HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
SOMSANITH KENEMANY
THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRABĂNG,
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
SOMSANITH KENEMANY
THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRABĂNG,
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. AN NHƯ HẢI
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập
của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Somsanith KENEMANY
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang 1
8 8 22
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH 1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến thị trường du lịch 1.2. Những nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến thị trường du lịch 1.3. Nhận xét chung về những công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài luận án và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 24
29 29
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ THỊ TRƯỜNG DU LỊCH 2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thị trường du lịch 2.2. Nội dung phát triển thị trường du lịch, tiêu chí đánh giá và các
49 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nó
2.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch của một số tỉnh trong
và ngoài nước 62
69
Chương 3: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 3.1. Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội của tỉnh Luông Pra Băng trong phát triển thị trường du lịch 69
3.2. Quá trình phát triển thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng
goai đoạn 2011 - 2018
3.3. Đánh giá thực trạng thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng 79 101
111
111
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG ĐẾN NĂM 2025 VÀ TÂM NHÌN ĐẾN NĂM 2030 4.1. Bối cảnh và phương hướng phát triển thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 4.2. Giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị trường du lịch ở tỉnh
125 Luông Pra Băng
149
KẾT LUẬN
151
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN : Association of Southeast Asian Nations (Hiệp
hội các nước Đông Nam Á)
ASEANTA : ASEAN Tourism Association (Hiệp hội
du lịch ASEAN)
CHDCND Lào : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
CHXHCN Việt Nam : Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
: Du lịch của các nước ASEAN EATOP
: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm GDP
trong nước)
LAK (Tiền kíp Lào) : Tiếng Lào: ກບ ີ
: Meeting Incentive Convention Event/ MICE
Exhibition (Du lịch kết hợp với tổ chức các sự
kiện triển lãm, hội nghị, hội thảo…)
PATA : Pacific Asia Travel Tourism Association (Hiệp
hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương)
: Thị trường du lịch TTDL
: World Tourism Organization (Tổ chức du lịch UNWTO
thế giới)
UNDP : United Nations Development Programme
(Chương trình phát triển Liên hợp quốc)
UNESCO : United Nations Educational Scientific and
Cultural Organization (Tổ chức giáo dục, khoa
học và văn hóa Liên hợp quốc).
: United States dollar (Đồng đô la Mỹ) USD
: World Trade Organization (Tổ chức thương WTO
mại thế giới)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn năm
2011 - 2018 72
Bảng 3.2: Số lượng dự án đầu tư trên địa bàn Luông Pra Băng qua
các năm từ 2011 - 2018 73
Bảng 3.3: Các khu du lịch ở 4 huyện miền bắc năm 2018 76
Bảng 3.4: Các khu du lịch ở 5 huyện miền trung năm 2018 76
Bảng 3.5: Các khu du lịch ở 3 huyện miền nam năm 2018 77
Bảng 3.6: Số khách sạn, Nhà nghỉ - Resorts, Nhà hàng và sự tương
tác ở Lào và tỉnh Luông Pra Băng năm 2015 - 2018 89
Bảng 3.7: Cơ sở lưu trú du lịch của tỉnh Luông Pra băng (năm
2011 - 2018) 89
Bảng 3.8: Doanh nghiệp lữ hành và lưu trú tại Luông Pra Băng
năm 2011 - 2018 95
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường du lịch (TTDL) là một bộ phận cấu thành của thị trường
dịch vụ trong hệ thống các loại thị trường của nền kinh tế. Trên thị trường này
diễn ra quan hệ giữa người bán và người mua sản phẩm du lịch; các chủ thể
kinh tế tác động qua lại lẫn nhau để xác định mức giá và số lượng sản phẩm
du lịch cần mua, cần bán. Sự ra đời và phát triển của TTDL là kết quả tất yếu
của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của loài người đến một giai đoạn phát
triển nhất định, chỉ khi kinh tế thị trường đã phát triển, thu nhập của người
dân đã có thể đáp ứng cho nhu cầu về du lịch của họ.
Từ khi ra đời đến nay, TTDL ngày càng trở nên có vai trò quan trọng
trong tạo việc làm, thu nhập với mức đóng góp vào nền kinh tế ngày càng
tăng và có sức lôi cuốn sự phát triển của các ngành kinh tế khác ở trong nước.
Thực tế ở nhiều nước đã cho thấy, kinh tế du lịch là một trong những ngành
có tốc độ phát triển nhanh nhất, đóng góp khoảng 9% GDP, chiếm 8% lao
động và khoảng 30% xuất khẩu toàn thế giới. Các quốc gia đều đánh giá cao
tầm quan trọng của ngành du lịch trong đó có TTDL. Từ quan điểm kinh
doanh du lịch là ngành "công nghiệp mũi nhọn", là ngành "kinh tế tổng hợp",
ngành "công nghiệp không khói", có tính đặc thù, nhiều nước đã đặt ra yêu
cầu cần được ưu tiên phát triển ngành kinh tế này.
Trong những năm đổi mới vừa qua, TTDL ở Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào (CHDCND Lào) đã có những bước phát triển quan trọng. Du lịch đã
trở thành ngành kinh tế phát triển nhanh nhất và đóng vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế Lào. Thống kê cho thấy, hàng năm có khoảng 5 triệu lượt du khách
trong nước và 4,8 triệu lượt du khách quốc tế đến với các danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử và các loại hình du lịch khác ở Lào. Năm 2017, ngành du lịch đã
tạo ra 136.000 việc làm chiếm 3,4% tổng số việc làm trong toàn xã hội, đóng
góp 28.119,7 tỷ kíp (LAK) tương đương 3,4 tỷ đô la Mỹ (USD), chiếm 13,4%
GDP; tăng trưởng du lịch đạt 7,8% cao hơn mức tăng GDP của cả nước cùng
kỳ (6,7%) [84, tr.3].
2
Luông Pra Băng là tỉnh nằm ở phía Bắc của nước CHDCND Lào, cách
thủ đô Viêng Chăn 420 km, là cửa ngõ nối các tỉnh miền Bắc với thủ đô Viêng Chăn. Với diện tích 16.875 km2, trong đó rừng núi cao chiếm 85%.
Toàn tỉnh có 11 huyện và 1 thành phố, với dân số là 454.095 người, có thành
phố Luông Pra Băng là trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
tỉnh. Luông Pra Băng còn là một tỉnh nằm trong vùng chính của TTDL ở Lào
có các điểm du lịch văn hóa, lịch sử, thắng cảnh, những vùng núi hoang sơ
cùng nhiều vùng quê thanh bình. Các điểm du lịch chính của Luông Pra Băng
là khu di sản văn hóa thế giới thành phố Luông Pra Băng với rất nhiều các lễ
hội đặc sắc của các dân tộc, ngoài ra còn có các di tích lịch sử và thiên nhiên
trải đều ở các huyện trong tỉnh. Được sự quan tâm của chính quyền Trung
ương và trực tiếp là cấp tỉnh, trong thời gian gần đây, TTDL Luông Pra Băng
đã đón trên 2,5 triệu du khách trong nước và quốc tế mỗi năm. TTDL của tỉnh
Luông Pra Băng được hình thành và phát triển có sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế đã góp phần huy động được nhiều tiềm năng về lao động, vốn,
kỹ thuật… vào lưu thông. Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch
nhân văn của tỉnh được khai thác một cách có hiệu quả hơn, thu hút ngày
càng đông du khách trong nước và quốc tế. Sự mở rộng và đa dạng hóa các
loại hình kinh doanh du lịch đã góp phần phát triển kinh tế, giải quyết việc
làm và thu nhập cho người lao động của tỉnh. Những kết quả đạt được của
TTDL tỉnh Luông Pra Băng đã góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn, thay đổi bộ mặt nông thôn, làng bản
nơi có tiềm năng du lịch. Quản lý nhà nước đối với thị trường từng bước đi
vào nền nếp, tạo nên sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh của thị trường.
Bên cạnh những kết quả đó, trước yêu cầu mới của đất nước, sự phát
triển của TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng còn nhiều hạn chế, bất cập. Khách du
lịch trong nước và quốc tế đến Luông Pra Băng chưa nhiều, thời gian lưu trú
ít và mức chi tiêu của du khách thấp. Sản phẩm du lịch chưa thật phong phú,
chưa khắc phục được tính mùa vụ; chưa phát huy được lợi thế của địa phương
và tài nguyên du lịch để tạo ra sản phẩm du lịch đặc sắc và có hiệu quả cao.
3
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm du lịch ở cấp quốc gia,
quốc tế chưa cao; quan hệ cung - cầu, giá cả hàng hóa, dịch vụ chưa ổn
định. Quản lý nhà nước chưa theo kịp để hướng dẫn, giám sát hoạt động
của thị trường, chưa phát huy hết mặt tích cực và hạn chế tính tiêu cực của
cơ chế thị trường,… Những mặt hạn chế đó cần có sớm có giải pháp khắc
phục để phát triển TTDL theo hướng bền vững, thật sự đưa ngành du lịch
của tỉnh trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần tạo sự đồng bộ các
loại thị trường cho hoạt động của nền kinh tế, thúc đẩy hội nhập quốc tế
ngày càng sâu, rộng hơn. Để giải quyết vấn đề này, cần có những nghiên
cứu cơ bản về lý luận và đánh giá một cách khoa học thực tiễn TTDL của
tỉnh Luông Pra Băng. Để góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên nhằm
thúc đẩy TTDL tỉnh Luông Pra Băng phát triển bền vững trong thời gian
tới, Nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: "Thị trường du lịch ở tỉnh Luông
Pra Băng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" để nghiên cứu làm luận án
tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về TTDL trên địa
bàn một tỉnh ở nước CHDCND Lào trong điều kiện hiện nay, phân tích và
đánh giá thực trạng TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng từ năm 2011 đến nay, chỉ ra
điểm mạnh, điểm yếu của thị trường này để đề xuất phương hướng và các giải
pháp thúc đẩy phát triển đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của nước nước CHDCND Lào thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, thu thập và hệ thống hóa lý luận về TTDL trên địa bàn một
tỉnh trong điều kiện mới của kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, xây dựng
khung lý thuyết cơ bản để nghiên cứu các quan hệ kinh tế và lợi ích trên thị
trường này. Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về phát triển TTDL của một số
tỉnh, thành phố trong và ngoài nước để rút ra bài học cho sự phát triển ở tỉnh
Luông Pra Băng.
4
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng TTDL tỉnh Luông Pra Băng
giai đoạn từ năm 2011 đến nay, làm rõ điểm mạnh, điểm yếu, hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển thị trường này.
Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển TTDL
ở tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng tiếp cận các quan hệ kinh tế
xã hội và lợi ích, hình thức tổ chức, cơ chế vận hành và xu hướng phát triển
mới của kinh tế thị trường hội nhập quốc tế của nước CHDCND Lào.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các quan hệ kinh tế trên TTDL gồm
hình thức tổ chức, cơ chế vận hành, quan hệ phân phối và lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể trên thị trường này dưới góc độ kinh tế chính trị học để tìm giải
pháp thúc đẩy phát triển.
Phạm vi về không gian: Tác giả chọn phạm vi nghiên cứu thực trạng và
đề xuất giải pháp trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng, nước CHDCND Lào.
Việc nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển TTDL của một số tỉnh, thành phố
được ở trong và ngoài nước.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng TTDL giai đoạn 2011 -
2018; đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển đến năm 2025,
tầm nhìn đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên những quan điểm và phương pháp tiếp cận của chủ
nghĩa Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để làm rõ cơ sở lý luận về TTDL trong điều kiện mới của kinh tế thị trường và
hội nhập; dựa trên đường lối, chính sách về phát triển kinh tế và các thị
trường nói chung, TTDL nói riêng của Đảng và Nhà nước nước CHDCND
Lào để phân tích, đánh giá thực tiễn và đề xuất phương hướng, giải pháp thúc
đẩy phát triển.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện một đề tài thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, nghiên
cứu sinh sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Chương 1, sử dụng phương pháp thu thập, phân loại tài liệu bao gồm
các công trình nghiên cứu thuộc cấp Bộ ngành và quốc gia, các đề tài của
nghiên cứu sinh, các sách báo đã công bố có liên quan đến chủ đề nghiên cứu
của luận án. Sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu để xác định những kết
quả đạt được của các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài luận án,
xác định khoảng trống về lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục giải quyết và
xác định hướng nghiên cứu, điểm mới của đề tài luận án mà nghiên cứu sinh
lựa chọn.
Chương 2, sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để tìm hiểu
bản chất, mối liên hệ giữa các lực lượng cung - cầu, giá cả và cơ chế vận hành
TTDL, vạch ra tính tất yếu và xu hướng có tính quy luật chi phối sự phát triển
của thị trường này. Sử dụng phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử, phương
pháp phân tích và tổng hợp để làm rõ vai trò của TTDL, nội dung, điều kiện
và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường này. Để nghiên cứu
kinh nghiệm thực tiễn về phát triển TTDL, tác giả dựa trên khung lý thuyết đã
xác định, sử dụng các phương pháp thu thập tài liệu và phân tích, tổng hợp để
tìm ra bài học để tỉnh Luông Pra Băng có thể tham khảo.
Chương 3, sử dụng cả phương pháp định tính và phương pháp định
lượng, sử dụng các phương pháp thu thập và xử lý thông tin, thống kê, mô tả,
bảng số liệu, đồ thị… để phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu với lý luận, đánh
giá thực trạng TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, hạn
chế và nguyên nhân hạn chế của thị trường này từ năm 2011 đến nay.
Sử dụng phương pháp phân tích vào xác định kết quả đạt được trong
phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng, xác định nhân tố tác động đến tình
hình. Phương pháp tổng hợp được sử dụng vào tổng hợp kết quả nghiên cứu và
nguyên nhân dẫn đến những điểm yếu, hạn chế trong phát triển TTDL ở tỉnh.
6
Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng để phân tích, đánh giá, so
sánh tình hình phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng trong giới hạn thời
gian phân tích đối tượng nghiên cứu.
Nguồn tài liệu nghiên cứu sử dụng trong luận án chủ yếu là tài liệu thứ
cấp và từ hiểu biết thực tế của bản thân khi trực tiếp làm công tác quản lý
trong tỉnh Luông Pra Băng. Các tài liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn
chính thức trên các báo cáo và được công bố trên các sách, báo, tạp chí và các
công trình nghiên cứu có liên quan ở trong và ngoài nước; các tài liệu của các
cơ quan quản lý ngành du lịch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Văn phòng Chính
phủ nước CNDCND Lào và các số liệu chính thức của tỉnh Luông Pra Băng
trong phạm vi thời gian mà luận án xác định nghiên cứu.
Chương 4, sử dụng phương pháp dự báo để làm rõ các yếu tố tác động
đến TTDL, dự báo xu hướng và triển vọng phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra
Băng, nước CNDCND Lào trong 10 năm tới.
Sử dụng phương pháp tổng hợp dựa trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm các
tỉnh, thực trạng TTDL và định hướng chiến lược phát triển của tỉnh Luông Pra
Băng để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị
trường này trên địa bàn của tỉnh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp hệ thống
thông qua kế thừa và tiếp thu có chọn lọc một số kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học đã công bố có liên quan đến TTDL ở trong và ngoài nước
để tránh sự lặp lại không cần thiết và góp phần bảo đảm tính liên tục trong tư
duy khoa học.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
5.1. Đóng góp về lý luận
Góp phần bổ sung và hoàn thiện lý luận về TTDLở tỉnh Luông Pra
Băng trong điều kiện mới của phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
của nước CHDCND Lào, với các nội dung sự cần thiết phải phát triển TTDL,
7
nội dung, tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển TTDL ở
một tỉnh của CHDCND Lào hiện nay.
5.2. Đóng góp về thực tiễn
Rút ra bài học về phát triển TTDL cho tỉnh Luông Pra Băng trong thời
gian tới từ kinh nghiệm phát triển TTDL của một số tỉnh trong nước và quốc tế.
Tổng kết, đánh giá đúng, khách quan thực trạng TTDL ở tỉnh Luông Pra
Băng, nước CHDCND Lào giai đoạn 2011 - 2018, đề xuất phương hướng và
giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị trường này ở tỉnh Luông Pra Băng,
CHDCND Lào đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
- Bên cạnh đó, kết quả của luận án còn là tài liệu tham khảo cần thiết
cho những nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách và nghiên cứu giảng dạy ở
các trường đại học và cao đẳng có liên quan đến đào tạo ngành du lịch của
tỉnh Luông Pra Băng nói riêng và của nước CHDCND Lào nói chung.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án bao gồm 4 chương, 11 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ
TRƯỜNG DU LỊCH
1.1.1. Nghiên cứu về bản chất và hình thức tổ chức thị trường du lịch
Trong "Didactic Encyclopedia" (Bách khoa toàn thư) [85] nêu khái
niệm: TTDL là nơi cung cấp dòng chảy và nhu cầu của các sản phẩm và dịch
vụ du lịch. TTDL bao gồm người mua và người bán. Các nhà cung cấp cung
cấp các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau có thể được điều chỉnh theo các
nhu cầu khác nhau và lý do mua hàng của người mua, vì vậy cần phải nhận
biết và phân loại các phân đoạn hoặc nhóm được phân biệt rõ ràng. Trong đó,
chỉ ra các yếu tố tạo nên TTDL, Nó được hình thành vào thế kỷ 19, khi những
tiến bộ của cuộc cách mạng công nghiệp cho phép con người di chuyển đến
các nơi khác với mục đích nghỉ ngơi, văn hóa, xã hội,...
Nghiên cứu thành phần của TTDL, có cuốn: "Marketing du lịch" của
Robert Lanquar và Robert Hollier [54], xác định những mốc lịch sử của tiếp thị
du lịch, khái niệm về tiếp thị du lịch; phân tích cung, cầu du lịch và một số yếu
tố khác cấu thành TTDL, lịch sử ra đời của tiếp thị du lịch. Nêu khuyến nghị
phát triển chiến lược tiếp thị du lịch: 1) phát triển mạng lưới bảo đảm việc
chuyên chở du khách có hiệu quả; 2) cải thiện các trang thiết bị tại các điểm du
lịch; 3) tăng cường phụ cấp cho một số dịch vụ tại chỗ; 4) áp dụng chính sách
giá mềm; và 5) cung về du lịch dựa vào cầu của từng nhóm khách du lịch,...
Trong cuốn: "Tourism: A New Perspective" (Du lịch: Một góc nhìn mới)
của Peter M. Burns và Andrew Holden [79] nêu nhận thức mới về du lịch,
thách thức thông thường và việc giải quyết vấn đề, đặc biệt là phát triển du lịch
như thế nào trong một hệ thống gia tăng toàn cầu hóa. Ba chủ đề nền tảng được
xác định là bền vững, phía Bắc - Nam và tranh luận việc tìm kiếm một phương
pháp tiếp cận toàn diện đến đối tượng theo hướng đa dạng TTDL.
9
Cuốn: "Key factors for successful sustainable heritage tourism in the
Baltic Sea Region" (Yếu tố quan trọng cho thành công của du lịch di sản bền
vững tại vùng biển Baltic) [87] giới thiệu kết quả nghiên cứu khoa học về cấu
trúc và yếu tố chính cho sự thành công trong hoạt động du lịch di sản của các
doanh nghiệp, các cơ quan và các hiệp hội du lịch tại vùng Biển Baltic (BSR).
Nó có ý nghĩa cung cấp dữ liệu về thông tin TTDL và chi phí.
Cuốn: "Kinh tế du lịch và du lịch học" của Đổng Ngọc Minh và Vương
Lôi Đình (Trung Quốc) [62] phân tích cơ sở lý luận cơ bản về du lịch và kinh
tế du lịch, nêu khái niệm du lịch, khái quát kinh tế du lịch, sản phẩm du
lịch,TTDL, vai trò của kinh tế du lịch, quy hoạch xây dựng khu du lịch... Đây
là một tài liệu tham khảo có liên quan đến lý luận cơ bản và thực tiễn hoạt
động du lịch của Trung Quốc mà nước CHDCND Lào có thể tham khảo.
Ngoài ra, còn có các nghiên cứu: "Tourism principle and practice"
(Nguyên tắc và thực hành du lịch) của Cooper, C.Gilbert; "Tourism marketing
and management hand book" (Tiếp thị du lịch và sổ tay hướng dẫn quản lý) của
Moutinho, L.Witt, S.F; "The challenge of Tourism" (Thách thức du lịch) của
O’Grady, Alison; "Tourism Management" (Quản lý du lịch) của S. Wahab và
"Travel and tourism marketing" (Du lịch và tiếp thị du lịch) của Victor T.C
Middleton,... Các công trình này đã quan tâm đến bản chất và hình thức của
TTDL, về du lịch giải trí ngoài trời, du lịch thắng cảnh, du lịch văn hóa, du lịch
tâm linh..., kinh tế học thời gian rỗi, tiếp thị du lịch và quản lý TTDL.
Ngoài những công trình xuất bản bằng tiếng Anh và một số thứ tiếng
khác, như tiếng Việt, như cuốn sách: "Kinh tế du lịch" của Robert Lanquar,
giới thiệu các mốc lịch sử của ngành du lịch, đồng thời tác giả đã đi sâu phân
tích những ảnh hưởng của TTDL đến phát triển kinh tế, những công cụ và
phương tiện phân tích kinh tế học du lịch và kinh doanh du lịch.
Cuốn: "Giáo trình kinh tế du lịch" của tác giả Nguyễn Văn Đính và
Trần Thị Minh Hòa [46] đã tiếp cận dưới góc độ kinh tế du lịch, trong đó
cung cấp các tri thức cơ bản về khái niệm du lịch, khách du lịch, sản phẩm du
lịch và tính đặc thù của nó; lịch sử hình thành, xu hướng phát triển và tác
động kinh tế - xã hội của du lịch. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển
10
của du lịch thế giới; hệ thống hóa những xu hướng phát triển cơ bản của
cầu và cung du lịch trên thế giới và phân tích các tác động về kinh tế - xã
hội của du lịch đối với một địa bàn phát triển du lịch. Đánh giá ngành du
lịch Việt Nam từ khi ra đời nhất là từ khi đổi mới đến nay. Khẳng định vai
trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và những
khó khăn, hạn chế và nguyên nhân mà kinh tế du lịch Việt Nam phát triển
chưa ổn định, thiếu bền vững, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng du
lịch to lớn hiện có.
Cuốn: "Thị trường du lịch" của tác giả Nguyễn Văn Lưu [57] đã nêu
những vấn đề tổng quan về TTDL, gồm: Khái niệm và những đặc điểm của
TTDL, các loại TTDL, phân tích một số yếu tố cơ bản trên TTDL. Tác giả đã
phân tích hai yếu tố của TTDL đó là cầu và cung du lịch; phân tích TTDL thế
giới và TTDL các nước Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) làm cơ sở
để so sánh, đánh giá TTDL của Việt Nam.
Cuốn: "Giáo trình Quản trị kinh doanh lữ hành" của Nguyễn Văn
Mạnh và Phạm Hồng Chương [60] đã khái quát lịch sử phát triển kinh doanh
lữ hành, các nội dung cơ bản của kinh doanh lữ hành, cơ cấu tổ chức và quản
trị nhân lực của doanh nghiệp lữ hành, quan hệ giữa nhà cung cấp với nhà
kinh doanh lữ hành,… Phác họa thực trạng kinh doanh lữ hành ở Việt Nam
giai đoạn năm 1990 - 2004. Chỉ rõ xu hướng tiêu dùng du lịch và các giải
pháp nhằm phát triển kinh doanh du lịch lữ hành ở Việt Nam đến năm 2010.
Trong đề tài: "Phân tích thị trường khách du lịch Phượt" của Đinh Thị
Thanh Hiền [48] đã nghiên cứu về khái niệm, vai trò, đánh giá thực trạng và nêu
một số khuyến nghị về phát triển thị trường khách du lịch Phượt là người Việt
Nam nhằm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và kinh doanh của doanh
nghiệp trên TTDL. Đây là một hình thức kinh doanh du lịch mới, bổ ích cho đề
tài luận án của nghiên cứu sinh.
1.1.2. Nghiên cứu về vai trò của thị trường du lịch
Cuốn: "Tourism: past, present and future" (Du lịch - quá khứ, hiện tại
và tương lai) của Burkart and Medlik [80] đã xác định TTDL trong những
năm gần đây đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thương mại thế giới và
11
là một yếu tố quan trọng trong cán cân thanh toán của nhiều quốc gia, tăng
trưởng nhanh hơn thương mại hàng hóa. Du lịch tạo ra việc làm và sự giàu có
và trong nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa xã hội, chính trị, môi trường và văn hóa.
Cách tiếp cận cơ bản của tác giả là quan niệm về TTDL như một nghiên cứu
của chính nó trong đó kiến thức được xây dựng và kiểm tra một cách có hệ
thống. Đã cố gắng rút ra một sự tổng hợp giữa lý thuyết và thực tiễn và để
phản ánh bản chất năng động của TTDL nửa sau thế kỷ XX và bàn về các xu
hướng lịch sử.
Cuốn: "The Economics of Leisure and Tourism" (Kinh tế học về giải trí
và du lịch) của John Tribe [91], nghiên cứu xoay quanh các vấn đề về tổ chức
và quảng bá hoạt động giải trí và du lịch trong mối tương quan với môi trường
quốc tế; tác động của kinh doanh giải trí và du lịch đối với nền kinh tế quốc
gia, với các vấn đề về môi trường và đầu tư và quan tâm đến các phạm trù lợi
nhuận, doanh thu, chi phí vận hành...
Cuốn: "Thị trường dịch vụ ở Hải Phòng trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế" của tác giả Phạm Thị Thúy [69] nghiên cứu lý luận và thực tiễn về
đặc điểm và xu hướng phát triển của hai ngành dịch vụ gồm vận tải biển và du
lịch ở Hải Phòng. Xác định TTDL khái niệm về TTDL, chỉ ra xu hướng cạnh
tranh trên TTDL nhằm tìm kiếm điều kiện có lợi nhất trong việc cung ứng các
sản phẩm du lịch để khai thác tối đa các nhu cầu thị trường với năng lực hiện có.
Đề tài: "Cơ sở khoa học phát triển du lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc
Trung Bộ" của Phạm Trung Lương [58] đã đánh giá vị trí và vai trò của du
lịch đảo ven bờ trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ của Việt Nam và trong phát triển du
lịch Hành lang Kinh tế Đông - Tây (EWEC). Đã phân tích đặc điểm tài
nguyên du lịch và các nguồn nhân lực có liên quan đến phát triển du lịch tại
các đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Thực trạng phát triển du lịch trên
các đảo, những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đối với phát triển
du lịch đảo ven bờ; Định hướng phát triển những sản phẩm du lịch biển, đảo
12
đặc trưng của các đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ trong mối quan hệ
với "cầu". Nghiên cứu phát triển TTDL bền vững gắn với hoạt động bảo tồn,
phát triển cộng đồng với xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an ninh, quốc phòng
và đề xuất các giải pháp đảm bảo sự phát triển du lịch đảo bền vững.
Bài: "Thai Interpretation of Socio-cultural Impacts of Tourism
Development in Beach Resort" (Giải thích các tác động xã hội văn hóa của Thái
trong phát triển du lịch tại Bãi biển) của Somruthai Soontayatron [103] đã
nghiên cứu về tầm quan trọng của Phật giáo trong văn hóa Thái, tư tưởng người
Thái. Lý thuyết trao đổi xã hội của cư dân sở tại là rất hữu ích cho việc đánh giá
tác động du lịch. Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan của nền văn hóa Thái Lan
vốn là cần thiết để giải thích cấu trúc xã hội của người dân về những tác động
văn hóa xã hội phát triển TTDL thoát ra khỏi cách giải thích văn hóa xã hội
thuần túy ở phương Tây.
Bài: "The importance of the Muslim travel market" (Tầm quan trọng
của TTDL Hồi giáo) của Shamilka Rasheed [104] đã phân tích TTDL Hồi
giáo, coi là một TTDL chi tiêu cao nhất thế giới. Điều quan trọng là các điểm
đến, doanh nghiệp và các thực thể liên quan đến du lịch phải cân nhắc nhu cầu
của phân đoạn thị trường này. TTDL Hồi giáo có tiềm năng to lớn nhưng
chưa được khai thác cho với nhiều cơ hội kinh doanh và mức tăng doanh thu
trong tương lai. Bởi vậy, cần phải đa dạng hóa TTDL để phát triển.
Ngoài ra, còn có các bài như: "The importance of the multi-purpose
journey to work in urban travel behavior" (Tầm quan trọng của hành trình đa
mục đích để làm việc trong hành vi du lịch đô thị) của Susan Hanson [102]; "The
Importance of Marketing in Tourism" (Tầm quan trọng của tiếp thị trong du lịch)
của Trudy Brunot, http://bizfluent.com/, Updated April 19, 2018 và các nghiên
cứu về tầm quan trọng của chuyến đi công tác đa mục đích trong mô hình du
lịch tổng thể của hộ gia đình thành thị. Có bài hướng vào xem xét bản chất
của các liên kết du lịch do công việc sinh ra,…
13
1.1.3. Nghiên cứu liên quan đến nội dung, các nhân tố ảnh hưởng
và kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch
- Nghiên cứu về nội dung phát triển thị trường du lịch
Cuốn: "Tổ chức và kinh doanh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ ở
Việt Nam" của Hoàng Đức Thân [68] nghiên cứu phát triển thị trường hàng
hóa, dịch vụ trong đó có TTDL ở Việt Nam trong tổng thể thị trường xã hội.
Cuốn: "Một số vấn đề về du lịch Việt Nam" của Định Trung Kiên [51] nêu và
phân tích những vấn đề cơ bản du lịch Việt Nam như: tài nguyên du lịch,
quản lý nhà nước về du lịch, qui hoạch phát triển du lịch, trong đó có quan
tâm tới một số vấn đề có liên quan đến TTDL.
Cuốn: "Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam" của tác
giả Nguyễn Anh Tuấn [72] hướng vào khái quát một số lý luận cơ bản về
cạnh tranh điểm đến trong phát triển du lịch; áp dụng một số mô hình và
phương pháp nghiên cứu mới để phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh
tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam; chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu,
cơ hội và áp lực cạnh tranh điểm đến đối với ngành du lịch Việt Nam, đề xuất
quan điểm, khuyến nghị chính sách và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
điểm đến của ngành du lịch Việt Nam với những luận cứ chặt chẽ, toàn diện
và khả thi.
Trong cuốn: "Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế
quốc tế" của Trần Xuân Ảnh [42] nghiên cứu phân tích cơ sở lý luận, thực
tiễn TTDL và đánh giá thực trạng TTDL Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế
quốc tế, phác họa những thành tựu và vấn đề đặt ra cần khắc phục; dự báo
xu hướng phát triển TTDL quốc tế và quốc gia, để đề xuất phương hướng và
giải pháp phát triển thị trường này ở tỉnh Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế
quốc tế.
Cuốn: "Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại vùng du lịch Bắc Bộ
của Việt Nam" của tác giả Hoàng Thị Lan Hương [49] đã làm rõ cơ sở lý luận
về kinh doanh lưu trú du lịch, phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch,
14
xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển kinh doanh lưu trú du
lịch bền vững. Phân tích, tổng kết và rút những bài học kinh nghiệm quốc tế
từ nghiên cứu mô hình phát triển kinh doanh lưu trú du lịch bền vững của một
số nước ASEAN; phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp đột phá cho phát
triển các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch và các chủ thể quản lý nhà nước tại
vùng du lịch Bắc Bộ của Việt Nam.
- Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTDL
Bài: "Factors influencing Vietnam's tourism development" (Các yếu tố
ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của Việt Nam) của tác giả Nguyễn Thị
Khánh Chi và Hà Thục Viên [108] đã nghiên cứu điều tra trình độ của các nhà
phát triển du lịch và các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển ngành du
lịch tại 12 tỉnh, thành phố hấp dẫn nhất của Việt Nam (Quảng Ninh, Hà Nội,
Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Bình Thuận,
Bà Rịa-Vũng Tàu, Cần Thơ, Kiên Giang và TP HCM) được chọn ngẫu nhiên
để khảo sát, phỏng vấn với 32 biến đặt trước; phân tích dữ liệu bằng cách sử
dụng các công cụ phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi quy
tuyến tính đa tuyến tính (MLRA). EFA đã được sử dụng để thu hút 11 biến số
có liên quan nhất được phân thành ba nhóm: (i) Thành phần nội bộ của ngành
du lịch bao gồm hệ thống quản lý du lịch, hạ tầng du lịch, hạ tầng xã hội, bảo
hiểm kinh tế cho khách sạn, ứng dụng công nghệ trong du lịch; (ii) Các thành
phần bên ngoài ảnh hưởng đến ngành du lịch bao gồm môi trường chính trị,
môi trường văn hóa, môi trường cạnh tranh và (iii) Tài nguyên du lịch bao
gồm ý thức tốt về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, giá trị văn hóa.
Theo EFA, MLRA đã được áp dụng để xác định các biến số (yếu tố) chính
ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch Việt Nam, theo thống kê. Kết quả hồi quy
tuyến tính đa biến cho thấy ảnh hưởng của các nhóm yếu tố này đối với sự
phát triển du lịch Việt Nam với mức độ đáng kể là 1%. Đây là tài liệu có thể
gợi ý cho nghiên cứu sinh về phương pháp đánh giá định lượng tác động của
các nhân tố đến TTDL trong thực hiện đề tài luận án của mình.
15
Bài: "The Main Factors In fluencing the Destination Choice, Satisfaction
and the Loyalty of Ski Resorts Customers in the Context of Different Research
Approaches" của Monika Bédiová, Kateřina Ryglová [95] đã tóm tắt các
phương pháp khoa học trong nghiên cứu về sự lựa chọn điểm đến, sự hài lòng và
lòng trung thành của các khách hàng khu nghỉ mát trượt tuyết. Phân tích về các
mô hình và xu hướng hiện có từ các tạp chí khoa học để đưa ra phương thức
thích ứng, thu hút và "giữ chân" du khách tại các điểm du lịch trượt tuyết.
Ngoài ra, còn có những nghiên cứu thực tiễn ở một số nước để rút ra
những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTDL, như bài: "Factors
Affecting Marketing in Travel and Tourism" của Robert Morello [99]. Trong đó
bao gồm: Sự kiện, các mùa vụ, tỷ giá tiền tệ, mức độ phát triển của điểm đến
du lịch, hỗ trợ của Chính phủ, xu hướng du lịch. Bài: "Factors Affecting Hotel
Industry Development in Portugal" của TS Minoo Farhangmehr &TS Cláudia
Sim [94] đã bàn về sự cần thiết phải thích nghi và cải thiện nguồn cung cấp du
lịch để đáp ứng với động lực nhu cầu du lịch mới. Quá trình phát triển của
ngành khách sạn chịu ảnh hưởng của các yếu tố: hợp tác với các đơn vị khác;
dịch vụ và tùy biến khác biệt; sự hỗ trợ đa dạng từ các Ban Chính phủ; hỗ trợ
đào tạo; tính hấp dẫn của khu vực nơi đơn vị đặt; sự ủng hộ của gia đình và
cam kết của người quản lý đối với vốn của công ty; hỗ trợ tiếp thị; miễn thuế và
ưu đãi; quảng bá và mở rộng phạm vi dịch vụ. Bài: "Factors affecting the
development of catering enterprises in Poland" của Edyta Gheribi [86] đã
nghiên cứu sự phát triển của dịch vụ ăn uống phục vụ khách du lịch chắc chắn
liên quan đến những thay đổi kinh tế và xã hội diễn ra ở Ba Lan, đề xuất sự
phát triển ngành này ở tất cả các tỉnh cho cả người giàu và người nghèo. Bài:
"Factors influencing local tourists' decision-making on choosing a destination
a case of Azerbaijan"của Javid Seyidov, Roma Adomaitienė [88] đã phân tích
các yếu tố xã hội, văn hóa, cá nhân và tâm lý ảnh hưởng đến việc ra quyết
định của khách du lịch Azerbaijan để đi du lịch đến các loại điểm du lịch khác
nhau với các thuộc tính khác nhau như: điểm tham quan, tiện nghi, khả năng
tiếp cận, hình ảnh, giá cả và nguồn nhân lực thực hiện.
16
- Nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch
Cuốn: "Networks, clusters and innovation in tourism: A UK
experience" (Mạng, cụm và đổi mới trong du lịch: Kinh nghiệm của Vương
quốc Anh), nhóm tác giả Marina Novelli, Birte Schmitz và TrishaSpencer
[96] đã nêu quan niệm trong thời đại mà du lịch bị chi phối bởi các yêu cầu
trải nghiệm phù hợp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò chính trong việc
cung cấp đầy đủ các sản phẩm và dịch vụ cho khách du lịch bằng cách đáp ứng
các yêu cầu cụ thể nhất của họ. Bằng việc sử dụng mạng lưới và các cụm làm
khuôn khổ cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cơ hội đổi mới để hoạt
động trong môi trường du lịch cạnh tranh; tập trung vào các vấn đề cụ thể của du
lịch lối sống lành mạnh, lấy bài học ở nước Anh được để thảo luận về quy trình
và ý nghĩa của việc phát triển mạng lưới và cụm trong du lịch.
Nguyễn Trùng Khánh với cuốn: "Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông
Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam" [50] đã hệ thống hóa một số lý luận cơ
bản liên quan đến việc phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội
nhập quốc tế và kinh nghiệm của một số nước Đông Á gồm: Trung Quốc,
Malaysia và Thái Lan mà Việt Nam có thể tham khảo. Đánh giá thực trạng
phát triển dịch vụ lữ hành du lịch của Việt Nam và đề xuất giải pháp, kiến
nghị về chính sách phát triển dịch vụ này ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, còn có công trình có liên quan đến TTDL tiêu biểu như bài:
"Determinants of Market Competitiveness in an Environmentally Sustainable
Tourism Industryn" của Salah Hassan [105], trong đó xác định du lịch phải trải
qua những thay đổi đáng kể và đối mặt với những thách thức mới, nó đòi hỏi
những quan điểm mới. Ít nhất là: (1) các hình thức du lịch mới, được đặc trưng
bởi xu hướng khởi hành từ du lịch đại chúng; và (2) phổ biến công nghệ thông
tin và truyền thông, với tác động lan rộng đến việc tạo ra, sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm du lịch. Thành công, hạn chế của hầu hết các nỗ lực khai thác các
ngóc ngách cơ hội đòi hỏi phải coi trọng trải nghiệm như một thuộc tính mới
17
quan trọng hoạch định các chiến lược, chính sách và sự tích hợp của khía cạnh
thông tin - xã hội TTDL,...
1.1.4. Nghiên cứu liên quan đến đánh giá thực trạng thị trường du lịch
Nguyễn Quỳnh Nga trong cuốn: "Nghiên cứu và đánh giá một số đặc
điểm của thị trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát triển nguồn khách
của du lịch Việt Nam" [64] đã nêu khái niệm về thị trường khách du lịch, các
nguồn khách, một số nhân tố ảnh hưởng và các nguyên tắc khai thác thị
trường khách; phân tích đặc điểm thị trường khách du lịch Nhật Bản và Trung
Quốc đến Việt Nam dựa trên kết quả điều tra xã hội học đối với khách du lịch
và đề xuất giải pháp khai thác nguồn khách này. Công trình nghiên cứu này
có ý nghĩa ứng dụng vào trong thực tiễn đối với ngành du lịch phát triển
TTDL, là tài liệu có ích cho việc phát triển lữ hành và quản lý du lịch.
Đề tài: "Thị trường du lịch ASEAN và hướng khai thác của du lịch Việt
Nam" của Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch [74] từ nghiên cứu về những
đặc điểm cơ bản của TTDL các nước ASEAN và xu hướng phát triển, mối
quan hệ, tác động của nó tới du lịch Việt Nam để xác định cơ sở khoa học cho
việc đề xuất các chính sách, phương hướng cho phát triển TTDL Việt Nam
nhằm khai thác một cách hiệu quả nhất TTDL này, góp phần tích cực trong
hội nhập du lịch Việt Nam theo xu hướng phát triển chung của các nước
ASEAN và thế giới.
Cuốn: "Thị trường du lịch tỉnh Hà Tây" của tác giả Hoàng Thị Ngọc Lan
[52] đã phân tích lý luận về cầu du lịch cho rằng đó là tổng số lượng sản phẩm
du lịch mà khách có khả năng và sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau
trong một khoảng thời gian nhất định. Cầu du lịch rất phức tạp và đa dạng, nó
phụ thuộc trước hết vào nhu cầu của du khách đối với các sản phẩm du lịch...
Từ đó, đánh giá thực trạng phát triển TTDL ở tỉnh Hà Tây, những yếu kém và
nguyên nhân; đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
thị trường này trong thời gian tới.
Đề tài: "Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển quốc
gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ" của Nguyễn Thu Hạnh [47]. Các tác giả
18
đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về du lịch biển và phát triển khu
du lịch biển quốc gia. Nêu khái niệm mới về sản phẩm du lịch của khu du lịch
biển quốc gia, kinh nghiệm nước ngoài về phát triển khu du lịch biển. Phân
tích, đánh giá thực trạng của phát triển các khu du lịch biển Việt Nam tại
vùng Bắc Trung Bộ và đề xuất định hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển các
khu du lịch này đến năm 2020.
Hà Văn Siêu trong "Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
đối với du lịch Việt Nam bước sang thập kỷ tới 2011 - 2020" [67] đã đưa ra
những nhận định tổng quát thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt
Nam giai đoạn 1995 - 2010, tìm điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức, đòi
hỏi bước sang thập kỷ tới đến năm 2020, tầm nhìn 2030 phải tái cấu trúc và thay
đổi mô hình tăng trưởng chuyển sang tập trung phát triển theo chiều sâu, có tính
lựa chọn và ưu tiên trọng điểm, có chất lượng và thể hiện ở thương hiệu nổi
bật, có giá trị gia tăng cao, đảm bảo hiệu quả bền vững và tăng cường năng
lực cạnh tranh.
Nghiên cứu đánh giá về thực trạng TTDL Việt Nam của tác giả Văn
Dương (2017) đã nêu bức tranh tổng quát về TTDL Việt Nam giai đoạn 2011
- 2017, năng lực cạnh tranh của ngành du lịch dựa vào bảng xếp TTCI của
Diễn đàn kinh tế thế giới (WRF) 2015, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội,
thách thức của du lịch Việt Nam trong hội nhập quốc tế; nêu quan điểm định
hướng mới trong phát triển du lịch. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích cho công
trình luận án của nghiên cứu sinh [45].
1.1.5. Nghiên cứu liên quan đến phương hướng và giải pháp phát
triển thị trường du lịch
- Nghiên cứu liên quan đến quan điểm và phương hướng phát triển TTDL
Bài: "New diredtions in tourism for third World development" (Những
hướng đi mới trong du lịch cho phát triển Thế giới thứ ba) của John Brohman
[90] đã phân tích sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch Thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, cũng gặp phải nhiều vấn đề chung đối với các chiến lược phát
triển hướng ngoại, bao gồm: phụ thuộc nước ngoài quá mức, tạo ra các khu
19
vực riêng biệt, củng cố sự bất bình đẳng về kinh tế xã hội và không gian, hủy
hoại môi trường và văn hóa xa lánh. Để tránh những vấn đề như vậy, các cơ
chế thể chế cần được tạo ra để khuyến khích sự tham gia của Nhà nước và
cộng đồng vào kế hoạch du lịch.
Bài: "Limits to community participation in the tourism development
process in developing countries" (Giới hạn sự tham gia của cộng đồng vào quá
trình phát triển du lịch ở các nước đang phát triển) của tác giả Cevat Tosun [82]
phân tích và giải thích những hạn chế đối với phương pháp phát triển du lịch
có sự tham gia của cộng đồng tại các nước đang phát triển. Giới hạn hoạt động,
cấu trúc và văn hóa đối với sự tham gia của cộng đồng vào TTDL ở nhiều nước
này mặc dù chúng không tồn tại như nhau ở mọi điểm đến. Định hướng việc
xây dựng phát triển du lịch có sự tham gia đòi hỏi phải có sự thay đổi hoàn
toàn về cấu trúc xã hội, chính trị, hành chính và kinh tế của nhiều nước đang
phát triển, trong đó các lựa chọn chính trị và các quyết định hợp lý bên cạnh
sự của các cơ quan tài trợ quốc tế lớn, tổ chức phi chính phủ, nhà điều hành
tour du lịch quốc tế và các công ty đa quốc gia.
Bài: "The Effect of Internal Marketing on Organizational Commitment
from Market-Orientation Viewpoint in Hotel Industry in Iran" (Ảnh hưởng của
tiếp thị nội bộ đến cam kết tổ chức theo quan điểm định hướng thị trường
trong ngành công nghiệp khách sạn ở Iran) của tác giả Mehdi Abzari [97] đã
nhận dạng cách tiếp thị nội bộ ảnh hưởng đến cam kết của tổ chức kinh doanh
du lịch. Trong đó, đã sử dụng một bảng 30 câu hỏi để nghiên cứu 100 mẫu
quản lý và quản trị khách sạn tại tỉnh Isfahan của Iran có thử nghiệm bằng
phần mềm LISREL phân tích dữ liệu và rút ra kết luận tiếp thị nội bộ có ảnh
hưởng đến cam kết của tổ chức trực tiếp và gián tiếp thông qua định hướng thị
trường. Ảnh hưởng của các yếu tố này có ý nghĩa đối với cam kết của tổ chức
trực tiếp kinh doanh du lịch. Lượng chỉ số độ tốt (AGFI = 0,96, GFI = 0,99)
cho thấy sự phù hợp của mô hình.
Bài: "Market Orientation in the Tourism Industry" (Định hướng thị
trường trong ngành du lịch) của tác giả Jan-Erik Jaensson [89] cho rằng định
20
hướng thị trường là rất quan trọng đối với mỗi công ty, nhưng đặc biệt quan
trọng đối với các công ty trong ngành du lịch, vì hoạt động kinh doanh của họ
dựa trên các dịch vụ. Từ đó, xem xét các quan điểm của các nhà quản lý du
lịch về tầm quan trọng của các yếu tố liên quan đến định hướng thị trường.
Đây là một nghiên cứu giới thiệu cho một dự án nghiên cứu du lịch lớn hơn
bắt đầu từ năm 1999.
Trong cuốn: "Khai thác và mở rộng TTDL quốc tế của các doanh
nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội" của Phạm Hồng Chương [44] hướng vào
phân tích cơ sở lý luận về khai thác và mở rộng TTDL quốc tế của các doanh
nghiệp lữ hành trên TTDL quốc tế, khó khăn và thuận lợi, những điểm mạnh
và điểm yếu, thực trạng khai thác thị trường quốc tế của các doanh nghiệp lữ
hành trên địa bàn Hà Nội, phương hướng và giải pháp hoàn thiện kinh doanh
du lịch của các doanh nghiệp lữ hành Hà Nội, trong đó có nêu đánh giá và
khai thác điều kiện tự nhiên và tài nguyên Ba Vì phục vụ mục đích kinh
doanh du lịch.
Trong cuốn: "Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc trung bộ trong hội nhập
kinh tế quốc tế" của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lâm [55] đã phân tích cơ sở lý
luận và thực tiễn về kinh tế du lịch trong hội nhập quốc tế với các nội dung:
các bộ phận cấu thành, mối quan hệ giữa kinh tế du lịch với sự phát triển kinh
tế - xã hội và các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế du lịch; kinh nghiệm về phát
triển kinh tế du lịch của Trung Quốc, Thái Lan và Singapore; phân tích, đánh
giá thực trạng kinh tế du lịch, rút ra điểm mạnh, điểm yếu trong phát triển
kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy phát triển.
Bài: "The problems of development of the Ukrainian tourist market and
ways of their solutions" (Những vấn đề phát triển của TTDL Ucraina và cách
giải quyết) [110], nhóm tác giả nêu quan điểm du lịch là hiện tượng chính trị xã
hội quan trọng, là một trong những thành phần quan trọng nhất của nền kinh tế
toàn cầu. Phân tích thực trạng thị trường dịch vụ khách sạn của Ukraine, môi
21
trường vĩ mô và vi mô của nó, những vấn đề cấp bách của phát triển ngành du
lịch ở quốc gia này.
- Nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển thị trường du lịch
Ngoài các nghiên cứu có tính tổng hợp cả về quan điểm, phương hướng
và giải pháp đã nêu trong tổng quan ở trên, gần đây còn có những nghiên cứu
sâu về giải pháp cho vấn đề này. Tiêu biểu là: Cuốn: "Những giải pháp phát
triển du lịch sinh thái Việt Nam trong xu thế hội nhập" của tác giả Nguyễn Thị
Tú [73] đã làm rõ khái niệm về du lịch sinh thái, yêu cầu và nội dung phát triển
du lịch sinh thái. Những cơ hội và thách thức đối với phát triển du lịch sinh thái
trong hội nhập. Phân tích kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái của một số
nước như: Australia, Newzealand, Pháp, Indonesia, Malaysia, Thái Lan,...và
xem xét điều kiện của Việt Nam, tác giả đã đánh giá thực trạng phát triển du
lịch sinh thái Việt Nam để đề xuất những giải pháp chủ yếu phát triển nó
trong giai đoạn tới.
Bài: "Some solutions to diversify tourist products in the orchard of Lai
Thieu" của tác giả Nguyễn Văn Thanh và Nguyễn Quang Vũ [98] nghiên cứu
giới thiệu vườn Lái Thiêu là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn cho du khách
đến tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do nhiều lý do
chủ quan và khách quan có ảnh hưởng sâu sắc đến thương hiệu du lịch vườn
Lái Thiêu. Xây dựng hình ảnh vườn cây ở Lái Thiêu là một vấn đề cấp thiết
cho sự phát triển du lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình
Dương nói chung. Ngoài các giải pháp kinh tế và kỹ thuật để khôi phục vườn
cây gắn liền với du lịch sinh thái, định hướng của tuyến đường và các tour để
phát triển du lịch là vấn đề cần được ưu tiên hàng đầu trong tương lai gần.
Ngoài ra, còn có các công trình, như: "Tourist Transportation Problems
and Guidelines for Developing the Tourism Industry in Khon Kaen, Thailand"
(Các vấn đề giao thông du lịch và hướng dẫn phát triển ngành du lịch ở Khon
Kaen, Thái Land), của nhóm nghiên cứu Komain Kantawateera, Aree Naipinit,
Thongphon Promsaka Na Sakolnakorn và Patarapong Kroeksakul [92] đã nghiên
cứu đề xuất giải pháp thiết kế bền vững với môi trường việc thúc đẩy phát triển
22
hệ thống giao thông công cộng và các cơ sở như vệ sinh công cộng, lối đi cho
người khuyết tật và người già tạo điều kiện cho phát triển TTDL ở tỉnh Khon
Kaen của Thái Lan.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ
TRƯỜNG DU LỊCH
Tại nước CNDCND Lào, việc nghiên cứu về du lịch đã được quan tâm
nhiều hơn trong những năm gần đây. Những nghiên cứu trong nước thường
hướng vào xác định cơ sở của việc hoạch định đường lối và chính sách phát
triển ngành du lịch, kinh nghiệm của các nước về phát triển ngành kinh tế này
và đã có một số nghiên cứu quan tâm đánh giá thực tiễn phát triển ngành du
lịch của nước CNDCND Lào thời gian qua. Dưới đây là những nghiên cứu
tiêu biểu có liên quan đến TTDL được công bố và xuất bản ở Lào.
Bài: "Một số ảnh hưởng của du lịch tác động đến kinh tế, văn hóa - xã
hội và môi trường của Lào" của Thatsadaphone MEEXAY [40]. Tác giả bài
viết nghiên cứu tới việc phát triển và khuyến khích du lịch, phân tích kinh
nghiệm của các chuyên gia, chủ yếu nghiên cứu đến vấn đề tổ chức thực hiện
pháp luật du lịch và đề xuất tới việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với ngành du lịch và góp phần định vào việc phát triển TTDL cho các cơ
quan, đơn vị và cá nhân của Lào.
Bài: "Một số ảnh hưởng của du lịch tác động đến kinh tế, văn hóa - xã
hội và môi trường của Lào" [39]. Bài viết đánh giá việc tác động đến đời sống
môi trường ở Lào, đã đưa ra phương hướng giải quyết nguyên nhân của
những hạn chế có thể tác động đến môi trường sống ở Lào. Tác giả của bài
viết còn chỉ ra những quy định, những kế hoạch và chiến lược về phát triển
TTDL của Lào và các ngành khác có liên quan tới vấn đề kinh tế - xã hội và
môi trường bền vững.
Cuốn: "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào" của Phutsady PHANYASITH [30] đã
nêu được những vấn đề về lý luận và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
TTDL ở Lào, đưa ra khái niệm, đặc điểm và các điều kiện bảo đảm quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Lào. Nghiên cứu kinh nghiệm
23
của Việt Nam, Thái Lan, Malaysia; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch ở Lào qua 25 đổi mới, từ khi Quốc hội năm 2005 về Luật Du
lịch ban hành. Đề xuất mục tiêu và phương hướng phát triển TTDL ở Lào trong
thời gian tới, quan điểm và những giải pháp này nhằm bảo đảm quản lý nhà
nước về pháp luật đối với TTDL ở Lào.
Luận án: "Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào" của Som khith VONGPANNHA [35] tiếp cận từ
góc độ quản lý kinh tế hướng làm rõ những vấn đề lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn quản lý nhà nước về du lịch cấp tỉnh, phân tích thực trạng, hạn chế
và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên
địa bàn tỉnh Bo Kẹo, CHDCND Lào đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Bài: "Xúc tiến du lịch ở tỉnh Khăm Muộn" của tác giả Ma Nô Thong
PHÔNG SA VĂN [28] trên quan điểm du lịch là một ngành kinh tế quan
trọng đóng vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa
phương, tác giả phân tích xúc tiến du lịch; tầm quan trọng của xúc tiến du lịch
như nâng cao chức nâng nhiệm vụ, thúc đẩy việc du lịch được phát triển nâng
cao có hiệu quả và bảo đảm cho khách du lịch có hài lòng, xúc tiến du lịch
phải gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
Bài : "Phát triển khu di sản quốc gia ở huyện Viêng Xay tỉnh Hua Phăn
trở thành điểm du lịch lịch sử" của tác giả Thong Sa Văn BUN LỚT [41]. Tác
giả được hệ thống hóa một số nội dung lý luận về di sản quốc gia, về du lịch lịch
sử và các quy định hợp lý quốc tế về bảo vệ di sản. Tác giả đi sau phân tích mối
quan hệ tương tác hai chiều giữa du lịch lịch sử và di sản quốc gia, những thuận
lợi và thách thức đặt ra từ phát triển du lịch lịch sử đối với việc bảo vệ nguyên
trạng di sản quốc gia ở huyện Viêng Xay tỉnh Hua Phăn; mô tả và phân tích các
trường hợp thực tế điển hình về sự thành công trong việc duy trì sự cân bằng và
khai thác hiệu quả yếu tố tích cực trong quan hệ tương tác du lịch lịch sử - di sản
quốc gia.
Bài: "Du lịch là một ưu tiên của sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Xiêng Khoảng" của tác giả Khăm Cọn UA NUÔN SA [27] đã giới thiệu về
24
địa lý vị trí của tỉnh và lợi thế về mặt du lịch tự nhiên, du lịch lịch sử, du lịch
văn hóa nổi tiếng, tiêu biểu nổi bật là điểm du lịch Cảnh Đồng Chum sẽ trở
thành di sản thế giới là điều kiện quảng bá thu hút khách du lịch đến Xiêng
Khoảng. Nội dung là đề cập đến vai trò và tầm quan trọng của kinh tế du lịch
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Xiêng khoảng, trong đó nhấn mạnh
về số lượng khách du lịch và tổng thu nhập từ du lịch những năm 2011 - 2012
đã góp phần vào ngân sách của tỉnh để giúp cho tỉnh phát triển kinh tế - xã hội
trong địa bàn của mình.
Bài: "Sự phát triển khu du lịch tự nhiên ở tỉnh Sa La Văn" của tác giả
Pun Sắc SAY NHA SEN [29] chỉ ra lợi thế phát triển du lịch tự nhiên ở tỉnh
và tập trung vào các nhân tố như thị trường khách du lịch, thu nhập du lịch,
sản phẩm du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và không gian du lịch,
công tác quảng bá du lịch.
Bài: "Một số vấn đề tác động tiêu cực từ du lịch ở tỉnh Luông Pra
Băng" của tác giả Seng Ma Ni PHẾT SA VÔNG [34] phân tích tình hình phát
triển kinh tế du lịch của tỉnh trong thời gian gần đây, chỉ ra tác động tiêu cực
trong quá trình phát triển kinh tế du lịch của tỉnh đến một số mặt của kinh tế,
xã hội, văn hóa và môi trường.
1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Nhận xét chung về những công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài luận án
Những kết quả đạt được
Các công trình, bài viết đã công bố trong và ngoài nước Lào nêu ở phần
trên đã nghiên cứu, giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
TTDL. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về lý luận đã làm rõ một số nội dung cơ bản TTDL như: tính
tất yếu ra đời và phát triển của TTDL, vai trò của TTDL đối với phát triển ngành
kinh tế du lịch và đối với phát triển các ngành kinh tế khác, coi TTDL là bộ phận
của thị trường chung, phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du
25
lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua với người bán, giữa cung
với cầu và toàn bộ các mối quan hệ đặc điểm của TTDL.
Đã phân tích khá kỹ hai yếu tố cấu thành TTDL bao gồm cung và cầu
về du lịch và mối quan hệ giữa chúng. Một số công trình đã phân tích hình
thức của TTDL theo sản phẩm du lịch như du lịch sinh thái và du lịch văn hóa;
Hình thức của TTDL theo mục đích như du lịch nghỉ ngơi, du lịch văn hóa, du
lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch chữa bệnh, du lịch thăm hỏi, du lịch tín
ngưỡng, tâm linh... Vấn đề kinh doanh lưu trú du lịch, chỉ tiêu đánh giá mức
độ phát triển kinh doanh lưu trú du lịch bền vững cũng đã được phân tích khá
rõ ràng.
Vấn đề cạnh tranh trên TTDL cũng đã được quan tâm nghiên cứu như
cạnh tranh về điểm đến, về sản phẩm du lịch và cạnh tranh về thu hút khách
du lịch trong nước và quốc tế.
Việc nghiên cứu lý thuyết về định hướng thị trường ngành du lịch cũng
đã có một số kết quả như đã chỉ ra được tầm quan trọng và vai trò của nhà
quản lý trong việc phát triển dự án kinh doanh trên TTDL, định hướng kinh
doanh khách sạn, định hướng kết nối các tour du lịch, định hướng về sự tham
gia của cộng đồng dân cư địa phương trong thu hút khách du lịch.
Tại Lào, cũng đã có nghiên cứu lý luận mang tính hệ thống về quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở CHDCND Lào; quản lý nhà
nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo trong đó đã làm rõ cơ sở
lý luận của việc quản lý bao gồm đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, chủ thể
quản lý và khách thể quản lý. Trong nội dung nghiên cứu, các tác giả có quan
tâm đến quản lý nhà nước đối với TTDL.
Thứ hai, về thực tiễn có hai hướng nghiên cứu liên quan đến TTDL
gồm: nghiên cứu kinh nghiệm để phát triển và nghiên cứu tổng kết thực tiễn.
Phần nghiên cứu kinh nghiệm đã đi sâu phân tích đặc điểm hoạt động
và cơ chế vận hành TTDL quốc tế làm cơ sở để một công ty có thể tìm kiếm
giải pháp khai thác và mở rộng thị trường. Kinh nghiệm về cung cấp sản
phẩm du lịch của các công ty kinh doanh ở Vương quốc Anh, của một số
26
nước Đông Á như Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan; nghiên cứu chiến lược
đổi mới và công nghệ du lịch dựa trên kinh nghiệm.
Đã có một số nghiên cứu tổng kết thực tiễn hoạt động kinh doanh du lịch
trên thị trường của các nước thuộc Hiệp hội du lịch ASEAN (ASEANTA).
Nghiên cứu thực tiễn phát triển TTDL đã có nhiều chú ý trong tiếp cận kinh tế
học phát triển, như phân tích hoạt động của một số TTDL: thị trường khách du
lịch Phượt, thị trường về một số lĩnh vực dịch vụ du lịch như du lịch tâm linh, du
lịch văn hóa, du lịch biển đảo, du lịch vườn sinh thái, TTDL gắn với hoạt động
bảo tồn, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, tiếp thị trong du lịch.
Một số nghiên cứu đánh giá thực trạng một số đặc điểm của TTDL
Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, của một tỉnh ở Việt Nam và các nhân tố
tác động đến hoạt động của các thị trường này.
Tại Lào, đã có một số nghiên cứu, phân tích thực tiễn phát triển một
loại sản phẩm du lịch cụ thể như du lịch di sản ở huyện Viêng Xay tỉnh Hua
Phăn và tỉnh Xiêng Khoảng, du lịch tự nhiên ở tỉnh Sa La Văn…
Có công trình nghiên cứu thực tiễn ở một tỉnh của Việt Nam đã chỉ ra
được một số giải pháp nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du
lịch bao gồm: những cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn
đầu tư để phát triển TTDL; cách thức vận hành các nguồn lực du lịch, nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực du lịch. Có công trình đã chỉ ra giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch để thu hút khách du lịch trong
nước và quốc tế.
Những khoảng trống trong nghiên cứu về thị trường du lịch
Các công trình nghiên cứu trên mới chủ yếu được trình bày dưới góc độ
tiếp cận chuyên ngành kinh tế phát triển, quản trị và quản lý kinh tế, mới chỉ
có một số rất ít công trình nghiên cứu tiếp cận từ kinh tế chính trị học. Do có
sự giao thoa giữa các chuyên ngành với nhau, nên những kết quả nghiên cứu
trên mới chỉ giải quyết một số vấn đề có liên quan đến TTDL tiếp cận từ kinh
tế chính trị học. Tính hệ thống trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn TTDL
vẫn còn khá nhiều khoảng trống. Đó là:
27
- Về lý luận:
Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy
đủ về TTDL trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
của nước CHDCND Lào tiếp cận từ chuyên ngành kinh tế chính trị học.
Chưa có công trình nào phân tích có hệ thống các yếu tố cấu thành
TTDL, mối quan hệ giữa TTDL với sự phát triển kinh tế - xã hội và các
nhân tố ảnh hưởng đến TTDL. Các nội dung của các công trình đã công bố
chưa làm rõ vai trò của các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất quá trình vận động TTDL của cả nước nói chung, của tỉnh Luông Pra
Băng nói riêng.
Các công trình đã công bố vẫn đang còn thiếu hệ thống tiêu chí đánh
giá kết quả hoạt động TTDL ở một địa bàn cấp tỉnh có nhiều điểm đặc thù
như tỉnh Luông Pra Băng của nước CHDCND Lào.
- Về thực tiễn:
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu tổng kết,
đánh giá một cách hệ thống về thực trạng, đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm thúc đẩy phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm
nhìn đến năm 2030 trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị học. Với những lý do
trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài "Thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra
Băng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" để nghiên cứu làm luận án Tiến sĩ
Kinh tế là mới, không trùng lặp với các kết quả nghiên cứu đã công bố và có
ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Để góp phần "lấp đầy" khoảng trống trên và góp phần thúc đẩy phát
triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng, nước CHDCND Lào trong thời gian tới,
nghiên cứu sinh tập trung vào nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:
- Về mặt lý luận:
Xây dựng cơ sở lý luận về TTDL ở một địa bàn cấp tỉnh dưới góc độ
kinh tế chính trị học. Cụ thể, luận án sẽ làm rõ các quan hệ kinh tế trên thị
trường này bao gồm khái niệm, đặc trưng của TTDL, nội dung, cơ chế vận
28
hành, quan hệ lợi ích kinh tế, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sự
phát triển của thị trường này gắn với yêu cầu mới của phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế của CHDCND Lào.
- Về mặt thực tiễn:
Luận án tham khảo nghiên cứu kinh nghiệm phát triển TTDL của một số
tỉnh có nhiều điểm tương đồng ở trong và ngoài nước CHDCND Lào trên cả
hai khía cạnh thành công và không thành công để rút ra bài học kinh nghiệm
cho tỉnh Luông Pra Băng.
Luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng TTDL ở tỉnh Luông
Pra Băng, nước CHDCND Lào dựa trên có sở khung lý thuyết về các quan hệ
kinh tế của thị trường này.
Luận án dự báo về xu hướng và triển vọng phát triển TTDL, trong đó
chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với yêu cầu phát triển TTDL ở tỉnh
Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.
Luận án đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn từ nay đến năm 2025 và
tầm nhìn đến năm 2030.
29
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ THỊ TRƯỜNG DU LỊCH
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG DU LỊCH
2.1.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành thị trường du lịch
2.1.1.1. Khái niệm thị trường du lịch
Thị trường du lịch là một bộ phận cấu thành hệ thống thị trường của
nền kinh tế. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã và đang thúc đẩy mạnh
mẽ, sự phát triển của thị trường này vai trò của nó ngày càng tăng lên. Du lịch
ngày càng là nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa - xã hội của con
người dù họ sinh sống ở quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển bất
cứ nơi nào trên thế giới. Theo đó, nhận thức về TTDL ngày càng sâu sắc hơn.
Đến nay, đã có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch. Theo UNWTO
(1986): "Du lịch bao gồm tất cả những hoạt động của cá nhân đi, đến và lưu
lại ngoài nơi ở thường xuyên trong thời gian không dài (hơn một năm) với
những mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích kiếm tiền hàng ngày". Theo
Luật du lịch Việt Nam (2017) tại Chương I, Điều 3:
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm
liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm
hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp
pháp khác [65, tr.1].
Theo Luật du lịch Lào (sửa đổi năm 2013), tại Chương I, Điều 2:
Du lịch là cuộc hành trình khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình
đến địa phương khác hoặc quốc gia khác để tham quan, nghỉ dưỡng,
giải trí, giao lưu văn hóa - thể thao, phát triển thể chất và tinh thần,
khám phá nghiên cứu, trưng bày, hội họp,… loại trừ mục đích tìm
việc làm và hành nghề để kiếm tiền [31, tr.1].
30
Như vậy, du lịch là việc thực hiện một chuyến đi của con người, với
nhiều mục đích cụ thể riêng biệt đến một nơi khác mà không phải để định cư
và có sự trở về sau chuyến đi. Những hoạt động trong việc cung ứng hàng hóa
và dịch vụ du lịch với mục đích kinh doanh thông qua phục vụ khách du lịch
gọi là kinh doanh du lịch. Trong nền kinh tế, kinh doanh du lịch đã trở thành
một ngành kinh tế riêng biệt, phân biệt với các ngành kinh tế khác. Theo
Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa cho rằng: “Kinh doanh du lịch là một
ngành bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi
hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về
đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của
khách du lịch” [46]. Theo đó, kinh doanh du lịch đòi hỏi các chủ thể trong xã
hội phải thiết lập các mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong tất cả các hoạt
động liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các
sản phẩm du lịch với mục tiêu thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Theo nghĩa đó, kinh doanh
du lịch chính là những hoạt động thuộc kinh tế du lịch.
Kinh tế du lịch cũng như các ngành kinh tế khác là một bộ phận cấu
thành nền kinh tế quốc dân. Theo quan điểm tiếp cận của C.Mác và
Ph.Ăngghen, quá trình tái sản xuất bao gồm bốn khâu: sản xuất, phân phối,
trao đổi (lưu thông) và tiêu dùng. Các ông cho rằng:
Sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là
cơ sở của mọi chế độ xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch
sử, sự phân phối sản phẩm, và cùng với sự phân phối ấy là sự phân
chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp, đều được quyết định bởi tình
hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào và những
sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào [59, tr.371].
Sự vận động của kinh tế du lịch cũng không nằm ngoài quá trình đó.
Nó cũng bao gồm bốn khâu nói trên. Trong đó, sản xuất là khâu đầu, tiêu
dùng là khâu cuối, trao đổi hay lưu thông và phân phối sản phẩm du lịch là
hai khâu trung gian nối liền sản xuất với tiêu dùng.
31
Trong nền kinh tế thị trường, việc trao đổi/ lưu thông sản phẩm du lịch
tất yếu phải được diễn ra trên thị trường. Do việc sản xuất sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ du lịch mang tính chuyên môn hóa sâu, tính chuyên nghiệp cao nên việc
cung ứng và trao đổi loại sản phẩm này cũng được diễn ra trên một thị trường
riêng có tính đặc thù, phân biệt với các thị trường khác và được gọi là TTDL.
Xét về lịch sử kinh tế thế giới, TTDL đã được hình thành và phát triển
từ thời Hy Lạp cổ đại với các loại hình kinh doanh du lịch như buôn bán, giải
trí, du lịch thể thao (như Thế vận hội Olimpic năm 760 trước công nguyên),
rồi lan tỏa sang nhiều nước khác, như Trung Quốc, Ấn Độ, La Mã... và có
thêm những sản phẩm dịch vụ du lịch mới như du lịch nước khoáng thiên
nhiên, du lịch cảnh quan, du lịch bãi biển... Đến thế kỷ 15 - 17, đi cùng quá
trình phát triển kinh tế và những thành công của các cuộc thám hiểm với các
phát kiến lớn về địa lý của các nhà thám hiểm ở các nước Tây Âu, thị trường
hàng hóa và dịch vụ được mở rộng ra nhiều nước khác đến cả các nơi mà các
nước phương Tây gọi là các vùng đất mới, làm cho TTDL được mở rộng hơn
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Sự ra đời và
phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thay thế nền kinh tế
hàng hóa giản đơn của thời đại phong kiến kể từ sau cuộc cách mạng tư sản
Anh vào giữa thế kỷ 17 càng tạo ra điều kiện để phát triển loại thị trường này.
Sự ra đời và phát triển của TTDL là kết quả tất yếu của quá trình phát triển
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Theo V.I. Lênin: "Hễ ở đâu,
khi nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa, thì ở đó và khi ấy
cũng có thị trường. Thị trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công xã hội
và do đó có thể phát triển vô cùng tận" [56, tr.114].
Sự phát triển mạnh mẽ của TTDL bắt đầu từ thế kỷ 19, khi những tiến
bộ của Cách mạng công nghiệp cho phép phát triển các hoạt động phục vụ
mục đích nghỉ ngơi, lý do văn hóa, xã hội, v.v ... Theo các nhà nghiên cứu, thì
Thomas Cook (Thomas Cook (1808 - 1892) là một doanh nhân người Anh.
Ông nổi tiếng với việc thành lập công ty du lịch Thomas Cook & Son) là
doanh nhân đầu tiên coi du lịch là một hoạt động có tính chất thương mại, vào
32
năm 1841 khi nhắc đến chuyến tham quan lịch sử có tổ chức đầu tiên. Một
thập kỷ sau, Cook bắt đầu một khả năng thương mại mới để thành lập một
công ty du lịch (được biết đến với tên Thomas Cook và Son), một điều chưa
bao giờ được hình thành cho đến lúc đó.
Ngày nay, TTDL là một trong những ngành công nghiệp chính trên
toàn thế giới. Nó bao gồm du lịch của các nhóm người được thu hút bởi một
công ty lữ hành và du lịch cá nhân (các cá nhân tổ chức hành trình và hoạt
động của họ mà không có sự can thiệp của bên thứ ba).
Trong số các thành phố có nhiều hoạt động du lịch trên hành tinh, có
Barcelona (nơi thu hút khán giả bằng các tác phẩm nghệ thuật như tòa nhà La
Sagrada của Antoni Gaudi, một trong những bậc thầy vĩ đại của chủ nghĩa
hiện đại), Paris (với Tháp Eiffel biểu tượng, sông Seine và Champs-Elysées),
Madrid (với màu sắc và sự đa dạng của nó, số mũ kiến trúc của nó và Bảo
tàng Prado) Cancun (điểm đến của những người khao khát nghỉ ngơi ở các bãi
biển) và London (công viên và di tích được trang trí như Big Ben, và với một
cuộc sống về đêm nổi bật trong Trung tâm)… Thị trường du lịch không chỉ
trở thành phổ biến mà còn trở thành lĩnh vực mở đường, "đầu tầu" cho việc
thúc đẩy sự phát triển của các thị trường khác trong nền kinh tế.
Cùng với quá trình phát triển đó, đến nay đã có những quan niệm khác
nhau trong nhận thức về TTDL. Theo Văn phòng Lao động Quốc tế (The
International Labour Office) "TTDL bao gồm tất cả những người và doanh
nghiệp mua và bán các dịch vụ và sản phẩm du lịch được gọi là các bên liên
quan" (http://translate.google.com). Khái niệm này dùng để mô tả đây là một
quan hệ kinh tế xã hội giữa con người với nhau trong các giao dịch về sản
phẩm du lịch được tiếp cận dưới góc độ quản lý kinh tế. Theo Wiki Didactic,
TTDL "là nơi lưu chuyển cung và cầu của các sản phẩm và dịch vụ du lịch",
"nơi hội tụ việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ du lịch và nhu cầu được
quan tâm và thúc đẩy để tiêu thụ những sản phẩm và dịch vụ du lịch đó"
[111]. Các lực lượng tham gia trên TTDL bao gồm người mua và người bán.
Trên thị trường này, các nhà cung cấp các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau
33
có thể được điều chỉnh theo các nhu cầu và lý do khác nhau của người mua,
tức là cung về du lịch phải đáp ứng cầu về du lịch mặc dù sản phẩm du lịch
nhiều khi có tính đặc thù theo vùng, miền, quốc gia. Khái niệm này mô tả
hành vi của các chủ thể thị trường, trong đó chú ý đến hành vi của người sản
xuất và cung ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch.
Theo PGS Nguyễn Văn Lưu, "TTDL là nơi "gặp gỡ" giữa cung và cầu
phù hợp về chủng loại, chất lượng, số lượng, thời gian cung cấp, nhịp độ cung
cấp cũng như các loại dịch vụ phục vụ khác trong lĩnh vực du lịch" [57, tr.11].
Theo khái niệm này, TTDL được hiểu là nơi hay một địa điểm diễn ra quan
hệ trao đổi hàng hóa và dịch vụ du lịch, nơi tập trung và thực hiện của cung
và cầu du lịch về một hàng hóa và dịch vụ nào đó, là tổng thể các quan hệ
kinh tế hình thành giữa khách du lịch và người kinh doanh du lịch, khi mà lao
động xã hội để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ đó được công nhận là lao
động xã hội cần thiết. Khái niệm trên được tiếp cận dưới góc độ chuyên
ngành kinh tế du lịch.
Với các khái niệm nêu trên, có thể thấy những thuộc tính cơ bản của
TTDL bao gồm các sản phẩm du lịch hay hàng hóa và dịch vụ du lịch, người
mua và người bán hàng hóa và dịch vụ đó thông qua hệ thống giá cả thị
trường. Tuy nhiên, các khái niệm trên mới dùng để mô tả trực tiếp các quan
hệ kinh tế của hai chủ thể là người mua và người bán sản phẩm du lịch, chưa
chỉ ra được những thuộc tính về động lực của các quan hệ kinh tế xã hội diễn
ra trên thị trường này và về mối quan hệ giữa TTDL với các khâu, các thị
trường trong nền kinh tế một cách tổng thể.
Thêm vào đó, cần để ý rằng, trong điều kiện ngày nay, dưới tác động
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển vượt trội của
công nghệ thông tin và kinh tế số làm cho phạm vi TTDL không còn bó hẹp ở
một nơi hay một địa điểm như đã hiểu trong nhiều năm trước đây. Ví dụ, công
nghệ Internet vạn vật (Internet of things- IoT) có liên quan đến nhiều xu
hướng du lịch, trong đó có sự kết nối giữa người mua và người bán sản phẩm
du lịch, các quan hệ giao dịch về hàng hóa và dịch vụ du lịch được thực hiện
34
ngay trên các trang web thông minh mà không nhất thiết phải là đến một nơi
hay một địa điểm cụ thể. Sự phát triển nhanh chóng của nhiều loại công nghệ
như thực tế ảo (Virtual reality - VR) với nhiều ứng dụng trong ngành du lịch
bao gồm giải trí cao cấp, du lịch kết hợp các yếu tố vật lý như bộ điều khiển
hoặc ghế ngồi và nền tảng di động. Công nghệ thực tế mở rộng (Augmented
reality - AR) là một TTDL trong đó có sự kết hợp trải nghiệm trong thế giới
thực và các yếu tố ảo như trò chơi điện thoại thông minh (Pokémon Go) có
thể hiển thị cho khách du lịch những thông tin về khu vực họ đang khám phá
(như di tích lịch sử, bảo tàng, thực đơn cho các địa điểm giải trí, quán ăn địa
phương..) và cung cấp cho du khách những trải nghiệm du lịch tại chỗ mà
không nhất thiết phải di chuyển đến nơi có sản phẩm, loại hình dịch vụ du lịch
đó, làm cho nhu cầu về du lịch tăng lên rất nhanh. Chính vì thế, TTDL cũng
không nhất thiết phải là một nơi hay một địa điểm cụ thể. Nó phải là một quá
trình kinh tế có sự tương tác giữa cung và cầu về sản phẩm du lịch.
Từ những phân tích trên, theo tiếp cận của kinh tế chính trị học, có thể
hiểu TTDL là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, một bộ phận cấu
thành hệ thống các loại thị trường, trong đó diễn ra các quan hệ giao dịch
giữa người mua và người bán sản phẩm du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi
ích của các chủ thể tham gia thị trường. Nói một cách khác, TTDL là tổng thể
các hành vi và quan hệ kinh tế thể hiện ra trong quá trình trao đổi sản phẩm
du lịch. Mâu thuẫn cơ bản của TTDL là mâu thuẫn giữa cầu và cung về sản
phẩm du lịch.
2.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường du lịch
Các yếu tố tạo nên TTDL bao gồm cung và cầu về du lịch, quan hệ
giữa các chủ thể gồm người mua, người bán sản phẩm du lịch và các chủ thể
cung ứng dịch vụ du lịch.
- Cầu về du lịch
Cầu về du lịch là số lượng hàng hóa và dịch vụ du lịch mà du khách
muốn sử dụng và sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau trong một khoảng
thời gian nhất định. Mỗi mức giá nhất định đều có một lượng cầu nhất định về
35
hàng hóa và dịch vụ du lịch. Cầu về du lịch là nhu cầu có khả năng thanh toán
của con người về hàng hóa và dịch vụ du lịch. Có hai yếu tố quyết định làm
xuất hiện cầu về du lịch là nhu cầu và sức mua hay khả năng thanh toán cho
nhu cầu đó để được sử dụng sản phẩm du lịch. Nhu cầu về du lịch là một loại
nhu cầu xã hội đặc biệt và mang tính tổng hợp cao, biểu hiện sự mong muốn
tạm thời rời nơi ở thường xuyên để đến với điều kiện thiên nhiên và văn hóa ở
một nơi khác; là nguyện vọng cần thiết của con người muốn được giải phóng
khỏi sự căng thẳng tiếng ồn, sự ô nhiễm môi trường ngày càng tăng ở các
trung tâm công nghiệp, đô thị, để nghỉ ngơi, giải trí, tăng cường sự hiểu biết,
phục hồi sức khỏe…
Nhu cầu về du lịch thể hiện ở ba mức: nhu cầu du lịch của cá nhân, nhu
cầu du lịch của nhóm người và nhu cầu du lịch xã hội. Nhu cầu du lịch của cá
nhân bao gồm những đòi hỏi, mong muốn của mỗi con người cụ thể về các
sản phẩm du lịch cụ thể, ví dụ nhu cầu du lịch của một khách du lịch muốn
đến đến nước CHDCND Lào để được thưởng ngoạn một vẻ đẹp có một không
hai trên thế giới đó là cảnh quan khảo cổ cự thạch với hàng ngàn chum đá
nằm rải rác dọc theo thung lũng và cánh đồng thấp của đồng bằng trung tâm
thuộc Cao nguyên Xiêng Khoảng nằm ở cuối phía bắc của dãy Trường Sơn.
Du lịch của nhóm là nhu cầu của một nhóm dân cư có cùng một đặc điểm, ví
dụ như sinh viên muốn đi du lịch thắng cảnh, cựu chiến binh muốn đi du lịch
thăm chiến trường xưa… Tổng thể nhu cầu du lịch của các thành viên trong
xã hội được gọi là nhu cầu du lịch xã hội. Tuy nhiên, nhu cầu xã hội không
phải là tổng công theo số học các nhu cầu du lịch của cá nhân, hoặc của các
nhóm dân cư trong xã hội. Nhu cầu du lịch của cá nhân và của các nhóm có
những phần chồng lấn hoặc cộng hưởng. Nhu cầu du lịch của xã hội, của
nhóm và của cá nhân không tồn tại riêng rẽ mà tác động qua lại với nhau
trong mối quan hệ biện chứng. Trong ba nhu cầu nêu trên, thì nhu cầu du lịch
của cá nhân là thành tố quan trọng nhất để tạo lập nhu cầu du lịch nhóm và
nhu cầu du lịch xã hội. Nhu cầu du lịch của nhóm và nhu cầu xã hội định
hướng hình thành và công nhận nhu cầu du lịch của cá nhân. Nhu cầu về du
36
lịch là yếu tố đầu tiên tạo nên cầu về du lịch trên thị trường. Cầu về du lịch
chỉ xuất hiện khi người có nhu cầu về du lịch có khả năng thanh toán để được
đáp ứng nhu cầu đó.
Cầu về du lịch của con người rất đa dạng. Người ta có thể phân chia
cầu du lịch thành hai nhóm: cầu về dịch vụ du lịch và cầu về hàng hóa vật
chất tiêu dùng trong thời gian đi du lịch. Cầu về dịch vụ du lịch bao gồm cầu
về dịch vụ vận chuyển và đảm bảo sự lưu trú, ăn uống, cầu về những dịch vụ
cảm thụ, thưởng thức những giá trị vô hình mà vì chúng, du khách sẵn sàng
chi trả cho chuyến du lịch. Ngoài ra, còn có cầu về dịch vụ bổ sung rất đa
dạng phát sinh trong chuyến đi của du khách như các dịch vụ vui chơi giải trí,
thông tin liên lạc, chăm sóc sức khỏe, mua hàng lưu niệm,... Phần lớn cầu về
dịch vụ bổ sung tại các điểm du lịch cần được đáp ứng trong thời gian ngắn.
Cầu về hàng hóa vật chất tiêu dùng trong thời gian đi du lịch như cầu về nơi
lưu trú, ăn uống, sinh hoạt vật chất, hàng lưu niệm cho một chuyến đi du lịch
và cầu về hàng hóa có giá trị kinh tế đối với du khách…
Đặc điểm của cầu du lịch: cầu trong TTDL có những đặc điểm khác so
với cầu trong thị trường chung. Đó là:
Thứ nhất, cầu trong TTDL là cầu của xã hội về sản phẩn du lịch có thể
được thực hiện hay thỏa mãn trong điều kiện một nền kinh tế thị trường được
khai thông giữa các địa phương trong nước và giữa trong nước với nước
ngoài. Do vậy, cầu về du lịch là loại nhu cầu nhiều khi vượt ra khỏi phạm vi
tỉnh, một quốc gia, có tính liên thông giữa các vùng trong nước và có tính
quốc tế hóa cao. Điều này, nhiều khi có khoảng cách rất lớn về địa lý giữa
những người có cầu về du lịch với những nơi có cung về du lịch, đòi hỏi phải
có phương tiện hỗ trợ để kết nối cung và cầu trong hoạt động du lịch.
Thứ hai, cầu trong TTDL có tính đa dạng với nhiều hình thức dịch vụ.
Nó bao gồm cầu về tham quan, khám phá tìm hiểu, nghỉ ngơi, giải trí, thư
giãn và những mục đích khác. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ kỹ thuật số và mạng internet còn có cầu du lịch tại chỗ thông qua
37
các trang web với các trò chơi toàn cầu, tham quan trên thực tế ảo(VR)… là
một loại sản phẩm gắn với cầu trong TTDL.
Thứ ba, dịch vụ của các cơ sở phục vụ lưu trú, ăn uống không phải là
mục đích của cầu trong du lịch, nhưng chúng là thành phần đáng kể trong
khối lượng của cầu du lịch và quyết định chất lượng của chuyến du lịch.
Thứ tư, cầu du lịch có tính linh hoạt cao. Nhiều khi cầu du lịch chỉ phát
sinh khi du khách đang thực hiện một chuyến du lịch. Ví dụ, việc mua sản
phẩm du lịch chỉ được ấn định khi du khách nhìn thấy và cảm nhận thấy ích
lợi của sản phẩm đó trong chuyến đi của mình. Khách du lịch cũng có thể
quyết định chuyển hướng trong một tour du lịch theo ý mong muốn khi họ
cảm thấy có lợi.
Thứ năm, cầu du lịch mang tính chu kỳ. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
như có thời gian nhàn rỗi, các kỳ nghỉ phép hàng năm, có khả năng thu nhập,
tích lũy tài chính cũng như thói quen và tâm lý đi du lịch của họ. Khả năng
thu nhập và tích lũy tài chính của người đi du lịch chịu sự chi phối của yếu tố
đầu vào của ngân sách gia đình, tình hình phân chia ngân sách gia đình cho
tích lũy và tiêu dùng. Thói quen và tâm lý đi du lịch được hình thành do
truyền thống như lễ hội và thời tiết, khí hậu hoặc do hiện tượng tâm lý.
Ngoài ra, cầu du lịch còn có đặc điểm như tính thời vụ, khả năng đảm
bảo an toàn, an ninh. Ví dụ, cầu về du lịch thường không xuất hiện để đến
những nơi thường xảy ra chiến tranh, bạo động hay bị bất ổn về kinh tế, chính
trị và xã hội.
Các nhân tố quyết định cầu về du lịch: cầu du lịch chịu tác động bởi
nhiều nhân tố, bao gồm các nhân tố bên trong và bên ngoài. Nhân tố bên trong
như động lực để đi du lịch. Nhân tố bên ngoài như cải thiện về kinh tế, thay
đổi nhân khẩu học và xã hội, cải tiến công nghệ, chính trị, kế hoạch và các
yếu tố sinh thái, an toàn… và nhân tố thị trường thích hợp, chính sách khuyến
khích thu hút khách du lịch, kết cấu hạ tầng, vận chuyển du khách và thể chế
phát triển thích hợp. Một số nhân tố chủ yếu có tác động mạnh đến cầu về du
lịch như: thu nhập dân cư, giá cả sản phẩm du lịch, chất lượng và tính độc đáo
38
của sản phẩm, các sản phẩm tương hộ và sản phẩm thay thế. Ví dụ, cầu trên
TTDL có quan hệ tỷ lệ nghịch với sự giá cả hàng hóa và dịch vụ du lịch. Nếu
mức giá tăng thì cầu du lịch giảm và ngược lại giá giảm thì cầu du lịch tăng.
Cơ cấu dân cư, thành phần dân tộc, giới tính, độ tuổi, đặc điểm nhân khẩu, sự
phân bố và mật độ dân cư cũng tác động trực tiếp đến việc hình thành cầu và
khối lượng cầu du lịch. Người cao tuổi có thời gian và tài chính, sức khỏe yếu
thì ưa du lịch thư giãn chữa bệnh, còn thanh niên khỏe mạnh, ít thời gian thì
ưa thích du lịch mạo hiểm hoặc thể thao để tận hưởng cảm giác mạnh. Trình
độ nghề nghiệp khác nhau có mục đích du lịch khác nhau và nhu cầu sử dụng
các hàng hóa dịch vụ du lịch cũng khác nhau. Đặc thù của mỗi nghề nghiệp
làm cho con người sẽ phải di chuyển, cũng tạo ra nhu cầu về du lịch. Tình
trạng hưng phấn hay, buồn chán do thành đạt hay thất bại, đều kích thích nhu
cầu về du lịch. Đặc biệt ngày và giờ làm việc rút ngắn tạo điều kiện tăng
lượng cầu du lịch cuối tuần. Thời gian tự do dài, do tiến bộ khoa học công
nghệ và thể chế quản lý hoàn thiện làm tăng năng suất lao động cao cũng làm
nảy sinh nhu cầu về du lịch.
Ngoài ra, điều kiện tự nhiên, môi trường, chính trị, xã hội, chủ trương,
đường lối, chính sách của chính phủ, quốc phòng an ninh, sự phát triển của hệ
thống giao thông vận tải, quảng cáo, thị hiếu,… cũng tác động mạnh tới cơ cấu
và khối lượng cầu du lịch. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng cầu du lịch. Với sự ra đời của hệ thống
truyền hình cáp, mạng Internet và các mạng xã hội đã và đang cung cấp những
thông tin phong phú, đa dạng cho khách du lịch từ đó tạo nhu cầu mới về du lịch.
- Cung về du lịch
Cung về du lịch là số lượng sản phẩm du lịch được cung ứng trên thị
trường tương ứng với mỗi mức giá, mức chi phí sản xuất trong một khoảng
thời gian và không gian nhất định. Sản phẩm du lịch bao gồm các hàng hóa và
dịch vụ du lịch do các cơ sở sản xuất, kinh doanh du lịch cung ứng.
Cung về sản phẩm du lịch có các đặc điểm: (1) Dễ hỏng: chúng không
thể được lưu trữ trong kho, một dịch vụ không được sử dụng tạo thành một tổn
39
thất không thể phục hồi cho công ty. Ví dụ một phòng khách sạn không được
bán ngày hôm nay. (2) Không thể chi tiêu: là có điều kiện về sự hiện diện của
khách hàng, vì vậy sự dịch chuyển là quan trọng. (3) Không thể tách rời: việc
sản xuất và tiêu thụ được thực hiện nhiều lần ở cùng một nơi và đồng thời. Đây
là một trong những trụ cột của du lịch vì để tận hưởng dịch vụ hoặc sản phẩm
đó là bắt buộc phải bù đắp. (4) Cứng nhắc: sản phẩm du lịch thiếu độ co giãn
theo hướng từ từ thích nghi với các biến đổi của nhu cầu. Điều này được gây ra
bởi chi phí đầu tư lớn của người làm du lịch và phải mắt nhiều thời gian xây
dựng, giá thầu không thể theo các biến đổi của nhu cầu thường xảy ra một cách
nhanh chóng. (5) Không đồng nhất và bổ sung: trong sản phẩm toàn cầu có sự
bổ sung giữa các sản phẩm phụ khác nhau, các sản phẩm phụ bị cô lập là không
đồng nhất và không tạo thành một tổng thể, có thực thể riêng. (6) Chủ quan: sự
hài lòng hay không hài lòng của khách du lịch phụ thuộc vào những điều khác
trong trạng thái cảm xúc của họ, cách sản phẩm được cung cấp và những kỳ
vọng đã được tạo ra. (7) Vô hình: người mua không thể sở hữu nó hoặc chạm
vào, chỉ họ mới có thể tận hưởng.
Thị trường du lịch là thị trường theo mùa. Thực tế các nước cho thấy,
phần lớn các sản phẩm du lịch là tiêu dùng theo mùa. Có thể có tới 80% tổng
doanh thu hàng năm của công ty du lịch được thực hiện trong 2 hoặc 3 tháng
của mùa cao điểm, mùa hè hoặc mùa đông tùy thuộc vào loại hình du lịch
được cung ứng. Ví dụ, du lịch trượt tuyết, du lịch tắm nắng trên bãi biển là
phải theo mùa. Đây là một trong những vấn đề lớn trong hoạt động kinh
doanh của các công ty du lịch vì những gì các công ty muốn là phải có sự liên
tục về thời gian, ví dụ như một khách sạn đông khách nhất chỉ có thể trong
suốt cả năm.
Để chống lại hiệu ứng này, các công ty thực hiện các biện pháp và
chính sách giá mạnh mẽ, đưa ra mức giá rất thấp để có thể thu hút số lượng du
khách tối đa ngoài mùa.
Thị trường khách du lịch đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các công nghệ
và phương pháp tiếp thị mới. Nhờ tiến bộ công nghệ, các công ty có điều kiện
40
đạt được số lượng khách hàng tối đa và đa dạng hóa các ưu đãi để tăng sức
cạnh tranh với các điểm đến khác có dịch vụ du lịch tương tự để thu hút du
khách. Tất cả các điểm đến hiện đang được cung cấp ngoài tài nguyên chính,
các tài nguyên khác, một ví dụ là điểm đến của nơi tắm nắng và bãi biển cũng
cung cấp một nguồn lực để cung ứng sản phẩm du lịch.
Cung du lịch chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố: (1) Giá cả: khi giá
hàng hóa và dịch vụ du lịch tăng thì mức cung về du lịch tăng và ngược lại giá
giá đầu ra giảm thì mức cung cũng giảm. (2) Chi phí sản xuất: chi phí cho
việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch giảm trong điều kiện giá cả sản
phẩm không đổi thì lợi nhuận của doanh nghiệp giảm, tăng sản lượng cung và
ngược lại. (3) Cầu trên TTDL và các kỳ vọng. Suy cho cùng thì sản xuất
quyết định tiêu dùng. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, khi còn nhiều
nguồn lực chưa được sử dụng thì cầu thực tế có tác động quyết định mức cung
thực tế. Thị trường du lịch không phải là ngoại lệ. Quy mô của cầu du lịch
trên thị trường có tác dụng quyết định tới khối lượng cung về hàng hóa và
dịch vụ du lịch. Cầu du lịch tăng thì cung du lịch cũng tăng. Cơ cấu của cầu
du lịch thay đổi thì cơ cấu của cung du lịch cũng phải thay đổi theo. (4) Tiến
bộ về khoa học và công nghệ: khi có sự tăng lên của tiến bộ khoa học và công
nghệ thì năng suất tạo ra sản phẩm du lịch tăng lên, chi phí cho sản phẩm
giảm xuống và chất lượng sản phẩm tăng lên, tiện lợi hơn cho du khách, do
vậy lượng cung về sản phẩm du lịch tăng lên. (5) Cạnh tranh: cung du lịch
còn phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh giữa các cơ sở sản xuất và kinh doanh
du lịch. Nếu mức độ cạnh tranh tăng lên thì xu hướng mở rộng quy mô của
doanh nghiệp kinh doanh du lịch được thúc đẩy mạnh hơn, theo đó lượng
cung du lịch cũng tăng lên. (6) Vai trò của nhà nước: trong các nền kinh tế
hiện đại, cung du lịch còn phụ thuộc vào sự can thiệp của nhà nước. Nếu nhà
nước miễn hoặc giảm thuế cho các hoạt động cung ứng hàng hóa và dịch vụ
du lịch thì doanh nghiệp sẽ mở rộng việc cung ứng, số lượng sản phẩm du lịch
sẽ tăng lên.
Thị trường du lịch được vận hành bởi quan hệ cung, cầu, giá cả, cạnh
tranh trong việc sản xuất, phân phối và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ du lịch.
41
- Quan hệ cung - cầu: quan hệ giữa cung và cầu về du lịch làm hình
thành TTDL. Thị trường du lịch là quá trình diễn ra quan hệ tương tác giữa
cung và cầu về hàng hóa và dịch vụ du lịch. Trên TTDL, du khách và các nhà
cung ứng sản phẩm du lịch tác động qua lại nhau để xác định mức giá và khối
lượng sản phẩm cần mua, cần bán trên thị trường.
- Giả cả hàng hóa và dịch vụ du lịch: là mức giá mà ở đó du khách
muốn mua và nhà cung ứng sản phẩm du lịch muốn bán. Đó là mức giá cân
bằng cung - cầu, giá thị trường. Về bản chất giá cả sản phẩm du lịch là hình
thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm du lịch và là kết quả của sự thỏa
thuận giữa người mua là du khách và người bán là các tổ chức kinh doanh du
lịch. Cơ sở của giá cả là giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, do giá cả được hình
thành trên thị trường, nên nó còn chịu tác động bởi các quan hệ cung - cầu,
quan hệ cạnh tranh hay độc quyền trên thị trường, giá trị của tiền và sự can
thiệp của nhà nước vào thị trường này. Sự biến đổi của tương quan cung - cầu
du lịch sẽ dẫn đến sự lên xuống của giá cả thị trường của sản phẩm du lịch,
ngược lại, giá cả cũng ảnh hưởng trở lại đối với cung và cầu du lịch. Nếu sức
cầu du lịch tăng lên mà mức cung không tăng kịp thì giá sản phẩm du lịch sẽ
tăng và ngược lại sức cầu mà giảm thì mức giá phải giảm. Nếu giá cả hàng
hóa và dịch vụ du lịch giảm, thì điều này phản ánh cung lớn hơn cầu, khi đó
cung du lịch sẽ giảm, phạm vi kinh doanh bị thu hẹp.
- Cạnh tranh trên thị trường du lịch: là sự đấu tranh giữa các chủ thể
kinh doanh du lịch nhằm tranh giành điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
du lịch có lợi để thu được mức lợi nhuận cao hơn và để tồn tại, phát triển
trong nền kinh tế thị trường. Trên TTDL, cạnh tranh chủ yếu diễn ra ở phía
cung, tức là phía các nhà sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ du lịch.
Cạnh tranh là yếu tố quan trọng của TTDL. Theo quy luật chung, cạnh tranh
có tính hai mặt tích cực và tiêu cực. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải
tìm các biện pháp lôi kéo khách hàng nhằm tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Họ
phải tìm phương án giá tối ưu để tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ du lịch, mở
rộng thị phần. Giảm giá các dịch vụ, hàng hóa trước và sau mùa du lịch là một
42
trong những biện pháp cạnh tranh được các doanh nghiệp sử dụng để thu hút
khách và kéo dài thời vụ du lịch. Việc nhà nước duy trì và bảo vệ cạnh tranh
lành mạnh hay cạnh tranh có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh du lịch là
rất cần thiết; đồng thời cũng phải có cơ chế chính sách nhằm ngăn ngừa, khắc
phục những tiêu cực mà quá trình cạnh tranh sinh ra không thể tránh khỏi và
tự nó không thể khắc phục được.
2.1.2. Đặc điểm của thị trường du lịch
- Đặc điểm về hướng phát triển sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch bao gồm hàng hóa và dịch vụ du lịch. Nguồn gốc của
các sản phẩm du lịch là các tài nguyên du lịch được các nhà kinh doanh du
lịch sản xuất ra các sản phẩm vật thể hoặc phi vật thể đáp ứng nhu cầu của du
khách. Sản phẩm du lịch có tính đa dạng bao gồm:du lịch mạo hiểm, du lịch
kinh doanh giải trí, du lịch hội nghị hoặc hội thảo, du lịch kinh doanh, thăm
người thân và bạn bè. Các sản phẩm công nghiệp trong ngành du lịch là
phòng khách du lịch, sắp xếp và đặt chỗ du lịch, vận chuyển hàng không, vận
tải địa phương khác như cho thuê xe hơi, cơ sở thực phẩm và đồ uống, giải trí
và giải trí, xăng dầu và các hoạt động bán lẻ khác. Bên cạnh các sản phẩm đáp
ứng nhu cầu thị trưởng trong nước, ngày càng có xu hướng phát triển các sản
phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế bao gồm dịch vụ lưu trú du lịch,
cung cấp dịch vụ khách sạn cho khách du lịch quốc tế, hoạt động hàng không,
cho thuê ô tô, đại lý du lịch và dịch vụ sắp xếp tour du lịch.
Do sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sản phẩm
du lịch được phát triển theo hướng ngày càng dựa vào nền tảng của công nghệ
thông tin, kỹ thuật số như du lịch trải nghiệm bằng công nghệ thực tế ảo, du
lịch dựa trên nền tảng mới website 3D có thể đưa các địa danh đã số hóa 3D
vào. Người xem có thể trải nghiệm như đi lại, tham quan, tương tác với địa
danh đó trong môi trường 3D hấp dẫn hơn các website thông thường hiện nay
không làm được. Đây là kỷ nguyên mới cho cuộc cách mạng mới mang tên
Du lịch 4.0. Ngày nay, TTDL toàn cầu đã có sự lên ngôi của xu hướng kinh
doanh du lịch trực tuyến. Theo Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen, doanh
43
số du lịch trực tuyến trên thế giới năm 2016 tăng 13,8% và đạt giá trị khoảng
565 tỷ USD, trong đó thị trường châu Á - Thái Bình Dương vươn lên dẫn đầu
thế giới về du lịch trực tuyến từ năm 2017. Tại khu vực Đông Nam Á, Google
dự đoán giá trị của du lịch trực tuyến sẽ tăng từ 22 tỷ USD năm 2015 lên 90
tỷ USD vào năm 2025 [71].
- Đặc điểm về chủ thể tham gia thị trường du lịch
Chủ thể tham gia TTDL bao gồm khách du lịch, các tổ chức cung ứng
sản phẩm du lịch và những người làm dịch vụ môi giới du lịch. Khách du lịch
là đại biểu của phía cầu du lịch, bao gồm những người có động lực hướng tới
sử dụng các sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, kinh
doanh… của mình. Đó là tất cả những công dân rời khỏi nơi ở thường xuyên
của họ đến một nơi khác với mục đích không phải là kiếm tiền hoặc học tập,
làm việc lâu dài. Khách du lịch thường được xác định theo hai nhóm là cá
nhân và nhóm hay tập thể. Giữa các khách du lịch có sự khác nhau về mục
đích và nhu cầu du lịch. Khách du lịch là người cuối cùng tiêu dùng trực tiếp
sản phẩm du lịch, có vai trò quyết định tới tính chất và quy mô TTDL, là nhân
vật trung tâm làm nảy sinh các hoạt động, các mối quan hệ trên cơ sở đó thỏa
mãn mục đích của các chủ thể tham gia vào các hoạt động trên TTDL.
Các tổ chức cung ứng hàng hóa và dịch vụ trên TTDL còn gọi là các
đơn vị kinh doanh du lịch bao gồm các công ty cung cấp sản phẩn hàng hóa
và dịch vụ du lịch, như đại lý du lịch, khách sạn, công ty phục vụ vận chuyển,
đưa đón khách, những người tổ chức hướng dẫn du lịch. Các chủ thể thực
hiện các dịch vụ khác có liên quan đến du lịch như dịch vụ ăn uống, dịch vụ
mua sắm, dịch vụ thể thao, vui chơi giải trí, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các
dịch vụ phát triển kết cấu hạ tầng có thể được khách du lịch sử dụng. Bên
cạnh các chủ thể kinh doanh du lịch chuyên nghiệp, trên TTDL còn có sự
tham gia của cư dân của điểm đến mà ở Việt Nam gọi là "du lịch cộng đồng".
Đây là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng
đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi. Mục tiêu
của các tổ chức cung ứng sản phẩm du lịch là thu được lợi nhuận tối đa và
44
một số mục tiêu khác như: văn hóa, xã hội, quảng bá hình ảnh, chính trị, kinh
tế khác. Phương tiện để thực hiện mục tiêu là phục vụ tốt nhất, làm thỏa mãn
tốt nhất nhu cầu của du khách cả trước, trong và sau chuyến du lịch của họ.
Các công ty và người làm dịch vụ môi giới, xúc tiến du lịch bao gồm
quảng bá, giới thiệu sản phẩm du lịch, xây dựng và phát triển thương hiệu du
lịch, tuyên truyền nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch thuận
lợi, lành mạnh, các tổ chức vận động, tìm kiếm cơ hội, tập trung nguồn lực
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; đa dạng hóa
và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch…
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế,
nhiều khi còn có chủ thể tham gia TTDL là nhà nước. Nhà nước không chỉ là
chủ thể tạo lập kết cấu hạ tầng cho phát triển TTDL mà còn tham gia vào hoạt
động du lịch ở các lĩnh vực trọng yếu có liên quan trực tiếp đến an toàn quốc gia.
2.1.3. Phân loại và vai trò của thị trường du lịch
2.1.3.1. Phân loại thị trường du lịch
Việc phân loại TTDL là cần thiết để xác định rõ đặc điểm của mỗi hình
thị trường và có định hướng chiến lược khai thác các tiềm năng du lịch tại các
vùng lãnh thổ nhằm thu được hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch. Có nhiều
cách phân loại TTDL dựa trên các tiêu chí khác nhau.
- Phân loại TTDL theo phạm vi lãnh thổ, có TTDL quốc gia và TTDL
quốc tế. TTDL quốc gia (TTDL nội địa) là thị trường mà ở đó cung và cầu du
lịch đều nằm trong biên giới lãnh thổ của một quốc gia. Trong đó, các mối
quan hệ nảy sinh do việc thực hiện hàng hóa và dịch vụ du lịch là mối quan hệ
kinh tế đối nội và chịu sự chi phối bởi sự phát triển kinh tế của quốc gia đó
đồng thời phản ánh sự phân công lao động trong nước. Vận động tiền - hàng
trên thị trường chỉ di chuyển từ khu vực này đến khu vực khác ở trong nước.
TTDL quốc tế là thị trường tại đó cung thuộc một quốc gia còn cầu thuộc một
quốc gia khác. Trên thị trường này, các doanh nghiệp du lịch của một quốc
gia kết hợp với các doanh nghiệp của quốc gia khác để đáp ứng nhu cầu du
lịch của công dân các nước. Quan hệ tiền - hàng trong thực hiện sản phẩm du
45
lịch được hình thành và thực hiện vượt qua biên giới quốc gia. Bản thân
TTDL quốc tế lại bao hàm TTDL khu vực và thế giới.
- Phân loại theo đặc điểm và không gian của cung và cầu du lịch, có thị
trường nhận khách và thị trường gửi khách. Thị trường nhận khách là thị
trường cung sản phẩm du lịch, nơi có điều kiện sẵn sàng cung ứng các dịch vụ
tiêu dùng du lịch, đáp ứng nhu cầu du lịch của khách các địa phương khác đến
và khách nước ngoài. Thị trường nhận khách có vị trí quan trọng trong tổ
chức du lịch quốc tế. Thị trường gửi khách là thị trường cầu về du lịch. Du
khách xuất phát từ thị trường này để đến nơi khác tiêu dùng các sản phẩm du
lịch. Trong chiến lược tăng trưởng du lịch của một quốc gia, một vùng hay
một địa phương, việc phát triển thị trường gửi khách có tầm quan trọng đặc
biệt đến việc mở rộng TTDL. Thị trường gửi khách có thể chia thành thị
trường gửi khách trực tiếp và thị trường gửi khách trung gian. Thị trường gửi
khách trực tiếp ở chừng mực nào đó, có thể coi là nơi cư trú hàng ngày của
khách. Thị trường gửi khách trung gian là nơi chuyển tiếp, khách đến nơi này
du lịch trong một vài ngày rồi lại tiếp sang địa điểm du lịch khác.
- Phân loại theo thực trạng TTDL, có TTDL thực tế, TTDL tiềm năng
và TTDL mục tiêu. TTDL thực tế là thị trường mà dịch vụ hàng hóa du lịch
đã được thực hiện hoặc có đủ điều kiện để thực hiện. TTDL tiềm năng là thị
trường mà đang còn cần một số điều kiện mới có thể thực hiện được hàng hóa
và dịch vụ du lịch, có thể có cả ở cung và cầu du lịch. Do thiếu một số điều
kiện cần thiết mà cung và cầu không thể gặp nhau. Thị trường du lịch mục
tiêu là khu vực thị trường được chọn để sử dụng thu hút du khách trong một
thời gian kinh doanh nhất định. Việc tiếp cận thị trường mục tiêu đòi hỏi phải
phân tích tiềm năng buôn bán của một hay các khu vực thị trường, nó bao
gồm việc xác định số lượng du khách hiện nay cũng như du khách tiềm năng
và đánh giá mức tiêu xài mỗi ngày của mỗi du khách. Sự tuyển chọn thị
trường mục tiêu giúp các nhà Marketing dễ dàng giải quyết việc sử dụng
phương tiện quảng cáo để đạt tới thị trường đó.
- Phân loại theo tính chất thời vụ, có TTDL quanh năm và TTDL thời
vụ. TTDL quanh năm là có sự hoạt động liên tục trong năm mà không bị gián
46
đoạn. TTDL thời vụ chỉ hoạt động gián đoạn theo mùa, cung hoặc cầu du lịch
chỉ xuất hiện vào một thời gian nhất định trong năm. Tính chất này tác động
rất sâu sắc đến việc tổ chức lực lượng cung ứng của các doanh nghiệp du lịch.
Ở nhiều nước, một số bãi biển hay vùng núi chỉ hoạt động vài tháng mùa hè,
gọi là TTDL mùa hạ và nhiều nước dựa vào băng tuyết mùa đông, tổ chức du
lịch thể thao mùa đông ngoài trời, gọi là TTDL mùa đông. Tính thời vụ du
lịch phản ánh những biến động lặp đi lặp lại hàng năm của cung và cầu các
hàng hóa và dịch vụ du lịch dưới tác động của một số nhân tố xác định.
- Phân loại theo tính chất sản phẩm du lịch, có TTDL hàng hóa và
TTDL dịch vụ. Sản phẩm du lịch bao gồm các các hàng hóa, dịch vụ du lịch
và tiện nghi cung ứng cho du khách và có thể phân chia thành sản phẩm hữu
hình (hàng hóa) và vô hình (dịch vụ). Nếu TTDL hàng hóa cung ứng loại sản
phẩm hữu hình thì TTDL dịch vụ cung ứng loại sản phẩm vô hình. Sản phẩm
du lịch hữu hình như ăn, uống, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nhu cầu
giải trí, đi lại của du khách… Phần nhiều loại sản phẩm này thể hiện bằng các
loại dịch vụ. Về cơ bản, sản phẩm trên TTDL là vô hình như dịch vụ như dịch
vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống...
2.1.3.2. Vai trò của thị trường du lịch
Thị trường du lịch là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, là một
bộ phận cấu thành hệ thống các loại thị trường trong nền kinh tế, nơi thực
hiện các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường, do vậy, nó có
vai trò rất quan trọng đối với đời sống kinh tế và xã hội. Cụ thể là:
Thứ nhất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Mặc dù lưu thông do
sản xuất quyết định và phục thuộc vào sản xuất, nhưng hoạt động lưu thông
các sản phẩm du lịch trên thị trường cũng có tác động mạnh mẽ trở lại đối với
sản xuất, điều chỉnh và định hướng sản xuất. Các sản phẩm được lưu thông
trên TTDL rất đa dạng và có tỉnh tổng hợp, việc tiêu thụ và mức độ tiêu thụ
các sản phẩm này có tác động trực tiếp đối với các hoạt động sản xuất ra
chúng. Khi TTDL được phát triển, sản phẩm du lịch được lưu thông, thì càng
có điều kiện thu hút các nguồn lực vào phát triển sản xuất. Sự phát triển của
47
TTDL khi được mở rộng ra phạm vi quốc tế, còn tạo ra điều kiện để thúc đẩy
xuất khẩu tại chỗ. Nhờ đó, thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ hai, góp phần cải thiện tiêu dùng, nâng cao chất lượng cuộc sống
của con người và xã hội. Sự phát triển và vận hành trôi chảy của TTDL sẽ tạo
ra điều kiện để các cá nhân và nhóm dân cư được tiếp cận và sử dụng các sản
phẩm, tài nguyên du lịch. Với rất nhiều loại sản phẩm và dịch vụ được TTDL
cung ứng, người tiêu dùng có thể lựa chọn để đáp ứng nhu cầu của mình. Việc
tiêu dùng sản phẩm du lịch của mỗi người không chỉ đơn thuần là tận hưởng
trong tiêu thụ sản phẩm, mà còn giúp cải thiện được sức khoẻ, làm tăng khả
năng sáng tạo, giúp con người được hạnh phúc hơn... Nhờ đó, chất lượng lao
động, làm việc của con người được nâng lên, năng suất lao động tăng lên. Vì
lẽ đó, nhiều nước đã coi sự gia tăng nhu cầu đi du lịch là một tiêu chuẩn để
đánh giá mức sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư.
Thứ ba, góp phần tạo động lực để phát triển các thị trường và các ngành
kinh tế khác. Do sản phẩm để đáp ứng nhu cầu du khách có tính chất tổng hợp
liên ngành, nên ngoài yếu tố tự nhiên ban tặng, việc cung ứng sản phẩm du
lịch phải được sự hỗ trợ của các thị trường và sản xuất của các ngành kinh tế
khác. Sự phát triển của TTDL sẽ tạo thêm động lực để phát triển các thị
trường và mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản xuất của các ngành kinh
tế khác. Chính vì thế, nhiều nước đã coi kinh doanh du lịch là ngành kinh tế
mũi nhọn, đóng vai trò đầu tầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo Tổ
chức Du lịch Thế giới (UNWTO), TTDL toàn cầu không ngừng phát triển kể
từ những năm 1950, nó đã trở thành một trong những trụ cột chính cho tiến bộ
kinh tế và xã hội với sự gia tăng liên tục số lượng du khách. Lượng khách du
lịch quốc tế đã tăng từ 25 triệu vào năm 1950 lên 1,13 tỷ trong năm 2014 và
dự báo con số này sẽ tăng lên 1,8 tỷ vào năm 2030, du lịch hiện đang tạo ra
9% GDP toàn cầu mỗi năm [78].
Thứ tư, góp phần việc làm và thu nhập cho người lao động. Do đặc thù
của hoạt động kinh doanh trên TTDL chủ yếu là dịch vụ nên có hệ số sử dụng
lao động rất cao, tạo nhiều việc làm cho xã hội. Tại những nơi có tài nguyên
48
du lịch được khai thác, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch thường tiếp nhận
một số lượng lớn người lao động. Ngoài việc kích thích các ngành kinh tế
khác phát triển, sự phát triển của TTDL còn tạo thêm việc làm cho các ngành
kinh tế khác. Nhờ đó, quy mô việc làm trong xã hội tăng lên, thu nhập của lao
động tăng lên. Đối với một nước hay một tỉnh còn trong tình trạng đang phát
triển, khi dư thừa lao động còn là vấn đề bức xúc, thì phát triển TTDL được
coi là một giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt.
Thứ năm, góp phần khai thông các nguồn lực trong nước và quốc tế
phát triển doanh nghiệp. Sự phát triển liên thông TTDL trong nước và quốc tế sẽ
tạo điều kiện để phát triển các ngành nghề trong nước, nhất là các nghề truyền
thống có tính đặc trưng vùng miền, thu hút các nguồn lực tự bên ngoài cho đầu
tư phát triển; đồng thời tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị
trường quốc tế. Nhờ đó, tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn cho kinh doanh du
lịch thông qua thị trường và doanh nghiệp nước ngoài, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân viên làm du lịch theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tạo điều kiện nâng cao
năng lực cạnh tranh của các chủ thể trong nước khi tham gia TTDL.
Thứ sáu, góp phần mở rộng sự hiểu biết và giao lưu giữa các dân tộc trong
nước và quốc tế. Hầu hết các quốc gia đều muốn gia tăng lượng khách du lịch,
mong muốn cộng đồng toàn cầu nhận thức tích cực về các sản phẩm do quốc gia
đó sáng tạo. Thông qua TTDL, đặc biệt trong thời đại bùng nổ công nghệ thông
tin, đã làm tăng thêm tầm hiểu biết chung về xã hội của người dân thông qua
người ở địa phương khác, khách nước ngoài về phong cách sống, ngoại ngữ,
thẩm mỹ,… tạo ra sự giao thoa về văn hóa giữa các vùng, miền và các dân tộc
khác nhau trên thế giới; làm tăng thêm tình đoàn kết, hữu nghị, mối quan hệ thân
ái của nhân dân giữa các vùng, nhân dân giữa các quốc gia với nhau.
Như vậy, sự phát triển của TTDL có tác động nhiều mặt đối với đời
sống kinh tế và xã hội. Nhận thức đúng vai trò của thị trường này và có chiến
lược, chính sách đầu tư đúng đắn là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế, phát triển xã hội theo hướng bền vững.
49
2.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH, TIÊU CHÍ ĐÁNH
GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NÓ
2.2.1. Nội dung phát triển thị trường du lịch
Để phát huy vai trò to lớn của TTDL, ngoài cơ chế tự vận hành bởi các
quy luật kinh tế khách quan của thị trường, việc phát huy vai trò kinh tế của nhà
nước là rất cần thiết. Đây chính là xu hướng chung của tất cả các nước nói
chung, các tỉnh nói riêng nhằm phát triển TTDL. Với vai trò là chủ thể điều tiết
vĩ mô nền kinh tế, nhà nước cần có cơ chế chính sách thúc đẩy và hỗ trợ đảm
bảo TTDL phát triển đúng hướng và có hiệu quả.
2.2.1.1. Xây dựng và thực thi chiến lược và kế hoạch cho phát triển thị
trường du lịch
Chiến lược là tập hợp những quyết định, những hành động, những kế
hoạch liên kết với nhau để thực hiện mục tiêu đặt ra của tổ chức, là những mưu
tính và quyết sách đối với những vấn đề trọng đại có tính chất toàn cục và lâu
dài. Chiến lược phát triển TTDL là một bộ phận cấu thành trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Nó quy định những mục tiêu lâu
dài, những nhiệm vụ chủ yếu về sự phát triển kinh tế du lịch, những con đường
và chính sách để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng chung của
sự phát triển kinh tế trong một thời kỳ dài.
Chiến lược phát triển TTDL là xác định các nhiệm vụ, mục tiêu dài
hạn, lựa chọn chính sách thích hợp với điều kiện trong nước và quốc tế; phối
hợp tối ưu các nguồn lực. Đây là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục tiêu
căn bản, chủ yếu để phát triển du lịch, đồng thời xác định các nguồn lực,
phương tiện và lựa chọn các phương án thích hợp để đạt được các mục tiêu
trong phát triển du lịch. Xác định chủ trương về phát triển TTDL của Đảng và
Nhà nước; xác định mục tiêu dài hạn cần hướng đến sự phát triển trong phát
triển du lịch; xác định những định hướng giải pháp, chính sách thực hiện
chiến lược và xác định các thế mạnh cần được phát huy, các tiềm năng du lịch
cần được khai thác, tranh thủ được cơ hội và xác định những thách thức, yếu
kém cần vượt qua. Việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển TTDL có ý
50
nghĩa to lớn đối với việc định hướng, quy hoạch, kế hoạch phát triển cũng
như việc xử lý các vấn đề nảy sinh trên TTDL.
Đối với ngành du lịch Lào, để tích cực và chủ động trong việc xây dựng
chiến lược phát triển TTDL là rất cấp thiết. Chiến lược phát triển TTDL sẽ căn
cứ để xây dựng các kế hoạch, quy hoạch phát triển của các ngành trong ngắn
hạn. Nó là tiêu thức để các tổ chức du lịch hướng tới trong hoạt động kinh
doanh; đồng thời là điều kiện, tiền đề rất quan trọng để khai thác, sử dụng các
nguồn lực, lợi thế cho phát triển kinh doanh du lịch của các công ty trong nước.
Trong những năm qua, Bộ thông tin, văn hóa và du lịch Lào đã xây dựng
chiến lược phát triển du lịch Lào giai đoạn năm 2010 - 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030. Tập chung phát triển ngành du lịch trong thời gian tới với mục tiêu là
đưa du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm. Theo chiến lược, vào năm 2025,
Lào sẽ đón khoảng 7,5 triệu lượt du khách. Doanh thu du lịch sẽ đạt khoảng 1,4
tỷ USD. Để thu hút khách du lịch, sẽ phải xây dựng các dòng sản phẩm du lịch
đặc trưng, theo các phân đoạn thị trường. Trong đó đặc biệt chú trọng khai thác
du khách đến từ các nước có nền kinh tế mới nổi như: Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản và các nước ASEAN, đây là nguồn du khách có khả năng tài chính
phù hợp, lưu trú dài ngày với những sản phẩm mới như: du lịch hội thảo, du lịch
chữa bệnh, làm đẹp,... [9, tr.26].
Xây dựng và thực thi quy hoạch phát triển TTDL. Đây là việc lựa chọn
phương án hợp lý phát triển và tổ chức thị trường, tổ chức lực lượng kinh
doanh du lịch dài hạn trên một không gian lãnh thổ nhất định. Nó là việc xây
dựng trước một kế hoạch để đánh giá tình huống hiện tại, dự báo tình huống
tương lai và lựa chọn một số chương trình hành động phù hợp để tạo được
nhiều cơ hội sẵn có nhất cho sự phát triển điểm đến du lịch. Đây là việc cần
thiết để phát triển thị trường, để các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chủ
động phát triển sản phẩm, tham gia cạnh tranh với các doanh nghiệp du lịch
nước ngoài. Nội dung quy hoạch phát triển TTDL bao gồm: xác định vị trí,
vai trò, lợi thế của TTDL trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
vùng và quốc gia; phân tích, đánh giá tiềm năng và hiện trạng tài nguyên du
51
lịch, các nguồn lực phát triển du lịch, TTDL; xác định quan điểm, mục tiêu,
tính chất, dự báo các chi tiêu, luận chứng, các phương án phát triển du lịch; tổ
chức không gian du lịch, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch;
xác định danh mục các khu vực, các dự án ưu tiên đầu tư, nhu cầu sử dụng
đất, vốn đầu tư và nguồn nhân lực cho kinh doanh du lịch; đánh giá tác động
môi trường, các biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường đề xuất cơ
chế, chính sách, giải pháp quản lý để phát triển TTDL theo quy hoạch.
Xây dựng và thực thi quy hoạch phát triển TTDL. Đó là bản đề án tổng
thể về mục tiêu của phát triển TTDL cùng các biện pháp, chính sách thực thi
nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển TTDL trong từng thời gian
nhất định, thường kế hoạch dài hạn là 5 năm hoặc kế hoạch ngắn hạn là 1
năm. Nếu chiến lược phát triển TTDL được xây dựng cho phương pháp cân
đối dự báo, tức là dự báo có cơ sở khoa học nguồn lực và khả năng cân đối
cung - cầu trên thị trường, thì kế hoạch phát triển TTDL được xây dựng theo
phương pháp cân đối hiện thực các nguồn lực, khả năng đã nắm và có thể huy
động được trong định kỳ thời gian.
2.2.1.2. Tạo cung và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho thị trường du lịch
Sản phẩm du lịch bao gồm tất cả hàng hóa và dịch vụ cần thiết làm thỏa
mãn nhu cầu chuyến đi du lịch của khách. Nó là tổng hợp những gì khách mua,
hưởng thụ, thực hiện gắn với điểm du lịch. Đứng về phía du khách, sản phẩm du
lịch bao gồm toàn bộ dịch vụ phục vụ cho chuyến đi, tính từ khi ra khỏi chỗ ở
hàng ngày đến khi trở về nhà của mình. Những sản phẩm đáp nhu nhu cầu của
khách trong một thời gian xác định ở các khu du lịch, hay một chuyến du lịch,
một cuộc dự hội nghị là sản phẩm du lịch trọn gói, tổng hợp. Một phòng khách
sạn mà khách sử dụng là một sản phẩm du lịch riêng lẻ. Sản phẩm du lịch được
tồn tại cả ở dạng hữu hình và cả những sản phẩm vô hình. Chúng không chỉ
được tạo ra từ các ngành sản xuất công nghiệp và nông nghiệp mà còn được tạo
ra ở các ngành dịch vụ. Khác với các sản phẩm trên các thị trường khác, phần
lớn nguồn cung về sản phẩm cho TTDL là văn hóa, các lễ hội, di tích lịch sử, các
tài nguyên thiên nhiên và các công trình xây dựng, v.v... Những sản phẩm này
52
không phải được con người trực tiếp sản xuất ra để đem bán, mà là sự ban tặng
của tự nhiên cho con người hoặc được các thế hệ trước kiến tạo không phải vì
mục đích kinh doanh du lịch. Để trở thành hàng hóa du lịch, các thứ này phải
được bảo tồn, tôn tạo, giới thiệu, kích thích nhu cầu.
Do sản phẩm du lịch thường gắn liền với nguồn tài nguyên du lịch, nên
nó khác với các sản phẩm khác là không thể di chuyển được từ địa điểm này
sang địa điểm khác. Đặc điểm này bắt buộc người mua phải đến tận nơi có sản
phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Sản phẩm du lịch còn có điểm riêng biệt so với các hàng hóa thông
thường ở chỗ khi nó được đem bán cho khách chỉ là bán công dụng của sản
phẩm chứ không bán việc sở hữu sản phẩm. Việc sử dụng nó còn có thể gây ra
phản ứng lan truyền từ du khách này sang du khách khác, thì giá trị của nó có thể
được tăng lên theo các lần sử dụng của du khách.
Tính thời vụ của sản phẩm du lịch không phải bắt nguồn từ bản thân sản
phẩm, mà thông thường lại từ nhu cầu của du khách. Tính thời vụ của sản phẩm
du lịch còn thể hiện rõ ở các ngày nghỉ trong tuần, những ngày nghỉ lễ, các kỳ
nghỉ hè của học sinh, sinh viên. Tính thời vụ tuy có sự khác biệt giữa các quốc gia,
các khu vực nhưng vẫn là đặc điểm nổi bật của hoạt động du lịch mà những nhà
kinh doanh phải nắm được. Nguồn lực và tiềm năng cho phát triển du lịch là một
nội dung không thể thiếu được trong kinh doanh du lịch, nó là điều kiện và yếu tố
đầu vào để tạo ra sản phẩm du lịch cung ứng trên thị trường. Nó bao gồm các yếu
tố chủ yếu như: tài nguyên du lịch, các kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho phát triển du lịch.
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa,
công trình do lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có
thể được dùng để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, là yếu tố cơ bản để hình
thành khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch,v.v... Cảnh quan thiên nhiên
bao gồm: địa hình, địa chất, địa mạo, tài nguyên khí hậu, nước, sinh vật và
các cảnh quan du lịch tự nhiên. Di tích lịch sử, văn hóa là các công trình do
lao động sáng tạo của con người tạo ra, bao gồm: văn hóa vật thể như: di sản
53
văn hóa thế giới, các di tích lịch sử văn hóa, các công trình đương đại, các vật
kỷ niệm, cổ vật và văn hóa phi vật thể như: các di sản văn hóa truyền miệng
và phi vật thể của nhân loại,v.v...
Các cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển du lịch là một nội dung
quan trọng cho phát triển TTDL. Nó bao gồm các điều kiện phục vụ cho việc
tổ chức các chuyến đi du lịch, các điểm du lịch, hệ thống giao thông, cơ sở
lưu trú và ăn uống, cơ sở vui chơi giải trí và các phương tiện vận chuyển
khách du lịch,... Các cơ sở vật chất - kỹ thuật này càng thuận tiện, hiện đại thì
càng có điều kiện nâng cao năng lực phục vụ du khách, tăng sức cạnh tranh
trong việc thu hút khách, mở rộng TTDL. Chính vì thế, trong thời gian tới
mặc dù phải đối phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng không ít quốc
gia vẫn ưu tiên đầu tư tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển TTDL
tăng cường thu hút du khách trong nước và quốc tế.
2.2.1.3. Liên kết trong nước và quốc tế cho phát triển thị trường du lịch
Liên kết kinh tế trong phát triển TTDL là hoạt động nhằm tối ưu hóa và
tăng cường tiềm lực cho hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch trong
việc thu hút khách trong nước và quốc tế. Nó có thể thực hiện dưới hình thức
liên kết các ngành kinh tế khác nhau, có liên quan với nhau cho phát triển
TTDL và cũng có thể là liên kết giữa các tổ chức kinh doanh du lịch trong
nước với nhau hoặc giữa các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước và nước
ngoài cung hoạt động trên một TTDL.
Liên kết trong phát triển du lịch cũng có thể là sự phối hợp giữa các cơ sở
du lịch, điểm du lịch, đơn vị du lịch của các địa phương, vùng và giữa các nước
trong phát triển mạng lưới du lịch, xây dựng các tuyến du lịch liên vùng, liên
quốc gia.
Thực chất của các liên kết này là thực hiện các quan hệ phân công, hợp
tác, phân bổ lực lượng sản xuất giữa các doanh nghiệp, sao cho các quan hệ đó
được thiết lập một cách tối ưu, ràng buộc trách nhiệm với nhau bằng các hợp
đồng kinh tế cụ thể, công khai, minh bạch nhằm phát triển sản phẩm du lịch, mở
rộng thị trường. Đây còn là hình thức thúc đẩy các quan hệ lợi ích, tức là các
54
quan hệ trao đổi, thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau, quan hệ phân chia
lợi nhuận do kết quả và chất lượng của hoạt động du lịch mang lại.
Với nội dung này, hoạt động TTDL của một địa phương hay một quốc gia
muốn phát triển, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, thành phần kinh
tế, tổ chức kinh doanh du lịch và các địa phương trong việc tuyên truyền, quảng
bá, xây dựng tiềm lực và phát triển sản phẩm du lịch, trong việc mở rộng thị
trường dịch vụ du lịch không chỉ ở địa phương, khu vực mà còn vươn ra thị
trường mới, kể cả TTDL quốc tế.
2.2.1.4. Lựa chọn cơ chế vận hành thị trường du lịch
Cũng như các thị trường khác, cơ chế vận hành TTDL là một "guồng
máy" điều chỉnh hoạt động của các chủ thể tham gia TTDL. Nó có thể là cơ chế
thị trường hay còn gọi là "bàn tay vô hình", "cơ chế tự điều tiết", cũng có thể là
sự điều tiết và quản lý của nhà nước hay còn gọi là "bàn tay hữu hình", đối
với TTDL, và cũng có thể được kết hợp cả hai loại cơ chế này, tức là cơ chế
"Hai bàn tay". Cơ chế vận hành TTDL là một nội dung quan trọng trong việc
lựa chọn môi trường thuận lợi cho các chủ thể tham gia TTDL.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết, tự vận hành thị trường. Nó tự phát
sinh ra và tự phát điều chỉnh hoạt động của các chủ thể thị trường. Cơ chế này có
tác động rất lớn đối với các chủ thể thị trường mà trước hết là đối với các tổ chức
kinh doanh du lịch. Nó buộc chủ doanh nghiệp phải tích cực hơn, năng động và
sáng tạo hơn trong hoạt động cung ứng dịch vụ du lịch. Nó làm cho các nguồn tài
nguyên du lịch được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn, cung ứng sản phẩm tốt
hơn, giá cả hợp lý hơn. Cơ chế này cũng loại bỏ những nhà kinh doanh kém cỏi,
thiếu năng lực và giữ lại những người kinh doanh thành công. Tuy nhiên, quá
trình vận hành nền kinh tế của cơ chế thị trường cũng đưa lại những kết quả không
mong muốn mà nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu. Chính vì thế, ngày nay để
vận hành TTDL hoạt động có hiệu quả và để thực hiện các mục tiêu xã hội trong
phát triển kinh tế, ở nhiều nước đã có sự kết hợp giữa thị trường và nhà nước.
Nhà nước điều tiết và quản lý TTDL là hoạt động của cơ quan nhà nước
nhằm hướng sự hoạt động của các chủ thị trường theo mục đích nhà nước đã lựa
55
chọn. Để thực hiện việc điều tiết này, nhà nước phải sử dụng các công cụ kể cả
kinh tế và công cụ hành chính. Đó là hệ thống luật pháp, kế hoạch hóa và các
chính sách phát triển TTDL, hệ thồng xúc tiến và quảng bá du lịch, bộ máy quản
lý TTDL mà chủ yếu là các hoạt động kinh doanh du lịch. Cùng với tạo điều
kiện môi trường thông thoáng trong đầu tư kinh doanh du lịch, việc nhà nước
điều tiết TTDL đòi hỏi phải có sự kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh du
lịch. Nó bao gồm kiểm tra, kiểm soát hoạt động của TTDL theo định hướng
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển đã được xác định để có hướng điều
chỉnh kịp thời; kiểm tra việc sử dụng các nguồn lực để phát triển sản phẩm du
lịch để các nguồn lực được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, không bị
lãng phí; kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chức năng của nhà nước về TTDL
nhằm bảo đảm trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động du lịch,
các hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp du lịch nắm chắc tình trạng hoạt
động của doanh nghiệp để có phương hướng và biện pháp điều chỉnh nhằm đảm
bảo cho chúng tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.
Ở CHDCND Lào hiện nay, việc nhà nước thực hiện nhất quán các chính
sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh và phát triển các
loại hình doanh nghiệp du lịch, bảo đảm cho mọi công dân có quyền tự do đầu
tư kinh doanh trong các lĩnh vực du lịch mà nhà nước không cấm, quyền bất khả
xâm phạm về sở hữu hợp pháp trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và
các nguồn lực phát triển, tiếp cận thông tin, v.v... Đồng thời, để thúc đẩy TTDL,
nhà nước đã chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế, tham
gia đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu và song phương. Những chủ
trương và chính sách này là rất cần thiết cho phát triển TTDL ở Lào.
Như vậy, nội dung phát triển TTDL bao gồm việc quy hoạch, định hướng
phát triển thị trường, phát triển nguồn cung cho thị trường và tạo lập môi trường,
thể chế thuận lợi cho phát triển thị trường. Thực chất, đây là những nội dung tác
động làm tăng số lượng và nâng cao chất lượng cung về sản phẩm du lịch theo
quan điểm cung dẫn cầu. Tất nhiên, trên TTDL cầu cũng có vai trò rất quan
trọng, nhiều khi lại trở thành nhân tố quyết định cung. Do vậy, để phát triển
56
TTDL, các nhà hoạch định chính sách phải tính đến các nhân tố kích cầu du lịch
trong một bối cảnh nhất định.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá kết quả phát triển thị trường du lịch
Việc xác định tiêu chí đánh giá kết quả phát triển TTDL là rất cần thiết
để có cơ sở nghiên cứu thực trạng và tìm kiếm định hướng, giải pháp đầu tư,
hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy phát triển. Đến nay, các nhà nghiên
cứu và tổ chức thực tiễn trên thế giới đã xây dựng khá nhiều tiêu chí đánh giá
về mức độ hoạt động du lịch, như tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của điểm
đến theo mô hình của Crouch và Ritchie (2003), Brazil (2010) [83]; mô hình
đánh giá về mức độ hấp dẫn của điểm đến du lịch trên trang web TripAdvisor;
tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp du lịch; và
có những tiêu chí đánh giá tác động của du lịch đối với kinh tế, xã hội. Từ
nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm các nước, tác giả xác định để đánh giá
kết quả phát triển TTDL có các tiêu chí chủ yếu như sau:
- Quy mô và mức độ hấp dẫn của thị trường. Với tiêu chí này, quy mô
TTDL càng lớn tức là lượng cung và lượng cầu du lịch càng nhiều, TTDL
càng mở rộng, càng tạo sự hấp dẫn đối với du khách, kích thích việc tăng
cung. Có thể đo lường tiêu chí này bằng quy mô nguồn lực chủ yếu là mức độ
đa dạng và tính độc đáo của tài nguyên du lịch, sức chứa của điểm tài nguyên,
bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch. Mức độ tiện lợi của các yếu tố hỗ trợ
gồm hệ thống hạ tầng và phương tiện giao thông, hệ thống điện và cấp thoát
nước, mức độ đảm bảo trật tự an ninh, an toàn cho du khách, môi trường sinh
thái tại điểm đến du lịch. Quy mô sản phẩm hàng hóa và dịch vụ du lịch gồm
năng lực cung cấp thông tin, hướng dẫn, thuyết minh cho khách hàng, hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ phục vụ lưu trú của du khách, hệ
thống nhà hàng phục vụ khách du lịch, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí, tham
quan, nghỉ dưỡng, khám phá, tìm hiểu các giá trị về tự nhiên, văn hóa, dịch vụ
tổ chức sự kiện, hội nghị, hội thảo, dịch vụ mua sắm. Nếu các dịch vụ này đa
dạng, tiện nghi và có quy mô lớn thì quy mô TTDL là lớn và có nhiều khả
57
năng thu hút du khách cả trong nước và quốc tế hơn so với các TTDL có quy
mô nhỏ và thiếu đồng bộ về các loại dịch vụ.
Sức hấp dẫn của TTDL còn được thể hiện ở mức độ thu hút đầu tư
nước ngoài vào thị trường này nhiều hay ít có thể đo đếm được.
- Sức cạnh tranh của thị trường. Tiêu chí này dùng để xác định năng
lực hoạt đông của một TTDL so với các TTDL khác. Nó bao gồm sức đáp
ứng của kết cấu hạ tầng, dịch vụ và trang thiết vị du lịch, khả năng tiếp cận thị
trường, sức hấp dẫn của điểm tham quan vui chơi, marketing, chính sách
công, liên kết vùng, mức độ kiểm tra giám sát, nền kinh tế vùng, năng lực
kinh doanh, và các khía cạnh về văn hóa, xã hội, môi trường.
- Mức độ tạo việc làm và thu nhập. Đây là tiêu chí đánh giá hiệu quả
kinh tế của TTDL. Nó được đo bằng mức độ tăng trưởng việc làm và tăng
trưởng thu nhập với các chỉ tiêu:
Tăng trưởng việc làm: = , trong đó gL là tốc độ tăng
trưởng lực lượng lao động trên TTDL trong kỳ nghiên cứu, Lt là số lượng lao
động làm việc trên TTDL tại thời điểm t (tháng, quý, năm), Lt-1 là số lượng
lao động làm việc trên TTDL tại thời điểm trước (tháng trước, quý trước, năm
trước). Nếu gL> 0 thì có sự tăng trưởng, còn nếu gL< 0 là có sự suy giảm.
Tăng trưởng thu nhập: = , trong đó gY là tốc độ tăng
trưởng thu nhập trên TTDL trong kỳ nghiên cứu, Yt là tổng thu nhập của
TTDL tại thời điểm t (tháng, quý, năm), Yt-1 là tổng thu của TTDL tại thời
điểm trước (tháng trước, quý trước, năm trước). Nếu gY> 0 thì có sự tăng
trưởng, nếu gY = 0 tức là không có sự tăng trưởng (trong kinh tế chính trị còn
gọi là đình trệ), còn nếu gY< 0 là có sự suy giảm. Chỉ tiêu này có thể dùng đo
lượng thành quả chung về hoạt động của mộ TTDL cả cấp tỉnh, cấp quốc gia
và toàn thế giới, và cũng có thể đo lường sự thay đổi trung bình về thu nhập
của người lao động theo thời gian. Tiêu chí tăng trưởng thu nhập của lao động
cũng được hiểu là mức độ về tăng năng suất lao động của người lao động làm
việc ở thị trường này.
58
Mức độ đóng góp của TTDL vào tổng giá trị sản lượng trong nước, trong tỉnh:
Mức đóng góp của TTDL(%) = .100%. Chỉ số này cho
biết tầm quan trọng của TTDL trong việc tạo ra giá trị chung của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định, có thể tính ở trong nước và trong tỉnh. Dựa vào
phương pháp này, có thể xác định mức đóng góp của TTDL đối với nguồn thu
ngoại tệ, thu ngân sách cho địa phương phát triển du lịch.
Ngoài ra, có thể sử dụng tiêu chí về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp trên TTDL như hiệu quả sử dụng vốn, tăng trưởng lợi nhuận.
- Mức độ lôi kéo của TTDL đối với các thị trường, các ngành khác
trong nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh du lịch cần nhiều sự hỗ trợ của các
thị trường và các ngành kinh tế khác. Nhiều khu vực khác cũng được hưởng
lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch,
như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm, vận tải, lưu trú, bán lẻ,
dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính. Do vậy, có thể đánh giá được mức độ lôi
kéo của TTDL đối với các thị trường, các ngành kinh tế khác. Ở các tỉnh có
làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để phát triển du lịch
bằng việc giới thiệu và bán các sản phẩm thủ công cho các du khách đến thăm
quan tạo cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu. Mức độ
tăng trưởng của các nghề truyền thống địa phương nhờ dựa vào TTDL cũng là
tiêu chí để đánh giá độ lôi kéo của sự phát triển thị trường này.
- Tiêu chí về tác động lan tỏa của TTDL đối với phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường. Tiêu chí để xác định mức độ lan tỏa này có thể sử dụng
gồm khả năng tạo việc làm cho lao động nữ của địa phương, góp phần giáo
dục truyền thống, văn hóa, tri thức về tự nhiên, xã hội, ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái; quảng bá hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua các du
khách, quảng bá, tăng tầm hiểu biết chung về văn hóa, xã hội, hình ảnh đất
nước, con người, truyền thống, văn hóa của tỉnh, quốc gia, kết nối bạn bè...
59
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường du lịch
Việc phát triển TTDL của Lào nói chung, các tỉnh trong nước nói riêng,
chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố trong đó có cả khách quan và chủ quan.
Dưới đây là các nhân tố chủ yếu:
Thứ nhất, các yếu tố kinh tế. Thu nhập và thời gian rảnh rỗi của người dân
là hai yếu tố kinh tế rất quan trọng tác động đến cầu du lịch của người dân. Do
hàng hóa và dịch vụ du lịch là loại sản phẩm cao cấp nên cầu du lịch tăng trưởng
cùng chiều với mức tăng thu nhập. Cầu du lịch cũng biến đổi theo chiều thuận
với thời gian rảnh rỗi của mỗi người. Khi thu nhập tăng và có thời gian nghỉ
ngơi, rảnh rỗi thì cầu du lịch tăng; và ngược lại thu nhập và thời gian rảnh rỗi
giảm thì cầu du lịch giảm. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cứ 1% tăng trưởng
GDP sẽ tạo ra tăng trưởng từ 2% - 2,5% trong chi tiêu cho du lịch. Các yếu tố
kinh tế xã hội cũng có ảnh hưởng đến cầu và cung hàng hóa, dịch vụ du lịch. Khi
nền kinh tế có sự tăng trưởng ổn định thì thu nhập của người dân tăng, cầu du
lịch tăng. Khi xảy ra thiên tai, bệnh dịch, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền
tệ hay khủng hoảng giá dầu lửa trên thế giới thì cả cung và cầu đều giảm xuống,
TTDL bị thu hẹp.
Thứ hai, mức độ đáp ứng của các nguồn lực. Nguồn lực cho phát triển
TTDL là các yếu tố đầu vào để tạo ra cung sản phẩm du lịch. Nó bao gồm
các nguồn lực cứng và các nguồn lực mềm. Nguồn lực cứng gồm có tài
nguyên du lịch, vốn, khoa học, công nghệ và nguồn lực con người. Nguồn
lực mềm bao gồm các quan hệ hợp tác giữa các công ty, các ngành, các địa
phương và hợp tác quốc tế trong mở rộng cung, cầu và phát triển TTDL,
mức độ tham gia, cởi mở của các tổ chức, hiệp hội du lịch, cơ chế chính sách
của nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương, mức độ tham
gia của cộng đồng dân cư, mức độ hiếu khách tại điểm đến... Nguồn lực tài
nguyên du lịch bao gồm danh thắng, tài nguyên thiên nhiên được công nhận
là khu bảo tồn và các vườn quốc gia, di sản vật thể, phi vật thể, di sản lịch
sử, văn hóa được công nhận ở các cấp độ vùng, quốc gia, quốc tế. Nguồn lực
vốn là điều kiện để các dự án du lịch trở thành hiện thực. Nguồn lực khoa
60
học và công nghệ có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hoạt động của
TTDL. Nguồn lực con người không chỉ ở số lượng mà còn rất quan trọng là
ở chất lượng với tính chuyên nghiệp của họ. Nếu quy mô và chất lượng của
các nguồn lực trên mà tăng lên thì quy mô và chất lượng cung về sản phẩm
du lịch sẽ tăng lên. Nếu việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch được sự
hỗ trợ mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại thì không chỉ tăng cung
mà còn kích thích cầu tức là sẽ thu hút được nhiều du khách hơn.
Ngày nay, trong phát triển TTDL cuộc cách mạng 3T (Telecommucation -
Transport - Tourism) là cuộc cách mạng trong viễn thông, công nghệ, giao thông
vận tải để thúc đẩy sự phát triển TTDL. Nó được sử dụng trong ngành hàng
không để vận chuyển du khách, trong hỗ trợ việc tìm kiếm thông tin trực tuyến,
đến hoạt động thiết kế và phân phối sản phẩm du lịch. Các thành tựu công nghệ
kỹ thuật số và mạng internet, công nghệ thực tế ảo (VR), công nghệ 3D... có
ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đối với thị trưởng điểm đến du lịch mà còn làm
phát sinh TTDL mới như du lịch tại chỗ thông qua các trang web.
Thứ ba, các yếu tố chính trị. Tuy thể chế kinh tế, chính trị được quyết
định bở các quan hệ kinh tế, nhưng nó có tác động trở lại kinh tế thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển kinh tế. TTDL là một lĩnh vực kinh tế cũng chịu tác động
này. Cụ thể là nó chịu ảnh hưởng bởi đường lối, chiến lược và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của đảng và nhà nước. Nếu đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội đúng đắn cho phép phát huy được các nguồn lực và các hình
thức tổ chức kinh doanh của mọi chủ thể thì cùng với các thị trường khác, TTDL
được phát triển. Tương tự, mức độ an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội
được bảo đảm thì TTDL có điều kiện thuận lợi để phát triển. Những bất ổn về
chính trị, xã hội đều tác động tiêu cực thậm chí còn phá hoại thị trường. Sự an
toàn của điểm đến là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu để du khách
quyết định lựa chọn điểm đến du lịch. Nhiều nghiên cứu cho thấy TTDL có độ
nhạy cảm rất cao đối với chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Thứ tư, mức độ địa phương hóa, khu vực hóa và toàn cầu hóa. Địa
phương hóa TTDL thể hiện ở các yếu tố về bản sắc địa phương trong việc cung
61
ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch, làm cho TTDL ở địa phương này có tính độc
đáo, khác biệt so với ở các địa phương khác, gây sức hấp dẫn điểm đến đối với
khách du lịch.
Khu vực hóa là quá trình gắn kết giữa các quốc gia, lãnh thổ trong cùng
khu vực địa lý, có nhiều nét tương đồng về kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau thông qua các quy định chặt
chẽ của điều ước quốc tế. Ví dụ, ASEAN là một liên minh chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Toàn cầu hóa thể
hiện ở mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay
các cá nhân vè kinh tế, văn hóa... trên quy mô toàn cầu. Trong kinh tế, toàn cầu
hóa được đặc biệt nhấn mạnh với hợp tác sản xuất và tự do hóa thương mại. Ví
dụ, WTO là một tổ chức thương mại toàn cầu có trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ;
UNWTO là một cơ quan của Liên hiệp quốc nắm bắt mọi vấn đề liên quan đến
du lịch trên toàn thế giới với 156 quốc gia tham gia. Khu vực hóa và toàn cầu
hóa càng được mở rộng thì TTDL quốc gia càng có cơ hội để mở rộng và phát
triển ra các nước trên thế giới. Tất nhiên, khu vực hóa, toàn cầu hóa cũng đặt ra
không ít thách thức và áp lực cạnh tranh đối với các công ty du lịch quốc gia
trong phát triển thị trường.
Thứ năm, môi trường sống và làm việc của con người, mức độ nhận thức về
môi trường xã hội của khách du lịch. Môi trường sống và làm việc của con người
có tác động đến TTDL. Ví dụ, người dân sống ở các đô thị đông đúc, nhiều tiếng ồn
và khói bụi độc hại thường muốn đi du lịch để cải thiện chất lượng cuộc sống. Hàng
ngày con người luôn phải làm việc, tiếp xúc với máy tính và các trang thiết bị điện
tử hiện đại. Điều đó khiến nhiều người muốn được thay đổi không khí trong lành,
đến một nơi có môi trường sống lành mạnh, nghỉ ngơi và thư giãn khi có những dịp
nghỉ lễ dài ngày.
Mức độ nhận thức về môi trường xã hội của khách du lịch và mức độ
giám sát của cộng đồng địa phương trong việc ra các quyết định phát triển điểm
đến du lịch có ảnh hưởng quan trọng đến duy trì hoạt động và phát triển TTDL
một cách bền vững.
62
Ngoài ra, hoạt động của TTDL còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác
như mức độ hoàn hảo của hoạt động quảng bá, marketing du lịch, mức độ thân
thiện của người dân khi tiếp đón khách du lịch, độ hoàn hảo trong các dịch vụ
của người và tổ chức kinh doanh du lịch.
2.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH CỦA MỘT SỐ
TỈNH TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch của tỉnh Ninh
Bình, Việt Nam
Ninh Bình là vùng đất có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng
của Việt Nam, hoà quyện cùng bản sắc văn hoá, tạo cho tỉnh Ninh Bình các
thế mạnh để phát triển TTDL. Tiêu biểu như Cố đô Hoa Lư, vùng đất là kinh
đô của nước Đại Cồ Việt thế kỷ thứ 10 - Nhà nước phong kiến tập quyền đầu
tiên của nước ta gắn liền với ba vương triều: Đinh - Tiền Lê - Lý, với ba vị
anh hùng dân tộc: Vua Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành và Vua Lý Thái
Tổ. Chính từ đây, Vua Lý Thái Tổ đã xuống chiếu dời đô ra Thăng Long. Nơi
đây, đến nay vẫn còn nhiều công trình kiến trúc được lưu giữ, đó là đền thờ
Vua Đinh Tiên Hoàng, đền thờ Vua Lê Đại Hành, nhà bia tưởng niệm Vua Lý
Thái Tổ, lăng Vua Đinh, lăng Vua Lê, phủ Bà Chúa, phủ Vực Vông, bia Cửa
Đông, chùa Nhất Trụ…
Thị trường du lịch của tỉnh tương đối phong phú, đa dạng về sản phẩm,
như núi, hồ, rừng với các di tích văn hóa, lịch sử, danh lam, thắng cảnh nổi
tiếng. Tỉnh Ninh Bình có hơn 800 di tích các loại đã được kiểm kê, 78 di tích
lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia và 99 di tích
được xếp hạng cấp tỉnh. Con số đó phản ánh sự phong phú của di sản, là tiềm
năng, tài nguyên du lịch, điển hình như đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở xã Gia
Phương, động Hoa Lư, đền thờ Trương Hán Siêu, đền thờ Nguyễn Công Trứ,
đền thờ Đức Thánh Nguyễn, chùa Bàn Long, chùa Địch Lộng, chùa Non Nước,
đình Trùng Thượng…
Ninh Bình cũng là nơi còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống,
trong thời kỳ kinh tế du lịch phát triển thì đây lại là những sản phẩm có giá trị
63
cao để phát triển dịch vụ du lịch. Tiêu điểm như làng nghề trạm khắc đá Ninh
Vân, thêu ren Ninh Hải, mỹ nghệ cói Kim Sơn, đồ gỗ Phúc Lộc, làng đá cảnh
Bình Khang…[43]. Ninh Bình còn là tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi cho phát
triển TTDL, nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông
Hồng và Bắc Trung Bộ, là nơi chịu ảnh hưởng giữa nền văn hóa Hòa Bình và
văn hóa Đông Sơn với 74 lễ hội truyền thống và nhiều hội làng mang đậm yếu
tố dân gian, đậm đà văn hoá vùng đất châu thổ sông Hồng [70].
Để phát triển TTDL, tỉnh Ninh Bình đã xây dựng 5 loại hình du lịch
được ưa thích là: (i) Du lịch văn hóa lịch sử như Khu di tích lịch sử cố đô Hoa
lư, Khu văn hóa tâm linh chùa Bái Đính, Quần thể nhà thờ Phát Diệm, các di
tích văn hóa phòng tuyến Tam điệp - Biện sơn, di tích lịch sử cách mạng: Khu
căn cứ cách mạng Quỳnh lưu, núi Non nước, di tích cách mạng…. (ii) Du lịch
sinh thái cảnh quan: Khu du lịch quốc gia Cúc Phương; khu bảo tồn thiên
nhiên Vân Long; khu du lịch sinh thái hang động Tràng An với các loại hình
du lịch tổng hợp hang động, sông suối; Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động với
nhiều tuyến du thuyền trên sông; khu du lịch động Thiên Hà và các điểm hang
động di tích lịch sử. (iii) Du lịch giải trí: Khu du lịch nghỉ dưỡng Ana
Mandara Ninh Bình tọa lạc trên khu đất rộng 16,2 ha gần khu bảo tồn thiên
nhiên Vân Long huyện Gia Viễn, Khu nghỉ dưỡng nước khoáng nóng Cúc
Phương, Khu nghỉ dưỡng Life Wellnesss Resort Ninh Bình... (iv) Di tích khảo
cổ: Ninh Bình là địa bàn có nhiều di tích khảo cổ học thuộc các thời kỳ văn hóa
Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút và Đông Sơn như: Di tích Núi Ba, Di tích Thung
nham, Di tích hang Đắng, Di tích hang Đáo, Di tích hang Yên Ngựa, Động Mã
Tiên, Hang Bói, Hang Bụt, Hang Dẹ, Hang Sáo... (v) Văn hóa với 74 lễ hội
truyền thống và 145 hội làng mang đậm yếu tố dân gian, đậm đà văn hóa vùng
đất châu thổ Sông Hồng như lễ hội Chùa Bái Đính, Lễ hội làng Yên Vệ, lễ hội
cố đô Hoa lư, lễ hội đền Trần (Tràng An), lễ hội Noen giáo sứ Phát Diệm…
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng đã được cải thiện cả về số lượng
lẫn chất lượng, bước đầu đáp ứng yêu cầu của du khách. Cùng với sự phát
64
triển cơ sở vật chất kỹ thuật ngành, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng của tỉnh như
giao thông, điện, thông tin liên lạc phát triển khá nhanh,…
Các loại hình du lịch đặc trưng của Ninh Bình đã tạo được sự hấp dẫn
du khách, công tác tuyên truyền quảng bá du lịch, giới thiệu về quê hương
con người Ninh Bình được chú trọng, nhờ đó du lịch Ninh Bình đã tạo được
hình ảnh bước đầu của mình đối với du khách trong và ngoài nước.
Đội ngũ lao động dồi dào, từng bước được tiêu chuẩn hoá và bổ sung kịp
thời, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch được quan tâm tổ chức
thường xuyên để đáp ứng yêu cầu phát triển cho từng thời kỳ. Hình thức đào tạo
bồi dưỡng đa dạng đã góp phần bổ sung nguồn nhân lực lao động du lịch.
Ninh Bình xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch, chương trình
phát triển du lịch phù hợp với quy hoạch ngành và quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh đã được phê duyệt. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng
chống các tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh; công tác quản lý chuyên ngành từng
bước đi vào nề nếp, tạo thuận lợi cho phát triển du lịch.
Tăng cường đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh
vực kinh doanh du lịch; tạo sự lập gắn kết liên ngành, liên vùng, liên quốc gia,
trong hoạt động du lịch, giữa địa phương và trung ương trong quản lý và phát
triển TTDL với những chuyển biến tích cực.
Coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ
chức hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
trong lĩnh vực du lịch từ tỉnh đến cơ sở.
2.3.2. Kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch của một số tỉnh ở Lào
- Kinh nghiệm của tỉnh Hua Phăn
Hua Phăn là một tỉnh miền núi nằm ở miền Bắc Lào, với diện tích 16.500 km2 và giáp với 4 tỉnh như: tỉnh Sơn La và tỉnh Thanh Hóa Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam), tỉnh Luông Pra Băng và tỉnh
Xiêng Khoảng CHDCND Lào. Tỉnh Hua Phăn bao gồm 10 huyện như: huyện
Xăm Nưa, Xiêng Khó, Hiếm, Viêng Xay, Hua Mương, Xăm Tai, Sập Bầu, Ét,
65
Quăn và huyện Xon. Với dân số 289.400 người, nữ 141.700 người. Hua Phăn
là một tỉnh nổi tiếng và được xác định là một trong những trung tâm du lịch
của cả nước với tài nguyên du lịch lịch sử, văn hóa và du lịch thiên nhiên [5].
Tài nguyên du lịch lịch sử, Hua Phăn là tỉnh nổi tiếng về tài nguyên du
lịch lịch sử, cụ thể là các hang lịch sử của các bạn lãnh đạo cách mạng chống
Mỹ xâm lược như: Hang ông Kay Son PHÔMVIHẠN, hang ông Su Pha Nụ
Vông, hang ông Nu Hặc PHUMSẠVẶN, hang ông Phu Mi VÔNGVỊCHÍT,
hang ông Khăm Tay SIPHĂNĐON,...
Về tài nguyên du lịch thiên nhiên tập trung chủ yếu ở các thác, suối
sông, rừng núi thắng cảnh đẹp như: nguồn nước ấm Na Mương (huyện Xăm
Nưa), nguồn nước nóng Viêng Thong (huyện Hiếm), vườn quốc gia Nắm Ét -
Phu Lời, thác Sạ Lơi, vườn đá Tắng (huyện Xăm Nưa), hang Chim Én, thác
Nắm Nua (huyện Viêng Xay),…
Về tài nguyên du lịch nhân văn, Hua Phăn có hơn 24 di tích được xếp
hạng cấp quốc gia và nhiều di tích khác được xếp hạng cấp địa phương. Hua
Phăn cũng là địa phương có nhiều lễ hội truyền thống, nó thường gắn với các
sự kiện lịch sử, các hoạt động văn hóa dân gian, gắn với cuộc sống tín ngưỡng
của người dân như: vườn Kéo Lặc Mương, vườn hòa bình Hua Phăn - Quảng
Ninh, chùa Si Bun Hương Xay Nhà Ram, chùa Phô Xay Sạ Nạ Ram, lễ Bun
Pi May, lễ dân tộc Mông, Khơ Mu,...
Tỉnh Hua Phăn đã tập trung nhiều nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và TTDL nói riêng. Trong giai đoạn 2011 - 2015, số lượng
khách du lịch đến tỉnh Hua Phăn đạt 160.636 lượt người, trong đó khách quốc
tế 83.747, doanh thu du lịch đạt 66,65 tỷ LAK. Năm 2015, toàn tỉnh có 8
khách sạn, 47 nhà nghỉ, 196 nhà hàng - cửa hàng để phục vụ cho du khách nội
địa và quốc tế [8, tr.108].
Bên cạnh những kết quả đạt được, TTDL tỉnh Hua Phăn còn có những
mặt hạn chế, như: (i) Sản phẩm du lịch nhân văn xuống cấp chưa được trùng
tu, tôn tạo kịp thời. Các sản phẩm du lịch thiên nhiên chưa được bảo vệ
nghiêm ngặt và việc khai thác giá trị của các tài nguyên thiên nhiên còn thấp;
66
dịch vụ vui chơi giải trí, văn nghệ dân gian, các cửa hàng lưu niệm miễn thuế,
thiếu hấp dẫn, thiếu nhiều khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế. (ii) Chất lượng
nguồn nhân lực vừa thiếu, vừa yếu về năng lực nghiệp vụ, chuyên môn, ngoại
ngữ, kiến thức về địa lý, lịch sử,… Hiệu quả kinh doanh du lịch chưa cao và
chưa tương xứng với mức đầu tư hàng năm; hình thức kinh doanh còn đơn giản,
loại hình du lịch còn nghèo nàn,… và (iii) Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh
vực du lịch còn lúng túng. Việc hoạch định các chính sách phát triển du lịch của
địa phương còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ. Các hiện tượng tiêu cực trong
kinh doanh du lịch và các tệ nạn xã hội chưa được kiểm soát chặt chẽ và vững
chắc. Tình trạng vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ các di tích, vi
phạm về quản lý môi trường còn thường xuyên xảy ra và chậm được khắc phục.
- Kinh nghiệm của tỉnh Xay Nhạ Bu Ly
Tỉnh Xay Nhạ Bu Ly là một tỉnh nằm ở miền Bắc Lào với diện tích 16.389 km2; phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Bo Kẹo; U Đôm Xay; Luông
Pra Băng,Viêng Chăn; tỉnh Phông Xa Lỳ, phía Nam giáp tỉnh Xay Sôm Bun
CHDCND Lào; phía Nam và phía Tây giáp với 6 tỉnh của Thái Lan như: tỉnh
Xiêng Lai; Phạ Nhâu; Nan; Ụt Tạ La Địt; Phít Sạ Nụ Lôc và tỉnh Lơi. Tỉnh Xay
Nhạ Bu Ly bao gồm 11 huyện như: huyện Xay Nhạ Bu Ly, Khọp, Hông Sa,
Ngân, Phiêng, Xiềng Hon, Bò Ten, Kèn Tháo, Thồng Mì Xay, Xay Sạ Than và
huyện Pạc Lài; với dân số 381.300 người, trong đó có 194.900 nữ. Tỉnh Xay
Nhạ Bu Ly là một tỉnh nổi tiếng về con voi và đã được tổ chức lễ Voi trong
tháng 2 hàng năm và đã được xác định là một lễ quan trọng của địa phương và
của cả nước, ngoài ra còn có các lễ Đua Thuyền, lễ Phạ Vết, lễ Kòng Khấu,…
với tài nguyên du lịch tiềm năng đặc sắc của tỉnh như: du lịch sinh thái bao gồm:
thác Hằm (huyện Bo Tèn), hang Nắm Thẳng (huyện Xay Nhạ Bu Lý), vườn
thực vật lá cây thuốc Huối Nắm Sai (làng Huối Kéng, huyện Xay Nhạ Bu Ly),
ảo Nắm Tiên,… du lịch văn hóa bao gồm: chùa Si Mường, chùa Phạ Thạt Lặc
Mường, chợ đêm Nắm Hùng, lễ Voi và lễ Đua thuyền,… [5, tr.90].
Trong những năm qua, TTDL tỉnh Xay Nhạ Bu Ly không ngừng phát
triển và khởi sắc đã thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, doanh thu và
67
đóng góp cho ngân sách ngày càng cao. Năm 2014 số lượng khách du lịch
đến Xay Nhạ Bu Ly 96.131 lượt, tạo thu nhập đạt khoảng 5 triệu USD; năm
2015 đạt 100.476 lượt, tạo thu nhập đạt 7,6 triệu USD, tăng lên 30,18%/năm.
Qua hoạt động của TTDL tỉnh Xay Nhạ Bu Ly, có thể rút ra những
kinh nghiệm phát triển TTDL của tỉnh Xay Nhạ Bu Ly:
Một là, thu hút được một lượng vốn lớn từ các nguồn vốn đầu tư phát
triển du lịch, nhờ đó cơ sở hạ tầng, cơ sở dịch vụ và lưu trú đã được nâng cấp và
bổ sung với tốc độ nhanh, nhiều sản phẩm du lịch mới có sức cạnh tranh được
đầu tư và đưa vào khai thác làm tăng thêm sức hấp dẫn đối với du khách.
Hai là, đội ngũ những người làm du lịch và các doanh nghiệp đã có
bước trưởng thành, công tác quản lý nhà nước được quan tâm, tạo nên sự
đồng bộ của các cấp, các ngành.
Ba là, nhận thức của các cấp, các ngành, của các tầng lớp nhân dân về
du lịch ngày càng được nâng cao.
Bốn là, tập trung khai thác những tiềm năng, lợi thế và nắm bắt những
vận hội mới để đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tỷ
trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Năm là, quan tâm và có các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng,
chú trọng phát triển dịch vụ chất lượng cao, làm cho hàm lượng và nội dung
văn hóa trong hoạt động của TTDL ngày càng cao hơn.
Sáu là, bảo vệ môi trường vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu phát triển du
lịch, quyết định tới chất lượng, sức hấp dẫn và khả năng thu hút khách du lịch.
Bảy là, nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch tương
xứng với yêu cầu phát triển ngành.
2.3.3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra để tỉnh Luông Pra
Băng tham khảo cho phát triển thị trường du lịch
Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển TTDL của một số tỉnh trong
nước và ngoài nước, có thể rút ra một số bài học để phát triển TTDL ở tỉnh
Luông Pra Băng như sau:
68
Một là, tạo nguồn lực cho phát triển TTDL. Cần có quy hoạch trong
việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhân viên,
hướng dẫn viên du lịch một cách hệ thống, khoa học và chuyên nghiệp để
nâng cao chất lượng quản lý hoạt động du lịch và chất lượng dịch vụ du lịch.
Hai là, phát triển và đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Coi trọng đổi mới,
đầu tư các sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, loại hình du lịch
cũng như hình thành và phối hợp hiệu quả các tuyến du lịch; tạo những sản
phẩm du lịch đặc sắc, đặc trưng của các địa phương, các dân tộc tạo tính độc
đáo vừa đáp ứng nhu cầu của khách; đầu tư phát triển một số điểm du lịch
trọng điểm nhằm tạo điểm nhấn cho TTDL Luông Pra Băng.
Ba là, phát triển các hình thức tổ chức du lịch và coi trọng vai trò quản
lý của nhà nước đối với TTDL. Phát huy vai trò quản lý nhà nước trên TTDL,
đồng thời đảm bảo tính tự chủ cho các chủ thể tham gia kinh doanh trên
TTDL theo đúng định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Nhà nước quản lý qua việc xây dựng chiến lược, sách lược, xây dựng
các chủ trương chính sách để phát triển du lịch từ đó tác động vào thị trường.
Coi trọng công tác quy hoạch, định hướng phát triển TTDL. Phải có những
khảo sát để hiểu và nắm vững tiềm năng cung ứng sản phẩm để phát triển
TTDL. Phải tìm ra các tài nguyên du lịch mà địa phương có thế mạnh để định
hướng quy hoạch nhằm bứt phá TTDL, thu hút khách du lịch nước ngoài và
từng bước thâm nhập TTDL của các nước.
Phát triển TTDL là một những nội dung trong phát triển kinh tế - xã hội
của một quốc gia hay là một vùng lãnh thổ. Sự phù hợp của chiến lược phát
triển TTDL với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện đảm bảo cho
sự phát triển chung của đất nước, của một vùng. Từ kinh nghiệm đó của các
nơi cho thấy, khi có sự phù hợp giữa phát triển TTDL với định hướng chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội thì hiệu quả của sự phát triển có tính bền vững
cao và có sự tác động theo hướng thúc đẩy nhau cùng phát triển.
69
Chương 3
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA
BĂNG, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN,
KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA TỈNH LUÔNG PRA BĂNG TRONG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG DU LỊCH
3.1.1. Những thuận lợi
3.1.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Luông Pra Băng là tỉnh có vị trí quan trọng trong tam giác du lịch và
vùng kinh tế trọng điểm của các tỉnh miền Bắc Lào. Thiên nhiên và lịch sử đã
mang lại cho tỉnh nguồn tài nguyên du lịch quý giá để tạo ra các sản phẩm du
lịch vừa độc đáo, vừa đa dạng, hấp dẫn. Ngoài sự phát triển kinh tế - xã hội,
con người và điều kiện tự nhiên của Luông Pra Băng tạo những tiền đề cho sự
phát triển tốt TTDL.
Vị trí địa lý: Luông Pra Băng nằm ở miền Bắc Lào, ở đường kinh tuyến 21010' và đường vĩ tuyến 19015'. Tỉnh Luông Pra Băng còn là cửa ngõ nối liền
Thủ đô Viêng Chăn với 9 tỉnh miền Bắc: Phía Bắc giáp tỉnh Sơn La; Điện
Biên CHXHCN Việt Nam và tỉnh Phông Xa Ly CHDCND Lào, Phía Nam
giáp tỉnh Viêng Chăn; tỉnh Xay Sôm Bun, Phía Đông giáp tỉnh Xiêng Khoảng
và tỉnh Hua Phăn, Phía Tây giáp tỉnh U Đôm Xay và tỉnh Xay Nhạ Bu Ly.
Địa hình, là tỉnh cách thủ đô Viêng Chăn 420 km theo quốc lộ số 13, từ
Bắc đến Nam phần lớn địa hình của lãnh thổ tỉnh là đồi núi cao chiếm 85%, còn
lại là các đồng bằng nhỏ hẹp nằm xen kẽ dọc theo các con sông. Địa hình này có
cả thuận lợi và khó khăn cho tỉnh Luông Pra Băng về phát triển kinh tế - xã hội.
Khí hậu, Luông Pra Băng nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ thấp nhất là 20,50C, cao nhất là 32,50C và nhiệt độ trung bình trong năm là 26,60C. Độ ẩm không khí biến đổi
theo mùa nhưng sự chênh lệch độ ẩm giữa các mùa là không lớn. Độ ẩm trung
bình hàng năm khoảng 79%; trung bình cao nhất 95%; trung bình thấp nhất
48% [2, tr.11].
70
Tài nguyên đất. Với diện tích 16.875 km2 và 85% là rừng núi cao, đá sa
thạch dốc. Trong đó có diện tích rừng tự nhiên 1.303.267 ha, chiếm 65% của
diện tích trong tỉnh; có 160.819 ha rừng đặc dụng. Ngoài ra còn có rừng
phòng hộ thuộc quốc gia 1.089.000 ha, thuộc tỉnh 34.934 ha và rừng phòng hộ
thuộc các huyện 18.094 ha [14, tr.25].
Tài nguyên khoáng sản. Tỉnh Luông Pra Băng khá phong phú về chủng
loại và đa dạng về cấp trữ lượng. Hiện toàn tỉnh có hơn 100 điểm quặng, với
nhiều loại khoáng sản như: Vàng, bạc, đồng, quặng sắt, chì kẽm, đá vôi xi
măng, cát xây dựng,... Đây là một lợi thế lớn của tỉnh trong việc phát triển
công nghiệp khai khoáng, công nghiệp sản xuất xi măng và công nghiệp vật
liệu xây dựng,... Những mỏ khoáng sản này nếu khai thác và sử dụng hợp lý
sẽ góp phần vào việc phát triển kinh tế của tỉnh và tạo công ăn việc làm cho
nhân dân trong tỉnh và cả nước.
Tài nguyên nước. Luông Pra Băng là một tỉnh rừng núi cao, có nhiều
sông suối chạy qua từ Bắc đến Nam. Toàn tỉnh có 75 lưu vực sông và 185
suối, với chiều dài sông suối 15.470 km; trong đó có sông Me Khong có chiều
dài 1.898 km; sông Năm U 448 km, sông Nặm Khan 90 km; tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nguồn nước mưa hàng năm
đo được 1.120,7 mm/năm [2, tr.4]. Tuy nhiên tại Luông Pra Băng có một mỏ
nước khoáng có giá trị phục vụ tiêu dùng và chữa bệnh như: nước khoáng Bo
Kẹo huyện Xiêng Ngân, Thác Xé, thác khoang si thành phố Luông Pra Băng.
3.1.1.2. Về điều kiện kinh tế và xã hội
Trong hơn 30 năm đổi mới, cùng với xu thế phát triển chung của cả
nước, quá trình đổi mới về kinh tế đất nước đã và đang tạo nhiều thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế - xã hội cả nước nói chung và cho mỗi địa phương
nói riêng, trong đó có tỉnh Luông Pra Băng.
Về tình hình an ninh, trật tự xã hội. Trong bối cảnh tình hình an ninh,
chính trị và dịch bệnh,… trong khu vực và thế giới diễn biến phức tạp,
CHDCND Lào được đánh giá như một điểm đến an toàn cho du khách, các
71
nhà đầu tư nước ngoài. Về phía tỉnh Luông Pra Băng, dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy và chính quyền, nhân dân Luông Pra Băng có nhiều nỗ lực để nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự xã hội và an toàn giao thông… Thực hiện đường lối quốc phòng - an
ninh toàn dân, toàn diện của Đảng, tỉnh Luông Pra Băng đã chú ý giáo dục lực
lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc hiểu biết và tự tổ chức thực hiện tốt
việc xây dựng cơ sở về chính trị gắn liền với phát triển nông thôn toàn diện;
củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ở cơ sở, địa phương, đặc
biệt là ở cụm bản; theo dõi, quản lý người ra - vào, bảo vệ lợi ích công bằng
của nhân dân, phá tan mọi âm mưu của các thế lực phản động. Trong những
năm qua, sự ổn định, vững chắc về chính trị, xã hội đã tạo điều kiện cho kinh
tế phát triển liên tục, vững chắc và đúng hướng, đời sống nhân dân được cải
thiện. Bên cạnh đó, việc hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, vai trò,
năng lực, hiệu lực lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng và chính quyền Nhà
nước, đoàn thể nhân dân tiếp tục được tăng cường, chế độ dân chủ nhân dân,
quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được phát huy, điển hình như việc thực
hiện chương trình "4 nội dung" và chương trình "4 mục đích" của Đảng tạo ra,
nhằm tạo môi trường lành mạnh và bền vững cho các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội [16].
Sự phát triển kinh tế - xã hội. Luông Pra Băng được xác định là trung
tâm kinh tế - văn hóa - khoa học và công nghệ của khu vực miền Bắc, nhìn
chung Luông Pra Băng có tốc độ phát triển kinh tế năng động và liên tục
tăng trong những năm qua. Giai đoạn 2010- 2015 tốc độ tăng trưởng kinh tế
đạt 8,8%/năm, tổng GDP đến năm 2010 đạt 4.750 tỷ LAK; trong đó nông
nghiệp 1.586,5 tỷ LAK, chiếm 33,4% của GDP; công nghiệp 1.092,5 tỷ
LAK, chiếm 23% của GDP và dịch vụ 2.071 tỷ LAK, chiếm 43,6% của
GDP; thu nhập bình quân đầu người là 1.532 USD [26]. So với kế hoạch 5
năm (2001 - 2005) tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được 7%/năm, thu nhập
bình quân đầu người đạt được 355 USD/năm; kế hoạch 5 năm (2005 - 2010)
72
đạt được 9,4%/năm và thu nhập bình quân đầu người đạt được 821
USD/năm. Năm 2016 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%/năm, tổng GDP
đạt 6.033 tỷ LAK; trong đó nông nghiệp 1.924,5 tỷ LAK, chiếm 32% của
GDP; công nghiệp 1.429,8 tỷ LAK, chiếm 24% của GDP và dịch vụ 2.678,7
tỷ LAK, chiếm 44% của GDP; thu nhập bình quân đầu người là 13,96 triệu
LAK /năm hoặc bằng 1.746 USD [14, tr.2] và giai đoạn năm 2017 - 2018 tốc
độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%/năm, tổng GDP đạt 7.076 tỷ LAK; trong đó
nông nghiệp 2.118 tỷ LAK, chiếm 30% của GDP; công nghiệp 1.690 tỷ
LAK, chiếm 24% của GDP và dịch vụ 3.257 tỷ LAK, chiếm 46% của GDP;
thu nhập bình quân đầu người là 16,09 triệu LAK/năm hoặc bằng 2.011
USD [15, tr.1]. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của tỉnh trong những năm qua đã
đạt mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển biến tiến bộ,
đúng hướng làm cho nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ trong GDP
và GDP bình quân đầu người tăng.
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn 2011 - 2018
Đơn vị tính: %
Năm
TT
Chỉ tiêu
2011 2012 2013 2014 2015
2016
2017 - 2018
3.968 4.341 4.741 5.130 5.566 6.033
7.076
1 GDP(Tỷ kíp)
100
100
100
100
100
100
100
Cơ cấu GDP(%) - Nông nghiệp
41
39
36,7
35
33,4
32
30
2
- Công nghiệp
20
21
21,5
22,3
23
24
24
- Dịch vụ
39
40
41,8
42,7
43,6
44
46
Nguồn: Báo cáo của Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng [14; 15; 16].
Qua biểu trên chúng ta thấy: cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo
hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 41% năm 2011 còn 31,9% đoạn năm
2017 - 2018, ngành công nghiệp tăng từ 20% năm 2011 lên 24% giai đoạn
năm 2017 - 2018 và dịch vụ tăng từ 39% năm 2011 lên 46% giai đoạn năm
2017 - 2018.
73
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến quá trình đầu
tư, thúc đẩy cung - cầu trên TTDL. Trong những năm qua kinh tế - xã hội của
tỉnh có nhiều bước phát triển tích cực. Kinh tế tăng liên tục, tốc độ tăng
trường GDP giai đoạn năm 2001- 2005 là 7%/năm, giai đoạn năm 2005 -
2010 là 9,4%/năm, giai đoạn năm 2010 - 2015 là 8,8%/năm, cao hơn so với
mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước là 7,9%/năm giai đoạn 2005 -
2010 và 7,9%/năm giai đoạn 2010 - 2015 [19, tr.17, 18; 20, tr.12; 21, tr.12].
Đối với việc đầu tư ở tỉnh Luông Pra Băng từ giai đoạn 2011 - 2018 có
3.244 dự án, với tổng số vốn 22.189,65 tỷ LAK, trong đó bao gồm cả đầu tư
của Nhà nước 1.537 dự án, 1.138,675 tỷ LAK, khoản vay và hỗ trợ 941 dự án,
5.692,037 tỷ LAK, tư nhân trong nước 562 dự án, 6.944,2 tỷ LAK và tư nhân
ngoài nước 154 dự án với tổng số vốn 6.778,094 tỷ LAK. Đối với các dự án
này đã tập trung trong lĩnh vực kinh tế 558 dự án; lĩnh vực văn hóa - xã hội 705
dự án và lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng 397 dự án. Việc đầu tư phần lớn làm
theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh [14, tr.3; 15, tr.4; 16, tr.3].
Bảng 3.2: Số lượng dự án đầu tư trên địa bàn Luông Pra Băng
giai đoạn 2011 - 2018
Đơn vị tính: tỷ LAK
TT
1 2 3 4 5 6 7 8
Tổng số vốn đăng ký 822,467 659,37 1.700,4 2.681,46 3.195,58 2.899,38 8.367,44 1.863,553 22.189,65
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng cộng
Số dự án 297 180 328 349 439 720 599 332 3.244
Nguồn: Báo cáo của Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng [14; 15; 16].
- Tình hình văn hóa - xã hội: Tỉnh Luông Pra Băng bao gồm 12 huyện:
thành phố Luông Pra Băng; huyện Xiêng Ngân; Mương Nan; Pạc U; Năm
Bạc; Mương Ngoi; Pạc Xeng; Phôn Xay; Chom Phết; Viêng khăm; Phu Khun
74
và huyện Phôn Thong, đã chia thành 3 khu như: khu 4 huyện Bắc gồm có:
huyện Năm Bạc; Mương Ngoi; Viêng khăm và huyện Phôn Thong, khu 5
huyện Trung gồm có: thành phố Luông Pra Băng; huyện Pạc U; Pạc Xeng;
Phôn Xay; Chom Phết và khu 3 huyện Nam gồm có: huyện Xiêng Ngân;
Mương Nan; Phu Khun, bao gồm 752 bản, có 77.712 hộ gia đình với dân số
454.095 người, trong đó có 278.000 nữ. Dân số tỉnh gồm có 3 bộ tộc lớn như:
Lào Lum chiếm 33,41%, Lào Thâng chiếm 50,82%, Lào Xủng 15,66%, kiều
dân người nước ngoài 0,09%. Cơ cấu xã hội dân số của tỉnh Luông Pra Băng
phần lớn làm nông nghiệp nông thôn, nghề làm ruộng 14.509 hộ gia đình, làm
nương 38.301 hộ, làm cả ruộng và nương 4.337 hộ, làm dịch vụ 12.455 hộ và
4.909 là nghề nghiệp khác. Tổng nguồn lao động nước ngoài năm 2015 là 717
người đến từ Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan... [14, tr.3].
Sự phát triển của dân số đã cung cấp nguồn lao động lớn cho TTDL.
Trong giai đoạn năm 2014 - 2015 toàn tỉnh có lao động trong độ tuổi 15 - 64
năm là 250.000 người; chiếm 55% của dân số trong tỉnh. Hiện số lao động
đang làm trong các ngành kinh tế chủ yếu ở khu vực nông nghiệp là 186.390
người; chiếm 74,6%, khu vực công nghiệp 5.300 người; chiếm 2% ngoài ra là
nằm trong khu vực dịch vụ, cán bộ, sinh viên,… là 58.310 người; chiếm
23,4%. Năm 2018, toàn tỉnh có 1.993 đơn vị lao động, có 138.266 công nhân
và 69.625 phụ nữ; trong đó 5,843 với 1.144 phụ nữ là lao động nước ngoài.
Hiện số lao động đang làm trong các ngành kinh tế chủ yếu như: khu nông
nghiệp 13.420 người, chiếm 9,71%; khu công nghiệp 93.162 người; chiếm
67,38% và khu dịch vụ 31.684 người; chiếm 22,91% [15, tr.25]. Trong đó
nguồn nhân lực trẻ chiếm tỷ trọng cao tạo lợi thế cho phát triển kinh tế - xã hội,
song cũng tạo sức ép lên hệ thống giáo dục đào tạo và giải quyết việc làm của
tỉnh. Lao động có kinh nghiệm, tay nghề cao, nhất là trong sản xuất các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống như: Đồ gỗ thủ công, thủ công mỹ nghệ
giấy Sa, dệt thủ công mỹ nghệ, bông satin thủ công mỹ nghệ, thủ công mỹ
nghệ sơn mài Lào…và những món ăn dân tộc như: Ọ Lam (thị bò hầm), Cheo
Bòng (bột ớt với thị lợn), Khay Phen (cỏ dại sông), Nhằm Xà Lách (rau xà
75
lách), Kháo Pún Nắm Pa (phở với súp trâu)... ngoài ra còn có các loại bánh
đặc sản của Luông Pra Băng như: Kháo nôm Khí Nu (kẹo bột gạo), kháo nôm
Xắn (bánh hấp), kháo nom Bá Bin (bánh kép dừa), Hệt Xa Vẳn (nấm khô),
Nò Máy Xa Vẳn (măng khô),...
Về giáo dục - thể thao: tỉnh Luông Pra Băng là trung tâm giáo dục của
các tỉnh miền Bắc Lào, gồm 1.381 trường như: 1 trường chính trị - hành
chính, 1 trường đại học, 11 trường cao đẳng, 46 trường trung học, 57 trường
trung học phổ thông, 713 trường tiểu học, trường mầm non,… tỷ lệ học sinh
đi học tiểu học chiếm 98,47%, tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 40 tuổi
chiếm 92,26%. Nhìn chung, sự phát triển về giáo dục của tỉnh thể hiện khá rõ
nét những năm qua.
Phong trào thể dục thể thao được phát triển ở hầu hết các cụm bản,
huyện, thành phố,… Cơ sở vật chất và trang thiết bị thể dục thể thao được đầu
tư cơ bản như: sân bóng đá, nhà thi đấu và bể bơi ngoài trời... góp phần thúc
đẩy các hoạt động thể dục thể thao phát triển. Đặc biệt Luông Pra Băng đã
hoàn thành tổ chức lễ thi đấu thể thao toàn quốc lần thứ IX và giành được 72
huy chương vàng, 71 chương bạc, 117 chương đồng; được xếp hạng thứ 3 của
cả nước [14, tr.18].
Về y tế: tỉnh Luông Pra Băng đã quan tâm và phát triển mạng lưới y tế từ
thành phố xuống cơ sở, địa phương. Toàn tỉnh có 1 bệnh viện thuộc tỉnh, 1 bệnh
viện quân đội (bệnh viện 107), 2 bệnh viện hữu nghị Lào - Trung Quốc, 1 bệnh
viện hữu nghị Lào - Việt Nam và 32 phòng khám tư nhân (CLINIC), 12 bệnh
viện thuộc huyện, 80 trạm xá. Các cơ sở nông thôn, vùng sâu vùng xa đã có hiệu
thuốc, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân các bộ tộc được khám, chữa bệnh
nhiều hơn và chăm sóc sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tốt hơn [14, tr.19].
Về văn hóa: tỉnh Luông Pra Băng là một vùng quần cư lâu đời, có nền
văn hoá phát triển với vị thế là đất nước triệu voi, có thành phố Luông Pra
Băng là thủ đô hoàng gia, trung tâm của Vương quốc Lào, là cố đô của Lào
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới trong ngày 2/2/1995.
76
Cùng với sự đa dạng về tài nguyên, Luông Pra Băng còn có một kho
tàng di sản văn hoá vật thể vô cùng đồ sộ và phong phú với các di tích lịch sử,
danh lam thắng cảnh. Luông Pra Băng có nhiều địa danh đặc sắc về văn hóa
trong cả nước như: múa Nang Kẹo, múa Pha Lặc Pha Lam, múa lăm vông,
nhảy múa của các dân tộc,... hát hò của các dân tộc như: Khắp thúm, An
Năng Sư, hát hò của dân tộc Khơ Mu, dân tộc Mông,... Đặc biệt Bun Py
May Lào (tháng 4 âm lịch) Luông Pra Băng là nổi tiếng nhất trong cả nước.
Tỉnh còn có di tích lịch sử văn hóa, tài sản vô giá của dân tộc, toàn tỉnh có
tới 38 chùa và riêng thành phố Luông Pra Băng có hơn 17 chùa. Hiện nay ở
Luông Pra Băng có 230 di tích được nhà nước xếp hạng, trong đó có 107
thắng cảnh, 37 di tích lịch sử và 86 di tích văn hóa được phân chia theo
vùng, cụm du lịch chính như:
Bảng 3.3: Các khu du lịch ở 4 huyện miền Bắc năm 2018
Đơn vị tính: điểm
Loại khu du lịch
Tổng khu du lịch
Văn hóa Lịch sử
7 23 14 20
TT Huyện 1 Viêng Khăm 2 Mương Ngoi 3 Năm Bạc 4
Phôn Thong
Sinh thái 4 7 6 12
2 5 4 5
1 11 4 3
Nguồn: Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pra Băng [36].
Bảng 3.4: Các khu du lịch ở 5 huyện miền Trung năm 2018
Đơn vị tính: điểm
Loại khu du lịch
Tổng
TT
Huyện
khu du lịch Sinh thái Văn hóa Lịch sử
Luông Pra Băng
35 21 20 10 23
1 2 Chom Phết Pạc U 3 Pạc Xeng 4 Phôn Xay 5
5 9 9 9 16
28 11 9 0 5
2 1 3 1 2
Nguồn: Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pra Băng [36].
77
Bảng 3.5: Các khu du lịch ở 3 huyện miền Nam năm 2018
Đơn vị tính: điểm
Tổng khu du lịch
Huyện
22 13 16
TT 1 Xiêng Ngân 2 Mương Nan 3
Phu Khun
Loại khu du lịch Sinh thái Văn hóa Lịch sử 8 5 3
12 6 11
2 2 2
Nguồn: Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pra Băng [36].
Đồng thời, nhân dân các dân tộc còn có truyền thống yêu nước và
truyền thống cách mạng và truyền thống mến khách thương người, cần cù
lao động. Luông Pra Băng là tỉnh được chọn là nơi du lịch nổi tiếng của thế
giới, được tặng huy chương vàng của tạp chí du lịch nước Anh với danh hiệu
là thành phố di sản văn hóa nổi tiếng thế giới trong bốn năm như: năm 2005,
2006, 2007, 2009 và trong giai đoạn 2010 - 2015 đã nhận được thành phố du
lịch phổ biến 2 năm liền như năm 2011, 2012 và đặc biệt năm 2014 thành phố
Luông Pra Băng đã nhận được thành phố phát triển bền vững, thành phố xanh
của ASEAN, làm cho hàng năm có khá nhiều khách trong và ngoài nước đến
du lịch. Như vậy, tỉnh đã đầu tư cho công tác bảo tồn, tôn tạo các khu di tích
văn hóa nổi tiếng của tỉnh, của các địa phương, kết hợp việc phát triển kinh
tế, khoa học công nghệ với việc bảo đảm bản sắc văn hóa dân tộc [1, tr.2].
3.1.2. Những khó khăn
3.1.2.1. Về điều kiện tự nhiên
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, Luông Pra Băng còn có những
khó khăn như sau:
Về mặt địa lý: Luông Pra Băng là một tỉnh có diện tích phần lớn là rừng
núi cao, đồng bằng nhỏ hẹp, diện tích trồng lúa có ít. Trong đó có diện tích
trồng lúa hai vụ 1.509 ha. Đây là một trong những khó khăn cho tỉnh trong
việc đảm bảo an ninh lương thực để phát triển kinh tế - xã hội ổn định.
Khí hậu: Luông Pra Băng được đánh giá là một trong các địa phương bị
ảnh hưởng nặng nề nhất như: bão, lũ, gió lốc, sạt lở đất là hiện tượng thiên tai
78
xảy ra ở các lưu vực sông suối, các sườn dốc trên địa bàn miền núi. Ngoài ra,
chênh lệch nhiệt độ trong năm cũng rất lớn: mùa hè, nhiệt độ cao nhất có thể đạt tới 34,9 0C; mùa đông, nhiệt độ có thể hạ thấp xuống dưới 16,4 0C ở vùng
núi. Sự chênh lệch nhiệt độ đó ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp và các
hoạt động phát triển kinh tế, trong đó có ngành du lịch.
Tài nguyên khoáng sản: mặc dù có nguồn tài nguyên khá phong phú.
Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên cho phát triển kinh
tế chưa hiệu quả, còn gây ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái và có tác
động tiêu cực tới hoạt động du lịch.
3.1.2.2. Về điều kiện kinh tế và xã hội
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Luông Pra Băng,
trong những năm qua kinh tế - xã hội đã có sự phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh
đó tỉnh vẫn còn những khó khăn sau:
Địa bàn rộng, trong đó phần lớn diện tích lãnh thổ là vùng núi cao, có
địa hình phức tạp, phong tục tập quán sản xuất và sinh hoạt của đồng bào các
dân tộc vùng cao còn lạc hậu, dễ bị các thế lực xấu lôi kéo. Như bài phát biểu
của ông Thong Sing Thăm Ma Vông Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ III năm
1993 đã chỉ rõ "Luông Pra Băng là một tỉnh nằm ở miền Bắc Lào, là một tỉnh
đồi núi cao, với dân số hơn hai trăm nghìn người và gồm có nhiều dân tộc
thiểu số sinh sống nhằm rải rác, có mức độ kinh tế, văn hóa, cuộc sống và
truyền thống khác nhau" [22, tr.107]. "Việc du lịch chưa phát triển so với tiềm
năng và điều kiện thực tế của tỉnh, cũng như phục hồi và mở cửa khu du lịch,
sự quảng cáo khách du lịch, quản lý khách du lịch và dịch vụ khách không
tốt" [23, tr.45].
Quy mô nền kinh tế nhỏ bé, việc huy động vốn đầu tư từ nội bộ nền
kinh tế để phát triển nhanh trong giai đoạn tới còn hạn chế.
Khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị còn
rất lớn.
79
Tăng trưởng kinh tế của tỉnh chưa bền vững. Sức cạnh tranh của nền kinh
tế còn thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chậm, chưa hình thành
các ngành mũi nhọn của tỉnh, sản phẩm chủ lực và ngành nông lâm nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn các dịch vụ và các khu công nghiệp phát triển còn chậm.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội của tỉnh tuy được cải tạo, nâng
cấp nhưng vẫn còn nhiều hạn chế bất cập, nhất là hạ tầng khu vực miền núi,
vùng sâu, vùng xa,... chưa có sức hấp dẫn để thu hút đầu từ tư bên ngoài cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp và tốc độ đô thị hóa quá
thấp, các hạt nhân tăng trưởng có sức lan toả rộng và thúc đẩy các vùng ngoại vi
cùng phát triển, chưa có tác động đáng kể thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Nguồn nhân lực có nhiều nhưng chất lượng còn thấp, lao động phổ
thông dôi dư, nhưng lao động kỹ thuật, khoa học - công nghệ cao lại đang còn
thiếu, dẫn đến tình trạng thiếu việc làm và việc làm không ổn định chiếm tỷ
trọng lớn, nhất là ở khu vực nông thôn. Đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ quản
lý và các nhà doanh nghiệp khác còn nhiều bất cập cả về số lượng và chất
lượng so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
của tỉnh Luông Pra Băng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG
PRA BĂNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2018
3.2.1. Những chủ trương, chính sách về phát triển thị trường du lịch
của Đảng, Nhà nước và của tỉnh giai đoạn 2011 - 2018
3.2.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về phát
triển thị trường du lịch
Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VI, đã tiếp tục
triển khai quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với ngành du lịch,
trong đó nhấn mạnh: "Du lịch là một bộ phận quan trọng trong công tác mở rộng
quan hệ hợp tác với nước ngoài, là một tiềm năng trong công tác tạo nguồn thu
80
nhập quốc gia"; "Công tác dịch vụ là một trong những 8 ngành kinh tế quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước" [17, tr.25].
Giai đoạn năm 1999 - 2000, CHDCND Lào nhận được sự viện trợ từ các
tổ chức quốc tế và có quan hệ hợp tác với các nước láng giềng và sự hợp tác về
du lịch với các nước trong ASEAN, các nước tiểu vùng sông Me Khong, tổ chức
UN-WTO, PATA, v.v… CHDCND Lào còn nhận được sự viện trợ từ các cơ
quan tổ chức quốc tế như: ngân hàng phát triển châu Á (ADB), cơ quan hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JICA), cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), liên
minh Bảo vệ thiên nhiên quốc tế (IUCN), quỹ Động vật Hoang dã thế giới
(WWF), Chính phủ Newzerland, Lúc Xăm Bua,... [6, tr.19].
Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VII (2001), đã
tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và quyết
định đường lối chính sách của Đảng: "Tạo điều kiện cho CHDCND Lào trở
thành điểm du lịch mới của thế kỷ, có bản sắc riêng của mình để thu hút
khách du lịch nước ngoài đến Lào, phát triển ngành du lịch trở thành một
ngành công nghiệp hóa hiện đại" [18, tr.81]. Đặc biệt, năm 1999 - 2000, lần
đầu tiên CHDCND Lào đã tổ chức năm du lịch ASEAN tại Lào và đã rất
thành công về việc thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế.
Quốc hội khóa V, kỳ họp lần thứ 8, năm 2005 đã thông qua Luật Du lịch
năm 2005 được bổ sung sửa đổi năm 2013. Luật được xây dựng trên đường lối
chính sách của Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước Lào, thực trạng
kinh tế - xã hội của đất nước, những văn bản pháp luật liên quan đến du lịch đã
được sử dụng trong những năm qua. Pháp luật đã tổng kết những kinh nghiệm
và hoạt động phát triển du lịch và khuyến khích du lịch trong nước, kinh
nghiệm từ nước ngoài.
Năm 2016, Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đã xây dựng chiến lược
phát triển ngành du lịch, trong đó khẳng định tầm nhìn đến năm 2025 và 2030
với việc thông tin, văn hóa và du lịch: "Phát triển thông tin, văn hóa và du lịch
với chất lượng, nhanh chóng, nhìn xa chuyển đổi thành công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, an toàn và đẩy mạnh sự đóng góp của xã hội để bền vững".
81
Để đạt được mục tiêu trên, Bộ thông tin, văn hóa và du lịch Lào đã
khẳng định rõ về việc phát triển du lịch: Phát triển du lịch Lào bền vững, đẩy
mạnh du lịch sinh thái, văn hóa và lịch sử, thích hợp với du lịch của các nước
trong khu vực và thế giới, làm cho Lào trở thành khu du lịch nổi tiếng và chấp
nhận của hành khách trong khu vực và thế giới, phát triển và đẩy mạnh ngành
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, giúp nhân dân Lào thoát khỏi sự
nghèo đói; tập trung nghiên cứu và mở rộng khai thác, sắp xếp và phát triển
nhiều màu sắc với các loại du lịch như: du lịch thiên nhiên, du lịch văn hóa,
du lịch lịch sử, thực hiện theo nguyên tắc khoa học, đúng mức có quản lý tốt
và bền vững. Hạn chế sự khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên
không đúng mục đích. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là di sản văn hóa của đất
nước và của nhân dân, nếu sử dụng không đúng mức, thì du lịch sẽ gây sự
thiệt hại trực tiếp đến các di sản văn hóa.
3.2.1.2. Cơ chế, chính sách và biện pháp của tỉnh Luông Pra Băng về
phát triển thị trường du lịch
Trên cơ sở chiến lược phát triển du lịch CHDCND Lào đến năm 2025 với
mục tiêu phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên các cơ sở
khai thác có hiệu quả lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn
hóa và lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ
trợ quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từng
bước đưa đất nước Lào trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực
và thế giới. Phấn đấu sau năm 2025 du lịch Lào được xếp vào nhóm quốc gia có
ngành du lịch phát triển trong khu vực. Tỉnh ủy tỉnh Luông Pra Băng đã cụ thể
hóa những văn bản pháp luật, quyết định của Chính phủ, Bộ thông tin, văn
hóa và du lịch như: Luật du lịch số 32/QH, ngày 24/7/2013; nghị quyết số
1150/CP, ngày 25/10/1993 về việc "Tổ chức và hoạt động doanh nghiệp du
lịch"; số 159/VP-CP, ngày 30/7/1997 về việc "Quản lý khách sạn và nhà
nghỉ";số 1107, ngày 30/8/1999 về việc "Điều kiện cơ bản của khách sạn và
nhà nghỉ";thông báo hướng dẫn số 883, ngày 26/2/2007 về việc "Quản lý và
an toàn cho du khách du lịch"; quyết định số 059, ngày 26/2/2007 về việc
82
"Quản lý doanh nghiệp resort, nhà hàng"; số 060, ngày 26/2/2007 về việc
"Tiêu chuẩn của khách sạn và nhà nghỉ ở CHDCND Laò"; quyết định số
0281, ngày 5/7/2010 về việc "Quản lý cán bộ hướng dẫn viên du lịch"; nghị
quyết số 119/CP, ngày 10/4/2017 về "Quỹ du lịch" và nghị quyết số 315/CP,
ngày 2/10/2017 về việc "Giải trí".
Tỉnh ủy tỉnh Luông Pra Băng đã ban hành quyết định số 296, ngày
29/4/2011, về việc "Thành lập hội đồng quản trị tiêu chuẩn của khách sạn và
nhà nghỉ cấp tỉnh".
Triển khai thực hiện các mực tiêu được nêu ra trong Nghị quyết đại hội
đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ III đã xác định:
Du lịch là một ngành có tiềm năng kinh tế của tỉnh. Do đó, cần tập
trung phát triển để tăng doanh thu cho tỉnh. Dựa trên điểm nổi bật về
văn hóa và vẻ đẹp tự nhiên. Tỉnh Luông Pra Băng đã mở rộng du
lịch theo du lịch văn hóa và du lịch tự nhiên. Vì vậy, một nhiệm vụ
cấp bách trong những năm tới là một khám phá bản sắc văn hóa, văn
học nghệ thuật, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh, mở
rộng khu du lịch, cập nhật sự quản lý và phục vụ khách du lịch, tạo
thuận lợi, bảo mật an toàn cho du khách, cập nhật và mở rộng dịch
vụ du lịch như: khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng cửa hàng lưu niệm để
thu hút nhiều khách du lịch [22, tr.64-65].
Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ V đã xác định:
Phát triển Luông Pra Băng trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ và
điểm qua của các tỉnh trong nước và khu vực; là một tỉnh có cơ cấu
kinh tế ổn định; trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
khoa học - công nghệ; là trung tâm giáo dục và là gương mặt tốt đẹp
của các tỉnh miền Bắc [24, tr.29].
Đối với ngành du lịch Luông Pra Băng:
Du lịch là tiềm năng thứ nhất của tỉnh Luông Pra Băng, trong những
năm tới phải quan tâm về việc giáo dục cho mọi người nhận ra, đẩy
mạnh và bảo vệ văn hóa, lịch sử, thiên nhiên, phong tục tập quán.
83
Quan tâm bảo vệ các cổ đại, chùa; xây dựng và phát triển các khu du
lịch, cơ sở lưu trú như: khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng đạt tiêu chuẩn
quốc tế [24, tr.32].
Làm cho du lịch Luông Pra Băng trở thành hợp tác du lịch miền Bắc
và trong cả nước; tạo thuận lợi cho khách du lịch thuận tiện, thỏa
mái, nhanh chóng và an toàn; liên kết du lịch với các nước láng
giềng như: tỉnh Điện Biên Phủ, Sơn La, Quảng Ninh,...(Việt Nam);
Khun Minh, 12 Phăn Na,...(Trung Quốc); Xiêng Mai, Xiêng Lai,
Nan, Lời, Sụ Khô Thai, Ụ Đòn Tha Ny,... (Thái Lan); Thành phố cổ
đô Luông Pra Băng di sản văn hóa thế giới với các tỉnh trong nước
và nước ngoài như: Myanma, Việt Nam, Căm Pu Chia, Trung Quốc,
Pháp, Đức và Thái Lan [24, tr.23, 32].
Tại Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ VI đã
khẳng định:
Xây dựng tỉnh Luông Pra Băng trở thành trung tâm vùng kinh tế,
dịch vụ, du lịch và tuyến đường giữa các tỉnh miền Bắc và ngoại ô,
là trung tâm văn hóa - xã hội, tổ chức giáo dục, khoa học và công
nghệ và dịch vụ y tế của các tỉnh miền Bắc. Bằng cách giữ dịch vụ,
chất lượng du lịch liên quan đến chuyển đổi công nghiệp và hiện đại
phát triển trang trại lâm nghiệp bền vững [25, tr.53].
Tiếp tục phát triển ngành du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn trong
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Xây dựng tỉnh Luông Pra Băng
trở thành trung tâm du lịch - văn hóa, thiên nhiên và lịch sử. Bảo vệ
huyện Luông Pra Băng cổ đô di sản văn hóa thế giới trở thành
huyện du lịch quốc gia và trung tâm du lịch trong khu vực, xây dựng
Luông Pra Băng trở thành nơi học hỏi về văn hóa và lịch sử lâu đời
và thu hút được khách du lịch trong nước và quốc tế [25, tr.35-36].
Đại hội đảng bộ lần thứ VII đã tiếp tục xác định:
Phát triển ngành dịch vụ về số lượng và chất lượng cho đạt tiêu
chuẩn quốc tế, để phục vụ ngành du lịch; đẩy mạnh ngành du lịch
84
liên quan đến việc bảo vệ phong tục truyền thống, văn hóa, thiên nhiên
và lịch sử, tạo việc làm cho nhân dân trong ngành du lịch ngày càng
cao. Tạo ngành du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh và xây dựng tỉnh Luông Pra Băng trở thành trung
tâm du lịch nổi tiếng trong khu vực và thế giới [26, tr.93].
Bên cạnh việc xây dựng nghị quyết và ban hành các văn bản chỉ đạo
trực tiếp cho phát triển du lịch. Tỉnh Luông Pra Băng đã tổ chức hệ thống các
cơ quan chuyên trách quản lý du lịch ở tỉnh, huyện, thành phố. Luông Pra
Băng là một trong số ít các tỉnh có Sở du lịch độc lập. Trong phạm vi của tỉnh
đã tổ chức Ban chỉ đạo phát triển du lịch do các vị trí chủ chốt của các sở,
ban, ngành liên quan nắm giữ nhằm đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ. Điều này
thể hiện sự quan tâm đúng mức của toàn tỉnh đối với hoạt động của thị
trường. Hoạt động của ngành, của Ban chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh ngày
càng có hiệu quả. Vai trò của Sở du lịch và các thành viên Ban chỉ đạo được
khẳng định trong công tác chỉ đạo, định hướng hoạt động của TTDL.
Xây dựng quy hoạch, chính sách phát triển ngành du lịch của tỉnh.
Trong những năm qua, trên cơ sở các chủ trương, nghị quyết của tỉnh Ủy, Ban
Thường vụ tỉnh Ủy và quy hoạch phát triển du lịch đã được phê duyệt, các ngành
chức năng, các địa phương và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã cụ thể hóa
các chủ trương, nghị quyết và quyết định của Đảng và chính quyền thành các
chương trình hành động để tổ chức thực hiện, các huyện, thành phố có các điểm
du lịch được phân cấp quản lý đã chủ động lập quy hoạch chi tiết, áp dụng các
chính sách ưu đãi để thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển TTDL.
Nhiều chủ trương, chính sách thu hút đầu tư thông thoáng để nâng cao
năng lực cạnh tranh và môi trường đầu tư được triển khai như: đẩy mạnh cải
cách hành chính, thực hiện cơ chế "một cửa" đối với các dự án đầu tư, quy
định một số chính sách khuyến khích đầu tư và trình tự thủ tục chấp thuận đối
với các dự án đầu tư, công khai danh mục các dự án kêu gọi đầu tư trên địa
bàn tỉnh. Những cơ chế, chính sách này nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho nhà
đầu tư về đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ xây dựng hạ tầng trong và ngoài
85
dự án, ưu tiên thời gian thuê đất, đào tạo lao động,… Các ngành, các cấp của
tỉnh Luông Pra Băng tăng cường phối hợp trong quản lý, hỗ trợ hoạt động
kinh doanh du lịch, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự, phòng cháy, chữa
cháy, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống tệ nạn xã hội; thanh tra, kiểm
tra,… Những cơ chế, chính sách ngày càng được cụ thể, minh bạch. Công tác
quản lý nhà nước đã có tác động mạnh vào việc hướng dẫn, hỗ trợ các doanh
nghiệp thực hiện đúng quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ; bảo đảm an toàn cho du khách; phát triển quan hệ trao đổi mua bán,
phát triển cung, kích thích nhu cầu du lịch tăng cao.
Xây dựng ngân sách cho hoạt động marketing và tổ chức thực hiện
marketing trực tiếp. Luông Pra Băng luôn quan tâm đến chiến lược tuyên
truyền, quảng bá rộng khắp nhằm nỗ lực đưa hình ảnh của Luông Pra Băng
đến với thị trường khách du lịch. Nguồn ngân sách hàng năm của tỉnh dành
cho xây dựng các website, tham gia các hội chợ ngày càng tăng. Ngành du
lịch Luông Pra Băng tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin báo chí
địa phương và trung ương tuyên truyền quảng bá tiềm năng du lịch, về một số
điểm, khu du lịch; hoạt động du lịch lễ hội, du lịch làng nghề Luông Pra
Băng; xây dựng chương trình tuyên truyền quảng bá, đặc biệt chiến dịch vào
hè của các khu du lịch sông, suối, thác. Công tác tuyên truyền quảng bá, tiếp
thị được thực hiện dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú như tổ chức
hội thảo, triển lãm du lịch, hội chợ,… Nhân dịp các sự kiện, lễ hội văn hóa,
ngành du lịch đã phối hợp với các ngành và các doanh nghiệp tổ chức
nhiều hoạt động quảng bá du lịch quy mô lớn. Nhiều ấn phẩm thông tin,
quảng cáo, sách hướng dẫn, phim VIDEO, CD - ROM được phát hành; nối
mạng Internet để giới thiệu các sản phẩm, tình hình hoạt động kinh doanh
trong và ngoài nước,...
Liên kết hợp tác với các tỉnh để phát triển TTDL nội địa. Tham gia các
chương trình liên kết phát triển sản phẩm như: chương trình du lịch của các
tỉnh miền Bắc và trong nước được thực hiện và mang lại kết quả tốt. Liên kết
trong công tác quảng bá, tiếp thị du lịch tới các tỉnh và thành phố lớn nhằm
86
khai thác nguồn khách du lịch đến Luông Pra Băng và tạo nguồn khách
Luông Pra Băng đi du lịch ở các tỉnh khác như: phối hợp với Sở du lịch thủ
đô Viêng Chăn và một số tỉnh xây dựng chương trình quảng bá du lịch làng
nghề; cử cán bộ tham dự nhiều lớp tập huấn và nâng cao nghiệp vụ quản lý du
lịch do Tổng cục du lịch tổ chức tại các tỉnh,...
Tham gia các hội chợ du lịch, hội nghị du lịch của các tỉnh trong nước
và quốc tế như: Hội nghị EATOP tại Căm Pu Chia năm 2013; hội nghị đánh
giá hợp tác du lịch 3 tỉnh (Luông Pra Băng - Quảng Ninh, Việt Nam - Ụ Đon
Tha Ny, Thái Lan) và tham gia hội ký kết về du lịch tỉnh Quảng Ninh (Vinh
Hạ Long) và tỉnh Luông Pra Băng trong năm 2014; hội nghị hợp tác 3 di sản
thế giới Luông Pra Băng, Hà Long (Việt Nam) và Bán Xiêng (Thái Lan); hội
nghị hợp tác EATOP và tham gia hội chợ thương mại - du lịch quốc tế tại
Singapore; hội chợ thương mại - du lịch quốc tế tại Khun Minh (Trung Quốc);
hội chợ thương mại - du lịch quốc tế ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam;
hội chợ thương mại - du lịch "Ngàn Đọc Phái" tại tỉnh Lời, Thái Lan; hội chợ
thương mại - du lịch quốc tế tại huyện Xôn, Hàn Quốc và hội du lịch bảo tồn
ASEAN tại huyện Pạc Xê, tỉnh Chăm Pa Sắc,v.v...
Nghiên cứu xây dựng các chương trình xúc tiến để khai thác TTDL
quốc tế. Để mở rộng TTDL quốc tế, củng cố các thị trường hiện tại và hướng
tới thị trường tiềm năng nhằm phát triển mạnh trong điều kiện mở cửa, Luông
Pra Băng đã đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức du lịch quốc tế và tích cực tham
gia các chương trình phát triển du lịch như chương trình mở rộng hợp tác hành
lang Đông - Tây,… Nghiên cứu thị trường, tập trung phát triển củng cố các thị
trường khách đến Lào nhiều trong thời gian qua như thị trường khách Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,... đối với các thị trường tiềm năng, tham gia khảo
sát TTDL Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc,... để khai thác nguồn khách. Tổ
chức đoàn công tác tham quan học tập kinh nghiệm phát triển tại Việt Nam,
Thái Lan. Phối hợp với đoàn đại diện tổ chức du lịch thế giới khảo sát kết quả
phát triển TTDL Luông Pra Băng gắn với xóa đói giảm nghèo; khảo sát xây
dựng các dự án hỗ trợ phát triển du lịch. Nhiều đoàn quốc tế đến Luông Pra
87
Băng để nghiên cứu thị trường và khả năng phát triển sản phẩm dịch vụ của
Luông Pra Băng, nghiên cứu chuẩn đoán môi trường kinh doanh và tiềm năng
tăng trưởng của tỉnh. Quá trình hợp tác liên kết trong xúc tiến quảng bá, nghiên
cứu khảo sát thị trường tất yếu thúc đẩy cung - cầu. TTDL Luông Pra Băng với
những sản phẩm đặc trưng đã được biết đến không chỉ trong nước mà còn ở
nhiều quốc gia khác, lượng khách du lịch đến Luông Pra Băng ngày càng đông
và người Luông Pra Băng đi du lịch ngày càng nhiều.
3.2.2. Thực trạng việc tổ chức phát triển thị trường du lịch tỉnh
Luông Pra Băng
3.2.2.1. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật tạo điều kiện phát triển thị
trường du lịch
Kết cấu hạ tầng là điều kiện để đón tiếp khách du lịch của một quốc
gia, một địa phương. Đây là điều kiện quan trọng để tạo nên giá trị của sản
phẩm, phát triển TTDL.
Hệ thống đường giao thông: tỉnh Luông Pra Băng không ngừng được
mở rộng và xây mới. Hiện nay mạng lưới đường bộ Luông Pra Băng có tổng
chiều dài trên 4.518,38 km, trong đó có đường quốc lộ 605,2 km, tỉnh lộ
565,05 km, đường của huyện 356,42 km, đường của thành phố 170,41 km và
đường của vùng nông thôn 2.820,98 km với các trục và tuyến giao thông như:
đường quốc lộ 13 là trục giao thông chính nối với thủ đô Viêng Chăn, quốc lộ
số 1C nối liền với tỉnh Luông Năm Tha - tỉnh Phông Xa Ly - tỉnh U Đôm Xay -
tỉnh Hua Phăn, quốc lộ số 7 nối liền với tỉnh Xiêng khoảng và tỉnh Hua Phăn,
quốc lộ số 8 nối liền với tỉnh Xay Nha Bu Ly. Ngoài ra còn có vận chuyển quốc tế
như: Luông Pra Băng - Vinh, Hà Nội, Điện Biên Phủ, Huế (CHXHCN Việt
Nam); Luông Pra Băng - Xiêng Hùng, Khun Minh (Trung Quốc); Luông Pra
Băng - Xiêng Mai, Lơi, Nan, Ụt Ta La Địt, Phít Sa Nụ Lộc (Thái Lan). Tỉnh
Luông Pra Băng còn có đường sông Me Khong nối liền từ thủ đô Viêng Chăn,
tỉnh Bo Kẹo; sông Năm Khan nối liền từ tỉnh Xiêng Khoảng, sông Năm U nối liền
tỉnh Phông Xa Ly. Nhìn chung mạng lưới giao thông của tỉnh Luông Pra Băng,
các huyện, bản trong tỉnh đã có đường nối liền chiếm đến 96,55%, không chỉ tạo
88
điều kiện thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nói
riêng đối với phát triển du lịch mà còn tạo cảnh quan, làm thay đổi cơ bản diện
mạo của Luông Pra Băng.
Đường hàng không: sân bay quốc tế Luông Pra Băng là một trong 4 sân
bay tốt nhất của Lào. Ngoài các chuyến bay nội địa, còn có các chuyến bay
quốc tế trực tiếp từ Luông Pra Băng - Nội Bài Hà Nội, Huế (CHXHCN Việt
Nam), Bang Koc, Xiêng Mai (Thái Lan), Jing Hông, Cheng du (Trung Quốc).
Sân bay quốc tế Luông Pra Băng hiện đang được nâng cao, xây dựng nhà ga
quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển khách và hàng hóa ngày càng tăng.
Số lượt hành khách nội địa thông qua hàng không tăng nhanh trong 5 năm qua
(2012 - 2016). Trong tổng số 577.454 lượt hành khách, trong đó năm 2012 có
103.324 lượt hành khách và năm 2016 với 140.589 lượt hành khách.
Nhìn chung, điều kiện giao thông của tỉnh Luông Pra Băng trong những
năm qua được cải thiện rõ rệt cả về hạ tầng và phương tiện, đặc biệt là nâng
cấp, mở rộng sân bay, máy bay, hệ thống đường bộ [14, tr.11].
Hệ thống cấp điện: nguồn điện dùng cho sinh hoạt và sản xuất của tỉnh
được đảm bảo cung cấp lưới điện quốc gia thông qua đường quốc lộ 13. Mạng
lưới toàn tỉnh đến nay đang trong quá trình phát triển; năm 2017 toàn tỉnh đã
được sử dựng điện chiếm 88% của làng trong tỉnh và 86,62% của hộ gia đình.
Tỉnh Luông Pra Băng đang chuẩn bị và tạo điều kiện để đầu tư xây dựng các
nhà máy thủy điện trong thời gian tới 22 dự án; trong đó Chính phủ đã ban
hành 14 dự án. Hiện nay đang xây dựng 5 dự án như: nhà máy thủy điện sông
Me Khong Luông Pra Băng - Xay Nhạ Bu Ly, nhà máy thủy điện sông Năm
Khan 2 và 3, nhà máy thủy điện sông Năm U 1, 2 và 3 [14, tr.10].
Hệ thống bưu chính viễn thông: Luông Pra Băng là một trong những trung
tâm bưu chính viễn thông lớn. Toàn tỉnh có 12 bưu cục, 1.304 tủ bưu điện; có
công ty phục vụ hệ thống bưu chính viễn thông 4 công ty (ETL, Lào Telecom, Be
line, Unitel), trạm điện thoại 27 trạm và mở dịch vụ tín hiệu điện thoại 389.347 số;
trong đó điện thoại bàn 37.113 số, điện thoại di động 313.404 số và mạng
(internet) 38.830 số. Luông Pra Băng đã cung cấp các dịch vụ viễn thông đa dạng
và hiện đại, đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng [14, tr.15].
89
Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch: hệ thống khách sạn, resorts, nhà nghỉ,
nhà trọ, bungalow được đầu tư phát triển ở khắp mọi nơi, đặc biệt là khách
sạn tại đô thị, các khu điểm du lịch, resorts, các huyện và các khu nghỉ dưỡng.
Các cơ sở lưu trú du lịch phần lớn có quy mô nhỏ. Nhiều khách sạn, resorts
mới đầu tư những năm gần đây có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn
quốc tế. Hiện tại ở Luông Pra Băng có trên 820 cơ sở lưu trú các loại. Với hệ
thống cơ sở lưu trú có tốc độ tăng trưởng như hiện nay hoàn toàn đáp ứng nhu
cầu du lịch gia tăng trong thời gian tới.
Bảng 3.6: Số khách sạn, Nhà nghỉ - Resorts, Nhà hàng ở Lào
và tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn 2015 - 2018
Đơn vị: cơ sở
Năm(cả nước)
Năm (Tỉnh Luông Pra Băng)
TT
Chỉ tiêu
2015 2016 2017 2018 2015 2016 2017 2018
1 Khách sạn
542
545
569
670
61
49
53
90
2 Nhà nghỉ+Resort 1.907 2.452 2.165 2.432
238
248 260
384
3 Nhà hàng
1.664 2.969 2.360 2.646
289
457 290
300
4 Các chỉ tiêu khác
164
365
249
305
3
27
19
19
4.280 6.331 5.343 6.053
591
781 622
796
Tổng
Nguồn: Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch [9, tr.21; 10, tr.25; 11, tr.25].
Do vốn đầu tư qua các năm tăng, số lượng cơ sở lưu trú ngày càng tăng.
Năm 2011 với 279 cơ sở lưu trú có số lượng phòng là 3.241 phòng. Đến năm
2016, toàn tỉnh có 297 cơ sở với 4.844 phòng.
Bảng 3.7: Cơ sở lưu trú du lịch ở tỉnh Luông Pra băng
giai đoạn 2011 - 2018
Đơn vị: cơ sở
Năm
Chỉ tiêu
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Cơ sở lưu trú
279
296
380
312
299
297
313
477
Tổng số phòng
3.241
3.529
4.126
6.634
5.005
4.844
5.368 5.276
Nguồn: Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch [9, tr.22; 10, tr.26; 11, tr.26].
90
Hệ thống nhà hàng ăn uống du lịch: với thế mạnh về ẩm thực, hệ thống
nhà hàng phục vụ du lịch nói riêng và phục vụ dân cư nói chung, phát triển mở
rộng những năm gần đây. Các loại nhà hàng với nhiều phong cách phục vụ
nhiều chủng loại các món ăn châu Âu, châu Á rất phong phú được mở ra. Đặc
biệt phong cách phục vụ và hình thức bài trí món ăn cũng như các dịch vụ văn
hóa ẩm thực khác như nghệ thuật dân gian được lồng ghép trong các bữa ăn tạo
giá trị trải nghiệm đặc sắc cho khách du lịch. Trong giai đoạn năm 2014 - 2015
toàn tỉnh có 289 dự án và năm 2016 đã phát triển và mở rộng với 457 dự án.
Hệ thống cơ sở dịch vụ lữ hành, cung cấp thông tin: hệ thống các công
ty lữ hành, văn phòng du lịch xuất hiện ở khắp mọi nơi trong 12 huyện, tập
trung nhiều ở thành phố Luông Pra Băng, huyện Phu Khun, Xiêng Ngân, Pặc
U, Năm Bạc, Mương Ngoi… Các đại lý du lịch đóng vai trò rất quan trọng
trong việc cung cấp thông tin, tư vấn và quảng bá du lịch thông qua hệ thống
bán lẻ.
Các dịch vụ lữ hành cho tới nay chỉ cung cấp bởi các công ty lữ hành
thông qua hệ thống văn phòng đại lý du lịch. Các điểm cung cấp thông tin du
lịch miễn phí tại sân bay hoặc trung tâm du lịch lớn do Sở Thông tin, văn hóa
và du lịch cung cấp. Tại khu, điểm du lịch hệ thống cung cấp thông tin du
lịch, biển chỉ dẫn,... ở hầu hết các huyện, địa phương còn rất thiếu thốn.
Khách du lịch trong nước và quốc tế tìm kiếm thông tin chính xác về nơi ăn,
nghỉ, giải trí, đi lại,v.v... rất khó khăn vì vậy thường khó lên kế hoạch, trả giá
cao hơn thực tế và không thỏa mãn sự mong đợi.
Cơ sở dịch vụ tại điểm du lịch: số lượng các cơ sở kinh doanh dịch vụ
vui chơi giải trí khá lớn, đa dạng. Đa số các cơ sở có quy mô nhỏ, tiện nghi
phục vụ khách nhìn chung còn đơn điệu. Những năm qua Luông Pra Băng đã
xây dựng các khu vui chơi giải trí thể thao như: khu vực Đờn Thạt Luông; sân
thể thao Na Săng Vơi; sân bóng đá quốc gia Luông Pra Băng; sân golf; sân
cầu lông Si Ri Vông; vườn Hói Khùa; vườn Đóc Phấng,... nhìn chung, Hệ
thống cơ sở và các tiện nghi vui chơi giải trí phục vụ du lịch. Luông Pra Băng
đã mở rộng, nâng cấp các cơ sở lưu trú, vui chơi giải trí phục vụ du lịch với
91
tổng vốn đầu tư trong ngành dịch vụ 1.527,38 tỷ LAK, chiếm 38,5% của GDP
trong năm 2011, 2.427,7 tỷ LAK, chiếm 43,6% trong năm 2015, 2.678,7 tỷ
LAK, chiếm 44,4% của GDP trong năm 2016 và 3.257,9 tỷ LAK, chiếm
46,3% của GDP trong năm 2018 [16, tr.30].
Các dịch vụ hỗ trợ khác: hầu hết các ngân hàng và các công ty tài chính
lớn của Lào và một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty bảo hiểm
quốc tế đều có chi nhánh tại Luông Pra Băng như: ngân hàng Nhà nước, ngân
hàng Phắt Thạ Na Lào, ngân hàng Thương mại quốc tế, ngân hàng Phông Sa
Văn, ngân hàng Phát triển Nông nghiệp, ngân hàng cùng phát triển, ngân hàng
STB, ngân hàng liên doanh Lào - Việt,... các dịch vụ này trong những năm gần
đây được mở rộng phát triển phục vụ khách du lịch, ngày càng hoàn thiện và
đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
3.2.2.2. Phát triển sản phẩm tạo nguồn cung trên thị trường du lịch
Cung trên TTDL được cấu thành từ tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và hàng hóa, dịch vụ
đáp ứng nhu cầu của du khách. Phân tích thực trạng phát triển sản phẩm hàng
hóa dịch vụ du lịch và hệ thống kinh doanh du lịch là cơ sở để đánh giá thực
trạng cung trên TTDL tỉnh Luông Pra Băng.
Việc phối hợp các bộ phận hợp thành trong sản phẩm du lịch hoàn chỉnh
và cung ứng cho du khách là quá trình phức tạp và đa dạng. Đầu tư phát triển sản
phẩm hàng hóa du lịch trên thị trường theo hướng đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng sản phẩm để thúc đẩy tăng trưởng cũng đã được coi trọng ở Luông Pra
Băng thông qua hoạt động cơ bản sau:
Bảo tồn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch. Trong năm qua, việc tôn
tạo và phát triển nguồn tài nguyên du lịch nhằm xây dựng các khu, điểm du lịch
với các sản phẩm du lịch đa dạng để tạo tính hấp dẫn cho khách du lịch của tỉnh
Luông Pra Băng đã được quan tâm.
Việc bảo tồn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch trên thị trường
hướng tới các sản phẩm chủ yếu như sau:
92
Du lịch văn hóa - lịch sử: nhằm thỏa mãn nhu cầu mở rộng sự hiểu biết và
nghệ thuật, phong tục tập quán của người dân nơi khách du lịch đến thăm hay để
tham quan, nghiên cứu, mở mang kiến thức, tìm hiểu về lịch sử dân tộc,...
Những nơi in đậm dấu ấn văn hóa lịch sử thường thu hút nhiều đối tượng khách
du lịch này như: các di tích lịch sử, chùa, văn hóa dân tộc, làng nghề, nhà vua Si
Sạ Vang Vông,...
Du lịch lễ hội, tín ngưỡng đang là sản phẩm du lịch độc đáo ở Luông
Pra Băng. Những nơi có đền, chùa như: chùa Phu Si, chùa Xiêng Thong, chùa
Phôn Phâu, chùa Bán Mường Ngoi, chùa Bán Xộp Văn,... Trong đó lễ hội của
các dân tộc, Bun Pi May; đua thuyền; Lay Hừa Phay; Khấu Sạ Lac,... đối
tượng chính mua sản phẩm du lịch này là người lớn tuổi và trẻ em, những
người kinh doanh buôn bán.
Du lịch làng nghề. Những điểm du lịch làng nghề thu hút đồng du khách
là làng nghề đồ gỗ thủ công (làng Săng Khạ Lồc), thủ công mỹ nghệ giấy Sa
(làng Xang Khóng), dệt thủ công mỹ nghệ (làng Pha Nôm), bông satin thủ công
mỹ nghệ (làng Na Nhàng), thủ công mỹ nghệ sơn mài Lào (làng Pong Khăm) và
các làng khác như: Xàng Hay, Xang Khóng, Xiêng Lệk, Phon Xay, Bán Chàn,
Muồng Kéo, Mương Ngoi, Chợ đêm,... Trong những năm qua, Luông Pra Băng
đặc biệt quan tâm đến phát triển du lịch làng nghề, tổ chức Hội du lịch làng nghề
nhằm khai thác tiềm năng và góp phần bảo tồn những làng nghề có nguy cơ bị
mai một, đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề được quy hoạch
gắn với phát triển du lịch, hỗ trợ tiền xây nhà trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở
các làng nghề.
Du lịch khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên, là sản phẩm thu hút đông
khách du lịch sau sản phẩm du lịch văn hóa. Du lịch sinh thái kết hợp tham
quan, nghỉ ngơi thường tập trung ở những nơi có danh lam thắng cảnh đẹp,
khí hậu trong lành, hệ sinh vật chất phong phú như: thác, hang, rừng núi,...
Đây là sản phẩm du lịch có thể bán quanh năm, chỉ hạn chế vào những tháng
giá rét hoặc mưa.
93
Du lịch thể thao, vui chơi giải trí là sản phẩm đang được Luông Pra Băng
chú trọng đầu tư phát triển. Khách tiêu dùng sản phẩm này có xu hướng tăng
mạnh, nhất là khách quốc tế đến sân golf, sân bóng đá quốc gia. Nhiều khu vui
chơi giải trí được hình thành gắn các hoạt động vui chơi giải trí và thể thao dựa
vào các tài nguyên du lịch sông hồ, suối, thác,...
Du lịch chữa bệnh: sản phẩm du lịch này trên TTDL Luông Pra Băng
chưa phổ biến và mới chiếm tỷ trọng nhỏ. Đối tượng chủ yếu mua sản phẩm du
lịch này là người già, người cao tuổi, người có thu nhập ổn định, người cần phục
hồi sức khỏe sau khi chữa bệnh, thường tập trung ở nơi có nguồn nước nóng,
nước khoáng phù hợp cho chữa bệnh như: thác Sé, thác Khoang Si thành phố
Luông Pra Băng, nguồn nước nóng Bo Kẹo huyện Xiêng Ngân,...
Du lịch hội nghị, hội thảo những năm gần đây có vai trò rất quan trọng,
khách mua sản phẩm này ngày càng tăng. Đặc điểm cơ bản của du lịch hội nghị,
hội thảo là số lượng khách tập trung rất lớn, đòi hỏi có trình độ tổ chức phối hợp
cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất lượng cao. Các sự kiện du lịch cũng đang
là sản phẩm được bán trên TTDL. Những sự kiện du lịch thu hút hàng trăm
khách, được truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây thực sự là
những cơ hội hiếm để quảng cáo cho du lịch.
Hàng hóa lưu niệm: được bán hết sức đa dạng trên thị trường, thường
mang dấu ấn của các điểm, tuyến du lịch. Nhóm hàng này được sản xuất chủ
yếu trong các làng nghề thủ công truyền thống của Luông Pra Băng. Phần lớn là
các hàng thủ công mỹ nghệ, đôi khi là sản phẩm truyền thống về ẩm thực hoặc
trò chơi dân gian. Với lợi thế của vùng đất, hàng hóa lưu niệm của Luông Pra
Băng nổi tiếng khắp trong và ngoài nước gắn với tên tuổi của mỗi làng nghề
như: Ọ Lam (một món hầm dày được làm bằng thảo mộc rừng), Chèo Bong
(nước chấm làm bằng ớt và da trâu), Khay Phen (cỏ khô đã được chiên nhẹ với
hạt vừng và tỏi), vải, quần áo của các dân tộc thiểu số,...
Các chương trình du lịch trọn gói đến các khu, điểm du lịch kết nối những
sản phẩm du lịch đặc trưng của Luông Pra Băng là nhóm hàng quan trọng nhất,
là nhóm để thu hút khách và giữ khách. Số lượng, chủng loại các chương trình
94
khó thống kê đầy đủ bởi ngày càng tăng theo nhu cầu của du khách. Nhóm hàng
hóa này chủ yếu được sản xuất từ nguyên liệu giá trị tài nguyên du lịch. Các
chương trình du lịch trong tỉnh thời gian ngắn, thường từ 1 đến 3 ngày. Đây là
các chương trình du lịch tổng hợp kết hợp cả tham quan, nghỉ ngơi giải trí, tìm
hiểu, mua sắm,... Các chương trình du lịch chuyên đề như du lịch sinh thái,
nghiên cứu lịch sử,… chiếm tỷ lệ nhỏ. Các chương trình du lịch nội địa thường
có thời gian từ 3 đến 6 ngày.
Phát triển hàng hóa, dịch vụ du lịch bao gồm dịch vụ lưu trú, ăn uống,
dịch vụ vận chuyển là những phương tiện làm cầu nối cho du khách tiếp cận với
các giá trị tài nguyên du lịch. Đây là loại dịch vụ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và
thưởng thức ở mức cao chứ không đơn thuần là dịch vụ đáp ứng nhu cầu tối
thiểu hàng ngày của con người. Vì vậy, những dịch vụ này đang được quan tâm
phát triển ở Luông Pra Băng với mục tiêu đảm bảo sự tiện dụng, chất lượng phục
vụ và giá cả phù hợp đối với du khách.
Như vậy, giá trị của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ du lịch đang được
chú ý nâng lên thông qua việc thu hút lớn nguồn vốn đầu tư vào phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng, trong đó có hạ tầng tại các khu, điểm du lịch. Các tài
nguyên du lịch được khai thác tối đa để xây dựng các khu, điểm du lịch với các
sản phẩm có nhiều du khách ưa thích như du lịch lễ hội, tín ngưỡng, tham quan
di tích lịch sử,… Sản phẩm đều mang tính đặc trưng riêng của Luông Pra Băng,
đó là những giá trị tài nguyên du lịch, du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch
nhân văn. Những sản phẩm này khi du khách tiêu dùng, giá trị của nó vẫn được
giữ nguyên. Việc tôn tạo, bảo dưỡng tài nguyên này ở Luông Pra Băng đang làm
cho giá trị của nó tăng lên. Sự liên kết nối các sản phẩm du lịch để cung cấp cho
khách du lịch đem lại cho khách những cảm giác mới lạ, thỏa mãn nhu cầu tối
đa của du khách tùy theo mức độ cảm nhận của họ.
3.2.2.3. Phát triển điểm đến và các tuyến du lịch
Hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh trên TTDL Luông Pra Băng
phát triển mạnh trong thời gian qua, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ không chỉ thỏa mãn nhu
95
cầu của du khách mà đồng thời của cả những đối tượng không phải là khách
du lịch và bản thân các doanh nghiệp cũng không bó hẹp phạm vi khách hàng
của mình là khách du lịch.
Bảng 3.8: Doanh nghiệp lữ hành và lưu trú tại Luông Pra Băng
giai đoạn 2011 - 2018
Năm
Doanh nghiệp
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
2018
Doanh nghiệp lữ hành
50
57
65
71
76
78
93
95
Cơ sở lưu trú
279
296
380
312
299
297
313
477
Tổng số
329
353
445
383
375
375
406
572
Nguồn: Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch [9, tr.22; 10, tr.26; 11, tr.26].
Phân tích thực trạng các hoạt động kinh doanh phục vụ khách du lịch trên
TTDL Luông Pra Băng cho thấy:
Kinh doanh lưu trú, ăn uống rất đa dạng, phong phú về chủng loại, chất
lượng và mức giá. Nó tùy thuộc vào cơ sở vật chất kỹ thuật và phương thức phục
vụ, nguyên liệu đảm bảo cho các yếu tố đầu vào của các nhà sản xuất.
Trong những năm qua, kinh doanh lưu trú, ăn uống ở Luông Pra Băng
không có sự tăng trưởng lớn, số lượng cơ sở không nhiều. Từ năm 2011 đến nay,
số cơ sở lưu trú, số buồng, phòng, số giường đều tăng và giảm trong giai đoạn
năm 2015 - 2016. Năm 2017 - 2018, số cơ sở lưu trú đăng ký tại sở du lịch có xu
hướng tăng, năm 2018 có 477 đơn vị. Công suất sử dụng phòng những năm qua
tăng khá, giá bán phòng của các doanh nghiệp rất khác nhau tùy theo điều kiện
tiện nghỉ. Giá bán trung bình một ngày đêm là 150.000 LAK/phòng (nhà nghỉ),
giá tối thiểu là 100.000 LAK/phòng (nhà nghỉ) và 800.000 LAK/phòng (khách
sạn 5 sao và resort), giá bán tối đa là 20.000.000 LAK/phòng (khách sạn 5 sao
và resort) và giá theo giờ là 80.000 - 100.000 LAK/phòng.
Hiện nay, nhiều cơ sở lưu trú đã và đang đầu tư nâng cấp chất lượng và đa
dạng hóa dịch vụ, mở rộng quy mô kinh doanh như khách sạn Maison
Suovannaphoum, Santi Resort & SPA, Manoluck, Mekhong Riverview, Muang
Thong,... Ngoài cung cấp dịch vụ lưu trú và ăn uống, các nhà kinh doanh còn tổ
96
chức nhiều hoạt động dịch vụ bổ sung khách như: đăng cai tổ chức hội nghỉ, hội
thảo, đám cưới, cửa hàng lưu niệm, dịch vụ bán vé máy bay, dịch vụ điện thoại,
máy vi tính, dịch vụ thể thao,...
Ngoài cơ sở lưu trú kinh doanh ăn uống, còn nhiều cơ sở kinh doanh ăn
uống độc lập như các quán ăn, nhà hàng, quầy giải khát mang tính chất thỏa mãn
nhu cầu của khách. Đó là điều kiện thuận lợi cho khách lựa chọn, song nhiều cơ
sở còn thiếu những điều kiện tối thiểu, vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa
đảm bảo. Những cơ sở này vừa phục vụ khách du lịch vừa phục vụ các đối
tượng không phải là khách du lịch. Khách sạn, nhà hàng du lịch,… Nhìn chung
cả thời kỳ này đều có sự tăng trưởng khá do sự phát triển của các loại hình dịch
vụ về nhà hàng, khách sạn và dịch vụ trong toàn tỉnh.
Kinh doanh lữ hành. Đây là nhà cung cấp cho khách hàng dịch vụ tổng
hợp kết nối dịch vụ của các đơn vị riêng lẻ thành một quá trình xuyên suốt qua
chương trình du lịch và hướng dẫn thực hiện. Các doanh nghiệp lữ hành giúp
cho du khách giải quyết những vấn đề như: lựa chọn hành trình du lịch, lựa chọn
dịch vụ thủ tục làm visa, hộ chiếu, lựa chọn thời gian thích hợp cho chuyến đi,
lựa chọn loại hình du lịch, v.v... Tại Luông Pra Băng, số lượng doanh nghiệp
còn thấp. Năm 2011 có 50 đơn vị, năm 2015 có 76 đơn vị, đến năm 2018 tổng số
doanh nghiệp lữ hành tại Luông Pra Băng là 95 đơn vị, trong đó có 19 doanh
nghiệp lữ hành quốc tế.
Để bán được các chương trình du lịch và thu được lợi nhuận, các doanh
nghiệp rất chú trọng nghiên cứu nhu cầu của khách du lịch, dự báo nhu cầu
khách trên TTDL. Hầu hết các doanh nghiệp đều xác định, tổ chức sản xuất các
chương trình du lịch là công việc hàng đầu của mình. Một chương trình du lịch
có khả năng cạnh tranh, thu hút khách trên thị trường phải là chương trình du
lịch độc đáo, hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, nghĩa là một chương
trình có chất lượng cao. Hiện nay, một số doanh nghiệp đang cố gắng làm mới
các chương trình du lịch nhưng nhìn chung vẫn mang tính truyền thống. Ngoài
bán chương trình du lịch, các doanh nghiệp lữ hành còn bán các dịch vụ lẻ. Phần
lớn các sản phẩm này được bán một cách độc lập không có sự gắn kết giữa các
97
sản phẩm với nhau. Các dịch vụ lẻ chủ yếu bao gồm đăng ký đặt chỗ và bán vé
máy bay và các loại phương tiện giao thông khác, môi giới và bán bảo hiểm,
đăng ký đặt chỗ trong khách sạn, tư vấn du lịch,… Một số doanh nghiệp có điều
kiện còn tổ chức du lịch hội nghị, hội thảo, các sự kiện du lịch.
Kinh doanh dịch vụ vận chuyển khách du lịch. Khối lượng hàng hóa và
khách luân chuyển trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng có tốc độ tăng trưởng rất
cao. Vận tải hành khách và hàng hóa ở Luông Pra Băng bằng đường bộ, đường
sông và đường hàng không, trong đó đường bộ vẫn là chủ lực bởi những ưu
điểm vốn có của nó. Doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển du lịch của Luông
Pra Băng chủ yếu là cung cấp dịch vụ cho khách du lịch bằng đường bộ với
phương tiện ô tô, xe tuc tuc, xe chăm bô, mô tô, xe đạp. Hiện số lượng các
phương tiện vận chuyển này ở Luông Pra Băng khá lớn, hàng ngàn ô tô, xe tuc
tuc, xe chăm bô, mô tô và hàng ngàn xe đạp. Sự gia tăng mạnh của các phương
tiện giao thông đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận
chuyển cho khách. Có 11 công ty cổ phần vận tải hành khách đường bộ và hàng
chục các hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, các cá nhân, hộ gia đình cũng
tham gia công tác vận tải với năng suất vận tải hiện vẫn còn thấp so với nhu cầu
đi lại và vận chuyển hàng hóa hết sức to lớn và đa dạng trên địa bàn tỉnh Luông
Pra Băng và một số tỉnh lân cận.
Vận tải đường bộ qua Luông Pra Băng chưa phát triển mạnh và còn nghèo
nàn, đơn điệu. Các bến sông như: bến sông Viêng Kéo, Thà Hùa Luông, Bán
Đòn, Mương Ngoi, chủ yếu phục vụ chuyên chở hàng hóa và hành khách. Đầu
tư cho các phương tiện thuyền hàng hóa, thuyền chuyên chở khách du lịch chưa
được các nhà kinh doanh quan tâm, hầu hết thuyền chuyên hàng hóa, vận chuyển
còn kém an toàn cho du khách.
Vận tải đường hàng không. Trước mắt Luông Pra Băng chọn phương án
đường hàng không để khai thác vận chuyển khách có nhu cầu đi lại nhanh. Phạm
vi hoạt động trong nước và quốc tế như: Luông Pra Băng - Hà Nội; Luông Pra
Băng - Bang Koc, Xiêng Mai; Luông Pra Băng - Jinghong,... và các tuyến bay
98
trong nước. Vận tải hàng không, nhìn chung chưa đảm bảo được dịch vụ thuận
tiện, kể cả nối tuyến bằng những phương tiện thích hợp.
3.2.2.4. Tạo môi trường và các tổ chức dịch vụ du lịch
Kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí: Tại các khu, điểm du lịch ở Luông
Pra Băng hiện nay, kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí tăng mạnh và ngày càng
phổ biến. Để đáp ứng nhu cầu cảm thụ cái đẹp và sức khỏe, giảm sự căng thẳng
về thể chất và tinh thần đã hình thành mạng lưới các nhà cung cấp dịch vụ tham
quan, vui chơi giải trí, thư giãn, phục hồi sức khỏe. Các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vui chơi giải trí phải dựa trên cơ sở khai thác tài sản du lịch để
cung ứng dịch vụ. Tại Luông Pra Băng, do số lượng các cơ sở kinh doanh dịch
vụ vui chơi giải trí khá lớn, đa dạng trên các dịch vụ được cung cấp rất nhiều với
các mức giá khác nhau. Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đầu
tư xây dựng các khu nghỉ nhỏ, nghỉ cuối tuần kết hợp vui chơi giải trí diễn ra
rầm rộ trên địa bàn tỉnh. Các khu vui chơi giải trí này có quy mô nhỏ, nhưng dần
trở thành địa chỉ quen thuộc cho các hoạt động du lịch cuối tuần của thị trường
khách du lịch Luông Pra Băng và các tỉnh lân cận, phần nào đáp ứng nhu cầu du
lịch của khách du lịch từ thủ đô Viêng Chăn và các tỉnh miền Bắc.
Phân tích, khảo sát thực trạng phát triển sản phẩm và hệ thống kinh
doanh du lịch, có thể thấy một số đặc điểm của cung trên TTDL Luông Pra
Băng như sau:
Cung trên thị trường chủ yếu là các dịch vụ tham quan, lưu trú, ăn uống,
vận chuyển,... Do vậy, các doanh nghiệp rất coi trọng việc cung cấp thông tin về
các dịch vụ mà mình cung cấp cho khách du lịch. Người tiêu dùng du lịch
thường tìm kiếm thông tin qua mạng và đặt chỗ, đăng ký, thanh toán các dịch vụ
phục vụ chuyến đi qua thương mại điện tử. Đây là một thách thức đối với các
doanh nghiệp tại Luông Pra Băng do ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế,
khả năng xúc tiến, quảng bá chưa cao, thiếu tính chuyên nghiệp.
Các nhà cung cấp sản phẩm du lịch với tư cách là chủ thể thị trường đều
có tính độc lập, không chịu sự can thiệp trực tiếp, cưỡng chế của các chủ thể
thị trường khác. Họ tự điều chỉnh các hành vi của mình cho phù hợp với
99
những tín hiệu của thị trường. Doanh nghiệp thích ứng với thị trường thì tồn
tại và ngược lại sẽ bị thải loại. Tuy vậy, họ vẫn có xu hướng liên kết với nhau
nhằm tạo sức mạnh để thu hút khách du lịch, nhất là hợp tác trong xây dựng
và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch, đón tiếp và phục vụ khách du
lịch. Đặc biệt là sự liên kết giữa các đại lý du lịch, doanh nghiệp lữ hành với
các nhà cung cấp dịch vụ du lịch trong và ngoài tỉnh. Do đó tính phụ thuộc
nhau của họ gia tăng.
Cung trên thị trường bị hạn chế về số lượng và có tính cố định. Đó là do
khả năng cung bị giới hạn về vị trí và sức chứa, mặt khác lại đòi hỏi vốn đầu tư
lớn nên cung trên thị trường khó thay đổi khi có sự biến động về cầu, giá cả và
những tác động khác. Trong khi đó, lượng cung sản phẩm du lịch từ nguồn tài
nguyên du lịch không dễ dàng sản xuất và tái sản xuất ra tại một địa điểm hoặc
một doanh nghiệp, vì vậy, việc tạo ra các sản phẩm bị hạn chế.
Cung đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nên hàng năm, lượng vốn đầu tư trên
thị trường của Luông Pra Băng đều tăng. Các nguồn vốn này tập trung cho xây
dựng hệ thống hạ tầng du lịch, cho việc xây dựng các khu điểm du lịch với các
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ du lịch trên cơ sở tài nguyên du lịch của tỉnh. Các
nguồn vốn này từ cả phía Nhà nước và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch
trong và ngoài nước.
3.2.2.5. Liên kết quốc tế về thị trường du lịch
Thị trường du lịch bước đầu được liên thông. Du lịch đã và đang mở rộng
hợp tác với nhiều tổ chức du lịch quốc tế như: UN-WTO, PATA, ASEANTA,...
và tích cực tham gia các chương trình hợp tác phát triển du lịch như: chương
trình phát triển tiểu vùng sông Me Khong; mở rộng, hợp tác hành lang Đông -
Tây; hợp tác du lịch sông Me Khong với các sông khác,…
Về tổng thể ngành du lịch đã ký hiệp định hợp tác du lịch với các nước,
có quan hệ với hàng ngàn doanh nghiệp du lịch quốc tế và mở văn phòng đại
diện ở các thị trường trọng điểm, trong đó Luông Pra Băng luôn đóng vai trò
tích cực.
100
Đầu tư vào TTDL được mở rộng. Các doanh nghiệp chú trọng nhằm đa
dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay, toàn tỉnh có 78 công ty và
các tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch với tổng vốn đầu tư 178.791.480.014
LAK để đầu tư xây dựng các khu du lịch, khách sạn, mở tuyến tour du lịch mới
tại Luông Pra Băng như: Maison Souvannaphoum Hotel, Santi Resort & SPA,
Aucient Luang Pra bang Hotel, Me khong Rever view Hotel, The Chang
Heritage Hotel, Luang Pra bang Travel & tuor, Xieng thong Travel & tuor, Lao
discovery tuors, v.v... Đồng thời triển khai các dự án mới như: khu du lịch lịch
sử, văn hóa và du lịch thiên nhiên ở huyện như: Phu Khun, Năm Bạc, Pạc Xeng,
Mương Ngoi, Chom Phết,...
Ngoài ra, Sở Thông tin, văn hóa và du lịch thành phố và các huyện
trong tỉnh, còn tổ chức khảo sát đường Luông Pra Băng nhằm khai thác lợi
thế của tour đường bộ xuất phát từ Luông Pra Băng qua các tỉnh miền Bắc với
nhiều di tích lịch sử, văn hóa, thiên nhiên có giá trị cao. Tỉnh đa tăng cường
hợp tác về du lịch với các tỉnh thông qua việc ký kết chương trình hợp tác về
du lịch với các tỉnh: tỉnh Hua Phăn, Xay Nhạ Bu Ly, Xiêng Khoảng, Bo Kẹo,
thủ đô Viêng Chăn,…
Phát triển quảng bá TTDL của tỉnh. Tích cực tham gia các hội chợ, lễ hội
du lịch trong và ngoài nước như Liên hoan du lịch "990 năm Thăng Long Hà
Nội"; hội chợ thương mại - du lịch quốc tế (ITB) tại Singapore, Khun Minh
(Trung Quốc), Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, (Việt Nam); "Ngàn Đọc Phái" tại
tỉnh Lời (Thái Lan); tại huyện Xôn (Hàn Quốc) và hội du lịch bảo tồn
ASEAN tại huyện Pạc Xê, tỉnh Chăm Pa Sắc.
Hợp tác, liên kết TTDL trong tỉnh, trong nước và ngoài nước với các
tỉnh của Lào như: thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn, Xiêng Khoảng, Hua
Phăn, Xay Nhạ Bu Ly,... và các nước như: Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan,
Cămpuchia,...
Về hợp tác quốc tế trong xây dựng sản phẩm du lịch, Luông Pra Băng đã
tổ chức đoàn cán bộ của ngành du lịch đi khảo sát tuyến đường Xuyên Á (Lào,
Thái Lan, Căm Phu Chia, Việt Nam), kết nối 4 quốc gia 1 điểm đến. Sau đợt
101
khảo sát, đã có một số doanh nghiệp mở tour ngắn ngày bằng đường bộ từ
Luông Pra Băng đi Nghệ An, Hà Nội, Điện Biên Phủ, Huế (Việt Nam), Luông
Pra Băng - Xiêng Mai, Lời (Thái Lan), Luông Pra Băng - Xiêng Hung, Khun
Minh (Trung Quốc); đường hàng không Luông Pra Băng - Xiêng Mai, Bang
Koc (Thái Lan); Luông Pra Băng - Hà Nội,… Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật của tổ
chức WTO; phát triển loại hình DL hội nghị, hội chợ, khuyến thưởng, triển lãm
(MICE), đã tổ chức cho chuyên gia WTO khảo sát thực trạng nhân lực, cơ sở vật
chất, trao đổi với cán bộ quản lý ngành, các doanh nghiệp có thể mạnh về MICE
sẽ có hội chợ cụ thể cho ngành du lịch Luông Pra Băng trong định hình phát
triển loại hình MICE.
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG
PRA BĂNG
3.3.1. Những kết quả về phát triển thị trường du lịch và nguyên nhân
3.3.1.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, quy mô thị trường
Với kết quả mở rộng và sự tham gia, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế trong
khu vực và thế giới, trong thời gian qua TTDL của tỉnh Luông Pra Băng đã thu
hút được khách du lịch trên thế giới tham gia du lịch trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương càng ngày nhiều như: năm 2005, có khách du lịch quốc tế sang tham
gia các nước ASEAN 79.000.000 người; năm 2013 tăng lên đến 90.200.000 người
và tăng lên 11% so với năm 2012. Trong đó, khách du lịch đi du lịch ở Malaysia
25.700.000 người, Thái Lan 26.700.000 người, Singapore 15.500.000 người,
Việt Nam 7.600.000 người,... và Lào 3.700.000 người [9, tr.26].
Thị trường du lịch đóng vai trò trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, khuyến khích và bảo vệ cảnh quang thiên nhiên, lịch sử, nền văn hóa
và phong tục truyền thống của đất nước Lào nói chung và các dân tộc nói riêng.
Từ khi Luật du lịch năm 2005 ban hành, thì du lịch là một công nghiệp hiện đại,
có sự phát triển nhanh nhất. Năm 2005, khách du lịch quốc tế đến du lịch tại Lào
là 1.095.315 lượt khách, năm 2010 là 2.513.028 lượt khách, năm 2015 là
4.684.429 lượt khách và năm 2016 là 4.239.047 lượt khách. Mang nguồn thu
102
nhập đến 146.770.074 USD năm 2005; 381.669.031 USD năm 2010;
725.365.681 USD năm 2015 và 724.191.957 USD trong năm 2016. Năm 2016
cả nước có 542 khách sạn, 2.452 nhà nghỉ và resort, 2.969 nhà hàng và 365 khu
giải trí [9, tr.9, 21, 26].
Đối với tỉnh Luông Pra Băng Năm 2010, có khách du lịch đến thăm
326.496 lượt khách, trong đó khách du lịch quốc tế 216.864 lượt khách; năm 2015
là 607.584 lượt khách, khách du lịch quốc tế 445.872 lượt khách và giai đoạn năm
2016 - 2017 là 643.319 lượt khách 469.586 lượt khách du lịch quốc tế [9, tr.19].
Thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng trong những năm qua đã phát
triển đáng kể. Sự hình thành và phát triển của TTDL đã tạo nên những bước phát
triển mới đối với thị trường nói chung và ở tỉnh Luông Pra Băng nói riêng.
Các yếu tố cơ bản của TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng đang hình thành và
phát triển khá đồng bộ.
Cầu trên TTDL ngày càng tăng, tạo nên mối quan hệ giữa các địa
phương nơi có tài nguyên du lịch, doanh nghiệp kinh doanh du lịch và du
khách là quan hệ cùng có lợi ích. Đối với du khách, du lịch là sự di chuyển và
lưu trú tạm thời ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Du lịch mang lại sự hài
lòng thỏa mãn và vừa ý vì họ được hưởng khoảng thời gian có ích, đáp ứng các
nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi, thăm viếng,...
Cung trên TTDL trên địa bàn phát triển theo hướng chất lượng và đa
dạng hơn. Các hàng hóa du lịch được bán trên thị trường ngày càng nhiều và
mang lại lợi ích không nhỏ. Các đơn vị cung ứng hàng hóa du lịch có nhiều
giải pháp để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần. Hầu hết các doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nhưng đều cố gắng trong việc đầu tư nâng cao
chất lượng hàng hóa, dịch vụ du lịch, nhất là chất lượng các cơ sở lưu trú
được nâng cao, các dịch vụ bổ sung đều gia tăng. Số lượng điểm du lịch hấp
dẫn du khách ngày càng nhiều. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh
du lịch, kết cấu hạ tầng ngày càng được mở rộng và hoàn thiện.
Giá cả hàng hóa, dịch vụ du lịch từng bước hình thành theo quy luật thị
trường, không có sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan quản lý nhà nước.
103
Theo đánh giá, chất lượng và mức giá các hàng hóa du lịch như hiện nay là
tương đối hấp dẫn đối với du khách. Một số du khách quốc tế nêu lý do họ
chọn Lào nói chung và tỉnh Luông Pra Băng nói riêng là điểm đến nghỉ ngơi
trong tương lai gần là giá cả hàng hóa và dịch vụ thấp. Cạnh tranh đang là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường, loại dần yếu tố độc quyền trong
việc chiếm giữ các giá trị tài nguyên, hướng tới thị trường cạnh tranh hoàn
hảo. Các doanh nghiệp liên kết hợp tác để mang lại các hàng hóa, dịch vụ du
lịch tốt nhất cho du khách.
Thứ hai, chất lượng và sức cạnh tranh quốc tế của thị trường du lịch
Giữa các doanh nghiệp, bên cạnh sự liên kết hợp tác, còn có xu hướng
cạnh tranh ngày càng gay gắt do các doanh nghiệp áp dụng những biện pháp
giành khách và tiêu thụ nhiều hàng hóa dịch vụ nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận
tối đa. Các doanh nghiệp không ngừng nâng cao uy tín và danh tiếng của
mình; tạo điều kiện để phục vụ khách thuận tiện nhất, nhanh nhất với chất
lượng cao. Do hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch nên đã thu hút được
nhiều tổ chức, cá nhân đầu tư, nhờ đó mà chất lượng các sản phẩm du lịch
ngày càng cao và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt.
Cạnh tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lữ hành
diễn ra khá phổ biến, các doanh nghiệp lữ hành gửi khách thường hạ giá các sản
phẩm lữ hành khi cần thiết, sau đó ép giá đối với các doanh nghiệp lữ hành
Luông Pra Băng. Do đó, tỷ lệ lợi nhuận của các doanh nghiệp lữ hành trên địa
bàn tỉnh Luông Pra Băng tương đối thấp do bị ép giá từ phía các hãng lữ hành
nước ngoài hay các đại lý. Một doanh nghiệp lữ hành nước ngoài thường gửi
khách cho doanh nghiệp trong nước để có được mức giá tốt nhất. Trong khi đó,
giữa các doanh nghiệp trong nước hầu như không có sự hợp tác thống nhất.
Để cạnh tranh, các doanh nghiệp định giá có chính sách phân biệt theo
mùa, theo số lượng khách và theo đối tượng. Đối với từng đối tượng khách,
được định hướng sử dụng chính sách giá phân biệt cho từng loại sản phẩm du
lịch. Khi định giá dựa trên những căn cứ: chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
các nhân tố tác động đến sự hình thành giá cả như nhu cầu trên thị trường, khả
104
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, giá trị cảm nhận của người tiêu dùng, quan
hệ tỷ giá giữa các doanh nghiệp. Phân biệt giá theo mùa chủ yếu từ các nhà cung
cấp dịch vụ tiến hành giảm giá ngoài thời vụ. Phân biệt giá theo số lượng khách
căn cứ vào giá thành. Các doanh nghiệp có xu hướng bán giá thấp cho các đoàn
khách đông người nhằm khuyến khích họ sử dụng dịch vụ. Các chương trình du
lịch trọn gói được bán với mức giá gộp bao gồm giá của toàn bộ các hàng hóa,
dịch vụ phát sinh trong quá trình du lịch. Thường mức giá này phải nhỏ hơn tổng
mức giá của các hàng hóa, dịch vụ nếu được mua lẻ từng phần hoặc khách du
lịch không có khả năng tính toán chi tiết các yếu tố cấu thành mức giá gộp.
Cạnh tranh bằng chất lượng cũng là phương thức mà các doanh nghiệp
ở Luông Pra Băng đang thực hiện. Những năm qua, lượng vốn của các doanh
nghiệp đầu tư phát triển không nhỏ, đồng thời, họ cũng coi trọng việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực với yêu cầu chuyên môn cao, trong đó có đội
ngũ hướng dẫn viên. Từ đó mà chất lượng hàng hóa, dịch vụ được nâng lên,
lượng cầu cũng theo đó mà tăng.
Kinh doanh trên TTDL có lợi thế của tỉnh về tài nguyên du lịch, để
kiểm soát độc quyền đối với nguồn tài nguyên có hạn này, cơ quan quản lý
nhà nước ở Luông Pra Băng thường quy định mức vé vào các điểm du lịch
thống nhất để các doanh nghiệp không tự ý tăng giá vé, đồng thời hình thành
Ban quản lý tại các khu, điểm thu hút đông khách nhằm kiểm soát các hoạt
động trao đổi mua bán, bảo vệ quyền lợi cho du khách và các đại lý du lịch.
Do đặc tính của TTDL nên việc hướng tới thị trường cạnh tranh hoàn hảo là
rất khó, lại càng cần có sự tác động từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.
Chính vì vậy, tại Luông Pra Băng, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát trên thị
trường rất được coi trọng nhằm loại bỏ tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh,
làm xấu đi hình ảnh của điểm đến. Hiện tượng làm tượng giả, chùa giả một
thời ở Luông Pra Băng nay đã không còn.
Thứ ba, đóng góp của thị trường du lịch trong nền kinh tế
- Sự phát triển của TTDL Luông Pra Băng đã bước đầu khai thác được
tiềm năng du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các địa
105
phương. Các tài nguyên du lịch của Luông Pra Băng được khai thác tạo ra các
sản phẩm hàng hóa du lịch ngày càng đa dạng, phong phú. Việc bảo tồn, tôn
tạo các di tích lịch sử văn hóa được chú ý; cảnh quan, môi trường sinh thái
được quan tâm bảo vệ. Khai thác nguồn tài nguyên du lịch thúc đẩy sự phát
triển của các ngành kinh tế, thay đổi một cách cơ bản bộ mặt điểm du lịch.
Lượng khách đến Luông Pra Băng tăng cả về khách du lịch quốc tế và khách
du lịch nội địa.
- Sự phát triển của TTDL thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhờ đầu
tư của Nhà nước, của tỉnh, của các doanh nghiệp trên TTDL vào phát triển kết
cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, vào tôn tạo và phát triển tài
nguyên du lịch nên đã kích thích các ngành kinh tế khác trong tỉnh phát triển.
Cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch ngày càng mở rộng và hoàn thiện đã góp
phần làm thay đổi bộ mặt của nhiều huyện, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành, vùng mạnh mẽ, đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa ở Luông Pra Băng.
- Phát triển TTDL đã tạo ra nhiều việc làm, thúc đẩy phát triển thị
trường lao động. Trong vòng 5 năm, từ năm 2011 - 2015 thu hút gần 96.461
lao động trực tiếp, riêng năm 2015 thu hút gần 65.067 lao động, tăng gấp gần
163 lần so với năm 2011. Đây là mức gia tăng bình quân đạt cao hơn mức
tăng trưởng trên toàn quốc và của nhiều tỉnh. Ngoài ra còn số lao động gián
tiếp tham gia vào hoạt động du lịch trên thị trường.
- Thị trường du lịch trên địa bàn phát triển đã thu hút được nguồn vốn
đầu tư lớn, đặc biệt trong những năm gần đây. Trong những năm qua, nguồn
vốn đầu tư trên thị trường cũng phát triển nhanh. Số lượng các dự án đầu tư,
tổng lượng vốn đầu tư, lĩnh vực đầu tư đều tăng nhanh và ổn định. Một số dự
án ngay từ đầu tư có lợi nhuận. Những nguồn vốn đã được sử dụng đúng mục
đích. Cơ cấu đầu tư chuyển dần sang xây dựng cơ sở lưu trú hiện đại, phát
triển hạ tầng khu du lịch, cơ sở vui chơi giải trí, xúc tiến quảng bá và phát
triển nguồn nhân lực du lịch. Từ năm 2010 nhiều dự án du lịch có quy mô lớn
của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh. Năm 2017 có 94
dự án với tổng vốn đầu tư ước thực hiện đạt 178.791 tỷ LAK.
106
3.3.1.2. Nguyên nhân của những kết quả
Một là, Nhà nước xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật trong lĩnh
vực du lịch, hình thành khung pháp lý cho sự điều tiết đối với TTDL như: Luật
đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư trong nước, Luật du lịch. Tổng Cục du lịch xây
dựng chiến lược phát triển du lịch Lào đến năm 2025 và năm 2030, các chương
trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, các dự án quy hoạch phát
triển vùng, các trung tâm du lịch,v.v... Đối với tỉnh Luông Pra Băng, Chính phủ
đã công nhận là một trong nhiều khu du lịch chuyên đề quốc gia của cả nước.
Những văn bản đó đã tạo điều kiện pháp lý cho Luông Pra Băng xây dựng quy
hoạch phát triển du lịch phù hợp với đặc thù của mình và đưa ra nhiều chủ
trương, chính sách phát triển du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh và môi
trường đầu tư của tỉnh.
Hai là, tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối phát triển kinh tế - xã
hội ở Lào. Sau 30 năm đổi mới và phát triển, tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội trong nước và của tỉnh Luông Pra Băng ổn định. Hệ thống giao thông
ngày càng mở rộng, điều kiện đi lại thuận lợi. Bên cạnh đó Nhà nước thực
hiện chế độ làm việc 40 giờ/tuần và tăng các kỳ nghỉ lễ hàng năm,... đã góp
phần tăng lượng cầu không nhỏ cho du lịch nội địa. Nền kinh tế chuyển từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đã kích thích đầu tư, khuyến khích tính sáng
tạo vươn lên làm giàu chính đáng của mọi thành phần kinh tế trong xã hội.
Ba là, trình độ dân trí và thu nhập của mọi người dân ngày càng được
nâng cao. Kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng sống của nhân dân, nguồn thu
nhập tăng dẫn đến việc mở rộng khả năng chi tiêu và kích thích nhu cầu đi du
lịch để giải tỏa tâm lý căng thẳng trong công việc và trốn tránh môi trường sống
quen thuộc hoặc bị ô nhiễm, tiếng ồn. Đây là động cơ quan trọng để nguồn
khách tiềm năng chính thức tham gia TTDL. Khả năng chi trả cho các dịch vụ
du lịch được nâng lên, số lượng khách du lịch nội địa sử dụng các dịch vụ cao
cấp ngày càng tăng. Nhu cầu tham quan, nghiên cứu khám phá thiên nhiên, lịch
sử, du lịch chữa bệnh, nghỉ dưỡng, v.v... dần trở thành nhu cầu thiết yếu.
107
Bốn là, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế đã nhận thấy tiềm năng to lớn, hiệu quả và lợi ích thu được từ kinh doanh
trên TTDL nên đã và đang đầu tư vào kinh doanh du lịch. Các doanh nghiệp
của Luông Pra Băng đã chú trọng tổ chức khai thác nguồn tài nguyên du lịch
của tỉnh để tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng, hấp dẫn du khách.
Hình ảnh của Lào, đất nước con người Lào trên quê hương Luông Pra Băng
ngày càng được nhiều nước trên thế giới và nhân dân trong cả nước biết đến
với phong cảnh đẹp, nhiều lễ hội, phong tục độc đáo, quê hương của làng
nghề truyền thống, người dân giàu lòng mến khách.
Năm là, công tác quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội luôn
được các ngành, các cấp và các địa phương quan tâm đã tạo sự yên tâm và
lòng tin trong du khách cũng như cho các nhà đầu tư.
Sáu là, môi trường quốc tế có nhiều thuận lợi. Thế kỷ XXI, tình hình
thế giới có những biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt chưa từng thấy
về khoa học công nghệ. Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, nhu cầu du lịch
tăng mạnh. Dòng khách du lịch thế giới có xu hướng chuyển từ các trung tâm
du lịch phát triển sang TTDL các nước đang phát triển. Đông Nam Á và khu
vực Đông Á - Thái Bình Dương là TTDL ngày càng thu hút số lượng lớn
khách du lịch đến các điểm du lịch tự nhiên và nền văn hóa truyền thống dân
tộc. Nơi đây trong những năm tới sẽ đón lượng khách du lịch quốc tế lớn.
3.3.2. Những hạn chế trong phát triển thị trường du lịch ở tỉnh
Luông Pra Băng và nguyên nhân
3.3.2.1. Những hạn chế
Thứ nhất, TTDL vẫn ở trình độ phát triển thấp. Cầu của du khách đa
dạng với nhiều đối tượng khác nhau, song chi tiêu của khách thấp dẫn đến
tổng lượng cầu trên thị trường không cao mặc dù số lượng du khách đến ngày
càng tăng. Chủ yếu vẫn là khách nội địa, khách chỉ tập trung vào một số khu
vực như: thành phố Luông Pra Băng, huyện Pạc U, Mường Ngoi, Phu Khun,
Chom Phết,... Từ nguồn thu thấp nên khả năng đóng góp cho ngân sách địa
phương hạn chế.
108
Quy mô và chất lượng cung còn hạn chế, chưa kích thích được cầu. Sự
hợp tác giữa các doanh nghiệp trong khai thác nguồn khách còn hạn chế. Một
số khách sạn, các dịch vụ bổ sung nghèo nạn, đơn điệu, chưa đáp ứng được
nhu cầu của du khách. Chất lượng phương tiện giao thông, bảo đảm an toàn
cho du khách còn bộc lộ nhiều thiếu sót. Đường giao thông vào các điểm du
lịch nhiều đoạn bị hư hỏng nhưng chưa được sửa chữa kịp thời. Hàng hóa,
dịch vụ du lịch trên thị trường chưa phong phú, chất lượng không đồng đều,
khả năng cạnh tranh thấp.
Giá cả và cạnh tranh trên thị trường còn nhiều vấn đề phải xem xét. Giá
cả hình thành theo cơ chế thị trường, vì mục tiêu lợi nhuận có hiện tượng tăng
giá. Vào mùa du lịch, đặc biệt mùa lễ hội, hiện tượng tranh mua, tranh bán với
các loại giá làm người tiêu dùng không xác định được giá trị của hàng hóa.
Cạnh tranh chủ yếu dựa vào các lợi thế truyền thống về lao động và tài
nguyên du lịch.
Quản lý nhà nước đối với TTDL và các hoạt động kinh doanh du lịch
vẫn còn bất cập, cơ chế phối hợp hoạt động lại thiếu đồng bộ, thống nhất nên
quá trình điều hành, chỉ đạo, quản lý khó khăn. Còn thiếu những cơ chế, chính
sách phù hợp với tình hình thực tế phát triển.
Thứ hai, thị trường vẫn chưa thu hút được các dự án đầu tư lớn cho các
sản phẩm du lịch cao cấp, hiệu quả đầu tư chưa cao. Đầu tư tập trung, thiếu
trọng điểm; đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng du lịch, bảo tồn,
tôn tạo tài nguyên du lịch còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu
cầu phát triển du lịch. Công tác xây dựng dự án gọi vốn đầu tư và việc huy
động các thành phần kinh tế tham gia phát triển thị trường còn chậm. Đầu tư
kinh doanh, xây dựng, kiến trúc hạ tầng cơ sở du lịch không theo quy hoạch,
không tuân thủ các thủ tục hành chính và kiến trúc đô thị, chưa nghiên cứu kỹ
quan hệ cung - cầu trên TTDL.
Thứ ba, lao động trên thị trường chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ một cách cơ bản, có hệ thống. Trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ, khả năng
giao tiếp thích ứng với cơ chế thị trường của người lao động chưa đáp ứng
109
được nhu cầu ngày càng tăng của du khách. Lao động hợp đồng theo thời vụ
thường có trình độ chuyên môn không cao, thiếu tính chuyên nghiệp. Đội ngũ
hướng dẫn viên du lịch trong tỉnh còn ít, tại một số nơi, hướng dẫn viên là trẻ
em tại địa phương không đảm bảo về mặt chất lượng và làm xấu đi hình ảnh
của điểm du lịch.
Thứ tư, công tác phối hợp hoạt động kinh doanh của các ngành, các cấp
và các doanh nghiệp trên TTDL chưa chặt chẽ, đồng bộ. Sự phối hợp hoạt
động kinh doanh du lịch với các ngành kinh tế khác trong tỉnh chưa được
thường xuyên và chặt chẽ cả trong nhận thức và hành động. Nhiều cơ sở,
điểm, khu du lịch đầu tư xây dựng chưa thật sự phối hợp nhịp nhàng giữa du
lịch với các ngành kinh tế khác như bưu chính viễn thông, điện, giao thông,
quân đội, công an,...
Thứ năm, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tại một số nơi
có xu hướng gia tăng. Tại một số địa phương trong tỉnh có tiềm năng du lịch
diễn ra tình trạng phát triển du lịch tự phát chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ.
Một số cơ sở kinh doanh không có giấy phép kinh doanh, kinh doanh sai mục
đích làm thất thoát nguồn thu cho ngân sách, trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà
nước và Chính quyền địa phương.
Hoạt động du lịch ồ ạt đã làm suy thoái tài nguyên du lịch. Tại một số
khu du lịch còn tình trạng nước bị nhiễm bẩn, vứt rác bừa bãi làm ảnh hưởng
đến môi trường tự nhiên. Diện tích rừng suy giảm, đất khu du lịch bị nhân dân
chiếm. Một số động vật quý hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt, núi đá vôi bị khai
thác hàng ngày với khối lượng không nhỏ. Sự bất hợp lý trong khai các tiềm
năng du lịch đôi khi dẫn đến phá vỡ cảnh quan môi trường sinh thái, tác động
không thuận lợi đến tài nguyên du lịch và thế bố trí chiến lược quốc phòng an
ninh của tỉnh.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, nền kinh tế Lào nói chung và tỉnh Luông Pra Băng nói riêng có
điểm xuất phát thấp, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập bình quân đầu
người thấp. TTDL Lào mới phát triển, chịu sức ép cạnh tranh khốc liệt trong khu
vực và trên thế giới. Trong những năm qua có nhiều biến động phức tạp tác động
110
tiêu cực đến TTDL Lào, trong đó có Luông Pra Băng như khủng hoảng kinh tế -
tài chính trên phạm vi toàn cầu, sự kiện chính trị vùng vịnh, nạn khủng bố, dịch
bệnh,... ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý du khách ở các thị trường nguồn.
Hai là, chưa đánh giá đúng vai trò của phát triển TTDL. Nhiều nơi chỉ
chú trọng đến vấn đề khai thác tài nguyên để phục vụ lợi ích kinh doanh trước
mắt, chưa quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững, nên hiệu quả kinh tế - xã
hội chưa cao, nhiều khi còn xâm hại tới lợi ích cộng đồng. Thiếu các chủ
trương lớn cho TTDL, chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển
chung của toàn ngành, cũng như sự gắn kết với các thị trường.
Ba là, khi xây dựng quy hoạch chưa tính toán hết sự vận động của thị
trường, nhất là những tác động đa chiều của quá trình hội nhập mở cửa của
nền kinh tế. Thiếu những biện pháp bảo đảm triển khai thực hiện quy hoạch
nên các mục tiêu cụ thể chưa đủ điều kiện để triển khai thực hiện hoặc thực
hiện chưa hiệu quả. Việc quản lý đất đai xây dựng công trình ở các điểm, khu
du lịch, các cơ sở lưu trú, hạ tầng kinh doanh du lịch còn tùy tiện. Việc xác
định trọng tâm, trọng điểm trong quy hoạch chưa rõ, đôi khi dàn trải. Không
tạo ra sản phẩm du lịch theo đúng tiến độ và mục tiêu đã quy hoạch.
Bốn là, trình độ dân trí, đời sống nhân dân vẫn còn thấp và chưa ổn
định. Khách du lịch nội địa phần lớn tự tổ chức các chuyến đi, họ chỉ dành
nguồn chi tiêu chủ yếu của mình cho lưu trú và ăn uống, các hoạt động du lịch
chưa được xã hội hóa cao. Công tác giáo dục tuyên truyền cho nhân dân hiểu
biết về môi trường, xã hội, pháp luật, quốc phòng an ninh cho nhân dân ở một
số địa phương còn đơn điệu, buông lỏng, có nơi hầu như không quan tâm đầu
tư thích đáng.
111
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG
ĐẾN NĂM 2025 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.1. BỐI CẢNH VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU
LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG ĐẾN NĂM 2025 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Dự báo bối cảnh và xu hướng phát triển thị trường du lịch ở
tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030
4.1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Bối cảnh quốc tế hiện nay và 10 năm tới vẫn có những diễn biến phức tạp.
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu du lịch toàn cầu tiếp tục
tăng cùng với sự chuyển dịch của dòng khách du lịch quốc tế đến khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương ngày càng gia tăng mở ra những cơ hội phát triển du lịch
của các nước ở khu vực này, trong đó có CHDCND Lào. Lào trở thành thành
viên chính thức của ASEAN năm 1997; là thành viên của WTO năm 2013;
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) năm 2015 và là thành viên của nhiều tổ chức
du lịch quốc tế quan trọng như: UN-WTO, UNESCO, tổ chức hợp tác quốc tế
Đức (GIZ), Liên minh châu Âu (EU), tổ chức phát triển Hà Lan (SNV),
PATA,v.v...Vị thế của Lào trên trường quốc tế được cải thiện và khẳng định rõ
rệt, đã tạo nhiều điều kiện để du lịch Lào phát triển. Xu hướng phát triển kinh tế
tri thức trên toàn cầu đi liền với việc mở rộng công nghệ cao, đặc biệt công nghệ
thông tin, truyền thông, công nghệ mạng và mở ra nhiều cơ hội cho hoạt động du
lịch toàn cầu.
Năm 2013, CHDCND Lào được chọn là quốc gia được truy cập nhiều
nhất trên thế giới từ Liên minh Du lịch Châu Âu và đã tổ chức lễ trao giải
ngày 9/5/2013 tại thủ đô Viêng Chăn. Vẫn đề này đã tạo ra vai trò mớicho
CHDCND Lào trên trường quốc tế [1, tr.7].
Tuy nhiên, các bất ổn về chính trị, kinh tế cũng như về an ninh giai đoạn
này cũng diễn ra trên diện rộng. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh
112
chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ để phát triển, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục
là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược
ngày càng quan trọng... là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn,
có nhiều nhân tố bất ổn. Thế giới phải đối mặt với tác động khó lường của biến
đổi khí hậu, thảm hoạ thiên nhiên ngày một trầm trọng. Vấn đề khủng hoảng tài
chính, khoa học và công nghệ, vấn đề việc làm,v.v... Những yếu tố có tính ảnh
hưởng toàn cầu trên đã tác động đến cầu du lịch và các dòng khách du lịch
quốc tế, tác động cả tích cực và tiêu cực đối với du lịch.
4.1.1.2. Dự báo và xu hướng phát triển thị trường du lịch của nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Ngày nay, tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới tăng rất nhanh, đời
sống và thu nhập dân cư ngày càng cao, nhu cầu mọi mặt trong đời sống ngày
một tăng theo, trong đó nhu cầu du lịch trở thành thiết yếu trong đời sống xã hội.
Trong nước, tình hình chính trị, xã hội ổn định, kinh tế vĩ mô tăng
trưởng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường đầu tư
mở rộng quy mô phát triển hướng xuất khẩu, định hướng tái cơ cấu nền kinh
tế, ổn định chính sách vĩ mô, hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện,
uy tín và vị thế chính trị, ngoại giao quốc tế của Lào ngày được tăng cường.
Kết quả tăng trưởng kinh tế liên tục nhiều năm với tốc độ cao đã đưa Lào
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và từng bước hội nhập với khu vực và quốc
tế. Các thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao đã ngày càng khẳng
định vị thế của Lào trên trường quốc tế. Lào đã đủ khả năng đăng cai và tổ
chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như: SEA GAMES 25, Hội nghị
ASEM lần thứ 9 và các Hội nghị quan trọng khác; Lào chính thức trở thành
thành viên của Tổ chức WTO ngày 2/2/2013, v.v... đã mở ra những cơ hội và
tạo điều kiện cho các ngành kinh tế, trong đó có du lịch tăng trưởng. Năm
1999, cả nước đã tổ chức lễ du lịch toàn quốc là sự kiện trọng đại khẳng định
vị thế, tầm vóc, tiềm lực và những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của Lào suốt chặng đường lịch sử vừa qua. Dấu mốc quan trọng đó đưa
Lào chuyển mình bước sang thời kỳ mới, phát triển lên tầm cao mới.
113
Tuy nhiên, trong đó nhiều ngành, lĩnh vực chưa có quy hoạch do vậy
tính đồng bộ và hiệu quả thực hiện quy hoạch chưa cao. Nhiều chỉ tiêu phát
triển đặt ra trong quy hoạch với tâm thái lạc quan vượt xa thực tế đạt được vì
vậy không đạt được. Nhiều tác động tiêu cực của quá trình tăng trưởng chưa
dự liệu và chưa đánh giá được là những bài học kinh nghiệm quý báu được rút
ra trong giai đoạn phát triển vừa qua. Năm 2010, nước Lào đã kết thúc thực
hiện chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 2005 - 2010 và
bước sang giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức mới.
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Lào giai đoạn 2006 - 2010 được
Đảng và Nhà nước chỉ rõ tại chỉ dẫn và chức năng phát triển kinh tế - xã hội 5
năm lần thứ VI đối với các tỉnh miền Bắc: "Là khu có nhiều điều kiện thuận
lợi, phong phú với nông nghiệp - lâm nghiệp, xây nhà máy điện thủy, khoáng
sản, du lịch và với vị trí địa lý gắn với 4 quốc gia lân cận như: Trung Quốc,
Việt Nam, Thái Lan và Myan ma".
Đẩy mạnh việc du lịch sinh thái tại 3 tỉnh như: "tỉnh Luông Năm
Tha, tỉnh Bo Kẹo và tỉnh Xay Nhạ Bu Ly; du lịch lịch sử tại 2 tỉnh
như: Tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Hua Phăn và du lịch văn hóa ở tỉnh
Luông Pra Băng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất thu lợi
nhuận tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo [19, tr.118-119].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: "Phải tiếp tục các đột phá
để xây dựng cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi đưa đất nước thoát khỏi nước
kém phát triển trong năm 2020 và tiếp tục tiến lên bền vững theo con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội". Định hướng chiến lược phát triển cho thập kỷ tới với
chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng, chuyển
dần sang phát triển về chiều sâu có chất lượng, hiệu quả và bền vững. Cụ thể
là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải thông qua 4 đột phá như: (1) Đột
phá về mặt tư duy; (2) Đột phá về phát triển nguồn nhân lực; (3) Đột phá về
việc giải quyết hệ thống cơ chế, chế độ, cải cách thủ tục hành chính Nhà
nước; (4) Đột phá trong việc giải quyết xóa nghèo cho nhân dân với khai thác
114
các nguồn vốn và tạo chính sách đặc biệt, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội có mục tiêu.
Về TTDL, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: "Đẩy mạnh du
lịch sinh thái, văn hóa và lịch sử có nhiều loại hình, đầy màu sắc, trở thành khu
du lịch xanh và tính bền vững với sự tham gia của nhân dân" [20, tr.69; 77].
Nhờ đó, du lịch trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn và đầy cơ hội,
TTDL phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu. Trong những năm tới TTDL quốc tế
có những biến động cơ bản như: khách du lịch có xu hướng đi du lịch ở Châu
Á, họ hướng tới du lịch thiên nhiên, tìm hiểu văn hóa lịch sử,...và lựa chọn
những điểm du lịch được cho là đảm bảo an toàn. Đồng thời, sự tăng trưởng
kinh tế ở khu vực này làm thay đổi thị trường khách toàn cầu. Xu thế phát
triển chủ yếu của TTDL thế giới sẽ như sau:
Một là, quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa thúc đẩy cung và cầu du
lịch đang tăng lên, do đó các doanh nghiệp liên kết nhau mạnh mẽ để cùng tồn
tại trong cạnh tranh và trở thành xu thế phổ biến.
Hai là, sự phát triển của sản phẩm du lịch và phân khúc thị trường ngày
càng đa dạng do có sự tham gia của nhiều quốc gia vào hoạt động du lịch.
Ba là, xúc tiến quảng bá du lịch được mở rộng và có hiệu quả hơn nhờ
sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin đã
tạo khả năng cao trong lựa chọn sản phẩm du lịch, du khách dễ dàng tiếp cận
với người cung cấp dịch vụ du lịch. Đây là hoạt động vô cùng quan trọng
mang tính sống còn đối với doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ du lịch
cũng như với ngành du lịch nói chung và của một đất nước.
Bốn là, nhu cầu của khách đa dạng và phức tạp với sự gia tăng nhu cầu
du lịch về tham quan, tìm hiểu văn hóa lịch sử dân tộc và thám hiểm; du lịch
xanh, du lịch sinh thái, môi trường đang phát triển mạnh tại các quốc gia.
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là một quốc gia nằm ở trung tâm khu
vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, do lợi thế về địa lý, kinh tế - chính trị và tài
nguyên cũng như vai trò, vị trí của Lào trong hợp tác khu vực, TTDL có nhiều
điều kiện thuận lợi để tăng cường phát triển trong xu thế hội nhập của khu
115
vực và thế giới. Trong những năm tới, xu thế phát triển TTDL nội địa có
những điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, TTDL nội địa là thị trường đem lại cho du khách nhiều hứng
thú với những sản phẩm du lịch đặc trưng, giá cả hàng hóa rẻ hơn nhiều so với
các nước, hàng hóa tiêu dùng và mỹ nghệ phong phú, đa dạng hơn.
Thứ hai, do tập trung phát triển TTDL quốc tế chủ động nên thị trường
cung cấp hàng hóa, dịch vụ tăng dẫn đến khả năng cạnh tranh giữa những
người bán ngày càng tăng.
Thứ ba, đây là nơi thu hút nhiều tư bản nước ngoài đầu tư vào xây dựng
các cơ sở lưu trú. Sự tham gia của các hãng du lịch vào TTDL ngày càng tăng
do việc Lào gia nhập WTO. Mối quan hệ hợp tác kinh doanh với các nước
trong phát triển TTDL ngày càng mở rộng.
Như vậy tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ ra:
Tầm nhìn đến năm 2030 của CHDCND Lào tạo ra một con đường
mới để phát triển trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao
theo con đường kinh tế khôn hoan, xanh và bền vững; thu nhập bình
quân đầu người tăng hơn 4 cấp so với năm 2015; có một ngành công
nghiệp trụ cột và có cơ sở hạ tầng kinh tế mạnh mẽ để chuyển thành
công nghiệp hiện đại, kinh tế thị trường theo con đường chủ nghĩa
xã hội đã được thực hiện một cách có hệ thống; đảm bảo an ninh trật
tự xã hội; dân chủ, màu sắc và sự công bằng; Môi trường được bảo
vệ và tài nguyên thiên nhiên được quản lý, sử dụng có hiệu quả và
bền vững; có khả năng liên kết với các nước trong khu vực và thế
giới [21, tr.84].
Thực hiện chiến lược đến năm 2025, tại tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X đã chỉ rõ:
Nâng cao chất lượng sản xuất; sử dụng khoa học công nghệ hiện
đại, sạch sẽ và thân thiện với môi trường, có cơ sở hạ tầng hiện đại
và có thể phê duyệt kết nối với các nước trong khu vực và thế giới.
Sự chuyển đổi công nghiệp tập trung vào ngành công nghiệp trụ cột
116
như: điện lực, nông nghiệp, khoáng sản, du lịch và các ngành khác
như: ngân hàng, viễn thông, dịch vụ,… [21, tr.88].
Năm 2020 tổng GDP có tốc độ tăng trưởng trung bình không giảm
7,5%/năm, trong đó: ngành nông nghiệp tăng lên trung bình 3,2%,
chiếm khoảng 19% của GDP; ngành công nghiệp tăng lên 9,3%, chiếm
32% và ngành dịch vụ tăng lên 8,9%, chiếm 41% của GDP. Thu nhập
bình quân đầu người khoảng 3.190 USD trongnăm 2020 [21, tr.91].
Để thực hiện nội dung tầm nhìn và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước theo đường lối của Đảng. Bộ thông tin văn hòa và Du lịch đã
khẳng định tầm nhìn đến năm 2030 về việc thông tin, văn hóa và du lịch là
"Phát triển việc thông tin, văn hóa và du lịch có chất lượng, nhanh, xa, chuyển
thành ngành công nghiệp hiện đại, an toàn và thúc đẩy sự tham gia của xã hội
để bền vững". Về tầm nhìn và chiến lược phát triển trong việc thông tin, văn
hóa và du lịch CHDCND Lào là:
- Về thông tin: "Phát triển việc thông tin có chất lượng toàn diện, cải
thiện dịch vụ truyền thông cho đa dạng và hiện đại, có thể truy cập đến nguồn
thông tin ở mọi lúc mọi nơi".
- Về văn hóa: "Bảo tồn, bảo vệ, kết vi, khôi phục và nâng cao giá trị của
các giá trị di sản văn hóa của đất nước cho bền vững, cấp nhật và phát triển sản
phẩm văn hóa cho phong phú, góp phấn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước".
- Về du lịch: "Phát triển và đẩy mạnh ngành du lịch trở thành ngành
công nghiệp hiện đại, đầy đủ và là ngành kinh tế hàng trước để góp phần xây
dựng kinh tế - xã hội ở mức độ nhất định".
- Về quản lý: "Phát triển hệ thống quản lý, tổ chức và nguồn nhân lực, đào
tạo cán bộ của các ngành, đảm bảo cả số lượng và chất lượng, lập kế hoạch phát
triển việc thông tin, văn hóa và du lịch có mục đích và khoa học" [1, tr.56- 57].
Trong bối cảnh đất nước với những thành tựu đạt được hơn 30 năm về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng an ninh. Đảng và Nhà nước
luôn coi phát triển ngành du lịch là hướng chiến lược quan trọng trong đường
lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện
117
đại hóa đất nước. Chiến lược phát triển ngành du lịch Lào xác định: phát triển
du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu
quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy
động tối đa nguồn lực trong nước. Từng bước đưa đất nước trở thành trung
tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2025 du lịch Lào được
xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch khởi sắc và năng động trong khu
vực, đến năm 2030 đưa du lịch Lào trở thành ngành du lịch phát triển hàng
đầu trong khu vực.
4.1.1.3. Nhiệm vụ kinh tế - xã hội và khả năng phát triển thị trường
du lịch của tỉnh Luông Pra Băng
Trong xu thế chung của TTDL thế giới, của khu vực và nội địa, TTDL
Luông Pra Băng có nhiều cơ hội do nhu cầu du lịch tăng mạnh, song cũng
đứng trước không ít thách thức do khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Dự báo
đến năm 2025, Luông Pra Băng đón khoảng 760.000 lượt khách/năm, trong
đó khách quốc tế chiếm khoảng 73%. Để đáp ứng được yêu cầu của thị
trường đòi hỏi phải xây dựng được hệ các quan điểm và phương hướng khoa
học công nghệ phù hợp.
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến quá trình đầu
tư, thúc đẩy cung - cầu trên TTDL. Sự phát triển của các ngành kinh tế có vai
trò quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh du lịch phát triển. Đồng thời sự
phát triển của kinh tế du lịch sẽ góp phần tiêu thụ khối lượng lớn các sản
phẩm của những ngành kinh tế, tạo nên sự hoạt động mạnh của thị trường nói
chung, trong đó có TTDL. Cùng với sự phát triển của kinh tế, lĩnh vực văn
hóa - xã hội ở tỉnh Luông Pra Băng phải có những bước chuyển biến tích cực.
Công tác văn hóa thông tin có nhiều hoạt động thiết thực góp phần nâng cao
dân trí và đời sống tinh thần cho nhân dân. Giáo dục và đào tạo phát triển cả
về số lượng và chất lượng, tỷ lệ học sinh đã tốt nghiệp và đại học cao, công
tác y tế có nhiều tiến bộ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được cải thiện.
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định.
Những khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng tại các khu, điểm
công nghiệp, du lịch đang từng bước được tháo gỡ; môi trường đầu tư được
118
cải thiện. Việc triển khai cải cách hành chính, chống tham nhũng thời gian
qua được đẩy mạnh và có nhiều kết quả. Đó là môi trường tốt thúc đẩy các
hoạt động sản xuất kinh doanh, các quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển. Quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của Luông Pra Băng cũng đồng thời là quá
trình ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ trong
các ngành kinh tế, nhân tố trực tiếp góp phần làm nảy sinh nhu cầu và hoạt
động du lịch. Mức thu nhập của mỗi người lao động, đời sống vật chất, tinh
thần không ngừng nâng cao là tiền đề tăng thêm khả năng hiện thực để con
người tham gia hoạt động du lịch, tạo cho TTDL có bước phát triển.
Các hệ thống kết cấu hạ tầng phải đồng bộ để đón tiếp du khách của
mọi quốc gia, mọi địa phương. Đây là điều kiện quan trọng để tạo nên giá trị
sản phẩm và phát triển TTDL của tỉnh Luông Pra Băng trong những năm tới.
4.1.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển thị trường du lịch tỉnh
Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030
4.1.2.1. Mục tiêu phát triển
Từ thực tiễn và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của
tỉnh, nghiên cứu sinh xác định mục tiêu đến năm 2025, du lịch tỉnh Luông Pra
Băng cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch
chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc
văn hoá, thân thiện với môi trường và cạnh tranh được với các nước trong khu
vực và thế giới. Phấn đấu đến năm 2025, Luông Pra Băng trở thành một tỉnh có
ngành du lịch phát triển, là điểm đến hấp dẫn, có đẳng cấp trong nước và khu vực.
- Phát triển TTDL phù hợp với mục tiêu phát triển du lịch và đường lối
phát triển kinh tế - xã hội
Trong chiến lược phát triển du lịch của Lào cũng như trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2025 đều có chủ trương phát triển
du lịch Luông Pra Băng tương xứng với tiềm năng sẵn có để trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn. Sự phát triển của TTDL phải hướng tới mục tiêu phát triển
du lịch và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Luông Pra Băng:
119
Thứ nhất: phát triển ngành kinh tế du lịch năng động, đưa du lịch của
tỉnh Luông Pra Băng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Du lịch Luông Pra Băng không những phát
triển mạnh trong thị trường nội địa mà còn là một trong những điểm đến hấp
dẫn của đất nước Lào trong con mắt bạn bè quốc tế. Phát triển du lịch Luông
Pra Băng tương xứng với vị thế trong ngành du lịch Lào và trong tỉnh.
Thứ hai: đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội trong phát triển TTDL, tạo
nhân tố kích thích sản xuất kinh doanh các ngành liên quan như: mạng lưới
điện, nước, ngân hàng, giao thông vận tải và các dịch vụ công khác của xã
hội; tạo thêm công ăn việc làm; phát triển TTDL sinh thái, cảnh quan, văn hóa
lễ hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đóng góp ngày
càng nhiều vào thu nhập của địa phương và góp phần xóa đói giảm nghèo.
Thứ ba: phát triển TTDL gắn với thúc đẩy phân công lao động xã hội,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách trong nước và quốc tế. Các khu,
các điểm du lịch trong tỉnh tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp. Đóng
góp một phần kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, phấn đấu đến năm
2025 tỷ trọng dịch vụ của tỉnh đạt khoảng 50% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Thứ tư: TTDL là bộ phận của nền kinh tế thị trường, phát triển TTDL
phải đặt trong mối quan hệ và phát triển đồng bộ với các thị trường khác như:
thị trường tài chính, thị trường bất động sản và thị trường lao động.
- Phát triển TTDL phải đảm bảo bền vững và hiệu quả; Trước hết là
bền vững về môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội. Phát triển TTDL phải
đồng thời đạt được hiệu quả và nhiều mặt kinh tế, chính trị, quốc phòng an
ninh, văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc. Gắn liền phát triển TTDL với tăng trưởng kinh tế, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.
Đối với tỉnh Luông Pra Băng, phát triển TTDL bền vững nhằm khai
thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch sẵn
có, kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường sống, tôn
120
tạo và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, ngăn chặn kịp thời những tác động
tiêu cực từ phát triển TTDL đến môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Quá trình khai thác các nguồn lực để phát triển TTDL trong tỉnh không
làm biến dạng môi trường. Phát triển TTDL theo nguyên tắc bảo vệ và phát
huy truyền thống bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa
nhân loại, tránh du nhập những văn hóa phẩm độc hại,... Từ đó, trong mục
tiêu phát triển TTDL, Luông Pra Băng đã xác định tầm nhìn phát triển và đẩy
mạnh du lịch tỉnh Luông Pra Băng là:
Bảo vệ Thành phố Di sản Thế giới Luông Pra Băng để bền vững và
phát triển giữ giá trị, thúc đẩy văn hóa địa phương, bảo vệ môi trường
và đa dạng sinh học, tạo Luông Pra Băng trở thành trung tâm điểm đến
du lịch của Lào và khu vực, cùng với việc thúc đẩy nền kinh tế của
tỉnh có sự tăng trưởng liên tục, tạo công ăn việc làm cho người dân địa
phương và mang mầu sắc sống động vào xã hội [26, tr.120].
Phát triển TTDL đạt hiệu quả cao về kinh tế gắn với mục tiêu xây
dựng, duy trì nền văn hóa truyền thống, bảo tồn cũng như khai thác hiệu quả
các nguồn lực khác; gắn liền với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người dân trong tỉnh. Tạo môi trường xã hội thân thiện cho hoạt động du
lịch, đặc biệt là môi trường văn hoá, xã hội đối với khách du lịch quốc tế.
Thông qua hoạt động du lịch trên thị trường tăng cường giao lưu giữa các nền
văn hóa đối với nền văn hóa dân tộc.
- Phát triển TTDL gắn với hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế
tri thức: Hiện nay tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới tăng rất nhanh. Tri
thức của những ngành công nghệ cao trở thành yếu tố quyết định nhất đối với
sự phát triển, dẫn đến sự thay đổi toàn diện trong các quan hệ chính trị, kinh
tế và văn hóa - xã hội. Quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa thúc đẩy cung
và cầu du lịch đang tăng lên, do đó các doanh nghiệp liên kết nhau mạnh mẽ
để cùng tồn tại. Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển. Chi phí
vận tải liên lạc càng giảm đi thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng
tăng, thương mại toàn cầu có khả năng phát triển.
121
Sức ép của thị trường toàn cầu sẽ tác động đến thể chế kinh tế - xã hội
của quốc gia, buộc các thể chế phải thích ứng với thể chế thị trường toàn cầu.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang tác
động mạnh mẽ tới thị trường quốc gia dân tộc. TTDL Luông Pra Băng đang
đối mặt với những cơ hội và không ít thách thức đòi hỏi phải xây dựng được
chiến lược hội nhập có tính khả thi cao, gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Đây là quan điểm phù hợp với xu thế chung của thời đại và cũng là yêu đặt ra
đối với nền kinh tế thị trường ở Lào hiện nay.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong phát
triển TTDL Luông Pra Băng: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Lào hiện nay được xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa các loại hình và
hình thức sở hữu. Phát triển TTDL Luông Pra Băng gắn với việc đa dạng hóa
sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế, bố trí hợp lý phạm vi hoạt động
của các loại hình doanh nghiệp, đồng thời xây dựng và thực hiện cơ chế chính
sách kinh tế theo hướng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các loại
hình doanh nghiệp trên địa bàn.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là nơi làm giàu cho nền
kinh tế. Sứ mệnh của họ là sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Trên TTDL,
mỗi loại hình doanh nghiệp đóng vai trò nhất định trong quá trình phát triển
nền kinh tế. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, cần nhấn
mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác đã đầu tư lượng vốn không nhỏ trên thị trường, nhất là trong kinh doanh
lữ hành, lưu trú, ăn uống,v.v... Sự hoạt động của các doanh nghiệp này đã đáp
ứng nhu cầu của du khách, đem lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế
trong phát triển TTDL, Luông Pra Băng đang có những chủ trương, chính
sách nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế để phát
triển DL thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có
hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử.
122
- Phát triển TTDL phải gắn với việc bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội: Luông Pra Băng nằm ở Bắc Lào, là cửa ngõ của các tỉnh miền
Bắc, trong thế bố trí chiến lược quân sự, quốc phòng an ninh của đất nước.
Luông Pra Băng có hệ thống đường bộ, đường hàng không, đường sông nối qua
các tỉnh miền Bắc và thủ đô Viêng Chăn. Địa bàn tỉnh Luông Pra Băng phần lớn
là đồng núi cao, vùng rừng núi, ít đồng bằng, vùng trung du. Vùng rừng núi có
nhiều điều kiện để xây dựng căn cứ, kho tàng và nơi tụ quân, phát triển lực
lượng, có hậu cứ tránh ẩn tốt. Trong thời kỳ chiến tranh, đây cũng là vùng chiến
khu của cách mạng. Với địa thế như vậy, tạo cho tỉnh Luông Pra Băng có vị trí
chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng an
ninh như: Chiến tranh Năm Bạc, Phu Khun, Pạc Xeng, Mương Ngoi,...
Quan điểm phát triển TTDL Luông Pra Băng gắn với việc bảo đảm an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, vấn đề là mở rộng thị trường, nâng cao
khả năng chiếm lĩnh TTDL, thúc đẩy quan hệ hàng hóa - tiền tệ phải không
làm ảnh hưởng đến chiến lược quốc phòng an ninh. Phải có sự kết hợp giữa
kinh tế với quốc phòng an ninh. Việc bảo vệ công trình quốc phòng và khu
quân sự phải gắn liền với việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, văn hóa và di
tích lịch sử, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân,
đồng thời phải giữ vững trật tự an toàn xã hội.
4.1.2.2. Phương hướng phát triển
Từ những yếu tố tác động tới TTDL, trong những năm tới và đến năm
2025, TTDL Luông Pra Băng phát triển theo những phương hướng sau:
- Phát triển TTDL theo không gian lãnh thổ, khai thác tối đa lợi thế
từng vùng: Luông Pra Băng gắn liền với sự phát triển không gian kinh tế - xã
hội của tỉnh và mối quan hệ trong phát triển với các lãnh thổ lân cận. TTDL tổ
chức theo không gian lãnh thổ Luông Pra Băng được đưa trên các điều kiện
về tài nguyên du lịch để tạo ra các thị trường chuyên môn hóa mang tính đặc
thù của tình hình theo vùng, theo cụm du lịch chính như:
+ Vùng 4 huyện Bắc gồm có: huyện Năm Bạc; Mương Ngoi; Viêng
khăm và huyện Phôn Thong. Xác định và tập trung vào du lịch sinh thái và
một số du lịch văn hóa và lịch sử.
123
+ Vùng 5 huyện Trung gồm có: thành phố Luông Pra Băng; huyện Pạc
U; Pạc Xeng; Phôn Xay; Chom Phết. Tập trung phát triển các sản phẩm chủ yếu
như: dịch vụ vui chơi giải trí, thương mại, văn hóa, du lịch làng nghề,... Phương
hướng cự thể là: thành phố Luông Pra Băng xác định là trung tâm du lịch của tỉnh,
tập trung phát triển các sản phẩm du lịch mua sắm, trung tâm hội thảo, hội nghị,
du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch vui chơi giải trí, v.v... Huyện Chom Phết
và huyện Pạc U, tập trung phát triển du lịch văn hóa; du lịch sinh thái và các du
lịch lịch sử như: các làng nghề, các chùa, các khu du lịch lịch sử và du lịch sinh
thái,…tập trung khai thác các tuyến du lịch trên sông Me Khong. Huyện Pạc
Xeng và huyện Phôn Xay, tập trung khai thác và phát triển khu du lịch văn hóa và
du lịch sinh thái, tập trung phát triển khu vui chơi giải trí, các điểm có tài nguyên
nổi bật cần tập trung phát triển du lịch như: các làng nghề, các chùa, các thác, các
hang và sông suối và đi bộ qua các rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
+ Vùng 3 huyện Nam gồm có: huyện Xiêng Ngân; Mương Nan; Phu Khun.
Tập trung phát triển du lịch sinh thái; du lịch văn hóa và lịch sử,… tập trung khai
thác các tuyến du lịch theo đường quốc lộ số 13 là trục giao thông chính nối với
thủ đô Viêng Chăn và quốc lộ số 8 nối liền với tỉnh Xay Nhạ Bu Ly, Thái Lan.
- Phát triển TTDL theo từng loại sản phẩm đặc trưng của tỉnh
Thị trường du lịch thường có định hướng tài nguyên lớn, sản phẩm chủ
yếu được xây dựng dựa trên nguồn tài nguyên. Căn cứ vào tiềm năng, thế
mạnh tài nguyên du lịch, xu hướng của đầu tư du lịch, phương hướng phát
triển TTDL Luông Pra Băng theo từng loại sản phẩm đặc trưng sau:
Một là, TTDL văn hóa - lịch sử: Bên cạnh việc tôn tạo, củng cố những
sản phẩm hiện có, tập trung phát triển sản phẩm mới để thu hút khách, nhất là
khách quốc tế. Chủ yếu trên TTDL là dịch vụ du lịch lễ hội, du lịch văn hóa,
tham quan di tích lịch sử văn hóa. Các điểm du lịch sẽ được kết nối và tổ chức
hoạt động du lịch một cách hợp lý mang lại cho sản phẩm du lịch đa dạng và
mức độ hấp dẫn cho khách.
Hai là, TTDL sinh thái: Phát triển TTDL này là phương hướng phát
triển phù hợp với quan điểm bền vững với các sản phẩm chủ yếu là du lịch tự
124
nhiên, nghỉ dưỡng: khu du lịch Thác Koảng Si, Sé (huyện Luông Pra Băng),
thác Ka Chăm (Xiêng Ngân), thác Hiền (huyện Nan), thác Hói Khủa (huyện
Chom Phết), thác Lè, thác Bàng (huyện Năm Bặc),...
Ba là, TTDL thể thao và vui chơi giải trí: Phát triển TTDL này, phương
hướng tập trung mở rộng nhằm đa dạng hóa sản phẩm và giảm tính mùa vụ,
thu hút khách quốc tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sản phẩm chủ yếu trên
thị trường là các loại hình thể thao cao cấp như: sơn golf, đua thuyền; các khu
vui chơi giải trí hiện đại,v.v...
- Phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành trong phát triển TTDL.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường là yêu
cầu của chính bản thân các hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa dịch vụ du
lịch. TTDL có phát triển và thu được hiệu quả kinh tế - xã hội hay không là
nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế. Coi phát
triển du lịch, mở rộng TTDL là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các đoàn
thể và toàn xã hội do tính chất liên quan từ hoạch định chính sách đến quy
hoạch, thực thi dự án cụ thể. Trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện
quy hoạch, kế hoạch cần có sự tham gia của các thành phần có liên quan.
Đòi hỏi phải xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành; xây dựng mục tiêu hành
động chung để giải quyết có hiệu quả những vấn đề về quản lý phát triển
TTDL như: xúc tiến quảng bá, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; đảm bảo
công tác an ninh trật tự cho du khách và kiểm soát các tệ nạn xã hội,...
- Phát triển TTDL nội địa gắn với TTDL quốc tế, đa dạng hóa các yếu tố
nguồn lực. TTDL mang tính toàn cầu hóa cao. Phát triển TTDL nội địa song
song với hợp tác, mở rộng TTDL quốc tế là phương hướng tất yếu khách quan
nhưng phải luôn giữ đúng nguyên tắc hoạt động kinh tế đối ngoại. Vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa, con người,... tất cả đều làm cho Luông Pra
Băng nổi bật là tỉnh có tiềm năng lớn về nhiều sản phẩm du lịch như: du lịch lễ
hội, sinh thái, thắng cảnh và du lịch làng nghề,... Các sản phẩm du lịch này đều
rất thích hợp và tiện lợi cho khách hàng trong và ngoài nước. Nếu thu hút được
nguồn lực trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển thì sẽ thu được hiệu quả
rất lớn.
125
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế về du lịch đối với Luông Pra Băng
cũng là quá trình khai thông TTDL bên ngoài, trước hết là thị trường các nước
trong khu vực và trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài cùng với công nghệ
mới, tri thức mới, ý tưởng mới,… Đó chính là cơ sở cho sự phát triển TTDL
trong nền kinh tế hiện đại. Thị trường càng mở rộng càng lớn, đặc biệt trong
điều kiện dung lượng thị trường nước Lào còn đang nhỏ hẹp.
- Phát triển TTDL theo từng giai đoạn. Trong giai đoạn năm 2015 -
2020: Cầu trên TTDL tăng trưởng trung bình do quá trình đầu tư vào cơ
sở hạ tầng và xây dựng các khu, điểm du lịch lớn đang trong thời gian
thực hiện, nguồn tài nguyên du lịch bắt đầu được quan tâm khai thác toàn
diện lớn. Trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng sẽ xây dựng sản phẩm mới có
giá trị lớn là khu du lịch di sản văn hóa thế giới thành phố Luông Pra
Băng, du lịch sinh thái, lịch sử, văn hóa huyện Xiêng Ngân, Mương Ngoi,
Chom Phết, Pạc U, Phu Khun,... có quy mô lớn do một công ty hoặc thuộc
các đối tượng, thuộc các thành phần kinh tế tập hợp lại xây dựng khai thác
và quản lý.
Giai đoạn năm 2020 - 2025: phát triển mạnh về TTDL, cầu du lịch tăng
trưởng đột biến, cơ cấu khách du lịch đa dạng, phức tạp; cung cơ sở vật chất,
hạ tầng du lịch tăng nhanh. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch mạnh theo
hướng dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp. Luông Pra Băng trở thành trung tâm
nhận khách phát triển song song cùng thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn và
các tỉnh khác. Các điểm có thế mạnh về nguồn tài nguyên đã được khai thác
triệt để, tạo ra nhiều sản phẩm mới. chất lượng cao. Nguồn vốn đầu tư trên
TTDL ngày càng tăng thu hút các tập đoàn du lịch quốc tế đặt trụ sở tại Luông
Pra Băng. Mức độ cạnh tranh trên thị trường càng trở nên gay gắt.
4.2. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU
LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG
Để tiếp tục đẩy nhanh sự phát triển của TTDL trong những năm trước
mắt và đến năm 2025 theo quan điểm, phương hướng và các mục tiêu trên,
cần tập trung vào những giải pháp sau:
126
4.2.1. Mở rộng đầu tư phát triển thị trường du lịch
Ngoài yếu tố tiềm năng du lịch, trình độ quản lý thì hiệu quả phát triển
TTDL phụ thuộc rất lớn nguồn vốn đầu tư, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch và nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng. Để xây dựng
được kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển TTDL, cần tập
trung vào những vấn đề cơ bản như sau:
Một là, đầu tư phát triển TTDL phải kết hợp việc sử dụng nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách Nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước
ngoài và huy động nguồn lực trong nhân dân. Thực hiện phương châm xã hội
hóa trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư nhằm khai thác các thế mạnh
sẵn có, nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phát triển
TTDL. Cần huy động tối đa các nguồn vốn trong nước và nước ngoài.
- Nguồn vốn trong nước, trước hết là đầu tư từ ngân sách Nhà nước nên
tập trung ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại các trọng điểm phát triển
du lịch, các khu du lịch tổng hợp, khu du lịch chuyên đề và các điểm du lịch
tiềm năng; bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước xếp
hạng, phát triển công tác tuyên truyền, quảng bá xúc tiến phát triển du lịch và
đào tạo nghề. Tỉnh Luông Pra Băng cần có chính sách và giải pháp nhằm tập
trung đầu tư từ nguồn vốn ngân sách của tỉnh theo hướng đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm. Đồng thời tranh thủ các nguồn vốn từ chương trình hành
động quốc gia về du lịch để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, quảng bá, phát triển
nguồn nhân lực.
Đối với vốn đầu tư của doanh nghiệp và trong dân cư, cần hình thành
huy động vốn dưới hình thức cổ phần thông qua thị trường chứng khoán, tăng
cường góp phần vốn liên doanh, liên kết của các nhà đầu tư trên cơ sở Luật
đầu tư để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống dịch vụ như:
khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng cao cấp và các phương tiện vận chuyển. Cần
phải coi đây là nguồn vốn ưu tiên cho chiến lược phát triển lâu dài, nhất là
vốn của các doanh nghiệp nhà nước.
127
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài, coi trọng huy động vốn viện trợ phát
triển chính thức (ODA) và vốn vay các ngân hàng nước ngoài của các nhà cung
cấp vốn đang chiếm tỷ trọng lớn ở Lào như: Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan,
ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB),... Khi tiếp nhận
vốn phải cân nhắc thận trọng từng điều khoản để tránh bị lệ thuộc. Khi sử dụng
nguồn vốn cần chú ý sử dụng hệ thống quản lý chặt chẽ của cơ quan tài chính,
cơ quan kiểm toán. Khai thác nguồn vốn từ các chương trình hợp tác quốc tế
của Nhà nước để tăng cường đầu tư cho hoạt động du lịch của tỉnh. Đối với
nguồn vốn FDI, thực hiện liên doanh trong điều kiện chúng ta thiếu vốn, thiếu
kinh nghiệm quản lý.
Hai là, đầu tư có trọng điểm, xây dựng danh mục các dự án và kêu gọi
vốn đầu tư.
- Tập trung kêu gọi và thu hút đầu tư vào các dự án ưu tiên của tỉnh về
phát triển du lịch, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, có sức hút cao với các
nhà đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài. Trong danh mục các dự án đầu tư này cần
xác lập những lĩnh vực đầu tư như: đầu tư cho các công trình dịch vụ du lịch, cơ
sở lưu trú, khu vui chơi giải trí, trung tâm thương mại, xử lý môi trường, tôn tạo
các di tích văn hóa lịch sử và các lễ hội truyền thống,v.v... Kết hợp đầu tư nâng
cấp các điểm tham quan du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch với đầu tư cho
tuyên truyền, quảng bá và đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Công bố, giới thiệu rộng rãi, chủ động tìm mọi nhà đầu tư, nhất là các
nhà đầu tư chiến lược vào thực hiện các dự án tại các khu du lịch như: khu di
tích lịch sử văn hóa, du lịch sinh thái và làng nghề thủ công truyền thống có
giá trị cao được xác định là có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển du
lịch của tỉnh như khu du lịch nằm ở các huyện trong tỉnh.
- Đầu tư xây dựng phát triển sản phẩm du lịch chủ đạo trên TTDL của
tỉnh: nâng cao cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ, tôn tạo cảnh quan môi trường
tại các điểm đang khai thác như: ở thành phố Luông Pra Băng, huyện Phu
Khun, Xiêng Ngân, Chom Phết, Mương Ngoi, v.v... Đây là quá trình thực hiện
các dự án khu du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và vui chơi giải trí. Dự án khu
128
du lịch cao cấp, khu nghỉ mát là tập trung ở khu thành phố Luông Pra Băng,
huyện Phu Khun, Chom Phết và Mương Ngoi.
Tiếp tục đầu tư xây dựng các điểm làng nghề gắn với phát triển du lịch
là ở các huyện thành phố như: thành phố Luông Pra Băng, huyện Chom Phết,
Pak U và Mương Ngoi. Sau đó nhân rộng ra các làng nghề còn lại đã được Ủy
ban nhân dân tỉnh phê duyệt nhằm tạo thêm các sản phẩm du lịch hấp dẫn với
khách du lịch, vừa đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ hàng thủ công truyền thống.
Ba là, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua các chính sách
khuyến khích đầu tư. Xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư như đảm
bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư, ưu tiên vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, phát triển du lịch để các nhà đầu tư đánh giá đúng thị trường hiện tại và thị
trường tiềm năng và xây dựng hệ thống cung cấp thông tin. Tạo sự bình đẳng
giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa tư nhân với Nhà nước. Có cơ
chế khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng hạ tầng đến các khu du lịch,
sau đó hoàn trả vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thu được của hoạt động kinh
doanh du lịch hoặc nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất.
Khuyến khích các nhà ngân hàng như: ngân hàng Thương mại quốc tế,
phát triển Nông nghiệp, Phạt thạ nà Lào…và các tổ chức tín dụng tạo thuận lợi
cho các nhà đầu tư vay vốn nhằm triển khai các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh
Luông Pra Băng với lãi suất ưu đãi, thủ tục nhanh gọn để các doanh nghiệp có
vốn kịp thời xây dựng, nâng cấp và sửa chữa các hạng mục công trình. Vốn vay
từ các ngân hàng có thể đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo ra
sản phẩm du lịch có chất lượng cao. Khi có điều kiện, nên thành lập ngân hàng
đầu tư phát triển du lịch của tỉnh nhằm thu hút vốn một cách nhanh chóng,
hiệu quả nhất.
4.2.2. Hoàn thiện môi trường, điều kiện pháp lý và chính sách phát
triển thị trường du lịch
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong phát triển TTDL của tỉnh
Luông Pra Băng bên cạnh việc đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ du lịch.
Để có những giải pháp tốt, có cơ sở khoa học trong việc xây dựng các chiến
129
lược liên kết thị trường, cần nghiên cứu, phân tích đánh giá các thị trường
hiện tại và thị trường tiềm năng. Với vị trí và vai trò trung chuyển của thị
trường khách du lịch Luông Pra Băng không thể tách rời thị trường khách cả
trong nước và quốc tế, cho nên phải gắn thị trường đặc thù của Luông Pra
Băng với thị trường quốc gia và quốc tế phù hợp với quy hoạch, chính sách
tổng thể phát triển ngành.
Một là, xây dựng chính sách về phát triển TTDL. Nghiên cứu TTDL là
nghiên cứu những khuynh hướng chính về sự thay đổi của cung và cầu, sự tác
động giữa các loại TTDL, nghiên cứu cụ thể về khách du lịch theo vùng, khu
vực, loại cơ sở du lịch và những nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ du lịch,... Trên
cơ sở đó nhằm vững số lượng, cơ cấu của cầu du lịch để kịp thời đáp ứng và
có chính sách về thị trường. Nghiên cứu xác lập cơ sở và thành phần của
nguồn khách du lịch mà họ có khả năng tham gia thị trường ngoài thời vụ
chính, từ đó để tạo ra cung, tăng cường cơ sở vật chất và các dịch vụ cần thiết
cho các thời điểm ngoài thời vụ. Tập trung phát triển những thị trường có lãi
nhất trong kinh doanh du lịch đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài để vạch ra
kế hoạch kinh doanh trên một thị trường cụ thể với sức bán ra cao nhất và có
hiệu quả nhất. Tập trung phát triển thị trường đặc thù của Luông Pra Băng:
TTDL văn hóa, TTDL lịch sử, TTDL sinh thái, thị trường vui chơi giải trí và
thể thao.
Hai là, đẩy mạnh hợp tác liên kết trong phát triển TTDL. Trong thời
gian tới, vấn đề liên kết hợp tác để phát triển và khai thác tiềm năng du lịch
giữa các địa phương, vùng miền trên cả nước và với các nước trong khu vực
và thế giới phải được đẩy mạnh. Quá trình hoạch định chiến lược phát triển,
vấn đề quy hoạch tổ chức không gian, định hướng sản phẩm cho TTDL
Luông Pra Băng phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các tỉnh khác, đặc
biệt là TTDL thủ đô Viêng Chăn, huyện Văng Viêng (tỉnh Viêng Chăn), Xay
Nhạ Bu Ly, Hua Phăn và TTDL các tỉnh trong nước và vùng phụ cận. Cần
chủ động trong xây dựng cơ chế, chiến lược hợp tác phát triển TTDL với
vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Điều này đòi hỏi phải có sự điều phối, hỗ
130
trợ và giám sát hợp lý nhằm thúc đẩy kinh tế du lịch, tăng cường sự liên kết
thị trường giữa các tỉnh. Đây là tiền đề triển khai các dự án, xây dựng kết cấu
hạ tầng, phân phối lợi ích đầu tư, trao đổi thông tin du lịch, đồng thời ngăn
ngừa các tác động xấu có thể gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường kinh
doanh du lịch. Hợp tác phát triển TTDL trong vùng kinh tế trọng điểm miền
Bắc, cần thiết lập chính sách ưu đãi đầu tư trong vùng, cùng kế hoạch tổng thể
xúc tiến du lịch chung thông qua các hình thức quảng bá tuyên truyền, công
nghệ thông tin hiện đại. Liên kết xây dựng, phát triển các tour du lịch, nối
tuyến với các tỉnh như các tour du lịch trong vùng thủ đô Viêng Chăn, Văng
Viêng (tỉnh Viêng Chăn), tour du lịch sang các tỉnh miền Bắc, miền Trung và
miền Nam và các nước trong khu vực và thế giới. Qua đó, thu hút khách du
lịch, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tiến tới mở rộng thị trường thu hút
khách du lịch các tỉnh miền Nam và miền Trung.
Coi trọng hợp tác và liên kết phát triển thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài; mở rộng tiếp cận thị trường khách du lịch quốc tế. Tập
trung khai thác thị trường khách du lịch có thu nhập cao như: thị trường thể
thao, TTDL vui chơi giải trí, TTDL sinh thái. Phát triển TTDL quốc tế, trong
đó tập trung vào thị trường Đông Nam Á, Châu Âu,... Khai thác có hiệu quả
thị trường khách du lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam, Thái Lan,...
Ba là, xây dựng chiến lược về hệ thống phân phối sản phẩm, hình thành
mạng lưới các doanh nghiệp lữ hành trong tỉnh tập trung theo từng loại hình
sản phẩm. Hình thành các mối quan hệ với các doanh nghiệp du lịch lớn của
thủ đô Viêng Chăn, các tỉnh trong nước và trong khu vực là đầu mối giữ
khách chính của Luông Pra Băng. Đặc biệt chú trọng phát triển TTDL quốc
tế, quan hệ với các công ty gửi khách du lịch quốc tế lớn. Đối với các sản
phẩm du lịch và TTDL được định hướng, cần tập trung quảng cáo thích hợp
và thiết lập quan hệ với các công ty lữ hành chuyên đề như công ty du lịch
chuyên đề văn hóa lễ hội, công ty du lịch chuyên đề du lịch xanh,... Gắn với
việc quảng bá thu hút các cơ quan, trường học, các đoàn thể để thu hút các thị
131
trường khách du lịch tự do thuộc các nhóm thị trường trọng điểm, thị trường
mục tiêu.
4.2.3. Đẩy nhanh việc nâng cấp và mở rộng hệ thống kết cấu hạ
tầng cho phát triển thị trường du lịch
Nằm cạnh thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Luông Pra Băng đã được Nhà nước
rất quan tâm đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các cơ sở kinh tế, trung
tâm giáo dục đào tạo của vùng. Đại học Su Pha Nu Vông và các trường
thành viên với cơ sở vật chất và các trang thiết bị rộng lớn, tương đối đồng
bộ; xây dựng hệ thống giao thông vận tải. Đối với việc tăng cường đầu tư
cho kết cấu hạ tầng cho phát triển TTDL theo đúng hướng phát triển TTDL
và chiến lược phát triển du lịch đến năm 2025 của tỉnh, của các vùng du
lịch miền Bắc của Lào. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
như: hệ thống giao thông, điện, nước, bưu điện, y tế và các dịch vụ công
khác. Chú ý đầu tư vào những điểm giầu tiềm năng, có khả năng phát triển
DL cao, quy mô lớn và có thể mở rộng trong tương lai. Từ nay đến năm
2025 tập trung vào những công trình sau:
Một là, hoàn chỉnh các tuyến nối Luông Pra Băng với các khu vực
trong các vùng miền Bắc: đường bộ từ Luông Pra Băng - các tỉnh Bắc Lào,
Luông Pra Băng - Yun Nan (Trung Quốc), Ụt Ta La Địt (Thái Lan) và Luông
Pra Băng - Lào Cai (Việt Nam),... Nâng cấp sân bay phục vụ cho việc đưa
đón du khách.
Hai là, nâng cấp tuyến đường tham quan khu vực trong tỉnh, các điểm
du lịch. Đây sẽ là tuyến đường có ý nghĩa to lớn của tỉnh trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, là huyết mạch giao thông quan trọng, thu
hút du khách và liên kết các điểm du lịch trong nước và quốc tế với TTDL
Luông Pra Băng.
Ba là, cải tạo, nâng cấp đường cũ của các huyện trong tỉnh, các khu du
lịch, góp phần mở rộng thị trường, biến vùng sản xuất nông nghiệp lạc hậu thành
những thị trấn, thị tứ, giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.
132
Bốn là, mạng lưới điện, 100% thành phố, huyện, cụm bản có điện lưới
quốc gia và 88% số gia đình có điện.
Năm là, mạng lưới bưu điện, thông tin liên lạc đang được xây dựng củng
cố ở hầu hết các trung tâm, huyện và cụm bản. Tuy nhiên, do khó khăn về
nguồn kinh phí nên chưa phủ sóng điện thoại di động đến tất cả các vùng, các
khu du lịch.
Dự án nước sạch ở đô thị và các huyện, địa phương đang được thực
hiện. Các công trình văn hóa, công viên, khi vui chơi, chăm sóc sức khỏe,...
đã và đang được xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo, phát triển nhằm đáp ứng tốt
nhất các nhu cầu tinh thần, khám chữa bệnh của nhân dân địa phương và
khách du lịch.
4.2.4. Phát triển doanh nghiệp du lịch đáp ứng yêu cầu của thị trường
Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại Luông Pra Băng đều
là doanh nghiệp nhỏ. Trên thực tế phần lớn khách du lịch quốc tế đến
Luông Pra Băng là do các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức và ủy thác lại
cho các doanh nghiệp trong nước thực hiện, do đó thị trường du khách ở
đây chủ yếu là thị trường trung gian. Để TTDL Luông Pra Băng phát triển
bền vững, bảo đảm khả năng hội nhập, thực sự là thị trường nhận khách
cần có giải pháp củng cố và phát triển các doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực du lịch để các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn, cần thực
hiện các giải pháp sau:
Một là, giải pháp từ phía Nhà nước
- Đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động du lịch trên toàn
địa bàn tỉnh theo các loại hình và quy mô phù hợp. Đối với các doanh nghiệp
hoạt động du lịch nói chung cần tăng cường công tác quản lý xét duyệt và cấp
giấy phép hoạt động, đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ quy chế du
lịch nhằm hạn chế những đối tượng kinh doanh kém hiệu quả, cạnh tranh
không lành mạnh, từ đó làm xuất hiện trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo
trên thị trường, gây tổn hại và sai lệch các tín hiệu phát ra trên thị trường. Sáp
nhập các doanh nghiệp hoạt động du lịch không giấy phép và quy mô quá nhỏ
133
để tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực trạng hiện nay trên địa bàn
tỉnh Luông Pra Băng tồn tại còn nhiều các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh du lịch, phần lớn là những doanh nghiệp nhỏ, thậm chí là rất nhỏ.
Những doanh nghiệp này có quy mô vốn, phạm vi hoạt động rất hẹp, không
có sản phẩm du lịch, họ chủ yếu khai thác những tài nguyên tự nhiên, không
nghiên cứu phát triển những sản phẩm du lịch mới. Thậm chí có doanh nghiệp
chỉ làm trung gian hưởng hoa hồng khiến cho hoạt động du lịch lộn xộn, đẩy
giá tour lên cao, làm giảm hấp dẫn với du khách, trực tiếp tác động gây giảm
sút về nhu cầu tiêu dùng sản phẩm du lịch trên địa bàn tỉnh. Do đó cần loại bỏ
những đơn vị hoạt động không giấy phép, chấn chỉnh những đơn vị hoạt động
không đúng chức năng của giấy phép đã cấp.
Thúc đẩy các doanh nghiệp du lịch hợp tác để có lợi thế quy mô. Do
quy mô nhỏ, nên nhiều doanh nghiệp du lịch Luông Pra Băng không có đủ
khả năng tiếp thị ra các thị trường nước ngoài, không thể thực hiện các chiến
dịch quảng bá lớn nên chưa thể đón tiếp được các đoàn du lịch với số lượng
khách nhiều với yêu cầu chất lượng cao, vì vậy các đơn vị quá nhỏ phải liên
doanh - liên kết thành doanh nghiệp đủ lực, đủ tài để thu hút khách cũng như
cạnh tranh thành công được với các công ty nước ngoài trên TTDL Luông Pra
Băng và trong khu vực. Đây là giải pháp thiết thực để tăng cường sức cạnh
tranh của du lịch Luông Pra Băng hiện nay.
Nâng cao mức vốn pháp định đối với các doanh nghiệp hoạt động du
lịch mới thành lập, đặc biệt là lữ hành quốc tế, để hạn chế các doanh nghiệp
có quy mô quá nhỏ, hoạt động kém hiệu quả với chất lượng sản phẩm thấp
ảnh hưởng xấu đến toàn bộ thị trường.
- Đối với các doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động hợp pháp và trụ vững
trên thị trường cần khuyến khích họ tăng vốn, có những quy định ràng buộc
về vốn khi cấp phép cho hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính,
đơn giản hóa thủ tục liên quan đến hoạt động du lịch: Sắp xếp lại các doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh du lịch theo hướng cổ phần hóa, giao,
134
bán, khoán, cho thuê, sáp nhập, hợp nhất, giải thể,… để bảo đảm cho chúng tồn
tại phát triển và mở rộng được không gian hoạt động trên thị trường.
- Tạo môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút những dự án tầm cỡ
lớn vào phát triển sản phẩm du lịch. Do chạy theo lợi nhuận trước mắt nên cần
phải điều chỉnh sự mất cân đối trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài vào TTDL
Luông Pra Băng. Để Luông Pra Băng thực sự là trung tâm du lịch, du lịch hội
nghị, cần nhiều nơi nghỉ ngơi và dịch vụ cao cấp nên cần đầu tư vào đáp ứng
nhu cầu này. Trên thực tế, thiếu khu du lịch và vui chơi giải trí sẽ kém hấp
dẫn đối với du lịch nội địa và không tận dụng hết thời gian lưu trú khách trong
điểm dừng trung chuyển của du khách quốc tế.
- Thành lập công ty chuyên cung cấp hướng dẫn cho các doanh nghiệp
lữ hành. Khi có nhu cầu, công ty du lịch chỉ cần ký hợp đồng có những ràng
buộc rõ ràng với nhà cung cấp hướng dẫn viên. Giải pháp này cho phép các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch không phải lo trả lương cho hướng dẫn viên
trong mùa vãn khách còn công ty chuyên cung cấp hướng dẫn viên có điều
kiện quản lý, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho hướng dẫn viên và bản thân
hướng dẫn viên ổn định và an tâm. Tuy nhiên, để chuyên nghiệp hóa dịch vụ
cung ứng hướng dẫn viên theo nhu cầu thời vụ của doanh nghiệp cần phải có
sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước quản lý du lịch về mọi mặt: Thuế, trợ cấp và
chuyên gia,…
- Tăng cường giám sát hoạt động du lịch. Với sản phẩm du lịch kém chất
lượng sẽ tác động xấu đến ngành và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác. Do
đó cần thường xuyên kiểm tra hoạt động và chất lượng sản phẩm, cung cách
phục vụ của tất cả các đơn vị liên quan đến hoạt động du lịch trên thị trường.
- Xây dựng chiến lược phát triển và hội nhập tổng thể các doanh nghiệp
du lịch. Du lịch Lào đang trong giai đoạn ban đầu gia nhập WTO, cho nên
phải vừa hợp tác, vừa tìm hiểu cơ chế và luật chơi quốc tế. Gia nhập WTO
nghĩa là thị trường mở rộng, tính chuyên nghiệp và sức cạnh tranh của doanh
nghiệp du lịch Lào nói chung còn thấp bởi du lịch nước Lào phát triển sau các
nước, sản phẩm du lịch còn ít, chưa đa dạng, hệ thống kết cấu hạ tầng không
135
theo kịp tốc độ phát triển, chất lượng dịch vụ còn kém, thông tin trên thị
trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện
trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và cảm kết quốc tế trong du lịch nói
riêng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường,
tăng thị phần trên thị trường truyền thống đồng thời khai thông, nâng dần vị
thế trên thị trường mới.
Hai là, giải pháp từ phía doanh nghiệp kinh doanh du lịch
Tăng cường sự nghiên cứu thị trường và xúc tiến sản phẩm của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp cần tập trung nghiên cứu những khuynh hướng
chính về sự thay đổi của cung và cầu, sự tác động giữa các loại TTDL, khách
du lịch theo vùng, khu vực, loại cơ sở du lịch và những nhu cầu về hàng hóa,
dịch vụ du lịch,... Trên cơ sở đó nắm vững cơ cấu của cầu du lịch, số lượng để
kịp thời đáp ứng và có chính sách về thị trường thì kinh doanh mới có hiệu quả,
thị trường mới phát triển bền vững. Xác lập cơ sở và thành phần của nguồn
khách du lịch mà họ có khả năng tham gia thị trường ngoài thời vụ chính và tạo
ra cung, tăng cường cơ sở vật chất và các dịch vụ cần thiết cho các thời điểm
ngoài thời vụ.
Nghiên cứu khách đến Luông Pra Băng và khách từ Luông Pra Băng đi
du lịch. Mỗi doanh nghiệp tùy theo lĩnh vực kinh doanh, cần trả lời được
những vấn đề sau: Khách hàng hiện tại và tiềm năng của doanh nghiệp mình
là ai? Họ muốn đi du lịch vào thời điểm nào trong năm? Khách hàng mong
muốn điều gì khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, họ coi trọng
nhất những loại nào?,... Để trả lời được những câu hỏi này, doanh nghiệp phải
hoàn thiện và sử dụng tốt thông tin trong hệ thống ghi chép nội bộ của doanh
nghiệp thông tin phản hồi từ khách, từ nhân viên phục vụ khách, từ kết quả
nghiên cứu marketing và từ các kênh khác. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng
có ý nghĩa chiến lược dài hạn đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
Những năm qua, dù còn nhiều khó khăn nhưng ngành du lịch tỉnh
Luông Pra Băng đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến, quảng bá và mang lại
những kết quả khả quan, đặc biệt công tác xúc tiến quảng bá qua những hội lễ
136
hàng năm của tỉnh như: lễ Bun Pi Mai, Đua Thuyền, Khâu Phăn Sa, Bắng
Phay, lễ năm mới của dân tộc Khơ Mu và Mông,... đã thực sự đem lại hiệu
quả đáng khích lệ. Vậy để góp phần thúc đẩy TTDL tỉnh Luông Pra Băng
phát triển, thời gian tiếp đây công tác xúc tiến, quảng bá du lịch cần hướng
vào những công việc cơ bản sau:
Xây dựng kế hoạch xúc tiến quảng bá du lịch khoa học, có khả năng
thực thi một cách hiệu quả. Kế hoạch xúc tiến du lịch cần phải đi trước, nghĩa
là phải có tính toán dài hạn và trung hạn. TTDL hoạt động có tính mùa vụ,
phụ thuộc nhiều các yếu tố. Đi du lịch đòi hỏi phải chi tiêu nhiều hơn ngày
thường, khách du lịch thường có dự án trước cho các chuyến đi. Cho nên
thông tin cần phải đến sớm đối với các đối tượng. Xây dựng các nội dung xúc
tiến quảng bá du lịch chủ yếu: tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con người
và tỉnh Luông Pra Băng; giới thiệu về tiềm năng du lịch của tỉnh; các quy
hoạch, danh mục các dự án đầu tư phát triển các khu, điểm du lịch, phát triển
cơ cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng sản phẩm và dịch vụ; tuyên truyền giới thiệu sản phẩm du lịch,...
Phối hợp liên ngành, liên vùng trong xúc tiến, quảng bá du lịch. Hoạt
động quảng bá du lịch thường gắn với hoạt động mở rộng thị trường của
ngành hàng không, với các hoạt động ngoại giao, tuyên truyền văn hóa, hoạt
động thể thao, xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư. Trong điều kiện kinh
phí và nguồn lực có hạn thì sự phối hợp là hết sức quan trọng. Trước hết là
phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền về chủ
trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; tăng cường thông
tin và thời lượng phát song về du lịch của đài truyền hình, đài phát thanh;
nâng số lượng, chất lượng các bài viết, phóng sự về du lịch; nâng cấp tạp chí
thông tin du lịch Luông Pra Băng. Phối hợp với sở thông tin, văn hóa và du
lịch xuất bản các ấn phẩm thông tin tuyên truyền du lịch như: sách hướng dẫn
du lịch, bưu ảnh, tờ gấp thông tin về du lịch và các sự kiện du lịch ở tỉnh; các
ấn phẩm giới thiệu văn hóa - lịch sử truyền thống, cách mạng, tiềm năng du
lịch của tỉnh Luông Pra Băng. Xây dựng cá cấn phẩm tuyên truyền đáp ứng
137
yêu cầu quảng bá phù hợp với từng đối tượng thị trường, hoàn thiện trang
web du lịch Luông Pra Băng.
Đa dạng các phương pháp tuyên truyền quảng bá du lịch. Tuyên truyền
quảng bá du lịch đẩy mạnh đã giúp cho khách du lịch có được các thông tin về
giá cả, chất lượng, số lượng sản phẩm hàng hóa du lịch, phương thức phục vụ
của các tổ chức kinh doanh du lịch giúp cho họ lựa chọn nhanh chóng, thuận
tiện. Vì vậy, tuyên truyền quảng bá trung thực sẽ kích cầu du lịch tăng lên và
ngược lại nếu không có phương pháp quảng bá các sản phẩm du lịch sẽ hạn
chế cầu du lịch. Phương pháp tuyên truyền quảng bá theo hướng mỗi đối
tượng khách có những phương tiện, biện pháp, hình thức tuyên truyền quảng
bá khác nhau.
Kết hợp linh hoạt các hình thức tuyên truyền quảng bá du lịch. Trên cơ
sở các đối tượng trên, tiến hành thường xuyên các hình thức hoạt động tuyên
truyền quảng bá như tham gia các hội chợ du lịch trong và ngoài nước. Trên
các phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, sách du lịch, tập gấp, sách
ảnh, bản đồ du lịch, đĩa CD room, biển quảng cáo về du lịch Luông Pra Băng.
Tổ chức các sự kiện du lịch tiêu biểu. Lễ hội có tính chất truyền thống của
Luông Pra Băng nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc vừa gắn với phát triển
du lịch: Hội du lịch làng nghề truyền thống Luông Pra Băng hàng năm, lễ du
lịch hàng tháng trong năm của các dân tộc trong tỉnh. Nắm bắt kịp thời các sự
kiện lễ hội hàng năm, hàng tháng để quảng bá xúc tiến du lịch, chú trọng nâng
cao tính chuyên nghiệp trong tổ chức các sự kiện du lịch, giới thiệu điểm đến
của tỉnh Luông Pra Băng. Tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao, các hội nghị,
hội thảo gắn với hoạt động du lịch.
Xây dựng và phát triển hàng hóa, dịch vụ du lịch của doanh nghiệp. Để
phục vụ được nhu cầu đa dạng của du khách, mỗi doanh nghiệp cần chú ý
nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ thông qua những biện pháp mang tính
đồng bộ. Các doanh nghiệp cần hoàn thiện quy trình nghiệp vụ trong các khâu
kinh doanh, chủ yếu là marketing và điều hành. Với việc áp dụng công nghệ
thông tin, tốc độ xử lý và khả năng lưu giữ thông tin được cải thiện cơ bản.
138
Một trong các biện pháp quan trọng là nâng cao chất lượng phục vụ
nhằm tạo dựng danh tiếng và uy tín, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú cần coi trọng việc nâng cao chất lượng
cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ nghỉ ngơi, ăn uống của du
khách, đảm bảo tính tiện ích cao của các dịch vụ cung ứng, phong phú về mẫu
mã, đa dạng về chủng loại, đồng thời xây dựng đội ngũ nhân viên phục vụ có
kỹ năng chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp lữ hành cần nắm bắt tổng hợp
thông tin nhanh nhạy, khảo sát và có dự kiến những khả năng có thể xảy ra để
đảm bảo đúng lịch trình, du khách luôn cảm thấy yên tâm trong suốt hành
trình; tập trung phát triển sản phẩm mới có tính hấp dẫn và chuyên sâu cho
khách du lịch cao cấp, xây dựng sản phẩm độc đáo để có sức thu hút mạnh đối
với khách nước ngoài.
Nâng cao sức cạnh tranh, tập trung xây dựng thương hiệu trên thị
trường. Doanh nghiệp cần coi trọng các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế:
ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tối đa chi
phí bất hợp lý, cải tiến công tác kế hoạch và thực hiện kế hoạch, mở rộng liên
doanh liên kết để tạo ra các loại hàng hóa, dịch vụ du lịch chất lượng cao, làm
đa dạng hóa cung trên TTDL.
Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng lộ trình và chuẩn bị các điều kiện để hội
nhập TTDL ở mức cao, có hướng xây dựng văn phòng đại diện du lịch và đầu tư
ra nước ngoài; thiết lập quan hệ với thị trường cung cấp nhiều khách du lịch
quốc tế đến Lào cũng như Luông Pra băng tại một số thị trường trọng điểm như
thị trường Đông Nam Á, Châu Âu, Bắc Mỹ ở chủ động nguồn khách. Qua đó,
vừa tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý,... vừa tiếp tục tạo
lập và nâng cao hình ảnh và vị thế của du lịch Luông Pra Băng ở khu vực và trên
thế giới. Trong mở rộng thị trường, mỗi doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị
chiến lược nâng cao tính cạnh tranh song song với xây dựng thương hiệu mạnh
dành cho khách du lịch trong nước và khách nước ngoài. Trước tiên, nên chú
trọng khách du lịch trong nước đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng khách
du lịch vào Luông Pra Băng và cũng là đối tượng mà các doanh nghiệp lữ hành
139
nước ngoài không được phép kinh doanh. Bên cạnh đó là xây dựng quan hệ với
những thị trường cung cấp du khách nước ngoài đến Lào.
Liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Các doanh
nghiệp đều có chiến lược phát triển riêng để tồn tại trong hội nhập, song các
cũng cần liên kết nhau trong tạo dựng thương hiệu để mở rộng không gian
cung ứng, tăng khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Sự phối
hợp hoạt động giữa doanh nghiệp lữ hành gửi khách và nhận khách, giữa
doanh nghiệp lữ hành với các doanh nghiệp phục vụ du lịch như: khách sạn,
nhà nghỉ, nhà hàng, các cơ sở kinh doanh dịch vụ khác, giữa các cơ sở phục
vụ với nhau, giữa các cơ sở phục vụ với chính quyền địa phương để có ảnh
hưởng lớn tới sự hoạt động trên TTDL.
Cần khai thác nhanh và mạnh những lợi thế đang có, bao gồm sự hiểu
biết sâu sắc về TTDL Luông Pra Băng và của Lào, quan hệ trong cộng đồng
các doanh nghiệp du lịch, quan hệ khách hàng và các hệ thống đại lý trong
nước. Tuy nhiên cần lưu ý là những lợi thế này chỉ mang tính nhất thời, khi
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nước ngoài đã kinh doanh lâu ở Lào nó
sẽ mất đi. Đối với Luông Pra Băng, trước hết cần tăng cường hợp tác, liên kết
giữa các doanh nghiệp lữ hành với các làng nghề, giữa các nhà nghỉ với các
khách sạn. Xu hướng du lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch văn hóa lễ hội, du
lịch làng nghề ở Luông Pra Băng đang thu hút nhiều khách quốc tế và khách
du lịch nội địa. Do đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng cường mở rộng
liên doanh liên kết với các ngành kinh tế khác, liên doanh liên kết với nước
ngoài, trước hết là các hàng lữ hành quốc tế.
4.2.5. Đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực cho phát triển thị
trường du lịch và ứng dụng khoa học, công nghệ
Sản phẩm du lịch về bản chất là sản phẩm dịch vụ, chất lượng sản phẩm
du lịch chính là điều du khách cảm nhận được trong chuyến đi du lịch. Chất
lượng sản phẩm du lịch chịu tác động quyết định của yếu tố con người và giá
trị tài nguyên vì chúng tạo nên cảm nhận của du khách về chất lượng của
140
chuyến đi. Để đáp ứng yêu cầu phát triển TTDL, đào tạo phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao cần tập trung vào những giải pháp sau:
Một là, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực du lịch trên địa bàn Luông Pra Băng. Trước hết cần tiến hành rà soát, đánh
giá và phân loại nguồn nhân lực du lịch hiện có trên địa bàn tỉnh Luông Pra
Băng qua các chương trình điều tra, khảo sát về nguồn nhân lực du lịch, xây
dựng kế hoạch đào tạo và phát triển với từng đối tượng cụ thể. Phần loại các
đối tượng cần đào tạo thành các nhóm như: cán bộ quản lý nhà nước về du
lịch ở địa phương, quản lý hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp du lịch,
nhân viên phục vụ trực tiếp tại các doanh nghiệp và các hướng dẫn viên tại
các điểm du lịch, quần chúng nhân dân tại các khu du lịch.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch là rất cần thiết trong nghiên cứu, đánh giá hiện
trạng nguồn nhân lực du lịch. Dựa trên định hướng phát triển nguồn nhân lực
du lịch, xác lập các hình thức, nội dung đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với
người lao động. Các địa phương, các doanh nghiệp có những đặc điểm khác
nhau nên hình thức đào tạo, bồi dưỡng phải đa dạng với nhiều hình thức khác
nhau như: đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo thực tiến kinh doanh
của doanh nghiệp,v.v... Đào tạo cần phải coi trọng chất lượng hơn số lượng,
người lao động phải đảm nhận được công việc chuyên môn sau khi đào tạo.
Nguồn nhân lực du lịch phải có kiến thức và sự hiểu biết sâu sắc về mọi
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội,...
Hai là, thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ nguồn nhân lực du lịch. Phối hợp với các trường cao đẳng, trường đại học
trong tỉnh và trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn: Đại học quốc gia Lào, Đại học
tài chính - ngân hàng, Đại học Su Pha Nụ Vông,… tiến hành xây dựng
chương trình và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý. Nhất thiết phải đào tạo
ngay từ giai đoạn hiện tại nhằm chuẩn bị cho tương lai một đội ngũ cán bộ có
141
năng lực chuyên môn sâu, có tư cách đạo đức, yên nghề. Đội ngũ cán bộ này
phải được cập nhật các kiến thức liên quan đến hoạt động du lịch, đến quá
trình cạnh tranh, phát triển du lịch và các hiểu biết về du lịch hiện đại, quy
hoạch du lịch, thông tin liên quan đến đầu tư du lịch và hiểu biết đến hoạt
động của các công ty du lịch quốc tế có mặt tại Luông Pra Băng. Trong thời
gian tới, cần quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực quản lý
mang tính chiến lược, ổn định, lâu dài, bền vững và phát triển.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ lao động để nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch. Để nâng cao chất lượng phục vụ trong kinh
doanh du lịch cần phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, cập
nhật kiến thức mới, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch. Nội dung đào tạo
trước hết phải tập trung vào những kiến thức, ký năng chuyên môn, đào tạo
những gì thực tế cần, gắn giữa lý thuyết và thực hành nghiệp vụ do thị trường
quyết định. Cơ chế đào tạo phải thông thoáng, thuận lợi, có sự kết hợp giữa cơ
sở đào tạo và doanh nghiệp. Cùng với đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, người
lao động còn phải được bồi dưỡng những kiến thức trong từng lĩnh vực như:
kiến thức chung về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của quốc gia, vùng lãnh
thổ là TTDL trọng điểm của Lào và tỉnh Luông Pra Băng, kiến thức về du
lịch, ngoại ngữ, máy vi tính và phải chú ý tới các nội dung văn hóa trong kinh
doanh du lịch như các giá trị văn hóa, phong tục tập quán đẹp, cách ứng xử
văn minh, lịch sử, tôn trọng du khách,… tiến tới xây dựng văn minh trong
kinh doanh du lịch của Luông Pra Băng.
Ba là, thiết lập hệ thống thông tin về nguồn nhân lực trên thị trường. Sự
phát triển nguồn nhân lực trong TTDL ngày càng tăng về mặt quy mô, cơ cấu,
số lượng và chất lượng. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong tổ chức quản
lý và kiểm soát hệ thống thông tin về nguồn nhân lực du lịch sẽ cho phép phân
tích, dự báo phát triển nguồn nhân lực một cách khoa học, nhanh và tin cậy.
Những thông tin cần có bao gồm: thông tin về các cơ sở đào tạo, các ngành
nghề trong du lịch, nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp du lịch, các cơ
quan quản lý nhà nước về du lịch, thông tin về cơ cấu, số lượng, chất lượng
142
nguồn nhân lực; thông tin dự báo về nguồn nhân lực du lịch trên thị trường và
các thông tin khác như: chính sách, kế hoạch, chế độ phát triển nguồn nhân
lực du lịch,... Các tổ chức các hoạt động như: giao lưu gặp gỡ nhằm tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp học tập, trao đổi kinh nghiệm qua quá trình hoạt
động kinh doanh, hội thảo cũng như tạo mối quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ
sở đào tạo và người lao động, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù
hợp. Sự phân phối giữa cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng là hết sức cần thiết
trong nghiên cứu, đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực du lịch, cung - cầu nguồn
nhân lực để xây dựng chiến lược tổng thể và đào tạo nguồn nhân lực.
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực. Tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các nước trong
khu vực tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, quản lý
thuộc lĩnh vực khách sạn, lữ hành và các chương trình đào tạo ngắn hạn, trung
hạn. Khuyến khích việc du học, bồi dưỡng ngắn hạn, tham quan mô hình quản
lý, đào tạo ở các nước có trình độ và phát triển cao về du lịch, cử cán bộ đi
nghiên cứu và học tập tại nước ngoài theo các chương trình khác nhau. Tổ
chức những buổi giao lưu giữa các chuyên gia, các nhà quản lý doanh nghiệp
nhằm trao đổi những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm ngành nghề.
Năm là, xây dựng chính sách về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du
lịch. Có chính sách hợp lý để thu hút nhân tài, chuyên gia, nghệ nhân tham gia
vào phát triển du lịch, hình thành đội ngũ lao động làm du lịch có tính chuyên
nghiệp, cải thiện tốt môi trường để thu hút các nhà đầu tư du lịch trong nước
và nước ngoài đến Luông Pra Băng. Hỗ trợ kinh phí từ ngân sách của tỉnh,
đồng thời thực hiện xã hội hóa nhằm huy động nguồn vốn cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch. Khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Luông Pra Băng nên có
chính sách tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành công nghệ thông tin,
chuyên ngành ngoại ngữ tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc, Việt Nam, Hàn
143
Quốc,... Sau đó đào tạo văn bằng hai về du lịch góp phần giải quyết tình trạng
đội ngũ lao động yếu về ngoại ngữ, tin học.
Cần phải chú ý đến người dân địa phương nơi có tài nguyên du lịch đang
khai thác để có chính sách ưu tiên tuyển chọn. Khi ra trường công tác họ sẽ giúp
cho du khách hiểu biết tốt hơn và sâu sắc hơn về mặt văn hóa, phong tục tập
quán của người Lào ngay tại nơi họ sinh ra và lớn lên. Đây là chính sách để
khuyến khích người dân địa phương duy trì văn hóa truyền thống, phát triển du
lịch dựa vào cộng đồng, đem lại lợi ích cho người dân địa phương, góp phần
thực hiện chiến lược phát triển. Thực hiện tốt chính sách này sẽ tác động tích cực
đến phát triển kinh tế, mở rộng thị trường, xóa đói giảm nghèo.
Sáu là, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ
phát triển kinh doanh du lịch. Các thành tựu khoa học kỹ thuật được áp dụng
trong kinh doanh du lịch sẽ làm giảm giá thành sản phẩm du lịch, như vậy sẽ
tăng khả năng cạnh tranh của chúng trên thị trường.
Đối với Luông Pra Băng, trước hết chú trọng đúng ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin du lịch nhằm mở rộng hợp tác đầu tư, cải thiện năng
lực hệ thống phân phối sản phẩm, tuyên truyền quảng bá. Xây dựng hệ thống
cơ sở dữ liệu về thị trường du lịch đáp ứng yêu cầu của phát triển đồng bộ các
loại thị trường. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá
nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào
hoạt động kinh doanh du lịch và phục vụ giải quyết các vấn đề bức xúc đang
đặt ra đối với phát triển thị trường. Tăng cường tổ chức hợp tác với các tổ
chức, các cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ sự hỗ trợ về
kinh nghiệm, kỹ thuật, tiếp cận những thành tựu mới, sự tiên tiến về khoa học
công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng vào TTDL Luông Pra Băng.
4.2.6. Nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước với thị trường du
lịch trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng
Đây là yêu cầu khách quan nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, trao
đổi mua bán và hướng các mối quan hệ trên TTDL theo đúng định hướng, hạn
144
chế và xóa bỏ dần các hành vi kinh doanh thiếu văn minh, chạy theo lợi nhuận
làm phá hoại môi trường, cạnh tranh không lành mạnh, mất ổn định về xã hội,
gây ra các ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường. Nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về du lịch đòi hỏi phải thực hiện tốt trên mọi địa bàn, thông
qua hệ thống các quy định buộc mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia TTDL phải
tuân thủ theo quy định của pháp luật nhưng vẫn đảm bảo quyền tự do kinh
doanh, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Một số giải pháp cần tập
trung trong những năm tới gồm:
Một là, kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý TTDL. Thống nhất
quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch bằng pháp luật, tạo điều kiện thuận
lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch. Tổ chức hoạt
động kinh doanh du lịch gắn với tổ chức quản lý TTDL, đảm bảo an ninh quốc
gia và trật tự an toàn xã hội. Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt
động của TTDL; phối hợp giữa các công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc
tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia thị trường, áp dụng nghiêm các chế
tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về du lịch và TTDL.
Tiếp tục thực hiện tốt cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hóa
các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp du lịch. Các bộ phận
tham mưu chuyên môn cần công khai các thủ tục, quy trình, thời gian và cán
bộ để giúp các tổ chức, cá nhân liên hệ và thực hiện tốt các nội dung được
thuận tiện và hiệu quả.
Cơ chế và mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động du lịch phải
được xây dựng thống nhất từ tỉnh đến thành phố và các huyện, phù hợp với
những điều kiện thực tế của tỉnh nhằm khắc phục tình trạng chia cắt trong
quản lý. Thường xuyên kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ
đạo phát triển du lịch tỉnh; rà soát, bổ sung nhiệm vụ, chức năng, kiện toàn và
củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về du
lịch từ tỉnh đến thành phố, huyện, nâng cao năng lực hoạt động của thanh tra
du lịch, trung tâm xúc tiến du lịch Luông Pra Băng.
145
Tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước về quản lý môi trường,
tài nguyên du lịch tại các khu du lịch và các điểm du lịch hấp dẫn. Thành lập các
Ban quản lý khu du lịch trên nguyên tắc có sự tham gia của các ngành liên quan
và Ủy ban nhân dân thành phố, huyện nơi có điểm du lịch. Ban quản lý là tổ
chức duy nhất thực hiện chức năng quản lý nhà nước mọi hoạt động kinh tế - xã
hội trên toàn bộ phạm vi lãnh thổ khu du lịch và chịu trách nhiệm mọi mặt trước
Ủy ban nhân dân tỉnh theo phân cấp quản lý và phối hợp hoạt động với các cơ
quan liên quan trực tiếp như văn hóa, công an, quân đội,…
Hai là, chú trọng công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển
du lịch. Để tạo ra môi trường thuận lợi cho tiếp tục phát triển TTDL, xây dựng
và thực hiện quy hoạch phát triển du lịch Luông Pra Băng đòi hỏi:
Xây dựng quy hoạch trong quan hệ thống nhất biện chứng với mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với phát
triển ngành du lịch và TTDL Luông Pra Băng. Do đó, nội dung quy hoạch phát
triển du lịch phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực, địa
phương trong từng giai đoạn quy hoạch; chú trọng bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp
lý tài nguyên môi trường, cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn và phát triển bản sắc văn
hóa dân tộc, có khả năng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của địa
phương, đảm bảo phát triển bền vững, bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, bảo đảm an
ninh quốc phòng và xác lập được cơ sở cho công tác kế hoạch, quản lý đầu tư và
thu hút đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng du lịch.
Nội dung của quy hoạch phải bảo đảm dự kiến hợp lý, tính khả thi cao
trong toàn bộ quá trình hình thành, triển khai đầu tư xây dựng, khai thác kinh
doanh một khu du lịch, điểm du lịch. Trong đó cần xác định danh mục các khu
vực, các dự án ưu tiên đầu tư và tiến độ đầu tư, nhu cầu sử dụng đất, vốn và
nguồn nhân lực cho du lịch; các giải pháp bảo vệ môi trường và tài nguyên du
lịch; cơ chế, chính sách, giải pháp quản lý, phát triển du lịch theo quy hoạch
bảo đảm hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.
Đối với quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Luông Pra Băng đến năm
2025 và định hướng đến năm 2030 cần tiến hành rà soát lại và sửa đổi, điều
146
chỉnh nếu thấy cần thiết theo hướng bổ sung phát triển các sản phẩm du lịch
kết hợp với vui chơi giải trí dọc theo các tuyến giao thông chính: quốc lộ 13
Bắc và quốc lộ 1C. Nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch làng nghề truyền thống thành phố Luông Pra Băng và quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch tại các huyện, địa phương khác trong tỉnh.
Tiếp tục tiến hành xây dựng quy hoạch chi tiết các khu du lịch phù hợp
trên cơ sở tiềm năng tài nguyên du lịch hiện có, thực tế năng lực của các doanh
nghiệp. Kết hợp các chương trình, chiến lược phát triển TTDL với các kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố và các huyện. Trong quy hoạch
phải tính tới giá trị thẩm mỹ, khả năng sử dụng trước mắt và lâu dài, hài hòa
giữa giá trị truyền thống và hiện đại, vừa có giá trị kinh tế của từng sản phẩm
du lịch, vừa đem lại cuộc sống tinh thần lành mạnh.
Trong những năm tới cần tập trung triển khai lập, xét duyệt các đề án quy
hoạch chi tiết các khu vực trọng điểm của tỉnh, từ đó xây dựng các dự án ưu tiên
đầu tư theo từng giai đoạn. Đặc biệt quan tâm và xét duyệt các dự án đầu tư cơ sở
hạ tầng, nâng cấp, phục hồi các di tích lịch sử văn hóa cho các khu du lịch trọng
điểm, nhất là thành phố Luông Pra Băng. Chuẩn bị triển khai quy hoạch các khu
du lịch trọng điểm còn chưa có quy hoạch, nhất là tại các huyện có điều kiện trong
tỉnh như: huyện Năm Bạc, Nan, Pạc Xeng, Pak U, Chom Phết,v.v...
Nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý quy hoạch, đặc biệt đối với các
quy hoạch chi tiết, tăng cường quản lý đầu tư xây dựng các dự án đầu tư phát
triển du lịch theo quy hoạch được duyệt. Tổ chức, cá nhân khi lập các dự án
đầu tư xây dựng công trình, kinh doanh khai thác du lịch phải thực hiện đánh
giá tác động môi trường, tài nguyên du lịch tại các khu, điểm du lịch. Trường
hợp làm biến dạng cảnh quan, ô nhiễm môi trường phải có trách nhiệm phục
hồi tài nguyên, giảm độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch, bồi thường thiệt hại
theo quy định pháp luật. Phải có lực lượng giữ gìn giám sát để ngăn chặn
những hành vi cố tình vi phạm pháp luật, phá vỡ quy hoạch được duyệt. Ủy
ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm tổ chức quản lý nhà nước về thực hiện
quy hoạch phát triển du lịch tại địa phương.
147
Nâng cao chất lượng quản lý và thực hiện quy hoạch. Phát huy xã hội
hóa thực hiện quy hoạch và đầu tư theo Luật đầu tư số 032/QH, ngày
17/11/2016 về quy hoạch và đầu tư, Luật đầu tư của Nhà nước số 01/QH, ngày
25/6/2009. Công bố rộng rãi trên mạng Internet, trên các phương tiện thông
tin đại chúng các quy hoạch phát triển du lịch sau khi được cấp thẩm quyền
phê duyệt. Các cấp lập kế hoạch tổ chức thực hiện quy hoạch, tổ chức quản lý
chặt chẽ dự án đầu tư kinh doanh phát triển du lịch theo đúng quy hoạch. Phối
hợp liên ngành trong kiểm tra, thanh tra thực hiện quy hoạch đồng thời phát
huy vai trò của cộng đồng dân cư trong xây dựng và quản lý quy hoạch.
Ba là, hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích phát triển thị trường.
Trên cơ sở đường lối, quan điểm và chính sách pháp luật của Nhà nước, tỉnh
Luông Pra Băng cần hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý, khai thác các khu,
điểm du lịch như:
Ưu tiên, miễn giảm thuế, ưu đãi vốn vay đầu tư đối với các dự án ưu
tiên tại các khu trọng điểm phát triển du lịch. Xây dựng mức giá ưu đãi về các
dịch vụ như: điện, nước, bưu chính và ưu đãi các tổ chức, cá nhân đầu tư kinh
doanh các sản phẩm du lịch vui chơi giải trí trên địa bàn tỉnh.
Phối hợp liên ngành để giải quyết các chính sách tạo thuận lợi cho
khách du lịch, xây dựng phong cách tiếp đón khách thân thiện, đúng mực
trong lực lượng cán bộ làm nghiệp vụ. Tăng cường công tác thông tin cho du
khách qua các quầy thông tin du lịch, thống nhất hệ thống các biển báo, dấu
hiệu chỉ dẫn để thuận tiện cho du khách đi lại tham quan.
Xây dựng và ban hành quy chế quản lý phù hợp đối với các khu du lịch,
điểm du lịch, trước hết là quy chế quản lý và khai thác đầu tư du lịch tại các
khu du lịch. Quy chế quy định về quản lý tài nguyên du lịch, môi trường du
lịch; quản lý đầu tư phát triển, sử dụng và khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ
sở hạ tầng du lịch; quyền và nghĩa vụ của khách du lịch, các tổ chức cá nhân
có hoạt động kinh doanh du lịch; sự tham gia của cộng đồng tại khu du lịch;
phân công nhiệm vụ, cơ chế phối hợp trong việc quản lý khu du lịch theo quy
hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
148
Bốn là, xây dựng cơ chế phối kết hợp liên ngành, liên vùng trong quản
lý phát triển TTDL theo hướng kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ,
phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh của
doanh nghiệp. Cần xây dựng mục tiêu hành động chung để cùng tham gia giải
quyết có hiệu quả những vấn đề về quản lý phát triển TTDL. Khuyến khích và
tạo điều kiện để huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức, cá nhân vào
việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và đảm bảo phát triển du lịch bền vững. Tổ
chức các đoàn đi nghiên cứu khảo sát thị trường, học tập kinh nghiệm về kinh
doanh, mở rộng thị trường tại các tỉnh có TTDL phát triển như thủ đô Viêng
Chăn, tỉnh Viêng Chăn, Xay Nhạ Bu Ly, Hua Phăn, v.v...
Năm là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích của địa phương nơi có điểm du
lịch, doanh nghiệp kinh doanh du lịch và Nhà nước. Các cộng đồng địa
phương nơi có tài nguyên du lịch cần được tạo điều kiện tham gia trong quá
trình phát triển TTDL và nhận được nhiều lợi ích hơn từ du lịch. Tăng cường
những biện pháp giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức khi tham gia
hoạt động du lịch nhằm làm cho họ thấy rõ được rõ mối quan hệ qua lại chặt
chẽ giữa lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Ngành du lịch cần có sự phối hợp
với toàn dân để tạo ra môi trường và bầu không khí hết sức thân thiện, hòa
bình. Mỗi người dân vừa là chủ thể vừa là người tiêu thụ các sản phẩm du
lịch, vai trò trách nhiệm của họ được đề cao thì họ sẽ mang hết tinh thần trách
nhiệm của mình để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ sự bình yên cho
quê hương làng xóm. Giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ vai trò, tầm
quan trọng, ý nghĩa của tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân
văn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, những vấn đề liên quan đến
hoạt động sản xuất kinh doanh trên TTDL để từ đó họ trân trọng, giữ gìn
những tài sản mà thiên nhiên ban tặng và những giá trị lịch sử cha ông đã dày
công vun đắp.
149
KẾT LUẬN
Thị trường du lịch là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành
của hệ thống thị trường trong nền kinh tế, là cầu nối giữa người sản xuất cung
ứng và người tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Trong giai đoạn hiện nay TTDL
là một lĩnh vực cạnh tranh nhất với tốc độ tiếp cận rất nhanh.
Phát triển TTDL góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế - xã hội
mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về TTDL là
một vấn đề mới mẻ và phức tạp. Tác giả cố gắng trình bày khái quát những cơ
sở lý luận cơ bản về du lịch, sản phẩm du lịch; tìm hiểu TTDL, phân tích
những đặc trưng của TTDL, các loại TTDL; phân tích các yếu tố cơ bản của
TTDL như: cầu và cung du lịch, giá cả và cạnh tranh trên TTDL, các nhân tố
tác động tới sự phát triển của TTDL, vai trò tích cực và những tác động tiêu
cực của TTDL. Tìm hiểu kinh nghiệm của một số tỉnh của Việt Nam và Lào
trong phát triển TTDL là những bài học kinh nghiệm quý giá cho phát triển
TTDL tỉnh Luông Pra Băng. Muốn phát triển TTDL Luông Pra Băng cần phát
huy vai trò quản lý nhà nước trên TTDL, đảm bảo phát triển TTDL theo đúng
định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; có nhiều biện pháp thiết
thực, hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng cung, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và
kết cấu hạ tầng, kích cầu du lịch.
Luông Pra Băng là một tỉnh nằm trong các tỉnh miền Bắc, là cổng
thành của các tỉnh miền Bắc, cách thủ đô Viêng Chăn 420 km theo con đường
quốc lộ số 13. Luông Pra Băng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển
du lịch sinh thái, có văn hóa và cộng đồng dân cư đa dạng và thường xuyên
biến đổi thuận lợi cho phát triển du lịch nội tỉnh; đặc biệt Luông Pra Băng đã
có thành phố Luông Pra Băng là khu du lịch di sản văn hóa thế giới và là nơi
căn cứ địa cách mạng của thời kỳ tiền chiến và cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và Mỹ. Luông Pra Băng đều gắn với những sự kiện lịch sử của đất
nước, do vậy có rất nhiều di tích lịch sử, cũng như là một tỉnh có nhiều dân
tộc anh em với các sắc thái văn hóa đặc trưng riêng,… Luông Pra Băng là một
150
nguồn lực về tài nguyên du lịch văn hóa, du lịch thiên nhiên và du lịch lịch sử.
Phân tích thực trạng phát triển TTDL Luông Pra Băng trong giai đoạn năm
2011 - 2018; Luông Pra Băng đã bước đầu khai thác tiềm năng thế mạnh về
nguồn tài nguyên du lịch để phát triển sản phẩm hàng hóa, dịch vụ du lịch; hệ
thống kinh doanh du lịch trên thị trường đạt được nhiều kết quả, đáp ứng nhu
cầu du lịch ngày càng cao. TTDL Luông Pra Băng cho thấy các yếu tố của thị
trường phát triển ngày càng đồng bộ như: mua bán hàng hóa du lịch, nhu cầu
du lịch, cung cấp hàng hóa du lịch và những thể chế hỗ trợ cần thiết nhằm
tăng số lượng, chất lượng và sự đa dạng của hoạt động mua bán hàng hóa du
lịch, mang lại lợi ích cho các bên tham gia thị trường và cho toàn xã hội.
TTDL phát triển đã tác động tích cực tới các ngành kinh tế trong tỉnh cũng
như phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Luông Pra Băng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế,
chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên du lịch của tỉnh, còn
nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết như: nâng cao nhận thức, đánh giá
đúng vai trò của TTDL, xây dựng chiến lược cho phát triển thị trường và sản
phẩm mang những nét đặc trưng riêng của Luông Pra Băng.
Trên cơ sở đường lối và chiến lược phát triển du lịch và quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch của Lào, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của
Luông Pra Băng đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2030, luận án đề xuất
những quan điểm, phương hướng và các giải pháp nhằm phát triển TTDL
Luông Pra Băng trong thời gian tới nhằm đảm bảo cho sự phát triển đồng bộ
các yếu tố và các loại TTDL. Các giải pháp đồng thời giải quyết những vấn đề
ở tầm vĩ mô và vi mô, đảm bảo sự nhất quán từ các cơ quan quản lý nhà nước
đến các doanh nghiệp, sự phối hợp giữa các chủ thể tham gia thị trường. Quá
trình thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ khai thác được mọi tiềm năng nguồn
lực, thúc đẩy TTDL phát triển đúng định hướng, góp phần đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của tỉnh Luông Pra Băng.
151
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Somsanith Kenemany (2018), "Phát triển bền vững thị trường du lịch
tỉnh Luông Pra Băng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương, (512), tr.35-37.
2. Somsanith Kenemany (2018), "Giải pháp phát triển du lịch ở tỉnh Luông
Pra Băng, CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Kinh tế và
Dự báo, (28), tr.44-46.
3. Somsanith Kenemany (2019), "Nâng cao vai trò của quản lý nhà nước
đối với hoạt động du lịch ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, (số Chuyên đề), tr.60-62.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Lào dịch sang tiếng Việt
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Tầm nhìn đến năm 2030, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 10 năm (2016 - 2025) và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc 5 năm lần thứ VIII (2016 - 2020),
Viêng Chăn.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Trung tâm thống kê Quốc gia Lào năm
2014, Viêng Chăn.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Thông tin phát triển kinh tế - xã hội 40
năm CHDCND Lào "1975 - 2015", Viêng Chăn.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo khảo sát kinh tế toàn quốc lần
thứ II, Viêng Chăn.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo tổng kết dân số và nhà ở lần thứ
IV, Viêng Chăn.
6. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2013), Tổng cục Du lịch Lào "Chiến lược
quản lý du lịch năm 2011 - 2020 của CHDCND Lào", Viêng Chăn.
7. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Tầm nhìn đến năm 2030, chiến
lược phát triển đến năm 2025 và kế hoạch phát triển công việc thông tin,
văn hóa và du lịch của Lào giai đoạn năm 2016 - 2020, Viêng Chăn.
8. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch, Sở Quảng cáo du lịch (2013). Du lịch
toàn quốc, Viêng Chăn.
9. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Tổng khách du lịch thăm Lào
năm 2016, Viêng Chăn.
10. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Tổng khách du lịch thăm Lào
năm 2017, Viêng Chăn.
11. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2018), Tổng khách du lịch thăm Lào
năm 2018, Viêng Chăn.
153
12. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Báo cáo tổng kết về việc thực
hiện công việc thông tin, văn hóa và du lịch năm 2011 - 2015 và kế
hoạch phát triển 5 năm (2016 - 2020), Viêng Chăn.
13. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Báo cáo thống kế khách du lịch
thăm Lào năm 2016, Viêng Chăn.
14. Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng (2015), Báo cáo việc phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm (2011 - 2015) và kế hoạch phát triển 5 năm (2016-2020) lần
thứ 7 của tỉnh Luông Pra Băng, Luông Pra băng, ngày 11/12.
15. Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng (2017), Báo cáo việc phát triển kinh tế
- xã hội năm 2016 và kế hoạch phát triển năm 2017 của tỉnh Luông Pra
Băng, Luông Pra băng, ngày 22/02.
16. Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng (2019), Báo cáo việc phát triển kinh tế
- xã hội năm 2018 và kế hoạch phát triển năm 2019 của tỉnh Luông Pra
Băng, Luông Pra băng, ngày 04/01.
17. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội VI của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.
18. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội VII của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.
19. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội VIII của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.
20. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội IX của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.
21. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội X của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.
22. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (1993), Văn kiện Đảng bộ lần thứ III của
tỉnh Luông Pra Băng.
23. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2000), Văn kiện Đảng bộ lần thứ IV của
tỉnh Luông Pra Băng.
24. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2005), Văn kiện Đảng bộ lần thứ V của
tỉnh Luông Pra Băng.
154
25. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2010), Văn kiện Đảng bộ lần thứ VI của
tỉnh Luông Pra Băng.
26. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2015), Văn kiện Đảng bộ lần thứ VII của
tỉnh Luông Pra Băng.
27. Khăm Còn UA NÔN SA (2013), Du lịch là một ưu tiên của sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Xiêng Khoảng. Tạp chí A Lunmay.
28. Ma Nô Thông PHÔNG SA VĂN (2014), Xúc tiến du lịch ở tỉnh Khăm
Muôn. Tạp chí Lý luận Chính trị - Hành chính.
29. Pun Sắc SAY NHA SEN (2012), Sự phát triển khu du lịch tự nhiên ở
tỉnh Sa La Văn. Tạp chí Lý luận Chính trị-Hành chính.
30. Phutsady PHANYASITH (2016), "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động du lịch ở nước CHDCND Lào", Luận án tiến sĩ lý luận và
lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
31. Quốc hội Lào (2005), Luật về du lịch. Số 10/QH, ngày 9/11/2005,
Viêng Chăn.
32. Quốc hội Lào (2009), Luật đầu tư. Số 02/QH, ngày 8/7/2009, Viêng Chăn.
33. Quốc hội Lào (2009), Luật đầu tư của nhà nước. Số 08/QH, ngày
26/11/2009, Viêng Chăn.
34. Seng Ma Ni PHẾT SA VÔNG (2012), Một số vấn đề tác động tiêu cực
từ du lịch ở tỉnh Luông Pa Bang. Tạp chí Lý luận Chính trị -
Hành chính.
35. Somkhith VONG PAN NHA (2018), "Quản lý nhà nước về du lịch trên
địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ
Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
36. Sở thông tin, văn hóa và du lịch tỉnh Luông Pra Băng (2018), Báo cáo
việc phát triển và đẩy mạnh du lịch tỉnh Luông Pra Băng năm 2018,
Luông Pra Băng.
155
37. Sở thông tin, văn hóa và du lịch tỉnh Luông Pra Băng (2011), Chiến lược
phát triển và đẩy mạnh việc du lịch tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn năm
2011 - 2020, Luông Pra Băng.
38. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Luông Pra Băng (2013), Báo cáo việc thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn năm 2012 - 2013 và định
hướng phát triển giai đoạn 2013 - 2014, Luông Pra Băng.
39. Tạp chí khoa học - xã hội quốc gia Lào (2011), Một số ảnh hưởng của du
lịch tác động đến kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường của Lào.
40. Thatsadaphone MEEXAY (2006), Pháp luật về du lịch, có sự quan trọng
nhất đối với việc phát triển và khuyến khích du lịch của Lào, Tạp chí du
lịch Mương Lao.
41. Thong Sa Văn BUN LỚT (2013), Phát triển khu di sản quốc gia ở huyện
Viêng Xay tỉnh Hua Phăn trở thành điểm du lịch lịch sử Tạp chí Lý luận
Chính trị - Hành chính.
B. Tiếng Việt
42. Trần Xuân Ảnh (2011), Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập
kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
43. Báo Ninh Bình (2015), Ninh Bình tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy
phát triển du lịch, http://www.dulichninhbinh.com.vn/ ninhbinh-
news/Ninh-Binh-Tap-trung-khac-phuc-yeu-kem-thuc-day-phat-trien-du-
lich.html, [truy cập ngày 11/7/2018].
44. Phạm Hồng Chương (2003), Khai thác và mở rộng thị trường du lịch
quốc tế của các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội, Luận án Tiến
sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
45. Văn Dương (2017), Tình hình du lịch Việt Nam, cơ hội thách thức trong
hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu phát triển du
lịch (ITRD), Hà Nội.
156
46. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (Đồng chủ biên) (2008), Giáo
trình kinh tế du lịch, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
47. Nguyễn Thu Hạnh (2011), Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du
lịch biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ, Đề tài khoa học cấp
bộ, Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch, Hà Nội.
48. Đinh Thị Thanh Hiền (2013), Phân tích thị trường khách du lịch Phượt,
Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, Tổng cục
Du lịch Việt Nam, Hà Nội.
49. Hoàng Thị Lan Hương (2011), Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại
vùng du lịch Bắc Bộ của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
50. Nguyễn Trùng Khánh (2012), Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông Á
và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện
Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
51. Định Trung Kiên (2005), Một số vấn đề về du lịch Việt Nam, NXB Kim
Đồng, Hà Nội.
52. Hoàng Thị Ngọc Lan (2008), Thị trường du lịch tỉnh Hà Tây, Luận án
Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
53. Robert Lanquar (1993), Kinh tế du lịch, NXB Thế giới, Hà Nội.
54. Robert Lanquar, Robert Hollier (1992), Marketing du lịch, NXB Thế
giới, Hà Nội.
55. Nguyễn Thị Hồng Lâm (2013), Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc trung bộ
trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
56. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
157
57. Nguyễn Văn Lưu (2009), Thị trường du lịch, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
58. Phạm Trung Lương (Chủ nhiệm) (2008), Cơ sở khoa học phát triển du
lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Viện Nghiên cứu và Phát triển du lịch, Hà Nội.
59. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Mạnh, Phạm Hồng Chương (2009), Giáo trình Quản trị kinh
doanh lữ hành, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Mạnh, Lê Chí Công (2013), "Chất lượng điểm đến: nghiên
cứu và so sánh giữa hai thành phố du lịch biển Việt Nam", Tạp chí Phát
triển kinh tế, (269), tr.2-10.
62. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001), Kinh tế du lịch và du lịch
học, NXB Trẻ, Hà Nội.
63. Vũ Đức Minh (2004), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, Luận án Tiến sĩ
Kinh tế, Trường Đại học Thương Mại, Hà Nội.
64. Nguyễn Quỳnh Nga (Chủ nhiệm) (2000), Nghiên cứu và đánh giá một số
đặc điểm của thị trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát triển nguồn
khách của du lịch Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu
và Phát triển du lịch, Hà Nội.
65. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Du
lịch, số 09/2017/QH14, ngày 19/6/2017, Hà Nội.
66. Trương Sĩ Quý (2002), Phương hướng và một số giải pháp về đa dạng
hóa loại hình và sản phẩm du lịch ở Quảng Nam Đà Nẵng, Luận án Tiến
sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
158
67. Hà Văn Siêu (2010), Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách
thức đối với du lịch Việt Nam bước sang thập kỷ tới 2011-2020,
http://laichau.tourism.vn, [truy cập, 20/8/2018].
68. Hoàng Đức Thân (2003), Tổ chức và kinh doanh trên thị trường hàng
hóa và dịch vụ ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
69. Phạm Thị Thúy (2008), Thị trường dịch vụ ở Hải Phòng trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Tổng hợp (2017), Ninh Bình - Vùng đất giàu tiềm năng về du lịch,
http://dulichninhbinh365.com/ninh-binh-vung-dat-giau-tiem-nang-ve-du-
lich, [truy cập ngày 25/6/2018].
71. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học và công nghệ
(2017), Thị trường du lịch Việt Nam đang thay đổi do sự phát triển của
công nghệ, Hà Nội.
72. Nguyễn Anh Tuấn (2010), Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
73. Nguyễn Thị Tú (2006), Những giải pháp phát triển du lịch sinh thái Việt
Nam trong xu thế hội nhập, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, trường Đại học
Thương mại, Hà Nội.
74. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2000), Thị trường du lịch ASEAN và
hướng khai thác của du lịch Việt Nam, Hà Nội.
75. Viện Nghiên cứu phát triển du lịch (2000), Nghiên cứu và đánh giá một
số đặc điểm của thị trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát triển
nguồn khách của du lịch Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
Hà Nội.
76. Bùi Thị Hải Yến (2009), Giáo trình Quy hoạch du lịch, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
159
C. Tiếng Anh
77. Andy Wehkamp (2009), The Market for Responsible Tourism Products
in Latin America and Nepal, ISBN 978-90-77821-29-9, 2009 SNV
Netherlands Development Organisation.
78. Ajana (2015), The contribution of tourism development to economic
growth of Sweden: A panel data approach, http://lup.lub.lu.se/luur/,
August, [truy cập ngày 22/8/2018].
79. Burn Peter and Holden Andrew (1995), Tourism - A new perspective,
Prentice Hall, London
80. Burkart and Medlik (1986), Tourism: past, present and future, William
Heinemane Ltd. Great Britain, No.Ed.2 pp.xiv+366pp, ISBN:
434901954.
81. Cassidy Downs (2017), The Importance Of Travelin, www.theodysse
yonline.com/, [truy cập ngày 18/5/2019]
82. Cevat Tosun (2000), Limits to community participation in the tourism
development process in developing countries, Tourism Management 21,
http://dspace.bilkent.edu.tr/, [truy cập ngày 25/10/2018].
83. Crouch và Ritchie (2003), Brazil (2010), Effect of Memorable Tourism
Experiences to Destination Competitiveness, http://www.aijssnet.
com/journals/Vol_5_No_4_August_2016/8.pdf, [truy cập ngày
15/12/2018].
84. David Scowsill (2017), Travel & Tourism Economic impact 2017 Laos,
World travel & Tourism Council, http://www.wttc.org/, [truy cập ngày
18/2/2019].
85. Didactic Encyclopedia (2013), http://www.wttc.org/, [truy cập ngày
15/5/2019].
86. Edyta Gheribi (University of Łódź, Poland) (2015), Factors affecting the
development of catering enterprises in Poland, Scientific Journal
Economic problems of Tourism No. 876, vol. 3 (31) 2015.
160
87. Institute for Tourism Researchin Northern Europe (N.I.T). (2010), Key
factors for successful sustainable heritage tourism in the Baltic Sea Region,
May 2010.
88. Javid Seyidov, Roma Adomaitienė (Vilnius University, Lithuania)
(2016), Factors influencing local tourists' decision-making on choosing a
destination a case of Azerbaijan, Online ISSN 2424-6166. ekonomika
2016 Vol. 95(3), DOI: http://doi.org/10.15388/ Ekon.2016.3.10332, [truy
cập ngày 22/2/2019].
89. Jan-Erik Jaensson (2015), Market Orientation in the Tourism Industry,
http://www.researchgate.net, [truy cập ngày 10/8/2018].
90. John Brohman (Simon Fraser University, Canada) (1996), New
diredtions in tourism for third World development, Annals of Tourism
Research, Vol. 23, No. I, pp. 48-70, 1996.
91. John Tribe (1995), The Economics of Leisure and Tourism, Butterworth -
Heineann Ltd.
92. Komain Kantawateera, Aree Naipinit, Thongphon Promsaka Na Sakolnakorn
& Patarapong Kroeksakul (2015), Tourist Transportation Problems and
Guidelines for Developing the Tourism Industry in Khon Kaen, Thailand,
Asian Social Science; Vol. 11, No. 2; 2015 ISSN 1911-2017.
93. Managing Editor (2015), Brand USA and the importance of the World
Travel Market, March 17.
94. Minoo Farhangmehr & Cláudia Sim [otilde]es PhD (2008), Factors
Affecting Hotel Industry Development in Portugal, Journal of Hospitality &
Leisure Marketing Volume 6, 1999 - Issue 1, Pages 23-46 | Published
online: 20 Oct 2008.
95. Monika Bédiová, Kateřina Ryglová (2015), The Main Factors Influencing
the Destination Choice, Satisfaction and the Loyalty of Ski Resorts
Customers in the Context of Different Research Approaches,
http://acta.mendelu.cz, [truy cập ngày 15/5/2019]
161
96. Marina Novelli, Birte Schmitz, TrishaSpencer (2006), Networks, clusters
and innovation in tourism: A UK experience, Tourism Management,
Volume 27, Issue 6, December 2006, Pages 1141-1152
97. Mehdi Abzari (2011), The Effect of Internal Marketing on Organizational
Commitment from Market-Orientation Viewpoint in Hotel Industry in
Iran, International Journal of Marketing Studies, Vol. 3, No. 1; February
2011.p 147-155.
98. Nguyen Van Thanh, Nguyen Quang Vu (2017), Some solutions to
diversify tourist products in the orchard of Lai Thieu, International
Journal of Scientific Research and Innovative Technology ISSN: 2313-
3759 Vol. 4 No. 11; November 2017.
99. Robert Morello, Factors Affecting Marketing in Travel and Tourism,
Chron, http://smallbusiness.chron.com/, [truy cập ngày 8/2/2019].
100. Rochelle Turner (Research Director) (2018), Travel & Tourism
Economic impact 2018 Laos, World travel & Tourism Council,
http://www.wttc.org/, [truy cập ngày 4/10/2018].
101. Sam Weston (2015), The Growing Importance of Travel & Tourism to
the Global Economy [infographic], http://www.hotelspeak.com, [truy
cập ngày 4/10/2018].
102. Susan Hanson (1980), The importance of the multi-purpose journey to
work in urban travel behavior, Springer Link, October 1980, Volume 9,
Issue 3, pp 229-248.
103. Somruthai Soontayatron (2013), Thai Interpretation of Socio-cultural
Impacts of Tourism Development in Beach Resort, Chulalongkorn,
Bangkok, Thái Lan, 2013, 2 (2), tr 29-35.
104. Shamilka Rasheed (2015), The importance of the Muslim travel market,
http://www.crescentrating.com/, [truy cập ngày 28/10/2018].
162
105. Salah Hassan (2000), Determinants of Market Competitiveness in an
Environmentally Sustainable Tourism Industry, Article in Journal of
Travel Research, February 2000.
106. Tourism Market (2018), Global Industry Analysis and Opportunity
Assessment 2014 - 2020, http://www.futuremarketinsights.com/, [truy cập
ngày 4/10/2018].
107. Tourism Tattler (2014), 20 Niche Tourism Groups), http://www.
tourismtattler.com/articles/niche-tourism/20-special-interest-tourism,
[truy cập ngày 4/10/2018].
108. Nguyen Thi Khanh Chi, Ha Thuc Vien (2012), Factors influencing
Vietnam's tourism development, http://www.researchgate.net/, [truy cập
ngày 4/2/2019].
109. Vicki Gelfeld (2016), Travel Research: 2017 Travel Trends, AARP,
November.
110. Viktoriia Riashchenko, Marga Zivitere, Liubov Kutyrieva (2015), The
problems of development of the Ukrainian tourist market and ways of
their solutions, ISMA University, Lomonosova Str.8, LV-1019 Riga,
Latvia, March 2015.
111. Wiki Didactic (2013), What is the meaning of Tourism market? Concept,
Definition of Tourism market, http://edukalife.blogspot.com/, [truy cập
ngày 2/10/2018].