP tăng thím 12.53 % (chiếm 85.6 % trong tổng số tăng GDP)

Kết quả tính toân được tổng hợp như sau :

Biểu 13

Câc chỉ tiíu Đvt pr (p) (r)

Chỉ số phât triển % 116.59 103.57 112.57

Lượng tăng GDP trđồng 110842 26845 83997

Tốc độ tăng GDP % 16.59 4.01 12.57

Cơ cấu tăng GDP % 100 24.2 75.8

Từ kết quả tính toân có thể kết luận rằng :

Tổng sản phẩm trín địa băn thị xê (GDP) theo giâ hiện hănh năm 2002 tăng 16.59 %

so với năm 2001, tức lăm tăng 110842 triệu đồng, do ảnh hưởng của hai nhđn tố sau

:

Do giâ GDP tăng 3.57 % , đê lăm cho GDP tăng 26845 triệu đồng, tức lăm -

GDP tăng 4.01 % về tương đối ( chiếm 24.2 % trong tổng số tăng GDP)

Do khối lượng GDP tăng 12.57 % lăm cho GDP tăng 83997 triệu đồng , tức -

lăm GDP tăng 12.57 % về tương đối (chiếm 75.8 % trong tổng số tăng GDP)

Nhận xĩt chung : Qua ba năm 2000 –2002, tổng sản phẩm trín địa băn thị xê Tam

Kỳ đạt được đều tăng qua câc năm, nhưng trong đó, sự gia tăng năy lă do nhđn tố

chủ quan lă chủ yếu (do khối lượng GDP tăng nhanh lăm GDP toăn thị xê tăng lín

với số tiền vă tỷ lệ tương đối cao). Đđy lă một điều rất tốt, thể hiện sự nổ lực phấn

đấu của tất cả câc ngănh, câc cấp cũng như toăn dđn thị xê Tam Kỳ.

2.2.7.2 Mô hình 2

Phân tích biến động GDP theo giá so sánh do ảnh hưởng của hai nhân tố :

1. Năng suất lao động cá biệt từng bộ phận trong nền kinh tế (ngành, nhóm

ngành, thành phần kinh tế...), ký hiệu là W

2. Số lượng lao động, ký hiệu là T

Ta có phương trình kinh tế

GDP = (W x T)

MÔ HÌNH PHÂN TÍCH

•Hệ thống chỉ số :

Iwr = Iw x Ir

Trong đó :

IWT : Chỉ số GDP theo giá so sánh, phản ánh sự biến động khối lượng GDP giữa

kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng của hai nhân tố năng suất lao động và số

lượng lao động

IW :Chỉ số năng suất lao động

IT :Chỉ số khố lượng lao động

WT :Lượng tăng (giảm) tuyệt đối GDP

WT(W) :Phần tăng (giảm) tuyệt đối GDP do ảnh hưởng biến động bản thân năng

suất lao động xã hội

W(T) :Phần tăng (giảm) tuyệt đối GDP do ảnh hưởng biến động kết cấu và quy mô

lao động.

IWT :Tốc độ tăng (giảm) GDP

WT(W) :Tốc độ tăng (giảm) GDP do ảnh hưởng biến động bản thân năng suất lao

động.

IWT(T) :Tốc độ tăng (giảm) tuyệt đối GDP do ảnh hưỏng biến động kết cấu và quy

mô lao động.

• Năm 2001 so với năm 2000

Biểu 14

Nhóm ngành GDP (triệu đồng) Số lao động bình quân (người) Năng

suất lao động (trđ/người)

W¬0T0 W1T1 T0 T1 W0 W1

Nông, lâm, thuỷ sản 166745 173003 52862 52261 3.15 3.31

Công nghiệp - xây dựng 102598 122430 4522 5434 22.69 22.5

Dịch vụ 157210 184117 564 619 278.74 297.44

TỔNG 426553 479550 57948 58314 7.36 8.22

Kết quả tính toán theo mô hình 2 được tổng hợp như sau :

Biểu 15 :

Các chỉ tiêu Đvt WT W T

Chỉ số phát triển % 112.42 104.09 107.99

Lượng tăng GDP trđồng 52997 18886 34111

Tốc độ tăng GDP % 12.42 4.4 7.99

Cơ cấu tăng GDP % 100 36 64

Như vậy, khối lượng tổng sản phẩm trên địa bàn thị xã Tam Kỳ năm 2001 tăng

12.42 % so với năm 2000 hay tăng 52997 triệu đồng, trong đó do ảnh hưởng của hai

nhân tố sau :

- Do bản thân năng suất lao động xã hội trong các ngành kinh tế tăng 4.09 %,

làm tăng 18886 triệu đồng, góp phần làm GDP tăng 4.4 %, chiếm 36 % trong tổng

số tăng GDP.

- Do số lượng lao động trên địa bàn thị xã tăng làm GDP tăng 7.99 %, hay

tăng 34111 triệu đồng (chiếm 64 % trong tổng lượng tăng GDP)

• Năm 2002 so với năm 2001

Biểu 16 :

Nhóm ngành GDP (triệu đồng) Số lao động bình quân (người) Năng

suất lao động (trđ/người)

W¬0T0 W1T1 T0 T1 W0 W1

Nông, lâm, thuỷ sản 173003 177847 52261 51702 3.31 3.44

Công nghiệp - xây dựng 122430 142474 5434 6019 22.5 23.7

Dịch vụ 184117 219652 619 755 297.44 290.9

TỔNG 479550 539973 58314 58476 8.22 9.23

Kết quả tính toán theo mô hình 2 được tổng hợp như sau :

Biểu 17 :

Các chỉ tiêu Đvt WT W T

Chỉ số phát triển % 112.6 101.6 110.8

Lượng tăng GDP Triệu đồng 60423 8641 51782

Tốc độ tăng GDP % 12.6 1.8 10.8

Cơ cấu tăng GDP % 100 14.3 85.7

Như vậy, khối lượng tổng sản phẩm trên địa bàn thị xã Tam Kỳ năm 2002 tăng 12.6

% so với năm 2001 hay tăng 60423 triệu đồng, trong đó do ảnh hưởng của hai nhân

tố sau :

- Do bản thân năng suất lao động xã hội trong các ngành kinh tế tăng 1.6 %,

làm tăng 8641 triệu đồng, góp phần làm GDP tăng 1.8 %, chiếm 14.3% trong tổng

số tăng GDP.

- Do số lượng lao động trên địa bàn thị xã tăng làm GDP tăng 10.8 %, hay

tăng 51782 triệu đồng (chiếm 85.7 % trong tổng lượng tăng GDP)

Tóm lại, trong ba năm 2000 - 2002, tăng trưởng kinh tế của thị xã Tam Kỳ do ảnh

hưởng của lao động là chủ yếu (do lao động ở các ngành công nghiệp, xây dựng và

dịch vụ gia tăng) và sự đóng góp của nhân tố lao động vào mức tăng trưởng kinh tế

ngày càng lớn dần, từ 64 % đến 85.7 %. Do đó, muốn duy trì tốc độ tăng trưởng bền

vững, lực lượng lao động xã hội cần phải được quan tâm hơn nữa để ngày càng phát

huy thế mạnh của nó.

2.2.7.3 MÔ HÌNH 3

Phân tích biến động GDP theo giá so sánh do ảnh hưởng của hai nhân tố :

1. Năng suất lao động bình quân, ký hiệu là

Chỉ số phát triển % 112.42 111.7 100.63

Lượng tăng GDP Triệu đồng 52997 50301 2696

Tốc độ tăng GDP % 12.42 11.8 0.63

Cơ cấu tăng GDP % 100 94.9 5.08

Theo kết quả tính toán trong biểu 18 có thể kết luận rằng :

Khối lượng GDP của thị xã Tam Kỳ năm 2001 tăng 12.42 % túc tăng 52997 triệu

đồng do ảnh hưởng của hai nhân tố :

Do năng suất lao động bình quân trên toàn thị xã tăng 11.7 % làm cho GDP -

tăng 50301 triệu đồng, hay tăng 11.8 % (chiếm 94.9 % trong tổng số tăng GDP)

Do quy mô lao động của thị xã tăng 0.63 % làm GDP tăng 2696 triệu đồng -

(chiếm 5.08 % trong tổng số tăng)

Năm 2002 so với năm 2001

Từ số liệu ở biểu, kết quả tính toán theo mô hình 3 được tổng hợp như sau

Chỉ số phát triển % 112.6 112.3 100.28

Lượng tăng GDP Triệu đồng 60423 59091 1332

Tốc độ tăng GDP % 12.6 12.3 0.28

Cơ cấu tăng GDP % 100 98 2.2

Như vậy, năm 2002 so với năm 2001, khối lượng GDP trên toàn thị xã tăng 12.6 %

làm tăng 60423 triệu đồng do ảnh hưởng của các nhân tố sau :

- Do năng suất lao động bình quân tăng làm cho GDP tăng 12.3 %,tức là tăng

59091 triệu đồng ( chiếm 98 % trong tổng số tăng ).

- Do quy mô lao động toàn thị xã tăng làm GDP tăng 1332 triệu đồng, hay là

tăng 0.28 % (chiếm 2.2 % trong tổng lượng tăng).

Như vậy, hầu như sự tăng trưởng kinh tế của thị xã Tam Kỳ trong ba năm 2000 -

2002 là do sự đóng góp của nhân tố năng suất lao động bình quân, chiếm trên 90 %,

quy mô lao động tăng không đáng kể.

2.2.7.4 Mô hình 4

Phân tích biến động GDP theo giá so sánh do ảnh hưởng của ba nhân tố sau :

1. Năng suất lao động cá biệt từng bộ phận, ký hiệu là W

2. Kết cấu số lượng lao động, ký hiệu là dT

Chỉ số phát triển % 112.42 104.1 107.3 100.63

Lượng tăng GDP trđồng 52997 18886 31415 2696

Tốc độ tăng GDP % 12.42 4.4 7.36 0.63

Cơ cấu tăng GDP % 100 35.6 58.7 5.04

Như vậy, năm 2001 so với năm 2000, tăng trưởng kinh tế đạt 12.42 % làm tăng

52997 triệu đồng do ảnh hưởng của ba nhân tố sau :

- Do bản thân năng suất lao động xã hội của các ngành kinh tế tăng làm GDP

tăng 4.4 % hay tăng 18886 triệu đồng (chiếm 35.6 % trong tổng số tăng).

- Do sự thay đổi kết cấu lao động giữa các ngành kinh tế làm GDP tăng 7.36

% hay tăng 31415 triệu đồng (chiếm 58.7 % trong tổng số tăng GDP)

- Do tổng quy mô lao động trên toàn thị xã tăng làm GDP tăng 0.63 % hay

tăng 2696 triệu đồng ( chiếm 5.04 % trong tổng số tăng GDP).

Năm 2002 so với năm 2001

Biểu 21

Chỉ số phát triển % 112.6 101.63 110.49 100.28

Lượng tăng GDP trđồng 60423 8641 50450 1332

Tốc độ tăng GDP % 12.6 1.8 10.52 0.28

Cơ cấu tăng GDP % 100 14.3 83.5 2.2

Theo kết quả tính toán ở biểu 18 có thể kết luận rằng :

Khối lượng GDP trên địa bàn thị xã Tam Kỳ năm 2002 tăng 12.6 % so với năm

2001, hay tăng 60423 triệu đồng do ảnh hưởng của ba nhân tố sau :

- Do bản thân năng suất lao động xã hội của các ngành kinh tế tăng làm GDP

tăng 1.8 % hay tăng 18641 triệu đồng (chiếm 14.3 % trong tổng số tăng).

- Do sự thay đổi kết cấu lao động giữa các ngành kinh tế làm GDP tăng 10.52

% hay tăng 50450 triệu đồng (chiếm 83.5 % trong tổng số tăng GDP)

- Do tổng quy mô lao động trên toàn thị xã tăng162 người làm GDP tăng 0.28

% hay tăng 1332 triệu đồng ( chiếm 2.2 % trong tổng số tăng GDP)

Như vậy, trong ba nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế cuả thị xã qua

ba năm 2000 - 2002 là năng suất lao động xã hội, kết cấu lao động giữa các ngành

kinh tế và quy mô lao động thì sự dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng tăng lao

động ở khu vực kinh tế công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm lao động ở khu vực

kinh tế nông, lâm, thuỷ sản đóng vai trò hữu hiệu nhất, thể hiện đây là sự chuyển

chuyển dịch lao động theo hướng tích cực, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế

theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

2.2.7.5 Mô hình 5

Phđn tích GDP theo giâ so sânh do ảnh hưởng biến động giâ trị tăng thím (VA) của

câc nhóm ngănh kinh tế

Gọi

a : Giâ trị tăng thím của nhóm ngănh nông, lđm nghiệp, thuỷ sản (Nhóm I)

b : Giâ trị tăng thím của nhóm ngănh công nghiệp – xđy dựng (Nhóm II)

c : Giâ trị tăng thím của nhóm ngănh dịch vụ (Nhóm III)

Ta có phương trình kinh tế

GDP = a + b + c

MÔ HÌNH PHĐN TÍCH

•Chính lệch tuyệt đối :

GDP1 –GDP0 = (a1 – a0) + (b1 – b0) + (c1 – c0)

•Tốc độ tăng (giảm)

(1) : Tốc độ tăng (giảm) GDP

(2) : Tốc độ tăng (giảm) GDP do ảnh hưởng của a

(3) : Tốc độ tăng (giảm) GDP do ảnh hưởng của b

(4) : Tốc độ tăng (giảm) của GDP do ảnh hưởng của c

Năm 2001 so với năm 2000

Biểu 21 :

Khu vực kinh tế GDP 2000 GDP 2001 Tốc độ tăng Lượng tăng tuyệt đối

GDP

Khu vực I 166745 173003 1.47 6258

Khu vực II 102598 122430 4.65 19832

Khu vực III 157210 184117 6.3 26907

Tổng 426553 479550 12.42 52997

Qua biểu số liệu trên ta thấy, năm 2001, GDP tăng 12.42 % so với năm 2000, hay

làm tăng 52997 triệu đồng do ảnh hưởng biến động giá trị tăng thêm của các khu

vực kinh tế như sau :

Do giá trị tăng thêm của khu vực kinh tế nông, lâm, thuỷ sản tăng 6258 triệu -

đồng, hay tăng 3.75 %, làm GDP tăng 1.47 %

Do giá trị tăng thêm của khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng tăng 19832 -

triệu đồng, hay tăng 19.32 %, đóng góp vào mức tăng trưởng chung là 4.65 %.

Do giá trị tăng thêm của khu vực kinh tế dịch vụ tăng 26907 triệu đồng, đã -

đóng góp vào mức tăng trưởng chung GDP là 6.3 % (hơn 1/2 tốc độ tăng trưởng

chung)

Năm 2002 so với năm 2001

Biểu 22 :

Khu vực kinh tế GDP 2001 GDP 2002 Tốc độ tăng Lượng tăng tuyệt đối

GDP

Khu vực I 173003 177847 1.01 4844

Khu vựcII 122430 142474 4.18 20044

Khu vực III 184117 219652 7.41 35535

Tổng 479550 539973 12.6 60423

Năm 2002 so với năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP thị xã đạt 12.6 %, hay làm

tăng cho thị xã số lượng tiền là 60423 triệu đồng, trong đó mức độ đóng góp của

các khu vực kinh tế như sau :

Khu vực kinh tế nông, lâm, thuỷ sản đóng góp vào mức tăng trưởng chung là -

1.01 % do giá trị tăng thêm của khu vực này tăng 4844 triệu đồng

Khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng đóng góp vào mức tăng trưởng -

chung của toàn thị xã là 4.18 % do giá trị tăng thêm của khu vực này tăng 20044

triệu đồng

- Khu vực kinh tế dịch vụ đóng góp vào mức tăng trưởng chung là 7.41 % do

giá trị tăng thêm của khu vực kinh tế này tăng 35535 triệu đồng

Như vậy, qua ba năm 2000 - 2002, mức độ đóng góp của khu vực dịch vụ vào tăng

trưởng GDP toàn thị xã là cao nhất, và mức độ đóng góp này đang có xu hướng gia

tăng, trong đó, ngành thương mại chiếm vai trò chủ yếu do tiêu thụ hàng hoá gia

tăng. Điều này thể hiện ngành thương mại, dịch vụ của thị xã đang trên đà khởi sắc.

Khu vực công nghiệp - xây dựng, mức đóng góp vào GDP giảm. Đây là một điều

không tốt, đi lệch với định hướng phát triển kinh tế của thị xã là ưu tiên phát triển

công nghiệp. Vì thế, thị xã cần có những giải pháp để đẩy mạnh phát triển công

nghiệp, xây dựng hơn nữa.

2.2.8/ Biểu GDP bình quân đầu người

Chỉ tiêu ĐVT 2000 2001 2002

GDP theo giá 1994 Tr đồng 426553 479550 539973

Dân số trung bình người 169909 172418 174418

GDP bình quân đầu người Trđ/người 2.51 2.78 3.09

Tốc độ tăng liên hoàn GDP bình quân đầu người % 10.8 11.3

Tốc độ tăng bình quân % 10.9

GDP bình quân trên đầu người của thị xã Tam Kỳ tăng liên tục qua ba năm 2000 -

2001, từ 2.51 triệu đồng/người năm 2000 đến 3.09 triệu đồng/ người năm 2002.

Điều này phản ánh đời sống và sinh hoạt của người dân thị xã từng bước đã được

cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, nếu tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong thời kỳ

này là 11.52 % thì tốc độ tăng GDP bình quân đầu người bình quân là 10.9 %,

chậm hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Đó là do sự ảnh hưởng của tốc độ tăng dân số.

Nếu nhìn nhận ở góc độ rộng hơn, tức đem so sánh GDP bình quân đầu người cuả

thị xã Tam Kỳ với GDP bình quân đầu người của Đà Nẵng và Quãng Ngãi, là hai

người bạn láng giềng thì kết quả tính toán theo giá thực tế được tổng hợp như sau :

Biểu 24 :

Chỉ tiêu 2000 2001 2002

GDP bình quân đầu người TX Tam Kỳ 3.428 3.873 4.464

GDP bình quân đầu người Đà Nẵng 6.9064 7.823 8.898

GDP bình quân đầu người tỉnh Quãng Ngãi 2.6547 2.9733 3.4311

Qua số liệu có thể đưa ra kết luận rằng mức độ hưởng thụ của người dân của thị xã

Tam Kỳ lớn hơn mức độ hưởng thụ của người dân tỉnh Quãng Ngãi và thấp hơn rất

nhiều so với mức sinh hoạt của người dân thành phố Đà Nẵng, thấp hơn 2 lần, phản

ánh trình độ phát triển kinh tế của thị xã còn thua xa rất nhiều so với trình độ phát

triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên khoảng cách đó đã được dần dần

thu hẹp lại. Nếu như năm 2000, mức GDP bình quân trên đầu người của Đà Nẵng

cao hơn mức của thị xã 2.02 lần thì đến năm 2002, con số này còn là 1.99 lần, tuy

nhiênvẫn còn là rất chậm.

2.2.9 Đánh giá hiệu quả kinh tế :

2.2.9.1 Hiệu quả của một đồng chi phí

Hiệu quả của một đồng chi phí ( ký hiệu H1 ) là hiệu quả đem lại từ một đồng chi

phí trung gian. Công thức tính như sau :

H1 = Giá trị tăng thêm được tạo ra trong năm

Chi phí trung gian trong năm

Biểu 24 : Đvt : trđồng

Nhóm ngành Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002

GDP IC GDP IC GDP IC

Nông, lâm, thuỷ sản 224698 94294 242016 105586 253058

112972

Công nghiệp - xây dựng 151599 245554 181611 318316

214126 362925

Dịch vụ 206067 126471 244171 164090 311456

204598

TỔNG 582364 466319 667798 587992 778640

680496

Từ số liệu ở biểu trên, kết quả tính toán về hiệu quả chi phí trung gian được tổng

hợp như sau :

Biểu 25 :

H1 Nhóm ngành 2000 2001 2002 2001/2000 2002/2001

Nông, lâm, thuỷ sản 2.38 2.29 2.24 0.96 0.98

Công nghiệp - xây dựng 0.62 0.57 0.59 0.92 1.034

Dịch vụ 1.63 1.49 1.53 0.91 1.03

TỔNG 1.25 1.13 1.15 0.909 1.007

Qua kết quả tính toán ở biểu trên, ta có thể kết luận rằng :

Hiệu quả chi phí trung gian của thị xã Tam Kỳ qua ba năm hoạt động 2000 - 2002

nhìn chung biến động bất thường, từ chổ giảm 9.1 % so với năm 2000 rồi tăng lên

0.7 % so với năm 2001, nhưng mức hiệu quả vẫn nhỏ hơn nhiều so với mức hiệu

quả năm 2000(1.25 %). Trong đó, hiệu quả của nhóm ngành nông, lâm, thuỷ sản có

xu hướng giảm rõ rệt, từ 2.38 % xuống chỉ còn 2.24 % năm 2002. Tuy nhiên, hiệu

quả của nhóm ngành này vẫn còn lớn nhất so với hai nhóm ngành công nghiệp, xây

dựng và dịch vụ. Hiệu quả của nhóm ngành công nghiệp xây dựng rất thấp, dưới 1

%, điều này có nghĩa là muốn tạo ra được một đồng giá trị tăng thêm thì phải tốn

hơn 1.5 đồng chi phí trung gian. Hiệu quả của nhóm ngành công nghiệp xây dựng

còn thấp, chủ yếu là do chi phí của nhóm ngành này quá cao(chi phí nguyên vật

liệu), cần phải có biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn chi phí phát sinh, tránh việc sử

dụng lãng phí để nâng cao hiệu quả chi phí của nhóm ngành này. Do đó, nếu xét về

hiệu quả chi phí thì ngành dịch vụ là ngành có triển vọng nhất vì hiệu quả không

thấp và đang có xu hướng tăng lên.

2.2.9.2 Năng suất lao động bình quân một lao động

Năng suất lao động (xã hội) = GDP

Số lao động bình quân

Biểu 26 : (Giá hiện hành)

Chỉ tiêu Đvt 2000 2001 2002

GDP trđồng 582364 667798 778640

+ Nông, lâm, TS 224698 242016 253058

+ CN - XD 151599 181611 214126

+ Dịch vụ 206067 244171 311456

Lao động người 57948 58314 58476

Từ số liệu trên, việc tổng hợp kết quả tính toán về năng suất lao động xã hội của các

ngành kinh tế như sau :

Biểu 27 : Đvt : trđồng

NSLĐ xã hội các ngành KT 2000 2001 2002

Nông, lâm, thuỷ sản 4.25 4.63 4.89

Công nghiệp - xây dựng 33.5 35.4 35.6

Dịch vụ 365.4 394.5 412.5

TỔNG 10.05 11.45 13.32

Nhìn vào số liệu số liệu ta có thể thấy rằng qua ba năm 2000 - 2002, năng suất lao

động xã hội ở hầu hết cácngành đều tăng qua qua mỗi năm, làm cho năng suất lao

động xã hội của toàn thị xã ngày một gia tăng. Trong đó, các ngành thương mại,

dịch vụ có năng suất cao nhất. Đó là do các doanh nghiệp đã biết mở rộng quy mô

kinh doanh hợp lý, biết lựa chọn mặt hàng kinh doanh, đáp ứng tốt nhu cầu thị

trường. Các ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, tuy hiệu quả có gia tăng nhưng năng

suất vẫn còn thấp, chủ yếu là do việc áp dụng các tiến bộ KHKT, cũng như mức độ

sử dụng cơ giới hoá trong sản xuất còn thấp, tập quán canh tác còn lạc hậu, nông

nghiệp còn mang tính thuần nông, độc canh cây lúa là chính. Do đó, muốn nâng cao

năng suất lao động cuả toàn thị xã hơn nữa thì cần quan tâm nhiều hơn đến việc

chuyển giao công nghệ ở các ngành nông, lâm, thuỷ sản.

2.2.9.3 Hệ số ICOR (Incremental Coefficient Output Ratio)

Hệ số ICOR là chỉ tiêu khái quát mối quan hệ và tác động qua lại giữa “ Đầu tư trên

GDP “ với “ Nhịp tăng GDP “. Hệ số ICOR cho ta biết muốn tăng một đồng GDP

cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư hay muốn tăng 1% GDP cần tăng bao nhiêu % vốn

đầu tư so với GDP. Công thức tính như sau :

Hệ số ICOR năm nghiên cứu = Tổng số vốn đầu tư thực hiện trong năm

nghiên cứu

GDP năm nghiên cứu - GDP năm trước đó

Biểu 28 :

Năm GDP hiện hành Vốn đầu tư Hệ số ICOR

2000 582364 211380

2001 667798 253763 2.97

2002 778640 319242 2.88

Hệ số ICOR của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002 giảm theo chiều hướng tốt,

từ 2.97 năm 2001 xuống chỉ còn 2.88 năm 2002. Điều này nói lên rằng năm 2001,

muốn tăng một đồng GDP cần 2.97 đồng vốn đầu tư, năm 2002, muốn tăng một

đồng GDP cần đầu tư thêm 2.88 đồng, thể hiện việc sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn

thị xã ngày càng có hiệu qủa

2.2.10 Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và mô hình tính toán các nguồn tăng

trưởng kinh tế

Năng suất nhân tố tổng hợp TFP (Total factor productivity) là quan hệ giữa đầu ra

với tổng hợp các đầu vào, bao gồm cả các yếu tố không định lượng như quản lý,

khoa học công nghệ...

TFP đo lường quan hệ giữa đầu ra với mức kết hợp hai hay nhiều các đầu vào,

thường là lao động và vốn.

TFP là tỷ số của số lượng tất cả các đầu ra với số lượng tất cả các đầu vào. Về công

thức , chúng ta có thể thể hiện TFP theo một số dạng sau

Trong đó : Y : Tổng các đầu ra

X : Tổng có quyền số tất cả các đầu vào

Khi hàm sản xuất chỉ có hai nhân tố vốn (K) và lao động (L) theo dạng :

Yt = At f Kt , Lt2 thì At trong mô hình này chính là TFP

Hay trong hàm sản xuất Cobb Douglas Y = AK L 1- thì A cũng chính là TFP hay A

=

TFP phản ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử dụng vào sản xuất. Ngoài ra TFP

còn phản ánh hiệu quả do thay đổi công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân,

trình độ quản lý, hợp lý hoá sản xuất, cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô...

Như vậy , trong mức tăng trưởng kinh tế, ngoài phần đóng góp của việc gia tăng

thuần tuý khối lượng vốn và lao động còn có thêm phần đóng góp của việc gia tăng

năng suất nhân tố tổng hợp TFP

Mức tăng tuyệt đối GDP = Mức tăng tuyệt đối GDP do tăng lao động +

Mức tăng tuyệt đối GDP do tăng vốn + Mức tăng tuyệt đối GDP do

tăng TFP (1)

Hoặc :

Tốc độ tăng GDP = Tốc độ tăng GDP do tăng lao động + Tốc độ

tăng GDP do tăng vốn + Tốc độ tăng GDP do tăng TFP (2)

Tương ứng với nội dung của phương trình (2), nhiều nhà kinh tế đề xuất mô

hình tính toán các nguồn tăng trưởng kinh tế như sau :

• Mô hình

Trong đó :

: Tốc độ tăng GDP năm báo cáo so với năm gốc.

: Tốc độ tăng lao động thực tế làm việc năm báo cáo so với năm

gốc.

: Tốc độ tăng vốn cố định năm báo cáo so với năm gốc.

: Tốc độ tăng TFP.

: tỷ phần thu nhập của lao động hay còn gọi là tỷ trọng sản lượng của lao

động.

: tỷ phần thu nhập của vốn hay còn gọi là tỷ trọng sản lượng của vốn.

=

Tổng thu nhập của người lao động

Biểu 29 :

Chỉ tiêu Đvt 2000 2001 2002

GDP giá 1994 trđồng 426553 479550 539973

Lao động bình quân người 57948 58314 58476

Vốn CĐ bình quân trđồng 1002003 1168477 1287719

Năm 2001 so với năm 2000

Kết quả tính toán theo mô hình được tổng hợp như sau :

Biểu 30 : Đvt : (%)

Chỉ tiêu GDP Lao động Vốn CĐ TFP

Tốc độ tăng GDP 12.42 0.43 5.4 6.5

Cơ cấu tăng GDP 100 3.46 43.5 52.3

Nhìn vào số liệu ta thấy, trong năm 2001, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12.42 %,

trong đó do sự gia tăng số lượng lao động đã làm cho GDP tăng 0.43 %, chiếm 3.46

% trong tổng lượng tăng GDP, do vốn cố định tăng làm GDP tăng 5.4 %, chiếm

43.5 % trong tổng lượng tăng GDP, còn lại là do nhân tố năng suất nhân tố tổng hợp

TFP làm GDP tăng 6.5 % (hơn 1/2 lượng tăng GDP)

Năm 2002 so với năm 2001

Biểu 31 : Đvt : (%)

Chỉ tiêu GDP Lao động Vốn CĐ TFP

Tốc độ tăng GDP 12.6 0.2 3.26 9.14

Cơ cấu tăng GDP 100 1.58 25.9 72.5

Như vậy, tổng sản phẩm xã hội của thị xã Tam Kỳ năm 2002 đạt 539973 triệu đồng

(giá so sánh năm 1994), tăng 12.6 % so với năm 2001, trong đó do lao động và vốn,

là hai nguồn lực chính của nền kinh tế làm tăng 3.46 %, còn lại là do năng suất nhân

tố tổng hợp làm tăng đến 9.14 %, chiếm 72.5 % trong tổng lượng tăng GDP.

Nhìn chung, qua ba năm 2000 -2002, tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do nhờ sự tác

động của việc đổi mới công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, nhờ có chuyển đổi cơ cấu

kinh tế cũng như sự năng động, sáng tạo trong việc lãnh đạo, điều hành và năng lực

của đội ngũ cán bộ.

Chương 3 :Kết luận và kiến nghị

3.1 Kết luận chung

Qua việc phân tích và tính toán chỉ tiêu tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn thị xã có

thể rút ra mộtt số nhận xét chung về tình hình phát triển kinh tế của thị xã như sau :

Nền kinh tế thị xã có tốc độ tăng trưởng khá, cao hơn mức bình quân chung -

của tỉnh, hầu hết các ngành kinh tế đều phát triển so với năm trước.

Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế cũng có sự chuyển biến tích cực, kinh tế -

nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế ngoài nhà nước được đẩy mạnh và phát triển

trên mọi lĩnh vực, bước đầu hoạt động có hiệu quả.

- Cơ cấu kinh tế theo ngành từng bước có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ

trọng ngành công nghiệp xây dựng, thương mại dịch vụ phù hợp với yêu cầu thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- GDP bình quân đầu người của thị xã đã được cải thiện đáng kể, làm rút ngắn

dần khoảng cách tụt hậu so với các thị xã và tỉnh bạn.

Thành tựu trên là đáng phấn khởi. Tuy nhiên, thực trạng nền kinh tế thị xã vẫn còn

bộc lộ một số hạn chế cần quan tâm sau :

- Mặc dù cơ cấu nền kinh tế của thị xã cho thấy khả năng chuyển dịch từng

bước, song tỷ trọng khu vực kinh tế nông, lâm nghiệp, thuỷ sản còn chiếm tỷ trọng

lớn trong GDP, là ngành kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng trong phát triển kinh

tế của thị xã. Vì vậy, trước mắt thị xã cần có những chính sách khuyến khích trong

việc bố trí cơ cấu đầu tư, ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm,

thuỷ sản, thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công

nghiệp - dịch vụ.

Cụ thể, về công nghiệp - TTCN :Phải coi đây là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm vị

trí ưu thế trong cơ cấu kinh tế của thị xã, bằng nhiều biện pháp, phát huy mọi nguồn

lực để tranh thủ nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Không ngừng cải tiến, ứng

dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sớm hoàn chỉnh việc xây

dựng các khu công nghiệp - TTCN đã được phê duyệt như cụm công nghiệp -

TTCN Trường Xuân, cụm công nghiệp - TTCN tại Tam Đàn và Tam Phú để sớm

kêu gọi thu hút đầu tư.

Về thương mại - dịch vụ : Đây là ngành kinh tế đầy tiềm năng nhưng chưa được

khai thác đúng mức. Thị xã nên có những chính sách để khuyến khích các thành

phần kinh tế tham gia phát triển hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn. Gấp rút

kêu gọi các dự án đầu tư vào khai thác dịch vụ du lịch ở hồ Phú Ninh, biển Tam

Thanh. Bằng nhiều biện pháp khơi nguồn để hoạt động thương mại dịch vụ phát

triển như xây dựng trung tâm thương mại thị xã Tam Kỳ, xây dựng mới thêm hệ

thống các chợ ở khu nội thị và các vùng xã nông thôn.

- Tỷ trọng khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong những năm qua tuy có phát

triển khá nhưng thành phần kinh tế tập thể, tư nhân và hỗn hợp vẫn còn chiếm tỷ

trọng thấp. Do đó, cần tập trung đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế này :

Kinh tế tư nhân và hỗn hợp : Sự phát triển của các thành phần kinh tế này đã mở

mang nhiều ngành nghề và lưu thông hàng hoá, giải quyết nhiều công ăn việc làm

cho thị xã. Tuy nhiên, hầu hết có quy mô hoạt động nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất

lạc hậu, trình độ quản lý còn yếu, hiệu quả cạnh tranh thấp. Thị xã nên có những

chính sách ưu đãi về mặt bằng, về vốn..., chú trọng và tạo điều kiện hỗ trợ cho các

doanh nghiệp vừa và nhỏ hình thành và phát triển. Ngoài ra thị xã nên xây dựng

những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết, có giá phù hợp để thu hút

khuyến khích các doanh nghiệp thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh.

Kinh tế tập thể : Nhìn chung, trong thời gian qua, hoạt động của thành phần kinh tế

này đã từng bước nâng cao được chất lượng hoạt động, làm ăn ngày càng có hiệu

quả, ngày càng tương thích với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, mô hình hoạt động

vẫn còn mang nặng kiểu cũ, dịch vụ đơn điệu, thiết bị sản xuất của các hợp tác xã

TTCN còn lạc hậu, thô sơ. Thị xã nên ban hành các chính sách trợ giúp, thông qua

việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt

thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hổ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn

đọng trước đây.

- Cơ cấu lao động, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế. Tỷ trọng động

trong các ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản còn lớn. Do đó, thị xã cần chú trọng

phát triển các ngành công nghiệp như công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và

các ngành nghề ở nông thôn nhằm thu hút lao động ra khỏi nông nghiệp.

- Hệ số ICOR giảm, chứng tỏ việc sử dụng vốn đầu tư ở thị xã ngày càng có

hiệu quả. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn đầu tư ở thị xã vẫn còn là một điều bức

bách. Thị xã nên tìm cách xúc tiến vốn đầu tư hơn nữa như tạo môi trường đầu tư

ngày càng thông thoáng, với các chính sách ưu đãi đặc biệt, hỗ trợ cho các doanh

nghiệp đạt hiệu quả cao nhất nhằm thu hút , tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư vào

thị xã.

- Nhìn chung , năng suất lao động xã hội của tất cả các ngành đều tăng qua các

năm. Tuy nhiên, đối với các ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, năng suất rất thấp,

chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thấp, kém hiệu quả và chưa

bền vững. Do đó thị xã cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao

khoa học, công nghệ cho sản xuất như tổ chức, tuyên truyền, tập huấn, phổ biến

kiến thức, kỹ thuật thâm canh đến hộ nông dân. Hỗ trợ các loại giống cây, con mới

có năng suất và chất lượng cao, phù hợp để nâng cao hiệu quả đầu tư.

3.2 Dự đoán mức tăng trưởng kinh tế của thị xã trong những năm tới :

Mức tăng trưởng kinh tế của thị xã trong giai đoạn 1997 - 2002 được tổng kết như

sau :

Năm 1997 : 11 %

Năm 1998 : 12.29 %

Năm 1999 : 10.09 %

Năm 2000 : 10.06 %

Năm 2001 : 12.42 %

Năm 2002 : 12.6 %

Nhìn vào đồ thị minh hoạ ta thấy tốc độ tăng trưởngGDP của thị xã biến động theo

xu hướng phương trình đường parabol

Ta dùng phương pháp ngoại suy xu thế để dự đoán mức tăng trưởng GDP của thị xã

trong những năm tới, tức là chuyển quy luật của nó được phát hiện trong quá khứ

và hiện tại sang tương lai bằng phương pháp xử lý dãy số thời gian.

Mô hình hồi quy

Qua kết quả tính toán ta có khoảng dự đoán của tốc độ tăng trưởng GDP thị xã năm

2003 và năm 2004 như sau :

Như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP của thị xã Tam Kỳ năm 2003 nằm trong khoảng

(13.13 % ; 13.56 %)

Và tốc độ tăng trưởng GDP của thị xã Tam Kỳ năm 2004 là nằm trong khoảng

(14.59 % ; 15.01 %)

Lời kết

“Phân tích GDP của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002 “, đây là một đề tài rất

rộng. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận và phương pháp chưa thật hoàn thoàn thống

nhất, khó khăn về mặt số liệu. Do đó, với trình độ còn hạn chế, nên trong chuyên

đề này, tôi chỉ phân tích những mặt cơ bản của đề tài.

Trong quá trình thực tập và thực hiện đề tài này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy

cô trong khoa Tài chính - Thống kê trường đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh

Đà Nẵng, đặc biệt là thầy giáo : Lê Dân, là người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn

thành này. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các cô chú Phòng Thống kê thị xã

Tam Kỳ đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ về mặt số liệu cho tôi viết được đề tài này.

Tam Kỳ ngày 20 tháng 4 năm 2003

Sinh viên thực hiện

Bùi Thị Hoài Thuyi