HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

SOMSANITH KENEMANY

THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRABĂNG,

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

SOMSANITH KENEMANY

THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRABĂNG,

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. AN NHƯ HẢI

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập

của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Somsanith KENEMANY

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang 1

8 8 22

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH 1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến thị trường du lịch 1.2. Những nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến thị trường du lịch 1.3. Nhận xét chung về những công trình nghiên cứu có liên quan

đến đề tài luận án và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 24

29 29

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ THỊ TRƯỜNG DU LỊCH 2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thị trường du lịch 2.2. Nội dung phát triển thị trường du lịch, tiêu chí đánh giá và các

49 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nó

2.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch của một số tỉnh trong

và ngoài nước 62

69

Chương 3: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 3.1. Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã

hội của tỉnh Luông Pra Băng trong phát triển thị trường du lịch 69

3.2. Quá trình phát triển thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng

goai đoạn 2011 - 2018

3.3. Đánh giá thực trạng thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng 79 101

111

111

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG ĐẾN NĂM 2025 VÀ TÂM NHÌN ĐẾN NĂM 2030 4.1. Bối cảnh và phương hướng phát triển thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 4.2. Giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị trường du lịch ở tỉnh

125 Luông Pra Băng

149

KẾT LUẬN

151

CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN : Association of Southeast Asian Nations (Hiệp

hội các nước Đông Nam Á)

ASEANTA : ASEAN Tourism Association (Hiệp hội

du lịch ASEAN)

CHDCND Lào : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

CHXHCN Việt Nam : Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

: Du lịch của các nước ASEAN EATOP

: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm GDP

trong nước)

LAK (Tiền kíp Lào) : Tiếng Lào: ກບ ີ

: Meeting Incentive Convention Event/ MICE

Exhibition (Du lịch kết hợp với tổ chức các sự

kiện triển lãm, hội nghị, hội thảo…)

PATA : Pacific Asia Travel Tourism Association (Hiệp

hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương)

: Thị trường du lịch TTDL

: World Tourism Organization (Tổ chức du lịch UNWTO

thế giới)

UNDP : United Nations Development Programme

(Chương trình phát triển Liên hợp quốc)

UNESCO : United Nations Educational Scientific and

Cultural Organization (Tổ chức giáo dục, khoa

học và văn hóa Liên hợp quốc).

: United States dollar (Đồng đô la Mỹ) USD

: World Trade Organization (Tổ chức thương WTO

mại thế giới)

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn năm

2011 - 2018 72

Bảng 3.2: Số lượng dự án đầu tư trên địa bàn Luông Pra Băng qua

các năm từ 2011 - 2018 73

Bảng 3.3: Các khu du lịch ở 4 huyện miền bắc năm 2018 76

Bảng 3.4: Các khu du lịch ở 5 huyện miền trung năm 2018 76

Bảng 3.5: Các khu du lịch ở 3 huyện miền nam năm 2018 77

Bảng 3.6: Số khách sạn, Nhà nghỉ - Resorts, Nhà hàng và sự tương

tác ở Lào và tỉnh Luông Pra Băng năm 2015 - 2018 89

Bảng 3.7: Cơ sở lưu trú du lịch của tỉnh Luông Pra băng (năm

2011 - 2018) 89

Bảng 3.8: Doanh nghiệp lữ hành và lưu trú tại Luông Pra Băng

năm 2011 - 2018 95

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thị trường du lịch (TTDL) là một bộ phận cấu thành của thị trường

dịch vụ trong hệ thống các loại thị trường của nền kinh tế. Trên thị trường này

diễn ra quan hệ giữa người bán và người mua sản phẩm du lịch; các chủ thể

kinh tế tác động qua lại lẫn nhau để xác định mức giá và số lượng sản phẩm

du lịch cần mua, cần bán. Sự ra đời và phát triển của TTDL là kết quả tất yếu

của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của loài người đến một giai đoạn phát

triển nhất định, chỉ khi kinh tế thị trường đã phát triển, thu nhập của người

dân đã có thể đáp ứng cho nhu cầu về du lịch của họ.

Từ khi ra đời đến nay, TTDL ngày càng trở nên có vai trò quan trọng

trong tạo việc làm, thu nhập với mức đóng góp vào nền kinh tế ngày càng

tăng và có sức lôi cuốn sự phát triển của các ngành kinh tế khác ở trong nước.

Thực tế ở nhiều nước đã cho thấy, kinh tế du lịch là một trong những ngành

có tốc độ phát triển nhanh nhất, đóng góp khoảng 9% GDP, chiếm 8% lao

động và khoảng 30% xuất khẩu toàn thế giới. Các quốc gia đều đánh giá cao

tầm quan trọng của ngành du lịch trong đó có TTDL. Từ quan điểm kinh

doanh du lịch là ngành "công nghiệp mũi nhọn", là ngành "kinh tế tổng hợp",

ngành "công nghiệp không khói", có tính đặc thù, nhiều nước đã đặt ra yêu

cầu cần được ưu tiên phát triển ngành kinh tế này.

Trong những năm đổi mới vừa qua, TTDL ở Cộng hòa Dân chủ Nhân

dân Lào (CHDCND Lào) đã có những bước phát triển quan trọng. Du lịch đã

trở thành ngành kinh tế phát triển nhanh nhất và đóng vai trò quan trọng đối với

nền kinh tế Lào. Thống kê cho thấy, hàng năm có khoảng 5 triệu lượt du khách

trong nước và 4,8 triệu lượt du khách quốc tế đến với các danh lam thắng cảnh,

di tích lịch sử và các loại hình du lịch khác ở Lào. Năm 2017, ngành du lịch đã

tạo ra 136.000 việc làm chiếm 3,4% tổng số việc làm trong toàn xã hội, đóng

góp 28.119,7 tỷ kíp (LAK) tương đương 3,4 tỷ đô la Mỹ (USD), chiếm 13,4%

GDP; tăng trưởng du lịch đạt 7,8% cao hơn mức tăng GDP của cả nước cùng

kỳ (6,7%) [84, tr.3].

2

Luông Pra Băng là tỉnh nằm ở phía Bắc của nước CHDCND Lào, cách

thủ đô Viêng Chăn 420 km, là cửa ngõ nối các tỉnh miền Bắc với thủ đô Viêng Chăn. Với diện tích 16.875 km2, trong đó rừng núi cao chiếm 85%.

Toàn tỉnh có 11 huyện và 1 thành phố, với dân số là 454.095 người, có thành

phố Luông Pra Băng là trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của

tỉnh. Luông Pra Băng còn là một tỉnh nằm trong vùng chính của TTDL ở Lào

có các điểm du lịch văn hóa, lịch sử, thắng cảnh, những vùng núi hoang sơ

cùng nhiều vùng quê thanh bình. Các điểm du lịch chính của Luông Pra Băng

là khu di sản văn hóa thế giới thành phố Luông Pra Băng với rất nhiều các lễ

hội đặc sắc của các dân tộc, ngoài ra còn có các di tích lịch sử và thiên nhiên

trải đều ở các huyện trong tỉnh. Được sự quan tâm của chính quyền Trung

ương và trực tiếp là cấp tỉnh, trong thời gian gần đây, TTDL Luông Pra Băng

đã đón trên 2,5 triệu du khách trong nước và quốc tế mỗi năm. TTDL của tỉnh

Luông Pra Băng được hình thành và phát triển có sự tham gia của nhiều thành

phần kinh tế đã góp phần huy động được nhiều tiềm năng về lao động, vốn,

kỹ thuật… vào lưu thông. Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch

nhân văn của tỉnh được khai thác một cách có hiệu quả hơn, thu hút ngày

càng đông du khách trong nước và quốc tế. Sự mở rộng và đa dạng hóa các

loại hình kinh doanh du lịch đã góp phần phát triển kinh tế, giải quyết việc

làm và thu nhập cho người lao động của tỉnh. Những kết quả đạt được của

TTDL tỉnh Luông Pra Băng đã góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn, thay đổi bộ mặt nông thôn, làng bản

nơi có tiềm năng du lịch. Quản lý nhà nước đối với thị trường từng bước đi

vào nền nếp, tạo nên sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh của thị trường.

Bên cạnh những kết quả đó, trước yêu cầu mới của đất nước, sự phát

triển của TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng còn nhiều hạn chế, bất cập. Khách du

lịch trong nước và quốc tế đến Luông Pra Băng chưa nhiều, thời gian lưu trú

ít và mức chi tiêu của du khách thấp. Sản phẩm du lịch chưa thật phong phú,

chưa khắc phục được tính mùa vụ; chưa phát huy được lợi thế của địa phương

và tài nguyên du lịch để tạo ra sản phẩm du lịch đặc sắc và có hiệu quả cao.

3

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm du lịch ở cấp quốc gia,

quốc tế chưa cao; quan hệ cung - cầu, giá cả hàng hóa, dịch vụ chưa ổn

định. Quản lý nhà nước chưa theo kịp để hướng dẫn, giám sát hoạt động

của thị trường, chưa phát huy hết mặt tích cực và hạn chế tính tiêu cực của

cơ chế thị trường,… Những mặt hạn chế đó cần có sớm có giải pháp khắc

phục để phát triển TTDL theo hướng bền vững, thật sự đưa ngành du lịch

của tỉnh trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần tạo sự đồng bộ các

loại thị trường cho hoạt động của nền kinh tế, thúc đẩy hội nhập quốc tế

ngày càng sâu, rộng hơn. Để giải quyết vấn đề này, cần có những nghiên

cứu cơ bản về lý luận và đánh giá một cách khoa học thực tiễn TTDL của

tỉnh Luông Pra Băng. Để góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên nhằm

thúc đẩy TTDL tỉnh Luông Pra Băng phát triển bền vững trong thời gian

tới, Nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: "Thị trường du lịch ở tỉnh Luông

Pra Băng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" để nghiên cứu làm luận án

tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về TTDL trên địa

bàn một tỉnh ở nước CHDCND Lào trong điều kiện hiện nay, phân tích và

đánh giá thực trạng TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng từ năm 2011 đến nay, chỉ ra

điểm mạnh, điểm yếu của thị trường này để đề xuất phương hướng và các giải

pháp thúc đẩy phát triển đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

của nước nước CHDCND Lào thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, thu thập và hệ thống hóa lý luận về TTDL trên địa bàn một

tỉnh trong điều kiện mới của kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, xây dựng

khung lý thuyết cơ bản để nghiên cứu các quan hệ kinh tế và lợi ích trên thị

trường này. Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về phát triển TTDL của một số

tỉnh, thành phố trong và ngoài nước để rút ra bài học cho sự phát triển ở tỉnh

Luông Pra Băng.

4

Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng TTDL tỉnh Luông Pra Băng

giai đoạn từ năm 2011 đến nay, làm rõ điểm mạnh, điểm yếu, hạn chế và

nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển thị trường này.

Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển TTDL

ở tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng tiếp cận các quan hệ kinh tế

xã hội và lợi ích, hình thức tổ chức, cơ chế vận hành và xu hướng phát triển

mới của kinh tế thị trường hội nhập quốc tế của nước CHDCND Lào.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các quan hệ kinh tế trên TTDL gồm

hình thức tổ chức, cơ chế vận hành, quan hệ phân phối và lợi ích kinh tế giữa

các chủ thể trên thị trường này dưới góc độ kinh tế chính trị học để tìm giải

pháp thúc đẩy phát triển.

Phạm vi về không gian: Tác giả chọn phạm vi nghiên cứu thực trạng và

đề xuất giải pháp trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng, nước CHDCND Lào.

Việc nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển TTDL của một số tỉnh, thành phố

được ở trong và ngoài nước.

Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng TTDL giai đoạn 2011 -

2018; đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển đến năm 2025,

tầm nhìn đến năm 2030.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên những quan điểm và phương pháp tiếp cận của chủ

nghĩa Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

để làm rõ cơ sở lý luận về TTDL trong điều kiện mới của kinh tế thị trường và

hội nhập; dựa trên đường lối, chính sách về phát triển kinh tế và các thị

trường nói chung, TTDL nói riêng của Đảng và Nhà nước nước CHDCND

Lào để phân tích, đánh giá thực tiễn và đề xuất phương hướng, giải pháp thúc

đẩy phát triển.

5

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện một đề tài thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, nghiên

cứu sinh sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:

Chương 1, sử dụng phương pháp thu thập, phân loại tài liệu bao gồm

các công trình nghiên cứu thuộc cấp Bộ ngành và quốc gia, các đề tài của

nghiên cứu sinh, các sách báo đã công bố có liên quan đến chủ đề nghiên cứu

của luận án. Sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu để xác định những kết

quả đạt được của các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài luận án,

xác định khoảng trống về lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục giải quyết và

xác định hướng nghiên cứu, điểm mới của đề tài luận án mà nghiên cứu sinh

lựa chọn.

Chương 2, sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để tìm hiểu

bản chất, mối liên hệ giữa các lực lượng cung - cầu, giá cả và cơ chế vận hành

TTDL, vạch ra tính tất yếu và xu hướng có tính quy luật chi phối sự phát triển

của thị trường này. Sử dụng phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử, phương

pháp phân tích và tổng hợp để làm rõ vai trò của TTDL, nội dung, điều kiện

và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường này. Để nghiên cứu

kinh nghiệm thực tiễn về phát triển TTDL, tác giả dựa trên khung lý thuyết đã

xác định, sử dụng các phương pháp thu thập tài liệu và phân tích, tổng hợp để

tìm ra bài học để tỉnh Luông Pra Băng có thể tham khảo.

Chương 3, sử dụng cả phương pháp định tính và phương pháp định

lượng, sử dụng các phương pháp thu thập và xử lý thông tin, thống kê, mô tả,

bảng số liệu, đồ thị… để phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu với lý luận, đánh

giá thực trạng TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, hạn

chế và nguyên nhân hạn chế của thị trường này từ năm 2011 đến nay.

Sử dụng phương pháp phân tích vào xác định kết quả đạt được trong

phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng, xác định nhân tố tác động đến tình

hình. Phương pháp tổng hợp được sử dụng vào tổng hợp kết quả nghiên cứu và

nguyên nhân dẫn đến những điểm yếu, hạn chế trong phát triển TTDL ở tỉnh.

6

Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng để phân tích, đánh giá, so

sánh tình hình phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng trong giới hạn thời

gian phân tích đối tượng nghiên cứu.

Nguồn tài liệu nghiên cứu sử dụng trong luận án chủ yếu là tài liệu thứ

cấp và từ hiểu biết thực tế của bản thân khi trực tiếp làm công tác quản lý

trong tỉnh Luông Pra Băng. Các tài liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn

chính thức trên các báo cáo và được công bố trên các sách, báo, tạp chí và các

công trình nghiên cứu có liên quan ở trong và ngoài nước; các tài liệu của các

cơ quan quản lý ngành du lịch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Văn phòng Chính

phủ nước CNDCND Lào và các số liệu chính thức của tỉnh Luông Pra Băng

trong phạm vi thời gian mà luận án xác định nghiên cứu.

Chương 4, sử dụng phương pháp dự báo để làm rõ các yếu tố tác động

đến TTDL, dự báo xu hướng và triển vọng phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra

Băng, nước CNDCND Lào trong 10 năm tới.

Sử dụng phương pháp tổng hợp dựa trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm các

tỉnh, thực trạng TTDL và định hướng chiến lược phát triển của tỉnh Luông Pra

Băng để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị

trường này trên địa bàn của tỉnh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp hệ thống

thông qua kế thừa và tiếp thu có chọn lọc một số kết quả nghiên cứu của các

công trình khoa học đã công bố có liên quan đến TTDL ở trong và ngoài nước

để tránh sự lặp lại không cần thiết và góp phần bảo đảm tính liên tục trong tư

duy khoa học.

5. Những đóng góp về khoa học của luận án

5.1. Đóng góp về lý luận

Góp phần bổ sung và hoàn thiện lý luận về TTDLở tỉnh Luông Pra

Băng trong điều kiện mới của phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

của nước CHDCND Lào, với các nội dung sự cần thiết phải phát triển TTDL,

7

nội dung, tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển TTDL ở

một tỉnh của CHDCND Lào hiện nay.

5.2. Đóng góp về thực tiễn

Rút ra bài học về phát triển TTDL cho tỉnh Luông Pra Băng trong thời

gian tới từ kinh nghiệm phát triển TTDL của một số tỉnh trong nước và quốc tế.

Tổng kết, đánh giá đúng, khách quan thực trạng TTDL ở tỉnh Luông Pra

Băng, nước CHDCND Lào giai đoạn 2011 - 2018, đề xuất phương hướng và

giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị trường này ở tỉnh Luông Pra Băng,

CHDCND Lào đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

- Bên cạnh đó, kết quả của luận án còn là tài liệu tham khảo cần thiết

cho những nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách và nghiên cứu giảng dạy ở

các trường đại học và cao đẳng có liên quan đến đào tạo ngành du lịch của

tỉnh Luông Pra Băng nói riêng và của nước CHDCND Lào nói chung.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận án bao gồm 4 chương, 11 tiết.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ

TRƯỜNG DU LỊCH

1.1.1. Nghiên cứu về bản chất và hình thức tổ chức thị trường du lịch

Trong "Didactic Encyclopedia" (Bách khoa toàn thư) [85] nêu khái

niệm: TTDL là nơi cung cấp dòng chảy và nhu cầu của các sản phẩm và dịch

vụ du lịch. TTDL bao gồm người mua và người bán. Các nhà cung cấp cung

cấp các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau có thể được điều chỉnh theo các

nhu cầu khác nhau và lý do mua hàng của người mua, vì vậy cần phải nhận

biết và phân loại các phân đoạn hoặc nhóm được phân biệt rõ ràng. Trong đó,

chỉ ra các yếu tố tạo nên TTDL, Nó được hình thành vào thế kỷ 19, khi những

tiến bộ của cuộc cách mạng công nghiệp cho phép con người di chuyển đến

các nơi khác với mục đích nghỉ ngơi, văn hóa, xã hội,...

Nghiên cứu thành phần của TTDL, có cuốn: "Marketing du lịch" của

Robert Lanquar và Robert Hollier [54], xác định những mốc lịch sử của tiếp thị

du lịch, khái niệm về tiếp thị du lịch; phân tích cung, cầu du lịch và một số yếu

tố khác cấu thành TTDL, lịch sử ra đời của tiếp thị du lịch. Nêu khuyến nghị

phát triển chiến lược tiếp thị du lịch: 1) phát triển mạng lưới bảo đảm việc

chuyên chở du khách có hiệu quả; 2) cải thiện các trang thiết bị tại các điểm du

lịch; 3) tăng cường phụ cấp cho một số dịch vụ tại chỗ; 4) áp dụng chính sách

giá mềm; và 5) cung về du lịch dựa vào cầu của từng nhóm khách du lịch,...

Trong cuốn: "Tourism: A New Perspective" (Du lịch: Một góc nhìn mới)

của Peter M. Burns và Andrew Holden [79] nêu nhận thức mới về du lịch,

thách thức thông thường và việc giải quyết vấn đề, đặc biệt là phát triển du lịch

như thế nào trong một hệ thống gia tăng toàn cầu hóa. Ba chủ đề nền tảng được

xác định là bền vững, phía Bắc - Nam và tranh luận việc tìm kiếm một phương

pháp tiếp cận toàn diện đến đối tượng theo hướng đa dạng TTDL.

9

Cuốn: "Key factors for successful sustainable heritage tourism in the

Baltic Sea Region" (Yếu tố quan trọng cho thành công của du lịch di sản bền

vững tại vùng biển Baltic) [87] giới thiệu kết quả nghiên cứu khoa học về cấu

trúc và yếu tố chính cho sự thành công trong hoạt động du lịch di sản của các

doanh nghiệp, các cơ quan và các hiệp hội du lịch tại vùng Biển Baltic (BSR).

Nó có ý nghĩa cung cấp dữ liệu về thông tin TTDL và chi phí.

Cuốn: "Kinh tế du lịch và du lịch học" của Đổng Ngọc Minh và Vương

Lôi Đình (Trung Quốc) [62] phân tích cơ sở lý luận cơ bản về du lịch và kinh

tế du lịch, nêu khái niệm du lịch, khái quát kinh tế du lịch, sản phẩm du

lịch,TTDL, vai trò của kinh tế du lịch, quy hoạch xây dựng khu du lịch... Đây

là một tài liệu tham khảo có liên quan đến lý luận cơ bản và thực tiễn hoạt

động du lịch của Trung Quốc mà nước CHDCND Lào có thể tham khảo.

Ngoài ra, còn có các nghiên cứu: "Tourism principle and practice"

(Nguyên tắc và thực hành du lịch) của Cooper, C.Gilbert; "Tourism marketing

and management hand book" (Tiếp thị du lịch và sổ tay hướng dẫn quản lý) của

Moutinho, L.Witt, S.F; "The challenge of Tourism" (Thách thức du lịch) của

O’Grady, Alison; "Tourism Management" (Quản lý du lịch) của S. Wahab và

"Travel and tourism marketing" (Du lịch và tiếp thị du lịch) của Victor T.C

Middleton,... Các công trình này đã quan tâm đến bản chất và hình thức của

TTDL, về du lịch giải trí ngoài trời, du lịch thắng cảnh, du lịch văn hóa, du lịch

tâm linh..., kinh tế học thời gian rỗi, tiếp thị du lịch và quản lý TTDL.

Ngoài những công trình xuất bản bằng tiếng Anh và một số thứ tiếng

khác, như tiếng Việt, như cuốn sách: "Kinh tế du lịch" của Robert Lanquar,

giới thiệu các mốc lịch sử của ngành du lịch, đồng thời tác giả đã đi sâu phân

tích những ảnh hưởng của TTDL đến phát triển kinh tế, những công cụ và

phương tiện phân tích kinh tế học du lịch và kinh doanh du lịch.

Cuốn: "Giáo trình kinh tế du lịch" của tác giả Nguyễn Văn Đính và

Trần Thị Minh Hòa [46] đã tiếp cận dưới góc độ kinh tế du lịch, trong đó

cung cấp các tri thức cơ bản về khái niệm du lịch, khách du lịch, sản phẩm du

lịch và tính đặc thù của nó; lịch sử hình thành, xu hướng phát triển và tác

động kinh tế - xã hội của du lịch. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển

10

của du lịch thế giới; hệ thống hóa những xu hướng phát triển cơ bản của

cầu và cung du lịch trên thế giới và phân tích các tác động về kinh tế - xã

hội của du lịch đối với một địa bàn phát triển du lịch. Đánh giá ngành du

lịch Việt Nam từ khi ra đời nhất là từ khi đổi mới đến nay. Khẳng định vai

trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và những

khó khăn, hạn chế và nguyên nhân mà kinh tế du lịch Việt Nam phát triển

chưa ổn định, thiếu bền vững, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng du

lịch to lớn hiện có.

Cuốn: "Thị trường du lịch" của tác giả Nguyễn Văn Lưu [57] đã nêu

những vấn đề tổng quan về TTDL, gồm: Khái niệm và những đặc điểm của

TTDL, các loại TTDL, phân tích một số yếu tố cơ bản trên TTDL. Tác giả đã

phân tích hai yếu tố của TTDL đó là cầu và cung du lịch; phân tích TTDL thế

giới và TTDL các nước Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) làm cơ sở

để so sánh, đánh giá TTDL của Việt Nam.

Cuốn: "Giáo trình Quản trị kinh doanh lữ hành" của Nguyễn Văn

Mạnh và Phạm Hồng Chương [60] đã khái quát lịch sử phát triển kinh doanh

lữ hành, các nội dung cơ bản của kinh doanh lữ hành, cơ cấu tổ chức và quản

trị nhân lực của doanh nghiệp lữ hành, quan hệ giữa nhà cung cấp với nhà

kinh doanh lữ hành,… Phác họa thực trạng kinh doanh lữ hành ở Việt Nam

giai đoạn năm 1990 - 2004. Chỉ rõ xu hướng tiêu dùng du lịch và các giải

pháp nhằm phát triển kinh doanh du lịch lữ hành ở Việt Nam đến năm 2010.

Trong đề tài: "Phân tích thị trường khách du lịch Phượt" của Đinh Thị

Thanh Hiền [48] đã nghiên cứu về khái niệm, vai trò, đánh giá thực trạng và nêu

một số khuyến nghị về phát triển thị trường khách du lịch Phượt là người Việt

Nam nhằm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và kinh doanh của doanh

nghiệp trên TTDL. Đây là một hình thức kinh doanh du lịch mới, bổ ích cho đề

tài luận án của nghiên cứu sinh.

1.1.2. Nghiên cứu về vai trò của thị trường du lịch

Cuốn: "Tourism: past, present and future" (Du lịch - quá khứ, hiện tại

và tương lai) của Burkart and Medlik [80] đã xác định TTDL trong những

năm gần đây đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thương mại thế giới và

11

là một yếu tố quan trọng trong cán cân thanh toán của nhiều quốc gia, tăng

trưởng nhanh hơn thương mại hàng hóa. Du lịch tạo ra việc làm và sự giàu có

và trong nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa xã hội, chính trị, môi trường và văn hóa.

Cách tiếp cận cơ bản của tác giả là quan niệm về TTDL như một nghiên cứu

của chính nó trong đó kiến thức được xây dựng và kiểm tra một cách có hệ

thống. Đã cố gắng rút ra một sự tổng hợp giữa lý thuyết và thực tiễn và để

phản ánh bản chất năng động của TTDL nửa sau thế kỷ XX và bàn về các xu

hướng lịch sử.

Cuốn: "The Economics of Leisure and Tourism" (Kinh tế học về giải trí

và du lịch) của John Tribe [91], nghiên cứu xoay quanh các vấn đề về tổ chức

và quảng bá hoạt động giải trí và du lịch trong mối tương quan với môi trường

quốc tế; tác động của kinh doanh giải trí và du lịch đối với nền kinh tế quốc

gia, với các vấn đề về môi trường và đầu tư và quan tâm đến các phạm trù lợi

nhuận, doanh thu, chi phí vận hành...

Cuốn: "Thị trường dịch vụ ở Hải Phòng trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế" của tác giả Phạm Thị Thúy [69] nghiên cứu lý luận và thực tiễn về

đặc điểm và xu hướng phát triển của hai ngành dịch vụ gồm vận tải biển và du

lịch ở Hải Phòng. Xác định TTDL khái niệm về TTDL, chỉ ra xu hướng cạnh

tranh trên TTDL nhằm tìm kiếm điều kiện có lợi nhất trong việc cung ứng các

sản phẩm du lịch để khai thác tối đa các nhu cầu thị trường với năng lực hiện có.

Đề tài: "Cơ sở khoa học phát triển du lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc

Trung Bộ" của Phạm Trung Lương [58] đã đánh giá vị trí và vai trò của du

lịch đảo ven bờ trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc

phòng ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ của Việt Nam và trong phát triển du

lịch Hành lang Kinh tế Đông - Tây (EWEC). Đã phân tích đặc điểm tài

nguyên du lịch và các nguồn nhân lực có liên quan đến phát triển du lịch tại

các đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Thực trạng phát triển du lịch trên

các đảo, những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đối với phát triển

du lịch đảo ven bờ; Định hướng phát triển những sản phẩm du lịch biển, đảo

12

đặc trưng của các đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ trong mối quan hệ

với "cầu". Nghiên cứu phát triển TTDL bền vững gắn với hoạt động bảo tồn,

phát triển cộng đồng với xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an ninh, quốc phòng

và đề xuất các giải pháp đảm bảo sự phát triển du lịch đảo bền vững.

Bài: "Thai Interpretation of Socio-cultural Impacts of Tourism

Development in Beach Resort" (Giải thích các tác động xã hội văn hóa của Thái

trong phát triển du lịch tại Bãi biển) của Somruthai Soontayatron [103] đã

nghiên cứu về tầm quan trọng của Phật giáo trong văn hóa Thái, tư tưởng người

Thái. Lý thuyết trao đổi xã hội của cư dân sở tại là rất hữu ích cho việc đánh giá

tác động du lịch. Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan của nền văn hóa Thái Lan

vốn là cần thiết để giải thích cấu trúc xã hội của người dân về những tác động

văn hóa xã hội phát triển TTDL thoát ra khỏi cách giải thích văn hóa xã hội

thuần túy ở phương Tây.

Bài: "The importance of the Muslim travel market" (Tầm quan trọng

của TTDL Hồi giáo) của Shamilka Rasheed [104] đã phân tích TTDL Hồi

giáo, coi là một TTDL chi tiêu cao nhất thế giới. Điều quan trọng là các điểm

đến, doanh nghiệp và các thực thể liên quan đến du lịch phải cân nhắc nhu cầu

của phân đoạn thị trường này. TTDL Hồi giáo có tiềm năng to lớn nhưng

chưa được khai thác cho với nhiều cơ hội kinh doanh và mức tăng doanh thu

trong tương lai. Bởi vậy, cần phải đa dạng hóa TTDL để phát triển.

Ngoài ra, còn có các bài như: "The importance of the multi-purpose

journey to work in urban travel behavior" (Tầm quan trọng của hành trình đa

mục đích để làm việc trong hành vi du lịch đô thị) của Susan Hanson [102]; "The

Importance of Marketing in Tourism" (Tầm quan trọng của tiếp thị trong du lịch)

của Trudy Brunot, http://bizfluent.com/, Updated April 19, 2018 và các nghiên

cứu về tầm quan trọng của chuyến đi công tác đa mục đích trong mô hình du

lịch tổng thể của hộ gia đình thành thị. Có bài hướng vào xem xét bản chất

của các liên kết du lịch do công việc sinh ra,…

13

1.1.3. Nghiên cứu liên quan đến nội dung, các nhân tố ảnh hưởng

và kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch

- Nghiên cứu về nội dung phát triển thị trường du lịch

Cuốn: "Tổ chức và kinh doanh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ ở

Việt Nam" của Hoàng Đức Thân [68] nghiên cứu phát triển thị trường hàng

hóa, dịch vụ trong đó có TTDL ở Việt Nam trong tổng thể thị trường xã hội.

Cuốn: "Một số vấn đề về du lịch Việt Nam" của Định Trung Kiên [51] nêu và

phân tích những vấn đề cơ bản du lịch Việt Nam như: tài nguyên du lịch,

quản lý nhà nước về du lịch, qui hoạch phát triển du lịch, trong đó có quan

tâm tới một số vấn đề có liên quan đến TTDL.

Cuốn: "Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam" của tác

giả Nguyễn Anh Tuấn [72] hướng vào khái quát một số lý luận cơ bản về

cạnh tranh điểm đến trong phát triển du lịch; áp dụng một số mô hình và

phương pháp nghiên cứu mới để phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh

tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam; chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu,

cơ hội và áp lực cạnh tranh điểm đến đối với ngành du lịch Việt Nam, đề xuất

quan điểm, khuyến nghị chính sách và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh

điểm đến của ngành du lịch Việt Nam với những luận cứ chặt chẽ, toàn diện

và khả thi.

Trong cuốn: "Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế

quốc tế" của Trần Xuân Ảnh [42] nghiên cứu phân tích cơ sở lý luận, thực

tiễn TTDL và đánh giá thực trạng TTDL Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế

quốc tế, phác họa những thành tựu và vấn đề đặt ra cần khắc phục; dự báo

xu hướng phát triển TTDL quốc tế và quốc gia, để đề xuất phương hướng và

giải pháp phát triển thị trường này ở tỉnh Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế

quốc tế.

Cuốn: "Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại vùng du lịch Bắc Bộ

của Việt Nam" của tác giả Hoàng Thị Lan Hương [49] đã làm rõ cơ sở lý luận

về kinh doanh lưu trú du lịch, phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch,

14

xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển kinh doanh lưu trú du

lịch bền vững. Phân tích, tổng kết và rút những bài học kinh nghiệm quốc tế

từ nghiên cứu mô hình phát triển kinh doanh lưu trú du lịch bền vững của một

số nước ASEAN; phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp đột phá cho phát

triển các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch và các chủ thể quản lý nhà nước tại

vùng du lịch Bắc Bộ của Việt Nam.

- Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTDL

Bài: "Factors influencing Vietnam's tourism development" (Các yếu tố

ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của Việt Nam) của tác giả Nguyễn Thị

Khánh Chi và Hà Thục Viên [108] đã nghiên cứu điều tra trình độ của các nhà

phát triển du lịch và các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển ngành du

lịch tại 12 tỉnh, thành phố hấp dẫn nhất của Việt Nam (Quảng Ninh, Hà Nội,

Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Bình Thuận,

Bà Rịa-Vũng Tàu, Cần Thơ, Kiên Giang và TP HCM) được chọn ngẫu nhiên

để khảo sát, phỏng vấn với 32 biến đặt trước; phân tích dữ liệu bằng cách sử

dụng các công cụ phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi quy

tuyến tính đa tuyến tính (MLRA). EFA đã được sử dụng để thu hút 11 biến số

có liên quan nhất được phân thành ba nhóm: (i) Thành phần nội bộ của ngành

du lịch bao gồm hệ thống quản lý du lịch, hạ tầng du lịch, hạ tầng xã hội, bảo

hiểm kinh tế cho khách sạn, ứng dụng công nghệ trong du lịch; (ii) Các thành

phần bên ngoài ảnh hưởng đến ngành du lịch bao gồm môi trường chính trị,

môi trường văn hóa, môi trường cạnh tranh và (iii) Tài nguyên du lịch bao

gồm ý thức tốt về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, giá trị văn hóa.

Theo EFA, MLRA đã được áp dụng để xác định các biến số (yếu tố) chính

ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch Việt Nam, theo thống kê. Kết quả hồi quy

tuyến tính đa biến cho thấy ảnh hưởng của các nhóm yếu tố này đối với sự

phát triển du lịch Việt Nam với mức độ đáng kể là 1%. Đây là tài liệu có thể

gợi ý cho nghiên cứu sinh về phương pháp đánh giá định lượng tác động của

các nhân tố đến TTDL trong thực hiện đề tài luận án của mình.

15

Bài: "The Main Factors In fluencing the Destination Choice, Satisfaction

and the Loyalty of Ski Resorts Customers in the Context of Different Research

Approaches" của Monika Bédiová, Kateřina Ryglová [95] đã tóm tắt các

phương pháp khoa học trong nghiên cứu về sự lựa chọn điểm đến, sự hài lòng và

lòng trung thành của các khách hàng khu nghỉ mát trượt tuyết. Phân tích về các

mô hình và xu hướng hiện có từ các tạp chí khoa học để đưa ra phương thức

thích ứng, thu hút và "giữ chân" du khách tại các điểm du lịch trượt tuyết.

Ngoài ra, còn có những nghiên cứu thực tiễn ở một số nước để rút ra

những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTDL, như bài: "Factors

Affecting Marketing in Travel and Tourism" của Robert Morello [99]. Trong đó

bao gồm: Sự kiện, các mùa vụ, tỷ giá tiền tệ, mức độ phát triển của điểm đến

du lịch, hỗ trợ của Chính phủ, xu hướng du lịch. Bài: "Factors Affecting Hotel

Industry Development in Portugal" của TS Minoo Farhangmehr &TS Cláudia

Sim [94] đã bàn về sự cần thiết phải thích nghi và cải thiện nguồn cung cấp du

lịch để đáp ứng với động lực nhu cầu du lịch mới. Quá trình phát triển của

ngành khách sạn chịu ảnh hưởng của các yếu tố: hợp tác với các đơn vị khác;

dịch vụ và tùy biến khác biệt; sự hỗ trợ đa dạng từ các Ban Chính phủ; hỗ trợ

đào tạo; tính hấp dẫn của khu vực nơi đơn vị đặt; sự ủng hộ của gia đình và

cam kết của người quản lý đối với vốn của công ty; hỗ trợ tiếp thị; miễn thuế và

ưu đãi; quảng bá và mở rộng phạm vi dịch vụ. Bài: "Factors affecting the

development of catering enterprises in Poland" của Edyta Gheribi [86] đã

nghiên cứu sự phát triển của dịch vụ ăn uống phục vụ khách du lịch chắc chắn

liên quan đến những thay đổi kinh tế và xã hội diễn ra ở Ba Lan, đề xuất sự

phát triển ngành này ở tất cả các tỉnh cho cả người giàu và người nghèo. Bài:

"Factors influencing local tourists' decision-making on choosing a destination

a case of Azerbaijan"của Javid Seyidov, Roma Adomaitienė [88] đã phân tích

các yếu tố xã hội, văn hóa, cá nhân và tâm lý ảnh hưởng đến việc ra quyết

định của khách du lịch Azerbaijan để đi du lịch đến các loại điểm du lịch khác

nhau với các thuộc tính khác nhau như: điểm tham quan, tiện nghi, khả năng

tiếp cận, hình ảnh, giá cả và nguồn nhân lực thực hiện.

16

- Nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch

Cuốn: "Networks, clusters and innovation in tourism: A UK

experience" (Mạng, cụm và đổi mới trong du lịch: Kinh nghiệm của Vương

quốc Anh), nhóm tác giả Marina Novelli, Birte Schmitz và TrishaSpencer

[96] đã nêu quan niệm trong thời đại mà du lịch bị chi phối bởi các yêu cầu

trải nghiệm phù hợp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò chính trong việc

cung cấp đầy đủ các sản phẩm và dịch vụ cho khách du lịch bằng cách đáp ứng

các yêu cầu cụ thể nhất của họ. Bằng việc sử dụng mạng lưới và các cụm làm

khuôn khổ cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cơ hội đổi mới để hoạt

động trong môi trường du lịch cạnh tranh; tập trung vào các vấn đề cụ thể của du

lịch lối sống lành mạnh, lấy bài học ở nước Anh được để thảo luận về quy trình

và ý nghĩa của việc phát triển mạng lưới và cụm trong du lịch.

Nguyễn Trùng Khánh với cuốn: "Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông

Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam" [50] đã hệ thống hóa một số lý luận cơ

bản liên quan đến việc phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội

nhập quốc tế và kinh nghiệm của một số nước Đông Á gồm: Trung Quốc,

Malaysia và Thái Lan mà Việt Nam có thể tham khảo. Đánh giá thực trạng

phát triển dịch vụ lữ hành du lịch của Việt Nam và đề xuất giải pháp, kiến

nghị về chính sách phát triển dịch vụ này ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, còn có công trình có liên quan đến TTDL tiêu biểu như bài:

"Determinants of Market Competitiveness in an Environmentally Sustainable

Tourism Industryn" của Salah Hassan [105], trong đó xác định du lịch phải trải

qua những thay đổi đáng kể và đối mặt với những thách thức mới, nó đòi hỏi

những quan điểm mới. Ít nhất là: (1) các hình thức du lịch mới, được đặc trưng

bởi xu hướng khởi hành từ du lịch đại chúng; và (2) phổ biến công nghệ thông

tin và truyền thông, với tác động lan rộng đến việc tạo ra, sản xuất và tiêu thụ

sản phẩm du lịch. Thành công, hạn chế của hầu hết các nỗ lực khai thác các

ngóc ngách cơ hội đòi hỏi phải coi trọng trải nghiệm như một thuộc tính mới

17

quan trọng hoạch định các chiến lược, chính sách và sự tích hợp của khía cạnh

thông tin - xã hội TTDL,...

1.1.4. Nghiên cứu liên quan đến đánh giá thực trạng thị trường du lịch

Nguyễn Quỳnh Nga trong cuốn: "Nghiên cứu và đánh giá một số đặc

điểm của thị trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát triển nguồn khách

của du lịch Việt Nam" [64] đã nêu khái niệm về thị trường khách du lịch, các

nguồn khách, một số nhân tố ảnh hưởng và các nguyên tắc khai thác thị

trường khách; phân tích đặc điểm thị trường khách du lịch Nhật Bản và Trung

Quốc đến Việt Nam dựa trên kết quả điều tra xã hội học đối với khách du lịch

và đề xuất giải pháp khai thác nguồn khách này. Công trình nghiên cứu này

có ý nghĩa ứng dụng vào trong thực tiễn đối với ngành du lịch phát triển

TTDL, là tài liệu có ích cho việc phát triển lữ hành và quản lý du lịch.

Đề tài: "Thị trường du lịch ASEAN và hướng khai thác của du lịch Việt

Nam" của Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch [74] từ nghiên cứu về những

đặc điểm cơ bản của TTDL các nước ASEAN và xu hướng phát triển, mối

quan hệ, tác động của nó tới du lịch Việt Nam để xác định cơ sở khoa học cho

việc đề xuất các chính sách, phương hướng cho phát triển TTDL Việt Nam

nhằm khai thác một cách hiệu quả nhất TTDL này, góp phần tích cực trong

hội nhập du lịch Việt Nam theo xu hướng phát triển chung của các nước

ASEAN và thế giới.

Cuốn: "Thị trường du lịch tỉnh Hà Tây" của tác giả Hoàng Thị Ngọc Lan

[52] đã phân tích lý luận về cầu du lịch cho rằng đó là tổng số lượng sản phẩm

du lịch mà khách có khả năng và sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau

trong một khoảng thời gian nhất định. Cầu du lịch rất phức tạp và đa dạng, nó

phụ thuộc trước hết vào nhu cầu của du khách đối với các sản phẩm du lịch...

Từ đó, đánh giá thực trạng phát triển TTDL ở tỉnh Hà Tây, những yếu kém và

nguyên nhân; đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển

thị trường này trong thời gian tới.

Đề tài: "Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển quốc

gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ" của Nguyễn Thu Hạnh [47]. Các tác giả

18

đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về du lịch biển và phát triển khu

du lịch biển quốc gia. Nêu khái niệm mới về sản phẩm du lịch của khu du lịch

biển quốc gia, kinh nghiệm nước ngoài về phát triển khu du lịch biển. Phân

tích, đánh giá thực trạng của phát triển các khu du lịch biển Việt Nam tại

vùng Bắc Trung Bộ và đề xuất định hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển các

khu du lịch này đến năm 2020.

Hà Văn Siêu trong "Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức

đối với du lịch Việt Nam bước sang thập kỷ tới 2011 - 2020" [67] đã đưa ra

những nhận định tổng quát thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt

Nam giai đoạn 1995 - 2010, tìm điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức, đòi

hỏi bước sang thập kỷ tới đến năm 2020, tầm nhìn 2030 phải tái cấu trúc và thay

đổi mô hình tăng trưởng chuyển sang tập trung phát triển theo chiều sâu, có tính

lựa chọn và ưu tiên trọng điểm, có chất lượng và thể hiện ở thương hiệu nổi

bật, có giá trị gia tăng cao, đảm bảo hiệu quả bền vững và tăng cường năng

lực cạnh tranh.

Nghiên cứu đánh giá về thực trạng TTDL Việt Nam của tác giả Văn

Dương (2017) đã nêu bức tranh tổng quát về TTDL Việt Nam giai đoạn 2011

- 2017, năng lực cạnh tranh của ngành du lịch dựa vào bảng xếp TTCI của

Diễn đàn kinh tế thế giới (WRF) 2015, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội,

thách thức của du lịch Việt Nam trong hội nhập quốc tế; nêu quan điểm định

hướng mới trong phát triển du lịch. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích cho công

trình luận án của nghiên cứu sinh [45].

1.1.5. Nghiên cứu liên quan đến phương hướng và giải pháp phát

triển thị trường du lịch

- Nghiên cứu liên quan đến quan điểm và phương hướng phát triển TTDL

Bài: "New diredtions in tourism for third World development" (Những

hướng đi mới trong du lịch cho phát triển Thế giới thứ ba) của John Brohman

[90] đã phân tích sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch Thế giới thứ ba.

Tuy nhiên, cũng gặp phải nhiều vấn đề chung đối với các chiến lược phát

triển hướng ngoại, bao gồm: phụ thuộc nước ngoài quá mức, tạo ra các khu

19

vực riêng biệt, củng cố sự bất bình đẳng về kinh tế xã hội và không gian, hủy

hoại môi trường và văn hóa xa lánh. Để tránh những vấn đề như vậy, các cơ

chế thể chế cần được tạo ra để khuyến khích sự tham gia của Nhà nước và

cộng đồng vào kế hoạch du lịch.

Bài: "Limits to community participation in the tourism development

process in developing countries" (Giới hạn sự tham gia của cộng đồng vào quá

trình phát triển du lịch ở các nước đang phát triển) của tác giả Cevat Tosun [82]

phân tích và giải thích những hạn chế đối với phương pháp phát triển du lịch

có sự tham gia của cộng đồng tại các nước đang phát triển. Giới hạn hoạt động,

cấu trúc và văn hóa đối với sự tham gia của cộng đồng vào TTDL ở nhiều nước

này mặc dù chúng không tồn tại như nhau ở mọi điểm đến. Định hướng việc

xây dựng phát triển du lịch có sự tham gia đòi hỏi phải có sự thay đổi hoàn

toàn về cấu trúc xã hội, chính trị, hành chính và kinh tế của nhiều nước đang

phát triển, trong đó các lựa chọn chính trị và các quyết định hợp lý bên cạnh

sự của các cơ quan tài trợ quốc tế lớn, tổ chức phi chính phủ, nhà điều hành

tour du lịch quốc tế và các công ty đa quốc gia.

Bài: "The Effect of Internal Marketing on Organizational Commitment

from Market-Orientation Viewpoint in Hotel Industry in Iran" (Ảnh hưởng của

tiếp thị nội bộ đến cam kết tổ chức theo quan điểm định hướng thị trường

trong ngành công nghiệp khách sạn ở Iran) của tác giả Mehdi Abzari [97] đã

nhận dạng cách tiếp thị nội bộ ảnh hưởng đến cam kết của tổ chức kinh doanh

du lịch. Trong đó, đã sử dụng một bảng 30 câu hỏi để nghiên cứu 100 mẫu

quản lý và quản trị khách sạn tại tỉnh Isfahan của Iran có thử nghiệm bằng

phần mềm LISREL phân tích dữ liệu và rút ra kết luận tiếp thị nội bộ có ảnh

hưởng đến cam kết của tổ chức trực tiếp và gián tiếp thông qua định hướng thị

trường. Ảnh hưởng của các yếu tố này có ý nghĩa đối với cam kết của tổ chức

trực tiếp kinh doanh du lịch. Lượng chỉ số độ tốt (AGFI = 0,96, GFI = 0,99)

cho thấy sự phù hợp của mô hình.

Bài: "Market Orientation in the Tourism Industry" (Định hướng thị

trường trong ngành du lịch) của tác giả Jan-Erik Jaensson [89] cho rằng định

20

hướng thị trường là rất quan trọng đối với mỗi công ty, nhưng đặc biệt quan

trọng đối với các công ty trong ngành du lịch, vì hoạt động kinh doanh của họ

dựa trên các dịch vụ. Từ đó, xem xét các quan điểm của các nhà quản lý du

lịch về tầm quan trọng của các yếu tố liên quan đến định hướng thị trường.

Đây là một nghiên cứu giới thiệu cho một dự án nghiên cứu du lịch lớn hơn

bắt đầu từ năm 1999.

Trong cuốn: "Khai thác và mở rộng TTDL quốc tế của các doanh

nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội" của Phạm Hồng Chương [44] hướng vào

phân tích cơ sở lý luận về khai thác và mở rộng TTDL quốc tế của các doanh

nghiệp lữ hành trên TTDL quốc tế, khó khăn và thuận lợi, những điểm mạnh

và điểm yếu, thực trạng khai thác thị trường quốc tế của các doanh nghiệp lữ

hành trên địa bàn Hà Nội, phương hướng và giải pháp hoàn thiện kinh doanh

du lịch của các doanh nghiệp lữ hành Hà Nội, trong đó có nêu đánh giá và

khai thác điều kiện tự nhiên và tài nguyên Ba Vì phục vụ mục đích kinh

doanh du lịch.

Trong cuốn: "Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc trung bộ trong hội nhập

kinh tế quốc tế" của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lâm [55] đã phân tích cơ sở lý

luận và thực tiễn về kinh tế du lịch trong hội nhập quốc tế với các nội dung:

các bộ phận cấu thành, mối quan hệ giữa kinh tế du lịch với sự phát triển kinh

tế - xã hội và các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế du lịch; kinh nghiệm về phát

triển kinh tế du lịch của Trung Quốc, Thái Lan và Singapore; phân tích, đánh

giá thực trạng kinh tế du lịch, rút ra điểm mạnh, điểm yếu trong phát triển

kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và đề xuất những giải pháp chủ yếu

nhằm thúc đẩy phát triển.

Bài: "The problems of development of the Ukrainian tourist market and

ways of their solutions" (Những vấn đề phát triển của TTDL Ucraina và cách

giải quyết) [110], nhóm tác giả nêu quan điểm du lịch là hiện tượng chính trị xã

hội quan trọng, là một trong những thành phần quan trọng nhất của nền kinh tế

toàn cầu. Phân tích thực trạng thị trường dịch vụ khách sạn của Ukraine, môi

21

trường vĩ mô và vi mô của nó, những vấn đề cấp bách của phát triển ngành du

lịch ở quốc gia này.

- Nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển thị trường du lịch

Ngoài các nghiên cứu có tính tổng hợp cả về quan điểm, phương hướng

và giải pháp đã nêu trong tổng quan ở trên, gần đây còn có những nghiên cứu

sâu về giải pháp cho vấn đề này. Tiêu biểu là: Cuốn: "Những giải pháp phát

triển du lịch sinh thái Việt Nam trong xu thế hội nhập" của tác giả Nguyễn Thị

Tú [73] đã làm rõ khái niệm về du lịch sinh thái, yêu cầu và nội dung phát triển

du lịch sinh thái. Những cơ hội và thách thức đối với phát triển du lịch sinh thái

trong hội nhập. Phân tích kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái của một số

nước như: Australia, Newzealand, Pháp, Indonesia, Malaysia, Thái Lan,...và

xem xét điều kiện của Việt Nam, tác giả đã đánh giá thực trạng phát triển du

lịch sinh thái Việt Nam để đề xuất những giải pháp chủ yếu phát triển nó

trong giai đoạn tới.

Bài: "Some solutions to diversify tourist products in the orchard of Lai

Thieu" của tác giả Nguyễn Văn Thanh và Nguyễn Quang Vũ [98] nghiên cứu

giới thiệu vườn Lái Thiêu là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn cho du khách

đến tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do nhiều lý do

chủ quan và khách quan có ảnh hưởng sâu sắc đến thương hiệu du lịch vườn

Lái Thiêu. Xây dựng hình ảnh vườn cây ở Lái Thiêu là một vấn đề cấp thiết

cho sự phát triển du lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình

Dương nói chung. Ngoài các giải pháp kinh tế và kỹ thuật để khôi phục vườn

cây gắn liền với du lịch sinh thái, định hướng của tuyến đường và các tour để

phát triển du lịch là vấn đề cần được ưu tiên hàng đầu trong tương lai gần.

Ngoài ra, còn có các công trình, như: "Tourist Transportation Problems

and Guidelines for Developing the Tourism Industry in Khon Kaen, Thailand"

(Các vấn đề giao thông du lịch và hướng dẫn phát triển ngành du lịch ở Khon

Kaen, Thái Land), của nhóm nghiên cứu Komain Kantawateera, Aree Naipinit,

Thongphon Promsaka Na Sakolnakorn và Patarapong Kroeksakul [92] đã nghiên

cứu đề xuất giải pháp thiết kế bền vững với môi trường việc thúc đẩy phát triển

22

hệ thống giao thông công cộng và các cơ sở như vệ sinh công cộng, lối đi cho

người khuyết tật và người già tạo điều kiện cho phát triển TTDL ở tỉnh Khon

Kaen của Thái Lan.

1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ

TRƯỜNG DU LỊCH

Tại nước CNDCND Lào, việc nghiên cứu về du lịch đã được quan tâm

nhiều hơn trong những năm gần đây. Những nghiên cứu trong nước thường

hướng vào xác định cơ sở của việc hoạch định đường lối và chính sách phát

triển ngành du lịch, kinh nghiệm của các nước về phát triển ngành kinh tế này

và đã có một số nghiên cứu quan tâm đánh giá thực tiễn phát triển ngành du

lịch của nước CNDCND Lào thời gian qua. Dưới đây là những nghiên cứu

tiêu biểu có liên quan đến TTDL được công bố và xuất bản ở Lào.

Bài: "Một số ảnh hưởng của du lịch tác động đến kinh tế, văn hóa - xã

hội và môi trường của Lào" của Thatsadaphone MEEXAY [40]. Tác giả bài

viết nghiên cứu tới việc phát triển và khuyến khích du lịch, phân tích kinh

nghiệm của các chuyên gia, chủ yếu nghiên cứu đến vấn đề tổ chức thực hiện

pháp luật du lịch và đề xuất tới việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối

với ngành du lịch và góp phần định vào việc phát triển TTDL cho các cơ

quan, đơn vị và cá nhân của Lào.

Bài: "Một số ảnh hưởng của du lịch tác động đến kinh tế, văn hóa - xã

hội và môi trường của Lào" [39]. Bài viết đánh giá việc tác động đến đời sống

môi trường ở Lào, đã đưa ra phương hướng giải quyết nguyên nhân của

những hạn chế có thể tác động đến môi trường sống ở Lào. Tác giả của bài

viết còn chỉ ra những quy định, những kế hoạch và chiến lược về phát triển

TTDL của Lào và các ngành khác có liên quan tới vấn đề kinh tế - xã hội và

môi trường bền vững.

Cuốn: "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở

nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào" của Phutsady PHANYASITH [30] đã

nêu được những vấn đề về lý luận và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với

TTDL ở Lào, đưa ra khái niệm, đặc điểm và các điều kiện bảo đảm quản lý nhà

nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Lào. Nghiên cứu kinh nghiệm

23

của Việt Nam, Thái Lan, Malaysia; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với

hoạt động du lịch ở Lào qua 25 đổi mới, từ khi Quốc hội năm 2005 về Luật Du

lịch ban hành. Đề xuất mục tiêu và phương hướng phát triển TTDL ở Lào trong

thời gian tới, quan điểm và những giải pháp này nhằm bảo đảm quản lý nhà

nước về pháp luật đối với TTDL ở Lào.

Luận án: "Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào" của Som khith VONGPANNHA [35] tiếp cận từ

góc độ quản lý kinh tế hướng làm rõ những vấn đề lý luận và kinh nghiệm

thực tiễn quản lý nhà nước về du lịch cấp tỉnh, phân tích thực trạng, hạn chế

và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên

địa bàn tỉnh Bo Kẹo, CHDCND Lào đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

Bài: "Xúc tiến du lịch ở tỉnh Khăm Muộn" của tác giả Ma Nô Thong

PHÔNG SA VĂN [28] trên quan điểm du lịch là một ngành kinh tế quan

trọng đóng vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa

phương, tác giả phân tích xúc tiến du lịch; tầm quan trọng của xúc tiến du lịch

như nâng cao chức nâng nhiệm vụ, thúc đẩy việc du lịch được phát triển nâng

cao có hiệu quả và bảo đảm cho khách du lịch có hài lòng, xúc tiến du lịch

phải gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.

Bài : "Phát triển khu di sản quốc gia ở huyện Viêng Xay tỉnh Hua Phăn

trở thành điểm du lịch lịch sử" của tác giả Thong Sa Văn BUN LỚT [41]. Tác

giả được hệ thống hóa một số nội dung lý luận về di sản quốc gia, về du lịch lịch

sử và các quy định hợp lý quốc tế về bảo vệ di sản. Tác giả đi sau phân tích mối

quan hệ tương tác hai chiều giữa du lịch lịch sử và di sản quốc gia, những thuận

lợi và thách thức đặt ra từ phát triển du lịch lịch sử đối với việc bảo vệ nguyên

trạng di sản quốc gia ở huyện Viêng Xay tỉnh Hua Phăn; mô tả và phân tích các

trường hợp thực tế điển hình về sự thành công trong việc duy trì sự cân bằng và

khai thác hiệu quả yếu tố tích cực trong quan hệ tương tác du lịch lịch sử - di sản

quốc gia.

Bài: "Du lịch là một ưu tiên của sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Xiêng Khoảng" của tác giả Khăm Cọn UA NUÔN SA [27] đã giới thiệu về

24

địa lý vị trí của tỉnh và lợi thế về mặt du lịch tự nhiên, du lịch lịch sử, du lịch

văn hóa nổi tiếng, tiêu biểu nổi bật là điểm du lịch Cảnh Đồng Chum sẽ trở

thành di sản thế giới là điều kiện quảng bá thu hút khách du lịch đến Xiêng

Khoảng. Nội dung là đề cập đến vai trò và tầm quan trọng của kinh tế du lịch

đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Xiêng khoảng, trong đó nhấn mạnh

về số lượng khách du lịch và tổng thu nhập từ du lịch những năm 2011 - 2012

đã góp phần vào ngân sách của tỉnh để giúp cho tỉnh phát triển kinh tế - xã hội

trong địa bàn của mình.

Bài: "Sự phát triển khu du lịch tự nhiên ở tỉnh Sa La Văn" của tác giả

Pun Sắc SAY NHA SEN [29] chỉ ra lợi thế phát triển du lịch tự nhiên ở tỉnh

và tập trung vào các nhân tố như thị trường khách du lịch, thu nhập du lịch,

sản phẩm du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và không gian du lịch,

công tác quảng bá du lịch.

Bài: "Một số vấn đề tác động tiêu cực từ du lịch ở tỉnh Luông Pra

Băng" của tác giả Seng Ma Ni PHẾT SA VÔNG [34] phân tích tình hình phát

triển kinh tế du lịch của tỉnh trong thời gian gần đây, chỉ ra tác động tiêu cực

trong quá trình phát triển kinh tế du lịch của tỉnh đến một số mặt của kinh tế,

xã hội, văn hóa và môi trường.

1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Nhận xét chung về những công trình nghiên cứu có liên quan

đến đề tài luận án

Những kết quả đạt được

Các công trình, bài viết đã công bố trong và ngoài nước Lào nêu ở phần

trên đã nghiên cứu, giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về

TTDL. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về lý luận đã làm rõ một số nội dung cơ bản TTDL như: tính

tất yếu ra đời và phát triển của TTDL, vai trò của TTDL đối với phát triển ngành

kinh tế du lịch và đối với phát triển các ngành kinh tế khác, coi TTDL là bộ phận

của thị trường chung, phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du

25

lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua với người bán, giữa cung

với cầu và toàn bộ các mối quan hệ đặc điểm của TTDL.

Đã phân tích khá kỹ hai yếu tố cấu thành TTDL bao gồm cung và cầu

về du lịch và mối quan hệ giữa chúng. Một số công trình đã phân tích hình

thức của TTDL theo sản phẩm du lịch như du lịch sinh thái và du lịch văn hóa;

Hình thức của TTDL theo mục đích như du lịch nghỉ ngơi, du lịch văn hóa, du

lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch chữa bệnh, du lịch thăm hỏi, du lịch tín

ngưỡng, tâm linh... Vấn đề kinh doanh lưu trú du lịch, chỉ tiêu đánh giá mức

độ phát triển kinh doanh lưu trú du lịch bền vững cũng đã được phân tích khá

rõ ràng.

Vấn đề cạnh tranh trên TTDL cũng đã được quan tâm nghiên cứu như

cạnh tranh về điểm đến, về sản phẩm du lịch và cạnh tranh về thu hút khách

du lịch trong nước và quốc tế.

Việc nghiên cứu lý thuyết về định hướng thị trường ngành du lịch cũng

đã có một số kết quả như đã chỉ ra được tầm quan trọng và vai trò của nhà

quản lý trong việc phát triển dự án kinh doanh trên TTDL, định hướng kinh

doanh khách sạn, định hướng kết nối các tour du lịch, định hướng về sự tham

gia của cộng đồng dân cư địa phương trong thu hút khách du lịch.

Tại Lào, cũng đã có nghiên cứu lý luận mang tính hệ thống về quản lý nhà

nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở CHDCND Lào; quản lý nhà

nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo trong đó đã làm rõ cơ sở

lý luận của việc quản lý bao gồm đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, chủ thể

quản lý và khách thể quản lý. Trong nội dung nghiên cứu, các tác giả có quan

tâm đến quản lý nhà nước đối với TTDL.

Thứ hai, về thực tiễn có hai hướng nghiên cứu liên quan đến TTDL

gồm: nghiên cứu kinh nghiệm để phát triển và nghiên cứu tổng kết thực tiễn.

Phần nghiên cứu kinh nghiệm đã đi sâu phân tích đặc điểm hoạt động

và cơ chế vận hành TTDL quốc tế làm cơ sở để một công ty có thể tìm kiếm

giải pháp khai thác và mở rộng thị trường. Kinh nghiệm về cung cấp sản

phẩm du lịch của các công ty kinh doanh ở Vương quốc Anh, của một số

26

nước Đông Á như Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan; nghiên cứu chiến lược

đổi mới và công nghệ du lịch dựa trên kinh nghiệm.

Đã có một số nghiên cứu tổng kết thực tiễn hoạt động kinh doanh du lịch

trên thị trường của các nước thuộc Hiệp hội du lịch ASEAN (ASEANTA).

Nghiên cứu thực tiễn phát triển TTDL đã có nhiều chú ý trong tiếp cận kinh tế

học phát triển, như phân tích hoạt động của một số TTDL: thị trường khách du

lịch Phượt, thị trường về một số lĩnh vực dịch vụ du lịch như du lịch tâm linh, du

lịch văn hóa, du lịch biển đảo, du lịch vườn sinh thái, TTDL gắn với hoạt động

bảo tồn, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, tiếp thị trong du lịch.

Một số nghiên cứu đánh giá thực trạng một số đặc điểm của TTDL

Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, của một tỉnh ở Việt Nam và các nhân tố

tác động đến hoạt động của các thị trường này.

Tại Lào, đã có một số nghiên cứu, phân tích thực tiễn phát triển một

loại sản phẩm du lịch cụ thể như du lịch di sản ở huyện Viêng Xay tỉnh Hua

Phăn và tỉnh Xiêng Khoảng, du lịch tự nhiên ở tỉnh Sa La Văn…

Có công trình nghiên cứu thực tiễn ở một tỉnh của Việt Nam đã chỉ ra

được một số giải pháp nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du

lịch bao gồm: những cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn

đầu tư để phát triển TTDL; cách thức vận hành các nguồn lực du lịch, nâng

cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực du lịch. Có công trình đã chỉ ra giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch để thu hút khách du lịch trong

nước và quốc tế.

Những khoảng trống trong nghiên cứu về thị trường du lịch

Các công trình nghiên cứu trên mới chủ yếu được trình bày dưới góc độ

tiếp cận chuyên ngành kinh tế phát triển, quản trị và quản lý kinh tế, mới chỉ

có một số rất ít công trình nghiên cứu tiếp cận từ kinh tế chính trị học. Do có

sự giao thoa giữa các chuyên ngành với nhau, nên những kết quả nghiên cứu

trên mới chỉ giải quyết một số vấn đề có liên quan đến TTDL tiếp cận từ kinh

tế chính trị học. Tính hệ thống trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn TTDL

vẫn còn khá nhiều khoảng trống. Đó là:

27

- Về lý luận:

Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy

đủ về TTDL trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

của nước CHDCND Lào tiếp cận từ chuyên ngành kinh tế chính trị học.

Chưa có công trình nào phân tích có hệ thống các yếu tố cấu thành

TTDL, mối quan hệ giữa TTDL với sự phát triển kinh tế - xã hội và các

nhân tố ảnh hưởng đến TTDL. Các nội dung của các công trình đã công bố

chưa làm rõ vai trò của các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất và quan hệ sản

xuất quá trình vận động TTDL của cả nước nói chung, của tỉnh Luông Pra

Băng nói riêng.

Các công trình đã công bố vẫn đang còn thiếu hệ thống tiêu chí đánh

giá kết quả hoạt động TTDL ở một địa bàn cấp tỉnh có nhiều điểm đặc thù

như tỉnh Luông Pra Băng của nước CHDCND Lào.

- Về thực tiễn:

Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu tổng kết,

đánh giá một cách hệ thống về thực trạng, đề xuất phương hướng và giải pháp

nhằm thúc đẩy phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm

nhìn đến năm 2030 trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị học. Với những lý do

trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài "Thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra

Băng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" để nghiên cứu làm luận án Tiến sĩ

Kinh tế là mới, không trùng lặp với các kết quả nghiên cứu đã công bố và có

ý nghĩa lý luận, thực tiễn.

1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án

Để góp phần "lấp đầy" khoảng trống trên và góp phần thúc đẩy phát

triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng, nước CHDCND Lào trong thời gian tới,

nghiên cứu sinh tập trung vào nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:

- Về mặt lý luận:

Xây dựng cơ sở lý luận về TTDL ở một địa bàn cấp tỉnh dưới góc độ

kinh tế chính trị học. Cụ thể, luận án sẽ làm rõ các quan hệ kinh tế trên thị

trường này bao gồm khái niệm, đặc trưng của TTDL, nội dung, cơ chế vận

28

hành, quan hệ lợi ích kinh tế, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sự

phát triển của thị trường này gắn với yêu cầu mới của phát triển kinh tế thị

trường và hội nhập quốc tế của CHDCND Lào.

- Về mặt thực tiễn:

Luận án tham khảo nghiên cứu kinh nghiệm phát triển TTDL của một số

tỉnh có nhiều điểm tương đồng ở trong và ngoài nước CHDCND Lào trên cả

hai khía cạnh thành công và không thành công để rút ra bài học kinh nghiệm

cho tỉnh Luông Pra Băng.

Luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng TTDL ở tỉnh Luông

Pra Băng, nước CHDCND Lào dựa trên có sở khung lý thuyết về các quan hệ

kinh tế của thị trường này.

Luận án dự báo về xu hướng và triển vọng phát triển TTDL, trong đó

chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với yêu cầu phát triển TTDL ở tỉnh

Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.

Luận án đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy

phát triển TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn từ nay đến năm 2025 và

tầm nhìn đến năm 2030.

29

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN

VỀ THỊ TRƯỜNG DU LỊCH

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG DU LỊCH

2.1.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành thị trường du lịch

2.1.1.1. Khái niệm thị trường du lịch

Thị trường du lịch là một bộ phận cấu thành hệ thống thị trường của

nền kinh tế. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã và đang thúc đẩy mạnh

mẽ, sự phát triển của thị trường này vai trò của nó ngày càng tăng lên. Du lịch

ngày càng là nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa - xã hội của con

người dù họ sinh sống ở quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển bất

cứ nơi nào trên thế giới. Theo đó, nhận thức về TTDL ngày càng sâu sắc hơn.

Đến nay, đã có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch. Theo UNWTO

(1986): "Du lịch bao gồm tất cả những hoạt động của cá nhân đi, đến và lưu

lại ngoài nơi ở thường xuyên trong thời gian không dài (hơn một năm) với

những mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích kiếm tiền hàng ngày". Theo

Luật du lịch Việt Nam (2017) tại Chương I, Điều 3:

Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người

ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm

liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm

hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp

pháp khác [65, tr.1].

Theo Luật du lịch Lào (sửa đổi năm 2013), tại Chương I, Điều 2:

Du lịch là cuộc hành trình khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình

đến địa phương khác hoặc quốc gia khác để tham quan, nghỉ dưỡng,

giải trí, giao lưu văn hóa - thể thao, phát triển thể chất và tinh thần,

khám phá nghiên cứu, trưng bày, hội họp,… loại trừ mục đích tìm

việc làm và hành nghề để kiếm tiền [31, tr.1].

30

Như vậy, du lịch là việc thực hiện một chuyến đi của con người, với

nhiều mục đích cụ thể riêng biệt đến một nơi khác mà không phải để định cư

và có sự trở về sau chuyến đi. Những hoạt động trong việc cung ứng hàng hóa

và dịch vụ du lịch với mục đích kinh doanh thông qua phục vụ khách du lịch

gọi là kinh doanh du lịch. Trong nền kinh tế, kinh doanh du lịch đã trở thành

một ngành kinh tế riêng biệt, phân biệt với các ngành kinh tế khác. Theo

Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa cho rằng: “Kinh doanh du lịch là một

ngành bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi

hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về

đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của

khách du lịch” [46]. Theo đó, kinh doanh du lịch đòi hỏi các chủ thể trong xã

hội phải thiết lập các mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong tất cả các hoạt

động liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các

sản phẩm du lịch với mục tiêu thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người

trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Theo nghĩa đó, kinh doanh

du lịch chính là những hoạt động thuộc kinh tế du lịch.

Kinh tế du lịch cũng như các ngành kinh tế khác là một bộ phận cấu

thành nền kinh tế quốc dân. Theo quan điểm tiếp cận của C.Mác và

Ph.Ăngghen, quá trình tái sản xuất bao gồm bốn khâu: sản xuất, phân phối,

trao đổi (lưu thông) và tiêu dùng. Các ông cho rằng:

Sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là

cơ sở của mọi chế độ xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch

sử, sự phân phối sản phẩm, và cùng với sự phân phối ấy là sự phân

chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp, đều được quyết định bởi tình

hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào và những

sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào [59, tr.371].

Sự vận động của kinh tế du lịch cũng không nằm ngoài quá trình đó.

Nó cũng bao gồm bốn khâu nói trên. Trong đó, sản xuất là khâu đầu, tiêu

dùng là khâu cuối, trao đổi hay lưu thông và phân phối sản phẩm du lịch là

hai khâu trung gian nối liền sản xuất với tiêu dùng.

31

Trong nền kinh tế thị trường, việc trao đổi/ lưu thông sản phẩm du lịch

tất yếu phải được diễn ra trên thị trường. Do việc sản xuất sản phẩm hàng hóa và

dịch vụ du lịch mang tính chuyên môn hóa sâu, tính chuyên nghiệp cao nên việc

cung ứng và trao đổi loại sản phẩm này cũng được diễn ra trên một thị trường

riêng có tính đặc thù, phân biệt với các thị trường khác và được gọi là TTDL.

Xét về lịch sử kinh tế thế giới, TTDL đã được hình thành và phát triển

từ thời Hy Lạp cổ đại với các loại hình kinh doanh du lịch như buôn bán, giải

trí, du lịch thể thao (như Thế vận hội Olimpic năm 760 trước công nguyên),

rồi lan tỏa sang nhiều nước khác, như Trung Quốc, Ấn Độ, La Mã... và có

thêm những sản phẩm dịch vụ du lịch mới như du lịch nước khoáng thiên

nhiên, du lịch cảnh quan, du lịch bãi biển... Đến thế kỷ 15 - 17, đi cùng quá

trình phát triển kinh tế và những thành công của các cuộc thám hiểm với các

phát kiến lớn về địa lý của các nhà thám hiểm ở các nước Tây Âu, thị trường

hàng hóa và dịch vụ được mở rộng ra nhiều nước khác đến cả các nơi mà các

nước phương Tây gọi là các vùng đất mới, làm cho TTDL được mở rộng hơn

không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Sự ra đời và

phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thay thế nền kinh tế

hàng hóa giản đơn của thời đại phong kiến kể từ sau cuộc cách mạng tư sản

Anh vào giữa thế kỷ 17 càng tạo ra điều kiện để phát triển loại thị trường này.

Sự ra đời và phát triển của TTDL là kết quả tất yếu của quá trình phát triển

lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Theo V.I. Lênin: "Hễ ở đâu,

khi nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa, thì ở đó và khi ấy

cũng có thị trường. Thị trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công xã hội

và do đó có thể phát triển vô cùng tận" [56, tr.114].

Sự phát triển mạnh mẽ của TTDL bắt đầu từ thế kỷ 19, khi những tiến

bộ của Cách mạng công nghiệp cho phép phát triển các hoạt động phục vụ

mục đích nghỉ ngơi, lý do văn hóa, xã hội, v.v ... Theo các nhà nghiên cứu, thì

Thomas Cook (Thomas Cook (1808 - 1892) là một doanh nhân người Anh.

Ông nổi tiếng với việc thành lập công ty du lịch Thomas Cook & Son) là

doanh nhân đầu tiên coi du lịch là một hoạt động có tính chất thương mại, vào

32

năm 1841 khi nhắc đến chuyến tham quan lịch sử có tổ chức đầu tiên. Một

thập kỷ sau, Cook bắt đầu một khả năng thương mại mới để thành lập một

công ty du lịch (được biết đến với tên Thomas Cook và Son), một điều chưa

bao giờ được hình thành cho đến lúc đó.

Ngày nay, TTDL là một trong những ngành công nghiệp chính trên

toàn thế giới. Nó bao gồm du lịch của các nhóm người được thu hút bởi một

công ty lữ hành và du lịch cá nhân (các cá nhân tổ chức hành trình và hoạt

động của họ mà không có sự can thiệp của bên thứ ba).

Trong số các thành phố có nhiều hoạt động du lịch trên hành tinh, có

Barcelona (nơi thu hút khán giả bằng các tác phẩm nghệ thuật như tòa nhà La

Sagrada của Antoni Gaudi, một trong những bậc thầy vĩ đại của chủ nghĩa

hiện đại), Paris (với Tháp Eiffel biểu tượng, sông Seine và Champs-Elysées),

Madrid (với màu sắc và sự đa dạng của nó, số mũ kiến trúc của nó và Bảo

tàng Prado) Cancun (điểm đến của những người khao khát nghỉ ngơi ở các bãi

biển) và London (công viên và di tích được trang trí như Big Ben, và với một

cuộc sống về đêm nổi bật trong Trung tâm)… Thị trường du lịch không chỉ

trở thành phổ biến mà còn trở thành lĩnh vực mở đường, "đầu tầu" cho việc

thúc đẩy sự phát triển của các thị trường khác trong nền kinh tế.

Cùng với quá trình phát triển đó, đến nay đã có những quan niệm khác

nhau trong nhận thức về TTDL. Theo Văn phòng Lao động Quốc tế (The

International Labour Office) "TTDL bao gồm tất cả những người và doanh

nghiệp mua và bán các dịch vụ và sản phẩm du lịch được gọi là các bên liên

quan" (http://translate.google.com). Khái niệm này dùng để mô tả đây là một

quan hệ kinh tế xã hội giữa con người với nhau trong các giao dịch về sản

phẩm du lịch được tiếp cận dưới góc độ quản lý kinh tế. Theo Wiki Didactic,

TTDL "là nơi lưu chuyển cung và cầu của các sản phẩm và dịch vụ du lịch",

"nơi hội tụ việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ du lịch và nhu cầu được

quan tâm và thúc đẩy để tiêu thụ những sản phẩm và dịch vụ du lịch đó"

[111]. Các lực lượng tham gia trên TTDL bao gồm người mua và người bán.

Trên thị trường này, các nhà cung cấp các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau

33

có thể được điều chỉnh theo các nhu cầu và lý do khác nhau của người mua,

tức là cung về du lịch phải đáp ứng cầu về du lịch mặc dù sản phẩm du lịch

nhiều khi có tính đặc thù theo vùng, miền, quốc gia. Khái niệm này mô tả

hành vi của các chủ thể thị trường, trong đó chú ý đến hành vi của người sản

xuất và cung ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch.

Theo PGS Nguyễn Văn Lưu, "TTDL là nơi "gặp gỡ" giữa cung và cầu

phù hợp về chủng loại, chất lượng, số lượng, thời gian cung cấp, nhịp độ cung

cấp cũng như các loại dịch vụ phục vụ khác trong lĩnh vực du lịch" [57, tr.11].

Theo khái niệm này, TTDL được hiểu là nơi hay một địa điểm diễn ra quan

hệ trao đổi hàng hóa và dịch vụ du lịch, nơi tập trung và thực hiện của cung

và cầu du lịch về một hàng hóa và dịch vụ nào đó, là tổng thể các quan hệ

kinh tế hình thành giữa khách du lịch và người kinh doanh du lịch, khi mà lao

động xã hội để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ đó được công nhận là lao

động xã hội cần thiết. Khái niệm trên được tiếp cận dưới góc độ chuyên

ngành kinh tế du lịch.

Với các khái niệm nêu trên, có thể thấy những thuộc tính cơ bản của

TTDL bao gồm các sản phẩm du lịch hay hàng hóa và dịch vụ du lịch, người

mua và người bán hàng hóa và dịch vụ đó thông qua hệ thống giá cả thị

trường. Tuy nhiên, các khái niệm trên mới dùng để mô tả trực tiếp các quan

hệ kinh tế của hai chủ thể là người mua và người bán sản phẩm du lịch, chưa

chỉ ra được những thuộc tính về động lực của các quan hệ kinh tế xã hội diễn

ra trên thị trường này và về mối quan hệ giữa TTDL với các khâu, các thị

trường trong nền kinh tế một cách tổng thể.

Thêm vào đó, cần để ý rằng, trong điều kiện ngày nay, dưới tác động

của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển vượt trội của

công nghệ thông tin và kinh tế số làm cho phạm vi TTDL không còn bó hẹp ở

một nơi hay một địa điểm như đã hiểu trong nhiều năm trước đây. Ví dụ, công

nghệ Internet vạn vật (Internet of things- IoT) có liên quan đến nhiều xu

hướng du lịch, trong đó có sự kết nối giữa người mua và người bán sản phẩm

du lịch, các quan hệ giao dịch về hàng hóa và dịch vụ du lịch được thực hiện

34

ngay trên các trang web thông minh mà không nhất thiết phải là đến một nơi

hay một địa điểm cụ thể. Sự phát triển nhanh chóng của nhiều loại công nghệ

như thực tế ảo (Virtual reality - VR) với nhiều ứng dụng trong ngành du lịch

bao gồm giải trí cao cấp, du lịch kết hợp các yếu tố vật lý như bộ điều khiển

hoặc ghế ngồi và nền tảng di động. Công nghệ thực tế mở rộng (Augmented

reality - AR) là một TTDL trong đó có sự kết hợp trải nghiệm trong thế giới

thực và các yếu tố ảo như trò chơi điện thoại thông minh (Pokémon Go) có

thể hiển thị cho khách du lịch những thông tin về khu vực họ đang khám phá

(như di tích lịch sử, bảo tàng, thực đơn cho các địa điểm giải trí, quán ăn địa

phương..) và cung cấp cho du khách những trải nghiệm du lịch tại chỗ mà

không nhất thiết phải di chuyển đến nơi có sản phẩm, loại hình dịch vụ du lịch

đó, làm cho nhu cầu về du lịch tăng lên rất nhanh. Chính vì thế, TTDL cũng

không nhất thiết phải là một nơi hay một địa điểm cụ thể. Nó phải là một quá

trình kinh tế có sự tương tác giữa cung và cầu về sản phẩm du lịch.

Từ những phân tích trên, theo tiếp cận của kinh tế chính trị học, có thể

hiểu TTDL là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, một bộ phận cấu

thành hệ thống các loại thị trường, trong đó diễn ra các quan hệ giao dịch

giữa người mua và người bán sản phẩm du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi

ích của các chủ thể tham gia thị trường. Nói một cách khác, TTDL là tổng thể

các hành vi và quan hệ kinh tế thể hiện ra trong quá trình trao đổi sản phẩm

du lịch. Mâu thuẫn cơ bản của TTDL là mâu thuẫn giữa cầu và cung về sản

phẩm du lịch.

2.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường du lịch

Các yếu tố tạo nên TTDL bao gồm cung và cầu về du lịch, quan hệ

giữa các chủ thể gồm người mua, người bán sản phẩm du lịch và các chủ thể

cung ứng dịch vụ du lịch.

- Cầu về du lịch

Cầu về du lịch là số lượng hàng hóa và dịch vụ du lịch mà du khách

muốn sử dụng và sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau trong một khoảng

thời gian nhất định. Mỗi mức giá nhất định đều có một lượng cầu nhất định về

35

hàng hóa và dịch vụ du lịch. Cầu về du lịch là nhu cầu có khả năng thanh toán

của con người về hàng hóa và dịch vụ du lịch. Có hai yếu tố quyết định làm

xuất hiện cầu về du lịch là nhu cầu và sức mua hay khả năng thanh toán cho

nhu cầu đó để được sử dụng sản phẩm du lịch. Nhu cầu về du lịch là một loại

nhu cầu xã hội đặc biệt và mang tính tổng hợp cao, biểu hiện sự mong muốn

tạm thời rời nơi ở thường xuyên để đến với điều kiện thiên nhiên và văn hóa ở

một nơi khác; là nguyện vọng cần thiết của con người muốn được giải phóng

khỏi sự căng thẳng tiếng ồn, sự ô nhiễm môi trường ngày càng tăng ở các

trung tâm công nghiệp, đô thị, để nghỉ ngơi, giải trí, tăng cường sự hiểu biết,

phục hồi sức khỏe…

Nhu cầu về du lịch thể hiện ở ba mức: nhu cầu du lịch của cá nhân, nhu

cầu du lịch của nhóm người và nhu cầu du lịch xã hội. Nhu cầu du lịch của cá

nhân bao gồm những đòi hỏi, mong muốn của mỗi con người cụ thể về các

sản phẩm du lịch cụ thể, ví dụ nhu cầu du lịch của một khách du lịch muốn

đến đến nước CHDCND Lào để được thưởng ngoạn một vẻ đẹp có một không

hai trên thế giới đó là cảnh quan khảo cổ cự thạch với hàng ngàn chum đá

nằm rải rác dọc theo thung lũng và cánh đồng thấp của đồng bằng trung tâm

thuộc Cao nguyên Xiêng Khoảng nằm ở cuối phía bắc của dãy Trường Sơn.

Du lịch của nhóm là nhu cầu của một nhóm dân cư có cùng một đặc điểm, ví

dụ như sinh viên muốn đi du lịch thắng cảnh, cựu chiến binh muốn đi du lịch

thăm chiến trường xưa… Tổng thể nhu cầu du lịch của các thành viên trong

xã hội được gọi là nhu cầu du lịch xã hội. Tuy nhiên, nhu cầu xã hội không

phải là tổng công theo số học các nhu cầu du lịch của cá nhân, hoặc của các

nhóm dân cư trong xã hội. Nhu cầu du lịch của cá nhân và của các nhóm có

những phần chồng lấn hoặc cộng hưởng. Nhu cầu du lịch của xã hội, của

nhóm và của cá nhân không tồn tại riêng rẽ mà tác động qua lại với nhau

trong mối quan hệ biện chứng. Trong ba nhu cầu nêu trên, thì nhu cầu du lịch

của cá nhân là thành tố quan trọng nhất để tạo lập nhu cầu du lịch nhóm và

nhu cầu du lịch xã hội. Nhu cầu du lịch của nhóm và nhu cầu xã hội định

hướng hình thành và công nhận nhu cầu du lịch của cá nhân. Nhu cầu về du

36

lịch là yếu tố đầu tiên tạo nên cầu về du lịch trên thị trường. Cầu về du lịch

chỉ xuất hiện khi người có nhu cầu về du lịch có khả năng thanh toán để được

đáp ứng nhu cầu đó.

Cầu về du lịch của con người rất đa dạng. Người ta có thể phân chia

cầu du lịch thành hai nhóm: cầu về dịch vụ du lịch và cầu về hàng hóa vật

chất tiêu dùng trong thời gian đi du lịch. Cầu về dịch vụ du lịch bao gồm cầu

về dịch vụ vận chuyển và đảm bảo sự lưu trú, ăn uống, cầu về những dịch vụ

cảm thụ, thưởng thức những giá trị vô hình mà vì chúng, du khách sẵn sàng

chi trả cho chuyến du lịch. Ngoài ra, còn có cầu về dịch vụ bổ sung rất đa

dạng phát sinh trong chuyến đi của du khách như các dịch vụ vui chơi giải trí,

thông tin liên lạc, chăm sóc sức khỏe, mua hàng lưu niệm,... Phần lớn cầu về

dịch vụ bổ sung tại các điểm du lịch cần được đáp ứng trong thời gian ngắn.

Cầu về hàng hóa vật chất tiêu dùng trong thời gian đi du lịch như cầu về nơi

lưu trú, ăn uống, sinh hoạt vật chất, hàng lưu niệm cho một chuyến đi du lịch

và cầu về hàng hóa có giá trị kinh tế đối với du khách…

Đặc điểm của cầu du lịch: cầu trong TTDL có những đặc điểm khác so

với cầu trong thị trường chung. Đó là:

Thứ nhất, cầu trong TTDL là cầu của xã hội về sản phẩn du lịch có thể

được thực hiện hay thỏa mãn trong điều kiện một nền kinh tế thị trường được

khai thông giữa các địa phương trong nước và giữa trong nước với nước

ngoài. Do vậy, cầu về du lịch là loại nhu cầu nhiều khi vượt ra khỏi phạm vi

tỉnh, một quốc gia, có tính liên thông giữa các vùng trong nước và có tính

quốc tế hóa cao. Điều này, nhiều khi có khoảng cách rất lớn về địa lý giữa

những người có cầu về du lịch với những nơi có cung về du lịch, đòi hỏi phải

có phương tiện hỗ trợ để kết nối cung và cầu trong hoạt động du lịch.

Thứ hai, cầu trong TTDL có tính đa dạng với nhiều hình thức dịch vụ.

Nó bao gồm cầu về tham quan, khám phá tìm hiểu, nghỉ ngơi, giải trí, thư

giãn và những mục đích khác. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của

công nghệ kỹ thuật số và mạng internet còn có cầu du lịch tại chỗ thông qua

37

các trang web với các trò chơi toàn cầu, tham quan trên thực tế ảo(VR)… là

một loại sản phẩm gắn với cầu trong TTDL.

Thứ ba, dịch vụ của các cơ sở phục vụ lưu trú, ăn uống không phải là

mục đích của cầu trong du lịch, nhưng chúng là thành phần đáng kể trong

khối lượng của cầu du lịch và quyết định chất lượng của chuyến du lịch.

Thứ tư, cầu du lịch có tính linh hoạt cao. Nhiều khi cầu du lịch chỉ phát

sinh khi du khách đang thực hiện một chuyến du lịch. Ví dụ, việc mua sản

phẩm du lịch chỉ được ấn định khi du khách nhìn thấy và cảm nhận thấy ích

lợi của sản phẩm đó trong chuyến đi của mình. Khách du lịch cũng có thể

quyết định chuyển hướng trong một tour du lịch theo ý mong muốn khi họ

cảm thấy có lợi.

Thứ năm, cầu du lịch mang tính chu kỳ. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố,

như có thời gian nhàn rỗi, các kỳ nghỉ phép hàng năm, có khả năng thu nhập,

tích lũy tài chính cũng như thói quen và tâm lý đi du lịch của họ. Khả năng

thu nhập và tích lũy tài chính của người đi du lịch chịu sự chi phối của yếu tố

đầu vào của ngân sách gia đình, tình hình phân chia ngân sách gia đình cho

tích lũy và tiêu dùng. Thói quen và tâm lý đi du lịch được hình thành do

truyền thống như lễ hội và thời tiết, khí hậu hoặc do hiện tượng tâm lý.

Ngoài ra, cầu du lịch còn có đặc điểm như tính thời vụ, khả năng đảm

bảo an toàn, an ninh. Ví dụ, cầu về du lịch thường không xuất hiện để đến

những nơi thường xảy ra chiến tranh, bạo động hay bị bất ổn về kinh tế, chính

trị và xã hội.

Các nhân tố quyết định cầu về du lịch: cầu du lịch chịu tác động bởi

nhiều nhân tố, bao gồm các nhân tố bên trong và bên ngoài. Nhân tố bên trong

như động lực để đi du lịch. Nhân tố bên ngoài như cải thiện về kinh tế, thay

đổi nhân khẩu học và xã hội, cải tiến công nghệ, chính trị, kế hoạch và các

yếu tố sinh thái, an toàn… và nhân tố thị trường thích hợp, chính sách khuyến

khích thu hút khách du lịch, kết cấu hạ tầng, vận chuyển du khách và thể chế

phát triển thích hợp. Một số nhân tố chủ yếu có tác động mạnh đến cầu về du

lịch như: thu nhập dân cư, giá cả sản phẩm du lịch, chất lượng và tính độc đáo

38

của sản phẩm, các sản phẩm tương hộ và sản phẩm thay thế. Ví dụ, cầu trên

TTDL có quan hệ tỷ lệ nghịch với sự giá cả hàng hóa và dịch vụ du lịch. Nếu

mức giá tăng thì cầu du lịch giảm và ngược lại giá giảm thì cầu du lịch tăng.

Cơ cấu dân cư, thành phần dân tộc, giới tính, độ tuổi, đặc điểm nhân khẩu, sự

phân bố và mật độ dân cư cũng tác động trực tiếp đến việc hình thành cầu và

khối lượng cầu du lịch. Người cao tuổi có thời gian và tài chính, sức khỏe yếu

thì ưa du lịch thư giãn chữa bệnh, còn thanh niên khỏe mạnh, ít thời gian thì

ưa thích du lịch mạo hiểm hoặc thể thao để tận hưởng cảm giác mạnh. Trình

độ nghề nghiệp khác nhau có mục đích du lịch khác nhau và nhu cầu sử dụng

các hàng hóa dịch vụ du lịch cũng khác nhau. Đặc thù của mỗi nghề nghiệp

làm cho con người sẽ phải di chuyển, cũng tạo ra nhu cầu về du lịch. Tình

trạng hưng phấn hay, buồn chán do thành đạt hay thất bại, đều kích thích nhu

cầu về du lịch. Đặc biệt ngày và giờ làm việc rút ngắn tạo điều kiện tăng

lượng cầu du lịch cuối tuần. Thời gian tự do dài, do tiến bộ khoa học công

nghệ và thể chế quản lý hoàn thiện làm tăng năng suất lao động cao cũng làm

nảy sinh nhu cầu về du lịch.

Ngoài ra, điều kiện tự nhiên, môi trường, chính trị, xã hội, chủ trương,

đường lối, chính sách của chính phủ, quốc phòng an ninh, sự phát triển của hệ

thống giao thông vận tải, quảng cáo, thị hiếu,… cũng tác động mạnh tới cơ cấu

và khối lượng cầu du lịch. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ

cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng cầu du lịch. Với sự ra đời của hệ thống

truyền hình cáp, mạng Internet và các mạng xã hội đã và đang cung cấp những

thông tin phong phú, đa dạng cho khách du lịch từ đó tạo nhu cầu mới về du lịch.

- Cung về du lịch

Cung về du lịch là số lượng sản phẩm du lịch được cung ứng trên thị

trường tương ứng với mỗi mức giá, mức chi phí sản xuất trong một khoảng

thời gian và không gian nhất định. Sản phẩm du lịch bao gồm các hàng hóa và

dịch vụ du lịch do các cơ sở sản xuất, kinh doanh du lịch cung ứng.

Cung về sản phẩm du lịch có các đặc điểm: (1) Dễ hỏng: chúng không

thể được lưu trữ trong kho, một dịch vụ không được sử dụng tạo thành một tổn

39

thất không thể phục hồi cho công ty. Ví dụ một phòng khách sạn không được

bán ngày hôm nay. (2) Không thể chi tiêu: là có điều kiện về sự hiện diện của

khách hàng, vì vậy sự dịch chuyển là quan trọng. (3) Không thể tách rời: việc

sản xuất và tiêu thụ được thực hiện nhiều lần ở cùng một nơi và đồng thời. Đây

là một trong những trụ cột của du lịch vì để tận hưởng dịch vụ hoặc sản phẩm

đó là bắt buộc phải bù đắp. (4) Cứng nhắc: sản phẩm du lịch thiếu độ co giãn

theo hướng từ từ thích nghi với các biến đổi của nhu cầu. Điều này được gây ra

bởi chi phí đầu tư lớn của người làm du lịch và phải mắt nhiều thời gian xây

dựng, giá thầu không thể theo các biến đổi của nhu cầu thường xảy ra một cách

nhanh chóng. (5) Không đồng nhất và bổ sung: trong sản phẩm toàn cầu có sự

bổ sung giữa các sản phẩm phụ khác nhau, các sản phẩm phụ bị cô lập là không

đồng nhất và không tạo thành một tổng thể, có thực thể riêng. (6) Chủ quan: sự

hài lòng hay không hài lòng của khách du lịch phụ thuộc vào những điều khác

trong trạng thái cảm xúc của họ, cách sản phẩm được cung cấp và những kỳ

vọng đã được tạo ra. (7) Vô hình: người mua không thể sở hữu nó hoặc chạm

vào, chỉ họ mới có thể tận hưởng.

Thị trường du lịch là thị trường theo mùa. Thực tế các nước cho thấy,

phần lớn các sản phẩm du lịch là tiêu dùng theo mùa. Có thể có tới 80% tổng

doanh thu hàng năm của công ty du lịch được thực hiện trong 2 hoặc 3 tháng

của mùa cao điểm, mùa hè hoặc mùa đông tùy thuộc vào loại hình du lịch

được cung ứng. Ví dụ, du lịch trượt tuyết, du lịch tắm nắng trên bãi biển là

phải theo mùa. Đây là một trong những vấn đề lớn trong hoạt động kinh

doanh của các công ty du lịch vì những gì các công ty muốn là phải có sự liên

tục về thời gian, ví dụ như một khách sạn đông khách nhất chỉ có thể trong

suốt cả năm.

Để chống lại hiệu ứng này, các công ty thực hiện các biện pháp và

chính sách giá mạnh mẽ, đưa ra mức giá rất thấp để có thể thu hút số lượng du

khách tối đa ngoài mùa.

Thị trường khách du lịch đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các công nghệ

và phương pháp tiếp thị mới. Nhờ tiến bộ công nghệ, các công ty có điều kiện

40

đạt được số lượng khách hàng tối đa và đa dạng hóa các ưu đãi để tăng sức

cạnh tranh với các điểm đến khác có dịch vụ du lịch tương tự để thu hút du

khách. Tất cả các điểm đến hiện đang được cung cấp ngoài tài nguyên chính,

các tài nguyên khác, một ví dụ là điểm đến của nơi tắm nắng và bãi biển cũng

cung cấp một nguồn lực để cung ứng sản phẩm du lịch.

Cung du lịch chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố: (1) Giá cả: khi giá

hàng hóa và dịch vụ du lịch tăng thì mức cung về du lịch tăng và ngược lại giá

giá đầu ra giảm thì mức cung cũng giảm. (2) Chi phí sản xuất: chi phí cho

việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch giảm trong điều kiện giá cả sản

phẩm không đổi thì lợi nhuận của doanh nghiệp giảm, tăng sản lượng cung và

ngược lại. (3) Cầu trên TTDL và các kỳ vọng. Suy cho cùng thì sản xuất

quyết định tiêu dùng. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, khi còn nhiều

nguồn lực chưa được sử dụng thì cầu thực tế có tác động quyết định mức cung

thực tế. Thị trường du lịch không phải là ngoại lệ. Quy mô của cầu du lịch

trên thị trường có tác dụng quyết định tới khối lượng cung về hàng hóa và

dịch vụ du lịch. Cầu du lịch tăng thì cung du lịch cũng tăng. Cơ cấu của cầu

du lịch thay đổi thì cơ cấu của cung du lịch cũng phải thay đổi theo. (4) Tiến

bộ về khoa học và công nghệ: khi có sự tăng lên của tiến bộ khoa học và công

nghệ thì năng suất tạo ra sản phẩm du lịch tăng lên, chi phí cho sản phẩm

giảm xuống và chất lượng sản phẩm tăng lên, tiện lợi hơn cho du khách, do

vậy lượng cung về sản phẩm du lịch tăng lên. (5) Cạnh tranh: cung du lịch

còn phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh giữa các cơ sở sản xuất và kinh doanh

du lịch. Nếu mức độ cạnh tranh tăng lên thì xu hướng mở rộng quy mô của

doanh nghiệp kinh doanh du lịch được thúc đẩy mạnh hơn, theo đó lượng

cung du lịch cũng tăng lên. (6) Vai trò của nhà nước: trong các nền kinh tế

hiện đại, cung du lịch còn phụ thuộc vào sự can thiệp của nhà nước. Nếu nhà

nước miễn hoặc giảm thuế cho các hoạt động cung ứng hàng hóa và dịch vụ

du lịch thì doanh nghiệp sẽ mở rộng việc cung ứng, số lượng sản phẩm du lịch

sẽ tăng lên.

Thị trường du lịch được vận hành bởi quan hệ cung, cầu, giá cả, cạnh

tranh trong việc sản xuất, phân phối và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ du lịch.

41

- Quan hệ cung - cầu: quan hệ giữa cung và cầu về du lịch làm hình

thành TTDL. Thị trường du lịch là quá trình diễn ra quan hệ tương tác giữa

cung và cầu về hàng hóa và dịch vụ du lịch. Trên TTDL, du khách và các nhà

cung ứng sản phẩm du lịch tác động qua lại nhau để xác định mức giá và khối

lượng sản phẩm cần mua, cần bán trên thị trường.

- Giả cả hàng hóa và dịch vụ du lịch: là mức giá mà ở đó du khách

muốn mua và nhà cung ứng sản phẩm du lịch muốn bán. Đó là mức giá cân

bằng cung - cầu, giá thị trường. Về bản chất giá cả sản phẩm du lịch là hình

thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm du lịch và là kết quả của sự thỏa

thuận giữa người mua là du khách và người bán là các tổ chức kinh doanh du

lịch. Cơ sở của giá cả là giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, do giá cả được hình

thành trên thị trường, nên nó còn chịu tác động bởi các quan hệ cung - cầu,

quan hệ cạnh tranh hay độc quyền trên thị trường, giá trị của tiền và sự can

thiệp của nhà nước vào thị trường này. Sự biến đổi của tương quan cung - cầu

du lịch sẽ dẫn đến sự lên xuống của giá cả thị trường của sản phẩm du lịch,

ngược lại, giá cả cũng ảnh hưởng trở lại đối với cung và cầu du lịch. Nếu sức

cầu du lịch tăng lên mà mức cung không tăng kịp thì giá sản phẩm du lịch sẽ

tăng và ngược lại sức cầu mà giảm thì mức giá phải giảm. Nếu giá cả hàng

hóa và dịch vụ du lịch giảm, thì điều này phản ánh cung lớn hơn cầu, khi đó

cung du lịch sẽ giảm, phạm vi kinh doanh bị thu hẹp.

- Cạnh tranh trên thị trường du lịch: là sự đấu tranh giữa các chủ thể

kinh doanh du lịch nhằm tranh giành điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

du lịch có lợi để thu được mức lợi nhuận cao hơn và để tồn tại, phát triển

trong nền kinh tế thị trường. Trên TTDL, cạnh tranh chủ yếu diễn ra ở phía

cung, tức là phía các nhà sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ du lịch.

Cạnh tranh là yếu tố quan trọng của TTDL. Theo quy luật chung, cạnh tranh

có tính hai mặt tích cực và tiêu cực. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải

tìm các biện pháp lôi kéo khách hàng nhằm tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Họ

phải tìm phương án giá tối ưu để tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ du lịch, mở

rộng thị phần. Giảm giá các dịch vụ, hàng hóa trước và sau mùa du lịch là một

42

trong những biện pháp cạnh tranh được các doanh nghiệp sử dụng để thu hút

khách và kéo dài thời vụ du lịch. Việc nhà nước duy trì và bảo vệ cạnh tranh

lành mạnh hay cạnh tranh có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh du lịch là

rất cần thiết; đồng thời cũng phải có cơ chế chính sách nhằm ngăn ngừa, khắc

phục những tiêu cực mà quá trình cạnh tranh sinh ra không thể tránh khỏi và

tự nó không thể khắc phục được.

2.1.2. Đặc điểm của thị trường du lịch

- Đặc điểm về hướng phát triển sản phẩm du lịch

Sản phẩm du lịch bao gồm hàng hóa và dịch vụ du lịch. Nguồn gốc của

các sản phẩm du lịch là các tài nguyên du lịch được các nhà kinh doanh du

lịch sản xuất ra các sản phẩm vật thể hoặc phi vật thể đáp ứng nhu cầu của du

khách. Sản phẩm du lịch có tính đa dạng bao gồm:du lịch mạo hiểm, du lịch

kinh doanh giải trí, du lịch hội nghị hoặc hội thảo, du lịch kinh doanh, thăm

người thân và bạn bè. Các sản phẩm công nghiệp trong ngành du lịch là

phòng khách du lịch, sắp xếp và đặt chỗ du lịch, vận chuyển hàng không, vận

tải địa phương khác như cho thuê xe hơi, cơ sở thực phẩm và đồ uống, giải trí

và giải trí, xăng dầu và các hoạt động bán lẻ khác. Bên cạnh các sản phẩm đáp

ứng nhu cầu thị trưởng trong nước, ngày càng có xu hướng phát triển các sản

phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế bao gồm dịch vụ lưu trú du lịch,

cung cấp dịch vụ khách sạn cho khách du lịch quốc tế, hoạt động hàng không,

cho thuê ô tô, đại lý du lịch và dịch vụ sắp xếp tour du lịch.

Do sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sản phẩm

du lịch được phát triển theo hướng ngày càng dựa vào nền tảng của công nghệ

thông tin, kỹ thuật số như du lịch trải nghiệm bằng công nghệ thực tế ảo, du

lịch dựa trên nền tảng mới website 3D có thể đưa các địa danh đã số hóa 3D

vào. Người xem có thể trải nghiệm như đi lại, tham quan, tương tác với địa

danh đó trong môi trường 3D hấp dẫn hơn các website thông thường hiện nay

không làm được. Đây là kỷ nguyên mới cho cuộc cách mạng mới mang tên

Du lịch 4.0. Ngày nay, TTDL toàn cầu đã có sự lên ngôi của xu hướng kinh

doanh du lịch trực tuyến. Theo Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen, doanh

43

số du lịch trực tuyến trên thế giới năm 2016 tăng 13,8% và đạt giá trị khoảng

565 tỷ USD, trong đó thị trường châu Á - Thái Bình Dương vươn lên dẫn đầu

thế giới về du lịch trực tuyến từ năm 2017. Tại khu vực Đông Nam Á, Google

dự đoán giá trị của du lịch trực tuyến sẽ tăng từ 22 tỷ USD năm 2015 lên 90

tỷ USD vào năm 2025 [71].

- Đặc điểm về chủ thể tham gia thị trường du lịch

Chủ thể tham gia TTDL bao gồm khách du lịch, các tổ chức cung ứng

sản phẩm du lịch và những người làm dịch vụ môi giới du lịch. Khách du lịch

là đại biểu của phía cầu du lịch, bao gồm những người có động lực hướng tới

sử dụng các sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, kinh

doanh… của mình. Đó là tất cả những công dân rời khỏi nơi ở thường xuyên

của họ đến một nơi khác với mục đích không phải là kiếm tiền hoặc học tập,

làm việc lâu dài. Khách du lịch thường được xác định theo hai nhóm là cá

nhân và nhóm hay tập thể. Giữa các khách du lịch có sự khác nhau về mục

đích và nhu cầu du lịch. Khách du lịch là người cuối cùng tiêu dùng trực tiếp

sản phẩm du lịch, có vai trò quyết định tới tính chất và quy mô TTDL, là nhân

vật trung tâm làm nảy sinh các hoạt động, các mối quan hệ trên cơ sở đó thỏa

mãn mục đích của các chủ thể tham gia vào các hoạt động trên TTDL.

Các tổ chức cung ứng hàng hóa và dịch vụ trên TTDL còn gọi là các

đơn vị kinh doanh du lịch bao gồm các công ty cung cấp sản phẩn hàng hóa

và dịch vụ du lịch, như đại lý du lịch, khách sạn, công ty phục vụ vận chuyển,

đưa đón khách, những người tổ chức hướng dẫn du lịch. Các chủ thể thực

hiện các dịch vụ khác có liên quan đến du lịch như dịch vụ ăn uống, dịch vụ

mua sắm, dịch vụ thể thao, vui chơi giải trí, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các

dịch vụ phát triển kết cấu hạ tầng có thể được khách du lịch sử dụng. Bên

cạnh các chủ thể kinh doanh du lịch chuyên nghiệp, trên TTDL còn có sự

tham gia của cư dân của điểm đến mà ở Việt Nam gọi là "du lịch cộng đồng".

Đây là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng

đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi. Mục tiêu

của các tổ chức cung ứng sản phẩm du lịch là thu được lợi nhuận tối đa và

44

một số mục tiêu khác như: văn hóa, xã hội, quảng bá hình ảnh, chính trị, kinh

tế khác. Phương tiện để thực hiện mục tiêu là phục vụ tốt nhất, làm thỏa mãn

tốt nhất nhu cầu của du khách cả trước, trong và sau chuyến du lịch của họ.

Các công ty và người làm dịch vụ môi giới, xúc tiến du lịch bao gồm

quảng bá, giới thiệu sản phẩm du lịch, xây dựng và phát triển thương hiệu du

lịch, tuyên truyền nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch thuận

lợi, lành mạnh, các tổ chức vận động, tìm kiếm cơ hội, tập trung nguồn lực

đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; đa dạng hóa

và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch…

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế,

nhiều khi còn có chủ thể tham gia TTDL là nhà nước. Nhà nước không chỉ là

chủ thể tạo lập kết cấu hạ tầng cho phát triển TTDL mà còn tham gia vào hoạt

động du lịch ở các lĩnh vực trọng yếu có liên quan trực tiếp đến an toàn quốc gia.

2.1.3. Phân loại và vai trò của thị trường du lịch

2.1.3.1. Phân loại thị trường du lịch

Việc phân loại TTDL là cần thiết để xác định rõ đặc điểm của mỗi hình

thị trường và có định hướng chiến lược khai thác các tiềm năng du lịch tại các

vùng lãnh thổ nhằm thu được hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch. Có nhiều

cách phân loại TTDL dựa trên các tiêu chí khác nhau.

- Phân loại TTDL theo phạm vi lãnh thổ, có TTDL quốc gia và TTDL

quốc tế. TTDL quốc gia (TTDL nội địa) là thị trường mà ở đó cung và cầu du

lịch đều nằm trong biên giới lãnh thổ của một quốc gia. Trong đó, các mối

quan hệ nảy sinh do việc thực hiện hàng hóa và dịch vụ du lịch là mối quan hệ

kinh tế đối nội và chịu sự chi phối bởi sự phát triển kinh tế của quốc gia đó

đồng thời phản ánh sự phân công lao động trong nước. Vận động tiền - hàng

trên thị trường chỉ di chuyển từ khu vực này đến khu vực khác ở trong nước.

TTDL quốc tế là thị trường tại đó cung thuộc một quốc gia còn cầu thuộc một

quốc gia khác. Trên thị trường này, các doanh nghiệp du lịch của một quốc

gia kết hợp với các doanh nghiệp của quốc gia khác để đáp ứng nhu cầu du

lịch của công dân các nước. Quan hệ tiền - hàng trong thực hiện sản phẩm du

45

lịch được hình thành và thực hiện vượt qua biên giới quốc gia. Bản thân

TTDL quốc tế lại bao hàm TTDL khu vực và thế giới.

- Phân loại theo đặc điểm và không gian của cung và cầu du lịch, có thị

trường nhận khách và thị trường gửi khách. Thị trường nhận khách là thị

trường cung sản phẩm du lịch, nơi có điều kiện sẵn sàng cung ứng các dịch vụ

tiêu dùng du lịch, đáp ứng nhu cầu du lịch của khách các địa phương khác đến

và khách nước ngoài. Thị trường nhận khách có vị trí quan trọng trong tổ

chức du lịch quốc tế. Thị trường gửi khách là thị trường cầu về du lịch. Du

khách xuất phát từ thị trường này để đến nơi khác tiêu dùng các sản phẩm du

lịch. Trong chiến lược tăng trưởng du lịch của một quốc gia, một vùng hay

một địa phương, việc phát triển thị trường gửi khách có tầm quan trọng đặc

biệt đến việc mở rộng TTDL. Thị trường gửi khách có thể chia thành thị

trường gửi khách trực tiếp và thị trường gửi khách trung gian. Thị trường gửi

khách trực tiếp ở chừng mực nào đó, có thể coi là nơi cư trú hàng ngày của

khách. Thị trường gửi khách trung gian là nơi chuyển tiếp, khách đến nơi này

du lịch trong một vài ngày rồi lại tiếp sang địa điểm du lịch khác.

- Phân loại theo thực trạng TTDL, có TTDL thực tế, TTDL tiềm năng

và TTDL mục tiêu. TTDL thực tế là thị trường mà dịch vụ hàng hóa du lịch

đã được thực hiện hoặc có đủ điều kiện để thực hiện. TTDL tiềm năng là thị

trường mà đang còn cần một số điều kiện mới có thể thực hiện được hàng hóa

và dịch vụ du lịch, có thể có cả ở cung và cầu du lịch. Do thiếu một số điều

kiện cần thiết mà cung và cầu không thể gặp nhau. Thị trường du lịch mục

tiêu là khu vực thị trường được chọn để sử dụng thu hút du khách trong một

thời gian kinh doanh nhất định. Việc tiếp cận thị trường mục tiêu đòi hỏi phải

phân tích tiềm năng buôn bán của một hay các khu vực thị trường, nó bao

gồm việc xác định số lượng du khách hiện nay cũng như du khách tiềm năng

và đánh giá mức tiêu xài mỗi ngày của mỗi du khách. Sự tuyển chọn thị

trường mục tiêu giúp các nhà Marketing dễ dàng giải quyết việc sử dụng

phương tiện quảng cáo để đạt tới thị trường đó.

- Phân loại theo tính chất thời vụ, có TTDL quanh năm và TTDL thời

vụ. TTDL quanh năm là có sự hoạt động liên tục trong năm mà không bị gián

46

đoạn. TTDL thời vụ chỉ hoạt động gián đoạn theo mùa, cung hoặc cầu du lịch

chỉ xuất hiện vào một thời gian nhất định trong năm. Tính chất này tác động

rất sâu sắc đến việc tổ chức lực lượng cung ứng của các doanh nghiệp du lịch.

Ở nhiều nước, một số bãi biển hay vùng núi chỉ hoạt động vài tháng mùa hè,

gọi là TTDL mùa hạ và nhiều nước dựa vào băng tuyết mùa đông, tổ chức du

lịch thể thao mùa đông ngoài trời, gọi là TTDL mùa đông. Tính thời vụ du

lịch phản ánh những biến động lặp đi lặp lại hàng năm của cung và cầu các

hàng hóa và dịch vụ du lịch dưới tác động của một số nhân tố xác định.

- Phân loại theo tính chất sản phẩm du lịch, có TTDL hàng hóa và

TTDL dịch vụ. Sản phẩm du lịch bao gồm các các hàng hóa, dịch vụ du lịch

và tiện nghi cung ứng cho du khách và có thể phân chia thành sản phẩm hữu

hình (hàng hóa) và vô hình (dịch vụ). Nếu TTDL hàng hóa cung ứng loại sản

phẩm hữu hình thì TTDL dịch vụ cung ứng loại sản phẩm vô hình. Sản phẩm

du lịch hữu hình như ăn, uống, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nhu cầu

giải trí, đi lại của du khách… Phần nhiều loại sản phẩm này thể hiện bằng các

loại dịch vụ. Về cơ bản, sản phẩm trên TTDL là vô hình như dịch vụ như dịch

vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống...

2.1.3.2. Vai trò của thị trường du lịch

Thị trường du lịch là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, là một

bộ phận cấu thành hệ thống các loại thị trường trong nền kinh tế, nơi thực

hiện các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường, do vậy, nó có

vai trò rất quan trọng đối với đời sống kinh tế và xã hội. Cụ thể là:

Thứ nhất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Mặc dù lưu thông do

sản xuất quyết định và phục thuộc vào sản xuất, nhưng hoạt động lưu thông

các sản phẩm du lịch trên thị trường cũng có tác động mạnh mẽ trở lại đối với

sản xuất, điều chỉnh và định hướng sản xuất. Các sản phẩm được lưu thông

trên TTDL rất đa dạng và có tỉnh tổng hợp, việc tiêu thụ và mức độ tiêu thụ

các sản phẩm này có tác động trực tiếp đối với các hoạt động sản xuất ra

chúng. Khi TTDL được phát triển, sản phẩm du lịch được lưu thông, thì càng

có điều kiện thu hút các nguồn lực vào phát triển sản xuất. Sự phát triển của

47

TTDL khi được mở rộng ra phạm vi quốc tế, còn tạo ra điều kiện để thúc đẩy

xuất khẩu tại chỗ. Nhờ đó, thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.

Thứ hai, góp phần cải thiện tiêu dùng, nâng cao chất lượng cuộc sống

của con người và xã hội. Sự phát triển và vận hành trôi chảy của TTDL sẽ tạo

ra điều kiện để các cá nhân và nhóm dân cư được tiếp cận và sử dụng các sản

phẩm, tài nguyên du lịch. Với rất nhiều loại sản phẩm và dịch vụ được TTDL

cung ứng, người tiêu dùng có thể lựa chọn để đáp ứng nhu cầu của mình. Việc

tiêu dùng sản phẩm du lịch của mỗi người không chỉ đơn thuần là tận hưởng

trong tiêu thụ sản phẩm, mà còn giúp cải thiện được sức khoẻ, làm tăng khả

năng sáng tạo, giúp con người được hạnh phúc hơn... Nhờ đó, chất lượng lao

động, làm việc của con người được nâng lên, năng suất lao động tăng lên. Vì

lẽ đó, nhiều nước đã coi sự gia tăng nhu cầu đi du lịch là một tiêu chuẩn để

đánh giá mức sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư.

Thứ ba, góp phần tạo động lực để phát triển các thị trường và các ngành

kinh tế khác. Do sản phẩm để đáp ứng nhu cầu du khách có tính chất tổng hợp

liên ngành, nên ngoài yếu tố tự nhiên ban tặng, việc cung ứng sản phẩm du

lịch phải được sự hỗ trợ của các thị trường và sản xuất của các ngành kinh tế

khác. Sự phát triển của TTDL sẽ tạo thêm động lực để phát triển các thị

trường và mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản xuất của các ngành kinh

tế khác. Chính vì thế, nhiều nước đã coi kinh doanh du lịch là ngành kinh tế

mũi nhọn, đóng vai trò đầu tầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo Tổ

chức Du lịch Thế giới (UNWTO), TTDL toàn cầu không ngừng phát triển kể

từ những năm 1950, nó đã trở thành một trong những trụ cột chính cho tiến bộ

kinh tế và xã hội với sự gia tăng liên tục số lượng du khách. Lượng khách du

lịch quốc tế đã tăng từ 25 triệu vào năm 1950 lên 1,13 tỷ trong năm 2014 và

dự báo con số này sẽ tăng lên 1,8 tỷ vào năm 2030, du lịch hiện đang tạo ra

9% GDP toàn cầu mỗi năm [78].

Thứ tư, góp phần việc làm và thu nhập cho người lao động. Do đặc thù

của hoạt động kinh doanh trên TTDL chủ yếu là dịch vụ nên có hệ số sử dụng

lao động rất cao, tạo nhiều việc làm cho xã hội. Tại những nơi có tài nguyên

48

du lịch được khai thác, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch thường tiếp nhận

một số lượng lớn người lao động. Ngoài việc kích thích các ngành kinh tế

khác phát triển, sự phát triển của TTDL còn tạo thêm việc làm cho các ngành

kinh tế khác. Nhờ đó, quy mô việc làm trong xã hội tăng lên, thu nhập của lao

động tăng lên. Đối với một nước hay một tỉnh còn trong tình trạng đang phát

triển, khi dư thừa lao động còn là vấn đề bức xúc, thì phát triển TTDL được

coi là một giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt.

Thứ năm, góp phần khai thông các nguồn lực trong nước và quốc tế

phát triển doanh nghiệp. Sự phát triển liên thông TTDL trong nước và quốc tế sẽ

tạo điều kiện để phát triển các ngành nghề trong nước, nhất là các nghề truyền

thống có tính đặc trưng vùng miền, thu hút các nguồn lực tự bên ngoài cho đầu

tư phát triển; đồng thời tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị

trường quốc tế. Nhờ đó, tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn cho kinh doanh du

lịch thông qua thị trường và doanh nghiệp nước ngoài, nâng cao chất lượng đội

ngũ nhân viên làm du lịch theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tạo điều kiện nâng cao

năng lực cạnh tranh của các chủ thể trong nước khi tham gia TTDL.

Thứ sáu, góp phần mở rộng sự hiểu biết và giao lưu giữa các dân tộc trong

nước và quốc tế. Hầu hết các quốc gia đều muốn gia tăng lượng khách du lịch,

mong muốn cộng đồng toàn cầu nhận thức tích cực về các sản phẩm do quốc gia

đó sáng tạo. Thông qua TTDL, đặc biệt trong thời đại bùng nổ công nghệ thông

tin, đã làm tăng thêm tầm hiểu biết chung về xã hội của người dân thông qua

người ở địa phương khác, khách nước ngoài về phong cách sống, ngoại ngữ,

thẩm mỹ,… tạo ra sự giao thoa về văn hóa giữa các vùng, miền và các dân tộc

khác nhau trên thế giới; làm tăng thêm tình đoàn kết, hữu nghị, mối quan hệ thân

ái của nhân dân giữa các vùng, nhân dân giữa các quốc gia với nhau.

Như vậy, sự phát triển của TTDL có tác động nhiều mặt đối với đời

sống kinh tế và xã hội. Nhận thức đúng vai trò của thị trường này và có chiến

lược, chính sách đầu tư đúng đắn là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy tăng

trưởng và phát triển kinh tế, phát triển xã hội theo hướng bền vững.

49

2.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH, TIÊU CHÍ ĐÁNH

GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NÓ

2.2.1. Nội dung phát triển thị trường du lịch

Để phát huy vai trò to lớn của TTDL, ngoài cơ chế tự vận hành bởi các

quy luật kinh tế khách quan của thị trường, việc phát huy vai trò kinh tế của nhà

nước là rất cần thiết. Đây chính là xu hướng chung của tất cả các nước nói

chung, các tỉnh nói riêng nhằm phát triển TTDL. Với vai trò là chủ thể điều tiết

vĩ mô nền kinh tế, nhà nước cần có cơ chế chính sách thúc đẩy và hỗ trợ đảm

bảo TTDL phát triển đúng hướng và có hiệu quả.

2.2.1.1. Xây dựng và thực thi chiến lược và kế hoạch cho phát triển thị

trường du lịch

Chiến lược là tập hợp những quyết định, những hành động, những kế

hoạch liên kết với nhau để thực hiện mục tiêu đặt ra của tổ chức, là những mưu

tính và quyết sách đối với những vấn đề trọng đại có tính chất toàn cục và lâu

dài. Chiến lược phát triển TTDL là một bộ phận cấu thành trong chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Nó quy định những mục tiêu lâu

dài, những nhiệm vụ chủ yếu về sự phát triển kinh tế du lịch, những con đường

và chính sách để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng chung của

sự phát triển kinh tế trong một thời kỳ dài.

Chiến lược phát triển TTDL là xác định các nhiệm vụ, mục tiêu dài

hạn, lựa chọn chính sách thích hợp với điều kiện trong nước và quốc tế; phối

hợp tối ưu các nguồn lực. Đây là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục tiêu

căn bản, chủ yếu để phát triển du lịch, đồng thời xác định các nguồn lực,

phương tiện và lựa chọn các phương án thích hợp để đạt được các mục tiêu

trong phát triển du lịch. Xác định chủ trương về phát triển TTDL của Đảng và

Nhà nước; xác định mục tiêu dài hạn cần hướng đến sự phát triển trong phát

triển du lịch; xác định những định hướng giải pháp, chính sách thực hiện

chiến lược và xác định các thế mạnh cần được phát huy, các tiềm năng du lịch

cần được khai thác, tranh thủ được cơ hội và xác định những thách thức, yếu

kém cần vượt qua. Việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển TTDL có ý

50

nghĩa to lớn đối với việc định hướng, quy hoạch, kế hoạch phát triển cũng

như việc xử lý các vấn đề nảy sinh trên TTDL.

Đối với ngành du lịch Lào, để tích cực và chủ động trong việc xây dựng

chiến lược phát triển TTDL là rất cấp thiết. Chiến lược phát triển TTDL sẽ căn

cứ để xây dựng các kế hoạch, quy hoạch phát triển của các ngành trong ngắn

hạn. Nó là tiêu thức để các tổ chức du lịch hướng tới trong hoạt động kinh

doanh; đồng thời là điều kiện, tiền đề rất quan trọng để khai thác, sử dụng các

nguồn lực, lợi thế cho phát triển kinh doanh du lịch của các công ty trong nước.

Trong những năm qua, Bộ thông tin, văn hóa và du lịch Lào đã xây dựng

chiến lược phát triển du lịch Lào giai đoạn năm 2010 - 2020 và tầm nhìn đến

năm 2030. Tập chung phát triển ngành du lịch trong thời gian tới với mục tiêu là

đưa du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm. Theo chiến lược, vào năm 2025,

Lào sẽ đón khoảng 7,5 triệu lượt du khách. Doanh thu du lịch sẽ đạt khoảng 1,4

tỷ USD. Để thu hút khách du lịch, sẽ phải xây dựng các dòng sản phẩm du lịch

đặc trưng, theo các phân đoạn thị trường. Trong đó đặc biệt chú trọng khai thác

du khách đến từ các nước có nền kinh tế mới nổi như: Trung Quốc, Hàn Quốc,

Nhật Bản và các nước ASEAN, đây là nguồn du khách có khả năng tài chính

phù hợp, lưu trú dài ngày với những sản phẩm mới như: du lịch hội thảo, du lịch

chữa bệnh, làm đẹp,... [9, tr.26].

Xây dựng và thực thi quy hoạch phát triển TTDL. Đây là việc lựa chọn

phương án hợp lý phát triển và tổ chức thị trường, tổ chức lực lượng kinh

doanh du lịch dài hạn trên một không gian lãnh thổ nhất định. Nó là việc xây

dựng trước một kế hoạch để đánh giá tình huống hiện tại, dự báo tình huống

tương lai và lựa chọn một số chương trình hành động phù hợp để tạo được

nhiều cơ hội sẵn có nhất cho sự phát triển điểm đến du lịch. Đây là việc cần

thiết để phát triển thị trường, để các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chủ

động phát triển sản phẩm, tham gia cạnh tranh với các doanh nghiệp du lịch

nước ngoài. Nội dung quy hoạch phát triển TTDL bao gồm: xác định vị trí,

vai trò, lợi thế của TTDL trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,

vùng và quốc gia; phân tích, đánh giá tiềm năng và hiện trạng tài nguyên du

51

lịch, các nguồn lực phát triển du lịch, TTDL; xác định quan điểm, mục tiêu,

tính chất, dự báo các chi tiêu, luận chứng, các phương án phát triển du lịch; tổ

chức không gian du lịch, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch;

xác định danh mục các khu vực, các dự án ưu tiên đầu tư, nhu cầu sử dụng

đất, vốn đầu tư và nguồn nhân lực cho kinh doanh du lịch; đánh giá tác động

môi trường, các biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường đề xuất cơ

chế, chính sách, giải pháp quản lý để phát triển TTDL theo quy hoạch.

Xây dựng và thực thi quy hoạch phát triển TTDL. Đó là bản đề án tổng

thể về mục tiêu của phát triển TTDL cùng các biện pháp, chính sách thực thi

nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển TTDL trong từng thời gian

nhất định, thường kế hoạch dài hạn là 5 năm hoặc kế hoạch ngắn hạn là 1

năm. Nếu chiến lược phát triển TTDL được xây dựng cho phương pháp cân

đối dự báo, tức là dự báo có cơ sở khoa học nguồn lực và khả năng cân đối

cung - cầu trên thị trường, thì kế hoạch phát triển TTDL được xây dựng theo

phương pháp cân đối hiện thực các nguồn lực, khả năng đã nắm và có thể huy

động được trong định kỳ thời gian.

2.2.1.2. Tạo cung và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho thị trường du lịch

Sản phẩm du lịch bao gồm tất cả hàng hóa và dịch vụ cần thiết làm thỏa

mãn nhu cầu chuyến đi du lịch của khách. Nó là tổng hợp những gì khách mua,

hưởng thụ, thực hiện gắn với điểm du lịch. Đứng về phía du khách, sản phẩm du

lịch bao gồm toàn bộ dịch vụ phục vụ cho chuyến đi, tính từ khi ra khỏi chỗ ở

hàng ngày đến khi trở về nhà của mình. Những sản phẩm đáp nhu nhu cầu của

khách trong một thời gian xác định ở các khu du lịch, hay một chuyến du lịch,

một cuộc dự hội nghị là sản phẩm du lịch trọn gói, tổng hợp. Một phòng khách

sạn mà khách sử dụng là một sản phẩm du lịch riêng lẻ. Sản phẩm du lịch được

tồn tại cả ở dạng hữu hình và cả những sản phẩm vô hình. Chúng không chỉ

được tạo ra từ các ngành sản xuất công nghiệp và nông nghiệp mà còn được tạo

ra ở các ngành dịch vụ. Khác với các sản phẩm trên các thị trường khác, phần

lớn nguồn cung về sản phẩm cho TTDL là văn hóa, các lễ hội, di tích lịch sử, các

tài nguyên thiên nhiên và các công trình xây dựng, v.v... Những sản phẩm này

52

không phải được con người trực tiếp sản xuất ra để đem bán, mà là sự ban tặng

của tự nhiên cho con người hoặc được các thế hệ trước kiến tạo không phải vì

mục đích kinh doanh du lịch. Để trở thành hàng hóa du lịch, các thứ này phải

được bảo tồn, tôn tạo, giới thiệu, kích thích nhu cầu.

Do sản phẩm du lịch thường gắn liền với nguồn tài nguyên du lịch, nên

nó khác với các sản phẩm khác là không thể di chuyển được từ địa điểm này

sang địa điểm khác. Đặc điểm này bắt buộc người mua phải đến tận nơi có sản

phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình.

Sản phẩm du lịch còn có điểm riêng biệt so với các hàng hóa thông

thường ở chỗ khi nó được đem bán cho khách chỉ là bán công dụng của sản

phẩm chứ không bán việc sở hữu sản phẩm. Việc sử dụng nó còn có thể gây ra

phản ứng lan truyền từ du khách này sang du khách khác, thì giá trị của nó có thể

được tăng lên theo các lần sử dụng của du khách.

Tính thời vụ của sản phẩm du lịch không phải bắt nguồn từ bản thân sản

phẩm, mà thông thường lại từ nhu cầu của du khách. Tính thời vụ của sản phẩm

du lịch còn thể hiện rõ ở các ngày nghỉ trong tuần, những ngày nghỉ lễ, các kỳ

nghỉ hè của học sinh, sinh viên. Tính thời vụ tuy có sự khác biệt giữa các quốc gia,

các khu vực nhưng vẫn là đặc điểm nổi bật của hoạt động du lịch mà những nhà

kinh doanh phải nắm được. Nguồn lực và tiềm năng cho phát triển du lịch là một

nội dung không thể thiếu được trong kinh doanh du lịch, nó là điều kiện và yếu tố

đầu vào để tạo ra sản phẩm du lịch cung ứng trên thị trường. Nó bao gồm các yếu

tố chủ yếu như: tài nguyên du lịch, các kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ

thuật cho phát triển du lịch.

Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa,

công trình do lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có

thể được dùng để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, là yếu tố cơ bản để hình

thành khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch,v.v... Cảnh quan thiên nhiên

bao gồm: địa hình, địa chất, địa mạo, tài nguyên khí hậu, nước, sinh vật và

các cảnh quan du lịch tự nhiên. Di tích lịch sử, văn hóa là các công trình do

lao động sáng tạo của con người tạo ra, bao gồm: văn hóa vật thể như: di sản

53

văn hóa thế giới, các di tích lịch sử văn hóa, các công trình đương đại, các vật

kỷ niệm, cổ vật và văn hóa phi vật thể như: các di sản văn hóa truyền miệng

và phi vật thể của nhân loại,v.v...

Các cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển du lịch là một nội dung

quan trọng cho phát triển TTDL. Nó bao gồm các điều kiện phục vụ cho việc

tổ chức các chuyến đi du lịch, các điểm du lịch, hệ thống giao thông, cơ sở

lưu trú và ăn uống, cơ sở vui chơi giải trí và các phương tiện vận chuyển

khách du lịch,... Các cơ sở vật chất - kỹ thuật này càng thuận tiện, hiện đại thì

càng có điều kiện nâng cao năng lực phục vụ du khách, tăng sức cạnh tranh

trong việc thu hút khách, mở rộng TTDL. Chính vì thế, trong thời gian tới

mặc dù phải đối phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng không ít quốc

gia vẫn ưu tiên đầu tư tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển TTDL

tăng cường thu hút du khách trong nước và quốc tế.

2.2.1.3. Liên kết trong nước và quốc tế cho phát triển thị trường du lịch

Liên kết kinh tế trong phát triển TTDL là hoạt động nhằm tối ưu hóa và

tăng cường tiềm lực cho hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch trong

việc thu hút khách trong nước và quốc tế. Nó có thể thực hiện dưới hình thức

liên kết các ngành kinh tế khác nhau, có liên quan với nhau cho phát triển

TTDL và cũng có thể là liên kết giữa các tổ chức kinh doanh du lịch trong

nước với nhau hoặc giữa các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước và nước

ngoài cung hoạt động trên một TTDL.

Liên kết trong phát triển du lịch cũng có thể là sự phối hợp giữa các cơ sở

du lịch, điểm du lịch, đơn vị du lịch của các địa phương, vùng và giữa các nước

trong phát triển mạng lưới du lịch, xây dựng các tuyến du lịch liên vùng, liên

quốc gia.

Thực chất của các liên kết này là thực hiện các quan hệ phân công, hợp

tác, phân bổ lực lượng sản xuất giữa các doanh nghiệp, sao cho các quan hệ đó

được thiết lập một cách tối ưu, ràng buộc trách nhiệm với nhau bằng các hợp

đồng kinh tế cụ thể, công khai, minh bạch nhằm phát triển sản phẩm du lịch, mở

rộng thị trường. Đây còn là hình thức thúc đẩy các quan hệ lợi ích, tức là các

54

quan hệ trao đổi, thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau, quan hệ phân chia

lợi nhuận do kết quả và chất lượng của hoạt động du lịch mang lại.

Với nội dung này, hoạt động TTDL của một địa phương hay một quốc gia

muốn phát triển, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, thành phần kinh

tế, tổ chức kinh doanh du lịch và các địa phương trong việc tuyên truyền, quảng

bá, xây dựng tiềm lực và phát triển sản phẩm du lịch, trong việc mở rộng thị

trường dịch vụ du lịch không chỉ ở địa phương, khu vực mà còn vươn ra thị

trường mới, kể cả TTDL quốc tế.

2.2.1.4. Lựa chọn cơ chế vận hành thị trường du lịch

Cũng như các thị trường khác, cơ chế vận hành TTDL là một "guồng

máy" điều chỉnh hoạt động của các chủ thể tham gia TTDL. Nó có thể là cơ chế

thị trường hay còn gọi là "bàn tay vô hình", "cơ chế tự điều tiết", cũng có thể là

sự điều tiết và quản lý của nhà nước hay còn gọi là "bàn tay hữu hình", đối

với TTDL, và cũng có thể được kết hợp cả hai loại cơ chế này, tức là cơ chế

"Hai bàn tay". Cơ chế vận hành TTDL là một nội dung quan trọng trong việc

lựa chọn môi trường thuận lợi cho các chủ thể tham gia TTDL.

Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết, tự vận hành thị trường. Nó tự phát

sinh ra và tự phát điều chỉnh hoạt động của các chủ thể thị trường. Cơ chế này có

tác động rất lớn đối với các chủ thể thị trường mà trước hết là đối với các tổ chức

kinh doanh du lịch. Nó buộc chủ doanh nghiệp phải tích cực hơn, năng động và

sáng tạo hơn trong hoạt động cung ứng dịch vụ du lịch. Nó làm cho các nguồn tài

nguyên du lịch được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn, cung ứng sản phẩm tốt

hơn, giá cả hợp lý hơn. Cơ chế này cũng loại bỏ những nhà kinh doanh kém cỏi,

thiếu năng lực và giữ lại những người kinh doanh thành công. Tuy nhiên, quá

trình vận hành nền kinh tế của cơ chế thị trường cũng đưa lại những kết quả không

mong muốn mà nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu. Chính vì thế, ngày nay để

vận hành TTDL hoạt động có hiệu quả và để thực hiện các mục tiêu xã hội trong

phát triển kinh tế, ở nhiều nước đã có sự kết hợp giữa thị trường và nhà nước.

Nhà nước điều tiết và quản lý TTDL là hoạt động của cơ quan nhà nước

nhằm hướng sự hoạt động của các chủ thị trường theo mục đích nhà nước đã lựa

55

chọn. Để thực hiện việc điều tiết này, nhà nước phải sử dụng các công cụ kể cả

kinh tế và công cụ hành chính. Đó là hệ thống luật pháp, kế hoạch hóa và các

chính sách phát triển TTDL, hệ thồng xúc tiến và quảng bá du lịch, bộ máy quản

lý TTDL mà chủ yếu là các hoạt động kinh doanh du lịch. Cùng với tạo điều

kiện môi trường thông thoáng trong đầu tư kinh doanh du lịch, việc nhà nước

điều tiết TTDL đòi hỏi phải có sự kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh du

lịch. Nó bao gồm kiểm tra, kiểm soát hoạt động của TTDL theo định hướng

chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển đã được xác định để có hướng điều

chỉnh kịp thời; kiểm tra việc sử dụng các nguồn lực để phát triển sản phẩm du

lịch để các nguồn lực được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, không bị

lãng phí; kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chức năng của nhà nước về TTDL

nhằm bảo đảm trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động du lịch,

các hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp du lịch nắm chắc tình trạng hoạt

động của doanh nghiệp để có phương hướng và biện pháp điều chỉnh nhằm đảm

bảo cho chúng tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.

Ở CHDCND Lào hiện nay, việc nhà nước thực hiện nhất quán các chính

sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh và phát triển các

loại hình doanh nghiệp du lịch, bảo đảm cho mọi công dân có quyền tự do đầu

tư kinh doanh trong các lĩnh vực du lịch mà nhà nước không cấm, quyền bất khả

xâm phạm về sở hữu hợp pháp trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và

các nguồn lực phát triển, tiếp cận thông tin, v.v... Đồng thời, để thúc đẩy TTDL,

nhà nước đã chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế, tham

gia đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu và song phương. Những chủ

trương và chính sách này là rất cần thiết cho phát triển TTDL ở Lào.

Như vậy, nội dung phát triển TTDL bao gồm việc quy hoạch, định hướng

phát triển thị trường, phát triển nguồn cung cho thị trường và tạo lập môi trường,

thể chế thuận lợi cho phát triển thị trường. Thực chất, đây là những nội dung tác

động làm tăng số lượng và nâng cao chất lượng cung về sản phẩm du lịch theo

quan điểm cung dẫn cầu. Tất nhiên, trên TTDL cầu cũng có vai trò rất quan

trọng, nhiều khi lại trở thành nhân tố quyết định cung. Do vậy, để phát triển

56

TTDL, các nhà hoạch định chính sách phải tính đến các nhân tố kích cầu du lịch

trong một bối cảnh nhất định.

2.2.2. Tiêu chí đánh giá kết quả phát triển thị trường du lịch

Việc xác định tiêu chí đánh giá kết quả phát triển TTDL là rất cần thiết

để có cơ sở nghiên cứu thực trạng và tìm kiếm định hướng, giải pháp đầu tư,

hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy phát triển. Đến nay, các nhà nghiên

cứu và tổ chức thực tiễn trên thế giới đã xây dựng khá nhiều tiêu chí đánh giá

về mức độ hoạt động du lịch, như tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của điểm

đến theo mô hình của Crouch và Ritchie (2003), Brazil (2010) [83]; mô hình

đánh giá về mức độ hấp dẫn của điểm đến du lịch trên trang web TripAdvisor;

tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp du lịch; và

có những tiêu chí đánh giá tác động của du lịch đối với kinh tế, xã hội. Từ

nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm các nước, tác giả xác định để đánh giá

kết quả phát triển TTDL có các tiêu chí chủ yếu như sau:

- Quy mô và mức độ hấp dẫn của thị trường. Với tiêu chí này, quy mô

TTDL càng lớn tức là lượng cung và lượng cầu du lịch càng nhiều, TTDL

càng mở rộng, càng tạo sự hấp dẫn đối với du khách, kích thích việc tăng

cung. Có thể đo lường tiêu chí này bằng quy mô nguồn lực chủ yếu là mức độ

đa dạng và tính độc đáo của tài nguyên du lịch, sức chứa của điểm tài nguyên,

bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch. Mức độ tiện lợi của các yếu tố hỗ trợ

gồm hệ thống hạ tầng và phương tiện giao thông, hệ thống điện và cấp thoát

nước, mức độ đảm bảo trật tự an ninh, an toàn cho du khách, môi trường sinh

thái tại điểm đến du lịch. Quy mô sản phẩm hàng hóa và dịch vụ du lịch gồm

năng lực cung cấp thông tin, hướng dẫn, thuyết minh cho khách hàng, hệ

thống cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ phục vụ lưu trú của du khách, hệ

thống nhà hàng phục vụ khách du lịch, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí, tham

quan, nghỉ dưỡng, khám phá, tìm hiểu các giá trị về tự nhiên, văn hóa, dịch vụ

tổ chức sự kiện, hội nghị, hội thảo, dịch vụ mua sắm. Nếu các dịch vụ này đa

dạng, tiện nghi và có quy mô lớn thì quy mô TTDL là lớn và có nhiều khả

57

năng thu hút du khách cả trong nước và quốc tế hơn so với các TTDL có quy

mô nhỏ và thiếu đồng bộ về các loại dịch vụ.

Sức hấp dẫn của TTDL còn được thể hiện ở mức độ thu hút đầu tư

nước ngoài vào thị trường này nhiều hay ít có thể đo đếm được.

- Sức cạnh tranh của thị trường. Tiêu chí này dùng để xác định năng

lực hoạt đông của một TTDL so với các TTDL khác. Nó bao gồm sức đáp

ứng của kết cấu hạ tầng, dịch vụ và trang thiết vị du lịch, khả năng tiếp cận thị

trường, sức hấp dẫn của điểm tham quan vui chơi, marketing, chính sách

công, liên kết vùng, mức độ kiểm tra giám sát, nền kinh tế vùng, năng lực

kinh doanh, và các khía cạnh về văn hóa, xã hội, môi trường.

- Mức độ tạo việc làm và thu nhập. Đây là tiêu chí đánh giá hiệu quả

kinh tế của TTDL. Nó được đo bằng mức độ tăng trưởng việc làm và tăng

trưởng thu nhập với các chỉ tiêu:

Tăng trưởng việc làm: = , trong đó gL là tốc độ tăng

trưởng lực lượng lao động trên TTDL trong kỳ nghiên cứu, Lt là số lượng lao

động làm việc trên TTDL tại thời điểm t (tháng, quý, năm), Lt-1 là số lượng

lao động làm việc trên TTDL tại thời điểm trước (tháng trước, quý trước, năm

trước). Nếu gL> 0 thì có sự tăng trưởng, còn nếu gL< 0 là có sự suy giảm.

Tăng trưởng thu nhập: = , trong đó gY là tốc độ tăng

trưởng thu nhập trên TTDL trong kỳ nghiên cứu, Yt là tổng thu nhập của

TTDL tại thời điểm t (tháng, quý, năm), Yt-1 là tổng thu của TTDL tại thời

điểm trước (tháng trước, quý trước, năm trước). Nếu gY> 0 thì có sự tăng

trưởng, nếu gY = 0 tức là không có sự tăng trưởng (trong kinh tế chính trị còn

gọi là đình trệ), còn nếu gY< 0 là có sự suy giảm. Chỉ tiêu này có thể dùng đo

lượng thành quả chung về hoạt động của mộ TTDL cả cấp tỉnh, cấp quốc gia

và toàn thế giới, và cũng có thể đo lường sự thay đổi trung bình về thu nhập

của người lao động theo thời gian. Tiêu chí tăng trưởng thu nhập của lao động

cũng được hiểu là mức độ về tăng năng suất lao động của người lao động làm

việc ở thị trường này.

58

Mức độ đóng góp của TTDL vào tổng giá trị sản lượng trong nước, trong tỉnh:

Mức đóng góp của TTDL(%) = .100%. Chỉ số này cho

biết tầm quan trọng của TTDL trong việc tạo ra giá trị chung của nền kinh tế

trong một thời kỳ nhất định, có thể tính ở trong nước và trong tỉnh. Dựa vào

phương pháp này, có thể xác định mức đóng góp của TTDL đối với nguồn thu

ngoại tệ, thu ngân sách cho địa phương phát triển du lịch.

Ngoài ra, có thể sử dụng tiêu chí về hiệu quả kinh doanh của doanh

nghiệp trên TTDL như hiệu quả sử dụng vốn, tăng trưởng lợi nhuận.

- Mức độ lôi kéo của TTDL đối với các thị trường, các ngành khác

trong nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh du lịch cần nhiều sự hỗ trợ của các

thị trường và các ngành kinh tế khác. Nhiều khu vực khác cũng được hưởng

lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch,

như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm, vận tải, lưu trú, bán lẻ,

dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính. Do vậy, có thể đánh giá được mức độ lôi

kéo của TTDL đối với các thị trường, các ngành kinh tế khác. Ở các tỉnh có

làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để phát triển du lịch

bằng việc giới thiệu và bán các sản phẩm thủ công cho các du khách đến thăm

quan tạo cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu. Mức độ

tăng trưởng của các nghề truyền thống địa phương nhờ dựa vào TTDL cũng là

tiêu chí để đánh giá độ lôi kéo của sự phát triển thị trường này.

- Tiêu chí về tác động lan tỏa của TTDL đối với phát triển xã hội và

bảo vệ môi trường. Tiêu chí để xác định mức độ lan tỏa này có thể sử dụng

gồm khả năng tạo việc làm cho lao động nữ của địa phương, góp phần giáo

dục truyền thống, văn hóa, tri thức về tự nhiên, xã hội, ý thức bảo vệ môi

trường sinh thái; quảng bá hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua các du

khách, quảng bá, tăng tầm hiểu biết chung về văn hóa, xã hội, hình ảnh đất

nước, con người, truyền thống, văn hóa của tỉnh, quốc gia, kết nối bạn bè...

59

2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường du lịch

Việc phát triển TTDL của Lào nói chung, các tỉnh trong nước nói riêng,

chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố trong đó có cả khách quan và chủ quan.

Dưới đây là các nhân tố chủ yếu:

Thứ nhất, các yếu tố kinh tế. Thu nhập và thời gian rảnh rỗi của người dân

là hai yếu tố kinh tế rất quan trọng tác động đến cầu du lịch của người dân. Do

hàng hóa và dịch vụ du lịch là loại sản phẩm cao cấp nên cầu du lịch tăng trưởng

cùng chiều với mức tăng thu nhập. Cầu du lịch cũng biến đổi theo chiều thuận

với thời gian rảnh rỗi của mỗi người. Khi thu nhập tăng và có thời gian nghỉ

ngơi, rảnh rỗi thì cầu du lịch tăng; và ngược lại thu nhập và thời gian rảnh rỗi

giảm thì cầu du lịch giảm. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cứ 1% tăng trưởng

GDP sẽ tạo ra tăng trưởng từ 2% - 2,5% trong chi tiêu cho du lịch. Các yếu tố

kinh tế xã hội cũng có ảnh hưởng đến cầu và cung hàng hóa, dịch vụ du lịch. Khi

nền kinh tế có sự tăng trưởng ổn định thì thu nhập của người dân tăng, cầu du

lịch tăng. Khi xảy ra thiên tai, bệnh dịch, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền

tệ hay khủng hoảng giá dầu lửa trên thế giới thì cả cung và cầu đều giảm xuống,

TTDL bị thu hẹp.

Thứ hai, mức độ đáp ứng của các nguồn lực. Nguồn lực cho phát triển

TTDL là các yếu tố đầu vào để tạo ra cung sản phẩm du lịch. Nó bao gồm

các nguồn lực cứng và các nguồn lực mềm. Nguồn lực cứng gồm có tài

nguyên du lịch, vốn, khoa học, công nghệ và nguồn lực con người. Nguồn

lực mềm bao gồm các quan hệ hợp tác giữa các công ty, các ngành, các địa

phương và hợp tác quốc tế trong mở rộng cung, cầu và phát triển TTDL,

mức độ tham gia, cởi mở của các tổ chức, hiệp hội du lịch, cơ chế chính sách

của nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương, mức độ tham

gia của cộng đồng dân cư, mức độ hiếu khách tại điểm đến... Nguồn lực tài

nguyên du lịch bao gồm danh thắng, tài nguyên thiên nhiên được công nhận

là khu bảo tồn và các vườn quốc gia, di sản vật thể, phi vật thể, di sản lịch

sử, văn hóa được công nhận ở các cấp độ vùng, quốc gia, quốc tế. Nguồn lực

vốn là điều kiện để các dự án du lịch trở thành hiện thực. Nguồn lực khoa

60

học và công nghệ có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hoạt động của

TTDL. Nguồn lực con người không chỉ ở số lượng mà còn rất quan trọng là

ở chất lượng với tính chuyên nghiệp của họ. Nếu quy mô và chất lượng của

các nguồn lực trên mà tăng lên thì quy mô và chất lượng cung về sản phẩm

du lịch sẽ tăng lên. Nếu việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch được sự

hỗ trợ mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại thì không chỉ tăng cung

mà còn kích thích cầu tức là sẽ thu hút được nhiều du khách hơn.

Ngày nay, trong phát triển TTDL cuộc cách mạng 3T (Telecommucation -

Transport - Tourism) là cuộc cách mạng trong viễn thông, công nghệ, giao thông

vận tải để thúc đẩy sự phát triển TTDL. Nó được sử dụng trong ngành hàng

không để vận chuyển du khách, trong hỗ trợ việc tìm kiếm thông tin trực tuyến,

đến hoạt động thiết kế và phân phối sản phẩm du lịch. Các thành tựu công nghệ

kỹ thuật số và mạng internet, công nghệ thực tế ảo (VR), công nghệ 3D... có

ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đối với thị trưởng điểm đến du lịch mà còn làm

phát sinh TTDL mới như du lịch tại chỗ thông qua các trang web.

Thứ ba, các yếu tố chính trị. Tuy thể chế kinh tế, chính trị được quyết

định bở các quan hệ kinh tế, nhưng nó có tác động trở lại kinh tế thúc đẩy hoặc

kìm hãm sự phát triển kinh tế. TTDL là một lĩnh vực kinh tế cũng chịu tác động

này. Cụ thể là nó chịu ảnh hưởng bởi đường lối, chiến lược và chính sách phát

triển kinh tế - xã hội của đảng và nhà nước. Nếu đường lối, chính sách phát triển

kinh tế - xã hội đúng đắn cho phép phát huy được các nguồn lực và các hình

thức tổ chức kinh doanh của mọi chủ thể thì cùng với các thị trường khác, TTDL

được phát triển. Tương tự, mức độ an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội

được bảo đảm thì TTDL có điều kiện thuận lợi để phát triển. Những bất ổn về

chính trị, xã hội đều tác động tiêu cực thậm chí còn phá hoại thị trường. Sự an

toàn của điểm đến là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu để du khách

quyết định lựa chọn điểm đến du lịch. Nhiều nghiên cứu cho thấy TTDL có độ

nhạy cảm rất cao đối với chính trị và trật tự, an toàn xã hội.

Thứ tư, mức độ địa phương hóa, khu vực hóa và toàn cầu hóa. Địa

phương hóa TTDL thể hiện ở các yếu tố về bản sắc địa phương trong việc cung

61

ứng hàng hóa và dịch vụ du lịch, làm cho TTDL ở địa phương này có tính độc

đáo, khác biệt so với ở các địa phương khác, gây sức hấp dẫn điểm đến đối với

khách du lịch.

Khu vực hóa là quá trình gắn kết giữa các quốc gia, lãnh thổ trong cùng

khu vực địa lý, có nhiều nét tương đồng về kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở tự

nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau thông qua các quy định chặt

chẽ của điều ước quốc tế. Ví dụ, ASEAN là một liên minh chính trị, kinh tế, văn

hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Toàn cầu hóa thể

hiện ở mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay

các cá nhân vè kinh tế, văn hóa... trên quy mô toàn cầu. Trong kinh tế, toàn cầu

hóa được đặc biệt nhấn mạnh với hợp tác sản xuất và tự do hóa thương mại. Ví

dụ, WTO là một tổ chức thương mại toàn cầu có trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ;

UNWTO là một cơ quan của Liên hiệp quốc nắm bắt mọi vấn đề liên quan đến

du lịch trên toàn thế giới với 156 quốc gia tham gia. Khu vực hóa và toàn cầu

hóa càng được mở rộng thì TTDL quốc gia càng có cơ hội để mở rộng và phát

triển ra các nước trên thế giới. Tất nhiên, khu vực hóa, toàn cầu hóa cũng đặt ra

không ít thách thức và áp lực cạnh tranh đối với các công ty du lịch quốc gia

trong phát triển thị trường.

Thứ năm, môi trường sống và làm việc của con người, mức độ nhận thức về

môi trường xã hội của khách du lịch. Môi trường sống và làm việc của con người

có tác động đến TTDL. Ví dụ, người dân sống ở các đô thị đông đúc, nhiều tiếng ồn

và khói bụi độc hại thường muốn đi du lịch để cải thiện chất lượng cuộc sống. Hàng

ngày con người luôn phải làm việc, tiếp xúc với máy tính và các trang thiết bị điện

tử hiện đại. Điều đó khiến nhiều người muốn được thay đổi không khí trong lành,

đến một nơi có môi trường sống lành mạnh, nghỉ ngơi và thư giãn khi có những dịp

nghỉ lễ dài ngày.

Mức độ nhận thức về môi trường xã hội của khách du lịch và mức độ

giám sát của cộng đồng địa phương trong việc ra các quyết định phát triển điểm

đến du lịch có ảnh hưởng quan trọng đến duy trì hoạt động và phát triển TTDL

một cách bền vững.

62

Ngoài ra, hoạt động của TTDL còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác

như mức độ hoàn hảo của hoạt động quảng bá, marketing du lịch, mức độ thân

thiện của người dân khi tiếp đón khách du lịch, độ hoàn hảo trong các dịch vụ

của người và tổ chức kinh doanh du lịch.

2.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH CỦA MỘT SỐ

TỈNH TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

2.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch của tỉnh Ninh

Bình, Việt Nam

Ninh Bình là vùng đất có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng

của Việt Nam, hoà quyện cùng bản sắc văn hoá, tạo cho tỉnh Ninh Bình các

thế mạnh để phát triển TTDL. Tiêu biểu như Cố đô Hoa Lư, vùng đất là kinh

đô của nước Đại Cồ Việt thế kỷ thứ 10 - Nhà nước phong kiến tập quyền đầu

tiên của nước ta gắn liền với ba vương triều: Đinh - Tiền Lê - Lý, với ba vị

anh hùng dân tộc: Vua Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành và Vua Lý Thái

Tổ. Chính từ đây, Vua Lý Thái Tổ đã xuống chiếu dời đô ra Thăng Long. Nơi

đây, đến nay vẫn còn nhiều công trình kiến trúc được lưu giữ, đó là đền thờ

Vua Đinh Tiên Hoàng, đền thờ Vua Lê Đại Hành, nhà bia tưởng niệm Vua Lý

Thái Tổ, lăng Vua Đinh, lăng Vua Lê, phủ Bà Chúa, phủ Vực Vông, bia Cửa

Đông, chùa Nhất Trụ…

Thị trường du lịch của tỉnh tương đối phong phú, đa dạng về sản phẩm,

như núi, hồ, rừng với các di tích văn hóa, lịch sử, danh lam, thắng cảnh nổi

tiếng. Tỉnh Ninh Bình có hơn 800 di tích các loại đã được kiểm kê, 78 di tích

lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia và 99 di tích

được xếp hạng cấp tỉnh. Con số đó phản ánh sự phong phú của di sản, là tiềm

năng, tài nguyên du lịch, điển hình như đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở xã Gia

Phương, động Hoa Lư, đền thờ Trương Hán Siêu, đền thờ Nguyễn Công Trứ,

đền thờ Đức Thánh Nguyễn, chùa Bàn Long, chùa Địch Lộng, chùa Non Nước,

đình Trùng Thượng…

Ninh Bình cũng là nơi còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống,

trong thời kỳ kinh tế du lịch phát triển thì đây lại là những sản phẩm có giá trị

63

cao để phát triển dịch vụ du lịch. Tiêu điểm như làng nghề trạm khắc đá Ninh

Vân, thêu ren Ninh Hải, mỹ nghệ cói Kim Sơn, đồ gỗ Phúc Lộc, làng đá cảnh

Bình Khang…[43]. Ninh Bình còn là tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi cho phát

triển TTDL, nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông

Hồng và Bắc Trung Bộ, là nơi chịu ảnh hưởng giữa nền văn hóa Hòa Bình và

văn hóa Đông Sơn với 74 lễ hội truyền thống và nhiều hội làng mang đậm yếu

tố dân gian, đậm đà văn hoá vùng đất châu thổ sông Hồng [70].

Để phát triển TTDL, tỉnh Ninh Bình đã xây dựng 5 loại hình du lịch

được ưa thích là: (i) Du lịch văn hóa lịch sử như Khu di tích lịch sử cố đô Hoa

lư, Khu văn hóa tâm linh chùa Bái Đính, Quần thể nhà thờ Phát Diệm, các di

tích văn hóa phòng tuyến Tam điệp - Biện sơn, di tích lịch sử cách mạng: Khu

căn cứ cách mạng Quỳnh lưu, núi Non nước, di tích cách mạng…. (ii) Du lịch

sinh thái cảnh quan: Khu du lịch quốc gia Cúc Phương; khu bảo tồn thiên

nhiên Vân Long; khu du lịch sinh thái hang động Tràng An với các loại hình

du lịch tổng hợp hang động, sông suối; Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động với

nhiều tuyến du thuyền trên sông; khu du lịch động Thiên Hà và các điểm hang

động di tích lịch sử. (iii) Du lịch giải trí: Khu du lịch nghỉ dưỡng Ana

Mandara Ninh Bình tọa lạc trên khu đất rộng 16,2 ha gần khu bảo tồn thiên

nhiên Vân Long huyện Gia Viễn, Khu nghỉ dưỡng nước khoáng nóng Cúc

Phương, Khu nghỉ dưỡng Life Wellnesss Resort Ninh Bình... (iv) Di tích khảo

cổ: Ninh Bình là địa bàn có nhiều di tích khảo cổ học thuộc các thời kỳ văn hóa

Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút và Đông Sơn như: Di tích Núi Ba, Di tích Thung

nham, Di tích hang Đắng, Di tích hang Đáo, Di tích hang Yên Ngựa, Động Mã

Tiên, Hang Bói, Hang Bụt, Hang Dẹ, Hang Sáo... (v) Văn hóa với 74 lễ hội

truyền thống và 145 hội làng mang đậm yếu tố dân gian, đậm đà văn hóa vùng

đất châu thổ Sông Hồng như lễ hội Chùa Bái Đính, Lễ hội làng Yên Vệ, lễ hội

cố đô Hoa lư, lễ hội đền Trần (Tràng An), lễ hội Noen giáo sứ Phát Diệm…

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng đã được cải thiện cả về số lượng

lẫn chất lượng, bước đầu đáp ứng yêu cầu của du khách. Cùng với sự phát

64

triển cơ sở vật chất kỹ thuật ngành, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng của tỉnh như

giao thông, điện, thông tin liên lạc phát triển khá nhanh,…

Các loại hình du lịch đặc trưng của Ninh Bình đã tạo được sự hấp dẫn

du khách, công tác tuyên truyền quảng bá du lịch, giới thiệu về quê hương

con người Ninh Bình được chú trọng, nhờ đó du lịch Ninh Bình đã tạo được

hình ảnh bước đầu của mình đối với du khách trong và ngoài nước.

Đội ngũ lao động dồi dào, từng bước được tiêu chuẩn hoá và bổ sung kịp

thời, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch được quan tâm tổ chức

thường xuyên để đáp ứng yêu cầu phát triển cho từng thời kỳ. Hình thức đào tạo

bồi dưỡng đa dạng đã góp phần bổ sung nguồn nhân lực lao động du lịch.

Ninh Bình xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch, chương trình

phát triển du lịch phù hợp với quy hoạch ngành và quy hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh đã được phê duyệt. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng

chống các tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh; công tác quản lý chuyên ngành từng

bước đi vào nề nếp, tạo thuận lợi cho phát triển du lịch.

Tăng cường đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh

vực kinh doanh du lịch; tạo sự lập gắn kết liên ngành, liên vùng, liên quốc gia,

trong hoạt động du lịch, giữa địa phương và trung ương trong quản lý và phát

triển TTDL với những chuyển biến tích cực.

Coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ

chức hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước

trong lĩnh vực du lịch từ tỉnh đến cơ sở.

2.3.2. Kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch của một số tỉnh ở Lào

- Kinh nghiệm của tỉnh Hua Phăn

Hua Phăn là một tỉnh miền núi nằm ở miền Bắc Lào, với diện tích 16.500 km2 và giáp với 4 tỉnh như: tỉnh Sơn La và tỉnh Thanh Hóa Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam), tỉnh Luông Pra Băng và tỉnh

Xiêng Khoảng CHDCND Lào. Tỉnh Hua Phăn bao gồm 10 huyện như: huyện

Xăm Nưa, Xiêng Khó, Hiếm, Viêng Xay, Hua Mương, Xăm Tai, Sập Bầu, Ét,

65

Quăn và huyện Xon. Với dân số 289.400 người, nữ 141.700 người. Hua Phăn

là một tỉnh nổi tiếng và được xác định là một trong những trung tâm du lịch

của cả nước với tài nguyên du lịch lịch sử, văn hóa và du lịch thiên nhiên [5].

Tài nguyên du lịch lịch sử, Hua Phăn là tỉnh nổi tiếng về tài nguyên du

lịch lịch sử, cụ thể là các hang lịch sử của các bạn lãnh đạo cách mạng chống

Mỹ xâm lược như: Hang ông Kay Son PHÔMVIHẠN, hang ông Su Pha Nụ

Vông, hang ông Nu Hặc PHUMSẠVẶN, hang ông Phu Mi VÔNGVỊCHÍT,

hang ông Khăm Tay SIPHĂNĐON,...

Về tài nguyên du lịch thiên nhiên tập trung chủ yếu ở các thác, suối

sông, rừng núi thắng cảnh đẹp như: nguồn nước ấm Na Mương (huyện Xăm

Nưa), nguồn nước nóng Viêng Thong (huyện Hiếm), vườn quốc gia Nắm Ét -

Phu Lời, thác Sạ Lơi, vườn đá Tắng (huyện Xăm Nưa), hang Chim Én, thác

Nắm Nua (huyện Viêng Xay),…

Về tài nguyên du lịch nhân văn, Hua Phăn có hơn 24 di tích được xếp

hạng cấp quốc gia và nhiều di tích khác được xếp hạng cấp địa phương. Hua

Phăn cũng là địa phương có nhiều lễ hội truyền thống, nó thường gắn với các

sự kiện lịch sử, các hoạt động văn hóa dân gian, gắn với cuộc sống tín ngưỡng

của người dân như: vườn Kéo Lặc Mương, vườn hòa bình Hua Phăn - Quảng

Ninh, chùa Si Bun Hương Xay Nhà Ram, chùa Phô Xay Sạ Nạ Ram, lễ Bun

Pi May, lễ dân tộc Mông, Khơ Mu,...

Tỉnh Hua Phăn đã tập trung nhiều nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã

hội nói chung và TTDL nói riêng. Trong giai đoạn 2011 - 2015, số lượng

khách du lịch đến tỉnh Hua Phăn đạt 160.636 lượt người, trong đó khách quốc

tế 83.747, doanh thu du lịch đạt 66,65 tỷ LAK. Năm 2015, toàn tỉnh có 8

khách sạn, 47 nhà nghỉ, 196 nhà hàng - cửa hàng để phục vụ cho du khách nội

địa và quốc tế [8, tr.108].

Bên cạnh những kết quả đạt được, TTDL tỉnh Hua Phăn còn có những

mặt hạn chế, như: (i) Sản phẩm du lịch nhân văn xuống cấp chưa được trùng

tu, tôn tạo kịp thời. Các sản phẩm du lịch thiên nhiên chưa được bảo vệ

nghiêm ngặt và việc khai thác giá trị của các tài nguyên thiên nhiên còn thấp;

66

dịch vụ vui chơi giải trí, văn nghệ dân gian, các cửa hàng lưu niệm miễn thuế,

thiếu hấp dẫn, thiếu nhiều khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế. (ii) Chất lượng

nguồn nhân lực vừa thiếu, vừa yếu về năng lực nghiệp vụ, chuyên môn, ngoại

ngữ, kiến thức về địa lý, lịch sử,… Hiệu quả kinh doanh du lịch chưa cao và

chưa tương xứng với mức đầu tư hàng năm; hình thức kinh doanh còn đơn giản,

loại hình du lịch còn nghèo nàn,… và (iii) Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh

vực du lịch còn lúng túng. Việc hoạch định các chính sách phát triển du lịch của

địa phương còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ. Các hiện tượng tiêu cực trong

kinh doanh du lịch và các tệ nạn xã hội chưa được kiểm soát chặt chẽ và vững

chắc. Tình trạng vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ các di tích, vi

phạm về quản lý môi trường còn thường xuyên xảy ra và chậm được khắc phục.

- Kinh nghiệm của tỉnh Xay Nhạ Bu Ly

Tỉnh Xay Nhạ Bu Ly là một tỉnh nằm ở miền Bắc Lào với diện tích 16.389 km2; phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Bo Kẹo; U Đôm Xay; Luông

Pra Băng,Viêng Chăn; tỉnh Phông Xa Lỳ, phía Nam giáp tỉnh Xay Sôm Bun

CHDCND Lào; phía Nam và phía Tây giáp với 6 tỉnh của Thái Lan như: tỉnh

Xiêng Lai; Phạ Nhâu; Nan; Ụt Tạ La Địt; Phít Sạ Nụ Lôc và tỉnh Lơi. Tỉnh Xay

Nhạ Bu Ly bao gồm 11 huyện như: huyện Xay Nhạ Bu Ly, Khọp, Hông Sa,

Ngân, Phiêng, Xiềng Hon, Bò Ten, Kèn Tháo, Thồng Mì Xay, Xay Sạ Than và

huyện Pạc Lài; với dân số 381.300 người, trong đó có 194.900 nữ. Tỉnh Xay

Nhạ Bu Ly là một tỉnh nổi tiếng về con voi và đã được tổ chức lễ Voi trong

tháng 2 hàng năm và đã được xác định là một lễ quan trọng của địa phương và

của cả nước, ngoài ra còn có các lễ Đua Thuyền, lễ Phạ Vết, lễ Kòng Khấu,…

với tài nguyên du lịch tiềm năng đặc sắc của tỉnh như: du lịch sinh thái bao gồm:

thác Hằm (huyện Bo Tèn), hang Nắm Thẳng (huyện Xay Nhạ Bu Lý), vườn

thực vật lá cây thuốc Huối Nắm Sai (làng Huối Kéng, huyện Xay Nhạ Bu Ly),

ảo Nắm Tiên,… du lịch văn hóa bao gồm: chùa Si Mường, chùa Phạ Thạt Lặc

Mường, chợ đêm Nắm Hùng, lễ Voi và lễ Đua thuyền,… [5, tr.90].

Trong những năm qua, TTDL tỉnh Xay Nhạ Bu Ly không ngừng phát

triển và khởi sắc đã thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, doanh thu và

67

đóng góp cho ngân sách ngày càng cao. Năm 2014 số lượng khách du lịch

đến Xay Nhạ Bu Ly 96.131 lượt, tạo thu nhập đạt khoảng 5 triệu USD; năm

2015 đạt 100.476 lượt, tạo thu nhập đạt 7,6 triệu USD, tăng lên 30,18%/năm.

Qua hoạt động của TTDL tỉnh Xay Nhạ Bu Ly, có thể rút ra những

kinh nghiệm phát triển TTDL của tỉnh Xay Nhạ Bu Ly:

Một là, thu hút được một lượng vốn lớn từ các nguồn vốn đầu tư phát

triển du lịch, nhờ đó cơ sở hạ tầng, cơ sở dịch vụ và lưu trú đã được nâng cấp và

bổ sung với tốc độ nhanh, nhiều sản phẩm du lịch mới có sức cạnh tranh được

đầu tư và đưa vào khai thác làm tăng thêm sức hấp dẫn đối với du khách.

Hai là, đội ngũ những người làm du lịch và các doanh nghiệp đã có

bước trưởng thành, công tác quản lý nhà nước được quan tâm, tạo nên sự

đồng bộ của các cấp, các ngành.

Ba là, nhận thức của các cấp, các ngành, của các tầng lớp nhân dân về

du lịch ngày càng được nâng cao.

Bốn là, tập trung khai thác những tiềm năng, lợi thế và nắm bắt những

vận hội mới để đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tỷ

trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Năm là, quan tâm và có các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng,

chú trọng phát triển dịch vụ chất lượng cao, làm cho hàm lượng và nội dung

văn hóa trong hoạt động của TTDL ngày càng cao hơn.

Sáu là, bảo vệ môi trường vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu phát triển du

lịch, quyết định tới chất lượng, sức hấp dẫn và khả năng thu hút khách du lịch.

Bảy là, nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch tương

xứng với yêu cầu phát triển ngành.

2.3.3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra để tỉnh Luông Pra

Băng tham khảo cho phát triển thị trường du lịch

Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển TTDL của một số tỉnh trong

nước và ngoài nước, có thể rút ra một số bài học để phát triển TTDL ở tỉnh

Luông Pra Băng như sau:

68

Một là, tạo nguồn lực cho phát triển TTDL. Cần có quy hoạch trong

việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhân viên,

hướng dẫn viên du lịch một cách hệ thống, khoa học và chuyên nghiệp để

nâng cao chất lượng quản lý hoạt động du lịch và chất lượng dịch vụ du lịch.

Hai là, phát triển và đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Coi trọng đổi mới,

đầu tư các sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, loại hình du lịch

cũng như hình thành và phối hợp hiệu quả các tuyến du lịch; tạo những sản

phẩm du lịch đặc sắc, đặc trưng của các địa phương, các dân tộc tạo tính độc

đáo vừa đáp ứng nhu cầu của khách; đầu tư phát triển một số điểm du lịch

trọng điểm nhằm tạo điểm nhấn cho TTDL Luông Pra Băng.

Ba là, phát triển các hình thức tổ chức du lịch và coi trọng vai trò quản

lý của nhà nước đối với TTDL. Phát huy vai trò quản lý nhà nước trên TTDL,

đồng thời đảm bảo tính tự chủ cho các chủ thể tham gia kinh doanh trên

TTDL theo đúng định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Nhà nước quản lý qua việc xây dựng chiến lược, sách lược, xây dựng

các chủ trương chính sách để phát triển du lịch từ đó tác động vào thị trường.

Coi trọng công tác quy hoạch, định hướng phát triển TTDL. Phải có những

khảo sát để hiểu và nắm vững tiềm năng cung ứng sản phẩm để phát triển

TTDL. Phải tìm ra các tài nguyên du lịch mà địa phương có thế mạnh để định

hướng quy hoạch nhằm bứt phá TTDL, thu hút khách du lịch nước ngoài và

từng bước thâm nhập TTDL của các nước.

Phát triển TTDL là một những nội dung trong phát triển kinh tế - xã hội

của một quốc gia hay là một vùng lãnh thổ. Sự phù hợp của chiến lược phát

triển TTDL với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện đảm bảo cho

sự phát triển chung của đất nước, của một vùng. Từ kinh nghiệm đó của các

nơi cho thấy, khi có sự phù hợp giữa phát triển TTDL với định hướng chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội thì hiệu quả của sự phát triển có tính bền vững

cao và có sự tác động theo hướng thúc đẩy nhau cùng phát triển.

69

Chương 3

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA

BĂNG, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN,

KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA TỈNH LUÔNG PRA BĂNG TRONG PHÁT TRIỂN THỊ

TRƯỜNG DU LỊCH

3.1.1. Những thuận lợi

3.1.1.1. Về điều kiện tự nhiên

Luông Pra Băng là tỉnh có vị trí quan trọng trong tam giác du lịch và

vùng kinh tế trọng điểm của các tỉnh miền Bắc Lào. Thiên nhiên và lịch sử đã

mang lại cho tỉnh nguồn tài nguyên du lịch quý giá để tạo ra các sản phẩm du

lịch vừa độc đáo, vừa đa dạng, hấp dẫn. Ngoài sự phát triển kinh tế - xã hội,

con người và điều kiện tự nhiên của Luông Pra Băng tạo những tiền đề cho sự

phát triển tốt TTDL.

Vị trí địa lý: Luông Pra Băng nằm ở miền Bắc Lào, ở đường kinh tuyến 21010' và đường vĩ tuyến 19015'. Tỉnh Luông Pra Băng còn là cửa ngõ nối liền

Thủ đô Viêng Chăn với 9 tỉnh miền Bắc: Phía Bắc giáp tỉnh Sơn La; Điện

Biên CHXHCN Việt Nam và tỉnh Phông Xa Ly CHDCND Lào, Phía Nam

giáp tỉnh Viêng Chăn; tỉnh Xay Sôm Bun, Phía Đông giáp tỉnh Xiêng Khoảng

và tỉnh Hua Phăn, Phía Tây giáp tỉnh U Đôm Xay và tỉnh Xay Nhạ Bu Ly.

Địa hình, là tỉnh cách thủ đô Viêng Chăn 420 km theo quốc lộ số 13, từ

Bắc đến Nam phần lớn địa hình của lãnh thổ tỉnh là đồi núi cao chiếm 85%, còn

lại là các đồng bằng nhỏ hẹp nằm xen kẽ dọc theo các con sông. Địa hình này có

cả thuận lợi và khó khăn cho tỉnh Luông Pra Băng về phát triển kinh tế - xã hội.

Khí hậu, Luông Pra Băng nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ thấp nhất là 20,50C, cao nhất là 32,50C và nhiệt độ trung bình trong năm là 26,60C. Độ ẩm không khí biến đổi

theo mùa nhưng sự chênh lệch độ ẩm giữa các mùa là không lớn. Độ ẩm trung

bình hàng năm khoảng 79%; trung bình cao nhất 95%; trung bình thấp nhất

48% [2, tr.11].

70

Tài nguyên đất. Với diện tích 16.875 km2 và 85% là rừng núi cao, đá sa

thạch dốc. Trong đó có diện tích rừng tự nhiên 1.303.267 ha, chiếm 65% của

diện tích trong tỉnh; có 160.819 ha rừng đặc dụng. Ngoài ra còn có rừng

phòng hộ thuộc quốc gia 1.089.000 ha, thuộc tỉnh 34.934 ha và rừng phòng hộ

thuộc các huyện 18.094 ha [14, tr.25].

Tài nguyên khoáng sản. Tỉnh Luông Pra Băng khá phong phú về chủng

loại và đa dạng về cấp trữ lượng. Hiện toàn tỉnh có hơn 100 điểm quặng, với

nhiều loại khoáng sản như: Vàng, bạc, đồng, quặng sắt, chì kẽm, đá vôi xi

măng, cát xây dựng,... Đây là một lợi thế lớn của tỉnh trong việc phát triển

công nghiệp khai khoáng, công nghiệp sản xuất xi măng và công nghiệp vật

liệu xây dựng,... Những mỏ khoáng sản này nếu khai thác và sử dụng hợp lý

sẽ góp phần vào việc phát triển kinh tế của tỉnh và tạo công ăn việc làm cho

nhân dân trong tỉnh và cả nước.

Tài nguyên nước. Luông Pra Băng là một tỉnh rừng núi cao, có nhiều

sông suối chạy qua từ Bắc đến Nam. Toàn tỉnh có 75 lưu vực sông và 185

suối, với chiều dài sông suối 15.470 km; trong đó có sông Me Khong có chiều

dài 1.898 km; sông Năm U 448 km, sông Nặm Khan 90 km; tạo điều kiện

thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nguồn nước mưa hàng năm

đo được 1.120,7 mm/năm [2, tr.4]. Tuy nhiên tại Luông Pra Băng có một mỏ

nước khoáng có giá trị phục vụ tiêu dùng và chữa bệnh như: nước khoáng Bo

Kẹo huyện Xiêng Ngân, Thác Xé, thác khoang si thành phố Luông Pra Băng.

3.1.1.2. Về điều kiện kinh tế và xã hội

Trong hơn 30 năm đổi mới, cùng với xu thế phát triển chung của cả

nước, quá trình đổi mới về kinh tế đất nước đã và đang tạo nhiều thuận lợi

cho sự phát triển kinh tế - xã hội cả nước nói chung và cho mỗi địa phương

nói riêng, trong đó có tỉnh Luông Pra Băng.

Về tình hình an ninh, trật tự xã hội. Trong bối cảnh tình hình an ninh,

chính trị và dịch bệnh,… trong khu vực và thế giới diễn biến phức tạp,

CHDCND Lào được đánh giá như một điểm đến an toàn cho du khách, các

71

nhà đầu tư nước ngoài. Về phía tỉnh Luông Pra Băng, dưới sự lãnh đạo của

Tỉnh ủy và chính quyền, nhân dân Luông Pra Băng có nhiều nỗ lực để nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, giữ vững an ninh chính trị,

trật tự xã hội và an toàn giao thông… Thực hiện đường lối quốc phòng - an

ninh toàn dân, toàn diện của Đảng, tỉnh Luông Pra Băng đã chú ý giáo dục lực

lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc hiểu biết và tự tổ chức thực hiện tốt

việc xây dựng cơ sở về chính trị gắn liền với phát triển nông thôn toàn diện;

củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ở cơ sở, địa phương, đặc

biệt là ở cụm bản; theo dõi, quản lý người ra - vào, bảo vệ lợi ích công bằng

của nhân dân, phá tan mọi âm mưu của các thế lực phản động. Trong những

năm qua, sự ổn định, vững chắc về chính trị, xã hội đã tạo điều kiện cho kinh

tế phát triển liên tục, vững chắc và đúng hướng, đời sống nhân dân được cải

thiện. Bên cạnh đó, việc hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, vai trò,

năng lực, hiệu lực lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng và chính quyền Nhà

nước, đoàn thể nhân dân tiếp tục được tăng cường, chế độ dân chủ nhân dân,

quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được phát huy, điển hình như việc thực

hiện chương trình "4 nội dung" và chương trình "4 mục đích" của Đảng tạo ra,

nhằm tạo môi trường lành mạnh và bền vững cho các mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội [16].

Sự phát triển kinh tế - xã hội. Luông Pra Băng được xác định là trung

tâm kinh tế - văn hóa - khoa học và công nghệ của khu vực miền Bắc, nhìn

chung Luông Pra Băng có tốc độ phát triển kinh tế năng động và liên tục

tăng trong những năm qua. Giai đoạn 2010- 2015 tốc độ tăng trưởng kinh tế

đạt 8,8%/năm, tổng GDP đến năm 2010 đạt 4.750 tỷ LAK; trong đó nông

nghiệp 1.586,5 tỷ LAK, chiếm 33,4% của GDP; công nghiệp 1.092,5 tỷ

LAK, chiếm 23% của GDP và dịch vụ 2.071 tỷ LAK, chiếm 43,6% của

GDP; thu nhập bình quân đầu người là 1.532 USD [26]. So với kế hoạch 5

năm (2001 - 2005) tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được 7%/năm, thu nhập

bình quân đầu người đạt được 355 USD/năm; kế hoạch 5 năm (2005 - 2010)

72

đạt được 9,4%/năm và thu nhập bình quân đầu người đạt được 821

USD/năm. Năm 2016 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%/năm, tổng GDP

đạt 6.033 tỷ LAK; trong đó nông nghiệp 1.924,5 tỷ LAK, chiếm 32% của

GDP; công nghiệp 1.429,8 tỷ LAK, chiếm 24% của GDP và dịch vụ 2.678,7

tỷ LAK, chiếm 44% của GDP; thu nhập bình quân đầu người là 13,96 triệu

LAK /năm hoặc bằng 1.746 USD [14, tr.2] và giai đoạn năm 2017 - 2018 tốc

độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%/năm, tổng GDP đạt 7.076 tỷ LAK; trong đó

nông nghiệp 2.118 tỷ LAK, chiếm 30% của GDP; công nghiệp 1.690 tỷ

LAK, chiếm 24% của GDP và dịch vụ 3.257 tỷ LAK, chiếm 46% của GDP;

thu nhập bình quân đầu người là 16,09 triệu LAK/năm hoặc bằng 2.011

USD [15, tr.1]. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của tỉnh trong những năm qua đã

đạt mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển biến tiến bộ,

đúng hướng làm cho nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ trong GDP

và GDP bình quân đầu người tăng.

Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn 2011 - 2018

Đơn vị tính: %

Năm

TT

Chỉ tiêu

2011 2012 2013 2014 2015

2016

2017 - 2018

3.968 4.341 4.741 5.130 5.566 6.033

7.076

1 GDP(Tỷ kíp)

100

100

100

100

100

100

100

Cơ cấu GDP(%) - Nông nghiệp

41

39

36,7

35

33,4

32

30

2

- Công nghiệp

20

21

21,5

22,3

23

24

24

- Dịch vụ

39

40

41,8

42,7

43,6

44

46

Nguồn: Báo cáo của Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng [14; 15; 16].

Qua biểu trên chúng ta thấy: cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo

hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 41% năm 2011 còn 31,9% đoạn năm

2017 - 2018, ngành công nghiệp tăng từ 20% năm 2011 lên 24% giai đoạn

năm 2017 - 2018 và dịch vụ tăng từ 39% năm 2011 lên 46% giai đoạn năm

2017 - 2018.

73

Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến quá trình đầu

tư, thúc đẩy cung - cầu trên TTDL. Trong những năm qua kinh tế - xã hội của

tỉnh có nhiều bước phát triển tích cực. Kinh tế tăng liên tục, tốc độ tăng

trường GDP giai đoạn năm 2001- 2005 là 7%/năm, giai đoạn năm 2005 -

2010 là 9,4%/năm, giai đoạn năm 2010 - 2015 là 8,8%/năm, cao hơn so với

mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước là 7,9%/năm giai đoạn 2005 -

2010 và 7,9%/năm giai đoạn 2010 - 2015 [19, tr.17, 18; 20, tr.12; 21, tr.12].

Đối với việc đầu tư ở tỉnh Luông Pra Băng từ giai đoạn 2011 - 2018 có

3.244 dự án, với tổng số vốn 22.189,65 tỷ LAK, trong đó bao gồm cả đầu tư

của Nhà nước 1.537 dự án, 1.138,675 tỷ LAK, khoản vay và hỗ trợ 941 dự án,

5.692,037 tỷ LAK, tư nhân trong nước 562 dự án, 6.944,2 tỷ LAK và tư nhân

ngoài nước 154 dự án với tổng số vốn 6.778,094 tỷ LAK. Đối với các dự án

này đã tập trung trong lĩnh vực kinh tế 558 dự án; lĩnh vực văn hóa - xã hội 705

dự án và lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng 397 dự án. Việc đầu tư phần lớn làm

theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh [14, tr.3; 15, tr.4; 16, tr.3].

Bảng 3.2: Số lượng dự án đầu tư trên địa bàn Luông Pra Băng

giai đoạn 2011 - 2018

Đơn vị tính: tỷ LAK

TT

1 2 3 4 5 6 7 8

Tổng số vốn đăng ký 822,467 659,37 1.700,4 2.681,46 3.195,58 2.899,38 8.367,44 1.863,553 22.189,65

Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng cộng

Số dự án 297 180 328 349 439 720 599 332 3.244

Nguồn: Báo cáo của Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng [14; 15; 16].

- Tình hình văn hóa - xã hội: Tỉnh Luông Pra Băng bao gồm 12 huyện:

thành phố Luông Pra Băng; huyện Xiêng Ngân; Mương Nan; Pạc U; Năm

Bạc; Mương Ngoi; Pạc Xeng; Phôn Xay; Chom Phết; Viêng khăm; Phu Khun

74

và huyện Phôn Thong, đã chia thành 3 khu như: khu 4 huyện Bắc gồm có:

huyện Năm Bạc; Mương Ngoi; Viêng khăm và huyện Phôn Thong, khu 5

huyện Trung gồm có: thành phố Luông Pra Băng; huyện Pạc U; Pạc Xeng;

Phôn Xay; Chom Phết và khu 3 huyện Nam gồm có: huyện Xiêng Ngân;

Mương Nan; Phu Khun, bao gồm 752 bản, có 77.712 hộ gia đình với dân số

454.095 người, trong đó có 278.000 nữ. Dân số tỉnh gồm có 3 bộ tộc lớn như:

Lào Lum chiếm 33,41%, Lào Thâng chiếm 50,82%, Lào Xủng 15,66%, kiều

dân người nước ngoài 0,09%. Cơ cấu xã hội dân số của tỉnh Luông Pra Băng

phần lớn làm nông nghiệp nông thôn, nghề làm ruộng 14.509 hộ gia đình, làm

nương 38.301 hộ, làm cả ruộng và nương 4.337 hộ, làm dịch vụ 12.455 hộ và

4.909 là nghề nghiệp khác. Tổng nguồn lao động nước ngoài năm 2015 là 717

người đến từ Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan... [14, tr.3].

Sự phát triển của dân số đã cung cấp nguồn lao động lớn cho TTDL.

Trong giai đoạn năm 2014 - 2015 toàn tỉnh có lao động trong độ tuổi 15 - 64

năm là 250.000 người; chiếm 55% của dân số trong tỉnh. Hiện số lao động

đang làm trong các ngành kinh tế chủ yếu ở khu vực nông nghiệp là 186.390

người; chiếm 74,6%, khu vực công nghiệp 5.300 người; chiếm 2% ngoài ra là

nằm trong khu vực dịch vụ, cán bộ, sinh viên,… là 58.310 người; chiếm

23,4%. Năm 2018, toàn tỉnh có 1.993 đơn vị lao động, có 138.266 công nhân

và 69.625 phụ nữ; trong đó 5,843 với 1.144 phụ nữ là lao động nước ngoài.

Hiện số lao động đang làm trong các ngành kinh tế chủ yếu như: khu nông

nghiệp 13.420 người, chiếm 9,71%; khu công nghiệp 93.162 người; chiếm

67,38% và khu dịch vụ 31.684 người; chiếm 22,91% [15, tr.25]. Trong đó

nguồn nhân lực trẻ chiếm tỷ trọng cao tạo lợi thế cho phát triển kinh tế - xã hội,

song cũng tạo sức ép lên hệ thống giáo dục đào tạo và giải quyết việc làm của

tỉnh. Lao động có kinh nghiệm, tay nghề cao, nhất là trong sản xuất các mặt

hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống như: Đồ gỗ thủ công, thủ công mỹ nghệ

giấy Sa, dệt thủ công mỹ nghệ, bông satin thủ công mỹ nghệ, thủ công mỹ

nghệ sơn mài Lào…và những món ăn dân tộc như: Ọ Lam (thị bò hầm), Cheo

Bòng (bột ớt với thị lợn), Khay Phen (cỏ dại sông), Nhằm Xà Lách (rau xà

75

lách), Kháo Pún Nắm Pa (phở với súp trâu)... ngoài ra còn có các loại bánh

đặc sản của Luông Pra Băng như: Kháo nôm Khí Nu (kẹo bột gạo), kháo nôm

Xắn (bánh hấp), kháo nom Bá Bin (bánh kép dừa), Hệt Xa Vẳn (nấm khô),

Nò Máy Xa Vẳn (măng khô),...

Về giáo dục - thể thao: tỉnh Luông Pra Băng là trung tâm giáo dục của

các tỉnh miền Bắc Lào, gồm 1.381 trường như: 1 trường chính trị - hành

chính, 1 trường đại học, 11 trường cao đẳng, 46 trường trung học, 57 trường

trung học phổ thông, 713 trường tiểu học, trường mầm non,… tỷ lệ học sinh

đi học tiểu học chiếm 98,47%, tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 40 tuổi

chiếm 92,26%. Nhìn chung, sự phát triển về giáo dục của tỉnh thể hiện khá rõ

nét những năm qua.

Phong trào thể dục thể thao được phát triển ở hầu hết các cụm bản,

huyện, thành phố,… Cơ sở vật chất và trang thiết bị thể dục thể thao được đầu

tư cơ bản như: sân bóng đá, nhà thi đấu và bể bơi ngoài trời... góp phần thúc

đẩy các hoạt động thể dục thể thao phát triển. Đặc biệt Luông Pra Băng đã

hoàn thành tổ chức lễ thi đấu thể thao toàn quốc lần thứ IX và giành được 72

huy chương vàng, 71 chương bạc, 117 chương đồng; được xếp hạng thứ 3 của

cả nước [14, tr.18].

Về y tế: tỉnh Luông Pra Băng đã quan tâm và phát triển mạng lưới y tế từ

thành phố xuống cơ sở, địa phương. Toàn tỉnh có 1 bệnh viện thuộc tỉnh, 1 bệnh

viện quân đội (bệnh viện 107), 2 bệnh viện hữu nghị Lào - Trung Quốc, 1 bệnh

viện hữu nghị Lào - Việt Nam và 32 phòng khám tư nhân (CLINIC), 12 bệnh

viện thuộc huyện, 80 trạm xá. Các cơ sở nông thôn, vùng sâu vùng xa đã có hiệu

thuốc, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân các bộ tộc được khám, chữa bệnh

nhiều hơn và chăm sóc sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tốt hơn [14, tr.19].

Về văn hóa: tỉnh Luông Pra Băng là một vùng quần cư lâu đời, có nền

văn hoá phát triển với vị thế là đất nước triệu voi, có thành phố Luông Pra

Băng là thủ đô hoàng gia, trung tâm của Vương quốc Lào, là cố đô của Lào

được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới trong ngày 2/2/1995.

76

Cùng với sự đa dạng về tài nguyên, Luông Pra Băng còn có một kho

tàng di sản văn hoá vật thể vô cùng đồ sộ và phong phú với các di tích lịch sử,

danh lam thắng cảnh. Luông Pra Băng có nhiều địa danh đặc sắc về văn hóa

trong cả nước như: múa Nang Kẹo, múa Pha Lặc Pha Lam, múa lăm vông,

nhảy múa của các dân tộc,... hát hò của các dân tộc như: Khắp thúm, An

Năng Sư, hát hò của dân tộc Khơ Mu, dân tộc Mông,... Đặc biệt Bun Py

May Lào (tháng 4 âm lịch) Luông Pra Băng là nổi tiếng nhất trong cả nước.

Tỉnh còn có di tích lịch sử văn hóa, tài sản vô giá của dân tộc, toàn tỉnh có

tới 38 chùa và riêng thành phố Luông Pra Băng có hơn 17 chùa. Hiện nay ở

Luông Pra Băng có 230 di tích được nhà nước xếp hạng, trong đó có 107

thắng cảnh, 37 di tích lịch sử và 86 di tích văn hóa được phân chia theo

vùng, cụm du lịch chính như:

Bảng 3.3: Các khu du lịch ở 4 huyện miền Bắc năm 2018

Đơn vị tính: điểm

Loại khu du lịch

Tổng khu du lịch

Văn hóa Lịch sử

7 23 14 20

TT Huyện 1 Viêng Khăm 2 Mương Ngoi 3 Năm Bạc 4

Phôn Thong

Sinh thái 4 7 6 12

2 5 4 5

1 11 4 3

Nguồn: Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pra Băng [36].

Bảng 3.4: Các khu du lịch ở 5 huyện miền Trung năm 2018

Đơn vị tính: điểm

Loại khu du lịch

Tổng

TT

Huyện

khu du lịch Sinh thái Văn hóa Lịch sử

Luông Pra Băng

35 21 20 10 23

1 2 Chom Phết Pạc U 3 Pạc Xeng 4 Phôn Xay 5

5 9 9 9 16

28 11 9 0 5

2 1 3 1 2

Nguồn: Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pra Băng [36].

77

Bảng 3.5: Các khu du lịch ở 3 huyện miền Nam năm 2018

Đơn vị tính: điểm

Tổng khu du lịch

Huyện

22 13 16

TT 1 Xiêng Ngân 2 Mương Nan 3

Phu Khun

Loại khu du lịch Sinh thái Văn hóa Lịch sử 8 5 3

12 6 11

2 2 2

Nguồn: Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pra Băng [36].

Đồng thời, nhân dân các dân tộc còn có truyền thống yêu nước và

truyền thống cách mạng và truyền thống mến khách thương người, cần cù

lao động. Luông Pra Băng là tỉnh được chọn là nơi du lịch nổi tiếng của thế

giới, được tặng huy chương vàng của tạp chí du lịch nước Anh với danh hiệu

là thành phố di sản văn hóa nổi tiếng thế giới trong bốn năm như: năm 2005,

2006, 2007, 2009 và trong giai đoạn 2010 - 2015 đã nhận được thành phố du

lịch phổ biến 2 năm liền như năm 2011, 2012 và đặc biệt năm 2014 thành phố

Luông Pra Băng đã nhận được thành phố phát triển bền vững, thành phố xanh

của ASEAN, làm cho hàng năm có khá nhiều khách trong và ngoài nước đến

du lịch. Như vậy, tỉnh đã đầu tư cho công tác bảo tồn, tôn tạo các khu di tích

văn hóa nổi tiếng của tỉnh, của các địa phương, kết hợp việc phát triển kinh

tế, khoa học công nghệ với việc bảo đảm bản sắc văn hóa dân tộc [1, tr.2].

3.1.2. Những khó khăn

3.1.2.1. Về điều kiện tự nhiên

Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, Luông Pra Băng còn có những

khó khăn như sau:

Về mặt địa lý: Luông Pra Băng là một tỉnh có diện tích phần lớn là rừng

núi cao, đồng bằng nhỏ hẹp, diện tích trồng lúa có ít. Trong đó có diện tích

trồng lúa hai vụ 1.509 ha. Đây là một trong những khó khăn cho tỉnh trong

việc đảm bảo an ninh lương thực để phát triển kinh tế - xã hội ổn định.

Khí hậu: Luông Pra Băng được đánh giá là một trong các địa phương bị

ảnh hưởng nặng nề nhất như: bão, lũ, gió lốc, sạt lở đất là hiện tượng thiên tai

78

xảy ra ở các lưu vực sông suối, các sườn dốc trên địa bàn miền núi. Ngoài ra,

chênh lệch nhiệt độ trong năm cũng rất lớn: mùa hè, nhiệt độ cao nhất có thể đạt tới 34,9 0C; mùa đông, nhiệt độ có thể hạ thấp xuống dưới 16,4 0C ở vùng

núi. Sự chênh lệch nhiệt độ đó ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp và các

hoạt động phát triển kinh tế, trong đó có ngành du lịch.

Tài nguyên khoáng sản: mặc dù có nguồn tài nguyên khá phong phú.

Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên cho phát triển kinh

tế chưa hiệu quả, còn gây ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái và có tác

động tiêu cực tới hoạt động du lịch.

3.1.2.2. Về điều kiện kinh tế và xã hội

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Luông Pra Băng,

trong những năm qua kinh tế - xã hội đã có sự phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh

đó tỉnh vẫn còn những khó khăn sau:

Địa bàn rộng, trong đó phần lớn diện tích lãnh thổ là vùng núi cao, có

địa hình phức tạp, phong tục tập quán sản xuất và sinh hoạt của đồng bào các

dân tộc vùng cao còn lạc hậu, dễ bị các thế lực xấu lôi kéo. Như bài phát biểu

của ông Thong Sing Thăm Ma Vông Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ III năm

1993 đã chỉ rõ "Luông Pra Băng là một tỉnh nằm ở miền Bắc Lào, là một tỉnh

đồi núi cao, với dân số hơn hai trăm nghìn người và gồm có nhiều dân tộc

thiểu số sinh sống nhằm rải rác, có mức độ kinh tế, văn hóa, cuộc sống và

truyền thống khác nhau" [22, tr.107]. "Việc du lịch chưa phát triển so với tiềm

năng và điều kiện thực tế của tỉnh, cũng như phục hồi và mở cửa khu du lịch,

sự quảng cáo khách du lịch, quản lý khách du lịch và dịch vụ khách không

tốt" [23, tr.45].

Quy mô nền kinh tế nhỏ bé, việc huy động vốn đầu tư từ nội bộ nền

kinh tế để phát triển nhanh trong giai đoạn tới còn hạn chế.

Khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị còn

rất lớn.

79

Tăng trưởng kinh tế của tỉnh chưa bền vững. Sức cạnh tranh của nền kinh

tế còn thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chậm, chưa hình thành

các ngành mũi nhọn của tỉnh, sản phẩm chủ lực và ngành nông lâm nghiệp

chiếm tỷ trọng lớn các dịch vụ và các khu công nghiệp phát triển còn chậm.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội của tỉnh tuy được cải tạo, nâng

cấp nhưng vẫn còn nhiều hạn chế bất cập, nhất là hạ tầng khu vực miền núi,

vùng sâu, vùng xa,... chưa có sức hấp dẫn để thu hút đầu từ tư bên ngoài cho

sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp và tốc độ đô thị hóa quá

thấp, các hạt nhân tăng trưởng có sức lan toả rộng và thúc đẩy các vùng ngoại vi

cùng phát triển, chưa có tác động đáng kể thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Nguồn nhân lực có nhiều nhưng chất lượng còn thấp, lao động phổ

thông dôi dư, nhưng lao động kỹ thuật, khoa học - công nghệ cao lại đang còn

thiếu, dẫn đến tình trạng thiếu việc làm và việc làm không ổn định chiếm tỷ

trọng lớn, nhất là ở khu vực nông thôn. Đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ quản

lý và các nhà doanh nghiệp khác còn nhiều bất cập cả về số lượng và chất

lượng so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

của tỉnh Luông Pra Băng trong giai đoạn hiện nay.

3.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG

PRA BĂNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2018

3.2.1. Những chủ trương, chính sách về phát triển thị trường du lịch

của Đảng, Nhà nước và của tỉnh giai đoạn 2011 - 2018

3.2.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về phát

triển thị trường du lịch

Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VI, đã tiếp tục

triển khai quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với ngành du lịch,

trong đó nhấn mạnh: "Du lịch là một bộ phận quan trọng trong công tác mở rộng

quan hệ hợp tác với nước ngoài, là một tiềm năng trong công tác tạo nguồn thu

80

nhập quốc gia"; "Công tác dịch vụ là một trong những 8 ngành kinh tế quan

trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước" [17, tr.25].

Giai đoạn năm 1999 - 2000, CHDCND Lào nhận được sự viện trợ từ các

tổ chức quốc tế và có quan hệ hợp tác với các nước láng giềng và sự hợp tác về

du lịch với các nước trong ASEAN, các nước tiểu vùng sông Me Khong, tổ chức

UN-WTO, PATA, v.v… CHDCND Lào còn nhận được sự viện trợ từ các cơ

quan tổ chức quốc tế như: ngân hàng phát triển châu Á (ADB), cơ quan hợp tác

quốc tế Nhật Bản (JICA), cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), liên

minh Bảo vệ thiên nhiên quốc tế (IUCN), quỹ Động vật Hoang dã thế giới

(WWF), Chính phủ Newzerland, Lúc Xăm Bua,... [6, tr.19].

Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VII (2001), đã

tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và quyết

định đường lối chính sách của Đảng: "Tạo điều kiện cho CHDCND Lào trở

thành điểm du lịch mới của thế kỷ, có bản sắc riêng của mình để thu hút

khách du lịch nước ngoài đến Lào, phát triển ngành du lịch trở thành một

ngành công nghiệp hóa hiện đại" [18, tr.81]. Đặc biệt, năm 1999 - 2000, lần

đầu tiên CHDCND Lào đã tổ chức năm du lịch ASEAN tại Lào và đã rất

thành công về việc thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế.

Quốc hội khóa V, kỳ họp lần thứ 8, năm 2005 đã thông qua Luật Du lịch

năm 2005 được bổ sung sửa đổi năm 2013. Luật được xây dựng trên đường lối

chính sách của Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước Lào, thực trạng

kinh tế - xã hội của đất nước, những văn bản pháp luật liên quan đến du lịch đã

được sử dụng trong những năm qua. Pháp luật đã tổng kết những kinh nghiệm

và hoạt động phát triển du lịch và khuyến khích du lịch trong nước, kinh

nghiệm từ nước ngoài.

Năm 2016, Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đã xây dựng chiến lược

phát triển ngành du lịch, trong đó khẳng định tầm nhìn đến năm 2025 và 2030

với việc thông tin, văn hóa và du lịch: "Phát triển thông tin, văn hóa và du lịch

với chất lượng, nhanh chóng, nhìn xa chuyển đổi thành công nghiệp hóa - hiện

đại hóa, an toàn và đẩy mạnh sự đóng góp của xã hội để bền vững".

81

Để đạt được mục tiêu trên, Bộ thông tin, văn hóa và du lịch Lào đã

khẳng định rõ về việc phát triển du lịch: Phát triển du lịch Lào bền vững, đẩy

mạnh du lịch sinh thái, văn hóa và lịch sử, thích hợp với du lịch của các nước

trong khu vực và thế giới, làm cho Lào trở thành khu du lịch nổi tiếng và chấp

nhận của hành khách trong khu vực và thế giới, phát triển và đẩy mạnh ngành

du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, giúp nhân dân Lào thoát khỏi sự

nghèo đói; tập trung nghiên cứu và mở rộng khai thác, sắp xếp và phát triển

nhiều màu sắc với các loại du lịch như: du lịch thiên nhiên, du lịch văn hóa,

du lịch lịch sử, thực hiện theo nguyên tắc khoa học, đúng mức có quản lý tốt

và bền vững. Hạn chế sự khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên

không đúng mục đích. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là di sản văn hóa của đất

nước và của nhân dân, nếu sử dụng không đúng mức, thì du lịch sẽ gây sự

thiệt hại trực tiếp đến các di sản văn hóa.

3.2.1.2. Cơ chế, chính sách và biện pháp của tỉnh Luông Pra Băng về

phát triển thị trường du lịch

Trên cơ sở chiến lược phát triển du lịch CHDCND Lào đến năm 2025 với

mục tiêu phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên các cơ sở

khai thác có hiệu quả lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn

hóa và lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ

trợ quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từng

bước đưa đất nước Lào trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực

và thế giới. Phấn đấu sau năm 2025 du lịch Lào được xếp vào nhóm quốc gia có

ngành du lịch phát triển trong khu vực. Tỉnh ủy tỉnh Luông Pra Băng đã cụ thể

hóa những văn bản pháp luật, quyết định của Chính phủ, Bộ thông tin, văn

hóa và du lịch như: Luật du lịch số 32/QH, ngày 24/7/2013; nghị quyết số

1150/CP, ngày 25/10/1993 về việc "Tổ chức và hoạt động doanh nghiệp du

lịch"; số 159/VP-CP, ngày 30/7/1997 về việc "Quản lý khách sạn và nhà

nghỉ";số 1107, ngày 30/8/1999 về việc "Điều kiện cơ bản của khách sạn và

nhà nghỉ";thông báo hướng dẫn số 883, ngày 26/2/2007 về việc "Quản lý và

an toàn cho du khách du lịch"; quyết định số 059, ngày 26/2/2007 về việc

82

"Quản lý doanh nghiệp resort, nhà hàng"; số 060, ngày 26/2/2007 về việc

"Tiêu chuẩn của khách sạn và nhà nghỉ ở CHDCND Laò"; quyết định số

0281, ngày 5/7/2010 về việc "Quản lý cán bộ hướng dẫn viên du lịch"; nghị

quyết số 119/CP, ngày 10/4/2017 về "Quỹ du lịch" và nghị quyết số 315/CP,

ngày 2/10/2017 về việc "Giải trí".

Tỉnh ủy tỉnh Luông Pra Băng đã ban hành quyết định số 296, ngày

29/4/2011, về việc "Thành lập hội đồng quản trị tiêu chuẩn của khách sạn và

nhà nghỉ cấp tỉnh".

Triển khai thực hiện các mực tiêu được nêu ra trong Nghị quyết đại hội

đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ III đã xác định:

Du lịch là một ngành có tiềm năng kinh tế của tỉnh. Do đó, cần tập

trung phát triển để tăng doanh thu cho tỉnh. Dựa trên điểm nổi bật về

văn hóa và vẻ đẹp tự nhiên. Tỉnh Luông Pra Băng đã mở rộng du

lịch theo du lịch văn hóa và du lịch tự nhiên. Vì vậy, một nhiệm vụ

cấp bách trong những năm tới là một khám phá bản sắc văn hóa, văn

học nghệ thuật, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh, mở

rộng khu du lịch, cập nhật sự quản lý và phục vụ khách du lịch, tạo

thuận lợi, bảo mật an toàn cho du khách, cập nhật và mở rộng dịch

vụ du lịch như: khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng cửa hàng lưu niệm để

thu hút nhiều khách du lịch [22, tr.64-65].

Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ V đã xác định:

Phát triển Luông Pra Băng trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ và

điểm qua của các tỉnh trong nước và khu vực; là một tỉnh có cơ cấu

kinh tế ổn định; trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,

khoa học - công nghệ; là trung tâm giáo dục và là gương mặt tốt đẹp

của các tỉnh miền Bắc [24, tr.29].

Đối với ngành du lịch Luông Pra Băng:

Du lịch là tiềm năng thứ nhất của tỉnh Luông Pra Băng, trong những

năm tới phải quan tâm về việc giáo dục cho mọi người nhận ra, đẩy

mạnh và bảo vệ văn hóa, lịch sử, thiên nhiên, phong tục tập quán.

83

Quan tâm bảo vệ các cổ đại, chùa; xây dựng và phát triển các khu du

lịch, cơ sở lưu trú như: khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng đạt tiêu chuẩn

quốc tế [24, tr.32].

Làm cho du lịch Luông Pra Băng trở thành hợp tác du lịch miền Bắc

và trong cả nước; tạo thuận lợi cho khách du lịch thuận tiện, thỏa

mái, nhanh chóng và an toàn; liên kết du lịch với các nước láng

giềng như: tỉnh Điện Biên Phủ, Sơn La, Quảng Ninh,...(Việt Nam);

Khun Minh, 12 Phăn Na,...(Trung Quốc); Xiêng Mai, Xiêng Lai,

Nan, Lời, Sụ Khô Thai, Ụ Đòn Tha Ny,... (Thái Lan); Thành phố cổ

đô Luông Pra Băng di sản văn hóa thế giới với các tỉnh trong nước

và nước ngoài như: Myanma, Việt Nam, Căm Pu Chia, Trung Quốc,

Pháp, Đức và Thái Lan [24, tr.23, 32].

Tại Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng lần thứ VI đã

khẳng định:

Xây dựng tỉnh Luông Pra Băng trở thành trung tâm vùng kinh tế,

dịch vụ, du lịch và tuyến đường giữa các tỉnh miền Bắc và ngoại ô,

là trung tâm văn hóa - xã hội, tổ chức giáo dục, khoa học và công

nghệ và dịch vụ y tế của các tỉnh miền Bắc. Bằng cách giữ dịch vụ,

chất lượng du lịch liên quan đến chuyển đổi công nghiệp và hiện đại

phát triển trang trại lâm nghiệp bền vững [25, tr.53].

Tiếp tục phát triển ngành du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn trong

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Xây dựng tỉnh Luông Pra Băng

trở thành trung tâm du lịch - văn hóa, thiên nhiên và lịch sử. Bảo vệ

huyện Luông Pra Băng cổ đô di sản văn hóa thế giới trở thành

huyện du lịch quốc gia và trung tâm du lịch trong khu vực, xây dựng

Luông Pra Băng trở thành nơi học hỏi về văn hóa và lịch sử lâu đời

và thu hút được khách du lịch trong nước và quốc tế [25, tr.35-36].

Đại hội đảng bộ lần thứ VII đã tiếp tục xác định:

Phát triển ngành dịch vụ về số lượng và chất lượng cho đạt tiêu

chuẩn quốc tế, để phục vụ ngành du lịch; đẩy mạnh ngành du lịch

84

liên quan đến việc bảo vệ phong tục truyền thống, văn hóa, thiên nhiên

và lịch sử, tạo việc làm cho nhân dân trong ngành du lịch ngày càng

cao. Tạo ngành du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh và xây dựng tỉnh Luông Pra Băng trở thành trung

tâm du lịch nổi tiếng trong khu vực và thế giới [26, tr.93].

Bên cạnh việc xây dựng nghị quyết và ban hành các văn bản chỉ đạo

trực tiếp cho phát triển du lịch. Tỉnh Luông Pra Băng đã tổ chức hệ thống các

cơ quan chuyên trách quản lý du lịch ở tỉnh, huyện, thành phố. Luông Pra

Băng là một trong số ít các tỉnh có Sở du lịch độc lập. Trong phạm vi của tỉnh

đã tổ chức Ban chỉ đạo phát triển du lịch do các vị trí chủ chốt của các sở,

ban, ngành liên quan nắm giữ nhằm đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ. Điều này

thể hiện sự quan tâm đúng mức của toàn tỉnh đối với hoạt động của thị

trường. Hoạt động của ngành, của Ban chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh ngày

càng có hiệu quả. Vai trò của Sở du lịch và các thành viên Ban chỉ đạo được

khẳng định trong công tác chỉ đạo, định hướng hoạt động của TTDL.

Xây dựng quy hoạch, chính sách phát triển ngành du lịch của tỉnh.

Trong những năm qua, trên cơ sở các chủ trương, nghị quyết của tỉnh Ủy, Ban

Thường vụ tỉnh Ủy và quy hoạch phát triển du lịch đã được phê duyệt, các ngành

chức năng, các địa phương và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã cụ thể hóa

các chủ trương, nghị quyết và quyết định của Đảng và chính quyền thành các

chương trình hành động để tổ chức thực hiện, các huyện, thành phố có các điểm

du lịch được phân cấp quản lý đã chủ động lập quy hoạch chi tiết, áp dụng các

chính sách ưu đãi để thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển TTDL.

Nhiều chủ trương, chính sách thu hút đầu tư thông thoáng để nâng cao

năng lực cạnh tranh và môi trường đầu tư được triển khai như: đẩy mạnh cải

cách hành chính, thực hiện cơ chế "một cửa" đối với các dự án đầu tư, quy

định một số chính sách khuyến khích đầu tư và trình tự thủ tục chấp thuận đối

với các dự án đầu tư, công khai danh mục các dự án kêu gọi đầu tư trên địa

bàn tỉnh. Những cơ chế, chính sách này nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho nhà

đầu tư về đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ xây dựng hạ tầng trong và ngoài

85

dự án, ưu tiên thời gian thuê đất, đào tạo lao động,… Các ngành, các cấp của

tỉnh Luông Pra Băng tăng cường phối hợp trong quản lý, hỗ trợ hoạt động

kinh doanh du lịch, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự, phòng cháy, chữa

cháy, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống tệ nạn xã hội; thanh tra, kiểm

tra,… Những cơ chế, chính sách ngày càng được cụ thể, minh bạch. Công tác

quản lý nhà nước đã có tác động mạnh vào việc hướng dẫn, hỗ trợ các doanh

nghiệp thực hiện đúng quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng hàng hóa,

dịch vụ; bảo đảm an toàn cho du khách; phát triển quan hệ trao đổi mua bán,

phát triển cung, kích thích nhu cầu du lịch tăng cao.

Xây dựng ngân sách cho hoạt động marketing và tổ chức thực hiện

marketing trực tiếp. Luông Pra Băng luôn quan tâm đến chiến lược tuyên

truyền, quảng bá rộng khắp nhằm nỗ lực đưa hình ảnh của Luông Pra Băng

đến với thị trường khách du lịch. Nguồn ngân sách hàng năm của tỉnh dành

cho xây dựng các website, tham gia các hội chợ ngày càng tăng. Ngành du

lịch Luông Pra Băng tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin báo chí

địa phương và trung ương tuyên truyền quảng bá tiềm năng du lịch, về một số

điểm, khu du lịch; hoạt động du lịch lễ hội, du lịch làng nghề Luông Pra

Băng; xây dựng chương trình tuyên truyền quảng bá, đặc biệt chiến dịch vào

hè của các khu du lịch sông, suối, thác. Công tác tuyên truyền quảng bá, tiếp

thị được thực hiện dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú như tổ chức

hội thảo, triển lãm du lịch, hội chợ,… Nhân dịp các sự kiện, lễ hội văn hóa,

ngành du lịch đã phối hợp với các ngành và các doanh nghiệp tổ chức

nhiều hoạt động quảng bá du lịch quy mô lớn. Nhiều ấn phẩm thông tin,

quảng cáo, sách hướng dẫn, phim VIDEO, CD - ROM được phát hành; nối

mạng Internet để giới thiệu các sản phẩm, tình hình hoạt động kinh doanh

trong và ngoài nước,...

Liên kết hợp tác với các tỉnh để phát triển TTDL nội địa. Tham gia các

chương trình liên kết phát triển sản phẩm như: chương trình du lịch của các

tỉnh miền Bắc và trong nước được thực hiện và mang lại kết quả tốt. Liên kết

trong công tác quảng bá, tiếp thị du lịch tới các tỉnh và thành phố lớn nhằm

86

khai thác nguồn khách du lịch đến Luông Pra Băng và tạo nguồn khách

Luông Pra Băng đi du lịch ở các tỉnh khác như: phối hợp với Sở du lịch thủ

đô Viêng Chăn và một số tỉnh xây dựng chương trình quảng bá du lịch làng

nghề; cử cán bộ tham dự nhiều lớp tập huấn và nâng cao nghiệp vụ quản lý du

lịch do Tổng cục du lịch tổ chức tại các tỉnh,...

Tham gia các hội chợ du lịch, hội nghị du lịch của các tỉnh trong nước

và quốc tế như: Hội nghị EATOP tại Căm Pu Chia năm 2013; hội nghị đánh

giá hợp tác du lịch 3 tỉnh (Luông Pra Băng - Quảng Ninh, Việt Nam - Ụ Đon

Tha Ny, Thái Lan) và tham gia hội ký kết về du lịch tỉnh Quảng Ninh (Vinh

Hạ Long) và tỉnh Luông Pra Băng trong năm 2014; hội nghị hợp tác 3 di sản

thế giới Luông Pra Băng, Hà Long (Việt Nam) và Bán Xiêng (Thái Lan); hội

nghị hợp tác EATOP và tham gia hội chợ thương mại - du lịch quốc tế tại

Singapore; hội chợ thương mại - du lịch quốc tế tại Khun Minh (Trung Quốc);

hội chợ thương mại - du lịch quốc tế ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam;

hội chợ thương mại - du lịch "Ngàn Đọc Phái" tại tỉnh Lời, Thái Lan; hội chợ

thương mại - du lịch quốc tế tại huyện Xôn, Hàn Quốc và hội du lịch bảo tồn

ASEAN tại huyện Pạc Xê, tỉnh Chăm Pa Sắc,v.v...

Nghiên cứu xây dựng các chương trình xúc tiến để khai thác TTDL

quốc tế. Để mở rộng TTDL quốc tế, củng cố các thị trường hiện tại và hướng

tới thị trường tiềm năng nhằm phát triển mạnh trong điều kiện mở cửa, Luông

Pra Băng đã đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức du lịch quốc tế và tích cực tham

gia các chương trình phát triển du lịch như chương trình mở rộng hợp tác hành

lang Đông - Tây,… Nghiên cứu thị trường, tập trung phát triển củng cố các thị

trường khách đến Lào nhiều trong thời gian qua như thị trường khách Nhật

Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,... đối với các thị trường tiềm năng, tham gia khảo

sát TTDL Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc,... để khai thác nguồn khách. Tổ

chức đoàn công tác tham quan học tập kinh nghiệm phát triển tại Việt Nam,

Thái Lan. Phối hợp với đoàn đại diện tổ chức du lịch thế giới khảo sát kết quả

phát triển TTDL Luông Pra Băng gắn với xóa đói giảm nghèo; khảo sát xây

dựng các dự án hỗ trợ phát triển du lịch. Nhiều đoàn quốc tế đến Luông Pra

87

Băng để nghiên cứu thị trường và khả năng phát triển sản phẩm dịch vụ của

Luông Pra Băng, nghiên cứu chuẩn đoán môi trường kinh doanh và tiềm năng

tăng trưởng của tỉnh. Quá trình hợp tác liên kết trong xúc tiến quảng bá, nghiên

cứu khảo sát thị trường tất yếu thúc đẩy cung - cầu. TTDL Luông Pra Băng với

những sản phẩm đặc trưng đã được biết đến không chỉ trong nước mà còn ở

nhiều quốc gia khác, lượng khách du lịch đến Luông Pra Băng ngày càng đông

và người Luông Pra Băng đi du lịch ngày càng nhiều.

3.2.2. Thực trạng việc tổ chức phát triển thị trường du lịch tỉnh

Luông Pra Băng

3.2.2.1. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật tạo điều kiện phát triển thị

trường du lịch

Kết cấu hạ tầng là điều kiện để đón tiếp khách du lịch của một quốc

gia, một địa phương. Đây là điều kiện quan trọng để tạo nên giá trị của sản

phẩm, phát triển TTDL.

Hệ thống đường giao thông: tỉnh Luông Pra Băng không ngừng được

mở rộng và xây mới. Hiện nay mạng lưới đường bộ Luông Pra Băng có tổng

chiều dài trên 4.518,38 km, trong đó có đường quốc lộ 605,2 km, tỉnh lộ

565,05 km, đường của huyện 356,42 km, đường của thành phố 170,41 km và

đường của vùng nông thôn 2.820,98 km với các trục và tuyến giao thông như:

đường quốc lộ 13 là trục giao thông chính nối với thủ đô Viêng Chăn, quốc lộ

số 1C nối liền với tỉnh Luông Năm Tha - tỉnh Phông Xa Ly - tỉnh U Đôm Xay -

tỉnh Hua Phăn, quốc lộ số 7 nối liền với tỉnh Xiêng khoảng và tỉnh Hua Phăn,

quốc lộ số 8 nối liền với tỉnh Xay Nha Bu Ly. Ngoài ra còn có vận chuyển quốc tế

như: Luông Pra Băng - Vinh, Hà Nội, Điện Biên Phủ, Huế (CHXHCN Việt

Nam); Luông Pra Băng - Xiêng Hùng, Khun Minh (Trung Quốc); Luông Pra

Băng - Xiêng Mai, Lơi, Nan, Ụt Ta La Địt, Phít Sa Nụ Lộc (Thái Lan). Tỉnh

Luông Pra Băng còn có đường sông Me Khong nối liền từ thủ đô Viêng Chăn,

tỉnh Bo Kẹo; sông Năm Khan nối liền từ tỉnh Xiêng Khoảng, sông Năm U nối liền

tỉnh Phông Xa Ly. Nhìn chung mạng lưới giao thông của tỉnh Luông Pra Băng,

các huyện, bản trong tỉnh đã có đường nối liền chiếm đến 96,55%, không chỉ tạo

88

điều kiện thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nói

riêng đối với phát triển du lịch mà còn tạo cảnh quan, làm thay đổi cơ bản diện

mạo của Luông Pra Băng.

Đường hàng không: sân bay quốc tế Luông Pra Băng là một trong 4 sân

bay tốt nhất của Lào. Ngoài các chuyến bay nội địa, còn có các chuyến bay

quốc tế trực tiếp từ Luông Pra Băng - Nội Bài Hà Nội, Huế (CHXHCN Việt

Nam), Bang Koc, Xiêng Mai (Thái Lan), Jing Hông, Cheng du (Trung Quốc).

Sân bay quốc tế Luông Pra Băng hiện đang được nâng cao, xây dựng nhà ga

quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển khách và hàng hóa ngày càng tăng.

Số lượt hành khách nội địa thông qua hàng không tăng nhanh trong 5 năm qua

(2012 - 2016). Trong tổng số 577.454 lượt hành khách, trong đó năm 2012 có

103.324 lượt hành khách và năm 2016 với 140.589 lượt hành khách.

Nhìn chung, điều kiện giao thông của tỉnh Luông Pra Băng trong những

năm qua được cải thiện rõ rệt cả về hạ tầng và phương tiện, đặc biệt là nâng

cấp, mở rộng sân bay, máy bay, hệ thống đường bộ [14, tr.11].

Hệ thống cấp điện: nguồn điện dùng cho sinh hoạt và sản xuất của tỉnh

được đảm bảo cung cấp lưới điện quốc gia thông qua đường quốc lộ 13. Mạng

lưới toàn tỉnh đến nay đang trong quá trình phát triển; năm 2017 toàn tỉnh đã

được sử dựng điện chiếm 88% của làng trong tỉnh và 86,62% của hộ gia đình.

Tỉnh Luông Pra Băng đang chuẩn bị và tạo điều kiện để đầu tư xây dựng các

nhà máy thủy điện trong thời gian tới 22 dự án; trong đó Chính phủ đã ban

hành 14 dự án. Hiện nay đang xây dựng 5 dự án như: nhà máy thủy điện sông

Me Khong Luông Pra Băng - Xay Nhạ Bu Ly, nhà máy thủy điện sông Năm

Khan 2 và 3, nhà máy thủy điện sông Năm U 1, 2 và 3 [14, tr.10].

Hệ thống bưu chính viễn thông: Luông Pra Băng là một trong những trung

tâm bưu chính viễn thông lớn. Toàn tỉnh có 12 bưu cục, 1.304 tủ bưu điện; có

công ty phục vụ hệ thống bưu chính viễn thông 4 công ty (ETL, Lào Telecom, Be

line, Unitel), trạm điện thoại 27 trạm và mở dịch vụ tín hiệu điện thoại 389.347 số;

trong đó điện thoại bàn 37.113 số, điện thoại di động 313.404 số và mạng

(internet) 38.830 số. Luông Pra Băng đã cung cấp các dịch vụ viễn thông đa dạng

và hiện đại, đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng [14, tr.15].

89

Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch: hệ thống khách sạn, resorts, nhà nghỉ,

nhà trọ, bungalow được đầu tư phát triển ở khắp mọi nơi, đặc biệt là khách

sạn tại đô thị, các khu điểm du lịch, resorts, các huyện và các khu nghỉ dưỡng.

Các cơ sở lưu trú du lịch phần lớn có quy mô nhỏ. Nhiều khách sạn, resorts

mới đầu tư những năm gần đây có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn

quốc tế. Hiện tại ở Luông Pra Băng có trên 820 cơ sở lưu trú các loại. Với hệ

thống cơ sở lưu trú có tốc độ tăng trưởng như hiện nay hoàn toàn đáp ứng nhu

cầu du lịch gia tăng trong thời gian tới.

Bảng 3.6: Số khách sạn, Nhà nghỉ - Resorts, Nhà hàng ở Lào

và tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn 2015 - 2018

Đơn vị: cơ sở

Năm(cả nước)

Năm (Tỉnh Luông Pra Băng)

TT

Chỉ tiêu

2015 2016 2017 2018 2015 2016 2017 2018

1 Khách sạn

542

545

569

670

61

49

53

90

2 Nhà nghỉ+Resort 1.907 2.452 2.165 2.432

238

248 260

384

3 Nhà hàng

1.664 2.969 2.360 2.646

289

457 290

300

4 Các chỉ tiêu khác

164

365

249

305

3

27

19

19

4.280 6.331 5.343 6.053

591

781 622

796

Tổng

Nguồn: Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch [9, tr.21; 10, tr.25; 11, tr.25].

Do vốn đầu tư qua các năm tăng, số lượng cơ sở lưu trú ngày càng tăng.

Năm 2011 với 279 cơ sở lưu trú có số lượng phòng là 3.241 phòng. Đến năm

2016, toàn tỉnh có 297 cơ sở với 4.844 phòng.

Bảng 3.7: Cơ sở lưu trú du lịch ở tỉnh Luông Pra băng

giai đoạn 2011 - 2018

Đơn vị: cơ sở

Năm

Chỉ tiêu

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Cơ sở lưu trú

279

296

380

312

299

297

313

477

Tổng số phòng

3.241

3.529

4.126

6.634

5.005

4.844

5.368 5.276

Nguồn: Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch [9, tr.22; 10, tr.26; 11, tr.26].

90

Hệ thống nhà hàng ăn uống du lịch: với thế mạnh về ẩm thực, hệ thống

nhà hàng phục vụ du lịch nói riêng và phục vụ dân cư nói chung, phát triển mở

rộng những năm gần đây. Các loại nhà hàng với nhiều phong cách phục vụ

nhiều chủng loại các món ăn châu Âu, châu Á rất phong phú được mở ra. Đặc

biệt phong cách phục vụ và hình thức bài trí món ăn cũng như các dịch vụ văn

hóa ẩm thực khác như nghệ thuật dân gian được lồng ghép trong các bữa ăn tạo

giá trị trải nghiệm đặc sắc cho khách du lịch. Trong giai đoạn năm 2014 - 2015

toàn tỉnh có 289 dự án và năm 2016 đã phát triển và mở rộng với 457 dự án.

Hệ thống cơ sở dịch vụ lữ hành, cung cấp thông tin: hệ thống các công

ty lữ hành, văn phòng du lịch xuất hiện ở khắp mọi nơi trong 12 huyện, tập

trung nhiều ở thành phố Luông Pra Băng, huyện Phu Khun, Xiêng Ngân, Pặc

U, Năm Bạc, Mương Ngoi… Các đại lý du lịch đóng vai trò rất quan trọng

trong việc cung cấp thông tin, tư vấn và quảng bá du lịch thông qua hệ thống

bán lẻ.

Các dịch vụ lữ hành cho tới nay chỉ cung cấp bởi các công ty lữ hành

thông qua hệ thống văn phòng đại lý du lịch. Các điểm cung cấp thông tin du

lịch miễn phí tại sân bay hoặc trung tâm du lịch lớn do Sở Thông tin, văn hóa

và du lịch cung cấp. Tại khu, điểm du lịch hệ thống cung cấp thông tin du

lịch, biển chỉ dẫn,... ở hầu hết các huyện, địa phương còn rất thiếu thốn.

Khách du lịch trong nước và quốc tế tìm kiếm thông tin chính xác về nơi ăn,

nghỉ, giải trí, đi lại,v.v... rất khó khăn vì vậy thường khó lên kế hoạch, trả giá

cao hơn thực tế và không thỏa mãn sự mong đợi.

Cơ sở dịch vụ tại điểm du lịch: số lượng các cơ sở kinh doanh dịch vụ

vui chơi giải trí khá lớn, đa dạng. Đa số các cơ sở có quy mô nhỏ, tiện nghi

phục vụ khách nhìn chung còn đơn điệu. Những năm qua Luông Pra Băng đã

xây dựng các khu vui chơi giải trí thể thao như: khu vực Đờn Thạt Luông; sân

thể thao Na Săng Vơi; sân bóng đá quốc gia Luông Pra Băng; sân golf; sân

cầu lông Si Ri Vông; vườn Hói Khùa; vườn Đóc Phấng,... nhìn chung, Hệ

thống cơ sở và các tiện nghi vui chơi giải trí phục vụ du lịch. Luông Pra Băng

đã mở rộng, nâng cấp các cơ sở lưu trú, vui chơi giải trí phục vụ du lịch với

91

tổng vốn đầu tư trong ngành dịch vụ 1.527,38 tỷ LAK, chiếm 38,5% của GDP

trong năm 2011, 2.427,7 tỷ LAK, chiếm 43,6% trong năm 2015, 2.678,7 tỷ

LAK, chiếm 44,4% của GDP trong năm 2016 và 3.257,9 tỷ LAK, chiếm

46,3% của GDP trong năm 2018 [16, tr.30].

Các dịch vụ hỗ trợ khác: hầu hết các ngân hàng và các công ty tài chính

lớn của Lào và một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty bảo hiểm

quốc tế đều có chi nhánh tại Luông Pra Băng như: ngân hàng Nhà nước, ngân

hàng Phắt Thạ Na Lào, ngân hàng Thương mại quốc tế, ngân hàng Phông Sa

Văn, ngân hàng Phát triển Nông nghiệp, ngân hàng cùng phát triển, ngân hàng

STB, ngân hàng liên doanh Lào - Việt,... các dịch vụ này trong những năm gần

đây được mở rộng phát triển phục vụ khách du lịch, ngày càng hoàn thiện và

đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.

3.2.2.2. Phát triển sản phẩm tạo nguồn cung trên thị trường du lịch

Cung trên TTDL được cấu thành từ tài nguyên du lịch tự nhiên và tài

nguyên du lịch nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và hàng hóa, dịch vụ

đáp ứng nhu cầu của du khách. Phân tích thực trạng phát triển sản phẩm hàng

hóa dịch vụ du lịch và hệ thống kinh doanh du lịch là cơ sở để đánh giá thực

trạng cung trên TTDL tỉnh Luông Pra Băng.

Việc phối hợp các bộ phận hợp thành trong sản phẩm du lịch hoàn chỉnh

và cung ứng cho du khách là quá trình phức tạp và đa dạng. Đầu tư phát triển sản

phẩm hàng hóa du lịch trên thị trường theo hướng đa dạng hóa và nâng cao chất

lượng sản phẩm để thúc đẩy tăng trưởng cũng đã được coi trọng ở Luông Pra

Băng thông qua hoạt động cơ bản sau:

Bảo tồn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch. Trong năm qua, việc tôn

tạo và phát triển nguồn tài nguyên du lịch nhằm xây dựng các khu, điểm du lịch

với các sản phẩm du lịch đa dạng để tạo tính hấp dẫn cho khách du lịch của tỉnh

Luông Pra Băng đã được quan tâm.

Việc bảo tồn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch trên thị trường

hướng tới các sản phẩm chủ yếu như sau:

92

Du lịch văn hóa - lịch sử: nhằm thỏa mãn nhu cầu mở rộng sự hiểu biết và

nghệ thuật, phong tục tập quán của người dân nơi khách du lịch đến thăm hay để

tham quan, nghiên cứu, mở mang kiến thức, tìm hiểu về lịch sử dân tộc,...

Những nơi in đậm dấu ấn văn hóa lịch sử thường thu hút nhiều đối tượng khách

du lịch này như: các di tích lịch sử, chùa, văn hóa dân tộc, làng nghề, nhà vua Si

Sạ Vang Vông,...

Du lịch lễ hội, tín ngưỡng đang là sản phẩm du lịch độc đáo ở Luông

Pra Băng. Những nơi có đền, chùa như: chùa Phu Si, chùa Xiêng Thong, chùa

Phôn Phâu, chùa Bán Mường Ngoi, chùa Bán Xộp Văn,... Trong đó lễ hội của

các dân tộc, Bun Pi May; đua thuyền; Lay Hừa Phay; Khấu Sạ Lac,... đối

tượng chính mua sản phẩm du lịch này là người lớn tuổi và trẻ em, những

người kinh doanh buôn bán.

Du lịch làng nghề. Những điểm du lịch làng nghề thu hút đồng du khách

là làng nghề đồ gỗ thủ công (làng Săng Khạ Lồc), thủ công mỹ nghệ giấy Sa

(làng Xang Khóng), dệt thủ công mỹ nghệ (làng Pha Nôm), bông satin thủ công

mỹ nghệ (làng Na Nhàng), thủ công mỹ nghệ sơn mài Lào (làng Pong Khăm) và

các làng khác như: Xàng Hay, Xang Khóng, Xiêng Lệk, Phon Xay, Bán Chàn,

Muồng Kéo, Mương Ngoi, Chợ đêm,... Trong những năm qua, Luông Pra Băng

đặc biệt quan tâm đến phát triển du lịch làng nghề, tổ chức Hội du lịch làng nghề

nhằm khai thác tiềm năng và góp phần bảo tồn những làng nghề có nguy cơ bị

mai một, đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề được quy hoạch

gắn với phát triển du lịch, hỗ trợ tiền xây nhà trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở

các làng nghề.

Du lịch khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên, là sản phẩm thu hút đông

khách du lịch sau sản phẩm du lịch văn hóa. Du lịch sinh thái kết hợp tham

quan, nghỉ ngơi thường tập trung ở những nơi có danh lam thắng cảnh đẹp,

khí hậu trong lành, hệ sinh vật chất phong phú như: thác, hang, rừng núi,...

Đây là sản phẩm du lịch có thể bán quanh năm, chỉ hạn chế vào những tháng

giá rét hoặc mưa.

93

Du lịch thể thao, vui chơi giải trí là sản phẩm đang được Luông Pra Băng

chú trọng đầu tư phát triển. Khách tiêu dùng sản phẩm này có xu hướng tăng

mạnh, nhất là khách quốc tế đến sân golf, sân bóng đá quốc gia. Nhiều khu vui

chơi giải trí được hình thành gắn các hoạt động vui chơi giải trí và thể thao dựa

vào các tài nguyên du lịch sông hồ, suối, thác,...

Du lịch chữa bệnh: sản phẩm du lịch này trên TTDL Luông Pra Băng

chưa phổ biến và mới chiếm tỷ trọng nhỏ. Đối tượng chủ yếu mua sản phẩm du

lịch này là người già, người cao tuổi, người có thu nhập ổn định, người cần phục

hồi sức khỏe sau khi chữa bệnh, thường tập trung ở nơi có nguồn nước nóng,

nước khoáng phù hợp cho chữa bệnh như: thác Sé, thác Khoang Si thành phố

Luông Pra Băng, nguồn nước nóng Bo Kẹo huyện Xiêng Ngân,...

Du lịch hội nghị, hội thảo những năm gần đây có vai trò rất quan trọng,

khách mua sản phẩm này ngày càng tăng. Đặc điểm cơ bản của du lịch hội nghị,

hội thảo là số lượng khách tập trung rất lớn, đòi hỏi có trình độ tổ chức phối hợp

cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất lượng cao. Các sự kiện du lịch cũng đang

là sản phẩm được bán trên TTDL. Những sự kiện du lịch thu hút hàng trăm

khách, được truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây thực sự là

những cơ hội hiếm để quảng cáo cho du lịch.

Hàng hóa lưu niệm: được bán hết sức đa dạng trên thị trường, thường

mang dấu ấn của các điểm, tuyến du lịch. Nhóm hàng này được sản xuất chủ

yếu trong các làng nghề thủ công truyền thống của Luông Pra Băng. Phần lớn là

các hàng thủ công mỹ nghệ, đôi khi là sản phẩm truyền thống về ẩm thực hoặc

trò chơi dân gian. Với lợi thế của vùng đất, hàng hóa lưu niệm của Luông Pra

Băng nổi tiếng khắp trong và ngoài nước gắn với tên tuổi của mỗi làng nghề

như: Ọ Lam (một món hầm dày được làm bằng thảo mộc rừng), Chèo Bong

(nước chấm làm bằng ớt và da trâu), Khay Phen (cỏ khô đã được chiên nhẹ với

hạt vừng và tỏi), vải, quần áo của các dân tộc thiểu số,...

Các chương trình du lịch trọn gói đến các khu, điểm du lịch kết nối những

sản phẩm du lịch đặc trưng của Luông Pra Băng là nhóm hàng quan trọng nhất,

là nhóm để thu hút khách và giữ khách. Số lượng, chủng loại các chương trình

94

khó thống kê đầy đủ bởi ngày càng tăng theo nhu cầu của du khách. Nhóm hàng

hóa này chủ yếu được sản xuất từ nguyên liệu giá trị tài nguyên du lịch. Các

chương trình du lịch trong tỉnh thời gian ngắn, thường từ 1 đến 3 ngày. Đây là

các chương trình du lịch tổng hợp kết hợp cả tham quan, nghỉ ngơi giải trí, tìm

hiểu, mua sắm,... Các chương trình du lịch chuyên đề như du lịch sinh thái,

nghiên cứu lịch sử,… chiếm tỷ lệ nhỏ. Các chương trình du lịch nội địa thường

có thời gian từ 3 đến 6 ngày.

Phát triển hàng hóa, dịch vụ du lịch bao gồm dịch vụ lưu trú, ăn uống,

dịch vụ vận chuyển là những phương tiện làm cầu nối cho du khách tiếp cận với

các giá trị tài nguyên du lịch. Đây là loại dịch vụ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và

thưởng thức ở mức cao chứ không đơn thuần là dịch vụ đáp ứng nhu cầu tối

thiểu hàng ngày của con người. Vì vậy, những dịch vụ này đang được quan tâm

phát triển ở Luông Pra Băng với mục tiêu đảm bảo sự tiện dụng, chất lượng phục

vụ và giá cả phù hợp đối với du khách.

Như vậy, giá trị của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ du lịch đang được

chú ý nâng lên thông qua việc thu hút lớn nguồn vốn đầu tư vào phát triển hệ

thống kết cấu hạ tầng, trong đó có hạ tầng tại các khu, điểm du lịch. Các tài

nguyên du lịch được khai thác tối đa để xây dựng các khu, điểm du lịch với các

sản phẩm có nhiều du khách ưa thích như du lịch lễ hội, tín ngưỡng, tham quan

di tích lịch sử,… Sản phẩm đều mang tính đặc trưng riêng của Luông Pra Băng,

đó là những giá trị tài nguyên du lịch, du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch

nhân văn. Những sản phẩm này khi du khách tiêu dùng, giá trị của nó vẫn được

giữ nguyên. Việc tôn tạo, bảo dưỡng tài nguyên này ở Luông Pra Băng đang làm

cho giá trị của nó tăng lên. Sự liên kết nối các sản phẩm du lịch để cung cấp cho

khách du lịch đem lại cho khách những cảm giác mới lạ, thỏa mãn nhu cầu tối

đa của du khách tùy theo mức độ cảm nhận của họ.

3.2.2.3. Phát triển điểm đến và các tuyến du lịch

Hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh trên TTDL Luông Pra Băng

phát triển mạnh trong thời gian qua, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh. Các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ không chỉ thỏa mãn nhu

95

cầu của du khách mà đồng thời của cả những đối tượng không phải là khách

du lịch và bản thân các doanh nghiệp cũng không bó hẹp phạm vi khách hàng

của mình là khách du lịch.

Bảng 3.8: Doanh nghiệp lữ hành và lưu trú tại Luông Pra Băng

giai đoạn 2011 - 2018

Năm

Doanh nghiệp

2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

2018

Doanh nghiệp lữ hành

50

57

65

71

76

78

93

95

Cơ sở lưu trú

279

296

380

312

299

297

313

477

Tổng số

329

353

445

383

375

375

406

572

Nguồn: Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch [9, tr.22; 10, tr.26; 11, tr.26].

Phân tích thực trạng các hoạt động kinh doanh phục vụ khách du lịch trên

TTDL Luông Pra Băng cho thấy:

Kinh doanh lưu trú, ăn uống rất đa dạng, phong phú về chủng loại, chất

lượng và mức giá. Nó tùy thuộc vào cơ sở vật chất kỹ thuật và phương thức phục

vụ, nguyên liệu đảm bảo cho các yếu tố đầu vào của các nhà sản xuất.

Trong những năm qua, kinh doanh lưu trú, ăn uống ở Luông Pra Băng

không có sự tăng trưởng lớn, số lượng cơ sở không nhiều. Từ năm 2011 đến nay,

số cơ sở lưu trú, số buồng, phòng, số giường đều tăng và giảm trong giai đoạn

năm 2015 - 2016. Năm 2017 - 2018, số cơ sở lưu trú đăng ký tại sở du lịch có xu

hướng tăng, năm 2018 có 477 đơn vị. Công suất sử dụng phòng những năm qua

tăng khá, giá bán phòng của các doanh nghiệp rất khác nhau tùy theo điều kiện

tiện nghỉ. Giá bán trung bình một ngày đêm là 150.000 LAK/phòng (nhà nghỉ),

giá tối thiểu là 100.000 LAK/phòng (nhà nghỉ) và 800.000 LAK/phòng (khách

sạn 5 sao và resort), giá bán tối đa là 20.000.000 LAK/phòng (khách sạn 5 sao

và resort) và giá theo giờ là 80.000 - 100.000 LAK/phòng.

Hiện nay, nhiều cơ sở lưu trú đã và đang đầu tư nâng cấp chất lượng và đa

dạng hóa dịch vụ, mở rộng quy mô kinh doanh như khách sạn Maison

Suovannaphoum, Santi Resort & SPA, Manoluck, Mekhong Riverview, Muang

Thong,... Ngoài cung cấp dịch vụ lưu trú và ăn uống, các nhà kinh doanh còn tổ

96

chức nhiều hoạt động dịch vụ bổ sung khách như: đăng cai tổ chức hội nghỉ, hội

thảo, đám cưới, cửa hàng lưu niệm, dịch vụ bán vé máy bay, dịch vụ điện thoại,

máy vi tính, dịch vụ thể thao,...

Ngoài cơ sở lưu trú kinh doanh ăn uống, còn nhiều cơ sở kinh doanh ăn

uống độc lập như các quán ăn, nhà hàng, quầy giải khát mang tính chất thỏa mãn

nhu cầu của khách. Đó là điều kiện thuận lợi cho khách lựa chọn, song nhiều cơ

sở còn thiếu những điều kiện tối thiểu, vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa

đảm bảo. Những cơ sở này vừa phục vụ khách du lịch vừa phục vụ các đối

tượng không phải là khách du lịch. Khách sạn, nhà hàng du lịch,… Nhìn chung

cả thời kỳ này đều có sự tăng trưởng khá do sự phát triển của các loại hình dịch

vụ về nhà hàng, khách sạn và dịch vụ trong toàn tỉnh.

Kinh doanh lữ hành. Đây là nhà cung cấp cho khách hàng dịch vụ tổng

hợp kết nối dịch vụ của các đơn vị riêng lẻ thành một quá trình xuyên suốt qua

chương trình du lịch và hướng dẫn thực hiện. Các doanh nghiệp lữ hành giúp

cho du khách giải quyết những vấn đề như: lựa chọn hành trình du lịch, lựa chọn

dịch vụ thủ tục làm visa, hộ chiếu, lựa chọn thời gian thích hợp cho chuyến đi,

lựa chọn loại hình du lịch, v.v... Tại Luông Pra Băng, số lượng doanh nghiệp

còn thấp. Năm 2011 có 50 đơn vị, năm 2015 có 76 đơn vị, đến năm 2018 tổng số

doanh nghiệp lữ hành tại Luông Pra Băng là 95 đơn vị, trong đó có 19 doanh

nghiệp lữ hành quốc tế.

Để bán được các chương trình du lịch và thu được lợi nhuận, các doanh

nghiệp rất chú trọng nghiên cứu nhu cầu của khách du lịch, dự báo nhu cầu

khách trên TTDL. Hầu hết các doanh nghiệp đều xác định, tổ chức sản xuất các

chương trình du lịch là công việc hàng đầu của mình. Một chương trình du lịch

có khả năng cạnh tranh, thu hút khách trên thị trường phải là chương trình du

lịch độc đáo, hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, nghĩa là một chương

trình có chất lượng cao. Hiện nay, một số doanh nghiệp đang cố gắng làm mới

các chương trình du lịch nhưng nhìn chung vẫn mang tính truyền thống. Ngoài

bán chương trình du lịch, các doanh nghiệp lữ hành còn bán các dịch vụ lẻ. Phần

lớn các sản phẩm này được bán một cách độc lập không có sự gắn kết giữa các

97

sản phẩm với nhau. Các dịch vụ lẻ chủ yếu bao gồm đăng ký đặt chỗ và bán vé

máy bay và các loại phương tiện giao thông khác, môi giới và bán bảo hiểm,

đăng ký đặt chỗ trong khách sạn, tư vấn du lịch,… Một số doanh nghiệp có điều

kiện còn tổ chức du lịch hội nghị, hội thảo, các sự kiện du lịch.

Kinh doanh dịch vụ vận chuyển khách du lịch. Khối lượng hàng hóa và

khách luân chuyển trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng có tốc độ tăng trưởng rất

cao. Vận tải hành khách và hàng hóa ở Luông Pra Băng bằng đường bộ, đường

sông và đường hàng không, trong đó đường bộ vẫn là chủ lực bởi những ưu

điểm vốn có của nó. Doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển du lịch của Luông

Pra Băng chủ yếu là cung cấp dịch vụ cho khách du lịch bằng đường bộ với

phương tiện ô tô, xe tuc tuc, xe chăm bô, mô tô, xe đạp. Hiện số lượng các

phương tiện vận chuyển này ở Luông Pra Băng khá lớn, hàng ngàn ô tô, xe tuc

tuc, xe chăm bô, mô tô và hàng ngàn xe đạp. Sự gia tăng mạnh của các phương

tiện giao thông đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận

chuyển cho khách. Có 11 công ty cổ phần vận tải hành khách đường bộ và hàng

chục các hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, các cá nhân, hộ gia đình cũng

tham gia công tác vận tải với năng suất vận tải hiện vẫn còn thấp so với nhu cầu

đi lại và vận chuyển hàng hóa hết sức to lớn và đa dạng trên địa bàn tỉnh Luông

Pra Băng và một số tỉnh lân cận.

Vận tải đường bộ qua Luông Pra Băng chưa phát triển mạnh và còn nghèo

nàn, đơn điệu. Các bến sông như: bến sông Viêng Kéo, Thà Hùa Luông, Bán

Đòn, Mương Ngoi, chủ yếu phục vụ chuyên chở hàng hóa và hành khách. Đầu

tư cho các phương tiện thuyền hàng hóa, thuyền chuyên chở khách du lịch chưa

được các nhà kinh doanh quan tâm, hầu hết thuyền chuyên hàng hóa, vận chuyển

còn kém an toàn cho du khách.

Vận tải đường hàng không. Trước mắt Luông Pra Băng chọn phương án

đường hàng không để khai thác vận chuyển khách có nhu cầu đi lại nhanh. Phạm

vi hoạt động trong nước và quốc tế như: Luông Pra Băng - Hà Nội; Luông Pra

Băng - Bang Koc, Xiêng Mai; Luông Pra Băng - Jinghong,... và các tuyến bay

98

trong nước. Vận tải hàng không, nhìn chung chưa đảm bảo được dịch vụ thuận

tiện, kể cả nối tuyến bằng những phương tiện thích hợp.

3.2.2.4. Tạo môi trường và các tổ chức dịch vụ du lịch

Kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí: Tại các khu, điểm du lịch ở Luông

Pra Băng hiện nay, kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí tăng mạnh và ngày càng

phổ biến. Để đáp ứng nhu cầu cảm thụ cái đẹp và sức khỏe, giảm sự căng thẳng

về thể chất và tinh thần đã hình thành mạng lưới các nhà cung cấp dịch vụ tham

quan, vui chơi giải trí, thư giãn, phục hồi sức khỏe. Các doanh nghiệp kinh

doanh dịch vụ vui chơi giải trí phải dựa trên cơ sở khai thác tài sản du lịch để

cung ứng dịch vụ. Tại Luông Pra Băng, do số lượng các cơ sở kinh doanh dịch

vụ vui chơi giải trí khá lớn, đa dạng trên các dịch vụ được cung cấp rất nhiều với

các mức giá khác nhau. Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đầu

tư xây dựng các khu nghỉ nhỏ, nghỉ cuối tuần kết hợp vui chơi giải trí diễn ra

rầm rộ trên địa bàn tỉnh. Các khu vui chơi giải trí này có quy mô nhỏ, nhưng dần

trở thành địa chỉ quen thuộc cho các hoạt động du lịch cuối tuần của thị trường

khách du lịch Luông Pra Băng và các tỉnh lân cận, phần nào đáp ứng nhu cầu du

lịch của khách du lịch từ thủ đô Viêng Chăn và các tỉnh miền Bắc.

Phân tích, khảo sát thực trạng phát triển sản phẩm và hệ thống kinh

doanh du lịch, có thể thấy một số đặc điểm của cung trên TTDL Luông Pra

Băng như sau:

Cung trên thị trường chủ yếu là các dịch vụ tham quan, lưu trú, ăn uống,

vận chuyển,... Do vậy, các doanh nghiệp rất coi trọng việc cung cấp thông tin về

các dịch vụ mà mình cung cấp cho khách du lịch. Người tiêu dùng du lịch

thường tìm kiếm thông tin qua mạng và đặt chỗ, đăng ký, thanh toán các dịch vụ

phục vụ chuyến đi qua thương mại điện tử. Đây là một thách thức đối với các

doanh nghiệp tại Luông Pra Băng do ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế,

khả năng xúc tiến, quảng bá chưa cao, thiếu tính chuyên nghiệp.

Các nhà cung cấp sản phẩm du lịch với tư cách là chủ thể thị trường đều

có tính độc lập, không chịu sự can thiệp trực tiếp, cưỡng chế của các chủ thể

thị trường khác. Họ tự điều chỉnh các hành vi của mình cho phù hợp với

99

những tín hiệu của thị trường. Doanh nghiệp thích ứng với thị trường thì tồn

tại và ngược lại sẽ bị thải loại. Tuy vậy, họ vẫn có xu hướng liên kết với nhau

nhằm tạo sức mạnh để thu hút khách du lịch, nhất là hợp tác trong xây dựng

và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch, đón tiếp và phục vụ khách du

lịch. Đặc biệt là sự liên kết giữa các đại lý du lịch, doanh nghiệp lữ hành với

các nhà cung cấp dịch vụ du lịch trong và ngoài tỉnh. Do đó tính phụ thuộc

nhau của họ gia tăng.

Cung trên thị trường bị hạn chế về số lượng và có tính cố định. Đó là do

khả năng cung bị giới hạn về vị trí và sức chứa, mặt khác lại đòi hỏi vốn đầu tư

lớn nên cung trên thị trường khó thay đổi khi có sự biến động về cầu, giá cả và

những tác động khác. Trong khi đó, lượng cung sản phẩm du lịch từ nguồn tài

nguyên du lịch không dễ dàng sản xuất và tái sản xuất ra tại một địa điểm hoặc

một doanh nghiệp, vì vậy, việc tạo ra các sản phẩm bị hạn chế.

Cung đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nên hàng năm, lượng vốn đầu tư trên

thị trường của Luông Pra Băng đều tăng. Các nguồn vốn này tập trung cho xây

dựng hệ thống hạ tầng du lịch, cho việc xây dựng các khu điểm du lịch với các

sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ du lịch trên cơ sở tài nguyên du lịch của tỉnh. Các

nguồn vốn này từ cả phía Nhà nước và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch

trong và ngoài nước.

3.2.2.5. Liên kết quốc tế về thị trường du lịch

Thị trường du lịch bước đầu được liên thông. Du lịch đã và đang mở rộng

hợp tác với nhiều tổ chức du lịch quốc tế như: UN-WTO, PATA, ASEANTA,...

và tích cực tham gia các chương trình hợp tác phát triển du lịch như: chương

trình phát triển tiểu vùng sông Me Khong; mở rộng, hợp tác hành lang Đông -

Tây; hợp tác du lịch sông Me Khong với các sông khác,…

Về tổng thể ngành du lịch đã ký hiệp định hợp tác du lịch với các nước,

có quan hệ với hàng ngàn doanh nghiệp du lịch quốc tế và mở văn phòng đại

diện ở các thị trường trọng điểm, trong đó Luông Pra Băng luôn đóng vai trò

tích cực.

100

Đầu tư vào TTDL được mở rộng. Các doanh nghiệp chú trọng nhằm đa

dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay, toàn tỉnh có 78 công ty và

các tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch với tổng vốn đầu tư 178.791.480.014

LAK để đầu tư xây dựng các khu du lịch, khách sạn, mở tuyến tour du lịch mới

tại Luông Pra Băng như: Maison Souvannaphoum Hotel, Santi Resort & SPA,

Aucient Luang Pra bang Hotel, Me khong Rever view Hotel, The Chang

Heritage Hotel, Luang Pra bang Travel & tuor, Xieng thong Travel & tuor, Lao

discovery tuors, v.v... Đồng thời triển khai các dự án mới như: khu du lịch lịch

sử, văn hóa và du lịch thiên nhiên ở huyện như: Phu Khun, Năm Bạc, Pạc Xeng,

Mương Ngoi, Chom Phết,...

Ngoài ra, Sở Thông tin, văn hóa và du lịch thành phố và các huyện

trong tỉnh, còn tổ chức khảo sát đường Luông Pra Băng nhằm khai thác lợi

thế của tour đường bộ xuất phát từ Luông Pra Băng qua các tỉnh miền Bắc với

nhiều di tích lịch sử, văn hóa, thiên nhiên có giá trị cao. Tỉnh đa tăng cường

hợp tác về du lịch với các tỉnh thông qua việc ký kết chương trình hợp tác về

du lịch với các tỉnh: tỉnh Hua Phăn, Xay Nhạ Bu Ly, Xiêng Khoảng, Bo Kẹo,

thủ đô Viêng Chăn,…

Phát triển quảng bá TTDL của tỉnh. Tích cực tham gia các hội chợ, lễ hội

du lịch trong và ngoài nước như Liên hoan du lịch "990 năm Thăng Long Hà

Nội"; hội chợ thương mại - du lịch quốc tế (ITB) tại Singapore, Khun Minh

(Trung Quốc), Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, (Việt Nam); "Ngàn Đọc Phái" tại

tỉnh Lời (Thái Lan); tại huyện Xôn (Hàn Quốc) và hội du lịch bảo tồn

ASEAN tại huyện Pạc Xê, tỉnh Chăm Pa Sắc.

Hợp tác, liên kết TTDL trong tỉnh, trong nước và ngoài nước với các

tỉnh của Lào như: thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn, Xiêng Khoảng, Hua

Phăn, Xay Nhạ Bu Ly,... và các nước như: Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan,

Cămpuchia,...

Về hợp tác quốc tế trong xây dựng sản phẩm du lịch, Luông Pra Băng đã

tổ chức đoàn cán bộ của ngành du lịch đi khảo sát tuyến đường Xuyên Á (Lào,

Thái Lan, Căm Phu Chia, Việt Nam), kết nối 4 quốc gia 1 điểm đến. Sau đợt

101

khảo sát, đã có một số doanh nghiệp mở tour ngắn ngày bằng đường bộ từ

Luông Pra Băng đi Nghệ An, Hà Nội, Điện Biên Phủ, Huế (Việt Nam), Luông

Pra Băng - Xiêng Mai, Lời (Thái Lan), Luông Pra Băng - Xiêng Hung, Khun

Minh (Trung Quốc); đường hàng không Luông Pra Băng - Xiêng Mai, Bang

Koc (Thái Lan); Luông Pra Băng - Hà Nội,… Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật của tổ

chức WTO; phát triển loại hình DL hội nghị, hội chợ, khuyến thưởng, triển lãm

(MICE), đã tổ chức cho chuyên gia WTO khảo sát thực trạng nhân lực, cơ sở vật

chất, trao đổi với cán bộ quản lý ngành, các doanh nghiệp có thể mạnh về MICE

sẽ có hội chợ cụ thể cho ngành du lịch Luông Pra Băng trong định hình phát

triển loại hình MICE.

3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG

PRA BĂNG

3.3.1. Những kết quả về phát triển thị trường du lịch và nguyên nhân

3.3.1.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất, quy mô thị trường

Với kết quả mở rộng và sự tham gia, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế trong

khu vực và thế giới, trong thời gian qua TTDL của tỉnh Luông Pra Băng đã thu

hút được khách du lịch trên thế giới tham gia du lịch trong khu vực châu Á - Thái

Bình Dương càng ngày nhiều như: năm 2005, có khách du lịch quốc tế sang tham

gia các nước ASEAN 79.000.000 người; năm 2013 tăng lên đến 90.200.000 người

và tăng lên 11% so với năm 2012. Trong đó, khách du lịch đi du lịch ở Malaysia

25.700.000 người, Thái Lan 26.700.000 người, Singapore 15.500.000 người,

Việt Nam 7.600.000 người,... và Lào 3.700.000 người [9, tr.26].

Thị trường du lịch đóng vai trò trong việc phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước, khuyến khích và bảo vệ cảnh quang thiên nhiên, lịch sử, nền văn hóa

và phong tục truyền thống của đất nước Lào nói chung và các dân tộc nói riêng.

Từ khi Luật du lịch năm 2005 ban hành, thì du lịch là một công nghiệp hiện đại,

có sự phát triển nhanh nhất. Năm 2005, khách du lịch quốc tế đến du lịch tại Lào

là 1.095.315 lượt khách, năm 2010 là 2.513.028 lượt khách, năm 2015 là

4.684.429 lượt khách và năm 2016 là 4.239.047 lượt khách. Mang nguồn thu

102

nhập đến 146.770.074 USD năm 2005; 381.669.031 USD năm 2010;

725.365.681 USD năm 2015 và 724.191.957 USD trong năm 2016. Năm 2016

cả nước có 542 khách sạn, 2.452 nhà nghỉ và resort, 2.969 nhà hàng và 365 khu

giải trí [9, tr.9, 21, 26].

Đối với tỉnh Luông Pra Băng Năm 2010, có khách du lịch đến thăm

326.496 lượt khách, trong đó khách du lịch quốc tế 216.864 lượt khách; năm 2015

là 607.584 lượt khách, khách du lịch quốc tế 445.872 lượt khách và giai đoạn năm

2016 - 2017 là 643.319 lượt khách 469.586 lượt khách du lịch quốc tế [9, tr.19].

Thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng trong những năm qua đã phát

triển đáng kể. Sự hình thành và phát triển của TTDL đã tạo nên những bước phát

triển mới đối với thị trường nói chung và ở tỉnh Luông Pra Băng nói riêng.

Các yếu tố cơ bản của TTDL ở tỉnh Luông Pra Băng đang hình thành và

phát triển khá đồng bộ.

Cầu trên TTDL ngày càng tăng, tạo nên mối quan hệ giữa các địa

phương nơi có tài nguyên du lịch, doanh nghiệp kinh doanh du lịch và du

khách là quan hệ cùng có lợi ích. Đối với du khách, du lịch là sự di chuyển và

lưu trú tạm thời ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Du lịch mang lại sự hài

lòng thỏa mãn và vừa ý vì họ được hưởng khoảng thời gian có ích, đáp ứng các

nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi, thăm viếng,...

Cung trên TTDL trên địa bàn phát triển theo hướng chất lượng và đa

dạng hơn. Các hàng hóa du lịch được bán trên thị trường ngày càng nhiều và

mang lại lợi ích không nhỏ. Các đơn vị cung ứng hàng hóa du lịch có nhiều

giải pháp để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần. Hầu hết các doanh

nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nhưng đều cố gắng trong việc đầu tư nâng cao

chất lượng hàng hóa, dịch vụ du lịch, nhất là chất lượng các cơ sở lưu trú

được nâng cao, các dịch vụ bổ sung đều gia tăng. Số lượng điểm du lịch hấp

dẫn du khách ngày càng nhiều. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh

du lịch, kết cấu hạ tầng ngày càng được mở rộng và hoàn thiện.

Giá cả hàng hóa, dịch vụ du lịch từng bước hình thành theo quy luật thị

trường, không có sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan quản lý nhà nước.

103

Theo đánh giá, chất lượng và mức giá các hàng hóa du lịch như hiện nay là

tương đối hấp dẫn đối với du khách. Một số du khách quốc tế nêu lý do họ

chọn Lào nói chung và tỉnh Luông Pra Băng nói riêng là điểm đến nghỉ ngơi

trong tương lai gần là giá cả hàng hóa và dịch vụ thấp. Cạnh tranh đang là

nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường, loại dần yếu tố độc quyền trong

việc chiếm giữ các giá trị tài nguyên, hướng tới thị trường cạnh tranh hoàn

hảo. Các doanh nghiệp liên kết hợp tác để mang lại các hàng hóa, dịch vụ du

lịch tốt nhất cho du khách.

Thứ hai, chất lượng và sức cạnh tranh quốc tế của thị trường du lịch

Giữa các doanh nghiệp, bên cạnh sự liên kết hợp tác, còn có xu hướng

cạnh tranh ngày càng gay gắt do các doanh nghiệp áp dụng những biện pháp

giành khách và tiêu thụ nhiều hàng hóa dịch vụ nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận

tối đa. Các doanh nghiệp không ngừng nâng cao uy tín và danh tiếng của

mình; tạo điều kiện để phục vụ khách thuận tiện nhất, nhanh nhất với chất

lượng cao. Do hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch nên đã thu hút được

nhiều tổ chức, cá nhân đầu tư, nhờ đó mà chất lượng các sản phẩm du lịch

ngày càng cao và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt.

Cạnh tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lữ hành

diễn ra khá phổ biến, các doanh nghiệp lữ hành gửi khách thường hạ giá các sản

phẩm lữ hành khi cần thiết, sau đó ép giá đối với các doanh nghiệp lữ hành

Luông Pra Băng. Do đó, tỷ lệ lợi nhuận của các doanh nghiệp lữ hành trên địa

bàn tỉnh Luông Pra Băng tương đối thấp do bị ép giá từ phía các hãng lữ hành

nước ngoài hay các đại lý. Một doanh nghiệp lữ hành nước ngoài thường gửi

khách cho doanh nghiệp trong nước để có được mức giá tốt nhất. Trong khi đó,

giữa các doanh nghiệp trong nước hầu như không có sự hợp tác thống nhất.

Để cạnh tranh, các doanh nghiệp định giá có chính sách phân biệt theo

mùa, theo số lượng khách và theo đối tượng. Đối với từng đối tượng khách,

được định hướng sử dụng chính sách giá phân biệt cho từng loại sản phẩm du

lịch. Khi định giá dựa trên những căn cứ: chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,

các nhân tố tác động đến sự hình thành giá cả như nhu cầu trên thị trường, khả

104

năng cạnh tranh của doanh nghiệp, giá trị cảm nhận của người tiêu dùng, quan

hệ tỷ giá giữa các doanh nghiệp. Phân biệt giá theo mùa chủ yếu từ các nhà cung

cấp dịch vụ tiến hành giảm giá ngoài thời vụ. Phân biệt giá theo số lượng khách

căn cứ vào giá thành. Các doanh nghiệp có xu hướng bán giá thấp cho các đoàn

khách đông người nhằm khuyến khích họ sử dụng dịch vụ. Các chương trình du

lịch trọn gói được bán với mức giá gộp bao gồm giá của toàn bộ các hàng hóa,

dịch vụ phát sinh trong quá trình du lịch. Thường mức giá này phải nhỏ hơn tổng

mức giá của các hàng hóa, dịch vụ nếu được mua lẻ từng phần hoặc khách du

lịch không có khả năng tính toán chi tiết các yếu tố cấu thành mức giá gộp.

Cạnh tranh bằng chất lượng cũng là phương thức mà các doanh nghiệp

ở Luông Pra Băng đang thực hiện. Những năm qua, lượng vốn của các doanh

nghiệp đầu tư phát triển không nhỏ, đồng thời, họ cũng coi trọng việc nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực với yêu cầu chuyên môn cao, trong đó có đội

ngũ hướng dẫn viên. Từ đó mà chất lượng hàng hóa, dịch vụ được nâng lên,

lượng cầu cũng theo đó mà tăng.

Kinh doanh trên TTDL có lợi thế của tỉnh về tài nguyên du lịch, để

kiểm soát độc quyền đối với nguồn tài nguyên có hạn này, cơ quan quản lý

nhà nước ở Luông Pra Băng thường quy định mức vé vào các điểm du lịch

thống nhất để các doanh nghiệp không tự ý tăng giá vé, đồng thời hình thành

Ban quản lý tại các khu, điểm thu hút đông khách nhằm kiểm soát các hoạt

động trao đổi mua bán, bảo vệ quyền lợi cho du khách và các đại lý du lịch.

Do đặc tính của TTDL nên việc hướng tới thị trường cạnh tranh hoàn hảo là

rất khó, lại càng cần có sự tác động từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.

Chính vì vậy, tại Luông Pra Băng, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát trên thị

trường rất được coi trọng nhằm loại bỏ tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh,

làm xấu đi hình ảnh của điểm đến. Hiện tượng làm tượng giả, chùa giả một

thời ở Luông Pra Băng nay đã không còn.

Thứ ba, đóng góp của thị trường du lịch trong nền kinh tế

- Sự phát triển của TTDL Luông Pra Băng đã bước đầu khai thác được

tiềm năng du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các địa

105

phương. Các tài nguyên du lịch của Luông Pra Băng được khai thác tạo ra các

sản phẩm hàng hóa du lịch ngày càng đa dạng, phong phú. Việc bảo tồn, tôn

tạo các di tích lịch sử văn hóa được chú ý; cảnh quan, môi trường sinh thái

được quan tâm bảo vệ. Khai thác nguồn tài nguyên du lịch thúc đẩy sự phát

triển của các ngành kinh tế, thay đổi một cách cơ bản bộ mặt điểm du lịch.

Lượng khách đến Luông Pra Băng tăng cả về khách du lịch quốc tế và khách

du lịch nội địa.

- Sự phát triển của TTDL thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhờ đầu

tư của Nhà nước, của tỉnh, của các doanh nghiệp trên TTDL vào phát triển kết

cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, vào tôn tạo và phát triển tài

nguyên du lịch nên đã kích thích các ngành kinh tế khác trong tỉnh phát triển.

Cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch ngày càng mở rộng và hoàn thiện đã góp

phần làm thay đổi bộ mặt của nhiều huyện, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành, vùng mạnh mẽ, đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa ở Luông Pra Băng.

- Phát triển TTDL đã tạo ra nhiều việc làm, thúc đẩy phát triển thị

trường lao động. Trong vòng 5 năm, từ năm 2011 - 2015 thu hút gần 96.461

lao động trực tiếp, riêng năm 2015 thu hút gần 65.067 lao động, tăng gấp gần

163 lần so với năm 2011. Đây là mức gia tăng bình quân đạt cao hơn mức

tăng trưởng trên toàn quốc và của nhiều tỉnh. Ngoài ra còn số lao động gián

tiếp tham gia vào hoạt động du lịch trên thị trường.

- Thị trường du lịch trên địa bàn phát triển đã thu hút được nguồn vốn

đầu tư lớn, đặc biệt trong những năm gần đây. Trong những năm qua, nguồn

vốn đầu tư trên thị trường cũng phát triển nhanh. Số lượng các dự án đầu tư,

tổng lượng vốn đầu tư, lĩnh vực đầu tư đều tăng nhanh và ổn định. Một số dự

án ngay từ đầu tư có lợi nhuận. Những nguồn vốn đã được sử dụng đúng mục

đích. Cơ cấu đầu tư chuyển dần sang xây dựng cơ sở lưu trú hiện đại, phát

triển hạ tầng khu du lịch, cơ sở vui chơi giải trí, xúc tiến quảng bá và phát

triển nguồn nhân lực du lịch. Từ năm 2010 nhiều dự án du lịch có quy mô lớn

của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh. Năm 2017 có 94

dự án với tổng vốn đầu tư ước thực hiện đạt 178.791 tỷ LAK.

106

3.3.1.2. Nguyên nhân của những kết quả

Một là, Nhà nước xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật trong lĩnh

vực du lịch, hình thành khung pháp lý cho sự điều tiết đối với TTDL như: Luật

đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư trong nước, Luật du lịch. Tổng Cục du lịch xây

dựng chiến lược phát triển du lịch Lào đến năm 2025 và năm 2030, các chương

trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, các dự án quy hoạch phát

triển vùng, các trung tâm du lịch,v.v... Đối với tỉnh Luông Pra Băng, Chính phủ

đã công nhận là một trong nhiều khu du lịch chuyên đề quốc gia của cả nước.

Những văn bản đó đã tạo điều kiện pháp lý cho Luông Pra Băng xây dựng quy

hoạch phát triển du lịch phù hợp với đặc thù của mình và đưa ra nhiều chủ

trương, chính sách phát triển du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh và môi

trường đầu tư của tỉnh.

Hai là, tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối phát triển kinh tế - xã

hội ở Lào. Sau 30 năm đổi mới và phát triển, tình hình kinh tế, chính trị, xã

hội trong nước và của tỉnh Luông Pra Băng ổn định. Hệ thống giao thông

ngày càng mở rộng, điều kiện đi lại thuận lợi. Bên cạnh đó Nhà nước thực

hiện chế độ làm việc 40 giờ/tuần và tăng các kỳ nghỉ lễ hàng năm,... đã góp

phần tăng lượng cầu không nhỏ cho du lịch nội địa. Nền kinh tế chuyển từ cơ

chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đã kích thích đầu tư, khuyến khích tính sáng

tạo vươn lên làm giàu chính đáng của mọi thành phần kinh tế trong xã hội.

Ba là, trình độ dân trí và thu nhập của mọi người dân ngày càng được

nâng cao. Kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng sống của nhân dân, nguồn thu

nhập tăng dẫn đến việc mở rộng khả năng chi tiêu và kích thích nhu cầu đi du

lịch để giải tỏa tâm lý căng thẳng trong công việc và trốn tránh môi trường sống

quen thuộc hoặc bị ô nhiễm, tiếng ồn. Đây là động cơ quan trọng để nguồn

khách tiềm năng chính thức tham gia TTDL. Khả năng chi trả cho các dịch vụ

du lịch được nâng lên, số lượng khách du lịch nội địa sử dụng các dịch vụ cao

cấp ngày càng tăng. Nhu cầu tham quan, nghiên cứu khám phá thiên nhiên, lịch

sử, du lịch chữa bệnh, nghỉ dưỡng, v.v... dần trở thành nhu cầu thiết yếu.

107

Bốn là, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh

tế đã nhận thấy tiềm năng to lớn, hiệu quả và lợi ích thu được từ kinh doanh

trên TTDL nên đã và đang đầu tư vào kinh doanh du lịch. Các doanh nghiệp

của Luông Pra Băng đã chú trọng tổ chức khai thác nguồn tài nguyên du lịch

của tỉnh để tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng, hấp dẫn du khách.

Hình ảnh của Lào, đất nước con người Lào trên quê hương Luông Pra Băng

ngày càng được nhiều nước trên thế giới và nhân dân trong cả nước biết đến

với phong cảnh đẹp, nhiều lễ hội, phong tục độc đáo, quê hương của làng

nghề truyền thống, người dân giàu lòng mến khách.

Năm là, công tác quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội luôn

được các ngành, các cấp và các địa phương quan tâm đã tạo sự yên tâm và

lòng tin trong du khách cũng như cho các nhà đầu tư.

Sáu là, môi trường quốc tế có nhiều thuận lợi. Thế kỷ XXI, tình hình

thế giới có những biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt chưa từng thấy

về khoa học công nghệ. Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, nhu cầu du lịch

tăng mạnh. Dòng khách du lịch thế giới có xu hướng chuyển từ các trung tâm

du lịch phát triển sang TTDL các nước đang phát triển. Đông Nam Á và khu

vực Đông Á - Thái Bình Dương là TTDL ngày càng thu hút số lượng lớn

khách du lịch đến các điểm du lịch tự nhiên và nền văn hóa truyền thống dân

tộc. Nơi đây trong những năm tới sẽ đón lượng khách du lịch quốc tế lớn.

3.3.2. Những hạn chế trong phát triển thị trường du lịch ở tỉnh

Luông Pra Băng và nguyên nhân

3.3.2.1. Những hạn chế

Thứ nhất, TTDL vẫn ở trình độ phát triển thấp. Cầu của du khách đa

dạng với nhiều đối tượng khác nhau, song chi tiêu của khách thấp dẫn đến

tổng lượng cầu trên thị trường không cao mặc dù số lượng du khách đến ngày

càng tăng. Chủ yếu vẫn là khách nội địa, khách chỉ tập trung vào một số khu

vực như: thành phố Luông Pra Băng, huyện Pạc U, Mường Ngoi, Phu Khun,

Chom Phết,... Từ nguồn thu thấp nên khả năng đóng góp cho ngân sách địa

phương hạn chế.

108

Quy mô và chất lượng cung còn hạn chế, chưa kích thích được cầu. Sự

hợp tác giữa các doanh nghiệp trong khai thác nguồn khách còn hạn chế. Một

số khách sạn, các dịch vụ bổ sung nghèo nạn, đơn điệu, chưa đáp ứng được

nhu cầu của du khách. Chất lượng phương tiện giao thông, bảo đảm an toàn

cho du khách còn bộc lộ nhiều thiếu sót. Đường giao thông vào các điểm du

lịch nhiều đoạn bị hư hỏng nhưng chưa được sửa chữa kịp thời. Hàng hóa,

dịch vụ du lịch trên thị trường chưa phong phú, chất lượng không đồng đều,

khả năng cạnh tranh thấp.

Giá cả và cạnh tranh trên thị trường còn nhiều vấn đề phải xem xét. Giá

cả hình thành theo cơ chế thị trường, vì mục tiêu lợi nhuận có hiện tượng tăng

giá. Vào mùa du lịch, đặc biệt mùa lễ hội, hiện tượng tranh mua, tranh bán với

các loại giá làm người tiêu dùng không xác định được giá trị của hàng hóa.

Cạnh tranh chủ yếu dựa vào các lợi thế truyền thống về lao động và tài

nguyên du lịch.

Quản lý nhà nước đối với TTDL và các hoạt động kinh doanh du lịch

vẫn còn bất cập, cơ chế phối hợp hoạt động lại thiếu đồng bộ, thống nhất nên

quá trình điều hành, chỉ đạo, quản lý khó khăn. Còn thiếu những cơ chế, chính

sách phù hợp với tình hình thực tế phát triển.

Thứ hai, thị trường vẫn chưa thu hút được các dự án đầu tư lớn cho các

sản phẩm du lịch cao cấp, hiệu quả đầu tư chưa cao. Đầu tư tập trung, thiếu

trọng điểm; đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng du lịch, bảo tồn,

tôn tạo tài nguyên du lịch còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu

cầu phát triển du lịch. Công tác xây dựng dự án gọi vốn đầu tư và việc huy

động các thành phần kinh tế tham gia phát triển thị trường còn chậm. Đầu tư

kinh doanh, xây dựng, kiến trúc hạ tầng cơ sở du lịch không theo quy hoạch,

không tuân thủ các thủ tục hành chính và kiến trúc đô thị, chưa nghiên cứu kỹ

quan hệ cung - cầu trên TTDL.

Thứ ba, lao động trên thị trường chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp

vụ một cách cơ bản, có hệ thống. Trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ, khả năng

giao tiếp thích ứng với cơ chế thị trường của người lao động chưa đáp ứng

109

được nhu cầu ngày càng tăng của du khách. Lao động hợp đồng theo thời vụ

thường có trình độ chuyên môn không cao, thiếu tính chuyên nghiệp. Đội ngũ

hướng dẫn viên du lịch trong tỉnh còn ít, tại một số nơi, hướng dẫn viên là trẻ

em tại địa phương không đảm bảo về mặt chất lượng và làm xấu đi hình ảnh

của điểm du lịch.

Thứ tư, công tác phối hợp hoạt động kinh doanh của các ngành, các cấp

và các doanh nghiệp trên TTDL chưa chặt chẽ, đồng bộ. Sự phối hợp hoạt

động kinh doanh du lịch với các ngành kinh tế khác trong tỉnh chưa được

thường xuyên và chặt chẽ cả trong nhận thức và hành động. Nhiều cơ sở,

điểm, khu du lịch đầu tư xây dựng chưa thật sự phối hợp nhịp nhàng giữa du

lịch với các ngành kinh tế khác như bưu chính viễn thông, điện, giao thông,

quân đội, công an,...

Thứ năm, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tại một số nơi

có xu hướng gia tăng. Tại một số địa phương trong tỉnh có tiềm năng du lịch

diễn ra tình trạng phát triển du lịch tự phát chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ.

Một số cơ sở kinh doanh không có giấy phép kinh doanh, kinh doanh sai mục

đích làm thất thoát nguồn thu cho ngân sách, trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà

nước và Chính quyền địa phương.

Hoạt động du lịch ồ ạt đã làm suy thoái tài nguyên du lịch. Tại một số

khu du lịch còn tình trạng nước bị nhiễm bẩn, vứt rác bừa bãi làm ảnh hưởng

đến môi trường tự nhiên. Diện tích rừng suy giảm, đất khu du lịch bị nhân dân

chiếm. Một số động vật quý hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt, núi đá vôi bị khai

thác hàng ngày với khối lượng không nhỏ. Sự bất hợp lý trong khai các tiềm

năng du lịch đôi khi dẫn đến phá vỡ cảnh quan môi trường sinh thái, tác động

không thuận lợi đến tài nguyên du lịch và thế bố trí chiến lược quốc phòng an

ninh của tỉnh.

3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, nền kinh tế Lào nói chung và tỉnh Luông Pra Băng nói riêng có

điểm xuất phát thấp, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập bình quân đầu

người thấp. TTDL Lào mới phát triển, chịu sức ép cạnh tranh khốc liệt trong khu

vực và trên thế giới. Trong những năm qua có nhiều biến động phức tạp tác động

110

tiêu cực đến TTDL Lào, trong đó có Luông Pra Băng như khủng hoảng kinh tế -

tài chính trên phạm vi toàn cầu, sự kiện chính trị vùng vịnh, nạn khủng bố, dịch

bệnh,... ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý du khách ở các thị trường nguồn.

Hai là, chưa đánh giá đúng vai trò của phát triển TTDL. Nhiều nơi chỉ

chú trọng đến vấn đề khai thác tài nguyên để phục vụ lợi ích kinh doanh trước

mắt, chưa quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững, nên hiệu quả kinh tế - xã

hội chưa cao, nhiều khi còn xâm hại tới lợi ích cộng đồng. Thiếu các chủ

trương lớn cho TTDL, chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển

chung của toàn ngành, cũng như sự gắn kết với các thị trường.

Ba là, khi xây dựng quy hoạch chưa tính toán hết sự vận động của thị

trường, nhất là những tác động đa chiều của quá trình hội nhập mở cửa của

nền kinh tế. Thiếu những biện pháp bảo đảm triển khai thực hiện quy hoạch

nên các mục tiêu cụ thể chưa đủ điều kiện để triển khai thực hiện hoặc thực

hiện chưa hiệu quả. Việc quản lý đất đai xây dựng công trình ở các điểm, khu

du lịch, các cơ sở lưu trú, hạ tầng kinh doanh du lịch còn tùy tiện. Việc xác

định trọng tâm, trọng điểm trong quy hoạch chưa rõ, đôi khi dàn trải. Không

tạo ra sản phẩm du lịch theo đúng tiến độ và mục tiêu đã quy hoạch.

Bốn là, trình độ dân trí, đời sống nhân dân vẫn còn thấp và chưa ổn

định. Khách du lịch nội địa phần lớn tự tổ chức các chuyến đi, họ chỉ dành

nguồn chi tiêu chủ yếu của mình cho lưu trú và ăn uống, các hoạt động du lịch

chưa được xã hội hóa cao. Công tác giáo dục tuyên truyền cho nhân dân hiểu

biết về môi trường, xã hội, pháp luật, quốc phòng an ninh cho nhân dân ở một

số địa phương còn đơn điệu, buông lỏng, có nơi hầu như không quan tâm đầu

tư thích đáng.

111

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT

TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG

ĐẾN NĂM 2025 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

4.1. BỐI CẢNH VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU

LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG ĐẾN NĂM 2025 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

4.1.1. Dự báo bối cảnh và xu hướng phát triển thị trường du lịch ở

tỉnh Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030

4.1.1.1. Bối cảnh quốc tế

Bối cảnh quốc tế hiện nay và 10 năm tới vẫn có những diễn biến phức tạp.

Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu du lịch toàn cầu tiếp tục

tăng cùng với sự chuyển dịch của dòng khách du lịch quốc tế đến khu vực Châu

Á - Thái Bình Dương ngày càng gia tăng mở ra những cơ hội phát triển du lịch

của các nước ở khu vực này, trong đó có CHDCND Lào. Lào trở thành thành

viên chính thức của ASEAN năm 1997; là thành viên của WTO năm 2013;

Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) năm 2015 và là thành viên của nhiều tổ chức

du lịch quốc tế quan trọng như: UN-WTO, UNESCO, tổ chức hợp tác quốc tế

Đức (GIZ), Liên minh châu Âu (EU), tổ chức phát triển Hà Lan (SNV),

PATA,v.v...Vị thế của Lào trên trường quốc tế được cải thiện và khẳng định rõ

rệt, đã tạo nhiều điều kiện để du lịch Lào phát triển. Xu hướng phát triển kinh tế

tri thức trên toàn cầu đi liền với việc mở rộng công nghệ cao, đặc biệt công nghệ

thông tin, truyền thông, công nghệ mạng và mở ra nhiều cơ hội cho hoạt động du

lịch toàn cầu.

Năm 2013, CHDCND Lào được chọn là quốc gia được truy cập nhiều

nhất trên thế giới từ Liên minh Du lịch Châu Âu và đã tổ chức lễ trao giải

ngày 9/5/2013 tại thủ đô Viêng Chăn. Vẫn đề này đã tạo ra vai trò mớicho

CHDCND Lào trên trường quốc tế [1, tr.7].

Tuy nhiên, các bất ổn về chính trị, kinh tế cũng như về an ninh giai đoạn

này cũng diễn ra trên diện rộng. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh

112

chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ

khoa học - công nghệ để phát triển, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục

là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược

ngày càng quan trọng... là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn,

có nhiều nhân tố bất ổn. Thế giới phải đối mặt với tác động khó lường của biến

đổi khí hậu, thảm hoạ thiên nhiên ngày một trầm trọng. Vấn đề khủng hoảng tài

chính, khoa học và công nghệ, vấn đề việc làm,v.v... Những yếu tố có tính ảnh

hưởng toàn cầu trên đã tác động đến cầu du lịch và các dòng khách du lịch

quốc tế, tác động cả tích cực và tiêu cực đối với du lịch.

4.1.1.2. Dự báo và xu hướng phát triển thị trường du lịch của nước

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Ngày nay, tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới tăng rất nhanh, đời

sống và thu nhập dân cư ngày càng cao, nhu cầu mọi mặt trong đời sống ngày

một tăng theo, trong đó nhu cầu du lịch trở thành thiết yếu trong đời sống xã hội.

Trong nước, tình hình chính trị, xã hội ổn định, kinh tế vĩ mô tăng

trưởng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường đầu tư

mở rộng quy mô phát triển hướng xuất khẩu, định hướng tái cơ cấu nền kinh

tế, ổn định chính sách vĩ mô, hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện,

uy tín và vị thế chính trị, ngoại giao quốc tế của Lào ngày được tăng cường.

Kết quả tăng trưởng kinh tế liên tục nhiều năm với tốc độ cao đã đưa Lào

thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và từng bước hội nhập với khu vực và quốc

tế. Các thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao đã ngày càng khẳng

định vị thế của Lào trên trường quốc tế. Lào đã đủ khả năng đăng cai và tổ

chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như: SEA GAMES 25, Hội nghị

ASEM lần thứ 9 và các Hội nghị quan trọng khác; Lào chính thức trở thành

thành viên của Tổ chức WTO ngày 2/2/2013, v.v... đã mở ra những cơ hội và

tạo điều kiện cho các ngành kinh tế, trong đó có du lịch tăng trưởng. Năm

1999, cả nước đã tổ chức lễ du lịch toàn quốc là sự kiện trọng đại khẳng định

vị thế, tầm vóc, tiềm lực và những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã

hội của Lào suốt chặng đường lịch sử vừa qua. Dấu mốc quan trọng đó đưa

Lào chuyển mình bước sang thời kỳ mới, phát triển lên tầm cao mới.

113

Tuy nhiên, trong đó nhiều ngành, lĩnh vực chưa có quy hoạch do vậy

tính đồng bộ và hiệu quả thực hiện quy hoạch chưa cao. Nhiều chỉ tiêu phát

triển đặt ra trong quy hoạch với tâm thái lạc quan vượt xa thực tế đạt được vì

vậy không đạt được. Nhiều tác động tiêu cực của quá trình tăng trưởng chưa

dự liệu và chưa đánh giá được là những bài học kinh nghiệm quý báu được rút

ra trong giai đoạn phát triển vừa qua. Năm 2010, nước Lào đã kết thúc thực

hiện chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 2005 - 2010 và

bước sang giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức mới.

Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Lào giai đoạn 2006 - 2010 được

Đảng và Nhà nước chỉ rõ tại chỉ dẫn và chức năng phát triển kinh tế - xã hội 5

năm lần thứ VI đối với các tỉnh miền Bắc: "Là khu có nhiều điều kiện thuận

lợi, phong phú với nông nghiệp - lâm nghiệp, xây nhà máy điện thủy, khoáng

sản, du lịch và với vị trí địa lý gắn với 4 quốc gia lân cận như: Trung Quốc,

Việt Nam, Thái Lan và Myan ma".

Đẩy mạnh việc du lịch sinh thái tại 3 tỉnh như: "tỉnh Luông Năm

Tha, tỉnh Bo Kẹo và tỉnh Xay Nhạ Bu Ly; du lịch lịch sử tại 2 tỉnh

như: Tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Hua Phăn và du lịch văn hóa ở tỉnh

Luông Pra Băng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất thu lợi

nhuận tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo [19, tr.118-119].

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: "Phải tiếp tục các đột phá

để xây dựng cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi đưa đất nước thoát khỏi nước

kém phát triển trong năm 2020 và tiếp tục tiến lên bền vững theo con đường

đi lên chủ nghĩa xã hội". Định hướng chiến lược phát triển cho thập kỷ tới với

chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng, chuyển

dần sang phát triển về chiều sâu có chất lượng, hiệu quả và bền vững. Cụ thể

là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải thông qua 4 đột phá như: (1) Đột

phá về mặt tư duy; (2) Đột phá về phát triển nguồn nhân lực; (3) Đột phá về

việc giải quyết hệ thống cơ chế, chế độ, cải cách thủ tục hành chính Nhà

nước; (4) Đột phá trong việc giải quyết xóa nghèo cho nhân dân với khai thác

114

các nguồn vốn và tạo chính sách đặc biệt, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã

hội có mục tiêu.

Về TTDL, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: "Đẩy mạnh du

lịch sinh thái, văn hóa và lịch sử có nhiều loại hình, đầy màu sắc, trở thành khu

du lịch xanh và tính bền vững với sự tham gia của nhân dân" [20, tr.69; 77].

Nhờ đó, du lịch trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn và đầy cơ hội,

TTDL phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu. Trong những năm tới TTDL quốc tế

có những biến động cơ bản như: khách du lịch có xu hướng đi du lịch ở Châu

Á, họ hướng tới du lịch thiên nhiên, tìm hiểu văn hóa lịch sử,...và lựa chọn

những điểm du lịch được cho là đảm bảo an toàn. Đồng thời, sự tăng trưởng

kinh tế ở khu vực này làm thay đổi thị trường khách toàn cầu. Xu thế phát

triển chủ yếu của TTDL thế giới sẽ như sau:

Một là, quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa thúc đẩy cung và cầu du

lịch đang tăng lên, do đó các doanh nghiệp liên kết nhau mạnh mẽ để cùng tồn

tại trong cạnh tranh và trở thành xu thế phổ biến.

Hai là, sự phát triển của sản phẩm du lịch và phân khúc thị trường ngày

càng đa dạng do có sự tham gia của nhiều quốc gia vào hoạt động du lịch.

Ba là, xúc tiến quảng bá du lịch được mở rộng và có hiệu quả hơn nhờ

sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin đã

tạo khả năng cao trong lựa chọn sản phẩm du lịch, du khách dễ dàng tiếp cận

với người cung cấp dịch vụ du lịch. Đây là hoạt động vô cùng quan trọng

mang tính sống còn đối với doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ du lịch

cũng như với ngành du lịch nói chung và của một đất nước.

Bốn là, nhu cầu của khách đa dạng và phức tạp với sự gia tăng nhu cầu

du lịch về tham quan, tìm hiểu văn hóa lịch sử dân tộc và thám hiểm; du lịch

xanh, du lịch sinh thái, môi trường đang phát triển mạnh tại các quốc gia.

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là một quốc gia nằm ở trung tâm khu

vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, do lợi thế về địa lý, kinh tế - chính trị và tài

nguyên cũng như vai trò, vị trí của Lào trong hợp tác khu vực, TTDL có nhiều

điều kiện thuận lợi để tăng cường phát triển trong xu thế hội nhập của khu

115

vực và thế giới. Trong những năm tới, xu thế phát triển TTDL nội địa có

những điểm nổi bật như sau:

Thứ nhất, TTDL nội địa là thị trường đem lại cho du khách nhiều hứng

thú với những sản phẩm du lịch đặc trưng, giá cả hàng hóa rẻ hơn nhiều so với

các nước, hàng hóa tiêu dùng và mỹ nghệ phong phú, đa dạng hơn.

Thứ hai, do tập trung phát triển TTDL quốc tế chủ động nên thị trường

cung cấp hàng hóa, dịch vụ tăng dẫn đến khả năng cạnh tranh giữa những

người bán ngày càng tăng.

Thứ ba, đây là nơi thu hút nhiều tư bản nước ngoài đầu tư vào xây dựng

các cơ sở lưu trú. Sự tham gia của các hãng du lịch vào TTDL ngày càng tăng

do việc Lào gia nhập WTO. Mối quan hệ hợp tác kinh doanh với các nước

trong phát triển TTDL ngày càng mở rộng.

Như vậy tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ ra:

Tầm nhìn đến năm 2030 của CHDCND Lào tạo ra một con đường

mới để phát triển trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao

theo con đường kinh tế khôn hoan, xanh và bền vững; thu nhập bình

quân đầu người tăng hơn 4 cấp so với năm 2015; có một ngành công

nghiệp trụ cột và có cơ sở hạ tầng kinh tế mạnh mẽ để chuyển thành

công nghiệp hiện đại, kinh tế thị trường theo con đường chủ nghĩa

xã hội đã được thực hiện một cách có hệ thống; đảm bảo an ninh trật

tự xã hội; dân chủ, màu sắc và sự công bằng; Môi trường được bảo

vệ và tài nguyên thiên nhiên được quản lý, sử dụng có hiệu quả và

bền vững; có khả năng liên kết với các nước trong khu vực và thế

giới [21, tr.84].

Thực hiện chiến lược đến năm 2025, tại tại Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ X đã chỉ rõ:

Nâng cao chất lượng sản xuất; sử dụng khoa học công nghệ hiện

đại, sạch sẽ và thân thiện với môi trường, có cơ sở hạ tầng hiện đại

và có thể phê duyệt kết nối với các nước trong khu vực và thế giới.

Sự chuyển đổi công nghiệp tập trung vào ngành công nghiệp trụ cột

116

như: điện lực, nông nghiệp, khoáng sản, du lịch và các ngành khác

như: ngân hàng, viễn thông, dịch vụ,… [21, tr.88].

Năm 2020 tổng GDP có tốc độ tăng trưởng trung bình không giảm

7,5%/năm, trong đó: ngành nông nghiệp tăng lên trung bình 3,2%,

chiếm khoảng 19% của GDP; ngành công nghiệp tăng lên 9,3%, chiếm

32% và ngành dịch vụ tăng lên 8,9%, chiếm 41% của GDP. Thu nhập

bình quân đầu người khoảng 3.190 USD trongnăm 2020 [21, tr.91].

Để thực hiện nội dung tầm nhìn và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước theo đường lối của Đảng. Bộ thông tin văn hòa và Du lịch đã

khẳng định tầm nhìn đến năm 2030 về việc thông tin, văn hóa và du lịch là

"Phát triển việc thông tin, văn hóa và du lịch có chất lượng, nhanh, xa, chuyển

thành ngành công nghiệp hiện đại, an toàn và thúc đẩy sự tham gia của xã hội

để bền vững". Về tầm nhìn và chiến lược phát triển trong việc thông tin, văn

hóa và du lịch CHDCND Lào là:

- Về thông tin: "Phát triển việc thông tin có chất lượng toàn diện, cải

thiện dịch vụ truyền thông cho đa dạng và hiện đại, có thể truy cập đến nguồn

thông tin ở mọi lúc mọi nơi".

- Về văn hóa: "Bảo tồn, bảo vệ, kết vi, khôi phục và nâng cao giá trị của

các giá trị di sản văn hóa của đất nước cho bền vững, cấp nhật và phát triển sản

phẩm văn hóa cho phong phú, góp phấn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước".

- Về du lịch: "Phát triển và đẩy mạnh ngành du lịch trở thành ngành

công nghiệp hiện đại, đầy đủ và là ngành kinh tế hàng trước để góp phần xây

dựng kinh tế - xã hội ở mức độ nhất định".

- Về quản lý: "Phát triển hệ thống quản lý, tổ chức và nguồn nhân lực, đào

tạo cán bộ của các ngành, đảm bảo cả số lượng và chất lượng, lập kế hoạch phát

triển việc thông tin, văn hóa và du lịch có mục đích và khoa học" [1, tr.56- 57].

Trong bối cảnh đất nước với những thành tựu đạt được hơn 30 năm về

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng an ninh. Đảng và Nhà nước

luôn coi phát triển ngành du lịch là hướng chiến lược quan trọng trong đường

lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện

117

đại hóa đất nước. Chiến lược phát triển ngành du lịch Lào xác định: phát triển

du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu

quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy

động tối đa nguồn lực trong nước. Từng bước đưa đất nước trở thành trung

tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2025 du lịch Lào được

xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch khởi sắc và năng động trong khu

vực, đến năm 2030 đưa du lịch Lào trở thành ngành du lịch phát triển hàng

đầu trong khu vực.

4.1.1.3. Nhiệm vụ kinh tế - xã hội và khả năng phát triển thị trường

du lịch của tỉnh Luông Pra Băng

Trong xu thế chung của TTDL thế giới, của khu vực và nội địa, TTDL

Luông Pra Băng có nhiều cơ hội do nhu cầu du lịch tăng mạnh, song cũng

đứng trước không ít thách thức do khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Dự báo

đến năm 2025, Luông Pra Băng đón khoảng 760.000 lượt khách/năm, trong

đó khách quốc tế chiếm khoảng 73%. Để đáp ứng được yêu cầu của thị

trường đòi hỏi phải xây dựng được hệ các quan điểm và phương hướng khoa

học công nghệ phù hợp.

Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến quá trình đầu

tư, thúc đẩy cung - cầu trên TTDL. Sự phát triển của các ngành kinh tế có vai

trò quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh du lịch phát triển. Đồng thời sự

phát triển của kinh tế du lịch sẽ góp phần tiêu thụ khối lượng lớn các sản

phẩm của những ngành kinh tế, tạo nên sự hoạt động mạnh của thị trường nói

chung, trong đó có TTDL. Cùng với sự phát triển của kinh tế, lĩnh vực văn

hóa - xã hội ở tỉnh Luông Pra Băng phải có những bước chuyển biến tích cực.

Công tác văn hóa thông tin có nhiều hoạt động thiết thực góp phần nâng cao

dân trí và đời sống tinh thần cho nhân dân. Giáo dục và đào tạo phát triển cả

về số lượng và chất lượng, tỷ lệ học sinh đã tốt nghiệp và đại học cao, công

tác y tế có nhiều tiến bộ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được cải thiện.

Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định.

Những khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng tại các khu, điểm

công nghiệp, du lịch đang từng bước được tháo gỡ; môi trường đầu tư được

118

cải thiện. Việc triển khai cải cách hành chính, chống tham nhũng thời gian

qua được đẩy mạnh và có nhiều kết quả. Đó là môi trường tốt thúc đẩy các

hoạt động sản xuất kinh doanh, các quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển. Quá

trình phát triển kinh tế - xã hội của Luông Pra Băng cũng đồng thời là quá

trình ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ trong

các ngành kinh tế, nhân tố trực tiếp góp phần làm nảy sinh nhu cầu và hoạt

động du lịch. Mức thu nhập của mỗi người lao động, đời sống vật chất, tinh

thần không ngừng nâng cao là tiền đề tăng thêm khả năng hiện thực để con

người tham gia hoạt động du lịch, tạo cho TTDL có bước phát triển.

Các hệ thống kết cấu hạ tầng phải đồng bộ để đón tiếp du khách của

mọi quốc gia, mọi địa phương. Đây là điều kiện quan trọng để tạo nên giá trị

sản phẩm và phát triển TTDL của tỉnh Luông Pra Băng trong những năm tới.

4.1.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển thị trường du lịch tỉnh

Luông Pra Băng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030

4.1.2.1. Mục tiêu phát triển

Từ thực tiễn và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của

tỉnh, nghiên cứu sinh xác định mục tiêu đến năm 2025, du lịch tỉnh Luông Pra

Băng cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ

thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch

chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc

văn hoá, thân thiện với môi trường và cạnh tranh được với các nước trong khu

vực và thế giới. Phấn đấu đến năm 2025, Luông Pra Băng trở thành một tỉnh có

ngành du lịch phát triển, là điểm đến hấp dẫn, có đẳng cấp trong nước và khu vực.

- Phát triển TTDL phù hợp với mục tiêu phát triển du lịch và đường lối

phát triển kinh tế - xã hội

Trong chiến lược phát triển du lịch của Lào cũng như trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2025 đều có chủ trương phát triển

du lịch Luông Pra Băng tương xứng với tiềm năng sẵn có để trở thành ngành

kinh tế mũi nhọn. Sự phát triển của TTDL phải hướng tới mục tiêu phát triển

du lịch và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Luông Pra Băng:

119

Thứ nhất: phát triển ngành kinh tế du lịch năng động, đưa du lịch của

tỉnh Luông Pra Băng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Du lịch Luông Pra Băng không những phát

triển mạnh trong thị trường nội địa mà còn là một trong những điểm đến hấp

dẫn của đất nước Lào trong con mắt bạn bè quốc tế. Phát triển du lịch Luông

Pra Băng tương xứng với vị thế trong ngành du lịch Lào và trong tỉnh.

Thứ hai: đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội trong phát triển TTDL, tạo

nhân tố kích thích sản xuất kinh doanh các ngành liên quan như: mạng lưới

điện, nước, ngân hàng, giao thông vận tải và các dịch vụ công khác của xã

hội; tạo thêm công ăn việc làm; phát triển TTDL sinh thái, cảnh quan, văn hóa

lễ hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đóng góp ngày

càng nhiều vào thu nhập của địa phương và góp phần xóa đói giảm nghèo.

Thứ ba: phát triển TTDL gắn với thúc đẩy phân công lao động xã hội,

đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách trong nước và quốc tế. Các khu,

các điểm du lịch trong tỉnh tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp. Đóng

góp một phần kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, phấn đấu đến năm

2025 tỷ trọng dịch vụ của tỉnh đạt khoảng 50% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Thứ tư: TTDL là bộ phận của nền kinh tế thị trường, phát triển TTDL

phải đặt trong mối quan hệ và phát triển đồng bộ với các thị trường khác như:

thị trường tài chính, thị trường bất động sản và thị trường lao động.

- Phát triển TTDL phải đảm bảo bền vững và hiệu quả; Trước hết là

bền vững về môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội. Phát triển TTDL phải

đồng thời đạt được hiệu quả và nhiều mặt kinh tế, chính trị, quốc phòng an

ninh, văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc. Gắn liền phát triển TTDL với tăng trưởng kinh tế, thực

hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

Đối với tỉnh Luông Pra Băng, phát triển TTDL bền vững nhằm khai

thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch sẵn

có, kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường sống, tôn

120

tạo và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, ngăn chặn kịp thời những tác động

tiêu cực từ phát triển TTDL đến môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

Quá trình khai thác các nguồn lực để phát triển TTDL trong tỉnh không

làm biến dạng môi trường. Phát triển TTDL theo nguyên tắc bảo vệ và phát

huy truyền thống bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa

nhân loại, tránh du nhập những văn hóa phẩm độc hại,... Từ đó, trong mục

tiêu phát triển TTDL, Luông Pra Băng đã xác định tầm nhìn phát triển và đẩy

mạnh du lịch tỉnh Luông Pra Băng là:

Bảo vệ Thành phố Di sản Thế giới Luông Pra Băng để bền vững và

phát triển giữ giá trị, thúc đẩy văn hóa địa phương, bảo vệ môi trường

và đa dạng sinh học, tạo Luông Pra Băng trở thành trung tâm điểm đến

du lịch của Lào và khu vực, cùng với việc thúc đẩy nền kinh tế của

tỉnh có sự tăng trưởng liên tục, tạo công ăn việc làm cho người dân địa

phương và mang mầu sắc sống động vào xã hội [26, tr.120].

Phát triển TTDL đạt hiệu quả cao về kinh tế gắn với mục tiêu xây

dựng, duy trì nền văn hóa truyền thống, bảo tồn cũng như khai thác hiệu quả

các nguồn lực khác; gắn liền với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

của người dân trong tỉnh. Tạo môi trường xã hội thân thiện cho hoạt động du

lịch, đặc biệt là môi trường văn hoá, xã hội đối với khách du lịch quốc tế.

Thông qua hoạt động du lịch trên thị trường tăng cường giao lưu giữa các nền

văn hóa đối với nền văn hóa dân tộc.

- Phát triển TTDL gắn với hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế

tri thức: Hiện nay tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới tăng rất nhanh. Tri

thức của những ngành công nghệ cao trở thành yếu tố quyết định nhất đối với

sự phát triển, dẫn đến sự thay đổi toàn diện trong các quan hệ chính trị, kinh

tế và văn hóa - xã hội. Quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa thúc đẩy cung

và cầu du lịch đang tăng lên, do đó các doanh nghiệp liên kết nhau mạnh mẽ

để cùng tồn tại. Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển. Chi phí

vận tải liên lạc càng giảm đi thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng

tăng, thương mại toàn cầu có khả năng phát triển.

121

Sức ép của thị trường toàn cầu sẽ tác động đến thể chế kinh tế - xã hội

của quốc gia, buộc các thể chế phải thích ứng với thể chế thị trường toàn cầu.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang tác

động mạnh mẽ tới thị trường quốc gia dân tộc. TTDL Luông Pra Băng đang

đối mặt với những cơ hội và không ít thách thức đòi hỏi phải xây dựng được

chiến lược hội nhập có tính khả thi cao, gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Đây là quan điểm phù hợp với xu thế chung của thời đại và cũng là yêu đặt ra

đối với nền kinh tế thị trường ở Lào hiện nay.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong phát

triển TTDL Luông Pra Băng: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Lào hiện nay được xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa các loại hình và

hình thức sở hữu. Phát triển TTDL Luông Pra Băng gắn với việc đa dạng hóa

sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế, bố trí hợp lý phạm vi hoạt động

của các loại hình doanh nghiệp, đồng thời xây dựng và thực hiện cơ chế chính

sách kinh tế theo hướng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các loại

hình doanh nghiệp trên địa bàn.

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là nơi làm giàu cho nền

kinh tế. Sứ mệnh của họ là sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Trên TTDL,

mỗi loại hình doanh nghiệp đóng vai trò nhất định trong quá trình phát triển

nền kinh tế. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, cần nhấn

mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

Trong những năm qua, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

khác đã đầu tư lượng vốn không nhỏ trên thị trường, nhất là trong kinh doanh

lữ hành, lưu trú, ăn uống,v.v... Sự hoạt động của các doanh nghiệp này đã đáp

ứng nhu cầu của du khách, đem lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh. Quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế

trong phát triển TTDL, Luông Pra Băng đang có những chủ trương, chính

sách nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế để phát

triển DL thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có

hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử.

122

- Phát triển TTDL phải gắn với việc bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự

an toàn xã hội: Luông Pra Băng nằm ở Bắc Lào, là cửa ngõ của các tỉnh miền

Bắc, trong thế bố trí chiến lược quân sự, quốc phòng an ninh của đất nước.

Luông Pra Băng có hệ thống đường bộ, đường hàng không, đường sông nối qua

các tỉnh miền Bắc và thủ đô Viêng Chăn. Địa bàn tỉnh Luông Pra Băng phần lớn

là đồng núi cao, vùng rừng núi, ít đồng bằng, vùng trung du. Vùng rừng núi có

nhiều điều kiện để xây dựng căn cứ, kho tàng và nơi tụ quân, phát triển lực

lượng, có hậu cứ tránh ẩn tốt. Trong thời kỳ chiến tranh, đây cũng là vùng chiến

khu của cách mạng. Với địa thế như vậy, tạo cho tỉnh Luông Pra Băng có vị trí

chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng an

ninh như: Chiến tranh Năm Bạc, Phu Khun, Pạc Xeng, Mương Ngoi,...

Quan điểm phát triển TTDL Luông Pra Băng gắn với việc bảo đảm an

ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, vấn đề là mở rộng thị trường, nâng cao

khả năng chiếm lĩnh TTDL, thúc đẩy quan hệ hàng hóa - tiền tệ phải không

làm ảnh hưởng đến chiến lược quốc phòng an ninh. Phải có sự kết hợp giữa

kinh tế với quốc phòng an ninh. Việc bảo vệ công trình quốc phòng và khu

quân sự phải gắn liền với việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, văn hóa và di

tích lịch sử, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân,

đồng thời phải giữ vững trật tự an toàn xã hội.

4.1.2.2. Phương hướng phát triển

Từ những yếu tố tác động tới TTDL, trong những năm tới và đến năm

2025, TTDL Luông Pra Băng phát triển theo những phương hướng sau:

- Phát triển TTDL theo không gian lãnh thổ, khai thác tối đa lợi thế

từng vùng: Luông Pra Băng gắn liền với sự phát triển không gian kinh tế - xã

hội của tỉnh và mối quan hệ trong phát triển với các lãnh thổ lân cận. TTDL tổ

chức theo không gian lãnh thổ Luông Pra Băng được đưa trên các điều kiện

về tài nguyên du lịch để tạo ra các thị trường chuyên môn hóa mang tính đặc

thù của tình hình theo vùng, theo cụm du lịch chính như:

+ Vùng 4 huyện Bắc gồm có: huyện Năm Bạc; Mương Ngoi; Viêng

khăm và huyện Phôn Thong. Xác định và tập trung vào du lịch sinh thái và

một số du lịch văn hóa và lịch sử.

123

+ Vùng 5 huyện Trung gồm có: thành phố Luông Pra Băng; huyện Pạc

U; Pạc Xeng; Phôn Xay; Chom Phết. Tập trung phát triển các sản phẩm chủ yếu

như: dịch vụ vui chơi giải trí, thương mại, văn hóa, du lịch làng nghề,... Phương

hướng cự thể là: thành phố Luông Pra Băng xác định là trung tâm du lịch của tỉnh,

tập trung phát triển các sản phẩm du lịch mua sắm, trung tâm hội thảo, hội nghị,

du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch vui chơi giải trí, v.v... Huyện Chom Phết

và huyện Pạc U, tập trung phát triển du lịch văn hóa; du lịch sinh thái và các du

lịch lịch sử như: các làng nghề, các chùa, các khu du lịch lịch sử và du lịch sinh

thái,…tập trung khai thác các tuyến du lịch trên sông Me Khong. Huyện Pạc

Xeng và huyện Phôn Xay, tập trung khai thác và phát triển khu du lịch văn hóa và

du lịch sinh thái, tập trung phát triển khu vui chơi giải trí, các điểm có tài nguyên

nổi bật cần tập trung phát triển du lịch như: các làng nghề, các chùa, các thác, các

hang và sông suối và đi bộ qua các rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.

+ Vùng 3 huyện Nam gồm có: huyện Xiêng Ngân; Mương Nan; Phu Khun.

Tập trung phát triển du lịch sinh thái; du lịch văn hóa và lịch sử,… tập trung khai

thác các tuyến du lịch theo đường quốc lộ số 13 là trục giao thông chính nối với

thủ đô Viêng Chăn và quốc lộ số 8 nối liền với tỉnh Xay Nhạ Bu Ly, Thái Lan.

- Phát triển TTDL theo từng loại sản phẩm đặc trưng của tỉnh

Thị trường du lịch thường có định hướng tài nguyên lớn, sản phẩm chủ

yếu được xây dựng dựa trên nguồn tài nguyên. Căn cứ vào tiềm năng, thế

mạnh tài nguyên du lịch, xu hướng của đầu tư du lịch, phương hướng phát

triển TTDL Luông Pra Băng theo từng loại sản phẩm đặc trưng sau:

Một là, TTDL văn hóa - lịch sử: Bên cạnh việc tôn tạo, củng cố những

sản phẩm hiện có, tập trung phát triển sản phẩm mới để thu hút khách, nhất là

khách quốc tế. Chủ yếu trên TTDL là dịch vụ du lịch lễ hội, du lịch văn hóa,

tham quan di tích lịch sử văn hóa. Các điểm du lịch sẽ được kết nối và tổ chức

hoạt động du lịch một cách hợp lý mang lại cho sản phẩm du lịch đa dạng và

mức độ hấp dẫn cho khách.

Hai là, TTDL sinh thái: Phát triển TTDL này là phương hướng phát

triển phù hợp với quan điểm bền vững với các sản phẩm chủ yếu là du lịch tự

124

nhiên, nghỉ dưỡng: khu du lịch Thác Koảng Si, Sé (huyện Luông Pra Băng),

thác Ka Chăm (Xiêng Ngân), thác Hiền (huyện Nan), thác Hói Khủa (huyện

Chom Phết), thác Lè, thác Bàng (huyện Năm Bặc),...

Ba là, TTDL thể thao và vui chơi giải trí: Phát triển TTDL này, phương

hướng tập trung mở rộng nhằm đa dạng hóa sản phẩm và giảm tính mùa vụ,

thu hút khách quốc tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sản phẩm chủ yếu trên

thị trường là các loại hình thể thao cao cấp như: sơn golf, đua thuyền; các khu

vui chơi giải trí hiện đại,v.v...

- Phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành trong phát triển TTDL.

Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường là yêu

cầu của chính bản thân các hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa dịch vụ du

lịch. TTDL có phát triển và thu được hiệu quả kinh tế - xã hội hay không là

nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế. Coi phát

triển du lịch, mở rộng TTDL là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các đoàn

thể và toàn xã hội do tính chất liên quan từ hoạch định chính sách đến quy

hoạch, thực thi dự án cụ thể. Trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện

quy hoạch, kế hoạch cần có sự tham gia của các thành phần có liên quan.

Đòi hỏi phải xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành; xây dựng mục tiêu hành

động chung để giải quyết có hiệu quả những vấn đề về quản lý phát triển

TTDL như: xúc tiến quảng bá, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; đảm bảo

công tác an ninh trật tự cho du khách và kiểm soát các tệ nạn xã hội,...

- Phát triển TTDL nội địa gắn với TTDL quốc tế, đa dạng hóa các yếu tố

nguồn lực. TTDL mang tính toàn cầu hóa cao. Phát triển TTDL nội địa song

song với hợp tác, mở rộng TTDL quốc tế là phương hướng tất yếu khách quan

nhưng phải luôn giữ đúng nguyên tắc hoạt động kinh tế đối ngoại. Vị trí địa lý,

điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa, con người,... tất cả đều làm cho Luông Pra

Băng nổi bật là tỉnh có tiềm năng lớn về nhiều sản phẩm du lịch như: du lịch lễ

hội, sinh thái, thắng cảnh và du lịch làng nghề,... Các sản phẩm du lịch này đều

rất thích hợp và tiện lợi cho khách hàng trong và ngoài nước. Nếu thu hút được

nguồn lực trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển thì sẽ thu được hiệu quả

rất lớn.

125

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế về du lịch đối với Luông Pra Băng

cũng là quá trình khai thông TTDL bên ngoài, trước hết là thị trường các nước

trong khu vực và trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài cùng với công nghệ

mới, tri thức mới, ý tưởng mới,… Đó chính là cơ sở cho sự phát triển TTDL

trong nền kinh tế hiện đại. Thị trường càng mở rộng càng lớn, đặc biệt trong

điều kiện dung lượng thị trường nước Lào còn đang nhỏ hẹp.

- Phát triển TTDL theo từng giai đoạn. Trong giai đoạn năm 2015 -

2020: Cầu trên TTDL tăng trưởng trung bình do quá trình đầu tư vào cơ

sở hạ tầng và xây dựng các khu, điểm du lịch lớn đang trong thời gian

thực hiện, nguồn tài nguyên du lịch bắt đầu được quan tâm khai thác toàn

diện lớn. Trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng sẽ xây dựng sản phẩm mới có

giá trị lớn là khu du lịch di sản văn hóa thế giới thành phố Luông Pra

Băng, du lịch sinh thái, lịch sử, văn hóa huyện Xiêng Ngân, Mương Ngoi,

Chom Phết, Pạc U, Phu Khun,... có quy mô lớn do một công ty hoặc thuộc

các đối tượng, thuộc các thành phần kinh tế tập hợp lại xây dựng khai thác

và quản lý.

Giai đoạn năm 2020 - 2025: phát triển mạnh về TTDL, cầu du lịch tăng

trưởng đột biến, cơ cấu khách du lịch đa dạng, phức tạp; cung cơ sở vật chất,

hạ tầng du lịch tăng nhanh. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch mạnh theo

hướng dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp. Luông Pra Băng trở thành trung tâm

nhận khách phát triển song song cùng thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn và

các tỉnh khác. Các điểm có thế mạnh về nguồn tài nguyên đã được khai thác

triệt để, tạo ra nhiều sản phẩm mới. chất lượng cao. Nguồn vốn đầu tư trên

TTDL ngày càng tăng thu hút các tập đoàn du lịch quốc tế đặt trụ sở tại Luông

Pra Băng. Mức độ cạnh tranh trên thị trường càng trở nên gay gắt.

4.2. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU

LỊCH Ở TỈNH LUÔNG PRA BĂNG

Để tiếp tục đẩy nhanh sự phát triển của TTDL trong những năm trước

mắt và đến năm 2025 theo quan điểm, phương hướng và các mục tiêu trên,

cần tập trung vào những giải pháp sau:

126

4.2.1. Mở rộng đầu tư phát triển thị trường du lịch

Ngoài yếu tố tiềm năng du lịch, trình độ quản lý thì hiệu quả phát triển

TTDL phụ thuộc rất lớn nguồn vốn đầu tư, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật du lịch và nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng. Để xây dựng

được kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển TTDL, cần tập

trung vào những vấn đề cơ bản như sau:

Một là, đầu tư phát triển TTDL phải kết hợp việc sử dụng nguồn vốn

đầu tư từ ngân sách Nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước

ngoài và huy động nguồn lực trong nhân dân. Thực hiện phương châm xã hội

hóa trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư nhằm khai thác các thế mạnh

sẵn có, nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phát triển

TTDL. Cần huy động tối đa các nguồn vốn trong nước và nước ngoài.

- Nguồn vốn trong nước, trước hết là đầu tư từ ngân sách Nhà nước nên

tập trung ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại các trọng điểm phát triển

du lịch, các khu du lịch tổng hợp, khu du lịch chuyên đề và các điểm du lịch

tiềm năng; bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước xếp

hạng, phát triển công tác tuyên truyền, quảng bá xúc tiến phát triển du lịch và

đào tạo nghề. Tỉnh Luông Pra Băng cần có chính sách và giải pháp nhằm tập

trung đầu tư từ nguồn vốn ngân sách của tỉnh theo hướng đồng bộ, có trọng

tâm, trọng điểm. Đồng thời tranh thủ các nguồn vốn từ chương trình hành

động quốc gia về du lịch để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, quảng bá, phát triển

nguồn nhân lực.

Đối với vốn đầu tư của doanh nghiệp và trong dân cư, cần hình thành

huy động vốn dưới hình thức cổ phần thông qua thị trường chứng khoán, tăng

cường góp phần vốn liên doanh, liên kết của các nhà đầu tư trên cơ sở Luật

đầu tư để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống dịch vụ như:

khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng cao cấp và các phương tiện vận chuyển. Cần

phải coi đây là nguồn vốn ưu tiên cho chiến lược phát triển lâu dài, nhất là

vốn của các doanh nghiệp nhà nước.

127

- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài, coi trọng huy động vốn viện trợ phát

triển chính thức (ODA) và vốn vay các ngân hàng nước ngoài của các nhà cung

cấp vốn đang chiếm tỷ trọng lớn ở Lào như: Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan,

ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB),... Khi tiếp nhận

vốn phải cân nhắc thận trọng từng điều khoản để tránh bị lệ thuộc. Khi sử dụng

nguồn vốn cần chú ý sử dụng hệ thống quản lý chặt chẽ của cơ quan tài chính,

cơ quan kiểm toán. Khai thác nguồn vốn từ các chương trình hợp tác quốc tế

của Nhà nước để tăng cường đầu tư cho hoạt động du lịch của tỉnh. Đối với

nguồn vốn FDI, thực hiện liên doanh trong điều kiện chúng ta thiếu vốn, thiếu

kinh nghiệm quản lý.

Hai là, đầu tư có trọng điểm, xây dựng danh mục các dự án và kêu gọi

vốn đầu tư.

- Tập trung kêu gọi và thu hút đầu tư vào các dự án ưu tiên của tỉnh về

phát triển du lịch, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, có sức hút cao với các

nhà đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài. Trong danh mục các dự án đầu tư này cần

xác lập những lĩnh vực đầu tư như: đầu tư cho các công trình dịch vụ du lịch, cơ

sở lưu trú, khu vui chơi giải trí, trung tâm thương mại, xử lý môi trường, tôn tạo

các di tích văn hóa lịch sử và các lễ hội truyền thống,v.v... Kết hợp đầu tư nâng

cấp các điểm tham quan du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch với đầu tư cho

tuyên truyền, quảng bá và đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Công bố, giới thiệu rộng rãi, chủ động tìm mọi nhà đầu tư, nhất là các

nhà đầu tư chiến lược vào thực hiện các dự án tại các khu du lịch như: khu di

tích lịch sử văn hóa, du lịch sinh thái và làng nghề thủ công truyền thống có

giá trị cao được xác định là có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển du

lịch của tỉnh như khu du lịch nằm ở các huyện trong tỉnh.

- Đầu tư xây dựng phát triển sản phẩm du lịch chủ đạo trên TTDL của

tỉnh: nâng cao cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ, tôn tạo cảnh quan môi trường

tại các điểm đang khai thác như: ở thành phố Luông Pra Băng, huyện Phu

Khun, Xiêng Ngân, Chom Phết, Mương Ngoi, v.v... Đây là quá trình thực hiện

các dự án khu du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và vui chơi giải trí. Dự án khu

128

du lịch cao cấp, khu nghỉ mát là tập trung ở khu thành phố Luông Pra Băng,

huyện Phu Khun, Chom Phết và Mương Ngoi.

Tiếp tục đầu tư xây dựng các điểm làng nghề gắn với phát triển du lịch

là ở các huyện thành phố như: thành phố Luông Pra Băng, huyện Chom Phết,

Pak U và Mương Ngoi. Sau đó nhân rộng ra các làng nghề còn lại đã được Ủy

ban nhân dân tỉnh phê duyệt nhằm tạo thêm các sản phẩm du lịch hấp dẫn với

khách du lịch, vừa đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ hàng thủ công truyền thống.

Ba là, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua các chính sách

khuyến khích đầu tư. Xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư như đảm

bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư, ưu tiên vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng, phát triển du lịch để các nhà đầu tư đánh giá đúng thị trường hiện tại và thị

trường tiềm năng và xây dựng hệ thống cung cấp thông tin. Tạo sự bình đẳng

giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa tư nhân với Nhà nước. Có cơ

chế khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng hạ tầng đến các khu du lịch,

sau đó hoàn trả vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thu được của hoạt động kinh

doanh du lịch hoặc nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất.

Khuyến khích các nhà ngân hàng như: ngân hàng Thương mại quốc tế,

phát triển Nông nghiệp, Phạt thạ nà Lào…và các tổ chức tín dụng tạo thuận lợi

cho các nhà đầu tư vay vốn nhằm triển khai các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh

Luông Pra Băng với lãi suất ưu đãi, thủ tục nhanh gọn để các doanh nghiệp có

vốn kịp thời xây dựng, nâng cấp và sửa chữa các hạng mục công trình. Vốn vay

từ các ngân hàng có thể đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo ra

sản phẩm du lịch có chất lượng cao. Khi có điều kiện, nên thành lập ngân hàng

đầu tư phát triển du lịch của tỉnh nhằm thu hút vốn một cách nhanh chóng,

hiệu quả nhất.

4.2.2. Hoàn thiện môi trường, điều kiện pháp lý và chính sách phát

triển thị trường du lịch

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong phát triển TTDL của tỉnh

Luông Pra Băng bên cạnh việc đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ du lịch.

Để có những giải pháp tốt, có cơ sở khoa học trong việc xây dựng các chiến

129

lược liên kết thị trường, cần nghiên cứu, phân tích đánh giá các thị trường

hiện tại và thị trường tiềm năng. Với vị trí và vai trò trung chuyển của thị

trường khách du lịch Luông Pra Băng không thể tách rời thị trường khách cả

trong nước và quốc tế, cho nên phải gắn thị trường đặc thù của Luông Pra

Băng với thị trường quốc gia và quốc tế phù hợp với quy hoạch, chính sách

tổng thể phát triển ngành.

Một là, xây dựng chính sách về phát triển TTDL. Nghiên cứu TTDL là

nghiên cứu những khuynh hướng chính về sự thay đổi của cung và cầu, sự tác

động giữa các loại TTDL, nghiên cứu cụ thể về khách du lịch theo vùng, khu

vực, loại cơ sở du lịch và những nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ du lịch,... Trên

cơ sở đó nhằm vững số lượng, cơ cấu của cầu du lịch để kịp thời đáp ứng và

có chính sách về thị trường. Nghiên cứu xác lập cơ sở và thành phần của

nguồn khách du lịch mà họ có khả năng tham gia thị trường ngoài thời vụ

chính, từ đó để tạo ra cung, tăng cường cơ sở vật chất và các dịch vụ cần thiết

cho các thời điểm ngoài thời vụ. Tập trung phát triển những thị trường có lãi

nhất trong kinh doanh du lịch đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài để vạch ra

kế hoạch kinh doanh trên một thị trường cụ thể với sức bán ra cao nhất và có

hiệu quả nhất. Tập trung phát triển thị trường đặc thù của Luông Pra Băng:

TTDL văn hóa, TTDL lịch sử, TTDL sinh thái, thị trường vui chơi giải trí và

thể thao.

Hai là, đẩy mạnh hợp tác liên kết trong phát triển TTDL. Trong thời

gian tới, vấn đề liên kết hợp tác để phát triển và khai thác tiềm năng du lịch

giữa các địa phương, vùng miền trên cả nước và với các nước trong khu vực

và thế giới phải được đẩy mạnh. Quá trình hoạch định chiến lược phát triển,

vấn đề quy hoạch tổ chức không gian, định hướng sản phẩm cho TTDL

Luông Pra Băng phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các tỉnh khác, đặc

biệt là TTDL thủ đô Viêng Chăn, huyện Văng Viêng (tỉnh Viêng Chăn), Xay

Nhạ Bu Ly, Hua Phăn và TTDL các tỉnh trong nước và vùng phụ cận. Cần

chủ động trong xây dựng cơ chế, chiến lược hợp tác phát triển TTDL với

vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Điều này đòi hỏi phải có sự điều phối, hỗ

130

trợ và giám sát hợp lý nhằm thúc đẩy kinh tế du lịch, tăng cường sự liên kết

thị trường giữa các tỉnh. Đây là tiền đề triển khai các dự án, xây dựng kết cấu

hạ tầng, phân phối lợi ích đầu tư, trao đổi thông tin du lịch, đồng thời ngăn

ngừa các tác động xấu có thể gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường kinh

doanh du lịch. Hợp tác phát triển TTDL trong vùng kinh tế trọng điểm miền

Bắc, cần thiết lập chính sách ưu đãi đầu tư trong vùng, cùng kế hoạch tổng thể

xúc tiến du lịch chung thông qua các hình thức quảng bá tuyên truyền, công

nghệ thông tin hiện đại. Liên kết xây dựng, phát triển các tour du lịch, nối

tuyến với các tỉnh như các tour du lịch trong vùng thủ đô Viêng Chăn, Văng

Viêng (tỉnh Viêng Chăn), tour du lịch sang các tỉnh miền Bắc, miền Trung và

miền Nam và các nước trong khu vực và thế giới. Qua đó, thu hút khách du

lịch, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tiến tới mở rộng thị trường thu hút

khách du lịch các tỉnh miền Nam và miền Trung.

Coi trọng hợp tác và liên kết phát triển thị trường trong nước và thị

trường nước ngoài; mở rộng tiếp cận thị trường khách du lịch quốc tế. Tập

trung khai thác thị trường khách du lịch có thu nhập cao như: thị trường thể

thao, TTDL vui chơi giải trí, TTDL sinh thái. Phát triển TTDL quốc tế, trong

đó tập trung vào thị trường Đông Nam Á, Châu Âu,... Khai thác có hiệu quả

thị trường khách du lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam, Thái Lan,...

Ba là, xây dựng chiến lược về hệ thống phân phối sản phẩm, hình thành

mạng lưới các doanh nghiệp lữ hành trong tỉnh tập trung theo từng loại hình

sản phẩm. Hình thành các mối quan hệ với các doanh nghiệp du lịch lớn của

thủ đô Viêng Chăn, các tỉnh trong nước và trong khu vực là đầu mối giữ

khách chính của Luông Pra Băng. Đặc biệt chú trọng phát triển TTDL quốc

tế, quan hệ với các công ty gửi khách du lịch quốc tế lớn. Đối với các sản

phẩm du lịch và TTDL được định hướng, cần tập trung quảng cáo thích hợp

và thiết lập quan hệ với các công ty lữ hành chuyên đề như công ty du lịch

chuyên đề văn hóa lễ hội, công ty du lịch chuyên đề du lịch xanh,... Gắn với

việc quảng bá thu hút các cơ quan, trường học, các đoàn thể để thu hút các thị

131

trường khách du lịch tự do thuộc các nhóm thị trường trọng điểm, thị trường

mục tiêu.

4.2.3. Đẩy nhanh việc nâng cấp và mở rộng hệ thống kết cấu hạ

tầng cho phát triển thị trường du lịch

Nằm cạnh thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Luông Pra Băng đã được Nhà nước

rất quan tâm đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các cơ sở kinh tế, trung

tâm giáo dục đào tạo của vùng. Đại học Su Pha Nu Vông và các trường

thành viên với cơ sở vật chất và các trang thiết bị rộng lớn, tương đối đồng

bộ; xây dựng hệ thống giao thông vận tải. Đối với việc tăng cường đầu tư

cho kết cấu hạ tầng cho phát triển TTDL theo đúng hướng phát triển TTDL

và chiến lược phát triển du lịch đến năm 2025 của tỉnh, của các vùng du

lịch miền Bắc của Lào. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

như: hệ thống giao thông, điện, nước, bưu điện, y tế và các dịch vụ công

khác. Chú ý đầu tư vào những điểm giầu tiềm năng, có khả năng phát triển

DL cao, quy mô lớn và có thể mở rộng trong tương lai. Từ nay đến năm

2025 tập trung vào những công trình sau:

Một là, hoàn chỉnh các tuyến nối Luông Pra Băng với các khu vực

trong các vùng miền Bắc: đường bộ từ Luông Pra Băng - các tỉnh Bắc Lào,

Luông Pra Băng - Yun Nan (Trung Quốc), Ụt Ta La Địt (Thái Lan) và Luông

Pra Băng - Lào Cai (Việt Nam),... Nâng cấp sân bay phục vụ cho việc đưa

đón du khách.

Hai là, nâng cấp tuyến đường tham quan khu vực trong tỉnh, các điểm

du lịch. Đây sẽ là tuyến đường có ý nghĩa to lớn của tỉnh trên các lĩnh vực

kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, là huyết mạch giao thông quan trọng, thu

hút du khách và liên kết các điểm du lịch trong nước và quốc tế với TTDL

Luông Pra Băng.

Ba là, cải tạo, nâng cấp đường cũ của các huyện trong tỉnh, các khu du

lịch, góp phần mở rộng thị trường, biến vùng sản xuất nông nghiệp lạc hậu thành

những thị trấn, thị tứ, giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.

132

Bốn là, mạng lưới điện, 100% thành phố, huyện, cụm bản có điện lưới

quốc gia và 88% số gia đình có điện.

Năm là, mạng lưới bưu điện, thông tin liên lạc đang được xây dựng củng

cố ở hầu hết các trung tâm, huyện và cụm bản. Tuy nhiên, do khó khăn về

nguồn kinh phí nên chưa phủ sóng điện thoại di động đến tất cả các vùng, các

khu du lịch.

Dự án nước sạch ở đô thị và các huyện, địa phương đang được thực

hiện. Các công trình văn hóa, công viên, khi vui chơi, chăm sóc sức khỏe,...

đã và đang được xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo, phát triển nhằm đáp ứng tốt

nhất các nhu cầu tinh thần, khám chữa bệnh của nhân dân địa phương và

khách du lịch.

4.2.4. Phát triển doanh nghiệp du lịch đáp ứng yêu cầu của thị trường

Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại Luông Pra Băng đều

là doanh nghiệp nhỏ. Trên thực tế phần lớn khách du lịch quốc tế đến

Luông Pra Băng là do các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức và ủy thác lại

cho các doanh nghiệp trong nước thực hiện, do đó thị trường du khách ở

đây chủ yếu là thị trường trung gian. Để TTDL Luông Pra Băng phát triển

bền vững, bảo đảm khả năng hội nhập, thực sự là thị trường nhận khách

cần có giải pháp củng cố và phát triển các doanh nghiệp kinh doanh trong

lĩnh vực du lịch để các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn, cần thực

hiện các giải pháp sau:

Một là, giải pháp từ phía Nhà nước

- Đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động du lịch trên toàn

địa bàn tỉnh theo các loại hình và quy mô phù hợp. Đối với các doanh nghiệp

hoạt động du lịch nói chung cần tăng cường công tác quản lý xét duyệt và cấp

giấy phép hoạt động, đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ quy chế du

lịch nhằm hạn chế những đối tượng kinh doanh kém hiệu quả, cạnh tranh

không lành mạnh, từ đó làm xuất hiện trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo

trên thị trường, gây tổn hại và sai lệch các tín hiệu phát ra trên thị trường. Sáp

nhập các doanh nghiệp hoạt động du lịch không giấy phép và quy mô quá nhỏ

133

để tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực trạng hiện nay trên địa bàn

tỉnh Luông Pra Băng tồn tại còn nhiều các doanh nghiệp hoạt động kinh

doanh du lịch, phần lớn là những doanh nghiệp nhỏ, thậm chí là rất nhỏ.

Những doanh nghiệp này có quy mô vốn, phạm vi hoạt động rất hẹp, không

có sản phẩm du lịch, họ chủ yếu khai thác những tài nguyên tự nhiên, không

nghiên cứu phát triển những sản phẩm du lịch mới. Thậm chí có doanh nghiệp

chỉ làm trung gian hưởng hoa hồng khiến cho hoạt động du lịch lộn xộn, đẩy

giá tour lên cao, làm giảm hấp dẫn với du khách, trực tiếp tác động gây giảm

sút về nhu cầu tiêu dùng sản phẩm du lịch trên địa bàn tỉnh. Do đó cần loại bỏ

những đơn vị hoạt động không giấy phép, chấn chỉnh những đơn vị hoạt động

không đúng chức năng của giấy phép đã cấp.

Thúc đẩy các doanh nghiệp du lịch hợp tác để có lợi thế quy mô. Do

quy mô nhỏ, nên nhiều doanh nghiệp du lịch Luông Pra Băng không có đủ

khả năng tiếp thị ra các thị trường nước ngoài, không thể thực hiện các chiến

dịch quảng bá lớn nên chưa thể đón tiếp được các đoàn du lịch với số lượng

khách nhiều với yêu cầu chất lượng cao, vì vậy các đơn vị quá nhỏ phải liên

doanh - liên kết thành doanh nghiệp đủ lực, đủ tài để thu hút khách cũng như

cạnh tranh thành công được với các công ty nước ngoài trên TTDL Luông Pra

Băng và trong khu vực. Đây là giải pháp thiết thực để tăng cường sức cạnh

tranh của du lịch Luông Pra Băng hiện nay.

Nâng cao mức vốn pháp định đối với các doanh nghiệp hoạt động du

lịch mới thành lập, đặc biệt là lữ hành quốc tế, để hạn chế các doanh nghiệp

có quy mô quá nhỏ, hoạt động kém hiệu quả với chất lượng sản phẩm thấp

ảnh hưởng xấu đến toàn bộ thị trường.

- Đối với các doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động hợp pháp và trụ vững

trên thị trường cần khuyến khích họ tăng vốn, có những quy định ràng buộc

về vốn khi cấp phép cho hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế.

Đối với các doanh nghiệp nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính,

đơn giản hóa thủ tục liên quan đến hoạt động du lịch: Sắp xếp lại các doanh

nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh du lịch theo hướng cổ phần hóa, giao,

134

bán, khoán, cho thuê, sáp nhập, hợp nhất, giải thể,… để bảo đảm cho chúng tồn

tại phát triển và mở rộng được không gian hoạt động trên thị trường.

- Tạo môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút những dự án tầm cỡ

lớn vào phát triển sản phẩm du lịch. Do chạy theo lợi nhuận trước mắt nên cần

phải điều chỉnh sự mất cân đối trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài vào TTDL

Luông Pra Băng. Để Luông Pra Băng thực sự là trung tâm du lịch, du lịch hội

nghị, cần nhiều nơi nghỉ ngơi và dịch vụ cao cấp nên cần đầu tư vào đáp ứng

nhu cầu này. Trên thực tế, thiếu khu du lịch và vui chơi giải trí sẽ kém hấp

dẫn đối với du lịch nội địa và không tận dụng hết thời gian lưu trú khách trong

điểm dừng trung chuyển của du khách quốc tế.

- Thành lập công ty chuyên cung cấp hướng dẫn cho các doanh nghiệp

lữ hành. Khi có nhu cầu, công ty du lịch chỉ cần ký hợp đồng có những ràng

buộc rõ ràng với nhà cung cấp hướng dẫn viên. Giải pháp này cho phép các

doanh nghiệp kinh doanh du lịch không phải lo trả lương cho hướng dẫn viên

trong mùa vãn khách còn công ty chuyên cung cấp hướng dẫn viên có điều

kiện quản lý, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho hướng dẫn viên và bản thân

hướng dẫn viên ổn định và an tâm. Tuy nhiên, để chuyên nghiệp hóa dịch vụ

cung ứng hướng dẫn viên theo nhu cầu thời vụ của doanh nghiệp cần phải có

sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước quản lý du lịch về mọi mặt: Thuế, trợ cấp và

chuyên gia,…

- Tăng cường giám sát hoạt động du lịch. Với sản phẩm du lịch kém chất

lượng sẽ tác động xấu đến ngành và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác. Do

đó cần thường xuyên kiểm tra hoạt động và chất lượng sản phẩm, cung cách

phục vụ của tất cả các đơn vị liên quan đến hoạt động du lịch trên thị trường.

- Xây dựng chiến lược phát triển và hội nhập tổng thể các doanh nghiệp

du lịch. Du lịch Lào đang trong giai đoạn ban đầu gia nhập WTO, cho nên

phải vừa hợp tác, vừa tìm hiểu cơ chế và luật chơi quốc tế. Gia nhập WTO

nghĩa là thị trường mở rộng, tính chuyên nghiệp và sức cạnh tranh của doanh

nghiệp du lịch Lào nói chung còn thấp bởi du lịch nước Lào phát triển sau các

nước, sản phẩm du lịch còn ít, chưa đa dạng, hệ thống kết cấu hạ tầng không

135

theo kịp tốc độ phát triển, chất lượng dịch vụ còn kém, thông tin trên thị

trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện

trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và cảm kết quốc tế trong du lịch nói

riêng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường,

tăng thị phần trên thị trường truyền thống đồng thời khai thông, nâng dần vị

thế trên thị trường mới.

Hai là, giải pháp từ phía doanh nghiệp kinh doanh du lịch

Tăng cường sự nghiên cứu thị trường và xúc tiến sản phẩm của doanh

nghiệp. Các doanh nghiệp cần tập trung nghiên cứu những khuynh hướng

chính về sự thay đổi của cung và cầu, sự tác động giữa các loại TTDL, khách

du lịch theo vùng, khu vực, loại cơ sở du lịch và những nhu cầu về hàng hóa,

dịch vụ du lịch,... Trên cơ sở đó nắm vững cơ cấu của cầu du lịch, số lượng để

kịp thời đáp ứng và có chính sách về thị trường thì kinh doanh mới có hiệu quả,

thị trường mới phát triển bền vững. Xác lập cơ sở và thành phần của nguồn

khách du lịch mà họ có khả năng tham gia thị trường ngoài thời vụ chính và tạo

ra cung, tăng cường cơ sở vật chất và các dịch vụ cần thiết cho các thời điểm

ngoài thời vụ.

Nghiên cứu khách đến Luông Pra Băng và khách từ Luông Pra Băng đi

du lịch. Mỗi doanh nghiệp tùy theo lĩnh vực kinh doanh, cần trả lời được

những vấn đề sau: Khách hàng hiện tại và tiềm năng của doanh nghiệp mình

là ai? Họ muốn đi du lịch vào thời điểm nào trong năm? Khách hàng mong

muốn điều gì khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, họ coi trọng

nhất những loại nào?,... Để trả lời được những câu hỏi này, doanh nghiệp phải

hoàn thiện và sử dụng tốt thông tin trong hệ thống ghi chép nội bộ của doanh

nghiệp thông tin phản hồi từ khách, từ nhân viên phục vụ khách, từ kết quả

nghiên cứu marketing và từ các kênh khác. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng

có ý nghĩa chiến lược dài hạn đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

Những năm qua, dù còn nhiều khó khăn nhưng ngành du lịch tỉnh

Luông Pra Băng đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến, quảng bá và mang lại

những kết quả khả quan, đặc biệt công tác xúc tiến quảng bá qua những hội lễ

136

hàng năm của tỉnh như: lễ Bun Pi Mai, Đua Thuyền, Khâu Phăn Sa, Bắng

Phay, lễ năm mới của dân tộc Khơ Mu và Mông,... đã thực sự đem lại hiệu

quả đáng khích lệ. Vậy để góp phần thúc đẩy TTDL tỉnh Luông Pra Băng

phát triển, thời gian tiếp đây công tác xúc tiến, quảng bá du lịch cần hướng

vào những công việc cơ bản sau:

Xây dựng kế hoạch xúc tiến quảng bá du lịch khoa học, có khả năng

thực thi một cách hiệu quả. Kế hoạch xúc tiến du lịch cần phải đi trước, nghĩa

là phải có tính toán dài hạn và trung hạn. TTDL hoạt động có tính mùa vụ,

phụ thuộc nhiều các yếu tố. Đi du lịch đòi hỏi phải chi tiêu nhiều hơn ngày

thường, khách du lịch thường có dự án trước cho các chuyến đi. Cho nên

thông tin cần phải đến sớm đối với các đối tượng. Xây dựng các nội dung xúc

tiến quảng bá du lịch chủ yếu: tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con người

và tỉnh Luông Pra Băng; giới thiệu về tiềm năng du lịch của tỉnh; các quy

hoạch, danh mục các dự án đầu tư phát triển các khu, điểm du lịch, phát triển

cơ cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất

lượng sản phẩm và dịch vụ; tuyên truyền giới thiệu sản phẩm du lịch,...

Phối hợp liên ngành, liên vùng trong xúc tiến, quảng bá du lịch. Hoạt

động quảng bá du lịch thường gắn với hoạt động mở rộng thị trường của

ngành hàng không, với các hoạt động ngoại giao, tuyên truyền văn hóa, hoạt

động thể thao, xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư. Trong điều kiện kinh

phí và nguồn lực có hạn thì sự phối hợp là hết sức quan trọng. Trước hết là

phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền về chủ

trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; tăng cường thông

tin và thời lượng phát song về du lịch của đài truyền hình, đài phát thanh;

nâng số lượng, chất lượng các bài viết, phóng sự về du lịch; nâng cấp tạp chí

thông tin du lịch Luông Pra Băng. Phối hợp với sở thông tin, văn hóa và du

lịch xuất bản các ấn phẩm thông tin tuyên truyền du lịch như: sách hướng dẫn

du lịch, bưu ảnh, tờ gấp thông tin về du lịch và các sự kiện du lịch ở tỉnh; các

ấn phẩm giới thiệu văn hóa - lịch sử truyền thống, cách mạng, tiềm năng du

lịch của tỉnh Luông Pra Băng. Xây dựng cá cấn phẩm tuyên truyền đáp ứng

137

yêu cầu quảng bá phù hợp với từng đối tượng thị trường, hoàn thiện trang

web du lịch Luông Pra Băng.

Đa dạng các phương pháp tuyên truyền quảng bá du lịch. Tuyên truyền

quảng bá du lịch đẩy mạnh đã giúp cho khách du lịch có được các thông tin về

giá cả, chất lượng, số lượng sản phẩm hàng hóa du lịch, phương thức phục vụ

của các tổ chức kinh doanh du lịch giúp cho họ lựa chọn nhanh chóng, thuận

tiện. Vì vậy, tuyên truyền quảng bá trung thực sẽ kích cầu du lịch tăng lên và

ngược lại nếu không có phương pháp quảng bá các sản phẩm du lịch sẽ hạn

chế cầu du lịch. Phương pháp tuyên truyền quảng bá theo hướng mỗi đối

tượng khách có những phương tiện, biện pháp, hình thức tuyên truyền quảng

bá khác nhau.

Kết hợp linh hoạt các hình thức tuyên truyền quảng bá du lịch. Trên cơ

sở các đối tượng trên, tiến hành thường xuyên các hình thức hoạt động tuyên

truyền quảng bá như tham gia các hội chợ du lịch trong và ngoài nước. Trên

các phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, sách du lịch, tập gấp, sách

ảnh, bản đồ du lịch, đĩa CD room, biển quảng cáo về du lịch Luông Pra Băng.

Tổ chức các sự kiện du lịch tiêu biểu. Lễ hội có tính chất truyền thống của

Luông Pra Băng nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc vừa gắn với phát triển

du lịch: Hội du lịch làng nghề truyền thống Luông Pra Băng hàng năm, lễ du

lịch hàng tháng trong năm của các dân tộc trong tỉnh. Nắm bắt kịp thời các sự

kiện lễ hội hàng năm, hàng tháng để quảng bá xúc tiến du lịch, chú trọng nâng

cao tính chuyên nghiệp trong tổ chức các sự kiện du lịch, giới thiệu điểm đến

của tỉnh Luông Pra Băng. Tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao, các hội nghị,

hội thảo gắn với hoạt động du lịch.

Xây dựng và phát triển hàng hóa, dịch vụ du lịch của doanh nghiệp. Để

phục vụ được nhu cầu đa dạng của du khách, mỗi doanh nghiệp cần chú ý

nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ thông qua những biện pháp mang tính

đồng bộ. Các doanh nghiệp cần hoàn thiện quy trình nghiệp vụ trong các khâu

kinh doanh, chủ yếu là marketing và điều hành. Với việc áp dụng công nghệ

thông tin, tốc độ xử lý và khả năng lưu giữ thông tin được cải thiện cơ bản.

138

Một trong các biện pháp quan trọng là nâng cao chất lượng phục vụ

nhằm tạo dựng danh tiếng và uy tín, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú cần coi trọng việc nâng cao chất lượng

cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ nghỉ ngơi, ăn uống của du

khách, đảm bảo tính tiện ích cao của các dịch vụ cung ứng, phong phú về mẫu

mã, đa dạng về chủng loại, đồng thời xây dựng đội ngũ nhân viên phục vụ có

kỹ năng chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp lữ hành cần nắm bắt tổng hợp

thông tin nhanh nhạy, khảo sát và có dự kiến những khả năng có thể xảy ra để

đảm bảo đúng lịch trình, du khách luôn cảm thấy yên tâm trong suốt hành

trình; tập trung phát triển sản phẩm mới có tính hấp dẫn và chuyên sâu cho

khách du lịch cao cấp, xây dựng sản phẩm độc đáo để có sức thu hút mạnh đối

với khách nước ngoài.

Nâng cao sức cạnh tranh, tập trung xây dựng thương hiệu trên thị

trường. Doanh nghiệp cần coi trọng các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế:

ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tối đa chi

phí bất hợp lý, cải tiến công tác kế hoạch và thực hiện kế hoạch, mở rộng liên

doanh liên kết để tạo ra các loại hàng hóa, dịch vụ du lịch chất lượng cao, làm

đa dạng hóa cung trên TTDL.

Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng lộ trình và chuẩn bị các điều kiện để hội

nhập TTDL ở mức cao, có hướng xây dựng văn phòng đại diện du lịch và đầu tư

ra nước ngoài; thiết lập quan hệ với thị trường cung cấp nhiều khách du lịch

quốc tế đến Lào cũng như Luông Pra băng tại một số thị trường trọng điểm như

thị trường Đông Nam Á, Châu Âu, Bắc Mỹ ở chủ động nguồn khách. Qua đó,

vừa tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý,... vừa tiếp tục tạo

lập và nâng cao hình ảnh và vị thế của du lịch Luông Pra Băng ở khu vực và trên

thế giới. Trong mở rộng thị trường, mỗi doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị

chiến lược nâng cao tính cạnh tranh song song với xây dựng thương hiệu mạnh

dành cho khách du lịch trong nước và khách nước ngoài. Trước tiên, nên chú

trọng khách du lịch trong nước đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng khách

du lịch vào Luông Pra Băng và cũng là đối tượng mà các doanh nghiệp lữ hành

139

nước ngoài không được phép kinh doanh. Bên cạnh đó là xây dựng quan hệ với

những thị trường cung cấp du khách nước ngoài đến Lào.

Liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Các doanh

nghiệp đều có chiến lược phát triển riêng để tồn tại trong hội nhập, song các

cũng cần liên kết nhau trong tạo dựng thương hiệu để mở rộng không gian

cung ứng, tăng khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Sự phối

hợp hoạt động giữa doanh nghiệp lữ hành gửi khách và nhận khách, giữa

doanh nghiệp lữ hành với các doanh nghiệp phục vụ du lịch như: khách sạn,

nhà nghỉ, nhà hàng, các cơ sở kinh doanh dịch vụ khác, giữa các cơ sở phục

vụ với nhau, giữa các cơ sở phục vụ với chính quyền địa phương để có ảnh

hưởng lớn tới sự hoạt động trên TTDL.

Cần khai thác nhanh và mạnh những lợi thế đang có, bao gồm sự hiểu

biết sâu sắc về TTDL Luông Pra Băng và của Lào, quan hệ trong cộng đồng

các doanh nghiệp du lịch, quan hệ khách hàng và các hệ thống đại lý trong

nước. Tuy nhiên cần lưu ý là những lợi thế này chỉ mang tính nhất thời, khi

các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nước ngoài đã kinh doanh lâu ở Lào nó

sẽ mất đi. Đối với Luông Pra Băng, trước hết cần tăng cường hợp tác, liên kết

giữa các doanh nghiệp lữ hành với các làng nghề, giữa các nhà nghỉ với các

khách sạn. Xu hướng du lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch văn hóa lễ hội, du

lịch làng nghề ở Luông Pra Băng đang thu hút nhiều khách quốc tế và khách

du lịch nội địa. Do đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng cường mở rộng

liên doanh liên kết với các ngành kinh tế khác, liên doanh liên kết với nước

ngoài, trước hết là các hàng lữ hành quốc tế.

4.2.5. Đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực cho phát triển thị

trường du lịch và ứng dụng khoa học, công nghệ

Sản phẩm du lịch về bản chất là sản phẩm dịch vụ, chất lượng sản phẩm

du lịch chính là điều du khách cảm nhận được trong chuyến đi du lịch. Chất

lượng sản phẩm du lịch chịu tác động quyết định của yếu tố con người và giá

trị tài nguyên vì chúng tạo nên cảm nhận của du khách về chất lượng của

140

chuyến đi. Để đáp ứng yêu cầu phát triển TTDL, đào tạo phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao cần tập trung vào những giải pháp sau:

Một là, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân

lực du lịch trên địa bàn Luông Pra Băng. Trước hết cần tiến hành rà soát, đánh

giá và phân loại nguồn nhân lực du lịch hiện có trên địa bàn tỉnh Luông Pra

Băng qua các chương trình điều tra, khảo sát về nguồn nhân lực du lịch, xây

dựng kế hoạch đào tạo và phát triển với từng đối tượng cụ thể. Phần loại các

đối tượng cần đào tạo thành các nhóm như: cán bộ quản lý nhà nước về du

lịch ở địa phương, quản lý hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp du lịch,

nhân viên phục vụ trực tiếp tại các doanh nghiệp và các hướng dẫn viên tại

các điểm du lịch, quần chúng nhân dân tại các khu du lịch.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh

nghiệp kinh doanh du lịch là rất cần thiết trong nghiên cứu, đánh giá hiện

trạng nguồn nhân lực du lịch. Dựa trên định hướng phát triển nguồn nhân lực

du lịch, xác lập các hình thức, nội dung đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với

người lao động. Các địa phương, các doanh nghiệp có những đặc điểm khác

nhau nên hình thức đào tạo, bồi dưỡng phải đa dạng với nhiều hình thức khác

nhau như: đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo thực tiến kinh doanh

của doanh nghiệp,v.v... Đào tạo cần phải coi trọng chất lượng hơn số lượng,

người lao động phải đảm nhận được công việc chuyên môn sau khi đào tạo.

Nguồn nhân lực du lịch phải có kiến thức và sự hiểu biết sâu sắc về mọi

phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội,...

Hai là, thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp

vụ nguồn nhân lực du lịch. Phối hợp với các trường cao đẳng, trường đại học

trong tỉnh và trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn: Đại học quốc gia Lào, Đại học

tài chính - ngân hàng, Đại học Su Pha Nụ Vông,… tiến hành xây dựng

chương trình và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý. Nhất thiết phải đào tạo

ngay từ giai đoạn hiện tại nhằm chuẩn bị cho tương lai một đội ngũ cán bộ có

141

năng lực chuyên môn sâu, có tư cách đạo đức, yên nghề. Đội ngũ cán bộ này

phải được cập nhật các kiến thức liên quan đến hoạt động du lịch, đến quá

trình cạnh tranh, phát triển du lịch và các hiểu biết về du lịch hiện đại, quy

hoạch du lịch, thông tin liên quan đến đầu tư du lịch và hiểu biết đến hoạt

động của các công ty du lịch quốc tế có mặt tại Luông Pra Băng. Trong thời

gian tới, cần quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực quản lý

mang tính chiến lược, ổn định, lâu dài, bền vững và phát triển.

Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ lao động để nâng cao

chất lượng sản phẩm du lịch. Để nâng cao chất lượng phục vụ trong kinh

doanh du lịch cần phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, cập

nhật kiến thức mới, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch. Nội dung đào tạo

trước hết phải tập trung vào những kiến thức, ký năng chuyên môn, đào tạo

những gì thực tế cần, gắn giữa lý thuyết và thực hành nghiệp vụ do thị trường

quyết định. Cơ chế đào tạo phải thông thoáng, thuận lợi, có sự kết hợp giữa cơ

sở đào tạo và doanh nghiệp. Cùng với đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, người

lao động còn phải được bồi dưỡng những kiến thức trong từng lĩnh vực như:

kiến thức chung về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của quốc gia, vùng lãnh

thổ là TTDL trọng điểm của Lào và tỉnh Luông Pra Băng, kiến thức về du

lịch, ngoại ngữ, máy vi tính và phải chú ý tới các nội dung văn hóa trong kinh

doanh du lịch như các giá trị văn hóa, phong tục tập quán đẹp, cách ứng xử

văn minh, lịch sử, tôn trọng du khách,… tiến tới xây dựng văn minh trong

kinh doanh du lịch của Luông Pra Băng.

Ba là, thiết lập hệ thống thông tin về nguồn nhân lực trên thị trường. Sự

phát triển nguồn nhân lực trong TTDL ngày càng tăng về mặt quy mô, cơ cấu,

số lượng và chất lượng. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong tổ chức quản

lý và kiểm soát hệ thống thông tin về nguồn nhân lực du lịch sẽ cho phép phân

tích, dự báo phát triển nguồn nhân lực một cách khoa học, nhanh và tin cậy.

Những thông tin cần có bao gồm: thông tin về các cơ sở đào tạo, các ngành

nghề trong du lịch, nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp du lịch, các cơ

quan quản lý nhà nước về du lịch, thông tin về cơ cấu, số lượng, chất lượng

142

nguồn nhân lực; thông tin dự báo về nguồn nhân lực du lịch trên thị trường và

các thông tin khác như: chính sách, kế hoạch, chế độ phát triển nguồn nhân

lực du lịch,... Các tổ chức các hoạt động như: giao lưu gặp gỡ nhằm tạo điều

kiện cho các doanh nghiệp học tập, trao đổi kinh nghiệm qua quá trình hoạt

động kinh doanh, hội thảo cũng như tạo mối quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ

sở đào tạo và người lao động, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù

hợp. Sự phân phối giữa cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các doanh

nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng là hết sức cần thiết

trong nghiên cứu, đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực du lịch, cung - cầu nguồn

nhân lực để xây dựng chiến lược tổng thể và đào tạo nguồn nhân lực.

Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, phát triển nguồn nhân

lực. Tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các nước trong

khu vực tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, quản lý

thuộc lĩnh vực khách sạn, lữ hành và các chương trình đào tạo ngắn hạn, trung

hạn. Khuyến khích việc du học, bồi dưỡng ngắn hạn, tham quan mô hình quản

lý, đào tạo ở các nước có trình độ và phát triển cao về du lịch, cử cán bộ đi

nghiên cứu và học tập tại nước ngoài theo các chương trình khác nhau. Tổ

chức những buổi giao lưu giữa các chuyên gia, các nhà quản lý doanh nghiệp

nhằm trao đổi những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm ngành nghề.

Năm là, xây dựng chính sách về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du

lịch. Có chính sách hợp lý để thu hút nhân tài, chuyên gia, nghệ nhân tham gia

vào phát triển du lịch, hình thành đội ngũ lao động làm du lịch có tính chuyên

nghiệp, cải thiện tốt môi trường để thu hút các nhà đầu tư du lịch trong nước

và nước ngoài đến Luông Pra Băng. Hỗ trợ kinh phí từ ngân sách của tỉnh,

đồng thời thực hiện xã hội hóa nhằm huy động nguồn vốn cho công tác đào

tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch. Khuyến khích các thành phần kinh tế

tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Luông Pra Băng nên có

chính sách tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành công nghệ thông tin,

chuyên ngành ngoại ngữ tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc, Việt Nam, Hàn

143

Quốc,... Sau đó đào tạo văn bằng hai về du lịch góp phần giải quyết tình trạng

đội ngũ lao động yếu về ngoại ngữ, tin học.

Cần phải chú ý đến người dân địa phương nơi có tài nguyên du lịch đang

khai thác để có chính sách ưu tiên tuyển chọn. Khi ra trường công tác họ sẽ giúp

cho du khách hiểu biết tốt hơn và sâu sắc hơn về mặt văn hóa, phong tục tập

quán của người Lào ngay tại nơi họ sinh ra và lớn lên. Đây là chính sách để

khuyến khích người dân địa phương duy trì văn hóa truyền thống, phát triển du

lịch dựa vào cộng đồng, đem lại lợi ích cho người dân địa phương, góp phần

thực hiện chiến lược phát triển. Thực hiện tốt chính sách này sẽ tác động tích cực

đến phát triển kinh tế, mở rộng thị trường, xóa đói giảm nghèo.

Sáu là, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ

phát triển kinh doanh du lịch. Các thành tựu khoa học kỹ thuật được áp dụng

trong kinh doanh du lịch sẽ làm giảm giá thành sản phẩm du lịch, như vậy sẽ

tăng khả năng cạnh tranh của chúng trên thị trường.

Đối với Luông Pra Băng, trước hết chú trọng đúng ứng dụng và phát

triển công nghệ thông tin du lịch nhằm mở rộng hợp tác đầu tư, cải thiện năng

lực hệ thống phân phối sản phẩm, tuyên truyền quảng bá. Xây dựng hệ thống

cơ sở dữ liệu về thị trường du lịch đáp ứng yêu cầu của phát triển đồng bộ các

loại thị trường. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá

nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào

hoạt động kinh doanh du lịch và phục vụ giải quyết các vấn đề bức xúc đang

đặt ra đối với phát triển thị trường. Tăng cường tổ chức hợp tác với các tổ

chức, các cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ sự hỗ trợ về

kinh nghiệm, kỹ thuật, tiếp cận những thành tựu mới, sự tiên tiến về khoa học

công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng vào TTDL Luông Pra Băng.

4.2.6. Nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước với thị trường du

lịch trên địa bàn tỉnh Luông Pra Băng

Đây là yêu cầu khách quan nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, trao

đổi mua bán và hướng các mối quan hệ trên TTDL theo đúng định hướng, hạn

144

chế và xóa bỏ dần các hành vi kinh doanh thiếu văn minh, chạy theo lợi nhuận

làm phá hoại môi trường, cạnh tranh không lành mạnh, mất ổn định về xã hội,

gây ra các ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường. Nâng cao hiệu quả công tác

quản lý nhà nước về du lịch đòi hỏi phải thực hiện tốt trên mọi địa bàn, thông

qua hệ thống các quy định buộc mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia TTDL phải

tuân thủ theo quy định của pháp luật nhưng vẫn đảm bảo quyền tự do kinh

doanh, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Một số giải pháp cần tập

trung trong những năm tới gồm:

Một là, kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý TTDL. Thống nhất

quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch bằng pháp luật, tạo điều kiện thuận

lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch. Tổ chức hoạt

động kinh doanh du lịch gắn với tổ chức quản lý TTDL, đảm bảo an ninh quốc

gia và trật tự an toàn xã hội. Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt

động của TTDL; phối hợp giữa các công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc

tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia thị trường, áp dụng nghiêm các chế

tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về du lịch và TTDL.

Tiếp tục thực hiện tốt cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hóa

các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp du lịch. Các bộ phận

tham mưu chuyên môn cần công khai các thủ tục, quy trình, thời gian và cán

bộ để giúp các tổ chức, cá nhân liên hệ và thực hiện tốt các nội dung được

thuận tiện và hiệu quả.

Cơ chế và mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động du lịch phải

được xây dựng thống nhất từ tỉnh đến thành phố và các huyện, phù hợp với

những điều kiện thực tế của tỉnh nhằm khắc phục tình trạng chia cắt trong

quản lý. Thường xuyên kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ

đạo phát triển du lịch tỉnh; rà soát, bổ sung nhiệm vụ, chức năng, kiện toàn và

củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về du

lịch từ tỉnh đến thành phố, huyện, nâng cao năng lực hoạt động của thanh tra

du lịch, trung tâm xúc tiến du lịch Luông Pra Băng.

145

Tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước về quản lý môi trường,

tài nguyên du lịch tại các khu du lịch và các điểm du lịch hấp dẫn. Thành lập các

Ban quản lý khu du lịch trên nguyên tắc có sự tham gia của các ngành liên quan

và Ủy ban nhân dân thành phố, huyện nơi có điểm du lịch. Ban quản lý là tổ

chức duy nhất thực hiện chức năng quản lý nhà nước mọi hoạt động kinh tế - xã

hội trên toàn bộ phạm vi lãnh thổ khu du lịch và chịu trách nhiệm mọi mặt trước

Ủy ban nhân dân tỉnh theo phân cấp quản lý và phối hợp hoạt động với các cơ

quan liên quan trực tiếp như văn hóa, công an, quân đội,…

Hai là, chú trọng công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển

du lịch. Để tạo ra môi trường thuận lợi cho tiếp tục phát triển TTDL, xây dựng

và thực hiện quy hoạch phát triển du lịch Luông Pra Băng đòi hỏi:

Xây dựng quy hoạch trong quan hệ thống nhất biện chứng với mục tiêu,

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với phát

triển ngành du lịch và TTDL Luông Pra Băng. Do đó, nội dung quy hoạch phát

triển du lịch phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực, địa

phương trong từng giai đoạn quy hoạch; chú trọng bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp

lý tài nguyên môi trường, cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn và phát triển bản sắc văn

hóa dân tộc, có khả năng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của địa

phương, đảm bảo phát triển bền vững, bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, bảo đảm an

ninh quốc phòng và xác lập được cơ sở cho công tác kế hoạch, quản lý đầu tư và

thu hút đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng du lịch.

Nội dung của quy hoạch phải bảo đảm dự kiến hợp lý, tính khả thi cao

trong toàn bộ quá trình hình thành, triển khai đầu tư xây dựng, khai thác kinh

doanh một khu du lịch, điểm du lịch. Trong đó cần xác định danh mục các khu

vực, các dự án ưu tiên đầu tư và tiến độ đầu tư, nhu cầu sử dụng đất, vốn và

nguồn nhân lực cho du lịch; các giải pháp bảo vệ môi trường và tài nguyên du

lịch; cơ chế, chính sách, giải pháp quản lý, phát triển du lịch theo quy hoạch

bảo đảm hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.

Đối với quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Luông Pra Băng đến năm

2025 và định hướng đến năm 2030 cần tiến hành rà soát lại và sửa đổi, điều

146

chỉnh nếu thấy cần thiết theo hướng bổ sung phát triển các sản phẩm du lịch

kết hợp với vui chơi giải trí dọc theo các tuyến giao thông chính: quốc lộ 13

Bắc và quốc lộ 1C. Nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du

lịch làng nghề truyền thống thành phố Luông Pra Băng và quy hoạch tổng thể

phát triển du lịch tại các huyện, địa phương khác trong tỉnh.

Tiếp tục tiến hành xây dựng quy hoạch chi tiết các khu du lịch phù hợp

trên cơ sở tiềm năng tài nguyên du lịch hiện có, thực tế năng lực của các doanh

nghiệp. Kết hợp các chương trình, chiến lược phát triển TTDL với các kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố và các huyện. Trong quy hoạch

phải tính tới giá trị thẩm mỹ, khả năng sử dụng trước mắt và lâu dài, hài hòa

giữa giá trị truyền thống và hiện đại, vừa có giá trị kinh tế của từng sản phẩm

du lịch, vừa đem lại cuộc sống tinh thần lành mạnh.

Trong những năm tới cần tập trung triển khai lập, xét duyệt các đề án quy

hoạch chi tiết các khu vực trọng điểm của tỉnh, từ đó xây dựng các dự án ưu tiên

đầu tư theo từng giai đoạn. Đặc biệt quan tâm và xét duyệt các dự án đầu tư cơ sở

hạ tầng, nâng cấp, phục hồi các di tích lịch sử văn hóa cho các khu du lịch trọng

điểm, nhất là thành phố Luông Pra Băng. Chuẩn bị triển khai quy hoạch các khu

du lịch trọng điểm còn chưa có quy hoạch, nhất là tại các huyện có điều kiện trong

tỉnh như: huyện Năm Bạc, Nan, Pạc Xeng, Pak U, Chom Phết,v.v...

Nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý quy hoạch, đặc biệt đối với các

quy hoạch chi tiết, tăng cường quản lý đầu tư xây dựng các dự án đầu tư phát

triển du lịch theo quy hoạch được duyệt. Tổ chức, cá nhân khi lập các dự án

đầu tư xây dựng công trình, kinh doanh khai thác du lịch phải thực hiện đánh

giá tác động môi trường, tài nguyên du lịch tại các khu, điểm du lịch. Trường

hợp làm biến dạng cảnh quan, ô nhiễm môi trường phải có trách nhiệm phục

hồi tài nguyên, giảm độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch, bồi thường thiệt hại

theo quy định pháp luật. Phải có lực lượng giữ gìn giám sát để ngăn chặn

những hành vi cố tình vi phạm pháp luật, phá vỡ quy hoạch được duyệt. Ủy

ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm tổ chức quản lý nhà nước về thực hiện

quy hoạch phát triển du lịch tại địa phương.

147

Nâng cao chất lượng quản lý và thực hiện quy hoạch. Phát huy xã hội

hóa thực hiện quy hoạch và đầu tư theo Luật đầu tư số 032/QH, ngày

17/11/2016 về quy hoạch và đầu tư, Luật đầu tư của Nhà nước số 01/QH, ngày

25/6/2009. Công bố rộng rãi trên mạng Internet, trên các phương tiện thông

tin đại chúng các quy hoạch phát triển du lịch sau khi được cấp thẩm quyền

phê duyệt. Các cấp lập kế hoạch tổ chức thực hiện quy hoạch, tổ chức quản lý

chặt chẽ dự án đầu tư kinh doanh phát triển du lịch theo đúng quy hoạch. Phối

hợp liên ngành trong kiểm tra, thanh tra thực hiện quy hoạch đồng thời phát

huy vai trò của cộng đồng dân cư trong xây dựng và quản lý quy hoạch.

Ba là, hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích phát triển thị trường.

Trên cơ sở đường lối, quan điểm và chính sách pháp luật của Nhà nước, tỉnh

Luông Pra Băng cần hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý, khai thác các khu,

điểm du lịch như:

Ưu tiên, miễn giảm thuế, ưu đãi vốn vay đầu tư đối với các dự án ưu

tiên tại các khu trọng điểm phát triển du lịch. Xây dựng mức giá ưu đãi về các

dịch vụ như: điện, nước, bưu chính và ưu đãi các tổ chức, cá nhân đầu tư kinh

doanh các sản phẩm du lịch vui chơi giải trí trên địa bàn tỉnh.

Phối hợp liên ngành để giải quyết các chính sách tạo thuận lợi cho

khách du lịch, xây dựng phong cách tiếp đón khách thân thiện, đúng mực

trong lực lượng cán bộ làm nghiệp vụ. Tăng cường công tác thông tin cho du

khách qua các quầy thông tin du lịch, thống nhất hệ thống các biển báo, dấu

hiệu chỉ dẫn để thuận tiện cho du khách đi lại tham quan.

Xây dựng và ban hành quy chế quản lý phù hợp đối với các khu du lịch,

điểm du lịch, trước hết là quy chế quản lý và khai thác đầu tư du lịch tại các

khu du lịch. Quy chế quy định về quản lý tài nguyên du lịch, môi trường du

lịch; quản lý đầu tư phát triển, sử dụng và khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ

sở hạ tầng du lịch; quyền và nghĩa vụ của khách du lịch, các tổ chức cá nhân

có hoạt động kinh doanh du lịch; sự tham gia của cộng đồng tại khu du lịch;

phân công nhiệm vụ, cơ chế phối hợp trong việc quản lý khu du lịch theo quy

hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

148

Bốn là, xây dựng cơ chế phối kết hợp liên ngành, liên vùng trong quản

lý phát triển TTDL theo hướng kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ,

phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh của

doanh nghiệp. Cần xây dựng mục tiêu hành động chung để cùng tham gia giải

quyết có hiệu quả những vấn đề về quản lý phát triển TTDL. Khuyến khích và

tạo điều kiện để huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức, cá nhân vào

việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và đảm bảo phát triển du lịch bền vững. Tổ

chức các đoàn đi nghiên cứu khảo sát thị trường, học tập kinh nghiệm về kinh

doanh, mở rộng thị trường tại các tỉnh có TTDL phát triển như thủ đô Viêng

Chăn, tỉnh Viêng Chăn, Xay Nhạ Bu Ly, Hua Phăn, v.v...

Năm là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích của địa phương nơi có điểm du

lịch, doanh nghiệp kinh doanh du lịch và Nhà nước. Các cộng đồng địa

phương nơi có tài nguyên du lịch cần được tạo điều kiện tham gia trong quá

trình phát triển TTDL và nhận được nhiều lợi ích hơn từ du lịch. Tăng cường

những biện pháp giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức khi tham gia

hoạt động du lịch nhằm làm cho họ thấy rõ được rõ mối quan hệ qua lại chặt

chẽ giữa lợi ích của cá nhân và cộng đồng. Ngành du lịch cần có sự phối hợp

với toàn dân để tạo ra môi trường và bầu không khí hết sức thân thiện, hòa

bình. Mỗi người dân vừa là chủ thể vừa là người tiêu thụ các sản phẩm du

lịch, vai trò trách nhiệm của họ được đề cao thì họ sẽ mang hết tinh thần trách

nhiệm của mình để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ sự bình yên cho

quê hương làng xóm. Giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ vai trò, tầm

quan trọng, ý nghĩa của tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân

văn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, những vấn đề liên quan đến

hoạt động sản xuất kinh doanh trên TTDL để từ đó họ trân trọng, giữ gìn

những tài sản mà thiên nhiên ban tặng và những giá trị lịch sử cha ông đã dày

công vun đắp.

149

KẾT LUẬN

Thị trường du lịch là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành

của hệ thống thị trường trong nền kinh tế, là cầu nối giữa người sản xuất cung

ứng và người tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Trong giai đoạn hiện nay TTDL

là một lĩnh vực cạnh tranh nhất với tốc độ tiếp cận rất nhanh.

Phát triển TTDL góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế - xã hội

mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về TTDL là

một vấn đề mới mẻ và phức tạp. Tác giả cố gắng trình bày khái quát những cơ

sở lý luận cơ bản về du lịch, sản phẩm du lịch; tìm hiểu TTDL, phân tích

những đặc trưng của TTDL, các loại TTDL; phân tích các yếu tố cơ bản của

TTDL như: cầu và cung du lịch, giá cả và cạnh tranh trên TTDL, các nhân tố

tác động tới sự phát triển của TTDL, vai trò tích cực và những tác động tiêu

cực của TTDL. Tìm hiểu kinh nghiệm của một số tỉnh của Việt Nam và Lào

trong phát triển TTDL là những bài học kinh nghiệm quý giá cho phát triển

TTDL tỉnh Luông Pra Băng. Muốn phát triển TTDL Luông Pra Băng cần phát

huy vai trò quản lý nhà nước trên TTDL, đảm bảo phát triển TTDL theo đúng

định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; có nhiều biện pháp thiết

thực, hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng cung, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và

kết cấu hạ tầng, kích cầu du lịch.

Luông Pra Băng là một tỉnh nằm trong các tỉnh miền Bắc, là cổng

thành của các tỉnh miền Bắc, cách thủ đô Viêng Chăn 420 km theo con đường

quốc lộ số 13. Luông Pra Băng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển

du lịch sinh thái, có văn hóa và cộng đồng dân cư đa dạng và thường xuyên

biến đổi thuận lợi cho phát triển du lịch nội tỉnh; đặc biệt Luông Pra Băng đã

có thành phố Luông Pra Băng là khu du lịch di sản văn hóa thế giới và là nơi

căn cứ địa cách mạng của thời kỳ tiền chiến và cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp và Mỹ. Luông Pra Băng đều gắn với những sự kiện lịch sử của đất

nước, do vậy có rất nhiều di tích lịch sử, cũng như là một tỉnh có nhiều dân

tộc anh em với các sắc thái văn hóa đặc trưng riêng,… Luông Pra Băng là một

150

nguồn lực về tài nguyên du lịch văn hóa, du lịch thiên nhiên và du lịch lịch sử.

Phân tích thực trạng phát triển TTDL Luông Pra Băng trong giai đoạn năm

2011 - 2018; Luông Pra Băng đã bước đầu khai thác tiềm năng thế mạnh về

nguồn tài nguyên du lịch để phát triển sản phẩm hàng hóa, dịch vụ du lịch; hệ

thống kinh doanh du lịch trên thị trường đạt được nhiều kết quả, đáp ứng nhu

cầu du lịch ngày càng cao. TTDL Luông Pra Băng cho thấy các yếu tố của thị

trường phát triển ngày càng đồng bộ như: mua bán hàng hóa du lịch, nhu cầu

du lịch, cung cấp hàng hóa du lịch và những thể chế hỗ trợ cần thiết nhằm

tăng số lượng, chất lượng và sự đa dạng của hoạt động mua bán hàng hóa du

lịch, mang lại lợi ích cho các bên tham gia thị trường và cho toàn xã hội.

TTDL phát triển đã tác động tích cực tới các ngành kinh tế trong tỉnh cũng

như phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Luông Pra Băng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế,

chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên du lịch của tỉnh, còn

nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết như: nâng cao nhận thức, đánh giá

đúng vai trò của TTDL, xây dựng chiến lược cho phát triển thị trường và sản

phẩm mang những nét đặc trưng riêng của Luông Pra Băng.

Trên cơ sở đường lối và chiến lược phát triển du lịch và quy hoạch tổng

thể phát triển du lịch của Lào, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của

Luông Pra Băng đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2030, luận án đề xuất

những quan điểm, phương hướng và các giải pháp nhằm phát triển TTDL

Luông Pra Băng trong thời gian tới nhằm đảm bảo cho sự phát triển đồng bộ

các yếu tố và các loại TTDL. Các giải pháp đồng thời giải quyết những vấn đề

ở tầm vĩ mô và vi mô, đảm bảo sự nhất quán từ các cơ quan quản lý nhà nước

đến các doanh nghiệp, sự phối hợp giữa các chủ thể tham gia thị trường. Quá

trình thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ khai thác được mọi tiềm năng nguồn

lực, thúc đẩy TTDL phát triển đúng định hướng, góp phần đẩy nhanh tốc độ

tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

hóa của tỉnh Luông Pra Băng.

151

CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Somsanith Kenemany (2018), "Phát triển bền vững thị trường du lịch

tỉnh Luông Pra Băng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí Kinh tế

Châu Á - Thái Bình Dương, (512), tr.35-37.

2. Somsanith Kenemany (2018), "Giải pháp phát triển du lịch ở tỉnh Luông

Pra Băng, CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Kinh tế và

Dự báo, (28), tr.44-46.

3. Somsanith Kenemany (2019), "Nâng cao vai trò của quản lý nhà nước

đối với hoạt động du lịch ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí

Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, (số Chuyên đề), tr.60-62.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Lào dịch sang tiếng Việt

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Tầm nhìn đến năm 2030, chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 10 năm (2016 - 2025) và kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc 5 năm lần thứ VIII (2016 - 2020),

Viêng Chăn.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Trung tâm thống kê Quốc gia Lào năm

2014, Viêng Chăn.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Thông tin phát triển kinh tế - xã hội 40

năm CHDCND Lào "1975 - 2015", Viêng Chăn.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo khảo sát kinh tế toàn quốc lần

thứ II, Viêng Chăn.

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo tổng kết dân số và nhà ở lần thứ

IV, Viêng Chăn.

6. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2013), Tổng cục Du lịch Lào "Chiến lược

quản lý du lịch năm 2011 - 2020 của CHDCND Lào", Viêng Chăn.

7. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Tầm nhìn đến năm 2030, chiến

lược phát triển đến năm 2025 và kế hoạch phát triển công việc thông tin,

văn hóa và du lịch của Lào giai đoạn năm 2016 - 2020, Viêng Chăn.

8. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch, Sở Quảng cáo du lịch (2013). Du lịch

toàn quốc, Viêng Chăn.

9. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Tổng khách du lịch thăm Lào

năm 2016, Viêng Chăn.

10. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Tổng khách du lịch thăm Lào

năm 2017, Viêng Chăn.

11. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2018), Tổng khách du lịch thăm Lào

năm 2018, Viêng Chăn.

153

12. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Báo cáo tổng kết về việc thực

hiện công việc thông tin, văn hóa và du lịch năm 2011 - 2015 và kế

hoạch phát triển 5 năm (2016 - 2020), Viêng Chăn.

13. Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch (2016), Báo cáo thống kế khách du lịch

thăm Lào năm 2016, Viêng Chăn.

14. Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng (2015), Báo cáo việc phát triển kinh tế -

xã hội 5 năm (2011 - 2015) và kế hoạch phát triển 5 năm (2016-2020) lần

thứ 7 của tỉnh Luông Pra Băng, Luông Pra băng, ngày 11/12.

15. Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng (2017), Báo cáo việc phát triển kinh tế

- xã hội năm 2016 và kế hoạch phát triển năm 2017 của tỉnh Luông Pra

Băng, Luông Pra băng, ngày 22/02.

16. Chính quyền tỉnh Luông Pra Băng (2019), Báo cáo việc phát triển kinh tế

- xã hội năm 2018 và kế hoạch phát triển năm 2019 của tỉnh Luông Pra

Băng, Luông Pra băng, ngày 04/01.

17. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội VI của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.

18. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội VII của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.

19. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội VIII của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.

20. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội IX của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.

21. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội X của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào, Viêng Chăn.

22. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (1993), Văn kiện Đảng bộ lần thứ III của

tỉnh Luông Pra Băng.

23. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2000), Văn kiện Đảng bộ lần thứ IV của

tỉnh Luông Pra Băng.

24. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2005), Văn kiện Đảng bộ lần thứ V của

tỉnh Luông Pra Băng.

154

25. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2010), Văn kiện Đảng bộ lần thứ VI của

tỉnh Luông Pra Băng.

26. Đảng bộ tỉnh Luông Pra Băng (2015), Văn kiện Đảng bộ lần thứ VII của

tỉnh Luông Pra Băng.

27. Khăm Còn UA NÔN SA (2013), Du lịch là một ưu tiên của sự phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh Xiêng Khoảng. Tạp chí A Lunmay.

28. Ma Nô Thông PHÔNG SA VĂN (2014), Xúc tiến du lịch ở tỉnh Khăm

Muôn. Tạp chí Lý luận Chính trị - Hành chính.

29. Pun Sắc SAY NHA SEN (2012), Sự phát triển khu du lịch tự nhiên ở

tỉnh Sa La Văn. Tạp chí Lý luận Chính trị-Hành chính.

30. Phutsady PHANYASITH (2016), "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối

với hoạt động du lịch ở nước CHDCND Lào", Luận án tiến sĩ lý luận và

lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

31. Quốc hội Lào (2005), Luật về du lịch. Số 10/QH, ngày 9/11/2005,

Viêng Chăn.

32. Quốc hội Lào (2009), Luật đầu tư. Số 02/QH, ngày 8/7/2009, Viêng Chăn.

33. Quốc hội Lào (2009), Luật đầu tư của nhà nước. Số 08/QH, ngày

26/11/2009, Viêng Chăn.

34. Seng Ma Ni PHẾT SA VÔNG (2012), Một số vấn đề tác động tiêu cực

từ du lịch ở tỉnh Luông Pa Bang. Tạp chí Lý luận Chính trị -

Hành chính.

35. Somkhith VONG PAN NHA (2018), "Quản lý nhà nước về du lịch trên

địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ

Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

36. Sở thông tin, văn hóa và du lịch tỉnh Luông Pra Băng (2018), Báo cáo

việc phát triển và đẩy mạnh du lịch tỉnh Luông Pra Băng năm 2018,

Luông Pra Băng.

155

37. Sở thông tin, văn hóa và du lịch tỉnh Luông Pra Băng (2011), Chiến lược

phát triển và đẩy mạnh việc du lịch tỉnh Luông Pra Băng giai đoạn năm

2011 - 2020, Luông Pra Băng.

38. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Luông Pra Băng (2013), Báo cáo việc thực hiện

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn năm 2012 - 2013 và định

hướng phát triển giai đoạn 2013 - 2014, Luông Pra Băng.

39. Tạp chí khoa học - xã hội quốc gia Lào (2011), Một số ảnh hưởng của du

lịch tác động đến kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường của Lào.

40. Thatsadaphone MEEXAY (2006), Pháp luật về du lịch, có sự quan trọng

nhất đối với việc phát triển và khuyến khích du lịch của Lào, Tạp chí du

lịch Mương Lao.

41. Thong Sa Văn BUN LỚT (2013), Phát triển khu di sản quốc gia ở huyện

Viêng Xay tỉnh Hua Phăn trở thành điểm du lịch lịch sử Tạp chí Lý luận

Chính trị - Hành chính.

B. Tiếng Việt

42. Trần Xuân Ảnh (2011), Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập

kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

43. Báo Ninh Bình (2015), Ninh Bình tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy

phát triển du lịch, http://www.dulichninhbinh.com.vn/ ninhbinh-

news/Ninh-Binh-Tap-trung-khac-phuc-yeu-kem-thuc-day-phat-trien-du-

lich.html, [truy cập ngày 11/7/2018].

44. Phạm Hồng Chương (2003), Khai thác và mở rộng thị trường du lịch

quốc tế của các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội, Luận án Tiến

sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

45. Văn Dương (2017), Tình hình du lịch Việt Nam, cơ hội thách thức trong

hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu phát triển du

lịch (ITRD), Hà Nội.

156

46. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (Đồng chủ biên) (2008), Giáo

trình kinh tế du lịch, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

47. Nguyễn Thu Hạnh (2011), Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du

lịch biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ, Đề tài khoa học cấp

bộ, Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch, Hà Nội.

48. Đinh Thị Thanh Hiền (2013), Phân tích thị trường khách du lịch Phượt,

Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, Tổng cục

Du lịch Việt Nam, Hà Nội.

49. Hoàng Thị Lan Hương (2011), Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại

vùng du lịch Bắc Bộ của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học

Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

50. Nguyễn Trùng Khánh (2012), Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông Á

và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện

Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

51. Định Trung Kiên (2005), Một số vấn đề về du lịch Việt Nam, NXB Kim

Đồng, Hà Nội.

52. Hoàng Thị Ngọc Lan (2008), Thị trường du lịch tỉnh Hà Tây, Luận án

Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

53. Robert Lanquar (1993), Kinh tế du lịch, NXB Thế giới, Hà Nội.

54. Robert Lanquar, Robert Hollier (1992), Marketing du lịch, NXB Thế

giới, Hà Nội.

55. Nguyễn Thị Hồng Lâm (2013), Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc trung bộ

trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

56. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

157

57. Nguyễn Văn Lưu (2009), Thị trường du lịch, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

58. Phạm Trung Lương (Chủ nhiệm) (2008), Cơ sở khoa học phát triển du

lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ, Đề tài khoa học cấp Bộ,

Viện Nghiên cứu và Phát triển du lịch, Hà Nội.

59. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

60. Nguyễn Văn Mạnh, Phạm Hồng Chương (2009), Giáo trình Quản trị kinh

doanh lữ hành, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

61. Nguyễn Văn Mạnh, Lê Chí Công (2013), "Chất lượng điểm đến: nghiên

cứu và so sánh giữa hai thành phố du lịch biển Việt Nam", Tạp chí Phát

triển kinh tế, (269), tr.2-10.

62. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001), Kinh tế du lịch và du lịch

học, NXB Trẻ, Hà Nội.

63. Vũ Đức Minh (2004), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng

nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố

Hà Nội trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, Luận án Tiến sĩ

Kinh tế, Trường Đại học Thương Mại, Hà Nội.

64. Nguyễn Quỳnh Nga (Chủ nhiệm) (2000), Nghiên cứu và đánh giá một số

đặc điểm của thị trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát triển nguồn

khách của du lịch Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu

và Phát triển du lịch, Hà Nội.

65. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Du

lịch, số 09/2017/QH14, ngày 19/6/2017, Hà Nội.

66. Trương Sĩ Quý (2002), Phương hướng và một số giải pháp về đa dạng

hóa loại hình và sản phẩm du lịch ở Quảng Nam Đà Nẵng, Luận án Tiến

sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

158

67. Hà Văn Siêu (2010), Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách

thức đối với du lịch Việt Nam bước sang thập kỷ tới 2011-2020,

http://laichau.tourism.vn, [truy cập, 20/8/2018].

68. Hoàng Đức Thân (2003), Tổ chức và kinh doanh trên thị trường hàng

hóa và dịch vụ ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

69. Phạm Thị Thúy (2008), Thị trường dịch vụ ở Hải Phòng trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị -

Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

70. Tổng hợp (2017), Ninh Bình - Vùng đất giàu tiềm năng về du lịch,

http://dulichninhbinh365.com/ninh-binh-vung-dat-giau-tiem-nang-ve-du-

lich, [truy cập ngày 25/6/2018].

71. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học và công nghệ

(2017), Thị trường du lịch Việt Nam đang thay đổi do sự phát triển của

công nghệ, Hà Nội.

72. Nguyễn Anh Tuấn (2010), Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

73. Nguyễn Thị Tú (2006), Những giải pháp phát triển du lịch sinh thái Việt

Nam trong xu thế hội nhập, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, trường Đại học

Thương mại, Hà Nội.

74. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2000), Thị trường du lịch ASEAN và

hướng khai thác của du lịch Việt Nam, Hà Nội.

75. Viện Nghiên cứu phát triển du lịch (2000), Nghiên cứu và đánh giá một

số đặc điểm của thị trường Nhật Bản và Trung Quốc nhằm phát triển

nguồn khách của du lịch Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,

Hà Nội.

76. Bùi Thị Hải Yến (2009), Giáo trình Quy hoạch du lịch, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

159

C. Tiếng Anh

77. Andy Wehkamp (2009), The Market for Responsible Tourism Products

in Latin America and Nepal, ISBN 978-90-77821-29-9, 2009 SNV

Netherlands Development Organisation.

78. Ajana (2015), The contribution of tourism development to economic

growth of Sweden: A panel data approach, http://lup.lub.lu.se/luur/,

August, [truy cập ngày 22/8/2018].

79. Burn Peter and Holden Andrew (1995), Tourism - A new perspective,

Prentice Hall, London

80. Burkart and Medlik (1986), Tourism: past, present and future, William

Heinemane Ltd. Great Britain, No.Ed.2 pp.xiv+366pp, ISBN:

434901954.

81. Cassidy Downs (2017), The Importance Of Travelin, www.theodysse

yonline.com/, [truy cập ngày 18/5/2019]

82. Cevat Tosun (2000), Limits to community participation in the tourism

development process in developing countries, Tourism Management 21,

http://dspace.bilkent.edu.tr/, [truy cập ngày 25/10/2018].

83. Crouch và Ritchie (2003), Brazil (2010), Effect of Memorable Tourism

Experiences to Destination Competitiveness, http://www.aijssnet.

com/journals/Vol_5_No_4_August_2016/8.pdf, [truy cập ngày

15/12/2018].

84. David Scowsill (2017), Travel & Tourism Economic impact 2017 Laos,

World travel & Tourism Council, http://www.wttc.org/, [truy cập ngày

18/2/2019].

85. Didactic Encyclopedia (2013), http://www.wttc.org/, [truy cập ngày

15/5/2019].

86. Edyta Gheribi (University of Łódź, Poland) (2015), Factors affecting the

development of catering enterprises in Poland, Scientific Journal

Economic problems of Tourism No. 876, vol. 3 (31) 2015.

160

87. Institute for Tourism Researchin Northern Europe (N.I.T). (2010), Key

factors for successful sustainable heritage tourism in the Baltic Sea Region,

May 2010.

88. Javid Seyidov, Roma Adomaitienė (Vilnius University, Lithuania)

(2016), Factors influencing local tourists' decision-making on choosing a

destination a case of Azerbaijan, Online ISSN 2424-6166. ekonomika

2016 Vol. 95(3), DOI: http://doi.org/10.15388/ Ekon.2016.3.10332, [truy

cập ngày 22/2/2019].

89. Jan-Erik Jaensson (2015), Market Orientation in the Tourism Industry,

http://www.researchgate.net, [truy cập ngày 10/8/2018].

90. John Brohman (Simon Fraser University, Canada) (1996), New

diredtions in tourism for third World development, Annals of Tourism

Research, Vol. 23, No. I, pp. 48-70, 1996.

91. John Tribe (1995), The Economics of Leisure and Tourism, Butterworth -

Heineann Ltd.

92. Komain Kantawateera, Aree Naipinit, Thongphon Promsaka Na Sakolnakorn

& Patarapong Kroeksakul (2015), Tourist Transportation Problems and

Guidelines for Developing the Tourism Industry in Khon Kaen, Thailand,

Asian Social Science; Vol. 11, No. 2; 2015 ISSN 1911-2017.

93. Managing Editor (2015), Brand USA and the importance of the World

Travel Market, March 17.

94. Minoo Farhangmehr & Cláudia Sim [otilde]es PhD (2008), Factors

Affecting Hotel Industry Development in Portugal, Journal of Hospitality &

Leisure Marketing Volume 6, 1999 - Issue 1, Pages 23-46 | Published

online: 20 Oct 2008.

95. Monika Bédiová, Kateřina Ryglová (2015), The Main Factors Influencing

the Destination Choice, Satisfaction and the Loyalty of Ski Resorts

Customers in the Context of Different Research Approaches,

http://acta.mendelu.cz, [truy cập ngày 15/5/2019]

161

96. Marina Novelli, Birte Schmitz, TrishaSpencer (2006), Networks, clusters

and innovation in tourism: A UK experience, Tourism Management,

Volume 27, Issue 6, December 2006, Pages 1141-1152

97. Mehdi Abzari (2011), The Effect of Internal Marketing on Organizational

Commitment from Market-Orientation Viewpoint in Hotel Industry in

Iran, International Journal of Marketing Studies, Vol. 3, No. 1; February

2011.p 147-155.

98. Nguyen Van Thanh, Nguyen Quang Vu (2017), Some solutions to

diversify tourist products in the orchard of Lai Thieu, International

Journal of Scientific Research and Innovative Technology ISSN: 2313-

3759 Vol. 4 No. 11; November 2017.

99. Robert Morello, Factors Affecting Marketing in Travel and Tourism,

Chron, http://smallbusiness.chron.com/, [truy cập ngày 8/2/2019].

100. Rochelle Turner (Research Director) (2018), Travel & Tourism

Economic impact 2018 Laos, World travel & Tourism Council,

http://www.wttc.org/, [truy cập ngày 4/10/2018].

101. Sam Weston (2015), The Growing Importance of Travel & Tourism to

the Global Economy [infographic], http://www.hotelspeak.com, [truy

cập ngày 4/10/2018].

102. Susan Hanson (1980), The importance of the multi-purpose journey to

work in urban travel behavior, Springer Link, October 1980, Volume 9,

Issue 3, pp 229-248.

103. Somruthai Soontayatron (2013), Thai Interpretation of Socio-cultural

Impacts of Tourism Development in Beach Resort, Chulalongkorn,

Bangkok, Thái Lan, 2013, 2 (2), tr 29-35.

104. Shamilka Rasheed (2015), The importance of the Muslim travel market,

http://www.crescentrating.com/, [truy cập ngày 28/10/2018].

162

105. Salah Hassan (2000), Determinants of Market Competitiveness in an

Environmentally Sustainable Tourism Industry, Article in Journal of

Travel Research, February 2000.

106. Tourism Market (2018), Global Industry Analysis and Opportunity

Assessment 2014 - 2020, http://www.futuremarketinsights.com/, [truy cập

ngày 4/10/2018].

107. Tourism Tattler (2014), 20 Niche Tourism Groups), http://www.

tourismtattler.com/articles/niche-tourism/20-special-interest-tourism,

[truy cập ngày 4/10/2018].

108. Nguyen Thi Khanh Chi, Ha Thuc Vien (2012), Factors influencing

Vietnam's tourism development, http://www.researchgate.net/, [truy cập

ngày 4/2/2019].

109. Vicki Gelfeld (2016), Travel Research: 2017 Travel Trends, AARP,

November.

110. Viktoriia Riashchenko, Marga Zivitere, Liubov Kutyrieva (2015), The

problems of development of the Ukrainian tourist market and ways of

their solutions, ISMA University, Lomonosova Str.8, LV-1019 Riga,

Latvia, March 2015.

111. Wiki Didactic (2013), What is the meaning of Tourism market? Concept,

Definition of Tourism market, http://edukalife.blogspot.com/, [truy cập

ngày 2/10/2018].