BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

HOÀNG NGỌC VINH HẠNH

THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT (Khảo sát trên các báo điện tử Vietnamnet.vn, Ngoisao.net, News.zing.vn giai đoạn từ năm 2014 - 2016)

Ngành: BÁO CHÍ HỌC Mã số: 9320101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH THÁI

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số

liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưng từng được ai công bố

trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Tác giả luận án

Hoàng Ngọc Vinh Hạnh

i

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i

MỤC LỤC ........................................................................................................ ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN......................... iv

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ .................................................................................. vi

DANH MỤC ẢNH .......................................................................................... vi

DANH MỤC HÌNH ........................................................................................ vi

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

THÔNG TIN .................................................................................................. 13

VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN TRÊN BÁO CHÍ ................................... 13

1.1 Nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam 13

1.2 Nghiên cứu vấn đề truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam trên báo 16 chí Việt Nam

1.3 Nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí ..... 19

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 37

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT VÀ

VẤN ĐỀ THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM

TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ .................................................................................. 39

2.1 Văn hóa và góc nhìn văn hóa Việt ......................................................... 39

2.2 Nghệ sĩ biểu diễn và nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam .................................. 48

2.3 Báo chí Việt Nam và nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt Nam ........ 545

2.4 Báo điện tử và vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam .... 57

ii

2.5 Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt ......................................... 712

Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 79

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU

DIỄN VIỆT NAM TRÊN VIETNAMNET.VN, NEWS.ZING.VN,

NGOISAO.NET TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT ................................. 81

3.1 Khái quát báo điện tử là đối tượng được khảo sát ................................. 81

3.2 Khảo sát thực trạng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên

Vietnamnet.vn, News.zing.vn và Ngoisao.net từ góc nhìn văn hóa Việt .... 84

3.3 Đánh giá chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên

báo điện tử .................................................................................................. 126

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 135

CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN

VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ 1378

4.1 Vấn đề đặt ra trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

trên báo điện tử......................................................................................... 1378

4.2 Giải pháp tăng cường chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam trên báo điện tử .............................................................................. 15960

Tiểu kết chƣơng 4:..................................................................................... 1789

KẾT LUẬN .............................................................................................. 17980

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ĐÃ

CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................. 1867

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....... Error! Bookmark not defined.8

iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BBT Ban biên tập

Bộ TT&TT Bộ Thông tin và Truyền thông

BTV Biên tập viên

CCTC Công chúng truy cập

CTTT Chủ thể truyền thông

CTV Cộng tác viên

Cục QLPTTH&TTĐT

Cục quản lý phát thanh truyền hình và thông tin điện tử

ĐCS Đảng Cộng sản

GS Giáo sư

Ngoisao Báo điện tử Ngoisao.net

NSBD VN Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Nxb Nhà xuất bản

NB Nhà báo

PGS Phó Giáo sư

PV Phóng viên

PVS Phỏng vấn sâu

TBT Tổng biên tập

TPBC Tác phẩm báo chí

TS Tiến sĩ

TTĐC Truyền thông đại chúng

VHNT Văn hóa nghệ thuật

VN Việt Nam

VNN Báo điện tử Vietmamnet.vn

Zingnews Báo điện tử News.zing.vn

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Khảo sát mức độ quan tâm của công chúng tới thông tin về giới

NSBD VN theo độ tuổi ................................................................................... 86

Bảng 3.2: Thống kê nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử .................. 90

Bảng 3.3: Khảo sát lượt xem tin bài về Khánh Ly.......................................... 91

Bảng 3.4: Khảo sát số lượng ảnh trong tin bài đăng trên báo điện tử........... 100

Bảng 3.5: Nội dung ảnh đăng trên các báo điện tử ....................................... 101

Bảng 3.6: Khảo sát tin bài theo từ khóa trên báo điện tử .............................. 104

Bảng 3.7: Nguồn tin cho tin bài về giới NSBD VN trên báo điện tử ........... 107

Bảng 3.8: So sánh nghệ sĩ Giang Hồng Ngọc và Hariwon ........................... 112

Bảng 3.9: Đánh giá của công chúng về hàm lượng thông tin giới NSBD VN

trên báo điện tử .............................................................................................. 121

Bảng 3.10 Số lượng tin bài về NSBD VN trên báo điện tử năm 2016 ......... 123

Bảng 3.11: Phản hồi của công chúng với thông tin giới NSBD VN trên báo điện

tử .................................................................................................................... 124

Bảng 3.12: Đánh giá của công chúng về ảnh hưởng của NSBD VN thông qua

tin bài về họ trên báo điện tử ......................................................................... 125

v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ tin bài về giới NSBD VN trong mục văn hóa – giải trí ..... 89

Biểu đồ 3.2: Tần suất tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam .................. 89

Biểu đồ 3.3: Thể loại báo chí sử dụng trong thông tin về giới NSBD VN ... 102

Biểu đồ 3.4: Nguồn tin cho thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ... 106

DANH MỤC ẢNH

Ảnh 3.1: Hình ảnh Ngọc Trinh và Hương Giang idol trên báo Ngoisao.net .. 94

Ảnh 3.2: Thông tin Ngọc Trinh đăng trên trang cá nhân được Zingnews khai thác

....................................................................................................................... 110

Ảnh 3.3: thống kê top KOLs có bài viết ảnh hưởng trong ngành luyện tập thể

hình (gym) trong ngày 15/5/2015 ................................................................. 116

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Mô hình quy trình thông tin của Stuart Hall ................................... 61

Hình 2.2: Mô hình hệ thống/kênh truyền thông phức hợp .............................. 62

Hình 2.3: Mô hình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ................... 64

Hình 2.4: Mô hình Ozone ................................................................................ 65

Hình 2.5: Mô hình cơ chế tác động của báo chí ............................................. 72

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong bài nghiên cứu khoa học “Truyền thông văn hóa và văn hóa

truyền thông” đăng trên trang www.ajc.edu.vn ngày 22/04/2015, PGS.TS

Nguyễn Thị Minh Thái khẳng định: “Báo chí truyền thông (BCTT) của bất kỳ

quốc gia nào cũng có nhiệm vụ truyền thông về nền văn hóa của chính quốc

gia mình”. [111]. Báo chí Việt Nam hiện đại mặc nhiên phải truyền thông về

nền văn hóa Việt Nam với toàn bộ sinh hoạt văn hóa của người Việt.

Từ sinh hoạt văn hóa truyền thống Việt Nam vốn thuộc v ng văn hóa

phương Đông nông nghiệp điển hình. Khi bị thực dân Pháp xâm lược và bị

biến thành thuộc địa của Pháp, một cuộc giao lưu văn hóa Đông Tây đã xảy

ra, và dù muốn dù không, nền văn hóa nông nghiệp căn cơ của Việt Nam

cũng bị được “Tây hóa” như một xu hướng văn hóa không tránh khỏi. Quá

trình tiếp biến mạnh mẽ giữa Đông và Tây giữa cổ và kim, tạo nên một cuộc

thay đổi mà bất cứ một cuộc bể dâu nào cũng không thể so sánh. Để rồi từ

trong lòng sự tiếp biến này hình thành nên những dòng chảy văn hóa mới

hoàn toàn khác biệt, phát triển mạnh mẽ, mà tiêu biểu nhất có lẽ là sự ra đời

của chữ Quốc ngữ (dẫn tới sự xuất hiện của báo chí Quốc ngữ và nền văn học

nghệ thuật hiện đại), lối sống đô thị và thói quen tiếp nhận thông tin theo kiểu

phương Tây của công chúng. Tuy nhiên, chính ba hằng số “nông dân – nông

nghiệp – nông thôn” như GS Trần Quốc Vượng sử dụng để định danh nền văn

hóa nông nghiệp đặc thù của Việt Nam [137, tr184] đã dẫn tới “bi kịch của sự

phát triển” với những xung đột giữa “những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ

ấy với những điều mới lạ của văn hóa Tây phương” mà học giả Đào Duy Anh

trong “Việt Nam văn hóa sử cương” [2, tr39]. Và tất nhiên báo chí Việt Nam

có nhiệm vụ truyền thông về những bi kịch và xung đột ấy.

1

Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam (NSBD VN) trong xã hội hiện đại là một

kiểu người và kiểu sinh hoạt văn hóa biểu thị rõ ràng cho sự tiếp biến văn hóa

Đông – Tây và được công chúng quan tâm. Truyền thông về giới này cũng

chính là truyền thông về văn hóa Việt Nam. Vài thập kỉ trở lại đây khi báo

chí bước vào thời kì tự chủ tài chính khi văn hóa đại chúng và công nghiệp

giải trí phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam thì thông tin về giới NSBD trên báo

chí đặc biệt là trên báo điện tử luôn chiếm dung lượng lớn. Bên cạnh những

thông tin nghiêm túc về hoạt động nghề nghiệp của NSBD, báo điện tử (với

những ưu thế dựa trên nền tảng internet) cũng truyền tải nhiều khía cạnh khác

nhau về đời sống riêng của họ như chuyện tình cảm, hôn nhân, sự cố trang

phục trên thảm đỏ, phát ngôn gây sốc, mối quan hệ phức tạp trong ngành

công nghiệp giải trí… Những thông tin này vừa để giúp người nghệ sĩ tới gần

hơn với công chúng nhưng cũng vừa để đáp ứng sự tò mò vô biên của công

chúng và lôi kéo họ nhằm tăng số lượng lượt xem, lượt bình luận và cùng với

đó là doanh thu quảng cáo cho các tòa soạn. Ở góc độ ngược lại chính giới

NSBD VN cũng nhận thức rất rõ vai trò ưu thế của báo điện tử, tìm mọi cách

để khai thác, sử dụng báo điện tử cho việc phát triển nghề nghiệp và sự nổi

tiếng của mình. Sự “tương tác” và “lợi dụng” lẫn nhau giữa hai bên khiến

thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử luôn dồi dào. Nhờ đó, bất kể

ngày đêm công chúng đều có thể vừa đọc, vừa nghe, vừa xem clip, vừa tương

tác, phản hồi ý kiến, thậm chí đối thoại xung đột, cãi vã và cả... “ném đá”

những thông tin về NSBD nếu muốn.

Văn nghệ sĩ nói chung và NSBD VN nói riêng giữ một vai trò quan

trọng trong đời sống xã hội hiện đại. Thời gian qua đội ngũ văn nghệ sĩ đã

cống hiến cho nhân dân, cho nền văn hóa Việt Nam và cho nhân loại những

tác phẩm có giá trị, thể hiện được bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam. Do đó

thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo chí không chỉ được

2

đông đảo công chúng quan tâm, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần

của công chúng mà còn tác động rất lớn tới việc hình thành hệ giá trị cho

công chúng, nhất là công chúng trẻ. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả không thể

phủ nhận trong việc truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam; việc khai thác

quá đà những thông tin hậu trường của giới NSBD VN; đặc biệt là hiện tượng

kết nối giữa báo điện tử và truyền thông xã hội (social media) khiến báo điện

tử bộc lộ không ít những biểu hiện tiêu cực, lệch chuẩn trong cách thức thông

tin. Nhiều tác phẩm báo chí TPBC bị các nhà nghiên cứu và công chúng lên

án gọi là “thảm họa” truyền thông là “bãi rác” và nơi bóp méo chân dung

của giới NSBD, thiếu tầm nhìn văn hóa truyền thông nặng về giải trí tầm

thường, “thổi phồng” sự thật, tạo dư luận xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy

tín, danh dự của nhiều cá nhân, tổ chức, dẫn đến những hiện tượng tiêu cực

trong xã hội như: bạo lực học đường, sống ảo suy thoái đạo đức… Và những

“mảng tối” này trong hiện trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

hiện nay là một phần trong tấn “bi kịch của sự phát triển” của xã hội Việt

Nam hiện đại TK XXI mà học giả Đào Duy Anh từng tiên đoán từ năm

1938. Cắt nghĩa hiện tượng này từ góc nhìn văn hóa Việt có thể thấy, Việt

Nam đang ở vào buổi giao thời trong giao lưu hội nhập văn hóa toàn cầu.

Những hệ giá trị văn hóa truyền thống giúp điều tiết xã hội trước đây giúp

con người định hướng các sống, cách ứng xử dù không biến mất hẳn nhưng

đã không còn ph hợp với đời sống hiện đại, thậm chí nảy sinh ra những phi

giá trị. Trong khi đó những giá trị mới lại chưa được định hình. Xã hội rơi

vào khủng khoảng giá trị khiến con người mất niềm tin và định hướng. Nhiều

phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt đang bị thách thức bởi những làn

sóng văn hóa ngoại lai, bởi logic kinh tế thị trường và đời sống vật chất tiện

nghi. Công chúng được tiếp cận nhiều thông tin nhưng lạc lối trong xác định

lý tưởng sống, không có giá trị để theo đuổi. Trong khi đó báo điện tử khi

3

thông tin về giới NSBD VN lại truyền bá những xu hướng, phong cách sống

mới mà có thể mâu thuẫn với những chuẩn mực cũ. Thực trạng này dẫn đến

vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ngày trở nên cấp thiết,

cần phải được đặt ra đánh giá chính xác và nhất là được phản biện từ góc

nhìn văn hóa, bởi nếu không sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực làm

phương hại hình ảnh của văn hóa dân tộc, làm méo mó, tầm thường thẩm mĩ

văn nghệ của dân tộc Việt Nam trên đường phát triển trong xu hướng hội

nhập toàn cầu. D cho đi qua bao cuộc bể dâu giao lưu hay tiếp biến văn

hóa đi chăng nữa thì một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí Việt

Nam là phải truyền thông về văn hóa Việt Nam một cách có văn hóa ph

hợp với hệ giá trị văn hóa Việt Nam, đảm bảo sự hài hòa giữa việc phát triển

các giá trị mới gắn liền với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa và hội nhập quốc tế. PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái phân tích: “Nhiệm

vụ hàng đầu của nhà báo Việt Nam muốn truyền thông về văn hóa Việt Nam,

đương nhiên phải giải mã được bản sắc văn hóa Việt, nếu không sẽ không

thể làm tốt nhiệm vụ căn cơ này của nền BCTT Việt” [111].

Mặc dù có nhiều luận án, luận văn khóa luận, bài nghiên cứu khoa học,

bài báo... đề cập tới vấn đề thông tin về NSBD VN trên báo chí nhưng nhìn

nhận vấn đề này từ góc nhìn văn hóa Việt, trên một loại hình báo chí hiện đại

là báo điện tử thì vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu. Từ sự

cấp thiết đó tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Thông tin về giới nghệ sĩ biểu

diễn Việt Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt” làm luận án tốt

nghiệp bậc học Tiến sĩ chuyên ngành Báo chí – Truyền thông. Tác giả hy

vọng kết quả nghiên cứu của luận án có đóng góp nhất định cho lĩnh vực khoa

học chuyên ngành, cung cấp cho các cơ quan báo chí nhà quản lí báo chí một

bức tranh tổng thể thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên

4

một số tờ báo điện tử ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp phù hợp để cải tiến

nội dung cũng như hình thức khi thông tin về lĩnh vực này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục đích nghiên cứu

- Hệ thống hóa lý luận về thông tin trên báo chí, về góc nhìn văn hóa

Việt, về giới NSBD và giới NSBD VN. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn để

đánh giá thực trạng và chất lượng thông tin, chỉ ra thế mạnh, hạn chế, từ đó đề

xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử Việt Nam.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước) có liên quan

tới đề tài để làm rõ những vấn đề đã nghiên cứu, làm tiền đề cho nghiên cứu

tiếp theo của luận án.

- Làm rõ những khái niệm cơ bản được sử dụng trong luận án. Xác lập

mối quan hệ giữa nền văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam. Giải mã nền

văn hóa Việt Nam và hệ giá trị văn hóa Việt Nam để xác lập góc nhìn văn hóa

Việt các tiêu chí đánh giá thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc

nhìn văn hóa Việt.

- Phân tích đánh giá thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên các

trang Vietnamnet.vn, Ngoisao.net, News.zing.vn ở cả ba góc độ: chủ thể

thông tin đối tượng được thông tin và đối tượng tiếp nhận thông tin. Soi

chiếu thực trạng này từ góc nhìn văn hóa Việt, chỉ ra những điểm tích cực,

hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến thực trạng.

- Phân tích các kết quả thu được, đưa ra các khuyến nghị khoa học, chỉ

ra các vấn đề cấp thiết, từ đó đề xuất các định hướng và giải pháp chính sách

nhằm nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo mạng điện tử.

- Hoàn thành báo cáo khoa học, công bố kết quả nghiên cứu.

5

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo điện

tử Việt Nam đầu thế kỉ 21.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Thông tin về giới NSBD VN là một đề tài rộng báo điện tử ở Việt Nam

cũng phong phú về số lượng nên luận án này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu

thông tin về giới NSBD VN trên sự lựa chọn 3 trang: Vietnamnet.vn,

Ngoisao.net và News.zing.vn. Mặc dù chỉ là trang con của Vnexpress.net

nhưng Ngoisao.net hoạt động gần như độc lập với trang báo điện tử này.

Ngoisao.net có quy chế thu chi riêng biệt, tổ chức hệ thống tòa soạn và quy

trình hoạt động sản xuất tin bài đầy đủ như bất cứ một trang báo điện tử nào

khác. Do đó tác giả lựa chọn Ngoisao.net làm một trong những đối tượng

khảo sát khi nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử bởi

những đặc trưng khi sản xuất tin bài về giới NSBD VN của trang tin này.

Việc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện thử khi trở thành vấn đề

nghiên cứu sẽ được tác giả nhìn nhận, phân tích trên cả hai mặt tích cực và

tiêu cực. Tuy nhiên, do giới hạn không gian của một luận án Tiến sĩ cho nên

khi nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử, tác giả chỉ tập

trung nghiên cứu phần tiêu cực với những lỗi văn hóa gặp phải trong quá

trình thông tin trên tinh thần phản biện xã hội (PBXH). Trong bối cảnh truyền

thông mạng xã hội phát triển mạnh mẽ và phức tạp như hiện nay, việc chỉ ra

và nghiên cứu chuyên sâu các hiện tượng tiêu cực, các lỗi văn hóa trong quá

trình thông tin về giới NSBD VN đồng thời chỉ rõ ảnh hưởng của giới NSBD

VN và những thông tin về họ đối với đời sống xã hội hiện đại nói chung đối

với công chúng và chính những NSBD nói riêng có ý nghĩa nhất định, cung

cấp cho các cơ quan báo chí các nhà quản lý báo chí những giải pháp phù

6

hợp nhằm cải tiến nội dung và hình thức khi thông tin về giới NSBD VN, từ

đó thoát khỏi tình trạng “hỗn mang” và “bi kịch” khi thông tin về giới này.

Tác giả cũng tập trung nghiên cứu thông tin về giới nghệ sĩ biểu

diễn Việt Nam hoạt động ở hai loại hình nghệ thuật biểu diễn là âm nhạc

và điện ảnh, bởi lẽ đây là những loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại

gắn liền với văn hóa đại chúng (mass/popular culture), phản ánh rõ ràng

nhất sự giao lưu tiếp biến của văn hóa toàn cầu và được đông đảo công

chúng quan tâm.

Thời gian khảo sát: từ tháng 12/2014 tới tháng 12/2016 được cập nhật

và bổ sung thêm trong quá trình nghiên cứu).

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1 Cơ sở lý luận

- Vận dụng quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí

và văn hóa về vai trò của báo chí trong việc phát triển văn hóa Việt Nam:

Nghị quyết 23 - NQ TƯ về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ

thuật trong thời kỳ mới và Chỉ thị số 46-CT TƯ của Ban Bí thư Trung

ương định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ

gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Trong đó báo

chí phải đưa các nhân tố văn hóa tinh thần nhân văn thấm sâu vào các

lĩnh vực đời sống, phát triển kinh tế văn hóa xã hội qua đó gìn giữ, phát

huy được truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc trước sự tác động của

những yếu tố bên ngoài.

- Vận dụng lý thuyết về “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam” của GS. Trần

Ngọc Thêm (Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đền hiện đại và con đường

tới tương lai, NXB Văn hóa – Văn nghệ, 2016) để giải mã văn hóa Việt Nam,

xây dựng góc nhìn văn hóa Việt và các tiêu chí đánh giá từ góc nhìn này, từ

đó sử dụng như điểm tựa phân tích các hiện tượng thông tin về giới NSBD

VN trên báo điện tử hiện nay.

7

- Vận dụng khái niệm “Bá quyền văn hóa” của triết gia chính trị, sáng

lập viên Đảng Cộng sản Ý – Antonio Gramsci (1981-1937 để giải thích các

xu hướng phát triển văn hóa nghệ thuật và thông tin văn hóa nghệ thuật (bao

gồm giới NSBD) trên báo chí.

- Vận dụng mô hình truyền thông đại chúng của Stuart Hall (Endcoding

and Decoding), mô hình truyền thông phức hợp của PGS.TS Trương Đình

Chiến (Quản trị Marketing – NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2017) để phân

tích các yếu tố tham gia vào quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử hiện nay cũng như sự tương tác lẫn nhau của các yếu tố này.

- Vận dụng nghiên cứu về “mô hình Ozone” và “Các nhân tố F” của

Philip Kotler & Hermawan Kartajaya Iwan Setiawan (Marketing 4.0 –

Moving from Traditional to Digital, Wiley Edition, 2017) để phân tích vai trò

và ảnh hưởng của giới NSBD VN đối với cả báo điện tử và công chúng)

trong truyền thông hiện đại.

- Vận dụng lý thuyết về “Cơ chế tác động của báo chí đến công chúng”

của PGS. TS Nguyễn Văn Dững (Báo chí truyền thông hiện đại – NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội) để phân tích những ảnh hưởng và tác động của thông

tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay tới công chúng cũng như sự

tiếp nhận và đánh giá của công chúng với thông tin về giới này.

4.2 Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích nội dung văn bản: luận án nghiên cứu thông

tin về giới NSBD VN thông qua 300 tác phẩm được lựa chọn ngẫu nhiên theo

tác phẩm hoặc các chuỗi tác phẩm viết về những sự kiện nổi bật của những

NSBD VN nổi tiếng ở hai lĩnh vực âm nhạc và điện ảnh trên ba tờ báo điện tử

Vietnamnet.vn, Ngoisao.net, News.zing.vn. Tác giả lựa chọn những NSBD

VN nổi bật ở nhiều khía cạnh, theo nhiều góc độ đại diện cho những hình

ảnh, lối sống và tư duy khác nhau như: Khánh Ly Đặng Thái Sơn Sơn T ng

8

MTP, Hồ Ngọc Hà, Ngọc Trinh…Một số các từ khóa được sử dụng để tìm

kiếm các tác phẩm này như: “Khánh Ly + ngoisao.net + 2016 2015 2014”

“Hồ Ngọc Hà + ngoisao.net + 2016/2015/2015” “Hồ Ngọc Hà Chu Đăng

Khoa + News.zing.vn”… Đây là những TPBC thực tế đáng tin cậy để phân

tích trong luận án, từ đó đưa ra những đánh giá và kết luận cụ thể.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: luận án phân tích, hệ thống hóa các

văn bản, giáo trình, công trình nghiên cứu...liên quan đến đề tài luận án.

- Phương pháp điều tra bảng hỏi:

Trường hợp nghiên cứu của luận án là cỡ mẫu lớn và không biết tổng

n =

z2( p.q ) e2

thể do đó tác giả áp dụng công thức lựa chọn cỡ mẫu:

Trong đó:

n = là cỡ mẫu

z = giá trị phân phối tương ứng với độ tin cậy lựa chọn (ở đây tác giả

lựa chọn độ tin cậy 95% nên giá trị z là 1 96…

p = là ước tính tỷ lệ % của tổng thể

q = 1-p (tỷ lệ p và q được ước tính 50% 50% đó là khả năng lớn nhất

có thể xảy ra của tổng thể)

e = sai số cho phép (+-5%)

Với Cỡ mẫu với sai số cho phép là ±5%, độ tin cậy là 95%, P=0.5, cỡ

của tổng thể là >100.000 thì cỡ mẫu n tối thiểu với sai số cho phép là 400. Do

đó để đảm bảo độ tin cậy, tác giả phát 531 phiếu điều tra cho công chúng

được lựa chọn một cách ngẫu nhiên) của báo điện tử. Bảng hỏi đưa ra từ 15-

20 câu hỏi để khảo sát đánh giá của công chúng hiện nay về thông tin NSBD

VN trên báo điện tử; đo lường mức độ và phạm vi tác động của thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử tới tư duy lối sống, thẩm mĩ…của họ; đo

lường sự thay đổi thói quen trong việc tiếp nhận thông tin của công chúng…

9

từ đó giúp tác giả so sánh và hệ thống được những tác động của thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử đối với các nhóm công chúng khác nhau ở

Việt Nam. Để đảm bảo tính khách quan, tác giả sử dụng phương pháp chọn

mẫu ngẫu nhiên ở cả khu vực thành thị và nông thôn (Hà Nội và Vĩnh Phúc .

Trong đó về giới tính thì nữ chiếm 54,7%, nam chiếm 45,3%; về độ tuổi: tuổi

từ 16-45 chiếm 73%; về ngành nghề: phổ biến nhất là công chức, cán bộ văn

phòng (chiếm hơn 40% ; nông dân chiếm 7,2%, kinh doanh chiếm 21,8%; về

trình độ văn hóa thì 62% có trình độ đại học trở lên.

- Phương pháp thống kê

- Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả thực hiện phỏng vấn sâu 9 nhân

vật bao gồm lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông (TT& TT), lãnh đạo tòa

soạn báo điện tử và một số phóng viên (PV), biên tập viên (BTV) báo điện tử;

phỏng vấn sâu một số độc giả. Từ đó sử dụng vào việc phân tích các TPBC

liên quan đến vấn đề nghiên cứu và rút ra các kết luận liên quan đến nội dung

nghiên cứu trong luận án.

5. Giả thuyết nghiên cứu

- Giả thuyết 1: Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ngày càng

nhiều và là nguồn thông tin được công chúng quan tâm trong đời sống xã hội

Việt Nam hiện đại; Đặc trưng loại hình báo điện tử đã tự tạo lập ưu thế vượt

trội trong việc thông tin về giới NSBD VN.

- Giả thuyết 2: Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã phần

nào thực hiện được nhiệm vụ truyền thông văn hóa tuy nhiên quá trình thông

tin nảy sinh những phi giá trị gây ảnh hưởng tiêu cực cho văn hóa Việt.

- Giả thuyết 3: Áp lực kinh tế thị trường, hiện tượng thương mại hóa

báo chí khiến báo điện tử mất dần vai trò định hướng là một nguyên nhân

quan trọng dẫn tới những phi giá trị cho văn hóa Việt trong việc thông tin về

giới NSBD VN.

10

6. Đóng góp của luận án

- Cái mới của luận án: Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những nhà

nghiên cứu đi trước, luận án hệ thống hóa và làm rõ vấn đề thông tin về giới

NSBD VN trên truyền thông từ góc nhìn văn hóa Việt; tác động của những

thông tin này tới công chúng trong môi trường truyền thông hiện đại với sự

ảnh hưởng sâu sắc của giao lưu văn hóa toàn cầu và tư duy kinh tế thị trường;

- Ý nghĩa lý luận: Dựa trên thành tựu của những nhà khoa học đi trước,

luận án xác lập mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí; vấn đề thông tin về giới

NSBD Việt Nam trên báo điện tử; mô hình thông tin về giới NSBD VN trên

báo điện tử, góc nhìn văn hóa Việt các tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin

từ góc nhìn văn hóa Việt để phân tích thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là một minh chứng về lợi thế đặc

thù của loại hình báo điện tử khi thông tin về giới NSBD VN; vai trò và tác

động to lớn của thông tin về giới NSBD VN đối với đời sống xã hội hiện đại

nói chung đối với công chúng và chính những NSBD VN nói riêng; thể hiện

sứ mệnh quan trọng của báo điện tử trong việc truyền thông văn hóa Việt.

Việc thực hiện đề tài góp phần tìm hiểu một yếu tố quan trọng trong việc

thông tin về giới NSBD Việt Nam trên báo điện tử hiện nay là xác lập và tuân

thủ theo những tiêu chí văn hóa dựa trên hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt

Nam trong quá trình thông tin. Luận án cũng mở ra hướng nghiên cứu liên

ngành giữa báo chí truyền thông và văn hóa.

- Ý nghĩa thực tiễn: Đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo được nhiệm

vụ xuyên suốt của báo chí Việt hiện đại là truyền thông về văn hóa Việt Nam,

về giới NSBD VN và truyền thông một cách có văn hóa, phù hợp với hệ giá

trị văn hóa Việt Nam. Đề tài thành công sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các

nhà nghiên cứu báo chí truyền thông, nhà quản lý báo chí, nhà báo, phóng

viên, biên tập viên và sinh viên báo chí…

11

7. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận án gồm

4 chương cơ bản:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí

Chương 2: Cơ sở lý luận của góc nhìn văn hóa Việt và vấn đề thông

tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

Chương 3: Thực trạng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

trên Vetnamnet.vn, News.zing.vn, Ngoisao.net từ góc nhìn văn hóa Việt

Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

12

CHƢƠNG 1:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ THÔNG TIN

VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN TRÊN BÁO CHÍ

Để lý giải một cách rõ ràng vấn đề nghiên cứu của luận án, trước tiên

tác giả tìm hiểu và khái quát những công trình nghiên cứu mang tính nền tảng

về quan hệ chung nhất giữa nền văn hóa Việt Nam và nền báo chí Việt Nam,

đặt VHNT như là một thành tố của văn hóa Việt Nam trong mối quan hệ này,

sau đó mới hướng trọng tâm vào vấn đề cụ thể hơn: thông tin về giới NSBD

trên báo chí.

1.1 Nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam

Hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa và báo chí Việt Nam đều nhận định

rằng: các nền văn hóa và các nền báo chí trên toàn cầu đều có mối quan hệ qua

lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên đặc trưng của nền văn hóa khác nhau sẽ

sinh ra đặc trưng khác nhau của nền báo chí ở mỗi quốc gia.

Ở góc độ văn hóa học, trong sách “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan

Ngọc; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” và “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của

Trần Ngọc Thêm; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” và “Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi

và suy ngẫm” của Trần Quốc Vượng…, các tác giả đều chỉ ra rằng: chữ Quốc

ngữ và báo chí Việt Nam được hình thành từ trong cuộc giao lưu tiếp xúc với

với văn hóa phương Tây khi người Pháp đặt bước chân xâm lược vào lãnh thổ

Việt Nam. Mặc dù mục đích ban đầu của báo chí là phục vụ cho sự cai trị của

thực dân Pháp, phổ biến các văn kiện chính thức của chính quyền Pháp, tuy

nhiên sau này báo chí (nhất là báo chí cách mạng đã góp phần quan trọng

trong việc phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí, thức tỉnh ý thức dân tộc và

truyền thông văn hóa Việt Nam. Những nghiên cứu này đã cho thấy, giữa văn

hóa và báo chí có mối quan hệ qua lại với nhau, báo chí là một sản phẩm của

văn hóa báo chí quốc ngữ Việt Nam là sản phẩm ra đời trong lớp văn hóa

13

giao lưu với văn hóa phương Tây; đồng thời những sự thay đổi của văn hóa

cũng được phản ánh, truyền thông trên báo chí.

Ở góc độ báo chí học, giáo trình “Lịch sử báo chí Việt Nam” do GS.TS

Đỗ Quang Hưng PGS.TS Đào Duy Khoát; PGS.TS Vũ Duy Thông chủ biên,

sách “Về báo chí” của Hồ Chí Minh do Tạ Ngọc Tấn tuyển chọn và giới thiệu

đã chỉ ra: về căn bản, báo chí quốc ngữ là “con đẻ” của chế độ thuộc địa và

luôn bị chế độ này khống chế. Bởi vậy, lịch sử báo chí Việt Nam đồng thời

cũng là sự phản ánh của lịch sử cận đại Việt Nam, lịch sử văn hóa ngôn ngữ

(chữ quốc ngữ văn học, nghệ thuật… Việt Nam. Mặc d có đề cập tới quan

hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam nhưng những nghiên cứu này

chủ yếu đề cập đến những vấn đề có tính chất lịch sử của báo chí Việt Nam

trong buổi đầu của nó, những điều kiện ra đời của nền báo chí thuộc địa.

Văn hóa và báo chí luôn là mối quan hệ hai chiều, viết về mối quan hệ

này, bài nghiên cứu “Nhà báo – Chủ thể chính trị xã hội” của Th.S Trần Văn

Phương nằm trong cuốn “Những vấn đề về văn hóa, báo chí – truyền thông”

(Phạm Ngọc Trung chủ biên) đề cập tới báo chí giống như tấm gương phản

chiếu văn hóa qua đó văn hóa biết phải làm gì để bổ sung, chỉnh sửa chính

mình. Trong kỷ yếu “Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội nhập” (NXB

Thông tin và truyền thông, 2013) cũng đăng tải nhiều bài nghiên cứu đề cập

tới quan hệ giữa văn hóa và báo chí như: “Văn hóa truyền thông và truyền

thông có văn hóa” của GS. Hà Minh Đức, “Báo chí và văn hóa” của NB Phan

Quang, “Báo chí – truyền bá và sáng tạo văn hóa”- PGS.TS Vũ Duy Thông

Bàn về hàm lượng văn hóa và tính nhân văn của báo chí hiện nay” của

PGS.TS Nguyễn Văn Dững…Các bài nghiên cứu đều khẳng định mỗi dân tộc

đều có một nền văn hóa với bản sắc riêng, góp phần tạo nên sự bền vững của

dân tộc. Mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí được các tác giả nghiên cứu ở

nhiều góc độ khác nhau: chữ viết, nghệ thuật, giáo dục văn hóa nhà báo….,

14

từ đó chỉ ra rằng báo chí là một bộ phận cấu thành văn hóa đồng thời là

phương tiện thực thi, quảng bá văn hóa, tự thân sáng tạo những giá trị mới của

văn hóa. Do vậy, việc nhìn nhận đánh giá báo chí hay người làm báo đều

phải từ góc nhìn văn hóa.

Bài nghiên cứu “Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền thông” của

PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái đăng trên trang www.ajc.vn ngày

20 04 2015 cũng chỉ ra: ngay từ khi tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ra

đời văn hóa Việt Nam đã được nhận diện và truyền thông trên báo chí Việt

Nam. Bài nghiên cứu là một tư liệu quý, mang lại cho người đọc cái nhìn

tổng quan về quan hệ giữa nền văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam

[111]. Hay nghiên cứu “Một số vấn đề xung quanh khái niệm Văn hóa

truyền thông” của TS. Nguyễn Đức Hạnh không chỉ bàn về văn hóa và

những vấn đề văn hóa liên quan đến quá trình phát triển của đất nước và của

thời đại, mà còn bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và truyền thông. Tác giả

đã dựa trên quan điểm nghiên cứu những hoạt động truyền thông như một

hiện tượng về văn hóa để tìm hiểu các yếu tố trong toàn bộ quá trình hoạt

động truyền thông của xã hội loài người… Nghiên cứu đặt ra vấn đề phải

dùng lý thuyết về văn hóa hiểu được định nghĩa văn hóa Việt Nam thì mới

giải mã được nền báo chí Việt Nam, từ đó mới truyền thông văn hóa Việt

Nam một cách có văn hóa được.

Ngoài ra, rất nhiều sách của các tác giả như: “Việt Nam văn hóa sử

cương” của Đào Duy Anh; “Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam” của Vũ

Ngọc Khánh; “Văn hóa Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm” của Trần Quốc

Vượng; “Một cách tiếp cận văn hóa” của Phan Ngọc; “Văn hóa Việt Nam –

đặc trưng và cách tiếp cận” của Lê Ngọc Trà...cùng nhiều bài nghiên cứu

khác cũng đề cập tới sự ra đời của báo chí Việt Nam với tư cách là một sản

phẩm của văn hóa Việt Nam, có nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt.

15

1.2 Nghiên cứu vấn đề truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam trên

báo chí Việt Nam

Văn hóa nghệ thuật là một thành tố của văn hóa do vậy giữa văn hóa

nghệ thuật và báo chí đương nhiên cũng tồn tại mối quan hệ qua lại. Vấn đề

truyền thông VHNT Việt Nam trên báo chí Việt Nam cũng được nhiều tác giả

bỏ công sức ra để nghiên cứu. Trong sách “Báo chí Việt Nam từ khởi thủy tới

1945”, TS. Huỳnh Văn Tòng đã khẳng định, báo chí tạo ra những ảnh hưởng

lớn tới VHNT Việt Nam mà trước hết là văn học Việt Nam. Trong giai đoạn

đầu, hai tờ báo quan trọng nhất góp phần vào việc xây dựng nền văn học Việt

Nam là Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí khi thu hút được những

nhà văn nổi tiếng, tạo ra phong trào văn học có thể lôi kéo sự tham gia của

những nhà tri thức và giới trẻ Việt Nam say mê nền văn học quốc ngữ, dẫn

đến những ảnh hưởng đáng kể ở lĩnh vực văn chương. Cuốn sách này cũng

nghiên cứu quan hệ giữa báo chí Việt Nam với VHNT Việt Nam trong tiến

trình lịch sử đầy biến động cho tới năm 1945 [126, tr118].

Nghiên cứu về vấn đề truyền thông VHNT Việt Nam trên báo chí Việt

Nam, sách “Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945” của tác giả Đỗ Quang

Hưng đã đề cập tới vai trò của báo chí trong việc định hình, phát triển và

truyền thông VHNT Việt Nam kể từ khi giao lưu với văn hóa phương Tây.

Tác giả phân tích dưới sự điều khiển của Trương Vĩnh Ký Gia Định Báo –

tờ báo quốc ngữ đầu tiên đã có nhiều thay đổi quan trọng văn học nghệ thuật

được đăng tải với nội dung phong phú và khởi sắc hơn nhờ những bài khảo

cứu, nghị luận và thơ ca của các danh sĩ Nam kỳ như: Huỳnh Tịnh Của,

Trương Minh Ký… [61, tr28]. Hay tờ Nông cổ phím đàm tuy là tờ báo kinh tế

nhưng cũng dành tới 3 4 trang đăng tải truyện dịch, truyền dài, truyện ngắn,

mục Thi phổ đăng sáng tác mới văn học dân gian… . Chính tờ này là tờ báo

đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

16

Như vậy, truyền thông VHNT Việt Nam đã là nhiệm vụ được xác định ngay từ

khi ra đời của báo chí quốc ngữ Việt Nam.

Giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí” do PGS.TS Tạ Ngọc Tấn chủ biên

đã chỉ rõ: một trong những nhiệm vụ của báo chí là truyền đi các hoạt động

văn hóa văn nghệ, các hoạt động nghệ thuật một cách rộng khắp, trở thành

món ăn tinh thần cho cả xã hội, hàng ngày, hàng giờ tác động vào đời sống

tinh thần của xã hội Việt Nam hiện đại, từ đó góp phần nâng cao trình độ hiểu

biết đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi giải trí của nhân dân lao động. Giáo trình

bước đầu nghiên cứu sự phát triển của những loại hình truyền thông mới (ví

dụ như truyền hình) và cho rằng các loại hình mới mẻ này đã phá vỡ những

giới hạn trong truyền thông VHNT của những loại hình báo chí cũ ví dụ như

báo in). Ngoài việc tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận thông tin VHNT,

những loại hình truyền thông mới cũng tạo ra rất nhiều mặt trái khi truyền

thông về lĩnh vực này. Hay sách “Cơ sở lý luận báo chí” của PGS.TS Nguyễn

Văn Dững cho rằng, không chỉ truyền tải các giá trị văn hóa của dân tộc, báo

chí còn là những kênh truyền thông tạo cơ hội cho đông đảo nhân dân tham

gia giải trí thông qua những tin tức, những chương trình mang tính nghệ thuật,

giúp công chúng cân bằng trạng thái tâm lý và tái sản xuất sức lao động. [22,

tr.187-191]. Những tin tức giải trí này chính là những chuyên trang văn hóa –

giải trí trên báo in báo điện tử; các bản tin chương trình gameshow chương

trình ca nhạc, phim ảnh… trên phát thanh truyền hình… Như vậy, theo quan

điểm của các tác giả, báo chí có nhiệm vụ là là kênh truyền bá, phổ biến một

cách sinh động và hấp dẫn đời sống VHNT văn nghệ nhằm nâng cao trình độ

hiểu biết của công chúng và đáp ứng nhu cầu thưởng thức tin VHNT của nhân

dân. Tuy nhiên, trong những nghiên cứu này, các tác giả chỉ mới đề cập tới

quan hệ giữa VHNT với báo chí một cách chung chung, gợi mở chứ chưa

phân tích hay khảo sát thực nghiệm kĩ càng.

17

Luận văn Thạc sĩ của Trương Thị Bích Ngọc với đề tài “Văn hóa ứng xử

của các nhà báo trực tuyến đối với thông tin văn hóa nghệ thuật” cho thấy tình

trạng loạn thông tin VHNT trên báo trực tuyến. Luận văn này đã chỉ ra cách các

nhà báo tiếp cận khai thác đề tài và đưa thông tin về VHNT trên báo trực tuyến

hiện nay; Nghiên cứu tính đặc thù của báo trực tuyến trong thông tin VHNT so

với loại hình báo phát thanh, báo in, báo truyền hình; đưa ra định hướng để góp

phần giúp các nhà báo trực tuyến khai thác và cung cấp thông tin VHNT một

cách hiệu quả. Gần như có c ng một góc nhìn với Trương Thị Bích Ngọc, luận

văn của Trần Thị Như Quỳnh với đề tài: “Nghiên cứu thảm họa báo mạng

trong việc thông tin về văn hóa nghệ thuật (khảo sát báo điện tử Vietnamnet,

Vnexpress và Dantri năm 2011-2012 ” cũng phân tích đưa ra cái nhìn thực tế,

khách quan và chân thực về tình trạng bị tha hóa trong cách ứng xử của các nhà

báo khi tiếp cận thông tin VHNT đồng thời đưa ra những kinh nghiệm trong

việc ứng xử với thảm họa báo mạng và đề xuất mô hình quản lý một cách hợp

lý cho báo mạng điện tử Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai luận văn của các tác giả

trên mới nhìn nhận và phân tích các hiện tượng thông tin VHNT trên báo trực

tuyến ở góc độ nhà báo và ứng xử của họ chưa gắn vào đó các phân tích từ góc

nhìn văn hóa, vì vậy chưa đưa ra được cái nhìn khái quát và tổng thể nhất.

Có thể thấy, gần như không có mâu thuẫn giữa các nhà khoa học trong

việc định vị mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí cũng như nhiệm vụ truyền

thông văn hóa nghệ thuật của báo chí. Báo chí là một sản phẩm của văn hóa và

một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí là truyền thông về văn hóa.

Văn hóa Việt Nam có bao nhiêu vấn đề thì báo chí Việt Nam cũng có bấy

nhiêu vấn đề để thông tin. Chỉ khi báo chí Việt Nam ra đời thì mới có sự phản

ánh sinh hoạt văn hóa Việt Nam theo cách của phương Tây và trong toàn bộ

sinh hoạt ấy mặc nhiên có sinh hoạt về nghệ thuật, trong đó có sinh hoạt biểu

diễn của giới NSBD VN.

18

Những nghiên cứu về quan hệ giữa văn hóa và báo chí, về nhiệm vụ

truyền thông văn hóa nghệ thuật của báo chí đề cập ở trên là nền tảng lí luận,

cơ sở phương pháp luận cơ bản, quan trọng, gợi mở cho việc nghiên cứu vấn

đề thông tin về giới NSBD VN (một nội dung cụ thể của Văn hóa Việt Nam)

trên báo điện tử thế kỉ 21.

1.3 Nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí

Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào dùng thuật

ngữ “giới NSBD” nhưng trong rất nhiều tài liệu, bài viết, công trình nghiên

cứu trong nước và quốc tế đã ít nhiều đề cập tới giới NSBD theo nhiều cách

gọi khác nhau hoặc thông qua những “tập hợp” lớn hơn ngôi sao người nổi

tiếng người của công chúng...) mà giới NSBD là một “phần tử”.

Trong giới thuyết phạm vi nghiên cứu luận án, tác giả đã chỉ rõ trọng

tâm nghiên cứu của mình là thông tin về những nghệ sĩ tham gia vào các hoạt

động nghệ thuật biểu diễn hiện đại gắn liền với sự xuất hiện của công nghiệp

văn hóa cultural industry) ở hai lĩnh vực nổi bật nhất “nóng” nhất là: âm

nhạc và điện ảnh. Như vậy, giới NSBD mà luận án đề cập ở đây cũng ít nhiều

gắn liền với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của văn hóa đại chúng.

1.3.1 Các tài liệu quốc tế nghiên cứu vấn đề thông tin về giới NSBD trên báo chí

Một bộ phận các nhà nghiên cứu đã bày tỏ quan điểm phê phán mạnh mẽ

đối với văn hóa đại chúng bao gồm cả những NSBD trong thời đại công nghiệp

văn hóa.

Trong sách “Khai hóa văn minh và văn hóa thiểu số”, FR.Leavis đã

đứng trên lập trường của văn hóa tinh hoa elite culture để chỉ trích văn hóa

đại chúng. Ông cho rằng văn hóa đại chúng là tầm thường, nhằm mục đích

giải trí phàm tục khi phục vụ cho đại chúng có văn hóa thấp. Thương mại hóa

điều gắn liền với công nghiệp văn hóa và văn hóa đại chúng theo quan điểm

của nhà nghiên cứu này, là mối hiểm họa lớn của văn hóa.

19

C ng quan điểm với Leavis hai đại diện tiêu biểu của trường phái

Frankfurt là Max Horkheimer và Theodor trong bài tiểu luận kinh điển “Công

nghiệp văn hóa – Biện chứng của thời đại khai sáng” được công bố vào năm

1947 đã cho rằng văn hóa đã bị thương phẩm hóa được mua bán và trao đổi.

Nói cách khác văn hóa đã trở thành một sản phẩm hàng hóa. Trong nền văn

hóa công nghiệp mà văn hóa đại chúng được chứa đựng trong đó thì các

nguyên tắc thương nghiệp đã thay thế, lấn át các nguyên tác về nghệ thuật,

điều này khiến các tác phẩm văn hóa nghệ thuật trở nên tầm thường, không

còn mang các giá trị nghệ thuật nữa. Các học giả trường phái Frankfurt nhấn

mạnh văn hóa đại chúng là sự lừa dối, chế ngự đại chúng công khai của chủ

nghĩa cực quyền trong xã hội tư bản chủ nghĩa thông qua các hoạt động giải

trí; bởi thế, công chúng lúc này là những người tiêu thụ thụ động, không còn

óc phê phán trước sự thuyết phục của các phương tiện TTĐC.

Rất nhiều những tác phẩm nghiên cứu sau này cũng chỉ ra những khía

cạnh tiêu cực của văn hóa đại chúng và những NSBD các loại hình văn hóa

nghệ thuật đại chúng. Trong tiểu luận “The crisis in Culture” Sự khủng

hoảng trong văn hóa , tác giả Hannah Arendt khẳng định, truyền thông trong

nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến sự áp đặt của giải trí đối với văn hóa [162].

Hay MacDonald trong trong bài nghiên cứu “A theory of Mass Culture” in

trong sách “Mass culture” Văn hóa đại chúng đã nhìn nhận rằng văn hóa đại

chúng là một thứ văn hóa hời hợt, thiển cận. Sự phát triển của văn hóa đại

chúng qua một thời gian có thể khiến công chúng hướng tới những sản phẩm

văn hóa dễ dãi [174].

Không chỉ có Leavis, những học giả của trường phái Frankfut, hay

MacDonald, Hannah Arendt...mà rất nhiều các nhà nghiên cứu khác cũng có

cái nhìn thiếu tích cực khi đề cập tới khuynh hướng và sự phát triển của văn

hóa đại chúng và công nghiệp văn hóa. Trong đó phê phán sự thương phẩm

20

hóa nghệ thuật, sự hạ thấp và lấn át các giá trị nghệ thuật bằng giá trị tiêu

dùng của hàng hóa; sự lừa dối của chủ nghĩa tư bản, sự chế ngự của chủ nghĩa

cực quyền khi thông qua văn hóa đại chúng và những nghệ sĩ biểu diễn văn

hóa nghệ thuật đại chúng để lừa dối và chế ngự đại chúng. Trong xã hội hiện

đại văn hóa đại chúng ngày càng xuống cấp khi vì đặt mục đích lợi nhuận lên

cao nhất, những tin tức thời sự đã bị thay thế bằng các thông tin giải trí,

chương trình truyền hình, show thực tế...; trên mặt báo những thông tin về các

ngôi sao giải trí, những nghệ sĩ nổi tiếng nhờ tai tiếng hơn là nhờ thành tựu

biểu diễn nghệ thuật của chính họ, những hình ảnh thiếu vải của những người

được gọi là người của công chúng... đã thay thế cho những tin tức văn hóa

nghệ thuật chính thống.

Trái ngược với các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Frankfut hay

Leavis, MacDonald...., không ít nhà nghiên cứu có cái nhìn tích cực và cởi mở

hơn về văn hóa đại chúng cũng như công nghiệp văn hóa. Tiêu biểu nhất cho

luồng quan điểm này phải kể đến Raymond Wiliams – nhà nghiên cứu thuộc

trường phái Birmingham. Ông cho rằng văn hóa đại chúng không chú trọng

đến tính kinh điển mà hướng tới tính sáng tạo của công chúng trong quá trình

tiếp nhận và hưởng thụ các sản phẩm văn hóa công nghiệp đồng thời bày tỏ sự

bất đồng trong việc phân chia văn hóa thành văn hóa cấp thấp và cấp cao. Ông

muốn loại bỏ sự khác biệt giữa nghệ thuật cao cấp và văn hóa đại chúng.

Raymond và các đại diện của trường phái Birmingham khẳng định, nghiên cứu

văn hóa không chỉ bị giới hạn trong sản phẩm văn hóa mà còn là toàn bộ quá

trình từ sản xuất tới phân phối và tiêu thụ sản phẩm văn hóa.

Trong sách “Mass media and Popular culture”, K. Tunner [173] nhấn

mạnh tới mối quan hệ cộng sinh phụ thuộc lẫn nhau giữa văn hóa đại chúng

và truyền thông đại chúng. Điều này được chứng minh một cách rõ nét với sự

xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng

21

như phát thanh truyền hình internet… vào thế kỉ XX, tạo tiền đề cho sự phát

triển của xã hội thông tin trong kỷ nguyên số ở thế kỉ XXI. Mối liên kết chặt

chẽ giữa văn hóa đại chúng và truyền thông đại chúng đã dẫn tới sự xuất hiện

của văn hóa truyền thông đại chúng (media culture), với đặc trưng cơ bản là chịu

sự chế định của các phương tiện TTĐC. Văn hóa đã tiếp biến thay đổi từ đọc

sang nghe nhìn, từ bút mực sang báo mạng, từ văn hóa tinh hoa sang văn hóa

tiêu dùng, vận hành theo logic của kinh tế thị trường.

Năm 1995, trong “Media culture” Văn hóa truyền thông) [149], GS

Douglas Kellner đã đặt văn hóa truyền thông trong mối quan hệ với đời sống

chính trị xã hội; nghiên cứu những vấn đề chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại

trong văn hóa xã hội và truyền thông. Cùng với Douglas, hàng loạt công trình

nghiên cứu trong thập kỉ 80, 90 của thế kỉ XX cũng đề cập tới những vấn đề

đa dạng của văn hóa đại chúng đối với toàn bộ đời sống xã hội ở Tây Âu điển

hình như: “Truyền thông văn hóa và xã hội” (Collins, 1986); “Văn hóa truyền

thông đại chúng: đánh giá về truyền thông đa quốc gia” (Skovmand &

Schroder, 1992); Nghề làm báo và văn hóa đại chúng (Gripsrud, 1992);

“Hiểu biết về văn hóa truyền thông đại chúng” Stevenson 2002 …

Đến thế kỉ XXI, khi Philip Kotler nghiên cứu về truyền thông và

marketing trong kỉ nguyên số đã chỉ ra trong sách “Marketing 4.0, moving from

traditional to digital” [181] rằng: trong kỷ nguyên số, chủ thể truyền thông

phải truyền tải thông tin tới công chúng theo quy tắc hàng ngang (hoàn toàn với

quy tắc truyền taỉ thông tin theo hàng dọc trước đây và phải được sự chấp

nhận của công chúng. Bằng những nghiên cứu về công chung mục tiêu, Kotler

đã chứng minh văn hóa truyền thông trong kỉ nguyên số đã hoàn toàn thay đổi;

chỉ ra được mối quan hệ giữa doanh nghiệp – văn hóa đại chúng và truyền

thông; đồng thời lí giải được vì sao ngày nay người nổi tiếng lại xuất hiện trên

truyền thông như các công cụ quảng cáo hữu hiệu cho các doanh nghiệp.

22

Từ các nghiên cứu đề cập ở trên có thể thấy: văn hóa đại chúng và giới

NSBD là những thuật ngữ xuất phát từ phương Tây ra đời bởi tác động từ sự

hình thành và phát triển mạnh mẽ của các phương tiện TTĐC mới. Khi hướng

trọng tâm nghiên cứu sâu hơn vào đối tượng nghiên cứu là giới NSBD, nhiều

nhà nghiên cứu đã nhìn nhận và phân tích về giới này như một hiện tượng của

truyền thông hiện đại.

Sách “The Image: A Guide to Pseudo-Events in America” của Daniel

Broostin đã đưa ra khái niệm về người nổi tiếng “Người nổi tiếng là người

nổi tiếng vì sự nổi tiếng của họ” [144, tr.49]. Tác giả cho rằng: “Người hùng

tự tạo ra chính mình, còn người nổi tiếng do truyền thông tạo ra”. [144,

tr.61]. Trong “thành phần” của người nổi tiếng (celebrity) của Daniel bao

gồm cả những “ngôi sao” - diễn viên điện ảnh ca sĩ người mẫu... (Giới

NSBD), và Daniel cho rằng sự nổi tiếng của họ được tạo ra nhờ truyền thông,

nhờ sự xuất hiện của họ trên truyền thông, khi truyền thông bắt đầu chuyển

mối quan tâm từ những thành tựu nghề nghiệp của họ sang thông tin về đời

sống riêng tư của họ. Ví dụ như, một ca sĩ một diễn viên điện ảnh sẽ trở

thành “ngôi sao” khi công chúng thấy rằng đời sống thường ngày của họ hấp

dẫn hơn bài hát hay vai diễn. Ở nghiên cứu của mình Daniel đã khẳng định

giữa Người nổi tiếng (celebrity) và báo chí là quan hệ truyền thông, và chỉ khi

có truyền thông thì những ca sĩ diễn viên người mẫu…mới trở thành người

nổi tiếng. Ông đã phân tích quan hệ này, soi chiếu nó từ góc nhìn văn hóa

phương Tây để đánh giá mức độ phù hợp của thông tin về người nổi tiếng trên

báo chí đối với văn hóa xã hội phương Tây tuy nhiên phần lớn dung lượng

của cuốn sách, Daniel nhấn mạnh hơn vào vai trò của truyền thông hiện đại

trong việc tạo ra “Người nổi tiếng”.

Sách “Understanding Celebrity (2004), tác giả Graeme Turner

Australia đã chỉ ra: “Những người nổi tiếng có thể nhìn thấy trên các phương

23

tiện truyền thông, thường xuất hiện từ các ngành thể thao hoặc giải trí, và cuộc

sống riêng tư của họ thu hút sự chú ý bằng hoặc thậm chí lớn hơn hoạt động

nghề nghiệp của họ” [161, tr3]. Turner cho rằng người nổi tiếng là một hiện

tượng độc đáo của truyền thông hiện đại. Một mặt người nổi tiếng là những

người “phi thực” bởi họ dường như không tồn tại “thật” mà công chúng biết

tới họ thông qua những tác phẩm nghệ thuật như MV ca nhạc, phim ảnh… đó

có thể coi là sự cộng dồn của vô số hình ảnh đại chúng. Nhưng mặt khác, họ lại

cực kì bình thường, bởi họ cũng là một con người cũng kết hôn sinh con cũng

đối mặt với đủ vấn đề đủ chuyện hỉ nộ ái ố của cuộc đời, bị chồng bỏ, bị

nghiện, bị cưỡng hiếp… Nhưng chính những thông tin “hậu trường” ấy, những

thông tin về cuộc sống đời thường của những “ngôi sao” lại khiến công chúng

càng thêm kích thích hơn muốn tìm hiểu hơn về những “idol” thần tượng của

mình. Turner trong nghiên cứu của mình đã tập trung chỉ ra lý do vì sao mà các

“ngôi sao” lại có sức hút lớn như vậy đối với độc giả báo chí.

Cũng giống như Turner sách “Simulacra and Simulation, The

University of Michigan Press” của Jean Baurdrillard đã đề cập tới vì sao mà

những người nổi tiếng, những nghệ sĩ ca sĩ diễn viên khi xuất hiện trên mặt

báo lại “hot” lại trở thành tâm điểm chú ý. Chính là sự tò mò, họ đặc biệt hay

cũng chỉ bình thường? Họ nổi tiếng nhờ thực lực hay chỉ là ăn may? Họ là

thiên tài hay là “hàng giả”? Công chúng sẽ cảm thấy như thế nào khi bắt gặp

một người nổi tiếng, một ca sĩ một diễn viên... đi trên đường thay vì đi trên

thảm đỏ, mặt mộc thay vì trang điểm? [167, tr.81].

Trong nghiên cứu “Celebrity Journalism: navigating the Stars”,

Nathan Farrrell cho rằng, trong xã hội hiện đại, những ngôi sao luôn có mối

liên kết với các doanh nghiệp và truyền thông. Họ giống như những sản phẩm

hàng hóa được sản xuất và tiêu thụ trên thị trường, có thể được mua bởi các

doanh nghiệp và được rao bán, quảng cáo trên các phương tiện TTĐC. Nathan

24

cũng đề cập tới thuật ngữ “tabloid” báo lá cải như một hiện tượng tất yếu

của truyền thông hiện đại. Những tờ báo lá cải kết nối các “ngôi sao” với

công chúng không chỉ bằng hoạt động nghề nghiệp của họ mà bằng cả những

câu chuyện hậu trường đời tư của họ. Đó là nhu cầu tự thân của các ngôi sao,

công chúng và cả chính các trang báo khi các ngôi sao được coi là thực thể

sinh lợi cho tòa soạn). Điều này dẫn tới những thách thức rất lớn cho cái gọi

là đạo đức báo chí [179].

Giáo sư luật Robin Barnes trong sách “Outrageous Invasions:

Celebrities’s Private Lives, Media, and the Law” (tạm dịch: những cuộc xâm

phạm thái quá: cuộc sống riêng tư của người nổi tiếng, Truyền thông và Pháp

luật đã cho rằng, thông tin về những nghệ sĩ những người nổi tiếng đã được

đăng tải tràn lan trên báo chí truyền thông mà không có sự chọn lọc. Đó là

những bài báo “lá cải” theo kiểu “vạch áo cho người xem lưng” xâm phạm

thái quá vào đời sống những người nổi tiếng. Công dân của Hoa Kỳ và Liên

minh châu Âu được bảo đảm quyền bảo vệ hiến pháp để an toàn, bảo mật và

tự do thể hiện bản thân, tuy nhiên Barnes khẳng định, các quyền này của

những người nổi tiếng, những “ngôi sao” của Mỹ thường xuyên bị truyền

thông vi phạm [183].

Jamie Berkovitz trong bài viết “Loss of Privacy the price of fame for

Celebs” đăng trên trang articles.sun-sentinel.com ngày 14/10/2005 [190], hay

Benjamin SiuJocelyn Heng trong “Do celebrities deserve privacy?” – bài viết

đăng trên trang www.scmp.com ngày 11/10/2006 [164] đã phân tích ảnh

hưởng của những thông tin đăng tải trên truyền thông đối với những “ngôi

sao”. Họ cho rằng, những ngôi sao như Linsay Lohan Anna Hathaway, Brad

Pitt Paris Hilton… chỉ đến với công chúng bằng các sản phẩm nghệ thuật.

Đời sống của họ, tính cách của họ, ứng xử của họ - giống như bất cứ người

nào khác, không phải là hoàn hảo, và có những chuyện họ muốn nó là của

25

riêng mình. Tuy nhiên đôi khi các tay săn ảnh, những PV lại luôn cố gắng tạo

ra những câu chuyện từ sự không hoàn hảo đó từ sự riêng tư đó để hấp dẫn

độc giả. Những tin tức lá cải - đôi khi đó là sự vô ý, cẩu thả của người nổi

tiếng, và nhiều khi là sự cố ý của truyền thông hiện đại để chiều lòng độc giả

nhằm tăng số lượng lưu hành báo.

Tờ “USA Today” tháng 3 2009 từng đăng tải bài viết của Erik Braday

và Sterve Dimeglio - “Người của công chúng đáng được hưởng bao nhiêu sự

riêng tư?”(How much privacy do public figures deserve?) khi vụ ngoại tình

của “ông vua golf” Tiger Woods bị phát hiện và phanh phui trên báo chí.

Tiger phải lên tiếng cầu xin “sự riêng tư” như của một con người bình thường.

USA Today đã trích lời ông Mike Paul - chuyên gia quan hệ công chúng và

giải quyết khủng hoảng làm việc tại New York - rằng đã là người nổi tiếng

thì cần phải chấp nhận sự phơi bày riêng tư ấy. “Tin tốt là anh được trả rất

nhiều tiền. Tin xấu là: Sự riêng tư ư? Anh đùa đấy à? Nó tự đi ra ngoài cửa

sổ mất rồi”. Bài viết cho thấy sức hút của người nổi tiếng cũng như sức hút

những chuyện riêng tư liên quan tới người nổi tiếng lớn như thế nào, cách

truyền thông đăng tải những thông tin này ra sao, và ảnh hưởng của những

thông tin này tới những người nổi tiếng là gì? [153]

Các nhà nghiên cứu ở Hàn Quốc – quốc gia với làn sóng văn hóa đại

chúng (pop culture) mạnh mẽ, tràn sang cả các quốc gia khác trong đó có Việt

Nam – đã nghiên cứu khá nhiều về những ca sĩ nghệ sĩ thần tượng của quốc

gia này và sự lan tỏa ảnh hưởng của họ trên truyền thông, báo chí. Sách “The

Korean Wave: Korean Media Go Global” (Làn sóng Hàn Quốc: truyền thông

Hàn Quốc hướng tới toàn cầu, Nxb Routledge, 2013) của tác giả Youna Kim

đã nghiên cứu về hiện tượng làn sóng văn hóa đại chúng Hàn Quốc trong kỉ

nguyên internet toàn cầu. Sự phát triển và lan tỏa của làn sóng văn hóa đại

chúng Hàn Quốc (phim ảnh, âm nhạc, thời trang… gắn liền với sự phát triển

của truyền thông internet và truyền thông kĩ thuật số. Những nghệ sĩ Hàn

26

Quốc hiểu được rằng, công chúng trẻ tuổi – những công dân toàn cầu có khả

năng sử dụng internet – là công chúng chính của họ. Do đó nghệ sĩ Hàn Quốc

xây dựng những chiến lược truyền thông (chứ không chỉ đơn giản là chiến

lược hoạt động nghệ thuật) phù hợp với thói quen truyền thông (media habit)

của những nhóm công chúng ở các quốc gia khác nhau nhằm chinh phục họ.

Bài nghiên cứu “Hybridity and the rise of Korean popular culture in

Asia” Sự lai căng và trỗi dậy của văn hóa đại chúng Hàn Quốc ở châu Á) của

tác giả Doobo Shim (2006) đã chỉ ra rằng: sự phát triển mạnh mẽ của truyền

thông đã tạo cơ hội để làn sóng Hàn Quốc lan rộng tới các khu vực Đông và

Đông Nam Á. Thông qua nghiên cứu gần đây về bước “nhảy vọt” của truyền

thông Hàn Quốc, bài nghiên cứu phản biện lại luận điểm thống trị của Mỹ về

toàn cầu hóa. Mặc dù phim ảnh và truyền hình là phát minh của phương Tây

nhưng người Hàn đã tạo những đặc trưng của riêng họ để truyền bá trên

truyền thông dựa trên yếu tố văn hóa bản địa đặc sắc. Ở đây Shim muốn nhấn

mạnh rằng sự pha trộn khéo léo và tôn vinh những giá trị văn hóa Hàn Quốc

truyền thống chính là yếu tố tạo ra nét đặc sắc riêng cho văn hóa đại chúng

Hàn Quốc trên truyền thông trong quá trình toàn cầu hóa văn hóa. Nói cách

khác, nghệ sĩ Hàn Quốc có nhiệm vụ truyền thông văn hóa Hàn Quốc tới công

chúng của các quốc gia khác.

Có thể thấy, các nghiên cứu về văn hóa đại chúng, TTĐC, giới NSBD

trên thế giới phần lớn đều được tiếp cận từ góc độ đa ngành báo chí truyền

thông văn hóa xã hội học, lịch sử, triết học… bàn luận đến những vấn đề

của văn hóa TTĐC ở nhiều khía cạnh khác nhau, tập trung vào các nội dung:

báo chí và NSBD có mối quan hệ với nhau, vai trò của NSBD trên truyền

thông ngày càng lớn và ngược lại, sức hút của NSBD với công chúng, và cái

giá phải trả của NSBD khi nổi tiếng nhờ truyền thông… Tuy nhiên, các công

trình nghiên cứu, mô hình và lí giải mà các nhà nghiên cứu trên đưa ra khó có

27

thể áp dụng vào một môi tường với những đặc trưng văn hóa khác biệt như

Việt Nam. Do đó thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn

hóa Việt là vấn đề nóng, cấp thiết cần phải được đặt ra và nghiên cứu một cách

nghiêm túc.

1.3.2 Nghiên cứu vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo chí Việt Nam

Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa đại chúng

nói chung và giới NSBD VN nói riêng. Ở mức độ nhất định, các công trình

này cũng đã đề cập tới vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo chí từ

nhiều khía cạnh khác nhau.

Sách “Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh

tế thị trường và toàn cầu hóa” do PGS.TS Đặng Thị Thu Hương làm chủ biên

đã đề cập đến khá nhiều những vấn đề của văn hóa đại chúng văn hóa truyền

thông đại chúng và những tác động của nền kinh tế thị trường toàn cầu tới văn

hóa truyền thông đại chúng trên thế giới và Việt Nam. Sử dụng tới 3001 mẫu

tại 7 tỉnh và thành phố, nhóm nghiên cứu đã thực hiện điều tra xã hội học tập

trung vào việc tìm hiểu thực trạng sử dụng các phương tiện TTĐC của công

chúng đo lường mức độ và phạm vi tác động của TTĐC tới đời sống, thói

quen của công chúng đo lường đánh giá của công chúng về chất lượng các

sản phẩm văn hóa trên các phương tiện TTĐC… Nghiên cứu đã chỉ ra những

biến đổi của công chúng hiện đại trong văn hóa thời gian rảnh rỗi và sự hình

thành các văn hóa giải trí mới; sự thay đổi trong tiêu d ng văn hóa và văn hóa

tiêu d ng dưới ảnh hưởng của văn hóa TTĐC; thừa nhận việc giao lưu văn

hóa và hội nhập quốc tế là điều kiện rất cần thiết và là xu thế tất yếu… Nhóm

nghiên cứu cũng đã nghiên cứu văn hóa đại chúng ở một số quốc gia như:

Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Có những quốc gia, nền văn hóa và

văn hóa đại chúng rất gần Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản. Nghiên cứu

đã chỉ ra các yếu tố mang lại sự thành công cho văn hóa đại chúng cũng như

28

hoạt động truyền thông đại chúng cho nền văn hóa đại chúng ở các quốc gia

này. Rất nhiều những kết quả nghiên cứu trong cuốn sách này được tác giả kế

thừa và vận dụng vào trong luận án tiến sĩ của mình [59].

Trong Luận văn thạc sĩ “Hình ảnh người nổi tiếng trên báo chí và việc

hình thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam”, tác giả Lê Thị Phước Thảo

thông qua việc khảo sát báo Tuổi trẻ và báo Tiền phong từ tháng 3/2014 tới

tháng 3 2015 đã chỉ ra thực trạng việc phản ảnh về người nổi tiếng (giới

showbiz) hiện nay trên báo chí đang có thành công và hạn chế gì, những ảnh

hưởng và tác động động thông tin về người nổi tiếng trên báo in đối với công

chúng nói riêng và việc hình thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam. Luận văn

tập trung vào nghiên cứu thông tin về người nổi tiếng trên loại hình báo in và

những tác động của nó tới công chúng trẻ chưa nghiên cứu cụ thể đối tượng

giới NSBD trên loại hình báo điện tử.

Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Ngọc Nga đề tài “Báo mạng điện tử

với việc đưa tin về người nổi tiếng nhờ mạng xã hội: Nghiên cứu trường hợp

Lệ Rơi (Khảo sát báo điện tử Zing.vn, dân việt và Tuổi trẻ online từ ngày

1/6/2014 – 31/12/2014) đã đề cập đến lí thuyết chung về báo mạng điện tử, về

mạng xã hội (MXH) cũng như cách thức của việc báo mạng điện tử đăng tải

thông tin về đời tư người nổi tiếng nhờ MXH đến với công chúng như thế

nào; và thông tin ấy nó tác động gì đến công chúng; tuy nhiên tác giả mới chỉ

dừng lại ở việc phân tích một trường hợp cụ thể của ca sĩ Lệ Rơi – một người

nông dân trở thành một hiện tượng của MXH và truyền thông nhờ vào những

bài hát với tất cả sự thật thà, quê mùa thô kệch của mình.

Luận văn Thạc sĩ “Truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn

trên báo điện tử” của tác giả Lê Thị Thúy Hà đã hệ thống lý luận về nghệ

thuật biểu diễn đồng thời so sánh đánh giá về việc báo mạng đưa thông tin

về các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống so với các loại hình biểu

29

diễn nghệ thuật hiện đại, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao

chất lượng truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử.

Tuy nhiên tác giả mới tập trung vào phân tích nội dung truyền thông như một

hiện tượng mà chưa đánh giá hiện tượng này ở những lớp lang sâu hơn như

nhà báo hay những nghệ sĩ biểu diễn các hoạt động nghệ thuật biểu diễn này

từ góc nhìn văn hóa Việt.

Luận văn Thạc sĩ “Xử lý thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo

mạng điện tử hiện nay” (Khảo sát báo điện tử Vietnamnet, Vnexpress và VTC

News) của tác giả Nguyễn Linh Có là công trình nghiên cứu gần sát nhất với

nội dung nghiên cứu trong Luận án này. Nguyễn Linh Có đã phân tích các

yếu tố tác động đến việc báo mạng điện tử khai thác thông tin về đời tư của

giới ca sĩ chỉ ra một số quy định về “quyền đối với bí mật thông tin đời tư”

của một số quốc gia trên thế giới, phân tích thực trạng việc xử lý thông tin về

đời tư của giới ca sĩ trên diện khảo sát là ba tờ báo mạng là Vietnmanet,

Vnexpress và VTC news, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng

thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo mạng điện tử Việt Nam. Thông qua

khảo sát thực tế, tác giả Nguyễn Linh Có đã phân tích thực trạng và làm rõ

nguyên nhân, hạn chế của việc xử lý thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo

mạng điện tử hiện nay. Tuy nhiên đúng như tên gọi của luận văn tác giả mới

chỉ tập trung phân tích vào đối tượng là ca sĩ chưa đề cập đến vấn đề đăng tải

thông tin về giới NSBD nói chung trong đó có ca sĩ trên loại hình báo điện

tử chưa phân tích và lí giải nó từ góc nhìn văn hóa Việt.

Một số các công trình khóa luận, luận văn Thạc sĩ luận án Tiến sĩ báo

chí… như: Khóa luận “Vấn đề thông tin về đời tư nghệ sĩ trên báo mạng hiện

nay” của Ngô Thị Quỳnh Hoa; Khóa luận “Thông tin văn hóa – giải trí trên

báo trực tuyến Vnexpress, Vietnamnet, VTC news” của Nguyễn Thị Hồng…

cũng đã đề cập tới vấn đề thông tin về giới NSBD trên báo chí.

30

Bên cạnh đó có khá nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đơn lẻ liên

quan tới văn hóa đại chúng và vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử.

Bài nghiên cứu “Ảnh hưởng của mạng internet tới văn hóa đại chúng”

của ThS. Hoàng Thị Thu Hà đăng trên sách Văn hóa truyền thông trong thời

kì hội nhập (NXB Thông tin và Truyền thông 2013 đã nghiên cứu những

ảnh hưởng của internet tới văn hóa đại chúng đặc biệt là tới thói quen tiếp

nhận và nhu cầu thông tin về người nổi tiếng trong các lĩnh vực âm nhạc và

phim ảnh. Tác giả cho rằng người nổi tiếng là mảnh ghép cơ bản trong bức

tranh về văn hóa đại chúng và hẳn nhiên có những tác động tới “tinh thần”

của xã hội. Nghiên cứu gợi mở những thay đổi trong vai trò của TTĐC đối

với sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại và tác giả kế thừa điều này

trong luận án của mình.

Bài nghiên cứu “Một số vấn đề về truyền thông đại chúng, văn hóa đại

chúng và văn hóa truyền thông trong kỷ nguyên Kỹ thuật số” của PGS.TS

Đặng Thị Thu Hương đăng trên sách Văn hóa truyền thông trong thời kì hội

nhập (NXB Thông tin và Truyền thông, 2013) đã hệ thống lại quan điểm của

các trường phái nghiên cứu truyền thông nổi bật trong thế kỉ XX để từ đó tìm

hiểu về mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa truyền thông đại chúng văn

hóa đại chúng và văn hóa truyền thông; về những tác động của truyền thông

đại chúng đối với công chúng từ nhận thức, hành vi cho tới lối sống; đặt vấn

đề về vai trò và trách nhiệm của TTĐC Việt Nam trong việc giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa Việt trong thời kỳ hội nhập văn hóa toàn cầu đồng thời

khẳng định không thể đánh đồng văn hóa đại chúng với khuynh hướng

thương mại hóa, tầm thường hóa và dung tục hóa nền văn hóa. Nghiên cứu

này là gợi mở về mặt lý luận cho tác giả nghiên cứu các vấn đề đặt ra trong

luận án của mình.

31

Một số bài nghiên cứu khác đã được công bố liên quan tới vấn đề văn hóa

đại chúng và thông tin về giới NSBD trên báo chí cũng của tác giả Đặng Thị Thu

Hương như: “Hallyu and its effect on young Vietnamese” (Làn sóng văn hóa

Hàn Quốc và ảnh hưởng của nó tới giới trẻ Việt Nam, Korea Herald, 2009);

“Ngoại giao văn hóa và thông tin đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế”

(Tạp chí Người làm báo 2009 …phản ánh khá đa dạng những vấn đề lý luận và

thực tiễn về văn hóa đại chúng, truyền thông đại chúng văn hóa truyền thông đại

chúng Việt Nam trong kỷ nguyên số, ảnh hưởng của truyền thông Hàn Quốc

thông qua TTĐC tác động tới giới trẻ Việt Nam…Mặc dù vậy, các bài nghiên

cứu này chưa hệ thống hóa, nghiên cứu và phân tích toàn diện hoạt động truyền

thông văn hóa Việt Nam trên báo chí Việt Nam từ góc nhìn văn hóa Việt, vì vậy

chưa đề xuất được những giải pháp mang tính chiến lược và toàn diện.

Trong bài nghiên cứu “Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền thông”

đăng trên trang www.ajc.vn ngày 20/4/2015, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái

đã từ góc nhìn văn hóa Việt hôm nay chỉ rõ những vấn đề tiêu cực (lỗi văn

hóa), những lệch chuẩn thẩm mỉ và lỗi văn hóa của BCTT trong việc truyền

thông về văn hóa. Tuy nhiên, trong giới hạn khuôn khổ một bài nghiên cứu,

tác giả mới chỉ đề cập tới việc truyền thông văn hóa Việt trên báo chí nói

chung chưa đi vào phân tích cụ thể nội dung thông tin về giới NSBD VN trên

loại hình báo điện tử [111].

“Về việc ủy thác tính giải trí cho truyền thông”, bài nghiên cứu của TS

Nguyễn Thị Thu Giang đăng trên trang cá nhân của tác giả vào năm 2011

cũng đưa ra những nhìn nhận đánh giá trước sự ngập tràn của thông tin giải

trí với những trò “câu view” mà tác giả gọi là “rẻ tiền” từ việc đăng tải thông

tin của người nổi tiếng trên mặt báo. Cho rằng có “cầu” mới có “cung” tác

giả đã đứng ở cả khía cạnh công chúng độc giả, nhà báo lẫn cả những người

được đăng tải thông tin để phân tích. Nhà báo có nhu cầu “tăng view” công

32

chúng có nhu cầu “nhìn trộm nghe lén” để thỏa mãn tò mò còn người nổi

tiếng – họ có nhu cầu được nổi tiếng hơn. Chính vì những “nhu cầu” này từ cả

ba phía mà “Từ lúc nào không biết, người Việt Nam đã chìm đắm vào một cả

một vùng biển ngập sâu của sự-giải-trí trong thời đại thông tin, nơi gần như

không thể phân định nổi đâu là gà, đâu là trứng” [37].

Cũng là TS. Nguyễn Thu Giang, trong tiểu luận “Hiện tượng người nổi

tiếng và chức năng xã hội của nó” đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc

gia Quý 3/2011, tác giả đã xem xét hiện tượng người nổi tiếng (bao gồm cả

giới NSBD trên các phương tiện TTĐC trong bối cảnh xã hội Việt Nam dưới

sự quy chiếu của lý thuyết nghiên cứu văn hóa truyền thông. Bài viết đã

khẳng định 3 chức năng xã hội của người nổi tiểng gồm: Cân bằng nhu cầu

giao tiếp của người đô thị; cung cấp sự đa dạng về căn tính văn hóa và củng

cố ý thức hệ. Từ chức năng rất giản dị trong đời sống xã hội như cân bằng

giao nhu cầu giao tiếp của người đô thị, người nổi tiếng còn củng cố ý thức hệ

cho công chúng. Tác giả lí giải sức hút của “Người nổi tiếng” trên các phương

tiện TTĐC là bởi họ gần như phi thực, vừa thực lại vừa không thực, vừa được

thần tượng hóa lại vừa bị tầm thường hóa. Chính vì sự đan xen đó trong thế

giới ảo nên công chúng luôn tò mò và thích tìm hiểu về những khoảnh khắc

đời thường, những sự cố “lộ hàng” những hành động hớ hênh, thậm chí cả

những chuyện mang tính riêng tư của người nổi tiếng. Và nhà báo – luôn sẵn

lòng săn và cung cấp những thông tin này để chiều lòng công chúng. [38].

Ngoài ra tác giả cũng tìm thấy rất nhiều những đánh giá phân tích về

vấn đề truyền thông văn hóa và thông tin về giới NSBD VN trên gần 100 bài

báo khác nhau trên báo điện tử như: “Playboy hóa báo chí?” của tác giả

Nguyên Minh đăng trên Báo Thể thao&Văn hóa số ra ngày 31/3/2011; Loạt

bài viết cũng của PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái đăng tải trên trang

www.news.zing.vn: “Không nên bênh vực Hồ Ngọc Hà” - ngày 22/2/2016,

33

“Kỳ Duyên nên trả lại vương miện bằng lòng tự trọng” - ngày 14/7/2016,

“Khi hình thể lên ngôi, nội tâm bị xem nhẹ” – ngày 30/08/2016. Những bài

viết này có dung lượng vừa phải, phân tích nguyên nhân và bản chất của

những “thảm họa thông tin” về giới NSBD VN nói riêng và thông tin về

VHNT Việt Nam nói chung đưa ra những cảnh báo hậu quả của cách đưa

thông tin như vậy và đã đề ra một số giải pháp giải quyết thực trạng mang tính

tích cực. Tuy nhiên các bài viết này chỉ mang tính gợi mở hoặc trao đổi về

một khía cạnh nhỏ của vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo chí; phần

lớn đều phân tích hoặc đưa ra kết luận dựa trên hiện tượng được phản ánh chứ

chưa dựa trên nền tảng lý luận hay nghiên cứu thực nghiệm đáng tin cậy nào.

Có thể thấy, mặc dù ít nhiều đề cập tới giới NSBD tuy nhiên chưa có

bất cứ một luận án, luận văn khóa luận hay công trình nào nghiên cứu sâu vấn

đề thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt, dựa

trên cơ sở văn hóa Việt Nam để nhìn nhận và phân tích các chủ thể (nhà báo,

giới NSBD và công chúng tiếp nhận thông tin) trong quá trình thông tin.

1.3.3 Đánh giá chung tình hình nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam trên báo chí Việt Nam

Khảo cứu cho thấy, vấn đề thông tin về người nổi tiếng người của công

chúng (bao gồm cả giới NSBD trên báo chí đã được các nhà tâm lý học, xã hội

học, báo chí học quan tâm từ khá sớm. Đặc biệt, thông tin về giới NSBD VN

trên báo chí còn được đặt trong quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt

Nam để nghiên cứu phân tích và đánh giá. Trong bối cảnh tiếp biến, hội nhập

văn hóa sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự bùng nổ của báo

mạng điện tử và trước thực trạng đăng tải thông tin về giới NSBD trên báo chí

đang được coi là “khủng hoảng” như hiện nay thì việc nghiên cứu vấn đề thông

tin về giới NSBD trên báo chí đặc biệt là trên báo điện tử là một nhiệm vụ cần

coi trọng. Tuy nhiên:

34

- Thông tin về giới NSBD VN trên báo chí là một đề tài nghiên cứu có

tính thời sự ở Việt Nam, nhưng vẫn chưa mang lại nhiều kết quả: Thừa nhận

việc thông tin về giới NSBD VN là một nhiệm vụ quan trọng của báo chí Việt

Nam nhưng các quy định và chế tài về việc đăng tải thông tin của giới này

trên báo chí vẫn chưa được các cơ quan chức năng quy định một cách rõ ràng,

cụ thể và chặt chẽ. Vì vậy các công trình nghiên cứu chỉ mang tính gợi mở

vấn đề mà chưa mang lại nhiều sự thay đổi thực sự về mặt thực trạng.

- Nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN trên báo chí vẫn còn phiến diện:

Các nghiên cứu hiện nay phần lớn vẫn công bố dưới dạng bài báo, sách chuyên

khảo, luận văn luận án khoa học chuyên biệt đa số vẫn nhìn từ những hiện tượng

bề nổi để phân tích, nặng suy luận và đánh giá chủ quan, mà thiếu căn cứ để đánh

giá định tính định lượng thực chứng. Do đó những kết luận đưa ra thường nhờ

vào suy luận chủ quan hơn là từ thực tiễn số liệu khảo sát. Các nghiên cứu mới chỉ

dừng lại ở việc đánh giá một hiện tượng chưa có tính tổng thể, mới chỉ tập trung

vào một khía cạnh nào đó của việc thông tin về giới NSBD trên báo chí hiện nay.

- Các nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN vẫn đang tiếp tục xuất

hiện nhưng chưa tường minh, chưa sâu, chưa được đánh giá từ góc nhìn văn

hóa Việt: Cho đến nay, trong các công trình nghiên cứu, giới NSBD vẫn được

đặt trong nhóm đối tượng nghiên cứu lớn hơn người nổi tiếng người của

công chúng “ngôi sao”… . Chưa có một công trình nào đi sâu vào tìm hiểu

vấn đề thông tin về giới NSBD VN như một sinh hoạt văn hóa và tìm ra từ đó

những tiêu chí đặc thù từ góc nhìn văn hóa Việt để tiếp cận vấn đề nghiên cứu

này một cách phù hợp và thích đáng nhất. Trong bối cảnh văn hóa tiếp biến và

hội nhập với văn hóa thế giới, sự bùng nổ của báo mạng điện tử với những ưu

thế riêng biệt trong việc chuyển tải tin tức thì việc nhìn nhận vấn đề thông tin

về giới NSBD trên loại hình báo điện tử từ góc nhìn văn hóa để đưa ra những

kết quả tường minh là vấn đề cần được nghiên cứu nghiêm túc. Đặc biệt,

nhiều câu hỏi mang tính cấp bách và thời sự vẫn chưa được giải quyết như:

35

Thông tin về giới NSBD trên báo điện tử có thực sự ngày càng nhiều và trở

nên quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội? Đặc trưng loại hình giúp báo

điện tử có thế mạnh, hạn chế như thế nào trong việc thông tin về giới NSBD?

Thông tin về giới NSBD trên báo điện tử hiện nay đã thực hiện đúng chức

năng văn hóa – giải trí của báo chí hay phục vụ cho những mục đích khác?

Đâu là sự lệch chuẩn về văn hóa trong việc thông tin về giới NSBD trên báo

điện tử hiện nay? Cần đưa ra những biện pháp, quy chế nào để báo điện tử

thông tin về giới NSBD một cách có có văn hóa?

Rõ ràng, việc thông tin về giới NSBD trên báo điện tử đang đặt ra rất

nhiều những vấn đề trong tiến trình hội nhập giao thoa văn hóa của Việt Nam

với thế giới hôm nay, trong thế kỉ 21. Do đó cần có những nghiên cứu có định

lượng và định tính với từng yếu tố tham gia quá trình thông tin về giới NSBD

VN trên báo điện tử đặc biệt là nhà báo – chủ thể thông tin, để việc thông tin

về giới này có chất lượng đảm bảo nhiệm vụ truyền thông và phát triển văn

hóa Việt. Tất cả những khiếm khuyết còn tồn tại trong những công trình

nghiên cứu trước đây trong việc nghiên cứu thông tin về giới NSBD trên báo

điện tử hiện đang là một khoảng trống trong nghiên cứu khoa học, và luận án

“Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử từ góc nhìn

văn hóa Việt” sẽ cố gắng nghiên cứu và làm rõ khoảng trống đó. Trong đó

luận án nghiên cứu và hệ thống hóa lý luận về quan hệ giữa văn hóa và báo

chí, hệ giá trị văn hóa Việt Nam và góc nhìn văn hóa Việt, phân tích thực

trạng thông tin về giới NSBD VN (tập trung vào ca sĩ diễn viên người mẫu –

những đối tượng có tần suất được truyền thông lớn và ảnh hưởng mạnh mẽ tới

truyền thông cũng như công chúng trên báo điện tử thế kỉ 21 từ góc nhìn văn

hóa Việt, chỉ ra những bài học và những vấn đề cần tiếp tục giải quyết đề ra

giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN

trên báo mạng điện tử hiện nay.

36

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1 tác giả đã khái quát và phân tích những nghiên cứu về

mối quan hệ giữa một nền văn hóa Việt Nam và một nền báo chí Việt Nam.

Trong mối quan hệ đó có mối quan hệ nhỏ hơn đó là mối quan hệ giữa văn

hóa nghệ thuật Việt Nam Việt Nam và báo chí Việt Nam. Tác giả cũng tập

trung tìm hiểu một khía cạnh chuyên sâu của mối quan hệ này đó là: giới

NSBD VN và loại hình báo điện tử để phục vụ cho vấn đề nghiên cứu của

luận án.

Khảo cứu cho thấy, thông tin về giới NSBD trên báo chí không phải

là vấn đề mới mà đã phổ biến trên BCTT trên toàn thế giới. Đối với Việt

Nam, giới NSBD mà người ta vẫn thường gọi là giới showbiz theo kiểu

phương Tây) ra đời ở thời kỳ văn hóa thị trường, gắn với văn hóa đại chúng

và công nghiệp giải trí, sau này khi trở thành những nhân vật truyền thông

trên báo chí. Sự “va chạm” giữa văn hóa phương Tây và văn hóa phương

Đông đã dẫn đến rất nhiều những “hạt sạn” “thảm họa” những lỗi văn hóa

trong vấn đề truyền thông về giới NSBD VN trên báo chí Việt Nam hiện

đại hôm nay.

Ngày nay, nhu cầu giải trí của công chúng ngày càng cao báo điện tử

ra đời và phát triển mạnh mẽ, thông tin về giới NSBD VN lại càng có điều

kiện được thúc đẩy với số lượng tin bài ngày càng nhiều, nội dung thông tin

ngày càng phong phú. Cùng với sự phát triển đó những công trình nghiên cứu

thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử cũng ngày càng nhiều hơn được

quan tâm hơn tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công

trình nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống hóa từ lý luận đến thực tiễn của việc

xác lập thông tin về giới NSBD VN trên một loại hình báo mạng điện tử, và

37

thực sự soi chiếu vấn đề này từ góc nhìn văn hóa Việt. Thực tế này đặt vấn đề

nghiên cứu cho luận án nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn vấn đề thông

tin về giới NSBD VN trên báo mạng điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt, từ đó

rút ra những bài học kinh nghiệm, những giải pháp khắc phục hạn chế, những

lỗi văn hóa phát huy thế mạnh báo mạng điện tử trong việc thông tin về giới

NSBD VN. Bởi lẽ, thông tin về giới NSBD VN là một phần trong nhiệm vụ

thông tin văn hóa Việt Nam của báo chí Việt Nam, và chúng ta phải làm sao

để thông tin về giới này một cách có văn hóa.

38

CHƢƠNG 2:

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT VÀ VẤN ĐỀ

THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM

TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

2.1 Văn hóa và góc nhìn văn hóa Việt

2.1.1 Khái niệm Văn hóa

Cùng với quá trình phát triển của xã hội, các học giả trên thế giới đã

đưa ra nhiều khái niệm về văn hóa. Nội hàm của khái niệm này ngày càng mở

rộng với những cách hiểu và đánh giá khác nhau liên quan đến mọi mặt đời

sống vật chất cũng như tinh thần của con người, tuy nhiên hầu như đều có

quan điểm chung khi coi văn hóa là giá trị.

Trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” (NXB VHTT, 2006), học

giả Đào Duy Anh đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là những giá trị

biểu hiện cuộc sống sinh hoạt mạnh mẽ của loài người trong cả phương diện

vật chất, tinh thần và xã hội” [2, tr.13]. (Bao gồm: kinh tế, chính trị, pháp

luật, ngôn ngữ văn học, nghệ thuật tôn giáo… .

Trên cơ sở định nghĩa của Đào Duy Anh GS. Trần Ngọc Thêm (Cơ sở

văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997) đã mở rộng, phát triển và làm rõ

hơn định nghĩa về văn hóa dựa trên những đặc trưng cơ bản của nó (tính hệ

thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử): “Văn hóa là một hệ thống

hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua

quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi

trường tự nhiên và môi trường xã hội”. [116, tr.10]. Chính với cách hiểu rộng

này, văn hóa mới là đối tượng đích thực của văn hóa học.

Cũng đồng nhất với quan điểm văn hóa là giá trị, tập thể các nhà nghiên

cứu của Viện Văn hóa và Phát triển – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh (Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản

39

Việt Nam, hệ cao cấp chính trị, NXB Lý luận chính trị, 2006, tr.14) cho rằng:

“Khi các hoạt động của con người hướng đến chân, thiện, mỹ thì các hoạt

động đó sẽ tạo ra các giá trị. Nói giá trị còn là nói đến những thành tựu kết

tinh sự sáng tạo của con người trên các hoạt động hướng tới cái chân, thiện,

mỹ. Đó là các thành tựu về khoa học, về giáo dục, về nghệ thuật, về các hoạt

động kinh tế - xã hội”.

Trong luận án này, chúng tôi xin tiếp cận văn hóa là sản phẩm của loài

người, là tập hợp những giá trị sinh ra từ những ứng xử và hoạt động sáng tạo

của con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Các nhà lý luận

văn hóa cho rằng, những gì phản nhân văn chính là phản văn hóa ngược lại,

những gì thuộc về tính người đều phải được coi là văn hóa Lịch sử văn hóa

Việt Nam – truyền thống giản yếu, NXB ĐHQG HN - tr.8). Báo chí là một

sản phẩm văn hóa hoạt động báo chí là một sinh hoạt văn hóa vì vậy các

hoạt động thông tin trên báo chí cũng cần phải được lý giải từ góc nhìn văn

hóa. Điều này có nghĩa muốn xét một nền báo chí Việt Nam thì phải dựa vào

một nền văn hóa Việt Nam (hệ giá trị văn hóa Việt Nam).

2.1.2. Góc nhìn văn hóa Việt – góc nhìn từ hệ giá trị văn hóa Việt

2.1.2.1. Hệ giá trị và hệ giá trị văn hóa dân tộc

2.1.2.1.1. Hệ giá trị

Milton Rokeach trong sách The Nature of Human values (trang 14, Nxb

Collier Macmillan Publishers London, 1973 đã định nghĩa: “Hệ giá trị là một

tổ chức thông thái của các nguyên tắc và quy tắc giúp một người lựa chọn,

giải quyết mâu thuẫn và đưa ra quyết định”. Từ điển Merrian-Webster, Bách

khoa toàn thư Encarta năm 2014 (trang 12) định nghĩa “Hệ giá trị là hệ thống

các tiêu chuẩn hay chuẩn mực đạo đức được thừa nhận của một cá nhân hoặc

một cộng đồng”. Theo định những nghĩa này hệ giá trị được hiểu là hệ thống

các quy tắc ứng xử, chuẩn mực, giá trị quy ước – ràng buộc được chấp nhận

40

của một cộng cồng xã hội bất kì. Hệ thống này đóng vai trò nền tảng cho hệ

quy chiếu đối với cá nhân trong quá trình ra quyết định và mong cầu cuộc

sống có ý nghĩa.

2.1.2.1.2. Hệ giá trị văn hóa dân tộc

Từ những định nghĩa về Hệ giá trị, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã

đưa ra định nghĩa về Hệ giá trị văn hóa như sau: “Hệ giá trị văn hóa của

một dân tộc bao gồm toàn bộ những giá trị mà chủ thể của nền văn hóa

(dân tộc) đó đã tích lũy được, bao gồm rất nhiều thành tố, cả vật chất lẫn

tinh thần”. Trên thực tế, hệ giá trị của một dân tộc có thể bao gồm: giá trị

tự nhiên, giá trị văn hóa và giá trị văn minh. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu

Trần Ngọc Thêm cho rằng giá trị văn hóa là bộ phận mang tính điển hình

tiêu biểu nhất, quan trọng nhất. Nói đến “hệ giá trị dân tộc” có thể hiểu là

“hệ giá trị văn hóa” của dân tộc đó. Hệ giá trị văn hóa chứa đựng trong

mình hệ tính cách văn hóa và bản sắc văn hóa tiểu hệ cốt lõi trong hệ giá

trị văn hóa chi phối toàn bộ hệ giá trị văn hóa . Khi tiếp xúc và giao lưu với

văn hóa phương Tây hội nhập văn hóa quốc tế, hệ giá trị văn hóa Việt Nam

đã xảy ra những biến động mạnh mẽ, đối diện với rất nhiều khó khăn và “bi

kịch của sự phát triển” như Đào Duy Anh từng tiên đoán, và vì thế cần thiết

phải xây dựng những hệ giá trị định hướng cho dân tộc mình.

2.1.2.2. Hệ giá trị văn hóa Việt và góc nhìn văn hóa Việt

2.1.2.2.1. Hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống

Trên thực tế, giá trị Việt Nam truyền thống đã được nêu ra bởi rất nhiều

các học giả nước ngoài như: sách Đế quốc An Nam L‟empire d‟Annam của

Charles Gosselin (1904), Tâm lý dân tộc An Nam (Psychologie du peuple

annamite) của Paul Giran (1904), Chân dung và tính cách người An Nam

(Portraits & caracte`res Annamites) của Ch.Martin Saint Leson 1912 …; các

học giả trong nước như: sách Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh

41

(1938), Tìm hiểu tính cách dân tộc của Nguyễn Hồng Phong (1954), Giá trị

tinh thần của dân tộc Việt Nam của Trần Văn Giàu 1980 Văn hóa Việt Nam

và cách tiếp cận mới của Phan Ngọc 1994 … Trong các nghiên cứu của các

học giả trong nước, có một số giá trị được lặp đi lặp lại như: lòng yêu nước,

tinh thần lạc quan đức tính cần cù, lòng nhân ái, sự tinh tế..; và một số các

phi giá trị như: khôn vặt, gian dối, chuộng hư danh ph phiếm…được chỉ ra.

Tuy nhiên, phần lớn các giá trị và phi giá trị này được trình bày theo cách cảm

tính và khá sơ sài.

Trong sách “Cơ sở văn hóa Việt Nam” và “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền

thống đến hiện đại và con đường tương lai”, GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng, sự

hình thành và phát triển của hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống cần được

xem xét ở ba bối cảnh: không gian văn hóa chủ thể văn hóa và thời gian văn hóa.

Không gian văn hóa: Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á khí hậu

nhiệt đới gió mùa, nhiều sông ngòi và đồng bằng nên thuận lợi cho việc hình

thành và phát triển nghề lúa nước (phụ thuộc vào thiên nhiên và có tính thời vụ

cao). Do vậy, đặc điểm nổi bật nhất về bối cảnh không gian của Việt Nam là

không gian nông thôn – nông nghiệp trong suốt lịch sử phát triển [116, tr.137].

Do hình thể kéo dài theo chiều Bắc – Nam địa hình lại đa dạng, phức

tạp nên không gian văn hóa Việt Nam bị phân hóa mạnh, hình thành 3 miền

và 6 v ng văn hóa khác nhau theo cách phân chia của GS. Trần Quốc Vượng

[138, tr. 213]. Việt Nam cũng ở vào vị trí địa lý thuận lợi cho sự giao lưu văn

hóa như nhà nghiên cứu Phan Ngọc nhận xét “Việt Nam ở ngã ba đường văn

hóa”. Các văn hóa tiếp xúc với nhau thường để lại những dấu vết sâu đậm, vì

vậy, chính mối liên hệ mật thiết với Đông Nam Á và tính thống nhất trong sự

đa dạng là cơ sở tạo nên sự khu biệt cơ bản cho văn hóa Việt Nam.

Chủ thể văn hóa: Với một diện tích đất không lớn nhưng Việt Nam có

tới 54 tộc người. Tuy nhiên, do xuất phát từ một nguồn gốc chung là nhóm

42

loại hình Indonesien và có tộc người là người Việt (Kinh) chiếm tỉ lệ vượt trội

hơn hẳn (gần 90% dân số nên văn hóa Việt vẫn có tính thống nhất trong sự

đa dạng. Ngôn ngữ Việt, chuẩn phát âm tiếng Việt được chọn làm ngôn ngữ

quốc gia (quốc ngữ), chuẩn phát âm quốc gia (quốc âm) [116, tr. 31].

Khi định danh nền văn hóa nông nghiệp truyền thống của Việt Nam,

GS. Trần Quốc Vượng đã gọi đích danh là “ba hằng số”: nông dân – nông

nghiệp – nông thôn. Người nông dân Việt Nam ngàn đời làm nông nghiệp và

cư trú ở làng xã (nông thôn), ít khi di chuyển khỏi nơi cư trú nên sinh ra

những tập tục làng xã và căn tính nông dân điển hình, chi phối tính cách dân

tộc và hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống.

Thời gian văn hóa: Theo khảo cứu của các nhà nghiên cứu văn hóa,

Việt Nam có hơn 4000 năm lịch sử được chia thành 3 lớp văn hóa bản địa;

giao lưu với Trung Hoa và khu vực; giao lưu với phương Tây . Ứng với 3 lớp

văn hóa này theo GS. Trần Ngọc Thêm, hệ giá trị Việt Nam truyền thống đến

nay đã trải qua bốn lần biến động [116, tr.139]:

(1) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa bản địa Đông Nam Á sang hệ

giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa: Tam giáo Nho – Phật – Đạo ảnh

hưởng mạnh mẽ tới Việt Nam trong đó ảnh hưởng của Nho giáo là lớn nhất.

(2) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống theo phong cách

phương Đông sang hệ giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây: bắt

đầu diễn ra từ khoảng thế kỉ XVI khi các giáo sĩ Kito đi truyền đạo nhưng

chỉ thực sự chuyển biến mạnh mẽ từ đầu thế kỉ XX sau khi thực dân Pháp

xâm lược Việt Nam. Lần biến động này là sự gặp gỡ của nông thôn và thành

thị, của nông nghiệp và công nghiệp, của phương Đông và phương Tây tạo ra

những giá trị văn hóa mang tính trọng dương và tương đối hiện đại từ phương

Tây Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa) [123,

tr.49]. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã khiến người Việt Nam thay đổi

43

cấu trúc lại nền văn hóa của mình đi vào vòng quay của văn minh phương

Tây giai đoạn công nghiệp. Diện mạo văn hóa Việt Nam đã thay đổi trên các

phương diện: Thứ nhất, chữ Quốc ngữ được d ng như chữ viết của một nền

văn hóa; Thứ hai, xuất hiện các phương tiện văn hóa như nhà in máy in…ở

VN; Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản; Thứ tư là sự xuất hiện

của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới như tiểu thuyết thơ mới,

điện ảnh, kịch nói, hội họa… (Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam,

Nxb Giáo dục, 2006).

(3) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống dưới ách thực dân

sang hệ giá trị chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa xã hội chủ nghĩa: diễn ra khi

Việt Nam tiếp xúc với văn hóa xã hội chủ nghĩa thông qua đại diện là Liên Xô

thời I. V. Stalin, Trung Quốc thời Mao Trạch Đông. “Những giá trị và phi giá

trị có nguồn gốc xã hội chủ nghĩa thâm nhập và phát triển trong giai đoạn

này. Những giá trị nội sinh như: làm chủ tập thể, năm điều Bác Hồ dạy…

cũng hình thành trong giai đoạn này” – Trần Ngọc Thêm [118, tr. 139].

(4) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống đang trong quá

trình xã hội chủ nghĩa sang hệ giá trị thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập quốc tế: bắt đầu diễn ra vào nửa cuối những năm 1980 khi công

cuộc đổi mới ở Việt Nam bắt đầu – Trần Ngọc Thêm [118, tr.140]. Cùng với

quá trình toàn cầu hóa với những thành tựu vượt bậc về viễn thông và công

nghệ thông tin, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây tiếp tục được bổ sung và

làm dày thêm. Tuy nhiên lúc này sự Tây hóa đã đa tuyến qua các ngả như:

Liên Xô Đông Âu Nhật Bản, Mỹ… Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam nhìn

từ mẫu người văn hóa) [123, tr.50]. Đây cũng là lúc hệ giá trị văn hóa Việt

Nam bước vào giai đoạn biến động mạnh mẽ và dữ dội nhất.

Từ việc xem xét chủ thể văn hóa không gian văn hóa, thời gian văn hóa

và theo cách nhìn của phương pháp dịch lý – hệ thống – ngoại hình, GS. Trần

Ngọc Thêm đã chỉ ra năm giá trị cốt lõi nhất tạo nên những đặc trưng gốc của

44

bản sắc văn hóa Việt Nam truyền thống là: 1) Tính cộng đồng làng xã, 2) Tính

ưa hài hòa, 3) Tính trọng âm, 4) Tính chủ toàn, 5) Tính linh hoạt. Đây là

những đặc trưng mà theo Trần Ngọc Thêm là cần và đủ để nhận diện và khu

biệt văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác [117, tr.153]. So với các công

trình đi trước, những nghiên cứu về hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống

của GS. Trần Ngọc Thêm dường như là đầy đủ và hệ thống nhất.

2.1.2.2.2 Góc nhìn văn hóa Việt

Góc nhìn văn hóa Việt là góc nhìn được xác lập dựa trên những đặc

trưng cơ bản của hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện đại.

Trên con đường đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hệ giá trị văn hóa

Việt Nam truyền thống bị biến động mạnh với cả những giá trị phái sinh (hệ

quả) và phi giá trị (hậu quả được tạo ra. Nói như GS. Trần Ngọc Thêm thì

sống giữa những nhà máy, thành phố ở Việt Nam hiện nay vẫn là những

người nông dân khoác áo công nhân, thị dân với lối tư duy và cách sinh hoạt

tiểu nông. Chính vì vậy, không ít những đặc trưng văn hóa truyền thống trước

đây giúp Việt Nam dựng và giữ nước thì nay lại dần bộc lộ ra sự hạn chế của

mình [117, tr. 283].

+ Tính cộng đồng làng xã

Nền văn hóa gốc nông nghiệp, nghề trồng lúa nước và sự gắn kết mật

thiết giữa các thành viên cùng chung sống trong LÀNG đơn vị cư trú cơ bản

ở nông thôn) là nguồn gốc của tính cộng đồng làng xã [118, tr. 155].

Các giá trị phái sinh (hệ quả điển hình của tính cộng đồng làng xã là:

Tinh thần thập thể; Tình đoàn kết; Lòng biết ơn (với ông bà, cha mẹ, tổ tiên,

hàng xóm… ; Tính dân chủ làng xã; Tính trọng thể diện [118].

Là một trong hai đặc trưng điển hình nhất của văn hóa nông nghiệp – nông

thôn Việt Nam truyền thống, tính cộng đồng làng xã chịu biến động mạnh mẽ khi

Việt Nam bước vào giai đoạn hiện đại. Các phi giá trị (hậu quả) nảy sinh từ đặc

45

trưng này vì thế cũng rất nhiều đó là: Thói dựa dẫm, ỷ lại; Thói cào bằng, đố kị;

Bệnh hẹp hòi, ích kỉ, bè phái (nhóm lợi ích); Bệnh sĩ diện, háo danh; Bệnh thành

tích; Bệnh phong trào; Bệnh hình thức; Bệnh nói xấu sau lưng; Bệnh vô cảm,

chặt chém; Tật ham vui, thích “tám”; Bệnh triệt tiêu cá nhân.

+ Tính trọng âm:

Tính trọng âm là đặc trưng quan trọng thứ hai của bản sắc văn hóa

truyền thống bởi văn hóa Việt Nam thuộc loại hình âm tính điển hình.

Các giá trị phái sinh điển hình của tính trọng âm là: Tính ưa ổn định;

Tính hiếu hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; Tính trọng nữ; Thiên

hướng thơ ca; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách.

Trong xã hội hiện đại, những phi giá trị nảy sinh từ tính trọng âm là:

Bệnh thụ động, khép kín, bảo thủ; Bệnh chậm chạp, lề mề; Bệnh tủn mủn,

thiếu tầm nhìn; Bệnh đối phó; Bệnh thiếu bản lĩnh, tự ti, nhu nhược, yếu đuối;

Bệnh sùng ngoại; Bệnh hám lợi [118, tr. 348,349].

+ Tính ƣa hài hòa:

Đông Nam Á là nền tảng của triết lý âm dương cho nên tính ưa hài hòa

là một trong những đặc trưng của hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống.

Các giá trị phái sinh của tính ưa hài hòa bao gồm: Tính cặp đôi; Tính mực

thước; Tính ung dung; Tính vui vẻ lạc quan; Tính thiết thực. Những phi giá trị

sinh ra từ tính ưa hài hòa bao gồm: Bệnh đại khái xuề xòa; Bệnh dĩ hòa vi

quý; Bệnh nước đôi, thiếu quyết đoán; Bệnh trung bình chủ nghĩa. Ngoài ra,

GS Trần Ngọc Thêm cũng chỉ ra sự hình thành một số giá trị khi Việt Nam đi

vào giai đoạn hiện đại đó là: Dương tính hóa và sự quyết liệt.

+ Tính chủ toàn và tính linh hoạt:

Tính chủ toàn được sinh ra khi nghề trồng lúa nước phụ thuộc lớn vào

thiên nhiên đòi hỏi người nông dân phải quan tâm tới tất cả các yếu tố có ảnh

hưởng tới thành quả của mình. Các giá trị phái sinh của tính chủ toàn là: Khả

năng bao quát tốt và khả năng quan hệ tốt. Các phi giá trị sinh ra từ tính chủ

46

toàn là: Bệnh hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh chủ quan, kiêu ngạo; Bệnh sống

bằng quan hệ.

Cũng chính sự lệ thuộc cao vào thiên nhiên của nghề trồng lúa nước đã

sinh ra đặc trưng Tính linh hoạt của văn hóa Việt Nam truyền thống khi liên

tục phải điều chỉnh để phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh hay môi trường.

Các giá trị phái sinh của tính linh hoạt được GS. Trần Ngọc Thêm chỉ ra là:

Khả năng thích nghi, thích ứng; Khả năng sáng tạo, biến báo. Các phi giá trị

sản sinh ra từ tính linh hoạt là: Thói tùy tiện, cẩu tả; Bệnh thiếu ý thức pháp

luật; Thói khôn vặt, láu cá.

Để loại trừ các phi giá trị sản sinh ra từ các đặc trưng cơ bản của hệ giá

trị văn hóa Việt Nam truyền thống, thông qua cuộc điều tra diện rộng trong

công trình nghiên cứu của mình, GS. Trần Ngọc Thêm đã chọn ra 15 giá trị

tinh hoa cần bổ sung và phát triển, bao gồm: Ý thức pháp luật; Tính trung

thực, thẳng thắn; Tinh thần trách nhiệm; Bản lĩnh cá nhân; Tính chuyên

nghiệp; Tinh thần hợp tác, làm việc nhóm; Tính trọng lẽ công bằng; Tính

khoa học; Tinh thần dân chủ; Lòng trung thành; Lòng tự trọng; Tính phân

tích, rành mạch; Tính nguyên tắc; Tinh thần sẵn sàng từ chức; Tính dám mạo

hiểm. Kết hợp những giá trị truyền thống được bảo tồn và những giá trị tinh

hoa cần được bổ sung, GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng năm đặc trưng văn hóa

truyền thống có khuynh hướng biến đổi thành bốn đặc trưng mới đó là: 1)

Tính cộng đồng, xã hội; 2) Tính hài hòa thiên về dương tính; 3) Tính chủ

toàn hiện đại; 4) Tính năng động, và đây được xác định là cơ sở cho việc

xác định con đường đi đến hệ giá trị Việt Nam mới [118, tr.538].

Việt Nam đang ở vào buổi giao thời trong giao lưu hội nhập văn hóa

toàn cầu. Những hệ giá trị văn hóa truyền thống giúp điều tiết xã hội trước

đây giúp con người định hướng các sống, cách ứng xử dù không biến mất

hẳn nhưng đã không còn ph hợp với đời sống hiện đại, thậm chí nảy sinh ra

những phi giá trị. Trong khi đó những giá trị mới lại chưa được định hình. Xã

47

hội rơi vào khủng khoảng giá trị khiến con người mất niềm tin và định

hướng. Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt đang bị thách

thức bởi những làn sóng văn hóa ngoại lai, bởi logic kinh tế thị trường và

đời sống vật chất tiện nghi. Công chúng được tiếp cận nhiều thông tin

nhưng lạc lối trong xác định lý tưởng sống, không có giá trị để theo đuổi.

Trong khi đó báo điện tử khi thông tin về giới NSBD VN lại truyền bá

những xu hướng, phong cách sống mới mà có thể mâu thuẫn với những

chuẩn mực cũ. Góc nhìn văn hóa Việt mà tác giả xin đưa ra ở luận án này

là góc nhìn dựa trên các giá trị truyền thống được bảo tồn, các giá trị tinh

hoa mới được bổ sung và loại bỏ các phi giá trị sinh ra trong quá trình hội

nhập, nhằm hướng tới bốn đặc trưng cốt lõi của hệ giá trị văn hóa Việt

Nam mới mà GS. Trần Ngọc Thêm đã nghiên cứu và chỉ ra ở trên. Tác giả

sử dụng góc nhìn văn hóa Việt để soi chiếu các hiện tượng và sinh hoạt

văn hóa đang diễn ra (cụ thể trong luận án này là hoạt động thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử). Bên cạnh những kết quả tích cực thì luận

án tập trung vào việc chỉ ra các lỗi văn hóa (các phi giá trị), từ đó đề xuất

các giải pháp nhằm loại bỏ các lỗi văn hóa này nâng cao chất lượng thông

tin về giới NSBD VN trên báo điện tử, góp phần thúc đẩy hoạt động truyền

thông văn hóa Việt Nam trên báo chí Việt Nam một cách có văn hóa, phù

hợp với hệ giá trị văn hóa Việt Nam mới.

2.2 Nghệ sĩ biểu diễn và nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

2.2.1 Nghệ sĩ biểu diễn

Cho tới nay, chưa có một định nghĩa chính xác và thống nhất nào về nghệ sĩ

biểu diễn.

Theo TS. Nhạc sĩ Phạm Việt Long (bài viết Danh xưng NGHỆ SĨ đang

bị "tầm thường hóa", www.giadinh.net thì danh xưng nghệ sĩ là để chỉ những

người hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật.

48

Khái niệm nghệ sĩ trong Từ điển Tiếng Việt năm 2005 (Viện Ngôn ngữ

học Việt Nam) tương tự với quan niệm của Phạm Việt Long: nghệ sĩ là người

chuyên hoạt động (sáng tác hoặc biểu diễn) trong một loại hình nghệ thuật.

Cũng theo Từ điển Tiếng Việt năm 2005, biểu diễn là hoạt động trình

bày tiết mục/tác phẩm nghệ thuật hay thể thao cho công chúng thưởng thức.

Còn GS. Hà Minh Đức (Một nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc)

thì cho rằng: nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện sáng tạo của nghệ sỹ trước

khán giả, là tiếng nói từ trái tim đến trái tim, từ tình cảm đến với tình cảm và

trở thành một bảo tàng sống của dân tộc.

Theo đó nghệ sĩ biểu diễn có thể được hiểu là những người biểu diễn

(trình bày) các tác phẩm nghệ thuật/tiết mục nghệ thuật (trên sân khấu, trên

màn ảnh, trên truyền hình… (khác với nghệ sĩ sáng tác – những người sáng

tạo ra các tác phẩm nghệ thuật) trước khán giả thông qua đó chuyển tải các

tác phẩm nghệ thuật tới công chúng, làm cầu nối giữa nghệ thuật và công

chúng, góp phần truyền bá lưu giữ và phát triển các tác phẩm nghệ thuật có

giá trị. Muốn biểu diễn chuyên nghiệp thì nghệ sĩ phải được đào tạo qua các

khóa học trường lớp nghệ thuật chuyên nghiệp. Thông qua hoạt động biểu

diễn, với sự cảm thụ và sáng tạo của nghệ sĩ, các tác phẩm nghệ thuật trở nên

sinh động và có sức truyền thụ tới công chúng. Có thể nói, khái niệm nghệ sĩ

gắn liền với khái niệm nghệ thuật.

Trong sách 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân, Nxb Văn học), tác

giả cho rằng căn cứ vào việc xác định xem dạng hình tượng nghệ thuật đó

được thể hiện bằng chất liệu nào mà phân biệt các loại hình nghệ thuật khác

nhau. Trên thực tế, có nhiều các sắp xếp và phân loại loại hình nghệ thuật,

nhưng cách phân chia của Hengel được nhiều người đồng tình nhất với 7 loại

hình nghệ thuật: Kiến trúc điêu khắc, hội họa, âm nhạc âm thanh thơ ngôn

ngữ), múa (tổng hợp điện ảnh (tổng hợp) (Hengel, Mỹ học, tập 2, 1999;

49

Phan Ngọc dịch NXB Văn học, tr. 29-362). Do giới hạn dung lượng của một

luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu đối tượng NSBD ở hai loại hình

nghệ thuật là âm nhạc và điện ảnh.

2.2.2 Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Thời phong kiến, chúng ta chỉ có khái niệm “nghệ nhân” – những người

gắn liền với các hoạt động biểu diễn ca múa nhạc dân gian và cung đình hoặc

một nghề thủ công mĩ nghệ với trình độ cao (theo Từ điển tiếng Việt, 2005).

Khái niệm “nghệ sĩ” xuất hiện ở thế kỉ XIX trong lớp văn hóa giao lưu với văn

hóa phương Tây. Một “cú va chạm mạnh” về văn hóa đã diễn ra khởi đầu cho

làn sóng văn minh công nghiệp đồng thời dẫn tới sự thay đổi lớn cho văn hóa

nghệ thuật Việt Nam với cả những thành tựu và những hệ lụy Đỗ Lai Thúy, Văn

hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa) [123, tr.268 – 287].

Cùng với bước chân của người Pháp, những thể loại nghệ thuật mới

như: kịch nói, tiểu thuyết, thơ mới, hội họa sơn dầu.... đã xuất hiện, hình

thành nên một lớp nghệ sĩ theo phong cách Tây hóa. Nói như Đỗ Lai Thúy thì

đây là giai đoạn mà một đằng là điểm cuối của con người tập đoàn mẫu

người điển hình của văn hóa nông thôn nông nghiệp còn đằng kia là điểm

đầu của con người cá nhân (mẫu người điển hình của văn hóa đô thị, công

nghiệp) [123, tr.268-287]. Dẫu vậy, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp

và Mỹ, lớp nghệ sĩ này hoạt động như những nhà cách mạng văn hóa và tuyên

truyền. Một mặt họ dùng những tư tưởng nghệ thuật mới để phê phán, chống

lại những tư tưởng nghệ thuật cũ; mặt khác, họ sử dụng các tác phẩm nghệ

thuật như một thứ vũ khí để chống lại chế độ thuộc địa, chống lại kẻ th cướp

nước, cổ vũ tiến bộ xã hội. Giai đoạn này, nghệ sĩ hoàn toàn không có vai trò

kinh tế hay thực hiện các chức năng kinh tế.

Phải đến khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới vào năm1986 tạo

tiền đề cho logic kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản thâm nhập, cộng

50

hưởng với ảnh hưởng của tư tưởng “bá quyền văn hóa” cultural hegemony

và nền “văn hóa đại chúng” từ Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản … tràn tới Việt

Nam thì nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam mới một lần nữa chịu biến đổi

mạnh mẽ.

Tư tưởng “Bá quyền văn hóa” được triết gia chính trị người Ý –

Antonio Gramsci (1981-1937 đưa ra từ những năm 30 của thế kỉ trước.

Trong đó Gramsci cho rằng, quân sự không phải là công cụ duy nhất để bảo

đảm quyền lực của giai cấp cầm quyền, mà còn nhiều cách thức khác hiệu quả

hơn. Việc kiểm soát quá trình sản xuất và phân phối các sản phẩm văn hóa

chính là một trong những cách thức này. Nhiều quốc gia đã tạo dựng, khai

thác văn hóa biến nó thành “sức mạnh mềm” để lan tỏa ảnh hưởng đồng thời

nâng các chính sách về chính trị, ngoại giao của mình lên một tầm cao mới,

mang tới những cơ hội “xâm lăng” và “bá quyền” về mặt kinh tế trên toàn cầu

như: Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc… Và Văn hóa đại chúng là một

“công cụ” hữu hiệu cho việc hiện thực hóa tư tưởng bá quyền văn hóa.

Văn hóa đại chúng (mass culture) hay văn hóa phổ thông (pop culture)

theo Strinati (1995) là nền văn hóa có các sản phẩm được sản xuất hàng loạt

bằng kỹ thuật công nghiệp và được đưa ra thị trường vì quyền lợi của quảng

đại người tiêu dùng. Còn theo John Hartley (Communication, cultural and

media studies: The key concepts, Routledge, 2004), văn hóa đại chúng được

hiểu là thứ văn hóa còn lại sau khi người ta đã quyết định được văn hóa tinh

hoa (elite/high culture) – loại văn hóa được gìn giữ thông qua âm nhạc, nghệ

thuật văn học và tư tưởng, chỉ do một số ít người tạo ra và cũng chỉ có một số

ít người có khả năng cảm thụ, chiêm nghiệm. Trong tiểu luận kinh điển

“Công nghiệp văn hóa: Biện chứng của thời đại khai sáng” 1947 hai đại

diện tiêu biểu của trường phái Frankfurt là Max Horkheimer và Theodor

Andorno cho rằng văn hóa đại chúng gắn liền với sự xuất hiện của công

51

nghiệp văn hóa trong đó nguyên tắc thương nghiệp thay thế cho nguyên tắc

nghệ thuật, yêu cầu thị trường thay thế cho yêu cầu tinh thần. Nói cách khác,

văn hóa đã được thương phẩm hóa được con người mua bán trao đổi, và vì

vậy chúng trở nên tầm thường, chỉ có ý nghĩa minh họa mà không có quan hệ

gì tới giá trị nghệ thuật. Văn hóa đại chúng thường thay đổi theo thị hiếu

giống như gu thời trang hay âm nhạc theo từng giai đoạn. Theo các nhà

nghiên cứu thì văn hóa đại chúng phải gắn liền với sự tồn tại của truyền

thông đại chúng (cho phép chia sẻ thông tin tới số đông công chúng và sự

tồn tại thị trường của các sản phẩm truyền thông văn hóa.

Tư tưởng Bá quyền văn hóa và làn sóng Văn hóa đại chúng lan tới Việt

Nam với sự xuất hiện của những bộ phim như “Cố lên Chiaki”, “Osin” của

Nhật hay “Mối tình đầu”, “Bác sĩ”, “Thành thật với tình yêu” của Hàn Quốc

… được phát trên sóng truyền hình quốc gia. Không lâu sau đó văn hóa Hàn

Nhật đã gần như phủ sóng khắp từ đô thị tới nông thôn Việt Nam. Kiểu tóc,

phong cách ăn mặc hay cách trang điểm…của các bạn trẻ đều từa tựa giống

với các nhân vật trong phim. Nhờ những tình tiết hấp dẫn, những cảnh quay

đẹp, họ dần yêu hơn có thiện cảm hơn con người Hàn Quốc, khung cảnh Hàn

Quốc, thậm chí là văn hóa Hàn Quốc… Tuy nhiên, nói như TS. Nguyễn Thu

Giang, văn hóa bao giờ cũng có tính tự sản tạo [37]. Những bộ phim ngoại

quốc ấy không chỉ truyền bá văn hóa cho Hàn Quốc, Nhật Bản…mà còn trở

thành một cú “hích” một sự kiện “bản lề” khiến phim ảnh, âm nhạc, thời

trang… của Việt Nam vận động, biến đổi mạnh mẽ. Từ đây hoạt động văn

hóa nghệ thuật của Việt Nam đã có sự phân tách rõ rệt. Một bộ phận kiên trì

theo đuổi nghệ thuật tinh hoa (elite), nỗ lực tạo ra các chuẩn văn hóa cho xã

hội; ngược lại, một bộ phận hướng tới văn hóa đại chúng (mass), tạo ra các

sản phẩm được sản xuất hàng loạt với mục đích thương mại, phôi thai nên nền

“Văn hóa đại chúng” mass culture ở nước ta vào thế kỉ 20.

52

Như một xu thế tất yếu, một bộ phận những người hoạt động nghệ

thuật của Việt Nam bắt đầu hướng tới việc tạo ra những sản phẩm âm nhạc,

thời trang điện ảnh mô phỏng theo phong cách Mỹ, Hàn Quốc, Trung

Quốc, Nhật Bản… loại bỏ bớt tính tuyên truyền và thêm vào đó “chất” giải

trí phổ biến hướng tới nhu cầu của số đông công chúng. Những bộ phim

“Nước mắt học trò”, “Người đẹp Tây đô”, “Gái nhảy”… đã đưa Lý H ng

Diễm Hương Việt Trinh, Mỹ Duyên… trở thành hiện tượng được nhắc tới

của không ít công chúng thế hệ 7X, 8X. Tiếp sau đó Lam Trường Đan

Trường, Thanh Thảo Phương Thanh Quang Vinh… trở thành lứa ca sĩ

thần tượng đầu tiên với các sản phẩm nhạc nhẹ thị trường dễ nghe.

Cùng với việc sản xuất các sản phẩm văn hóa đại chúng là sự xuất

hiện của những nghệ sĩ biểu diễn các sản phẩm này. Giữ đúng những đặc

trưng của văn hóa đại chúng, những nghệ sĩ biểu diễn các sản phẩm văn

hóa đại chúng (còn gọi là NSBD đại chúng hay NSBD thương mại cũng

hướng tới các yếu tố thương mại thương phẩm hóa nghệ thuật theo logic

kinh tế thị trường, phục vụ đòi hỏi của thị trường/công chúng thay cho

những yêu cầu về tinh thần, dựa vào nền tảng truyền thông đại chúng để

xây dựng danh tiếng nhằm truyền tải sản phẩm tới số đông công chúng…

Điều này có nghĩa ngoài hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, giới

NSBD thương mại còn thực hiện chức năng kinh tế dịch vụ. Dần dần, với

sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa đại chúng và truyền thông đại chúng,

nền công nghiệp giải trí” showbiz Việt Nam ra đời với sự xuất hiện của

hàng loạt các công ty giải trí, các NSBD là các “sao” “người nổi tiếng”

thời thượng mà người ta thường gọi theo thuật ngữ “ngoại lai” phổ biến là

“giới Showbiz Việt” hay “giới Vbiz” song song tồn tại cùng mẫu hình

NSBD nghệ thuật/tinh hoa – những nghệ sĩ hướng tới nghệ thuật đỉnh cao,

tinh tuyển.

53

Trong xã hội hiện đại, sự tò mò và có nhu cầu tìm hiểu về thông tin về

các “ngôi sao” giải trí của công chúng Việt Nam ngày càng lớn, và không ai

khác, truyền thông đặc biệt là báo điện tử chính là chiếc cầu nối tuyệt vời

cho giới NSBD thương mại, biến họ thực sự trở thành người của công

chúng, được công chúng biết đến và giúp họ thương mại hóa các sản phẩm

nghệ thuật. Tuy nhiên, chính bởi sự lệch lạc về định hướng giá trị, sự ảnh

hưởng của các yếu tố ngoại cảnh trong thời đại toàn cầu hóa, nền kinh tế thị

trường và kỉ nguyên truyền thông xã hội số mà việc thông tin về giới NSBD

VN bên cạnh những hiệu quả tích cực cũng tồn tại rất nhiều những vấn đề

tiêu cực, những lỗi văn hóa cần điều chỉnh, khắc phục. Như trong sách “The

Korean Wave: Korean Media Go Global” (Nxb Routledge, 2013) của tác giả

Youna Kim thì các nghệ sĩ Hàn Quốc luôn cố gắng truyền tải các giá trị văn

hóa truyền thống của họ thông qua các tác phẩm nghệ thuật, các thông tin

được đăng tải trên truyền thông, thế nhưng NSBD VN cũng như các trang

báo điện tử VN dường như “bỏ quên” mất nhiệm vụ này. Bởi vậy, trong

Luận án này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ

sĩ Việt Nam biểu diễn các sản phẩm văn hóa đại chúng (giới NSBD

thƣơng mại) ở hai lĩnh vực âm nhạc và điện ảnh, bởi đây là đối tượng nghệ

sĩ thường biểu diễn và xuất hiện nhiều trên truyền thông, có sức lan tỏa, thu

hút sự quan tâm của công chúng, ảnh hưởng lớn tới nhận thức và hành vi của

công chúng. Tác giả cũng chỉ lựa chọn một loại hình báo chí để nghiên cứu

đó là loại hình báo điện tử vì tính mới mẻ và hợp thời của loại hình báo chí

này đồng thời tập trung nhiều hơn vào các lỗi văn hóa trong quá trình thông

tin về giới NSBD VN của báo điện tử.

2.3 Báo chí Việt Nam và nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt Nam

Có thể nói, từ khi ra đời tới ngày nay, sự phát triển của báo chí Việt

Nam gắn liền với những biến động của lịch sử văn hóa Việt Nam, là «tấm

54

gương » phản chiếu đời sống văn hóa xã hội của Việt Nam theo cách nhìn

của mình. Những sự biến đổi trên trang báo cũng phản ánh sự biến đổi trong

đời sống văn hóa xã hội của người Việt.

Giữa văn hóa và báo chí có mối quan hệ qua lại. Báo chí là sản phẩm

văn hóa nhưng ngược lại văn hóa được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác

không chỉ bởi quan hệ giao tiếp trực tiếp giữa người với người mà còn thông

qua các mối quan hệ gián tiếp giữa con người với các phương tiện TTĐC.

Nghị quyết TW 5 khoá VII chỉ rõ: “Báo chí là công cụ tư tưởng, chính trị của

Đảng và Nhà nước, đồng thời là một sản phẩm văn hoá có tác động sâu rộng

trong quần chúng”. Trong bài nghiên cứu Truyền thông văn hóa và văn hóa

truyền thông, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái cũng khẳng định: « Nhiệm vụ

xuyên suốt nền báo chí hiện đại Việt Nam, từ khi ra đời, đương nhiên phải là

truyền thông về nền văn hóa Việt,…”.

Kể từ khi báo chí xuất hiện văn hóa Việt Nam đã được nhận diện và

truyền thông. Sinh hoạt lớn nhất của văn hóa Việt Nam là sinh hoạt nông

nghiệp với căn tính nông dân điển hình nhưng nó không vĩnh viễn tồn tại, mà

dịch chuyển dần sang nền văn hóa công nghiệp hiện đại và đô thị cùng sự

giao lưu với văn hóa phương Tây. Những cuộc giao lưu tiếp biến và biến đổi

của văn hóa Việt Nam được thể hiện rõ nét trên các tác phẩm, ấn phẩm báo

chí theo thời gian. Ngay từ tờ Gia định báo, việc truyền thông văn hóa trước

tiên là văn học đã được chú trọng. Lê Nguyễn trong bài nghiên cứu “Gia

định báo qua cuộc hành trình 140 năm” đã chỉ ra: “So với loại bài có tính

chất khoa học, loại bài có tính chất văn chương xuất hiện sớm hơn và tồn tại

lâu hơn trên chuyên mục Thứ vụ”. Qua những tác phẩm văn học trên Gia định

báo (Phú bần truyện diễn ca, truyện Phansa diễn ra Quốc ngữ…) người đọc

và người sáng tác có dịp làm quen với văn học phương Tây lối viết văn của

phương Tây. Dần dần hình thành nên ý thức và khát vọng sáng tạo đổi mới

55

văn chương nước nhà. Những tờ báo sau này ngày càng mở rộng hơn nội

dung thông tin về văn hóa đặc biệt là văn hóa nghệ thuật – một thành tố của

văn hóa đăng tải sự phát triển và biến đổi của văn hóa Việt Nam trong cuộc

giao lưu với văn hóa phương Tây.

GS. Hà Minh Đức khẳng định: «Văn hóa không tồn tại ở trạng thái

đóng kín. Cho dù phong phú nhưng nếu bị o bế, cấm vận thì không phát triển

được». [26, tr.11]. Tuy nhiên, chính sự dịch chuyển này đã dẫn tới nhiều bi

kịch xã hội mà học giả Đào Duy Anh gọi là “bi kịch của sự phát triển”. Và

toàn bộ cái bi kịch của sự phát triển này của văn hóa Việt Nam hiện đại đã

được truyền thông khá rõ trên báo chí Việt Nam. Giao lưu tiếp biến văn hóa

là một quy luật tất yếu, một nhu cầu sống còn trong sự phát triển của quốc

gia. Tuy nhiên, trong sự giao lưu ấy vừa có sự tiếp nhận, vừa có sự đồng hóa,

lại vừa có sự phản kháng. Để tiếp thu được những giá trị văn hóa mới tốt đẹp,

gìn giữ được văn hóa truyền thống dân tộc thì vai trò truyền thông văn hóa

của báo chí có tác động lớn.

Có thể nói, văn hóa có bao nhiêu vấn đề thì báo chí cũng có bấy nhiêu

vấn đề để truyền thông. Chỉ khi báo chí ra đời thì mới có sự phản ánh sinh

hoạt văn hóa theo cách của phương Tây trong những sinh hoạt ấy có sinh

hoạt về nghệ thuật. Trong các loại hình báo chí báo điện tử có vai trò ngày

càng quan trọng trong việc truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam, bởi lẽ

đây là loại hình báo chí mới mẻ, hợp thời đại với nhiều ưu thế nổi trội trong

việc lưu giữ và truyền tải thông tin; bên cạnh đó Việt Nam hiện cũng là một

trong những quốc gia có tốc độ phát triển internet nhanh và bền vững nhất

trên thế giới.

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và xu hướng hội nhập văn hóa

toàn cầu đã tạo điều kiện cho mảng đề tài văn hóa nghệ thuật (một thành tố

của văn hóa đặc biệt là văn hóa giải trí và giới NSBD triển mạnh, trở thành

56

nội dung được các tòa soạn báo điện tử hiện nay quan tâm. Trên các trang báo

luôn có các chuyên mục riêng như: văn hóa giải trí văn hóa – giải trí… chủ

yếu để đưa các thông tin về cộng đồng giới nghệ sĩ các hoạt động nghệ thuật

xoay quanh họ và cả thông tin về hậu trường đời sống của họ… Thông tin về

văn hóa giải trí và giới NSBD thu hút một lượng lớn công chúng theo dõi, góp

phần mang lại nguồn doanh thu cao cho các tòa soạn báo điện tử. Tuy nhiên,

chính sự phát triển mạnh mẽ của thông tin văn hóa giải trí cùng với ưu thế

vượt trội của loại hình báo điện tử đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt

(về tốc độ cập nhật tin bài, về lượt xem của công chúng, về sức hút quảng cáo

với các doanh nghiệp… giữa các trang báo, dẫn tới tình trạng nhiễu loạn

thông tin, xuất hiện các “thảm họa” và “rác” văn hóa trên mặt báo, tạo ra

những ảnh hưởng tiêu cực và làm phương hại đến hình ảnh văn hóa Việt.

Trong bối cảnh đó báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng không chỉ có

nhiệm vụ đăng tải các thông tin về văn hóa nghệ thuật, về giới NSBD mà còn

có vai trò to lớn trong việc truyền thông về sự phát triển văn hóa Việt Nam

một cách đích đáng tiếp thu và phát triển những giá trị văn hóa ngoại lai tiến

bộ, loại bỏ những yếu tố lai căng phi văn hóa phê phán khuynh hướng xâm

lăng văn hóa trong lối sống đồng thời bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp

của dân tộc trên cơ sở nhận thức được hệ giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, từ

góc nhìn văn hóa Việt Nam để soi chiếu và phản biện.

2.4 Báo điện tử và vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

2.4.1 Báo điện tử

Trên thế giới, trong tiếng Anh, thuật ngữ báo điện tử có nhiều cách gọi

như: Electronic Journal Online Newspaper Internet Newspaper Website

Cyber Newspaper…. Ở Việt Nam cũng có nhiều tên gọi như: báo điện tử,

báo mạng, báo online, báo trực tuyến báo internet… Cho đến nay, thuật ngữ

chính xác để định danh cho loại hình báo điện tử vẫn chưa được thống nhất

57

trên cả thế giới lẫn Việt Nam. Tuy nhiên, ở nước ta, thuật ngữ được dùng phổ

biến nhất là báo điện tử. Trong nhiều văn bản quy phạm của pháp luật của

Việt Nam cũng sử dụng thuật ngữ báo điện tử. Trong luận án này, tác giả

thống nhất sử dụng thuật ngữ báo điện tử để chỉ loại hình báo chí trên nền

tảng internet. Cả ba tờ báo Luận án lựa chọn để khảo sát (Vietnamnet.vn,

News.zing.vn Ngoisao.net đều được gọi tên chung về loại hình là báo điện

tử, nhằm phân biệt với báo in, báo phát thanh và báo truyền hình.

Theo Điều 3, luật báo chí (luật báo chí năm 1989 được sửa đổi, bổ sung

tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí

được thực hiện trên mạng thông tin máy tính”. Còn theo Từ điển tiếng Việt

(Trung tâm từ điển học Nxb Đà Nẵng 2008 thì báo điện tử là: “Loại hình

báo chí mà tin tức, tranh ảnh được hiển thị qua màn hình máy tính thông qua

kết nối trực tuyến với mạng internet, phân biệt với báo ảnh, báo hình, báo

nói, báo viết).

Dựa trên quy định của luật báo chí, những nghiên cứu đi trước và căn

cứ vào tình hình hoạt động thực tiễn của báo điện tử, tác giả luận án xây dựng

khái niệm về báo điện tử như sau: “Báo điện tử là một loại hình báo chí

được phát hành trên mạng internet dưới hình thức của một trang web, sử

dụng công nghệ truyền thông internet để hoạt động thông tin báo chí”.

Khái niệm này đã chỉ ra những đặc trưng khu biệt của loại hình báo chí

này với cách loại hình báo chí khác, và được hiểu một cách chính xác về bản

chất của loại hình báo chí này. Cụ thể như sau:

Thứ nhất: Khẳng định báo điện tử là một loại hình báo chí, tồn tại độc

lập và bình đẳng như mọi loại hình báo chí khác.

Thứ hai: Khẳng định báo điện tử là loại hình báo chí hiện đại, sản phẩm

từ sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ truyền

thông qua website trên nền tảng internet.

58

Thứ ba: Khẳng định những bản chất và đặc trưng riêng của loại hình báo

chí này đó là tính đa phương tiện tính tương tác cao tính tức thời, tính phi định

kỳ, khả năng truyền tải và lưu giữ thông tin không hạn chế, khả năng liên kết…

Thứ tư: Với loại hình báo chí này người làm báo và cả công chúng báo

chí đều yêu cầu phải có một trình độ kỹ thuật công nghệ thông tin nhất định.

Như thế báo điện tử trước hết vẫn phải là một loại hình báo chí, đảm

bảo những đặc trưng cơ bản cũng như mục đích hoạt động đặc thù. Tuy nhiên,

thông tin của báo điện tử vừa giống như mọi loại hình báo chí khác, thể hiện

qua chữ viết, hình ảnh tĩnh đồ họa tĩnh biểu bảng, màu sắc, bố cục (giống

báo in); âm thanh (giống phát thanh); video, hình ảnh động đồ họa động, màu

sắc (giống truyền hình), lại vừa ứng dụng nền tảng công nghệ mới, dùng

phương thức truyền thông của website trên internet để hoạt động và truyền tải

thông tin báo chí. Sự xuất hiện của báo điện tử - một loại hình báo chí hiện

đại thế kỉ XX đã làm đảo lộn nhiều khái niệm truyền thống về báo chí và xuất

bản trước đây như khái niệm tòa soạn, khái niệm định kỳ phát hành, khái

niệm phương thức phát hành.

2.4.2 Thông tin báo chí và thông tin trên báo điện tử

Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực

hiện mục đích của mình, trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Nó

là dụng cụ làm việc của nhà báo, giúp nhà báo thực hiện những công việc đa

dạng và quan trọng. Căn cứ theo phương thức thể hiện thông tin báo chí được

chia thành các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in), thông tin bằng

tiếng nói (phát thanh), thông tin bằng hình ảnh (truyền hình), thông tin trên

mạng internet đa phương tiện).

Một thông tin có giá trị phải là thông tin đầy đủ, có hệ thống qua việc

lựa chọn đúng có khoa học có phương pháp nhằm phục vụ mục tiêu nhất

định. Tức là giá trị tri thức của thông tin được chọn phản ánh trên báo chí, các

59

phương tiện thông tin đại chúng phải gắn với xã hội đương thời. Việc sử dụng

thông tin vào hoạt động TTĐC cũng như việc tiếp nhận thông tin ở mỗi người

đều không thể diễn ra một cách thụ động, mà phải có sự chủ động kiểm định,

xử lý thông tin và chịu trách nhiệm về nguồn tin.

Khả năng đa phương tiện tương tác cao phi định kỳ lưu trữ lớn và dễ

tìm kiếm thông tin giúp thông tin của báo điện tử luôn được cập nhật, phủ

sóng, dễ dàng đáp ứng mọi nhu cầu của công chúng. Tuy nhiên, bên cạnh

những ưu thế không thể phủ nhận, thì báo điện tử cũng phải đối diện với

nhiều sức ép đặc biệt là trong vấn đề bảo đảm an toàn và chính xác thông tin.

Tốc độ thông tin là lợi thế song cũng vô tình trở thành điểm yếu của báo điện

tử khi khâu kiểm duyệt lỏng lẻo, nhiều thông tin không chính xác được đăng

tải trên mặt báo… Thông tin trên báo điện tử cũng phải đương đầu với việc bị

“hack” làm nhiễu, làm sai lệnh do sử dụng nền tảng công nghệ internet.

Chính vì vậy, nâng cao chất lượng đảm bảo độ chính xác của thông tin là vấn

đề mà những người làm báo điện tử hiện nay phải quan tâm hàng đầu.

2.4.3 Mô hình thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

Trên thế giới, có rất nhiều mô hình thông tin được tạo ra bởi các nhà

nghiên cứu như: Harold D. Laswell Claude Shannon… Theo đó về cơ bản,

để tiến hành quá trình thông tin cần các yếu tố: nguồn (sender), thông điệp

(message), kênh (channel), người tiếp nhận (receiver), phản hồi (feedback) và

nhiễu noise . Trong đó mặc d người tiếp nhận có khả năng phản hồi nhưng

nguồn thông tin có vai trò quyết định, có khả năng áp đặt quan điểm và tư

tưởng của mình đối với người tiếp nhận thông tin.

Trong nền kinh tế bao cấp, mô hình này tương đối phù hợp khi mà cả chủ

thể thông tin (ở đây được xác định là nhà báo, tòa soạn báo và đối tượng được

thông tin (nghệ sĩ đều có vai trò và thực hiện chức năng tuyên truyền. Trong đó

chủ thể thông tin có vai trò định hướng thông tin, có khả năng áp đặt quan điểm

60

và tư tưởng của mình trong quá trình thông tin. Tuy nhiên, với sự phát triển

mạnh mẽ của internet, công chúng không còn tiếp nhận thông điệp một cách thụ

động và thiếu chọn lọc nữa. Họ muốn kiểm soát nội dung thông tin mà họ nhận

được và có khả năng tìm kiếm thông tin từ vô số nguồn khác nhau. Thuật toán

Google cùng sự cung ứng từ các công ty dịch vụ internet đã và đang làm thay

đổi một cách mạnh mẽ quy trình thiết kế và chuyển tải thông điệp tới công

chúng. Điều này làm “xô lệch” mô hình thông tin của Laswell Shannon…

khiến nó bộc lộ những điểm bất cập và thiếu đi cái nhìn toàn diện khi phân tích

tổng thể các yếu tố tham gia vào quá trình thông tin về giới NSBD.

Hình 2.1: Mô hình quy trình thông tin của Stuart Hall

Nguồn: Encoding/decoding - Stuart Hall

Nhà xã hội học người Anh - Stuart Hall đã đề nghị một mô hình thông

tin nêu bật tầm quan trọng của việc diễn giải tích cực trong phạm vi các mật

mã có liên quan (Hall 1980, tr.136 . Tương phản với các mô hình truyền

thông tin trước Hall đã trao cho cả “Người mã hóa” cũng như “người giải

mã” vai trò tạo nghĩa [189].

Hall quy các pha trong mô hình thông tin thành những khoảnh khắc

(Khoảnh khắc mã hóa, Khoảnh khắc văn bản, Khoảnh khác giải mã). Mật mã

phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp cho độc giả những nhân dạng xã

hội mà một số người có thể thừa nhận là của chính họ. Nhưng độc giả không

61

nhất thiết phải chấp nhận những mật mã như thế. Nơi những mật mã đó có

liên quan đến việc truyền thông không chia sẻ mật mã chung và địa vị xã hội

thì việc giải mã có khả năng khác biệt với ý nghĩa mong muốn của người mã

hóa. Stuart Hall nhấn mạnh vai trò của quan điểm xã hội trong việc tạo dựng và

diễn giải những văn bản truyền thông đại chúng bởi các nhóm xã hội. Hiểu một

cách nôm na điều này có nghĩa mỗi nhóm người có hạ tầng kĩ thuật, các quan

hệ sản xuất và các cơ cấu trí thức khác nhau sẽ có cách tạo thông điệp và giải

mã thông điệp khác nhau.

Hình 2.2: Mô hình hệ thống/kênh truyền thông phức hợp

Nguồn: Giáo trình Truyền thông IMC tích hợp

Trong sách “Truyền thông marketing tích hợp” IMC PGS.TS Trương

Đình Chiến đã đưa ra mô hình hệ thống/kênh truyền thông phức hợp đồng

thời chỉ ra rằng, quá trình thông tin được bắt đầu khi chủ thể gửi tin tạo ra và

mã hóa một ý tưởng như là một thông điệp và gửi nó qua một trung gian nào

đó đến người nhận tin. Người nhận được thông điệp phải giải mã nó, tạo ra

một ý tưởng mới, rồi mã hóa gửi đi một thông điệp mới. Việc thu nhận thông

tin phản hồi của người nhận có thể chuyển tới trung gian hoặc chủ thể gửi tin,

hoặc cả hai.

Trong quan điểm này, chủ thể gửi tin không chỉ là nhà báo, tòa soạn

báo mà là tất cả những đối tượng có nhu cầu và mục đích truyền đi thông

62

điệp. Thông điệp trong quy trình thông tin bị tác động và ảnh hưởng bởi mục

tiêu khác nhau của từng nguồn phát thông điệp khác nhau. Ở đây khi áp dụng

quan điểm này vào mô hình truyền thông của Hall để giải thích thông tin về

giới NSBD trên báo điện tử có phần hợp lý hơn khi mà quá trình thông tin

này không chỉ đơn thuần là sự truyền đi thông tin từ nhà báo/tòa soạn tới công

chúng nữa, mà tồn tại mối quan hệ đa chiều, phức tạp giữa nhà báo/tòa soạn -

doanh nghiệp - giới NSBD và công chúng trong xu hướng thương phẩm hóa

báo chí và các sản phẩm văn hóa nghệ thuật. Trong mối quan hệ này, nhà

báo/tòa soạn không còn giữ vị trí độc tôn trong việc định hướng và áp đặt

thông tin nữa thay vào đó mỗi chủ thể đều có thể trở thành chủ thể gửi tin với

mục tiêu của riêng mình, hoặc có thể trở thành phương tiện truyền thông

trung gian cho các chủ thể còn lại. Như thế, vai trò tạo nghĩa được trao cho cả

nhà báo, tòa soạn báo, giới NSBD và doanh nghiệp. Mỗi nhóm ở những hạ

tầng kĩ thuật, quan hệ sản xuất và cơ cấu tri thức khác nhau, tùy thuộc vào

mục tiêu truyền thông của mình mà truyền đi những thông điệp khác nhau.

Tuy nhiên do đặc tính thương phẩm hóa của văn hóa đại chúng, bị chi phối

sâu sắc bởi logic kinh tế thị trường này, nên cả nhà báo/tòa soạn/ và giới

NSBD khi tạo ra thông điệp đều hướng tới công chúng, tạo ra lợi nhuận từ

công chúng, coi lợi nhuận là mục đích quan trọng nhất, bất chấp tất cả để tối

đa hóa lợi nhuận, chính vì thế dẫn tới những “thảm họa thông tin” về giới

NSBD, khiến vấn đề thông tin về giới NSBD trở thành vấn đề “nóng” của

truyền thông hiện nay. Mô hình thông tin của Hall kết hợp với mô hình truyền

thông phức hợp của PGS.TS Trương Đình Chiến cho phép luận án có cái nhìn

toàn diện trong việc đánh giá phân tích đồng bộ các yếu tố tham gia vào quá

trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đó là: Báo điện tử, giới

NSBD, tác phẩm báo chí và công chúng.

Có thể phác thảo mô hình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

hiện nay như sau:

63

Hình 2.3: Mô hình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

2.4.4 Nghệ sĩ biểu diễn – KOLs gây ảnh hưởng trong mô hình thông tin

KOLs là từ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh “Key opinion leaders” –

những người có sức ảnh hưởng trên cộng đồng mạng được nhiều người biết

đến trên diện rộng. KOLs gồm 3 nhóm người nổi tiếng/ chuyên gia có ảnh

hưởng/công dân có ảnh hưởng trong đó “celebrity” người nổi tiếng, bao

gồm cả NSBD) là nhóm có sức ảnh hưởng lớn nhất có độ “reach” tiếp cận)

cao nhất. Nhờ kĩ năng giao tiếp đại chúng và lượng người hâm mộ đông đảo,

các bài “post” của họ thường tạo ra mức độ thảo luận và tương tác cao thậm

chí thành “trend” xu hướng) trong truyền thông, can thiệp vào quá trình

thông tin.

Trong Marketing 4.0 – moving from traditional to digital, Philip Kotler

cũng đưa ra mô hình Ozone để thể hiện sự tác động của các yếu tố bên ngoài

tới công chúng trong quá trình tiếp nhận thông tin:

64

Hình 2.4: Mô hình Ozone

Nguồn: “Marketing 4.0 – moving from traditional to digital” – Philip Kotler

Công chúng thường bị tác động bởi sự kết hợp từ sự ảnh hưởng của bản

thân, của người khác (những thông tin đến từ bạn bè, gia đình thần tượng…

và từ bên ngoài (những thông tin có chủ đích trên truyền thông đại chúng).

Trong đó theo Philip ảnh hưởng từ bên ngoài tác động tới công chúng mạnh

mẽ nhất. Cha đẻ của ngành Marketing cũng chỉ rõ, trong thời đại số 4.0,

internet và các nhân tố F (family – gia đình friends – bạn bè, famous person –

người nổi tiếng, fans – người hâm mộ… khiến cách thức, mô hình truyền tải

thông tin phải thay đổi [181, tr.85]. NSBD là các KOLs chính là một trong

những nhân tố F đó famous person – người nổi tiếng), họ tạo ra những ảnh

hưởng và chi phối mạnh mẽ tới tâm lý và quyết định của công chúng.

Một số công trình nghiên cứu truyền thông marketing về ảnh hưởng của

người nổi tiếng (bao gồm NSBD) trên truyền thông tới công chúng của Ruchi

Gupta (2015) tại Ấn Độ; Kamal Khan (2014) tại Ấn Độ và Pakistan; Nguyen

Minh Ha, Nguyen Hung Lam (2017) tại Việt Nam… đã chỉ ra được những yếu

tố của NSBD luôn tác động mạnh đến ý thức thái độ và hành vi của công

chúng đó là: sự tin tưởng (1), sự liên quan (2), nội dung thông tin (3), sự tương

tác (4), ngoại hình (5), sự nổi tiếng (6), và kiến thức chuyên môn (7).

Mặc dù là kết quả nghiên cứu ở lĩnh vực truyền thông marketing nhưng

nó góp phần lý giải sự thay đổi mạnh mẽ của mô thức thông tin về giới NSBD

trên báo điện tử hiện nay, khi không ít doanh nghiệp đã sử dụng KOLs kết hợp

với báo điện tử để truyền tải thông điệp mong muốn tới các nhóm công chúng là

khách hàng của họ. Chủ thể truyền thông trong sự dịch chuyển này không chỉ còn

65

là tòa soạn và nhà báo nữa mà là sự kết hợp giữa nhà báo, doanh nghiệp và cả

người nổi tiếng. Điều này làm rõ hơn đặc trưng thương phẩm hóa các sản phẩm

nghệ thuật của văn hóa đại chúng.

2.4.5 Thế mạnh và hạn chế trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn

Việt Nam trên báo điện tử

Không phủ nhận báo điện tử phát huy được nhiều yếu tố là thế mạnh

trong việc đăng tải thông tin về giới NSBD VN. Tuy nhiên, loại hình này

cũng không tránh được ảnh hưởng từ các yếu tố nội tại và ngoại cảnh, dẫn tới

những hạn chế về mặt chất lượng trong việc thông tin về giới NSBD VN.

Thế mạnh

Khả năng thông tin nhanh và phi định kỳ: dựa trên nền tảng internet, báo

điện tử có thể truyền thông tin với tốc độ nhanh và luôn cập nhật khiến công

chúng bị cuốn theo, cảm thấy được thỏa mãn và liên tục quan tâm tới trang tin.

Nội dung thông tin không bị giới hạn bởi dung lượng, hình thức thể hiện

đa phương tiện: Mỗi ngày, một trang báo điện tử có thể xuất bản hàng chục,

hàng trăm tin bài ảnh video clip…. Đây là điều mà báo in, phát thanh hay

truyền hình không thể làm được. Nhờ khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố chữ

viết, hình ảnh âm thanh đồ họa, hình khối… sức hấp dẫn của các bài báo điện

tử cũng lớn hơn giúp công chúng dễ hiểu và dễ tiếp nhận thông tin hơn.

Thông tin dễ dàng được tìm kiếm và chia sẻ: Dựa vào khả năng liên

kết, tạo các siêu liên kết hyperlink, những thông tin trên báo mạng điện tử có

sức lan tỏa mạnh mẽ và nhanh chóng. Công chúng có khả năng tiếp cận thông

tin ở mọi lúc mọi nơi chỉ cần thông qua một thiết bị có kết nối internet. Bên

cạnh đó nhờ khả năng lưu trữ, tạo tệp dữ liệu online của báo điện tử mà

những nội dung được đăng tải trước đó không bị mất đi công chúng có thễ dễ

dàng tìm kiếm thông tin mình cần và dễ dàng chia sẻ nó cho người khác.

Tính tương tác cho phép công chúng dễ dàng phản hồi thông tin, bàn

luận và tạo lập các diễn đàn trao đổi: Tính tương tác thể hiện rõ trong việc

66

rất nhiều các phản hồi (comment) của độc giả được đăng tải ngay phía dưới

tác phẩm và theo dòng sự kiện. Không chỉ bày tỏ ý kiến một chiều về tác

phẩm, công chúng còn có thể c ng trao đổi, thảo luận qua lại với nhau, với

tòa soạn. Cũng nhờ môi trường thông tin mang tính tương tác cao này nhiều

trang báo điện tử đã tổ chức các diễn đàn không giới hạn số lượng công chúng

tham gia, nhiều trang còn thu hút hàng triệu độc giả đóng góp ý kiến, bàn

luận, tạo thành dư luận xã hội.

Đội ngũ phóng viên được đào tạo, tiếp cận với công nghệ làm báo mới:

Các phóng viên, biên tập viên các báo điện tử hiện nay liên tục được đào tạo

và trải nghiệm các phương thức làm báo mới, hiện đại: từ việc thu thập tin

tức, xử lý dữ liệu cho tới hình thức thể hiện tin bài. Xuất hiện nhiều hình thức

TPBC mới như: bài chuyên sâu long-form story), VR (Virtual Reality),

Livestream, gói tin tức Package news … Nhờ đó nhiều sản phẩm mới, có

tính sáng tạo cao ra đời giúp cho thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

ngày càng hấp dẫn, dễ tiếp nhận. Bên cạnh đó các phương tiện kĩ thuật hiện

đại như go pro các phần mềm hỗ trợ xây dựng các sản phẩm báo chí…

cũng được cập nhật, áp dụng, giúp tăng cường tốc độ thực hiện cũng như cải

thiện chất lượng tin bài.

Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa đại chúng và công nghiệp giải trí ở

Việt Nam giúp cho đời sống và các hoạt động văn hóa nghệ thuật của giới

nghệ sĩ biểu diễn trở nên phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết, góp phần

làm cho nguồn đề tài và nội dung các bài viết, các tác phẩm báo chí trở nên

dồi dào đa chiều đa màu sắc, hấp dẫn và thỏa mãn công chúng nhiều hơn.

Hạn chế

Chạy đua trong sản xuất thông tin giữa các trang báo: Nhiều trang báo

chạy theo tiêu chí nóng, nhanh của thông tin mà bỏ qua yêu cầu về mức độ chính

xác của thông tin, bỏ qua những khâu quan trọng trong kiểm chứng thông tin.

Nhiều thông tin vì thế mà sai lệch, ảnh hưởng tới không chỉ uy tín của tờ báo mà

67

còn tác động tiêu cực tới nghệ sĩ và công chúng. Nhiều nghệ sĩ biểu diễn chịu

cảnh lao đao khi bị tung tên thất thiệt chưa được kiểm chứng trên báo điện tử.

Thậm chí, có những thông tin gây hoang mang trong dư luận tác động xấu tới

công chúng.

Xuất hiện nhiều thông tin phản cảm khi thông tin về giới NSBD Việt:

Chính việc chạy đua trong khai thác thông tin cũng như sự quá đà trong cách

thức thể hiện đã khiến rất nhiều thông tin về giới NSBD Việt trở thành những

thông tin câu khách phản cảm, đi ngược với thuần phong mỹ tục văn hóa Việt

Nam làm phương hại tới hình ảnh văn hóa dân tộc, tạo ra cái nhìn lệch lạc,

không trung thực và thiếu toàn diện về cả hai ngành văn hóa là Báo chí truyền

thông và Nghệ thuật biểu diễn.

Thiếu tính định hướng: Tình trạng báo điện tử bị thương mại hóa ngày

càng nghiêm trọng. Việc đăng tải thông tin, hình ảnh giật gân, câu khách, thiếu

văn hóa thiếu nhân văn phản giáo dục, thiếu trách nhiệm với xã hội và độc giả

ngày càng phổ biến. Chỉ vì phục vụ thị hiếu của một bộ phận bạn đọc mà mất đi

tính định hướng xã hội định hướng dư luận của báo chí.

Chưa tạo được bản sắc riêng khi thông tin về giới NSBD VN: Việc

chạy đua sản xuất thông tin, cạnh tranh độc giả khiến nhiều trang báo không

giữ được tôn chỉ, mục đích của mình đồng thời xuất hiện hiện tượng thông

tin trên các trang báo khá tương đồng nhau. Vào một thời điểm, chỉ cần đọc

một trang báo điện tử công chúng đã nắm được một cách cơ bản thông tin về

giới NSBD VN và các hoạt động của họ xuất hiện trên các tờ báo khác. Hiện

tượng “xào” bài ngày càng tinh vi khiến các trang báo khó khăn trong việc

bảo vệ bản quyền tác phẩm báo chí đồng thời khiến các trang báo điện tử trở

thành những phiên bản na ná của nhau.

Dễ tạo dư luận gây ảnh hưởng tiêu cực: Nếu thông tin về giới NSBD

(những KOLs có khả năng dẫn dắt hành vi của công chúng) là những thông tin

tích cực thì việc thông tin lan tỏa nhanh sẽ tạo ra những hiệu ứng tích cực.

68

Nhưng ngược lại, nếu đó là thông tin tiêu cực, phản cảm, nó sẽ gây ra những hệ

quả tiêu cực, thậm chí tạo nên một dư luận xấu ảnh hưởng tới cả những nghệ sĩ

được đưa thông tin nói riêng và tới đời sống cộng đồng nói chung.

Tính ảo của môi trường internet: các chủ thể tham gia phản hồi đóng

góp ý kiến... với các tác phẩm đăng trên báo điện tử có thể không thật, không

phản ánh được chính xác nhu cầu của CCTC về mặt hàm lượng và nội dung

thông tin, dẫn tới những sai lầm trong việc định hướng thông tin của tòa soạn.

Trở thành “công cụ” truyền thông của giới NSBD khi họ cố tình tạo

“scandal” để hút báo chí, hút sự chú ý của công chúng đánh bóng tên tuổi.

2.4.6 Những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thông tin về giới NSBD VN

trên báo điện tử

+ Toàn cầu hóa truyền thông và mạng xã hội:

“Toàn cầu hóa” vừa được coi là nguyên nhân phát triển của truyền thông

đại chúng đương đại, vừa là một trong những kết quả của nó [28, tr.88]. Một

trong những biểu hiện của “toàn cầu hóa truyền thông” là công nghệ truyền

thông số. “Công nghệ truyền thông số tạo điều kiện giúp việc sản xuất và phát

hành sản phẩm truyền thông ngày một nhanh chóng, dễ dàng, đồng thời khiến

việc quản lý báo chí truyền thông trở nên khó khăn hơn bao giờ hết” - PGS.TS

Đặng Thị Thu Hương [58, tr.91].

MXH đã và đang có ảnh hưởng lớn đến đời sống báo chí tại Việt Nam

nói chung và hoạt động thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử nói

riêng, từ việc phát hiện đề tài, nắm bắt xu hướng khai thác thông tin đến cả

việc kiểm chứng thông tin, xử lý tin tức. Mạng xã hội cũng làm thay đổi hành

vi của công chúng. Từ chỗ chỉ là người tiếp nhận thông tin một cách bị động,

nay họ trở thành người chủ động tham gia sản xuất, cung cấp và chia sẻ thông

tin đem lại những thách thức lớn cho các tòa soạn và các nhà báo. Chính

mạng xã hội đã làm thay đổi “môi trường sinh thái” của các loại hình truyền

thông hiện nay trong đó có báo điện tử.

69

Ở một mức độ nào đó sự tác động của công nghệ truyền thông số làm

thay đổi cách thức làm báo đặc biệt khi mỗi công dân giờ đây đều có thể trở

thành một người đưa tin qua các hình thức được gọi là “báo chí công dân”

citizen media đang nở rộ trên các mạng xã hội. Nhưng với báo điện tử dòng

chính thống mainstream theo đuổi và cạnh tranh theo hướng đó không phải

là điều đơn giản bởi một toà soạn có đồ sộ đến mấy cũng không thể nào cạnh

tranh được với một mạng xã hội hoặc một trang web có hàng trăm nghìn

hàng triệu, thậm chí đến hàng tỷ người d ng và tham gia tương tác như

Facebook hay Twitter.

Các phương tiện truyền thông mới được coi là “quyền lực thứ 5” có

sức mạnh to lớn vượt ra ngoài các biện pháp quản lý hành chính hay kĩ thuật

của một quốc gia cụ thể [58 tr.92]. Điều này tạo ra áp lực lớn cho các trang

báo điện tử chính thống khi họ phải chạy đua việc sản xuất tin bài cũng như

tạo ra sức hút cho tin bài để cạnh tranh với các mạng xã hội, dẫn đến thông tin

được sản xuất vội vàng không được kiểm chứng, sụt giảm về chất lượng, gây

ảnh hưởng tiêu cực tới chính người nghệ sĩ và cả công chúng tiếp nhận.

+ Toàn cầu hóa về văn hóa

Xu hướng này giúp cho văn hóa các dân tộc phong phú đa dạng hơn

nhưng ngược lại cũng chịu những sự mất mát, thui chột khi không thể cạnh tranh

với làn sóng văn hóa ngoại lai. Việt Nam nằm ở vị trí thuận tiện cho việc giao

lưu văn hóa và đang chịu ảnh hưởng sâu sắc của các dòng văn hóa ngoại lai tới

từ Mỹ, châu Âu, và cả châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… . Nhờ toàn

cầu hóa văn hóa nói chung và các hoạt động nghệ thuật biểu diễn của chúng ta

trở nên đa dạng phong phú hơn. Nhưng cũng chính toàn cầu hóa đã khiến các hệ

giá trị văn hóa dân tộc truyền thống đang bị xô lệch, lung lay, mất đi định hướng.

Cả nghệ sĩ biểu diễn lẫn công chúng tiếp nhận đều tiếp thu những làn sóng văn

hóa ngoại lai rất nhanh, dẫn đến việc truyền thông về giới NSBD VN trên báo

điện tử cũng phải cập nhật “xu hướng” nhanh để có thể đáp ứng và thu hút được

70

công chúng. Mà những “xu hướng” ấy không phải cái nào cũng ph hợp, thậm

chí đi ngược lại các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nói cách khác, việc

chạy theo “xu hướng” văn hóa ảnh hưởng không nhỏ tới định hướng thông tin

cũng như chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.

+ Áp lực lớn từ nền kinh tế thị trƣờng

Các tòa soạn báo điện tử khi thực hiện tự chủ tài chính đều chịu áp lực

lớn. Cơ chế tự chủ tài chính tác động tới chất lượng, nội dung thông tin trên báo

chí nói chung và thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử nói riêng ở cả khía

cạnh tích cực và tiêu cực.

Về mặt tích cực: để nâng cao khả năng cạnh tranh và sức hút đối với công

chúng các trang báo điện tử không ngừng cải tiến nội dung và hình thức của các

TPBC; ra đời nhiều chuyên trang, chuyên mục giải trí mới với nội dung gần gũi

thông tin đặc sắc nhằm phục vụ nhóm công chúng mục tiêu đáp ứng nhu cầu của họ.

Tuy nhiên, tự chủ tài chính cũng tạo ra sức ép lớn tới các tòa soạn báo

điện tử và tạo ra các tác động tiêu cực tới chất lượng thông tin. Mặc dù mục đích

là hướng tới một nền báo chí chuyên nghiệp nhưng tự chủ tài chính lại tạo ra xu

hướng “thương mại hóa báo chí”. Hiện nay, nguồn thu của các tòa soạn báo điện

tử phụ thuộc lớn vào các hợp đồng quảng cáo, tài trợ, tuy nhiên nguồn thu này

đang đối diện với sự cạnh tranh lớn từ mạng xã hội. Hầu hết các tòa soạn báo

điện tử đều phải mưu tính các giải pháp phát triển kinh doanh, chấp nhận các

điều kiện kiếm tiền không trong sáng áp định mức lượt xem để tính nhuận bút

cho phóng viên, dồn áp lực tài chính lên phóng viên… Do đó chất lượng thông

tin về giới NSBD VN ít nhiều bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực.

2.5 Tiêu chí đánh giá chất lƣợng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt

Mục tiêu chung của báo chí là thông tin vì sự phát triển của nhân loại.

Báo điện tử và thông tin về giới NSBD VN không nằm ngoài mục tiêu này.

71

PGS.TS Nguyễn Văn Dững trong sách Báo chí truyền thông hiện đại

[23 tr.91] đã đưa ra mô hình cơ chế tác động của báo chí (hình 2.5). Theo mô

hình này, tác phẩm báo chí nằm ở bước thứ 3 trong quá trình hoạt động của cơ

chế đó là thông điệp (sản phẩm truyền thông). Thông qua các kênh truyền

thông (báo in, báo mạng...) các tác phẩm báo chí tác động trực tiếp vào ý thức

quần chúng bằng các nội dung và thông tin (công chúng tự lựa chọn). Quá

trình báo chí tác động tới công chúng mà PGS.TS Nguyễn Văn Dững đưa ra

có thể tóm tắt như sau: Hiểu câu chuyện, vấn đề -> bắt chước, làm theo hoặc

lên án, tẩy chay quyết định nhận thức và hành vi của công chúng.

Hình 2.5: Mô hình cơ chế tác động của báo chí

Nhận thức chính trị

Ý thức quần chúng

Kênh truyền thông

Sản phẩm truyền thông

Chủ thế truyền thông

Thực tiễn các sự kiện, vấn đề

Thực tiễn các sự kiện, vấn đề

Hiểu biết tri thức tổng hợp

Hiệu lực

Hiệu quả

Nguồn: PGS.TS Nguyễn Văn Dững, sách Báo chí truyền thông hiện đại

Còn theo sách Truyền thông đại chúng của tác giả Tạ Ngọc Tấn, hiệu

quả xã hội của TTĐC thể hiện ở 3 mức độ: 1) Hiệu quả tiếp nhận: đây là cấp

độ thấp nhất, thể hiện sự đánh giá về số lượng, cách thức tiếp cận và chấp

nhận nguồn tin từ công chúng; 2) Hiệu ứng xã hội: là những biểu hiện của xã

hội (phản ứng tâm lý, cách ứng xử, hành vi cụ thể và dư luận xã hội) hình

thành do sự tác động của thông tin từ các phương tiện TTĐC; 3 Hiệu quả

thực tế: là tiêu chí cao nhất trong việc đánh giá hiệu quả xã hội của TTĐC.

Đó là những thay đổi, vận động thực tế của đời sống xã hội dưới tác động của

TTĐC. Với tư cách là một phương tiện TTĐC báo điện tử cũng phải dựa trên

những tiêu chí này để đánh giá hiệu quả và chất lượng thông tin.

72

Như vậy sự tác động của thông tin và phản hồi của công chúng là một

trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng thông tin của báo chí

nói chung và báo điện tử nói riêng. Trong đó tần suất độ phủ thông tin lượt

đọc tin bài được cho là mức độ thấp nhất; sự thay đổi trong cảm xúc, nhận

thức dư luận xã hội, từ đó dẫn tới những thay đổi trong hành vi ứng xử của

công chúng là mức độ cao hơn.

Trong quá trình hội nhập văn hóa toàn cầu ngày càng sâu rộng, bên

cạnh việc học hỏi các phương thức làm báo hiện đại, tiếp xúc với những lý

thuyết truyền thông mới trên thế giới, việc vận dụng các phương thức và lý

thuyết này vào Việt Nam cũng phải đề cao yếu tố phù hợp và tương thích với

văn hóa Việt. Văn hóa giống như một người dẫn đường cho quá trình giao lưu

và hội nhập ở nhiều khía cạnh khác nhau trong đó có hoạt động báo chí. Báo

chí đặc biệt là loại hình báo chí hiện đại, có sức lan tỏa như báo điện tử) có

vai trò quan trọng trong việc truyền thông văn hóa Việt, gạn đục khơi trong

giữ gìn bản sắc văn hóa Việt dưới sự “dẫn đường” của hệ giá trị văn hóa dân

tộc Việt. Chính vì vậy, bên cạnh các cơ chế tác động thông tin tới công chúng,

việc xây dựng những tiêu chí nhằm soi chiếu, đánh giá chất lượng thông tin

về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt là điều cần thiết.

Trong bài viết Văn hóa truyền thông và truyền thông có văn hóa đăng

trên Kỷ yếu Văn hóa truyền thông thời kỳ hội nhập (Nxb Thông tin và truyền

thông 2013 GS. Hà Minh Đức đã chỉ ra các nguyên tắc của văn hóa truyền

thông trong thời kỳ hiện đại như sau: Văn hóa truyền thông phải góp phần bảo

vệ quyền lợi thiêng liêng của dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc; Văn hóa

truyền thông phải đề cao những giá trị nhân văn của truyền thống văn hóa

Việt Nam trong quá khứ và hiện tại; Truyền thông văn hóa phải đảm bảo tính

trung thực, không bịa đặt; Văn hóa truyền thông phải tránh khuynh hướng

thực dụng thương mại hóa; Cần nâng cao phê phán cái tiêu cực, cái xấu trong

lĩnh vực văn hóa [26, tr11-23].

73

Dựa trên cơ chế tác động của báo chí, các nguyên tắc của văn hóa truyền

thông trong thời kỳ hiện đại mà các nhà nghiên cứu trước đã đưa ra như phân

tích ở trên; dựa trên đặc thù riêng biệt của loại hình báo điện tử; và dựa trên góc

nhìn văn hóa Việt xuất phát từ hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống (với cả

những giá trị phái sinh và phi giá trị) cùng mục tiêu xây dựng hệ giá trị văn hóa

Việt Nam mới mà GS.Trần Ngọc Thêm đã nghiên cứu đề xuất (Tính cộng

đồng, xã hội; Tính hài hòa thiên về dương tính; Tính chủ toàn hiện đại; Tính

năng động), tác giả luận án xin được đưa ra các tiêu chí đánh giá thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt như sau:

2.5.1 Nhóm tiêu chí về nội dung, hình thức thông tin

Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải đảm

bảo nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt, góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa

dân tộc: Văn hóa Việt Nam có bản sắc riêng mà mỗi ở mỗi chặng đường lịch

sử, các hiện tượng văn hóa đều có giá trị riêng. Báo chí nói chung và báo điện

tử nói riêng cần tiếp nhận những cái hay, cái mới của thế giới nhưng cũng

cần đề cao những giá trị nhân văn của truyền thống văn hóa Việt trong quá

khứ và hiện tại, phê phán khuynh hướng xâm lăng văn hóa kể cả trong lối

sống của nghệ sĩ, trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bảo vệ những giá trị

văn hóa tốt đẹp của dân tộc đúng với phương châm Nghị quyết của Đảng đề

ra tại Đại hội VIII là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải tránh

khuynh hướng thực dụng, thương mại hóa: Mặc d văn hóa đại chúng và

công nghiệp giải trí phát triển ngày càng mạnh mẽ, xu hướng thương mại

hóa các sản phẩm nghệ thuật và thông tin báo chí do ảnh hưởng của logic

kinh tế thị trường là khó tránh khỏi, tuy nhiên văn hóa nói chung và văn hóa

nghệ thuật nói riêng thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, thuộc về phạm

trù ý thức tinh thần của xã hội, khác biệt với những hoạt động sản xuất hàng

74

hóa vật chất, dịch vụ khác trong đời sống thường ngày. Không thể biến hoạt

động thông tin về văn hóa nghệ thuật (bao gồm thông tin về giới NSBD)

thành thực dụng tầm thường vì lợi ích kinh tế làm méo mó đi bản sắc văn

hóa dân tộc Việt.

Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải phản

ánh những phẩm chất tốt đẹp của họ; đồng thời phê phán cái tiêu cực, cái

xấu, thói vọng ngoại thái quá, đi ngược thuần phong mỹ tục của họ dựa trên

tinh thần phản biện, xây dựng: Nguyên Thứ trưởng Bộ TT&TT Đỗ Quý Doãn

nhận định: “Thông tin về giới NSBD trên báo điện tử như một con dao hai

lưỡi. Sử dụng tốt thì rất hữu hiệu. Nhưng nếu có sai sót, vi phạm thì cũng tạo

ra những hệ lụy vô cùng kinh khủng” PVS 02 . Với chức năng giáo dục văn

hóa - thẩm mỹ và chức năng giải trí của báo chí, thông tin về giới NSBD

thường gắn liền với các sự kiện văn hóa nghệ thuật, có tính giải trí cao, thu

hút đông đảo công chúng quan tâm. NSBD là thần tượng, hình mẫu cuộc sống

của rất nhiều công chúng. Lối sống đạo đức… của họ có khả năng ảnh hưởng

tới công chúng đặc biệt khi được khuếch trương trên báo điện tử. Những

phẩm chất tốt đẹp của NSBD trên báo chí có khả năng động viên, khích lệ,

giáo dục, bồi đắp cho công chúng những lối sống và tư duy tích cực; góp phần

đẩy l i thói hư tật xấu đi ngược với thuần phong mỹ tục của xã hội. Tuy

nhiên, những hình ảnh, lối sống tiêu cực của NSBD nếu xuất hiện tràn lan trên

báo chí sẽ gây hậu quả khôn lường tác động xấu tới công chúng, làm suy

giảm các giá trị văn hóa hóa tốt đẹp. Chính vì vậy báo chí cũng cần mạnh mẽ

phê phán những hình ảnh tiêu cực của NSBD VN trong quá trình hội nhập

văn hóa toàn cầu nhầm gìn giữ và phát huy những chuẩn mực và giá trị văn

hóa dân tộc Việt, phản biện lại những yếu tố tiêu cực làm suy giảm những giá

trị văn hóa truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên, báo chí khen hay chê đều

phải đúng người đúng việc, và phải dựa trên tinh thần xây dựng để kích thích

những nét hay nét đẹp và giảm thiểu những hiện tượng tiêu cực.

75

Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải hướng

tới sự nhân văn, tôn trọng con người, phù hợp truyền thống trọng tình trọng

lý trong ứng xử của người Việt với nhau: Trong Quy định đạo đức nghề

nghiệp của người làm báo Việt Nam, điều 3 nêu rõ: “Nhà báo đưa thông tin

phải đảm bảo chính xác, trung thực, khách quan, không đưa những thông tin

gây ra hiểu lầm hoặc bị móp méo. Không đăng tin đồn khi chưa được kiểm

chứng. Không được viện cớ vì lợi ích chính đáng của công chúng để đưa tin

giật gân, câu khách” [100, tr. 709]. Tại điều 8 trong bản Phác thảo Quy tắc

đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam nêu rõ: “Cho dù mối quan tâm

của công chúng cũng không được sử dụng ngôn ngữ thấp kém hay công kích,

tấn công người khác một cách ác ý” [100, tr. 67]. Như vậy, xét cả từ góc độv

văn hóa truyền thống lẫn các điều luật quy định của luật pháp, các tòa soạn

báo cũng như các nhà báo phải chịu trách nhiệm trước thông tin mình đưa ra

tôn trọng danh dự và cuộc sống riêng của mọi người trong đó có giới

NSBD), tuyệt đối không được sử dụng ngôn ngữ thiếu chuẩn mực đề cập tới

những vấn đề nhạy cảm không được kiểm chứng, gây hại cho tư duy và tư

tưởng của công chúng làm méo mó đi hình ảnh văn hóa dân tộc.

Hình thức thông tin về giới NSBD VN phải thể hiện theo đặc thù của báo

điện tử, phù hợp với môi trường truyền thông online và thói quen của công

chúng, đảm bảo phù hợp văn hóa Việt: Báo điện tử cần thỏa mãn yêu cầu về

trình bày trên giao diện, gắn liền với đặc trưng thiết kế của báo điện tử (số ký tự

trên tiêu đề, diện tích ảnh dung lượng ảnh độ dài nội dung, màu sắc chữ đồ

họa...), vừa đảm bảo tính thẩm mĩ vừa thuận tiện cho người đọc trong việc đọc

và tiếp nhận thông tin. Ngoài ra, các yếu tố: chữ viết, âm thanh, video, hình

ảnh... cũng cần chuẩn chỉnh, nâng tầm văn hóa đọc được kết hợp hài hòa, hợp lý

giúp tăng khả năng biểu đạt thông điệp tăng sự hấp dẫn và lan tỏa thông điệp

của trang báo. Tránh vì mục đích thu hút người đọc mà đăng tải những hình ảnh

và giật tiêu đề phản cảm, không phù hợp với văn hóa Việt truyền thống.

76

2.5.2 Nhóm tiêu chí về nhận thức, năng lực của người làm báo

Các tòa soạn báo cần có định hướng rõ ràng trong việc thông tin về

giới NSBD VN, phù hợp với nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt: Trong quá

trình thông tin về giới NSBD VN, các tòa soạn báo cần xác định rõ ràng đây

là hoạt động thông tin nhằm thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt.

Từ đó có những chiến lược định hướng thông tin rõ ràng, loại bỏ những thông

tin mang những giá trị phi văn hóa và tăng cường thực hiện những thông tin

truyền tải các giá trị phái sinh của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Nhà báo thực hiện viết tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN

cần thể hiện được tố chất văn hóa: Báo chí là sản phẩm văn hóa thông tin về

giới NSBD VN là một hoạt động thông tin văn hóa nghệ thuật do đó đòi hỏi

nhà báo phải có văn hóa phải coi hoạt động tác nghiệp của mình là hoạt động

văn hóa. Văn hóa của nhà báo thể hiện ở thái độ của họ với dân tộc, với đạo

đức nghề nghiệp, với nhiệm vụ truyền thông và giữ gìn văn hóa Việt, với đối

tượng mình đưa tin nghệ sĩ biểu diễn), với công chúng và với các quy ước

ứng xử với cộng đồng của người Việt, không vì áp lực kinh tế mà quên mất đi

vai trò của mình, trở thành công cụ của NSBD và doanh nghiệp, suy giảm tinh

thần và đạo đức của người làm báo. Nhà báo khi viết bài cũng cần nhận thức

rõ kiến thức chuyên môn lĩnh vực mình viết (ở đây là văn hóa nghệ thuật và

nghệ sĩ tránh viết và đưa ra những nhận định sai lầm. Như vậy, nhà báo khi

viết về văn hóa văn hóa nghệ thuật nói chung và về giới NSBD nói riêng cần

đảm báo: có chuyên môn nghiệp vụ có đạo đức nghề nghiệp và luôn đặt công

chúng lên hàng đầu khi viết bài.

2.5.3 Nhóm tiêu chí về phản hồi và đánh giá của công chúng

Đánh giá các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN dựa trên số

lượng lượt xem, lượt thích, lượt bình luận, chia sẻ của công chúng: Tiêu chí

này phản ánh mức độ thu hút và độ phủ của thông tin tới công chúng.

77

Đánh giá tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN dựa trên phản

ứng và đánh giá của công chúng: Thông tin là một quá trình hai chiều, phản

hồi của công chúng cho biết hiệu quả truyền thông. Thái độ và phản ứng của

công chúng khi tiếp nhận thông tin về giới NSBD VN trên các trang báo điện

tử phản ánh mức độ tạo dư luận xã hội của thông tin; mức độ tác động tới

nhận thức cũng như thay đổi thái độ hành vi, thị hiếu thẩm mĩ của công chúng

khi tiếp nhận thông tin; cũng đồng thời là một trong những thước đo quan

trọng phản ánh hiệu quả của báo điện tử trong nhiệm vụ truyền thông văn hóa

Việt Nam với thông tin về giới NSBD VN tới công chúng.

Đánh giá tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN dựa trên nhận

thức và trình độ văn hóa của công chúng khi tiếp nhận thông tin: Nhận thức

và trình độ văn hóa của công chúng tốt đồng nghĩa với việc họ sẽ tạo ra những

phản ứng đối với tác phẩm báo chí và đối tượng được thông tin trong tác

phẩm báo chí (NSBD VN) một cách tích cực đúng đắn, mang tính xây dựng,

góp phần giúp người làm báo và cả NSBD điều chỉnh những sai sót, khắc

phục hạn chế

78

Chương 2 của luận án đã hệ thống hóa các khái niệm về: văn hóa báo

Tiểu kết Chƣơng 2

điện tử thông tin trên báo điện tử.. đặc biệt là xây dựng khung lý thuyết cơ

bản về hệ giá trị văn hóa dân tộc Việt và góc nhìn văn hóa Việt, về giới

NSBD và giới NSBD VN, cũng như mô hình thông tin về giới này trên báo

điện tử. Chương 2 của luận án cũng xây dựng được các tiêu chí đánh giá

thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử. Hệ thống lý thuyết này chính là

cơ sở khoa học cho việc nhìn nhận và phân tích thực trạng vấn đề thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử trong phạm vi khảo sát của luận án.

Báo chí vừa là một sản phẩm thông tin - truyền thông của nền văn hóa

vừa là một sinh hoạt văn hóa. Sự phát triển của báo chí không thể tách rời

khỏi môi trường văn hóa xã hội, mối quan hệ giữa báo chí và văn hóa là mối

quan hệ cộng sinh. Bởi vậy, phải từ góc nhìn văn hóa giải mã được các hiện

tượng xã hội, các yếu tố tham gia vào quá trình truyền thông, từ đó mới có thể

tạo ra được những tác phẩm báo chí hay có tính nhân văn.

Báo điện tử là một loại hình báo chí hiện đại, hình thành dựa trên nền

tảng công nghệ thông tin hiện đại. Với đặc trưng riêng báo điện tử có ưu thế

lớn trong việc truyền tải thông tin nói chung, thông tin VHNT (bao gồm cả giới

NSBD nói riêng đáp ứng tối đa nhu cầu hưởng thụ thông tin giải trí của công

chúng, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần cho họ. Tuy nhiên,

chính những ưu điểm vượt trội ấy cũng tạo ra những ảnh hưởng, hệ lụy tiêu cực

trong quá trình đăng tải thông tin của báo điện tử. Bên cạnh những thông tin

VHNT cần thiết (các sản phẩm mới các chương trình biểu diễn, chân dung

những nghệ sĩ biểu diễn xuất sắc... cũng xuất hiện nhiều thông tin phản cảm,

thậm chí là “thảm họa” tạo ra luồng dư luận xấu, gây ảnh hưởng tiêu cực tới cả

NSBD lẫn công chúng tiếp nhận thông tin, làm mất đi niềm tin của độc giả, làm

phương hại tới hình ảnh văn hóa dân tộc. Những thông tin phản cảm này là

79

biểu hiện sự nghèo nàn của báo chí trong cách thức thông tin cũng như biểu

hiệu cho sự xuống cấp về đạo đức báo chí, thiếu đi tính văn hóa trong hoạt

động báo chí nói chung và trong nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt nói riêng.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, thông tin báo chí về giới NSBD là rác nhiều

hơn là văn hóa. Điều này không phải không thuyết phục nhưng nó chưa đầy

đủ, và cần những nghiên cứu chỉ ra những kết quả rõ ràng hơn.

Dựa trên khung lý thuyết của chương 2 trong chương 3 của Luận án,

tác giả sẽ nghiên cứu thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên 3 trang báo

điện tử: Vietnamnet.vn News.zing.vn và Ngoisao.net trong 3 năm 2014

2015, 2016, từ các yếu tố đa chiều đó là: báo điện tử, giới NSBD VN, tác

phẩm báo chí (nội dung thông tin), và công chúng độc giả, khán, thính giả).

Luận án sẽ soi chiếu thực trạng này qua góc nhìn văn hóa Việt, xem xét ở trên

cả hai phương diện tích cực và hạn chế, từ đó kì vọng đưa ra được những giải

pháp phù hợp, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD

VN trên báo điện tử.

80

CHƢƠNG 3:

THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN

VIỆT NAM TRÊN VIETNAMNET.VN, NEWS.ZING.VN,

NGOISAO.NET TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT

Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử khi trở thành vấn đề

nghiên cứu của luận án đã được tác giả nhìn nhận, phân tích ở cả cả hai mặt

tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, vấn đề tiêu cực hiện lên rõ ràng hơn trở thành

một vấn đề nóng một hiện thực truyền thông hiện hữu trong thực tế khiến cả

xã hội phải quan tâm tìm cách giải quyết. Bởi vậy, tác giả chọn góc nhìn phê

phán trên tinh thần phản biện xã hội để tập trung nhiều hơn vào việc phân tích,

đánh giá những vấn đề tiêu cực, những lỗi văn hóa trong thực trạng thông tin

về giới NSBD VN trên báo điện tử.

Như đã đề cập trong Chương 1 và Chương 2 về giới hạn phạm vi đối

tượng nghiên cứu, luận án sẽ chỉ tập trung nghiên cứu thông tin về giới NSBD

ở hai loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại là âm nhạc và điện ảnh.

3.1 Khái quát báo điện tử là đối tƣợng đƣợc khảo sát

3.1.1 Báo điện tử VietNamNet (VNN) và chuyên mục “Giải trí”

Báo điện tử VietNamNet (tên miền: www.Vietnamnet.vn) là hệ thống

thông tin trực tuyến đầu tiên ở Việt Nam, lên mạng từ năm 1997 trực thuộc

Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC. Ngày 23/01/2003, VietNamNet

chính thức được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp giấy phép trở thành báo mạng

điện tử và trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông từ ngày 17/06/2008. Với

phương châm hoạt động “đi đầu hay bị loại?” không nằm ngoài xu hướng

“thị trường hóa” đang ngày càng lan rộng, VNN liên tục cập nhật tin tức thời

sự ở mọi lĩnh vực trong cuộc sống, trong đó văn hóa giải trí cũng là một mảng

thông tin quan trọng được tờ báo điện tử này hướng đến.

81

Trước đây chuyên mục Văn hóa của VNN được cho là phiên bản trung

hòa giữa các yếu tố giải trí và hàn lâm được giới chuyên môn đánh giá cao

đăng tải nhiều bài viết phân tích sâu sắc nhưng cũng không ít thông tin giải trí

thường ngày. Tuy nhiên, cùng với xu hướng cạnh tranh của “thị trường” tờ

báo này đã đổi tên chuyên mục từ Văn hóa thành Giải trí với nhiều chuyên

mục thứ cấp: Thế giới sao, Thời trang, Nhạc, Phim – Truyền hình, Sách, Di

sản, Mỹ thuật – Sân khấu, liên tục cập nhật những tin bài mang tính “lá cải”.

Đến nay, VNN vẫn là một trong những báo điện tử lớn nhất, là “món ăn tinh

thần” cho đông đảo công chúng Việt Nam. Ngày 15/02/2017, theo Alexa,

VietNamNet đứng thứ 35 tại Việt Nam và 3876 trên thế giới.

3.1.2 Ngoisao.net (Ngoisao) và chuyên mục Bên lề, Hậu trường, Phong cách

Trang www.ngoisao.net ra mắt vào ngày 20/4/2004 với tiêu chí trở

thành trang tin có tính giải trí cao. Những chuyên mục của trang tin đều thể

hiện rõ tiêu chí này: Hậu trường, Thể thao, Chơi blog, Làm đẹp, Trắc nghiệm,

Trò chơi... Thông tin về kinh tế, chính trị, giáo dục... hoàn toàn không có chỗ

trong Ngoisao.

Là trang đầu tiên khai thác mạnh về hậu trường của làng giải trí trong

nước và quốc tế, thời điểm ra mắt Ngoisao đã tạo ra một làn gió mới cho báo

điện tử Việt Nam nói riêng và báo chí Việt Nam nói chung. Ngoisao giống

như một thế giới thông tin về NSBD, cung cấp cho độc giả tất cả những thông

tin về chuyện nghề, chuyện hậu trường, chuyện ăn mặc, thậm chí là chuyện

“thâm cung bí sử” của họ. Một ngày Ngoisao thường cập nhật khoảng 30-40

tin bài mới, tốc độ cập nhật nhanh vào buổi sáng và chậm dần đều vào buổi

chiều. Mặc dù gây được sự chú ý thu hút lượng truy cập cao với nhờ những

thông tin về giới NSBD... nhưng Ngoisao cũng là trang tin bị gắn liền với

những đánh giá: “lá cải”, “xàm”, “nhảm”, “lẩu thập cẩm”....

Sau 12 năm trải qua không ít thăng trầm, hiện Ngoisao có gần 270 triệu

lượt truy cập mỗi tháng thu hút đông đảo độc giả trẻ tuổi 75% độc giả

82

Ngoisao nằm trong độ tuổi từ 18 đến 35). Theo xếp hạng của Alexa ngày

2/3/2017, Ngoisao.net xếp thứ 73 Việt Nam và thứ 6380 thế giới.

3.1.3 Báo điện tử News.zing.vn (Zingnews) và chuyên mục Giải trí, Âm

nhạc, Phim ảnh, Thời trang

Trong ba tờ báo được sử dụng làm đối tượng khảo sát, Zing news (Báo

Tri Thức Trực Tuyến) là tờ báo điện tử non trẻ nhất. Tuy nhiên, những gì mà

Zingnews làm được lại khiến các trang báo ra đời trước phải kinh ngạc.

Tháng 8/2007, VNG cho ra mắt trang điện tử Zing.vn với Zing MP3

(trang nghe nhạc trực tuyến) và Zing Chat (trang trò chuyện trực tuyến). Chỉ

hơn nửa năm sau tháng 1 2008 Zingnews ra mắt với mục đích cung cấp

thêm một sân chơi hấp dẫn cho giới trẻ và “phủ sóng” toàn bộ các hoạt động

thông tin giải trí cho lứa tuổi teen. Sau 7 tháng hoạt động Zingnews đã góp

phần đưa Zing.vn trở thành trang website được truy cập nhiều nhất tại Việt

Nam theo bảng xếp hạng của Alexa.

Chạy theo xu hướng câu “view” gây sốc để có được lượt truy cập

“khủng” Zing news vướng phải không ít lùm xùm về tin bài. Website này

từng bị phạt 37.5 triệu đồng vì thực hiện các nội dung không đúng với giấy

phép đăng kí; bị phản đối khi viết tin mà không có nguồn thông tin đăng các

bài viết, ảnh có nội dung tuyên truyền mê tín dị đoan phá hoại thuần phong

mỹ tục….Năm 2010 Zingnews bắt đầu một bước tiến mới về mặt thông tin

khi tổ chức lại nhân sự, xây dựng bộ máy BTV, PV chuyên nghiệp. Không

chỉ hướng về mảng giải trí, Zingnews còn tập trung vào thông tin lĩnh vực xã

hội, pháp luật và tin tức thời sự. Ba năm sau Zingnews đã được công chúng

nhìn nhận đánh giá bằng con mắt khác - một kênh thông tin thời sự, xã hội,

giải trí phong phú.

Tháng 6/2013, Zingnews chính thức trở thành Báo điện tử của Hội xuất

bản Việt Nam với lượng người đọc tăng lên nhanh chóng mỗi ngày, trở thành

một trong những trang báo điện tử có lượt truy cập cao nhất Việt Nam.

83

Mặc dù có những thay đổi mạnh mẽ nhưng giải trí vẫn là nội dung

chiếm ưu thế của Zingnews. Với các chuyên mục Giải trí, Âm nhạc, Phim

ảnh, thời trang sao, Zingnews gần như phủ sóng tất cả các thông tin thuộc

lĩnh vực giải trí, đáp ứng nhu cầu cầu mang tính “khuynh hướng” “thời

thượng” của giới trẻ. Tới nay, nhắc đến Zingnews, công chúng vẫn liên tưởng

tới trang báo điện tử thiên về thông tin giải trí hơn là các thông tin thời sự,

chính trị, kinh tế. Theo xếp hạng của Alexa vào ngày 2/3/2017, Zingnews

đứng thứ 9 ở Việt Nam và thứ 620 trên thế giới.

3.2 Khảo sát thực trạng việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

trên Vietnamnet.vn, News.zing.vn và Ngoisao.net từ góc nhìn văn hóa Việt

Để có cái nhìn toàn diện cho thực trạng thông tin về giới NSBD VN

trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt, tác giả không chỉ khảo sát tần

suất, nội dung, hình thức của thông tin mà còn khảo sát cả các nhân tố

chính tham gia vào quá trình thông tin này đó là: báo điện tử (Tổng biên

tập, ban biên tập, biên tập viên phóng viên…), giới NSBD VN, công

chúng tiếp nhận; cũng như mối quan hệ và cách ứng xử giữa các nhân tố

này. Chu trình khảo sát sẽ bắt đầu từ việc nghiên cứu thực tế nhu cầu thông

tin của công chúng; tiếp đó là nghiên cứu hiện trạng thông tin về giới

NSBD VN trên báo điện tử (tần suất, nội dung, hình thức), hoạt động thực

hiện thông tin về giới NSBD VN (mối quan hệ và ứng xử giữa các chủ thể

tham gia vào quá trình thông tin) và cuối cùng là nghiên cứu phản ứng của

công chúng đối với thông tin về giới NSBD VN. Chu trình nghiên cứu này

nhằm lý giải cả nguồn gốc, hiện trạng và hiệu quả của thực trạng thông tin

về giới NSBD VN trên báo điện tử. Toàn bộ quá trình nghiên cứu này được

soi chiếu từ góc nhìn văn hóa Việt và được đánh giá bởi các tiêu chí đã đề

ra trong chương 2 của luận án.

84

3.2.1 Nhu cầu của công chúng đối với thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn

Việt Nam

Phỏng vấn Anket 531 người ở cả thành thị và nông thôn về nhu cầu

thông tin về giới NSBD VN, kết quả thu được như sau: Có tới 252 người bày

tỏ thái độ quan tâm tới thông tin về NSBD VN trên báo điện tử (chiếm 47%);

213 người bày tỏ thái độ bình thường (chiếm 40% ; trong khi đó chỉ có 66

người bày tỏ thái độ không quan tâm (chiếm khoảng 13%). Kết quả cho thấy,

có một lượng lớn công chúng truy cập (CCTC) có nhu cầu thông tin về giới

NSBD VN.

Trong 252 người bày tỏ thái độ quan tâm tới thông tin về giới NSBD

VN có 147 người thích đọc các thông tin về scandal; tiếp đến là phát ngôn táo

bạo gây sốc 138 người); thời trang, tài sản 135 người ; Đời tư tình cảm, hôn

nhân 117 người); Bài phân tích đánh giá sâu các chương trình sản phẩm

nghệ thuật 114 người); giới thiệu các chương trình biểu diễn, sản phẩm nghệ

thuật, chân dung nghệ sĩ 108 người). (Bảng 1 – phụ lục 1). Như vậy, các

thông tin về hậu trường đời sống có sức hút lớn hơn so với các thông tin về

tài năng hoạt động hay sản phẩm nghệ thuật của NSBD.

Kết quả phỏng vấn Anket chỉ ra: trong số 252 người bày tỏ thái độ quan

tâm tới thông tin về giới NSBD VN, chỉ có 75 người là giới tính nam (chiếm

28 5 % trong khi đó có tới 180 người là nữ (chiếm 71,5%). Trong số 66

người bày tỏ thái độ không quan tâm tới thông tin về giới NSBD VN thì có

tới 41 người là nam (chiếm tới 62,1%), trong khi chỉ có 25 người là nữ (chiếm

37 9% . Như vậy có thể cho rằng công chúng nữ thường có nhu cầu tìm hiểu

thông tin về giới NSBD VN hơn là công chúng nam.

Khảo sát cũng cho thấy sự khác biệt về mức độ quan tâm tới thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử theo độ tuổi: công chúng trẻ (15 – 40 tuổi) –

những người có khả năng tiếp cận với công nghệ mới, sử dụng các thiết bị điện

85

tử thông minh máy tính điện thoại di động... để đọc tin tức - là đối tượng

chính quan tâm tới thông tin về giới NSBD, chiếm tới 51,2 %; trong khi chỉ có

14,3% công chúng trên 60 tuổi để ý tới lĩnh vực thông tin này. Một điều đáng

lưu ý là có tới 52,3% số lượng công chúng nhóm tuổi 15-40 là “fan” (công

chúng hâm mộ) của một NSBD nào đó có nhu cầu tìm hiểu và đọc mọi tin

bài về nghệ sĩ mà mình ngưỡng mộ nhằm thu hẹp khoảng cách giữa mình và

thần tượng.

Bảng 3.1: Khảo sát mức độ quan tâm của công chúng tới thông tin về giới NSBD

VN theo độ tuổi

Đơn vị: %

Nguồn: Kết quả phỏng vấn Anket

Từ kết quả khảo sát có thể kết luận: Công chúng Việt Nam có nhu cầu

lớn thông tin về giới NSBD VN; Họ thường quan tâm tới thông tin hậu

trường, đời sống của NSBD VN; Nữ giới độ tuổi từ 15 đến 40 là đối tượng

công chúng chính quan tâm tới thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.

Công chúng đang sống trong bầu khí quyển của văn hóa đại chúng và kết

nối internet. Áp lực cuộc sống càng cao, nhu cầu thông tin giải trí của họ càng

nhiều. Thế giới của NSBD có những sự khác lạ, mà ở chừng mực nhất định nào

đấy đủ khiến cho công chúng cảm thấy phấn khích và thư giãn. Học giả người

Anh – Richard Dyer (1979 – 1986) trong các lý thuyết của mình đã cho rằng

các “ngôi sao” bao gồm giới NSBD) luôn khoác trên mình sự hào nhoáng,

rực rỡ, lộng lẫy đầy lôi cuốn, nó giống như chiếc cầu nối dẫn tới một thế giới

long lanh phiêu lưu đầy phấn khích chứ không mòn mỏi, áp lực như cuộc

86

đời thực và điều này khơi dậy sự khao khát ngưỡng mộ và muốn tìm hiểu,

muốn tiếp cận của công chúng. Báo chí chính là phương tiện nối liền công

chúng với nghệ sĩ mà nói như nguyên Cục trưởng Cục Báo chí (Bộ TT&TT)

Hoàng Hữu Lượng trong bài báo Nghệ sĩ – truyền thông và công chúng cùng

giữ gìn môi trường văn hóa thì: “Dân ta chủ yếu “tiếp xúc” với nghệ sĩ qua

các phương tiện truyền thông, chứ việc đến rạp càng ngày càng hiếm”.

Với căn tính nông dân trong đặc trưng tính cộng đồng làng xã điển

hình, công chúng Việt Nam luôn tò mò muốn biết về đời tư của người nổi

tiếng, xem họ ăn gì mặc gì đi đâu có mâu thuẫn với ai, có phát ngôn nào

đáng chú ý, cuộc đời riêng tư có sự kiện nào xảy ra... hay không. Như TS.

Nguyễn Thu Giang đã phân tích trong bài nghiên cứu “Về việc ủy thác tính

giải trí cho truyền thông” thì ở Việt Nam, vào thời kỳ tiền văn hóa đại chúng,

các cá nhân định vị sự tồn tại xã hội của mình bằng cách trò chuyện với hàng

xóm, họ hàng, con cháu. Nhờ mối giao kết ấy mà họ thuộc cùng một cộng

đồng thông tin, cùng biết chung một chuyện xảy ra trong làng, ví dụ cô gái

nào đó chưa chồng mà chửa. Nhưng bước chân người Pháp đã mang tới

những ảnh hưởng mạnh mẽ từ phương Tây đặc biệt là lối sống đô thị.

TTĐC là một trong những đặc trưng cơ bản của lối sống đô thị và

người đô thị thì không có cách nào thoát khỏi việc bị chế định bởi truyền

thông. Ở đô thị căn tính nông dân của người Việt vẫn tồn tại nhưng môi

trường sống thì đã khác, từ cộng đồng làng xã chuyển sang cộng đồng xã hội.

Họ vẫn thích tụ tập, bàn tán về một cá nhân nào đó nhưng thay vì nói chuyện

về một nhân vật trong làng, thì họ dồn sự quan tâm vào những đối tượng mà

ai cũng biết, chẳng hạn như những NSBD và những câu chuyện về NSBD

được đăng tải trên mặt báo. Nhìn từ góc độ nghiên cứu truyền thông, cái nhu

cầu “nhìn trộm”, “nghe lén” của con người được nối dài và đạt tới một phẩm

cấp mới nhờ vào phương tiện TTĐC” - TS. Nguyễn Thu Giang [109]. Bởi

87

tính công cộng, những thông tin về NSBD thường dễ tìm, dễ chia sẻ, dễ trao

đổi hơn là thông tin về hàng xóm, bạn bè hay đồng nghiệp. TS. Nguyễn Thu

Giang cho rằng: công chúng luôn tò mò những người nổi tiếng là phi thường

hay “giống chúng ta”? Họ xứng đáng thành công hay chỉ là gặp may mắn nhất

thời? Họ có đáng để chúng ta học hỏi không hay họ là đối tượng để ta bàn tán,

chế nhạo và chê bôi? [37] Bên cạnh đó việc thần tượng những NSBD nổi tiếng

cũng khiến công chúng muốn tìm hiểu hơn về họ. Giao lưu văn hóa không chỉ

khiến nền công nghiệp giải trí Việt Nam phát triển với một thế hệ những NSBD

mang tính thương mại, mà còn dẫn tới sự xuất hiện của nhóm công chúng hâm

mộ fan . Đây là những nguồi ủng hộ, yêu quý nồng nhiệt một “ngôi sao” nào

đó thường là ca sĩ, diễn viên, ban nhạc… . Như nhà văn B i Việt Thắng đã

nhận định: “Công chúng rất cần những thông tin của người mình mến mộ,

thậm chí là si mê với ý nghĩa là những “fan cuồng”” PVS 08 . Và truyền

thông giúp họ phần nào thỏa mãn được sự tò mò cũng như lòng ái mộ của

mình. Thế nhưng thời đại số khiến cho không phải thông tin nào về NSBD

cũng “hot” cũng thu hút sự quan tâm của công chúng. Nhà báo Hoàng Nhật

Mai cho rằng: “Thông tin nào phải thực sự gây ấn tượng, gây xúc động mạnh

mẽ thì mới khiến công chúng quan tâm, bàn tán. Và những chuyện hậu trường,

scandal, khoe của...lại là những chuyện làm được việc này” PVS 07 .

3.2.2 Tần suất xuất bản, nội dung, hình thức thể hiện thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

3.2.2.1 Tần suất xuất bản thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Thống kê tỉ lệ tin bài về giới NSBD trong 3 năm 2014-2106) trên

chuyên mục Văn hóa/giải trí của VNN; Giải trí – Âm nhạc – Phim ảnh – Thời

trang của Zingnews; và Hậu trường – Thời trang của Ngoisao dễ dàng nhận

thấy: tỉ lệ tin bài về giới NSBD VN áp đảo tỉ lệ các tin bài khác trong lĩnh vực

văn hóa giải trí ở cả ba trang báo, chiếm trên 70%.

88

Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ tin bài về giới NSBD VN trong mục văn hóa – giải trí

100%

80%

60%

40%

20%

0%

VNN

Zingnews

Ngoisao

NSBD VN

Khác

Nguồn: PV cung cấp, Google Analysis

Thông tin về giới NSBD VN cũng được các báo điện tử cập nhật với

tần suất lớn. Trung bình tần suất xuất bản hàng ngày tin bài về giới NSBD

VN là: VNN (10,5 - 11,3 tin bài), Zingnews (25,1 - 29,2 tin bài), Ngoisao

(25,4 - 26 tin bài). Zingnews mặc dù tuổi đời còn khá trẻ so với Ngoisao

nhưng tần suất tin bài về NSBD VN lại cao hơn hẳn vào năm 2014 khi xuất

bản 29.2 tin bài/ngày (Ngoisao: 25,4 tin bài/ngày).

Biểu đồ 3.2: Tần suất tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Nguồn: PV cung cấp

89

Kết quả này cho thấy: thông tin về giới NSBD VN là nội dung được

các báo điện tử quan tâm và sản xuất với dung lượng lớn nhằm đáp ứng nhu

cầu của công chúng đặc biệt công chúng là giới nữ trẻ tuổi, có sự ngưỡng mộ

nhất định đối với các “ngôi sao” giải trí), thu hút công chúng, từ đó tạo ra

năng lực cạnh tranh và thúc đẩy doanh thu cho tòa soạn.

3.2.2.2 Nội dung thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

+ Thông tin hậu trường chiếm dung lượng lớn: Khảo sát ngẫu nhiên

300 tin bài về giới NSBD VN đăng tải trên VNN, Zingnews và Ngoisao, kết

quả như sau:

Bảng 3.2: Thống kê nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Đề tài về giới NSBD rất phong phú đa dạng, có nhiều vấn đề khác

nhau để các báo lựa chọn khai thác. Tuy nhiên các báo điện tử thường chọn

những thông tin nóng được công chúng quan tâm như: chuyện đời tư tình

cảm, chuyện khoe của, chuyện phát ngôn, chuyện ăn mặc... của nghệ sĩ. Chỉ

xấp xỉ 10% tin bài đề cập tới hoạt động nghệ thuật của NSBD VN, trong khi

đó khoảng 90% thông tin liên quan tới hậu trường đời sống của họ. Trong bài

PVS 04, Nhà báo Phạm Thu Hà (TBT tạp chí Đẹp) khẳng định: “So với thông

tin về các sản phẩm và kế hoạch mới của NSBD thì yếu tố cuộc sống đời

thường, riêng tư của họ được các báo điện tử khai thác nhiều hơn nhằm thu

hút công chúng”.

90

Khảo sát lượt xem một số tin bài về danh ca Khánh Ly cho thấy, ngay

cả một nghệ sĩ tinh hoa không đề cao tính thương mại như Khánh Ly thì

những thông tin về hoạt động nghệ thuật cũng có lượt xem thấp hơn rất nhiều

so với thông tin về hậu trường đời sống, hôn nhân, tình cảm gia đình của nữ

nghệ sĩ. Điều này phần nào lý giải vì sao các tòa soạn lại ưu ái dành không

gian cho thông tin hậu trường hơn là thông tin về hoạt động nghệ thuật của

NSBD. Ảnh hưởng của thương mại hóa dẫn tới việc báo chí bị “lá cải” hóa

như nhà báo Hoàng Nhật Mai khẳng định: “Những thông tin đời tư, scandal…

của nghệ sĩ tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại đánh trúng vào sự hiếu kì

của công chúng, vì vậy bao giờ cũng ăn khách nhất” PVS 07 .

Bảng 3.3: Khảo sát lƣợt xem tin bài về Khánh Ly

Nguồn: NCS tổng hợp, PV cung cấp

+ Thông tin về hôn nhân, gia đình, tình cảm của NSBD VN: là nội

dung được khai thác nhiều nhất, chiếm khoảng 30-40% tin bài lĩnh vực văn hóa

nghệ thuật ở cả VNN, Zingnews và Ngoisao. Tuy nhiên theo thống kê từ 300

tin bài ở 3 trang báo được khảo sát, chỉ xấp xỉ 20% thông tin về hôn nhân, gia

đình của NSBD VN là viết về những mối tình đẹp của nghệ sĩ về hôn nhân gia

đình hậu thuẫn cho nghệ sĩ trong công việc như thế nào, về những câu chuyện

có thể trở thành tấm gương, xây dựng giá trị văn hóa gia đình cho công chúng

Việt; Trong khi có tới gần 80% thông tin khai thác những chuyện như: tình tay

ba, ly hôn ồn ào, chân dài yêu đại gia, tranh giành quyền nuôi con, phim giả

tình thật... của các nghệ sĩ. Đây đều là những thông tin phản cảm, gây ảnh hưởng

xấu tới nhận thức, lối sống và nề nếp văn hóa gia đình của công chúng…

91

Đơn cử như chuyện tình cảm của Hồ Ngọc Hà. Trong năm 2016 những

chuyện về Hồ Ngọc Hà và chồng cũ Cường đô la xuất hiện trong 21 bài viết

trên Ngoisao, 23 bài viết trên Zingnews và 13 bài viết trên VNN; chuyện tình

tay ba của cô với đại gia kim cương Châu Đăng Khoa còn “hot” hơn khi mà

chỉ trong sáu tháng (từ tháng 5/2016 tới tháng 11 2016 trên VNN đã có 11

bài viết, trên Zingnews là 17 bài, và trên Ngoisao là 18 bài. Đa số bài viết đều

khai thác nội dung riêng tư của Hồ Ngọc Hà mang tính “ngồi lê đôi mách”

không có giá trị thông tin báo chí hay thẩm mĩ nghệ thuật cho công chúng, ví

dụ như: “Hồ Ngọc Hà bị vợ đại gia Chu Đăng Khoa đá xéo chuyện cầu hôn”

trên Zingnews ngày 10/08/2016, “Vợ Chu Đăng Khoa lên tiếng sau khi chồng

lộ ảnh hẹn hò Hà Hồ ở Mỹ” trên Ngoisao ngày 26/11/2016… Hay mối tình

của người mẫu, diễn viên Ngọc Trinh với tỉ phú Hoàng Kiều cũng được nhà

báo khai thác một cách triệt để nhằm câu kéo công chúng. Chỉ trong tháng

12/2016, trên Ngoisao có 21 bài viết về mối tình chân dài đại gia này (trong

đó có 5 tin bài xuất bản dưới dạng clip), như “Ngọc trinh ôm chặt bạn trai 72

tuổi ở Nhật” (17/12/2016), Ngọc Trinh được cháu gái Hoàng Kiều gọi là “bà

nội” (18/12/2016), hay “Ngọc Trinh khoe ảnh nắm tay bạn trai khi vừa đến

Mỹ” 14 12 2016 .... Dường như nhất cử nhất động của Ngọc Trinh cùng bạn

trai đều trở thành “đề tài báo chí”. Rồi chuyện ca sĩ Lam Trường kết hôn lần

2 nghi án tình đồng tính giữa Quang Vinh và Lý Quý Khánh, tình tay ba Trấn

Thành – Hariwon – Tiến Đạt, chuyện chia tay của Trương Ngọc Ánh và Kim

Lý... những thông tư riêng tư, không hàm chứa tính báo chí hay truyền tải các

giá trị văn hóa từ giới NSBD VN phủ kín giao diện các trang báo.

Nhà báo viết những tác phẩm như vậy đang bộc lộ những phi giá trị từ

đặc trưng “cộng đồng làng xã” trong xã hội hiện đại. Họ giống như người

thích buôn chuyện, chặt chém, thích phán xét tới mức vô cảm. Càng những

chuyện đời tư thầm kín mà nghệ sĩ muốn giấu đi hoặc nên giấu đi muốn giữ

92

lại cho riêng mình (hoặc nên giữ lại cho riêng mình) thì báo chí càng khai

thác đăng tải; họ quên mất (hoặc cố tình quên mất) giá trị và vai trò nhà văn

hóa của mình khi cung cấp thông tin.

+ Thông tin về thời trang, tài sản của NSBD VN: Nghệ sĩ mặc gì, mặc

như thế nào có nhà đẹp, xe sang, cuộc sống sung túc hay không luôn là

những thông tin khiến công chúng tò mò, quan tâm và vì vậy thường có lượng

lượt xem khá cao.

Hiện nay, phần lớn các báo điện tử đều dành dung lượng nhất định,

thậm chí mở chuyên mục riêng về thời trang của giới NSBD. Trên Zingnews,

VNN và Ngoisao đều có những bài viết giới thiệu những phong cách thời

trang ấn tượng hoặc tệ hại trong một giai đoạn, một sự kiện nào đó của giới

NSBD, chẳng hạn như: “Hồ Ngọc Hà áp đảo sao Việt về phong cách thời

trang” đăng ngày 17 10 2016 “Sao Việt diện Street style sành mốt xuống phố

tuần qua” đăng ngày 24 7 2016.... trên Zingnews; “Những sao Việt hiếm hoi

mặc đẹp như mỹ nhân thế giới” đăng ngày 25 09 2014 “Sao xấu của showbiz

Việt tuần qua” đăng ngày 9 5 2016... trên VNN. Trên Ngoisao có riêng

chuyên mục Sao Việt mặc đẹp và Sao Việt mặc xấu hàng tuần. Những bài viết

này góp phầp giúp công chúng có thêm góc nhìn về NSBD VN, giới thiệu

những phong cách thời trang đẹp đồng thời phê phán những phong cách thời

trang phản cảm của nghệ sĩ.

Tuy nhiên, nhiều trang báo hiện nay khai thác quá sâu vào chuyện ăn

mặc của NSBD VN không nhằm mục tiêu phản biện, phê phán cái tiêu cực

mà nhằm mục đích kích thích sự tò mò của công chúng, khiến công chúng

“click” vào đọc thông tin.

Rất nhiều những bài viết đăng tải thông tin về các diễn viên, ca sỹ trên

các trang báo điện tử hiện nay sử dụng ngôn từ phản cảm (nóng bỏng, hở bạo,

nhức mắt… hình ảnh gợi cảm quá mức, khoe tối đa sự sexy của nghệ sĩ,

93

thậm chí nhiều hình ảnh lộ nội y của nghệ sĩ cũng không được trang báo làm

mờ hay che chắn, chẳng hạn như: “Maya nóng bỏng khi diện áo tắm” ngày

18/7/2016, “Ngọc Trinh phanh áo tạo dáng nóng bỏng” ngày 20/07/2016,

Hương Giang idol mặc hở bạo dự họp báo 1/12/2016… trên Ngoisao.

Ảnh 3.1: Hình ảnh Ngọc Trinh và Hƣơng Giang idol trên báo Ngoisao.net

(Nguồn: Ngoisao.net)

Giao lưu văn hóa tạo điều kiện cho NSBD VN tiếp thu nhiều hơn

những phong cách thời trang mới, hiện đại, phóng khoáng. Tuy nhiên không ít

trong số họ bộc lộ sự sính ngoại thái quá, buông thả trong việc lựa chọn trang

phục khoe cơ thể quá đà mà quên mất những giá trị truyền thống trong việc

mặc của người Việt như sự mực thước, hài hòa, gợi cảm nhưng kín đáo, nền

nã… Thế nhưng khi thông tin về vấn đề thời trang của giới NSBD VN, báo

chí lại thiếu đi sự chắt lọc định hướng mang tính văn hóa. Thậm chí, trong vỏ

bọc lên án những phong cách ăn mặc phản cảm ấy lại là sự kích thích để có

được nhiều hơn những lượt xem của công chúng, thể hiện ở cả ngôn từ và

hình ảnh được sử dụng để đăng tải trên trang báo. Thực tế, những bài viết về

thời trang gợi cảm quá đà của NSBD thường có lượt xem rất cao, ví dụ: bài

viết Ngọc Trinh khoe vũ đạo với trang phục nóng bỏng đạt xấp xỉ 1 triệu lượt

94

view, Hương Giang idol mặc hở bạo dự họp báo cũng đạt trên 700.000 lượt

view... Các trang báo điện tử dường như chỉ đang nhìn thấy cái lợi trước mắt

mà quên đi hậu quả lâu dài, bởi điều này tạo ra những tác động tiêu cực cho

văn hóa của công chúng đặc biệt là công chúng trẻ khi họ thường thần tượng

và bắt chước theo các nghệ sĩ ngôi sao. Đó là sự “sụp đổ giá trị thẩm mĩ” như

PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái đã từng phải thốt lên [111].

Bên cạnh chuyện mặc thì chuyện tài sản điều kiện sống của NSBD

cũng được các trang báo mạng chú trọng khai thác. Thống kê từ VNN,

Ngoisao và Zingnews trong năm 2016 cho thấy, bình quân mỗi ngày VNN có

khoảng 0,67 bài viết để cập tới vấn đề tài sản của NSBD, ở Zingnews là 1,36

bài, và ở Ngoisao là 1,54 bài (Nguồn: PV).

Một số ít tin bài phản ánh đời sống khổ cực, chật vật với những căn nhà

tạm bợ, thiếu tiện nghi của các NSBD nghèo, nỗ lực vượt qua hoàn cảnh khó

khăn thiếu thốn vật chất để thành công trong nghệ thuật của họ, ví dụ như:

Nghệ sĩ Trần Hạnh nhận 100 triệu đồng quyên góp để sửa chữa nhà đăng

ngày 8/04/2016 trên Zingnews; Nghệ sĩ Hán Văn Tình từng day dứt vì không

nuôi nổi vợ con đăng ngày 9 9 2016 trên Ngoisao; Cuộc sống khổ cực của các

giọng ca nhí Việt đăng ngày 19/1/2015 trên VNN, Cuộc sống khốn khó khi về

già của các nghệ sĩ gạo cội đăng ngày 16 11 2014 trên VNN... Nhân vật của

những bài viết này chủ yếu là những NSBD có tài, từng ghi dấu ấn sâu đậm

trong lòng khán giả với những vai diễn, những bản nhạc khó quên, những tài

năng nghệ thuật đáng khâm phục, thế nhưng ngoài những “tài sản” vô giá

trong nghệ thuật thì họ không có gì khác, phải vật lộn với cơm áo gạo tiền,

với mưu sinh. Chính những bài viết này đã lột tả phần nào những cơ cực của

lớp nghệ sĩ sống hết mình với nghệ thuật trong vòng xoáy của văn hóa đại

chúng và nền công nghiệp giải trí giúp người đọc có cái nhìn chia sẻ về cuộc

đời phía sau ánh đèn của nghệ sĩ cũng như trân trọng những giá trị nghệ thuật

mà họ mang lại.

95

Tuy nhiên, một số lượng lớn tin bài về tài sản và điều kiện sống của

NSBD VN trên các trang báo điện tử hiện nay lại tập trung vào việc “khoe

của” lối sống xa hoa (tậu nhà sang, mua xế hộp tiền tỉ, mặc hàng hiệu đắt

tiền...) của một bộ phận NSBD nổi tiếng đặc biệt là các NSBD trẻ). Đơn cử

như bài viết “Bốn sao Việt sở hữu tủ giày siêu khủng” đăng ngày 13 8 2014

trên VNN giới thiệu những tủ giày với hàng trăm thương hiệu cao cấp giá

bạc tỉ của Trà Ngọc Hằng Dương Cẩm Luynh, Trúc Diễm Đàm Vĩnh

Hưng; Bài viết Váy hàng hiệu giá sốc của sao Việt đăng ngày 11 08 2014

trên Zingnews giới thiệu những bộ cánh đắt đỏ mà các “ngôi sao” đang sở

hữu: Lý Nhã Kỳ với những chiếc áo dài, váy dự sự kiện có giá từ 250 triệu

đồng đến 1,2 tỉ đồng; Hoa hậu Mai Phương Thúy với chiếc váy 315 triệu

đồng thương hiệu Elie Saab; những bộ đầm giá trị từ hơn một trăm triệu cho

đến vài trăm triệu từ các thương hiệu Valentino, Dior...của Ngọc Trinh...

Ngoài ra, gần như ngày nào trên các mặt báo công chúng cũng đọc được

thông tin về một nghệ sĩ nào đó mua nhà tiền tỉ, tậu xe sang, khoe túi xách,

đồng hồ, phụ kiện hàng hiệu... như: Trấn Thành đi xe sang tập Zing Music

Awards đăng ngày 10 2 2016 trên Zingnews Lý Nhã Kỳ khoe một góc của

biệt thự bạc tỉ đăng ngày 8 2 2016 trên Ngoisao, Linh Nga khoe túi xách gần

100 triệu đăng ngày 3 2 2015 trên VNN.... Đáng nói các bài viết này chỉ

phản ánh hiện tượng mà không kèm theo những phân tích hay góc nhìn phản

biện của nhà báo.

Ở một mức độ nào đó đã là nghệ sĩ là người của công chúng thì phải

mặc đẹp, phải đầu tư cho hình ảnh mỗi lần xuất hiện. Nhưng việc nghệ sĩ

khoe hàng hiệu quá đà lại là biểu hiện của những phi giá trị cần loại bỏ trong

văn hóa như: bệnh sĩ diện, hình thức, sính ngoại… Khi đăng tải quá nhiều

những thông tin khoe tài sản của nghệ sĩ mà không kèm theo những phân tích

phản biện rõ ràng thì các trang báo điện tử lại khiến công chúng dần hình

96

thành quan niệm lệch lạc, méo mó về văn hóa nghệ thuật và nghệ sĩ: cứ làm

nghệ sĩ nổi tiếng là giàu sang, nhà cao cửa rộng, xài hàng hiệu, đi xe sang

xách túi đắt tiền; công chúng dồn sự chú ý vào những giá trị vật chất ấy mà lơ

là đi những giá trị văn hóa nghệ thuật mà nghệ sĩ cần phải tạo ra.

+ Thông tin về những câu chuyện và phát ngôn gây sốc của NSBD VN:

Những góc tối của NSBD VN như: ngoại tình đạo nhái chèn ép đồng

nghiệp, sử dụng hàng nhái, phẫu thuật thẩm mĩ… là những nội dung chưa bao

giờ hết nóng trên các báo điện tử. Nếu như năm 2014 nghệ sĩ Chánh Tín vỡ

nợ, Hồ Ngọc Hà và Cường đô la tan vỡ, hoa hậu Diễm Hương trở thành “hoa

hậu nói dối” Sơn T ng MTP đạo nhạc...là những „scandal” gây chú ý trên

mặt báo; thì năm 2015 “showbiz” Việt ồn ào với mâu thuẫn của Quang Lê và

Đàm Vĩnh Hưng chỉ trích của MC Kỳ Duyên dành cho Mỹ Tâm, tranh cãi

giữa Thu Phương – Kimmese, Kiều Anh và các học trò trong cuộc thi The

Voice...; và năm 2016 là một năm báo chí dậy sóng với những “scandal” tình

– tiền chấn động: Tiến Đạt – Hariwon – Trấn Thành Trường Giang – Quế

Vân – Nhã Phương; Hồ Ngọc Hà – Chu Đăng Khoa – Vân Anh; Kỳ Hân –

Mạc Hồng Quân – Ly Kute... Bên cạnh đó những phát ngôn gây bão của

NSBD VN như: “Yêu không có tiền thì cạp đất mà ăn à?”, “Cứ mắng, cứ

chửi, cuộc đời của tôi vẫn thế”...của Ngọc Trinh “Đứng về phụ nữ mà nói:

Người phụ nữ không dùng hàng hiệu xem như không có tương lai” của Xuân

Lan “Vào nhà tôi, nếu ai chê chỗ nào, tôi đập ngay chỗ đó” của Đàm Vĩnh

Hưng “Tôi đẹp tôi phải khoe” của Mai Khôi, “Coi thường tiền là coi thường

chính mình” của Đức Hải...; hay những cuộc tranh luận nảy lửa, phát ngôn

chỉ trích nhau của các “sao” như Văn Mai Hương với Vlogger Robbey,

Quang Lê với Đàm Vĩnh Hưng Tuấn Hưng với Duy Mạnh, MC Kỳ Duyên

với Mỹ Tâm... cũng được các trang báo điện tử khai thác tối đa như một cách

thức để có được lượt xem của công chúng.

97

Những câu chuyện tranh cãi hay những phát ngôn gây xôn xao dư luận mặc

dù không phù hợp với nét văn hóa trọng sự hiếu hòa, trọng tình, kín tiếng, nhẫn

nhịn của người Á Đông nhưng lại khiến công chúng tò mò và nảy sinh nhu cầu

đọc thông tin. Nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích: “Suy nghĩ mình viết những bài

tử tế chưa chắc đã có ai đọc, trong khi những tin sến sểm vừa nhanh, vừa đỡ hại

não, lại vừa nhiều người đọc là suy nghĩ phổ biến của nhiều nhà báo hiện nay”

(PVS 07). Rất ít các tác phẩm báo chí chăm chút cho sự học con đường khởi

nghiệp, sự tiến bộ và nhất là cái căn cốt văn hóa của giới NSBD VN, bởi vậy

“thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử chưa nói được cái tinh hoa văn hóa

mà họ góp vào nền văn hóa dân tộc” – nhà phê bình Bùi Việt Thắng (PVS 08).

Việc khai thác những câu chuyện hay phát ngôn gây sốc của nghệ sĩ

thực chất rất phổ biến trên thế giới với các tờ báo “lá cải” gossip tabloid nổi

tiếng. Báo chí Việt Nam học hỏi xu hướng này trong làn sóng tiếp nhận và

giao lưu văn hóa. Tuy nhiên nhà báo Đinh Ngọc báo Lao động) cho rằng,

những gì mà báo điện tử Việt Nam đang thể hiện không phải là sự “học hỏi”

mà là sự chạy theo m quáng. “Văn hóa Việt Nam khác với văn hóa phương

Tây, với Đông Âu, hay Hàn Quốc, Nhật Bản... Có những dạng thông tin đưa

tới công chúng của họ thì được, nhưng đưa tới công chúng của Việt Nam thì

phản cảm” PVS 06 . Văn hóa thời hiện đại là không biên giới, vì thế cần có

sự chọn lọc định hướng và đó là nhiệm vụ của báo chí. Thế nhưng: “Chỉ mù

quáng chạy theo những xu hướng tức thời thì rất khó để báo chí thực hiện

được nhiệm vụ này” – Hoàng Nhật Mai (PVS 07)

3.2.2.3 Hình thức thể hiện thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Nhà phê bình Bùi Việt Thắng cho rằng: “Công chúng thời hiện đại sống

theo tinh thần “hiện sinh chủ nghĩa”. Họ cần cái tức thời, cái hiện hữu” (PVS

08). Bởi vậy để thu hút công chúng, thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

cần sự ngắn gọn, dễ nhìn, dễ xem, dễ tiếp nhận, nhiều ảnh ít chữ, tiêu đề hấp dẫn.

98

+ Sử dụng tiêu đề (title) trong thông tin về giới NSBD trên báo điện tử:

Phần lớn tiêu đề tin bài về giới NSBD VN trên VNN, Ngoisao và

Zingnews đều thể hiện rõ đặc thù của loại hình báo điện tử: cô đọng, ngắn gọn và

có sức hút. Dung lượng tiêu đề từ 1 5 đến 2,5 dòng, trung bình khoảng 12 chữ.

Tên đối tượng được thông tin (NSBD VN thường đặt ngay trong tiêu đề bài viết.

Khảo sát tiêu đề của 300 tin bài về giới NSBD VN đăng trên VNN

Zingnews và Ngoisao trong thời gian khảo sát, kết quả như sau: 161/300 tin bài

của VNN, 212/300 tin bài của Ngoisao và 197/300 tin bài của Zingnews sử dụng

tiêu đề có yếu tố câu “view” lượt xem) kích thích cường điệu hóa, sử dụng

ngôn từ thiếu tính chuẩn mực của báo chí, thậm chí phản cảm. Ví dụ như: Mát

mắt với loạt ảnh hở bạo của Ngọc Trinh (VNN ngày 21/6/2016), Quỳnh Chi hở

bạo đi xem The Voice (Zingnews ngày 13/7/2016), Sao Việt với mốt hở lưng táo

bạo (Ngoisao ngày 12/1/2016)... Nhiều bài đặt tiêu đề không liên quan đến nội

dung, chỉ nhằm mục đích thu hút công chúng. Ví dụ: trên VNN ngày 23/7/2015

đăng bài Sơn Tùng M-TP bị nghi ngờ về giới tính, tuy nhiên nội dung bài viết lại

giới thiệu buổi chia sẻ sản phẩm âm nhạc mới của nam ca sĩ và nghi ngờ giới

tính chỉ là câu hỏi từ một người hâm mộ. Hay ngày 4 2 2015 trên Ngoisao đăng

bài Hồ Ngọc Hà trắng tay khi làm vợ Cường đô la, tuy nhiên bài viết tập trung

công bố báo cáo tình hình quản trị năm 2014 của công ty Quốc Cường Gia Lai,

và hai dòng nội dung duy nhất đề cập tới việc Hồ Ngọc Hà “trắng tay” là: “Cả

hai mẹ con Hồ Ngọc Hà không nắm bất cứ cổ phiếu QCG nào”.

Đặt tiêu đề là một nghệ thuật, có vai trò lớn trong việc hấp dẫn độc giả.

Những tiêu đề tốt, công chúng chỉ cần đọc qua là có thể hiểu và nắm được thông

tin. Tuy nhiên, trên báo điện tử hiện nay đa phần tiêu đề nhằm mục đích câu

“view” mà không chú ý tới nội dung bài báo, rời xa giá trị thẩm mĩ. “Tôi biết ở

nhiều báo người viết bài và người đặt tiêu đề hoàn toàn...khác nhau. Họ không

viết cho nên không cảm được, không thấm được nội dung thông tin, nội dung sự

99

kiện, chỉ làm sao rút tiêu đề cho kêu, cho có người “click” vào đọc là được”

nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn nhận định (PVS 02). Nhìn về thực trạng giật

tiêu đề này, MC Hạnh Phúc cho rằng: “Tiêu đề giật gân có thể giúp nhà báo đạt

được mục đích đầu tiên: nhiều độc giả truy cập. Nhưng nhà báo và tòa soạn báo

chỉ đo đếm được lượng “view” thôi chứ không đo đếm được mức độ hài lòng

của công chúng đối với bài báo đó”. PVS 09 . Tiêu đề giật gân giống như con

dao hai lưỡi, thu hút công chúng những cũng khiến họ rời đi khi đã mất niềm tin.

+ Sử dụng ảnh trong thông tin về giới NSBD:

Ảnh đăng trên báo điện tử bao gồm: ảnh sự kiện, ảnh cá nhân nhân vật,

ảnh nhân vật tham gia sự kiện...Thời đại “one touch” (một chạm), công

chúng thích nhìn hơn thích đọc. Trong khi đó, ưu điểm lớn của báo điện tử

là không bị giới hạn dung lượng. Tin bài trên báo điện tử có thể nhiều ảnh ít

chữ, thậm chí chỉ toàn ảnh. Ảnh có thể xen kẽ văn bản, làm thành clip hay

đặt trong các box.... Khảo sát việc sử dụng ảnh trong 300 tin bài về giới

NSBD VN trên VNN, Zingnews, Ngoisao, kết quả cho thấy: Ảnh được sử

dụng với hàm lượng rất cao trong tin bài về giới NSBD VN. 100% tin bài

trên cả ba tờ báo đều sử dụng ảnh, chủ yếu là ảnh màu. Phần lớn tin bài sử

dụng 02 ảnh trở lên (trên 60%).

Bảng 3.4: Khảo sát số lƣợng ảnh trong tin bài đăng trên báo điện tử

Đơn vị: Bài

Nguồn: NCS tổng hợp

Ảnh đăng tải được lấy từ nhiều nguồn khác nhau: do nhà báo chụp, do

nhân vật (công ty giải trí, nghệ sĩ bạn bè người thân nghệ sĩ... cung cấp, do

100

khai thác trên mạng xã hội... Tuy nhiên, việc ghi nguồn và chú thích không

được thực hiện ở tất cả các ảnh. Kết quả khảo sát việc thực hiện ghi nguồn và

chú thích ảnh ở 300 tin bài về NSBD VN trên VNN, Zingnews, Ngoisao cho

thấy: chỉ có khoảng 7% ảnh của VNN được ghi nguồn và chú thích; con số

này ở Zingnews là 52% và Ngoisao là 84% (Biểu đồ 2 – phụ lục 2). Đáng chú

ý là trong số ảnh được đăng tải thì ảnh chụp nhân vật; ảnh “nóng” ảnh phản

cảm, ảnh không đáp ứng được tiêu chuẩn báo chí chiếm tỉ lệ khá cao.

Mặc dù nhiều tin bài “mang danh” là lên án nhưng khi đăng tải những

bức ảnh phản cảm, báo điện tử lại vô tình cổ xúy sự lố lăng đi ngược lại

những giá trị văn hóa truyền thống và thuần phong mỹ tục của Việt Nam.

Việc không chú thích nguồn rõ ràng càng tạo điều kiện để những bức ảnh

“nóng” phản cảm được đăng tải và lan truyền mạnh mẽ hơn trên báo điện tử.

Bảng 3.5: Nội dung ảnh đăng trên các báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

+ Thể loại báo chí sử dụng trong thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn

Khảo sát 300 tin bài thông tin về NSBD trên các báo thuộc diện khảo

sát từ 2014-2016 cho thấy, 6 thể loại báo chí được sử dụng thường xuyên:

tin/tin ảnh, phản ánh tường thuật – giao lưu trực tuyến, phỏng vấn, chân

dung, tổng hợp/phân tích. Trong đó, thể loại phản ánh được sử dụng nhiều

nhất, tường thuật – giao lưu trực tuyến và tổng hợp/phân tích được sử dụng ít

nhất. Điều này chỉ ra báo điện tử tập trung vào việc cập nhật những thông tin

có tính chất bề nổi, tức thời, diễn ra trong một thời điểm nhất định nào đó của

giới NSBD VN.

101

Biểu đồ 3.3: Thể loại báo chí sử dụng trong thông tin về giới NSBD VN

Nguồn: NCS tổng hợp

Nguyên thư kí tòa soạn của tờ Dep.com.vn – NB Hoàng Nhật Mai cho

rằng nhà báo thường bị áp vào mình suy nghĩ nếu thực hiện những bài phân

tích đánh giá chuyên sâu nghiêm túc về nghệ thuật, chắc chắn phải kì công,

trong khi khả năng ít người đọc là rất cao. Vậy thì có nên làm hay không khi

mà họ sống trong cơ chế đếm “view” tính tiền? Không chỉ đơn giản hơn so

với thực hiện các bài tổng hợp phân tích, tin phản ánh còn tạo ra lợi thế trong

việc chạy đua tốc độ cập nhật cho trang báo. Những tin “hot” sốc...có thể đạt

được hàng vài trăm nghìn “view” đến hàng triệu “view”. Nhà báo Đinh Ngọc

cho rằng: “Công chúng hiện đại không có thời gian. Họ vội vã, chịu áp lực

công việc cao nên phải đọc những gì nhanh, ngắn dễ hiểu, mang tính giải trí”

(PVS 06). Tin, bài phản ánh là thể loại đáp ứng tốt nhất nhu cầu của công

chúng thế hệ “one touch” (một chạm). Tuy nhiên nhà báo Đinh Ngọc cũng

nhấn mạnh, công chúng thích những thông tin hấp dẫn, bắt mắt, ngắn gọn

không có nghĩa là họ nhạt nhẽo. Họ cũng thích và đọc có chọn lọc. “Dẫu vậy,

hầu hết các nhà báo hiện nay đều đang biến dễ hiểu thành dễ dãi. Thông tin

báo chí ngắn gọn nhưng phải chất” – Nhà báo Đinh Ngọc (PVS 06).

102

Thực tế cho thấy, những bài phỏng vấn hay, phân tích, bình luận vấn đề

có chiều sâu thì cho dù nhiều chữ lượt xem cũng vẫn rất cao. Ví dụ như bài

viết Không nên bênh vực Hồ Ngọc Hà của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái đăng

ngày 22/2/2016 trên Zingnews có hơn 300 nghìn lượt xem 181 lượt bình luận;

Nhạc Việt quá nặng về thanh nhạc của tác giả Nguyễn Phú Cương phỏng vấn

nhạc sĩ Doãn Nguyên đăng ngày 5 8 2014 trên VNN có hơn 100 nghìn lượt

xem; Điện ảnh Việt Nam 2016, thất bát thảm hại vì đâu? của tác giả Đông Bắc

đăng ngày 19 12 2016 trên Zingnews đạt hơn 250 nghìn lượt xem với gần

100 bình luận... Đây đều là những tác phẩm có chiều sâu, phân tích mổ xẻ

vấn đề và đưa ra những thông tin có tính định hướng, có giá trị về văn hóa

thẩm mĩ và tư duy cho công chúng. Nó cho thấy một điều, công chúng vẫn

“khát” và tìm đọc những bài viết sâu sắc, có chất lượng có hàm lượng văn

hóa cao. Tuy nhiên để làm được một bài viết như vậy quá khó, quá mất thời

gian so với việc làm một tin hay tin ảnh để câu “view” vậy nên phần lớn

nhà báo vẫn chọn cách dễ hơn đó là sản xuất tin, bài phản ánh thay vì mày

mò và sáng tạo ra những sản phẩm báo chí thực thụ.

3.2.3 Mối quan hệ giữa báo điện tử, giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam và

công chúng trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

3.2.3.1 Báo điện tử chạy theo thị hiếu của công chúng trong việc thông tin về

giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Kết quả khảo sát về nhu cầu của công chúng ở phần 3.2.1 đã cho thấy:

nữ giới có độ tuổi từ 18 đến 45 ở thành thị (có khả năng sử dụng công nghệ,

phù hợp với tiếp nhận thông tin online và làm việc với áp lực cao là đối

tượng công chúng chính của thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.

Những công chúng này thường xuyên hít thở trong bầu không khí văn hóa đại

chúng, muốn có sợi dây liên kết với người mình hâm mộ hoặc tò mò về đời

sống phía sau ánh đèn của những nghệ sĩ nổi tiếng. Bởi áp lực tự chủ tài

103

chính, các báo điện tử đua nhau đáp ứng nhu cầu của công chúng nhằm mục

đích thu hút họ đồng nghĩa với việc thu hút được các hợp đồng quảng cáo

mang lại doanh thu cho tòa soạn. Nhà báo Hoàng Nhật Mai cho rằng: “Mỗi

báo có một tôn chỉ riêng nhưng khi thực hiện thì mặc nhiên sẽ đi theo thị hiếu

của đám đông công chúng. Dần dần báo chí xuôi theo thị hiếu, độc giả thích

gì thị họ cung cấp cái đó” PVS số 5).

Để có thể “đua tốc độ” trong việc đáp ứng thị hiếu và giành công

chúng các báo điện tử thường:

+ Bám theo xu hƣớng thông tin và từ khóa

Khi một trang báo xuất hiện chủ đề được động đảo công chúng quan

tâm, lập tức các trang báo khác cũng khai thác nội dung xoay quanh chủ đề

này. Đó là hiện tượng bám xu hướng (trend) và từ khóa bám (key words)

được thuật toán google thiết lập cho các trang web nói chung và cho báo điện

tử nói riêng, nhằm hấp dẫn độc giả ngay lập tức về mặt trực giác.

Bảng 3.6: Khảo sát tin bài theo từ khóa trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Thử khảo sát ba nhóm từ khóa là “Ngọc Trinh + Hoàng Kiều” “Tình

tay ba Phan Thành – Midu – Thúy Vi” và “Chồng ca sĩ Thu Minh bị tố lừa

đảo” trên VNN Zingnews và Ngoisao kết quả cho thấy, những chuyện ồn ào

104

liên quan tới những NSBD nổi tiếng này đều trở thành xu hướng được các

trang báo khai thác triệt để ở nhiều góc cạnh khác nhau, từ diễn biến cho tới

hậu trường của câu chuyện. Tên NSBD và nội dung chính câu chuyện của họ

trở thành từ khóa xuất hiện trong tiêu đề các tin bài nhằm hiển thị “link” trang

báo khi công chúng tìm kiếm trên Google.

Nhà báo Hoàng Nhật Mai nhận định: “Thời hiện đại, sản phẩm báo

chí bị coi như sản phẩm hàng hóa. Khi môi trường cạnh tranh ngày càng

lớn, nhà báo buộc phải nghĩ cách tạo ra tác phẩm đủ “hot” đến mức trở

thành một làn sóng chia sẻ, ai xem cũng thích” PVS 07 . Không ít người

làm báo cho rằng, tin bài viết ra phải “gãi” đúng chỗ ngứa của độc giả, bất

chấp việc “gãi” ấy có tốt hay không. Tin bài bám theo xu hướng và từ khóa

thường kéo dài liên tục từ nửa tháng tới hơn một tháng (tùy theo mức độ

“hot” của nghệ sĩ và diễn biến của sự việc), tần suất đăng tải lớn (trung

bình khoảng 1 tin bài mỗi ngày). Nhiều tin bài được xuất bản không hàm

chứa thông tin báo chí, chỉ chú mục chạy theo xu hướng nhằm lợi dụng

thuật toán google và có được lượt xem cao từ công chúng. Thậm chí, không

ít nhà báo thay vì đi hiện trường tác nghiệp lại lên google tìm từ khóa, tìm

các sự vụ nóng của NSBD VN rồi cóp nhặt thông tin trên mạng xã hội để

viết thành tin bài.

Nhà báo Đinh Ngọc phân tích: “Vì áp lực kinh tế, quá nhiều nhà báo

chạy theo nhu cầu dễ dãi của bạn đọc mà quên mất vai trò định hướng thông

tin và truyền thông văn hóa của mình” (PVS 06). Nhà báo không đủ kiến

thức phông văn hóa và bản lĩnh rất dễ rơi vào trạng thái đuổi theo thị hiếu

của công chúng. Việc bám xu hướng và từ khóa thông tin có thể giúp tin bài

có nhiều lượt xem nhà báo được nâng nhuận bút nhưng nó cũng giống như

ánh sáng tỏa ra từ bóng đèn khiến những con thiêu thân lao vào mà bất chấp

hậu quả, bất chấp tương lai.

105

+ Sử dụng nguồn tin cóp nhặt, không kiểm soát

Nguồn tin là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định giá trị thông tin và

tạo ra uy tín, vị trí cho tờ báo. Nguồn tin cho báo chí rất đa dạng, mức độ

chính xác và uy tín của nguồn tin cũng khác nhau do đó công việc vất vả nhất

của nhà báo chính là tìm kiếm và xử lý thông tin. NSBD VN là người của

công chúng. Thông tin về họ tác động và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng và lối

sống của công chúng. Do vậy, nguồn tin về giới NSBD VN càng cần phải

được chọn lọc và cân nhắc kĩ càng.

Khảo sát 300 tin bài trên VNN, Zingnews và Ngoisao cho thấy, về mặt

bản quyền, tin bài tồn tại dưới hai dạng: 1) Tin bài thuộc bản quyền của tòa

soạn; 2) Tin bài được đăng tải lại từ các trang báo khác. Có 5 dạng nguồn tin

chính: 1) Nhà báo khai thác thông tin thực tế (tham dự sự kiện, gặp gỡ nhân

vật); 2) Do các đơn vị tổ chức sự kiện, công ty giải trí, NSBD cung cấp; 3)

Nhà báo khai thác thông tin từ mạng xã hội (trang cá nhân, diễn đàn…); 4)

Nhà báo tổng hợp hoặc đăng tải lại thông tin của các báo khác; 5) Cộng tác

viên (là các chuyên gia, các nhà nghiên cứu) gửi tin bài tới.

Biểu đồ 3.4: Nguồn tin cho thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

Nguồn: PV cung cấp + NCS tổng hợp

106

Bảng 3.7: Nguồn tin cho tin bài về giới NSBD VN trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Như vậy, 12 6% tin bài trên VNN Newzings Ngoisao được đăng lại từ

báo khác; và khoảng 87% tin bài có nguồn thông tin bản quyền của báo. Tuy

nhiên, trong 87% này thì chỉ có 22,5% tin bài do nhà báo trực tiếp khai thác

thông tin tại sự kiện và từ nhân vật; 2,7% do CTV gửi bài tới; còn lại do

NSBD, ban tổ chức sự kiện, công ty giải trí gửi thông tin tới hoặc nhà báo

khai thác trên mạng xã hội (trang cá nhân của NSBD, các diễn đàn… .

Thống kê này cho thấy số lượng tin bài mà nhà báo có thể kiểm soát

được nguồn tin rất thấp. Thông tin về giới NSBD VN trên các báo điện tử

hiện nay được cóp nhặt nhiều hơn là sáng tạo; thiếu tính khách quan khi được

cung cấp bởi chính giới NSBD VN và ê kíp (với những sự định hướng chủ

quan nhất định) thay vì nhà báo tự khai thác; thiếu sự chính xác khi lấy nguồn

tin từ mạng xã hội mà ít khi có sự kiểm chứng. Lý giải điều này, BTV Hồng

Minh (báo Ngoisao) cho rằng, tình trạng thương mại hóa khiến các tòa soạn

phải tăng tối đa nguồn thu và cắt giảm tối thiểu khoản chi bao gồm cả khoản chi

cho bộ máy nhân sự để duy trì hoạt động. Theo thống kê thời điểm tháng

12/2016, VNN chỉ có 3 PV mảng Văn hóa giải trí (sản xuất hơn 11 tin bài/ngày

về giới NSBD VN); Zingnews có 7 PV và Ngoisao có 8 PV mảng văn hóa giải

trí (sản xuất hơn 25 tin bài/ngày về giới NSBD VN). Chưa kể rất nhiều tin bài

107

khác mà PV phải thực hiện. Như vậy, mỗi PV phải sản xuất trung bình 5-6 tin

bài/ngày đồng thời phải đảm bảo số lượng lượt xem theo quy định của tòa soạn

mới được tính nhuận bút. Đó là một áp lực khủng khiếp. Bởi vậy, nhiều PV chấp

nhận lấy nguồn tin không chính thống, thiếu khách quan, thiếu sự kiểm chứng

như một giải pháp khả thi cho việc đảm bảo định mức tin bài và thu nhập.

Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng, bởi áp lực kinh tế thị trường, nhiều trang báo

điện tử hiện nay đang chạy theo thị hiếu của công chúng, thỏa mãn họ bằng những

tin bài với hàm lượng văn hóa rất thấp. Nói cách khác, những trang báo này đang

bị “chế định” bị định hướng bởi thị hiếu của công chúng. Hiện tượng này cũng

biểu hiện cho căn tính tiểu nông (vốn dĩ là một phi giá trị từ nền văn hóa gốc nông

nghiệp điển hình của Việt Nam) tồn tại trong tư duy của người làm báo, khi chỉ

nhìn thấy cái lợi trước mắt mà bỏ qua những giá trị lâu dài, bền vững.

3.2.3.2 Quan hệ tương tác giữa báo điện tử và giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

David P. Marshall Giám đốc trung tâm Nghiên cứu văn hóa và truyền

thông – Đại học Queensland, Úc) trong sách Celebrity and Power: Fame in

contemporary culture đã miêu tả: “Người nổi tiếng là một trong những cơ chế

cơ bản để xây dựng và duy trì mối liên kết giữa chủ nghĩa tư bản tiêu dùng,

dân chủ và chủ nghĩa cá nhân” [141]. Những NSBD nổi tiếng có một chức

năng tư tưởng quan trọng tác động mạnh tới cộng đồng. Chính bởi vậy,

NSBD nổi tiếng ngày nay được coi như một công cụ hiệu quả truyền tải thông

điệp và cá tính thương hiệu của các doanh nghiệp tới công chúng thông qua

báo chí. Việc thông tin về giới NSBD trên báo chí vì thế có thể chịu sự tác

động, chi phối lớn từ doanh nghiệp, khiến mô hình thông tin về NSBD trên

báo chí hoàn toàn thay đổi. Báo chí không còn là chủ thể thông tin duy nhất

nữa mà có thể trở thành trung gian phương tiện) truyền thông cho doanh

nghiệp hoặc NSBD.

108

Trong bối cảnh giao lưu hội nhập toàn cầu, việc thông tin về giới

NSBD VN trên báo điện tử không nằm ngoài xu hướng chịu sự tác động của

doanh nghiệp nói trên. Nhìn từ góc nhìn văn hóa Việt, thông tin về giới

NSBD VN trên báo điện tử vì thế trở thành hiện tượng mà nhiều nhà nghiên

cứu cho rằng đó là triệu chứng của sự thay đổi văn hóa đáng lo ngại.

+ Báo điện tử trở thành công cụ tạo dựng sự nổi tiếng cho NSBD

VN khi thông tin về giới này

Nhà bình luận của Time - Richard Schickel cho rằng: “Chẳng có gì nổi

tiếng trước khi bắt đầu thế kỉ 20”. Ở đây Richard muốn nói đến vai trò của

truyền thông hiện đại trong việc tạo ra sự nổi tiếng cho những người nổi tiếng.

Chính truyền thông hiện đại đã khuếch trương sự phát triển của một ngành

công nghiệp giải trí, tạo ra những người nổi tiếng có tính thương mại cao. Ở

Việt Nam điều này cũng được thể hiện khá rõ ràng.

Khi văn hóa đại chúng và công nghiệp giải trí phát triển mạnh mẽ,

truyền thông hiện đại đặc biệt là báo điện tử) có vai trò quan trọng trong việc

gây dựng sự nổi tiếng của NSBD VN, quyết định vị trí của họ trên “thị

trường” giải trí ngày càng khốc liệt. Ngày nay, thành công của những “ngôi

sao” không chỉ được khẳng định bởi tài năng mà còn bởi mức độ nổi tiếng

(thường được đo đếm bởi chỉ số truyền thông). Bởi vậy, mục tiêu của nhiều

NSBD VN là xuất hiện trên mặt báo và được công chúng biết đến càng nhiều

càng tốt, kể cả bằng những chuyện ồn ào hay tai tiếng. Báo điện tử với những

ưu thế vượt trội trở thành công cụ đắc lực trong việc gây dựng sự nổi tiếng

của không ít NSBD VN theo cách này (Bảng 4 - phụ lục 2).

Đơn cử như “ngôi sao” gạo cội Đàm Vĩnh Hưng gắn với hàng loạt

những thông tin khoe hàng hiệu yêu đương đồng tính hay mâu thuẫn với

đồng nghiệp; Hồ Ngọc Hà là nữ hoàng thị phi với chuyện ăn mặc gợi cảm quá

109

mức, diện hàng hiệu giá “khủng” chuyện hôn nhân, ngoại tình, chuyện chèn

ép đồng nghiệp...; hay Ngọc Trinh liên tục xuất hiện trên mặt báo với hình

ảnh hở bạo yêu đại gia, phát ngôn phản cảm… Nhà báo Phạm Thu Hà cho

rằng, nổi tiếng bằng những chuyện ồn ào, tai tiếng đang trở thành trào lưu của

nhiều NSBD VN hiện đại. Có những sự cố họa vô đơn chí ập đến với NSBD,

nhưng cũng rất nhiều chuyện ồn ào lại do chính NSBD tạo ra để thu hút báo

chí và công chúng chú ý đến mình. Khảo sát thử trường hợp của Ngọc Trinh

trong năm 2015, 2016 với 100 tin bài lựa chọn ngẫu nhiên trên VNN,

Zingnews, Ngoisao. Kết quả: chỉ có 3 tin bài về cô liên quan đến hoạt động

nghệ thuật (1 bài trên VNN, 2 bài trên Zingnews và 0 bài trên Ngoisao),

chiếm chưa tới 5%; còn lại đều là chuyện yêu đương ăn mặc hở hang, dùng

hàng nhái, đôi co với đồng nghiệp.... Đáng nói nhiều tin bài trên báo điện tử

có nguồn thông tin từ chính trang cá nhân của cô (Ngọc Trinh chủ động cung

cấp chuyện ồn ào của mình).

Ảnh 3.2: Thông tin Ngọc Trinh đăng trên trang cá nhân đƣợc Zingnews khai thác

Nguồn: báo điện tử News.zing.vn

Nhiều NSBD VN sẵn sàng nổi tiếng bằng cách tạo ra những câu

chuyện gây sốc trên báo điện tử, đánh vào tử huyệt cảm xúc của công chúng.

110

Nhờ vậy, công chúng có thể sẽ chú ý và mua sản phẩm (vé xem buổi biểu

diễn, album nhạc, sách tự truyện… của nghệ sĩ đồng thời giúp nghệ sĩ giảm

bớt được sự đánh giá khắt khe của công chúng về tài năng nghệ thuật còn hạn

chế của mình. Ngọc Trinh chỉ bằng phát ngôn “Không tiền cạp đất mà ăn

à?”, “Tôi không làm gái”... hay những bộ trang phục kiệm vải, những mối

tình với đại gia...trên mặt báo đã đủ để khiến cả cộng đồng mạng chú ý tới

cô mà chẳng cần bất cứ một đêm biểu diễn thời trang đỉnh cao hay một tác

phẩm điện ảnh chất lượng nào. Nhờ chăm chỉ xuất hiện trên mặt báo với

những chuyện gây sốc đó Ngọc Trinh có được rất nhiều những hợp đồng

biểu diễn, hợp đồng đại sứ thương hiệu và mức thu nhập cao hơn hẳn so

với những diễn viên thực lực như: Kathy Uyên Th y Anh… Rồi Hariwon

sau scandal tình tay ba được nhiều trang báo điện tử đề cập tới, thậm chí

còn phát phát hành hàng loạt sản phẩm âm nhạc và trở thành cái tên sáng

giá trong các chương trình biểu diễn d người ta nghe nhạc của cô, xem cô

diễn chỉ vì tò mò chứ không phải vì thừa nhận tài năng nghệ thuật). Thực tế

cho thấy, những NSBD VN xuất hiện liên tục trên mặt báo (chỉ số truyền

thông cao) thường có giá trị thương mại (cát xê và hợp đồng quảng cáo) cao.

Trong ngành công nghiệp giải trí, nhiều khi chỉ số truyền thông và mức độ nổi

tiếng mang lại nhiều thành quả thương mại cho người nghệ sĩ hơn là khả năng

nghệ thuật của họ.

Thử so sánh trường hợp ca sĩ Giang Hồng Ngọc (quán quân X-Factor

2014, giọng hát nội lực, truyền cảm được đánh giá cao) và ca sĩ Hariwon (ca

sĩ người Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam, chất giọng yếu và mỏng) (Bảng

3.8). Kết quả như sau: Mặc dù được đánh giá cao về tài năng nghệ thuật

nhưng về mức độ nổi tiếng, giá trị thương mại và thu nhập của Giang Hồng

Ngọc lại thấp hơn Hariwon rất nhiều. Trong 1 năm Giang Hồng Ngọc chỉ

có 31 tin bài viết về cô đăng trên Zingnews, trong khi Hariwon có tới 171

111

tin bài, đồng nghĩa với việc chỉ số truyền thông của Giang Hồng Ngọc kém

xa Hariwon. Nếu Giang Hồng Ngọc có giọng hát hay và báo chí thường

khai thác về giọng hát của cô, thì Hariwon lôi kéo sự chú ý của công chúng

bằng rất nhiều scandal trên mặt báo... Chưa xét phản ứng của công chúng

như thế nào nhưng nhờ sự xuất hiện dày đặc trên mặt báo, Hariwon đã

nâng cao “giá trị” và “giá trị sử dụng” của cô trong ngành công nghiệp giải

trí, liên tục có được các “show” ca nhạc, phim điện ảnh, các sự kiện lớn

nhỏ và cả các hợp đồng quảng cáo. Điều đó cho thấy, việc xuất hiện trên

mặt báo thường xuyên có ảnh hưởng lớn tới độ “hot” và sự thành công về

mặt thương mại cho NSBD, và gần như NSBD VN nào cũng ý thức được

điều này, thậm chí xây dựng cả những chiến lược cho việc xuất hiện trên

mặt báo của mình.

Bảng 3.8: So sánh nghệ sĩ Giang Hồng Ngọc và Hariwon

Nguồn: NCS tổng hợp

112

Chuyên gia truyền thông marketing Nguyễn Quang Dũng phân tích:

“Hiện nay, NSBD VN bắt đầu nghĩ đến và có chiến lược để tạo ra sự ảnh

hưởng và những giá trị cho họ. Mà trong chiến lược đó báo chí có vai trò

quan trọng, trở thành công cụ giúp kết nối họ với doanh nghiệp, với khách

hàng” PVS 01 . Trong xã hội hiện đại, công nghiệp giải trí gắn liền với công

nghiệp danh tiếng, chiến lược tạo lập hình ảnh một “ngôi sao” gần như không

khác biệt so với tạo lập thương hiệu cho một sản phẩm hàng hóa. Kinh tế thị

trường đã sinh ra thời đại marketing, thời đại tự quảng cáo, mà ở đó nhiều

NSBD VN phải xuôi theo xu hướng thương mại hóa, phải rao bán mình để

tồn tại, phải “biểu diễn” ở khắp mọi nơi mọi lúc, kể cả trên mặt báo để thu

hút sự chú ý của đám đông và báo điện tử chính là công cụ đắc lực nhất giúp

họ thực hiện mục tiêu này. NSBD VN muốn xuất hiện trên mặt báo nhằm hai

mục đích: 1 Họ tự tạo dựng mình trở thành một thương hiệu hấp dẫn có thể

đại diện cho những thương hiệu khác; 2, Thực hiện truyền thông cá nhân để

phục vụ lợi ích cho chuyên môn nghề nghiệp cá nhân của họ. Nói cách khác,

trong môi trường truyền thông hội tụ cao, khi internet và quảng bá đa phương

tiện ngày càng phát triển thì NSBD VN như là một quá trình truyền thông

(quảng bá, quảng cáo và khuếch trương được phối hợp bởi một ngành công

nghiệp, mà ở đó các nhà đầu tư các nhà sản xuất, công ty giải trí) có khuynh

hướng xây dựng họ như những thương hiệu được “tiêu thụ” bởi khách hàng

công chúng người hâm mộ và doanh nghiệp) một cách hiệu quả. Trong quá

trình này báo điện tử có vai trò quan trọng làm tăng “giá trị sử dụng” cho

nghệ sĩ. Những nghệ sĩ như Sơn T ng M-TP, Ngọc Trinh, Tóc Tiên, Hồ Ngọc

Hà, Nhã Phương... là điển hình cho việc thương mại hóa thương hiệu cá nhân

trên mặt báo. Tuy nhiên, chuyên gia Nguyễn Quang Dũng cho rằng, nền kinh

tế thị trường khi “du nhập” vào Việt Nam vẫn tồn tại nhiều bất cập, không

phù hợp với đặc trưng văn hóa lối sống và tư duy của người dân Việt...

113

NSBD phương Tây ăn mặc phóng khoáng, tối đa hóa giá trị thương mại bản

thân là việc hết sức bình thường và dễ được chấp nhận với công chúng

phương Tây. Nhưng khi NSBD VN áp dụng những điều này lại cần phải cân

nhắc. Nhiều người mải chạy theo giá trị thương mại của bản thân mà quên

mất mình là một người làm nghệ thuật trong môi trường văn hóa Việt, và vì

thế tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với công chúng cũng như chính bản

thân mình.

Nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích: “Muốn được công chúng chú ý thì

tin bài về NSBD phải có nhiều lượt xem, bình luận và chia sẻ. Chê bai hay

khen ngợi cũng được, miễn là lượng lượt xem phải cao, phải trở thành xu

hướng thu hút sự quan tâm của đám đông. Vì vậy, nhiều NSBD VN chấp nhận

xuất hiện trên mặt báo với những câu chuyện ồn ào, phản cảm…để nhanh nổi

tiếng hơn. Đối với nhiều NSBD VN bây giờ, báo chí chính là công cụ để

biểu diễn những chiêu trò, để rao bán mình” PVS 07 . Và đáng lo ở chỗ,

nhiều trang báo điện tử vì lợi ích kinh tế lại chấp nhận thỏa hiệp với xu hướng

này khi thông tin về giới NSBD VN, tạo ra những tin bài làm méo mó chân

giá trị của văn hóa Việt. Thực tế, những phát ngôn cùng phong cách thời trang

hở hang của Ngọc Trinh, Mai Khôi, Tóc Tiên, Mai Ngô... sẽ chẳng bao giờ

phù hợp với truyền thống “cái nết đánh chết cái đẹp” “chim không kêu tiếng

rảnh rang, người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe”... được người Việt đúc kết từ

ngàn năm qua để đề cao cái duyên, nét dịu dàng ra thưa vào gửi, công dung

ngôn hạnh của người phụ nữ Việt Nam. Hay những mối quan hệ tay ba của

Hà Hồ, Trấn Thành Trường Giang Nhã Phương Hariwon...trên mặt báo sẽ

khó được chấp nhận khi người Việt Nam vẫn coi trọng những giá trị gia đình

cách ăn ở tế nhị không thích “vạch áo cho người xem lưng”.... Nhiều người

cho rằng việc những nghệ sĩ tạo ra hoặc rơi vào những tình huống trái chiều

để tạo sức hút, sự chú ý của công chúng là một cách làm PR. Nhưng xét về

114

bản chất PR không đồng nghĩa với scandal. PR là cách thức tạo dựng hình ảnh

bền vững, những hình ảnh tốt đẹp trong nhận thức của công chúng thông qua

những hoạt động mang tính tích cực. Từ hình ảnh tốt đẹp đó để tạo ra những

giá trị khác biệt được cộng đồng đánh giá cao tôn trọng chứ không phải

những thứ thỏa mãn sự hiếu kỳ cho một nhóm công chúng nhất định. Chuyên

gia Truyền thông Marketing Nguyễn Quang Dũng khẳng định đánh đồng

chuyện tai tiếng trên mặt báo là PR là thực tiễn xảy ra rất nhiều ở Việt Nam.

Có những nghệ sĩ thích tạo những chuyện gây sốc, những xung đột mang tính

nhất thời trên mặt báo để thu hút sự tò mò của công chúng. Tuy nhiên, họ sẽ

phải trả giá bởi vì hình ảnh hình thành trong nhận thức của công chúng là một

quá trình diễn biến, và sẽ rất khó để những nghệ sĩ đó thay đổi ấn tượng của

công chúng về mình sau này. Còn báo điện tử, khi chấp nhận trở thành công

cụ gây dựng sự nổi tiếng cho NSBD VN, chạy theo thị hiếu công chúng và lợi

ích kinh tế mà quên đi vai trò truyền thông cho văn hóa Việt Nam trong cuộc

giao lưu tiếp biến văn hóa toàn cầu thì hình phạt lớn nhất mà họ phải gánh

chịu đó là sự mất lòng tin và quay lưng của công chúng.

+ Báo điện tử chịu sự chi phối từ NSBD VN và doanh nghiệp trong

việc thông tin về giới NSBD VN

Thế kỉ 21 báo điện tử không còn giữ vị trí độc tôn trong việc cung cấp

thông tin trên nền tảng internet. Mạng xã hội (MXH) với Instagram, twitter,

zalo… và đặc biệt là Facebook bùng nổ ở Việt Nam đã tạo ra cạnh tranh và áp

lực lớn cho báo điện tử. Thực tế, nhiều công chúng có xu hướng tiếp cận

thông tin về giới NSBD VN thông qua trang cá nhân của họ thay vì báo điện

tử. Không ít NSBD VN vì thế trở thành KOLs với các bài viết tạo ra sức ảnh

hưởng tới hàng chục nghìn hàng trăm nghìn thậm chí hàng triệu người theo

dõi trang cá nhân của họ như: Quỳnh Anh Shyn, Chi Pu, Hồ Ngọc Hà Sơn

T ng MTP Hương Giang idol Trấn Thành…

115

Ảnh 3.3: thống kê top KOLs có bài viết ảnh hƣởng trong ngành luyện tập thể

hình (gym) trong ngày 15/5/2015

(Nguồn: www.buzzmetrics.vn)

Tham khảo thống kê top KOLs có bài viết ảnh hưởng trong ngành tập

luyện thể hình trong ngày 15/5/2015 trên trang www.buzzmetrics.vn cho thấy:

mặc dù GYM là một ngành đặc thù, tuy nhiên diễn viên Diễm My, ca sỹ -

nhạc sĩ Cát Tường, MC Trấn Thành ca sĩ Tóc Tiên lại có chỉ số tương tác cao

hơn rất nhiều so với các chuyên gia trong lĩnh vực luyện tập thể hình như

Hanna Giang Anh dược sĩ Kim Tuyến... Trong top 10 những KOLs tạo ra

những “post” có tầm ảnh hưởng nhất thì có tới 8 người là NSBD, chỉ có 2

người là thuộc nhóm chuyên gia và công chúng ảnh hưởng. Đáng nói ở đây là

các bài viết của các NSBD VN chỉ đơn thuần là chia sẻ sở thích tập gym thay

vì kiến thức kĩ năng kinh nghiệm tập gym như các chuyên gia.

Hay trong lĩnh vực nấu nướng, số liệu thống kê top KOLs có bài viết

chủ đề nấu nướng tạo được nhiều tương tác nhất trong ngày 20/8/2016 theo

www.buzzmetrics.vn thì đứng đầu danh sách là những NSBD (Lý Hải, Minh

Hà Tóc Tiên Bích Phương... các chuyên gia trong lĩnh vực này (Food

116

blogger như Esheep kitchen Phan Anh Savoury Days Linh Trang Ngòn

ngon by Dino Dino Vũ mặc dù có nhiều bài viết hướng dẫn về nấu ăn nhưng

lượng tương tác tạo được lại thấp hơn. Điều này cho thấy sức hút và tầm ảnh

hưởng của NSBD lớn như thế nào. Họ có một lượng “fan” người hâm mộ)

đông đảo, và một lượng công chúng tò mò quan tâm nhất cử nhất động của họ

cũng đông đảo không kém.

Nhờ sức hút và khả năng lan tỏa của mình, KOLs được coi là một công

cụ hiệu quả trong chiến lược Marketing của các doanh nghiệp. Các doanh

nghiệp thường lựa chọn KOLs là NSBD nổi tiếng làm đại sứ thương hiệu, sử

dụng hình ành độ nổi tiếng và các bài viết trên trang cá nhân của họ để quảng

bá thương hiệu, sản phẩm tới công chúng rộng lớn (những người vốn là “fan”

hâm mộ và dễ bị định hướng bởi “ngôi sao” . “Doanh nghiệp bây giờ không

quan tâm tới nơi họ đặt quảng cáo có phải là một tờ báo chính thống hay

không, họ chỉ quan tâm có bao nhiêu độc giả tiếp cận thông điệp của họ, sản

phẩm của họ” - nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích (PVS 07). Hiện nay, trang

fanpage, trang cá nhân của nhiều NSBD VN nổi tiếng có doanh thu quảng cáo

cao hơn cả các trang báo điện tử. Các bài chia sẻ của họ thu về hàng triệu,

thậm chí hàng chục triệu lượt xem cao hơn nhiều so với bài viết trên báo điện

tử). “Nhiều NSBD VN không kiếm tiền bằng việc biểu diễn trên sân khấu mà

kiếm tiền từ các post trên mạng xã hội của họ. Điều này thậm chí khiến báo

điện tử rơi vào tình trạng thất thế trong việc hút doanh thu quảng cáo” PVS

07) – Nhà báo Hoàng Nhật Mai.

Để giải tỏa sức ép, nhiều báo điện tử thay vì thông tin khách quan (có

tính định hướng) các hoạt động văn hóa nghệ thuật đã quay sang bắt tay với

các KOLs là giới NSBD, thậm chí chịu sự áp đặt của KOLs để có được lượt

xem cao. Các trang báo thường đăng tải tin bài về NSBD VN là các KOLs và

để họ đính link bài viết lên trang cá nhân. Sự tương tác giữa NSBD và những

117

người theo dõi (followers) khiến các tin bài này nhanh chóng có được số

lượng lớn lượt xem, bình luận và chia sẻ chỉ sau một thời gian ngắn.

Theo chia sẻ của BTV Hồng Minh (trang Ngoisao), một bài viết về Hồ

Ngọc Hà có thể thu hút từ vài trăm nghìn lượt xem tới hàng triệu lượt xem.

Con số đó đủ nuôi định mức lượt “view” cho tác giả bài viết trong một tuần,

thậm chí là một tháng. Tin bài về ChiPu, Ngọc Trinh Sơn T ng M-TP, Minh

Hằng, Thanh Hằng.... cũng thu hút từ vài chục nghìn tới vài triệu lượt xem, vì

vậy những NSBD này thường trở thành nhân vật trong nhiều bài viết trên các

báo điện tử. Thậm chí, có những tin bài “lá cải” thông tin “rác” và hình ảnh

phản cảm về họ vẫn được ưu tiên đang tải trên trang chủ, bởi lý do nó có khả

năng lọt vào “top” tin bài có lượt người xem cao nhất. Nhà báo Hoàng Nhật

Mai nhận định: “Vì phụ thuộc vào việc lấy tin bài và kiếm lượt xem từ NSBD

nên rất nhiều trang báo cũng bị định hướng nội dung bởi họ” (PVS 07).

Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã không còn nhiều sự khách

quan mà gần như một sự trao đổi. Để có được lượt xem như mong muốn, các

tòa soạn báo phải chấp nhận nhượng bộ trước các ngôi sao đôi khi phải chiều

theo sự sắp đặt của họ. Nói như Graeme Turner trong cuốn Understanding

Celebrity: “Nhiều tờ báo hiện nay chấp nhận từ bỏ quyền tự do ngôn luận để

có được sự xuất hiện hay tham gia của một nghệ sĩ nổi tiếng nào đó” [158].

Bên cạnh đó hiện nay xuất hiện xu hướng “cộng tác” giữa báo điện tử

– NSBD VN và doanh nghiệp nhằm gia tăng giá trị và lợi ích cho cả ba bên.

Trong cuốn “Tiếp thị 4.0 – dịch chuyển từ truyền thống sang công nghệ số”

Philip Kotler đã mô tả hành trình khách hàng bằng mô hình 5A (aware – nhận

biết, appeal – thu hút, ask – tìm hiểu, act – hành động, và advocate - ủng hộ).

Theo đó hình ảnh và thông điệp từ NSBD trên báo chí có thể được doanh

nghiệp sử dụng để tác động vào hầu hết các khâu trong hành trình khách hàng

(công chúng). S ng bái người nổi tiếng là một hiện tượng văn hóa mà ở đó

118

người tiêu d ng có xu hướng mua và dùng sản phẩm theo lời giới thiệu, gợi ý

của thần tượng. Những tin bài, quảng cáo có sự xuất hiện của NSBD nổi tiếng

thường được đưa dưới dạng vỏ bọc là tư vấn, cho nên dễ dàng có được lòng

tin và sự ủng hộ từ công chúng, thậm chí còn khiến họ thích và chia sẻ rộng

rãi. Ví dụ như trang Ngoisao đăng bài Minh Hằng diện bikini khoe đường

cong nóng bỏng ngày 10 6 2014 trang Zingnews đăng bài Minh Hằng rạng

rỡ quay MV giữa trời nắng nóng ngày 15/06/2015.... Mặc dù tiêu đề về Minh

Hằng nhưng thực chất nội dung bài viết lại là những hình ảnh, thông tin gắn

liền với sản phẩm mà ca sĩ này làm đại diện thương hiệu - kem chống nắng

Sunplay. Bên cạnh hình ảnh Minh Hằng mặc trang phục có logo của Sunplay,

bài viết còn có những đoạn giới thiệu sản phẩm được trá hình dưới dạng chia

sẻ kinh nghiệm của nhân vật như: “Minh Hằng luôn ý thức bảo vệ làn da

mình dưới ánh nắng gay gắt. Người bạn thân thiết của Hằng là sản phẩm

Sunplay Super Block với chỉ số chống nắng cao SPF81, PA+++ cho khả

năng chống nắng mạnh” (Minh Hằng diện bikini khoe đường cong nóng bỏng

– Ngoisao). Hay cuối năm 2016 nam ca sĩ Sơn T ng M-TP, Soobin Hoàng

Sơn đã quay MV quảng cáo cho dòng sản phẩm Hunter của thương hiệu Bitis.

Cùng với việc phát hành MV Lạc trôi, Đi để trở về trên các kênh truyền

thông, hình ảnh của Sơn T ng Soobin và sản phẩm của Bitis phủ sóng liên

tục trên các trang báo điện tử, ví dụ như Soobin thay đổi phong cách với

single mới đăng ngày 29 12 2016 trên Zingnews; Hình ảnh không thấy trong

MV của Sơn Tùng đăng ngày 31 12 2016 trên VNN; Soobin Hoàng Sơn nhớ

nhà quay quắt khi quay MV mới đăng ngày 21 12 2016 trên Ngoisao... Link

các bài viết này lại được chính Sơn T ng và Soobin chia sẻ trên trang cá nhân

của mình. Kết quả, MV ca nhạc của hai nam ca sĩ tạo được hiệu ứng rộng rãi,

trở thành bản “hit” trăm triệu người xem, nâng tên tuổi Sơn T ng Soobin lên

một tầm cao mới; sản phẩm Bitis Hunter cháy hàng, trở thành một hiệu ứng

119

lan truyền tới mức giới trẻ sốt sắng đi tìm cho mình “một đôi Sơn T ng”

“một đôi Soobin”...; và Zingnews, VNN hay Ngoisao cũng có được lượt xem

cùng nguồn doanh thu không nhỏ từ những tin bài như thế.

Có thể nói, cả NSBD, doanh nghiệp và báo điện tử đều có lợi trong việc

kết hợp thực hiện hoạt động “quảng cáo trá hình” này. Có một sự liên kết

thương mại giữa các tin tức của báo điện tử và nhu cầu quảng cáo của công

nghiệp giải trí. Báo điện tử cũng là loại hình báo chí duy nhất có khả năng tham

gia vào mối liên kết này. Khi đó, việc thông tin về giới NSBD VN không đơn

thuần là quan hệ tam giác giữa báo điện tử - giới NSBD VN và công chúng nữa,

mà còn chịu sự tham gia tác động của một yếu tố khác: doanh nghiệp. Thậm chí,

theo mô hình truyền thông phức hợp của PGS. Trương Đình Chiến, trong nhiều

trường hợp, doanh nghiệp trở thành chủ thể truyền tải các thông điệp tới công

chúng thông qua công cụ trung gian là báo điện tử và NSBD. Nhiều nhà nghiên

cứu cho rằng đó là một triệu chứng của sự thay đổi văn hóa đáng lo ngại. “Nhiều

trang báo bây giờ thông tin về giới NSBD VN là để câu “view”, để giành công

chúng, giành doanh thu quảng cáo chứ không phải vì mục đích văn hóa, mục

đích nghệ thuật hay vì sự phát triển của NSBD” – Nhà báo Đinh Ngọc (PVS

06). Nhìn từ góc nhìn văn hóa những hiện tượng đó của báo điện tử là biểu hiện

của bệnh tủn mủn thiếu tầm nhìn, hám lợi, thói khôn vặt, láu cá, bệnh thiếu quyết

đoán…nảy sinh từ những đặc trưng của văn hóa Việt truyền thống khi Việt Nam

bước vào giai đoạn giao lưu hội nhập. Báo điện tử vì chạy theo công chúng,

chạy theo lợi nhuận mà chấp nhận đánh mất vai trò định hướng của mình, bỏ qua

nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt và màng lọc văn hóa trong sự giao lưu với

văn hóa toàn cầu, dẫn đến sự xuất hiện của rất nhiều những thảm họa, những phi

giá trị văn hóa trên mặt báo khi thông tin về giới NSBD VN, tạo tác động tiêu

cực tới xã hội. Những giá trị: giáo dục tư tưởng, thẩm mĩ…vì thế cũng ít nhiều

mà bị phôi phai đi.

120

3.2.4 Phản hồi của công chúng với thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam trên báo điện tử

3.2.4.1 Về tần suất, số lượng thông tin

Khảo sát 531 người với nội dung họ có thói quen đọc thông tin về giới

NSBD VN trên báo điện tử nào trong 3 tờ báo thuộc diện khảo sát, kết quả:

41% công chúng lựa chọn Zingnews, 39% lựa chọn Ngoisao và chỉ 20% lựa

chọn VNN (Biểu đồ 5 – Phụ lục 2). Như vậy, trang báo nào có tần suất và số

lượng thông tin lớn hơn sẽ thu hút sự quan tâm của công chúng nhiều hơn.

3.2.3.2 Về nội dung thông tin

Khảo sát cho thấy, cùng viết về một nghệ sĩ nhưng những tin bài có

tiêu đề giật gân và nội dung liên quan tới hậu trường đời sống thường có lượt

xem lượt bình luận và chia sẻ cao hơn (Bảng 2 – phụ lục 1). Như vậy, tin bài

về hậu trường đời sống của NSBD VN thực sự có khả năng thu hút sự quan

tâm từ công chúng.

Mặc dù vậy, kết quả khảo sát đánh giá hàm lượng thông tin về giới

NSBD VN trên báo điện tử lại cho thấy: đa phần công chúng đều cho rằng có

quá ít thông tin về chân dung, sản phẩm, hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ và

có quá nhiều thông tin đời tư gây ồn ào của họ.

Bảng 3.9: Đánh giá của công chúng về hàm lƣợng thông tin

giới NSBD VN trên báo điện tử

Đơn vị: Người

Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả khảo sát

121

Chỉ có 12% công chúng được khảo sát cho rằng hàm lượng thông

tin hậu trường đời sống về giới NSBD VN nhiều như hiện nay là phù

hợp, trong khi có tới 54% công chúng đánh giá không phù hợp (Biểu đồ

6 – Phục lục 2). Ngoài ra, chỉ có 7% công chúng được khảo sát cho rằng

thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay phù hợp với văn

hóa Việt truyền thống, trong khi có tới 57% đánh giá đó là không phù

hợp (Biểu đồ 7 – Phụ lục 2). Kết quả này cho thấy, công chúng bắt đầu

bị “bội thực” với những thông tin hậu trường đời sống riêng tư gây ồn ào

của NSBD VN trên mặt báo; đồng thời họ đòi hỏi nhiều hơn những

thông tin chất lượng, có giá trị VHNT, phù hợp với thuần phong mỹ tục

văn hóa Việt Nam.

3.2.3.3 Về cách đặt tiêu đề và sử dụng hình ảnh

Khảo sát ý kiến của 531 công chúng về tiêu đề và hình ảnh trong thông

tin về giới NSBD VN trên các trang báo điện tử hiện nay, kết quả như sau: Về

tiêu đề, có tới 55,4% công chúng cho rằng không phù hợp; chỉ có 5,08% đánh

giá phù hợp; Về hình ảnh, tỉ lệ công chúng đánh giá không ph hợp cũng cao

hơn hẳn tỉ lệ đánh giá ph hợp, 32,2% so với 10 2%. Đặc biệt, gần 14% công

chúng cảm thấy phản cảm với tiêu đề và hình ảnh trong thông tin về giới

NSBD VN trên báo điện tử hiện nay (Bảng 3 – Phụ lục 1).

3.2.3.4 Phản hồi của công chúng với hình ảnh của giới NSBD VN thông qua

thông tin về giới này trên báo điện tử

Hình ảnh về giới NSBD VN phản ánh một phần hình ảnh của văn hóa

nghệ thuật nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. Do đó phản hồi của công

chúng về hình ảnh giới NSBD VN phản ánh hiệu quả việc thông tin về giới này

cũng như hiệu quả nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo điện tử.

Về mức độ nhận diện: Khảo sát số lượng tin bài của NSND Đặng

Thái Sơn danh ca Khánh Ly ca sĩ Hồ Ngọc Hà người mẫu/diễn viên Ngọc

122

Trinh trên Zingnews, VNN, Ngoisao từ 2014 - 2016 cho thấy: Đặng Thái Sơn

và Khánh Ly (nghệ sĩ tinh hoa có số lượng tin bài thấp hơn rất nhiều so với

Hồ Ngọc Hà hay Ngọc Trinh (nghệ sĩ đại chúng thương mại). Ví dụ, trong

năm 2016 số lượng tin bài viết về Ngọc Trinh gấp 45 Đặng Thái Sơn gấp

10,9 lần Khánh Ly.

Bảng 3.10 Số lƣợng tin bài về NSBD VN trên báo điện tử năm 2016

Đơn vị: bài

Nguồn: NCS tổng hợp

Khảo sát về mức độ nhận diện của công chúng đối với các nghệ sĩ

trên, kết quả như sau: có 11 người không biết Đặng Thái Sơn con số

này với Khánh Ly là 9 người, với Hồ Ngọc Hà là 2 người, và với Ngọc

Trinh là 1 người. Kết quả này cho thấy, những nghệ sĩ xuất hiện nhiều

trên mặt báo sẽ được công chúng biết đến nhiều hơn. Như vậy, thông

tin trên báo điện tử có tác động lớn tới việc nhận diện được giới NSBD

VN của công chúng.

Về mức độ thiện cảm và thái độ: Ý kiến bình luận dưới mỗi tin bài về

giới NSBD VN phần nào thể hiện thái độ của công chúng đối với những

thông tin, hình ảnh và lối sống mà họ xây dựng trên mặt báo. Khảo sát ngẫu

nhiên một số tin bài về NSBD VN trên 3 trang báo thuộc diện khảo sát, kết

quả cho thấy: những tin bài về NSBD thương mại thường có lượng bình luận

comment cao hơn những tin bài về NSBD tinh hoa; tin bài khai thác thông

123

tin hậu trường, lối sống của NSBD thu hút nhiều tương tác hơn tin bài về hoạt

động nghệ thuật. Tuy nhiên, số lượng lượt xem cũng như bình luận không

phải luôn tỉ lệ thuận với thái độ phản ứng và mức độ thiện cảm mà công

chúng dành cho người nghệ sĩ.

Bảng 3.11: Phản hồi của công chúng với thông tin giới NSBD VN

trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Kết quả khảo sát chỉ ra có 3 loại phản ứng mà công chúng dành cho

NSBD VN khi tiếp nhận thông tin về họ trên báo điện tử: 1) Ủng hộ (tích

cực); 2) Phản đối (tiêu cực); 3) Ý kiến khác (trung dung hoặc đưa ra những

bình luận không liên quan). Những bài viết liên quan đến hoạt động nghệ

thuật, số lượng bình luận tích cực là chủ yếu, trong khi những bài viết khai

thác thông tin hậu trường gây sốc (ngoại tình ăn mặc hở hang, scandal...) thì

bình luận tiêu cực lại chiếm đa số. Ví dụ, bài viết “Hồ Ngọc Hà được đại gia

Chu Đăng Khoa cầu hôn trên bãi biển?” đăng trên Zingnews thu hút 207 lượt

bình luận trong đó 48 bình luận tích cực, 121 bình luận tiêu cực và 38 ý kiến

124

khác. Trong khi “Khánh Ly – nỗi ân hận của một danh ca” chỉ có 6 bình luận

nhưng 4/6 bình luận đó là tích cực.

Khảo sát đánh giá về mức độ được ưa thích và tầm ảnh hưởng của một

số NSBD VN thông qua tin bài về họ trên báo điện tử, kết quả như sau: Chỉ

có 33/498 công chúng ưa thích hoặc quan tâm tới thông tin về Đặng Thái

Sơn; trong khi đó có tới 309/527 công chúng ưa thích hoặc quan tâm tới thông

tin về Sơn T ng. Sự chênh lệch lớn về con số cho thấy sức hút của những

NSBD thương mại. Tuy nhiên, thống kê cũng cho thấy, những NSBD VN

được nhiều công chúng quan tâm, ưa thích chưa chắc đã ghi lại trong tâm trí

họ với hình ảnh tích cực; thậm chí nhiều NSBD VN bị chính người hâm mộ

đánh giá thông tin về họ đang tạo ra ảnh hưởng tiêu cực tới các chuẩn mực

văn hóa Việt tác động xấu tới cộng đồng. Đơn cử: trong 252 công chúng bày

tỏ sự ưa thích và quan tâm tới thông tin về Ngọc Trinh, chỉ có 10,7 % cho

rằng cô tạo ra ảnh hưởng tích cực tới văn hóa và cộng đồng; có tới 33.3% cho

rằng ảnh hưởng từ thông tin về cô là tiêu cực. Trong khi đó gần 85% công

chúng đánh giá thông tin về Đặng Thái Sơn và Khánh Ly tạo ra những ảnh

hưởng tích cực tới văn hóa và cộng đồng.

Bảng 3.12: Đánh giá của công chúng về ảnh hƣởng của NSBD VN

thông qua tin bài về họ trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

125

Những thống kê số liệu chỉ ra rằng, xuất hiện nhiều trên mặt báo không

đồng nghĩa với việc NSBD xây dựng được hình ảnh tích cực trong lòng công

chúng. Công chúng luôn luôn có những nhìn nhận khách quan, tự đưa ra quan

điểm của riêng mình, từ đó hình thành thái độ (tích cực hoặc tiêu cực) về

NSBD. Những thông tin hậu trường đời sống gây sốc chỉ giúp NSBD được

công chúng nhận diện, che giấu bớt những khiếm khuyến tài năng nhưng

không giúp họ nhận được phản hồi tích cực. Như vậy, cách thức và nội dung

thông tin có ảnh hưởng lớn tới thái độ và mức độ thiện cảm mà công chúng

dành cho NSBD VN; đồng nghĩa với việc ảnh hưởng lớn tới hiệu quả nhiệm

vụ truyền thông văn hóa Việt của báo điện tử.

3.3 Đánh giá chất lƣợng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên

báo điện tử

Dựa trên những tiêu chí đánh giá từ góc nhìn văn hóa Việt được xây

dựng ở chương 2 của luận án và kết quả khảo sát thực trạng việc thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử ở chương 3 có thể đánh giá chất lượng thông

tin về giới NSBD VN trên báo điện tử như sau:

3.3.1 Về thành tựu

3.3.1.1 Cung cấp thông tin phong phú về văn hóa nghệ thuật nói chung và

NSBD VN nói riêng, góp phần truyền thông và bảo vệ bản sắc văn hóa Việt

Có tới 81,7% công chúng được khảo sát tiếp cận thông tin về giới

NSBD VN thông qua báo điện tử. Điều này cho thấy báo điện tử là công cụ

có ưu thế nhất trong việc thông tin về giới NSBD VN cũng như thực hiện

nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. Nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn

khẳng định: “Báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng đã nắm rất tốt các

quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng về VHNT, chuyển tải được đời

sống VHNT VN nói chung và NSBD VN nói riêng tới đông đảo công chúng,

góp phần thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt Nam” (PVS 02).

126

Không chỉ phản ánh sự phong phú trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn

VN hiện đại, thông qua những tin bài về một lớp nghệ sĩ mới, về những tư

tưởng và sản phẩm nghệ thuật mới báo điện tử với những ưu thế dựa trên nền

tảng công nghệ đã chuyển tải những tinh hoa của nghệ thuật biểu diễn thế giới

vào Việt Nam, giúp nghệ thuật biểu diễn Việt Nam hội nhập một cách toàn

diện, mang tới sự phong phú đa dạng, muôn màu muôn vẻ cho đời sống văn

hóa nghệ thuật Việt Nam, thúc đẩy dân trí và tư duy thẩm mĩ của công chúng

phát triển. Công chúng không chỉ biết tới tuồng, chèo, cải lương quan họ,

kịch..., họ biết rõ hơn về các loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại, như:

nhạc pop, nhạc rock, nhạc hiphop, phim ngôn tình lãng mạn phim hành động;

các trào lưu thời trang thế giới: colour block, vintage... Trong sự hội nhập ấy,

báo điện tử cũng chuyển tải những thông tin nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát

huy bản sắc văn hóa nghệ thuật Việt Nam truyền thống. Ví dụ như thông qua

bài viết về DJ SlimV đăng ngày 25 9 2016 trên Ngoisao: “DJ SlimV: Mong

muốn mang âm nhạc Việt ra quốc tế” công chúng có thể hiểu hơn về nghề DJ

(một loại hình nghệ thuật du nhập từ nước ngoài). Hay câu chuyện về những

nghệ sĩ ở sân khấu Hoàng Thái Thanh trong bài viết “Phía sau những vở kịch

rơi nước mắt ở sân khấu Hoàng Thái Thanh” đăng ngày 29 07 2016 trên

VNN của Duy Tường lại giúp người đọc thấu hiểu sự nỗ lực của NSBD Việt

trong việc cứu sân khấu kịch Việt Nam, từ đó có ý thức hơn trong việc bảo

tồn nghệ thuật biểu diễn truyền thống.

3.3.1.2 Phản ánh những hình ảnh và phẩm chất tốt đẹp của NSBD VN, góp

phần xây dựng giá trị văn hóa mới; đồng thời phê phán sự phi văn hóa trong

hoạt động nghệ thuật cũng như đời sống của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

NSBD là người của công chúng, hình ảnh và lối sống của họ có ảnh

hưởng lớn tới công chúng. Với việc đưa thông tin về những NSBD VN nổi

tiếng – mối quan tâm của công chúng báo điện tử đã góp phần cổ vũ tôn

127

vinh những cống hiến lao động tài năng của họ trong hoạt động văn hóa

nghệ thuật. Không ít tấm gương về những người nghệ sĩ đam mê với nghề,

dám khẳng định cái tôi, mạnh mẽ tiếp cận với cái mới, cái tiến bộ của thế giới

trào lưu nghệ thuật mới), nỗ lực vượt qua khó khăn để thành công; những

ứng xử hỗ trợ lẫn nhau thể hiện cái tình của nghệ sĩ… là tấm gương để công

chúng điều chỉnh hành vi, tạo ra lối tư duy tích cực vươn tới các giá trị Chân –

Thiện – Mỹ cho công chúng khơi gợi nhắc nhở công chúng về những truyền

thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt như: tình đoàn kết, sự bao dung, sự

nhẫn nại… giúp họ sống tốt đẹp hơn.

Bên cạnh đó báo điện tử - với nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt và

làm “màng lọc” văn hóa đã phần nào phê phán những hiện tượng tiêu cực, phi

văn hóa những biểu hiện lệch lạc, quan điểm sai trái, những góc tối tiêu cực...

của NSBD VN. Ví dụ như: “Nghệ sĩ không nên phơi bày lùm xùm tình cảm

trước dư luận” trên Zingnews ngày 6 3 2016: “Sao Việt lật lọng hay văn

hóa ứng xử kém?” đăng ngày 28/2/2014 trên VNN; “Khi nghệ sĩ có thói

quen... chửi bậy” đăng ngày 2 3 2015 trên VNN; “Ứng xử của sao Việt với

tin đồn người thứ 3” đăng ngày 14 10 2015 trên Ngoisao; “Ai đã tiếp tay

cho nghệ sĩ Việt thản nhiên chơi đùa với scandal?” đăng ngày 8 6 2016 trên

Zingnews... Những bài viết phân tích mang tính phản biện này mặc dù chỉ

chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số lượng tin bài về giới NSBD VN tuy nhiên đều

có lượt xem cũng như bình luận tương tác cao từ công chúng, ảnh hưởng

mạnh mẽ tới thái độ và hành vi của công chúng. Đơn cử như bài viết “Nghệ

sĩ không nên phơi bày lùm xùm tình cảm trước dư luận” của tác giả Nguyễn

Thị Minh Thái có hơn 900 nghìn lượt xem, 178 bình luận; bài viết “Kỳ

Duyên nên trả lại vương miện bằng lòng tự trọng” đăng trên Zingnews cũng

của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái thu hút hơn một triệu rưỡi lượt xem, 487

bình luận... Không chỉ phê bình những hạn chế, tiêu cực, những bài viết này

128

còn góp ý, xây dựng và đưa ra những giải pháp để nghệ sĩ sáng tạo được

nhiều hơn các tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng đạo đức và nghệ thuật cho

công chúng.

3.3.1.3 Mang lại sự thư giãn, giải trí, góp phần nâng cao đời sống văn hóa

tinh thần cho công chúng

Khảo sát mục đích đọc thông tin về giới NSBD VN của 531 công

chúng cho thấy: 43% vì giải trí; 31% vì quan tâm tới hoạt động văn hóa nghệ

thuật, nghiên cứu về lĩnh vực này; 18% vì hâm mộ một nghệ sĩ nào đó; 8% vì

lý do khác hoặc vì không có thông tin gì khác để đọc. Như vậy, công chúng

đọc thông tin về giới NSBD VN vì mục đích giải trí chiếm tỉ lệ lớn.

Dưới áp lực công việc căng thẳng của xã hội hiện đại, đọc thông tin

về giới NSBD VN là một cách hữu hiệu để công chúng cân bằng cuộc

sống. Đặc biệt báo điện tử với những ưu thế riêng (thông tin nhanh chóng,

không giới hạn khả năng lưu trữ, hình thức thể hiện đa phương tiện: video,

hình ảnh văn bản, biểu bảng âm thanh… là loại hình báo chí đáp ứng tốt

nhất nhu cầu này của con người. Chỉ với một chiếc điện thoại thông minh

hoặc một phương tiện nghe nhìn có kết nối internet công chúng đã có thể

tự thư giãn đầu óc mình ở mọi lúc, mọi nơi mọi thời điểm. Một mặt, việc

đăng tải khá đầy đủ và phong phú các chương trình biểu diễn, ra mắt phim,

giới thiệu dự án nghệ thuật của các nghệ sĩ.... giúp công chúng nắm rõ

được thông tin và có cái nhìn tổng quan về hoạt động nghệ thuật biểu diễn

ở Việt Nam, lựa chọn được những hoạt động mà mình quan tâm. Mặt khác,

những thông tin về đời tư, gây ồn ào của NSBD VN lại giúp công chúng

được thỏa mãn sự tò mò, hiếu kỳ của mình; có thêm những câu chuyện

c ng nhau bàn tán để giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống, trong công việc

hàng ngày; đồng thời cũng là những bài học có giá trị về lối sống và văn

hóa ứng xử mà công chúng có thể tự rút ra cho mình.

129

3.3.1.4 Là cầu nối giữa nghệ sĩ/nghệ thuật với công chúng

Nhờ báo điện tử đều đặn cập nhật, cung cấp thông tin từng ngày, từng

giờ, thậm chí từng phút, nghệ sĩ được tiếp xúc với công chúng ở phạm vi

rộng, giúp công chúng có sự nhìn nhận về họ không chỉ ở khía cạnh hoạt động

nghệ thuật mà còn cả con người, cuộc sống, những mối quan hệ... Qua đó,

công chúng có cái nhìn toàn diện, thấu đáo và chia sẻ hơn về NSBD; am hiểu

sâu sắc hơn về hoạt động văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Nhờ có bài viết

“Khánh Ly: Tôi và Trịnh Công Sơn còn hơn cả tình vợ chồng” mà nữ danh ca

có thể giãi bày với công chúng của trang Ngoisao về mối quan hệ giữa mình

với cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đó không phải là tình yêu đôi lứa thông

thường như người ta vẫn thường đồn thổi mà đó là tình cảm giữa một người

cha và con gái. Hay bài viết “Ra mắt phim Vòng eo 56 của Ngọc Trinh” đã

cho thấy một Ngọc Trinh trong vai trò diễn viên, nhà sản xuất phim điện ảnh

bên cạnh một người mẫu nội y mà công chúng từng quen thuộc....

Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử cũng chính là cầu nối hữu

hiệu nhất giữa NSBD VN và công chúng, giúp nghệ sĩ đến gần hơn với công

chúng, từ đó tiếp nhận được những phản hồi của công chúng để có những

điều chỉnh phù hợp và tích cực hơn; góp phần phát triển sự nghiệp cá nhân

của người nghệ sĩ và văn hóa nghệ thuật Việt Nam.

Nguyên nhân của thành tựu:

Do báo điện tử có rất nhiều ưu thế (cập nhật nhanh, không bị giới hạn

khuôn khổ, khả năng tương tác cao hình thức thể hiện đa dạng) nên rất phù

hợp để chuyển tải thông tin về giới NSBD VN, tạo ra sự tiện lợi cho công

chúng trong việc theo dõi thông tin.

Các tòa soạn báo điện tử cũng chú ý việc nâng cao chất lượng đổi mới

hình thức tin bài theo hướng hiện đại hóa thay đổi phương thức tác nghiệp

của phóng viên, biên tập viên, huy động tối đa năng lực sáng tạo, đề ra những

130

tiêu chuẩn cao hơn về nội dung tin bài để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của

công chúng.

Bên cạnh đó việc xây dựng và duy trì các chuyên mục chuyên trang văn

hóa giải trí phù hợp với đối tượng công chúng mục tiêu cũng tạo ra sự quan tâm

của công chúng, duy trì sự kết nối của công chúng với tòa soạn báo điện tử.

Sự nhiệt huyết, trẻ trung của đội ngũ những người làm báo trong các

tòa soạn báo điện tử, chịu khó cập nhật các xu hướng làm báo mới, nắm bắt

nhanh trào lưu nghệ thuật đương đại đáp ứng cách làm báo hiện đại cũng là

yếu tố góp phần tạo ra thành tựu trong việc thông tin về giới NSBD VN trên

báo điện tử.

3.3.2 Về hạn chế

3.3.2.1 Hạn chế về tính nhân văn và chất lượng thông tin, thiếu tôn trọng sự

riêng tư cá nhân, đi ngược quy tắc ứng xử trọng tình của người Việt

Tính nhân văn của báo chí thể hiện ở việc cổ vũ khuyến khích cái tốt;

đấu tranh, bài trừ cái xấu; hướng con người tới những suy nghĩ hành vi lối

sống tích cực, tốt đẹp; góp phần xây dựng một xã hội có văn hóa lành mạnh.

Bởi chạy đua trong việc thu hút công chúng nên tính nhân văn trong nhiều

thông tin về giới NSBD VN trên các trang báo điện tử hiện nay bị xem nhẹ.

Bên cạnh những tác động tích cực, thông tin về giới NSBD VN trên

báo điện tử hiện nay cũng tồn tại nhiều ảnh hưởng tiêu cực trên con đường

xây dựng hệ giá trị văn hóa mới cho dân tộc Việt. Rất ít tác phẩm nhìn nhận

NSBD VN ở khía cạnh nghệ thuật mà lại chú mục nhiều hơn những chuyện

ngoài lề, gây sốc, kích thích những sự suy đồi giá trị văn hóa đạo đức trong

công chúng, làm ảnh hưởng đến tâm hồn giới trẻ, cổ vũ cho căn bệnh “sính

ngoại” chuộng hàng hiệu, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam,

khiến công chúng ảo tưởng về cuộc sống xa xỉ, hào nhoáng, nảy sinh tư tưởng

sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được nổi tiếng...

131

Nhiều tin bài không được viết tử tế không đáp ứng quy chuẩn ngôn

ngữ hay thể loại báo chí, thông tin hời hợt, thiếu chiều sâu, đôi khi chỉ là sự

cóp nhặt thông tin trên MXH. Ưu thế của báo điện tử bị tận dụng để phục vụ

những mục tiêu lợi nhuận trước mắt của người làm báo, thay vì thực hiện

nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. Nhiều bài viết viết xuyên tạc, không

được kiểm chứng, cố tình khai thác những thông tin gây sốc khiến NSBD

phải nhận không ít lời bình luận ác ý từ công chúng, ảnh hưởng đến cả sự

riêng tư của cá nhân NSBD và người thân của họ.

3.3.2.2 Chưa thực hiện tốt nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt, chưa thể hiện

được tố chất văn hóa của người làm báo

Trong Việt Nam văn hóa sử cương học giả Đào Duy Anh đã cảnh báo

về “bi kịch của sự phát triển” khi VN bước vào hội nhập văn hóa phương Tây

và báo chí có vai trò quan trọng trong nhiệm vụ giải quyết bi kịch này. Đáng

tiếc báo chí đặc biệt là báo điện tử đã chưa làm tròn vai trong nhiệm vụ

truyền thông văn hóa Việt, giải quyết bi kịch của sự phát triển. Một loạt

những bài báo với những hình ảnh phản cảm, ngôn từ thiếu sự chuẩn mực, nội

dung xa rời thuần phong mĩ tục Việt Nam...được đăng tải thu hút sự quan tâm

của số đông công chúng. Đáng nói hơn phần lớn trong số công chúng ấy lại

là giới trẻ. Thay vì nhận thức được những chân giá trị của cuộc sống, những

tinh hoa văn hóa dân tộc, thì rất nhiều bài báo đăng tải trên báo điện tử hiện

nay lại xây dựng cho công chúng trẻ một tư duy lệch lạc, phiến diện, thích

hưởng thụ hơn cống hiến, thậm chí là sa đọa.

Những loại hình NTBD truyền thống (chèo, cải lương quan họ…) và

NSBD những loại hình nghệ thuật này được đề cập quá ít trên mặt báo. Thay

vào đó là thông tin về những NSBD thương mại được cập nhật từng ngày,

từng giờ, thậm chí từng phút. Trong bài nghiên cứu Truyền thông văn hóa và

văn hóa truyền thông, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng, báo chí thay

vì truyền thông văn hóa Việt lại khiến công chúng có thêm điều kiện để tiếp

132

nhận những ảnh hưởng văn hóa ngoại lai với sự ngưỡng vọng thái quá, gây

hại cho tư duy và tư tưởng của công chúng làm méo mó đi hình ảnh văn hóa

dân tộc [111].

3.3.2.3 Báo điện tử mất dần vai trò định hướng; thông tin bị thương mại hóa

Trong cơ chế tự chủ tài chính, báo chí không đơn thuần là một loại hình

công tác, mà còn là một dịch vụ xã hội đem lại doanh thu. Trước đây thông

tin VHNT nói chung và thông tin về giới NSBD VN nói riêng được cho là

lĩnh vực “thêm thắt” như một kiểu gia vị. Nhưng hiện tại, trong cuộc chiến

cơm áo gạo tiền của các trang báo điện tử, lĩnh vực thông tin này trở nên quan

trọng, bởi nó thu hút bạn đọc, phục vụ mục đích thu hút công chúng và đem

lại doanh thu cho tòa soạn. Vì mục đích thương mại, nhà báo sẵn sàng cung

cấp bất cứ thông tin gì mà công chúng thích: scandal, ảnh nóng, ảnh lộ hàng,

chuyện tình cảm tay ba... mà không quan tâm tới hậu quả hay những ảnh

hưởng tiêu cực mà nó mang tới cho cả đối tượng được thông tin và đối tượng

tiếp nhận thông tin. Nói cách khác, vì doanh thu, báo điện tử hiện nay đang

chạy theo thị hiếu của công chúng.

Bên cạnh đó không ít trang báo điện tử chủ động bắt tay với các nghệ

sĩ thiết lập mối quan hệ với nghệ sĩ như “người nhà”, chịu sự chi phối của

doanh nghiệp trong quá trình thông tin về nghệ sĩ để có lượt xem và doanh

thu quảng cáo cao. Nhiều bài báo được viết ra nhằm mục đích lăng xê nghệ sĩ

này hoặc dìm nghệ sĩ khác. Điều này dẫn đến độ vênh của công chúng trong

nhìn nhận đánh giá cho c ng một nhân vật, cùng một sự kiện ở những trang

báo khác nhau, khiến họ hoang mang về cái gọi là sự thật. Khảo sát từ góc độ

đánh giá chủ quan của công chúng, kết quả như sau: 24% cho rằng có ít hơn

40% tin bài có sự bắt tay giữa NSBD và nhà báo, và có tới 76% tin rằng trên

40% tin bài có sự bắt tay giữa NSBD và nhà báo (Biểu đồ 8 – phụ lục 2). Điều

133

này cho thấy phần lớn công chúng không còn tin vào sự khách quan của báo

điện tử khi đăng tải thông tin về giới NSBD nữa.

Nguyên nhân của những hạn chế:

Trong quá trình thông tin về giới NSBD VN, các tòa soạn báo điện tử

chưa xác định và cũng chưa đề cao nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của

mình do đó không xây dựng được những chiến lược định hướng thông tin rõ

ràng, giúp truyền tải các giá trị phái sinh của văn hóa dân tộc Việt.

Bên cạnh đó áp lực tự chủ tài chính khiến các tòa soạn báo bị thương

mại hóa, chịu sự chi phối của doanh nghiệp và NSBD VN dẫn tới mất dần vai

trò định hướng cũng như tính khách quan khi thông tin về giới NSBD VN, tạo

ra những thảm họa thông tin đi ngược với bản sắc văn hóa Việt Nam.

Nhiều nhà báo có góc nhìn lệch lạc, nghiệp vụ non yếu, chạy theo thị

hiếu đám đông vì cái lợi trước mắt mà quên đi vai trò định hướng thông tin

và truyền thông văn hóa của mình. Không ít nhà báo viết về văn hóa văn hóa

nghệ thuật nhưng lại thiếu phông nền văn hóa. Ý thức chính trị, tôn trọng

pháp luật, tôn trọng quyền riêng tư nhân vật của nhà báo cũng chưa cao dễ

dãi trong khai thác tư liệu, thực hiện tin bài, ít cọ xát thực tế. Bộ phận thẩm

định cũng lỏng lẻo để lọt những thông tin thiếu trung thực, thiếu khách quan,

phản cảm, gây ảnh hưởng tới uy tín của tòa soạn nói riêng làm phương hại tới

hình ảnh văn hóa dân tộc Việt nói chung.

Hiện nay chưa có bộ môn hay trường lớp đào tạo nào dạy về cách tiếp

cận, khai thác về mảng đề tài nhạy cảm và mang tính đặc thù này.

Một trong những nguyên nhân của những tồn tại là do công tác quản lý

báo chí của các cơ quan chức năng còn bị buông lỏng, thiếu đồng bộ, kém

hiệu quả, thiếu những biện pháp cụ thể, kiên quyết để xử lý, khắc phục kịp

thời các khuyết điểm của báo điện tử khi đăng tải những tin bài làm phương

hại tới văn hóa dân tộc.

134

Khảo sát 3 báo điện tử (Vietnamnet Ngoisao.net Zingnews để phân

Tiểu kết chƣơng 3

tích thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn

hóa Việt là phù hợp với mục tiêu và phương pháp nghiên cứu của luận án, bởi

đây là ba trong số những trang báo có thế mạnh có lượng truy cập và sức ảnh

hưởng lớn nhất đối với công chúng.

Từ kết quả khảo sát thực tiễn, tác giả luận án mô tả, phân tích, so sánh

làm rõ thực trạng việc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử qua các

khía cạnh tham gia vào quá trình thông tin: người làm báo, giới NSBD VN,

công chúng và mối quan hệ giữa các yếu tố này. Quá trình khảo sát của luận

án đi từ nhu cầu của công chúng tới hiện trạng thông tin và phản hồi của công

chúng. Dựa trên góc nhìn văn hóa Việt các phân tích định lượng và định tính,

luận án đã cho thấy một bức tranh sinh động đa dạng nhưng cũng không kém

phần phức tạp của quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.

Sự du nhập của các “làn sóng” văn hóa ngoại lai đã khiến đời sống

nghệ thuật biểu diễn trong nước có bước phát triển mạnh mẽ trên tất cả các

lĩnh vực: âm nhạc điện ảnh, thời trang... Và báo chí đặc biệt là báo điện tử),

có nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt thúc đẩy hội nhập văn hóa quốc tế,

đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Với thực trạng tin bài

hiện nay báo điện tử đã phần nào thực hiện được nhiệm vụ và vai trò của

mình khi cung cấp thông tin phong phú về văn hóa nghệ thuật nói chung cũng

như NSBD VN nói riêng góp phần truyền thông và bảo vệ bản sắc văn hóa

Việt; Phản ánh những hình ảnh và phẩm chất tốt đẹp của NSBD VN, góp

phần xây dựng giá trị văn hóa mới đồng thời phê phán sự phi văn hóa trong

hoạt động nghệ thuật cũng như đời sống của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam;

Mang lại sự thư giãn giải trí, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần

cho công chúng, Là cầu nối giữa nghệ sĩ nghệ thuật với công chúng…

135

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, áp lực

tự chủ tài chính của các tòa soạn báo cùng sự bùng nổ mạnh mẽ của MXH…

đã khiến vai trò này đang bị “lung lay” chao đảo. Vì chạy theo thị hiếu của

đám đông công chúng những người có nhu cầu lớn thông tin về giới NSBD

VN đặc biệt là thông tin hậu trường đời sống, chuyện riêng tư gây sốc của

giới này), vì mục tiêu lợi nhuận doanh thu báo điện tử dần mất đi vai trò

định hướng, chấp nhận sự chi phối, ảnh hưởng của cả NSBD VN lẫn doanh

nghiệp, từ đó dẫn tới xuất hiện không ít những thảm họa, những “lỗi” văn hóa

trong việc thông tin về giới NSBD VN, hạn chế về tính nhân văn và chất

lượng thông tin, thiếu tôn trọng sự riêng tư cá nhân đi ngược quy tắc ứng xử

trọng tình của người Việt chưa thực hiện tốt nhiệm vụ truyền thông văn hóa

Việt chưa thể hiện được tố chất văn hóa của người làm báo…

Luận án cũng chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những mặt tích cực và

hạn chế của thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay.

Đây là nền tảng để tác giả có thể đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử một cách thiết thực và

hiệu quả.

136

CHƢƠNG 4:

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN

VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

4.1 Vấn đề đặt ra trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

trên báo điện tử

4.1.1 Quá trình thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện

tử là một quá trình văn hóa

Hội nhập giao lưu văn hóa ảnh hưởng rất nhiều tới NSBD VN, từ xu

hướng biểu diễn, gu thẩm mĩ cho tới lối sống tư duy... Tuy nhiên trong sự tiếp

thu có sự sàng lọc. Cái gì tinh hoa, phù hợp sẽ đọng lại; cái gì lai căng không ph

hợp sẽ bị đẩy ra. Và trong sự sàng lọc ấy, báo chí có vai trò vô cùng quan trọng.

Mỗi tòa soạn báo điện tử khi ra đời đều hướng tới nhiệm vụ truyền

thông văn hóa Việt, gìn giữ và phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc

dân tộc. Khi báo điện tử đăng tải thông tin về giới NSBD VN, tiếp nhận phản

hồi của công chúng về những thông tin này đồng nghĩa với việc báo điện tử

đang thực hiện nhiệm vụ truyền thông những vấn đề, những lát cắt thực tiễn

của văn hóa Việt Nam. Thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện

tử thể hiện đúng bản chất là một sinh hoạt văn hóa của người Việt trong xã

hội hiện đại. Thông qua các tác phẩm báo chí cái đúng cái sai cái tiến bộ,

cái hội nhập, cái lạc hậu... của văn hóa nghệ thuật Việt Nam nói chung và

NSBD VN nói riêng đều được chỉ ra. Đó chính là quá trình mà chủ thể (con

người) tạo ra các giá trị nhằm thúc đẩy sự phát triển của văn hóa xã hội; đồng

thời cũng chính con người lại là đối tượng hưởng thụ các giá trị văn hóa đó.

Thông thường, quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

bao gồm: đưa ra vấn đề, hiện tượng của NSBD; Phân tích, lý giải vấn đề; gợi

mở những định hướng cho những hiện tượng, vấn đề; thay đổi nhận thức và

hành vi của công chúng. Quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện

137

tử có thể xuất phát từ việc đưa tin bài đơn lẻ về một NSBD nào đó cũng có

thể là tập hợp chùm bài về nhóm NSBD nhất định để nêu ra một vấn đề, hiện

tượng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Ví dụ như các trang Ngoisao VNN

Zingnews có thể đưa tin chuyện yêu đương của Ngọc Trinh với tỉ phú Hoàng

Kiều; phân tích và lý giải mối tình này ở góc độ một hiện tượng văn hóa lai

căng “chân dài cặp đại gia” “mối quan hệ tình – tiền” và có những gợi mở

cho các nghệ sĩ trẻ hiện nay lối tư duy đúng đắn trong chuyện tình cảm. Cũng

có thể xuất phát từ một loạt các ca sĩ diễn viên chỉ trích nhau trên MXH, trên

mặt báo phân tích văn hóa ứng xử xuống cấp của một bộ phận nghệ sĩ Việt,

từ đó tạo ra những tác động làm thay đổi nhận thức của công chúng và nghệ sĩ

theo định hướng của nhà báo.

Mỗi thông tin về giới NSBD VN đều có một giá trị riêng trong việc

truyền thông văn hóa Việt. Ví dụ thông tin về NSND Đặng Thái Sơn là để

truyền bá nghệ thuật tinh hoa, giới thiệu nhạc cổ điển tới công chúng..; trong

khi đó thông tin hậu trường đời sống của Sơn T ng MTP Ngọc Trinh… lại

phản ánh một hiện tượng văn hóa một lối tư duy lối sống của lớp nghệ sĩ trẻ

trong môi trường hội nhập văn hóa toàn cầu; những tác động của những hiện

tượng này tới công chúng....

4.1.2 Vấn đề đặt ra đối với báo điện tử

4.1.2.1 Trình độ nghiệp vụ của nhà báo

Những nhà báo có tâm và có tầm sẽ mang tới những bài viết có hiệu

ứng xã hội tích cực. Đáng tiếc, trong quá trình thông tin về giới NSBD VN

trên báo điện tử hiện nay nhiều nhà báo đã bỏ quên cái “tâm” và lười rèn rũa

cái “tầm” của mình.

Ca sĩ Tân Nhàn trong bài báo Nghệ sĩ và nhà báo đăng trên báo Công

an nhân dân online từng trăn trở về trình độ nghiệp vụ của nhà báo khi tác

nghiệp: “Một số bài báo khiến tôi có cảm giác như nhà báo chưa hiểu rõ

138

những gì mình viết, nhất là trong việc sử dụng những thuật ngữ chuyên

ngành. Ví dụ như có lần tôi đọc một bài báo mà tác giả viết "Cô ấy có giọng

tenor", trong khi tenor là giọng nam cao...”.

Theo nhà báo Đinh Ngọc, để tác nghiệp, nhà báo không nhất thiết phải

đi học thanh nhạc, học đạo diễn, biên kịch, phải có những hiểu biết sâu sắc về

nghệ thuật nhưng cũng nên tìm hiểu những kiến thức cơ bản để sử dụng và

viết bài cho đúng. Nếu không, nhà báo sẽ chỉ tạo ra những tác phẩm hời hợt,

không đọng lại trong lòng công chúng, thậm chí là sai. Trên thực tế, một số

lượng lớn PV, BTV yếu về cả nghiệp vụ báo chí lẫn kiến thức văn hóa nghệ

thuật. Họ không đủ bản lĩnh nghề nghiệp, nền tảng văn hóa để tác nghiệp và

định hướng cho công chúng, thiếu khả năng nhìn nhận đánh giá khách quan

vấn đề, vì thế dễ sa vào lối viết phiến diện, một chiều, chú mục vào những nội

dung dễ dãi hơn như chuyện lộ hàng, khoe của yêu đương của nghệ sĩ.

Bên cạnh đó hiện tượng nhà báo “phòng lạnh” cũng ngày càng phổ

biến. Bởi áp lực tin bài, thay vì đi thực tế tác nghiệp, nhiều nhà báo chỉ ngồi

một chỗ theo dõi MXH để lấy tin, thậm chí là “xào nấu” lại bài của báo khác

để đăng trên báo mình. Chỉ cần Ngọc Trinh, Hồ Ngọc Hà Sơn T ng MTP

Tóc Tiên... đăng tải một trạng thái trên trang cá nhân, hoặc người hâm mộ của

họ cập nhật một thông tin nào đó thì báo điện tử lập tức khai thác lại và đưa tin.

Những ngôn từ trích dẫn như: “theo thông tin từ...”, “trên trang cá nhân

của...”... được nhà báo sử dụng rất thường xuyên. Nhiều nhà báo sử dụng tư

liệu sẵn có do NSBD gửi tới, chỉnh sửa, cắt xén lại thành tin bài đăng báo mà

không qua khâu xác minh thông tin. Tin bài vì thế thiếu tính khách quan,

không chính xác, thiếu sáng tạo và chính kiến cá nhân. Rất nhiều bài báo đăng

trên các trang báo khác nhau nhưng có nội dung giống hệt nhau, kể cả dấu

chấm dấu phảy, bởi nhà báo sử dụng chung một thông cáo báo chí, một nội

dung thông tin mà các NSBD gửi tới. Rất khó để có thể tìm được những bài

139

phân tích chuyên sâu, có nội dung và đánh giá chuyên môn mang dấu ấn cá

nhân. Cách làm dễ dãi khiến nhiều nhà báo trẻ trở nên thụ động, thiếu bản

lĩnh và mờ nhạt. Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng, nhiều người làm báo hiện nay

không được đào tạo chuyên nghiệp nên không hiểu hết giá trị của nhà báo, chỉ

chạy theo thị hiếu của công chúng, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà quên

mất đi vai trò và giá trị của mình. Nhà báo cần có sự rèn luyện và trải nghiệm.

Những người cầm bút phải là người xuất sắc về mặt câu chữ và kiến thức

trong lĩnh vực mình làm, mình viết.

4.1.2.2 Đạo đức của nhà báo

Điều mà nhà báo mang tới cho tòa soạn là lượng bạn đọc, cho bản thân

nhà báo là uy tín với xã hội, còn cho công chúng là thông tin.

Đối với bất kỳ ngành nghề nào, vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng phải

được đặt lên hàng đầu, bởi đây chính là thang giá trị của việc hành nghề chân

chính. Song, với báo chí - một lĩnh vực đặc thù, thì vấn đề đạo đức lương tâm

nghề nghiệp càng cần được chú trọng. Những năm gần đây trước đòi hỏi

của nền kinh tế thị trường đã và đang xuất hiện cách làm báo rất đáng lo

ngại: chạy theo những thông tin giật gân, câu khách mà bỏ quên tính nhân

văn - "thiên chức" cao cả của báo chí. Nhiều người phải dùng từ "bất chấp"

khi nói về báo điện tử với quá nhiều những thông tin thảm họa phi văn hóa

phi giá trị xuất hiện trên trang chủ; trong khi những thông tin về hoạt động

nghệ thuật chân chính lại chiếm dung lượng khiêm tốn và thường bị khuất

lấp ở trang sau. Khảo sát 300 tin bài về giới NSBD VN trên VNN, Zingnews

và Ngoisao cho thấy: chỉ có 39% là đề cập tới những vấn đề tích cực, còn lại

hơn 60% là đề cập tới những vấn đề tiêu cực, nhạy cảm như: ăn mặc hở

hang, ngoại tình, nghệ sĩ phát ngôn gây sốc... Nhà văn Phong Điệp cho rằng

những thông tin này không mang lại tác động tích cực cho cả nghệ sĩ lẫn

người đọc (PVS 03).

140

Kinh tế thị trường là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới đạo đức của

người làm báo. Hiện nay nhiều tòa soạn báo có chính sách khuyến khích PV

tham gia vào hoạt động kinh doanh, bán báo, bán quảng cáo, thậm chí là chịu

áp định mức về quảng cáo. Ngoại trừ một vài tờ báo lớn thì hầu hết PV, BTV ở

các tờ báo nhỏ đều có thu nhập khiêm tốn, thấp so với mức phí sinh hoạt phải

trang trải mỗi ngày trong xã hội hiện đại. Trong khi đó rất nhiều các công ty

giải trí, nghệ sĩ trẻ lại sẵn sàng bỏ tiền ra để “mua” bài đăng trên báo. Vì mục

đích tài chính mà nhiều điều phản văn hóa theo ngòi bút của nhà báo xuất hiện

trên mặt báo. “Làm báo mà phải kiêm nhiệm kiếm tiền thì khó mà giữ được cái

tâm trong sáng, giữ được cái đầu lạnh và sự khách quan cần thiết trong mọi

thông tin”, nhà văn B i Việt Thắng chia sẻ (PVS 08). Thông tin về giới NSBD

VN rất đặc thù, vừa là sản phẩm giải trí nhưng lại vừa là sản phẩm văn hóa;

vừa có nhiệm vụ thu hút độc giả, mang lại nguồn thu cho tòa soạn lại vừa có

nhiệm vụ truyền thông văn hóa VN và định hướng thẩm mĩ nghệ thuật cho

công chúng Việt Nam. NSBD VN có tác động và ảnh hưởng rất lớn tới công

chúng do đó đưa thông tin về giới này như thế nào là điều mà các nhà báo phải

hết sức lưu tâm bởi điều này không chỉ đối với nghệ sĩ mà đối với cả công

chúng, giúp cho cả hai đối tượng này tốt hoặc không.

Nói về việc đưa tin một cách đạo đức, có nhiều bài học trên thế giới để

chúng ta tham khảo. Ở Nhật Bản, báo chí khai thác nhiều thông tin về giới

NSBD, tuy nhiên họ có những quy chuẩn rõ ràng về quyền khai thác thông

tin, quyền bảo vệ đời tư cá nhân tránh bôi nhọ nhân phẩm con người... Trong

khi đó ở Việt Nam, không có vùng cấm cũng như giới hạn rõ ràng trong việc

khai thác thông tin về giới NSBD. Chỉ một phát ngôn, một hành động trái với

bình thường của nghệ sĩ cũng được báo chí mổ xẻ chi tiết, không bận tâm tới

phản ứng của người đọc hay những hệ lụy mà nhân vật trong bài viết phải

gánh chịu. Bên cạnh đó, nhiều nhà báo vì tư lợi riêng mà móc nối với doanh

141

nghiệp, với NSBD bẻ cong ngòi bút, giật tiêu đề, thêm thắt những tình tiết

gây sốc, nâng tầm một nghệ sĩ này “dìm hàng” một nghệ sĩ khác. Điều này

khiến không ít nghệ sĩ cảm thấy ngần ngại, khó chịu với báo chí, còn công

chúng thì cảm thấy phản cảm.

Trong bài báo Mổ xẻ đạo đức, trách nhiệm nhà báo, TS. Chí Trung

khẳng định: “Vai trò nhà báo trong thời đại kỷ nguyên số càng lớn, vấn đề

trách nhiệm xã hội và đạo đức nhà báo càng được đặt lên hàng đầu”. Một

nhà báo có nền tảng giáo dục tốt được trang bị kiến thức tốt có môi trường

làm việc (tòa soạn) tốt sẽ sản xuất ra được những tin bài tốt. Một nhà báo có

đạo đức băng hoại nhưng ở trong một môi trường tòa soạn tốt cũng “không có

cửa” để sản xuất những tin bài “thảm họa”. Chỉ với một nhà báo có nền tảng

không tốt, tòa soạn dễ dãi, dễ bị mua chuộc thì mới dẫn đến tình trạng những

tin bài “thảm họa” về giới NSBD. Đáng tiếc trong cơ chế thị trường hiện nay

ngày càng xuất hiện nhiều hơn những nhà báo và những tòa soạn dễ dãi. Họ

ngụy biện rằng đó là tuyên truyền văn hóa mới, hội nhập văn hóa toàn cầu,

hội nhập kinh tế thị trường nhưng bản chất là mưu cầu lượt xem và doanh thu

quảng cáo tức thời, làm những điều phản văn hóa nhân danh văn hóa làm gãy

và sụp đổ những giá trị văn hóa truyền thống một nền văn hóa VN và một nền

báo chí VN, thể hiện sự vô cảm đi ngược lại tính nhân văn của báo chí. Đối

với vấn đề đạo đức của nhà báo trong việc thông tin về giới NSBD VN, trong

bài nghiên cứu “Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền thông”, PGS.TS

Nguyễn Thị Minh Thái khẳng định: “Truyền thông là chủ thể cần phải điều

chỉnh trong việc này. Truyền thông phải xác định được vai trò của mình để có

những việc làm tử tế, góp phần định hướng dư luận xã hội chứ không thể tiếp

tục nói qua nói lại theo kiểu “ngồi lê đôi mách”, “thấy người ta ăn khoai

cũng vác mai đi đào””.

142

4.1.2.3 Những tác động tới giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Sản phẩm nghệ thuật tạo ra NSBD và truyền thông (bởi chức năng định

hình nhận thức và niềm tin thông qua khuôn mẫu hình ảnh) lại tạo ra tính

cách hình tượng đặc trưng của NSBD đó. Nhìn vào thực trạng thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay, nhà báo Đinh Ngọc cho rằng, báo

điện tử khen và chê nghệ sĩ đều không đúng cách. Khen quá đà nên làm “hư”

nghệ sĩ nhưng chê lại không đúng nên dồn nghệ sĩ tới đường cùng. Điều này

làm méo mó hình ảnh nghệ sĩ trong mắt công chúng. Những cái tên như Ngọc

Trinh Angelia Phương Trinh Hương Giang idol Hariwon... là sản phẩm của

việc “tung hô” quá đà từ báo chí, hình thành lối tư duy trong công chúng: chỉ

cần sắc đẹp scandal yêu đương bát nháo, dùng hàng hiệu đắt tiền...là nổi

tiếng, là thành công mà không cần có tài năng hay tu dưỡng tài năng. Đôi khi

sự khen quá đà khen theo xu hướng cũng khiến nghệ sĩ rơi vào tình trạng

khủng hoảng mà đơn cử là trường hợp ca sĩ Hoài Lâm. Sau khi giành giải

quán quân “Gương mặt thân quen 2014” nam ca sĩ đã được tung hô trên tất

cả các mặt báo, nhanh chóng trở thành hiện tượng âm nhạc có sức hút mạnh

mẽ. Chỉ trong nửa cuối tháng 6 2014 cái tên Hoài Lâm đã xuất hiện ở 11 bài

viết đăng trên VNN 14 bài viết trên Zingnews và 16 bài viết trên Ngoisao.

Đáng nói 99% số bài viết này là dành những lời khen ngợi có cánh cho nam

ca sĩ mới nổi. Những bài báo này đưa tên tuổi của Hoài Lâm lên một tầng cao

mới nhưng vô hình cũng tạo ra những áp lực khủng khiếp cho nam ca sĩ trẻ

khi vòng hào quang quá rộng so với năng lực thực sự. Đến mức sau đó công

chúng thấy Hoài Lâm biến mất, và cuối năm 2016 trong một bài phỏng vấn,

Hoài Lâm thừa nhận, nổi tiếng quá nhanh trên truyền thông khiến nam ca sĩ

choáng ngợp. Những sản phẩm âm nhạc ra liên tiếp sau đó không đạt thành

công như tài năng báo chí từng ca ngợi khiến Hoài Lâm bị trầm cảm tới mức

phải sử dụng chất kích thích và “chạy trốn” khỏi “showbiz”.

143

Đối ngược lại với “khen” nhiều nhà báo “chê” nghệ sĩ chỉ để soi mói,

hùa theo mà không thật sự hiểu vấn đề, không dựa trên tinh thần xây dựng.

Nhiều tin bài chê Sơn T ng đạo nhạc nhưng khi diễn tả “melody” là gì lại

hoàn toàn sai. Ví dụ bài viết “Sơn Tùng bình thản giữa nghi án đạo nhạc”

đăng ngày 4 8 2016 trên Zingnews, tác giả Phương Giang phân tích: “Sáng

tác này của Sơn Tùng có nhiều nét tương đồng với các ca khúc, MV của Kpop

lẫn nhạc phương Tây”. Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng nét tương đồng đó là về

Melody điều đó không được tính là đạo nhạc. Đôi khi nhà báo không đủ kiến

thức chuyên môn để hiểu nhưng thấy báo khác chê thì mình cũng phải viết

bài để chê cho hợp xu hướng. Hậu quả là không ít NSBD rơi vào cảnh lao

đao khốn cùng. Nhạc sĩ Đỗ Quang phải tự tử vì không chịu nổi sự miệt thị

trong nghi vấn lạm dụng tình dục đồng tính với học trò xảy ra cách đây nhiều

năm. Hay Trấn Thành phải cay đắng thốt lên: “Tôi đầu hàng” khi truyền

thông và công chúng chê bai Mai Hồ - bạn gái của anh một cách nặng nề vì cô

đã có một đời chồng đã có con riêng... Cũng có thể vì áp lực đó mà Trấn

Thành sau đó đã chia tay Mai Hồ để đến với một mối tình khác với Hariwon –

một mối tình cũng bị truyền thông làm cho ồn ào không kém. Đã là NSBD thì

phải chấp nhận sự khen chê của truyền thông và công chúng, nhưng: “Báo chí

chân chính phải dựa trên sự thật để tìm ra bản chất vấn đề. Đừng khen quá

khích, cũng đừng chê quá đà” – Nhà báo Phạm Thu Hà (PVS 04).

Nhiều trang báo mải mê chạy theo xu hướng, theo từ khóa mà đánh mất

lập trường. Cùng một NSBD với một vấn đề họ đang gặp phải, hôm nay có

thể khen, mai lại buông lời chê bôi, miễn là hợp xu hướng và hợp thị hiếu

công chúng. Ví dụ c ng “sự kiện” Ngọc Trinh công bố bạn trai tỉ phú Hoàng

Kiều, trong số 76 bài viết trên cả 3 tờ VNN, Zingnews, Ngoisao thì có 34 bài

mô tả đó là mối tình hạnh phúc, còn lại 42 bài có khuynh hướng chỉ trích, lên

án. Nhà báo hoàn toàn không xác định được, rốt cục mình đang định hướng

144

công chúng theo hướng tư duy nào. Nhà báo đã phê bình thì phải vì nghệ

thuật chứ không phải vì những yếu tố cá nhân. Phê bình để người nghệ sĩ cảm

thấy họ đúng hay họ sai, từ đó có sự phấn đấu, thay đổi tích cực chứ phê bình

mà khiến cho nghệ sĩ thấy mình bị ghét, bị trù dập là thất bại. MC Hạnh Phúc

chia sẻ: “Một thông tin có thể giúp cho tờ báo bán chạy trên thị trường, giúp

người nghệ sĩ trở nên nổi tiếng hơn, nhưng cũng có thể hủy hoại cuộc đời của

một nghệ sĩ, thậm chí giết chết họ. Nhà báo nên cân nhắc điều này” PVS 09 .

4.1.2.4 Những tác động tới công chúng

Nhà văn Phong Điệp cho rằng thông tin về hậu trường, đời tư của

NSBD VN có tác dụng tức thời về lượt người xem nhưng để nói về hiệu quả

mang lại cho công chúng tác động tích cực vào nhận thức của họ thì rất hạn

chế hàm lượng rất thấp (PVS 03). Nhiều tin bài về giới NSBD VN khai thác

quá đà đời sống riêng tư với những tiêu đề, nội dung và hình ảnh không phù hợp

với thuần phong mĩ tục Việt Nam và chuẩn mực ngôn ngữ tiếng Việt, gây hại

cho cộng đồng cho người đọc. Thật khó để tin những tin bài như: Nữ ca sĩ Việt

đua nhau “lột xác” bằng hình ảnh nóng bỏng (18/8/2014 trên VNN), Hồ Ngọc

Hà mặc hở hang đi gặp người yêu cực đẹp trai (22/9/2016 trên Ngoisao), Hồ

Ngọc Hà mặc váy hở bạo trên sóng truyền hình (13/8/2016 trên Zingnews).... lại

được coi là những tác phẩm báo chí xét cả ở khía cạnh nội dung, hình thức, ngôn

ngữ hay hình ảnh. “Những tin bài như vậy thấm dần vào công chúng và gây lệch

lạc nhận thức về giá trị thẩm mĩ của họ, khiến họ mặc nhiên nghĩ rằng: NSBD

VN là như thế, là nhố nhăng, là phát ngôn gây sốc, là chân dài não ngắn... Đó là

thứ tư duy được hình thành từ những bài báo vô bổ” Phong Điệp nhấn mạnh

(PVS số 6). Trong khi NSBD VN có rất nhiều người tài năng cống hiến hết

mình cho nghệ thuật nhưng họ không thích khoe chuyện đời tư không phát

ngôn gây sốc, không làm thỏa mãn sự tò mò của công chúng nên không được

báo chí quan tâm, tin bài về họ chỉ chiếm chưa tới 10%.

145

Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng không sai khi báo điện tử khai thác thông

tin hậu trường của NSBD, bởi những thông tin này thu hút công chúng. Vấn

đề đặt ra là nhà báo cần có định hướng và tư duy thẩm mĩ khi viết những

thông tin này. Nếu viết mãi về Ngọc Trinh, Hồ Ngọc Hà… về những món đồ

hàng hiệu, những mối tình với đại gia… trong giới “showbiz” thì giới trẻ có

thể sẽ quên đi những ngôn từ chuẩn chỉ hay văn hóa đọc, và dễ dàng tiếp nhận

tư duy “không tiền cạp đất mà ăn” coi việc ăn mặc “khoe da hở thịt” là

chuyện bình thường, hay cứ làm nghệ sĩ là giàu có xa hoa...như một chuẩn

mực của đời sống. Và điều đó đi ngược lại với truyền thống Việt Nam, tạo ra

một xã hội lệch lạc. “Cùng một vấn đề, góc nhìn của nhà báo cực kì quan

trọng để mang tới cho khán giả những định hướng dư luận. Nhiều bài báo về

giới NSBD VN mới dừng lại ở việc nhà báo có một đề tài “hot”, nhưng họ

chưa nghĩ được nó tạo ra ảnh hưởng như thế nào tới công chúng. Và điều đó

thực sự nguy hiểm” – MC Hạnh Phúc (PVS 09). Những bài viết hay, những

nhà báo biết đưa thông tin có định hướng đủ tử tế và mang tới cho công

chúng những tác phẩm báo chí đáng để đọc quá ít ỏi, trong khi những thông

tin “lá cải” thông tin “rác” nhảm nhí về giới NSBD lại tràn ngập trên tất cả

các trang báo mạng.

Nhà văn Phong Điệp nhấn mạnh câu “view” chưa bao giờ là giải pháp

tốt để nuôi sống tòa soạn trong nền kinh tế thị trường; cập nhật những hình

ảnh sống sượng, khoe da hở thịt, lối sống buông thả mang danh Tây hóa của

NSBD chưa bao giờ giúp ích cho việc truyền thông văn hóa Việt Nam. Thỏa

mãn sự tò mò vô lối của công chúng không giúp tòa soạn báo xây dựng được

thương hiệu ngược lại nó làm suy giảm uy tín toàn soạn, làm hỏng một thế hệ

nhà báo và một thế hệ công chúng. Báo chí là để giữ gìn, tôn vinh những giá

trị văn hóa truyền thống; tiếp nhận sự thay đổi văn hóa một cách chọn lọc chứ

không phải là công cụ tuyên truyền những thứ phản văn hóa làm phương hại

tới tư duy và thẩm mĩ của công chúng.

146

4.1.3 Vấn đề đặt ra đối với giới nghệ sĩ biểu diễn

4.1.3.1 Nghệ sĩ biểu diễn là một sản phẩm dịch vụ đặc biệt

Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và nền công nghiệp giải trí khiến

một bộ phận giới NSBD VN có tính chất giống như một “sản phẩm dịch vụ”.

Theo chuyên gia Truyền thông Marketing Nguyễn Quang Dũng PVS số 01),

NSBD VN được coi là một sản phẩm dịch vụ khi họ có giá trị và giá trị sử

dụng. Giá trị ở đây trước hết là giá trị đối với chính họ, tức là họ có thể bán

được trao đổi được (thông qua các hợp đồng quảng cáo, hợp đồng nghệ sĩ

độc quyền được kí kết với các nhãn hàng, các công ty giải trí với những mức

giá trị khác nhau, hợp đồng biểu diễn...); giá trị sử dụng là họ cũng trở thành

một yếu tố để đáp ứng nhu cầu của những nhóm khách hàng cần đến họ (công

ty giải trí, nhãn hàng, báo chí, công chúng...). Nhiều NSBD VN hiện nay đặt

tính “hàng hóa dịch vụ” lên trên tất cả, tìm mọi cách để rao bán mình trên

truyền thông báo chí nhằm nâng giá bản thân mình. Tuy nhiên, quy trình sáng

tạo nghệ thuật hay tạo ra một NSBD khác với quy trình sản xuất sản phẩm

dịch vụ thông thường do đó NSBD VN và những sản phẩm của họ cũng là

một sản phẩm dịch vụ đặc biệt. Đối với một sản phẩm dịch vụ thông thường,

có thể tính toán được nguyên liệu lao động cần thiết, khấu hao máy móc, giá

thành, doanh thu, lợi nhuận.... Nhưng sẽ rất khó để áp dụng những chỉ tiêu

tính toán này vào NSBD. “Nguyên liệu” để tạo ra một NSBD là những giá trị

vô hình không đong đếm được đó là tài năng sự nỗ lực, khát vọng lý tưởng,

kiến thức chuyên môn... Và doanh thu, lợi nhuận nghệ sĩ mang lại cũng không

chỉ dựa trên số tiền thu về từ các hợp đồng quảng cáo, các show diễn...mà còn

được tính dựa trên nhiều nấc thang giá trị khác, ví dụ như sự nổi tiếng, danh

tiếng và tầm ảnh hưởng tới xã hội.

VHNT bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nền kinh tế thị trường, bởi sự

thương mại hóa nhưng bất chấp nền kinh tế thương mại hóa thế nào đi chăng

147

nữa thì VHNT vẫn rất đặc biệt, mang lại cho con người những giá trị vượt ra

khỏi giá trị của đồng tiền. Công chúng “tiêu thụ” một bộ phim, một show

diễn, một clip ca nhạc... không giống như tiêu thụ một cái xe máy, một cái

quạt điện hay một cái cốc xứ.... Ví dụ như Sơn T ng MTP có một đội ngũ

làm thương hiệu cá nhân rất tốt, 100% hình ảnh và hoạt động của Sơn T ng

trên truyền thông là để kiếm tiền. Nhưng một người hâm mộ thích Sơn T ng

đọc thông tin về Sơn T ng mua sản phẩm Sơn T ng làm đại diện nhãn hàng,

xem clip nhạc Sơn T ng sản xuất...không chỉ đơn thuần là “tiêu thụ” những

sản phẩm ấy, mà còn vì giá trị tinh thần mà “sản phẩm mang thương hiệu Sơn

T ng” mang lại cho họ. Ví dụ, trong bài viết “Sơn Tùng khác lạ trong MV

đầu tiên hậu chia tay Quang Huy” đăng ngày 27 12 2016 trên Zingnews độc

giả Meomun đã để lại bình luận: “Mỗi ngày đều hóng sản phẩm mới của Sếp!

Chỉ nghe nhạc của Sếp mới thấy mình có động lực”; độc giả Maiyeusky bình

luận: “Bực bội, khó chịu...Anyway, cứ nhạc của sếp vang lên là ok”... Trong

phỏng vấn Anket, có tới 112 157 người đọc thông tin về Sơn T ng MTP trên

báo điện tử vì hâm mộ nam ca sĩ. Điều này cho thấy, nhiều công chúng đến

với NSBD, tiêu thụ sản phẩm nghệ thuật của NSBD bởi NSBD ấy mang lại

cho họ những giá trị tinh thần, giúp cho họ vượt qua sự tương tác rời rạc giữa

các mối quan hệ hạt nhân trong xã hội hiện đại... Lúc đó mối quan hệ giữa

công chúng với NSBD không đơn thuần là mối quan hệ kinh tế nữa.

Cho dù nghệ thuật và kinh tế thâm nhập lẫn nhau nhưng nghệ thuật

vẫn có những chức năng xã hội riêng biệt, mà trong những hoàn cảnh đặc

biệt người ta sẵn sàng hi sinh các lợi ích kinh tế, vật chất để bảo toàn các giá

trị VHNT. Hiện nay xuất hiện nguy cơ lớn khi coi công nghiệp văn hóa giải

trí như một ngành công nghiệp đơn thuần, coi NSBD như một sản phẩm dịch

vụ thông thường, tức là “vận hành” các yếu tố này theo cơ chế thị trường, lấy

lợi nhuận làm mục tiêu cuối cùng, không xem xét tới những ảnh hưởng tinh

148

thần của nghệ sĩ cũng như những nền tảng văn hóa xã hội Việt Nam. Điều đó

dẫn đến không ít những thảm họa trong hoạt động VHNT nói chung và

NTBD nói riêng cũng như những thảm họa trên báo chí khi lăng xê những

“sản phẩm” này quá đà. Cần nhớ: mục tiêu cuối cùng của một sản phẩm dịch

vụ thông thường là tạo ra lợi nhuận. Nhưng mục tiêu cuối cùng của nghệ thuật

và những người làm nghệ thuật (bao gồm NSBD) là làm sâu sắc trải nghiệm

về sự tồn tại của con người. Và như thế, báo chí không chỉ là đối tác mà còn

phải là màng lọc định hướng cho NSBD VN trong điều kiện công nghiệp giải

trí ngày càng phát triển mạnh mẽ.

4.1.3.2 Đạo đức, ứng xử của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử và

những ảnh hưởng tới công chúng

Nguyên Thứ trưởng Bộ TT&TT Đỗ Quý Doãn khẳng định:“Một bộ phận

không nhỏ công chúng sẽ vì những ảnh hưởng của nghệ sĩ mà thay đổi gu thẩm

mĩ, đạo đức, tư duy, hành vi ứng xử...” PVS 02 . Công chúng biết đến NSBD

bởi tài năng càng hiểu rõ và ngưỡng mộ họ hơn bởi những bài viết đăng tải trên

báo chí. NSBD với những sản phẩm và lối sống tích cực sẽ mang lại những sự

lan tỏa tích cực. Ngược lại, những sản phẩm “rác” những hành vi tiêu cực của

họ sẽ khiến một bộ phận công chúng làm theo, dẫn tới những hậu quả khó lường.

Những nghệ sĩ nổi tiếng như Hồ Ngọc Hà Sơn T ng MTP Ngọc

Trinh, Trấn Thành Hoài Lâm Đàm Vĩnh Hưng... có nhiều người hâm mộ, mà

phần lớn trong số đó là giới trẻ. Những công chúng này thường coi thần tượng

là hình mẫu để theo đuổi, bắt chước; họ có khuynh hướng bênh vực, ủng hộ

thái quá, thậm chí làm theo cả những hành vi và lối sống không đúng chuẩn

mực, không phù hợp với thuần phong mĩ tục của thần tượng. Trong khi đó

không phải NSBD nào cũng được đào tạo bài bản và có phông văn hóa tốt để

ứng xử một cách đúng mực. Nhiều người mang danh “nghệ sĩ” nhờ những

chiêu trò, những sự việc phản cảm, những phát ngôn gây sốc, những bộ trang

149

phục hở hang... Họ không có ý thức để duy trì một lối sống có văn hóa cho

bản thân làm sao mang vác được nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt và tạo

ra những ảnh hưởng tích cực cho công chúng Việt?

Trong bài viết Tóc Tiên mong manh giữa ranh giới gợi cảm và phản

cảm đăng trên Zingnews ngày 24 12 2016 nữ ca sĩ đã lý giải phong cách thời

trang của mình như sau: “Đối tượng tôi nhắm tới là những khán giả trẻ,

không ngại thể hiện bản thân, sống đúng với những gì mình có”. Rõ ràng

trong tâm trí của nữ ca sĩ này hình như không có chỗ cho những người yêu

nhạc, muốn thưởng thức âm nhạc – là những người mà đáng lẽ nghề nghiệp

của cô phải hướng tới. Bởi vậy thay vì nói đến âm nhạc, nghệ thuật, phần lớn

những bài báo hay những bài phỏng vấn của Tóc Tiên đều khơi gợi lối sống

phá mọi giới hạn văn hóa trong công chúng trẻ, khiến họ suy nghĩ mặc hở

bạo, khoe thân là khẳng định cá tính chứ không phải một hành vi đi trái với

giá trị văn hóa truyền thống. Và rất nhiều NSBD VN hiện nay cũng có tư

tưởng và cách ứng xử với truyền thông, với đồng nghiệp, với công chúng, với

xã hội như Tóc Tiên. Nhiều bạn trẻ ngày nay nhìn vào những hành động khoe

hàng hiệu, khoe lối sống xa xỉ của nghệ NSBD VN và lấy cuộc sống đó làm

đích của mình. Thậm chí, nhiều ca sĩ diễn viên người mẫu trẻ cũng muốn leo

lên nấc thang danh vọng giàu sang đó bằng chiêu trò như đàn anh đàn chị

thay vì nỗ lực cống hiến cho nghệ thuật. Nghề nghiệp nào cũng cần có đạo

đức. Nhưng trong lĩnh vực VHNT đạo đức của người NSBD lại càng phải đề

cao bởi những tác động của họ tới công chúng.

4.1.3.3 Ảnh hưởng tới thuần phong mĩ tục và văn hóa truyền thống

Nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn cho rằng: “NSBD khi xuất hiện trên

báo chí, ngoài mục đích giới thiệu chuyện đời, chuyện nghề của mình thì còn

có nhiệm vụ truyền đi những thông điệp văn hóa...” PVS 02). Bởi vậy,

NSBD VN phải tự điều chỉnh mình, mỗi lần đứng trên sân khấu, mỗi cử chỉ,

150

hành vi... khi được đăng tải trên mặt báo đều phải hướng tới cái đẹp hướng

tới những giá trị văn hóa chung.

Trên thực tế, NSBD như là đại diện của một sự thay đổi đáng kể nền

văn hóa phổ biến hiện đại. Phát ngôn “Không có tiền thì cạp đất mà ăn” của

Ngọc Trinh, “Tình yêu không có lỗi” của Hồ Ngọc Hà khi là người thứ 3 xen

vào hạnh phúc gia đình người khác hay hành động khóa môi nhà sư của Đàm

Vĩnh Hưng... giống như một sự thách thức đối với giá trị và chuẩn mực của

văn hóa truyền thống. “Người nghệ sĩ mà trên mặt có những vết nhơ, tâm hồn

có những vết nhơ, trong cuộc đời có những vết nhơ, thì khi truyền tải tinh hoa

nghệ thuật đến công chúng sẽ có sự gượng ép và giảm đi giá trị” nguyên Thứ

trưởng Đỗ Quý Doãn nhấn mạnh (PVS 02). Thông điệp của các tác phẩm

nghệ thuật được truyền đi tích cực hay tiêu cực phụ thuộc lớn vào người nghệ

sĩ. Trong hội nhập, giao lưu văn hóa hiện đại, NSBD VN chịu ảnh hưởng lớn

bởi những làn sóng văn hóa ngoại lai, từ xu hướng biểu diễn tới gu thẩm mĩ

thời trang... Điểm đáng tự hào là nghệ sĩ Việt Nam tiếp thu và học hỏi rất

nhanh nhưng điểm đáng lo lắng là họ tiếp thu cả những “rác” văn hóa và

truyền lại những “rác” đó vào trong văn hóa Việt Nam thông qua báo chí.

Hội nhập văn hóa là quá trình luôn cần giai đoạn sàng lọc. Chúng ta

vẫn đang trong giai đoạn sàng lọc đó và nó dẫn tới điều mà học giả Đào Duy

Anh phỏng đoán: bi kịch của sự phát triển với rất nhiều những va đập, những

vấn đề nổi cộm xảy ra. NSBD VN cần tiếp nhận, gạn lọc văn hóa ngoại lai

thay vì học đòi và tạo ra những sự phản cảm, những tác động tiêu cực tới

những giá trị văn hóa truyền thống.

4.1.4 Vấn đề đặt ra đối với công chúng

4.1.4.1 Thị hiếu, năng lực thẩm định, hưởng thụ của công chúng

Trong ngành công nghiệp giải trí, vật trao đổi then chốt không phải là

tiền mà là công chúng. Công chúng báo điện tử là những người có điều kiện

151

và khả năng sử dụng công nghệ hiện đại, có quỹ thời gian hạn hẹp nhưng nhu

cầu thông tin lại cao; họ là đối tượng tiếp nhận tác động, hoặc chịu ảnh

hưởng tác động của thông tin do báo chí cung cấp nhưng cũng là người khởi

xướng, hỗ trợ và cung cấp thông tin đồng thời đánh giá nhận xét và kiểm

định thông tin. Sản phẩm báo chí mà công chúng tham gia càng nhiều thì uy

tín năng lực và hiệu quả truyền thông càng cao. Sự tiếp nhận của công chúng

quyết định mức nhuận bút của PV, ảnh hưởng tới doanh thu quảng cáo của

tòa soạn, bởi vậy nó chính là yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến sinh mạng của

các tờ báo điện tử. Đáng nói ở đây thị hiếu và năng lực hưởng thụ thông tin về

giới NSBD cũng như các sản phẩm nghệ thuật của một bộ phận lớn công

chúng đang có vấn đề. MC Hạnh Phúc bộc bạch: “Tại sao nhiều NSBD ngày

nay thích sử dụng những chiêu trò, những scandal, phát ngôn gây sốc để gây

sự chú ý từ người hâm mộ? Vì họ hiểu bản thân công chúng đã mang sẵn trong

mình tâm trạng hiếu kì, tò mò hoặc thích những chuyện tranh chấp đó của giới

NSBD rồi” PVS 09 . Đôi khi chính sự bàn tán của công chúng lại khiến những

câu chuyện ồn ào, những phát ngôn gây sốc của nghệ sĩ trở nên “hot” hơn. Chỉ

khi nào công chúng chán không đọc không “click” vào những tin bài lá cải,

nhảm nhí đó thì nhà báo mới thôi cung cấp những thông tin như vậy.

Tâm lý tò mò, sùng bái thái quá thần tượng của người hâm mộ đặc biệt

là giới trẻ là xu hướng trên toàn thế giới, và Việt Nam không thể tránh khỏi

xu thế này. Không thể đổ lỗi hoàn toàn cho thần tượng, cho NSBD, mà phải

có nhìn nhận đánh giá khách quan từ chính thị hiếu năng lực thưởng thức

thông tin thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Và rồi sớm hay muộn thì

công chúng sẽ phải tự điều chỉnh mình, tự điều chỉnh thị hiếu của mình để

tiếp nhận những thông tin văn hóa một cách phù hợp. Nghệ sĩ cũng cần tự

nhìn lại mình, tự căn chỉnh lối sống, hành vi và cách làm nghệ thuật nếu muốn

nhận được sự yêu mến lâu dài của công chúng.

152

4.1.4.2 Trình độ nhận thức của công chúng

Nếu cho rằng tất cả công chúng đều thích và tò mò những thông tin hậu

trường về NSBD VN thì chắc chắn là “vơ đũa cả nắm” là “vu khoát‟. Như

nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận định: “Cần có sự phân loại công chúng.

Có công chúng tinh tuyển, tinh hoa. Lại có công chúng phổ thông, bình dân.

Họ thuộc về văn hóa đại chúng. Mỗi lớp công chúng có sự lựa chọn riêng phụ

thuộc vào văn hóa, vào mỹ cảm, thậm chí vào túi tiền” PVS 08 . Công

chúng tinh tuyển, tinh hoa là những người có khả năng phát hiện cái mới ở

nghệ sĩ cũng như sản phẩm nghệ thuật, họ cũng có khả năng khen ngợi hoặc

phê phán, nhìn được quá trình sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ và đặt ra những

yêu cầu cho quá trình phát triển tiếp theo của nghệ sĩ đó... Trong khí đó công

chúng phổ thông là những người yêu nghệ thuật một cách không tự giác, họ

chỉ tiếp cận thông tin về giới NSBD, tiếp cận những sản phẩm nghệ thuật từ

nhu cầu giải trí thuần túy của bản thân, và nhiều khi họ tò mò về những

chuyện phía sau sân khấu nhiều hơn những màn biểu diễn trên sân khấu.

Đáng nói là, công chúng phổ thông chiếm... đa số, trong khi những công

chúng tinh tuyển, tinh hoa lại chỉ chiếm thiểu số. Thực tế cho thấy, rất nhiều

công chúng (phần lớn là giới trẻ) tiếp nhận những hành vi, phát ngôn của

nghệ sĩ thần tượng như lời “sấm truyền”. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng cho

rằng, hiện tượng đó phổ biến là bởi vì giới trẻ không có điểm tựa niềm tin

vững chắc, không tự tạo được cho mình màng lọc văn hóa chắc chắn giữa

luồng thông tin hổ đốn. Việc bị hạn chế không gian sinh hoạt, hạn chế giao

tiếp giữa các thành viên trong gia đình hạn chế việc chia sẻ thông tin trực tiếp

giữa các cá nhân... khiến họ đôi khi hoàn toàn phụ thuộc vào thần tượng của

mình, coi thần tượng như là nguồn sống tinh thần không thể thiếu và tìm đến

báo chí MXH để thỏa mãn nhu cầu “hiểu biết” về các “ngôi sao”. “Không thể

nói là dân trí của ta thấp. Phải nói là công chúng còn chưa được giáo dục

153

thẩm mỹ đầy đủ để tiếp nhận nghệ thuật một cách đúng đắn, có hiệu quả”.

PVS 08 . Trong khí đó đại bộ phận các trang báo điện tử và giới NSBD

VN lại dồn sự chú ý, thậm chí chạy theo công chúng phổ thông. Những

bản “hít”, những bộ phim điện ảnh ăn khách những nghệ sĩ được tôn vinh

làm “ngôi sao” đôi khi không liên quan thậm chí là trái ngược với gu

thưởng thức của công chúng tinh tuyển, với sự thẩm định của các Hội

đồng nghệ thuật. Những công chúng phổ thông ấy như Engels nhận xét

thì: “Họ có thể cũng có sự phẩm bình đánh giá tác phẩm, tác giả, song cơ

bản thì đó là sự phẩm bình đánh giá thiên về cảm tính và theo "lẽ phải

thông thường".

Như vậy, việc coi sự ngưỡng mộ của công chúng như một tiêu chí để

đánh giá giá trị của một nghệ sĩ và những sản phẩm của họ chưa chắc đã

chính xác (nhất là khi số đông công chúng là công chúng phổ thông). Và hiển

nhiên, việc báo điện tử chạy theo thị hiếu, lấy số đông công chúng làm định

hướng thực hiện tin bài về giới NSBD VN là điều đáng lo bởi nó có thể dẫn

tới những sự đảo lộn những chân giá trị trong nghệ thuật.

4.1.4.3 Ảnh hưởng của công chúng tới nghệ sĩ biểu diễn

Trong xã hội hiện đại, vai trò của công chúng ngày càng lớn hơn.

NSBD vừa là nhà sản xuất ra các sản phẩm (phim ảnh, ca khúc...), vừa là một

sản phẩm hàng hóa làm đại diện nhãn hàng đóng quảng cáo...), còn công

chúng chính là khách hàng cuối cùng tiêu thụ hình ảnh và những sản phẩm

nghệ sĩ tạo ra. Bởi vậy, nhu cầu của công chúng chính là những gì mà NSBD

hướng tới để cung cấp, thị hiếu của công chúng có khả năng ảnh hưởng và chi

phối tới những sản phẩm mà người nghệ sĩ sẽ tạo ra. Báo chí cần nhân vật để

viết tin bài, NSBD lại cần báo chí để quảng bá mình. Tuy nhiên, chung quy lại

mọi hoạt động đều hướng tới công chúng, cần công chúng, phục vụ công

chúng, chịu sự chi phối và ảnh hưởng bởi thị hiếu của công chúng.

154

Công chúng cũng hiểu được rằng mình “sở hữu” các “ngôi sao”. Không

có công chúng thì không có “ngôi sao”. Chính vì thế đám đông có thể thất

vọng và nổi giận khi phát hiện “ngôi sao” không sống đúng với kỳ vọng của

mình. Thông tin Hồ Ngọc Hà ngoại tình cùng Chu Đăng Khoa chồng Thu

Minh bị tố nợ nần... là sự “phản bội” đối với các “mẹ bỉm sữa” khi các ngôi

sao đi ra khỏi những kỳ vọng của họ. Lúc này, khả năng tương tác trực tiếp

của báo điện tử trở thành phương tiện để công chúng thể hiện sự tức giận,

phẫn nộ bằng bất cứ ngôn từ nào. Nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích: “Cái

bàn phím cho người ta cái quyền muốn chửi ai, chỉ trích ai cũng được. Nó

giúp một người nghệ sĩ lên hàng sao kiếm được hàng tỉ đồng cho mỗi vai

diễn, sản phẩm âm nhạc, cũng có thể không gươm không dao mà giết người

nghệ sĩ đó, khiến người ta mất hết cả cuộc đời chỉ từ cái bàn phím” PVS 07 .

Khi con người không còn sống quây quần trong một xóm làng, khi các cá thể

không còn biết mặt nhau mà vẫn giao tiếp được với nhau thì ứng xử theo kiểu

“tình làng nghĩa xóm” cũng không còn tồn tại. Người ta đề cao hơn tính cá

nhân và sẵn sàng thể hiện cảm xúc cá nhân của mình thông qua bàn phím mà

không màng tới sự tổn thương của người khác. Trên báo điện tử, biểu hiện

này càng rõ ràng.

Không ít nghệ sĩ bày tỏ nỗi buồn, phản ứng kinh ngạc tới sốc khi đọc

những bình luận về mình và đồng nghiệp trên mặt báo. Công chúng không biết

đúng biết sai, chỉ dựa vào những gì đọc được để đánh giá một người. Đó có thể

là sự gào thét tung hô thái quá cũng có thể là những lời phỉ báng chà đạp nhân

phẩm của nghệ sĩ. Nó giống như là hội chứng đám đông một người ném đá thì

những người khác cũng mạnh tay ném theo một cách bản năng cay nghiệt.

Một nghệ sĩ trong đời sống hàng ngày có những hành vi ứng xử không

văn minh thái độ thiếu văn hóa đi ngược lại truyền thống dân tộc thì công

chúng và báo chí có thể phản ứng lại, thậm chí là phê bình. Tuy nhiên, con

người nói chung và nghệ sĩ nói riêng đều có quyền riêng tư. Công chúng d

155

quan tâm tới nghệ sĩ đến mấy thì cũng chỉ có thể phê bình nghệ sĩ trên

phương diện nghệ thuật, lối sống... chứ không phải soi mói chuyện đời tư bới

móc những góc khuất thầm kín và bình luận ném đá chà đạp nhân phẩm của

họ, dồn họ tới đường cùng.

4.1.4.4 Hình thành văn hóa phản hồi của công chúng đối với thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

Chuyên gia Nguyễn Quang Dũng khẳng định: “Công chúng dù ngưỡng

mộ nghệ sĩ đến đâu cũng không hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi thông điệp hay

hình ảnh của họ. Công chúng tự có những phản ứng của riêng mình. Đó là

cái khó cho những NSBD nổi tiếng khi xây đựng hình ảnh” PVS 01 .

Phản hồi của công chúng cho thấy mức độ quan tâm lẫn thái độ và hành

vi của họ khi tiếp nhận thông tin. Nếu số lượng bình luận “like” thích

“share” chia sẻ) thể hiện sức hút của thông tin, thì nội dung của các

“comment” bình luận) lại phản ánh thái độ, phản ứng và nhận thức của công

chúng đối với các tác phẩm báo chí cũng như các đối tượng được thông tin. Ai

cũng có thể tham gia phản hồi, phản hồi cũng là một quá trình văn hóa và phản

hồi làm sao cho có văn hóa là một vấn đề cần xem xét. Trên báo điện tử, phản

hồi của công chúng được thực hiện công khai dựa trên nền tảng internet, có

tác động ngược trở lại tới tòa soạn báo và NSBD VN, giúp các đối tượng này

có những nhận định về sự tiếp nhận thái độ và hành vi của công chúng, từ đó

có những điều chỉnh nhất định. Chính bởi vậy, ứng xử văn hóa của công

chúng tham gia phản hồi đóng vai trò vô c ng quan trọng.

Khảo sát 531 công chúng về mức độ quan tâm tới các bình luận sau bài

viết trên báo điện tử, kết quả như sau: có 75 531 (14%) người không thích đọc

bình luận; 213/531 (40%) tỏ thái độ bình thường với các bình luận, và

243/531 (46%) người rất thích đọc các bình luận. Kết quả này cho thấy, phần

lớn độc giả quan tâm tới các nhận xét đánh giá của người khác về bài viết và

156

về các đối tượng được đăng tải trong bài viết đồng nghĩa với việc họ quan

tâm tới phản ứng của người khác như thế nào. Tuy nhiên, khi khảo sát về mức

độ tham gia viết bình luận sau các bài viết trên báo điện tử của CCTC thì chỉ có

12 531 công chúng thường xuyên viết bình luận, 207/531 công chúng thi thoảng

viết, và có tới 312 351 người chưa bao giờ tham gia viết bình luận. Trong số 243

người bày tỏ thái độ rất thích đọc các bình luận sau bài viết cũng chỉ có 111

người đã từng để lại bình luận của mình sau một bài viết nào đó đăng tải trên báo

điện tử. Kết quả này cho thấy công chúng thích đọc bình luận của người khác

nhưng không có nhiều người thích tự mình tham gia viết bình luận. Họ thích “soi

mói” hơn là tự mình thể hiện thái độ, trừ khi quá bức xúc hoặc hưng phấn. Như

vậy, những bình luận sau bài viết chưa chắc đã đại diện cho quan điểm của số

đông công chúng. Tuy nhiên, những con số này cũng cho thấy một thực trạng:

công chúng bắt đầu hình thành tương tác phản hồi trước mỗi thông tin thay vì

thụ động tiếp nhận. Nói cách khác văn hóa phản hồi thông tin của công chúng

với những thông tin về giới NSBD VN đang được hình thành. Tất nhiên, sự phản

hồi của công chúng phần lớn là dựa theo cảm tính mà không dựa trên những

bằng chứng cụ thể nào, thậm chí chỉ là hội chứng đám đông.

Không phủ nhận, phản hồi của công chúng góp phần tạo dư luận đưa

ra ý kiến giúp cả nhà báo lẫn nghệ sĩ có thể điều chỉnh để cung cấp những sản

phẩm phù hợp với công chúng và chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên, sẽ là phản tác

dụng nếu những phản hồi này không xuất phát từ quan điểm chân chính của

một cá nhân mà chỉ là “tát nước theo mưa” “ném đá hội đồng” lái dư luận

sang hướng một chiều, thiếu đi sự khách quan cần thiết. Khi đó hiệu ứng đám

đông không chỉ gây hại cho nhà báo và nghệ sĩ mà còn tạo ra ảnh hưởng tiêu

cực tới toàn xã hội, tới gu thẩm mĩ và văn hóa truyền thống, nhất là khi có tới

46% công chúng được hỏi cho biết họ rất thích đọc các phản hồi sau mỗi

thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.

157

4.1.5 Vấn đề quản lý, chính sách pháp luật cho thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

Trước sự phát triển nhanh như vũ bão của báo điện tử và người sử dụng

internet các cơ quan quản lý thực sự khó khăn trong vấn đề theo dõi, giám sát

nội dung thông tin. Bởi vậy dẫn đến tình trạng tràn lan các thông tin xấu, sai

sự thật, thông tin phản cảm, thiếu tính nhân văn về giới NSBD VN. Bên cạnh

đó các chế tài pháp luật xử phạt đối với việc đăng tải thông tin sai lệch, phản

cảm về giới NSBD VN vẫn chưa rõ ràng phần lớn mới dừng lại ở việc nhắc

nhở, phạt hành chính, và mức phạt cũng chưa cao chưa đủ tính răn đe. Những

quy định giới hạn những thông tin nào được đăng tải, thông tin nào không

được đăng tải cũng không rõ ràng. Nhiều trang báo đã lợi dụng sự mập mờ,

“lách luật” khai thác quá sâu đời tư nghệ sĩ để câu lượt xem khiến các bài báo

“rác” tràn lan trên mạng, gây ảnh hưởng không nhỏ tới công chúng và cả nhân

phẩm nghệ sĩ. 84% người được phỏng vấn sâu và 72% người phỏng vấn

Anket cho rằng cần có luật riêng trong thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử để quản lý hoạt động này đề cao trách nhiệm của người làm báo trong

việc khai thác thông tin cũng như của người nghệ sĩ trong việc cung cấp thông

tin, giúp báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. 16%

người được phỏng vấn sâu và 38% người phỏng vấn Anket cho rằng không

cần thiết phải có luật riêng trong thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

bởi nó tạo nên sự chồng chéo trong việc quản lý. Nên có những quy định rõ

ràng lồng ghép trong những đạo luật riêng rẽ.

Như vậy đa số các chuyên gia và công chúng vẫn cho rằng để quản lý

tốt thông tin về giới NSBD trên báo điện tử cần có một hệ thống quy định luật

pháp rõ ràng, tránh thực trạng những thông tin “thảm họa” liên tục xuất hiện

như hiện nay.

158

4.2 Giải pháp tăng cƣờng chất lƣợng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam trên báo điện tử

Trong xu thế hội nhập văn hóa toàn cầu, nhiều vấn đề nảy sinh trong

hoạt động VHNT, trong lối sống tư duy thẩm mĩ và đạo đức của xã hội thì

vai trò “màng lọc” văn hóa khi thông tin về giới NSBD VN của báo điện tử

lại càng lớn hơn. Do vậy để tăng cường chất lượng thông tin về giới NSBD

VN trên báo điện tử, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

4.2.1 Đối với báo điện tử

4.2.1.1 Chính sách, pháp luật đối với việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn

Việt Nam trên báo điện tử

+ Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nƣớc và có luật

thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo điện tử

Đảng ta đã khẳng định:“Cơ chế vận hành nền kinh tế ở nước ta là cơ

chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch chính

sách và các công cụ khác” [125, tr.155]. Cơ chế này đòi hỏi hoạt động báo

chí, hoạt động VHNT có những chuyển đổi trong tư duy nhận thức phương

thức hành động...phù hợp với bước chuyển của nền kinh tế từ cơ chế bao cấp

ra thị trường. Đó là một thách thức lớn.

Báo chí là một hoạt động văn hóa cũng là một sản phẩm văn hóa.

Trong thời gian qua, nhận thức của Đảng Nhà nước về vai trò, nhiệm vụ

truyền thông văn hóa của báo chí có nhiều tiến bộ đổi mới song để thúc đẩy

vai trò, nhiệm vụ này mạnh mẽ, chất lượng và hiệu quả hơn thì đường lối lãnh

đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các hoạt động thông tin văn

hóa trên báo chí (bao gồm thông tin về giới NSBD VN) cần cụ thể hơn bằng

các văn bản, quyết định... mang tính thiết thực.

Thông qua việc phân tích thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên

báo điện tử hiện nay, có thể thấy việc lấy nguồn tin trên mạng xã hội, những

159

nguồn tin chưa được kiểm chứng đã dẫn đến rất nhiều bài báo nghèo nàn

thông tin, lá cải, thiếu đạo đức, thiếu tính nhân văn tính giáo dục... Hệ lụy

của nó đối với giới nghệ sĩ công chúng nói riêng và với xã hội nói chung là

không nhỏ. Bởi vậy, chính sách pháp luật và các quy định pháp lý của Nhà

nước có vai trò quan trọng trong việc đưa báo chí đi đúng hướng. Cần thiết

phải có sự luật hóa các văn bản pháp luật dựa trên sự tổng hợp, thống nhất, bổ

sung, sửa chữa những quy định hiện hành về thông tin VHNT và nghệ sĩ trên

báo chí còn phân tán ở nhiều nơi để ban hành luật riêng cho thông tin về giới

NSBD VN trên báo chí đặc biệt là trên báo điện tử - một loại hình báo chí

đặc thù). Các văn bản pháp luật này cần cụ thể hóa chức năng nhiệm vụ,

quyền hạn của báo điện tử khi thông tin về VHNT nói chung và NSBD nói

riêng, quyền tự do ngôn luận, thông tin một cách khách quan đồng thời ràng

buộc trách nhiệm của các yếu tố báo điện tử, giới NSBD VN, công chúng)

trong quá trình thông tin. Cũng cần ra quy định có tính pháp lý rất cụ thể về

những nội dung báo điện tử được khai thác tránh đưa thông tin bừa bãi, phản

cảm, gây nhiễu loạn và ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội.

Chương 2 điều 38 của Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định về quyền

bí mật đời tư nhưng quy định và chế tài đối với người vi phạm thì chưa rõ

ràng cũng chưa đủ tính răn đe. Do đó nhiều tòa soạn, nhà báo hiện nay vẫn

phớt lờ quy định pháp luật khai thác và đăng thông tin phản cảm về NSBD

VN để đạt mục đích câu “view” chạy theo lợi nhuận kinh tế. Các cơ quan hữu

quan cần tăng cường công tác chỉ đạo, quản lí báo điện tử, xử lý nghiêm khắc

những trang báo đăng tải thông tin thiếu kiểm chứng, phản cảm, gây ảnh hưởng

xấu cho xã hội. Bên cạnh đó các văn bản mang tính pháp lý cũng cần quy định

và đưa ra các tiêu chí rõ ràng về chuẩn mực cho những dạng đề tài khai thác về

VHNT, về giới NSBD VN đặc biệt là những đề tài về hậu trường đời sống,

thông tin đời tư cá nhân của nghệ sĩ; làm sao đảm bảo mức độ thông tin, ngôn

ngữ, hình ảnh tính nhân văn của bài viết.

160

Chính sách quản lí của Nhà nước phải kết hợp giữa nhiều nhóm giải

pháp về hành chính quy định chế tài, tuyên truyền giáo dục... Không chỉ

bổ sung, hoàn thiện các hệ thống văn bản quy định pháp luật trong việc

thông tin về giới NSBD VN của báo chí Nhà nước cũng cần bổ sung, rà

soát và sửa đổi nhằm nâng cao tính hiệu lực hiệu quả của các văn bản pháp

luật hiện hành.

+ Nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc về

nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo chí

Thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay đến

từ nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là các

cấp lãnh đạo Đảng Nhà nước vẫn chưa đề cao một cách rõ ràng vai trò của

báo chí trong việc truyền thông văn hóa Việt. Vẫn còn tồn tại rất nhiều nhận

thức lệch lạc, coi nhẹ, không thấy được sự cần thiết của nhiệm vụ này, thậm

chí biết nhưng phớt lờ, tránh né. Tuy nhiên gần đây các cấp lãnh đạo Đảng và

Nhà nước đã chú trọng và đề cao hơn vai trò truyền thông văn hóa Việt của

báo chí. Ngoài vận động, khuyến khích các tờ báo đẩy mạnh tuyên truyền văn

hóa các cơ quan quản lý cũng có những chính sách xử lý mạnh tay hơn với

những tờ báo cố tình vi phạm.

Để báo chí phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình khi thực

hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt, các cấp lãnh đạo của Đảng, Nhà

nước cần có nhận thức đầy đủ, sâu sắc và không ngừng phối hợp, tạo điều

kiện để báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ này. Tất nhiên điều này chỉ được hiện

thực hóa khi các nhà lãnh đạo và quản lý coi truyền thông văn hóa Việt là một

nhu cầu không thể thiếu để phát triển kinh tế xã hội VN trong bối cảnh hội

nhập toàn cầu mạnh mẽ, sâu rộng; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

161

+ Xử phạt mạnh tay những tòa soạn cố tình vi phạm, đăng tải

thông tin phản cảm về nghệ sĩ biểu diễn

Các cơ quan báo chí của Việt Nam trong đó có báo điện tử) hiện nay

đang nằm trong phạm vi điều chỉnh và quản lý của Luật Báo chí. Báo điện tử

trực thuộc cơ quan quản lý trực tiếp là Cục quản lý Phát thanh, Truyền hình

và Thông tin điện tử thuộc Bộ TT&TT (Cục QLPTTH&TTĐT). Cơ quan chủ

quản dựa trên luật báo chí để đưa ra những chế tài quản lý hoạt động xuất bản

của các báo mạng điện tử đưa ra những hình thức phạt khác nhau đối với

những tòa soạn báo vi phạm.

Tuy nhiên, hoạt động báo chí ở Việt Nam cho thấy Cục QLPTTH&TTĐT

chưa làm tốt trách nhiệm của mình. Không chỉ cấp phép hoạt động vô tội vạ

cho nhiều trang tin dẫn tới tình trạng mất kiểm soát cơ quan này cũng không

quản lý sát sao đưa ra những chế tài quản lý kém hiệu quả không đủ tính răn

đe đối với các cơ quan báo chí vi phạm. Các tòa soạn báo điện tử đã “không

còn biết sợ” mặc nhiên đăng tải thông tin phản cảm, mắc phải những vi phạm

có tính chất hệ thống, gây bức xúc trong công chúng và tác động tiêu cực tới

xã hội. Thực tế này dẫn tới nhu cầu bức thiết trong việc mạnh tay quản lý hoạt

động của báo mạng điện tử.

Theo các chuyên gia, phạt hành chính vẫn là biện pháp nên được áp

dụng nhiều nhất trong quản lý hoạt động báo điện tử. Theo Nghị định

02 2011 NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2011 về quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản, mức phạt hành

chính dành cho vi phạm của PV, BTV, tòa soạn báo chí chỉ ở mức từ

1.000.000 đồng đến tối đa là 40.000.000 đồng. Đây là mức phạt quá thấp. Để

hoạt động quản lý hoạt động thông tin về giới NSBD VN có hiệu quả, cần

phải nâng khung xử phạt lên gấp nhiều lần để nâng tính răn đe. Thậm chí với

những trang báo vi phạm nặng, liên tục, cần ra quyết định đóng cửa tước giấy

162

phép hoạt động. Việc này không những đảm bảo tính hiệu quả, nghiêm khắc

của luật pháp mà còn có tác dụng định hướng các trang báo điện tử hoạt động

đúng với tính chất và chức năng cần có của báo chí.

4.2.1.2 Giải pháp gắn liền với tòa soạn báo điện tử

a) Nâng cao chất lượng nhân lực của báo điện tử

+ Lãnh đạo, Ban biên tập

Đội ngũ Lãnh đạo, BBT phải là lực lượng đầu tiên không ngừng được

bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị và trình độ nghiệp vụ. Một

tác phẩm báo chí có chất lượng không chỉ dựa trên sự nỗ lực, khai thác thông

tin của PV, mà còn là sự phối hợp, chỉ đạo của cả một ekip trong đó có sự

lãnh đạo, chỉ đạo điều hành hoạt động báo chí trên tinh thần tôn trọng pháp

luật, bảo vệ quyền tự do ngôn luận và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Bởi

vậy lãnh đạo, ban biên tập tòa soạn cần nhìn nhận một cách toàn diện, khách

quan về vị trí vai trò cũng như chức năng nhiệm vụ của báo điện tử nói chung

và tòa soạn báo của mình nói riêng.

Lãnh đạo, BBT cần hiểu và nắm được hoạt động NTBD VN cũng như đời

sống của NSBD để có thể chỉ đạo các PV chọn được đề tài, khía cạnh khai thác

hợp lý, vừa đáp ứng được nhu cầu của công chúng vừa mang lại những giá trị về

chuyên môn nhân văn và giải trí. Lãnh đạo tòa soạn cũng cần tổ chức các khóa

đào tạo chuyên môn và đạo đức báo chí cho đội ngũ nhân viên nhà báo trong tòa

soạn; đưa ra những biện pháp hiệu quả trong việc kiểm soát thông tin, nguồn tin,

chất lượng thông tin; đưa ra những hình thức khích lệ cũng như xử phạt nghiêm

khắc cho PV trong quá trình tác nghiệp, tránh tình trạng sản xuất ra những sản

phẩm “lá cải” “thảm họa”.

Cần có định hướng đưa tin rõ ràng

Lãnh đạo, BBT tòa soạn cần định hướng rõ sẽ đưa thông thông tin gì về

giới NSBD VN đưa ở mức độ nào để phù hợp với tiêu chí hoạt động, nguồn

163

tài nguyên, nguồn nhân lực, sự phát triển nội tại... của báo mình. Tuy nhiên, hầu

hết các tòa soạn báo hiện tử hiện nay vẫn chạy theo những sự kiện nóng, có tính

chất câu “view” hơn là xây dựng một định hướng phát triển lâu dài. Chuyên mục

Văn hóa Giải trí, Hậu trường...của 03 trang báo điện tử thuộc phạm vi khảo sát

của Luận án này cho thấy sự tạp nham “thập cẩm” chưa tạo được bản sắc riêng.

Các bài viết có chiều sâu, chất lượng, chuyên môn cao chiếm tỉ lệ thấp, trong khi

quá nhiều bài viết chạy theo thị hiếu khán giả, phản cảm câu “view”. Thêm vào

đó lãnh đạo đứng đầu của nhiều trang báo điện tử hiện nay không phải là người

có chuyên môn về báo chí, không có phông nền về văn hóa mà chỉ làm công

việc quản lý hành chính cũng gây khó khăn trong việc xây dựng định hướng hoạt

động rõ ràng cho tòa soạn trong việc thông tin về giới NSBD VN.

Lãnh đạo, BBT cần được đào tạo liên tục, cập nhật những lý luận và thực

tiễn về báo điện tử, nhận thức rõ thế mạnh và hạn chế của báo điện tử trong việc

thông tin về giới NSBD VN để có được những định hướng phát triển nội dung

tin bài rõ ràng và chính xác. Phải sản xuất được những thông tin mà công chúng

thích theo ý của nhà báo. Nhà báo phải kiểm soát được thông tin mình đưa ra

phải mang tính phát hiện, tính phản biện, tính khác biệt, chỉ ra được vấn đề cốt

lõi để định hướng công chúng. Vai trò định hướng này của nhà báo càng trở nên

quan trọng hơn trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường.

Cần kiểm chứng thông tin, tiếp nhận phản hồi của công chúng

Áp lực thương mại hóa, giành giật công chúng khiến nhiều nhà báo, PV

phải sản xuất tin bài gấp gáp, hời hợt, gây ra nhiều sai sót về thông tin. Chưa

kể tin bài trên các trang báo điện tử hiện nay dựa trên nguồn cộng tác viên

(CTV) đông đảo – phần lớn là những người trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm

làm báo đưa tin cảm tính, khả năng chịu trách nhiệm thấp. Những bài viết về

giới NSBD VN thường được đông đảo công chúng quan tâm, những sai sót

trong bài viết dễ dẫn tới khả năng phải đối diện với pháp luật cho tòa soạn,

164

đồng thời tạo ra những hệ lụy tiêu cực tới nhân phẩm, danh dự của người

nghệ sĩ cũng như nhận thức tư duy của công chúng. Bởi vậy Lãnh đạo, BBT

của tòa soạn có trách nhiệm phải kiểm chứng, xác thực thông tin trong từng

bài viết đảm bảo tính chuẩn mực, tính chính xác của báo chí.

Với mỗi bài viết, cần yêu cầu PV, CTV cung cấp những bằng chứng để

xác thực như: email file ghi âm điện thoại liên hệ nhân vật... Với những vấn

đề nóng, có tính chất tiêu cực hoặc mới chỉ ở mức tin đồn, tòa soạn cần xác

nhận tính pháp lý tính nhân văn của thông tin trước khi đăng tải, đảm bảo

thông tin tới với độc giả nhanh nhất nhưng vẫn không làm ảnh hưởng tới cá

nhân người nghệ sĩ cũng như công chúng. Ngoài ra để đảm bảo tính khách

quan lãnh đạo tòa soạn cũng cần thiết lập đường dây nóng tiếp nhận những

phản hồi trực tiếp từ độc giả, từ NSBD VN về nội dung tin bài được đăng tải,

nhanh chóng xác thực thông tin phản hồi và đưa ra biện pháp xử lý sớm nhất.

Những thông tin sai lệch nặng cần gỡ tin bài, xin lỗi độc giả và người được đưa

tin đưa ra chế tài xử lý PV đưa tin sai... đảm bảo uy tín của trang báo cũng

như danh dự, nhân phẩm của nhân vật và sự tôn trọng đối với công chúng.

Lãnh đạo BBT cũng cần thường xuyên kiểm tra phần bình luận của độc giả

để hiểu rõ nhu cầu và đánh giá của họ, từ đó có những chính sách sản xuất tin

bài hiệu quả và hợp lý hơn.

Cần thẩm định chặt chẽ quy trình sản xuất tin bài

Quy trình từ sản xuất đến đăng tải một bài báo điện tử thường qua

nhiều lớp: PV BTV trưởng ban thư kí TBT. Quy trình này đảm bảo mang

lại những bài viết tốt nhất tới độc giả đồng thời hạn chế những sai xót về

thông tin đảm bảo tính chính xác, khách quan và chân thực. Tuy nhiên hiện

nay, vì mục đích chạy đua giành giật công chúng nên tại nhiều tòa soạn, quy

trình này không được thực hiện một cách nghiêm ngặt, bỏ qua nhiều bước

hoặc chỉ làm cho có, dẫn tới những bài viết mắc lỗi trầm trọng đưa tin sai

165

mang tính chủ quan, gây ảnh hưởng tới cả đối tượng được thông tin và đối

tượng tiếp nhận thông tin. Bên cạnh đó trong cơ chế tự chủ tài chính tự hạch

toán thu chi, không ít tòa soạn phải tinh giản nhân lực không đầu tư được một

đội ngũ PV BTV đủ tâm và tầm đôi khi PV cũng kiêm luôn BTV và thư kí

tòa soạn, vừa “đá bóng vừa thổi còi” thiếu sự minh bạch, công tâm, khách

quan. Nhiều bài viết xuất bản không đúng quy trình, mắc nhiều sạn nhưng

lãnh đạo tòa soạn vẫn nhắm mắt làm ngơ miễn cưỡng dùng. Do đó lãnh đạo,

ban biên tập cần thắt chặt hơn khâu thẩm định, thực hiện đầy đủ các bước

trong quy trình sản xuất tin bài, nghiêm khắc loại bỏ những tin bài mắc phải

sai xót để đảm bảo chất lượng trong từng bài viết được đăng tải trên mặt báo.

Xử lý nghiêm những PV cố tình sai phạm

PV là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm báo chí, truyền tải thông

tin tới độc giả. Một bài viết có chất lượng hay không phần lớn phụ thuộc vào

PV. Đối với thông tin về giới NSBD VN trong điều kiện hội nhập văn hóa

ngày càng mạnh mẽ thì vai trò của PV lại càng lớn. PV phải lựa chọn để đưa

đến độc giả những hình ảnh đẹp, giới thiệu những sản phẩm chất lượng của

người nghệ sĩ. Nói cách khác họ phải trở thành “màng lọc” đầu tiên trong

nhiệm vụ truyền thông văn hóa tới CCTC. PV cũng cần định hướng thông tin,

nâng cao gu thẩm mĩ lành mạnh, trình độ nhận thức của công chúng thông qua

việc giới thiệu các chương trình NTBD các trào lưu âm nhạc mới, các nghệ sĩ

mới, các sản phẩm chương trình nghệ thuật có chất lượng...., góp phần gìn giữ

và tuyên truyền những sản phẩm văn hóa cho dân tộc. Cần xử lý nghiêm, thậm

chí loại bỏ những PV không có đủ tâm đức với nghề, cố tình đưa những thông

tin mang tính chủ quan cá nhân sai định hướng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng

tới đối tượng được đưa tin độc giả và văn hóa Việt Nam.

Với nguồn nhân lực được đào tạo lĩnh vực báo chí tại các trường Đại

học hiện nay và nguồn CTV dồi dào trong xã hội thì không khó để tuyển dụng

166

được những PV chân chính. Đây là lợi thế để các tòa soạn thi hành chính sách

cứng rắn đối với những PV không chuyên tâm với nghề, sẵn sàng “bẻ cong

ngòi bút” vì mục đích tư lợi. Tuy nhiên cũng cần quan tâm tới chữ “tình” bên

cạnh chữ “lý” khi xử phạt PV. Có thể áp dụng các biện pháp từ nhẹ tới nặng,

cho PV cơ hội sửa chữa thay đổi nhất định. Ban đầu có thể cảnh báo sau đó

là xử lý kỉ luật và sa thải nếu tiếp tục mắc lỗi hoặc mắc lỗi nghiêm trọng.

Việc xử lý nghiêm các PV có sai phạm trong sản xuất tin bài sẽ giúp

nâng cao uy tín, kỷ cương của tòa soạn, từ đó góp phần tạo ra những tin bài có

chất lượng cao phục vụ công chúng.

+ Đội ngũ PV, BTV

Công tác đào tạo đội ngũ PV, BTV:

Bàn về công tác đào tạo đội ngũ PV, BTV báo điện tử, nguyên Thứ trưởng

Đỗ Quý Doãn khẳng định: “Đào tạo người làm báo điện tử phải khác, giáo trình

khác, phương thức khác... Quy trình làm báo điện tử khác, không thể mang tư duy

quản lý báo truyền thống vào quản lý báo điện tử” PVS 02 . Đối với lĩnh vực

VHNT, cần thiết phải có những người làm báo về VHNT một cách chuyên

nghiệp được đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về lĩnh vực này.

Trường đại học, học viện đào tạo nhân lực làm báo cũng cần có những

chương trình đào tạo chuyên sâu, riêng biệt cho người làm báo điện tử. Đặc

biệt, các môn về kĩ năng nghề nghiệp, các bài học thực tế, nâng cao tính thực

hành tác nghiệp cần phải được đẩy mạnh ngay từ trên ghế nhà trường. Việc đào

tạo tốt sẽ giúp các nhà báo tương lai hiểu rõ quyền lợi cũng như trách nhiệm

của người làm báo. Điều này đặc biệt hữu dụng khi các nhà báo bước chân vào

tác nghiệp thực sự. Các tòa soạn báo sau khi tuyển dụng nhân sự cũng cần

thường xuyên mở các lớp tập huấn trao đổi nghiệp vụ, chuyên môn nhằm nâng

cao khả năng nghề nghiệp, bổ sung kiến thức cho các PV, BTV của mình. Bài

viết “Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, PV các cơ

quan báo chí” đăng trên trang http://www.xaydungdang.org.vn nhân dịp kỉ

167

niệm 90 năm Ngày báo chí cách mạng Việt Nam đã trích dẫn Chỉ thị số 22-

CT TW “Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí,

xuất bản” trong đó nhấn mạnh: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí chủ yếu là

trong nước dưới sự chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý chặt chẽ của

Nhà nước.”. Đây là một nhiệm vụ quan trọng đã được xác định từ đại hội VII

của Đảng, càng chứng minh tính đúng đắn trong bối cảnh báo chí hiện nay.

Vấn đề chuyên môn, tác nghiệp của PV, BTV

Đảng và Nhà nước đã xác định rõ mục tiêu phương hướng phát triển

văn hóa trong các quan điểm đưa ra của mình. Người làm báo phải nắm vững

được những quan điểm, mục tiêu này. Hiện nay, trong quan niệm, nhận thức

của những người làm báo về VHNT cũng đang khác nhau. Đối với nhà báo,

nhất là nhà báo viết về VHNT thì một trong những điều quan trọng là phải

hiểu rõ đối tượng mà mình đang phản ánh lĩnh vực mình đang phản ánh. Phải

tìm hiểu đặt mình trong môi trường, bối cảnh đó để khi đưa ra một tác phẩm

báo chí thì chúng ta giống như người trong cuộc. Có như vậy thông tin mới có

những tác động tích cực đối với công chúng.

PV, BTV cũng cần chú ý hơn tới vấn đề tiếp cận và xử lý nguồn tin; xây

dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người trong giới NSBD VN, tin tưởng và

thấu hiểu họ, từ đó có những chia sẻ khách quan và nhân văn nhất; cần chú ý vào

những nội dung thông tin cốt lõi có tính văn hóa thay vì những nội dung gây sự

tò mò, kích thích công chúng; tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa đăng

tải những thông tin lá cải, thảm họa, bất chấp những hậu quả có thể xảy ra....;

cũng cần nắm rõ pháp luật để biết giới hạn những thông tin nào được đưa những

thông tin nào không được đưa; nên sử dụng nhiều kênh ngôn ngữ thể hiện để

mang lại sự hấp dẫn sinh động cho bài viết.

Ngoài ra PV BTV cũng cần đặt lên hàng đầu quá trình kiểm chứng

thông tin. Những thông tin thiếu sự chính xác, thiếu kiểm chứng có thể dẫn

168

đến những hậu quả nghiêm trọng cho cả nhà báo, nghệ sĩ và công chúng. Và

quan trọng nhất, PV viết về giới NSBD VN thì cần phải thiết lập một nền tảng

kiến thức đủ để giải mã được nền văn hóa Việt Nam.

b) Nội dung, hình thức thông tin

+ Về nội dung

Để nâng cao hơn nữa nội dung thông tin về giới NSBD VN, theo tác

giả luận án, các tòa soạn báo điện tử cần chú trọng tới một số vấn đề sau:

- Tích cực, chủ động trong việc khai thác thông tin về giới NSBD VN.

Thay vì nhận thông tin từ nghệ sĩ công ty quản lý, cóp nhặt từ MXH, nhà báo

nên chủ động tiếp cận và khai thác thông tin trực tiếp từ nghệ sĩ một cách

khách quan nhất.

- Giảm bớt hàm lượng thông tin về hậu trường đời sống, scandal, phát

ngôn gây sốc...của giới NSBD VN. Tăng cường các nội dung về hoạt động

nghệ thuật, các bài phân tích có tính chuyên môn cao. Theo khảo sát, có

419/531 công chúng mong muốn các trang báo điện tử hiện nay tăng hàm

lượng thông tin về các show diễn, sản phẩm nghệ thuật, chân dung nghệ sĩ

phân tích đánh giá các sản phẩm nghệ thuật của giới NSBD VN. Trong khi

đó chỉ có 36 531 người mong muốn có thêm thông tin về đời tư scandal

phát ngôn ngây sốc của giới này.

- Công chúng của báo điện tử thường là người trẻ do đó cần tăng

cường những bài viết mang tính giáo dục như: hoạt động thiện nguyện, hoạt

động vì môi trường, vì cộng đồng... của giới NSBD VN, từ đó xây dựng một

thái độ sống tích cực tới công chúng trẻ (những người hâm mộ và chịu ảnh

hưởng lớn từ nghệ sĩ .

- Tránh khai thác quá sâu, khai thác những thông tin nhạy cảm vi phạm

pháp luật, ảnh hưởng tiêu cực tới danh dự, nhân phẩm của người nghệ sĩ cũng

như tư duy nhận thức của công chúng.

- Cần có KPI (chỉ tiêu đánh giá cho chất lượng từng bài viết thay vì chỉ

phụ thuộc vào lượt xem lượt chia sẻ của công chúng như hiện nay

169

+ Về hình thức

Hình thức cũng có vai trò lớn trong việc chuyển tải thông tin. Để nâng

cao chất lượng tin bài về giới NSBD VN, tác giả luận án xin đề nghị một số

giải pháp:

- Tăng cường ngôn ngữ phi văn tự nhằm bổ sung, hỗ trợ thông tin cho

những thông tin văn tự. Làm phong phú hình thức thể hiện bài viết.

- Tăng cường các thể loại: phân tích, bình luận, ký... chuyên sâu để tăng

những bài viết có chiều sâu, định hướng rõ ràng, tạo ra những tác động tích

cực tới công chúng, thu hút họ bằng chất lượng bài viết thay vì những thông

tin hời hợt, giật gân.

- Phát triển những chuyên trang về giới NSBD VN với định hướng nội

dung tốt tăng cường tính tương tác giao lưu với công chúng trong từng bài viết.

- Phát triển thông tin theo hình thức gói tin tức đa phương tiện (kết hợp

nhiều loại hình: báo viết, phát thanh, truyền hình đồ họa...) – đây là một xu

hướng thông tin đang phổ biến tại các tòa soạn báo điện tử trên toàn thế giới

hiện nay nhằm đưa tới cho công chúng các hình thức tiếp nhận thông tin đa

dạng, phong phú.

c) Đạo đức người làm báo

Đạo đức báo chí và trách nhiệm xã hội của người làm báo thời đại nào

cũng được đặt lên hàng đầu, nhất là khi hiện nay uy tín của báo chí có phần giảm

sút trong mắt công chúng. Bất cứ một vấn đề gì khi được thông tin trên báo chí,

ranh giới giữa tích cực và tiêu cực, tốt và xấu chỉ cách nhau trong tích tắc. Nghệ

sĩ là người của công chúng, dễ thu hút công chúng, có sức ảnh hưởng lớn tới

công chúng và xã hội, cho nên việc đưa thông tin về giới này càng đòi hỏi người

làm báo phải nắm rất vững những nguyên tắc cũng như đạo đức báo chí. “Thông

tin về giới NSBD nhà báo luôn phải đặt ra câu hỏi chúng ta đang giải quyết cái

gì? Nghệ sĩ được gì? Công chúng được gì? Nó chỉ là thông tin thuần túy hay nó

170

còn hàm chứa nhiệm vụ giúp công chúng nâng cao nhận thức về nghệ thuật,

nâng cao trình độ thẩm mĩ? Ranh giới giữa đúng sai, tích cực, tiêu cực khi đưa

tin mong manh lắm” nguyên thứ trưởng Đỗ Quý Doãn phân tích (PVS 02).

Khi thông tin về giới NSBD VN, báo điện tử nên khuyến khích những

hình ảnh đẹp, phê bình một cách có nhân văn những việc chưa tốt để giúp nghệ

sĩ hoàn thiện hơn. Cần lưu ý rằng nhà báo đang nói đến một đối tượng dễ bị tổn

thương có sức ảnh hưởng tới xã hội nên phải cân nhắc câu chữ, liều lượng, hình

ảnh, nội dung cho phù hợp. “Có những vấn đề không sai luật, không trái quy

định nhưng lương tâm, đạo đức và linh cảm của người làm báo lại rất quan

trọng” nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn phân tích. Sự nhạy cảm, bản lĩnh nghề

nghiệp ấy có được nhờ sự rèn luyện. Người làm báo cần tắm mình trong nền

nghệ thuật biểu diễn của nước nhà, phải sống, hiểu người nghệ sĩ thay vì phán

xét họ như một người ngồi trên cao nhìn xuống. Khi nhà báo đặt mình là người

trong cuộc c ng lăn lộn, cùng chịu những niềm vui nỗi buồn của người nghệ sĩ

rồi đặt mình vào vị trí của công chúng thì sẽ đưa tin một cách nhân văn khách

quan, và hóa giải được mọi tin bài “thảm họa” như hiện nay.

Báo điện tử không nên nhìn nghệ sĩ từ đời thường của họ, bởi tất cả

những tinh hoa tốt đẹp của họ đều bộc lộ qua tác phẩm. Báo điện tử cũng

không nên chạy theo sự tò mò của công chúng mà cần đặt câu hỏi những bài

viết của mình có nâng tầm định hướng, nâng tầm thẩm mĩ nghệ thuật cho công

chúng hay không? Nhà báo phải có tâm và tầm. Khi nhà báo tâm không sáng

thì sẽ dễ chạy theo lợi ích cá nhân, hoặc lợi ích nhóm. Thiếu tầm nhà báo sẽ rơi

vào tiểu tiết, quên đi cái lâu dài, toàn bộ. Những người “tai tiếng” sẽ không

được công chúng “nhòm ngó” nếu không có sự tiếp tay của các nhà báo kém.

Công chúng cũng sẽ ít bị “ô nhiễm” nếu ít đi nhà báo kém chưa kể là “bẩn” .

Đạo đức nghề nghiệp chính là “kim chỉ nam” cho mọi hành động, bài

viết về giới NSBD VN của nhà báo. Các tòa soạn cần thiết phải mở những lớp

171

bồi dưỡng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức cho báo chí; loại trừ tư

tưởng lạm dụng những chi tiết “hot” giật gân câu khách đang hiện hữu ngày

càng nhiều trong các nhà báo hiện đại thay vào đó là hướng tới những tin bài

mang tính nhân văn góp phần thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt.

Báo chí phải có những nguyên tắc riêng khi đưa tin về giới NSBD VN.

Những nghệ sĩ có hành động phản văn hóa phản cảm thì báo chí có quyền từ

chối, không truyền bá tới công chúng. Ngược lại, những tác phẩm nghệ thuật

hay, những đóng góp tích cực cho NTBD VN lại cần được báo chí tuyên

truyền tích cực hơn. Nhà báo cần quay lại giá trị truyền thống và cốt lõi của

báo chí đó là tính định hướng tính nhân văn và sự đồng cảm, chia sẻ của

người cầm bút với cuộc sống, với con người. Trong kỉ nguyên số, khi mà ai

cũng có thể “làm báo” có thể phán xét người khác nhân danh “báo chí” thì

nên chăng các nhà quản lý cần đặt ra một bộ tiêu chuẩn đạo đức báo chí? Bởi

khi có đạo đức nghề nghiệp thì tất cả mọi vấn đề tiêu cực đang diễn ra trong

nền báo chí Việt Nam hiện nay sẽ được giải quyết.

4.2.2 Đối với giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

4.2.2.1 Đổi mới quan điểm của Đảng, sự quản lý của nhà nước trong hoạt

động nghệ thuật và truyền thông của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

Nghị quyết Trung ương 5 nêu rõ: “Chăm lo văn hóa là chăm lo xây

dựng, củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ

và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh

tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không có sự phát triển kinh tế xã hội

bền vững”. Như vậy, ngay từ trong Nghị quyết Trung ương 5 thì văn hóa và

kinh tế có mối quan hệ mật thiết. Trong kinh tế có văn hóa và trong văn hóa

có kinh tế. Trong thời kì hiện đại, khi ảnh hưởng của kinh tế thị trường, khi sự

du nhập văn hóa ngoại lai ngày càng mạnh mẽ thì quan điểm của Đảng, sự

quản lý của Nhà nước đối vơí hoạt động VHNT và hoạt động của giới NSBD

càng trở nên cần thiết hơn.

172

Cơ chế thị trường ở mặt tích cực đã khuyến khích người nghệ sĩ tìm hiểu

thị trường và thị hiếu công chúng, sử dụng truyền thông để tiếp cận công

chúng. Cùng với đó là vai trò cá nhân, ý thức sáng tạo, ý thức cạnh tranh để tồn

tại của người nghệ sĩ cũng được đề cao. Tuy nhiên, không thể phủ nhận, ở mặt

tiêu cực nó cũng khiến nhiều nghệ sĩ Việt Nam chạy theo lợi nhuận đơn thuần,

tạo điều kiện cho việc ra đời nhiều sản phẩm và lối sống phản văn hóa tìm mọi

cách để nổi tiếng, gây ảnh hưởng tiêu cực tới công chúng và xã hội. Do đó nhà

nước cần có quan điểm gợi mở những hành lang pháp lý thuận tiện cho sự phát

triển của VHNT trong thời kỳ mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường nhưng

cũng cần có những chính sách quản lý chặt chẽ, những chế tài đủ tính răn đe

cho những nghệ sĩ đi quá giới hạn, vi phạm thuần phong mỹ tục văn hóa

truyền thống của Việt Nam. Hiện nay cả cơ chế “mở đường” lẫn cơ chế quản lý

của chúng ta vẫn còn lỏng lẻo chưa có văn bản quy định rõ ràng nên dễ tạo

điều kiện để nghệ sĩ lách luật, trở thành nguồn cho những thông tin “thảm họa”

trên báo chí như thực trạng mà Luận án đã phân tích phần trên.

4.2.2.2 Cách tiếp cận báo chí và công chúng của nghệ sĩ biểu diễn

+ Cách tiếp cận với báo chí

Trả lời cho câu hỏi có những nghệ sĩ đứng trên sân khấu rất nhiều năm

mà khán giả không chán? Và cũng có những nghệ sĩ hát rất hay mà không thể

thành sao? Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng: “Duy tâm nói muốn thành sao phải

có số. Nhưng nói về truyền thông thì sự cố gắng là điều rất quan trọng, bởi vì

bây giờ là thời đại của công nghệ truyền thông, quảng bá hình ảnh” PVS

06 . Như vậy, cách NSBD tiếp cận với báo chí có vai trò rất lớn trong việc

quyết định họ có trở thành “sao” hay không.

Nghệ sĩ cần thiết lập mối quan hệ với nhà báo, chủ động cung cấp

thông tin cho họ về những dự án nghệ thuật, những sản phẩm nghệ thuật của

mình. Trên thực tế, báo chí có tác dụng như đòn bẩy, giúp tên tuổi của nghệ sĩ

173

đến gần với công chúng. Nhưng MC Hạnh Phúc quan niệm rằng: “Từ đòn bẩy

đó nghệ sĩ phải dùng chính năng lực, tài năng của mình để khán giả biết đến

mình rồi, họ tìm hiểu sản phẩm do mình làm ra, họ thực sự cảm thấy thoải

mái, ngưỡng mộ những sản phẩm đó. Có như vậy mới xây dựng được hình

ảnh vững chắc trong lòng công chúng” PVS 09 . Bản thân người nghệ sĩ cần

phải nâng cao chất lượng các sản phẩm nghệ thuật để phục vụ tốt cho công

chúng, trở thành những lý do chính đáng để nhà báo đăng tải tin bài về họ.

Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhấn mạnh: “Nghệ sĩ mà không biết giữ gìn

hoặc coi nhẹ hình ảnh thì sẽ chẳng thể đi được đường dài trên con đường

nghệ thuật” PVS 08 .

Nghệ sĩ cũng cần định hình cho mình một hình ảnh riêng biệt trên

truyền thông để công chúng nhớ tới và không nhầm lẫn. Khi tiếp cận và

quảng bá hình ảnh của mình trên báo chí, nghệ sĩ cần xác định xem phong

cách của mình là gì mình đang hoạt động trên lĩnh vực nào thông điệp mình

muốn chuyển tải tới công chúng ra sao?.... Từ đó tất cả những chương trình

mà nghệ sĩ tham gia những sự kiện hay quảng cáo mà nghệ sĩ xuất hiện đều

phải thống nhất trong một tổng thể chung về mặt hình ảnh. Nói cách khác,

nghệ sĩ cần có một định hướng truyền thông rõ ràng. Ngay cả trên mạng xã

hội thì người nghệ sĩ cũng cần giữ gìn hình ảnh của mình bởi những phát

ngôn hay những hình ảnh đăng tải trên Facebook, Twitter đều có thể được báo

chí sử dụng và đăng tải lại như một nguồn tin, và nếu không cẩn thận có thể

làm xấu hình ảnh của nghệ sĩ trong mắt công chúng.

Chuyên gia truyền thông Marketing Nguyễn Quang Dũng cho rằng

NSBD cần có sự nhất quán trong xây dựng hình ảnh. Nếu là truyền thông cho

thương hiệu họ đại diện thì cần ý thức họ đang đại diện cho thương hiệu nào,

cần nhấn mạnh yếu tố nào? Nó có tổn hại tới hình ảnh chuyên môn không? Nếu

là xây dựng hình ảnh chuyên môn cá nhân thì cần xác định mình hướng tới đối

174

tượng công chúng nào? Hình ảnh riêng biệt mình muốn xây dựng ra sao?

Những lần mình xuất hiện trên báo chí có đóng góp như thế nào cho các

thương hiệu mà mình đại diện? Từ phong cách ăn mặc, phát ngôn, cử chỉ...của

người nghệ sĩ đều phải được định hướng rõ ràng, trở thành một nội dung, một

thông điệp nhất quán, tạo dấu ấn riêng cho người nghệ sĩ.

Đối với việc đăng tải tin bài sai, gây ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của

bản thân người nghệ sĩ cần liên hệ với báo chí trao đổi rõ nội dung thông tin

chính xác đề nghị nhà báo đính chính gỡ bỏ tin bài, thậm chí xin lỗi công

khai. Trong trường hợp nghệ sĩ bị báo chí “khui” ra những sự việc không hay

cần hết sức bình tĩnh chủ động cung cấp những thông tin chính thống cho báo

chí để giải quyết vụ việc, tránh những cách ứng xử không có văn hóa.

+ Cách tiếp cận với công chúng thông qua truyền thông

Nhà văn Pháp Alain Robbe Grillet - chủ soái của "Tiểu thuyết mới" -

từng phát biểu: "Nhà văn sẽ là kẻ suy đồi khi mà trong lúc sáng tác anh ta còn

nghĩ đến công chúng". Nghệ sĩ cần dùng những đỉnh cao nghệ thuật của sáng

tạo để chiếm lĩnh công chúng thông qua những tác phẩm của mình phải đào

tạo được công chúng thay vì chạy theo thị hiếu của họ; phải nâng cấp “thị

hiếu” của công chúng thay vì bất chấp phục vụ “thị hiếu” ấy.

Vội vàng làm nóng tên tuổi, gây sự chú ý của công chúng bằng những

chiêu trò sẽ chỉ là sự nổi tiếng nhất thời, không làm nên giá trị cho người nghệ

sĩ. Để khán giả nhớ mặt, biết tên bằng tài năng là một quá trình lâu năm cần

sự rèn rũa và nỗ lực không ngừng nghỉ từ người nghệ sĩ.

Bàn về cách tiếp cận công chúng của NSBD VN hiện nay nhà văn

Phong Điệp khẳng định: “Những nghệ sĩ tồn tại được lâu dài trong lòng công

chúng là những nghệ sĩ sạch, xuất hiện đàng hoàng trên báo chí với những dự

án nghệ thuật, những chia sẻ vể nghề nghiệp, những lao động thực sự cống

hiến cho nghệ thuật của họ. Chứ còn những nghệ sĩ mà chụp ảnh nude để

khoe thân thì tôi thấy kiểm nghiệm trong thực tế chỉ trong một thời gian rất

175

ngắn thôi họ bị công chúng quên, mà nếu nhớ thì cũng nhớ với hình ảnh rất

xấu, là một vết đen trong đánh giá của công chúng về nghệ sĩ ấy” PVS 03

4.2.3 Đối với công chúng

4.2.3.1 Nâng cao thị hiếu thông tin của công chúng

Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng thông tin về giới

NSBD trên báo điện tử hiện nay trở thành “thảm họa” xuất phát từ thị hiếu

của công chúng khi các nhà báo đua nhau chạy theo thị hiếu của đám đông

mà bất chấp hậu quả. Bởi vậy, muốn giải quyết được vấn đề “thảm họa”

thông tin cần nâng cao thị hiếu thông tin của công chúng.

Thông tin là một sản phẩm hàng hóa d là hàng hóa đặc biệt), vì thế,

các nội dung về hậu trường, scandal, phát ngôn gây sốc...của NSBD vẫn có

sức hút chứng tỏ vẫn tồn tại nhu cầu thực tế về các nội dung này ở công

chúng. Trong bài viết Văn hóa ứng xử và quan hệ nghệ sĩ – công chúng, PGS.

TS Trịnh Hòa Bình cho rằng: “Nói giáo dục được chuyện này thì có lẽ hơi

nực cười, nhưng vẫn cần trang bị kiến thức phổ quát trên diện rộng, kể cả xu

hướng thẩm định của một bộ phận đáng kể quần chúng. Bởi nếu cứ để những

yếu tố “cầu - cung” dễ dãi như thế này lan rộng thì sẽ ngày càng bộc lộ rõ sự

đi xuống của xã hội ở trong lĩnh vực văn hóa”.

Công chúng ngày nay có rất nhiều kênh để tiếp nhận thông tin, họ hoàn

toàn có quyền chủ động lựa chọn thông tin để tiếp nhận. Trong thế giới phẳng

và ngày càng mở như hiện tại, việc quản lý thông tin là việc cần nhưng rất

khó khăn. Do đó nhà báo Phạm Thu Hà đưa ra quan điểm: “Công chúng phải

thừa nhận thực tế này và tự lựa chọn các kênh cung cấp thông tin cho mình,

vì bên cạnh các kênh cung cấp thông tin nhằm câu view bất chấp mọi giá trị,

vẫn có nhiều kênh thông tin hữu ích và có sự lựa chọn kỹ càng” PVS 04 .

Những thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay phần lớn đang

đáp ứng cho nhu cầu giải trí và sự tò mò. Tuy nhiên, bạn đọc cần có sự lựa

chọn thông minh để tiếp nhận, vì nếu không phải là bạn đọc thông minh độc

176

giả có thể dễ dàng “mắc mưu” các chiến dịch truyền thông của nghệ sĩ các

công ty giải trí, thậm chí là các trang báo điện tử.

Bàn về nhận thức và khả năng tiếp nhận thông tin của công chúng, nhà

văn B i Việt Thắng cũng đưa ra giải pháp: “Không thể có một công chúng cứ

tự nhiên nhi nhiên. Xã hội văn minh, dân trí cao, căn cốt văn hóa bền vững

(như các nước phát triển) thì công chúng cũng luôn được giáo dục đến nơi

đến chốn” PVS 08 .

4.2.3.2 Nâng cao văn hóa ứng xử của công chúng

Công chúng của báo chí luôn có khả năng tự lựa chọn và trong chừng

mực nào đó vượt thoát khỏi cái bẫy thông tin của truyền thông. Ở họ có sự

tiếp nhận chủ động và độc lập, mà ở đây được hiểu là năng lực xã hội của con

người để đưa ra những nhận định riêng biệt. Những ý kiến phản hồi của công

chúng là một trong những tiêu chí để cả NSBD và truyền thông dựa vào, từ đó

có những điều chỉnh cần thiết và hợp lý.

Chính bởi vai trò to lớn này của công chúng mà văn hóa ứng xử trước

mỗi thông tin họ tiếp nhận cần phải được kiểm soát và nâng cao. Nguyên thứ

trưởng Đỗ Quý Doãn nhấn mạnh: “Tôi nghĩ công chúng cũng phải tỉnh táo,

nâng cao trình độ, phải độ lượng để góp phần tạo ra môi trường văn hóa lành

mạnh, đừng chỉ vì một vấn đề nhỏ mà lên đồng, làm to nó lên. Phải tỏ ra mình

là một người có văn hóa hưởng thụ văn hóa, tiếp nhận văn hóa.” PVS 02 .

Trong văn hóa truyền thống Việt Nam luôn duy trì một “cơ chế tin

đồn”. Những bình luận, chia sẻ link... chính là một cách “hiện đại hóa” cơ chế

này. Rất khó để quản lý tin đồn nhưng nên chăng các cơ quan quản lý nhà

nước nên đề ra các quy tắc ứng xử bảo vệ danh dự và nhân phẩm của cá nhân

trên truyền thông và cũng nên chăng các tòa soạn báo cần thiết lập bộ lọc

“bình luận” một cách chặt chẽ tránh để những bình luận xúc phạm người

nghệ sĩ được xuất hiện sau mỗi bài viết?

177

Tiểu kết chƣơng 4:

Có thể khẳng định, thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã và

đang đạt được một số hiệu quả nhất định trong việc đáp ứng nhu cầu văn hóa

giải trí của công chúng, truyền thông văn hóa Việt tới công chúng Việt Nam và

công chúng quốc tế. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế tồn tại vừa do yếu tố

chủ quan, vừa do yếu tố khách quan mang lại. Có nhiều nhân tố tác động tới

chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử như: nhiều tòa soạn,

PV, BTV do chạy đua với thời gian, giành giật công chúng mà đưa tin vội vã,

thiếu chính xác; giới NSBD VN chủ động bắt tay với tòa soạn báo để cung cấp

những thông tin gây sốc; sự chi phối của doanh nghiệp; nhu cầu của công

chúng đối với những nội dung thông tin này vẫn còn cao; trong khi đó chưa có

một cơ chế, chính sách quản lý chặt chẽ trong việc thông tin về giới NSBD VN

trên các trang báo điện tử. Chính bởi vậy báo điện tử đang trở thành một nơi

chứa đựng “rác” của giới NSBD VN, và những thông tin “rác” này có xu

hướng ngày càng lấn át những thông tin hữu ích khác.

Từ thực tế nghiên cứu, tác giả luận án đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử gắn liền với

báo điện tử, giới NSBD VN và công chúng: 1 Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng

và Nhà nước đối với hoạt động của báo điện tử nói chung, hoạt động thông tin

về giới NSBD VN nói riêng; 2 Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của

nhà báo và nghệ sĩ; 3 Nâng cao trình độ nhận thức, tiếp nhận thông tin của

công chúng; 4) Giáo dục nhận thức, ý thức trách nhiệm của cả nhà báo, nghệ

sĩ lẫn công chúng; 5) Nội dung và hình thức các bài viết thông tin về giới

NSBD VN;.... Từ lý luận và thực tiễn thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử, tác giả luận án cho rằng, các giải pháp này phù hợp với điều kiện ở

nước ta và hoàn toàn khả thi.

178

KẾT LUẬN

1. Từ kết quả nghiên cứu trong luận án có thể rút ra kết luận: Thông tin về

giới NSBD VN là một quá trình truyền thông nhằm thực hiện nhiệm vụ truyền

thông Văn hóa Việt Nam của báo chí Việt Nam trong lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn. Với tư cách là một phương tiện truyền thông, một sản phẩm văn hóa báo

chí Việt Nam có nhiệm vụ truyền thông VHNT Việt Nam. Trong đó báo điện tử

- loại hình báo chí hiện đại là một trong những phương tiện có khả năng thực

hiện nhiệm vụ này một cách hiệu quả nhất. Và thực tế chứng minh, loại hình báo

chí này đang thực hiện việc thông tin về giới NSBD VN nói riêng và thông tin

về VHNT Việt Nam nói chung có chất lượng và hiệu quả nhất định.

2. Kết quả khảo sát thông tin về giới NSBD VN trên 3 tờ báo điện tử

VNN, Ngoisao, Zingnews cho thấy một số dấu hiệu tích cực: Báo điện tử đã

phát huy ưu điểm của loại hình báo chí đa phương tiện, tận dụng lợi thế của

nền tảng internet để thực hiện hoạt động truyền thông VHNT Việt Nam nói

chung và thông tin về giới NSBD VN nói riêng một cách kịp thời. Nội dung,

hình thức thể hiện thông tin phong phú và đa dạng. Thông qua quá trình

truyền thông này báo điện tử đã thu hút được một lượng công chúng đông

đảo tham gia đọc và tìm hiểu thông tin về giới NSBD cũng như các hoạt động

VHNT của Việt Nam. Báo điện tử cũng là diễn đàn để công chúng truy cập

trao đổi, thể hiện thái độ quan điểm trước sự thay đổi của VHNT Việt Nam

trước sự du nhập của các làn sóng văn hóa ngoại lai.

3. Phân tích các quá trình thông tin về giới NSBD trong phạm vi khảo

sát cho thấy: công chúng có nhu cầu lớn về thông tin văn hóa giải trí đặc biệt

là thông tin về giới NSBD. Trong khi đó báo điện tử ngày càng tham gia vào

hoạt động truyền thông VHNT Việt Nam nói chung và thông tin về giới

NSBD VN nói riêng. Các tác phẩm báo chí ngày càng nhiều về ngôn ngữ loại

hình và được thể hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Báo điện tử ngày càng

179

thể hiện rõ vai trò và khẳng định được tầm quan trọng của mình trong việc kết

nối NSBD VN với công chúng, làm cầu nối truyền đi những thông điệp và giá

trị VHNT cả truyền thống lẫn hiện đại. Trên thực tế báo điện tử là lựa chọn

số 1 của giới NSBD VN khi muốn tiếp cận công chúng của mình. Công chúng

cũng đánh giá cao về khả năng truyền tải thông tin hấp dẫn, nhanh nhạy, kịp

thời về giới NSBD VN của báo điện tử. Khảo sát cho thấy một bộ phận lớn

công chúng tiếp nhận thông tin về NSBD VN thông qua báo điện tử, lựa chọn

báo điện tử là phương tiện truyền thông hữu hiệu nhất thỏa mãn cho nhu cầu

thông tin văn hóa giải trí của mình.

4. Khảo sát cũng cho thấy, quá trình truyền thông về giới NSBD trên

báo điện tử thể hiện có nhiều ưu thế về loại hình báo chí. Trong đó khả năng

truyền thông online, ứng dụng công nghệ web 2.0 với khả năng tương tác tức

thì gói thông tin đa phương tiện, liên kết đa chiều, thông tin cập nhật phi định

kì…trên môi trường internet được phát huy một cách tích cực. Thông qua báo

điện tử, công chúng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc tìm hiểu về

giới NSBD VN, về những hoạt động nghệ thuật cũng như những câu chuyện

bên ngoài ánh đèn sân khấu của họ xóa nhòa đi khoảng cách phi thực giữa

nghệ sĩ và công chúng mà trước khi có báo chí đặc biệt là báo điện tử) không

thể làm được. Báo điện tử cũng chính là nhân tố quan trọng trong việc tiếp

nhận và cập nhật những làn sóng văn hóa ngoại lai, những loại hình nghệ thuật

biểu diễn mới, là cầu nối để VHNT Việt Nam hội nhập với VHNT thế giới,

hình thành và phát triển nền công nghiệp giải trí thúc đẩy sự thương mại hóa,

phát triển thương hiệu cá nhân cho NSBD VN. Các kết luận 1, 2, 3 và 4 chứng

minh giả thuyết nghiên cứu thứ 1: “Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện

tử ngày càng nhiều và là nguồn thông tin được công chúng quan tâm trong đời

sống xã hội Việt Nam hiện đại; Đặc trưng loại hình báo điện tử đã tự tạo lập

ưu thế vượt trội trong việc thông tin về giới NSBD VN” được xác nhận.

180

5. Mặc dù thông tin về giới NSBD VN đã có được những thành quả

bước đầu trên báo điện tử, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Việt Nam

có những đặc trưng văn hóa riêng biệt mà khi những làn sóng văn hóa ngoại

lai du nhập có thể dẫn đến những xung đột, những lỗi văn hóa những bi kịch

của sự phát triển nghệ thuật, nhất là nghệ thuật biểu diễn. Căn tính nông dân

chính là một rào cản lớn trong việc tiếp nhận những tinh hoa và loại bỏ những

tạp phế trong quá trình giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây. Bên cạnh

đó, khi hệ giá trị văn hóa truyền thống không còn phù hợp với xã hội hiện đại

thì cả báo điện tử NSBD VN và công chúng đều chưa xác định được những

chân giá trị mới để dựa vào làm kim chỉ nam cho cách sống, cách ứng xử, làm

việc… Các yếu tố này đều theo đuổi những xu hướng, phong cách sống mới

mà có thể mâu thuẫn với những chuẩn mực cũ dẫn đến những xung đột, bi

kịch. Trong khi đó các cơ quan chức năng lại chưa có những hệ thống chế tài

cụ thể đủ tính răn đe cho hoạt động báo chí nói chung và cho hoạt động thông

tin về giới NSBD trên báo điện tử nói riêng. Chính lý do này khiến thông tin

về giới NSBD VN trên báo điện tử thời gian qua xuất hiện rất nhiều những

“thảm họa” những “rác” văn hóa các tòa soạn chỉ chăm chăm vào việc chạy

theo thị hiếu bạn đọc, giật gân câu khách mà xem nhẹ đi nhiệm vụ định hướng

tư tưởng, truyền thông văn hóa và tìm chân giá trị mới cho văn hóa Việt của

mình. Chất lượng thông tin chủ yếu trông chờ vào ý thức tự giác, trách nhiệm

xã hội của báo điện tử, của giới NSBD VN và cộng đồng bạn đọc chứ không

có một tiêu chí hay hành lang pháp lí quy định rõ ràng. Điều này cho phép kết

luận rằng, giả thuyết nghiên cứu thứ 2: “Thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử đã phần nào thực hiện được nhiệm vụ truyền thông văn hóa, tuy nhiên

quá trình thông tin nảy sinh những phi giá trị gây ảnh hưởng tiêu cực cho văn

hóa Việt” là chính xác.

181

6. Kết quả khảo sát cho thấy: 1) Do áp lực của nền kinh tế thị trường,

các tòa soạn báo phải đối diện với việc tự chủ tài chính nên phải thương mại

hóa, phải tìm mọi cách để có được nguồn thu từ quảng cáo và PR. Chính bởi

áp lực này mà nhiều tòa soạn báo, nhiều nhà báo bất chấp tất cả, bỏ qua cả

đạo đức của người làm báo, bẻ cong ngòi bút để chạy theo khai thác và sản

xuất những tin tức “lá cải” những chuyện hậu trường đời tư, phát ngôn gây

sốc của NSBD VN để thu hút độc giả. Báo chí sẵn sàng móc nối với NSBD

VN, chịu sự chi phối của NSBD VN và doanh nghiệp, chấp nhận việc đánh

mất vai trò định hướng thông tin của mình để đổi lấy doanh thu. 2) Bởi áp lực

của nền công nghiệp giải trí, không ít NSBD VN thương mại hóa bản thân trở

thành “món hàng” có giá trị và giá trị sử dụng trên thị trường. Đối với những

nghệ sĩ này báo điện tử là công cụ quan trọng để đánh bóng tên tuổi và gây

dựng sự nổi tiếng với công chúng, thậm chí sẵn sàng trở thành “con mồi” để

báo chí khai thác những chuyện phản cảm trong đời sống của mình qua đó

tạo ra sự chú ý với công chúng, thu về những hợp đồng biểu diễn đại diện

nhãn hàng, hợp đồng quảng cáo… có giá trị. NSBD VN hiện đại chú mục vào

sự nổi tiếng trên báo chí hơn là tài năng nghệ thuật đích thực. Bên cạnh đó có

sự liên kết thương mại giữa Doanh nghiệp - giới NSBD VN và Báo điện tử

trong việc thông tin về giới NSBD VN, và thực chất đó là việc “quảng cáo trá

hình” mang lại lợi ích cho cả ba bên. Bởi sự liên kết thương mại này báo điện

tử đã không còn giữ được vai trò chủ đạo định hướng thông tin của mình,

thông tin về giới NSBD VN cũng không còn đảm bảo tính khách quan, chân

thực và giữ được những đặc điểm cần thiết của thông tin báo chí. 3) Công

chúng của báo điện tử phần lớn là những người có khả năng sử dụng các ứng

dụng công nghệ hiện đại, có khả năng tiếp nhận nhanh sự du nhập của những

làn sóng văn hóa ngoại lai. Mặc dù vậy năng lực nhận thức và trình độ

thưởng thức nghệ thuật của họ có nhiều giới hạn, chưa tự tạo cho mình được

182

một “màng lọc” văn hóa chắc chắn kiên định. Công chúng của báo điện tử

thường hay thay đổi, dễ bị chi phối, thậm chí dễ phát cuồng bởi những thị

hiếu của đám đông. Điều này tạo ra những ảnh hưởng lớn tới cả NSBD lẫn

báo chí. Những phân tích này đã khẳng định giả thuyết nghiên cứu thứ 3 là

chính xác khi cho rằng: “Áp lực kinh tế thị trường, hiện tượng thương mại hóa

báo chí khiến báo điện tử mất dần vai trò định hướng là một nguyên nhân

quan trọng dẫn tới những phi giá trị cho văn hóa Việt trong việc thông tin về

giới NSBD VN”.

7. Mặc dù quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử trong

thời gian qua còn nhiều hạn chế nhưng khi thực hiện hoạt động này báo điện

tử đã chủ động thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. Nếu không có

hoạt động thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử, có thể công chúng sẽ

mất đi những cơ hội để đọc những thông tin thỏa mãn nhu cầu giải trí của

mình để tiếp cận và hiểu được những loại hình nghệ thuật biểu diễn mới để

nắm bắt được thực trạng phát triển của VHNT Việt Nam trong hội nhập với

VHNT thế giới… Bên cạnh đó nhiều thông tin về giới NSBD VN trên báo

điện tử vẫn là nguồn thông tin tham khảo hữu ích cho công chúng đặc biệt là

cho các nhà nghiên cứu về VHNT Việt Nam.

8. Thực tế cho thấy các báo điện tử ngày càng coi trọng vai trò của

việc thông tin về giới NSBD VN xác định đây là lĩnh vực thông tin quan

trọng để góp phần gia tăng uy tín và thu hút công chúng. Không ít trang báo

hiện nay đã tập trung đầu tư hơn vào việc đổi mới quá trình sản xuất tin bài về

giới NSBD VN ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức. Các trang như

Zingnews VNN… đều nỗ lực mang tới cho công chúng nhiều hơn những bài

viết chất lượng, mang tính chuyên môn sâu, phân tích mổ xẻ vấn đề thấu đáo

đề cập tới những vấn đề nóng bỏng trong lĩnh vực VHNT… Tất nhiên, tỉ lệ

những bài viết chuyên sâu có tính định hướng như vậy vẫn chiếm tỉ lệ quá

183

nhỏ trong tổng số tin bài về giới NSBD VN nhưng nó chứng minh một điều

rằng: đang có sự dịch chuyển tích cực trong xu hướng khai thác thông tin về

giới NSBD VN trên báo điện tử.

9. Thực tế quá trình thông tin về giới NSBD VN cho thấy mục tiêu của

báo điện tử là tuyên truyền những giá trị VHNT truyền thống của Việt Nam

và giới thiệu những giá trị VHNT của thế giới. Phương thức để đạt được mục

tiêu này là nâng cao nhận thức và sự quản lý của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà

nước về nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo chí Việt; nâng cao năng

lực quản lý của lãnh đạo tòa soạn báo, tiếp tục đào tạo về chuyên môn và đạo

đức cho người làm báo, nâng cao ý thức về nhiệm vụ truyền thông văn hóa

Việt cho giới NSBD VN cũng như giáo dục ý thức trình độ thưởng thức nghệ

thuật của công chúng…

10. Từ kết quả nghiên cứu của luận án cho phép kết luận rằng: chính

những thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã tạo ra diễn đàn cho

công chúng bày tỏ, thể hiện thái độ quan điểm của mình đối với những hiện

tượng VHNT trong xã hội. Đây cũng chính là một thước đo quan trọng đánh

giá chất lượng thông tin về VHNT cũng như hiệu quả những hoạt động

VHNT của Việt Nam hiện nay. Các ý kiến có thể là tích cực hoặc tiêu cực,

đồng tình hoặc phản đối…nhưng đều là dữ liệu tham khảo quan trọng cho

việc soi chiếu thực trạng phát triển của VHNT Việt Nam cũng như hoạt động

truyền thông văn hóa Việt của báo chí Việt Nam.

11. Trong điều kiện nền tảng công nghệ ngày càng phát triển văn hóa

Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với văn hóa thế giới, nhu cầu thông tin

và được thông tin của con người ngày càng cao hơn thì thông tin về giới

NSBD VN là nhu cầu tự thân của công chúng, đồng thời là điều kiện cho sự

phát triển của các tòa soạn báo điện tử. Với những thế mạnh của mình, báo

điện tử cần phát huy và thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ truyền thông văn hóa

184

Việt, từ đó góp phần thúc đẩy cho sự phát triển chung của văn hóa Việt Nam,

tìm ra những hệ giá trị văn hóa Việt Nam mới, phù hợp với xã hội hiện đại.

12. Tác giả luận án đã cố gắng thu thập tư liệu, khảo sát đo lường và

phân tích đánh giá thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn

văn hóa học, báo chí học và kinh tế học. Trong đó tác giả luận án đã tiếp cận

nghiên cứu theo hướng đi từ nghiên cứu, tổng hợp, khái quát hóa xây dựng lý

thuyết chung về văn hóa và góc nhìn văn hóa Việt, mối quan hệ giữa VHNT

Việt Nam và báo chí Việt Nam, nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo

chí Việt Nam, thông tin trên báo điện tử và thông tin về giới NSBD VN trên

báo điện tử. Từ lý thuyết đó tác giả luận án đã soi rọi vào thực tiễn hoạt động

thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử Việt Nam giai đoạn 2014-2016.

Quy sự soi chiếu lý luận vào thực tiễn, luận án đã bước đầu đánh giá chất

lượng, hiệu quả của thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn

văn hóa Việt, chỉ ra các ưu điểm và hạn chế. Đồng thời, tác giả luận án cũng

đề xuất các giải pháp cụ thể và hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng thông tin

về giới NSBD VN trên báo chí nói chung và trên báo điện tử nói riêng trong

giai đoạn văn hóa Việt Nam hội nhập với nền văn hóa toàn cầu và sự phát

triển mạnh mẽ của công nghệ internet. Vẫn còn những tranh luận, mâu thuẫn

và chưa thống nhất trong cả lý luận lẫn thực tiễn về: khái niệm đặc trưng

bản chất, nhiệm vụ, kết quả… của thông tin về giới NSBD VN trên báo chí

nói chung và báo điện tử nói riêng. Do vậy, công trình nghiên cứu: Thông

tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn

hóa Việt mới đạt được những kết quả bước đầu. Vì thế đề tài này cần được

các công trình khoa học tiếp theo nghiên cứu với những góc độ phương

pháp tiếp cận, mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn nghiên

cứu…khác nhau.

185

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ĐÃ

CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2017), Scandal và sự ảo tưởng về truyền thông

thương hiệu cá nhân, Tạp chí Người làm báo, số 397, tháng 3/2017

2. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2018), KOLs và sự sụp đổ “ngai vương” doanh

thu quảng cáo của báo điện tử Việt Nam, Tạp chí Việt Nam hội nhập, số

33, tháng 1/2018

3. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2018), Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam và sự khúc

xạ đa chiều văn hóa Việt Nam, Tạp chí Việt Nam hội nhập, số 33, tháng

1/2018

4. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2018), Thông tin về giới Vbiz trên truyền thông

đại chúng trong nền kinh tế thị trường, sách Báo chí truyền thông những

vấn đề trọng yếu Tập 1 NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Trang 253)

186

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lưu Văn An chủ biên) (2008), Truyền thông đại chúng trong hệ thống

tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển, Nxb Lý luận

chính trị

2. Đào Duy Anh 2006 Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. VHTT, Hà Nội.

3. Hoàng Anh (2001), Việc sử dụng chất liệu văn hóa trong tác phẩm báo

chí, “Ngôn ngữ và đời sống” số 7

4. Đào Tuấn Ảnh, Quan hệ văn hóa Nga-Xô viết dưới góc nhìn tiếp nhận

văn học Nga-Xô viết ở Việt Nam

5. Nguyễn Trọng Báu (1995), Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội

6. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế văn hóa xã hội,

Nxb Văn hóa thông tin

7. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, Nxb

Chính trị Quốc gia

8. Lê Thanh Bình, Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý Nhà nước và pháp

luật về báo chí, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội

9. Lê Thanh Bình (2013), Báo chí góp phần thúc đẩy văn hóa phát triển,

http://vanhien.vn/news/Bao-chi-gop-phan-thuc-day-van-hoa-phat-trien-

25245, cập nhật ngày 07/10/2013

10. Bộ môn Nhân học ĐH KHXH & NV TP. HCM Giáo trình Nhân học đại

cương

11. Nguyễn Đức Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người,

Nxb Chính trị Quốc gia

12. Vũ Minh Chi 2004 Nhân học văn hóa - con người với thiên nhiên, xã

hội và thế giới siêu nhiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

187

13. Trường Chinh Đặng Đức Siêu (1978), Sổ tay văn hóa Việt Nam, Nxb

Văn hóa Hà Nội

14. Đoàn Văn Chúc 1997 Văn hóa học, Nxb Văn hóa thông tin

15. Nguyễn Linh Có (2015), Xử lý thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo

mạng điện tử hiện nay (Khảo sát báo điện tử Vietnamnet, Vnexpress và

VTC News), Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên

truyền

16. Nguyễn Hạnh Dung B i Đức Thược (dịch từ E.Wanning) (1995), Sốc

văn hóa Mĩ, Nxb Chính trị Quốc gia

17. Thảo Duyên, Tuấn Phong (2017), Nghệ sĩ và báo chí,

http://vnca.cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Nghe-si-va-bao-

chi-446562/, 24/06/2017

18. Đức Dũng 2000 Viết báo như thế nào, Nxb Văn hóa thông tin

19. Bùi Tiến Dũng Đỗ Anh Đức, Nguyễn Sơn Minh 2003 Lý thuyết và

thực hành báo chí trực tuyến, Khoa Báo chí Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn Hà Nội.

20. Quế Dũng 2013 Bàn về văn hóa chủ nghĩa tiêu dùng trong văn hóa

đương đại, Chuyên san Đại học Phúc Đán tháng 5 2013

21. Nguyễn Văn Dững, Hữu Thọ, Nguyễn Thị Thoa, Lê Thị Thanh Xuân

(2006), Tác phẩm báo chí, Tập II, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội

22. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở Lý luận báo chí NXB Lao động

23. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2006), Truyền thông, lý thuyết và kĩ năng

cơ bản, Nxb Lý luận chính trị

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, NXB Sự thật, tr.155

25. Nguyễn Khánh Đàm 1942 Lịch trình tiến hóa sách báo Quốc ngữ

188

26. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 2013 Kỷ yếu “Văn hóa truyền

thông trong thời kỳ hội nhập”, NXB Thông tin và truyền thông

27. Hải Đăng (2011), Playboy hóa báo chí: nhu cầu &thảm họa,

thethaovanhoa.vn, 31/3/2011

28. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Báo chí những vấn đề lý luận và thực

tiễn, Tập 3 NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội

29. Phạm Huy Đức (2009), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-

2020: những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị quốc gia

30. Lê Vũ Điệp (2007), Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật

thể của Việt Nam trên báo chí, Luận văn thạc sĩ

31. Phạm Văn Đồng (2006), Về văn hóa và văn học nghệ thuật, NXB Văn học,

Hà Nội

32. Phạm Văn Đồng, Nêu cao tác dụng của văn học nghệ thuật trong sự

nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bài viết

nghiên cứu

33. Mặc Giao (2004), Một cách nhìn khác về văn hóa Việt Nam, Nxb Tin

Vui

34. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ Nam kì 1865-1930, Nxb

TP.HCM

35. Đặng Hoàng Giang (2015), Bi kịch của sự hào nhoáng,

https://tuoitre.vn/bi-kich-cua-su-hao-nhoang-777384.htm, 15/07/2015

36. Huyền Giang (dịch) từ E.B. Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn

hóa nghệ thuật, Hà Nội

37. Nguyễn Thu Giang (2011), Về việc ủy thác tính giải trí cho truyền

thông, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 4, 2011

38. Nguyễn Thu Giang (2011), Hiện tượng người nổi tiếng và chức năng xã

hội của nó”, Tạp chí Khoa học Quý 3/2011

189

39. Nguyễn Thị Trường Giang (2014), Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ

bản, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật

40. Nguyễn Thị Trường Giang (dịch) (1983), Những nguyên tắc quốc tế về

đạo đức nghề báo, CLB tư vấn các tổ chức nhà báo quốc tế và khu vực

ban hành tại Paris tháng 11/1983

41. Bích Hà (2015), Chuyện bán – mua đời tư nghệ sĩ,

www.laodong.com.vn, 5/5/2015

42. Hoàng Thị Thu Hà (2014), Vài nét về ảnh hưởng của mạng internet tới

văn hóa đại chúng, Khóa luận

43. Vũ Quang Hào (2004), Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển, Nxb Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội

44. Vũ Quang Hào 2007 Ngôn ngữ báo chí, Nxb Thông Tấn, Hà Nội

45. Nguyễn Đức Hạnh (2015), Một số vấn đề xung quanh khái niệm văn hóa

truyền thông,http://luanvanaz.com/mot-so-van-de-xung-quanh-khai-

niem-van-hoa-truyen-thong.html, cập nhật ngày 30/6/2015

46. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Giáo trình Tâm lí học báo chí, Nxb Lao động,

Hà Nội

47. Phạm Thị Hằng (2008), Nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử,

Luận văn

48. Đức Hoàng (2009), Báo chí – Nghệ sĩ: Vì sự phát triển chung của cộng

đồng, Vnmedia, 21/6/2009

49. Ngô Thị Quỳnh Hoa (2008), Vấn đề thông tin về đời tư nghệ sĩ trên báo

mạng hiện nay, Khóa luận Báo chí học

50. Nguyễn Thị Hồng (2008), Thông tin văn hóa - giải trí trên báo trực

tuyển Vnexpress, Khóa luận Báo chí học

190

51. Phạm Thị Hồng (2010), Cách thức đưa tin đa phương tiện trên báo điện

tử Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí

và Tuyên truyền

52. Hội nhà văn 1998 Nửa thế kỉ báo Văn nghệ 1948 - 1998, Nxb Hội nhà

văn

53. Đức Huy (2015), Chống “rác văn hóa” trên báo chí,

http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Suy-ngam/748968/chong-rac-van-hoa-

tren-bao-chi, cập nhật ngày 13/4/2015

54. Thanh Huyền Vương Tâm 2016 Nghệ sĩ – truyền thông và công

chúng cùng giữ gìn môi trường văn hóa, Năng lượng mới số 534

55. Thanh Huyền Vương Tâm 2017 Văn hóa ứng xử và quan hệ nghệ sĩ –

công chúng, www.petrotimes.vn, 31/5/2017

56. Đặng Thị Thu Hương 2008 Economic Renovation and Changes in

Vietnamese Journalism after 1986, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Media:

Politics, Cultures and Futures in the Asia Pacific

57. Đặng Thị Thu Hương 2010 Một số vấn đề về truyền thông đại chúng

trong thời đại Internet, in trong cuốn Báo chí những vấn đề lý luận và

thực tiễn (tập 7 Nxb ĐHQG Hà Nội

58. Đặng Thị Thu Hương 2011 Một số vấn đề về truyền thông đại chúng,

văn hóa đại chúng và văn hóa truyền thông trong kỷ nguyên kĩ thuật số, In

trong kỷ yếu khoa học tại Hội thảo “Văn hóa truyền thông trong thời kỳ

hội nhập”

59. Đặng Thị Thu Hương 2016), Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam

trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội

60. Nguyễn Thị Thu Hương 2013 Truyền hình thực tế ở Việt Nam dưới

góc nhìn văn hóa Việt, Luận văn

191

61. Đỗ Quang Hưng 2000 Lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội,

Hà Nội

62. Phan Thành Hưng 2007 Thuật ngữ báo chí – truyền thông, Nxb

ĐHQG Hà Nội, Hà Nội

63. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb

Giáo dục

64. Vũ Ký 1996 Luận cương về văn hóa Việt Nam, Trung tâm văn hóa xã

hội Việt Nam

65. Nguyễn Lai, Việt Nam những yếu tố về ngôn ngữ và văn hóa

66. Hoàng Lãm – Nguyệt Lãng (2015), Nghệ sỹ và truyền thông: chuyện

nghề vẫn vậy , antgct.com.vn, 09/7/2015

67. Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, Nxb Đại học Quốc

gia TP. HCM

68. Vũ Bội Liên (1999), Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây phương

trong ngôn ngữ văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội

69. Khổng Loan (2012), Góc tối truyền thông – Sự tò mò sẽ dẫn chúng ta đi

đâu? http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20120626/su-

to-mo-se-dan-chung-ta-di-dau/498697.html, cập nhật ngày 26/6/2012

70. Phạm Việt Long Phí Văn Tường, PGS. Nguyễn Chí Bền (1999), Xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc, Bộ Văn hóa thông tin

71. Trường Lưu 2006 Văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại, NXB

Văn hóa dân tộc

72. Hồ Chí Minh (1989), Về văn hóa nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội

73. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

74. Hồ Chí Minh (2004), Về báo chí, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

192

75. Nguyên Minh (2011), Playboy hóa báo chí?, Báo Thể thao&Văn hóa

31/3/2011

76. Mai Quỳnh Nam (1995), Dư luận xã hội - mấy vấn đề lý luận và

phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Xã hội học số 1/1995

77. Mai Quỳnh Nam (1996), Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp

chí Xã hội học số 1/1996

78. Mai Quỳnh Nam (2001), Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông

đại chúng, Tạp chí Xã hội học số 4/2001

79. Vũ Thị Ngọc Nga (2015), Báo mạng điện tử với việc đưa tin về người

nổi tiếng nhờ mạng xã hội: nghiên cứu trường hợp Lệ Rơi (Khảo sát báo

điện tử Zing.vn, Dân Việt và Tuổi trẻ online), Khóa luận tốt nghiệp ĐH

KHXH & NV

80. Đỗ Chí Nghĩa 2012 Vai trò của Báo chí trong định hướng dư luận xã

hội, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật

81. Lê Nghiêm (số tháng 11/2007), Báo điện tử - Thời cơ và thách thức, Tạp

chí Người làm báo

82. Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16-7-1998 của Ban Chấp hành Trung

ương khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến

tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

83. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 của Ban Chấp hành Trung

ương khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam

đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

84. Hữu Ngọc (2014), Lãng du trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thế giới

85. Phan Ngọc (1993), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội

86. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học

87. Phan Ngọc (2007), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên

193

88. Trương Thị Bích Ngọc (2010), Văn hóa ứng xử của các nhà báo trực

tuyến đối với thông tin văn hóa nghệ thuật (Khảo sát báo trực tuyến

Vnexpress, Vietnamnet và Vnmedia), Luận văn Thạc sĩ Báo chí học

89. Thanh Nguyên (2013), Nghệ sĩ – tư chất và tư cách,

www.vangnghequandoi, 16/10/2013

90. Lê Thị Nhã, (2010) Lao động nhà báo - Lý thuyết và kĩ năng cơ bản,

NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội

91. Nhiều tác giả (2006), Gia Định báo - tờ báo Việt ngữ đầu tiên, Nxb

ĐHQG TP.HCM

92. Nhóm PV (2015), Tạo công chúng cho nghệ thuật, www.nld.com.vn,

16/01/2015

93. Nhóm PV 2015 “Mổ xẻ” đạo đức và trách nhiệm của nhà báo,

http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20150614/mo-xe-dao-duc-trach-

nhiem-nha-bao/761394.html, 14/06/2015

94. Phác thảo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam

95. Anh Phương 2010 Nhà báo và người nổi tiếng, baophapluat.vn,

21/6/2010

96. Hoàng Hạ Lam Phương 2016 Mối quan hệ giữa báo chí và văn hóa,

www.hoanghalamphuong.wordpress.com, 29/1/2016

97. Nguyễn Quý Phương 2001 Thông tin văn hóa xã hội trên hai tờ báo

trực tuyến Vnexpress và Vasc Orient trong năm 2001, Khóa luận tốt

nghiệp

98. Nguyễn Quang (2008), Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa, Nxb

Khoa học xã hội

99. Trần Quang (2006), Xã hội học báo chí, NXB Trẻ, TP. HCM

100. Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam

194

101. Trần Thị Như Quỳnh (2014), Nghiên cứu thảm họa báo mạng trong việ

thông tin về văn hóa - nghệ thuật (khảo sát báo điện tử Vietnamnet,

Vnexpress và Dantri), Luận văn Thạc sĩ Khoa báo chí truyền thông ĐH

KHXH&VN

102. B i Hoài Sơn 2008 Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi

văn hóa xã hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội

103. Dương Xuân Sơn Đinh Văn Hường, Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận

báo chí truyền thông, Nxb. ĐHQGHN

104. Hà Văn Tấn, Về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam, Nxb ĐHQG

Hà Nội

105. Tạ Ngọc Tấn (1992, 1993, 1999), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội

106. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị Quốc gia

107. Tạ Ngọc Tấn Đinh Thị Thúy Hằng (2009), Cẩm nang đạo đức báo chí,

Bộ Thông tin và Truyền thông Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam

108. Trần Ngọc Tăng 2001 Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo

dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia

109. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam

110. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Phê bình văn học - nghệ thuật trên báo

chí, NXB ĐHQG Hà Nội

111. Nguyễn Thị Minh Thái (2015), Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền

thông, Tạp chí lý luận chính trị và truyền thông số tháng 3, 2015

112. Lê Thị Phước Thảo (2015), Hình ảnh người nổi tiếng trên báo chí và

việc hình thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Báo

chí học

195

113. Bùi Quang Thắng (2006), Tác động của những phương tiện truyền thông

mới đối với đời sống văn hóa của cư dân đô thị ở Việt Nam, Đề tài

nghiên cứu cấp Bộ - Bộ Văn hóa Thông tin

114. Nguyễn Xuân Thắng (2011), Phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn

hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa

học Xã hội Việt Nam, Viện Khoa học và Xã hội Việt Nam số 2 năm

2011.

115. Võ Minh Thần (2013), Nghệ sĩ và báo chí: bi – hài, lợi – hại

www.eva.vn, 15/6/2013

116. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục

117. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí

Minh

118. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại

và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa – văn nghệ

119. Thế giới điện ảnh (2011), Showbiz – truyền thông quá tầm thường,

http://www.baomoi.com/Showbiz-truyen-thong-qua-tam-

thuong/c/6543714.epi, cập nhật ngày 7/1/2011

120. Thể thao văn hóa 2011 loạt bài Xin đừng playboy hóa báo

chí,http://www.thethaovanhoa.vn/buixuanphai/details/c133n2011062208

4400609/playboy-hoa-bao-chi-nguy-hiem-chinh-o-su-nhap-nhem.htm,

cập nhật ngày 21/6/2011

121. Nguyễn Thị Thoa (2007), Đề cương chi tiết học phần “Nhập môn báo

mạng điện tử”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Báo chí và

Tuyên truyền

122. Hữu Thọ (2000), Công việc của người viết báo, NXB ĐHQG Hà Nội,

Hà Nội

123. Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam - Nhìn từ mẫu người văn hóa

196

124. Minh Thùy (2015), tBáo chí và quyền riêng tư của “người của công

chúng” nhipcauthegioi.hu, 7/6/2015.

125. Phan Thị Thanh Tịnh (2011), Lịch sử báo chí thế giới, NXB Chính trị -

Hành chính, Hà Nội

126. Huỳnh Văn Tòng 2000 Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb

Thành phố HCM

127. Lê Ngọc Trà (2001), Văn hóa Việt Nam - đặc trưng và cách tiếp cận,

Nxb Giáo dục

128. Phạm Ngọc Trung (2010), Những vấn đề văn hóa, báo chí - truyền

thông, Nxb Lao động, Hà Nội

129. Phạm Trung (2008), Ảnh hưởng của văn hóa truyền thông đối với mỹ

cảm của giới trẻ Việt Nam hiện nay, tham luận Hội thảo “Mỹ thuật Việt

Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” ĐH Mỹ thuật

130. Nguyễn Minh Tuấn (2015), Báo chí với việc bảo tồn và phát huy giá trị

các di sản văn hóa dân tộc, Tạp chí Lý luận chính trị

131. Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Thị Loan Anh, Văn hóa đại chúng với văn

hóa Việt Nam hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin

132. Hồ Hữu Tường (1945), Tương lai văn hóa Việt Nam, Nxb Minh Đức Hà

Nội

133. UNESCO (2002), Tuyên bố chung về tính đa dạng của văn hóa

134. Hoàng Hải Vân (2014), Báo chí, quan chức và người nổi tiếng”, Thanh

niên online (thanhnien.vn), 12/2014

135. Hoàng Vinh (1999), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa

ở nước ta Nxb Văn hóa thông tin

136. Phạm Thái Việt & Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa Việt

Nam, Nxb Văn hóa thông tin

197

137. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb

Văn hóa dân tộc

138. Trần Quốc Vượng (2003), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục

Tiếng nƣớc ngoài

139. Afanaxiep (1975), “Thông tin xã hội và định hướng xã hội”, Nxb

Matxcova

140. A.L. Kroeber & Kluckhohn (1952), A critical review of concept and

definitions, Vintage Books, A Division of Random House, New York

141. Benjamin SiuJocelyn Heng (2006), Do celebrities deserve privacy?”

www.scmp.com , 11/10/2006

142. Brenda Danet – Susan C.Herring (2007), The Multilingual Internet:

Language, Culture and Communication online, Oxford University Press

Clifford Geertz (1973), The Interpretation of Cultures, New York: Basic

Books

143. Cohen, S. and Young, J. (eds) (1973), The Manufacture of News,

London: Constable

144. Daniel Broostin (1982), The Image: A Guide to Pseudo-Events in

America, New York: Athenneum

145. Daniel J.Solove (2014), www.linkdin.com, Should Celebrities have

privacy?, 17/11/2014

146. David P.Marshall (1997), Celebrity and Power: Fame in Contemprorary

Culture

147. Deena Weinstein (1991), Heavy Metal: A Cultural Sociology, Lexington

Books.

148. Deena Weinstein (2009), Heavy Metal: The Music and Its Culture,

Perseus Books Group

198

149. Douglas Keller, Media culture

150. Don Tapscott (1999), Growing up digital: The rise of the net generation,

McGraw- Hill

151. D. Strinati (1995), An introduction to Theories of Popular Culture,

Routledge

152. E.P. Prôkhôrốp, Cơ sở lý luận báo chí

153. Erik Braday and Sterve Dimeglio (2009), How much privacy do public

figures deserve?, USA Today, 3/2009

154. F. Boas (1921), Primitive Minds

155. Ferris, K. & Harris, S., (2011), Stargazing: Celebrity, fame and social

interaction, Routledge, New York

156. F.E.X Dance (1970), The “concept” of Communication. The Journal of

Communication

157. Fiske, J (2000), Introduction to Communication Sutdies, London:

Routledge

158. Gauntlett, D (1997), Video critical: children, the Environment and

Media Power, John Libbey Media, Luton

159. Gripsrud J (2002), Understanding Media Culture, London, Oxford

University Press

160. Gunther Kress (2003), Communication and Culture, New South Wales

University Press

161. Graeme Turner (2004), Understanding Celebrity

162. Hannah Arendt, The crisis in culture

163. Heilbrun, J. & Charles M.G., (2001), The economics ò Art and culture,

Cambridge University Press

164. Jamie Berkovitz (2015), Loss of Privacy the price of fame for Celebs,

articles.sun-sentinel.com ngày 14/10/2005

199

165. J. Bryant and S.Thompson (2002), Fundamental of Media Effects, 1st ed,

New York: McGraw-Hill Higher Education

166. Jame W. Carey (2009), Communication as Culture, Routledge

167. Jean Baurdrillard (2010), Simulacra and Simulation, The University of

Michigan Press

168. Jostenim Gripsrud (2002), Understanding Media Culture, Published

house Arnold, London

169. John Hartley (2004), Communication, cultural and media studies: The

key concepts, Routledge

170. John Storey (2010), Cultural theory and popular culture, and

introduction, Pearson Education

171. J. Wilson & S.L.R Wilson (1998), Mass media, Mass Culture, McGraw-

Hill, Inc

172. Kellner, Douglas (1995), Media Culture (Culture Studies; Identity and

politics; Between the modern and the postmodern), First Published

173. K.Tuner (1984), Mass Media and Popular Culture, Chicago: Science

Research

174. MacDonald, A theory of mas culture

175. Merrian-Webster Dictionary (2014)

176. Milton Rokeach (1973), The Nature of Human values, Macmillan

Publishers London

177. M.J Herkovits (1967), Les bases de I’anthropologie culturelle

178. M. McLuhan (1964), Understanding media: The extensions of Man, 1st

ed.New York: McGraw-Hill

179. Nathan Farrrell, Celebrity Journalism: navigating the Stars

180. Paula M.Poindexter Maxwell E.Mc Combs (2001), Research in Mass

Communication: A Practical Guide, Bedfford/ St.Martin, Boston

200

181. Philip Kotler (2017), Marketing 4.0 – moving from traditional to digital

182. Published house Arnold, London (2002), Jostenim Gripsrud

Understanding Media Culture, (Hiểu biết về văn hóa truyền thông).

183. Robin Barnes (2010), Outrageous Invasions: Celebrities’s Private Lives,

Media, and the Law, Oxford University Press

184. Roy Shuker (2001), Understanding popular culture, Routledge

185. Roger D.Wimmer, Joseph R. Dominick (1994), Mass Media research:

An introduction, Wadsword Publishing Company, California

186. Sara Kiesler (1997), Culture of the Internet, Lawrence Erlbaum

Associates, Mahwah, New Jersey

187. Stam, Robert (with Ella Shohat) (1994), Unthinking Eurocentrism:

Multiculturalism and the Media, Routledge

188. Stefanie Dion Jones (2010), The Price of Fame, today.uconn.edu,

20/10/2010

189. Stuart Hall (1980), Encoding/Decoding, London: Hutchinson

190. Thomas Barfield (1997), The Dictionary of Anthropoligy, Harvard

191. Williams, Raymond (1958), Culture and Society, London, Chatto and

Windus

192. Williams, Raymond (1974), Technosphere Series, London, Collins

193. White & Leslie Alvin (1949), The Science of Culture: A study of man

and civilization (Khoa học văn hóa: nghiên cứu con người và văn minh

Farrar Straus and Giroux

201

PHỤ LỤC

Nội dung

1

Trang

3

Phụ lục 1: Các bảng số liệu thực trạng thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử

7

Phụ lục 2: Các biểu đồ thực trạng thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử

18

Phụ lục 3: Phiếu phỏng vấn Anket

22

Phụ lục 4: Phiếu phỏng vấn sâu

Phụ lục 5: Tổng hợp nội dung câu hỏi – trả lời phỏng vấn sâu

202

PHỤ LỤC 1

Các bảng số liệu thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

----------------------------------------------

2

Nội dung Trang

2

Bảng 1: Mức độ quan tâm của công chúng đối với các nội dung thông tin về giới NSBD VN

2

Bảng 2: Định lượng tiếp nhận thông tin của độc giả

Bảng 3: Đánh giá của công chúng về tiêu đề và hình ảnh

trong thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử

1

Bảng 1: Mức độ quan tâm của công chúng đối với các nội dung thông tin

về giới NSBD VN

Đơn vị: Người

Nguồn: NCS tổng hợp

Bảng 2: Định lƣợng tiếp nhận thông tin của độc giả

Nguồn: NCS tổng hợp

Bảng 3: Đánh giá của công chúng về tiêu đề và hình ảnh

trong thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử

Đơn vị: Người

Nguồn: NCS tổng hợp

2

PHỤ LỤC 2

Các biểu đồ thực trạng thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử

Trang

---------------------------------------

Nội dung

Biểu đồ 1: Tỉ lệ nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử 2016

4

Biểu đồ 2: Thực trạng ghi nguồn và chú thích ảnh trên báo điện tử

4

Biểu đồ 3: Mức độ khai thác thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử

4

Biểu đồ 4: Nội dung thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

5

Biểu đồ 5: Tỉ lệ người đọc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

5

Biểu đồ 6: Đánh giá mức độ phù hợp của thông tin hậu trường đời sống

5

giới NSBD VN trên báo điện tử

Biểu đồ 7: Mức độ phù hợp với văn hóa Việt của thông tin về giới NSBD

6

VN trên báo điện tử

Biểu đồ 8: Đánh giá của công chúng về sự móc nối giữa NSBD VN với nhà

6

báo

3

Biểu đồ 1: Tỉ lệ nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử 2016

Nguồn: NCS tổng hợp

Biểu đồ 2: Thực trạng ghi nguồn và chú thích ảnh trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Biểu đồ 3: Mức độ khai thác thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

4

Biểu đồ 4: Nội dung thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Biểu đồ 5: Tỉ lệ ngƣời đọc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Biểu đồ 6: Đánh giá mức độ phù hợp của thông tin hậu trƣờng, đời sống

giới NSBD VN trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

5

Biểu đồ 7: Mức độ phù hợp với văn hóa Việt của thông tin về giới NSBD VN

trên báo điện tử

Nguồn: NCS tổng hợp

Biểu đồ 8: Đánh giá của công chúng về sự móc nối giữa NSBD VN với nhà báo

Nguồn: NCS tổng hợp

6

PHỤ LỤC 3

Nội dung phiếu phỏng vấn Anket

------------------------------

Thƣa ông/bà!

Các trang báo mạng điện tử hiện nay đăng tải rất nhiều thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam (hay còn gọi là gới showbiz Việt), và thực tế cho thấy những thông

tin này có ảnh hưởng khá lớn tới đời sống tư duy và thẩm mĩ của đông đảo công chúng.

Để có cơ sở dữ liệu tham khảo nhằm xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả

thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, giúp luồng thông tin này tạo ra những

tác động tích cực tới công chúng và xã hội, một nghiên cứu khoa học đang được

thực hiện. Tác giả công trình nghiên cứu rất mong nhận được sự giúp đỡ của ông/bà

bằng việc bớt chút thời gian trả lời phiếu điều tra này.

Tôi cam kết thông tin ông/bà cung cấp chỉ phục vụ nghiên cứu khoa học.

Trân trọng cảm ơn ông bà!

Câu 1: Ông/bà đang sống và làm việc ở khu vực nào sau đây?

o Miền Bắc

o Miền Trung

o Miền Nam

Câu 2: Tuổi của ông/bà thuộc nhóm nào dƣới đây?

o Dưới 20

o Từ 21- 30

o Từ 31-40

o Từ 41-50

o Từ 51-60

o Từ 61-70

o Trên 70

Câu 3: Giới tính của ông/bà thuộc nhóm nào dƣới đây?

o Nam

o Nữ

7

Câu 4: Trình độ học vấn (bậc học cao nhất đã xong) của ông/bà hiện ở

mức nào?

o Tiểu học

o Trung học cơ sở

o Trung học phổ thông

o Trung cấp

o Cao đẳng

o Đại học

o Trên đại học

Câu 5: Nghề nghiệp hiện tại của ông/bà thuộc nhóm nào dƣới đây?

o Nông dân

o Công nhân

o Trí thức, làm nghiên cứu khoa học

o Hoạt động nghệ thuật

o Cán bộ, công chức, viên chức

o Doanh nhân người buôn bán

o Người về hưu

Câu 6: Ông/bà có hay đọc báo trên mạng internet không?

o Không đọc

o Ít

o Bình thường

o Nhiều

o Rất nhiều

Câu7: Ông/bà đọc báo trên mạng internet bằng phƣơng tiện nào sau đây?

o Máy tính để bàn

o Máy tính xách tay

o Điện thoại di động

o Thiết bị khác

8

Câu 8: Ông/bà có quan tâm tới những thông tin về giới nghệ sĩ Việt Nam

hay không?

o Không quan tâm

o Bình thường

o Quan tâm

Câu 9: Ông/bà hay đọc thông tin về các nghệ sĩ Việt Nam (ca sĩ, diễn viên,

ngƣời mẫu…) trên báo điện tử nào nhất trong những tờ sau đây?

o Vietnamnet.vn

o Ngoisao.net

o News.zing.vn

o Thanhnien.com.vn

o Tuoitre.com.vn

Câu 10: Trong các thông tin về các nghệ sĩ Việt Nam, ông/bà quan tâm

tới loại hình thông tin nào?

1.Thông tin giới thiệu về các chƣơng trình biểu diễn văn hóa nghệ thuật,

các sản phẩm văn hóa nghệ thuật (các đêm diễn, các bài hát, bộ phim mới…),

chân dung các nghệ sĩ…?

o Không quan tâm

o Bình thường

o Quan tâm

2.Các bài phân tích, đánh giá các chƣơng trình biểu diễn, các tác phẩm

âm nhạc, truyền hình, điện ảnh, các show diễn thời trang…?

o Không quan tâm

o Bình thường

o Quan tâm

3. Thông tin về đời tƣ, tình cảm, hôn nhân, gia đình, các mối quan hệ

phức tạp… của các nghệ sĩ nổi tiếng?

o Không quan tâm

o Bình thường

o Quan tâm

9

4. Thông tin về thời trang của các nghệ sĩ nổi tiếng?

o Không quan tâm

o Bình thường

o Quan tâm

5. Thông tin về các vụ scandal (các vụ tai tiếng: ngoại tình, mặc hở, đạo

nhạc, đạo phim, đạo thiết kế, đánh ghen…) của các nghệ sĩ nổi tiếng?

o Không quan tâm

o Bình thường

o Quan tâm

6. Thông tin về các phát ngôn táo bạo, gây sốc của các nghệ sĩ nổi tiếng

trên báo chí?

o Không quan tâm

o Bình thường

o Quan tâm

Câu 11: Xin Ông/bà đánh giá hàm lƣợng các thông tin về giới nghệ sĩ

Việt Nam trên báo điện tử hiện nay?

1. Thông tin giới thiệu về các chƣơng trình biểu diễn văn hóa nghệ

thuật, các sản phẩm văn hóa nghệ thuật, chân dung các nghệ sĩ…

o Quá ít

o Ít

o Bình thường

o Nhiều

o Quá nhiều

2. Các bài phân tích, đánh giá các chƣơng trình biểu diễn, các tác phẩm

âm nhạc, truyền hình, điện ảnh, các show diễn thời trang…

o Quá ít

o Ít

o Bình thường

o Nhiều

10

o Rất nhiều

3. Thông tin về đời tƣ, tình cảm, hôn nhân, gia đình, các mối quan hệ

phức tạp… của các nghệ sĩ

o Quá ít

o Ít

o Bình thường

o Nhiều

o Quá nhiều

4. Thông tin về thời trang của các nghệ sĩ

o Quá ít

o Ít

o Bình thường

o Nhiều

o Quá nhiều

5. Thông tin về các vụ scandal (các vụ tai tiếng: ngoại tình, mặc hở, đạo

nhạc, đạo phim, đạo thiết kế, đánh ghen…) của các nghệ sĩ

o Quá ít

o Ít

o Bình thường

o Nhiều

o Quá nhiều

6. Thông tin về các phát ngôn táo bạo, gây sốc của các nghệ sĩ

o Quá ít

o Ít

o Bình thường

o Nhiều

o Quá nhiều

Câu 12: Xin Ông/bà đánh giá mức độ phù hợp của thông tin về các nghệ

sĩ Việt Nam trên báo điện tử hiện nay?

11

1. Cách đặt tít

o Không phù hợp

o Bình thường

o Phù hợp

2. Nội dung

o Không phù hợp

o Bình thường

o Phù hợp

3. Hình ảnh

o Không phù hợp

o Bình thường

o Phù hợp

Câu 13. Quan điểm của ông/bà về việc báo chí phơi bày những câu

chuyện về đời tƣ (yêu đƣơng, ngoại tình), phát ngôn gây sốc, ăn mặc hở hang,

các vụ tai tiếng…của các nghệ sĩ?

o Không phù hợp

o Bình thường

o Phù hợp

Câu 14: Xin Ông/bà cho biết cảm nhận của mình sau khi đọc những

thông tin trên báo chí về các nhóm nghệ sĩ nổi tiếng sau:

1. Nghệ sĩ dƣơng cầm Đặng Thái Sơn

o Phản cảm

o Bình thường

o Thiện cảm

2. Nghệ sĩ Khánh Ly

o Phản cảm

o Bình thường

o Thiện cảm

3. Ca sĩ Tùng Dƣơng

12

o Phản cảm

o Bình thường

o Thiện cảm

4. Ca sĩ Thanh Lam

o Phản cảm

o Bình thường

o Thiện cảm

5. Ca sĩ, diễn viên Hồ Ngọc Hà

o Phản cảm

o Bình thường

o Thiện cảm

6. Diễn viên, ngƣời mẫu Ngọc Trinh

o Phản cảm

o Bình thường

o Thiện cảm

7. Ca sĩ Sơn Tùng MTP

o Phản cảm

o Bình thường

o Thiện cảm

Câu15: Xin ông/bà cho biết lý do đọc những thông tin về các nghệ sĩ

nổi tiếng?

1. Nghệ sĩ dƣơng cầm Đặng Thái Sơn

o Tò mò, hiếu kỳ

o Giải trí

o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật

o Nghiên cứu

o Là “fan” hâm mộ

o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó

o Vì không có thông tin nào khác để đọc

13

2. Nghệ sĩ Khánh Ly

o Tò mò, hiếu kỳ

o Giải trí

o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật

o Nghiên cứu

o Là “fan” hâm mộ

o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó

o Vì không có thông tin nào khác để đọc

3. Ca sĩ Tùng Dƣơng

o Tò mò, hiếu kỳ

o Giải trí

o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật

o Nghiên cứu

o Là “fan” hâm mộ

o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó

o Vì không có thông tin nào khác để đọc

4. Ca sĩ Thanh Lam

o Tò mò, hiếu kỳ

o Giải trí

o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật

o Nghiên cứu

o Là “fan” hâm mộ

o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó

o Vì không có thông tin nào khác để đọc

5. Ca sĩ, diễn viên Hồ Ngọc Hà

o Tò mò, hiếu kỳ

o Giải trí

o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật

o Nghiên cứu

14

o Là “fan” hâm mộ

o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó

o Vì không có thông tin nào khác để đọc

6. Diễn viên, ngƣời mẫu Ngọc Trinh

o Tò mò, hiếu kỳ

o Giải trí

o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật

o Nghiên cứu

o Là “fan” hâm mộ

o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó

o Vì không có thông tin nào khác để đọc

7. Ca sĩ Sơn Tùng

o Tò mò, hiếu kỳ

o Giải trí

o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật

o Nghiên cứu

o Là “fan” hâm mộ

o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó

o Vì không có thông tin nào khác để đọc

Câu 16: Theo ông/bà, những thông tin về các nghệ sĩ nổi tiếng trên báo

chí tạo ra những ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới công chúng

1. Nghệ sĩ dƣơng cầm Đặng Thái Sơn

o Tiêu cực

o Bình thường

o Tích cực

2. Nghệ sĩ Khánh Ly

o Tiêu cực

o Bình thường

o Tích cực

15

3. Ca sĩ Tùng Dƣơng

o Tiêu cực

o Bình thường

o Tích cực

4. Ca sĩ Thanh Lam

o Tiêu cực

o Bình thường

o Tích cực

5. Ca sĩ, diễn viên Hồ Ngọc Hà

o Tiêu cực

o Bình thường

o Tích cực

6. Diễn viên, ngƣời mẫu Ngọc Trinh

o Tiêu cực

o Bình thường

o Tích cực

7. Ca sĩ Sơn Tùng MTP

o Tiêu cực

o Bình thường

o Tích cực

Câu 17: Theo ông/bà, bao nhiêu % thông tin thông tin về đời tƣ (yêu

đƣơng, ngoại tình), phát ngôn gây sốc, ăn mặc hở hang, các vụ tai tiếng…của

các nghệ sĩ nổi tiếng là do tự thân các nghệ sĩ nổi tiếng này muốn gây chú ý,

đánh bóng tên tuổi?

o Ít hơn 20%

o Từ 20 – 40 %

o Từ 40 – 60%

o Từ 60 – 80%

o Trên 80%

16

Câu 18:Theo ông/bà những thông tin về các nghệ sĩ Việt Nam trên các báo

điện tử hiện nay có phù hợp và đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin của ông/bà?

o Không đáp ứng được

o Đáp ứng được

o Đáp ứng tốt

Câu 19: Nếu góp ý để nâng cao chất lƣợng tin bài về các nghệ sĩ Việt

Nam, ông/bà mong muốn sẽ tăng hàm lƣợng thông tin lĩnh vực nào?

o Giới thiệu các show diễn, các sản phẩm nghệ thuật, chân dung nghệ sĩ

o Giới thiệu các hoạt động nghệ thuật

o Phân tích đánh giá các sản phẩm nghệ thuật

o Đời tư của họ gia đình các mối quan hệ tình yêu…

o Thời trang của họ

o Scandal (những vụ tai tiếng) của họ

o Những phát ngôn đặc biệt gây “shock” của họ

Câu 20: Ông/bà có thích đọc các ý kiến độc giả ở cuối bài báo trên mạng

internet không?

o Không thích

o Bình thường

o Thích

Câu 21: Ông/bà có hay viết ý kiến của mình vào phần ý kiến độc giả ở

cuối bài báo trên mạng internet không?

o Chưa bao giờ viết

o Thỉnh thoảng viết

o Thường xuyên viết

Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của quý báu của ông/bà!

17

PHỤ LỤC 4

Phiếu phỏng vấn sâu

-------------------------

Kính thƣa Ông/ Bà!

Các trang báo mạng điện tử hiện nay đăng tải rất nhiều thông tin về giới nghệ

sĩ biểu diễn Việt Nam (hay còn gọi là gới showbiz Việt), và thực tế cho thấy những

thông tin này có ảnh hưởng khá lớn tới đời sống tư duy và thẩm mĩ của đông đảo

công chúng.

Để có cơ sở dữ liệu tham khảo nhằm xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả

thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, giúp luồng thông tin này tạo ra những

tác động tích cực tới công chúng và xã hội tôi đang thực hiện một công trình

nghiên cứu ở cấp độ Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Báo chí. Tôi trân trọng kính

mong Ông/Bà tạo điều kiện giúp đỡ bằng việc trả lời bộ câu hỏi phỏng vấn sâu, với

nội dung các câu hỏi như sau:

1. Theo ông/bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có vai trò như

thế nào trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng?

Trả lời:…

2.Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, theo ông/bà loại hình báo chí nào có thể giúp những

thông tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?

Trả lời:…

3. Theo ông/bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên

các báo điện tử thường tập trung vào những vấn đề gì?

Trả lời:…

4. Theo ông/bà, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức

hút lớn đối với công chúng như vậy?

Trả lời:…

5. Theo ông/bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam này có

hiệu quả không? (xét ở cả ba khía cạnh nhà báo, nghệ sĩ biểu diễn và công chúng)

18

Trả lời:…

6. Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút độc

giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư các mối quan hệ tình

cảm... Theo ông/bà, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có phải là

những nội dung mang tính “lá cải” “thảm họa” vi phạm đạo đức báo chí không? Vì

sao?

Trả lời:…

7. Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

nhiều khi xuất phát từ nhu cầu chủ quan từ giới này và nhà báo cũng như công chúng chỉ

như con rối trong sự điều khiển của người nổi tiếng. Ông/bà có nhận xét gì?

Trả lời:…

8. Theo ông bà có đúng là công chúng thích và tò mò những thông tin hậu

trường, bên lề ăn mặc phát ngôn đời tư scandal... của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam hơn là những thông tin về hoạt động nghệ thuật của họ?

Trả lời:…

9. Theo ông/bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được đăng tải trên các

trang báo hiện nay có bị ảnh hưởng bởi trình độ dân trí của công chúng không?

Trả lời: …

10. Nếu chia trình độ dân trí của công chúng thành 3 cấp độ: cao, thấp, trung

bình, theo ông/bà, phần lớn công chúng quan tâm tới thông tin về giới nghệ sĩ biểu

diễn thuộc cấp độ nào?

Trả lời: …

11. Ông/bà có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các báo khác?

Trả lời:…

12. Theo ông/bà, nhà báo nên xử lý như thế nào khi tiếp nhận một thông tin

về giới nghệ sĩ biểu diễn, nhất là những thông tin dễ gây “sốc” dễ có khả năng thu

hút lượng lớn công chúng, có ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm của người nghệ sĩ?

Trả lời:…

19

13. Nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được cập nhật từ

facebook cá nhân hoặc mạng xã hội. Ông/Bà có nhận xét gì về thực trạng này?

Trả lời: …

14. Theo ông/bà, giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay có phải là một sản

phẩm của giao lưu văn hóa không? Giao lưu văn hóa có ảnh hưởng như thế nào tới

hoạt động thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên các trang báo hiện nay?

Trả lời: …

15. Theo ông/bà, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn tích cực hơn và văn hóa hơn?

Trả lời: …

16.Vai trò của các chủ thể (nhà báo, nghệ sĩ công chúng như thế nào trong

quá trình tăng cường chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam theo

quan điểm của ông/bà?

Trả lời: …

Tôi cam kết thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ nghiên cứu khoa học.

Trân trọng cảm ơn Ông Bà!

20

Phục vụ đề tài luận án: “Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện

tử từ góc nhìn văn hóa Việt”

Người thực hiện: Hoàng Ngọc Vinh Hạnh

Đối tượng hỏi:

DANH SÁCH CÁC NHÂN VẬT PHỎNG VẤN SÂU

Nhà nghiên cứu báo chí, Nhà quản lý báo chí, Nhà

báo, Nghệ sĩ biểu diễn và chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác

Thời gian:

Năm 2016

Phương pháp:

Hỏi trực tiếp, ghi âm cuộc phỏng vấn

STT

Họ và tên

Cơ quan công tác

Chức vụ

1 ThS. Nguyễn Quang Dũng Đại học Kinh tế Quốc dân

Trưởng Bộ môn

2 Đỗ Quý Doãn

Bộ Thông tin & Truyền thông Nguyên Thứ trưởng

3 Phạm Thị Phong Điệp

Báo Nhân dân

Trưởng Ban

4 Phạm Thu Hà

Tạp chí Đẹp

Tổng biên tập

5 Trần Mạnh Khang

Tự do

Diễn viên, MC

6 Đinh Ngọc

Báo Lao động

Trưởng ban

7 Hoàng Nhật Mai

Tạp chí Đẹp online

Hoa hậu biển, Nguyên

Thư kí tòa soạn

8 Bùi Việt Thắng

Hội nhà văn

Nhà văn nguyên

Đại học Khoa học Xã hội và

Phó trưởng bộ môn

Nhân văn

9 Trần Hạnh Phúc

Đài truyền hình Việt Nam

MC, BTV

21

PHỤ LỤC 5

Một số kết quả trả lời phỏng vấn sâu

--------------------------------------

Trƣờng hợp PVS 01: Thạc sĩ Nguyễn Quang Dũng – Trƣởng Bộ môn

Truyền thông Marketing – Khoa Marketi – Đại học kinh tế quốc dân; Chuyên

gia tƣ vấn quản trị thƣơng hiệu

Theo anh, có sự giống và khác nhau như thế nào giữa việc truyền thông cho

một sản phẩm, một nhãn hàng bình thường với truyền thông cho một người nổi

tiếng như nghệ sĩ biểu diễn chẳng hạn?

ThS. NQD: Truyền thông cho một sản phẩm bình thường hay một người nổi

tiếng có sự giống nhau ở mục tiêu truyền thông đó là tạo ra sự thay đổi về nhận

thức tăng cường được thái độ cảm xúc tích cực của công chúng mà đối tượng

truyền thông hướng tới, từ đó thay đổi hành vi của công chúng.

Tuy nhiên, có những sự khác biệt lớn trong truyền thông cho một sản phẩm

hàng hóa thông thường và một ngưởi nổi tiếng mà ở đây đề cập đến là giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam.

Khi truyền thông cho một sản phẩm hàng hóa dịch vụ thông thường người ta

hay nhấn mạnh tới giá trị cốt lõi khác biệt của sản phẩm dịch vụ đó có thể mang lại

cho đối tượng khách hàng, hay còn gọi là lợi ích của sản phẩm. Chính lợi ích ấy là

một trong những nội dung chính để xây dựng thông điệp truyền thông. Còn truyền

thông cho nghệ sĩ biểu diễn là truyền thông cho thương hiệu cá nhân, ở đây phải

nhìn nhận từ hai góc độ: sử dụng cá nhân nghệ sĩ đó để thực hiện việc truyền thông

thương hiệu cho một sản phẩm dịch vụ, hay là truyền thông cho chính thương hiệu

của cá nhân nghệ sĩ đó.

Nếu doanh nghiệp sử dụng nghệ sĩ nổi tiếng để thực hiện truyền thông cho

sản phẩm dịch vụ của mình thì đây là cách để họ tạo ra sức hút và sự quan tâm của công chúng. Tuy nhiên khi lựa chọn nghệ sĩ làm hình ảnh đại diện, doanh nghiệp

cũng phải xem xét ở nhiều tiêu chí để lựa chọn. Ví dụ nghệ sĩ đó có ph hợp với tính cách đặc điểm của thương hiệu không; mối liên hệ, liên quan, sự tương đồng

giữa nghệ sĩ với nhóm công chúng mà sản phẩm hướng tới... Ví dụ những sản phẩm

hướng đến nông dân doanh nghiệp thường hay mời những nghệ sĩ hài gạo cội như

22

Xuân Hinh, Quyền Linh… – những người có mối tương đồng, mối đồng cảm đối với nông dân; những sản phẩm hướng tới giới trẻ thì Sơn T ng MTP Hồ Ngọc

Hà...sẽ là đối tượng nghệ sĩ mà doanh nghiệp mong muốn được hợp tác.

Ở góc độ chính cá nhân nghệ sĩ biểu diễn muốn thực hiện truyền thông về

bản thân mình thì mục tiêu của truyền thông lại hướng tới hai nội dung chính: 1) Phục vụ lợi ích cho chuyên môn nghề nghiệp của cá nhân nghệ sĩ; 2 Nghệ sĩ tự tạo

dựng họ trở thành một thương hiệu hấp dẫn có thể đại diện cho những thương hiệu

khác. Từ góc độ thứ nhất: khi truyền thông người nghệ sĩ phải tìm được những nội

dung thông điệp thể hiện được những lợi thế của họ. Có thể lợi thế đó đến từ tính

cách, ngoại hình phong thái tài năng…của họ. Những lợi thế này lại phải phù hợp và liên quan tới hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ. Ví dụ: một ca sĩ nổi tiếng về dòng nhạc dân gian thì ca sĩ đó phải định hình hình ảnh cá tính thông điệp muốn truyền

tải tới công chúng của mình theo phong cách và âm hưởng của dòng nhạc dân gian.

Thông điệp, hình ảnh của một ca sĩ hát nhạc dân gian có thể khác biệt hoàn toàn với

thông điệp và hình ảnh của một ca sĩ hát nhạc trẻ khi họ truyền thông về mình.

Tóm lại truyền thông thương hiệu cá nhân cho người nghệ sĩ phải được khai thác,

phải trở thành một nội dung, một thông điệp định vị rõ ràng, tạo ấn tượng riêng về

nghệ sĩ ph hợp với lĩnh vực mà nghệ sĩ đó hoạt động. Từ góc độ thứ hai (xây dựng

hình ảnh của nghệ sĩ biểu diễn để phục vụ cho thương mại, có thể đại diện cho

những thương hiệu khác): việc xây dựng hình ảnh nghệ sĩ phải xuất phát từ nhu cầu

doanh nghiệp cần họ. Lĩnh vực nghề nghiệp của nghệ sĩ có đóng góp được cho sản

phẩm dịch vụ của doanh nghiệp? Cá tính của nghệ sĩ có ph hợp với sản phẩm dịch

vụ thương hiệu mà doanh nghiệp muốn quảng bá? Bản thân doanh nghiệp khi sử

dụng bất kì một nghệ sĩ nào làm đại diện thương hiệu nào thì đều cần nghiên cứu

những góc độ đó từ nghệ sĩ biểu diễn. Chính vì thế, nghệ sĩ khi thực hiện sứ mệnh

đại diện truyền thông thương hiệu cho một sản phẩm dịch vụ thì họ phải ý thức được mình đang đại diện cho thương hiệu nào, mình cần nhấn mạnh yếu tố nào? Những yếu tố hình ảnh này có tổn hại tới hình ảnh chuyên môn cá nhân nghệ sĩ

không? Và ngược lại, chuyên môn của nghệ sĩ có đóng góp như thế nào đến việc nghệ sĩ tham gia xây dựng hình ảnh cho các thương hiệu mà họ đại diện? Tóm lại, không có sự khác biệt quá lớn giữa việc nghệ sĩ xây dựng hình ảnh thương hiệu cá nhân và xây dựng hình ảnh khi làm đại diện cho thương hiệu một sản phẩm dịch vụ

nào đó. Tức là yếu tố họ định vị nghệ sĩ đó là ai nghệ sĩ đó như thế nào, nghệ sĩ đó

23

có khác biệt gì có điểm mạnh gì, gắn bó gì... phải có mối tương quan chặt chẽ tới chuyên môn của nghệ sĩ đó với hình ảnh thương hiệu mà họ đại diện. Cho nên rất

nhiều nghệ sĩ biểu diễn nổi tiếng có thể từ chối không làm đại diện cho những thương

hiệu họ thấy nó làm tổn hại, không nâng cao hình ảnh của họ. Ngược lại có nhiều

thương hiệu không sử dụng những nghệ sĩ rất nổi tiếng mà chỉ sử dụng những nghệ sĩ vừa tầm, miễn là họ tìm được ở nghệ sĩ đó mối liên hệ tương đồng.

Nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có những “scandal” hoặc tình huống trên

truyền thông không tốt, hay nói rõ ra là tiêu cực. Theo anh, đó có phải là một cách

làm PR như nhiều người vẫn nhận xét về những tình huống này?

ThS. NQD: Việc một nghệ sĩ biểu diễn thực hiện những “scandal” những tình huống trái chiều để tạo ra sức hút, sự chú ý của công chúng tới bản thân họ, thương hiệu của họ, sản phẩm của họ… tôi nghĩ nó phụ thuộc vào mấy vấn đề: phụ

thuộc vào nhận thức của nhóm công chúng mà nghệ sĩ hướng tới; phụ thuộc vào

nhận thức của chính người nghệ sĩ về vấn đề bền vững của hình ảnh, về các hoạt

động cạnh tranh trên thị trường và những yếu tố khác.

Nhưng nếu xét về bản chất thì PR không đồng nghĩa với scandal. PR là tạo

dựng hình ảnh bền vững, thông qua những hoạt động mang tính tích cực để tạo ra

những hình ảnh đẹp, những giá trị khác biệt trong nhận thức của công chúng được

công chúng đánh giá cao. Từ cái đẹp, cái giá trị đó công chúng tôn trọng và tự bị

thu hút. PR hoàn toàn không phải là tạo ra những ấn tượng và sự hiếu kì nhưng

không bền vững từ công chúng. Scandal chỉ là scandal mà thôi, và thực tế nghệ sĩ

biểu diễn tạo dựng scandal để thu hút sự chú ý của công chúng xảy ra rất nhiều ở thị

trường Việt Nam. Có những nghệ sĩ lâu ngày không được công chúng chú ý thì tạo

ra những chuyện gây sốc trong đời tư phát ngôn hành vi ứng xử… để tạo ra sức

hút nhất thời. Tuy nhiên, họ sẽ phải trả giá bởi những scandal, những chuyện gây sốc đó sẽ tạo thành những hình ảnh xấu xí trong nhận thức của công chúng về họ. Điều này có thể gây ra những tổn hại cho nghệ sĩ về sau này khi mà họ muốn thay

đổi và hướng sang xây dựng hình ảnh tích cực.

Thực tế, ở những thị trường hiện đại văn mình khi mà công nghệ hay kinh tế đều đi trước chúng ta một bước thì những scandal, tình huống gây sốc là những điều mà người nổi tiếng cố gắng tránh xa. Họ ý thức rất rõ việc xây dựng hình ảnh của bản thân mình, họ thường chọn những cách tiếp cận công chúng tích cực thay vì

24

những sự kiện mang tính thời điểm, tiêu cực. Những hiển hiện thết sức rõ ràng trong nguyên tắc của những thị trường văn minh khi tạo dựng người nổi tiếng, hay thuê

người nổi tiếng làm đại diện cho thương hiệu là những hợp đồng ghi cực kỳ rõ

những điều khoản về mặt xây dựng và bảo vệ hình ảnh. Những hình ảnh xấu của

người nghệ sĩ mà gây ảnh hưởng tiêu cực tới hình ảnh thương hiệu sẽ bị phạt rất lớn, thậm chí là cắt hợp đồng. Cho nên suy nghĩ coi tạo dựng scandal như những

chiến lược PR để xây dựng hình ảnh cá nhân chỉ xảy ra ở những nơi mà nhận thức

của công chúng về PR chưa rõ ràng. Bản thân những ngôi sao đó cũng chưa nhận

thức được việc xây dựng hình ảnh cá nhân là như thế nào? Trong bối cảnh hiện nay

thì đáng buồn, Việt Nam vẫn là một trong những cái nôi để tạo ra scandal.

Theo anh, nghệ sĩ biểu diễn có được coi là một sản phẩm hàng hóa không?

Nếu là sản phẩm hàng hóa thì nó thể hiện ở những đặc trưng nào?

ThS. NQD: Nếu nhìn từ góc độ thị trường thì nghệ sĩ có thể coi là một sản

phẩm hàng hóa. Sản phẩm là tất cả những gì có thể đáp ứng được nhu cầu, mong

muốn của khách hàng, có thể chào bán được trên thị trường thu hút được sự mua

sắm sử dụng của khách hàng. Thế thì những nghệ sĩ mà họ có khả năng tạo ra được

thu hút trên thị trường, các doanh nghiệp thấy được sự thu hút đó như là một yếu tố

giúp họ thu hút được sự quan tâm của khách hàng thì nghệ sĩ đấy được coi là một

sản phẩm dịch vụ. Họ bán sức hút và sự ảnh hưởng của mình. Trên thực tế, ở Việt

Nam đang thực hiện điều này, pháp luật không cấm. Ví dụ như Sơn T ng đại diện

cho OPPO, Hồ Ngọc Hà đại diện cho Sunsilk Tosiba…. Nếu máy móc cho rằng

sản phẩm dịch vụ phải ở dạng hữu hình thì sẽ không đúng ở trường hợp này. Và

phải quan niệm sản phẩm là tất cả những gì đáp được nhu cầu mong muốn của khách

hàng. Khách hàng ở đây có thể là tổ chức, doanh nghiệp, những thương hiệu cần

đóng góp của nghệ sĩ cần hình ảnh, sự thu hút của nghệ sĩ. Khách hàng thứ hai là khách hàng cuối cùng (khách hàng của chính những doanh nghiệp đó họ yêu thích và bị hấp dẫn, bị ảnh hưởng bởi hình ảnh của những ngôi sao. Những hình ảnh, ảnh

hưởng của nghệ sĩ là những sản phẩm dịch vụ tham gia vào việc tạo ra giá trị cho sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này là hết sức tự nhiên ở nền kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường mặc d được công bố nhưng nó vẫn còn bất cập, vẫn còn thiếu sự minh bạch theo tiêu chí của những nước phát triển. Điều này xuất phát từ đặc trưng văn hóa tổng hợp, lối tư duy trọng tình của người Việt Nam dẫn tới một nền kinh tế thị trường nặng căn tính nông thôn như

25

vậy. Ví dụ như đã gọi là nền kinh tế thị trường tức là nền kinh tế cạnh tranh, nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết thôi nhưng trên thực tế thì ở Việt Nam có rất nhiều

lĩnh vực bản thân nhà nước vẫn có thể can thiệp, tính minh bạch chưa rõ ràng. Điều

này tạo ra sự ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực trong đó có văn hóa nghệ thuật.

Đã là sản phẩm dịch vụ thì phải có giá trị. Vậy anh có thể giải thích giá trị

của nghệ sĩ biểu diễn là gì?

ThS. NQD: Trước hết phải xem xét giá trị đối với chính nghệ sĩ tức là họ có

thể bán được, họ có thể trao đổi được điều này trở thành một yếu tố đáp ứng nhu

cầu của những nhóm khách hàng cần đến nghệ sĩ. Giá trị đó mang lại cho nghệ sĩ

danh tiếng và sự nổi tiếng, quan trọng hơn là mang tới cho họ thu nhập. Giá trị đối với doanh nghiệp đối tượng cần sự ảnh hưởng của nghệ sĩ là nghệ sĩ đóng góp không phải những giá trị hữu hình mà là yếu tố vô hình, tham gia vào xây dựng

hình ảnh cho sản phẩm thương hiệu của doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp khi

sử dụng giá trị vô hình ấy, mua giá trị vô hình ấy của người nổi tiếng thì cuối cùng

cũng nhằm mục đích là đáp ứng nhu cầu cho khách hàng cuối cùng. Phải nhớ rằng

trong kinh doanh hiện đại, khách hàng cuối cùng mua không chỉ sản phẩm vật chất

mà họ mua cả những lợi ích tinh thần. Ví dụ người ta mua điện thoại OPPO không

chỉ bởi tính năng sử dụng của chiếc điện thoại, mà còn vì hình ảnh năng động, trẻ

trung, hoạt bát của Sơn T ng Tóc Tiên – những nghệ sĩ làm đại diện thương hiệu

cho dòng sản phẩm này. Ở rất nhiều lĩnh vực kinh doanh đặc biệt là thời trang và

mỹ phẩm thì giá trị những sản phẩm mang tính hàng hóa vật chất chỉ đóng góp 10

đến 30%, còn lại là giá trị thương hiệu tinh thần. Những giá trị tinh thần đó có sự

đóng góp cực kì lớn từ người nổi tiếng. Cho nên các nhãn hàng phải trả nhiều triệu

đô cho việc thu hút người nổi tiếng làm đại diện cho thương hiệu.

Vậy là nền kinh tế thị trường đã tạo ra những ảnh hưởng, tác động không

nhỏ tới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam?

ThS. NQD: Chắc chắn là vậy!

Ở Việt Nam khi chưa bước vào nền kinh tế thị trường thì không có khái niệm người nổi tiếng. Người nổi tiếng chỉ liên quan đến góc độ chính trị, xã hội, chưa được chuyển biến thành những mua bán trao đổi giá trị hình ảnh của họ trên thị trường. Bắt đầu từ nền kinh tế thị trường, tính từ những năm 90 thì mới xuất hiện khái niệm thế nào là người nổi tiếng. Lúc ấy người nổi tiếng mới có cơ hội để

26

tham gia vào thị trường và mới chuyển giao bán được những ảnh hưởng của mình cho các doanh nghiệp trên thị trường. Cho nên ở đây câu hỏi này liên quan đến cơ

chế quản lý của từng quốc gia văn hóa của từng quốc gia.

Việt Nam cho đến nay chưa được nhiều nước thừa nhận là nền kinh tế thị

trường, cho nên giá trị, ảnh hưởng của người nổi tiếng (bao gồm nghệ sĩ biểu diễn) ở Việt Nam chưa được đánh giá một cách đúng đắn như các nước phát triển. Còn

xét về ảnh hưởng của bối cảnh nền kinh tế đối với họ thì đương nhiên là rất lớn.

Thời xưa những diễn viên gạo cội, nổi tiếng, ngôi sao thể thao...gần như không có

thu nhập gì mang tính thị trường. Thu nhập từ thị trường phải là thu nhập từ doanh

nghiệp, mà thu nhập từ doanh nghiệp phải từ chính khách hàng. Và cầu nối đó ở thời kỳ bao cấp là không có. Cho nên cơ hội không có thì sự phát triển của nghệ sĩ biểu diễn cũng rất khó khăn. Sau mở cửa, mọi thứ đã có sự biến đổi to lớn, kể cả

văn hóa nghệ thuật. Những nghệ sĩ biểu diễn nổi tiếng bắt đầu có thể có những ảnh

hưởng tạo ra những giá trị cho họ. Ví dụ, những hiện tượng như Sơn T ng tạo được

phong cách rất riêng, những bài hát của ca sĩ này ảnh hưởng rất lớn tới giới trẻ, có

phong thái thu hút được nhiều người biết đến, vì thế tạo ra những ảnh hưởng lớn tới

cộng đồng. Đấy là giá trị thương hiệu của Sơn T ng. Cho nên cát xê của Sơn T ng

cũng cao hơn các ca sĩ khác cát xê thường đi theo giá trị ảnh hưởng của nam ca sĩ.

Khi chưa có truyền thông, nghệ sĩ được công chúng biết đến bởi tài năng và

sự truyền miệng một cách bị động (tức là nghệ sĩ không chủ động truyền đi thông

điệp của mình). Báo chí xuất hiện đặc biệt là nền kinh tế thị trường xuất hiện với

những biến đổi về văn hóa đã mang tới một bước lột xác ngoạn mục trong quan

niệm về hoạt động nghệ thuật của người nghệ sĩ.

Xin cảm ơn anh!

27

Trƣờng hợp PVS 02: ông Đỗ Quý Doãn – Nguyên thứ trưởng Bộ Thông

tin và Truyền thông

Nội dung cuộc phỏng vấn:

NCS: Thưa nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn, theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn có vai trò như thế nào trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng?

Nguyên Thứ trƣởng Đỗ Quý Doãn (NTT.ĐQD): Thông tin về bất cứ giới nào trong xã hội cũng đều có những ý nghĩa nhất định tuy nhiên đối với giới nghệ sĩ biểu diễn, thông tin về họ có vai trò, vị trí và sự ảnh hưởng đặc biệt. Bởi NSBD là

người của công chúng do đó biểu hiện trong lối sống đạo đức, thẩm mĩ của họ khi

được đăng tải trên mặt báo trên các phương tiện thông tin đại chúng có sức ảnh

hưởng và lan tỏa rất lớn tác động tới những xu hướng tiếp nhận giá trị nghệ thuật,

những loại hình nghệ thuật mới, gu thẩm mĩ thậm chí ảnh hưởng tới cả đạo đức và

lối sống của công chúng.

NCS: Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, theo ông loại hình báo chí nào có thể giúp những thông

tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?

NTT.ĐQD: Trong xã hội hiện đại, theo tôi, loại hình báo chí được công

chúng quan tâm nhất, có sức lan tỏa mạnh mẽ nhất, cập nhật thông tin nhanh nhất,

và có khả năng tương tác với công chúng tốt nhất chính là báo điện tử. Đây là loại

hình báo chí có tác động lớn tới xã hội cũng là loại hình hội tụ tất cả những ưu thế

của các loại hình báo chí khác, phù hợp với xu hướng phát triển của báo chí và công

nghệ. Báo điện tử cũng là loại báo có khả năng truyền tải tốt nhất những thông tin

về giới NSBD VN tới công chúng.

NCS: Theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên

các báo điện tử thường tập trung vào những vấn đề gì?

NTT.ĐQD: Chưa có khảo sát đầy đủ, toàn diện nhưng nhờ vào việc nhiều

năm làm lãnh đạo Bộ Thông tin và truyền thông, tôi có thể khẳng định, báo chí hiện đại nói chung cũng như báo điện tử nói riêng đã nắm rất tốt các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng về văn hóa văn học và nghệ thuật, chuyển tải những nội dung này tới đông đảo công chúng, làm cầu nối giữa NSBD với công chúng. Báo chí cũng góp phần phê phán những tiêu cực phi văn hóa trong hoạt động văn

28

hóa nghệ thuật, truyền tải những tinh hoa của văn hóa nghệ thuật nhân loại du nhập vào nước ta, tiếp thu và làm cho nền văn hóa của nước ta có những bước phát triển

lớn. Trong sự hội nhập toàn diện thì văn hóa nghệ thuật cũng phải hội nhập nhưng

đồng thời báo chí cũng có nhiệm vụ phải giữ gìn, bảo tồn văn hóa nghệ thuật dân

tộc trong sự hòa nhập chung đó. Với những ưu thế riêng của mình báo điện tử càng có vai trò lớn hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ này.

Trong thời kỳ hội nhập toàn cầu tôi cho rằng, phát triển kinh tế đã khó phát

triển văn hóa lại càng khó khăn hơn. Báo điện tử cần quan tâm đến việc đổi mới

trong việc thông tin về các hoạt động nghệ thuật để phù hợp với xu hướng thị

trường, với định hướng xã hội chủ nghĩa. Làm sao vừa khuyến khích được việc du nhập những nét văn hóa mới mẻ, hiện đại văn minh của nhân loại cũng vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam; vừa truyền đi những

thông điệp nhân văn lại vừa thương mại hóa, nuôi sống được tờ báo đó là điều

không đơn giản. Bên cạnh đó Báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng phải góp

phần giúp cơ quan quản lý, hoạch định chính sách trong quá trình tìm tòi xây dựng

để có những quyết sách phát triển văn hóa ph hợp.

Hiện nay báo điện tử đang đứng trước những thách thức rất lớn. Rõ ràng để

có doanh thu giúp tờ báo phát triển thì phải có bạn đọc, có công chúng. Muốn có

bạn đọc, có công chúng thì nội dung tờ báo đó phải hấp dẫn. Điều này dẫn tới một

cuộc cạnh tranh gay gắt trong việc cung cấp thông tin lôi kéo độc giả. Các tòa soạn

báo đều phải gồng mình lên, phải đổi mới, tìm mọi cách đáp ứng nhu cầu của công

chúng. Chính trong bối cảnh này xuất hiện một số xu hướng, hiện tượng rất đáng

quan tâm đó là tình trạng đưa những thông tin mang tính giật gân câu khách đặc

biệt trong văn hóa văn học, nghệ thuật. Chỉ cần một chi tiết, một scandal về giới

NSBD cũng có thể làm cho dư luận nóng lên. Có những việc rất bình thường nhưng muốn câu view, muốn tạo ra sức hút hoặc để cạnh tranh, nhà báo sẵn sàng rút những cái tít hoặc khai thác những chi tiết ngoài lề, không thuộc bản chất của sự kiện.

Thậm chí có những tít và bài chẳng ăn nhập gì với nhau, ví dụ Hà Hồ nói “Tôi và Cường có thể ngủ c ng giường vì con” nhưng nội dung lại không liên quan gì, chỉ cốt để cho thông tin đó trở lên “nóng”. Hay việc đi vào đời tư của những người nổi tiếng, khai thác những chuyện rất thầm kín của họ, kể cả những việc vi phạm pháp luật để thu hút độc giả cũng là điều đáng báo động. Đôi khi chỉ vì cái váy của một diễn viên nào đó cũng khiến hết tờ báo này tới trang báo nọ, dành hết bài này tới bài

29

khác để đăng tải. Nhưng trong xã hội, trong giới NSBD đâu chỉ có những việc như vậy? Những thông tin sai sự thật, hóng hớt, cóp nhặt trên mạng xã hội…đều tạo ra

những ảnh hưởng lớn tới xã hội.

Sản phẩm của nghệ sĩ là tinh hoa của xã hội, dân tộc, thậm chí là tinh hoa

của nhân loại. Người chuyển tải tinh hoa tới công chúng mà trên mặt có những vết nhơ tâm hồn có những vết nhơ trong cuộc đời có những vết nhơ thì khi chuyển

tinh hoa đến công chúng thì sẽ có sự gượng ép và giảm đi giá trị. Khi giới thiệu

thông tin về nghệ sĩ biểu diễn nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung, báo chí

chưa làm tốt trong việc góp phần xây dựng nên một hành vi văn hóa một nét đẹp

văn hóa từ đó định hướng nghệ thuật và thẩm mĩ cho công chúng.

NCS: Theo ông, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức

hút lớn đối với công chúng như vậy?

NTT.ĐQD: Đó là điều dễ hiểu! Bản thân nghệ sĩ sản phẩm của nghệ sĩ một

bài hát, bộ phim đã có sức hút với công chúng. Khi báo chí tuyên truyền, giới thiệu

thì người nghệ sĩ và tác phẩm của họ lại càng có sức ảnh hưởng và lan tỏa rộng hơn

trong xã hội.

NCS: Theo ông, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam này có

hiệu quả không?

NTT.ĐQD: Rất hiệu quả đối với tòa soạn. Yếu tố tương tác là đặc thù mà

không loại hình báo chí nào có được như báo điện tử, cho nên một nghệ sĩ biểu diễn

khi xuất hiện trên mặt báo ngay lập tức có thể thu hút hàng nghìn, thậm chí hàng vài

chục nghìn lượt đọc và bình luận. Nhờ những chỉ số này báo điện tử có thể thu về

cho mình những hợp đồng quảng cáo giá trị. Bên cạnh đó cũng nhờ những ưu thế

vượt trội của báo điện tử mà người nghệ sĩ có thể tiếp cận nhanh hơn rộng hơn với

công chúng của mình; công chúng cũng có điều kiện để cập nhật những thông tin mới nhất về nghệ sĩ mà mình thần tượng.

Tuy nhiên, trong việc thông tin về giới NSBD báo điện tử như một con dao sắc, sử dụng tốt thì rất hữu hiệu, sử dụng không tốt có thể gây hại khôn lường. Ưu thế của báo điện tử cũng chính là điều kiện dẫn tới những sai xót, vi phạm, khuyết điểm đáng lưu tâm khi đăng tải thông tin về giới NSBD. Những thông tin sai lệch, giật gân không chỉ ảnh hưởng tới hình ảnh của NSBD mà còn ảnh hưởng tới cả môi trường nghệ thuật cũng như tư duy thẩm mĩ trong việc tiếp

30

nhận những giá trị nghệ thuật của công chúng. Khái quát lại thì đó chính là ảnh hưởng tới văn hóa.

Cái gì cũng cần có thời gian báo điện tử chỉ mới ra mắt khoảng 15 năm phát

triển chỉ khoảng 10 năm trở lại đây. Sự phát triển trong một thời gian ngắn như vậy

khiến hoạt động của loại hình báo chí này tại Việt Nam vẫn mang tư duy của hoạt động báo chí truyền thống, thiếu sự điều chỉnh kịp thời.

NCS: Quan điểm của ông về ranh giới giữa văn hóa và phản văn hóa trong

việc đưa tin về giới NSBD VN của báo điện tử hiện nay?

NTT.ĐQD: Khi thông tin về bất cứ vấn đề gì, ranh giới giữa tích cực và tiêu

cực là rất mong manh. Nếu người làm báo không nắm vững nguyên tắc của hoạt động báo chí, không giữ vững đạo đức nghề nghiệp thì từ tích cực sang tiêu cực, từ tốt sang xấu chỉ cách nhau trong tích tắc.

NSBD là người của công chúng, có sức ảnh hưởng tác động rất lớn tới cộng

đồng, cho nên khi thông tin về giới này phải nắm rất vững những nguyên tắc báo chí,

nguyên tắc trong hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc biệt là phải hiểu được chúng ta

muốn truyền tải thông điệp gì, giải quyết vấn đề gì công chúng được cái gì khi đưa

thông tin về giới này? Thông tin về giới NSBD có phải chỉ là thông tin thuần túy

không hay có tính định hướng giúp công chúng nâng cao nhận thức về nghệ thuật,

nâng cao trình độ thẩm mĩ? Những câu hỏi này là chìa khóa để giúp những người làm

báo xác định được nội dung khi đăng tải thông tin về nghệ sĩ biểu diễn.

NCS: Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu

hút độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan

hệ tình cảm... Theo ông, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn có phải là

những nội dung mang tính “lá cải”, “thảm họa”, vi phạm đạo đức báo chí không?

NTT.ĐQD: Tôi nghĩ vấn đề này đến từ cả hai phía: nghệ sĩ và nhà báo.

Nghệ sĩ hay bất cứ ai cũng cần một quá trình để tự hoàn thiện mình. Không

phải ai sinh ra đã lập tức có thể tròn trịa, hoàn thiện. Nghệ sĩ trong đời thường cũng tồn tại rất nhiều vấn đề trong tính cách, lối sống, hành xử... Tuy nhiên người nghệ sĩ khi đã mang lấy nghiệp vào thân thì cũng phải tu nhân tích đức, phải biết mình là người của công chúng, nhất cử nhất động đều có bao nhiêu người nhìn vào. Người bình thường ăn hay mặc thế nào cũng ít gây chú ý nhưng người nổi tiếng một hành

31

động của họ cũng khiến rất nhiều người chú ý. Nghệ sĩ phải hiểu vị trí và vai trò của mình để luôn luôn giữ mình.

Mặt khác đối với báo chí cũng nên đưa ra những việc chưa tốt, hình ảnh

chưa đẹp để giúp nghệ sĩ và nghệ thuật hoàn thiện hơn. Nhưng phải luôn chú ý là

mình đang nói đến một đối tượng dễ bị tổn thương nhất, có sức ảnh hưởng lớn nhất, được xã hội quan tâm nhiều nhất để cân nhắc câu chữ, liều lượng, hình ảnh, sự việc

cho phù hợp. Nhưng thế nào là phù hợp? Đó cũng là điều đáng lưu tâm. Có những

vấn đề không sai luật không sai quy định nhưng lại trái với đạo đức luân thường.

Bởi vậy, trong việc đăng tải bất cứ thông tin nào lương tâm đạo đức và linh cảm

của người cầm bút rất quan trọng. Làm thế nào để có sự nhạy cảm, bản lĩnh nghề nghiệp thì cần phải rèn luyện tích lũy. Nhà báo phải chuyên nghiệp, hiểu biết, phải sống, phải tắm mình trong đời sống nghệ thuật, thấu hiểu người nghệ sĩ chứ đừng

nói như một người trên cao phán xét. Khi nhà báo ở trong cuộc c ng lăn lộn, hoạt

động với nghệ sĩ c ng chịu những niềm vui nỗi buồn như nghệ sĩ thì tự họ sẽ biết

cách phản ánh một cách đầy đủ và nhân văn. Người làm báo cần đặt mình vào vị trí

của người nghệ sĩ đặt mình vào vị trí của công chúng hâm mộ họ đặt mình là

người trong cuộc thì tôi nghĩ sẽ hóa giải được mọi vấn đề. Đừng nhìn nghệ sĩ vào

đời thường của họ, bởi tất cả những tinh hoa tốt đẹp đều bộc lộ qua tác phẩm hết.

NCS: Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam nhiều khi xuất phát từ chính giới này. Ông có nhận xét gì?

NTT.ĐQD: Hiện nay có nhiều nghệ sĩ ưa tạo ra scandal để gây chú ý. Sự

gây chú ý này không đến từ những việc làm tốt mà từ những phát ngôn gây sốc,

những hành động lố lăng người ta đi xuôi thì mình đi ngược lại. Người cầm bút phải

tỉnh táo, bản lĩnh trình độ và sự nhạy cảm để phân tích những việc làm hành động,

lời nói đó có đáng giành nhiều công sức, ngôn từ, giấy mực để thông tin đăng tải trên mặt báo không? Nhà báo phải biết phân tích bản chất của vấn đề, lí giải vì sao nó xảy ra như vậy. Nếu nhà báo dễ dãi thì tôi nghĩ chỉ là một người để cho người khác dắt

mũi.

NCS: Ông có cho rằng thực trang thông tin “thảm họa” về giới NSBD VN hiện nay một phần xuất phát từ việc công chúng thích những thông tin bên lề như vậy hơn là những thông tin nghệ thuật thuần túy?

32

NTT.ĐQD: Chúng ta không trách công chúng, bởi trong nhu cầu của công chúng có nhiều cái khác nhau. Giống như một ngày của một con người cũng có

những thời khắc khác nhau. Tuy nhiên, nếu chúng ta đáp ứng đầy đủ thông tin văn

hóa nghệ thuật với hiệu quả chất lượng tốt nhất thì công chúng cũng chẳng có thời

gian để quan tâm đến những thông tin “thảm họa”. Thực tế cho thấy đôi khi những chuyện đời tư vi phạm thuần phong mĩ tục không phải do công chúng thích mà bởi

báo chí không có những thông tin hay hơn tốt hơn những vấn đề đẹp hơn chất

lượng hơn của người nghệ sĩ để cung cấp cho họ. Nhưng thậm chí, kể cả công

chúng có tò mò những thông tin “thảm họa” như vậy thì đó cũng chỉ là thời khắc nhất

định nào thôi, và báo chí không thể chạy theo sự tò mò đó phải đặt lại vấn đề là sự tò mò đó có nâng tầm định hướng, nâng tầm thẩm mĩ nhận thức, gu nghệ thuật của công chúng lên hay không? Nếu báo chí đặt ra vấn đề như vậy thì sẽ biết được liều

lượng thông tin hậu trường như thế nào là đủ, có cần chạy theo thị hiếu của đám đông

hay không? Báo chí không đơn thuần là công cụ thông tin mà còn phải góp phần định

hướng nâng cao trình độ, thẩm mĩ cho công chúng. Đây là điều quan trọng mà người

làm báo nào cũng phải chú ý. Đừng chạy theo thị hiếu và sự tò mò của công chúng.

Đừng chỉ hớt váng mà không giải quyết được vấn đề gì cho xã hội.

NSC: Quan điểm của ông về việc báo điện tử hiện nay thích giật tít giật gân

để câu khách?

NTT.ĐQD: Tôi nghĩ đặt tít là một nghệ thuật. Một bài báo sức hấp dẫn ở cái

tít rất lớn. Bởi những tít tốt người ta không cần đọc nội dung, chỉ cần đọc tít là đã có

thể hiểu và nắm được vấn đề người viết muốn chuyển tải. Tít câu khách cũng tốt

nhưng phải phù hợp với nội dung. Ở đây đáng phê phán là những tít không ăn nhập

gì với nội dung. Hiện nay có tình trạng tít không ăn nhập với nội dung là vì ở nhiều

tòa soạn, viết bài là một người đặt tít lại là một người khác. Người rút tít bởi vậy không thể cảm được nội dung sự kiện mà rút cho đúng chỉ nhằm mục tiêu rút tít cho kêu thôi. Có những bài tít nghe rất khủng nhưng đọc nội dung chẳng có gì.

Rút tít hay, tạo sự tập trung cho công chúng là rất cần nhưng phải ăn nhập, đúng nội dung, liều lượng của bài, phù hợp với sự phát triển của các tuyến sự kiện trong bài.

NCS: Ông có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các báo

khác của các tờ báo điện tử hiện nay?

33

NTT.ĐQD: Khi báo điện tử, mạng xã hội phát triển thì tình trạng cóp nhặt thông tin là khá phổ biến. Thỉnh thoảng tôi vẫn vào mạng thấy các nhà báo kêu trời

khi tin của mình bị “xào”. Tình trạng này đã được đề cập trong các thông tư nghị

định quy định của pháp luật. Việc tuân thủ các quy định này là điều rất cần thiết,

nhưng thực tế thì nhiều trang báo trang tin điện tử không nắm đầy đủ, thậm chí phớt lờ những quy định này. Cóp nhặt thông tin linh tinh thì dẫn đến sai xót là dễ

hiểu. Chưa nói tới nội dung hành động này trước mắt là sai xót về mặt pháp luật.

Có thể nói, mạng xã hội là nơi cung cấp nguồn tin nhanh nhất, lớn nhất, phong

phú nhất, ở mọi không gian, thời gian. Khác với trước đây phóng viên phải đi thực tế,

thì hiện giờ cũng có thể lấy từ mạng xã hội. Nhưng phải hiểu mạng xã hội chỉ là nơi cung cấp nguồn tin thôi cũng phải kiểm chứng, phải xác minh rồi viết và biên tập rất cẩn thận, giống như thực hiện một quy trình viết bài hoàn chỉnh. Nếu nhà báo chỉ cóp

nhặt, xào xáo lại thông tin trên mạng xã hội để đăng bài thì đó không phải là làm báo.

NCS: Theo ông, Nhà báo nên xử lý như thế nào khi tiếp cận thông tin dễ gây

sốc, gây ảnh hưởng tới nghệ sĩ nhưng lại có khả năng thu hút công chúng?

NTT.ĐQD: Khi tôi còn làm quản lý, nhiều nghệ sĩ cũng phàn nàn về sự tắc

trách của nhiều nhà báo. Nhà báo chỉ nghe thôi mà không thẩm tra. Có rất nhiều

nguồn để kiểm tra nguồn tin nhưng nhà báo không làm. Đôi khi chỉ gác chân cao

hơn một chút có hành động trái bình thường một chút, qua báo chí lập tức trở thành

một làn sóng ảnh hưởng trực tiếp tới danh dự, cuộc sống của người nghệ sĩ đó. Tôi

nghĩ nếu như có sự trao đổi, gặp gỡ, chia sẻ thì những hiện tượng tiêu cực này không

bao giờ xảy ra. Con người nói chung hay nghệ sĩ nói riêng không phải máy móc,

cũng có lúc mệt mỏi lơ đễnh, nhà báo cần đặt nghệ sĩ giống như người thân của mình

để hiểu, chia sẻ và cảm thông với họ đừng vì chạy theo thị hiếu của công chúng,

chạy theo “view” “like”…mà v i dập người khác, thậm chí đánh mất chính mình.

NCS: Ông đánh giá gì về những ảnh hưởng của giao lưu văn hóa tới thông

tin về giới nghệ sĩ biểu diễn VN trên báo điện tử hiện nay?

NTT.ĐQD: Trong quá trình hội nhập giao lưu văn hóa chúng ta bị ảnh hưởng bởi rất nhiều thứ, từ những xu hướng biểu diễn cho tới gu thẩm mĩ gu tiếp nhận… Trước đây biểu diễn sân khấu của mình không giống như bây giờ, hiền từ hơn rất nhiều ăn mặc cũng khác. Nhưng bây giờ rõ ràng đủ các loại hình, rock, pop… Đây là những sản phẩm từ ảnh hưởng của giao lưu văn hóa.

34

Dân tộc Việt Nam tiếp thu rất nhanh. Tuy nhiên, sự tiếp thu nào cũng cần có giai đoạn sàng lọc, cái gì tinh hoa phù hợp thì nó đọng lại, cái gì nó không phù hợp

sẽ bị đẩy ra. Chúng ta vẫn đang trong giai đoạn tiếp nhận và sàng lọc nên những vấn

đề như học giả Đào Duy Anh nói là “bi kịch của sự phát triển” đang xảy ra là điều

không tránh khỏi. Tôi nghĩ trong văn hóa không nên sốt ruột. Văn hóa là những gì còn lại của những cái đã mất.

NCS: Theo ông, cách đăng tải thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử

hiện nay có phù hợp với thuần phong mĩ tục của người Việt?

NTT.ĐQD: Hiện nay thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo

điện tử bộc lộ rất nhiều những khuyết điểm chung trong hội nhập cũng như văn hóa. Có những thông tin tích cực, phù hợp với văn hóa truyền thống cũng có những thông tin giật gân, câu khách, làm lệch định hướng thẩm mĩ nghệ thuật…

Trong giao lưu hội nhập văn hóa nếu nhà báo am hiểu nghệ thuật, am hiểu

văn hóa và thường xuyên sinh hoạt như đội ngũ làm văn hóa nghệ thuật thì chắc

chắn thông tin của họ sẽ không bị lai căng không bị ảnh hưởng tác động với những

yếu tố tiêu cực từ văn hóa ngoại lai. Mức độ phù hợp với thuần phong mĩ tục dân

tộc của thông tin đăng tải phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh nhà báo.

NSC: Theo ông, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ

sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn, tích cực hơn và văn hóa hơn?

NTT.ĐQD: Hoạt động báo chí rất cần thiết phải có những người làm báo về

văn hóa nghệ thuật một cách chuyên nghiệp. Họ phải được đào tạo, bồi dưỡng

những kiến thức cơ bản về lĩnh vực này.

Trong các quan điểm mà Đảng và Nhà nước đưa ra cũng đã xác định rõ mục

tiêu phương hướng, nội dung về phát triển văn hóa nghệ thuật nước nhà. Nhà báo

phải nắm vững những quan điểm này. Muốn có những thông tin văn hóa nghệ thuật hay nhà báo phải nắm được thế nào là nền văn hóa tiên tiến, thế nào là nền văn hóa

tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?...

Viết về văn hóa nghệ thuật thì phải đảm bảo được yếu tố văn hóa. Một trong những điều quan trọng là nhà báo phải hiểu rõ đối tượng lĩnh vực mà mình đang phản ánh. Phải tìm hiểu, chia sẻ đặt mình trong môi trường, bối cảnh của nhân vật,

35

sự kiện để viết ra một tác phẩm báo chí giống như người trong cuộc. Có như vậy thì thông tin mới tạo ra những tác động tích cực đối với công chúng.

Tôi vẫn nhớ một nguyên tắc quan trọng trong chỉ thị 52 của Bộ Chính trị

năm 1997 sau này các nghị quyết của Đảng về báo chí đều đề cập đến đó là: coi

trọng chất lượng văn hóa của báo chí. Thông tin, sản phẩm báo chí nếu góp phần định hướng về nhận thức, thẩm mĩ văn hóa của công chúng, hướng công chúng tới

cái chân, thiện mĩ thì chắc chắn hiệu quả thông tin của báo chí sẽ cao. Bên cạnh đó

nhà báo phải không ngừng coi trọng nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Khi có đạo đức

nghề nghiệp thì tất cả mọi vấn đề sẽ được giải quyết.

Đối với nghệ sĩ biểu diễn, phải nhận thức rõ mình là người hoạt động xã hội, là người của công chúng, có sức ảnh hưởng và lan tỏa rất lớn, chính vì vậy phải luôn luôn tự hoàn thiện chính mình. Nghệ sĩ không phải là người bình thường mà là

người chuyển tải những giá trị văn hóa những tinh hoa văn hóa không chỉ là của

riêng họ mà còn là của dân tộc, của nhân loại. Cho nên thấy được sứ mệnh của

người nghệ sĩ cực kì thiêng liêng. Trước đây bác Hồ hay các nhà lãnh đạo cũng đã

có những bài nói về nghệ sĩ rất tuyệt vời, vừa xác định sự vinh quang của người

nghệ sĩ cũng xác định được trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với xã hội, công

chúng. Khi thấy trách nhiệm thì luôn luôn mọi lúc mọi nơi thể hiện được trách

nhiệm đó. Khi thấy được trách nhiệm thì không ngừng phải hoàn thiện mình, về

chuyên môn nghiệp vụ cũng như mọi mặt nhận thức, nhận thức xã hội… Chứ nghệ

sĩ không phải chỉ có việc lên hát, diễn và phát ngôn, còn lại mọi thứ có thể buông

thả… Đạo đức người nghệ sĩ cũng cần phải được nâng cao. Tất cả các quy định đã

có người nghệ sĩ cần phải nghiêm túc chấp hành đồng thời phải tự mình nghiêm

khắc với mình hơn nữa, có trách nhiệm với chính mình hơn nữa mới có thể giải

quyết được những thảm họa truyền thông.

Đối với công chúng, ngày nay có rất nhiều kênh để công chúng tiếp nhận thông tin văn hóa nghệ thuật nhưng tôi nghĩ công chúng cũng phải tỉnh táo, nâng cao trình

độ, phải độ lượng để góp phần tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh đừng chỉ vì một vấn đề nhỏ mà lên đồng, làm to nó lên. Phải tỏ ra mình là một người có văn hóa hưởng thụ văn hóa tiếp nhận văn hóa. Tất nhiên, muốn có văn hóa thì phải bồi đắp, rèn luyện, tích lũy. Có như vậy mới tạo ra được một môi trường văn hóa lành mạnh.

Trân trọng cảm ơn ông!

36

Trƣờng hợp PVS 03: Nhà văn Phong Điệp – Trƣởng Ban Tuyên truyền

lí luận – báo Nhân dân

Nội dung:

Theo chị, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn có vai trò như thế nào trong việc

đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng?

Nhà văn Phong Điệp (NV.PĐ): Trong cuộc sống nhiều áp lực, giải trí là nhu cầu quan trọng của con người. Do đó công chúng có nhu cầu cao trong việc tiếp

nhận thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn.

Theo chị, loại hình báo chí nào có thể giúp những thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?

NV.PĐ: Tôi nghĩ báo mạng đang có lợi thế nhờ khả năng cập nhật nhanh đa phương tiện, không chỉ là tin bài mà còn cả clip, rất sống động cho người xem.

Trong khi báo giấy truyền thống kể cả là báo ngày đi chăng nữa thì nó có độ trễ,

phải mất vài tiếng thậm chí là một ngày thì thông tin mới lên được mặt báo.

Rõ ràng ưu thế của báo điện tử rất rõ ràng. Những ưu thế này đang được

phóng viên mảng văn hóa giải trí khai thác rất triệt để.

Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên các báo thường

tập trung vào những vấn đề gì theo đánh giá của chị?

NV.PĐ: Khi tôi khảo sát trên báo chí trong thời gian gần đây thì thấy lượng “view” mà độc giả quan tâm nhiều là những chuyện đời tư: tình yêu phát ngôn ăn

mặc… của nghệ sĩ biểu diễn. Những thông tin thường có lượng truy cập lớn bởi nó

đánh vào sự tò mò của công chúng. Tuy nhiên ở đây đặt ra vấn đề là thông tin về

người nghệ sĩ biểu diễn ở mức nào thì là giải trí, ở mức nào thì là xâm phạm đời tư thậm chí là vi phạm pháp luật khi những thông tin đó được tiết lộ trên báo chí? Đó là câu chuyện mà những người làm báo cần phải thận trọng.

Nếu nhìn mật độ thông tin trên báo chí hiện nay thì rõ ràng chuyện đời tư được khai thác quá nhiều. Mà thông thường theo yêu cầu của báo chí thì khi một nghệ sĩ xuất hiện thường phải kèm theo những dự án nghệ thuật, các kế hoạch hoạt động nghệ thuật…của họ. Đáng nhẽ vấn đề chuyên môn của nghệ sĩ cần phải được báo chí quan tâm thay vì khai thác quá nhiều chuyện đời tư hậu trường như hiện

nay. Chuyện ăn mặc hở hang, ghen tuông, nói móc nhau trên mạng, dùng hàng hiệu… là những chuyện mà người ta nên chỉ chia sẻ trong phạm vi hẹp và cũng

37

không hẳn lúc nào những thông tin này được đăng tải trên báo chí cũng có ích cho người xem nhưng bây giờ nó đang bị lạm phát. Không thể phủ nhận, những thông

tin hậu trường, gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam cũng góp phần làm tăng

“view” nhưng qua một thời gian tăng thì “view” bắt đầu có xu hướng bão hòa và

bản thân người đọc cảm thấy mệt mỏi khi phải đối diện với quá nhiều những thông tin như thế mỗi ngày. Mở mặt báo ra có bao nhiêu thứ đáng được công chúng quan

tâm hơn thì lại không được xuất hiện với tuần suất lớn, trong khi thông tin nhảm nhí

lại phủ kín các trang báo đặc biệt là báo mạng điện tử.

Theo chị, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức hút

lớn đối với công chúng như vậy?

NV.PĐ: Vì những thông tin này đánh vào sự tò mò của công chúng. Bản thân trong mỗi chúng ta đều có sẵn sự tò mò. Khi sự tò mò được đánh thức thì

chúng ta quan tâm xem sao Việt họ thu nhập khủng thế nào ăn ở đâu chơi thế nào,

trang phục đắt tiền ra sao… Giới showbiz bao giờ cũng có hào quang ảo khi họ

thăng hoa trên sân khấu, họ được sự ngưỡng mộ của người xem. Nhưng khi rời khỏi

ánh đèn sân khấu thì họ cũng bình thường như tất cả chúng ta mà thôi. Tuy nhiên,

hào quang ảo trên sân khấu đó lại khiến công chúng có sự tò mò với họ. Tại sao

cũng là người nổi tiếng nhưng các kiến trúc sư họa sĩ thậm chí nhà văn nhà báo thì

đời tư của họ lại không được quan tâm nhiều như những nghệ sĩ diễn viên ca sĩ...?

Giới nghệ sĩ biểu diễn khi xuất hiện trên sân khấu với tần suất liên tục thì sẽ dễ dàng

thu hút sự quan tâm của công chúng, và những gì liên quan đến họ cũng dễ được

quan tâm hơn bởi vì sự tò mò, hiếu kỳ của người xem.

Chị đánh giá những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo

điện tử hiện nay có hiệu quả không?

NV.PĐ: Hiệu quả về mặt “view” thì rõ ràng là có bởi lượng truy cập của công chúng vào những trang tin điện tử có nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam thường rất cao.

Còn hiệu quả về mặt cung cấp thông tin văn hóa nghệ thuật, nâng cao thị thẩm mĩ thị hiếu và nhận thức cho công chúng thì rất thấp. Đa phần những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay mới chỉ đơn thuần là thỏa mãn sự tò mò hiếu kỳ

cho người xem còn để nói đem đến cho người xem điều gì bổ ích thì rất hạn chế. Ở

phương diện mở mang kiến thức cho độc giả thì rõ ràng không đáp ứng so với lượng truy cập thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử đạt được.

38

Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan hệ

tình cảm... Theo chị, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam vi

phạm đạo đức báo chí không? Vì sao?

NV.PĐ: Tôi nghĩ là nó vi phạm đạo đức không chỉ của báo chí, của người làm báo mà còn vi phạm cả luật pháp nữa. Nếu nghiên cứu về luật dân sự Việt Nam

thì quyền riêng tư của mỗi cá nhân đều được bảo vệ, việc sử dụng hình ảnh, thông

tin cá nhân cần phải được phép. Nhưng những điều đấy hiện nay đang bị xâm hại.

Mặc dù không nhiều nhưng đã có nghệ sĩ khi bị đưa thông tin không đúng lên mặt

báo đã khởi kiện báo chí. Điển hình như trường hợp của MC Đan Lê. Khi đưa thông tin không đúng người nghệ sĩ trước hết phải bảo vệ hình ảnh sạch của mình. Còn đối với báo chí khi đưa thông tin quá sâu về đời tư hình ảnh phản cảm của người

nổi tiếng cũng cần cân nhắc vì rất có thể phải đối mặt với pháp luật, với các án phạt.

Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

nhiều khi xuất phát từ chính giới này. Chị có nhận xét gì?

NV.PĐ: Điều đó không phải không có lý! Có những trường hợp nghệ sĩ biểu

diễn Việt Nam đồng lõa với báo chí để đưa thông tin gây sốc về họ lên mặt báo

nhằm quảng bá cho sản phẩm mới, hâm nóng tên tuổi, gây sự chú ý của độc giả. Tôi

cho rằng đó là con dao hai lưỡi với các nghệ sĩ.

Có một bộ phận nhà báo đang trở thành công cụ của giới showbiz. Nhiều

nghệ sĩ có hẳn một nhóm các nhà báo thường xuyên viết bài đăng tải trên các mặt

báo cho mình, tung lên truyền thông những thông tin nhảm nhí chỉ đơn giản để

khiến công chúng quan tâm tới mình. Tôi hiểu người nghệ sĩ một thời gian dài

không được báo chí nhắc đến thì có nguy cơ bị lãng quên. Để tránh lãng quên họ có

nhu cầu được xuất hiện trên báo chí. Nhưng xuất hiện theo cách như thế nào? Sẽ rất đáng trân trọng nếu như các nghệ sĩ xuất hiện với các dự án nghệ thuật của họ. Nhưng xuất hiện với những phát ngôn gây sốc ăn mặc phản cảm tình tay ba…xâm

hại cả quyền tự do của người khác nữa làm hình ảnh của người nghệ sĩ trở nên méo mó, bản thân những nhà báo tiếp tay cho những việc đó cũng vi phạm đạo đức trầm trọng. Rõ ràng có những nhóm nghệ sĩ – nhà báo câu kết với nhau như thế làm cho hình ảnh báo chí xấu đi trong mắt công chúng.

39

Chị có cho rằng bởi tâm lý tò mò có sẵn, công chúng hiện nay quan tâm tới những chuyện hậu trường gây sốc hơn là những dự án nghệ thuật của giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam?

NV.PĐ: Thực ra công chúng mỗi người có mối quan tâm riêng của mình.

Bản năng tò mò khiến họ thích đọc những thông tin hậu trường gây sốc của người nghệ sĩ tuy nhiên tôi cho rằng khi báo chí với quá nhiều thông tin nhảm

nhí về người nghệ sĩ sẽ khiến công chúng cảm thấy chán ngán, mệt mỏi. Điều

đấy cho thấy rằng các tòa soạn báo, nhà báo không nên vì chạy theo thị hiếu và

sự tò mò nhất thời của công chúng mà bất chấp tất cả để đưa thật nhiều thông tin

“thảm họa” lên mặt báo nhằm câu “view” nhằm duy trì vị trí thượng phong trong cuộc cạnh tranh khốc liệt về truyền thông như hiện nay. Có thể nhiều báo sẽ có lợi thế về mặt doanh thu quảng cáo thì áp dụng những chiêu trò giật tít,

tung tin thất thiệt, giật gân, gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam để câu

độc giả nhưng khi thông tin rơi vào tình trạng bão hòa, công chúng mất niềm tin

rồi thì đó lại là con dao hai lưỡi. Không phải cứ thỏa mãn sự tò mò vô lối của

công chúng mà có thể tạo dựng được thương hiệu cho tờ báo. Không có gì giúp

tờ báo phát triển bền vững hơn chính là chất lượng của những bài viết. Chất

lượng của một tờ báo là cái giúp giữ chân độc giả bền nhất, lâu nhất chứ không

phải là cái nhất thời để đáp ứng sự sốc nổi của đám đông hiếu kỳ. Nó không bền

vững. Chính những độc giả quan tâm hôm nay có thể quay lưng lại để tìm tới

những bài báo chất lượng đáp ứng nhu cầu chân chính của họ.

Tôi cũng cho rằng, những nghệ sĩ tồn tại được lâu dài trong lòng công chúng

là những nghệ sĩ sạch, xuất hiện đàng hoàng trên báo chí với những dự án nghệ

thuật, những chia sẻ vể nghề nghiệp, những lao động thực sự cống hiến cho nghệ

thuật của họ. Chứ còn những nghệ sĩ mà chụp ảnh nude để khoe thân thì tôi kiểm

nghiệm trong thực tế thấy đa số họ chỉ trong một thời gian rất ngắn thôi sẽ bị công chúng quên, mà nếu nhớ thì cũng nhớ với hình ảnh rất xấu, là một vết đen trong đánh giá của công chúng về nghệ sĩ ấy.

Chị có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn

Việt Nam từ các báo khác và từ mạng xã hội của các trang báo điện tử hiện nay?

NV.PĐ: Tôi thấy rất buồn về cái gọi là “nhà báo salon” “nhà báo bàn phím” hiện nay. Tôi không được học về báo nhưng với hai mươi năm làm báo những nguyên tắc làm báo tôi đã được thấm. Nhà báo là phải ra với đời sống, phải tiếp cận

40

với nhân vật, phải viết, phải trực tiếp tìm hiểu sự việc… Nhưng hiện nay những quy tắc đạo đức nghề nghiệp đó đang bị vi phạm một cách nặng nề. Những nhà báo chỉ

ngồi trên mạng lướt facebook đọc tin từ các báo khác và xào sáo chế biến thành

của mình như thể họ gặp nhân vật thật sự vậy. Rất nhiều nhân vật đã phải lên tiếng:

“Họ - nhà báo - có phỏng vấn, có gặp gì tôi đâu”? Đấy là một thảm họa nghề nghiệp, làm hỏng một thế hệ nhà báo và chính tờ báo có nhà báo đó đang công tác.

Theo chị, nhà báo khi tiếp nhận thông tin gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn

Việt Nam, có thể gây sốc, thu hút độc giả nhưng lại gây ảnh hưởng tới danh dự của

người nghệ sĩ đó thì nên xử lý thế nào?

NV.PĐ: Trong mọi trường hợp nên rất sáng suốt bởi một thông tin có thể sẽ giúp cho tờ báo ấy bán cháy hàng trên thị trường nhưng cũng có thể hủy hoại cuộc đời của một con người. Điều đó cần cân nhắc. Sẽ không có một đáp án chung nào

cho mỗi tình huống. Nhưng với kinh nghiệm của người làm nghề thì tôi thấy trước

mỗi tình huống như thế hãy xử lý bằng cái tâm, tấm lòng của mình đặt mình vào

hoàn cảnh của người nghệ sĩ để đừng đưa đến những hậu quả xấu cho họ. Đừng

chạy theo những cái gọi là thành tích hay lượt “view” để mang lại những sự tổn

thương cho cộng đồng hay cá nhân người nào đó. Làm báo tôi nghĩ chỉ có quy tắc

chung đó thôi chứ trong thực tiễn nó phong phú vô cùng, không có một công thức,

đáp án nào hết. Tự mỗi người phải tìm ra cách thức xử lý riêng cho mình.

Theo chị, trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam thì báo điện

tử đã làm được gì và chưa làm được gì?

NV.PĐ: Mang tới cho công chúng rất nhiều thông tin, rất nhanh, rất kịp

thời.... đó là cái mà báo chí làm được.

Nhưng tỉ lệ những bài nhảm nhí đang có chiều hướng gia tăng đó là cái

không được của báo điện tử hiện nay. Nếu mà báo chí vẫn cập nhật kịp thời hơi thở của cuộc sống và có thêm nhiều bài có chất lượng tốt thì điều đó sẽ tạo ra những ảnh hưởng rất tích cực. Người ta nói báo chí là quyền lực thứ 4 bởi những ảnh

hưởng tác động của thông tin báo chí tới đời sống xã hội. Chúng ta vẫn nói hiện nay tại sao sự vô cảm gia tăng cái ác gia tăng trong xã hội, bạo lực cũng gia tăng? Cần đặt lại ngay cho báo chí câu hỏi: những thông tin về tội phạm, tình tiết vụ án được mô tả quá chi tiết, rùng rợn khai thác quá đà quá mức. Thông tin nhiều nhưng tác hại đối với xã hội lại là tiêu cực, khiến con người mất lòng tin với cuộc

41

sống, ít nhiều tác động tới xã hội nhất là giới trẻ. Báo chí dù muốn hay không cũng có một phần trách nhiệm trong đó.

Chị có cho rằng những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay

trên báo chí cũng là kết quả từ sự giao lưu với văn hóa quốc tế?

NV.PĐ: Tôi nghĩ nó là kết quả cuộc chạy đua giữa các báo thì đúng hơn. Khi một tờ báo lập ra với mục đích chỉ để câu “view” càng nhiều “view” càng tốt thì những tít

bài và những nội dung rất sến sẽ được tòa soạn và nhà báo triệt để khai thác tận dụng.

Rất nhiều bài viết về giới showbiz được khai thác quá đà với những tít bài,

hình ảnh và nội dung vi phạm thuần phong mĩ tục, gây hại cho cộng đồng, cho

người xem. Nó thấm dần vào người xem và gây lệch lạc giá trị nhận thức thẩm mĩ của công chúng và người ta mặc nhiên nhìn nhận rằng: showbiz là như thế, là nhố nhăng là phát ngôn gây sốc, chân dài não ngắn… chỉ vì những bài báo vô bổ như vậy.

Trong khi công bằng mà nói trong giới nghệ sĩ có rất nhiều người đàng hoàng lao động

mẫn cán, cống hiến hết mình cho nghệ thuật lại không được chuyển tải tới công chúng.

Đây là lỗi của báo chí. Tại sao lại không thể làm hấp dẫn được những câu chuyện lao

động nghệ thuật chân chính này? Câu chuyện nào cũng có thể làm hấp dẫn người xem,

vấn đề là cái tài của nhà báo đến đâu người ta có muốn khai thác không? Ví dụ một

nghệ sĩ tập kịch trong hàng tháng trời cũng sẽ có nhiều câu chuyện hấp dẫn công chúng

chứ không đơn thuần là sao này mặc hở sao kia yêu đại gia…mới có thể thu hút độc

giả.

Theo chị, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn, tích cực hơn và văn hóa hơn?

NV.PĐ: Tôi nghĩ rằng đó là do nhận thức của từng nhà báo và tiêu chí của

từng cơ quan báo chí. Nếu vẫn còn những tờ báo xác định thúc phóng viên viết bài

gây sốc với khán giả để tăng “view” gây áp lực lớn cho phóng viên để chạy đua lượt “view” thì sẽ vẫn còn những công chúng mất thời gian vào những điều vô bổ đó. Các cơ quan chức năng luôn có quy định, khuyến khích báo chí lấy cái đẹp dẹp

cái xấu, hạn chế khai thác thông tin quá sâu đời tư nghệ sĩ đưa tin quá r ng rợn…nhưng nhắc nhở thì nhắc nhở, các báo vẫn mong muốn có nhiều người xem. Bản thân người làm báo không tự nhận thức, không tự thay đổi thì kể cả có đóng cửa một tờ báo nọ, rút thẻ một nhà báo kia thì tình trạng này cũng không thể chấm dứt được, vẫn là một câu chuyện rất đáng lo ngại.

Xin cảm ơn chị!

42

Trƣờng hợp PVS 04: Bà Phạm Thu Hà – Tổng biên tập báo Đẹp và Đẹp online

Nội dung:

Theo bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn có vai trò như thế nào trong việc

đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng?

Tổng biên tập Phạm Thu Hà (TBT.PTH): Tôi nghĩ phải xét ở hai phương diện. Ở phương diện cung cấp chủ động từ giới nghệ sĩ thông tin chủ yếu nhằm

quảng bá đến công chúng về các sản phẩm nghệ sĩ đang thực hiện và những kế

hoạch mới của họ (nghệ sĩ đích thực). Ở phương diện khai thác chủ động từ báo chí,

mạng xã hội: Ngoài cung cấp thông tin về các sản phẩm và kế hoạch mới của nghệ

sĩ yếu tố cuộc sống đời thường riêng tư hơn của nghệ sĩ được khai thác tối đa hơn. Đời sống nghệ sĩ với việc: ăn gì, mặc gì, sở thích thế nào, các câu chuyện tình cảm đã trở thành đề tài hàng ngày trên mặt báo, kể từ khi báo điện tử, mạng xã hội nở rộ.

Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới nghệ

sĩ biểu diễn Việt Nam, theo bà loại hình báo chí nào có thể giúp những thông tin

này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?

TBT. PTH: Loại hình báo chí mà tôi cho rằng có thể giúp thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn tiếp cận công chúng nhanh nhất là báo điện tử. Bởi lẽ đây là loại

hình báo chí có tốc độ cập nhật thông tin nhanh, phá vỡ nhiều giới hạn định kỳ và

dung lượng của báo chí truyền thống.

Theo bà, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức hút

lớn đối với công chúng như vậy?

TBT. PTH: Ngoài nhu cầu thông tin về các chương trình giải trí đời sống

riêng của nghệ sĩ được public đáp ứng sự tò mò của con người.

Theo bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

hiện nay có hiệu quả không? Ông bà có nhận xét gì về những thông tin này?

TBT. PTH: Nếu xét về tính hiệu quả với nghệ sĩ cách khai thác từ báo chí cộng với sự chủ động cung cấp thông tin hiện nay giúp nghệ sĩ tiếp ngày càng gần hơn với công chúng, giúp họ tạo dựng được các chương trình truyền thông theo ý đồ riêng một cách hiệu quả. Điều này hoàn toàn có lợi với nghệ sĩ.

43

Nếu xét về tính hiệu quả đối với bạn đọc: Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn hiện đáp ứng đủ cho nhu cầu: giải trí, tò mò của bạn đọc. Tuy nhiên, bạn đọc cần

lựa chọn thông tin để tiếp nhận, vì nếu không phải là bạn đọc thông minh độc giả

có thể dễ dàng “mắc mưu” các chiến dịch truyền thông của họ.

Trong việc đưa tin, nhiều người cho rằng ranh giới giữa văn hóa và phản

văn hóa là rất mong manh. Quan điểm của bà về vấn đề này như thế nào?

TBT. PTH: Tôi cho rằng, bạn đọc hoàn toàn có quyền chủ động lựa chọn

thông tin để tiếp nhận. Vì thế, cách bạn đọc thế nào nói về bạn như thế. Trong thế

giới phẳng và ngày càng mở hiện tại, việc quản lý thông tin là việc cần nhưng rất

khó khăn. Chúng ta phải thừa nhận thực tế này và tự lựa chọn các kênh cung cấp thông tin cho mình, vì bên cạnh các kênh cung cấp thông tin nhằm câu view bất chấp mọi giá trị, vẫn có nhiều kênh thông tin hữu ích và có sự lựa chọn kỹ càng.

Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút

độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan hệ

tình cảm... Theo bà, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên

báo điện tử có phải là những nội dung mang tính “lá cải”, “thảm họa”, vi phạm

đạo đức báo chí không? Vì sao?

TBT. PTH: Thông tin là một sản phẩm hàng hóa d là hàng hóa đặc biệt),

vì thế, các nội dung bạn liệt kê ở trên vẫn có sức hút chứng tỏ tồn tại nhu cầu thực

về các nội dung này ở công chúng.

Báo chí cung cấp nhu cầu đọc của độc giả một cách có định hướng nhưng đều

phải dựa trên sự thật. Sự thật báo chí phản ánh có thể bao gồm thứ gọi là “thảm họa”

“lá cải” nhưng nó phản ánh đời sống đang hiện hữu các vấn đề này. Tất nhiên, báo chí

chân chính phải dựa trên sự thật đó để tìm ra bản chất vấn đề phía sau các hiện trạng.

Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam nhiều khi xuất phát từ nhu cầu chủ quan từ giới này, và nhà báo cũng như công

chúng chỉ như con rối trong sự điều khiển của người nổi tiếng. Bà có nhận xét gì?

TBT. PTH: Thực tế, nhà báo luôn cần cái đầu tỉnh táo và sự nhạy bén đặc biệt, nên việc mắc lừa có thể xảy ra nhưng có thực tế, hiện nay không ít nhà báo chủ động để... mắc lừa. Điều này cũng phụ thuộc vào sự chọn lựa của cá nhân từng nhà báo và chính sách từ các tòa soạn báo.

44

Nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn được cập nhật từ facebook cá nhân

hoặc mạng xã hội. Điều này là đúng hay sai theo bà?

TBT. PTH: Báo chí có quyền khai thác thông tin, bao gồm cả các thông tin đã

được công khai. Điều này đã được ghi rõ trong luật báo chí. Bởi vậy, nghệ sĩ biểu diễn

khi đăng tải bất cứ thông tin gì lên mạng xã hội thì cần suy xét kĩ và cẩn trọng.

Xin cảm ơn bà!

Trƣờng hợp PVS 05: Diễn viên, MC Trần Mạnh Khang

Nội dung:

Theo Khang, loại hình báo chí nào giúp bạn tiếp cận công chúng nhanh nhất?

Diễn viên, MC Trần Mạnh Khang (DV – MC. TMK): Khang cho rằng

báo điện tử và truyền hình là những công cụ giúp mình tiếp cận công chúng nhanh nhất. Đây đều là những loại hình có lượng công chúng đông đảo tương tác cao nội

dung hấp dẫn… Đặc biệt là báo điện tử thì ngày càng tỏ rõ hơn thế mạnh của mình.

Khang cho rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

hiện nay thường tập trung vào khía cạnh nào?

DV-MC. TMK: Khang thấy báo chí đặc biệt là báo điện tử hiện nay thường

tập trung khai thác vào quá sâu những chuyện đời tư quan hệ tình cảm, scandal của

nghệ sĩ là chính. Những nội dung đó khán giả rất quan tâm, có cung mới có cầu. Có

những bài viết chia sẻ nhiều hơn về cuộc sống người nghệ sĩ sau ánh đèn sân khấu để

công chúng hiểu hơn đồng cảm hơn đó là điều tốt. Tuy nhiên, có những nội dung phù

hợp, có những nội dung thì chưa. Thâm chí có nhiều thông tin hơi lố, sốc và phản cảm.

Theo Khang, nghệ sĩ biểu diễn nên xử lý như thế nào khi có những thông tin

gây sốc về mình đăng trên mặt báo?

DV-MC. TMK: Nghệ sĩ khi bị đăng kĩ quá về scandal đời tư thì chẳng ai

thích cả. Nhưng đã làm nghệ sĩ thì phải xác định sẵn là mình phải luôn cần cẩn

trọng và tôn trọng khán giả. Để đến mức bị báo chí đăng tải scandal thì phải xem lại bản thân mình trước, phải có câu trả lời thực sự thỏa đáng. Hơn nữa, Khang có quan điểm, ở trong giới showbiz này đã là người nổi tiếng người của công chúng, nếu không muốn người ta biết những chuyện không hay về mình thì đừng làm.

45

Liệu những thông tin thảm họa, gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

lại xuất phát từ chính giới này?

DV-MC. TMK: Các cụ ta thường nói không có lửa thì làm sao có khói,

nhưng thời nay thì Khang cho rằng không có lửa cũng vẫn có khói được. Khang tôn

trọng quyền thích được nổi tiếng của mỗi người. Có điều, Khang tin cái gì sớm nở thì cũng chóng tàn nếu nghệ sĩ không có thực lực, không cố gắng thì cũng sớm ra đi sớm

lụi tàn. Với nhiều nghệ sĩ họ chịu được áp lực, họ thích như thế, họ chủ động tạo ra

những tình huống gây sốc để xuất hiện trên truyền thông nhưng Mạnh Khang thì

không.

Khang đánh giá như thế nào về việc nhiều bài báo trên báo điện tử lấy lại

thông tin từ trang cá nhân của các nghệ sĩ?

DV-MC. TMK: Nhiều nghệ sĩ tin rằng nhà báo không được lấy thông tin

trên trang cá nhân vì đó là sự tôn trọng quyền riêng tư của mỗi người. Nhưng các

nhà báo cũng có lí khi đăng bởi vì đã là thông tin đăng trên mạng xã hội thì nhà báo

có quyền sử dụng, trích dẫn. Nếu nghệ sĩ không thích bị báo chí cóp nhặt thông tin

thì tốt nhất đừng có đăng. Đừng chia sẻ giống như nhử một miếng mồi thu hút

truyền thông sau đó thì tỏ ra bị tổn thương giống như mình là nạn nhân. Khang

không thích điều này!

Khang đánh giá như thế nào về những điều làm được và chưa làm được của

báo điện tử khi đăng tải về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam?

DV-MC. TMK: Có cung mới có cầu. Trong khi khán giả chỉ thích những

chuyện scandal, khoe hàng...mà nhà báo lại chịu áp lực doanh thu, quảng cáo thì họ

nhiều khi cũng không làm khác được. Có những người làm báo muốn khai thác

những mặt tích cực, công việc của nghệ sĩ một cách chân chính đàng hoàng nhưng

có thể tác phẩm của họ lại chẳng ai đọc. Như thế họ cũng không muốn viết nữa. Báo chí hiện nay có quá nhiều thông tin về scandal, phát ngôn gây sốc, lộ hàng…nhưng

thật khó để trách móc được thực tế đó khi mà kinh tế thị trường ảnh hưởng sâu sắc tới cả hoạt động báo chí lẫn văn hóa nghệ thuật. Nhưng Khang chỉ cảm thấy là nếu các báo cứ đưa mãi về những scandal, phát ngôn gây sốc…như vậy thì thực sự khiến công chúng cảm thấy mệt mỏi.

Theo Khang, trong việc đăng tải thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

trên báo điện tử, nhà báo và nghệ sĩ phải ứng xử như thế nào?

46

DV-MC. TMK: Cả hai bên cần tôn trọng lẫn nhau. Một bên cần chia sẻ thông tin cho khán giả và người đọc, một bên cũng muốn chia sẻ suy nghĩ cuộc sống của

mình cho khán giả đó là mối quan hệ tương hỗ hai chiều và rất cần sự tôn trọng lẫn

nhau.

Xin cảm ơn bạn!

Trƣờng hợp PVS 06: Nhà báo Đinh Ngọc – Trƣởng ban Văn hóa xã hội

– Báo Lao động

Nội dung:

Theo bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có vai trò như thế nào

trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng?

Nhà báo Đinh Ngọc (NB.ĐN): Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới thì thông tin về giới NSBD được tất cả mọi người quan tâm. Có thể cách quan

tâm ở mỗi nơi khác nhau. Ngay ở giữa miền Nam với miền Bắc Việt Nam cũng

khác nhau. Người miền Nam họ thích nghệ sĩ nào họ sẽ lao ra để gặp để lấy thông

tin. Nhưng nghệ sĩ miền Bắc nếu công chúng thích lắm thì họ cũng chỉ nhìn từ xa,

ngó nghiêng chứ không lại gần ngay lập tức. Văn hóa về cách tiếp cận với người nổi

tiếng cũng khác nhau. Trong Nam họ không quan tâm lắm tới đời tư của nghệ sĩ. Họ

chỉ quan tâm anh đó lên phim lên sân khấu thì như thế nào? Có xinh đẹp không?

Họ dễ tính hơn. Nhưng người Bắc họ muốn biết sâu hơn đời sống nội tâm của người

nghệ sĩ. Họ muốn biết cuộc đời, thói quan, sở thích của người ta. Họ khắt khe, hay

tìm hiểu kĩ càng hơn thay vì chỉ xem những người nghệ sĩ trên sân khấu. Nhiều nhà

báo cũng chạy theo xu hướng này mà tích cực khai thác chuyện đời tư nghệ sĩ. Có

điều có thể nhiều nhà báo đã quên mất văn hóa Việt Nam khác với văn hóa phương

Tây, với Đông Âu hay Hàn Quốc, Nhật Bản... Có những dạng thông tin đưa tới

công chúng của họ thì được nhưng đưa tới công chúng của Việt Nam thì phản cảm.

Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới nghệ

sĩ biểu diễn Việt Nam, theo bà loại hình báo chí nào có thể giúp những thông tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?

NB.ĐN: Báo điện tử là hình thức được những người làm truyền thông chú trọng nhiều nhất. Sự tiếp cận của nó lập tức, mức độ lan tỏa mặc dù không bằng mạng xã hội nhưng độ tin cậy rất cao.

47

Nhiều người cho rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên các báo trang báo điện tử thường tập trung vào những vấn đề hậu trường đời

tư, scandal..., giật gân, câu khách. Bà nghĩ sao về quan điểm này?

NB.ĐN: Một nhà báo có nền tảng giáo dục tốt được trang bị kiến thức tốt,

có môi trường xung quanh (tòa soạn báo) tốt sẽ quyết định tin bài được viết ra tốt. Một người đạo đức băng hoại nhưng ở trong một toàn báo tốt cũng sẽ không thể

viết ra được những tác phẩm “thảm họa” không có cửa cho những tác phẩm này

đăng tải. Với một nhà báo k có nền tảng tốt, tòa soạn dễ dãi, dễ bị mua chuộc thì sẽ

dẫn tới thảm họa báo chí. Thực tế là rất nhiều nhà báo bị thu thẻ hành nghề.

Tôi thấy dường như Nhà báo không còn tự coi trọng vị trí của họ vì nguyên tắc và tiêu chí tiên quyết của một người làm báo là định hướng dư luận xã hội. Nhà báo bị chạy theo bạn đọc, nuông chiều bạn đọc quá nhiều khiến cho họ không còn là

nhà báo nữa. Thực ra facebook là một cơ quan thông tấn cá nhân. Mỗi người bây

giờ đều có thể trở thành nhà báo, chuyển tải thông tin. Nhưng nhà báo thực sự thì

phải rất khó khăn để có được một cái thẻ hành nghề, và vì thế nếu những người đó

không có đủ kiến thức đủ khung văn hóa bản lĩnh nghề nghiệp để có thể định

hướng được bạn đọc thì họ sẽ luôn bị đuổi theo mong muốn của bạn đọc. Bạn đọc

muốn biết về Ngọc Trinh thì họ sẽ suốt ngày viết về Ngọc Trinh. Và một từ khóa về

Ngọc Trinh sẽ có được rất nhiều pageview khiến cho họ được nâng lương hoặc

được đánh giá đó là bài viết tốt. Mặc dù bản thân tôi làm lĩnh vực giải trí, tuy nhiên,

tôi vẫn bảo vệ quan điểm một bài viết hay thì d đó là bài về chính trị hay kinh tế

vẫn rất đông bạn đọc. Những bài báo mà thực sự phân tích, bình luận tốt mới là

những bài nâng tầm những người làm báo lên chứ không phải những tin bài giật

gân, lá cải. Ví dụ tôi viết một bài về NSND Trung Hiếu ở thời điểm anh ấy được

phong NSND. Khi đó đồng nghiệp của tôi nói sẽ chẳng ai đọc bài viết đó cả, cứ viết về Ngọc Trinh là lượng view cao nhất. Hôm đó tôi có nói với bạn ấy chị cá cược với em, chị sẽ viết về vấn đề phong tặng nghệ sĩ nhân dân bây giờ và lượng view cho

bài viết đó sẽ nằm trong “top” của ngày, và quả nhiên như vậy.

Tất nhiên nhà báo phải viết về một vấn đề nóng đang hot chứ không phải đào bới một vấn đề đã cũ và không có vấn đề gì để khai thác. Cái vấn đề để chuyển tải tới công chúng mới là quan trọng và nhà báo cần định hướng được vấn đề đi theo đúng hướng. Kể cả viết về Ngọc Trinh nhưng nếu mãi viết về vấn đề cô ấy cặp với đại gia lấy tiền, ông kia cặp với cô để đánh bóng tên tuổi… thì giới trẻ tiếp cận

48

thông tin nhanh và họ sẽ quên hết mất những ngôn từ chuẩn chỉ văn hóa đọc… Cái mà chúng ta đang đọc mỗi ngày trên báo điện tử hiện nay thì đến 99% theo tôi

không còn là báo chí nữa. Số rất ít những người cầm bút bây giờ viết ra những thứ

tử tế. Không phải cực đoan nhưng bây giờ nhà báo quá nhiều người chạy theo nhu

cầu dễ dãi của bạn đọc. Mà thực ra mọi người quên rằng nhà báo phải là người “lead” định hướng) cuộc chơi chứ không phải bạn đọc. Nhà báo cho công chúng

đọc cái gì họ sẽ đọc cái đó. Lâu nay đang bị tình trạng bạn đọc là người “lead” cầm

trịch cuộc chơi.

Theo bà, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức hút

lớn đối với công chúng như vậy?

NB.ĐN: Đã là người nổi tiếng thì thuyền to sóng cả, sẽ bị soi nhiều hơn những người khác. Từ quần áo, giày dép cho tới son môi… Người nổi trội hơn những người

khác thì bao giờ cũng được chú ý, bị xét nét và đòi hỏi cao hơn. Công chúng giống như

bố mẹ trong một gia đình. Với đứa con luôn học giỏi, một ngày bị điểm 8 họ cũng khó

chịu. Nhưng với đứa học dốt, một ngày được điểm 7 họ cũng mừng ra mặt. Công

chúng luôn đòi hỏi cao với những người nổi tiếng (mà công chúng phải bỏ tiền ra để đi

xem hay mua sản phẩm . Còn người thường thì họ quan tâm gì?

Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

nhiều khi xuất phát từ nhu cầu của công chúng. Bà có nhận xét gì?

NB.ĐN: Tôi thấy không hẳn vậy. Công chúng bây giờ thông minh vô cùng.

Nhìn thấy trẻ con hú hét khi gặp thần tượng đừng cho rằng chúng dở hơi. Ngày

mình bé cũng từng xếp hàng mấy giờ đồng hồ để được Lý Hùng, Diễm Hương kí

vào sổ đó cũng là “cuồng thần tượng. Chẳng qua cách thể hiện độ “cuồng” đó ở

mỗi thời nó có một kiểu khác nhau. Bạn đọc cũng vậy, nhu cầu mỗi thời khác nhau.

Nhu cầu cuộc sống khác nhau, nhu cầu đọc cũng khác nhau. T y từng môi trường sống để chọn lọc người đọc. Báo điện tử thường hướng tới những người ở thành phố. Mà những người ở thành phố họ không có thời gian. Họ phải đọc những gì

nhanh, ngắn dễ hiểu. Nhưng dễ hiểu không có nghĩa là dễ dãi. Mà các nhà báo hiện nay hầu hết đang biến dễ hiểu thành dễ dãi.

Công chúng hiện nay không chỉ thích thông tin đời tư sốc, sex, sến, scandal…của nghệ sĩ biểu diễn. Họ quan tâm hết nhưng họ lười, họ bận, họ muốn xem một chùm ảnh thay vì phải đọc. Đó là nhu cầu bạn đọc thay đổi nhưng bản thân

49

nhà báo lại không chịu thay đổi. Viết thông tin ngắn nhưng hay súc tích họ vẫn đọc. Công chúng bây giờ là thế hệ “one touch” vậy nên người làm báo phải viết

ngắn thôi nhưng phải “chất” cập nhật. Công chúng bây giờ có nhiều sự chọn lựa,

hay, hấp dẫn bắt mắt thì mới thu hút được họ. Nhưng không phải họ nhạt nhẽo, họ

cũng thích có chọn lọc.

Phải làm được cái người ta thích theo ý mình. Nhà báo phải kiểm soát được

thông tin mình đưa ra. Báo chí phải mang tính phát hiện, phải mang tính khác biệt,

phải đưa ra được vấn đề cốt lõi

Theo bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

hiện nay có hiệu quả không?

NB.ĐN: Bây giờ thông tin đang bị nhiễu loạn. Người làm báo khi viết về nghệ thuật, ví dụ như âm nhạc phải am hiểu về âm nhạc đủ kiến thức về âm nhạc,

có thẩm mĩ về âm nhạc để hiểu được một bản nhạc thế nào là hay, một người hát thế

nào là hay… thì mới có thể viết về âm nhạc. Còn mù mờ thì sẽ thường xuyên viết sai.

Nói Sơn T ng là đạo nhạc trong khi bản thân mình không biết thế nào là đạo nhạc thì

chỉ là ăn theo nói leo và võ đoán không phải báo chí. Nghe giống giống đó là Medody.

Những người đi học ở Nga về chẳng hạn thì sáng tác của họ đều mang âm hưởng giai

điệu nhạc của Nga. Melody giống nhau là hết sức bình thường. Chỉ khi nào bản hòa âm

phối khí giống thì mới gọi là ăn cắp. Nhưng nhiều nhà báo không hiểu điều này vẫn

viết về đạo nhạc, về âm nhạc. Hoặc viết bài về điện ảnh thì phải hiểu về điện ảnh, có

thể phân tích về điện ảnh, lý giải được chứ không thể cứ nói mà không hiểu. Mọi người

hay cho mình quyền phán xét nhưng nhiệm vụ chính của nhà báo là đưa tin chứ không

phải phán xét, bình luận. Bình luận là nhiệm vụ của chuyên gia. Vậy thì nhà báo phải

phỏng vấn chuyên gia nếu họ không có đủ kiến thức.

NB.ĐN: Điều đầu tiên mà nhà báo mang tới cho tòa soạn là lượng bạn đọc, cho mình là uy tín với xã hội còn cho công chúng là thông tin. Nhưng phải đưa thông tin chuẩn. Đó là điều các nhà báo phải lưu tâm. Nó rất quan trọng, giúp cho

xã hội tốt hay không tốt.

Bà có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các trang báo

khác và mạng xã hội?

50

NB.ĐN: Báo chí bây giờ có quy định về cop lại tin bài. Phải có sự liên kết mới lấy được bài của nhau để đăng lại. Những báo đúng là báo thì muốn lấy tin bài

đăng lại phải xin phép đàng hoàng.

Đối với mạng xã hội, nhà báo không cần xin phép vì về nguyên tắc, khi viết

trên mạng xã hội thì tức là nghệ sĩ đã “public” thông tin tức là nhà báo được quyền lấy lại. Các nghệ sĩ Việt Nam mỗi khi bị nhà báo khai thác thông tin mình viết trên

mạng xã hội thường phản ứng rằng phải xin phép tôi mới được lấy đó là họ chưa

hiểu rõ vấn đề. Lấy thông tin trên mạng xã hội để đăng tải không sai, tuy nhiên cách

nhà báo cắt ghép chuyện này với chuyện kia, suy diễn từ thông tin trên mạng xã hội

để thành thông tin chính thống đăng trên mặt báo thì là nhà báo sai. Ví dụ Hồ Ngọc Hà đăng ảnh tét vào mông con trai cô lên mạng xã hội thì nhà báo suy diễn Hồ Ngọc Hà muốn ám chỉ điều này điều kia thì là sai. Nhà báo quên mất mình là người

đưa tin mà lại đi bình luận. Nhà báo không được phép bình luận. Nhà báo chỉ dùng

sự hiểu biết của mình để nhìn nhận vấn đề chứ không phải tự ý bình luận. Trên thế

giới không có nhà báo nào chê Jenifer Lopes biết nhảy không biết hát… Britney hát

không hay… mà phải là chuyên gia này nói, chuyên gia kia phân tích.

Nhiều người cho rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay

đang bị “lá cải hóa” theo cách làm báo giải trí của phương Tây, bà nghĩ sao?

NB.ĐN: Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam mà báo điện tử đang

đăng tải hiện nay không phải là thông tin “lá cải”. Lá cải làm không dễ chút nào,

càng khó khi muốn gây sốc cho bạn đọc. Thông tin sai sự thật thì không được gọi là

lá cải. Thông tin thô bỉ vô văn hóa cũng không được gọi là lá cải. Lá cải được tính

là những thông tin mang tính chất đọc cho vui đọc xong rồi quên. Mà thông tin

thảm họa về giới Showbiz Việt hiện nay đa phần là những thông tin không đúng

thông tin sai sự thật để gây sốc chứ không phải thông tin lá cải đọc xong rồi thôi.

Từng là người quản lý truyền thông cho nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam nổi tiếng, theo bà, liệu thông tin “thảm họa” về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được cho rằng đôi

khi xuất phát từ chính giới này khi họ muốn gây chú ý với công chúng?

NB.ĐN: Tôi vẫn cho rằng, những thông tin thảm họa về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam chỉ là con sâu làm rầu nồi canh mà thôi. Báo chí Việt Nam vẫn là nền báo chí sạch, không bị chi phối quá nhiều bởi tiền. Một nghệ sĩ khi cho một nhà báo tiền mà nghệ sĩ đó không đủ tốt thì các nhà báo khác cũng không theo. Ở Việt

51

Nam có tiền mà không có thực lực thì cũng chẳng là ai cả. Nghệ sĩ cũng vậy, có tiền mà không hát hay đàn giỏi, không có thực lực thì không bao giờ có vị trí trong lòng

công chúng, không bao giờ tồn tại được. Đó chính là cái riêng biệt của văn hóa nghệ

thuật so với những loại hình khác, của sản phẩm hàng hóa nghệ sĩ so với các sản

phẩm hàng hóa khác trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong thời mà người ta gọi là “công nghiệp giải trí”.

Cuộc sống là một dòng chảy không ngừng. Nghệ sĩ cũng vậy. Cũng sẽ phải

theo dòng chảy đó. Chúng ta nên tiếp nhận văn hóa nhưng đừng tạo ra sự phản cảm.

Có những người tại sao họ đứng được trên sân khấu rất nhiều năm mà khán

giả không chán? Và cũng phải đặt lại câu hỏi tại sao có những người hát rất hay mà không thể thành sao? Duy tâm nói muốn thành sao phải có số. Nhưng nói về truyền thông thì sự cố gắng là điều rất quan trọng, bởi vì bây giờ là thời đại của công nghệ

truyền thông, quảng bá hình ảnh người nghệ sĩ cũng phải biết cách làm sao quảng

bá hình ảnh của mình một cách hiệu quả nhất.

Theo bà, trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, báo điện tử

đã làm được gì và chưa làm được gì?

NB.ĐN: Điều mà báo chí chưa làm được nhất là làm hư nghệ sĩ. Trong nghệ

thuật có câu rất hay là “khen cho đến chết”. Báo chí chê không đúng khen lại quá

đà nên làm hư nghệ sĩ. Báo chí Việt Nam cũng hơi khắc nghiệt với nghệ sĩ dễ làm

tổn thương người nghệ sĩ. Một cô gái đẹp thì đừng bắt cô ấy thông minh, một cô

thông minh đừng bắt cô ấy đẹp.

Điều làm được là vẫn có những bài viết, những nhà báo biết bình luận đúng sâu

và mang tính phân tích cho người làm nghề, vẫn mang tới cho công chúng những bài

báo rất hay đáng để đọc đủ tử tế và mang tính định hướng cho nghệ sĩ lẫn công chúng.

Theo bà, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn, tích cực hơn và văn hóa hơn?

NB.ĐN: Phải nâng cao trình độ nhà báo. Hiện nay có rất nhiều người làm báo nhưng không phải nhà báo. Có rất nhiều bạn bị chạy theo pageview mà quên mất vai trò của nhà báo. Nhiều người cũng không được đào tạo một cách chuyên nghiệp, chính vì vậy, họ không hiểu hết giá trị của nhà báo. Ngôn ngữ báo chí hiện nay rất hạn chế. Lâu lắm rồi không thấy những Xuân Ba, Lê Thọ Bình… những người có

52

khả năng định vị bài báo bằng tên của họ nữa. Làm báo giống như phi công tính bằng giờ bay. Viết càng lâu, càng nhiều thì càng hay, không thể giống như những

nghề khác viết một cái là hay luôn. Cần có sự rèn luyện và trải nghiệm. Những người

cầm bút phải là người xuất sắc về mặt câu chữ và kiến thức trong lĩnh vực mình làm,

mình viết.

Trân trọng cảm ơn bà!

Trƣờng hợp PVS 07: Nhà báo Hoàng Nhật Mai – Hoa hậu biển Việt Nam 1999, nguyên Thƣ kí toàn soạn tờ Deponline, Emdep online…; nguyên

Giám đốc kênh VTC Hdvip…

Nội dung:

Theo chị thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí có vai trò như thế

nào trong việc đáp ứng nhu cầu của công chúng?

Nhà báo Hoàng Nhật Mai (NB.HNM): Tôi cho rằng thông tin về giới nghệ

sĩ biểu diễn trên báo chí có vai trò quan trọng, giúp cung cấp thông tin và định

hướng dư luận, thậm chí hình thành nhân cách công chúng. Chỉ có điều mô hình và

cách thức hoạt động đã thay đổi nhiều so với trước đây.

Theo chị, loại hình báo chí nào có khả năng đăng tải thông tin về giới nghệ

sĩ biểu diễn nhanh nhất?

NB.HNM: Chắc chắn là báo điện tử. Tuy nhiên hiện nay báo chí, kể cả báo điện

tử đã dần đánh mất vai trò của mình cho mạng xã hội. Nhiều người nổi tiếng thậm chí đã

tự làm kênh truyền thông cho mình mà không cần báo chí. Tôi cho rằng báo chí đang

dần trở nên lép vế trong lĩnh vực truyền thông. Một thực tế thấy rõ là rất nhiều trang báo

điện tử hiện nay cũng đang chuyển sang dạng liên kết với mạng xã hội.

Theo chị, khi thông tin về giới nghễ sĩ biểu diễn Việt Nam, các trang báo

điện tử thường tập trung đề cập những nội dung nào?

NB.HNM: Mỗi báo có một tôn chỉ riêng nhưng khi làm nghề thực tế thì mặc nhiên sẽ đi theo thị hiếu của công chúng. Mà thị hiếu lại được tạo ra bởi nhiều kịch bản khác nhau và rất dễ bị định hướng. Mảng giải trí là mảng dễ bị định hướng và lôi kéo.

Ban đầu các tòa soạn luôn đưa ra lí tưởng định hướng chung là hướng giới trẻ và công chúng tới những điều lành mạnh. Nhưng khi làm thì áp lực thương mại,

53

mặc nhiên sẽ hướng họ tới điều dễ nhìn thấy nhất: lượt view của công chúng. Dần dần họ xuôi theo theo thị hiếu độc giả thích đọc cái gì nhà báo viết cái đó. Đây là

thực trạng mà theo tôi chiếm đa số trong hoạt động báo chí lĩnh vực văn hóa giải trí

hiện nay. Những thông tin như đời tư scandal hoặc những thứ tưởng như vô

thưởng vô phạt đánh vào sự hiếu kì của công chúng thì bao giờ cũng ăn khách nhất.

Chị đánh giá thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử

hiện nay có hiệu quả hay không?

NB.HNM: Bây giờ báo điện tử chịu sự cạnh tranh trực tiếp và khốc liệt từ

mạng xã hội. Nhiều trang mạng xã hội như Yeah1 Yan…không phải là báo điện tử

nhưng họ vẫn thực hiện chức năng như báo điện tử và có một lượng công chúng cực kì đông đảo, thậm chí lượng “view” “comment” còn cao hơn nhiều tờ báo điện tử. Chính vì sự cạnh tranh này mà hoạt động báo chí hiện nay rất “loạn”. Những người

làm báo lĩnh vực thông tin giải trí nhiều khi không còn giữ được vai trò định hướng

của mình. Nhiều nhà báo dường như chỉ tự định danh cho mình là nhà báo thôi, còn

về bản chất thì cách làm cũ của họ đã bị tụt hậu rất nhiều, bị mất độc giả. Nói như

thế để thấy rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử hiện

nay chưa đạt hiệu quả đúng như loại hình này phải có.

Nhiều trang báo điện tử hiện nay khai thác sâu những chuyện hậu trường,

đời tư, scandal, những tình tiết gây sốc…của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam. Theo

chị, điều này có vi phạm đạo đức báo chí?

NB.HNM: Nhiều trang báo điện tử tập trung khai thác những nội dung hậu

trường, gây sốc của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam tôi nghĩ là có lí do của nó. Một

tòa soạn báo khai thác những nội dung này thì mới có hoặc dễ có độc giả. Nếu khai

thác những vấn đề chuyên sâu thì có thể mất rất nhiều công sức nhưng khả năng

không ai đọc lại rất cao. Xã hội đưa đẩy, áp lực thương mại hóa đưa đẩy, trong khi có những người nổi tiếng sẵn sàng gây dựng hình ảnh xấu chỉ để được tiếp cận nhiều nhất với công chúng thì nó dẫn tới hiện trạng này. Ví dụ, một clip trên

youtube để nằm trong vị trí có nhiều người đề xuất nhất thì phải đáp ứng hai tiêu chí: một là phải hay, hai là phải có nhiều người xem, nhiều người comment, chửi cũng được khen cũng được. Cho nên về mặt đạo đức không ai khuyến khích báo chí khai thác những vấn đề hậu trường, gây sốc cả. Nhưng về mặt thực tế nhiều tòa soạn, nhiều nhà báo không có cách nào khác. Đôi khi chính những người nghệ sĩ

54

sẵn sàng chia sẻ và có một kịch bản truyền thông với tòa soạn báo, với nhà báo để có thể nổi tiếng bằng mọi giá. Có những nghệ sĩ có tài họ sẽ lên bằng thực tài của

mình. Nhưng có những nghệ sĩ không có tài thì họ chỉ cần thu hút sự chú ý với công

chúng, chỉ cần công chúng biết đến là đủ. Một người nghệ sĩ để có được danh tiếng

nhất định, nếu đi bằng con đường danh chính ngôn thuận chắc chắn rất là lâu, mà thực tài của bản thân thì không phải ai cũng xuất sắc. Một nghệ sĩ chân chính phải

mất bao nhiêu năm học nghề, rèn luyện thì mới thành tài để được biểu diễn, thu

thanh. Họ phải có nhà đầu tư lớn, hoặc có tài để tham gia vào rất nhiều các cuộc thi

lớn. Nhưng không phải ai cũng may mắn gặp được nhà đầu tư lớn, trong khi hàng

triệu người tham gia vào các cuộc thi tài năng cũng chỉ có một người được giải, do đó áp lực đối với nghệ sĩ biểu diễn để thành công để có một chỗ đứng là rất lớn. Do đó nghệ sĩ hoặc là có tài năng hoặc là phải tìm một người đỡ đầu, hoặc phải biến

mình thành một dị bản nào đó để gây chú ý. Họ cần phải có bệ phóng. Mà trong đó

nhiều người nghĩ rằng truyền thông là một bệ phóng hữu hiệu. Nếu cứ bình thường

thì không ai để ý nhưng nếu xảy ra những câu chuyện đánh vào tử huyệt cảm xúc

thì lại rất thu hút công chúng, rất dễ để công chúng biết tới họ.

Khai thác những thông tin thảm họa là một thực tế không thể chối bỏ. Nền

kinh tế thị trường thay đổi con người, nền công nghiệp giải trí cũng thay đổi tư duy

và quan điểm về làm nghệ thuật. Nó là trào lưu xu hướng trong sự thương mại hóa

nói chung mà người ta không tránh được. Tất nhiên, nghệ thuật luôn có sự khác biệt

và đặc trưng riêng kể cả khi bị thương mại hóa cỡ nào chăng nữa.

Không phủ nhận, có những người nghệ sĩ bị kéo vào, bị hại trong cái trào lưu

chung này, có những người bị scandal thật, có những người là tự tạo ra scandal. Tuy

nhiên rõ ràng, hiện nay làm báo là bám “trend” xu hướng). Nhiều nhà báo lên

google xem “trend” đang là gì thì phải bằng mọi giá khai thác cái “trend” đó. Ví dụ từ khóa hôm nay là “ấu dâm” thì nhà báo phải làm sao để khi công chúng tìm kiếm từ “ấu dâm” trên các trang tìm kiếm sẽ phải dẫn link tới trang báo của mình. Họ tin

đó là cách nhanh nhất để có người đọc có lượt “view” cao. Mà lượng “view” lại là yếu tố sống còn đối với một tòa soạn vì bây giờ chẳng có doanh nghiệp nào bỏ tiền mua quảng cáo mà không quan tâm tới lượt “view”.

Thuật toán của google và facebook cũng là lí do khiến mọi thứ liên quan tới truyền thông, bao gồm cả báo điện tử phải xoay chuyển theo nó. Nếu cứ làm báo theo

55

kiểu lối cũ thì chỉ có hai lí do: trang báo đó được nuôi hoặc trang báo đó chưa thức thời.

Với những gì chị vừa đề cập, thì phải chăng thương mại hóa là một trong

những nguyên nhân khiến thực trạng báo chí phải đối diện với nhiều thông tin thảm

họa về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam như hiện nay?

NB.HNM: Đúng là như vậy. Và chúng ta không thể kiểm soát được. Các tòa

báo chính thống họ vẫn nghiêm túc đi theo đường lối chủ trương hoạt động báo chí

vì họ được nuôi. Họ không cần cũng không có fanpage comment... Nhưng quay trở

lại vấn đề là có ai đọc họ không lại là câu chuyện khác.

Những thảm họa thông tin này theo chị liệu có phải là kết quả của giao lưu

văn hóa không?

NB.HNM: Thảm họa thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam một phần

đúng là hệ quả từ việc giao lưu văn hóa. Văn hóa bây giờ là không biên giới. Trong

sự giao lưu cái gì hấp dẫn nhất, dễ tiếp cận nhất thì người ta sẽ theo. Ví dụ thời

trang Hàn Quốc, phim ảnh Hàn Quốc đồ ăn Hàn Quốc... Nó có thể do chiến lược

xâm lấn văn hóa của các nước khác, họ biết cách đánh vào đúng tâm lý của công

chúng thông qua phim ảnh, âm nhạc. Giới trẻ xem những gì họ thích, và rồi họ mê

thời trang, ẩm thực Hàn Quốc, lịch sử Hàn Quốc... Còn Việt Nam, mặc dù nói phải

tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc nhưng cách truyền thông của chúng ta chưa hợp

lý, không khích lệ được công chúng cảm và yêu những nét văn hóa đó.

Chị có cho rằng công chúng Việt Nam có nhu cầu xem những thông tin sến,

sốc, sex về giới nghệ sĩ biểu diễn hơn là thông tin văn hóa nghệ thuật chính thống?

NB.HNM: Có đó là thực tế. Tâm lý hiếu kỳ là bản năng của con người.

Đứng giữa hai tin lũ lụt giết chết trâu bò ở Sapa, với tin Trấn Thành và Hari won,

người ta thường dễ đọc tin về Trấn Thành.

Đối tượng mong muốn tìm hiểu về nét đẹp trong văn hóa nghệ thuật... quá ít.

Hơn nữa, bởi con người hiện nay có quá nhiều lựa chọn nên dần dần họ bị chai lì. Lúc trước có ít thứ để đọc nên thông tin nào cũng khiến họ rất lưu tâm nhưng bây giờ mở ra có quá nhiều cái để đọc, cho nên phải có cái gì đó phải thực sự gây ấn tượng gây xúc động mạnh mẽ thì công chúng mới quan tâm đến nó. Điều này có nghĩa cảm xúc của con người ta bị chai lì theo thời cuộc. Ngày trước chỉ cần có kịch

56

thôi mọi người đã túa đi xem nhưng bây giờ một vở kịch không đủ thuyết phục thì sẽ không có khán giả bởi người ta có quá nhiều lựa chọn khác.

Văn hóa giải trí hay phim ảnh ngày nay phải đối diện với áp lực cạnh tranh

rất lớn, không có biên giới. Sản phẩm nào phải thực sự đặc sắc mới có thể tồn tại

được. Do đó khái niệm “viral” nó trở nên phổ biến nghĩa là phải tạo ra được một làn sóng chia sẻ ai xem cũng thích thì mới trở thành “hit” được.

Theo chị, trình độ dân trí có ảnh hưởng tới cách đăng tải thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử?

NB.HNM: Không! Người ta hay nghĩ như vậy nhưng công chúng là những

người tinh khôn hơn chứ không dễ bị lừa lọc hay hư hỏng bởi trào lưu. Có những thứ “virial” khủng khiếp đâu đâu người ta cũng nhắc tới nhưng chỉ một hai ngày sau nó đã bị lãng quên. Công chúng bị xoáy theo dòng xoáy của thông tin nhưng không dễ bị làm

hỏng. Nhưng tất nhiên những thông tin đó vẫn có thể gây ra những hệ lụy to lớn.

Chị nhận xét sao về tình trạng cóp nhặt tin bài từ các báo khác và các trang

mạng xã hội của báo điện tử hiện nay khi thông tin về giới NSBD VN?

NB.HNM: Bây giờ quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông rất chặt,

không phải muốn coppy là được. Có điều xu thế làm truyền thông đang ngày càng

thay đổi nhanh chóng. Phải thừa nhận thực tế, có những trang mạng xã hội làm nội

dung tốt thì không cần giấy phép nào cả, chỉ cần ngồi tổng hợp lại thông tin hay thôi

họ cũng đã có một lượng công chúng lớn. Ngoài ra, rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng tự sử

dụng trang cá nhân của mình như một trang thông tin, và sinh ra khái niệm KOL,

sinh ra xu hướng quảng cáo không bỏ tiền cho một tờ báo nữa mà bỏ tiền cho một

cá nhân. Nếu cá nhân đó là một KOL của một lĩnh vực nào đấy. . Bởi vậy nhiều tờ

báo hiện nay chọn phương thức cóp nhặt, thậm chí bắt tay với mạng xã hội, với các

KOL… để đăng tải tin bài để có độc giả. Điều này không quá khó để hiểu.

Vậy theo chị, việc các trang báo điện tử cóp nhặt thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn VN trên mạng xã hội là đúng hay sai?

NB.HNM: Theo tôi, không có khái niệm đúng sai ở đây. Đã có những văn bản rõ ràng về việc chia sẻ và cóp nhặt tin bài tuy nhiên người Việt Nam giỏi nhất là…lách luật. Báo điện tử bây giờ thậm chí còn kết hợp với các nghệ sĩ biểu diễn là

57

các KOLs (Key opinion leader – người định hướng dư luận) và các trang mạng các nhân của họ để có lượt “view” và hợp đồng quảng cáo.

Thực tế cho thấy, doanh thu quảng cáo mà nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam làm

KOLs thu được hàng tháng thậm chí còn cao hơn nhiều tòa soạn báo điện tử. Ví dụ như

Chipu, Robbey.. có thể kiếm được hàng tỷ, thậm chí hàng chục tỷ từ việc đăng tải các bài viết lên trang cá nhân. Nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam không kiếm tiền bằng việc biểu

diễn trên sân khấu mà kiếm tiền từ các post trên mạng xã hội của họ.

Các doanh nghiệp bây giờ không quan tâm nhiều tới trang báo điện tử nào đó

liệu có phải là báo chính thống hay không, họ chỉ quan tâm các bài viết đăng tải trên

báo đó có bao nhiêu người đọc, liệu có bao nhiêu công chúng có khả năng tiếp cận với thông điệp mà họ quảng cáo trên trang báo này? Do đó xu hướng kết hợp và tận dụng sức hút của nghệ sĩ biểu diễn là các KOLs để tận dụng sức hút và sự lan tỏa

của họ, từ đó có được những tin bài có lượt “view” cao là một xu hướng tất yếu.

Trên thực tế, sự kết hợp này mang lại lợi ích cho cả đôi bên: nghệ sĩ và nhà báo.

Các trang cá nhân hoặc trang mạng vệ tinh của bạn ấy thậm chí còn có lượng

người theo dõi đông đảo hơn cả các trang báo điện tử chính thống. Vậy nên, một bài viết

về Đông Nhi Sơn T ng hay Soobin Hoàng Sơn… thường có lượng “view” cực khủng,

có thể nuôi lượng “view” cả tháng cho trang báo đó. Cho nên các tòa soạn báo bây giờ

thường đi theo hướng viết hay phỏng vấn về các nghệ sĩ nổi tiếng và để các nghệ sĩ nổi

tiếng ấy chia sẻ link trên trang cá nhân hoặc các trang vệ tinh của họ. Nó gần như một sự

trao đổi tương hỗ. Không phải là sao cần báo nữa rồi mà là báo cần sao.

Theo chị, làm cách nào để có thể nâng cao chất lượng tin bài về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam trên các trang báo điện tử?

NB.HNM: Tôi cho rằng điều này phụ thuộc vào từng cá nhân làm báo, phụ

thuộc vào lòng yêu nghề, mức độ đam mê và trách nhiệm của họ.

Một bài báo bây giờ dưới 500 người đọc là không có nhuận bút. Đó là một

áp lực khủng khiếp cho người làm báo. Nếu tin bài không hay cho d đăng link lên trang cá nhân, kêu gào thảm thiết thì bạn bè cũng chỉ click vào đó một lần ủng hộ. Nhưng nếu hay, không cần kêu gọi người ta cũng tự đọc, bài viết cũng tự lan tỏa. Nhưng thế nào là hay? Hay tức là phải gãi đúng chỗ ngứa của độc giả.

58

Bây giờ người ta chỉ “share” chia sẻ) những thứ độc đáo: phim bom tấn, sức khỏe kinh nghiệm chữa bệnh gì đó thông tin gây sốc..., hoặc những cái liên quan

mật thiết tới miếng cơm manh áo của người ta người ta mới “share”.

Báo chí buộc phải thay đổi nếu muốn tồn tại.

Áp lực của tòa soạn sẽ đè nặng lên phóng viên. Suy nghĩ mình viết những bài tử tế chưa chắc đã có ai đọc, trong khi những tin sến sểm vừa nhanh, vừa đỡ hại

não, lại vừa nhiều người đọc là suy nghĩ phổ biến của rất nhiều nhà báo và tòa soạn

báo. Mỗi thành tố như thế hàng trăm tòa soạn báo như thế nó thành thực trạng

thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo chí nói chung và trên báo điện

tử nói riêng như hiện nay.

Chị vừa đề cập tới khía cạnh nhà báo, vậy từ khía cạnh công chúng thì sao? Công chúng có thể giúp thay đổi chất lượng tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam trên báo điện tử?

NB.HNM: Ở xã hội mà nền tảng internet phủ sóng mọi ngóc ngách, cái bàn

phím cho người ta quyền muốn chửi ai, chỉ trích ai cũng được. Chửi đổng, chửi

thẳng hay mượn gió bẻ măng làm hại người khác cũng được. Nó giúp ai đó lên hàng

sao kiếm được hàng tỉ đồng cũng có thể giết một người nghệ sĩ mà không cần

gươm hay dao khiến người ta mất hết cả cuộc đời chỉ từ cái bàn phím đó.

Sống trong xã hội hiện đại, thông tin vàng thau lẫn lộn này, công chúng cần

phải rèn luyện cho mình tinh thần lãnh cảm đối với các loại hình thông tin. Đừng

adua theo trào lưu nào hết. Gặp một vấn đề tiêu cực, hãy luôn biết đặt dấu hỏi và

đừng vội hoàn toàn tin theo cái gì cả.

Còn nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam thì sao, họ nên đối diện với truyền thông như

thế nào?

NB.HNM: Họ nên chủ động. Bây giờ các nghệ sĩ trẻ hầu như là có công ty tự quản lý hoạt động truyền thông của họ như Đông Nhi Hồ Quang Hiếu, Lý Hải,

Sơn T ng ...chẳng hạn.

Những người nổi tiếng một là im lặng hai là phân bua. Nhưng phân bua thì lại thường trở thành con mồi của dư luận, càng nhiều người nói về họ hơn khiến họ trở thành “trend” cho các báo mổ tới tan nát.

59

Thời buổi bây giờ muốn làm showbiz làm lĩnh vực giải trí thì hoặc phải tham gia cuộc thi nào đó và trở thành miếng mồi cho truyền thông, hoặc là chân

chính thì chẳng ai quan tâm. Nhưng theo trào lưu truyền thông thì nghệ sĩ phải đi

theo truyền thông đối diện với truyền thông và chấp nhận mọi kịch bản có thể xảy

ra trong truyền thông. Do đó họ cần chủ động để có thể hạn chế nhất những rủi ro và hậu quả không đáng có.

Xin cảm ơn chị!

Trƣờng hợp PVS số 08: Nhà văn Bùi Việt Thắng – Hội viên Hội Nhà văn

nguyên Phó trưởng Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại – Trường Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn

Nội dung:

NCS: Thưa nhà văn Bùi Việt Thắng, theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu

diễn có vai trò như thế nào trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng?

Nhà văn Bùi Việt Thắng (NV.BVT): Trước đây chúng ta chưa quan tâm

đúng mức đến chức năng giải trí của văn học - nghệ thuật (chỉ chú trọng ba chức

năng chính: nhận thức - giáo dục - thẩm mỹ . Trong lĩnh vực văn chương trên các

báo chí thường có mục “chuyện văn chuyện đời” hay “phía sau tác phẩm”. Đó là

chuyện “hậu trường văn chương” hay là “bếp núc văn chương”. Những chuyện này

rất “bắt mắt” độc giả. Tôi xin nêu một ví dụ sách “Nguyễn Đình Thi – Bí mật cuộc

đời” Nhiều tác giả NXB Văn học, 2008). Phải nói ngay rằng đây là một bestt-

seller. Trong cuốn sách này có nhiều chuyện thuộc “thiên tình sử” của nhà văn

Nguyễn Đình Thi. Nhưng ấn tượng nhất là chuyện tình của Ông với nữ nhà báo

Pháp Mađơlen Riphô. Nhưng phải nói thêm là, Hội Nhà văn Việt Nam hiện có hơn

1000 hội viên mà chỉ có mỗi cuốn sách viết về “bí mật cuộc đời” của một nhà văn

nổi tiếng trên văn đàn hiện đại. Tôi nói rộng và xa ra như thế để dễ bề trở lại câu hỏi của chị.

Đúng là trên các phương tiện truyền thông hiện nay đang có cơn sốt thông tin về giới nghệ sỹ biểu diễn NSBD . Tôi nghĩ đó là một cách PR. Có gì là không tốt khi PR?! Nếu nhìn với con mắt bình thường, cởi mở thì cũng không có gì đáng quan ngại. Vì thời bây giờ cái gọi là “hữu xạ tự nhiên hương” cũng không phát huy tối đa được nếu không nhờ ngoại lực. Nên nhớ là, công chúng nghệ thuật ngày nay đã khác trước rất nhiều. Nếu chúng ta đóng cửa, xét nét, khô cứng thì những chuyện

60

“hậu trường” của giới NSBD vẫn cứ bung ra như một nhu cầu tự thân. Như người ta nói cơ chế thị trường tự nó sắp xếp điều chỉnh tất cả, không trừ nghệ thuật.

Vả lại bây giờ trong các cuộc thi các game show thôi thì như sao sa như

nấm mọc sau mưa có mục “khán giả bình chọn”. Vì thế nên công chúng cũng rất

cần những thông tin của người mình mến mộ, thậm chí là si mê với ý nghĩa là những “fan cuồng”! Thông tin về giới NSBD tôi nghĩ cũng như một thứ “gia vị”.

Nhưng phải d ng cho đúng chỗ và đúng liều lượng.

NCS: Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới

nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, theo ông loại hình báo chí nào có thể giúp những thông

tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Và tại sao?

NV.BVT: Thời trước chỉ có báo giấy, sau rồi có báo hình, bây giờ thì có báo điện tử (online). Lại thêm một thế giới facebook, riêng tôi thấy nó như con khủng

long thời hiện đại nó “ngoạm” rất to, rất nhanh thị phần thông tin. Báo mạng và các

trang mạng xã hội đang làm đảo lộn hành vi ứng xử của con người. Con người thời

hiện đại sống theo tinh thần “hiện sinh chủ nghĩa”. Họ cần cái tức thời, cái hiện

hữu. Họ cần chiếm đoạt thời gian (vì với đời sống hiện đại yếu tố thời gian sống

quan trọng hơn không gian sống). Thời đại internet đã tạo nên một “thế giới phẳng”.

Tất cả phơi bày ra dưới thanh thiên bạch nhật.

Nói báo điện tử lên ngôi đúng. Nhưng báo giấy cũng không vì thế mà chết

hẳn. Một số tờ như Tuổi trẻ, Công an Tp.HCM, An ninh thế giới Đang yêu Thanh

Niên Văn nghệ Công an …vẫn có số lượng phát hành lớn. Và vẫn rất bắt mắt khi

thông tin về giới NSBD. Nhưng có chừng mực có cái “ngưỡng” cần thiết. Vì thế

chúng không bị xếp vào cái gọi là “lá cải”.

NCS: Theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên

các báo thường tập trung vào những vấn đề gì?

NV.BVT: Thông tin về giới NSBD Việt Nam hiện nay trên báo chí , theo tôi,

thường chỉ mới chú ý “săm soi” đời tư. Tất nhiên chú mục vào chỗ đó thì chuyện mới “màu mỡ riêu cua” như cách nói của dân gian (chuyện bỏ vợ bỏ chồng, chuyện ngoai tình, chuyện tay ba tay tư chuyện đồng tính, chuyện chuyển giới và đặc biệt là các scandal . Cũng vì sức ép của cơ chế thị trường nên khi “loan tin” các báo thường giật tít (giật gân để bán báo (báo giấy để nhiều người đọc báo điện tử). Người ta gọi là “câu view”.

61

Ít báo khi thông tin về giới NSBD chăm chút cho sự học con đường khởi nghiệp, sự tiến bộ và nhất là cái căn cốt văn hóa của giới NSBD. Thậm chí là những

tấm gương vượt lên số phận. Nghĩa là thông tin báo chí về giới NSBD chưa nói

được cái tinh hoa văn hóa mà nghệ sỹ góp vào nền văn hóa dân tộc. Ở ta danh hiệu

“nghệ sỹ” đang bị lạm dụng. Nói chính xác thì chỉ mới có người hát (âm nhạc), người diễn (sân khấu điện ảnh). Nghệ sỹ là một phẩm chất cao. Nên dùng cách nói

“người biểu diễn” thì chính xác hơn. Cũng như trong lĩnh vực văn chương có sự

phân biệt “người viết văn” viết ra tác phẩm và “nhà văn” tác phẩm và tác giả

được xã hội công nhận “tác gia” nhà văn tài năng .

NCS: Theo ông, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức

hút lớn đối với công chúng như vậy?

NV.BVT: Nói thông tin về giới NSBD có sức hút công chúng lớn, là một

cách nói quá, có tính chất thương mại. Ngày trước nghe trên đài một ca sỹ trình bày

một bài hát hay là công chúng nghệ thuật rung động, ám ảnh (ví dụ như nghệ sỹ Tân

Nhân hát “Xa khơi” nghệ sỹ Quốc Hương hát “Hà Tây quê lụa” … . Họ không cần

biết đằng sau nghệ sỹ ấy có những chuyện gì. Chỉ biết đồng cảm và sáng tạo cùng

cái đẹp mà tác phẩm mang lại. Ngày trước tôi nghe trên đĩa nữ nghệ sỹ Nga

Pugachova hát, thấy hay và hấp dẫn ví như bài “Triệu triệu bông hồng” . Hoàn

toàn không biết bất cứ một thông tin cá nhân nào. Khi sang Liên-xô công tác vào

cuối những năm 80 của thế kỷ trước, một lần duy nhất tôi được nghe và nhìn ca sỹ

lừng danh này hát ở Sân vận động trung tâm Luznhiky Matxcơva . Người Nga gọi

Pugachova là “người đàn bà hát”. Tôi có tìm một số báo tiếng Nga để xem có thông

tin nào thuộc về đờilowsy cũng như những chuyện “giật gân” của nữ nghệ sỹ.

Nhưng đáng tiếc là gần như không có.

Nói thông tin về giới NSBD có sức hút lớn với công chúng tôi nghĩ rất có thể là vu khoát. Nếu người nghệ sỹ hát không hay, biểu diễn không giỏi thì những thông tin ấy chỉ là “ngoài lề” “phụ gia” chỉ là “đắp điếm”.

Nói công chúng cũng không nên nói chung chung. Cần có sự phân loại công chúng nghệ thuật. Có công chúng tinh tuyển, tinh hoa (thì mới nghe được nhạc giao hưởng, mới xem được tranh của các danh họa vẽ tranh trừu tượng, hoặc tranh lập thể; mới đọc được các kiệt tác của những văn hào thế giới). Lại có công chúng phổ

62

thông, bình dân. Họ thuộc về văn hóa đại chúng. Mỗi lớp công chúng có sự lựa chọn riêng phụ thuộc vào văn hóa vào mỹ cảm, thậm chí vào túi tiền.

NCS: Theo ông/bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam này có

hiệu quả không? (xét ở cả ba khía cạnh nhà báo, nghệ sĩ biểu diễn và công chúng).

NV.BVT: Hiệu quả của một công việc như chị nói, xét từ cả ba góc độ (nhà báo – NSBD - công chúng . Nhưng cần phải xem đích tới của nghệ thuật là gì? Rõ

ràng đích tới của nghệ thuật không phải là nhà báo cũng không phải là NSBD, mà

là công chúng nghệ thuật. Chân lý ấy giản dị không cần tranh luận. Nhưng vì một lí

do nào đó mà cái đích đến của nghệ thuật, bây gờ bị người ta đánh tráo.

Vì vậy hiệu quả của thông tin nghệ thuật về giới NSBD, cao hay thấp, phải nhìn từ công chúng nghệ thuật vì “khách hàng là Thượng Đế” . Đó phải là thông tin “sạch” Tín - Đạt - Nhã).

NCS: Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút

độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan hệ tình

cảm... Theo ông, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn có phải là những nội dung

mang tính “lá cải”, “thảm họa”, vi phạm đạo đức báo chí không? Vì sao?

NV.BVT: Đúng là “lá cải” đúng là “ thảm họa” đúng là “vi phạm đạo đức”

khi báo chí đưa thông tin về giới NSBD mà chỉ chăm chăm chuyện trang phục (kín

hay hở), phát ngôn (tự nhiên chủ nghĩa tự do vô lối, phản cảm đời tư vợ bé,

chồng hờ) và các quan hệ tình cảm phức tạp tay ba tay tư đồng tính … . Những

nghệ sỹ lớn thường không chịu tai họa truyền thông kiểu này. Đặng Thái Sơn nghệ

sỹ piano quốc tế, là một ví dụ. Những nghệ sỹ “thường thường bậc trung” muốn lên

hạng đôi khi phải ăn theo truyền thông một cách chủ động. Cái ấy người ta gọi là

“lăng –xê”.

Nếu chúng ta theo dõi truyền thông nước ngoài về giới nghệ sỹ, thấy họ rất thận trọng khi đưa tin. Dĩ nhiên không tránh khỏi đây đó “giật gân” “câu khách” ví

dụ xung quanh cuộc đời và cái chết của ca sỹ Mỹ lừng danh M. Jacson . Nhưng rất họa hoằn. Cũng bởi luật pháp ở nước họ rất nghiêm minh, nếu ai đó đưa tin “xằng bậy” có thể bị kiện ra tòa và chịu án phạt rất nặng.

63

NCS: Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam nhiều khi xuất phát từ nhu cầu chủ quan từ giới này, và nhà báo cũng như công chúng chỉ

như con rối trong sự điều khiển của người nổi tiếng. Ông có nhận xét gì?

NV.BVT: Khi nhà báo và công chúng trở nên như con rối trong sự giật giây

của giới NSBD (nổi tiếng thì ít, tai tiếng thì nhiều thì khi đó nhà báo và công chúng đều có thể xếp vào “hạng bét” cuối). Ở ta, những nghệ sỹ nổi tiếng như Trà

Giang điện ảnh), Quốc Hương âm nhạc), Chu Thúy Quỳnh (múa), Nguyễn Tiến

Thọ (nghệ thuật tuồng), chẳng hạn nhưng không thấy họ giật dây điều khiển được

nhà báo và công chúng nghệ thuật.

Cho nên ai đó bị giật giây và bị điều khiển bới những người “nổi tiếng” hay tai tiếng?!) thì chính họ cũng phải đào tạo lại. Vì trong hàng nghìn nhà báo có nhiều nhà báo kém, thậm chí “bẩn”. Vì công chúng nghệ thuật ngày nay phức tạp hơn,

chia rẽ hơn đáng phải đào tạo lại hơn.

NCS: Theo ông, có đúng là công chúng thích và tò mò những thông tin hậu

trường, bên lề (ăn mặc, phát ngôn, đời tư, scandal...) của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt

Nam hơn là những thông tin về hoạt động nghệ thuật của họ?

NV.BVT: Nói công chúng nghệ thuật thích và tò mò những thông tin hậu

trường về giới NSBD là “vơ đũa cả nắm” là vu khoát. Công chúng ấy chỉ là một

bộ phận thôi. Công chúng đích thực vẫn rất quan tâm về những hoạt động nghệ

thuật của giới NSBD. Mỗi nghệ sỹ có một con đường nghệ thuật và số phận riêng.

Nếu là một nghệ sỹ tài năng đích thực thì mồ hôi nước mắt họ đổ ra là không thể

tính đếm để đi đến đến đỉnh cao vinh quang nghệ thuật. Truyền thông hãy vẽ ra con

đường vinh quang và cay đắng của những nghệ sỹ lớn để công chúng có thêm

những bài học quý báu về Chân - Thiện – Mỹ. Một đặc điểm tâm lý của con người

là tính tò mò. Nhưng con người phát triển thì thay thế tò mò bằng quan tâm. Đã quan tâm thì ứng xử khác tò mò.

NCS: Theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được đăng tải trên

các trang báo hiện nay có bị ảnh hưởng bởi trình độ dân trí của công chúng không?

NV.BVT: Vấn đề này phải nhìn từ nhiều phía. Về phía công chúng họ đang sống trong khí quyển của văn hóa đại chúng. Áp lực cuộc sống của họ ngày càng gay gắt cao độ. Vì thế yêu cầu giải trí nghệ thuật ngày càng nhiều. Đôi khi diễn ra một thực tế là những chuyện “rò rỉ” về nghệ sỹ lại được quan tâm hơn tài năng của

64

nghệ sỹ. Nếu bạn ra nước ngoài, vào một nhà hát, nghe nhạc giao hưởng hay vào một phòng tiển lãm tranh của các danh họa thì sẽ thấy, không có một “rò rỉ thông

tin” nào về nghệ sỹ tác động đến công chúng nghệ thuật. Ở các nước phát triển,

công chúng được giáo dục đầy đủ. Việt Nam là một nước đang phát triển. Tất cả

phải làm từ đầu trong đó có nghệ thuật. Không thể nói là dân trí của ta thấp. Phải nói là công chúng còn chưa được giáo dục thẩm mỹ đầy đủ để tiếp nhận nghệ thuật

một cách đúng đắn, có hiệu quả.

NCS: Nếu chia trình độ dân trí của công chúng thành 3 cấp độ: cao, thấp,

trung bình, theo ông, phần lớn công chúng quan tâm tới thông tin về giới nghệ sĩ

biểu diễn Việt Nam thuộc cấp độ nào?

NV.BVT: Thực ra chia thành ba cấp độ công chúng, về hình thức thì có vẻ đúng nhưng đôi khi trong mỗi cá nhân công chúng lại có sự “hòa âm” “pha màu”

của cả ba. Tôi lấy ví dụ, một nhà khoa học có tiếng tôi quen, rất thích nghe nhạc

giao hưởng, xem tranh trừu tượng, tranh lập thể nhưng lại cũng rất mê truyện trinh

thám và phim hành động. Vậy thì xếp ông vào cấp độ nào?

Nhưng nhìn xuyên suốt hơn thì công chúng bình dân thuộc về văn hóa đại

chúng riêng thích được tiếp cận các thông tin “lề trái” về NSBD. Nhân đây tôi đề

nghị không nên dùng khái niệm “công chúng dân trí thấp”. Nên phân ra “công

chúng tinh hoa” “công chúng bình dân” thôi. Bởi vì ngày trước có nhiều người

không biết chữ nhưng lại thuộc làu “Truyện Kiều” như là tinh hoa văn hóa Việt

Nam), và vịnh, lẩy, bói Kiều rất hay.

NCS: Ông có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các báo

khác của báo điện tử hiện nay?

NV.BVT: Đây là vấn nạn hiện nay có “phổ” rất rộng. Người ta gọi là “đạo”

văn đạo chữ. Nói nhẹ nhàng như từ chị d ng là „cóp nhặt” lại tin bài giải trí từ các báo khác rồi “xào nấu” “chế biến” thành của “chính hãng” “chính chủ”. Đã thế thì

còn ai cơ quan chức năng nào kiểm soát được thông tin như tôi biết thì hiện nay ở ta có hơn 800 đơn vị báo chí). Tôi gọi đó là “truyền thông bẩn”. Nhưng mà đâu chỉ có trong lĩnh vực truyền thông về giới NSBD. Trong các trường đại học, các viện nghiên cứu, các học viên (cao học và nghiên cứu sinh đang như tằm ăn rỗi sao chép của người đi trước (từ sách, từ mạng . Đến giáo viên hướng dẫn và cả hội đồng đôi

65

khi cũng mất quyền kiểm soát. Huống hồ báo giới. Nói chung tình trạng mất kiểm soát diễn ra trên diện rộng hầu khắp các lĩnh vực.

NCS: Theo ông, nhà báo nên xử lý như thế nào khi tiếp nhận một thông tin về

giới nghệ sĩ biểu diễn, nhất là những thông tin dễ gây “sốc”, dễ có khả năng thu hút

lượng lớn công chúng, có ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm của người nghệ sĩ?

NV.BVT: Nói ra một điều “cũ như trái đất” – nhà báo phải có tâm và tầm.

Khi nhà báo tâm không sáng thì sẽ dễ chạy theo lợi ích cá nhân, hoặc lợi ích nhóm.

Từ đó sẽ dễ sa vào “câu view”. Hoặc chạy theo thời thượng. Hoặc vì tư túi. Thiếu

tầm nhà báo sẽ chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Sẽ rơi vào tiểu tiết, sẽ vì cái trước

mắt, cục bộ mà quên cái lâu dài, toàn bộ. Cần bảo vệ danh dự của những nghệ sỹ lớn chứ không phải “che chắn” họ. Tài năng cần được phát hiện nâng đỡ, bồi đắp, nhân lên. Ở ta còn quá hiếm những nhà báo có năng lực phát hiện tài năng nghệ sỹ.

Cũng dễ hiểu thôi con đường đến với nghề báo trên lĩnh vực nghệ thuật không có

sự đào tạo cụ thể đặc th căn bản ở các trường dạy nghề báo. Đôi khi nhà báo phải

tự vùng vẫy, tự cứu mình trước khi Trời cứu.

NCS: Nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn được cập nhật từ facebook cá

nhân hoặc mạng xã hội. Ông nhận xét thế nào về thực trạng này?

NV.BVT: Thông tin về giới NSBD nếu chủ yếu được khai thác từ Facebook

cá nhân hoặc mạng xã hội thường bị “nhiễu” đôi khi là “ảo”. Đó là cách làm

việc, nếu có thể nói là lười nhác của nhà báo. Chỉ nên dựa vào Facebook hay

mạng xã hội một phần nhỏ thôi. Một phần lớn phải tiếp cận đối tượng. Cũng như

trong công việc bảo vệ các VIP, thì bảo vệ tiếp cận mới quan trọng hơn cả. Nó là

vòng trong cùng, Nó là cận thân. Tôi biết ở một tòa báo nọ phóng viên rất ít cọ xát

với văn giới và đời sống văn chương. Nhưng báo họ ra đọc thấy vẫn “ngon lành”.

Nhưng ai rành nghề, sẽ thấy “bịa” là nhiều. May mắn là bịa nhưng vô hại. Nhưng nhạt, vô bổ, vô vị. Vô thưởng vô phạt. Nếu phóng viên cứ làm việc theo nếp ấy đà ấy thì làm sao phát triển được!

Ở ta nhà báo nhà văn không đi vào thực tế đời sống mà vẫn cứ viết đều là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nếu cứ như thế thì thì sự viết sẽ rơi vào hão huyền, hoang đường.

66

NCS: Theo ông, giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay có phải là một sản phẩm của giao lưu văn hóa không? Giao lưu văn hóa có ảnh hưởng như thế nào tới

hoạt động thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên các trang báo hiện nay?

NV.BVT: Chúng ta đang ở trong thời đại toàn cầu hóa. Hội nhập là tất yếu.

Nhưng riêng lĩnh vực văn hóa thì hội nhập lại không phải đơn giản như các lĩnh vực khác. Vì văn hóa mang bản sắc dân tộc. Vì văn hóa là sản phẩm của thung thổ rất

riêng. Nói giới NSBD Việt Nam hiện nay là “sản phẩm của giao lưu văn hóa” e

rằng quá đao to búa lớn. E rằng quá thổi phồng sự việc. E rằng quá đề cao họ. Nói

một cách khách quan và công bằng thì chúng ta đang học đòi “chạy theo” văn hóa

thế giới thì đúng hơn là giao lưu và học tập. Nhưng mà cũng chỉ học đòi được những cái người ta đã thải loại mà thôi. Có người nói quá đi Việt Nam là bãi rác của thế giới xe máy ô tô cũ thời trang cũ phim ảnh cũ sách vở cũ các lý thuyết cũ

… . Văn hóa thế giới từ châu Âu, châu Mỹ đến châu Phi dẫu có hiện đại đến mấy

nhưng cũng không rơi vào “lai căng” như ở ta. Không mất gốc như ở ta. Hãy nhìn

sang đất nước mặt trời mọc (Nhật Bản mà xem. Trông người lại ngẫm đến ta. Họ

quan tâm đến con đường nghệ thuật của nghệ sỹ. Họ quan tâm đến đóng góp vào

văn hóa dân tộc của nghệ sỹ. Họ quyết tâm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc dẫu biết

cần thiết phải hội nhập quốc tế.

NCS: Theo ông, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ

sĩ biểu diễn Việt Nam có hiệu quả hơn, tích cực hơn và mang tính văn hóa hơn?

NV.BVT: Trước hết là trách nhiệm trực tiếp của Bộ Thông tin- Truyền

thông. Bộ 4T này như thiên hạ vẫn gọi, phải sát sườn hơn nữa để kiểm soát báo chí

trong lĩnh vực nghệ thuật. Tiếp đến, trực tiếp nhất là trách nhiệm của các “chủ bút”.

Ông “chủ bút” nào để báo chí mình quản lí vi phạm thì nên bị xử lí nghiêm. Nhưng

rốt cục thì nhà báo mới là “nhân vật chính” của câu chuyện thú vị nhưng phức tạp này. Những người “tai tiếng” sẽ không được công chúng “nhòm ngó” nếu không có sự tiếp tay của các nhà báo kém. Công chúng cũng sẽ ít bị “ô nhiễm” nếu ít đi nhà

báo kém chưa kể là “bẩn” . Cuối cùng là công chúng. Không thể có một công chúng cứ tự nhiên nhi nhiên. Xã hội văn minh dân trí cao căn cốt văn hóa bền vững như các nước phát triển thì công chúng cũng luôn được giáo dục đến nơi đến chốn. Cần nói thêm, chúng ta tấn phong danh hiệu nghệ sỹ quá ư dễ dàng, hào phóng cho người làm nghề biểu diễn (ca hát, kịch trường điện ảnh … .

67

NCS: Vai trò của các chủ thể (nhà báo, nghệ sĩ, công chúng) như thế nào trong quá trình tăng cường chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn VN theo

quan điểm của ông?

NV.BVT: Một nền văn hóa một nền nghệ thuật phát triển cao là kết quả của

một tổng lực. Nếu có gì sai sót trong lĩnh vực chúng ta đang quan tâm và bàn luận, theo tôi, là trục trặc có tính hệ thống, là bệnh “ mãn tính”. Không nên chỉ trích một

chủ thể riêng rẽ nào. Xây dựng một nền nghệ thuật mới có khi cần thời gian hàng

trăm năm. Tâm lý sốt ruột, nóng vội diễn ra trong tất cả các lĩnh vực, không riêng gì

nghệ thuật. Nhưng nghệ thuật có quy luật đặc thù. Nó phụ thuộc vào lao động sáng

tạo cá nhân. Vì thế khi một xã hội bao gồm những cá nhân tự do phát triển và cống hiến may ra chúng ta có được những thay đổi lạc quan hơn hiện trạng bây giờ, nói riêng trong lĩnh vực nghệ thuật./.

Xin cảm ơn ông!

68

Trƣờng hợp PVS 09: MC, Diễn viên Trần Hạnh Phúc

Nội dung:

Theo anh, loại hình báo chí nào có thể giúp thông tin về giới nghệ sĩ biểu

diễn Việt Nam tiếp cận công chúng nhanh nhất? Vì sao?

MC. Trần Hạnh Phúc (MC. THP): Tôi nghĩ là báo điện tử và truyền hình. Tôi nổi tiếng nhờ truyền hình nhưng sau đó nhờ báo điện tử mà có nhiều hơn lượng

khán giả biết tới mình. Tôi dẫn chuyển động 24h. Những khán giả xem chương

trình này là những người thích tin tức thường có thói quen xem tivi vào khung giờ

đó như các bà nội trợ. Đối tượng đó thực sự không quá nhiều. Nhưng nhờ những bài

viết về mình đăng trên báo điện tử, khai thác thêm những mặt khác về cuộc sống của tôi thì tôi lại có thêm những đối tượng công chúng khác tiếp cận mình. Những khán giả không phải là khán giả truyền hình cũng biết đến tôi.

Theo anh, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay đang tập

trung vào những nội dung, khía cạnh nào? Những nội dung này có phù hợp không,

đứng từ góc nhìn của một người nổi tiếng như anh?

MC. THP: Các báo điện tử hiện nay đưa tin về nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam

thường có hai luồng. Một là đưa tin về chính chuyên môn của họ, ví dụ ca sĩ này

tham gia biểu diễn ở đâu đó MC Hạnh Phúc dẫn sự kiện lớn nào đó…Một hướng

nữa là khai thác những mặt khác trong cuộc sống của người nổi tiếng ngoài ánh đèn

sân khấu. Như tôi được phản hồi lại thì những bài báo mang tính chính thống hoặc

chuyên môn của nghệ sĩ thì thường lại không có lượt xem cao bằng những lĩnh vực

khác của cuộc sống. Đặc biệt gần đây báo điện tử có những cách giật tít câu “view”

rất độc, lạ thì lại càng thu hút giới trẻ cũng như khán giả đọc báo điện tử. Tất nhiên

tôi cho rằng người ta chỉ đo đếm được lượng “view” thôi chứ không tính được khán

giả có hài lòng hay không với chất lượng của bài báo đó.

Việc câu “view” của các trang báo điện tử tôi nghĩ do nhiều nguyên nhân.

Trước hết là vì báo điện tử cũng cần có quảng cáo. Thứ hai là ở một số tờ báo, phóng viên nhận nhuận bút theo lượng “view” của bài báo. “View” càng cao thì nhuận bút càng cao. Đó là cách để khuyến khích phóng viên năng động hơn nhưng cũng chính vì thế mà tòa soạn báo, nhà báo lại cần giật những tít câu “view” gây

69

sốc đôi khi không liên quan tới nội dung của bài báo, hoặc khai thác những vấn đề rời xa giá trị thẩm mĩ chỉ để thu hút độc giả.

Ở góc độ một người nổi tiếng đôi khi những bài báo câu “view” vô hại, không nói sai sai sự thật, không ảnh hưởng xấu tới công việc hay hình ảnh của bản thân mà lại giúp mình có thể tiếp cận nhiều hơn với khán giả sẽ mang tới cho tôi một

sự thích thú. Những bài báo như vậy có thể mang tới cho nghệ sĩ thêm một lượng “fan”

nào đó. Tuy nhiên có những bài báo giật những tít bài rất kêu nhưng khi đọc tôi thực

sự cảm thấy không hài lòng với nội dung và chất lượng bài báo đó. Bản thân tôi khá

khắt khe trong việc xuất hiện trên báo chí truyền thông, từ báo lớn tới báo nhỏ. Nếu có

tên của Hạnh phúc thì đều cố gắng dành thời gian truy cập xem họ viết như thế nào về

mình. Việc quản lý truyền thông của tôi cũng khá khắt khe. Kể cả có giật tít như thế

nào chăng nữa thì nội dung bài báo cũng phải chất lượng và rời xa các giá trị thẩm mĩ

đạo đức. Không thể nào một nghệ sĩ vì muốn câu “view” muốn có thêm “fan” mà bất

chấp tất cả, muốn xuất hiện, muốn để truyền thông viết về mình như thế nào cũng

được.

Nhiều người cho rằng, nhiều thông tin lá cải, sến, sốc…về giới nghệ sĩ biểu diễn hiện nay trên báo điện tử xuất phát từ chính giới này, khi họ muốn gây chú ý

hoặc hâm nóng tên tuổi, anh nghĩ sao về điều này?

MC. THP: Thực ra người nghệ sĩ nào cũng muốn tiếp cận với khán giả ngày một nhiều hơn và tôi cho rằng đó là một nhu cầu chính đáng. Ai làm trong showbiz

hoặc lĩnh vực truyền thông cũng đều mong muốn mình có khán giả, càng nhiều khán

giả càng tốt. Số lượng khán giả “fan” hâm mộ là một trong những thước đo quan trọng

để đánh giá sự thành công, mức độ nổi tiếng tài năng thậm chí là thu nhập của một

người nghệ sĩ. Nếu một người nghệ sĩ không thực sự tài năng thì chắc chắn khán giả

cũng không yêu mến cũng không thể có nhiều khán giả hâm mộ mình. Tôi cho rằng

những bài báo có tác động giống như đòn bẩy giúp những người nghệ sĩ từng có tên tuổi muốn quay trở lại, những người nghệ sĩ đang trên đà muốn đạt được thành công… Và nếu sử dụng báo chí như một kênh hỗ trợ như vậy thì tôi hoàn toàn ủng hộ. Nhưng

từ đòn bẩy đó người nghệ sĩ phải d ng chính năng lực tài năng của mình để những khán giả biết đến mình rồi họ thực sự yêu thích tài năng của mình, tôn trọng sự cống hiến của mình, họ muốn tìm hiểu hơn nữa những tác phẩm của mình, thực sự cảm thấy thoải mái và ngưỡng mộ với phần nghệ thuật của mình thì mới có thể duy trì và tồn tại

lâu bền với nghề.

70

Trong việc một người nghệ sĩ xuất hiện trên mặt báo, thực ra rất khó để phân định thế nào là đúng thế nào là sai. Mỗi một người khi muốn nổi tiếng sẽ có nhiều lựa chọn, nhiều cách khác nhau. Và không thể phủ nhận, có những người sử dụng chiêu trò để nổi tiếng nhanh, họ sẵn sàng xây dựng hình ảnh và kiếm thu nhập theo những cách hoàn toàn khác với những nghệ sĩ chân chính. Ví dụ, nhiều nghệ sĩ chỉ cần khán giả nhìn thấy hình ảnh của họ, nghe họ nói, thậm chí nghe họ chửi cũng được, miễn kích thích sự tò mò, hiếu kì của đám đông để khiến người ta “click” vào bài báo càng nhiều càng tốt. Họ tìm kiếm sự nổi tiếng và thu nhập dựa trên chính sự hiếu kì của độc giả, bằng những chiêu trò gây sốc thay vì bằng tài năng. Ở góc độ nào đó thì tôi nghĩ cũng là một cách tìm kiếm sự nổi tiếng và thu nhập thông minh. Bên cạnh đó nếu như cho rằng người nghệ sĩ sử dụng chiêu trò trên truyền thông là sai thì tôi cho rằng cũng cần phải xem lại chính những người khán giả và độc giả quyết định “click” vào những bài viết đó. Bởi vì chính những độc giả này cũng mang trong mình tâm trạng hiếu kì, tò mò hoặc thích những chuyện tranh chấp trong giới nghệ sĩ.

Nếu đã thấy scandal, phát ngôn gây sốc…trên truyền thông là một cách

thông minh thì anh đã bao giờ áp dụng?

MC. THP: Thông minh theo khía cạnh của chính họ và phụ thuộc vào lĩnh vực họ đang theo đuổi. Ví dụ những người đang nổi tiếng bằng những chiêu trò đó thì họ cũng phải tính được hình ảnh của mình được ghi dấu trong tâm trí của khán giả, của cộng đồng là gì? Là hình ảnh một nghệ sĩ hay đi giật chồng, một nghệ sĩ đa tình hay một nghệ sĩ hay gây chuyện thích khoe đồ hiệu, khoe thân…? Bản thân tôi cũng vậy cũng phải xác định xem phong cách của mình là gì lĩnh vực mình đang hoạt động là gì mình đang làm việc cho cơ quan nào hình ảnh mình hướng tới công chúng ra sao? Hiện tại tôi xác định phong cách cho mình là chính chắn, lịch sự cơ quan tôi làm là nơi phát ngôn có uy tín chương trình tôi đang làm cũng mang tính chính luận cao, vậy thì tất cả những chương trình tôi tham gia tôi đại diện nhãn hàng đóng quảng cáo hay tham gia với vai trò khách mời… cũng phải thống nhất trong tổng thể hình ảnh mình muốn gây dựng. Tôi sẽ không thể “tưng” hay d ng những scandal kiểu như: Hạnh Phúc lộ body sáu múi, Hạnh Phúc lộ chuyện tình tay ba…được. Tôi cho rằng nghệ sĩ muốn xây dựng hình ảnh thì những bài báo viết về họ phải nằm trong một con đường nhất quán, một định hướng truyền thông rõ ràng.

Theo anh, báo điện tử hiện nay có dễ dàng trở thành con rối để các nghệ sĩ

giật dây đăng bài theo ý của họ?

71

MC. THP: Chưa bao giờ tôi nghĩ báo điện tử nói riêng và truyền thông nói chung như con rối, mà đối với tôi, truyền thông thực sự là một đối tác của người nghệ

sĩ.

Các nhà báo bây giờ đều là những người khá thông minh và không dễ bị lợi dụng để làm một con rối. Trong mọi trường hợp truyền thông và nghệ sĩ nên có mối

quan hệ hợp tác, hai bên cùng có lợi.

Với những nghệ sĩ chân chính bị báo điện tử đăng lại những khoảnh khắc họ muốn giấu đi, gây ra những ảnh hưởng đối với cuộc sống và công việc của họ thì anh đánh giá sao về vấn đề đạo đức của nhà báo?

MC. THP: Đạo đức của nhà báo không phải là vấn đề một hai câu có thể nói hết. Đó là vấn đề lớn mà người ta đang nói rất nhiều khi quá nhiều bài báo điện tử chạy theo “view” và “like” mà quên mất những hệ lụy của nó tới người nghệ sĩ. Có

những bài báo có thể giết chết một người nghệ sĩ. Trên thế giới cũng có những

scandal lớn khiến người nghệ sĩ rơi vào túng quẫn, thậm chí có thể dẫn đến những

cái chết không đáng có. Ở Việt Nam cũng có những vụ việc đáng tiếc, gây rùm

beng trên báo chí. Ví dụ như diễn viên Minh Hà bị chụp khi đi c ng với Minh

Nhân. Đó là một đề tài hót thu hút công chúng và đa phần công chúng cảm thấy

phản cảm, lên tiếng chỉ trích. Nhưng nếu như nhà báo đặt mình ở tâm thế của người

nghệ sĩ nhìn ở một khía cạnh khác nhân văn hơn về tình yêu khi vượt qua được

những rào cản cuộc sống thì có thể khán giả sẽ nhìn nhận mối tình này ở một góc độ

khác. Rõ ràng cùng một vấn đề, góc nhìn của nhà báo cực kì quan trọng để mang tới

cho khán giả những định hướng dư luận điều này phụ thuộc rất lớn vào đạo đức của

người làm báo. Có những bài báo họ chỉ mới dừng lại ở việc tôi có một đề tài hay,

chưa nghĩ được nó ảnh hưởng như thế nào tới người khác thì thực sự nó nguy hiểm.

Hạnh Phúc đã bao giờ là nạn nhân của những bài báo như vậy?

MC. THP: May mắn là chưa.

Mà nếu có bị như vậy thì tôi sẽ liên lạc với tờ báo đó người viết bài trực tiếp và tòa soạn. Nếu nhà báo viết đúng sự thật thì tôi sẽ xin lỗi khán giả của mình, nếu không

sẽ yêu cầu tòa soạn và nhà báo giải thích đăng tin đính chính lại rõ ràng, thậm chí là yêu cầu gỡ bài. Báo chí có một đặc quyền cũng là nghĩa vụ là phải đưa sự thật. Đây là điều mà nghệ sĩ cần phải nắm được để bảo vệ mình trước truyền thông.

Nếu không đạt được sự hợp tác từ hai phía thì cần có sự can thiệp của pháp luật. Quan trọng hơn đối với mỗi người nghệ sĩ hãy nghĩ rằng: trong mọi tình

72

huống không hay trên truyền thông phải hết sức bình tĩnh không được nóng giận phát ngôn bừa bãi kể cả trên trang facebook cá nhân của mình.

Không biết những nghệ sĩ khác thế nào nhưng bản thân tôi, trên trang facebook của mình, mặc d đó là trang cá nhân nhưng mỗi một ngôn từ mình phát ra cũng phải để ý nó có gây ảnh hưởng tới khán giả, tới hình ảnh của mình hay

không? Có để khán giả nghĩ rằng đó là phát ngôn của một người nổi tiếng hay chỉ là

một cậu Hạnh Phúc đời thường thôi? Mình cần phải phân biệt rất rõ như thế. Khi

mình quyết định mình là người nổi tiếng thì ngay cả trang facebook cá nhân của

mình cũng phải quản lý hình ảnh rất kĩ lưỡng. Có thể đi ăn uống chơi bời nhưng

những hình ảnh đó vẫn phải lịch sự bởi nó ảnh hưởng tới định hướng hình ảnh của

mình trong mắt công chúng. Ví dụ như Hạnh Phúc rất lịch sự chỉnh chu khi làm

việc thì trên facebook không thể nào xuất hiện hình ảnh hay phát ngôn quá mức nhố

nhăng được. Công chúng sẽ đặt câu hỏi là thông tin cậu này nói trên truyền hình,

sản phẩm của cậu này có đúng như con người của cậu ấy không?

Tôi cho rằng người nghệ sĩ cần giữ hình ảnh. Hình ảnh của họ ảnh hưởng lớn tới công chúng, do vậy ngôn từ phải cẩn trọng cư xử cũng thế, không nên thích gì

làm nấy.

Nói như vậy thì nghệ sĩ có quá thiệt thòi không khi không được bộc lộ hết

những cái nổi loạn bên trong của mình?

MC. THP: Nếu một người thực sự muốn nổi loạn thì hãy lựa chọn một lĩnh vực nào đó mà có thể khiến cho bạn được nổi loạn. Còn ví dụ như tôi tôi hoàn toàn

kiểm soát được những điều đó và thấy thực sự thoải mái với hình ảnh mình xây

dựng. Tôi thoải mái với sự lựa chọn của mình.

Nếu làm chính luận mà thích nổi loạn thì họ đã đặt ra phạm vi cho bản thân rồi. Tôi nghĩ đã làm nghệ sĩ thì nổi loạn thế nào để không ảnh hưởng tới công chúng

là điều cần phải cân nhắc. Cuộc sống là những sự lựa chọn. Người ta lựa chọn cách sống như thế nào thì phải thoải mái với nó.

Ban đầu tôi cũng khá gò bó khi ngay cả facebook của mình cũng phải chú ý

từng phát ngôn, từng bức hình. Trước khi nổi tiếng mình là người tự do, thích gì làm nấy. Nhưng cũng phải xác định rằng làm người nổi tiếng là lựa chọn của mình, mình cũng phải theo lựa chọn đó. Bây giờ nhìn lại cái sự gò ép ban đầu của mình là đúng đắn, và khán giả có thể nhìn thấy một hình ảnh Hạnh Phúc đúng với những gì

tôi mong muốn thể hiện.

73

Anh đánh giá thế nào về việc nhà báo thường xuyên lấy lại thông tin được đăng tải trên trang cá nhân, mạng xã hội của người nổi tiếng để chỉnh sửa thành

bài viết đăng tải trên báo mình?

MC. THP: Có một số báo cũng sao chép bài viết và chia sẻ trên trang cá nhân của tôi nhưng họ lịch sự xin phép. Có những trường hợp không xin phép thì

đôi khi mình cũng phải chấp nhận vì khi người nghệ sĩ đã quyết định phát ngôn trên

một phương tiện truyền thông, mặc d đó là facebook cá nhân chăng nữa thì đó vẫn

là một nguồn thông tin công khai các nhà báo được phép khai thác. Cái gì đưa lên

mạng xã hội thì người khác có quyền trích dẫn và đưa lại nguồn. Bởi vậy tôi nghĩ

trước tiên người nghệ sĩ phải cẩn trọng phát ngôn hành động của mình, còn nếu mà

họ không cẩn trọng, giữ gìn, họ tùy tiện đưa bất cứ thông tin gì lên facebook mà bị

báo chí khai thác thì phải chịu thôi.

Một cách công bằng, anh có thể đánh giá những điều mà báo chí làm được

và chưa làm được khi đăng tải thông tin về giới NSBD Việt Nam?

MC. THP: Phải thừa nhận một điều báo chí là một đối tác, một công cụ để người nghệ sĩ tới gần hơn với khán giả, phản ánh đa chiều hơn về người nghệ sĩ

không chỉ về mặt chuyên môn mà còn cho khán giả hiểu hơn về chính con người

của nghệ sĩ cũng là một cách để khán giả yêu mến hơn nghệ sĩ của mình, không chỉ

bằng những tác phẩm của họ mà con người họ, cuộc sống, lối sống của họ. Đó là

những điều báo chí làm được. Nếu không nhờ có báo chí thì không biết bao giờ mọi

người mới biết được câu chuyện hay quan điểm của Hạnh Phúc bởi trên chuyển

động 24h thì Hạnh Phúc chỉ đưa tin thôi.

Còn về mặt trái thì tôi nghĩ cả nghệ sĩ và nhà báo đều nên tiết chế lại.

Theo anh, người nghệ sĩ cần ứng xử như thế nào trước báo chí?

MC. THP: Trước hết nghệ sĩ phải xác định phong cách của mình, phải theo

phong cách chung đó có sự thống nhất trong xây dựng hình ảnh. Nếu có một hình ảnh nào đó lọt ra ngoài sự thống nhất đó thì mình phải kiểm soát được có định đưa lên hay công khai không? Ví dụ, công chúng quen thuộc với Hạnh Phúc mặc vest,

lịch sự. Biết đâu năm năm tới sẽ có thêm một hình ảnh khác nhưng nó chỉ là thứ gia vị thôi để công chúng thấy là nó thú vị hơn một chút, tò mò nho nhỏ nhưng không làm biến tướng hình ảnh mình đang có.

Tôi cho rằng, với những nghệ sĩ đang trên đà xây dựng hình ảnh thì cố gắng định vị được thương hiệu mình muốn xây dựng trong lòng khán giả là gì? Định vị

74

phong cách nào để cho khán giả nhớ? Người nghệ sĩ nên tư duy và biết cách để làm thế nào cho khán giả nhớ tới mình giữa một rừng nghệ sĩ khác

Xin cám ơn anh!

75