BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM --------------------------

PHẠM THỊ HỒNG VÂN

THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM ----------------------------

PHẠM THỊ HỒNG VÂN

THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VIỆT NAM

: Kinh tế tài chính – Ngân hàng : 60.31.12

Chuyên ngành Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ THỊ KHOA NGUYÊN

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB

Ngân hàng Phát triển Châu Á

CNY

Nhân dân tệ

EUR

Đồng Euro

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FII

Đầu tư gián tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

Quỹ tiền tệ thế giới.

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng Thương mại

NHTW

Ngân hàng Trung ương

NSNN

Ngân sách Nhà nước

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

TCTD

Tổ chức tín dụng

USD

Đô la Mỹ

VND

Việt Nam Đồng

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1 : Một số chỉ tiêu kinh tế của Trung Quốc thời kỳ năm 2000 -2009...................23

Bảng 2.1 : Một số chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ từ năm 2000-2009..........30

Bảng 2.2 : Tình hình bội chi NSNN từ 2000 – 2009.........................................................35

Bảng 2.3 : Nguồn vốn ODA trong các thời kỳ..................................................................56

Bảng 2.4 : Hoạt động xuất nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2010..........................................60

Bảng 2.5 : Giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ 2005-2009 ......................................................60

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

Hình 1.1 : Tổ chức thị trường ngoại hối ở Việt Nam..........................................................4

Hình 1.2: Tóm lược các yếu tố có thể tác động đến tỷ giá.. ................................................. 18

Hình 2.1 : Tổng đầu tư xã hội của Việt Nam giai đoạn 2000-2009. .................................31

Hình 2.2 : Dự trữ ngoại hối quốc gia của Việt Nam giai đoạn 1999-2009. ......................33

Hình 2.3 : Nợ công của Việt Nam từ giai đoạn 2005-2009 ..............................................35

Hình 2.4 : Tỷ lệ tăng trưởng của xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-1998. ..............................40

Hình 2.5 : Tỷ giá hối đoái từ tháng 12/2007-12/2009.......................................................50

Hình 2.6 : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giai đoạn năm 1991-2009. .................55

Hình 2.7 : Lượng kiều hối về Việt Nam trong giai đoạn 1999-2009. ..............................57

Hình 2.8 : Kim ngạch xuất nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam 1999-2009. ...............59

MỤC LỤC

(cid:61590)(cid:61478)(cid:61591)

Lời cam đoan

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng biểu

Danh mục các đồ thị

Lời mở đầu

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI.

1.1

Thị trường ngoại hối .........................................................................................1

1.1.1

Khái niệm ............................................................................................................1

1.1.2

Các thành phần tham gia thị trường ngoại hối. ...................................................1

1.1.3

Cấu trúc thị trường ngoại hối ............................................................................. 2

1.1.4

Các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại hối...........................................3

1.1.5

Tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam..................................4

1.1.6

Vai trò của thị trường ngoại hối. .........................................................................4

1.1.7

Sự cần thiết phải quy định các hạn chế đối với giao dịch ngoại hối. ................. 5

1.1.8

Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối..........5

1.1.8.1

Tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế .........................5

1.1.8.2

Can thiệp của chính phủ trong thị trường ngoại hối ...........................................9

1.1.8.3

Sự cần thiết phải can thiệp ...............................................................................10

1.1.8.4

Các phương pháp can thiệp của chính phủ .......................................................11

1.1.8.5

Lý thuyết Bộ ba bất khả thi trong điều hành chính sách tỷ giá .........................13

1.2

Quản lý ngoại hối............................................................................................ 15

1.2.1

Khái niệm về chính sách quản lý ngoại hối và quản lý ngoại hối ....................15

1.2.1.1

Chính sách quản lý ngoại hối ............................................................................15

1.2.1.2 Quản lý ngoại hối ..............................................................................................15

1.2.2

Mục đích quản lý ngoại hối...............................................................................16

1.2.3

Phạm vi quản lý ngoại hối .................................................................................16

1.2.4

Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung quyết định quản lý ngoại hối của chính

phủ. ....................................................................................................................17

1.2.5

Các công cụ của quản lý ngoại hối....................................................................19

1.2.5.1

Công cụ can thiệp gián tiếp. ..............................................................................19

1.2.5.2

Công cụ can thiệp trực tiếp................................................................................21

1.3

Tác động của chính sách quản lý ngoại hối và thị trường ngoại hối đến

nền kinh tế ........................................................................................................21

1.3.1

Tác động của thị trường ngoại hối đến nền kinh tế. .........................................21

1.3.2

Tác động của chính sách ngoại hối đến nền kinh tế..........................................22

1.4

Kinh nghiệp quản lý ngoại hối ở một số nước. .............................................22

1.4.1

Chính sách ngoại hối ở Trung quốc. .................................................................22

1.4.2

Chính sách ngoại hối ở Thái Lan. .....................................................................27

1.4.3

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. .................................................................28

Kết luận chương 1. ............................................................................................................29

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM VÀ

QUẢN LÝ NGOẠI HỐI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

2.1

Khái quát sơ lược về tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam giai

đoạn 2000-2009 ...............................................................................................30

2.2

Thực trạng thị trường ngoại hối và quản lý ngoại hối chính phủ trong

thời gian qua. ...................................................................................................36

2.2.1

Thực trạng thị trường ngoại hối ....................................................................37

2.2.1.1 Giai đoạn từ năm 1986 – 1990 ..........................................................................37

2.2.1.2 Giai đoạn từ năm 1991 đến nay....................................................................... 37

2.2.2

Quản lý ngoại hối.............................................................................................44

2.2.2.1 Giai đoạn từ năm 1986 – 1990 ..........................................................................44

2.2.2.2 Giai đoạn từ năm 1991 đến nay....................................................................... 45

2.2.2.3 Đánh giá hoạt động quản lý ngoại hối trên thị trường ngoại tệ trong thời

gian qua .............................................................................................................61

70

Kết luận chương 2 .............................................................................................................63

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NGOẠI HỐI TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP.

3.1

Định hướng quản lý ngoại hối trong thời gian tới....................................... 64

3.2

Những thách thức đối với quản lý ngoại hối trong bối cảnh hội nhập...... 65

3.2.1

Hoạt động đầu cơ tích trữ, buôn lậu vàng - ngoại tệ trên thị trường chợ đen ...65

3.2.2

Những tác động từ tự do hóa giao dịch vốn ......................................................65

3.2.3

Kiểm soát tổng lượng tiền trong lưu thông. ..................................................... 66

3.3

Các kiến nghị, giải pháp quản lý ngoại hối trên thị trường trong giai

đoạn hội nhập...................................................................................................66

3.3.1

Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường ngoại hối. ..........................................67

3.3.1.1

Tập trung ngoại tệ vào ngân hàng. ....................................................................68

3.3.1.2

Thay đổi cơ chế quản lý ngoại tệ đối với tầng lớp dân cư là người cư trú. ......69

3.3.1.3 Hạn chế tín dụng ngoại tệ..................................................................................69

.................................................................................70

3.3.1.4 Quản lý lãi suất ngoại tệ.

3.3.1.5

Tập hợp nguồn ngoại tệ dự trữ về cho một đầu mối duy nhất quản lý là

NHNN. ..............................................................................................................70

3.3.2

Tăng cường công tác quản lý ngoại hối.........................................................71

3.3.3

Nâng cao tính chuyển đổi của VND, khắc phục tình trạng đô la hóa nền

kinh tế ...............................................................................................................72

3.3.4

Nâng cao nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền. ..................................................73

3.3.5

Cơ chế thông tin công khai, minh bạch: .......................................................74

..............................................................74

3.3.6

Phát triển các sản phẩm phái sinh.

3.3.7

Thúc đẩy thu hút và quản lý ngoại tệ. ...........................................................76

3.3.7.1 Đẩy mạnh kênh tín dụng thương mại, nhập khẩu trả chậm. .............................76

3.3.7.2 Khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu. .................................................77

3.3.7.3 Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn ngoại . ...............................................................78

.............................................................................80

3.3.7.4 Kiểm soát luồng vốn ngoại.

3.3.8

Các kiến nghị khác ..........................................................................................82

Kết luận chương 3 ............................................................................................................. 82

Kết luận

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài

Chính sách quản lý ngoại hối đóng vai trò rất quan trọng trong việc định

hướng phát triển thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, tự bản thân chính sách không thể

thực thi được nếu không có sự giám sát, quản lý, kiểm tra của chính phủ. Trong giai

đoạn hiện nay, nền kinh tế hội nhập toàn cầu, thị trường ngoại hối là nơi bị tác động

nhiều nhất bởi các yếu tố bên ngoài, làm cho hoạt động quản lý ngoại hối càng khó

khăn và phức tạp hơn.

Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới, cần 1 lượng vốn đầu tư lớn

mà khả năng tiết kiệm trong nước còn hạn chế thì việc tận dụng được nguồn vốn

bên ngoài để đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội là cơ hội tốt. Trong thời gian qua, sau

khi thực hiện tự do hóa các giao dịch vãng lãi và tự do hóa 1 phần các giao dịch vốn

thì Việt Nam đã thu hút được 1 lượng vốn lớn, bù đắp những thiếu hụt của nguồn

cung vốn trong nước, mang lại những động lực mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và

đặc biệt là nguồn vốn này đã giải quyết phần lớn nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế

nước ta, cũng như cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Bên cạnh những lợi ích

mang lại thì các dòng vốn này cũng gây ra nhiều tác động bất lợi chính sách tiền tệ.

Ngoài ra, tình trạng đô la hóa nền kinh tế của nước ta cao cũng gây ra những

khó khăn, bất ổn đối với thị trường ngoại hối, ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế.

Vì vậy, rất cần phải có sự quản lý hoạt động ngoại hối, điều tiết thị trường

ngoại hối để hạn chế những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ cho

chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Thị trường

ngoại hối và quản lý ngoại hối Việt Nam”

2. Mục tiêu nghiên cứu.

Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề của thị trường ngoại hối và quản lý

ngoại hối của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bao gồm:

Nghiên cứu lý luận chung về thị trường ngoại hối, chính sách ngoại hối, hoạt

động quản lý ngoại hối và quan sát kinh nghiệm quản lý ngoại hối của một số nước.

Tìm hiểu thị trường ngoại hối Việt Nam và hoạt động quản lý ngoại hối của

chính phủ trong thời gian vừa qua. Qua đó, nhận định, đánh giá những thành công

của quản lý ngoại hối, cũng như nêu ra những bất cập trong quản lý ngoại hối cần

phải hoàn thiện.

Nội dung nữa là giải pháp về quản lý ngoại hối trong việc giải quyết một số

các vấn đề của thị trường ngoại hối hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu : Lý luận và thực tiễn về thị trường ngoại hối và hoạt động

quản lý ngoại hối của Việt Nam trong giại đoạn hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu : Thị trường ngoại hối Việt Nam trong giai đoạn nền kinh tế

mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu từ năm 1986 đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu.

- Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích các số liệu thực tế, so sánh tương

quan và tổng hợp dữ liệu. Phân tích và đánh giá trong bài dựa trên sự hiểu biết

của bản thân và tham khảo các nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế.

- Viết đề tài này tác giả sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu thứ cấp mà tác giả đã thu

thập, tổng hợp và đã được xử lý theo yêu cầu của từng chuyên mục của luận văn.

- Dữ liệu được thu thập, tập hợp từ các báo cáo chuyên ngành, báo cáo thường

niên của các cơ quan hữu quan Việt Nam và các tổ chức tài chính quốc tế; các

tạp chí chuyên ngành uy tín như : Tạp chí ngân hàng, Thời báo kinh tế,… ; Và

các cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước bao gồm NHNN, Hiệp hội

ngân hàng Việt Nam, Tổng cục Thống kê, …

5. Nội dung đề tài.

Luận văn gồm 3 chương :

- Chương 1 : Tổng quan về thị trường ngoại hối và quản lý ngoại hối

- Chương 2 : Thực trạng thị trường ngoại hối Việt nam và quản lý ngoại hối từ

năm 1986 đến nay.

- Chương 3 : Giải pháp quản lý ngoại hối trong quá trình hội nhập.

1

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ

QUẢN LÝ NGOẠI HỐI

1.1 Thị trường ngoại hối

1.1.1 Khái niệm

Nhu cầu giao dịch và trao đổi ngoại tệ giữa các nước nhằm phục vụ cho hoạt

động ngoại thương đã dẫn đến sự hình thành và phát triển thị trường ngoại hối như

ngày nay. Các giao dịch ngoại thương thường có liên quan đến nhiều loại đồng tiền

của nhiều nước khác nhau; Vì vậy, thị trường ngoại hối sẽ giúp cho các công ty

chuyển từ đồng tiền mình đang có sang đồng tiền đang cần, tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động thương mại quốc tế hoặc các giao dịch tài chính. Như vậy, thị trường

ngoại hối có thể được khái quát như sau:

Thị trường ngoại hối là thị trường thực hiện các giao dịch mua bán, trao đổi

các loại ngoại tệ và các hoạt động kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ

Theo Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban

hành thì khái niệm ngoại hối bao gồm ngoại tệ, phương tiện thanh toán bằng ngoại

tệ, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và vàng tiêu chuẩn quốc tế, nhưng trong phạm vi

bài viết này thì chỉ đề cập đến ngoại hối ở góc độ là các loại ngọai tệ.

1.1.2 Các thành phần tham gia thị trường ngoại hối.

Dựa vào nhu cầu, mục đích giao dịch ngoại tệ thì các chủ thể tham gia thị

trường ngoại hối bao gồm:

- Chính phủ: Đại diện chính phủ thường là NHTW, tham gia thị trường ngoại

hối với vai trò là người tổ chức, điều hành, kiểm soát và mua bán ngoại tệ trên thị

trường ngoại hối liên ngân hàng nhằm ổn định thị trường ngoại hối, ổn định tỷ giá.

- Các trung gian tài chính (TCTD được phép): Chủ thể này nằm ở vị trí trung

tâm của thị trường ngoại hối, họ mua bán ngoại tệ cho chính họ khi thực hiện mục

tiêu kinh doanh hay mua bán thay cho khách hàng khi thực hiện vai trò môi giới.

2

- Các tổ chức: Đó là các công ty xuất nhập khẩu, công ty đa quốc gia, nhà đầu

tư có nhu cầu mua bán, chuyển đổi từ ngoại tệ ra nội tệ và ngược lại, nhằm phục vụ

cho hoạt thương mại và đầu tư.

- Cá nhân: Nhóm chủ thể này tham gia thị trường có nhu cầu mua ngoại tệ để

đi công tác, học tập, du lịch, chữa bệnh… ở nước ngoài; hoặc có nhu cầu bán ngoại

tệ khi nhận được các khoản thu từ nước ngoài như lợi tức đầu tư, kiều hối, …

1.1.3 Cấu trúc thị trường ngoại hối

Căn cứ vào hình thức tố chức thị trường, có thể chia thị trường làm 2 loại:

- Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: là thị trường cho các giao dịch giữa

NHTW với các NHTM và giữa các NHTM với nhau. Tại Việt Nam, thị trường

ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN Việt Nam tổ chức, điều hành. Các chủ thể tham

gia thị trường này là các NHTM phải chấp hành quy chế tổ chức và hoạt động của

thị trường này do NHNN Việt Nam quy định.

- Thị trường ngoại tệ giữa NHTM với khách hàng: Thị trường cho các giao

dịch mua bán, trao đổi các loại ngoại tệ giữa NHTM với các tổ chức, cá nhân có

nhu cầu.

Các chủ thể tham gia thị trường này phải chấp hành quy chế tổ chức và hoạt

động của thị trường này do NHTW quy định.

Ngoài ra, tại Việt Nam còn tồn tại thị trường ngoại tệ tự do hay còn gọi là thị

trường ngoại tệ chợ đen, tồn tại song song với thị trường chính thức, nằm ngoài sự

kiểm soát của NHNN. Giao dịch mua bán diễn ra theo hình thức trao tay ngoại tệ

tiền mặt - thuận mua, vừa bán; giá trị giao dịch từng lần không lớn lắm. Nơi diễn ra

các giao dịch này chủ yếu là ở các tiệm vàng - TP. HCM hay như trên đường phố

Nguyễn Trung Trực – Hà Nội,... Mặc dù, sự tồn tại của thị trường chợ đen đã tác

động tiêu cực đến cung cầu ngoại tệ của thị trường ngoại hối, gây khó khăn cho việc

quản lý ngoại hối của Nhà nước nhưng do vận hành cơ chế quản lý ngoại hối nhà

nước lựa chọn thì sự tồn tại của thị trường tự do như một quy luật tất yếu mà nhà

nước phải chấp nhận.

3

1.1.4 Các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại hối.

Thị trường ngoại hối bao gồm một số nghiệp vụ kinh doanh phổ biến như sau:

- Giao dịch giao ngay: Là giao dịch giữa hai bên thực hiện mua, bán ngoại tệ

theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán chậm nhất trong

vòng 2 ngày làm việc tiếp theo kể từ khi thỏa thuận mua bán.

- Giao dịch kỳ hạn: Là giao dịch hai bên cam kết sẽ mua, bán với nhau một số

lượng ngoại tệ nhất định theo một tỷ giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực

hiện vào một thời điểm xác định trong tương lai.

- Giao dịch hoán đổi: Là giao dịch cùng mua và bán một lượng ngoại tệ, trong

đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch là khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch xác

định vào thời điểm ký kết hợp đồng, hai giao dịch đó thường là một giao dịch giao

ngay và một giao dịch kỳ hạn theo hướng đối nghịch nhau, nhằm giúp các nhà đầu

tư phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

- Giao dịch giao sau: là thỏa thuận giữa 2 bên ấn định các điều kiện trao đổi

một số lượng tiền tệ cụ thể, tỷ giá được ấn định vào lúc thỏa thuận. Hợp đồng giao

dịch giao sau giống với hợp đồng giao dịch kỳ hạn ngọai trừ một số chi tiết quan

trọng đó là hợp đồng giao dịch giao sau là những thỏa thuận đã được tiêu chuẩn hóa

để trao đổi tiền. Hiện nay, thị trường ngoại hối Việt Nam chưa có loại hình giao

dịch giao sau.

- Giao dịch quyền chọn tiền tệ: là giao dịch giữa 2 bên, bên mua quyền chọn

và bên bán quyền chọn. Trong đó, bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa

vụ phải mua hay bán một số lượng ngoại tệ nhất định với mức tỷ giá xác định trong

một khoảng thời gian thỏa thuận trước. Ngược lại, Bên bán quyền lại bị bắt buộc

phải bán hoặc mua một số lượng ngoại tệ nhất định nếu như Bên mua quyền thực

hiện quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán. Thông qua giao dịch này, Bên bán

quyền sẽ thu được phí bán quyền chọn từ Bên mua quyền chọn.

Với đặc điểm của các giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi và giao dịch

quyền chọn tiền tệ là những giao dịch thực hiện cho việc mua bán ngoại tệ ở tương

4

lai nên những hợp đồng giao dịch loại này được xem như những sản phẩm phái

sinh, công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái cho các chủ thể tham gia thị trường.

1.1.5 Tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định điều kiện, phương thức, các loại

Thị trường quốc tế

NHTM A, B, …

NHTM M,N, …

Thị trường quốc tế

Khách hàng E,…

Khách hàng A,…

hình nghiệp vụ giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ.

Hình 1.1 : Tổ chức thị trường ngoại hối ở Việt Nam.

NHNN điều tiết thị trường ngoại hối bằng các công cụ của chính sách tiền tệ

thông qua các nghiệp vụ của NHTW tác động lan tỏa tới hệ thống các NHTM.

NHTM đóng vai trò chủ chốt trên thị trường ngoại hối; đảm nhiệm chức

năng làm trung gian, cầu nối trong các giao dịch kinh doanh ngoại tệ; đáp ứng nhu

cầu trao đổi, mua bán ngoại tệ của các chủ thể trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, các

NHTM cũng tham gia giao dịch mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và

thị trường tài chính quốc tế để kiếm lời và đảm bảo cân bằng trạng thái ngoại tệ khi

cần để giảm thiểu rủi ro.

1.1.6 Vai trò của thị trường ngoại hối.

Thị trường ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách

tiền tệ của chính phủ và trong hoạt động đối ngoại của nền kinh tế, đó là :

- Thị trường ngoại hối là nơi đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm

bôi trơn cho các hoạt động xuất nhập khẩu và các hoạt động dịch vụ có liên quan

đến ngoại tệ.

- Thị trường ngoại hối còn là phương tiện giúp cho các nhà đầu tư chuyển đổi

ngoại tệ phục vụ cho hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình hay tài sản tài chính.

5

- Thị trường ngoại hối là kênh truyền tải của các chính sách kinh tế vĩ mô và

cũng là nơi chính phủ có thể can thiệp vào giá trị đồng nội tệ nhằm thực hiện chính

sách tiền tệ của mình.

1.1.7 Sự cần thiết phải quy định các hạn chế đối với giao dịch ngoại hối.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều mở cửa, giao

lưu thương mại, hợp tác kinh doanh và đầu tư với nhau nên các nước đều xuất hiện

nhu cầu khách quan cần phải sử dụng tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng

của tiền tệ. Giao dịch ngoại hối trở nên không thể thiếu đối với hoạt động đối ngoại

của mỗi nước. Tuy nhiên, vấn đề ngoại hối cũng gây ra không ít những thử thách

cho hệ thống tiền tệ mỗi nước.

Mỗi quốc gia có một hệ thống tiền tệ riêng, vị thế của đồng bản tệ cũng góp

phần vào việc xác định khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như khẳng định vị

thế quốc gia trên thị trường quốc tế. Vì vậy, để bảo vệ đồng nội tệ và hạn chế sự lấn

át của ngoại tệ trong việc thực hiện các chức năng của đồng nội tệ hay nói cách

khác là hạn chế tình trạng đôla hóa nên cần phải giới hạn đối với các giao dịch

ngọai hối.

Ngoài ra, với xu hướng toàn cầu hóa, các nước có xu hướng mở rộng cửa đối

với các giao dịch vốn, qua đó dòng vốn quốc tế sẽ luân chuyển từ nơi có hiệu suất

sử dụng vốn thấp sang nơi có hiệu suất sử dụng vốn cao. Bên cạnh những lợi ích

dòng vốn này mang lại thì nó cũng gây ra không ít những tác động tiêu cực đối với

các nước tiếp nhận dòng vốn này, dòng vốn ngoại chảy vào nhiều có thể tấn công sự

ổn định của khu vực tài chính trong nước, đặc biệt đáng lo ngại là với hiện tượng

đầu cơ tiền tệ; vì vậy, việc hạn chế các giao dịch này là cần thiết. Các nước đang

phát triển như Việt Nam, hệ thống tài chính không đủ vững mạnh, khả năng chống

đỡ kém thì mức độ hạn chế các giao dịch ngoại hối nhiều hơn. Như vậy, hạn chế đối

các giao dịch ngoại hối giống như các hàng rào phòng vệ cho khu vực tài chính

quốc gia đó, chống đỡ những tác động ngoại lực.

1.1.8 Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối.

1.1.8.1 Tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế

6

i. Khái niệm tỷ giá hối đoái.

Trong các giao dịch quốc tế đòi hỏi phải có sự chuyển đổi đồng tiền nước

này sang nước khác. Mỗi đồng tiền chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau

nên có sức mua khác nhau, vì thế trên thị trường ngoại hối quy định sẵn tỷ lệ làm cơ

sở chuyển đổi giữa 2 đồng tiền, tỷ lệ này gọi là tỷ giá hối đoái ( hay gọi ngắn gọn là

tỷ giá).

Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền được biểu hiện thông qua một

đơn vị đồng tiền khác.

Giá cả của ngoại tệ trên thị trường ngoại hối (hay còn được gọi là tỷ giá hối

đoái), về nguyên tắc là sẽ được quyết định bởi sự tác động giữa cung - cầu ngoại tệ.

Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái có tác động lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế nên không

phải quốc gia nào cũng để tỷ giá cho cung cầu ngoại tệ quyết định, mà phần lớn các

quốc gia đều tham gia điều tiết tỷ giá. Theo đó, mỗi quốc sẽ lựa chọn cho mình một

chế độ tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng thời nhất định của

mình. Về hệ thống chế độ tỷ giá thì chỉ có loại hệ thống tỷ giá thả nổi hoàn toàn là

chính phủ không phải can thiệp, còn những loại hệ thống tỷ giá cố định hay hỗn hợp

giữa cố định và thả nổi thì đều cần có sự can thiệp của chính phủ vào tỷ giá hối đoái

trên thị trường tiền tệ ( Phụ lục 1).

(cid:61558) Trên thị trường ngoại hối quốc tế có 2 cách yết giá, các nước có thể lựa chọn

phương pháp yết giá trực tiếp và cũng có thể là gián tiếp:

- Yết giá trực tiếp là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị ngoại tệ thông qua

một số lượng nội tệ nhất định. VD: Ở Việt Nam, tỷ giá được yết trực tiếp như sau:

1USD =19.100VND; hay 1EUR = 25.620 VND

- Yết giá gián tiếp : là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị nội tệ thông qua

một số lượng ngoại tệ nhất định. VD: Ở Anh, tỷ giá được yết gián tiếp như sau:

1GPB = 1.5521USD; hay 1GPB = 1,1773 EUR;

Để tạo sự thống nhất xuyên suốt bài viết, tỷ giá hối đoái được đề cập đến

trong bài là tỷ giá đối đoái giữa VND và USD và được niêm yết theo phương pháp

trực tiếp.

7

(cid:61558) Phân loại tỷ giá

Căn cứ vào loại thị trường giao dịch :

- Tỷ giá chính thức – Tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng : là tỷ giá do

NHNN công bố. Tỷ giá chính thức để áp dụng thuế xuất nhập khẩu và hoạt động

khác liên quan đến tỷ giá chính thức còn là cơ sở để NHTM xác định tỷ giá kinh

doanh trong biên độ cho phép.

- Tỷ giá chợ đen: là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng, do

quan hệ cung cầu trên thị trường tự do quyết định.

ii. Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế

(cid:61558) Cán cân thương mại ( Xuất khẩu – Nhập khẩu).

Tỷ giá hối đoái là yếu tố tác động trực tiếp đến cán cân thương mại vì nó ảnh

hưởng tương đối đến giá cả hàng hóa trong nước và giá cả hàng hóa thế giới. Khi

đồng nội tệ giảm giá (tỷ giá hối đoái tăng) thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu trở lên

đắt đỏ hơn, trong khi đó giá cả hàng xuất khẩu lại rẻ hơn đối với người dân nước

ngoài. Ngược lại, đồng nội tệ tăng giá (tỷ giá hối đoái giảm) thì giá cả hàng hóa

nhập khẩu sẽ rẻ hơn đối với người dân trong nước và giá cả hàng hóa xuất khẩu sẽ

đắt đỏ hơn đối với người dân nước ngoài. Vì vậy, tỷ giá hối đoái tăng sẽ thuận lợi

cho xuất khẩu và gây bất lợi cho nhập khẩu, dẫn đến thuận lợi cho cán cân thương

mại; và ngược lại tỷ giá hối đoái giảm sẽ hậu thuẫn cho nhập khẩu, không khuyến

khích cho hoạt động xuất khẩu, gây bất lợi cho cán cân thương mại.

Cán cân thương mại = Xuất khẩu – nhập khẩu

(cid:61558) Lạm phát, thất nghiệp

Thuyết ngang giá sức mua (PPP) đã giải thích các tỷ giá hối đoái sẽ thay đổi

khi có sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát của các nước như sau :

Khi các yếu tố khác như nhau, tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so

với lạm phát của một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó sẽ giảm do xuất khẩu

giảm. Hơn nữa, nước có tỷ lệ lạm phát cao hơn, người dân có xu hướng tăng nhập

khẩu. Cả 2 tác động này tạo ra áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao.

8

Theo ngang giá sức mua, mối liên hệ giữa tỷ lệ lạm phát tương đối và tỷ giá

hối đoái được phản ánh qua công thức sau :

Ef = ((1+Ih)/(1+If))-1

Trong đó :

Ef : Phần trăm thay đổi giá trị của đồng ngoại tệ

Ih : Lạm phát trong nước

If : Lạm phát nước ngoài.

Nếu Ih >If thì Ef >0, điều này có nghĩa là đồng ngoại tệ sẽ tăng giá khi lạm

phát trong nước vượt qúa lạm phát ở nước ngoài.

Nếu Ih

phát ở nước ngoài vượt qúa lạm phát ở trong nước.

Theo PPP, đồng ngoại tệ sẽ tăng giá (hoặc giảm giá) để đáp ứng mức lạm

phát cao hơn (hoặc thấp hơn) so với nước ngoài. Nếu tỷ giá hối đoái thay đổi bằng

một tỷ lệ đúng như vậy, chỉ số giá cả của nước ngoài sẽ cao bằng (hoặc thấp bằng)

với chỉ số giá cả trong nước từ góc độ của người tiêu dùng trong nước.

Đồng nội tệ giảm giá có thể làm gia tăng nhu cầu của người nước ngoài về

hàng hóa của nước mình, do đó sẽ khuyến khích sản xuất trong nước sản xuất hàng

hóa xuất khẩu, tạo ra nhiều công ăn việc làm, tỷ lệ thấp nghiệp thấp, nhưng có thể

làm tăng tỷ lệ lạm phát. Ngược lại, khi đồng nội tệ tăng giá sẽ làm tăng nhu cầu của

người dân trong nước về hàng hóa nước ngoài, vì vậy sản xuất trong nước bị trì trệ,

tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, tỷ lệ lạm phát thấp nhưng khả năng rơi vào tình trạng nền

kinh tế bị suy thoái rất cao.

(cid:61558) Đầu tư nước ngoài.

Tỷ giá hối đoái là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời

của vốn đầu tư. Vì vậy, quyết định của nhà đầu tư cũng bị chi phối bởi vấn đề tỷ giá

hối đoái của nước sở tại.

Trên thị trường tài chính quốc tế, dòng vốn sẽ di chuyển từ nơi có tỷ suất

sinh lời thấp sang nơi có tỷ suất sinh lời cao. Vì vậy, để thu hút được dòng vốn

ngoại thì ngoài các vấn đề thuộc về công tác nghiệp vụ như hoàn thiện hành lang

9

pháp lý, cải thiện môi trường đầu tư,...thì trong điều hành tỷ giá hối đoái, chính phủ

các nước tiếp nhận nguồn vốn này phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích của các nhà

đầu tư.

Chính sách điều hành tỷ giá của chính phủ các nước rất được sự quan tâm

của các nhà đầu tư nước ngoài, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến dòng tiền trong

tương lai của các nhà đầu tư mà nó còn ảnh hưởng đến lợi nhuận của họ. Sự biến

động của tỷ giá hối đoái sẽ làm gia tăng mức độ rủi ro đối với dòng vốn đầu tư của

họ. Vì vậy, một chính sách tỷ giá ổn định lâu dài là một trong những yếu tố rất quan

trọng gây sức hút đối với các dòng vốn đầu tư nước ngoài.

1.1.8.2 Can thiệp của chính phủ trong thị trường ngoại hối

Mỗi nước có một cơ quan của chính phủ - Ngân hàng Trung ương có thể can

thiệp vào thị trường ngoại hối để kiểm soát tăng trưởng của mức cung tiền tệ, nhằm

khống chế giá trị của đồng nội tệ, giúp tác động thuận lợi cho các mục tiêu kinh tế

vĩ mô. Tại Việt Nam, cơ quan đại diện cho chính phủ can thiệp vào thị trường này

là NHNN, còn ở Mỹ là Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), tại Trung Quốc là Ngân

hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC), ở Thái Lan là Ngân hàng trung ương Thái Lan

(BOT), …

Sự biến đổi của đồng nội tệ có ảnh hưởng mạnh đến các biến số kinh tế. Vì

vậy, NHTW các nước có thể thông qua việc tác động đến giá trị của đồng nội tệ để

cải thiện kinh tế, hạ giá đồng tiền của mình trong vài trường hợp và tăng giá trong

vài trường hợp khác.

- Ảnh hưởng của một đồng nội tệ yếu đối với nền kinh tế : Một đồng nội tệ

yếu có thể kích thích nhu cầu của nước ngoài đối với sản phẩm của nước mình, tức

là khuyến khích xuất khẩu, hoạt động sản xuất trong nước phát triển, từ đó tạo ra

nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, nếu đồng nội tệ giảm giá

mạnh có thể làm lạm phát tăng cao.

- Ảnh hưởng của một đồng nội tệ mạnh đối với nền kinh tế: Một đồng nội tệ

mạnh sẽ khuyến khích người tiêu dùng và các công ty trong nước nhập khẩu hàng

hóa và nguyên vật liệu từ các nước khác vì hàng hóa nước ngoài có giá cạnh tranh

10

hơn so với hàng hóa trong nước, dẫn đến kết quả là sản xuất trong nước bị trì trệ,

thất nghiệp tăng cao và tình trạng này kéo dài có thể làm nền kinh tế của nước mình

càng bị suy thoái mạnh.

Giá trị lý tưởng của một đồng tiền tùy thuộc vào quan điểm của từng nước và

của các nhà lãnh đạo nước đó trong từng thời kỳ.

VD : Với chính sách đồng CNY yếu của mình, Trung Quốc đã thúc đẩy xuất

khẩu tăng cao, cán cân thương mại thường xuyên thặng dư, dự trữ ngoại tệ cao vào

hàng đầu thế giới, kinh tế tăng trưởng mạnh trong lúc nền kinh tế toàn cầu đang bị

suy thoái mạnh; Trong khi đó, đối tác thương mại lớn của Trung Quốc là Mỹ thì

nền kinh tế lại bị suy thoát trầm trọng, sản xuất trong nước trì trệ, tỷ lệ thấp nghiệp

tăng cao, cán cân thương mại với Trung Quốc bị thâm hụt thường xuyên, dự trữ

ngoại tệ bị giảm sút mạnh. Theo Mỹ thì 1 phần nguyên nhân là do chính sự mất cân

đối trong cán cân thương mại với Trung Quốc gây lên và tình trạng này xảy ra do

Trung Quốc duy trì chính sách đồng CNY yếu. CNY được định giá thấp đã làm

tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc so với hàng hóa của Mỹ. Trước tình

hình đó, từ năm 2005 đến nay chính quyền Mỹ đã liên tục gây áp lực với Trung

Quốc về việc tăng giá đồng CNY bằng các biện pháp tăng các hàng rào thương mại

đối với các hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ. Tuy nhiên, cuộc giằng co

này vẫn chưa xác định điểm dừng, Trung Quốc vẫn kiên quyết duy trì chính sách

đồng nội tệ yếu.

1.1.8.3 Sự cần thiết phải can thiệp

Thực tế đã chứng minh rằng, các thị trường ngoại hối thành công đều không

thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của chính phủ. Bởi

thị trường ngoại hối là thị trường chịu sự tác động rất nhiều của yếu tố bên ngoài

nên sự tham gia của chính phủ như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu của thị

trường và đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ nhất định.

NHTW can thiệp vào tỷ giá trên thị trường ngoại hối vì các lý do chính sau:

- Làm dịu bớt các biến động tỷ giá : Để tránh những biến động đột ngột trong

giá trị của đồng nội tệ ảnh hưởng đến nền kinh tế, NHTW có thể phải cố gắng làm

11

dịu bớt các biến động tiền tệ trong từng thời kỳ. Ngoài ra, việc này còn có thể làm

giảm đi sự lo ngại của các nhà đầu tư, các đơn vị kinh doanh và tránh được các hoạt

động đầu cơ, hoạt động mà có thể có nguy cơ làm cho giá trị của một đồng tiền rơi

tự do.

- Thiết lập các biên độ tỷ giá hối đoái ẩn: Một vài NHTW nỗ lực duy trì tỷ giá

đồng nội tệ trong vòng các biên độ không chính thức hay ẩn và nó được điều chỉnh

qua thời gian. NHTW can thiệp để cho đồng nội tệ không tụt dưới mức hay tăng

trên mức chuẩn nào đó.

- Ứng phó với các xáo trộn tạm thời: Trong một vài trường hợp, vài thời kỳ,

NHTW có thể phải can thiệp để cô lập giá trị của đồng nội tệ khỏi những xáo trộn

tạm thời

1.1.8.4 Các phương pháp can thiệp của chính phủ

Các chính phủ có nhiều cách can thiệp vào thị trường ngoại hối, có thể can

thiệp trực tiếp và cũng có thể can thiệp gián tiếp tùy thuộc vào tình hình biến động

của thị trường tiền tệ và mục tiêu của chính phủ trong từng thời kỳ.

i. Can thiệp trực tiếp.

Phương pháp can thiệp trực tiếp của NHTW vào các thị trường hối đoái để

buộc đồng nội tệ giảm giá bằng cách bán đồng nội tệ, đổi đồng nội tệ lấy các ngoại tệ

khác. Ngược lại, để buộc đồng nội tệ tăng giá thì NHTW can thiệp bằng cách mua

đồng nội tệ, đổi ngoại tệ lấy nội tệ trong thị trường ngoại hối.

- Sử dụng biện pháp can thiệp trực tiếp đòi hỏi NHTW phải có dự trữ ngoại tệ

lớn, đồng thời có phải có sự nỗ lực phối hợp của các NHTW thì mới có hiệu quả đáng

kể, nếu không nó chỉ có tác động tạm thời; Và sau cùng các can thiệp này sẽ bị các

giao dịch thị trường áp đảo vì sự lớn mạnh của hoạt động ngoại hối.

Can thiệp đạt mục tiêu : Khi sự can thiệp của NHTW phát huy tác dụng hoặc

thậm chí tác động mạnh đến thị trường theo như mục tiêu mong muốn.

Can thiệp không đạt mục tiêu : Can thiệp của NHTW trong thị trường ngoại

hối không phải lúc nào cũng đạt mục tiêu, trong nhiều trường hợp sự can thiệp chỉ

đạt được tác động ban đầu nhưng cuối cùng vẫn không đạt hiệu quả.

12

- Can thiệp trực tiếp của NHTW vào thì trường ngoại hối có thể làm thay đổi

lượng cung nội tệ và cũng có thể không làm thay đổi lượng cung nội tệ nhưng vẫn

đạt được mục tiêu là tăng giá hoặc giảm giá đồng nội tệ.

Can thiệp vô hiệu hóa : Khi NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối mà

không điều chỉnh sự thay đổi trong mức cung tiền tệ. NHTW sử dụng can thiệp vô

hiệu hóa bằng cách áp dụng đồng thời các giao dịch trong thị trường ngoại hối và

các hoạt động trên thị trường mở. Thí dụ : NHNN Việt Nam muốn giảm giá VND

mà không ảnh hưởng đến mức cung VND, NHNN tiến hành đồng thời 2 động tác,

thứ 1 đó là dùng VND để mua ngoại tệ, thứ 2 là bán trái phiếu kho bạc bằng VND,

kết quả được là gia tăng lượng trái phiếu chính phủ do các nhà đầu tư nắm giữ,

đồng thời mức cung VND không thay đổi trong khi đó lượng ngoại tệ giảm, thì

đồng nội tệ ắt sẽ giảm giá, tỷ giá hối đoái sẽ tăng.

Can thiệp không vô hiệu hóa : Ngược lại với can thiệp vô hiệu hóa, tức là sự

can thiệp của NHTW làm thay đổi mức cung tiền tệ. Thí dụ : NHTW can thiệp thị

trường bằng cách tăng mua ngoại tệ trên thị trường nhằm hạ giá đồng nội tệ, tăng

mức cung tiền.

ii. Can thiệp gián tiếp

Các Ngân hàng Trung ương có thể tác động đến giá trị đồng nội tệ một cách

gián tiếp bằng cách tác động đến các yếu tố có ảnh hưởng đến giá trị đồng nội tệ.

(cid:61558) Can thiệp gián tiếp thông qua chính sách của chính phủ.

Lãi suất : Thông qua việc cố gắng làm tăng hoặc giảm lãi suất đồng nội tệ để

khuyến khích hoặc làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào

chứng khoán nước mình.

Lãi suất chiết khấu : Một vài thay đổi trong lãi suất chiết khấu cũng dẫn đến

sự thay đổi trong thị trường hối đoái. Bởi vì, những người tham gia thị trường này

thường theo dõi các hành động của NHTW để dự đoán xem những hành động này

sẽ tác động như thế nào đến các biến số kinh tế có ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.

Lạm phát : Việc những nhà đầu tư nước ngoài dự đoán lạm phát ở một quốc

gia sẽ tăng cao và chiều hướng đồng nội tệ sẽ bị giảm giá mạnh, họ sẽ tìm cách

13

thoái vốn và tạm ngừng đầu tư vào chứng khoán ở quốc gia này. Ngược lại, chính

phủ Việt Nam kiểm soát được giá cả, lạm phát có xu hướng giảm, thị trường tài

chính triển biến tốt thì sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, an tâm đầu tư.

(cid:61558) Can thiệp gián tiếp qua các hàng rào của chính phủ :

Các chính phủ có thể tác động một cách gián tiếp đến các tỷ giá hối đoái

bằng cách áp đặt các hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế như :

Đánh thuế nhập khẩu hàng hóa: Khi một chính phủ muốn tăng giá đồng nội

tệ, họ có thể đánh thuế trên hàng nhập nhằm giảm nhập khẩu, từ đó đẫn đến giảm

nhu cầu của người dân trong nước đối với các ngoại tệ và tạo một áp lực tăng giá

lên nội tệ.

Áp dụng các hàng rào phi thuế quan như : Hạn ngạch, cấp phép nhập khẩu,

định giá hải quan, quy định về xuất xứ, các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, dán nhãn;

Kiểm định hàng hóa, …

Tăng hoặc giảm thuế đối với các khoản thu nhập đầu tư chứng khoán của các

nhà đầu tư nước ngoài. Việc giảm hay miễn thuế đánh trên bất cứ thu nhập nào từ

các khoản đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài, sẽ làm gia tăng nhu

cầu của nước ngoài về đồng tiền của nước chủ nhà.

Có rất nhiều hàng rào có thể được chính phủ các nước sử dụng. Các hàng rào

làm giảm giá trị nội tệ sẽ được sử dụng để hoặc làm gia tăng nhu cầu của người

nước ngoài đối với đồng tiền đó, hoặc làm giảm nhu cầu đổi nội tệ lấy ngoại tệ của

người dân trong nước. Ngược lại, các hàng rào làm tăng giá nội tệ được sử dụng để

làm giảm nhu cầu về nội tệ của người nước ngoài để đầu tư chứng khoán tại nước

sở tại. Tuy nhiên, không phải lúc nào chính phủ can thiệp gián tiếp qua các hàng rào

này cũng sẽ thuận lợi, đạt được mục tiêu; mà có thể sẽ gặp phải sự phản kháng, trả

đũa lại của các nước khác có liên quan bằng các hàng rào của họ.

1.1.8.5 Lý thuyết Bộ ba bất khả thi trong điều hành chính sách tỷ giá.

Lý thuyết Bộ ba bất khả thi là một chính sách kinh tế quốc tế. Theo lý

thuyết Bộ ba bất khả thi thì một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một

14

lúc 3 mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô: Ổn định tỷ giá hối đoái – Tự do hóa dòng

vốn - Chính sách tiền tệ độc lập

Tự do hóa dòng vốn

Ổn định tỷ giá Chính sách tiền tệ độc lập

Lý thuyết và thực tế cho thấy: Một quốc gia chỉ có thể đạt được 2 trong 3 mục

tiêu nêu trên. Vì vậy, mỗi quốc gia phải đứng trước sự lựa chọn một trong ba chế độ

tiền tệ.

Kiểu lựa chọn thứ 1: Tự do hóa luồng vốn và ổn định tỷ giá hối đoái trong khi

phải từ bỏ mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập. Sự lựa chọn này có mức độ rủi ro rất

cao và có thể phải trả giá rất đắt. Bởi vì, chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý

kinh tế vĩ mô rất quan trọng của mỗi quốc gia mà lại hy sinh tính độc lập của chính

sách tiền tệ thì rất dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng cán cân thương mại và tài

khoản vốn. Chế độ tiền tệ này rất ít được các quốc gia lựa chọn.

Kiểu lựa chọn thứ 2: Thả nổi tỷ giá hối đoái, tự do hóa các giao dịch vốn và áp

dụng chính sách tiền tệ độc lập. Cơ chế này được các nước đang phát triển áp dụng

khá phổ biến. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển mà áp dụng cơ chế này sẽ

gặp phải rủi ro cao do đồng nội tệ còn yếu kém trong khi thiếu cơ chế giám sát tài

chính đầy đủ và hiệu quả

Kiểu lựa chọn thứ 3: Lựa chọn cơ chế kiểm soát luồng vốn đi đôi với cơ chế tỷ

giá tương đối ổn định và một chính sách tiền tệ độc lập. Sự lựa chọn này tương đối

an toàn cho thị trường tài chính của những quốc gia của các nước đang phát triển

như Việt Nam.

15

1.2 Quản lý ngoại hối

1.2.1 Khái niệm về chính sách quản lý ngoại hối và quản lý ngoại hối

1.2.1.1 Chính sách quản lý ngoại hối

(cid:61558) Chính sách

Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc

một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James

Anderson 2003)

Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một

nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục

tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin 1978)

(cid:61558) Chính sách quản lý ngoại hối

Như chúng ta đã biết, sự tham của các loại ngoại tệ (có khả năng chuyển đổi)

đã góp phần quan trọng trong hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, nếu

ngoại tệ thâm nhập quá sâu vào chức năng của đồng nội tệ sẽ làm mất khả năng tự

chủ trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, đồng thời gây ra nhiều những hệ

lụy khác đối với hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, chính phủ của mỗi nước đều

có những phương thức riêng để quản lý, điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động đến tỷ

giá hối đoái; hạn chế tác động của dòng ngoại tệ ra vào đột ngột và hiện tượng đô la

hóa,.... Tập hợp những cách thức mà chính phủ của mỗi nước điều hành hoạt động

ngoại hối hợp thành chính sách quản lý ngoại hối của nước đó.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu, chính sách quản lý ngoại hối là những quy

định pháp lý, thể lệ do chính phủ đặt ra để quản lý hoạt động ngoại hối của nước

mình.

Chính sách quản lý ngoại hối cũng là một bộ phận của chính sách tiền tệ, là

công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, nhất là trong hoạt động

kinh tế đối ngoại.

1.2.1.2 Quản lý ngoại hối

Sau khi chính sách quản lý ngoại hối được ban hành, thì tự bản thân chính

sách không thể vận hành được nếu không được chính phủ triển khai, hướng dẫn

16

thực hiện và nó cũng không thể thực thi hiệu quả nếu như chính phủ không thường

xuyên thanh tra, giám sát để có những chấn chỉnh chính sách kịp thời cho phù hợp

với tình hình thực tế.

Như vậy, quản lý ngoại hối (hay gọi tên đầy đủ là hoạt động quản lý ngoại

hối của chính phủ) là hoạt động điều hành, quản lý, kiểm soát của chính phủ trong

hoạt động ngoại hối của đất nước

1.2.2 Mục đích quản lý ngoại hối.

Quản lý ngoại hối của các nước đang phát triển, chủ yếu với các mục đích

như sau :

- Tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân

tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế;

- Điều tiết cung cầu ngoại tệ, bình ổn tỷ giá hối đoái

- Thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi

của đồng nội tệ;

- Thực hiện mục tiêu trong nước chỉ sử dụng đồng nội tệ, chống hiện tượng đô

la hóa;

- Đảm bảo dự trữ ngoại tệ để thực hiện các nghĩa vụ tài chính quốc gia;

- Thực hiện các cam kết của quốc gia trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế;

- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống

quản lý ngoại hối của quốc gia.

1.2.3 Phạm vi quản lý ngoại hối.

- Giao dịch vãng lai: Các giao dịch vì mục đích chuyển vốn, bao gồm thanh

toán, chuyển tiền liên quan đến xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; chuyển tiền một

chiều ra hoặc vào; mang ngoại tệ mặt hoặc nội tệ mặt khi xuất nhập cảnh.

- Các giao dịch vốn: Các giao dịch chuyển vốn trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp

nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài, vay và trả nợ nước

ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, các hình thức đầu tư khác.

17

- Sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ quốc gia : Quy định về việc niêm yết, thanh

toán, quảng cáo, …bằng ngoại tệ; mở tài khoản ngoại tệ; sử dụng ngoại tệ mặt trong

nước.

- Thị trường ngoại tệ, cơ chế tỷ giá hối đoái và quản lý xuất nhập khẩu vàng.

- Hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của các TCTD và các tổ chức khác

- Quản lý nhà nước về hoạt động ngoại hối

1.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung quyết định quản lý ngoại hối của

chính phủ.

Như đã trình bày tại mục 1.1.8, thị trường ngoại hối là nơi chính phủ thực

hiện việc quản lý ngoại hối của mình và mục tiêu quản lý, can thiệp thị trường có

thể là để giải quyết cân đối cung cầu ngoại tệ; thay đổi giá trị đồng nội tệ, ….Nhưng

tất cả những can thiệp, điều hành của chính phủ đều phải lấy tỷ giá hối đoái làm tâm

điểm trong việc ra quyết định quản lý.

Vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định trong quản lý, điều tiết

ngoại hối của chính phủ chính là các nhân tố đã tác động đến cung cầu ngoại tệ, làm

thay đổi tỷ giá hối đoái. Đó là :

(cid:61558) Tỷ lệ lạm phát tương đối.

Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối có thể ảnh hưởng đến hoạt động

thương mại, đến lượt nó những hoạt động thương mại này tác động đến cầu tiền -

cung tiền, ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.

Trong thực tế, tỷ giá hối đoái sẽ bị tác động cùng một lúc bởi nhiều nhân tố,

nhưng để làm rõ sự tác động của từng nhân tố nên mỗi nhân tố sẽ được xác định ảnh

hưởng của riêng nhân tố đó đến tỷ giá hối đoái trong khi các nhân tố khác không

thay đổi. Sau đó, tất cả các nhân tố được kết hợp lại với nhau sẽ thể hiện đầy đủ sự

thay đổi của tỷ giá hối đoái

(cid:61558) Lãi suất tương đối.

Thay đổi trong lãi suất tương đối tác động đến đầu tư chứng khoán nước

ngoài, đến lượt nó đầu tư chứng khoán nước ngoài lại ảnh hưởng đến cung và cầu

tiền, vì thế ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.

18

(cid:61558) Lãi suất thực

Lãi suất cao tương đối có thể thu hút dòng vốn nước ngoài ( để đầu tư vào

các chứng khoán có lãi suất cao) tuy nhiên lãi suất cao này có thể phản ánh dự kiến

lạm phát cao, mà lạm phát cao có thể gây lực giảm giá lên đồng tiền của nước đó thì

không thể khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào các chứng

khoán định danh bằng đồng tiền này. Vì vậy, cần thiết phải xem xét lãi suất thực, là

lãi suất danh nghĩa đã điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát. Theo hiệu ứng Fisher:

Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát

(cid:61558) Thu nhập tương đối

Khi hai nước có tỷ lệ giao thương lớn, thì việc thu nhập trong nước tăng lên

đáng kể trong khi thu nhập của nước ngoài không thay đổi, thì sự gia tăng nhu cầu

hàng hóa ngoại của người dân trong nước sẽ làm tăng nhu cầu về ngoại tệ, dẫn đến

ngoại tệ tăng giá, tỷ giá hối đoái tăng lên.

(cid:61558) Kiểm soát của chính phủ

Chính phủ có thể tác động đến tỷ giá cân bằng qua các cách như : Tác động

đến những biến động vĩ mô như lạm phát, lãi suất và thu nhập quốc dân;…

(cid:61558) Kỳ vọng

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự kỳ vọng thị trường như lạm phát, lãi suất, môi

trường đầu tư, hành động của nhà đầu cơ, tình hình chính trị… Kỳ vọng của nhà

đầu tư có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, vì chúng thúc đẩy các nhà đầu tư thực

hiện các vị thế ngoại tệ.

19

Mỹ.

Hình 1.2: Tóm lược các yếu tố có thể tác động đến tỷ giá. Minh họa trường hợp của

1.2.5 Các công cụ của quản lý ngoại hối

Công cụ quản lý ngoại hối là phương tiện, phương thức mà NHNN các nước

có thể dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại hối, nhằm thực hiện chính sách tiền tệ

trong từng thời kỳ. NHNN có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng nhiều biện

pháp. Những công cụ chủ yếu thuộc về nghiệp vụ quản lý ngoại hối của NHNN:

1.2.5.1 Công cụ can thiệp gián tiếp.

- Các chính sách, các quy định hạn chế hoặc nới lỏng về quản lý ngoại hối:

Kết hối ngoại tệ, tức là các doanh nghiệp có ngoại tệ phải bán ngay một phần

hoặc toàn bộ cho ngân hàng. Tùy theo tình hình thị trường ngoại hối trong từng thời

kỳ mà NHTW sẽ áp dụng tỷ lệ kết hối hay không.

Chính sách tín dụng ngoại tệ: Thông qua chính sách mở rộng hay thu hẹp đối

tượng vay ngoại tệ cũng là biện pháp tăng cung ngoại tệ cho nền kinh tế.

NHTW có thể kiểm soát lãi suất thị trường bằng các quy định như : Quy định

lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay ngoại tệ trong từng thời kỳ; hoặc sàn lãi suất tiền

gửi và trần lãi suất cho vay ngoại tệ; …. VD : Tháng 02/2010, trước tình hình cung

cầu ngoại tệ trên thị trường căng thẳng, trong khi đó hiện tượng các doanh nghiệp

găm giữ ngoại tệ phổ biến, NHNN Việt Nam đã ra quy định: lãi suất tiền gửi USD

của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng là 1%/năm, thay cho mức 3,0% -

3,5%/năm áp dụng trước đó.

- Tỷ giá hối đoái : Với các nước áp dụng chế độ tỷ giá cố định hoặc chế độ tỷ

giá thả nổi có quản lý thì chính phủ sử dụng tỷ giá hối đoái như là công cụ tác động

làm thay đổi nhu cầu cung cầu ngoại tệ trên thị trường là rất phổ biến. Với tình

trạng cung cầu ngoại tệ trên thị trường mất thăng bằng, NHNN có thể nhờ đến quỹ

dự trữ ngoại hối để bơm vào hoặc hút ra khỏi nền kinh tế, nhưng nếu khả năng của

quỹ dự trữ ngoại hối không cho phép thì trong lúc này để cung cầu ngoại tệ thăng

bằng và tỷ giá hối đoái phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ thì NHNN có thể

thông qua việc điều chỉnh tỷ giá để đạt được mục tiêu này.

20

- Lãi suất USD : Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, vì vậy lãi suât thay

đổi sẽ kéo theo sự biến đổi của chi phí sử dụng vốn vay, từ đó tác động đến việc thu

hẹp hay mở rộng lượng vốn cấp phát tín dụng trong nền kinh tế. Như vậy, lãi suất

ngoại tệ tăng hay giảm, tức ngoại tệ lên giá hay giảm giá sẽ làm tỷ giá hối đoái tăng

hoặc giảm, từ đó sẽ tác động làm thay đổi cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại

hối.

- Dự trữ bắt buộc.

Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các TCTD phải đưa vào dự trữ bắt buộc.

Mỗi NHTM chỉ được dùng số tiền đã huy động được để cho vay sau khi đã trừ đi

phần dự trữ bắt buộc. Vì thế, qua việc giảm hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì

NHNN có thể gia tăng hoặc hạn chế lượng cung tiền vào nền kinh tế. Bởi lẽ, việc

tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của

các NHTM, nhờ đó các NHTM có thể tăng hoặc giảm lượng tiền ra lưu thông qua

kênh cấp phát tín dụng.

Công cụ dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của NHNN

nhằm kiểm soát cung tiền trong nền kinh tế, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ

dự trữ bắt buộc thì tác động của nó đối với khối tiền tệ là rất lớn.

Dự trữ bắt buộc bằng nội tệ : NHNN thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội

tệ thì sẽ dẫn đến thay đổi lượng nội tệ trong lưu thông, theo đó giá trị đồng nội tệ sẽ

bị tác động theo chiều hướng cùng chiều với dự trữ bắt buộc và có thể sẽ ảnh hưởng

đến tỷ giá hối đoái.

Dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ : Thông qua điều chỉnh tăng hoặc giảm tỷ lệ

dữ trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM, NHNN có thể hạn chế hoặc gia

tăng lượng ngoại tệ cho nền kinh tế. Đồng thời, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng

sẽ làm thay đổi chi phí sử dụng vốn bằng ngoại tệ, từ đó cũng hạn chế hoặc gia tăng

nhu cầu vay ngoại tệ của các đơn vị, tác động đến tỷ gía hối đoái.

- Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn: Cũng như lãi suất cho vay, thông qua lãi

suất chiết khấu hay lãi suất tái cấp vốn NHTW có thể điều chỉnh lượng tiền ra lưu

thông, từ đó tác động đến tỷ giá hối đoái.

21

Ngoài ra, NHNN công bố lãi suất cơ bản cho nội tệ để hướng dẫn, định

hướng thị trường tiền tệ trong nước. Nếu lãi suất cơ bản thay đổi sẽ dẫn đến sự thay

đổi trong nhu cầu nội tệ, ảnh hưởng giá cả đồng nội tệ, thì cũng sẽ tác động đến tỷ

giá hối đoái.

1.2.5.2 Công cụ can thiệp trực tiếp.

- NHNN mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: NHNN có

thể can thiệp vào thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán ngoại tệ trên thị

trường ngoại tệ liên ngân hàng, để hút vào hoặc bơm ra thị trường. Từ đó, làm thay

đổi cung cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái trên thị trường. Năm 2009, NHTW Việt

Nam tăng cung ngoại tệ cho thị trường thông qua hệ thống NHTM, bằng cách bán

ngoại tệ cho các NHTM có trạng thái ngoại tệ âm 5% trở xuống.

- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở : Thông qua nghiệp vụ thị trường mở,

NHTW mua hoặc bán các chứng từ có giá sẽ làm gia tăng hoặc giảm lượng cung

tiền tệ, từ đó tác động đến tỷ giá hối đoái. Các chứng từ có giá đó là trái phiếu kho

bạc, tín phiếu kho bạc, …

1.3 Tác động của chính sách quản lý ngoại hối và thị trường ngoại hối đến

nền kinh tế

1.3.1 Tác động của thị trường ngoại hối đến nền kinh tế.

Thị trường ngoại tệ là một kênh luân chuyển vốn cho nền kinh tế; Vì vậy,

nếu quy mô, trình độ phát triển của thị trường ngoại hối không tương thích với trình

độ phát triển của nền kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, cụ thể như

sau :

- Tốc độ luân chuyển dòng vốn ngoại tệ của thị trường quá chậm so với khả

năng hấp thụ vốn của nền kinh tế sẽ làm kìm hãm khả năng tăng trưởng của nền

kinh tế.

- Khả năng điều tiết ngoại tệ của thị trường ngọai hối yếu, không hút hết lượng

vốn dư thừa trong nền kinh tế sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.

Thị trường ngoại hối luôn song hành cùng với sự phát triển của thị trường

vốn và thị trường tiền tệ, vì vậy sự phát triển của thị trường ngoại hối có ảnh hưởng

22

rất lớn đến 2 thị trường này, mà 2 thị trường này lại có tác động lớn đến phát triển

nền kinh tế.

Ngoài ra, như chúng ta đã biết, thị trường ngoại hối là thị trường giao dịch

mang tính chất quốc tế, tính cạnh tranh cao, khả năng thanh khoản lớn, giá cả thay

đổi trong tích tắc nên nếu các giao dịch trên thị trường ngoại hối thực hiện một cách

trơn tru, nhanh chóng sẽ không những tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, đầu

tư mà còn là cơ hội cho các nhà đầu tư tài chính kiếm lời dựa vào chệnh lệch tỷ giá.

1.3.2 Tác động của chính sách ngoại hối đến nền kinh tế.

Chính sách quản lý ngoại hối nới lỏng, thông thoáng sẽ tạo ra nhiều cơ hội

cho hoạt động kinh doanh, đầu tư. Tuy nhiên, nó cũng mang lại nhiều rủi ro cho hệ

thống tài chính quốc gia. Theo đó, những hạn chế trong giao dịch ngoại hối sẽ có

thể rất ít hay không có; Vì vậy, các tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài có thể dễ dàng

bán hoặc mua ngoại tệ khi cần đầu tư vào hay rút vốn ra. Như vậy, các nước có

chính sách quản lý ngoại hối nới lỏng có nguy cơ bị đầu cơ tiền tệ và khủng hoảng

tài chính cao hơn các nước có chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ nếu như hệ

thống tài chính quốc gia đó không vững mạnh.

Ngược lại, chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ sẽ gây khó khăn cho hoạt

động thương mại và đầu tư quốc tế, nhưng đổi lại sẽ đảm bảo an toàn cho hệ thống

tài chính trong nước. Bởi vì, chính sách quản lý ngoại hối càng chặt chẽ thì các rào

cản trong giao dịch ngoại hối càng nhiều, theo đó các giao dịch ngoại hối sẽ không

được thực hiện một cách thoải mái, mà sẽ có các ràng buộc nhất định. Đặc biệt là

đối với các giao dịch vốn, quy định ngoại hối chặt chẽ thì việc vay, trả nợ nước

ngoài hay chuyển vốn ra vào sẽ phải tuân theo những điều kiện nhất định. Như vậy,

tác động của dòng vốn ngoại tới thị trường tài chính trong nước cũng hạn chế bởi

những rào cản pháp lý này.

1.4 Kinh nghiệp quản lý ngoại hối ở một số nước.

Thị trường ngoại hối là nơi đặc biệt nhạy cảm đối với các biến động kinh tế,

không chỉ có các nước đang phát triển mà cả các nước phát triển cũng luôn quản lý

23

chặt chẽ thị trường này. Sau đây là kinh nghiệm quản lý ngoại hối của Trung Quốc

và Thái Lan.

1.4.1 Quản lý ngoại hối ở Trung quốc.

Sau hơn 30 năm tiến hành cải cách kinh tế, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt

được những thành công vượt trội. Từ năm 1979 – 2009, tăng trưởng kinh tế cao hơn

từ 2%-3%/năm so với mức tăng trưởng trung bình của thế giới trong từng thời kỳ,

đạt trung bình 9,6%/năm; Từ năm 1994 đến nay, cán cân thương mại luôn thặng dư

và đặc biệt tăng trưởng rất nhanh từ năm 2004 đến nay, đưa Trung Quốc trở thành

quốc gia đứng hàng đầu thế giới về dự trữ ngoại tệ, tới năm 2009 đạt mức 2.399,2

tỷ USD; Ngoài ra, Trung Quốc cũng dẫn đầu các nước đang phát triển trong việc

thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Với những kết quả đạt được như vậy, là nhờ

có sự đóng góp rất lớn của chính sách điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối.

Bảng 1.1 : Một số chỉ tiêu kinh tế của Trung Quốc thời kỳ năm 2000 -2009.

ĐVT : Tỷ USD.

2000

2001

2002

2003

2005

2006

2007

2008

2009

2004

Chỉ tiêu

249.2

266.1

325.6

438.37

593.4

762

968.9

1,217.80

1,428.60

-

Xuất khẩu

225.09

243.55

295.17

412.84

561.4

660

956

1,233.10

791.5

-

Nhập Khẩu

Cán cân TM

24.11

22.55

30.43

25.53

32

102

261.8

195.5

177.4

-

-6%

35%

-16%

25% 219%

48%

-25%

74%

-

Tỷ lệ tăng/giảm

165.6

212.2

286.4

403.3

609.9

818.9

1,066.30

1,528.20

1,946.00

2,399.2

Dự trữ ngoại tệ

28%

35%

41%

51%

34%

43%

27%

23%

30%

Tỷ lệ tăng/giảm

48.8

55

53.5

60.6

60.3

42.1

74.8

92.4

63

-

FDI (giải ngân)

GDP (%)

8.3

9.1

10

10.1

9.9

8

11.4

9.6

8.7

11.1

CNY/USD

8.2783

8.277

8.277

8.277

8.2765

8.1825

7.9601

7.5811

6.9253

6.8314

Nguồn : Tổng cục thống kê Trung Quốc - http://www.chinability.com/index.html

Chính sách điều hành, quản lý ngoại hối Trung Quốc đã được thay đổi qua

các thời kỳ và có thể được chia làm các giai đoạn chủ yếu sau :

Giai đoạn trước 1979 : Trong giai đoạn này, nền kinh tế Trung Quốc được

quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Hoạt động ngoại hối được Chính phủ

quản lý thống nhất và kiểm soát tập trung. Không một doanh nghiệp, tổ chức nào

được nắm giữ ngoại hối và gửi ngoại hối ra nước ngoài, bù đắp chi tiêu ngoại tệ bởi

24

thu nhập bằng ngoại hối, mượn hoặc mở tài khoản với các ngân hàng trong và ngoài

Trung Quốc nếu không có sự đồng ý của Cục Quản Lý Ngoại Hối Nhà Nước

(SAEC), một cơ quan chính phủ thuộc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Ngoài ra,

các khoản thu nhập bằng ngoại tệ từ xuất khẩu của các doanh nghiệp phải được gửi

về nước và nộp cho Ngân hàng Trung Quốc (BOC – là Ngân hàng thanh toán quốc

tế ở Trung Quốc) nếu không được SAEC trao quyền miễn trừ đặc biệt. Trường hợp

các đơn vị có nhu cầu ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu thì phải xin cấp phép

của SAEC.

Với cơ chế kiểm soát chặt dòng ngoại tệ và giao dịch ngoại thương, đồng

thời áp dụng cơ chế 2 loại tỷ giá đã gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu,

làm cho nền kinh tế Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn.

Giai đoạn từ năm 1979 – 1993 : Từ năm 1979, Trung Quốc tiến hành cải

cách tất cả mọi mặt của nền kinh tế, từ xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, đầu tư phát

triển các ngành công nghiệp phụ trợ, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong

nước, … mục đích là phát triển nền kinh tế theo định hướng sản xuất hàng xuất

khẩu thu ngoại tệ về nên trong chính sách quản lý ngoại hối, chính phủ bắt đầu nới

lỏng dần kiểm soát ngoại hối.

Nhưng nhìn chung, tính đến thời điểm 1989 các quy định về ngoại hối vẫn

rất chặt chẽ, SAEC kiểm soát chặt các doanh nghiệp tham gia giao dịch ngoại

thương bằng các biện pháp hành chính và theo chỉ đạo, gồm danh sách doanh

nghiệp được ưu tiên và cấp hạn ngạch ngoại tệ.

Giai đoạn từ năm 1994 đến nay.

Từ năm 1994, các chính sách cải cách kinh tế của Trung Quốc bắt đầu phát

huy tác dụng. Hoạt động ngoại thương đã trở thành con đường dẫn Trung Quốc

tham gia vào hợp tác và cạnh tranh kinh tế quốc tế. Đồng thời, đó cũng là cơ hội

phát triển cho hoạt động ngoại hối Trung Quốc.

Cũng trong năm 1994, Trung Quốc bắt đầu cải cách chế độ ngoại hối, thực

hiện khả năng chuyển đổi ở tài khoản vãng lai và cho phép có những giao dịch tự do

hơn nhằm thiết lập khả năng chuyển đổi của đồng tiền. Trước năm 1994, những yêu

25

cầu mua ngoại tệ đối với hầu hết các giao dịch của doanh nghiệp trong nước phải

được sự phê chuẩn trước của SAEC, nay được hủy bỏ. Kiểm soát ngoại tệ đối với

các giao dịch vãng lai được trao quyền kiểm soát cho các NHTM. Nhờ đó, ngay từ

12/1996 đồng Nhân Dân Tệ đã được IMF công nhận là đồng tiền chuyển đổi tự do ở

các tài khoản vãng lãi.

Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tiến hành thống nhất 2 loại tỷ giá theo tỷ giá

thị trường và phá giá đồng Nhân dân tệ gần 50% ( từ 5,7620 CNY/USD lên 8,6212

CNY/USD). Thời kỳ này, Trung Quốc áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có

quản lý nhưng thực chất là cố định theo đồng USD. Tỷ giá hối đoái áp dụng trong

các giao dịch mua bán giữa NHTM và khách hàng dựa trên tỷ giá tham chiếu do

NHTW công bố hàng ngày với biên độ không vượt quá +/- 0,3%, vì vậy tỷ giá gần

như cố định, xoay quanh 8.2770 CNY/USD từ năm 1994 – 2005 và các năm sau đó

tỷ giá chỉ trượt xuống từ từ rất nhỏ. Thông qua, việc phá giá mạnh đồng CNY vào

năm 1994 và duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài đã nhanh chóng thúc đẩy hoạt

động xuất nhập của Trung Quốc tăng trưởng mạnh.

Những năm 1997-1998, các nước Châu á đang trải qua cuộc khủng hoảng

kinh tế - tài chính, trong đó cũng có thời điểm Trung Quốc bị tác động, thị trường

tiền tệ Trung Quốc xáo trộn, tỷ giá đồng Nhân dân tệ tăng lên, một số các đơn vị

xuất nhập khẩu và ngân hàng chớp thời cơ kinh doanh ngoại hối trái phép, tạo ra sự

lộn xộn trên thị trường tiền tệ trong nước. Tuy nhiên, ngay sau đó Chính phủ Trung

Quốc đã tăng cường quản lý chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ,

găm giữ ngoại tệ và giữ ổn định giá trị đồng Nhân dân tệ, nhằm ngăn ngừa biến

động tiền tệ từ cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên, việc quản lý chặt trên thị trường

ngoại hối đã tạo sức ép đối với xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Song để hạn chế

áp lực này, chính phủ Trung Quốc đã tiến nới lỏng chính sách tiền tệ và kích cầu.

Cục quản lý ngoại hối đã đưa ra một số công tác tăng cường quản lý ngoại

hối, trong đó có các biện pháp như :

- Tăng cường giám sát, quản lý đối với nghiệp vụ ngoại hối của các cơ quan

tài chính, ngân hàng.

26

- Quy phạm hóa các nghiệp vụ đại lý ngoại thương, quản lý chặt chẽ mậu dịch

gia công, mở rộng công tác xuất khẩu thu ngoại hối.

- Tăng cường quản lý đối với công tác kiểm tra, báo biểu và quyết toán xuất

nhập khẩu.

Hiện nay, thặng dư ngoại thương cùng với luồng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài chảy vào đã làm cho nguồn ngoại tệ trở nên dồi dào. Nhưng Ngân hàng nhân

dân Trung Quốc vẫn giám sát chặt chẽ các hoạt động ngoại hối nhằm ngăn ngừa rủi

ro và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, kinh tế đất nước.

Dự trữ ngoại hối lớn mạnh là một trong những yếu tố góp phần tạo điều kiện

thuận lợi cho Trung Quốc duy trì chính sách tỷ giá cố định trong suốt thời gian qua.

Tỷ giá hối đoái giữa CNY và USD ổn định cao, nhờ đó vị thế của CNY ngày càng

tăng, dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Trung Quốc càng nhiều. Trung Quốc được

ví như 1 “nam châm” thu hút luồng vốn đầu tư khổng lồ từ khắp nơi trên thế giới.

Có sức hấp dẫn lớn đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài nên Trung Quốc

thực hiện quản lý giao dịch vốn rất chặt chẽ

Giao dịch vốn có sức ảnh hưởng lớn đối với chính sách tiền tệ và phát triển

kinh tế nên Trung Quốc rất thận trọng trong việc quản lý giao dịch vốn. Tuy nhiên,

do yêu cầu mở cửa nền kinh tế buộc Trung Quốc mở cửa đối với các giao dịch vốn

nhưng có giới hạn. Các dự án vay, sử dụng vốn nước ngoài được thẩm định rất kỹ,

có sự giám sát chặt chẽ sự di chuyển của dòng vốn ngắn hạn và các giao dịch vốn

trên thị trường chứng khoán, đồng thời vẫn duy trì một số hạn chế đối với việc

chuyển vốn ngoại tệ ra nước ngoài. Ngoài ra, để đảm bảo cho thị trường tài chính

trong nước an toàn, ổn định; Trung Quốc giám sát rất chặt chẽ các khoản vay nợ

nước ngoài và khi trả nợ nước ngoài phải được phép của Cục quản lý ngoại hối.

Trung Quốc chỉ khuyến khích dòng vốn đầu tư trung dài hạn, tạo điều kiện cho các

dòng vốn lành mạnh vào ra và hạn chế các dòng vốn đầu tư ngắn hạn.

Hơn nữa, với cơ chế quản lý ngoại hối chặt chẽ nên mọi hoạt động kinh tế

trong nội địa không xuất hiện bất cứ một “hình bóng” ngoại tệ nào, từ việc niêm yết

giá, thanh toán bằng ngoại tệ,… Vì vậy, Trung Quốc không bị tình trạng đô la hóa.

27

1.4.2 Quản lý ngoại hối ở Thái Lan.

Trước năm 1997, nền kinh tế Thái Lan tuy tăng trưởng trung bình cao từ 7%

đến 8% nhưng những yếu tố cơ cấu cân đối nội tại nền kinh tế không bền vững, còn

cơ chế chính sách không chặt chẽ.

Thời kỳ 1990-1996, nền kinh tế Thái Lan đã thu hút một lượng lớn vốn từ

bên ngoài nhờ vào chính sách tỷ giá ổn định (gần như cố định) và lãi suất trong

nước cao. Ngoài ra, với chính sách tự do hóa các giao dịch vốn, cùng với khả năng

quản lý, kiểm soát các khoản nợ vay yếu kém, thiếu chặt chẽ đã khiến ngày càng

nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào Thái Lan. Tuy nhiên, vốn đầu tư nước ngoài

vào Thái Lan chủ yếu là vốn đầu tư gián tiếp và vốn vay ngắn hạn nước ngoài, còn

đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài 10,4 tỷ USD; đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn là 84,5 tỷ USD. Hơn nữa,

Thái Lan lại sử dụng đến 90% nguồn vốn ngoại để phát triển kinh tế, mà chủ yếu là

vốn vay ngắn hạn nên thường xuyên phải trả lãi hàng tháng bằng ngoại tệ, tạo áp

lực về thanh toán cho các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp trong nước. Năm

1997, các tổ chức này mất khả năng thanh toán, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài

chính nổ ra.

Cho tới thời điểm xảy ra khủng hoảng tài chính, Thái Lan đã duy trì chính

sách tỷ giá cố định quá lâu trung bình 25,32BAHT/USD; cộng với yếu kém về xuất

nhập khẩu (nhập siêu triền miên) và dự trữ ngoại hối của chính phủ ngày càng giảm

sút; Vì vậy, khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định ngày càng yếu đi, đồng thời các

nhà đầu tư nước ngoài lại bán ồ ạt tài sản, đổi ra USD để thoái lui dòng vốn, đồng

Baht đã giảm giá lại càng giảm hơn. Ngày 02/07/1997 NHTW Thái Lan đã không

thể bảo vệ được đồng Baht tránh khỏi các cuộc đầu cơ tiền tệ và chính thức công bố

thả nổi đồng baht sau một thời gian dài duy trì tỷ giá gần như cố định, đồng Baht

ngay lập tức giảm giá mạnh, tỷ giá tăng từ 25,61BAHT/USD cuối năm 1996 lên

47,25BAHT/USD cuối năm 1997 và đạt cực điểm là 53 BAHT/USD vào đầu năm

1998.

28

Đồng Baht sau khi được phá giá mạnh vào năm 1997 thì từ đó đến nay tỷ giá

USD/BAHT đôi lúc có biến động lên xuống nhưng ở mức độ nhẹ nhưng nhìn chung

khá ổn định từ 41,36BAHT/USD năm 1998; 40,11BAHT/USD năm 2000;

44,43BAHT/USD năm 2001; 40,22BAHT/USD năm 2006; 37,88BAHT/USD năm

2006; 34,30 BAHT/USD năm 2009 (Phụ lục 2). Mặc dù, Thái Lan rất chú trọng

xuất khẩu nhưng phải chấp nhận tăng nhẹ giá nội tệ, để bình ổn giá cả và duy trì tỷ

lệ lạm phát trung bình 3%/năm từ năm 2000 đến nay.

Trong quản lý ngoại hối, Thái Lan rất chú trọng bảo vệ giá trị của đồng Baht

so với USD. Để ổn định giá trị của đồng Bath, Thái Lan có các biện pháp hạn chế

cho các tổ chức tài chính giao dịch bằng đồng Baht với người không cư trú mà

không có giao dịch kinh tế.

Đối với các giao dịch vãng lai : Thái Lan đã thực hiện tự do hóa giao dịch

vãng lai, còn giao dịch vốn tuy được tự do hóa nhưng chưa hoàn toàn.

Về quản lý ngoại hối trong lãnh thổ, Thái lan thực hiện triệt để nguyên tắc

trong nội địa chỉ dùng nội tệ nên không có tình trạng đô la hóa. Mọi giao dịch liên

quan đến ngoại tệ đều thông qua NHTM và các đại lý được NHTW ủy quyền.

1.4.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Từ hoạt động quản lý ngoại hối của Trung Quốc và Thái Lan, là những quốc

gia trong cùng khu vực, khá tương đồng về chính sách đổi mới kinh tế và thời gian

đổi mới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất là: Quản lý ngoại hối chặt chẽ là một trong những yếu tố quan

trọng hạn chế được tình trạng đô la hóa, tức là mọi khoản thu nhập từ xuất khẩu,

đầu tư,…đều phải chuyển về nước và nguồn ngoại tệ của đất nước được tập trung

vào NHTW thông qua hệ thống NHTM; Xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm

quy định về quản lý ngoại hối.

Thứ hai : Chính sách tỷ giá ổn định là đòn bẩy cho hoạt động ngoại thương

phát triển và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Thứ ba : Để hạn chế tác động tiêu cực từ các giao dịch vốn đối với nền kinh

tế trong nước thì các cơ quan chức năng cần phải :

29

- Chọn lọc, thẩm định kỹ các dự án đầu tư bằng vốn FDI

- Quản lý chặt chẽ dòng vốn luân chuyển của các khoản đầu tư ngắn hạn (FII)

- Giám sát chặt chẽ các khoản nợ vay nước ngoài.

Thứ tư : Vào thời điểm nền kinh tế khu vực hay hoàn cầu rơi vào khủng

hoảng, để đảm bảo an toàn cho thị trường tài chính trong nước, thì việc siết chặt

quản lý ngoại hối là giải pháp nên được xem xét để thực hiện. Tuy nhiên, để giảm

tác động của việc siết chặt ngoại hối đến cân đối, phát triển nền kinh tế thì cần tiến

hành nới lỏng chính sách tiền tệ.

Thứ năm : Việc tự do hóa giao dịch vốn và quản lý nợ vay không chặt chẽ

đối với các nước đang phát triển sẽ dễ dẫn đến hậu quả mất khả kiểm soát dòng vốn

ngoại tệ, nguy cơ mất khả năng thanh toán cao. Ngoài ra, sự chệnh lệch lớn giữa

dòng vốn đầu tư nước ngoài dài hạn so với dòng vốn ngắn hạn, tức vốn dài hạn ít

hơn nhiều so với lượng vốn ngắn hạn thì khả năng gây ra tình trạng bất ổn thị

trường tài chính trong nước là rất cao. Vì vậy, cần ưu tiên thu hút dòng vốn đầu tư

trực tiếp hơn so với đầu tư gián tiếp nhằm tạo sự ổn định cho nền kinh tế.

Thứ sáu : Hơn nữa, việc duy trì tỷ giá ổn định sẽ thuận lợi cho ổn định kinh

tế vĩ mô nhưng nếu duy trì lâu sẽ tạo áp lực nặng nề cho NHTW, cùng với sức ép

gia tăng đối với dự trữ ngoại hối quốc gia; đến một lúc nào đó NHTW sẽ không có

khả năng giữ tỷ giá cố định, thì việc thả nổi giá trị đồng nội tệ là tất yếu.

Kết luận chương 1.

Nội dung đã được trình bày ở chương 1 là hệ thống hóa lý luận cơ bản về thị

trường ngoại hối và quản lý ngoại hối. Cơ sở lý thuyết ở chương 1 sẽ là nền tảng

cho việc nhận định, phân tích và đánh giá tình hình thực tiễn thị trường ngoại hối

Việt Nam và hoạt động quản lý ngoại hối trong giai đoạn hội nhập trình ở chương 2.

30

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM VÀ

QUẢN LÝ NGOẠI HỐI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

2.1 Khái quát sơ lược về tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam giai

đoạn 2000-2009.

Bảng 2.1 : Một số chỉ tiêu kinh tế - tài chính của Việt Nam trong thời kỳ từ năm

2000-2009.

2009

2001

2007

2003

2002

2006

2008

2005

2004

2000

62,69

48,56

57,10

14,48 15,03 16,71 20,15 26,49 32,45 39,83

15,64 16,22 19,75 25,26 31,97 36,76 44,89

62,76

80,71

69,95

-1,15

-14,20

-12,85

-18,03

-1,19

-5,06

-5,48

-5,11

-3,04

-4,31

31,18 32,52 35,10 39,56 45,45 52,93 60,93

71,11

91,76

89,83

8,46

6,18

8,44

8,23

7,79

7,34

7,08

6,89

6,79

5,32

23,1

-0,4

-1,6

8,3

6,9

7,4

8,3

3,2

7,7

4

36,8

41,6

35,5

41,5

35,6

33,2

35,1

29,6

31,2

Chỉ tiêu Xuất khẩu - FOB (tỷ USD) Nhập Khẩu - CIF (tỷ USD) Cán cân TM (tỷ USD) GDP (Tỷ USD) GDP (%) Tỷ lệ lạm phát (%) Đầu tư ròng (%GDP) 42,5 Nguồn: IMF (www.imf.org); ADB (www.adb.org); NHNN (http://www.sbv.gov.vn); Tổng cục

thống kê www.gso.gov.vn

(cid:61558) Tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam giai đoạn 2000-2009 là

7.3 %/năm, đặc biệt là gần đây nhất năm 2007 nền kinh tế tăng trưởng nóng, tốc độ

tăng trưởng đạt 8,46%/năm cao nhất trong 10 năm trở lại đây, vượt kế hoạch đề ra

là 8,2%-8,5%. Năm 2008 cùng với đà suy thoái của nền kinh tế thế giới, tăng trưởng

kinh tế Việt Nam đã bị chững lại, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6.18%/năm, thấp hơn

đáng kể so với kế hoạch (7%). Tình trạng suy giảm kinh tế kéo dài đến Quý 1/2009

– 3,14%. Tuy nhiên, từ quý 2/2009 trở đi nền kinh tế đã bắt đầu khởi sắc, GDP tăng

trưởng là 4,46% và thực sự được phục hồi từ quý 3/2009. Tổng GDP cả năm 2009

tăng 5,32%, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra (5%), kết quả này là cả một sự nỗ lực tích

cực của chính phủ đối với việc hỗ trợ hoạt động kinh tế bằng nhiều chương trình

kích thích nền kinh tế khá lớn đưa vào vận hành từ đầu năm 2009, bao gồm chương

31

trình hỗ trợ lãi suất vay vốn, miễn và hoãn thu nhiều loại thuế, đầu tư vốn bổ

sung,…

Tuy nhiên, theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

thì bản chất nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển theo chiều rộng, chất lượng tăng

trưởng chưa cao, năng lực cạnh tranh so với các nền kinh tế thế giới khác còn thấp.

Ngoài ra, theo diễn đàn kinh tế thế giới, xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam

đã tụi hạng từ 70/132 năm 2008-2009 xuống còn 75/133 năm 2009-2010. Theo

những đánh giá, nhận xét trên cho thấy nền kinh tế Việt Nam cần phải tiếp tục được

cải thiện, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, chất lượng tăng trưởng, … trong thời tới

nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập.

(cid:61558) Về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

V Ố N Đ Ầ U T Ư

)

%

(

8 0 0 ,0

3 5 ,0 0

G N Ồ Đ

Ệ L

3 0 ,0 0

Ỷ T

Ỷ T

7 0 0 ,0 6 0 0 ,0

2 5 ,0 0

5 0 0 ,0

2 0 ,0 0

N À G N

4 0 0 ,0

1 5 ,0 0

3 0 0 ,0

1 0 ,0 0

5 ,0 0

2 0 0 ,0 1 0 0 ,0

-

0 ,0 0

2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4 2 0 0 5 2 0 0 6 2 0 0 7 2 0 0 8 2 0 0 9

N Ă M

V Ố N Đ Ầ U T Ư

T Ỷ L Ệ

Hình 2.1 : Tổng đầu tư xã hội của Việt Nam giai đoạn 2000-2009

Nguồn : Tổng cục thống kê Việt Nam

Theo như số liệu Tổng cục thống kê, tổng vốn đầu tư xã hội ròng tăng đều

qua các năm. Tuy nhiên, năm 2008 và 2009 tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư ròng

giảm mạnh, chỉ tiêu này lần lượt là 14,81% và 15.28 % tương đương với 610,9 ngàn

tỷ đồng và 704,2 ngàn tỷ đồng, trong đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

trung bình chiếm tỷ trọng 25,7% so với tổng vốn đầu tư. Tổng số vốn đầu tư năm

32

2009 chiếm khoảng 42,5% GDP, trong đó tỷ lệ tiết kiệm/GDP vào khoảng 25%,

phần còn lại là từ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vay nợ nước ngoài.

(cid:61558) Cán cân thương mại.

- Hoạt động xuất khẩu hàng hóa.

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong những năm gần đây

tăng đều, trung bình trên 20%/năm. Tuy nhiên, riêng năm 2009 tình hình kinh tế của

các nước là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như Mỹ và EU gặp khó khăn,

nhu cầu tiêu dùng giảm đã tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt

Nam, giá trị xuất khẩu giảm 8,9% so với năm 2008.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu bao gồm mặt hàng dệt may, dầu thô, giày

dép các loại, kế nữa là hàng thủy sản và gạo, chiếm tỷ trọng gần 50% giá trị hàng

xuất khẩu.

- Hoạt động nhập khẩu hàng hóa :

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế thì nhu cầu nhập khẩu các loại nguyên liệu,

nhiên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước và tiêu dùng của người dân

hàng năm cũng tăng lên. Tuy nhiên, năm 2008 nền kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó

khăn, giá cả tăng cao, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam vẫn tăng 28,3% so

với năm 2007. Kết quả là Việt Nam bị nhập siêu lớn nhất từ trước đến nay 18,03 tỷ

USD, trong đó chủ yếu là thâm hụt thương mại từ hoạt động ngoại thương với

Trung Quốc 10,8 tỷ USD. Năm 2009, bên cạnh tình hình sản xuất kinh doanh trong

nước giảm sút, thì chính phủ cũng đã thực hiện nhiều biện pháp để kiểm soát hoạt

động nhập khẩu nhờ đó kim ngạch nhập khẩu đã giảm đáng kể 13,3% so với năm

2008, thâm hụt thương mại được cải thiện còn 12,85 tỷ USD. Tình trạng nhập siêu

có xu hướng tăng cao, làm cho tài khoản thương mại trong thời gian vừa qua bị

thiếu hụt trầm trọng.

Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu phần lớn là các loại nguyên liệu, nhiên

liệu như xăng dầu các loại; Máy móc, thiết bị, phụ tùng; Sắt thép, kim loại; Vải các

loại; Chất dẻo các loại; Và hàng tiêu dùng chủ yếu là hàng điện tử, ôtô và phụ tùng

ôtô.

33

Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam liên tục gia tăng nhưng tốc độ

tăng của nhập khẩu luôn cao hơn so với tốc độ xuất khẩu, làm cho cán cân thương

mại của Việt Nam thâm hụt triền miên, tình trạng đã tác động khả năng cân bằng

cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, đẩy tỷ giá tăng cao.

Tỷ USD

30

100%

80%

23,00

25

60%

20

21,00

40%

15,00

15

20%

11,48

8,56

0%

10

6,31

5,62

-20%

3,69

2,71

3,39

3,03

5

-40%

Dự trữ ngoại hối

Tốc độ tăng dự trữ

0

-60%

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Năm

(cid:61558) Dự trữ ngoại hối :

Hình 2.2 :Dự trữ ngoại hối quốc gia của Việt Nam giai đoạn 1999-2009

Nguồn : ADB

Dự trữ ngoại hối của Việt nam trong giai đoạn 2000-2008 có xu hướng gia

tăng; nhất là từ năm 2005-2007 tình hình kinh tế tăng trưởng cao, cán cân thanh

toán quốc tế hàng năm có thặng dư nên quy mô dự trữ cũng tăng, dự trữ ngoại hối

năm 2005 tăng 35,5% so với năm 2004, đạt mức 8,56 tỷ USD; năm 2007 tăng

82,9% so với năm 2006, đạt 21 tỷ USD. Năm 2008 - 2009 tình hình kinh tế khó

khăn, nguồn lực phát triển giảm sút, tỷ lệ tăng trưởng dự trữ ngoại hối Việt Nam

giảm mạnh năm 2008 chỉ tăng 8,5% so với năm 2008, đạt mức 23 tỷ USD; năm

2009 giảm 34,8% so với 2008, dự trữ còn có 15 tỷ đồng. Theo dự báo của ADB hồi

tháng 4/2010 thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối năm 2010 có thể đạt 17,5 tỷ

USD. Theo báo cáo của IMF thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam đảm bảo được trung

bình từ 7 đến 8 tuần nhập khẩu, thấp hơn so với chuẩn quốc tế, 12 tuần.

34

Nhìn chung, quy mô dự trữ ngoại hối quốc gia của Việt Nam thời gian qua

có tăng, nhưng giá trị dự trữ quốc gia vẫn rất thấp, chưa hỗ trợ được nhiều cho

chính phủ trong điều tiết thị trường, bình ổn tỷ giá. Do đó, từ năm 2008 đến nay –

thị trường ngoại hối biến động thì chính phủ quản lý thị trường chủ yếu bằng các

công cụ gián tiếp, còn việc bơm tiền vào nền kinh tế là rất hiếm.

(cid:61558) Kiềm chế lạm phát :

Theo đà tăng trưởng kinh tế thì lạm phát cũng gia tăng theo nhưng nhìn

chung mức tối đa khoảng 7% - 8%. Tuy nhiên, năm 2008 là thời điểm bắt đầu của

giai đoạn suy thoái sau thời kỳ kinh tế tăng trưởng “nóng” mà đỉnh điểm là 2007,

nền kinh tế toàn cầu khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam bị tác động mạnh, hoạt

động sản xuất kinh doanh trong nước gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng cao 23,1%.

Trước tình hình này, nên ngay từ đầu năm 2009 Chính phủ đã tập trung cao vào

nhiệm vụ ngăn ngừa lạm phát tăng cao trở lại, chống suy giảm kinh tế và duy trì tốc

độ tăng trưởng ở mức hợp lý, thông qua việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh trong

nước, điều hành, chỉ đạo chính sách tiền tệ linh hoạt, do đó lạm phát trong năm

2009 còn 6.9% giảm đáng kể so với năm 2008, giá cả tiêu dùng tương đối ổn định

trở lại. Bằng việc nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải pháp, cuối năm 2009 Việt Nam

đã giảm lạm phát đáng kể. Tuy nhiên, chính phủ vẫn chưa có biện pháp xử lý mạnh

tay và duy trì kiểm soát thường xuyên nên lạm phát vẫn âm ỉ và cứ khi nền kinh tế

vừa khởi sắc là lạm phát lại bắt đầu có nguy cơ bùng phát cao. Hiện nay, lạm phát

đang có xu hướng gia tăng nhanh, theo Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam năm

2010, lạm phát năm này ở mức thấp nhất là 8,5%/ năm, nếu chính phủ không quyết

liệt chống lạm phát thì con số này có thể lên đến 10,5%/năm. Lạm phát càng tăng

cao, thì khả năng thực hiện bình ổn tỷ giá lại càng không thể.

(cid:61558) Nợ vay nước ngoài.

Nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là nợ của chính phủ và được chính phủ

bảo lãnh.

Cùng với đầu tư xã hội gia tăng thì tổng nghĩa vụ phải trả nước ngoài ngày

càng tăng; năm 2005 nợ công là 14,2 tỷ USD, năm 2006 là 15,6 tỷ USD, năm 2007

35

là 19,2 tỷ USD, năm 2008 là 21,8 thì đến năm 2009 con số này đã tăng gần gấp đôi

so với năm 2005 là 27,93 tỷ USD, chiếm 52,6% GDP .

Hình 2.3 : Nợ công của Việt Nam từ giai đoạn 2005-2009

Nguồn : www.vneconomy.vn

Hiện nay, tổng nợ vay nước ngoài của chính phủ và được chính phủ bảo lãnh

đang có xu hướng tăng rất nhanh, theo báo cáo của thủ tướng chính phủ trước quốc

hội, đến hết năm 2010 là vào khoảng 56,7%GDP. Theo tình hình thực tế thì con số

này sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới bởi nhu cầu đầu tư xã hội vẫn đang tăng

cao.

(cid:61558) Cân đối NSNN

Bảng 2.2 : Tình hình bội chi NSNN từ 2000 - 2009

2000

2002

2003

2004

2005

2006

Đơn vị: Tỷ đồng 2008

2007

2009

Chỉ tiêu

22.000

25.597

29.936

34.703

40.746

48.613

56.500

67.677

115.900

4,85% 4,86%

5%

5% 4,58% 6,90%

15.370

18.382

22.895

27.450

32.420

35.864

43.000

48.009

88.520

6.630

7.215

7.041

7.253

8.326

12.749

13.500

19.668

27.230

Bội chi NSNN Tỷ lệ bội chi so GDP Nguồn bù đắp bội chi NSNN Vay trong nước Vay ngoài nước

Nguồn : Bộ tài chính

36

Từ năm 2000-2008, bội chi ngân sách của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao,

xấp xỉ 5%/năm. Từ năm 2009 đến nay con số này có xu hướng tăng cao, theo dự

đoán năm 2010 sẽ vẫn ở mức cao. Thâm hụt NSNN càng tăng thì các khoản nợ vay

của chính phủ càng lớn, đồng thời lạm phát cũng gia tăng, VND sẽ phải chịu áp lực

giảm giá hơn nữa. Vì vậy, trong thời gian qua bội chi NSNN cũng là nguyên nhân

gây áp lực lên tỷ giá hối đoái trên thị trường tiền tệ.

Nhìn chung, trong giai đoạn từ 2000-2009 nền kinh tế trong nước đạt mức

tăng trưởng khá tốt, đầu tư xã hội được quan tâm thích đáng, … nhưng cùng với đà

hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, thì các yếu tố gây bất ổn trong nền kinh tế

cũng có xu hướng gia tăng như lạm phát, tỷ giá hối đoái, giá vàng, lãi suất, thậm hụt

NSNN, nhập siêu, …

(cid:61558) Một số nét chính về thị trường tài chính Việt Nam trong thời kỳ này.

Thị trường tiền tệ và thị trường vốn ngày càng phát triển về quy mô, hoàn

thiện về chất lượng, hoàn chỉnh về cấu trúc. Trong thời gian vừa qua, tốc độ chu

chuyển dòng vốn của thị trường cao, đã đáp ứng khá đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn

cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư của nền kinh tế. Tuy nhiên, thị trường

tài chính cũng như nền kinh tế Việt Nam mới chỉ ở trong giai đoạn đầu của qúa

trình hội nhập, độ phát triển bền vững chưa cao, độ “bám rễ” chưa sâu nên dễ bị mất

thăng bằng bởi các tác động ngoại lực, điều này được minh chứng trong thời kỳ

năm 2008 -2009 khi nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng thế giới, thị

trường tài chính Việt Nam bị giảm sút mạnh.

2.2 Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam và quản lý ngoại hối của chính

phủ trong thời qua.

Sự hình thành và phát triển thị trường ngoại hối của Việt Nam gắn liền với

công cuộc đổi mới nền kinh tế từ những năm cuối thập niên 80 và những năm đầu

thập niên 90 đến nay. Trong quá trình này, điều hành quản lý thị trường ngoại hối

đối với các nhà hoạch định cũng có những giai đoạn rất thuận lợi, suôn sẻ song

cũng có những thời điểm rất khó. Tuy nhiên, mục tiêu xuyên suốt của chính phủ

37

trong quản lý ngoại hối là điều tiết cung cầu ngoại tệ, bình ổn tỷ giá ngoại tệ trên thị

trường ngoại hối, góp phần bình ổn kinh tế vĩ mô.

2.2.1 Thực trạng thị trường ngoại hối.

Sự hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối có thể chia ra làm các

giai đoạn sau:

2.2.1.1 Giai đoạn từ năm 1986 – 1990

Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế từ nền kinh tế bao

cấp, dù chính sách, cơ chế đã được thay đổi nhưng tư tưởng thì vẫn bị ảnh hưởng

của cơ chế cũ, nền kinh tế chưa có bước đột phá đáng kể, vẫn là nền kinh tế hướng

ngoại hối do nhà nước đảm nhiệm thực hiện toàn bộ, nên nhu cầu về thị trường ngoại

hối chính thức chưa xuất hiện.

Từ cuối năm 1987, các hoạt động ngoại hối trong nền mới bắt đầu manh nha tự

phát, xuất phát từ việc các kiều bào được phép gửi ngoại tệ về cho thân nhân trong

nước. Theo đó, lượng ngoại tệ trôi nổi trong dân cư lớn, giao dịch ngoại tệ trên thị

trường tự do bắt đầu xuất hiện và ngay sau đó đã gia tăng rất nhanh. Kéo theo tình

trạng buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng, điều này đã góp phần làm tăng khoảng cách

chênh lệnh giữa tỷ giá thị trường chợ đen và tỷ giá giá chính thức do NHNN công bố.

Đặc biệt là năm 1988 tỷ giá chính thức là 3.000 VND/USD, trong khi đó tỷ giá tự do là

4.350 VND/USD và năm 1991 thì tỷ giá chính thức là 8.200 VND/USD, còn tỷ giá tự

do lên đến 9.000 VND/USD.

nội, không giao thương với thế giới. Hoạt động ngoại thương cũng như hoạt động

2.2.1.2 Giai đoạn từ năm 1991 đến nay

i. Sơ lược về thị trường ngoại hối Việt Nam

(cid:61558) Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ( thị trường chính thức).

Năm 1991, Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế, tăng cường quan hệ song

phương, đa phương với các nước trong khu vực Châu Á và thế giới, kêu gọi đầu tư

nước ngoài, khuyến khích kiều bào gửi kiều hối về nước, đẩy mạnh họat động xuất

nhập khẩu,…Do đó, nhu cầu giao dịch ngoại tệ tăng cao. Trước tình hình đó,

NHNN quyết định thành lập Trung tâm giao dịch ngoại tệ hoạt động tại TP. HCM

38

và Hà Nội như thị trường ngoại hối chính thức, với số lượng 2 phiên/tuần vào thứ

ba và thứ sáu. Mục tiêu của thị trường này là :

- Thiết lập thị trường ngoại tệ chính thức giao dịch giữa Ngân hàng và các tổ

chức kinh tế.

- Đánh giá và đo lường cung - cầu ngoại tệ trên thị trường.

- Quyết định tỷ giá chính thức hợp lý giữa USD và VND.

- Chuẩn bị những điều kiện ban đầu cho việc hình thành thị trường tài chính

trong tương lai.

Với sự gia đời của hai Trung tâm ngoại tệ này được coi là nền móng ban đầu

cho việc hình thành thị trường ngoại hối có tổ chức tại Việt Nam.

Trước tình hình phát triển của thị trường, ngày 23/9/1994 thị trường ngoại tệ

liên ngân hàng được thành lập thay thế cho Trung tâm giao dịch ngoại tệ theo Quyết

định số 203/NH-QD của Thống đốc NHNN nhằm xây dựng một thị trường có tổ

chức cho giao dịch giữa các ngân hàng thương mại. Sự ra đời của thị trường ngoại

tệ liên ngân hàng đóng góp vai trò quan trọng trong việc kết nối cung cầu ngoại tệ

cho các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, thông qua thị trường này NHNN đã

nắm bắt được nhu cầu thị trường từ đó tham gia vào thị trường với vai trò là người

điều tiết thị trường khi cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong

từng thời kỳ .

(cid:61558) Các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại hối Việt Nam

Ngày 10/01/1998 NHNN đã ra Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN7 về việc

ban hành quy chế giao dịch ngoại hối, thông qua đó NHNN chính thức cho phép thị

trường ngoại hối thực hiện thêm 2 loại giao dịch; đó là giao dịch kỳ hạn

(FORWARD) và giao dịch hoán đổi (SWAP). Tuy lúc mới cho phép giao dịch thì

chỉ có 28 NHTM được NHNN cấp phép hoạt động ngoại hối kỳ hạn và hoán đổi,

trong đó 21 Chi nhánh NHNN, 4 NHQD và 3 ngân hàng TMCP nhưng cho tới nay

thì phần lớn các ngân hàng thương mại đều có các sản phẩm giao dịch kỳ hạn và

giao dịch hoán đổi.

39

Trước năm 1998, các giao dịch trên thị trường chủ yếu là các giao dịch giao

ngay. Các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi là những công cụ phòng ngừa rủi ro mà Mỹ

và các nước thực hiện từ những năm thập niên 70 nhưng ở Việt nam vẫn còn mới lạ,

ít được các doanh nghiệp biết đến và sử dụng.

Năm 2002 NHNN đã cho phép Ngân hàng CP xuất nhập khẩu Việt Nam

(EXIMBANK) thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn với các loại ngoại tệ mạnh

như EUR, AUD (đô la Úc), SGD (đô la Singapore) so với USD. Sau cuộc thí điểm

thành công này NHNN cũng cho các NHTM khác thực hiện như Techcombank,

ACB,... Đến nay, giao dịch quyền chọn đã được được mở rộng tới tỷ giá giữa

VND/USD, vàng và cả nông sản.

Tháng 12/2004, với quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh

giao dịch ngoại hối của các TCTD, theo đó NHNN muốn tạo ra sự thông thoáng,

linh hoạt và tự chủ hơn cho các TCTD nhằm thúc đẩy các nghiệp vụ kinh doanh

trên thị trường ngoại tệ phát triển sôi động.

Tuy nhiên, cho đến nay trên thị trường ngoại hối Việt Nam cũng vẫn chủ yếu

là các giao dịch giao ngay, số lượng giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi cũng

còn khá khiêm tốn; còn giao dịch quyền chọn chiếm tỷ lệ rất thấp, mỗi năm chỉ có

vài hợp đồng. Hơn nữa, hiện nay tại Việt Nam chỉ có một vài NHTM lớn và chi

nhánh ngân hàng nước ngoài mới có bộ phận kinh doanh ngoại tệ hoạt động theo

đúng nghĩa của nó, còn phần lớn chỉ xử lý cân đối nguồn vốn huy động và cho vay

trong nội bộ.

ii. Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối.

Đầu giai đoạn này, Việt Nam vừa mới chuyển đổi (3/1989) loại cơ chế tỷ giá

áp dụng từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của nhà

nước nên trong vấn đề quản lý còn nhiều hạn chế. Tỷ giá hối đoái trên thị trường

ngoại hối biến động mạnh và có xu hướng gần như thả nổi vào khoảng thời kỳ cuối

năm 1991-1992. Cuối năm 1991 tỷ giá tăng vọt lên 13.000 VND/USD từ mức 7.000

VND/USD ở thời điểm đầu năm, xong lại giảm đột ngột còn 11.000 VND/USD vào

năm 1992 và sau đó duy trì một thời gian dài từ năm 1992 đến năm 1997 trong

40

khoảng từ 10.500 VND/USD đến 11.500 VND/USD. Năm 1991 tỷ giá tăng và sau

đó xác lập ở một mức mới trong thời kỳ này đã góp phần tạo thuận lợi cho hoạt

động xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài sau một thời gian dài “bó buộc”

bởi VND bị định giá thấp. Nhờ vậy, thị trường trường ngoại tệ cũng đã thông

thoáng hơn, việc mua bán ngoại tệ và thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp cũng

Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách tự do thương mại, xóa bỏ chế độ độc

quyền ngoại thương, mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các doanh

nghiệp trong mọi thành phần kinh tế, đã góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động ngoại

thương. Qua đó, cũng đã làm tăng số lượng giao dịch ngoại tệ và nghiệp vụ thanh toán

quốc tế.

60%

50%

40%

30%

20%

10%

dễ dàng hơn rất nhiều.

g n ở ư r t g n ă t ệ l ỷ T

0%

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

-10%

-20%

Năm

Kim ngạch xuất khẩu

Kim ngạch nhập khẩu

Hình 2.4 : Tỷ lệ tăng trưởng của xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-1998

Nguồn : Tổng Cục Thống Kê.

Trong thời kỳ 1991-1996, nguồn ngoại tệ vào Việt nam có khuynh hướng

tăng mạnh. Các nguồn chảy vào chủ yếu là xuất khẩu từ 2,09 tỷ USD năm 1991

tăng lên đến 7,26 tỷ USD năm 1996; Lượng kiều hối và ngoại tệ từ du khách đến

Việt Nam trung bình khoảng 3 tỷ USD/năm; FDI chảy vào cũng có xu hướng tăng

dần, tính trung bình từ 1991-1996 FDI giải ngân đạt 1,54 tỷ USD/năm; Và Từ năm

1993, Việt Nam có thêm dòng ngoại tệ từ nguồn vốn vay ODA, ODA giải ngân

41

tăng nhanh, tính chung từ 1993-1996 đạt 2,76 tỷ USD. Nhờ vậy, nguồn cung trên

thị trường dồi dào, cung luôn vượt cầu USD, tỷ giá ngoại tệ bình ổn, hoạt động

ngoại hối rất suôn sẻ. Nguồn ngoại tệ vào nhiều nhưng NHNN lại không tận dụng

mua ngoại tệ vào để tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia và cân bằng thị trường nên nguồn

ngoại tệ này đã đổ hết vào nhập khẩu, nhập khẩu hàng hóa tăng ồ ạt, nếu năm 1991

là 2,34 tỷ USD thì đến năm 1996 là 11,14 tỷ USD làm cho nhập siêu tăng mạnh từ

251 triệu USD năm 1991, năm 1992 là 939 triệu USD, năm 1994 là 1.772 triệu

USD, năm 1995 là 2.707 triệu USD và năm 1996 là 3.888 triệu USD. Bởi trong thời

điểm này, các doanh nghiệp có thể mua ngoại tệ, vay bằng ngoại tệ và mở L/C trả

chậm tại các NHTM rất dễ dàng.

Năm 1997 -1998, Việt Nam chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính

Châu Á, các dòng vốn ngoại chảy vào Việt Nam bị chựng lại, ảnh hưởng lớn nhất là

nguồn thu từ FDI, xuất khẩu và ngoại tệ của du khách; cộng với tình trạng đầu cơ,

găm giữ gia tăng nên khả năng đáp ứng ngoại tệ của ngân hàng bị hạn chế, gây ra

tình trạng khan hiếm ngoại tệ trên thị trường.

Từ năm 2002 - 2007 nền kinh tế toàn cầu phát triển thuận lợi và nền kinh tế

Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng quay đó. Các nguồn thu ngoại tệ của nền

kinh tế khá lớn, đặc biệt là năm 2007 hoạt động xuất nhập khẩu thuận lợi, nguồn

vốn FDI vào Việt Nam ào ạt 8,03 tỷ USD, lượng kiều hối thu hút được lớn 6,17 tỷ

USD, lượng khách du lịch đến Việt Nam tăng mạnh mang về cho Việt Nam 3,75 tỷ

USD, … nguồn cung luôn vượt cầu ngoại tệ, thị trường ngoại hối thông thoáng nên

việc điều hành quản lý thị trường ngoại hối của NHNN hết sức thuận lợi.

Tuy nhiên từ năm 2008 đến hết năm 2009, thị trường ngoại hối diễn biến hết

sức phức tạp, bất ổn bởi bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính

toàn cầu mà xuất phát điểm là nước Mỹ. Theo đó, tốc độ thu hút ngoại tệ từ các

kênh chính của nước ta đã bị giảm sút làm mất cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị

trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối diễn biến hết sức căng thẳng, các NHTM

không có nguồn để bán, vì vậy các doanh nghiệp nhập khẩu không thể tiếp cận

được với nguồn ngoại tệ chính thức và rất nhiều doanh nghiệp đã phải tìm đến thị

42

trường chợ đen để giải quyết vấn đề ngoại tệ; Đồng thời, tỷ giá hối đoái giữa thị

trường chính thức và thị trường tự do có sự chênh lệnh rất lớn làm cho nguồn cung

ngoại tệ trên thị trường đã chuyển hướng về thị trường tự do; vì vậy, thời kỳ này thị

trường chợ đen phát triển rất sôi nổi. Sự luân chuyển dòng ngoại tệ trên thị trường

chợ đen gia tăng đã gây khó khăn cho việc kiểm soát và điều tiết thị trường của

NHNN.

iii. Đánh giá tình hình hoạt động của thị trường ngoại hối của Việt Nam

trong thời gian qua.

(cid:61558) Thành tựu

Thì trường ngoại hối Việt Nam sau gần 20 năm hình thành và đổi mới mặc

dù có những thăng trầm, song cũng đạt được những bước tiến đáng kể, thể hiện:

Thị trường ngoại hối đã có bước những phát triển đáng kể về trình độ, quy

mô hoạt động, nghiệp vụ ngoại hối cũng như thành phần các chủ thể tham gia thị

trường, tuy nhiên cũng còn khá non trẻ so với thị trường ngoại hối của các nước

trong khu vực

Thị trường ngoại hối nói riêng và thị trường tài chính nói chung bước đầu đã

tạo lập được nền tảng phát triển theo xu hướng tự do hóa và từng bước hòa nhập với

thị trường tài chính quốc tế.

(cid:61558) Tồn tại

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì thị trường ngoại hối Việt Nam vẫn

còn rất nhiều những tồn tại và những tồn tại đó cũng chính số những tác nhân gây

nên tình trạng bất ổn trên thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian qua và hiện

nay.

- Hiện tượng đô la hóa cao: Tình trạng niêm yết giá, thanh toán bằng ngoại tệ

đối với hàng hóa trên thị trường trong nước còn rất phổ biến. Bất cứ ở đâu cũng

chấp nhận thanh toán bằng ngoại tệ; vì vậy, lượng tiền đô la mặt trong lưu thông

khá lớn, tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng có xu hướng tăng cao. Tình

trạng đô la hóa cao đang là một trong những vấn đề nan giải của quản lý ngoại hối.

43

- Tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ còn khá phổ biến: Đặc biệt là vào các

thời điểm cuối năm, nhu cầu ngoại tệ gia tăng, tỷ giá hối đoái tăng nhiệt, nhiều

doanh nghiệp xuất khẩu và cá nhân có nguồn thu ngoại tệ thì nắm giữ hoặc gửi tiết

kiệm bằng ngoại tệ, do đó các NHTM không có ngoại tệ để đáp ứng cho các nhu

cầu hoạt động của nền kinh tế.

- Hoạt động trao đổi, mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ chợ đen diễn ra

rất sôi nổi, không chỉ cá nhân mà cả doanh nghiệp cũng tham gia giao dịch trên thị

trường này. Các nhu cầu sử dụng ngoại tệ vì mục đích cá nhân phần lớn được đáp

ứng bởi thị trường này. Hơn nữa, thị trường chợ đen hiện là nơi cung ứng hầu hết

các nhu cầu ngoại tệ cho họat động nhập lậu hàng qua biên giới, điều này phát sinh

những hệ lụy xấu cho nền kinh tế.

- Ngay cả trên thị trường chính thức, vào những thời điểm cung cầu ngoại tệ

căng thẳng, nguồn ngoại tệ tại các NHTM khan hiếm, hiện tượng mua bán vượt trần

quy định cũng xảy ra khá phổ biến. Các NHTM lách trần bằng nhiều cách như thu

thêm phí, bán ngoại tệ thông qua một ngoại tệ thứ 3 hoặc đứng trung gian môi giới,

chuyển tiền cho bên mua và bán, … Hành vi này của các NHTM đã vô tình tiếp tay

cho các doanh nghiệp vi phạm các quy định về quản lý ngoại hối, làm cho tình trạng

cung cầu ngoại tệ đã căng thẳng lại càng trầm trọng hơn. Về tình trạng này, NHNN

có cảnh báo nếu phát hiện ngân hàng nào vi phạm sẽ bị chế tài nghiêm khắc, tuy

nhiên NHNN cũng chưa có biện pháp kiểm soát được hết.

- Trong thời gian vừa qua thị trường vàng diễn ra rất sôi động, sau khi thị

trường bất động sản và chứng khoán sa sút thì thị trường vàng trở thành kênh đầu tư

mới được dân cư quan tâm. Nhập khẩu vàng theo đường không chính thức gia tăng

làm tiêu tốn rất nhiều ngoại tệ. Vì vậy, cứ giá vàng “nóng” lên thì tỷ giá ngoại tệ lại

tăng “nhiệt”, làm ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường.

- Các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá chưa được sử dụng phổ biến, các doanh

nghiệp chưa thực sự quan tâm. Vì nhiều vấn đề như khung pháp lý về các sản phẩm

phái sinh chưa rõ ràng, chưa có sự tuyên truyền đại trà,… nên sự am hiểu về sản

44

phẩm phái sinh của các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa nhận thức được đầy đủ về

tầm quan trọng của quản trị rủi ro bằng sản phẩm phái sinh.

2.2.2 Quản lý ngoại hối

Điều hành, quản lý ngoại hối của chính phủ trong các giai đoạn phát triển

của thị trường ngoại hối Việt Nam như sau :

2.2.2.1 Giai đoạn từ năm 1986 – 1990.

Trong thời kỳ này, các quan hệ với bên ngoài của đất nước đều thông qua cơ

quan ban ngành Nhà Nước. Trong kinh doanh ngoại hối cũng vậy, NHNN là cơ

quan độc quyền, kinh doanh thông qua các tổ chức kinh doanh của mình là Ngân

Nguồn thu ngoại tệ hết sức khan hiếm cùng với sự thiếu quan tâm quản lý

nguồn ngoại tệ nên dự trữ ngoại tệ quốc gia trong thời kỳ này rất thấp và tăng trưởng

chậm, năm 1989 là 24 triệu USD; năm 1990 không tăng thêm ít nào, năm 1991 tăng

thêm được 3 triệu USD. Trong khi đó cũng vào thời điểm năm 1990, dự trữ ngoại tệ

của Thái Lan là 14,27 tỷ USD, Trung Quốc là 29,6 tỷ USD.

hàng Ngoại Thương và công ty kinh doanh vàng bạc, đá quý.

Hoạt động ngoại hối trong thời kỳ khá sơ khai, nên về các văn bản pháp lý

định hướng cũng rất ít và sơ sài, chỉ có nghị định số 161/HĐBT/1988 của Hội đồng

Theo Nghị định này chỉ có Ngân hàng Ngoại thương được kinh doanh ngoại hối. Các

ngân hàng thương mại khác muốn kinh doanh ngoại hối hay làm dịch vụ thu ngoại hối

phải được NHNN cho phép, đây là điều cải tiến so với trước đây. Nhà Nước từ bỏ vị trí

độc quyền của mình trong kinh doanh ngoại hối.

Theo quy định các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn trong thời kỳ này hầu hết

đều bị kiểm soát chặt chẽ, như sau:

- Giao dịch vãng lai : Ngoại tệ chuyển ra bên ngoài phải có giấy phép của

NHNN; Các khoản ngoại tệ thu từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đều phải gửi vào tài

bộ trưởng ban hành về Điều lệ quản lý ngoại hối làm định hướng điều chỉnh thị trường.

khoản tại Ngân hàng và phải thực hiện nghĩa vụ bán và thanh toán ngoại tệ cho Nhà

được NHNN xem xét cấp cho một số cần thiết; kiều hối được khuyến khích chuyển về

ngân hàng và cho phép rút ngoại tệ mặt; …

nước theo quy định; Các tổ chức và cá nhân Việt nam có nhu cầu chi ngoại tệ điều

45

- Giao dịch vốn : Nhà đầu tư nước ngoài phải tự cân đối ngoại tệ, việc tiếp cận

ngoại tệ phải có giấy phép của NHNN, vay nợ nước ngoài phải được sự chấp thuận của

NHNN,…

Tuy nhiên, thực tế thì NHNN kiểm soát không chặt hoạt động ngoại hối nên khả

năng thực thi các quy định của nhà nước đối với hoạt động này rất thấp, hoạt động

ngoại hối khá lộn xộn.

2.2.2.2 Giai đoạn từ năm 1991 đến nay.

i. Chính sách quản lý ngoại hối

Trong giai đoạn này thị trường ngoại hối Việt nam đón nhận rất nhiều những

tác động từ chính sách, đặc biệt là từ năm 1998 có rất nhiều nghị định, thông tư và

văn bản về quản lý ngoại hối được ban hành. Các chính sách mới của thời kỳ này có

tiến bộ về cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng chuyên nghiệp và phù hợp hơn với

thông lệ quốc tế.

(cid:61558) Các văn bản được chỉnh sửa, bổ sung và ban hành đúng vào thời điểm khủng

hoảng tài chính Châu Á nhằm giúp thị trường tài chính trong nước hạn chế được các

tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và tiếp tục hội nhập thị trường thế

Nghị định 161/HĐBT/1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ quản lý ngoại

hối, nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, từng bước

giới, tiêu biểu nhất Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối thay thế cho

thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam và hoàn thiện hệ thống quản lý

ngoại hối của Việt Nam. Với nghị định 63/1998/NĐ-CP, chính phủ đã đưa ra các

quy định đầy đủ hơn và chi tiết hơn về quản lý ngoại hối trong nước.

- Về giao dịch vãng lai được điều chỉnh dần theo xu hướng tự do hóa so với

quy định của IMF, chỉ còn một số hạn chế về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài

của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, hạn chế chuyển ngoại tệ ra

nước ngoài của các cá nhân, …

- Về giao dịch vốn : Vấn đề vay nợ ngắn hạn nước ngoài và điều kiện vay nợ

đã được nới lỏng; các doanh nghiệp nước ngoài cũng không cần phải tự cân đối

ngoại tệ, …

46

(cid:61558) Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1998 đến nay, chính sách quản lý

ngoại hối của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng kịp thời với mức độ

phát triển của thị trường ngoại hối trong nước.

- Ngày 28/12/2006 chính phủ đã ban hành Nghị định số 160/2006/NĐ–CP

nhằm quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11

ngày 13/12/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thay thế cho Nghị định

63/1998/NĐ-CP đã được áp dụng 1998. Nghị định 160/2006/NĐ–CP đã được chỉnh

sửa có hệ thống hơn, sửa đổi và bổ sung một số điều cho phù hợp với tình hình mới

của thị trường ngoại hối. Nghị định này được xem là “bản lề” trong quản lý ngoại

hối hiện nay.

Giao dịch vãng lai : Từ năm 2006 đến nay, giao dịch vãng lai đã được tự do

hóa hoàn toàn.

Giao dịch vốn : Tương đối được nới lỏng, chỉ còn một số hạn chế như: Hạn

chế tỷ lệ góp vốn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Doanh nghiệp

nhà nước vay nợ nước ngoài phải có ý kiến cho phép của NHNN; Đầu tư của nước

ngoài vào thị trường chứng khoán còn bị hạn chế về tỷ lệ mua và tỷ lệ nắm giữ; Góp

vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài còn bị hạn chế; Hạn chế các hình thức

vay nước ngoài; Doanh nghiệp FDI vẫn còn danh mục ưu tiên cân đối ngoại tệ;

Chưa có quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.

ii. Quản lý ngoại hối của chính phủ trong thời gian qua.

Trong thời gian qua, cung cầu ngoại tệ mất cân đối, tỷ giá hối đoái tăng cao,

thị trường ngoại hối căng thẳng đã ảnh hưởng mạnh đến hoạt kinh tế. Xảy ra tình

trạng này thứ nhất là do bị tác động bởi sự mất cân đối chung trong nền kinh tế bao

gồm lạm phát, nhập siêu, thâm hụt NSNN… Thứ hai, là do bị tác động bởi cuộc

khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dòng ngoại tệ thương mại và dòng vốn đầu tư nước

ngoài chảy vào Việt Nam bị giảm mạnh.

Vì vậy, nhiệm vụ điều hành, quản lý ngoại hối, điều tiết cung cầu ngoại tệ

trên thị trường trong thời gian qua đối với chính phủ khá nặng nề. Ngoài bơm ngoại

47

tệ vào nền kinh tế, NHNN cùng các bộ ngành liên quan thực hiện đồng bộ rất nhiều

biện pháp để khơi thông nguồn ngoại tệ trong nền kinh tế.

(cid:61558) Lãi suất USD.

Ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay chủ yếu là

USD. USD được giao dịch, mua - bán, huy động và cho vay chủ yếu nhất; các ngoại

tệ khác chỉ sử dụng để giao dịch mua bán nhưng cũng rất ít, còn huy động và cho

vay thì càng giới hạn hơn, nếu có thì cũng sẽ được quy đổi ra USD.

NHNN không có quy định đối với lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ

như đối với VND nên lãi suất ngoại tệ là do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết

định; cùng với tình trạng cung ngoại tệ thiếu hụt, thì lãi suất USD trong thời gian

qua đã bị đẩy lên cao. Các NHTM đã tăng lãi suất ngoại tệ để thu hút tiền gửi ngoại

tệ từ dân cư, nếu trước đây năm 2009 lãi suất huy động USD chỉ từ 3,0% -

3,5%/năm thì đến nay là 5,0%-5,5%/năm. Còn lãi suất cho vay USD đã lên đến

7,0% -8,0%. Việc đẩy lãi suất USD lên cao, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng

giá USD, như vậy càng làm cho VND mất giá hơn và tỷ giá VND/USD càng không

thể giữ được mà khả năng tăng rất cao.

Lãi suất USD ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với thị trường thế giới, tại Mỹ

lãi suất USD chỉ là 0,25%/năm. Đây là nghịch lý trong điều hành chính sách tiền tệ.

Trong thời gian qua, để giải tỏa tình trạng găm giữ ngoại tệ, NHNN cũng đã

can thiệp vào lãi suất tiền gửi USD của các tổ chức kinh tế tại các NHTM, yêu cầu

áp dụng mức lãi suất là 1% từ 11/02/2010. Chỉ thị này cũng đã tác động đáng kể

cho trong việc khơi thông nguồn ngoại tệ.

(cid:61558) Tín dụng ngoại tệ.

Trước thực trạng lượng ngoại tệ tại NHTM dùng để cho vay thì dư thừa, còn

lượng ngoại tệ dùng bán thì khan hiếm, ngày 15/12/2009 NHNN ban hành Thông tư

số 25/2009/TT-NHH cho phép mở rộng đối tượng vay ngoại tệ của Quyết định số

09/2008/QĐ-NHNN ngày 10/04/2008. Theo đó các doanh nghiệp có thể vay ngoại

tệ để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch

vụ xuất khẩu; Trường hợp vay bằng ngoại tệ để sử dụng trong nước thì phải bán số

48

ngoại tệ vay đó cho TCTD đã cho vay. Thông qua việc khơi thông kênh mua và bán

với kênh huy động và cho vay ngoại tệ trong thời điểm này cũng đã góp phần đáng

kể trong việc làm tăng ngoại tệ cho thị trường, giảm nhiệt cho thị trường ngoại hối.

Tuy nhiên, cũng chính việc nới lỏng tín dụng ngoại tệ từ tháng 12/2009 đã

làm cho dư nợ tín dụng ngoại tệ các tháng đầu năm năm 2010 tăng cao.

Với dư nợ tín dụng ngoại tệ bùng phát đã làm cho nhập siêu tăng nhanh nên

ngay từ tháng 04/2010, NHNN đã tiến hành siết chặt tín dụng ngoại tệ lại:

+ Kiểm soát chặt chẽ, hạn chế cho vay bằng ngoại tệ thanh toán tiền nhập khẩu

các mặt hàng thiết yếu không khuyến khích nhập khẩu theo công văn chỉ đạo

số 3215/NHNN-CSTT ngày 29/04/2010;

+ Siết chặt nguồn ngoài tệ sử dụng nhập khẩu, hạn chế cho vay bằng ngoại tệ

và cả VND để mua ngoại tệ thanh toán tiền nhập khẩu các mặt hàng tiêu

dùng, hàng thiết yếu theo công văn số 4186/NHNN-CSTT ngày 04/06/2010;

+ NHNN có yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm chỉnh 6 biện pháp về cho

vay và huy động vốn bằng ngoại tệ theo văn bản chỉ thị số 4496/NHNN-

CSTT ngày 15/06/2010 nhằm kiểm soát quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ

ngoại tệ;…

Tuy nhiên, dư nợ tín dụng ngoại tệ 10 tháng đầu năm 2010 (tính đến

14/10/2010) đã tăng 52% so với đầu năm, trong khi đó tín dụng VND chỉ tăng có

14,6%. Với dư nợ tín dụng ngoại tệ tăng cao như hiện nay thì nhu cầu ngoại tệ để

trả vốn vay USD ngân hàng sẽ tăng cao trong thời gian tới, như vậy những nỗ lực

bình ổn thị trường ngoại hối sẽ khó đạt được.

(cid:61558) Kết hối ngoại tệ

Pháp luật về quản lý ngoại hối của nước ta cũng như các Điều ước quốc tế

mà Việt Nam đã tham gia ký kết đều cho phép các bên tham gia được tiến hành biện

pháp kết hối nhằm bảo vệ cán cân thanh toán trước các tác động của các cú sốc từ

bên ngoài.

Tháng 09/1998 dưới tác dụng của cuộc khủng hoảng tài chính, cung ngoại tệ

trên thị trường ngoại hối trong nước rất khan hiếm; trong khi đó dự trữ ngoại hối

49

quốc gia còn hạn chế, khả năng can thiệp vào thị trường yếu nên ngày 12/09/1998

Chính phủ đã yêu cầu thực hiện chính sách kết hối bắt buộc với tỷ lệ là 80% theo

Quyết định số 173/Qd_TTg. Tháng 08/1999, nền kinh tế đã vượt cuộc khủng hoảng,

thị trường ngoại hối đã ổn định hơn nên chính phủ đã điều chỉnh giảm tỷ lệ kết hối

xuống 50% theo như quyết định số 180/1999/QĐ_ TTg ngày 30/08/1999. Sau đó,

nguồn cung ngoại tệ khá dồi dào, thì ngày 02/04/2003 NHNN đã có Quyết định số

6/2003/QĐ_TTg giảm tỷ lệ kết hối giảm xuống 0%.

Biện pháp kết hối này không được các chuyên gia đánh giá cao và không

được các doanh nghiệp hưởng ứng bởi chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối của

nước ta còn nhiều khập khiễng : NH thu mua với giá thấp khiến doanh nghiệp cảm

thấy bất lợi và khi doanh nghiệp cần mua lại thì phải mua với giá cao hơn và đôi khi

còn không được ngân hàng đáp ứng.

Tuy nhiên, tháng 12/2009 NHNN yêu cầu 7 Tổng công ty, tập đoàn kinh tế

nhà nước phải bán ngọai tệ cho NHTM theo như chỉ thị số tại văn bản số

26/2009/TT-NHNN ngày 30/12/2009 nhằm khơi thông nguồn cung ngoại tệ trên thị

trường, tăng tính thanh khoản cho thị trường. Ngay sau khi biện pháp này được thực

hiện, tình trạng găm giữ ngoại tệ đã được giải tỏa đáng kể, các NHTM đã có nguồn

để bán cho các khách hàng.

(cid:61558) Điều hành tỷ giá trên thị trường ngoại hối.

Thời kỳ từ năm 1999 – 2007, khả năng thu hút ngoại tệ của nền kinh tế tốt,

cung ngoại tệ dồi dào, do đó tình hình thị trường ngoại hối khá bình ổn, tỷ giá giao

dịch trên thị trường ngoại hối Việt Nam khá ổn định nên việc điều hành tỷ giá của

NHNN trong thời kỳ khá nhẹ nhàng.

50

Hình 2.5 : Tỷ giá hối đoái từ tháng 12/2007-12/2009.

diem-vi-mo-2010.htm. ( Thời báo kinh tế)

Nguồn:http://vneconomy.vn/2010020405152285P0C6/chinh-sach-ty-gia-tam-

Tuy nhiên, vấn đề bật cập trong chính sách điều hành quản lý tỷ giá chỉ thực

sự bộc lộ khi nền kinh tế có biến động. Đó là thời gian vừa qua năm 2008 - 2009

nền kinh tế trong nước chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị

trường tiền tệ trong nước biến động mạnh, NHNN liên tục giảm giá VND thông qua

việc tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng và nới rộng biên độ giao dịch của tỷ giá

để điều chỉnh cung cầu trên thị trường; điển hình như từ cuối năm 2007 đến năm

2008, NHNN đã điều chỉnh biên độ tỷ giá theo hướng mở rộng biên độ tỷ giá giao

dịch lên đến 4 lần từ +/- 0,5% lên +/- 0,75% vào ngày 24/12/2007 sau lần điều

chỉnh gần nhất vào ngày 31/12/2006; và sau đó là lên +/- 1%; +/- 2%; +/- 3% vào

các tháng 03, tháng 06 và tháng 11 năm 2008 (Phụ lục 3); đến năm 2009 tình hình

nay vẫn không được cải thiện nhiều, giá thị trường tự do tăng cao so với tỷ gía giao

dịch của các NHTM, NHNN tiếp tục cho tăng tỷ giá thông qua nới rộng biên độ tỷ

giá lên +/- 5%. Tuy nhiên, sức căng của cung cầu ngoại tệ vẫn không được cải

thiện, diễn biến trên thị trường hết sức phức tạp, tỷ giá bình quân liên ngân hàng lúc

này vẫn chỉ xoay quanh 16.980 VND/USD, còn tỷ giá giao dịch niêm yết kịch trần

tại các NHTM lúc này là 17.829 VND/USD, trong khi đó tỷ giá trên thị trường tự

51

do có thời điểm trên 19.000 VND/USD. Trong thời gian qua chính phủ tăng đã tỷ

giá rất nhiều làm cho VND mất giá mạnh nhưng tình hình thị trường ngoại hối vẫn

không được cải thiện, Để giải tỏa vấn đề này, tháng 11/2009 NHNN tiếp tục tăng tỷ

giá thêm 3,46% bằng cách giảm biên độ từ +/- 5% xuống +/- 3%, đồng thời tăng tỷ

giá liên ngân hàng từ 17.030 VND/USD lên 17.961 VND/USD. Tỷ giá chính thức

có phần tiến tới gần với tỷ giá trên thị trường tự do hơn. Tuy nhiên, vấn đề thị

trường ngoại hối bất ổn vẫn luôn thường trực, NHNN phải tiếp tục xử lý bằng biện

pháp điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, đầu năm 2010, NHNN lại tiếp tục

biện pháp cũ là tăng tỷ giá chính thức thêm 3,36%. Mới đây nhất là ngày

18/08/2010, trước tình hình nhập siêu tăng cao, cung ngoại tệ khan hiếm NHNN lại

quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 2% với mục đích là hạn chế

nhập khẩu.

Cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường theo kiểu, tăng tỷ giá hối đoái thì tự

khắc cung ngoại tệ sẽ tăng và cầu ắt sẽ giảm là phương thức không khả thi bởi vì :

+ Thứ nhất là tăng tỷ giá VND/USD, sẽ làm VND mất giá, góp phần làm cho

lạm phát tăng cao. Lạm phát cao thì chi phí sử dụng vốn sẽ tăng, theo đó khả

năng thu hút FDI và FII sẽ giảm, như vậy sẽ càng làm mất đi nguồn thu

ngoại tệ.

+ Thứ hai nữa là tỷ giá VND/USD tăng chưa chắc đã tăng xuất khẩu như trong

thời gian qua các cơ quan chức năng thường đề cập, bởi vì lạm phát cao chí

phí sử dụng vốn tăng thì khả mở rộng sản xuất là không thể. Hơn nữa, xuất

khẩu không chỉ phụ thuộc vào tỷ giá mà còn phụ thuộc vào cơ cấu mặt hàng

xuất khẩu, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, giá cả hàng hóa so với giá nước

ngoài, công tác xúc tiến thương mại …

+ Thứ ba là tăng tỷ giá hối đoái VND/USD thì chưa thể khẳng định được sẽ

hạn chế nhập khẩu, bởi vì trong ngắn hạn thì các doanh nghiệp nhập khẩu đã

ký hợp đồng nhập khẩu, còn trong dài hạn thì có thể tìm kiếm nguồn nhập

khẩu khác.

52

Quan sát thực tế cho thấy, trong thời gian qua chính phủ luôn điều chỉnh,

thay đổi tỷ giá “chạy đuổi” theo tỷ giá trên thị trường tự do, làm cho VND giảm giá

mạnh, ảnh hưởng đến tâm lý của dân cư, gây ra tình trạng các cá nhân gia tăng việc

nắm giữ ngoại tệ thay cho VND, theo đó càng làm tăng cầu ngoại tệ. Hơn nữa, trên

thị trường tự do có sự tham gia của giới đầu cơ, đẩy giá ngoại tệ lên cao. Vì vậy,

việc NHNN cố điều chỉnh tỷ giá nhằm giảm chênh lệch so với tỷ giá thị trường tự

do để giải quyết cân đối cung cầu ngoại tệ mà không phải dựa trên những tính toán,

định lượng theo yêu cầu phát triển kinh tế vĩ mô, thì sẽ càng làm cho VND mất giá

và lạm phát tăng cao.

Trong thời gian qua, hầu hết các đồng tiền đều tăng giá so với USD, đồng

JPY Nhật tăng 12,9% so với USD; đồng SGD của Singapore tăng 8,2%; đồng Bath

Thái tăng 10,7%; đồng GBP, Euro nửa đầu năm 2010 giảm giá nhưng hiện nay đều

tăng giá so với USD,…nhưng riêng có VND là đi theo chiều hướng ngước lại, tức

là giảm giá mạnh so với USD. Đây là vấn đề chính sách điều hành tỷ giá và quản lý

ngoại hối Việt Nam cần xem xét lại.

(cid:61558) Dự trữ bắt buộc.

Trước tình hình thiếu cung ngoại tệ trên thị trường từ năm 2008 đến nay

NHNN đã liên tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt, chỉ riêng năm 2008 NHNN đã giảm 3 lần,

từ 02/01/2008 mức áp dụng là 11% đối với tiền gửi ngắn hạn và 5% đối với tiền gửi

trung dài hạn; ngay sau đó ngày 12/01/2008 NHNN lại giảm mức áp dụng mới lần

lượt là 9% và 3%; từ ngày 12/05/2008 giảm xuống mức là 7% và 3%; từ ngày

05/11/2008 là 9% và 3%; sau đó năm 2009 giảm và ổn định đến nay ở mức 7% và

3% (Phụ lục 4). Giải pháp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng góp phần làm tăng nguồn

vốn ngoại tệ để cho vay ở các NHTM.

(cid:61558) Các biện pháp xử lý tác nghiệp điều tiết cung cầu USD khác

Từ năm 2008 đến nay, tình hình thị trường ngoại hối diễn biến rất phức tạp,

cung cầu ngoại tệ căng thẳng, hiện tượng găm giữ ngoại tệ khá phổ biến, nhiều

doanh nghiệp nhập khẩu không thể tiếp cận được với ngoại tệ, hiện tượng mua bán

ngoại tệ vượt trần quy định không những ở thị trường tự do mà ở cả ngay tại các

53

NHTM thông qua các hình thức thu phí hay bán USD thông qua các ngoại tệ khác,

… để tác động, điều hòa cung cầu, tạo trật tự cho thị trường chính phủ cũng đã thực

hiện rất nhiều các biện pháp khác bao gồm bơm thêm, kiểm soát thị trường, điển

hình như :

- NHNN hỗ trợ cho các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống, ưu

tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất theo như thông báo tại văn bản số

9430/NHNN-QLNH ngày 30/11/2009;

- NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm túc các quy định về biên độ tỷ

giá và đưa ra các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm;…

Với các biện pháp can thiệp trên của chính phủ, đầu năm 2010 tình hình thị

trường cũng không cải thiện nhiều.

Tuy nhiên, NHNN cùng với các bộ, ngành chức năng tiếp tục phối hợp thực

hiện đồng loạt các biện pháp nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường ngoại hối

như: chống đầu cơ ngoại tệ; thắt chặt kiểm soát thị trường ngoại hối; hạn chế nhập

siêu; giải tán sàn vàng, …

Từ khoảng tháng 3 đến tháng 5/2010 thị trường ngoại hối đã hạ nhiệt bớt,

tính thanh khoản tăng nhưng qua tháng 6/2010, tình hình thị trường ngoại hối lại trở

lại tình trạng của năm 2008 -2009.

iii. Tình hình thu hút và quản lý chi tiêu ngoại tệ

Trong lĩnh vực ngoại hối, việc cân đối cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế có

sự tác động lớn của các yếu tố ngoại. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, nền kinh

tế Việt nam đang trong quá trình hội nhập, nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế

phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn bên ngoài, vì vậy bất cứ sự bất ổn nào của nền

kinh tế - tài chính quốc tế nào cũng ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiền tệ -

ngoại hối cũng như nền kinh tế Việt Nam.

Cùng với sự phát triển kinh tế và mở cửa, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế

giới, hiện nay nước ta thu hút được một lớn lượng ngoại tệ trong nước từ nhiều

nguồn khác nhau, trong đó đáng kể nhất là các nguồn như vốn đầu tư nước ngoài,

kiều hối, dịch vụ du lịch và vốn tài trợ phát triển chính thức (ODA), kim ngạch xuất

54

khẩu. Tuy nhiên việc quản lý, sử dụng nguồn ngoại tệ của nước ta vẫn chưa hợp và

hiệu quả.

(cid:61558) Đầu từ nước ngoài.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ đầu thập niên những năm 90

khi nước ta bắt đầu mở cửa hội nhập nền kinh tế thế giới. Dòng vốn này vào Việt

Nam dưới 2 hình thức chính, đó là đầu tư trực tiếp (FDI ) và đầu tư gián tiếp (FII).

Thời kỳ đầu thì chủ yếu là dòng vốn đầu tư trực tiếp, còn dòng vốn đầu tư gián tiếp

chỉ chảy vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi nước ta hội nhập sâu vào nền kinh tế

toàn cầu tháng 1/2007 khi Việt Nam nới lỏng các giao dịch vốn. Mở cửa giao dịch

vốn đã mang lại cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cơ hội tiếp cận

nguồn vốn lớn từ hệ thống tài chính quốc tế, bù đắp những thiếu hụt của nguồn

cung vốn trong nước trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.

(cid:61607) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) :

Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những góp phần chuyển giao công nghệ,

khai thông thị trường sản phẩm (tăng kim ngạch xuất khẩu ), tạo ra nhiều công ăn

việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng chuyển dịch cơ cấu kinh tế

mà còn là nguồn vốn quan trọng bổ sung vào tổng nguồn vốn đầu tư xã hội và góp

phần cải thiện cán cân thanh toán của Việt Nam trong thời gian qua.

Trong thời kỳ từ năm 1991-2006, nguồn ngoại tệ từ dòng vốn FDI chảy vào

Việt Nam trung bình 2,3 tỷ USD/năm. Từ năm 2007, sau khi ra nhập WTO, thực

hiện các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ, các dự án đầu tư vào Việt Nam đã

tăng nhanh đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Nhờ đó, hàng năm

Việt Nam đã tiếp nhận được một lượng lớn ngoại tệ từ FDI. Các năm 2007-2009,

lượng vốn FDI chảy vào Việt Nam tăng cao, năm 2007 đạt 8,03 tỷ USD, tiếp đến

năm 2008 là 11,6 tỷ USD và năm 2009 tuy tình hình kinh tế thế giới khó khăn

nhưng con số này ước tính cũng xấp xỉ 10 tỷ USD.

55

Số dự án

Tỷ USD

70

1800

1600

60

1400

50

1200

40

1000

800

30

600

20

400

10

200

0

0

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

1,29 2,21 3,04 4,19 6,94 10,16 5,59 5,10 2,57 2,84 3,14 3,00 3,19 4,55 6,84 12,00 21,35 64,01 21,48

Vốn đăng ký

0,33 0,57 1,02 2,04 2,56 2,71 3,12 2,37 2,33 2,41 2,45 2,59 2,65 2,85 3,31 4,10 8,03 11,60 10

Vốn giải ngân số dự án đăng ký 152 196 274 372 415 372 349 285 327 391 555 808 791 811 970 987 1544 1171 839

Năm

Hình 2.6 : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giai đoạn năm 1991-2009.

Nguồn : Tổng cục thống kê.

(cid:61607) Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI ) :

FII, ngoài việc góp phần làm tăng nguồn vốn ngoại tệ cho nước ta, nó còn có

tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả

hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp Việt nam có cơ hội tiếp xúc với luồng vốn quốc tế.

Khác với nguồn vốn FDI, nguồn vốn FII rất nhạy cảm với sự khác biệt về tỷ

suất hoàn vốn ngắn hạn. Bởi FII vào kênh trái phiếu chính phủ và cổ phiếu trên thị

trường chứng khoán với thời gian ngắn nên việc dòng vốn này ra vào rất nhanh và

thường xuyên nếu tỷ suất sinh lời của đầu tư tài chính hay thay đổi.

FII vào Việt Nam và có xu hướng tăng nhanh từ sau cuộc khủng hoảng tài

chính Châu Á. Từ năm 2005 đến nay, luồng vốn FII đầu tư thị trường chứng khoán

Việt Nam mới bắt có xu hướng gia tăng. Nguồn FII thặng dư của năm 2005 là 0,86

tỷ USD, năm 2006 là 1,3 tỷ USD, năm 2007 là 6,2 tỷ USD và năm 2008 nguồn vốn

đầu tư của toàn cầu giảm sút mạnh do khủng hoảng tài chính nên lượng FII vào Việt

56

Nam bị giảm mạnh, thâm hụt 0.58 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 2009 nguồn FII đã được

phục hồi nhẹ.

Nhìn chung, trong thời gian qua, nguồn vốn này rất ít được quan tâm bởi các

cơ quan chức năng, cho tới nay văn quy định dành riêng cho FII cũng chưa có; đồng

thời các biện pháp thu hút cũng rất hạn chế, hời hợt. Ngoài ra, việc giám sát, thống

kê cũng chưa đầy đủ và kịp thời.

(cid:61558) Vay nợ nước ngoài:

Thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam ngoài được bù đắp bằng nguồn

vốn đầu tư nước ngoài thì nguồn vốn vay nợ nước ngoài cũng là 1 kênh lớn cho việc

bù đắp sự thiếu hụt này.

Vay nợ nước ngoài của Việt Nam trong đó chủ yếu nợ vay của chính phủ vay

thông qua nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA ).

Sau Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam tại Paris vào tháng 11/1993, quan

hệ hợp tác phát triển của Việt Nam với cộng đồng tài trợ quốc tế được thiết lập,

Tổng số vốn các nhà tài trợ quốc tế cả song phương (Nhật, Pháp, Đức, Đan Mạch,

Thụy Sĩ, ...) và đa phương (ADB, WB, UNESCO, ...) hỗ trợ, hợp tác với Việt Nam

trong giai đoạn từ năm 1993-2009 là 25,12 tỷ USD. Số tiền ODA giải ngân hàng

năm cho Việt nam có xu hướng tăng, nhưng con số này vẫn còn thấp hơn rất nhiều

so với ODA ký kết là 41,7 tỷ USD và ODA cam kết là 56,4 tỷ USD.

Đơn vị : Triệu USD

Bảng 2.3 : Nguồn vốn ODA trong các thời kỳ

1996-2000 11.546,5 9.006,4 6.142,0

1993-1995 6.131,0 4.858,1 1.875,0

2001-2005 14.889,2 11.153,5 7.887,0

2006-2009 23.849,8 16.663,4 9.214,0

Cam kết Kí kết Giải ngân Nguồn : Tạp chí ngân hàng, số 10 tháng 05/2010

(cid:61558) Kiều hối.

Lượng ngoại tệ từ dòng kiều hối của các kiều bào gửi về cho Việt Nam hàng

năm tăng nhanh đặc biệt là những năm gần đây. Nếu như thời kỳ đầu khi Việt Nam

mới hội nhập kinh tế quốc tế thì lượng kiều hối chuyển về Việt Nam chỉ đạt 31 triệu

57

USD thì đến năm 2000 là 1,76 tỷ USD. Trong những năm gần đây, chính sách thu

hút kiều hối đã được điều chỉnh theo hướng cởi mở, tạo thuận lợi cho người gửi và

người nhận nhờ vậy kiều hối chuyển về có xu hướng tăng nhanh, nhất là năm 2007

đạt 6,2 tỷ USD tăng 2 tỷ USD so với năm 2006. Năm 2008 Việt Nam đạt mức kỷ

lục về thu hút kiều hối là 7,2 tỷ USD, xếp thứ 10 trong nhóm các nước nhận được

nhiều kiều hối nhất theo báo cáo của WB và gần đây nhất năm 2009 con số này có

giảm nhưng vẫn đạt là 6,3 tỷ USD. Nhìn chung, hàng năm Việt Nam thu được một

lượng kiều hối khá lớn.

- Tuy nhiên, lượng kiều hối chảy vào ngân hàng còn hạn chế, theo đánh giá

của các NHTM thì lượng kiều hối chuyển về người dân bán cho ngân hàng chỉ vào

khoảng 10%, còn phần lớn là rút ngoại tệ mặt. Vì vậy, lượng ngoại tệ bị phân tán

10

7,2

8

6,3

6

6,2

D S U

4,2

4

ỷ T

4,0

1,76

3,2

2

2,6

1,2

2,2

1,82

0

1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

N ă m

Lư ợng kiều hối

trong dân cư khá lớn, trong khi đó nguồn cung ngoại tệ cho thị trường thì thiếu hụt.

Hình 2.7 : Lượng kiều hối về Việt Nam trong giai đoạn 1999-2009

Nguồn : Ngân hàng nhà nước.

(cid:61558) Hoạt động xuất khẩu hàng hóa

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng đều qua các năm, nếu như

năm 1999 chỉ có 11,54 tỷ USD thì đến năm 2006 là 39,83 tỷ USD, năm 2007 là

48,56 tỷ USD, năm 2008 là 62,69 tỷ USD và năm 2009 là 57,10 USD. Tuy nhiên,

58

cán cân thương mại của nước ta vẫn liên tục bị thâm hụt ngày càng mạnh. Điều đó

cho thấy hoạt động xuất khẩu của nước ta không hiệu quả. Bởi vì, các sản phẩm

xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là sản phẩm thô, chỉ sơ chế nên giá trị rất thấp

như hàng dệt may, dầu thô, giày dép các loại, hàng thủy sản và gạo; trong khi đó

phần lớn những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều phải nhập khẩu nguyên vật

liệu (hàng dệt may, giày dép nhập cả từ vải, chỉ, phụ kiện…). Bên cạnh đó, hàng

xuất khẩu của Việt Nam còn là hàng mang tính gia công rất nhiều. Theo đó, nguồn

thu ngoại tệ ròng của hoạt động này rất thấp. Hay nói cách khác là các sản phẩm

xuất khẩu của Việt Nam chỉ chứa đựng hàm lượng nhân công (lao động giản đơn)

không có hàm lượng công nghệ nên dẫn đến hoạt động xuất khấu của Việt Nam

hiệu quả kinh tế thấp.

- Còn trong nhập khẩu thì cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam phần lớn là

những sản phẩm hoàn chỉnh có hàm lượng công nghệ cao nên giá trị cũng rất cao,

như nguyên liệu, máy móc và có cả các hàng tiêu dùng xa xỉ giá trị lớn như xăng

dầu các loại; Máy móc, thiết bị, phụ tùng; Sắt thép, kim loại; Vải các loại; Chất dẻo

các loại; Và hàng tiêu dùng chủ yếu là hàng điện tử, ôtô và phụ tùng ôtô. Do đó kim

ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn so với kim ngạch xuất khẩu, lượng ngoại tệ thu từ

xuất khẩu giai đoạn 1999 – 2009 trung bình chỉ đáp ứng được khoảng 85% nhu cầu

ngoại tệ nhập khẩu và có xu hướng ngày càng giảm.

Vì vậy, thâm hụt thương mại có xu hướng tăng nhanh, trong khi năm 2006

nhập siêu là 5,06 tỷ USD thì từ năm 2007 đến nay tình trạng nhập siêu khá nghiêm

trọng, năm 2007 là 14,20 tỷ USD; năm 2008 là 18,03 tỷ USD; năm 2009 là 12,85 tỷ

USD. Tình hình này đã tác động đến cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường, đặc

biệt là các dịp cuối năm nhu cầu nhập khẩu lớn, sức cầu ngoại tệ tăng nên tình trạng

cung cầu ngoại tệ luôn căng thẳng. Những năm gần đây, thâm hụt thương mại nhờ

được bù đắp bằng các nguồn tài trợ bên ngoài nên cán cân thanh toán vẫn thăng

bằng. Tuy từ năm 2009, cán cân thanh toán Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu mất thăng

bằng (Phụ lục 5), đây cũng chính là nguyên nhân tác động đến cung cầu ngoại tệ,

59

làm tăng tỷ giá VND/USD. Theo tính toán của Ủy Ban kinh tế của quốc hội thì năm

90

80

70

60

50

40

30

D S U ỷ T

20

10

0

-10

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

4 0 0 2

-20

Năm

-30

Kim ngạch xuất khẩu

Kim ngạch nhập khẩu

Nhập siêu

2010, cán cân thanh toán của Việt Nam thâm hụt vào khoảng 4 tỷ USD.

Hình 2.8 : Kim ngạch xuất nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam 1999-2009

Nguồn : Tổng cục thống kê

Từ năm 2008 đến nay, Bộ công thương đã thực hiện rất nhiều biện pháp

kiểm soát nhập khẩu và để làm nhu cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, bao gồm:

+ Hạn chế nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ ( tháng 5/2008);

+ Hạn chế nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, hàng tiêu dùng theo Quyết định

số 1899/QĐ-BCT ngày 16/04/2010;

+ Hạn chế nhập khẩu các máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu trong nước đã

xuất khẩu được theo như Quyết định số 2840/QĐ-BCT ngày 28/05/2010;

+ Tăng thuế nhập khẩu theo thông tư số 31/2010/TT-BTC ngày 09/03/2010;…

Tuy nhiên, tình trạng nhập siêu của nước ta vẫn đang trên đà tăng mạnh và là

mối lo ngại lớn nhất của chính phủ hiện nay. Nhập siêu đã và đang tác động mạnh

60

đến cân đối vĩ mô bao gồm điều hành tỷ giá, kìm chế lạm phát, lãi suất, giảm thâm

hụt NSNN, …Với những biện pháp kiểm soát trên thì mục tiêu chính phủ đề ra là tỷ

lệ nhập siêu không vượt quá 20% kim ngạch xuất khẩu và giảm cầu ngoại tệ trên thị

trường vẫn chưa đạt được.

Bảng 2.4 : Hoạt động xuất nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2010.

Tỷ lệ

Xuất khẩu

Tỷ lệ tăng/giảm

Nhập khẩu

Đơn vị tính : Tỷ USD Nhập siêu/xuất khẩu

Tháng 01/2010 02/2010 03/2010 04/2010 05/2010 06/2010 07/2010

-20.4% 33.3% 9.6% 7.0% 3.3% -7.9%

-24.2% 38.3% 7.7% -1.4% 10.1% -9.2%

4.9 3.9 5.2 5.7 6.1 6.3 5.8 37.9

tăng/giảm Nhập siêu 1.3 0.8 1.3 1.3 0.8 1.3 1.1 7.9

6.2 4.7 6.5 7 6.9 7.6 6.9 45.8

26.5% 20.5% 25.0% 22.8% 13.1% 20.6% 19.0% 20.8%

Nguồn : Tổng cục thống kê

Ngoài các vấn đề do cơ cấu sản phẩm xuất nhập khẩu Việt Nam như đã đề

cập ở trên thì nguyên nhân nữa gây nên tình trạng nhập siêu, đó là hoạt động nhập

khẩu chưa được cơ cấu, quản lý chặt chẽ nên diễn ra tình trạng nhập khẩu khá tràn

lan, thứ gì cũng nhập, đặc biệt là hàng tiêu dùng, đã làm thất thoát rất nhiều ngoại tệ

một cách lãng phí.

(cid:61558) Xuất khẩu dịch vụ

Xuất khẩu dịch vụ

Nhập khẩu dịch vụ

Tổng giá trị

Trong đó : Du lịch chiếm tỷ lệ

Giá trị

Trong đó : Du lịch chiếm tỷ lệ

4.265,00 5.100,00 6.460,00 7.096,00 5.766,00

53,9% 55,9% 58,0% 56,7% 52,9%

4.480 5.122 7.176 7.915 6.837

20,1% 20,5% 17,0% 16,4% 16,1%

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 Nguồn: Tổng cục thống kê

Bảng 2.5 : Giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ 2005-2009

61

Nguồn ngoại tệ thu từ xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam gia tăng đều qua các

năm. Trong đó, xuất khẩu dịch vụ du lịch chiếm trên 50% tổng thu của xuất khẩu

dịch vụ.

Xuất khẩu dịch vụ du lịch hàng năm đã mang lại cho Việt Nam một lượng

lớn ngoại tệ. Hàng năm Việt Nam đón tiếp khoảng từ 3,5 triệu – 4,5 triệu lượt khách

quốc tế đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng, công tác và thăm thân nhân. Dịch vụ

này đã mang lại cho Việt Nam nguồn thu ngoại tệ từ 2,5 tỷ - 4 tỷ USD/năm. Kim

ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ du lịch luôn thặng dư, những năm gần đây trung bình

là trên 2 tỷ USD/năm.

Tuy nhiên, với những điểm thu đổi ngoại tệ của nước ta khá hạn chế, ngoài

các NHTM thì các bàn thu đổi ngoại tệ không nhiều, cộng với việc các điểm kinh

doanh sẵn sàng nhận thanh bằng ngoại tệ. Vì vậy, một số lượng ngoại tệ chi tiêu của

khách du lịch tại Việt Nam không được tập trung vào ngân hàng mà đa phần sẽ

chảy ra thị trường chợ đen.

2.2.2.3 Đánh giá hoạt động quản lý ngoại hối trên thị trường ngoại tệ trong

thời gian qua.

(cid:61558) Thành tựu

Hoạt động quản lý thị trường ngoại hối của NHNN trong thời gian qua đã

can thiệp nhanh và mạnh theo tín hiệu của thị trường, giảm bớt căng thẳng về cung

cầu ngoại tệ.

Ổn định tỷ giá trên thị trường: Quản lý, điều hành hoạt động ngoại hối đã

góp phần hậu thuẫn cho việc thực hiện chính sách tỷ giá bình ổn của chính phủ

trong thời gian qua. Nhờ đó, tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối tương đối ổn

định, mức tăng hàng năm thấp, chỉ trừ vài thời điểm nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi

cuộc khủng hoảng thì tỷ giá mới có biến động đáng kể.

(cid:61558) Hạn chế

Bên cạnh những thành công, thì hoạt động quản lý ngoại hối vẫn còn một số

hạn chế, cụ thể như sau:

62

- Quản lý thị trường còn yếu: Trên thị trường ngoại hối, thị trường ngoại tệ

chợ đen tồn tại song hành với thị trường chính thức, tuy không chính thức thừa nhận

thị trường chợ đen nhưng nhà nước cũng không thể dẹp bỏ được nó. Vào những

thời điểm thị trường ngoại hối căng thẳng, các NHTM khan hiếm ngoại tệ để bán

cho khách hàng thì thị trường chợ đen lại luôn sẵn sàng cung ứng với số lượng có

thế lên đến vài trăm ngàn đô la Mỹ. Ngoài ra, giá thu mua ngoại tệ trên thị trường

chợ đen luôn cao hơn giá mua niêm yết của ngân hàng nên thị trường này luôn hấp

dẫn được nguồn ngoại tệ mặt từ các doanh nghiệp và cá nhân như 1 tất yếu.

- Không kiểm soát được nguồn ngoại tệ trên thị trường: Công tác quản lý thị

trường còn yếu kém, nên cho đến nay NHNN vẫn chưa thể kiểm soát được nguồn

ngoại tệ trên thị trường. Đơn vị chỉ kiểm soát được dòng ngoại tệ trên thị trường

chính thức thông qua hệ thống NHTM, còn lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường

tự do cũng thì không kiểm soát được. Chính sách quản lý ngoại hối vẫn chưa giải

quyết vấn đề này.

- Tồn tại nghịch lý:

Hiện nay, USD bị mất giá mạnh ở thị trường thế giới, trong khi đó tại Việt

Nam, đồng đô la vẫn được dân cư “tín nhiệm” làm tài sản cất giữ để dành, nhận

thanh toán,...Nghịch lý cho thấy, ngay cả dân cư Việt nam cũng không có mấy lòng

tin về giá trị VND, vì vậy mục tiêu đưa VND trở thành đồng tiền có khả năng

chuyển đổi là một hành trình dài chưa hứa hẹn đích đến.

Hầu hết các đồng tiền các nước đều tăng giá so với USD, trong khi đó VND

lại giảm giá mạnh so với USD;

- Thực hiện cơ chế công khai thông tin chưa thực hiện tốt, thực tế thị trường

trong năm 2008 -2009 đã chứng minh, với tình hình cung ngoại tệ khan hiếm và

việc NHNN thường xuyên điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, cộng với

việc giới đầu cơ trên thị trường loan tin đồn thất thiệt về việc NHNN phá giá VND

làm cho dân cư, doanh nghiệp và các nhà đầu tư liên tục hoang mang, gây ra những

xáo trộn không đáng có, làm thị trường càng bất ổn hơn.

63

Kết luận chương 2.

Thị trường ngoại hối từ khi mở cửa đến nay đã có những bước phát triển

đáng kể, hiện nay thị trường đang tham gia vào tiến trình hội nhập thị trường tài

chính thế giới. Trong thời gian qua, hội nhập đã mang lại nhiều lợi ích cho thị

trường tài chính nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng nhưng đồng thời cũng

tạo ra rất nhiều thách thức đối với việc quản lý ngoại hối; đặc biệt là trong vấn đề

giao lưu thương mại và hợp tác đầu tư quốc tế, luồng ngoại tệ ra - vào có xu hướng

tăng nhanh tác động đến cân đối cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế, ảnh hưởng tỷ

giá hối đoái, tác động đến cân đối vĩ mô.

64

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NGOẠI HỐI TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP.

3.1 Định hướng quản lý ngoại hối trong thời gian tới.

- Phát triển thị trường tài chính Việt Nam nói chung và thị trường ngoại hối

nói riêng theo hướng tự do hóa, liên thông với thị trường thế giới là xu hướng tất

yếu. Vì vậy, trong quản lý điều hành hoạt động ngoại hối cũng phải theo xu hướng

này. Điều này thể hiện qua việc đổi mới chính sách ngoại hối theo hướng tự do hơn;

Về giao dịch vãng lai : Việt nam đã thực hiện tự do hóa các giao dịch vãng lai và

điều này đã được IMF công nhận; Còn các giao dịch vốn cũng bỏ được rất nhiều

những hạn chế.

Cùng với trào lưu toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, vấn đề mở cửa các giao dịch

vốn là vấn đề được các nước đang phát triển suy xét nhiều, bởi mức độ tự do các

giao dịch vốn sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định khu vực tài chính trong nước. Việt nam

cũng không ngoại lệ, các giao dịch vốn hiện nay vẫn còn một số rào cản.

Tuy nhiên, theo mức độ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ tháo gỡ dần

các “nút thắt” này một cách thận trọng và có lộ trình phù hợp với tình hình phát

triển của thị trường tài chính trong nước.

Ngoài việc thực hiện quản lý ngoại hối có liên quan đến giao dịch vãng lai và

giao dịch vốn theo hướng tự do hóa, thì chính sách quản lý ngoại hối trong nước

cũng được hoàn thiện ngày một thông thoáng hơn cho phù hợp với trình độ phát

triển của nền kinh tế và với chuẩn mực quốc tế từ cấu trúc thị trường, loại hình giao

dịch, nghiệp vụ, công nghệ,….

- Từng bước nâng cao tính chuyển đổi của VND, đây cũng là 1 trong những

đích hướng đến của chính sách quản lý ngoại hối như đã được khẳng định trong

Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 và Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng.

- Tiếp tục thực thi cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước, theo đó

NHNN điều chỉnh linh hoạt tỷ giá định hướng – tỷ giá bình quân liên ngân hàng,

phù hợp với tín hiệu của thị trường nhưng trọng tâm vẫn là theo hướng ổn định

65

3.2 Những thách thức đối với quản lý ngoại hối trong bối cảnh hội nhập.

3.2.1 Hoạt động đầu cơ tích trữ, buôn lậu vàng - ngoại tệ.

Đây là một trong những vấn đề nan giải đối với các nhà hoạch định chính

sách quản lý ngoại hối. Bởi tình trạng này gây khó khăn cho NHNN trong việc kiểm

soát, nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

- Công tác quản lý thị trường nước ta còn nhiều yếu kém, lực lượng quản lý

mỏng. Vì vậy, rất khó khăn cho việc ngăn chặn tình trạng đầu cơ, buôn lậu. Đặc biệt

là buôn lậu qua biên giới ngày càng tinh vi, phức tạp. Năm 2008 – 2009 tình trạng

đầu cơ thu gom ngoại tệ, vàng tăng cao; tạo ra sự khan hiếm giả tạo, đẩy giá cả tăng

cao; làm thị trường ngoại tệ biến động mạnh, mặc dù chính phủ đã có nhiều biện

pháp đối phó nhưng khả năng tái diễn rất cao.

3.2.2 Những tác động từ tự do hóa giao dịch vốn.

Trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế của Việt Nam, mở cửa thị

trường tài chính, tự do hóa các giao dịch vốn là xu hướng tất yếu. Hiện nay, Việt

Nam đang mở cửa dần dần đối với giao dịch vốn, chỉ còn một số rào cản nhất định.

Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì mức độ tự do giao dịch vốn của Việt

Nam là khá tự do.

Tự do hóa giao dịch vốn là một quá trình khó khăn và lộ trình thực hiện khác

biệt ở từng quốc gia. Điều kiện, môi trường thị trường tài chính và nền kinh tế của

mỗi nước khác nhau do đó sẽ không có chuẩn mực chung nào cho quá trình tự do

hóa, những tác động tiêu cực và tích cực của tự do hóa các giao dịch vốn ở từng

quốc gia cũng không giống nhau giữa các thời điểm. Vì vậy, các nước thực hiện quá

trình này phải chấp nhận cả những tác động tiêu cực mà mức độ tác động của nó

không thể lường trước được.

Ngoài những lợi ích do tự do hóa dòng vốn mang lại thì nó cũng gây ra

những bất ổn cho khu vực tài chính và nền kinh tế trong nước như : Luồng vốn đầu

tư nước ngoài chảy vào ồ ạt hoặc chảy ra đột ngột làm cho mất thăng bằng cung cầu

ngoại tệ trong nước, ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư xã hội, tác động đến tăng

trưởng kinh tế.

66

Trường hợp luồng vốn ngoại chảy vào ồ ạt gây ra các nguy cơ như :

- Làm tăng qúa mức tổng phương tiện thanh toán, dẫn đến tăng lạm phát, từ đó

gây khó khăn cho việc điều hành các chính sách vĩ mô;

- Gây trầm trọng thêm tình trạng đô la hóa, làm hạn chế sự phát triển của thị

trường ngoại hối do quan hệ vay – trả bằng ngoại tệ sẽ lấn át quan hệ mua – bán;

- Giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ; giảm hiệu quả của

công cụ tỷ giá trong chính sách tiền tệ.

Trường hợp nguồn vốn tháo lui đột ngột cũng tạo gây ra hệ lụy như :

- Làm mất cân đối cung cầu ngoại tệ, thiếu hụt vốn đầu tư, …

Nhìn chung, tất cả những phản ứng của dòng vốn ngoại đều gây trở ngại cho

việc điều hành chính sách ngoại hối nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung.

3.2.3 Kiểm soát tổng lượng tiền trong lưu thông.

Trong tiến trình hội nhập, tự do hóa giao dịch vãng lai và giao dịch vốn làm

luồng ngoại tệ từ chuyển tiền tư nhân, FDI, FII, ODA, … vào nhiều, tăng lượng tiền

trong lưu, gây sức ép tăng giá VND, gây khó khăn trong việc kiểm soát tổng lượng

tiền trong lưu thông M2 – bao gồm nội tệ mặt trong lưu thông, tiền gửi bằng nội tệ

và ngoại tệ, đó là chưa kể đến 1 lượng lớn kiều hối chuyển vào không qua ngân

hàng.

Ngoài ra, lượng tiền vào nhiều sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh toán, từ

đó sẽ làm thay đổi giá cả vốn ngoại tệ và nội tệ, đồng thời tác động làm thay đổi tỷ

giá. Nếu có sự chệnh lệch lớn giữa lãi suất ngoại tệ và nội tệ sẽ thu hút các doanh

nghiệp sử dụng tín dụng ngoại tệ thay thế cho nội tệ. Từ đó, có thể làm mất tính tự

chủ của VND, gây khó khăn trong việc thực thi chính sách tiền tệ.

3.3 Các kiến nghị, giải pháp quản lý ngoại hối trên thị trường trong giai

đoạn hội nhập.

Trước đây, khi chưa hội nhập sâu (trước năm 2006), nền kinh tế không bị tác

động nhiều bởi các yếu tố bên ngoài. Vì vậy, việc quản lý ngoại hối cũng như điều

hành tỷ giá VND/USD không quá khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, hiện nay nền kinh

tế nước ta đã hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, vì vậy việc điều hành kinh tế vĩ mô

67

nói chung và quản lý ngoại hối nói riêng không chỉ còn là xử lý các vấn đề do tự

bản thân nền kinh tế nước ta tạo ra, mà là xử lý các vấn đề có liên quan đến rất

nhiều yếu tố phức tạp.

Để thực hiện được các mục tiêu của quản lý ngoại hối trong giai đoạn hiện

nay như đã đề cập ở phần 1, bao gồm : tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong

nền kinh tế trong hoạt động ngoại hối; bình ổn tỷ giá trên thị trường ngoại hối; thực

hiện chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền; hạn chế

tình trạng đô la hóa; đảm bảo dự trữ ngoại hối và thực hiện các cam kết hội nhập, là

vấn đề mang tính chiến lược dài hạn. Nhiệm vụ trước mắt đối với quản lý ngoại hối

là điều tiết, quản lý thị trường ngoại hối, giải quyết hài hòa mối quan hệ cung cầu

ngoại tệ, nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập. Thực hiện

những nhiệm vụ này cũng chính là hướng đến mục tiêu trên. Để thực hiện các

nhiệm vụ này, trong phạm vi nghiên cứu của mình, tôi đưa ra một số giải pháp sau :

3.3.1 Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường ngoại hối.

Chính sách quản lý ngoại hối đóng vai trò rất quan trọng việc định hướng

phát triển thị trường. Vì vậy, để giải quyết vấn đề của thị trường ngoại hối ngày nay

thì việc làm trước tiên là phải bắt đầu từ việc hoàn thiện cơ chế, chính sách ngoại

hối của chính phủ.

Ngoài giải quyết những tồn tại của thị trường hiện nay thì chính sách quản lý

ngoại hối cũng cần chú trọng đến các yếu tố khác mang tính quyết định cho quá

trình phát triển dài hạn của thị trường ngoại hối. Đó là :

Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tiền tệ theo hướng

phát triển ổn định dài hạn, tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Đồng thời, chính sách quản lý ngoại hối phải tuân theo các chuẩn mực của nền kinh

tế thị trường, giảm dần các công cụ mang tính hành chính và thay thế bằng các giải

pháp kinh tế.

Ngoài ra, với mục tiêu phát triển thị trường ngoại hối theo hướng tự do hóa

thì trong chính sách quản lý ngoại hối cũng phải nới lỏng các rào cản. Tuy nhiên,

68

các rào cản ngoại hối sẽ được tháo mở dần dần, đảm bảo phù hợp với mức độ thích

nghi của nền kinh tế, tránh rủi ro cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, trong điều hành, thực thi chính sách, chắc chắn sẽ có những thời

điểm tình hình thị trường biến động không như dự kiến và sẽ có những xáo trộn

ngắn hạn, lúc này chính sách quản lý ngoại hối phải được điều hành linh hoạt, hoặc

cũng có thể phải thay đổi tiếp.

3.3.1.1 Tập trung ngoại tệ vào ngân hàng.

Cơ chế đa sở hữu ngoại tệ đã làm cho nguồn ngoại tệ của quốc gia bị phân

tán cao, gây khó khăn cho việc quản lý điều tiết thị trường, vì vậy thực hiện cơ chế

tập trung nguồn ngoại tệ vào ngân hàng sẽ khơi thông được dòng ngoại tệ, cải thiện

tình hình thiếu hụt ngoại tệ hiện nay.

Với cơ chế tập trung ngoại tệ vào ngân hàng, NHNN sẽ là cơ quan đứng ra

quản lý, kiểm soát toàn bộ nguồn ngoại tệ của nền kinh tế nhằm phục vụ cho mục

đích phát triển chung của nền kinh tế, không nên để từng cá nhân, doanh nghiệp

nắm giữ các loại ngoại tệ.

Tập trung ngoại tệ về ngân hàng (bao gồm NHNN và NHTM). Để thực hiện

chủ trương này NHNN nên phân ra 2 nhóm nhu cầu :

Đối với các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hóa, dịch

vụ và cũng có nhu cầu chi trả ngoại tệ cho việc nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào

thường xuyên thì được phép sở hữu bằng vốn ngoại tệ, thông qua tài khoản ký gửi

tại các NHTM

Còn lại đối với các tổ chức, doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ nhưng

không có nhu cầu chi trả đối ngoại hoặc có như ít phát sinh thì khi có nguồn thu

ngoại tệ về phải chuyển đổi ra VND, không được phép để số dư ngoại tệ trên tài

khoản ngân hàng. Nhưng phải đảm bảo quyền lợi cho họ bằng việc thu mua lại với

giá hợp lý, công bằng, đảm bảo lợi ích và khi họ có nhu cầu chính đáng sử dụng

ngoại tệ phải đáp ứng cho họ với tỷ giá đảm bảo ổn định.

69

Tuy nhiên, để cơ chế này vận hành hiệu quả thì NHNN phải tính toán cân đối

cung cầu ngoại tệ trong từng thời kỳ để đáp ứng đủ ngoại tệ cho mọi yêu cầu chi trả

đối ngoại của nền kinh tế.

3.3.1.2Thay đổi cơ chế quản lý ngoại tệ đối với tầng lớp dân cư là người cư trú.

Sau doanh nghiệp là dân cư, đối tượng nắm giữ lượng khá lớn ngoại tệ. Vì

vậy, việc tập trung thu hút dòng ngoại tệ từ đối tượng này vào ngân hàng, nhất là

đối với nguồn kiều hối là vấn đề nên được xem xét và thực hiện. Thực hiện cơ chế

này không những tăng được nguồn cung ngoại tệ cho các NHTM, mà còn góp phần

tạo trật tự cho thị trường, từng bước hạn chế được tình trạng đô la nền kinh tế.

Cho phép dân cư là có quyền sở hữu ngoại tệ hợp pháp tại ngân hàng, nhưng

không có quyền cất giữ ngoại tệ mặt.

Người dân có thể mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng để giao dịch và gửi tiết

kiệm bằng ngoại tệ; đồng thời số ngoại tệ gửi ở Ngân hàng phải chứng minh được

nguồn gốc. Dân cư không được giữ ngoại tệ mặt trong người trừ trường hợp chứng

minh được ngoại tệ cất giữ liên quan đến việc xuất cảnh.

Ngoài ra, không thực hiện chi trả kiều hối bằng ngoại tệ mặt mà có thể bằng

nội tệ tương đương hoặc khách hàng có thể gửi tiết kiệm bằng chính số ngoại tệ đó

hay gửi vào tài khoản thanh toán tại ngân hàng.

3.3.1.3 Hạn chế tín dụng ngoại tệ

Năm 2007, nền kinh tế phát triển mạnh, dư nợ tín dụng ngoại tệ tăng cao.

Tuy nhiên, sang năm 2008 tình hình kinh tế khó khăn, nguồn cung ngoại tệ giảm

sút, do đó rất nhiều những khoản nợ vay của các doanh nghiệp từ năm 2007 có thời

gian đáo hạn trong năm 2008 đã bị quá hạn, các doanh nghiệp hoàn toàn bị động

trong việc trả nợ bằng ngoại tệ, những khoản vay ngoại tệ phần lớn khi đến hạn mới

trông chờ ngân hàng bán ngoại tệ cho để trả nợ, họ không có cứ một kế hoạch nào,

vì vậy khi tỷ giá tăng cao đã làm cho các doanh nghiệp thiệt hại rất lớn. Tình trạng

này cũng đã làm cho tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường càng căng thẳng

hơn.

70

Như vậy, trong chính sách tín dụng, NHNN nên chủ trương hạn chế tín dụng

ngoại tệ. Chỉ cho vay ngoại tệ đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có nguồn

ngoại tệ đảm bảo trả nợ khi đáo hạn. Theo đó, những doanh nghiệp xuất khẩu sẽ

được phép vay ngoại tệ để thanh toán tiền nhập khẩu nguyên vật liệu hoặc chiết

khấu bộ chứng từ xuất khẩu.

Hơn nữa, nếu để tín dụng ngoại tệ phát triển thì sẽ làm cho quan hệ vay – trả

bằng ngoại tệ lấn át quan hệ mua bán ngoại tệ. Theo đó, các giao dịch mua bán, trao

đổi, … trên thị ngoại hối sẽ giảm đi. Như vậy, thị trường ngoại hối ngày càng trở

nên kém phát triển. Hơn nữa, để tín dụng ngoại tệ phát triển có thể làm tăng thêm

tình trạng đô la nền kinh tế.

3.3.1.4 Quản lý lãi suất ngoại tệ.

Hiện nay, lãi suất ngoại tệ không bị ràng buộc bởi bất cứ quy định nào nên

trong thời gian qua nguồn cung ngoại tệ khan hiếm thì các NHTM đua nhau tăng lãi

suất huy động USD để thu hút tiền gửi dân cư, đáp ứng nhu cầu vay ngoại tệ đang

tăng của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Để lãi suất huy động ngoại tệ cao thì giá trị USD sẽ tăng, như vậy việc kìm

hãm tỷ giá VND/USD lại càng thêm phần khó khăn. Vì vậy, trong giai đoạn khó

khăn hiện nay, NHNN cần quản lý, kiểm soát lãi suất huy động và cả lãi suất cho

vay ngoại tệ. Điều hành lãi suất ngoại tệ tại thị trường trong nước theo hướng duy

trì ở mức thấp, có thể ngang bằng với lãi suất tại thị trường thế giới.

Đồng thời, việc duy trì lãi suất ngoại tệ thấp, có thể giảm sự hấp dẫn của tiết

kiệm bằng ngoại tệ đối với người dân, theo đó việc nắm giữ, tiết kiệm bằng ngoại tệ

sẽ giảm, như vậy sẽ hạn chế bớt nhu cầu ngoại tệ, bớt căng thẳng cho thị trường

ngoại tệ.

3.3.1.5 Tập hợp nguồn ngoại tệ dự trữ về cho một đầu mối duy nhất quản lý là

NHNN.

Hiện nay, nguồn ngoại tệ dự trữ được quản lý bởi 2 cơ quan là NHNN và Bộ

tài chính - quản lý nguồn thu của ngân sách nhà nước. Với cơ chế 2 cơ quan quản lý

dự trữ ngoại hối như vậy, đã cản trở NHNN trong việc tập trung mọi nguồn thu

71

ngoại tệ của nền kinh tế, đồng thời gây khó khăn trong việc cân đối cung cầu ngoại

tệ cho nền kinh tế. Vì vậy, cần thay đổi cơ chế quản lý đối với nguồn ngoại tệ dự trữ

theo hướng tập trung ngoại tệ dự trữ quốc gia về cho NHNN quản lý để tạo thuận

tiện cho NHNN trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường một cách kịp

thời và hiệu quả.

Hơn nữa, trong Pháp lệnh ngoại hối năm 2005, cũng khẳng định rõ nhiệm

vụ, trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý ngoại hối là thuộc về NHNN nên vấn đề

này nên giao toàn quyền cho NHNN quản lý, điều hành là hợp lý.

3.3.2 Tăng cường công tác quản lý ngoại hối.

(cid:61558) Tăng cường kiểm tra thường xuyên thị trường ngoại tệ chợ đen

Sự tồn tại của thị trường chợ đen đã gây khó khăn rất lớn cho việc kiểm soát

và quản lý ngoại hối của NHNN, làm cản trở việc hoạch định chính sách tiền tệ

quốc gia, trong đó có việc xác định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng nội tệ ( tỷ

giá hối đoái bình quân liên ngân hàng). Hơn nữa, thị trường chợ đen là nơi làm thất

thoát khá nhiều ngoại tệ của nền kinh tế qua con đường nhập lậu hàng hóa ở biên

giới. Vì vậy, việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát quản lý thị trường cũng là một

trong những giải pháp bình ổn trường ngoại hối, đồng thời thiết lập trật tự cho thị

trường. Công tác kiểm soát thị trường này có thể chú trọng những vấn đề sau.

- Về chức năng quản lý thị trường ngoại hối nên được tập trung vào một đầu

mối duy nhất là cơ quan thanh tra, giám sát NHNN.

- Tăng cường lực lượng hải quan, công an biên phòng tại các cửa khẩu để

kiểm tra, xử lý nghiêm minh các hoạt động buôn lậu vàng, ngoại tệ; bằng các biện

pháp tịch thu toàn bộ các tài sản này, thực hiện các biện pháp cưỡng chế khác theo

quy định

(cid:61558) Kiểm soát và rà soát lại hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM

Trong thời gian qua, vào các thời điểm cung cầu ngoại tệ trên thị trường căng

thẳng, hiện tượng các NHTM kinh doanh vi phạm quy định về tỷ giá khá phổ biến.

Vì vậy, để đảm bảo cho các quy định pháp luật được thực hiện nghiêm minh thì cơ

quan thanh tra, giám sát của NHNN phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ

72

hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM, xử lý quyết liệt các trường hợp vi

phạm.

Đồng thời, NHNN cũng nên thay đổi các chế tài cho phù hợp với tình hình

hiện nay, nhằm ngăn chặn hành vi gian lận ngày càng tinh vi, phức tạp trong kinh

doanh ngoại tệ.

Ngoài ra, NHNN nên thắt chặt việc quản lý ngoại tệ, kiểm soát chặt việc mua

bán ngoại tệ, chỉ có ngân hàng và các đơn vị do ngân hàng ủy quyền mới có quyền

được thu đổi ngoại tệ, điều này chúng ta có thể học tập ở Thái Lan, Trung Quốc,

Hàn Quốc,… Hơn nữa, NHNN nên tăng thêm nhiều địa điểm thu đổi ngoại tệ, đặc

biệt là tại các thành phố lớn và các địa điểm du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho

khách nước ngoài giao dịch, nhằm hạn chế tình trạng khách thanh toán, chi trả trực

tiếp bằng ngoại tệ.

Ngoài ra, vấn đề xuất nhập khẩu và kinh doanh vàng là nhân tố tác động rất

lớn đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Hiện nay, trên thị trường diễn ra tình

trạng giữa công ty kinh doanh vàng chính thống và giới đầu cơ, buôn lậu giao dịch,

mua bán vàng đủ chủng loại lẫn lộn qua lại, đồng thời chất lượng vàng cũng không

được kiểm soát, làm cho thị trường vàng rất lộn xộn, không có sự quản lý rạch ròi,

minh bạch. Vì vậy, chính phủ cần phải sớm ban hành quy chế quản lý hoạt động

kinh doanh vàng trong lãnh thổ. Tổ chức quản lý lại thị trường vàng và hoạt động

xuất nhập khẩu vàng sẽ góp phần cải thiện cán cân vãng lai, qua đó làm tác động

làm ổn định tỷ giá, bình ổn thị trường ngoại tệ

Việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường và xử lý nghiêm minh những

hành vi vi phạm về quản lý về ngoại hối vừa có thể chấn chỉnh hoạt động của thị

trường vào khuôn phép mà nó còn có tác dụng nâng cao hiệu lực pháp lý của các

quy định về quản lý ngoại hối.

3.3.3 Nâng cao tính chuyển đổi của VND, khắc phục tình trạng đô la hóa nền

kinh tế.

Tính chuyển đổi của VND (tính chuyển đổi trong nước) và hạn chế hiện

tượng đô la hóa có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau, trong đó đều do vị thế

73

của đồng nội tệ có ý nghĩa quyết định. Mà vị thế của đồng nội tệ lại được đánh giá

qua chỉ số lạm phát, mức độ đô la hóa nền kinh tế, sự phát triển của các thị trường

tài chính, trình độ của hệ thống ngân hàng, mức độ thông thoáng của chính sách

quản lý ngoại hối và sự linh hoạt của tỷ giá hối đoái. Vì vậy, để khắc khục tình

trạng đô la hóa nền kinh tế, cũng như nâng cao tính chuyển đổi của VND là phải

một qúa trình lâu dài. Tuy nhiên, trước mắt chúng ta phải ngăn chặn khả năng làm

gia tăng tình trạng đô la hóa, các biện pháp cụ thể như :

- Nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về quản lý ngoại hối, thông qua

việc thực hiện giám sát, kiểm tra thường xuyên và chặt chẽ, đồng thời xử lý mạnh

đối với các trường hợp niêm yết giá cả hàng hóa, sử dụng ngoại tệ trong thanh toán

và lưu thông hàng hóa dịch vụ nội địa, bao gồm cả việc nghiêm cấm quảng cáo định

giá hàng hóa bằng ngoại tệ, ký hợp đồng kinh tế nội bằng ngoại tệ; thực hiện triệt để

nguyên tắc trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng hàng Việt Nam. Trong thời gian qua,

NHNN chưa thực hiện sâu sát vấn đề này, tuy có đề cập đến thường xuyên nhưng

chỉ là trên văn bản giấy, còn thực hiện kiểm tra, kiểm soát thực tế rất hiếm.

- NHNN và Bộ tài chính phối hợp chỉ đạo NHTM và cơ quan thuế giám sát

việc thực hiện nghiệm túc quy định các khoản thanh toán của doanh nghiệp đều

phải chuyển khoản qua NHTM, không được phép thanh toán bằng tiền mặt, qua đó

NHTM và cơ quan thuế có thể kiểm soát được dòng tiền của doanh nghiệp, đặc biệt

là có thể sẽ kiểm soát được việc các doanh nghiệp giao dịch, thanh toán bằng ngoại

tệ ở trong nước.

- Thực hiện cơ chế tập trung nguồn ngoại tệ vào ngân hàng như đã đề cập trên.

- NHNN có thể thay đổi quy định về việc cho các cá nhân được phép mang

7.000 USD/năm mà không cần khai báo Hải Quan. Trong thời điểm nguồn cung

ngoại tệ eo hẹp thì việc giảm mức này xuống cũng nên được xem xét, qua đó vừa

tiết kiệm được ngoại tệ vừa hạn chế dần được sự phát triển của thị trường chợ đen.

3.3.4 Nâng cao nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền.

Thực tế cho thấy, hiện nay NHNN không thể kiểm soát được lượng USD

trong lưu thông trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Bên cạnh đó, cùng với mức độ

74

hội nhập sâu của nền kinh tế thì dòng ngoại tệ chảy vào có xu hướng gia tăng, theo

đó nạn rửa tiền sẽ bành trướng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế. Vì vậy, phòng,

chống rửa tiền là nhiệm vụ ngày càng trở nên cấp thiết đối.

- Chính phủ ban hành khuôn khổ pháp lý đầy đủ và chặt chẽ hơn về phòng,

chống rửa tiền thay thế cho Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005.

- Nâng cao vai của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền trong việc kiểm

soát nạn rửa tiền. Thực hiện giám sát, kiểm soát chặt chẽ dòng ngoại tệ, qua đó

ngăn chặn nạn rửa tiền. NHNN phối hợp chặt chẽ với các TCTD kiểm soát vấn nạn

này. Yêu cầu các NHTM phải thành lập một bộ phận riêng, phụ trách về quản lý rủi

ro và phòng chống rửa tiền. Hiện nay, cũng có một số NHTM có bộ phận này và rất

quan tâm đến vấn đề an ninh tiền tệ và phòng chống rửa tiền. Chỉ khi từng NHTM

kiểm soát được vấn đề này thì NHNN mới kiểm soát được triệt để. Khi phát hiện vụ

việc, các NHTM phối hợp với Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền để có

hướng xử lý kịp thời.

3.3.5 Cơ chế thông tin công khai, minh bạch.

Để hạn chế tình trạng đầu cơ, chính phủ cần phải cung cấp thông tin chính

sách tiền tệ, tỷ giá, điều hành ngoại hối công khai, minh bạch tránh để người dân

đồn thổi, phán đoán, suy diễn theo chiều hướng xấu, gây tâm lý hoang mang trong

dân cư. Hơn nữa, thực hiện cơ chế thông tin minh bạch sẽ tạo tâm lý tốt cho các nhà

đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư.

Bên cạnh đó, chính phủ cũng nên tăng cường cung cấp đầy đủ thông tin về

những đề án, những định hướng chính sách cho từng gia đoạn cụ thể để các chủ thể

trong nền kinh tế có thể nắm bắt được chủ trương của chính phủ, qua đó có thể chủ

động trong kế hoạch kinh doanh, đầu tư.

3.3.6 Phát triển các sản phẩm phái sinh.

Trong số các rủi ro tài chính, tỷ giá và lãi suất là hai loại rủi ro doanh nghiệp

rất lo ngại. Tuy nhiên cho đến nay, việc sử dụng sản phẩm phái sinh để phòng ngừa

rủi ro tỷ giá và lãi suất chưa phổ biến, mức độ thành công còn rất hạn chế, nhưng

cũng có những tín hiệu khả quan. Vì vậy, NHNN cần gấp rút triển khai, thực hiện

75

các giao dịch phái sinh trên thị trường ngoại hối, để bảo vệ các doanh nghiệp trước

những rủi ro tỷ giá, đồng thời để đa dạng hóa các loại hình giao dịch trên thị trường

ngoại hối và theo đó các nhà đầu tư có thể thực hiện các giao dịch phái sinh kiếm

lời.

Để phát triển các sản phẩm phái sinh trên thị trường ngoại hối thì Việt Nam

cần phải thực hiện các vấn đề chính sau :

(cid:61558) Về phía chính phủ :

- Trước tiên, là phải xây dựng khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho hoạt động kinh

doanh các sản phái sinh của các NHTM. Hiện nay, các văn bản pháp lý hướng dẫn

thực hiện các giao dịch phái sinh chỉ mang tính khái quát, chung chung và không

đầy đủ. Vì vậy, các NHTM và các doanh nghiệp rất lúng túng trong việc kinh doanh

và sử dụng các loại giao dịch này, đặc biệt là đối với giao dịch quyền chọn, kỹ thuật

rất phức tạp.

- Xây dựng hạch toán kế toán và thuế rõ ràng, thuận lợi cho các doanh nghiệp

sử dụng các sản phẩm này. Hiện nay, trong kế toán chỉ cho phép hạch toán những

giao dịch đã phát sinh, chứ chưa cho phép hạch toán những bút toán được cho là dự

kiến phát sinh. Vì vậy, những khoản lời/ lỗ dự kiến từ việc thực hiện công cụ phòng

ngừa rủi ro tỷ giá thì đơn vị không thể hạch toán được, trong khi khoản phí cho giao

dịch này thì đã phát sinh và đã được hạch toán. Để giải quyết vấn đề này, cần sự

phối hợp của cả NHTM, NHNN, Bộ tài chính và doanh nghiệp.

(cid:61558) Về phía doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu, nâng cao năng

lực nhận thức về tầm quan trọng của quản trị rủi ro bằng sản phẩm phái sinh. Cần

nhấn mạnh rằng, các sản phẩm phái là công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu, làm tối

đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp, chứ không phải trò cá cược. Từ trước tới nay do

các doanh nghiệp không am hiểu về bản chất của sản phẩm nên khá thờ ơ.

(cid:61558) Về phía NHTM cũng phải nâng cao năng lực tư vấn, quản trị kinh doanh sản

phẩm phái sinh.

NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện thành công các giao

dịch phái sinh, vì vậy NHTM cần phải chú trọng các vấn đề như sau :

76

- Đào tạo về nghiệp vụ giao dịch phái sinh cho đội ngũ nhân viên và cả quản

lý, chú trọng nâng cao kỹ năng tư vấn và trình độ quản lý. Đầu tư phần mềm quản

lý các giao dịch phái sinh, nhằm tạo thuận lợi trong quản lý nhất là khi số lượng quy

mô giao dịch ngày càng tăng.

- Xác định phí của các giao dịch này một cách hợp lý, đặc biệt là phí của giao

dịch quyền chọn. Hiện nay, mức phí là mối quan tâm rất lớn đối với các doanh

nghiệp, bởi vì từ trước đến nay các doanh nghiệp không quen tốn thêm khoảng chi

phí này, nên họ rất khó chấp nhận nếu mức phí cao.

- Tăng cường công tác phổ biến, quảng bá sản phẩm này đến các doanh

nghiệp.

3.3.7 Thúc đẩy thu hút và quản lý ngoại tệ.

Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu về ngoại tệ để nhập

khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật,… rất lớn nên việc thu hút được nhiều

ngoại tệ, tăng nguồn cung cho nền kinh tế là điều kiện thuận lợi cho việc điều tiết

thị trường.

3.3.7.1 Đẩy mạnh kênh tín dụng thương mại, nhập khẩu trả chậm.

Theo xu hướng hội nhập thì hoạt động giao thương kinh tế giữa các quốc gia

có xu hướng gia tăng, không riêng gì Việt Nam. Theo đó, nguồn thu ngoại tệ tăng sẽ

nhanh nhưng bên cạnh đó các nhu cầu ngoại tệ chi trả đối ngoại cũng lớn, do đó để

góp phần cân đối nguồn cung cầu ngoại tệ, chúng ta nên tận dụng kênh tín dụng

thương mại thông qua nhập khẩu trả chậm, bằng các hình thức như L/C trả chậm,

chứng thư bảo lãnh (L/C dự phòng), TTR trả sau, D/A, …

Để đẩy mạnh thu hút vốn qua kênh này thì cần phải có sự phối hợp tích cực

giữa NHNN, NHTM và doanh nghiệp trong việc quản lý tác nghiệp bảo lãnh nhập

khẩu và vay trả nợ. Tăng cường tín dụng thương mại trước hết sẽ góp phần làm rãn

nhu cầu ngoại tệ, giảm căng thẳng cung cầu, bình ổn tỷ giá; Thứ nhì là tăng nguồn

vốn cho doanh nghiệp quay vòng kinh doanh; Thứ ba là kênh huy động vốn, đảm

bảo nguồn vốn bổ sung cho tăng trưởng kinh tế đất nước.

77

3.3.7.2 Khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu.

Trong thời gian vừa qua, tình trạng nhập siêu rất trầm trọng đã làm cho cán

cân thương mại của Việt Nam thâm hụt nặng, tác động mạnh đến tỷ giá hối đoái. Vì

vậy, để cải thiện hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu, các bộ ngành chức năng

cần quan tâm đến các vấn đề sau :

- Trong xây dựng, phát triển ngành sản xuất hàng xuất khẩu, cần phải chú

trọng đẩy mạnh phát triển công nghệ chế biến nguyên vật liệu thành sản phẩm tiêu

dùng và tăng cường sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ.

- Xây dựng kế hoạch nhập khẩu, cơ cấu nhập khẩu hợp lý, ưu tiên nhập máy

móc, nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được. Đồng thời, khai thai thác tối đa

nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao

hàm lượng nội địa trong sản phẩm, góp phần tiết kiệm nguồn ngoại tệ.

Ngoài ra, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu, hàng xa xỉ phẩm

bằng cách đánh thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức cao, kiểm soát hành

chính, xét cấp hạn ngạch, …

- Khuyến khích người tiêu dùng trong nước dùng hàng nội địa cũng là phương

pháp hạn chế nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu. Thông qua việc phát động các

chiến dịch tuyên truyền và quảng bá đại trà, thông qua báo đài, băng gôn, khẩu hiệu;

Ngoài ra, Bộ công thương nên thường xuyên phối hợp với các nhà phân phối lớn

phát động chiến dịch “Người Việt dùng hàng Việt” định kỳ, có thể là hàng quý.

Bên cạnh đó, chính phủ và các bộ ngành có liên quan cũng cần đặc biệt chú ý

đến tình trạng buôn lậu hàng qua biên giới phía Bắc và Tây Nam. Hoạt động buôn

lậu ngày càng hoành hành, tinh vi và phức tạp. Do đó, việc chống buôn lậu là điều

không thể mà chỉ có thể là hạn chế dần, thông qua việc tăng cường kiểm tra, kiểm

soát chặt chẽ, mật phục triệt phá đường dây buôn lậu và xử lý nghiêm khắc theo quy

định. Ngoài ra, lực lượng chức năng địa phương cũng phải phải tích cực kiểm tra,

kiểm soát thị trường, xử lý vi phạm kịp thời, nghiêm minh các vụ vận chuyển buôn

lậu trái phép. Giảm được tình trạng đầu cơ, buôn lậu sẽ đỡ tiêu tốn ngoại tệ và có

thể sẽ hạn chế được sự phát triển của thị trường chợ đen.

78

3.3.7.3 Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn ngoại

Nước ta hiện đang trong giai đoạn đầu tư phát triển kinh tế nên nhu cầu về

nguồn vốn ngoại rất lớn. Đồng thời, chúng ta cũng cần nguồn ngoại tệ để bù đắp

cho cán cân vãng lai liên tục thiếu hụt.

Ngoài các giải pháp tiền tệ thì cần phải tiếp tục nỗ lực thu hút nguồn vốn

ngoại lực nhằm tăng cung ngoại tệ cho nền kinh tế.

(cid:61558) Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng vào việc giải quyết những

mục tiêu kinh tế - xã hội, trong đó có vấn đề cung ứng luồng ngoại tệ cho nền kinh

tế của các nước tiếp nhận nguồn vốn này. Với tính chất ổn định của dòng vốn FDI

thì sử dụng vốn FDI cho quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam là giải pháp tốt.

Dòng vốn này chảy vào các nước mới nổi có xu hướng gia tăng, nhưng để Việt

Nam có thể thu hút được dòng vốn FDI thành công hiệu quả thì Việt Nam thực hiện

các vấn đề sau :

Trước hết, để cải thiện môi trường đầu tư chính phủ phải chỉ đạo cho rà soát,

chỉnh sửa, bổ sung các văn bản pháp lý liên quan đến đầu tư và kinh doanh cho

thống nhất, hoàn chỉnh và phù hợp với cam kết của WTO. Tuy nhiên, nội dung điều

chỉnh này phải hướng đến sự thuận tiện cho nhà đầu tư bao gồm đơn giản hóa thủ

tục, quy trình đầu tư; ưu đãi về thuế, phí dịch vụ; chính sách kinh tế công khai; cho

phép tham gia trên thị trường tài chính;…Song song đó thì các chính sách, cơ chế

về đầu tư, kinh doanh cũng phải được công khai, minh bạch.

Thứ nhì, tiến hành rà soát tất cả các quy hoạch và từng bước sửa đổi những

quy hoạch đã lạc hậu. Quy hoạch được thực hiện theo nguyên tắc : Quy hoạch tổng

thể theo vùng miền chứ không nên để từng địa phương quy hoạch tự phát, nhằm tạo

ra cơ cấu kinh tế hoạt động hiệu quả, thống nhất trong cách quản lý đầu tư nước

ngoài, giảm tác hại đến môi trường tự nhiên. Ngoài ra, đẩy nhanh tiến độ độ giải

phóng mặt bằng.

Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng, bằng cách tranh thủ các

nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong nước cũng như kêu gọi đầu tư, tài trợ

79

tín dụng dài hạn từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài để tăng đầu tư. Bởi vì, những

quốc gia có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại là sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn bởi sự

tiện lợi.

(cid:61558) Đầu tư gián tiếp.

FII vào Việt Nam chủ yếu đầu tư vào thị trường chứng khoán, do đó để thu

hút FII làm tăng nguồn vốn ngoại tệ cho nền kinh tế, Việt Nam cần tiếp tục hoàn

thiện khung pháp lý và chiến lược phát triển thị trường chứng khoán. Quy mô phát

triển thị trường chứng khoán tương thích với trình độ phát triển của nền kinh tế, do

đó để phát triển thị trường chứng khoán cần có lộ trình dài để thực hiện. Nhưng để

thu dòng vốn FII cần đặc biệt chú ý đến các vấn đề sau :

- Chính phủ cần xây dựng khuôn khổ pháp lý riêng và hướng dẫn cụ thế đối

với FII, các quy định quản lý nhà nước về FII hiện nay được quy định rải rác ở

nhiều văn bản khác nhau do nhiều cơ quan ban hành, gây khó khăn ngay cả đối với

việc quản lý, điều hành của nhà nước, chứ chưa kể đến việc thực hiện của nhà đầu

tư.

- Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp để tăng “hàng hóa” cho thị trường

chứng khoán. Bên cạnh đó, tăng cường đưa cổ phần của NHTM, các tổ chức tài

chính, … lên sàn nhằm đa dạng hóa “hàng hóa”. Tuy nhiên, trong gia đoạn nền kinh

tế suy thoái, sức cầu kém thì việc tìm cổ đông chiến lược thay cho hình thức đấu

thầu trước đây là giải pháp tối ưu nhất.

- Tìm kiếm, kêu gọi các Quỹ đầu tư tham gia vào thị trường tài chính Việt

Nam, kể cả các quỹ đầu tư vào dự án bất động sản, cơ sở hạ tầng, ….

- Phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, cải thiện tính minh bạch tài chính, cơ

chế định giá chứng khoán theo nguyên tác thị trường, …

(cid:61558) Nguồn vốn phát triển chính thức.

Nguồn ODA là nguồn vốn vay ưu đãi, nhưng để tiếp tục nhận được sự ủng

hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, các bộ, ngành và địa phương phải tiếp tục

đổi mới quy chế quản lý bao gồm : Cải cách hành chính, tinh giản quy trình, thủ tục

80

tiếp nhận và đẩy nhanh quá trình thực hiện nguồn vốn ODA; đồng thời cũng phải

tăng cường cải thiện môi trường đầu tư.

(cid:61558) Tăng cường thu hút kiều hối.

Ngoài các dòng vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ cũng nên tận dụng nguồn

lực sẵn có từ các kiều bào, đó chính là dòng kiều hối các kiều bào gửi về cho thân

nhân trong nước và chuyển về đầu tư kinh doanh, đây là nguồn lực rất lớn cho nền

kinh tế. Vì vậy, chính phủ cần tiếp tục quan tâm, phát triển kênh ngoại tệ này thông

các hội đồng hương hải ngoại, khuyến khích kiều bào gửi tiền về cho thân nhân tại

Việt Nam; cũng như kêu gọi các kiều bào về đầu tư kinh doanh tại Việt Nam bằng

các chính sách ưu đãi đầu tư cho các kiều bào về thuế, tiền thuê đất, ….ưu tiên vào

các lĩnh vực như công nghệ thông tin, tư vấn tài chính, chế biến nông sản, …

(cid:61558) Xuất khẩu du lịch.

Nguồn thu ngoại tệ từ du khách quốc tế đối với Việt Nam hàng năm tương

đối lớn, do đó Việt Nam cần tiếp tục phát huy lợi thế này, thông qua việc tiếp tục

đầu tư xây dựng các khu nghỉ dưỡng chuyên nghiệp và cả cao cấp trên cơ sở các

danh lam thắng cảnh sẵn có; Nâng cao chất lượng phục vụ; Quảng bá các địa điểm

du lịch Việt Nam tới bạn bè quốc tế thông qua các sự kiện quốc tế như giao lưu văn

hóa, thể thao, mạng báo chí toàn cầu; Đặc biệt cần chú trọng việc thu hút khách du

lịch quốc tế trong các dịp tổ chức lễ hội văn hóa truyền thống của đất nước.

Như vậy, đẩy mạnh thu hút nguồn vốn ngoại không những cung ứng bổ sung

thêm nguồn lực tài chính cho nước ta trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

còn góp phần cân đối cung cầu ngoại tệ trong nước, cải thiện cán cân thanh toán

quốc tế.

3.3.7.4 Kiểm soát luồng vốn ngoại.

Bên cạnh việc đẩy mạnh thu hút nguồn ngoại lực thì trong điều hành chính

sách ngoại hối cũng cần đặc chú trọng đến việc quản lý chặt chẽ ngoại tệ và sử dụng

hiệu quả nguồn vốn ngoại.

Với xu hướng toàn cầu hóa, giao dịch vốn được nới lỏng dần, dòng ngoại tệ

ra - vào nhiều, đe dọa sự ổn định của khu vực tài chính trong nước, do đó việc kiểm

81

soát luồng vốn ngoại tệ đặc biệt được quan tâm đối với các nước đang phát triển,

nhằm ứng phó kịp thời với những biến động bất thường của dòng vốn ngoại, giữ

thăng bằng cho thị trường ngoại hối trong nước.

Trên thực tế, NHNN có thể giám sát được nguồn vốn FDI và FII vào và ra

khỏi Việt Nam thông qua hệ thống NHTM. Bởi vì, tất cả các luồng vốn này đều sử

dụng tài khoản ở NHTM, tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ đối với luồng

vốn FDI và tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng nội tệ đối với vốn FII. Theo đó, qua

hệ thống báo cáo của NHTM, NHNN có thể kiểm soát được toàn bộ. Tuy nhiên, đối

với dòng vốn FII, NHNN không tách bạch được giữa đầu tư chứng khoán với các

giao dịch ngoại hối khác như hoạt động thương mại, hay các hoạt động khác trên tài

khoản vốn. Trong khi đó, Ủy ban chứng khoán lại chỉ kiểm soát được những dòng

vốn FII có đầu tư trên thị trường chứng khoán thông qua các mã số giao dịch, còn

giao dịch trên thị trường OTC hay vốn mà các quỹ đầu tư vào các dự án bất động

sản, cơ sở hạ tầng, … thì không kiểm soát được. Hơn nữa, các bộ ngành lại chưa có

sự phối hợp, phân công giám sát dòng vốn này nên số liệu thống kê về vốn FII

không đầy đủ, chính xác và kịp thời; Vì vậy, chính phủ không thể hoạch định chính

sách để điều tiết luồng vốn này. Để khắc phục tình trạng này, các cơ quan chức

năng cần phải tiến hành :

- Chính phủ cần xây dựng khuôn khổ pháp lý riêng và hướng dẫn cụ thế đối

với FII như đã đề cập ở trên.

- NHNN cũng cần nghiên cứu xây dựng các cơ chế quản lý, kiểm soát, chuyển

vốn quốc tế, kiểm soát nợ nước ngoài trên cơ sở phải kết hợp giữa kiểm soát ngoại

hối với luật đầu tư nước ngoài, luật thương mại, …và các biện pháp về quản lý

ngoại hối theo hướng ngăn chặn giao dịch USD trong nước.

- Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Kế hoạch & Đầu tư, NHNN và Ủy Ban chứng

khoán phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc kiểm soát các luồng vốn này, đặc biệt

là nguồn vốn FII thường xuyên chuyển dịch. Qua sự kết hợp này để cùng phối hợp

đưa ra những giải pháp thích hợp cho công tác kiểm soát sự chuyển dịch của luồng

vốn này.

82

3.3.8 Các kiến nghị khác

(cid:61558) Điều hành tỷ giá hối đoái

Khống chế biên độ tỷ giá là giải pháp trong thời gian ngắn hạn như hiện nay

là đúng hướng, còn trong dài hạn khi tiềm lực tài chính quốc gia đủ mạnh, thị

trường tài chính phát triển, tình trạng đô la hóa được kiểm soát, lạm phát ở mức ổn

định, cơ cấu xuất nhập khẩu có thay đổi theo hướng xuất khẩu các mặt hàng tinh

chế, tình trạng xuất khẩu mặt hàng thô giảm, thì vấn đề điều hành tỷ giá nên nhấn

mạnh tầm quan trọng của tỷ giá là công cụ hỗ trợ tích cực cho việc cải thiện cán cân

thanh toán.

(cid:61558) Chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ.

Lãi suất và tỷ giá có mối liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và

cùng đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, chính sách điều

hành lãi suất và tỷ giá phải ăn khớp với nhau, nếu không sẽ gây mất giá VND kéo

theo nhiều hậu quả bất lợi khác.

(cid:61558) Kìm chế lạm phát, với thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài

Lạm phát, thâm hụt NSNN và vay nợ nước ngoài gia tăng sẽ làm ảnh đến

khả năng thanh toán của quốc gia, qua đó sẽ ảnh hưởng đến giá trị của đồng nội tệ

và tỷ giá VND/USD. Vì vậy, nhiệm vụ chống lạm phát phải được đưa lên hàng đầu,

đồng thời giảm thâm hụt NSNN cũng cần phải thực hiện kiên quyết, qua đó vay nợ

nước ngoài bù cho thập hụt ngân sách sẽ hạn chế bớt, giảm áp lực lên cán cân thanh

toán về sau này.

Kết luận chương 3

Dựa vào tình hình thực tiễn hiện nay của thị trường ngoại hối, cũng như

những thành công và những hạn chế trong quản lý ngoại hối thời gian qua. Theo đó,

chính sách ngoại hối cũng như hoạt động quản lý ngoại hối cần được tiếp tục thay

đổi, chỉnh sửa để giải quyết các vấn đề bất cập hiện nay trên thị trường ngoại hối

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu “Thị trường ngoại hối và quản lý ngoại hối Việt Nam”, tác

giả rút ra một số kết luận như sau :

Quản lý nhà nước về ngoại hối ở giai đoạn này đóng vai trò quan trọng

trong việc ổn định thị trường ngoại tệ. Giải quyết cân đối cung cầu ngoại tệ, bình

ổn tỷ giá, ổn định thị trường ngoại hối sẽ góp phần bình ổn kinh tế vĩ mô, tạo điều

kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu,

thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Trong giai đoạn này, thị trường tiền tệ - ngoại hối của nước ta diễn biến khá

phức tạp. Thứ nhất là do thị trường ngoại tệ trong nước bị tác động bởi nhiều yếu

tố ngoại lực; Thứ hai, là bởi sự mất cân đối chung của nền kinh tế, đã tác động đến

cung cầu ngoại tệ. Vì vậy, quản lý ngoại hối rất khó khăn và phức tạp.

Ngoài ra, tình trạng đô la hóa cao đã làm cho các vấn đề của thị trường

ngoại hối trở lên trầm trọng hơn, cũng gây rất nhiều trở ngại cho chính phủ trong

việc quản lý, điều hành thị trường ngoại hối; đặc biệt là đối với việc cân đối cung

cầu.

Vì vậy, để giải quyết các vấn đề trên, quản lý ngoại hối tập trung vào các

vấn đề như : Thứ nhất là phải tập trung được toàn bộ nguồn thu ngoại tệ về ngân

hàng; Thứ hai, là phải quản lý chặt chẽ chi, tiêu ngoại tệ; Thứ ba nữa là phải giám

sát, kiểm soát được họat động thị trường ngoại hối.; thứ tư là chính sách tỷ giá và

chính sách tiền tệ phải được xử lý một cách đồng bộ;…

Với bối cạnh hiện nay của Việt nam đang trong giai đoạn hội nhập, nền

kinh tế còn nhiều biến đổi và diễn biến thị trường tiền tệ ngày càng phức tạp thì

các giải pháp đề cập trong bài luận văn chỉ mang tính chất thời điểm nhất định.

PHỤ LỤC 1

CÁC HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

1. Hệ thống tỷ giá đối đoái cố định

Trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá đối đoái hoặc được giữ không

đổi hoặc chỉ được cho phép dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu tỷ giá hối đoái

bắt đầu giao động quá nhiều, các chính phủ có thể can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái

trong vòng giới hạn của phạm vi này.

Với chế độ tỷ giá này, NHTW phải duy trì một lượng dự trữ ngoại tệ nhất

định để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định.

Nếu tỷ giá được ấn định thấp hơn tỷ giá thị trường, nội tệ được định giá cao, sẽ có

tác dụng kìm hãm xuất khẩu và kích thích nhập khẩu. Ngược lại, với chính sách tỷ

giá định giá thấp đồng nội tệ, sẽ có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập

khẩu, giúp cải thiện cán cân vãng lai.

2. Hệ thống tỷ giá đối đoái thả nổi tự do

Trong hệ thống tỷ giá thả nổi tự do, tỷ giá sẽ được các lực thị trường ấn định

mà không có sự can thiệp của chính phủ. Tỷ giá được hình thành dựa trên cân bằng

cung cầu ngoại tệ nên nội tệ không bị đánh giá quá cao hay quá thấp. Theo hệ thống

này, các công ty đa quốc gia hay các công ty hoạt động xuất nhập sẽ cần phải dành

nhiều thời gian đáng kể cho việc tính toán và quản lý các rủi ro do dao động tỷ giá.

Với những quốc gia áp dụng hệ thống tỷ giá thả nổi tự do thì NHTW của họ sẽ giảm

bớt áp lực về vấn đề quản lý tỷ giá, đó là : NHTW không bị đòi hỏi phải duy trì tỷ

giá hối đoái trong biên độ đã định, nên họ không buộc phải thực hiện chính sách can

thiệp vào thị trường ngoại hối chỉ để kiểm soát tỷ giá; Và thứ nữa là chính phủ có thể

thực thi chính sách mà không cần bận tâm đến việc chính sách này có duy trì được tỷ

giá trong vòng biên độ quy định hay không; Cuối cùng, đó là giảm được áp lực trong

quản lý các dòng vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ các nước không cần phải hạn chế

vốn của các nhà đầu tư đem ra khỏi nước mình, từ đó dòng vốn có thể chảy từ nơi có

lãi suất thấp sang nơi có lãi suất cao, nhờ đó nâng cao hiệu quả của thị trường tài

chính.

3. Hệ thống tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi

Hiện nay, hầu như ít có một quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định hoặc

thả nổi thuần túy mà thay vào đó là một hệ thống tỷ giá kết hợp giữa thả nổi và cố

định với những đặc trưng đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia..

Hệ thống tỷ giá đối đoái hiện hữu ngày nay đối với một vài đồng tiền nằm

đâu đó giữa cố định và thả nổi tự do. Nó giống hệ thống thả nổi tự do ở điểm các tỷ

giá được cho phép giao động hàng ngày và không có các biên độ giao động chính

thức. Nhưng nó lại giống hệ thống cố định ở điểm các chính phủ có thể và đôi khi đã

can thiệp để tránh đồng tiền nước họ không đi quá xa theo một hướng nào đó.

Các hệ thống tỷ giá hối đoái hỗn hợp chủ yếu trên thế giới như : Hệ thống dải

băng tỷ giá, hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ, hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản

lý, chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ.

Hiện nay, hầu như ít có một quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định hoặc

thả nổi thuần túy mà thay vào đó là một hệ thống tỷ giá kết hợp giữa thả nổi và cố

định với những đặc trưng đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia. Dưới

đây là các kết hợp chủ yếu.

(cid:61558) Hệ thống dải băng tỷ giá

Theo cách sắp xếp tỷ giá hối đoái cố định được Cộng đồng Kinh tế Châu Âu

thành lập năm 1972 là : khi các nước thành viên Cộng đồng ấn định rằng các đồng

tiền của họ sẽ được duy trì trong vòng các giới hạn được thiết lập với nhau. Sắp xếp

này được gọi là dải băng tỷ giá

Tỷ giá hối đoái của các nước thành viên cũng được duy trì trong các giới hạn

cụ thể quy định và cũng ràng buộc với đơn vị tiền tệ Châu Âu – đồng ECU. Để tránh

giá trị đồng nội tệ vượt qua biên độ đã quy định thì các NHTW có thể can thiệp vào

thị trường ngoại hối.

Mỗi đồng tiền ràng buộc với đồng ECU được phân bổ một tỷ giá, gọi là tỷ giá

hối đoái trung tâm tương ứng với đồng ECU. Từ tỷ giá được giao này, các nước có

thể xác được tỷ giá trung tâm giữa hai đồng tiền bất kỳ nào đó. Tiếp theo nữa là có

thể xác định các giới hạn trên và dưới thông qua biên độ quy định +/- 2,25%.

Hiện nay, đồng ECU không còn và đã được thay thế bằng đồng EURO,

nhưng hệ thống này đã từng vận hành tốt hơn 10 năm ở Cộng đồng Kinh tế Châu

Âu. Vì vậy, việc lưu ý đến hệ thống này có thể hữu cho các nước đang phát triển.

(cid:61558) Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ ( còn được gọi là neo tỷ giá có điều chỉnh

hay là các ngang giá trượt). Trong hệ thống này, một quốc gia ấn định một ngang giá

cho đồng tiền của mình và cho phép một thay đổi nhỏ xung quanh ngang giá chẳng

hạn như +/- 1% so với ngang giá.

Phương thức xác định giá trị ngang giá: Các ngang giá này sẽ được điều

chỉnh dần với một lượng nhỏ tuân theo những chỉ dẫn trong hành vi các biến số của

nền kinh tế như : Vị thế dự trữ ngoại hối quốc gia, những thay đổi gần đây trong

cung tiền hay giá cả, hoặc những thay đổi của tỷ giá xoay quanh ngang giá. Khi

những biến số này tạo ra những sức ép tiềm ẩn lên quốc gia, giá trị ngang giá của

đồng tiền sẽ được phá giá một cách chính thức với một tỷ lệ phần trăm nhỏ. Khi giá

trị ngang giá được thay đổi thì biên độ 1% sẽ áp dụng cho ngang giá mới.

Trong hệ thống này, giá trị danh nghĩa của đồng nội tệ được thay đổi mỗi lần

với lượng rất nhỏ và thường là thông báo trước với khoảng thời gian thật cụ thể, nhờ

đó ít có nguyên cơ dẫn đến đầu cơ tiền tệ.

Tuy nhiên, nếu duy trì hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ một cách nghiêm ngặt

thì quốc gia đó có thể không đạt được những mục tiêu bên trong nền kinh tế như :

sức cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước, công ăn việc làm,

… Ngoài ra, nếu trong điều kiện kinh tế không ổn định và lạm phát cao thì hệ thống

này có thể chuyển sang giống như hệ thống tỷ giá thả nổi.

(cid:61558) Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý.

Hệ thống tỷ giá đối đoái hiện hữu ngày nay đối với một vài đồng tiền nằm

đâu đó giữa cố định và thả nổi tự do. Nó giống hệ thống thả nổi tự do ở điểm các tỷ

giá được cho phép giao động hàng ngày và không có các biên độ giao động chính

thức. Nhưng nó lại giống hệ thống cố định ở điểm các chính phủ có thể và đôi khi đã

can thiệp để tránh đồng tiền nước họ không đi quá xa theo một hướng nào đó.

(cid:61558) Chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ.

Thuật ngữ Chuẩn tiền tệ (currentcy board) được sử dụng để nói lên sự tương

phản với tiền pháp định (fiat money) – là loại tiền giấy hoặc không đổi ra được vàng

hoặc bạc. Nếu được hiểu theo nghĩa khác thì việc phát hành tiền không còn là chức

năng của NHTW mà phụ thuộc vào “hội đồng” điều hành theo luật định. Mục đích

chính của chuẩn tiền tệ ở các nước thực dân là nhằm áp đặt toàn bộ chính sách tiền

tệ của mình lên các nước thuộc địa ( chủ yếu là các nước thuộc địa của Anh)

Chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ là một hệ thống bao gồm các quy định pháp lý

dưới dạng luật nghiêm cấm không cho phép chính phủ phát hành các khoản nợ - tiền

có quyền lực cao, nếu như việc phát hành này không được đảm bảo hỗ trợ 100%

bằng một lượng dự trữ quốc tế tương đương. Trong chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ, chính

phủ hoặc ngân hàng trung ương ấn định một tỷ giá cố định giữa đồng nội tệ và đồng

ngoại, thường là một đồng tiền mạnh và sẵn sàng chuyển đồi từ đồng nội tệ sang

ngoại tệ vào bất cứ lúc nào khi công chúng yêu cầu. Trong hệ thống này cơ quan

quản lý tiền tệ không được phép dùng quyền hạn của mình để tài trợ vào bảo lãnh tín

dụng cho khu vực tư nhân và khu vực công, do đó những mất cân đối trong chính

sách tài khóa không thể tài trợ thông qua thuế lạm phát bằng cách phát hành thêm

tiền

Hệ thống tỷ giá hối đoái này đã và đang được áp dụng ở các nước Achentina,

Hong Kong, Estonia, Bungari, Lithuania.

Chuẩn tiền tệ có khả năng nhập khẩu chính sách chống lạm phát từ những

quốc gia mà đồng nội tệ cố định vào đồng tiền nước đó, tức là chuần tiền tệ có khả

năng cô lập nguồn gốc dẫn đến lạm phát ở các nước đang phát triển

Ngoài những ưu điểm trên, chuẩn tiền tệ vẫn tồn tại một số nhược điểm nhất

định:

Mất đi sự tự chủ trong chính sách tiền tệ. Một chuẩn tiền tệ sẽ không cho

phép quốc gia đó kiểm soát chính sách lãi suất của mình bởi vì lãi suất đồng nội tệ

phải gắn chặt với lãi suất đồng ngoại tệ.

Giá phải trả cho việc bảo vệ chuẩn tiền tệ rất đắt nếu như các nhà đầu cơ hoài

nghi về việc chính phủ sẽ không có khả năng hoặc không có đủ sức can thiệp để giữa

mức tỷ giá cố định.

Chuẩn tiền tệ có khuynh hướng khuyến khích các nhà đầu tư trong nước kinh

doanh quốc tế không thực hiện vị thế phòng ngừa rủi ro tỷ giá và các định chế tài

chính trong nước trở nên ưu chuộng ngoại tệ thông qua hội chứng vay nợ nước ngoài

quá mức.

Hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương do không thực hiện được chức năng của

người cho vay cuối cùng.

Hệ thống tỷ giá hối đoái một số nước trên thế giới.

HỆ THỐNG TỶ GIÁ

Chuẩn

Thả nổi có

tiền tệ

Cố định

quản lý

Thả nổi tự do

(Currency

(Fixed

(Managed

(Freely

Con rắn tiền tệ

STT

board)

exchange)

(Crawling peg)

float)

floating)

France-Euro Germany-Euro Malaysia

Hungary Indonesia Uruguay China

Australia Chile Iceland Newziland Norway Poland Sweden Switzerland

Brazil Colombia Croatia Czech Egypt Europe Jamaica Kenya Korea Lebanon Mexico Peru Singapore Slovakia South Sri Lanka Africa Thailand Ukraine

1 Argentina 2 Bulgaria 3 Estonia 4 Hongkong 5 Lithuania 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

Chế độ tỷ giá mà các quốc gia lựa chọn nhằm hướng đến mục tiêu cuối cùng

là sự ổn định kinh tế chính trị cùng với tính kỷ luật và sự linh hoạt trong chính sách

tài khóa và tiền tệ của một quốc gia.

PHỤ LỤC 4

TỶ LỆ DỰ TRỮ BẮT BUỘC 2007-2010

Tiền gửi VND

Tiền gửi ngoại tệ

Loại TCTD

Không kỳ hạn và dưới 12 tháng

Từ 12 tháng trở lên

Từ 12 tháng trở lên

Không kỳ hạn và dưới 12 tháng

Theo văn bản số 74/QĐ-NHNN . Áp dụng từ ngày 01/02/2010

4%

2%

7%

3%

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

3%

1%

6%

2%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

3%

1%

6%

2%

0%

0%

0%

0%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

Theo văn bản số 379/QĐ-NHNN . Áp dụng từ ngày 01/03/2009

3%

1%

7%

3%

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

1%

1%

6%

2%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

1%

1%

6%

2%

0%

0%

0%

0%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

Theo văn bản số 2560/QĐ-NHNN. Áp dụng từ ngày 05/11/2008

10%

4%

9%

3%

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

7%

3%

8%

2%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

3%

3%

8%

2%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

Theo văn bản số 2951/QĐ -NHNN. Áp dụng từ ngày 12/05/2008

6%

2%

7%

3%

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

3%

1%

6%

2%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

1%

1%

6%

2%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

Theo văn bản số 2811/QĐ-NHNN. Áp dụng từ ngày 12/01/2008

8%

2%

9%

3%

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

5%

1%

8%

2%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

1%

1%

8%

2%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách

Theo văn bản số 187/QĐ -NHNN . Áp dụng từ ngày 02/01/2008

11%

5%

11%

5%

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

8%

4%

10%

4%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

4%

4%

10%

4%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

Theo văn bản số 1141/QĐ -NHNN 28/5/2007 . Áp dụng từ ngày 06/01/2007

10%

4%

10%

4%

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

8%

4%

10%

4%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

4%

4%

10%

4%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

PHỤ LỤC 5

CÁN CÂN THANH TOÁN CỦA VIỆT NAM 1990-2008

Đơn vị : Triệu USD

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

Cán cân vãng lai

-259

-133

-8

-767

-1.166

-1.868

-2.020

-1.528

-1.074

1.177

1.107

682

-603

-1.931

-907

-560

-164

-6.992

-10.706

-41

-63

-60

-547

-1.190

-2.345

-2.775

-1.247

-989

972

376

481

-1.054

-2.581

-2.237

-2.439

-2.776

-10.360

-12.782

Cán cân thương mại (fob)

-356

-160

-71

-484

-278

-150

-445

-1.166

-1.207

-976

-1.001

-1.049

-1.470

-1.589

-1.763

-1.501

-1.437

-3.062

-5.235

Cán cân dịch vụ và thu nhập

138

90

123

264

302

627

1.200

885

1.122

1.181

1.732

1.250

1.921

2.239

3.093

3.380

4.049

6.430

7.311

Chuyển giao

121

-59

271

-180

897

1.807

2.395

1.944

1.069

510

-754

220

1.980

3.305

2.753

3.087

3.088

17.506

12.116

Cán cân vốn

120

220

260

300

1.048

1.780

2.395

2.220

1.671

1.412

1.298

1.300

1.400

1.450

1.610

1.889

2.315

6.516

9.053

Đầu tư trực tiếp

-47

-191

52

-597

-275

-284

356

228

65

139

-51

457

1.162

921

1.025

2.045

993

2

Nợ trung hạn

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

865

1.313

6.243

-578

-

Đầu tư gián tiếp

48

-88

-41

117

124

311

-632

-830

-904

-2.117

-1.219

631

1.398

-19

-588

-1.565

2.702

2.648

Vốn ngắn hạn

-197

142

-4

-115

-109

-140

-629

-279

-218

-917

-676

-862

-1.020

777

-913

-396

1.398

-315

-947

-50

66

-176

-1.056

-409

137

-223

770

-323

40

357

2.151

933

2.131

4.322

10.199

463

Nhầm lẫn và sai sót Cán cân tổng thể -142 Nguồn : Asian Development Bank

PHỤ LỤC 2 MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ CỦA THÁI LAN 1990-2009

Đơn vị : Tỷ USD

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Chỉ tiêu

0,46

0,05

0,53

5,47

2,66

4,12

3,70

4,56

0,33

-0,11

-0,71

-0,88

-1,61

-0,07

3,07

5,51

4,23

-6,66

-5,65

0,46

Đầu tư tài chính

6,89

9,88

7,58

3,48

8,65

16,65

14,40

-12,20

-7,22

-3,40

-9,30

-5,23

-1,97

-5,91

-5,13

11,18

6,89

- 17,43

- 13,54

- 12,92

Đầu tư khác

2,40

1,42

1,54

1,57

0,88

1,18

1,41

3,30

7,36

5,74

3,37

4,61

3,16

4,61

5,79

7,55

8,49

9,38

7,26

Đầu tư trực tiếp

-9,83

-9,51

-7,87

-8,52

-8,73

-14,65 -16,15

-4,62 12,24

9,27

5,47

2,49

2,74

3,76

1,46

-8,25

0,99 12,78

0,11 19,42

Cán cân thương mại

3,79

4,15

3,04

3,91

4,18

7,24

2,17 -10,65

1,73

4,58

-1,62

1,32

4,23

0,14

5,74

5,42 12,74 17,10 24,69

Cán cân TTQT

14,27 18,42 21,18 25,44 30,28

36,95

38,65

26,98 29,50 34,80 32,70 33,00 38,90 42,10 49,80 52,10

67,0

87,5 111,0 138,4

25,59 25,52 25,40 25,32 25,15

24,92

25,34

31,36 41,36 37,81 40,11 44,43 42,96 41,48 40,22 40,22 37,88 34,52 33,30 34,30

Dự trữ ngoại hối Tỷ giá hối đoái bình quân THB/USD

Nguồn : ADB

PHỤ LỤC 3 BIÊN ĐỘ TỶ GIÁ VÀ TỶ GIÁ BÌNH QUÂN LIÊN NGÂN HÀNG 02/1999-08/2010

Ghi chú

Thời gian áp dụng

S T T 25/02/1999 1 07/01/2002 2 31/12/2006 3 24/12/2007 4 10/03/2008 5 27/06/2008 6 07/11/2008 7 24/03/2009 8 26/11/2009 9 10 10/02/2010 11 18/08/2010

Biên độ tỷ giá (%) +/- 0,1 +/- 0,25 +/- 0,5 +/- 0,75 +/- 1 +/- 2 +/- 3 +/- 5 +/- 3 +/- 3 +/- 3

Tỷ giá bình quân liên ngân hàng (VND/USD) 14.030 15.260 16.101 16.113 16.025 16.451 16.511 16.980 17.961 18.544 18.932

Tỷ giá trần (VND/USD) 14.044 15.298 16.182 16.234 16.185 16.780 17.006 17.829 18.500 19.100 19.500

Điều chỉnh giảm biên độ và tăng TGBQLNH từ mức 17.030 VND/USD (tỷ giá tăng 3,7%) Điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng 3,36%, từ mức 17.941 VND/USD Điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng 2%, từ mức 18.544 VND/USD

Nguồn : Ngân hàng nhà nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định, (2001), Tài chính quốc tế, NXB

Thống Kê.

2. PGS.TS. Trần Hoàng Ngân, TS. Nguyễn Minh Kiên (2008), Tài chính quốc tế,

NXB Thống Kê, TP. HCM.

3. PGS.TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng (2008), Nhập môn tài chính –

Tiền tệ, NXB Lao Động - Xã Hội, Hà Nội.

4. LS. Ths Phạm Thanh Bình, Luật gia Lê Thanh Sơn (2001), Quy định về quản lý

ngoại hối và vay, trả nợ nước ngoài, NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội.

5. Ths. Đinh Thị Thanh Long, Đinh Thị Minh Tâm (2009), “Đánh giá tính hiệu

quả của thị trường ngoại hối Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng (số 21).

6. Đinh Xuân Hà (2009), “Quá trình cải cách chế độ tỷ giá hối đoái của Trung

Quốc và một số nhận xét”, Tạp chí Ngân hàng (số 23).

7. Nguyễn Duy Lộ (2009), “Góp bàn về những chủ trương, giải pháp quản lý

ngoại hối để bình ổn tỷ giá ngoại tệ trên thị trường tiền tệ Việt Nam ”, Tạp chí

Ngân hàng (số 24).

8. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh và Nguyễn Thùy Linh (2010), “ Tác động của tự

do hóa các giao dịch vốn đối với sự ổn định khu vực tài chính, cơ sở lý luận và

thực tiễn”, Tạp chí Ngân hàng (số 4).

9. TS. Nguyễn Đại Lai (2010), “Thách thức lạm phát và vấn đề điều hành chính

sách lãi suất, chính sách tỷ giá hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng (số 8).

10. Nguyễn Thành Nam (2010), “Chính sách tỷ giá cho nền kinh tế Việt Nam hiện

nay”, Tạp chí Ngân hàng (số 9).

11. TS. Nguyễn Văn Sỹ (2010), “Giải pháp tiếp nhận và sử dụng hiệu quả nguồn

vốn ODA tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020”, Tạp chí Ngân hàng (số 10).

12. TS. Lê Thị Mận (2010), “Điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà Nước

Việt Nam thời kỳ 1998 đến nay”, Tạp chí Ngân hàng (số 11).

13. http://www.sbv.gov.vn ( Ngân hàng nhà nước Việt Nam) : Nguồn cung cấp các

văn bản pháp lý liên quan.

14. Một số thông tin trên các trang điện tử : http://www.vneconomy.com.vn (Thời

báo kinh tế Việt Nam); http://www.vietbao.vn (Báo điện tử Việt Báo);

http://www.mof.gov.vn (Bộ tài chính), …