BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
HOÀNG NGỌC VINH HẠNH
THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT (Khảo sát trên các báo điện tử Vietnamnet.vn, Ngoisao.net, News.zing.vn giai đoạn từ năm 2014 - 2016)
Ngành: BÁO CHÍ HỌC Mã số: 9320101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH THÁI
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưng từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận án
Hoàng Ngọc Vinh Hạnh
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
MỤC LỤC ........................................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN......................... iv
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ .................................................................................. vi
DANH MỤC ẢNH .......................................................................................... vi
DANH MỤC HÌNH ........................................................................................ vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
THÔNG TIN .................................................................................................. 13
VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN TRÊN BÁO CHÍ ................................... 13
1.1 Nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam 13
1.2 Nghiên cứu vấn đề truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam trên báo 16 chí Việt Nam
1.3 Nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí ..... 19
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 37
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT VÀ
VẤN ĐỀ THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ .................................................................................. 39
2.1 Văn hóa và góc nhìn văn hóa Việt ......................................................... 39
2.2 Nghệ sĩ biểu diễn và nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam .................................. 48
2.3 Báo chí Việt Nam và nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt Nam ........ 545
2.4 Báo điện tử và vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam .... 57
ii
2.5 Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt ......................................... 712
Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 79
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU
DIỄN VIỆT NAM TRÊN VIETNAMNET.VN, NEWS.ZING.VN,
NGOISAO.NET TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT ................................. 81
3.1 Khái quát báo điện tử là đối tượng được khảo sát ................................. 81
3.2 Khảo sát thực trạng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên
Vietnamnet.vn, News.zing.vn và Ngoisao.net từ góc nhìn văn hóa Việt .... 84
3.3 Đánh giá chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên
báo điện tử .................................................................................................. 126
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 135
CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN
VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ 1378
4.1 Vấn đề đặt ra trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
trên báo điện tử......................................................................................... 1378
4.2 Giải pháp tăng cường chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam trên báo điện tử .............................................................................. 15960
Tiểu kết chƣơng 4:..................................................................................... 1789
KẾT LUẬN .............................................................................................. 17980
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................. 1867
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....... Error! Bookmark not defined.8
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BBT Ban biên tập
Bộ TT&TT Bộ Thông tin và Truyền thông
BTV Biên tập viên
CCTC Công chúng truy cập
CTTT Chủ thể truyền thông
CTV Cộng tác viên
Cục QLPTTH&TTĐT
Cục quản lý phát thanh truyền hình và thông tin điện tử
ĐCS Đảng Cộng sản
GS Giáo sư
Ngoisao Báo điện tử Ngoisao.net
NSBD VN Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Nxb Nhà xuất bản
NB Nhà báo
PGS Phó Giáo sư
PV Phóng viên
PVS Phỏng vấn sâu
TBT Tổng biên tập
TPBC Tác phẩm báo chí
TS Tiến sĩ
TTĐC Truyền thông đại chúng
VHNT Văn hóa nghệ thuật
VN Việt Nam
VNN Báo điện tử Vietmamnet.vn
Zingnews Báo điện tử News.zing.vn
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Khảo sát mức độ quan tâm của công chúng tới thông tin về giới
NSBD VN theo độ tuổi ................................................................................... 86
Bảng 3.2: Thống kê nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử .................. 90
Bảng 3.3: Khảo sát lượt xem tin bài về Khánh Ly.......................................... 91
Bảng 3.4: Khảo sát số lượng ảnh trong tin bài đăng trên báo điện tử........... 100
Bảng 3.5: Nội dung ảnh đăng trên các báo điện tử ....................................... 101
Bảng 3.6: Khảo sát tin bài theo từ khóa trên báo điện tử .............................. 104
Bảng 3.7: Nguồn tin cho tin bài về giới NSBD VN trên báo điện tử ........... 107
Bảng 3.8: So sánh nghệ sĩ Giang Hồng Ngọc và Hariwon ........................... 112
Bảng 3.9: Đánh giá của công chúng về hàm lượng thông tin giới NSBD VN
trên báo điện tử .............................................................................................. 121
Bảng 3.10 Số lượng tin bài về NSBD VN trên báo điện tử năm 2016 ......... 123
Bảng 3.11: Phản hồi của công chúng với thông tin giới NSBD VN trên báo điện
tử .................................................................................................................... 124
Bảng 3.12: Đánh giá của công chúng về ảnh hưởng của NSBD VN thông qua
tin bài về họ trên báo điện tử ......................................................................... 125
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ tin bài về giới NSBD VN trong mục văn hóa – giải trí ..... 89
Biểu đồ 3.2: Tần suất tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam .................. 89
Biểu đồ 3.3: Thể loại báo chí sử dụng trong thông tin về giới NSBD VN ... 102
Biểu đồ 3.4: Nguồn tin cho thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ... 106
DANH MỤC ẢNH
Ảnh 3.1: Hình ảnh Ngọc Trinh và Hương Giang idol trên báo Ngoisao.net .. 94
Ảnh 3.2: Thông tin Ngọc Trinh đăng trên trang cá nhân được Zingnews khai thác
....................................................................................................................... 110
Ảnh 3.3: thống kê top KOLs có bài viết ảnh hưởng trong ngành luyện tập thể
hình (gym) trong ngày 15/5/2015 ................................................................. 116
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Mô hình quy trình thông tin của Stuart Hall ................................... 61
Hình 2.2: Mô hình hệ thống/kênh truyền thông phức hợp .............................. 62
Hình 2.3: Mô hình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ................... 64
Hình 2.4: Mô hình Ozone ................................................................................ 65
Hình 2.5: Mô hình cơ chế tác động của báo chí ............................................. 72
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong bài nghiên cứu khoa học “Truyền thông văn hóa và văn hóa
truyền thông” đăng trên trang www.ajc.edu.vn ngày 22/04/2015, PGS.TS
Nguyễn Thị Minh Thái khẳng định: “Báo chí truyền thông (BCTT) của bất kỳ
quốc gia nào cũng có nhiệm vụ truyền thông về nền văn hóa của chính quốc
gia mình”. [111]. Báo chí Việt Nam hiện đại mặc nhiên phải truyền thông về
nền văn hóa Việt Nam với toàn bộ sinh hoạt văn hóa của người Việt.
Từ sinh hoạt văn hóa truyền thống Việt Nam vốn thuộc v ng văn hóa
phương Đông nông nghiệp điển hình. Khi bị thực dân Pháp xâm lược và bị
biến thành thuộc địa của Pháp, một cuộc giao lưu văn hóa Đông Tây đã xảy
ra, và dù muốn dù không, nền văn hóa nông nghiệp căn cơ của Việt Nam
cũng bị được “Tây hóa” như một xu hướng văn hóa không tránh khỏi. Quá
trình tiếp biến mạnh mẽ giữa Đông và Tây giữa cổ và kim, tạo nên một cuộc
thay đổi mà bất cứ một cuộc bể dâu nào cũng không thể so sánh. Để rồi từ
trong lòng sự tiếp biến này hình thành nên những dòng chảy văn hóa mới
hoàn toàn khác biệt, phát triển mạnh mẽ, mà tiêu biểu nhất có lẽ là sự ra đời
của chữ Quốc ngữ (dẫn tới sự xuất hiện của báo chí Quốc ngữ và nền văn học
nghệ thuật hiện đại), lối sống đô thị và thói quen tiếp nhận thông tin theo kiểu
phương Tây của công chúng. Tuy nhiên, chính ba hằng số “nông dân – nông
nghiệp – nông thôn” như GS Trần Quốc Vượng sử dụng để định danh nền văn
hóa nông nghiệp đặc thù của Việt Nam [137, tr184] đã dẫn tới “bi kịch của sự
phát triển” với những xung đột giữa “những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ
ấy với những điều mới lạ của văn hóa Tây phương” mà học giả Đào Duy Anh
trong “Việt Nam văn hóa sử cương” [2, tr39]. Và tất nhiên báo chí Việt Nam
có nhiệm vụ truyền thông về những bi kịch và xung đột ấy.
1
Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam (NSBD VN) trong xã hội hiện đại là một
kiểu người và kiểu sinh hoạt văn hóa biểu thị rõ ràng cho sự tiếp biến văn hóa
Đông – Tây và được công chúng quan tâm. Truyền thông về giới này cũng
chính là truyền thông về văn hóa Việt Nam. Vài thập kỉ trở lại đây khi báo
chí bước vào thời kì tự chủ tài chính khi văn hóa đại chúng và công nghiệp
giải trí phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam thì thông tin về giới NSBD trên báo
chí đặc biệt là trên báo điện tử luôn chiếm dung lượng lớn. Bên cạnh những
thông tin nghiêm túc về hoạt động nghề nghiệp của NSBD, báo điện tử (với
những ưu thế dựa trên nền tảng internet) cũng truyền tải nhiều khía cạnh khác
nhau về đời sống riêng của họ như chuyện tình cảm, hôn nhân, sự cố trang
phục trên thảm đỏ, phát ngôn gây sốc, mối quan hệ phức tạp trong ngành
công nghiệp giải trí… Những thông tin này vừa để giúp người nghệ sĩ tới gần
hơn với công chúng nhưng cũng vừa để đáp ứng sự tò mò vô biên của công
chúng và lôi kéo họ nhằm tăng số lượng lượt xem, lượt bình luận và cùng với
đó là doanh thu quảng cáo cho các tòa soạn. Ở góc độ ngược lại chính giới
NSBD VN cũng nhận thức rất rõ vai trò ưu thế của báo điện tử, tìm mọi cách
để khai thác, sử dụng báo điện tử cho việc phát triển nghề nghiệp và sự nổi
tiếng của mình. Sự “tương tác” và “lợi dụng” lẫn nhau giữa hai bên khiến
thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử luôn dồi dào. Nhờ đó, bất kể
ngày đêm công chúng đều có thể vừa đọc, vừa nghe, vừa xem clip, vừa tương
tác, phản hồi ý kiến, thậm chí đối thoại xung đột, cãi vã và cả... “ném đá”
những thông tin về NSBD nếu muốn.
Văn nghệ sĩ nói chung và NSBD VN nói riêng giữ một vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội hiện đại. Thời gian qua đội ngũ văn nghệ sĩ đã
cống hiến cho nhân dân, cho nền văn hóa Việt Nam và cho nhân loại những
tác phẩm có giá trị, thể hiện được bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam. Do đó
thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo chí không chỉ được
2
đông đảo công chúng quan tâm, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần
của công chúng mà còn tác động rất lớn tới việc hình thành hệ giá trị cho
công chúng, nhất là công chúng trẻ. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả không thể
phủ nhận trong việc truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam; việc khai thác
quá đà những thông tin hậu trường của giới NSBD VN; đặc biệt là hiện tượng
kết nối giữa báo điện tử và truyền thông xã hội (social media) khiến báo điện
tử bộc lộ không ít những biểu hiện tiêu cực, lệch chuẩn trong cách thức thông
tin. Nhiều tác phẩm báo chí TPBC bị các nhà nghiên cứu và công chúng lên
án gọi là “thảm họa” truyền thông là “bãi rác” và nơi bóp méo chân dung
của giới NSBD, thiếu tầm nhìn văn hóa truyền thông nặng về giải trí tầm
thường, “thổi phồng” sự thật, tạo dư luận xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy
tín, danh dự của nhiều cá nhân, tổ chức, dẫn đến những hiện tượng tiêu cực
trong xã hội như: bạo lực học đường, sống ảo suy thoái đạo đức… Và những
“mảng tối” này trong hiện trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
hiện nay là một phần trong tấn “bi kịch của sự phát triển” của xã hội Việt
Nam hiện đại TK XXI mà học giả Đào Duy Anh từng tiên đoán từ năm
1938. Cắt nghĩa hiện tượng này từ góc nhìn văn hóa Việt có thể thấy, Việt
Nam đang ở vào buổi giao thời trong giao lưu hội nhập văn hóa toàn cầu.
Những hệ giá trị văn hóa truyền thống giúp điều tiết xã hội trước đây giúp
con người định hướng các sống, cách ứng xử dù không biến mất hẳn nhưng
đã không còn ph hợp với đời sống hiện đại, thậm chí nảy sinh ra những phi
giá trị. Trong khi đó những giá trị mới lại chưa được định hình. Xã hội rơi
vào khủng khoảng giá trị khiến con người mất niềm tin và định hướng. Nhiều
phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt đang bị thách thức bởi những làn
sóng văn hóa ngoại lai, bởi logic kinh tế thị trường và đời sống vật chất tiện
nghi. Công chúng được tiếp cận nhiều thông tin nhưng lạc lối trong xác định
lý tưởng sống, không có giá trị để theo đuổi. Trong khi đó báo điện tử khi
3
thông tin về giới NSBD VN lại truyền bá những xu hướng, phong cách sống
mới mà có thể mâu thuẫn với những chuẩn mực cũ. Thực trạng này dẫn đến
vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ngày trở nên cấp thiết,
cần phải được đặt ra đánh giá chính xác và nhất là được phản biện từ góc
nhìn văn hóa, bởi nếu không sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực làm
phương hại hình ảnh của văn hóa dân tộc, làm méo mó, tầm thường thẩm mĩ
văn nghệ của dân tộc Việt Nam trên đường phát triển trong xu hướng hội
nhập toàn cầu. D cho đi qua bao cuộc bể dâu giao lưu hay tiếp biến văn
hóa đi chăng nữa thì một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí Việt
Nam là phải truyền thông về văn hóa Việt Nam một cách có văn hóa ph
hợp với hệ giá trị văn hóa Việt Nam, đảm bảo sự hài hòa giữa việc phát triển
các giá trị mới gắn liền với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái phân tích: “Nhiệm
vụ hàng đầu của nhà báo Việt Nam muốn truyền thông về văn hóa Việt Nam,
đương nhiên phải giải mã được bản sắc văn hóa Việt, nếu không sẽ không
thể làm tốt nhiệm vụ căn cơ này của nền BCTT Việt” [111].
Mặc dù có nhiều luận án, luận văn khóa luận, bài nghiên cứu khoa học,
bài báo... đề cập tới vấn đề thông tin về NSBD VN trên báo chí nhưng nhìn
nhận vấn đề này từ góc nhìn văn hóa Việt, trên một loại hình báo chí hiện đại
là báo điện tử thì vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu. Từ sự
cấp thiết đó tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Thông tin về giới nghệ sĩ biểu
diễn Việt Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt” làm luận án tốt
nghiệp bậc học Tiến sĩ chuyên ngành Báo chí – Truyền thông. Tác giả hy
vọng kết quả nghiên cứu của luận án có đóng góp nhất định cho lĩnh vực khoa
học chuyên ngành, cung cấp cho các cơ quan báo chí nhà quản lí báo chí một
bức tranh tổng thể thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên
4
một số tờ báo điện tử ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp phù hợp để cải tiến
nội dung cũng như hình thức khi thông tin về lĩnh vực này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về thông tin trên báo chí, về góc nhìn văn hóa
Việt, về giới NSBD và giới NSBD VN. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn để
đánh giá thực trạng và chất lượng thông tin, chỉ ra thế mạnh, hạn chế, từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước) có liên quan
tới đề tài để làm rõ những vấn đề đã nghiên cứu, làm tiền đề cho nghiên cứu
tiếp theo của luận án.
- Làm rõ những khái niệm cơ bản được sử dụng trong luận án. Xác lập
mối quan hệ giữa nền văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam. Giải mã nền
văn hóa Việt Nam và hệ giá trị văn hóa Việt Nam để xác lập góc nhìn văn hóa
Việt các tiêu chí đánh giá thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc
nhìn văn hóa Việt.
- Phân tích đánh giá thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên các
trang Vietnamnet.vn, Ngoisao.net, News.zing.vn ở cả ba góc độ: chủ thể
thông tin đối tượng được thông tin và đối tượng tiếp nhận thông tin. Soi
chiếu thực trạng này từ góc nhìn văn hóa Việt, chỉ ra những điểm tích cực,
hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến thực trạng.
- Phân tích các kết quả thu được, đưa ra các khuyến nghị khoa học, chỉ
ra các vấn đề cấp thiết, từ đó đề xuất các định hướng và giải pháp chính sách
nhằm nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo mạng điện tử.
- Hoàn thành báo cáo khoa học, công bố kết quả nghiên cứu.
5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo điện
tử Việt Nam đầu thế kỉ 21.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Thông tin về giới NSBD VN là một đề tài rộng báo điện tử ở Việt Nam
cũng phong phú về số lượng nên luận án này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu
thông tin về giới NSBD VN trên sự lựa chọn 3 trang: Vietnamnet.vn,
Ngoisao.net và News.zing.vn. Mặc dù chỉ là trang con của Vnexpress.net
nhưng Ngoisao.net hoạt động gần như độc lập với trang báo điện tử này.
Ngoisao.net có quy chế thu chi riêng biệt, tổ chức hệ thống tòa soạn và quy
trình hoạt động sản xuất tin bài đầy đủ như bất cứ một trang báo điện tử nào
khác. Do đó tác giả lựa chọn Ngoisao.net làm một trong những đối tượng
khảo sát khi nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử bởi
những đặc trưng khi sản xuất tin bài về giới NSBD VN của trang tin này.
Việc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện thử khi trở thành vấn đề
nghiên cứu sẽ được tác giả nhìn nhận, phân tích trên cả hai mặt tích cực và
tiêu cực. Tuy nhiên, do giới hạn không gian của một luận án Tiến sĩ cho nên
khi nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu phần tiêu cực với những lỗi văn hóa gặp phải trong quá
trình thông tin trên tinh thần phản biện xã hội (PBXH). Trong bối cảnh truyền
thông mạng xã hội phát triển mạnh mẽ và phức tạp như hiện nay, việc chỉ ra
và nghiên cứu chuyên sâu các hiện tượng tiêu cực, các lỗi văn hóa trong quá
trình thông tin về giới NSBD VN đồng thời chỉ rõ ảnh hưởng của giới NSBD
VN và những thông tin về họ đối với đời sống xã hội hiện đại nói chung đối
với công chúng và chính những NSBD nói riêng có ý nghĩa nhất định, cung
cấp cho các cơ quan báo chí các nhà quản lý báo chí những giải pháp phù
6
hợp nhằm cải tiến nội dung và hình thức khi thông tin về giới NSBD VN, từ
đó thoát khỏi tình trạng “hỗn mang” và “bi kịch” khi thông tin về giới này.
Tác giả cũng tập trung nghiên cứu thông tin về giới nghệ sĩ biểu
diễn Việt Nam hoạt động ở hai loại hình nghệ thuật biểu diễn là âm nhạc
và điện ảnh, bởi lẽ đây là những loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại
gắn liền với văn hóa đại chúng (mass/popular culture), phản ánh rõ ràng
nhất sự giao lưu tiếp biến của văn hóa toàn cầu và được đông đảo công
chúng quan tâm.
Thời gian khảo sát: từ tháng 12/2014 tới tháng 12/2016 được cập nhật
và bổ sung thêm trong quá trình nghiên cứu).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
- Vận dụng quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí
và văn hóa về vai trò của báo chí trong việc phát triển văn hóa Việt Nam:
Nghị quyết 23 - NQ TƯ về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới và Chỉ thị số 46-CT TƯ của Ban Bí thư Trung
ương định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ
gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Trong đó báo
chí phải đưa các nhân tố văn hóa tinh thần nhân văn thấm sâu vào các
lĩnh vực đời sống, phát triển kinh tế văn hóa xã hội qua đó gìn giữ, phát
huy được truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc trước sự tác động của
những yếu tố bên ngoài.
- Vận dụng lý thuyết về “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam” của GS. Trần
Ngọc Thêm (Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đền hiện đại và con đường
tới tương lai, NXB Văn hóa – Văn nghệ, 2016) để giải mã văn hóa Việt Nam,
xây dựng góc nhìn văn hóa Việt và các tiêu chí đánh giá từ góc nhìn này, từ
đó sử dụng như điểm tựa phân tích các hiện tượng thông tin về giới NSBD
VN trên báo điện tử hiện nay.
7
- Vận dụng khái niệm “Bá quyền văn hóa” của triết gia chính trị, sáng
lập viên Đảng Cộng sản Ý – Antonio Gramsci (1981-1937 để giải thích các
xu hướng phát triển văn hóa nghệ thuật và thông tin văn hóa nghệ thuật (bao
gồm giới NSBD) trên báo chí.
- Vận dụng mô hình truyền thông đại chúng của Stuart Hall (Endcoding
and Decoding), mô hình truyền thông phức hợp của PGS.TS Trương Đình
Chiến (Quản trị Marketing – NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2017) để phân
tích các yếu tố tham gia vào quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử hiện nay cũng như sự tương tác lẫn nhau của các yếu tố này.
- Vận dụng nghiên cứu về “mô hình Ozone” và “Các nhân tố F” của
Philip Kotler & Hermawan Kartajaya Iwan Setiawan (Marketing 4.0 –
Moving from Traditional to Digital, Wiley Edition, 2017) để phân tích vai trò
và ảnh hưởng của giới NSBD VN đối với cả báo điện tử và công chúng)
trong truyền thông hiện đại.
- Vận dụng lý thuyết về “Cơ chế tác động của báo chí đến công chúng”
của PGS. TS Nguyễn Văn Dững (Báo chí truyền thông hiện đại – NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội) để phân tích những ảnh hưởng và tác động của thông
tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay tới công chúng cũng như sự
tiếp nhận và đánh giá của công chúng với thông tin về giới này.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích nội dung văn bản: luận án nghiên cứu thông
tin về giới NSBD VN thông qua 300 tác phẩm được lựa chọn ngẫu nhiên theo
tác phẩm hoặc các chuỗi tác phẩm viết về những sự kiện nổi bật của những
NSBD VN nổi tiếng ở hai lĩnh vực âm nhạc và điện ảnh trên ba tờ báo điện tử
Vietnamnet.vn, Ngoisao.net, News.zing.vn. Tác giả lựa chọn những NSBD
VN nổi bật ở nhiều khía cạnh, theo nhiều góc độ đại diện cho những hình
ảnh, lối sống và tư duy khác nhau như: Khánh Ly Đặng Thái Sơn Sơn T ng
8
MTP, Hồ Ngọc Hà, Ngọc Trinh…Một số các từ khóa được sử dụng để tìm
kiếm các tác phẩm này như: “Khánh Ly + ngoisao.net + 2016 2015 2014”
“Hồ Ngọc Hà + ngoisao.net + 2016/2015/2015” “Hồ Ngọc Hà Chu Đăng
Khoa + News.zing.vn”… Đây là những TPBC thực tế đáng tin cậy để phân
tích trong luận án, từ đó đưa ra những đánh giá và kết luận cụ thể.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: luận án phân tích, hệ thống hóa các
văn bản, giáo trình, công trình nghiên cứu...liên quan đến đề tài luận án.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi:
Trường hợp nghiên cứu của luận án là cỡ mẫu lớn và không biết tổng
n =
z2( p.q ) e2
thể do đó tác giả áp dụng công thức lựa chọn cỡ mẫu:
Trong đó:
n = là cỡ mẫu
z = giá trị phân phối tương ứng với độ tin cậy lựa chọn (ở đây tác giả
lựa chọn độ tin cậy 95% nên giá trị z là 1 96…
p = là ước tính tỷ lệ % của tổng thể
q = 1-p (tỷ lệ p và q được ước tính 50% 50% đó là khả năng lớn nhất
có thể xảy ra của tổng thể)
e = sai số cho phép (+-5%)
Với Cỡ mẫu với sai số cho phép là ±5%, độ tin cậy là 95%, P=0.5, cỡ
của tổng thể là >100.000 thì cỡ mẫu n tối thiểu với sai số cho phép là 400. Do
đó để đảm bảo độ tin cậy, tác giả phát 531 phiếu điều tra cho công chúng
được lựa chọn một cách ngẫu nhiên) của báo điện tử. Bảng hỏi đưa ra từ 15-
20 câu hỏi để khảo sát đánh giá của công chúng hiện nay về thông tin NSBD
VN trên báo điện tử; đo lường mức độ và phạm vi tác động của thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử tới tư duy lối sống, thẩm mĩ…của họ; đo
lường sự thay đổi thói quen trong việc tiếp nhận thông tin của công chúng…
9
từ đó giúp tác giả so sánh và hệ thống được những tác động của thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử đối với các nhóm công chúng khác nhau ở
Việt Nam. Để đảm bảo tính khách quan, tác giả sử dụng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên ở cả khu vực thành thị và nông thôn (Hà Nội và Vĩnh Phúc .
Trong đó về giới tính thì nữ chiếm 54,7%, nam chiếm 45,3%; về độ tuổi: tuổi
từ 16-45 chiếm 73%; về ngành nghề: phổ biến nhất là công chức, cán bộ văn
phòng (chiếm hơn 40% ; nông dân chiếm 7,2%, kinh doanh chiếm 21,8%; về
trình độ văn hóa thì 62% có trình độ đại học trở lên.
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả thực hiện phỏng vấn sâu 9 nhân
vật bao gồm lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông (TT& TT), lãnh đạo tòa
soạn báo điện tử và một số phóng viên (PV), biên tập viên (BTV) báo điện tử;
phỏng vấn sâu một số độc giả. Từ đó sử dụng vào việc phân tích các TPBC
liên quan đến vấn đề nghiên cứu và rút ra các kết luận liên quan đến nội dung
nghiên cứu trong luận án.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết 1: Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử ngày càng
nhiều và là nguồn thông tin được công chúng quan tâm trong đời sống xã hội
Việt Nam hiện đại; Đặc trưng loại hình báo điện tử đã tự tạo lập ưu thế vượt
trội trong việc thông tin về giới NSBD VN.
- Giả thuyết 2: Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã phần
nào thực hiện được nhiệm vụ truyền thông văn hóa tuy nhiên quá trình thông
tin nảy sinh những phi giá trị gây ảnh hưởng tiêu cực cho văn hóa Việt.
- Giả thuyết 3: Áp lực kinh tế thị trường, hiện tượng thương mại hóa
báo chí khiến báo điện tử mất dần vai trò định hướng là một nguyên nhân
quan trọng dẫn tới những phi giá trị cho văn hóa Việt trong việc thông tin về
giới NSBD VN.
10
6. Đóng góp của luận án
- Cái mới của luận án: Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những nhà
nghiên cứu đi trước, luận án hệ thống hóa và làm rõ vấn đề thông tin về giới
NSBD VN trên truyền thông từ góc nhìn văn hóa Việt; tác động của những
thông tin này tới công chúng trong môi trường truyền thông hiện đại với sự
ảnh hưởng sâu sắc của giao lưu văn hóa toàn cầu và tư duy kinh tế thị trường;
- Ý nghĩa lý luận: Dựa trên thành tựu của những nhà khoa học đi trước,
luận án xác lập mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí; vấn đề thông tin về giới
NSBD Việt Nam trên báo điện tử; mô hình thông tin về giới NSBD VN trên
báo điện tử, góc nhìn văn hóa Việt các tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin
từ góc nhìn văn hóa Việt để phân tích thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là một minh chứng về lợi thế đặc
thù của loại hình báo điện tử khi thông tin về giới NSBD VN; vai trò và tác
động to lớn của thông tin về giới NSBD VN đối với đời sống xã hội hiện đại
nói chung đối với công chúng và chính những NSBD VN nói riêng; thể hiện
sứ mệnh quan trọng của báo điện tử trong việc truyền thông văn hóa Việt.
Việc thực hiện đề tài góp phần tìm hiểu một yếu tố quan trọng trong việc
thông tin về giới NSBD Việt Nam trên báo điện tử hiện nay là xác lập và tuân
thủ theo những tiêu chí văn hóa dựa trên hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt
Nam trong quá trình thông tin. Luận án cũng mở ra hướng nghiên cứu liên
ngành giữa báo chí truyền thông và văn hóa.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo được nhiệm
vụ xuyên suốt của báo chí Việt hiện đại là truyền thông về văn hóa Việt Nam,
về giới NSBD VN và truyền thông một cách có văn hóa, phù hợp với hệ giá
trị văn hóa Việt Nam. Đề tài thành công sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các
nhà nghiên cứu báo chí truyền thông, nhà quản lý báo chí, nhà báo, phóng
viên, biên tập viên và sinh viên báo chí…
11
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận án gồm
4 chương cơ bản:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí
Chương 2: Cơ sở lý luận của góc nhìn văn hóa Việt và vấn đề thông
tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
Chương 3: Thực trạng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
trên Vetnamnet.vn, News.zing.vn, Ngoisao.net từ góc nhìn văn hóa Việt
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
12
CHƢƠNG 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ THÔNG TIN
VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN TRÊN BÁO CHÍ
Để lý giải một cách rõ ràng vấn đề nghiên cứu của luận án, trước tiên
tác giả tìm hiểu và khái quát những công trình nghiên cứu mang tính nền tảng
về quan hệ chung nhất giữa nền văn hóa Việt Nam và nền báo chí Việt Nam,
đặt VHNT như là một thành tố của văn hóa Việt Nam trong mối quan hệ này,
sau đó mới hướng trọng tâm vào vấn đề cụ thể hơn: thông tin về giới NSBD
trên báo chí.
1.1 Nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam
Hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa và báo chí Việt Nam đều nhận định
rằng: các nền văn hóa và các nền báo chí trên toàn cầu đều có mối quan hệ qua
lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên đặc trưng của nền văn hóa khác nhau sẽ
sinh ra đặc trưng khác nhau của nền báo chí ở mỗi quốc gia.
Ở góc độ văn hóa học, trong sách “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan
Ngọc; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” và “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của
Trần Ngọc Thêm; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” và “Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi
và suy ngẫm” của Trần Quốc Vượng…, các tác giả đều chỉ ra rằng: chữ Quốc
ngữ và báo chí Việt Nam được hình thành từ trong cuộc giao lưu tiếp xúc với
với văn hóa phương Tây khi người Pháp đặt bước chân xâm lược vào lãnh thổ
Việt Nam. Mặc dù mục đích ban đầu của báo chí là phục vụ cho sự cai trị của
thực dân Pháp, phổ biến các văn kiện chính thức của chính quyền Pháp, tuy
nhiên sau này báo chí (nhất là báo chí cách mạng đã góp phần quan trọng
trong việc phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí, thức tỉnh ý thức dân tộc và
truyền thông văn hóa Việt Nam. Những nghiên cứu này đã cho thấy, giữa văn
hóa và báo chí có mối quan hệ qua lại với nhau, báo chí là một sản phẩm của
văn hóa báo chí quốc ngữ Việt Nam là sản phẩm ra đời trong lớp văn hóa
13
giao lưu với văn hóa phương Tây; đồng thời những sự thay đổi của văn hóa
cũng được phản ánh, truyền thông trên báo chí.
Ở góc độ báo chí học, giáo trình “Lịch sử báo chí Việt Nam” do GS.TS
Đỗ Quang Hưng PGS.TS Đào Duy Khoát; PGS.TS Vũ Duy Thông chủ biên,
sách “Về báo chí” của Hồ Chí Minh do Tạ Ngọc Tấn tuyển chọn và giới thiệu
đã chỉ ra: về căn bản, báo chí quốc ngữ là “con đẻ” của chế độ thuộc địa và
luôn bị chế độ này khống chế. Bởi vậy, lịch sử báo chí Việt Nam đồng thời
cũng là sự phản ánh của lịch sử cận đại Việt Nam, lịch sử văn hóa ngôn ngữ
(chữ quốc ngữ văn học, nghệ thuật… Việt Nam. Mặc d có đề cập tới quan
hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam nhưng những nghiên cứu này
chủ yếu đề cập đến những vấn đề có tính chất lịch sử của báo chí Việt Nam
trong buổi đầu của nó, những điều kiện ra đời của nền báo chí thuộc địa.
Văn hóa và báo chí luôn là mối quan hệ hai chiều, viết về mối quan hệ
này, bài nghiên cứu “Nhà báo – Chủ thể chính trị xã hội” của Th.S Trần Văn
Phương nằm trong cuốn “Những vấn đề về văn hóa, báo chí – truyền thông”
(Phạm Ngọc Trung chủ biên) đề cập tới báo chí giống như tấm gương phản
chiếu văn hóa qua đó văn hóa biết phải làm gì để bổ sung, chỉnh sửa chính
mình. Trong kỷ yếu “Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội nhập” (NXB
Thông tin và truyền thông, 2013) cũng đăng tải nhiều bài nghiên cứu đề cập
tới quan hệ giữa văn hóa và báo chí như: “Văn hóa truyền thông và truyền
thông có văn hóa” của GS. Hà Minh Đức, “Báo chí và văn hóa” của NB Phan
Quang, “Báo chí – truyền bá và sáng tạo văn hóa”- PGS.TS Vũ Duy Thông
Bàn về hàm lượng văn hóa và tính nhân văn của báo chí hiện nay” của
PGS.TS Nguyễn Văn Dững…Các bài nghiên cứu đều khẳng định mỗi dân tộc
đều có một nền văn hóa với bản sắc riêng, góp phần tạo nên sự bền vững của
dân tộc. Mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí được các tác giả nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau: chữ viết, nghệ thuật, giáo dục văn hóa nhà báo….,
14
từ đó chỉ ra rằng báo chí là một bộ phận cấu thành văn hóa đồng thời là
phương tiện thực thi, quảng bá văn hóa, tự thân sáng tạo những giá trị mới của
văn hóa. Do vậy, việc nhìn nhận đánh giá báo chí hay người làm báo đều
phải từ góc nhìn văn hóa.
Bài nghiên cứu “Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền thông” của
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái đăng trên trang www.ajc.vn ngày
20 04 2015 cũng chỉ ra: ngay từ khi tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ra
đời văn hóa Việt Nam đã được nhận diện và truyền thông trên báo chí Việt
Nam. Bài nghiên cứu là một tư liệu quý, mang lại cho người đọc cái nhìn
tổng quan về quan hệ giữa nền văn hóa Việt Nam và báo chí Việt Nam
[111]. Hay nghiên cứu “Một số vấn đề xung quanh khái niệm Văn hóa
truyền thông” của TS. Nguyễn Đức Hạnh không chỉ bàn về văn hóa và
những vấn đề văn hóa liên quan đến quá trình phát triển của đất nước và của
thời đại, mà còn bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và truyền thông. Tác giả
đã dựa trên quan điểm nghiên cứu những hoạt động truyền thông như một
hiện tượng về văn hóa để tìm hiểu các yếu tố trong toàn bộ quá trình hoạt
động truyền thông của xã hội loài người… Nghiên cứu đặt ra vấn đề phải
dùng lý thuyết về văn hóa hiểu được định nghĩa văn hóa Việt Nam thì mới
giải mã được nền báo chí Việt Nam, từ đó mới truyền thông văn hóa Việt
Nam một cách có văn hóa được.
Ngoài ra, rất nhiều sách của các tác giả như: “Việt Nam văn hóa sử
cương” của Đào Duy Anh; “Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam” của Vũ
Ngọc Khánh; “Văn hóa Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm” của Trần Quốc
Vượng; “Một cách tiếp cận văn hóa” của Phan Ngọc; “Văn hóa Việt Nam –
đặc trưng và cách tiếp cận” của Lê Ngọc Trà...cùng nhiều bài nghiên cứu
khác cũng đề cập tới sự ra đời của báo chí Việt Nam với tư cách là một sản
phẩm của văn hóa Việt Nam, có nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt.
15
1.2 Nghiên cứu vấn đề truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam trên
báo chí Việt Nam
Văn hóa nghệ thuật là một thành tố của văn hóa do vậy giữa văn hóa
nghệ thuật và báo chí đương nhiên cũng tồn tại mối quan hệ qua lại. Vấn đề
truyền thông VHNT Việt Nam trên báo chí Việt Nam cũng được nhiều tác giả
bỏ công sức ra để nghiên cứu. Trong sách “Báo chí Việt Nam từ khởi thủy tới
1945”, TS. Huỳnh Văn Tòng đã khẳng định, báo chí tạo ra những ảnh hưởng
lớn tới VHNT Việt Nam mà trước hết là văn học Việt Nam. Trong giai đoạn
đầu, hai tờ báo quan trọng nhất góp phần vào việc xây dựng nền văn học Việt
Nam là Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí khi thu hút được những
nhà văn nổi tiếng, tạo ra phong trào văn học có thể lôi kéo sự tham gia của
những nhà tri thức và giới trẻ Việt Nam say mê nền văn học quốc ngữ, dẫn
đến những ảnh hưởng đáng kể ở lĩnh vực văn chương. Cuốn sách này cũng
nghiên cứu quan hệ giữa báo chí Việt Nam với VHNT Việt Nam trong tiến
trình lịch sử đầy biến động cho tới năm 1945 [126, tr118].
Nghiên cứu về vấn đề truyền thông VHNT Việt Nam trên báo chí Việt
Nam, sách “Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945” của tác giả Đỗ Quang
Hưng đã đề cập tới vai trò của báo chí trong việc định hình, phát triển và
truyền thông VHNT Việt Nam kể từ khi giao lưu với văn hóa phương Tây.
Tác giả phân tích dưới sự điều khiển của Trương Vĩnh Ký Gia Định Báo –
tờ báo quốc ngữ đầu tiên đã có nhiều thay đổi quan trọng văn học nghệ thuật
được đăng tải với nội dung phong phú và khởi sắc hơn nhờ những bài khảo
cứu, nghị luận và thơ ca của các danh sĩ Nam kỳ như: Huỳnh Tịnh Của,
Trương Minh Ký… [61, tr28]. Hay tờ Nông cổ phím đàm tuy là tờ báo kinh tế
nhưng cũng dành tới 3 4 trang đăng tải truyện dịch, truyền dài, truyện ngắn,
mục Thi phổ đăng sáng tác mới văn học dân gian… . Chính tờ này là tờ báo
đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
16
Như vậy, truyền thông VHNT Việt Nam đã là nhiệm vụ được xác định ngay từ
khi ra đời của báo chí quốc ngữ Việt Nam.
Giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí” do PGS.TS Tạ Ngọc Tấn chủ biên
đã chỉ rõ: một trong những nhiệm vụ của báo chí là truyền đi các hoạt động
văn hóa văn nghệ, các hoạt động nghệ thuật một cách rộng khắp, trở thành
món ăn tinh thần cho cả xã hội, hàng ngày, hàng giờ tác động vào đời sống
tinh thần của xã hội Việt Nam hiện đại, từ đó góp phần nâng cao trình độ hiểu
biết đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi giải trí của nhân dân lao động. Giáo trình
bước đầu nghiên cứu sự phát triển của những loại hình truyền thông mới (ví
dụ như truyền hình) và cho rằng các loại hình mới mẻ này đã phá vỡ những
giới hạn trong truyền thông VHNT của những loại hình báo chí cũ ví dụ như
báo in). Ngoài việc tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận thông tin VHNT,
những loại hình truyền thông mới cũng tạo ra rất nhiều mặt trái khi truyền
thông về lĩnh vực này. Hay sách “Cơ sở lý luận báo chí” của PGS.TS Nguyễn
Văn Dững cho rằng, không chỉ truyền tải các giá trị văn hóa của dân tộc, báo
chí còn là những kênh truyền thông tạo cơ hội cho đông đảo nhân dân tham
gia giải trí thông qua những tin tức, những chương trình mang tính nghệ thuật,
giúp công chúng cân bằng trạng thái tâm lý và tái sản xuất sức lao động. [22,
tr.187-191]. Những tin tức giải trí này chính là những chuyên trang văn hóa –
giải trí trên báo in báo điện tử; các bản tin chương trình gameshow chương
trình ca nhạc, phim ảnh… trên phát thanh truyền hình… Như vậy, theo quan
điểm của các tác giả, báo chí có nhiệm vụ là là kênh truyền bá, phổ biến một
cách sinh động và hấp dẫn đời sống VHNT văn nghệ nhằm nâng cao trình độ
hiểu biết của công chúng và đáp ứng nhu cầu thưởng thức tin VHNT của nhân
dân. Tuy nhiên, trong những nghiên cứu này, các tác giả chỉ mới đề cập tới
quan hệ giữa VHNT với báo chí một cách chung chung, gợi mở chứ chưa
phân tích hay khảo sát thực nghiệm kĩ càng.
17
Luận văn Thạc sĩ của Trương Thị Bích Ngọc với đề tài “Văn hóa ứng xử
của các nhà báo trực tuyến đối với thông tin văn hóa nghệ thuật” cho thấy tình
trạng loạn thông tin VHNT trên báo trực tuyến. Luận văn này đã chỉ ra cách các
nhà báo tiếp cận khai thác đề tài và đưa thông tin về VHNT trên báo trực tuyến
hiện nay; Nghiên cứu tính đặc thù của báo trực tuyến trong thông tin VHNT so
với loại hình báo phát thanh, báo in, báo truyền hình; đưa ra định hướng để góp
phần giúp các nhà báo trực tuyến khai thác và cung cấp thông tin VHNT một
cách hiệu quả. Gần như có c ng một góc nhìn với Trương Thị Bích Ngọc, luận
văn của Trần Thị Như Quỳnh với đề tài: “Nghiên cứu thảm họa báo mạng
trong việc thông tin về văn hóa nghệ thuật (khảo sát báo điện tử Vietnamnet,
Vnexpress và Dantri năm 2011-2012 ” cũng phân tích đưa ra cái nhìn thực tế,
khách quan và chân thực về tình trạng bị tha hóa trong cách ứng xử của các nhà
báo khi tiếp cận thông tin VHNT đồng thời đưa ra những kinh nghiệm trong
việc ứng xử với thảm họa báo mạng và đề xuất mô hình quản lý một cách hợp
lý cho báo mạng điện tử Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai luận văn của các tác giả
trên mới nhìn nhận và phân tích các hiện tượng thông tin VHNT trên báo trực
tuyến ở góc độ nhà báo và ứng xử của họ chưa gắn vào đó các phân tích từ góc
nhìn văn hóa, vì vậy chưa đưa ra được cái nhìn khái quát và tổng thể nhất.
Có thể thấy, gần như không có mâu thuẫn giữa các nhà khoa học trong
việc định vị mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí cũng như nhiệm vụ truyền
thông văn hóa nghệ thuật của báo chí. Báo chí là một sản phẩm của văn hóa và
một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí là truyền thông về văn hóa.
Văn hóa Việt Nam có bao nhiêu vấn đề thì báo chí Việt Nam cũng có bấy
nhiêu vấn đề để thông tin. Chỉ khi báo chí Việt Nam ra đời thì mới có sự phản
ánh sinh hoạt văn hóa Việt Nam theo cách của phương Tây và trong toàn bộ
sinh hoạt ấy mặc nhiên có sinh hoạt về nghệ thuật, trong đó có sinh hoạt biểu
diễn của giới NSBD VN.
18
Những nghiên cứu về quan hệ giữa văn hóa và báo chí, về nhiệm vụ
truyền thông văn hóa nghệ thuật của báo chí đề cập ở trên là nền tảng lí luận,
cơ sở phương pháp luận cơ bản, quan trọng, gợi mở cho việc nghiên cứu vấn
đề thông tin về giới NSBD VN (một nội dung cụ thể của Văn hóa Việt Nam)
trên báo điện tử thế kỉ 21.
1.3 Nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào dùng thuật
ngữ “giới NSBD” nhưng trong rất nhiều tài liệu, bài viết, công trình nghiên
cứu trong nước và quốc tế đã ít nhiều đề cập tới giới NSBD theo nhiều cách
gọi khác nhau hoặc thông qua những “tập hợp” lớn hơn ngôi sao người nổi
tiếng người của công chúng...) mà giới NSBD là một “phần tử”.
Trong giới thuyết phạm vi nghiên cứu luận án, tác giả đã chỉ rõ trọng
tâm nghiên cứu của mình là thông tin về những nghệ sĩ tham gia vào các hoạt
động nghệ thuật biểu diễn hiện đại gắn liền với sự xuất hiện của công nghiệp
văn hóa cultural industry) ở hai lĩnh vực nổi bật nhất “nóng” nhất là: âm
nhạc và điện ảnh. Như vậy, giới NSBD mà luận án đề cập ở đây cũng ít nhiều
gắn liền với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của văn hóa đại chúng.
1.3.1 Các tài liệu quốc tế nghiên cứu vấn đề thông tin về giới NSBD trên báo chí
Một bộ phận các nhà nghiên cứu đã bày tỏ quan điểm phê phán mạnh mẽ
đối với văn hóa đại chúng bao gồm cả những NSBD trong thời đại công nghiệp
văn hóa.
Trong sách “Khai hóa văn minh và văn hóa thiểu số”, FR.Leavis đã
đứng trên lập trường của văn hóa tinh hoa elite culture để chỉ trích văn hóa
đại chúng. Ông cho rằng văn hóa đại chúng là tầm thường, nhằm mục đích
giải trí phàm tục khi phục vụ cho đại chúng có văn hóa thấp. Thương mại hóa
điều gắn liền với công nghiệp văn hóa và văn hóa đại chúng theo quan điểm
của nhà nghiên cứu này, là mối hiểm họa lớn của văn hóa.
19
C ng quan điểm với Leavis hai đại diện tiêu biểu của trường phái
Frankfurt là Max Horkheimer và Theodor trong bài tiểu luận kinh điển “Công
nghiệp văn hóa – Biện chứng của thời đại khai sáng” được công bố vào năm
1947 đã cho rằng văn hóa đã bị thương phẩm hóa được mua bán và trao đổi.
Nói cách khác văn hóa đã trở thành một sản phẩm hàng hóa. Trong nền văn
hóa công nghiệp mà văn hóa đại chúng được chứa đựng trong đó thì các
nguyên tắc thương nghiệp đã thay thế, lấn át các nguyên tác về nghệ thuật,
điều này khiến các tác phẩm văn hóa nghệ thuật trở nên tầm thường, không
còn mang các giá trị nghệ thuật nữa. Các học giả trường phái Frankfurt nhấn
mạnh văn hóa đại chúng là sự lừa dối, chế ngự đại chúng công khai của chủ
nghĩa cực quyền trong xã hội tư bản chủ nghĩa thông qua các hoạt động giải
trí; bởi thế, công chúng lúc này là những người tiêu thụ thụ động, không còn
óc phê phán trước sự thuyết phục của các phương tiện TTĐC.
Rất nhiều những tác phẩm nghiên cứu sau này cũng chỉ ra những khía
cạnh tiêu cực của văn hóa đại chúng và những NSBD các loại hình văn hóa
nghệ thuật đại chúng. Trong tiểu luận “The crisis in Culture” Sự khủng
hoảng trong văn hóa , tác giả Hannah Arendt khẳng định, truyền thông trong
nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến sự áp đặt của giải trí đối với văn hóa [162].
Hay MacDonald trong trong bài nghiên cứu “A theory of Mass Culture” in
trong sách “Mass culture” Văn hóa đại chúng đã nhìn nhận rằng văn hóa đại
chúng là một thứ văn hóa hời hợt, thiển cận. Sự phát triển của văn hóa đại
chúng qua một thời gian có thể khiến công chúng hướng tới những sản phẩm
văn hóa dễ dãi [174].
Không chỉ có Leavis, những học giả của trường phái Frankfut, hay
MacDonald, Hannah Arendt...mà rất nhiều các nhà nghiên cứu khác cũng có
cái nhìn thiếu tích cực khi đề cập tới khuynh hướng và sự phát triển của văn
hóa đại chúng và công nghiệp văn hóa. Trong đó phê phán sự thương phẩm
20
hóa nghệ thuật, sự hạ thấp và lấn át các giá trị nghệ thuật bằng giá trị tiêu
dùng của hàng hóa; sự lừa dối của chủ nghĩa tư bản, sự chế ngự của chủ nghĩa
cực quyền khi thông qua văn hóa đại chúng và những nghệ sĩ biểu diễn văn
hóa nghệ thuật đại chúng để lừa dối và chế ngự đại chúng. Trong xã hội hiện
đại văn hóa đại chúng ngày càng xuống cấp khi vì đặt mục đích lợi nhuận lên
cao nhất, những tin tức thời sự đã bị thay thế bằng các thông tin giải trí,
chương trình truyền hình, show thực tế...; trên mặt báo những thông tin về các
ngôi sao giải trí, những nghệ sĩ nổi tiếng nhờ tai tiếng hơn là nhờ thành tựu
biểu diễn nghệ thuật của chính họ, những hình ảnh thiếu vải của những người
được gọi là người của công chúng... đã thay thế cho những tin tức văn hóa
nghệ thuật chính thống.
Trái ngược với các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Frankfut hay
Leavis, MacDonald...., không ít nhà nghiên cứu có cái nhìn tích cực và cởi mở
hơn về văn hóa đại chúng cũng như công nghiệp văn hóa. Tiêu biểu nhất cho
luồng quan điểm này phải kể đến Raymond Wiliams – nhà nghiên cứu thuộc
trường phái Birmingham. Ông cho rằng văn hóa đại chúng không chú trọng
đến tính kinh điển mà hướng tới tính sáng tạo của công chúng trong quá trình
tiếp nhận và hưởng thụ các sản phẩm văn hóa công nghiệp đồng thời bày tỏ sự
bất đồng trong việc phân chia văn hóa thành văn hóa cấp thấp và cấp cao. Ông
muốn loại bỏ sự khác biệt giữa nghệ thuật cao cấp và văn hóa đại chúng.
Raymond và các đại diện của trường phái Birmingham khẳng định, nghiên cứu
văn hóa không chỉ bị giới hạn trong sản phẩm văn hóa mà còn là toàn bộ quá
trình từ sản xuất tới phân phối và tiêu thụ sản phẩm văn hóa.
Trong sách “Mass media and Popular culture”, K. Tunner [173] nhấn
mạnh tới mối quan hệ cộng sinh phụ thuộc lẫn nhau giữa văn hóa đại chúng
và truyền thông đại chúng. Điều này được chứng minh một cách rõ nét với sự
xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng
21
như phát thanh truyền hình internet… vào thế kỉ XX, tạo tiền đề cho sự phát
triển của xã hội thông tin trong kỷ nguyên số ở thế kỉ XXI. Mối liên kết chặt
chẽ giữa văn hóa đại chúng và truyền thông đại chúng đã dẫn tới sự xuất hiện
của văn hóa truyền thông đại chúng (media culture), với đặc trưng cơ bản là chịu
sự chế định của các phương tiện TTĐC. Văn hóa đã tiếp biến thay đổi từ đọc
sang nghe nhìn, từ bút mực sang báo mạng, từ văn hóa tinh hoa sang văn hóa
tiêu dùng, vận hành theo logic của kinh tế thị trường.
Năm 1995, trong “Media culture” Văn hóa truyền thông) [149], GS
Douglas Kellner đã đặt văn hóa truyền thông trong mối quan hệ với đời sống
chính trị xã hội; nghiên cứu những vấn đề chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại
trong văn hóa xã hội và truyền thông. Cùng với Douglas, hàng loạt công trình
nghiên cứu trong thập kỉ 80, 90 của thế kỉ XX cũng đề cập tới những vấn đề
đa dạng của văn hóa đại chúng đối với toàn bộ đời sống xã hội ở Tây Âu điển
hình như: “Truyền thông văn hóa và xã hội” (Collins, 1986); “Văn hóa truyền
thông đại chúng: đánh giá về truyền thông đa quốc gia” (Skovmand &
Schroder, 1992); Nghề làm báo và văn hóa đại chúng (Gripsrud, 1992);
“Hiểu biết về văn hóa truyền thông đại chúng” Stevenson 2002 …
Đến thế kỉ XXI, khi Philip Kotler nghiên cứu về truyền thông và
marketing trong kỉ nguyên số đã chỉ ra trong sách “Marketing 4.0, moving from
traditional to digital” [181] rằng: trong kỷ nguyên số, chủ thể truyền thông
phải truyền tải thông tin tới công chúng theo quy tắc hàng ngang (hoàn toàn với
quy tắc truyền taỉ thông tin theo hàng dọc trước đây và phải được sự chấp
nhận của công chúng. Bằng những nghiên cứu về công chung mục tiêu, Kotler
đã chứng minh văn hóa truyền thông trong kỉ nguyên số đã hoàn toàn thay đổi;
chỉ ra được mối quan hệ giữa doanh nghiệp – văn hóa đại chúng và truyền
thông; đồng thời lí giải được vì sao ngày nay người nổi tiếng lại xuất hiện trên
truyền thông như các công cụ quảng cáo hữu hiệu cho các doanh nghiệp.
22
Từ các nghiên cứu đề cập ở trên có thể thấy: văn hóa đại chúng và giới
NSBD là những thuật ngữ xuất phát từ phương Tây ra đời bởi tác động từ sự
hình thành và phát triển mạnh mẽ của các phương tiện TTĐC mới. Khi hướng
trọng tâm nghiên cứu sâu hơn vào đối tượng nghiên cứu là giới NSBD, nhiều
nhà nghiên cứu đã nhìn nhận và phân tích về giới này như một hiện tượng của
truyền thông hiện đại.
Sách “The Image: A Guide to Pseudo-Events in America” của Daniel
Broostin đã đưa ra khái niệm về người nổi tiếng “Người nổi tiếng là người
nổi tiếng vì sự nổi tiếng của họ” [144, tr.49]. Tác giả cho rằng: “Người hùng
tự tạo ra chính mình, còn người nổi tiếng do truyền thông tạo ra”. [144,
tr.61]. Trong “thành phần” của người nổi tiếng (celebrity) của Daniel bao
gồm cả những “ngôi sao” - diễn viên điện ảnh ca sĩ người mẫu... (Giới
NSBD), và Daniel cho rằng sự nổi tiếng của họ được tạo ra nhờ truyền thông,
nhờ sự xuất hiện của họ trên truyền thông, khi truyền thông bắt đầu chuyển
mối quan tâm từ những thành tựu nghề nghiệp của họ sang thông tin về đời
sống riêng tư của họ. Ví dụ như, một ca sĩ một diễn viên điện ảnh sẽ trở
thành “ngôi sao” khi công chúng thấy rằng đời sống thường ngày của họ hấp
dẫn hơn bài hát hay vai diễn. Ở nghiên cứu của mình Daniel đã khẳng định
giữa Người nổi tiếng (celebrity) và báo chí là quan hệ truyền thông, và chỉ khi
có truyền thông thì những ca sĩ diễn viên người mẫu…mới trở thành người
nổi tiếng. Ông đã phân tích quan hệ này, soi chiếu nó từ góc nhìn văn hóa
phương Tây để đánh giá mức độ phù hợp của thông tin về người nổi tiếng trên
báo chí đối với văn hóa xã hội phương Tây tuy nhiên phần lớn dung lượng
của cuốn sách, Daniel nhấn mạnh hơn vào vai trò của truyền thông hiện đại
trong việc tạo ra “Người nổi tiếng”.
Sách “Understanding Celebrity (2004), tác giả Graeme Turner
Australia đã chỉ ra: “Những người nổi tiếng có thể nhìn thấy trên các phương
23
tiện truyền thông, thường xuất hiện từ các ngành thể thao hoặc giải trí, và cuộc
sống riêng tư của họ thu hút sự chú ý bằng hoặc thậm chí lớn hơn hoạt động
nghề nghiệp của họ” [161, tr3]. Turner cho rằng người nổi tiếng là một hiện
tượng độc đáo của truyền thông hiện đại. Một mặt người nổi tiếng là những
người “phi thực” bởi họ dường như không tồn tại “thật” mà công chúng biết
tới họ thông qua những tác phẩm nghệ thuật như MV ca nhạc, phim ảnh… đó
có thể coi là sự cộng dồn của vô số hình ảnh đại chúng. Nhưng mặt khác, họ lại
cực kì bình thường, bởi họ cũng là một con người cũng kết hôn sinh con cũng
đối mặt với đủ vấn đề đủ chuyện hỉ nộ ái ố của cuộc đời, bị chồng bỏ, bị
nghiện, bị cưỡng hiếp… Nhưng chính những thông tin “hậu trường” ấy, những
thông tin về cuộc sống đời thường của những “ngôi sao” lại khiến công chúng
càng thêm kích thích hơn muốn tìm hiểu hơn về những “idol” thần tượng của
mình. Turner trong nghiên cứu của mình đã tập trung chỉ ra lý do vì sao mà các
“ngôi sao” lại có sức hút lớn như vậy đối với độc giả báo chí.
Cũng giống như Turner sách “Simulacra and Simulation, The
University of Michigan Press” của Jean Baurdrillard đã đề cập tới vì sao mà
những người nổi tiếng, những nghệ sĩ ca sĩ diễn viên khi xuất hiện trên mặt
báo lại “hot” lại trở thành tâm điểm chú ý. Chính là sự tò mò, họ đặc biệt hay
cũng chỉ bình thường? Họ nổi tiếng nhờ thực lực hay chỉ là ăn may? Họ là
thiên tài hay là “hàng giả”? Công chúng sẽ cảm thấy như thế nào khi bắt gặp
một người nổi tiếng, một ca sĩ một diễn viên... đi trên đường thay vì đi trên
thảm đỏ, mặt mộc thay vì trang điểm? [167, tr.81].
Trong nghiên cứu “Celebrity Journalism: navigating the Stars”,
Nathan Farrrell cho rằng, trong xã hội hiện đại, những ngôi sao luôn có mối
liên kết với các doanh nghiệp và truyền thông. Họ giống như những sản phẩm
hàng hóa được sản xuất và tiêu thụ trên thị trường, có thể được mua bởi các
doanh nghiệp và được rao bán, quảng cáo trên các phương tiện TTĐC. Nathan
24
cũng đề cập tới thuật ngữ “tabloid” báo lá cải như một hiện tượng tất yếu
của truyền thông hiện đại. Những tờ báo lá cải kết nối các “ngôi sao” với
công chúng không chỉ bằng hoạt động nghề nghiệp của họ mà bằng cả những
câu chuyện hậu trường đời tư của họ. Đó là nhu cầu tự thân của các ngôi sao,
công chúng và cả chính các trang báo khi các ngôi sao được coi là thực thể
sinh lợi cho tòa soạn). Điều này dẫn tới những thách thức rất lớn cho cái gọi
là đạo đức báo chí [179].
Giáo sư luật Robin Barnes trong sách “Outrageous Invasions:
Celebrities’s Private Lives, Media, and the Law” (tạm dịch: những cuộc xâm
phạm thái quá: cuộc sống riêng tư của người nổi tiếng, Truyền thông và Pháp
luật đã cho rằng, thông tin về những nghệ sĩ những người nổi tiếng đã được
đăng tải tràn lan trên báo chí truyền thông mà không có sự chọn lọc. Đó là
những bài báo “lá cải” theo kiểu “vạch áo cho người xem lưng” xâm phạm
thái quá vào đời sống những người nổi tiếng. Công dân của Hoa Kỳ và Liên
minh châu Âu được bảo đảm quyền bảo vệ hiến pháp để an toàn, bảo mật và
tự do thể hiện bản thân, tuy nhiên Barnes khẳng định, các quyền này của
những người nổi tiếng, những “ngôi sao” của Mỹ thường xuyên bị truyền
thông vi phạm [183].
Jamie Berkovitz trong bài viết “Loss of Privacy the price of fame for
Celebs” đăng trên trang articles.sun-sentinel.com ngày 14/10/2005 [190], hay
Benjamin SiuJocelyn Heng trong “Do celebrities deserve privacy?” – bài viết
đăng trên trang www.scmp.com ngày 11/10/2006 [164] đã phân tích ảnh
hưởng của những thông tin đăng tải trên truyền thông đối với những “ngôi
sao”. Họ cho rằng, những ngôi sao như Linsay Lohan Anna Hathaway, Brad
Pitt Paris Hilton… chỉ đến với công chúng bằng các sản phẩm nghệ thuật.
Đời sống của họ, tính cách của họ, ứng xử của họ - giống như bất cứ người
nào khác, không phải là hoàn hảo, và có những chuyện họ muốn nó là của
25
riêng mình. Tuy nhiên đôi khi các tay săn ảnh, những PV lại luôn cố gắng tạo
ra những câu chuyện từ sự không hoàn hảo đó từ sự riêng tư đó để hấp dẫn
độc giả. Những tin tức lá cải - đôi khi đó là sự vô ý, cẩu thả của người nổi
tiếng, và nhiều khi là sự cố ý của truyền thông hiện đại để chiều lòng độc giả
nhằm tăng số lượng lưu hành báo.
Tờ “USA Today” tháng 3 2009 từng đăng tải bài viết của Erik Braday
và Sterve Dimeglio - “Người của công chúng đáng được hưởng bao nhiêu sự
riêng tư?”(How much privacy do public figures deserve?) khi vụ ngoại tình
của “ông vua golf” Tiger Woods bị phát hiện và phanh phui trên báo chí.
Tiger phải lên tiếng cầu xin “sự riêng tư” như của một con người bình thường.
USA Today đã trích lời ông Mike Paul - chuyên gia quan hệ công chúng và
giải quyết khủng hoảng làm việc tại New York - rằng đã là người nổi tiếng
thì cần phải chấp nhận sự phơi bày riêng tư ấy. “Tin tốt là anh được trả rất
nhiều tiền. Tin xấu là: Sự riêng tư ư? Anh đùa đấy à? Nó tự đi ra ngoài cửa
sổ mất rồi”. Bài viết cho thấy sức hút của người nổi tiếng cũng như sức hút
những chuyện riêng tư liên quan tới người nổi tiếng lớn như thế nào, cách
truyền thông đăng tải những thông tin này ra sao, và ảnh hưởng của những
thông tin này tới những người nổi tiếng là gì? [153]
Các nhà nghiên cứu ở Hàn Quốc – quốc gia với làn sóng văn hóa đại
chúng (pop culture) mạnh mẽ, tràn sang cả các quốc gia khác trong đó có Việt
Nam – đã nghiên cứu khá nhiều về những ca sĩ nghệ sĩ thần tượng của quốc
gia này và sự lan tỏa ảnh hưởng của họ trên truyền thông, báo chí. Sách “The
Korean Wave: Korean Media Go Global” (Làn sóng Hàn Quốc: truyền thông
Hàn Quốc hướng tới toàn cầu, Nxb Routledge, 2013) của tác giả Youna Kim
đã nghiên cứu về hiện tượng làn sóng văn hóa đại chúng Hàn Quốc trong kỉ
nguyên internet toàn cầu. Sự phát triển và lan tỏa của làn sóng văn hóa đại
chúng Hàn Quốc (phim ảnh, âm nhạc, thời trang… gắn liền với sự phát triển
của truyền thông internet và truyền thông kĩ thuật số. Những nghệ sĩ Hàn
26
Quốc hiểu được rằng, công chúng trẻ tuổi – những công dân toàn cầu có khả
năng sử dụng internet – là công chúng chính của họ. Do đó nghệ sĩ Hàn Quốc
xây dựng những chiến lược truyền thông (chứ không chỉ đơn giản là chiến
lược hoạt động nghệ thuật) phù hợp với thói quen truyền thông (media habit)
của những nhóm công chúng ở các quốc gia khác nhau nhằm chinh phục họ.
Bài nghiên cứu “Hybridity and the rise of Korean popular culture in
Asia” Sự lai căng và trỗi dậy của văn hóa đại chúng Hàn Quốc ở châu Á) của
tác giả Doobo Shim (2006) đã chỉ ra rằng: sự phát triển mạnh mẽ của truyền
thông đã tạo cơ hội để làn sóng Hàn Quốc lan rộng tới các khu vực Đông và
Đông Nam Á. Thông qua nghiên cứu gần đây về bước “nhảy vọt” của truyền
thông Hàn Quốc, bài nghiên cứu phản biện lại luận điểm thống trị của Mỹ về
toàn cầu hóa. Mặc dù phim ảnh và truyền hình là phát minh của phương Tây
nhưng người Hàn đã tạo những đặc trưng của riêng họ để truyền bá trên
truyền thông dựa trên yếu tố văn hóa bản địa đặc sắc. Ở đây Shim muốn nhấn
mạnh rằng sự pha trộn khéo léo và tôn vinh những giá trị văn hóa Hàn Quốc
truyền thống chính là yếu tố tạo ra nét đặc sắc riêng cho văn hóa đại chúng
Hàn Quốc trên truyền thông trong quá trình toàn cầu hóa văn hóa. Nói cách
khác, nghệ sĩ Hàn Quốc có nhiệm vụ truyền thông văn hóa Hàn Quốc tới công
chúng của các quốc gia khác.
Có thể thấy, các nghiên cứu về văn hóa đại chúng, TTĐC, giới NSBD
trên thế giới phần lớn đều được tiếp cận từ góc độ đa ngành báo chí truyền
thông văn hóa xã hội học, lịch sử, triết học… bàn luận đến những vấn đề
của văn hóa TTĐC ở nhiều khía cạnh khác nhau, tập trung vào các nội dung:
báo chí và NSBD có mối quan hệ với nhau, vai trò của NSBD trên truyền
thông ngày càng lớn và ngược lại, sức hút của NSBD với công chúng, và cái
giá phải trả của NSBD khi nổi tiếng nhờ truyền thông… Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu, mô hình và lí giải mà các nhà nghiên cứu trên đưa ra khó có
27
thể áp dụng vào một môi tường với những đặc trưng văn hóa khác biệt như
Việt Nam. Do đó thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn
hóa Việt là vấn đề nóng, cấp thiết cần phải được đặt ra và nghiên cứu một cách
nghiêm túc.
1.3.2 Nghiên cứu vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo chí Việt Nam
Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa đại chúng
nói chung và giới NSBD VN nói riêng. Ở mức độ nhất định, các công trình
này cũng đã đề cập tới vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo chí từ
nhiều khía cạnh khác nhau.
Sách “Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh
tế thị trường và toàn cầu hóa” do PGS.TS Đặng Thị Thu Hương làm chủ biên
đã đề cập đến khá nhiều những vấn đề của văn hóa đại chúng văn hóa truyền
thông đại chúng và những tác động của nền kinh tế thị trường toàn cầu tới văn
hóa truyền thông đại chúng trên thế giới và Việt Nam. Sử dụng tới 3001 mẫu
tại 7 tỉnh và thành phố, nhóm nghiên cứu đã thực hiện điều tra xã hội học tập
trung vào việc tìm hiểu thực trạng sử dụng các phương tiện TTĐC của công
chúng đo lường mức độ và phạm vi tác động của TTĐC tới đời sống, thói
quen của công chúng đo lường đánh giá của công chúng về chất lượng các
sản phẩm văn hóa trên các phương tiện TTĐC… Nghiên cứu đã chỉ ra những
biến đổi của công chúng hiện đại trong văn hóa thời gian rảnh rỗi và sự hình
thành các văn hóa giải trí mới; sự thay đổi trong tiêu d ng văn hóa và văn hóa
tiêu d ng dưới ảnh hưởng của văn hóa TTĐC; thừa nhận việc giao lưu văn
hóa và hội nhập quốc tế là điều kiện rất cần thiết và là xu thế tất yếu… Nhóm
nghiên cứu cũng đã nghiên cứu văn hóa đại chúng ở một số quốc gia như:
Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Có những quốc gia, nền văn hóa và
văn hóa đại chúng rất gần Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản. Nghiên cứu
đã chỉ ra các yếu tố mang lại sự thành công cho văn hóa đại chúng cũng như
28
hoạt động truyền thông đại chúng cho nền văn hóa đại chúng ở các quốc gia
này. Rất nhiều những kết quả nghiên cứu trong cuốn sách này được tác giả kế
thừa và vận dụng vào trong luận án tiến sĩ của mình [59].
Trong Luận văn thạc sĩ “Hình ảnh người nổi tiếng trên báo chí và việc
hình thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam”, tác giả Lê Thị Phước Thảo
thông qua việc khảo sát báo Tuổi trẻ và báo Tiền phong từ tháng 3/2014 tới
tháng 3 2015 đã chỉ ra thực trạng việc phản ảnh về người nổi tiếng (giới
showbiz) hiện nay trên báo chí đang có thành công và hạn chế gì, những ảnh
hưởng và tác động động thông tin về người nổi tiếng trên báo in đối với công
chúng nói riêng và việc hình thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam. Luận văn
tập trung vào nghiên cứu thông tin về người nổi tiếng trên loại hình báo in và
những tác động của nó tới công chúng trẻ chưa nghiên cứu cụ thể đối tượng
giới NSBD trên loại hình báo điện tử.
Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Ngọc Nga đề tài “Báo mạng điện tử
với việc đưa tin về người nổi tiếng nhờ mạng xã hội: Nghiên cứu trường hợp
Lệ Rơi (Khảo sát báo điện tử Zing.vn, dân việt và Tuổi trẻ online từ ngày
1/6/2014 – 31/12/2014) đã đề cập đến lí thuyết chung về báo mạng điện tử, về
mạng xã hội (MXH) cũng như cách thức của việc báo mạng điện tử đăng tải
thông tin về đời tư người nổi tiếng nhờ MXH đến với công chúng như thế
nào; và thông tin ấy nó tác động gì đến công chúng; tuy nhiên tác giả mới chỉ
dừng lại ở việc phân tích một trường hợp cụ thể của ca sĩ Lệ Rơi – một người
nông dân trở thành một hiện tượng của MXH và truyền thông nhờ vào những
bài hát với tất cả sự thật thà, quê mùa thô kệch của mình.
Luận văn Thạc sĩ “Truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn
trên báo điện tử” của tác giả Lê Thị Thúy Hà đã hệ thống lý luận về nghệ
thuật biểu diễn đồng thời so sánh đánh giá về việc báo mạng đưa thông tin
về các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống so với các loại hình biểu
29
diễn nghệ thuật hiện đại, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử.
Tuy nhiên tác giả mới tập trung vào phân tích nội dung truyền thông như một
hiện tượng mà chưa đánh giá hiện tượng này ở những lớp lang sâu hơn như
nhà báo hay những nghệ sĩ biểu diễn các hoạt động nghệ thuật biểu diễn này
từ góc nhìn văn hóa Việt.
Luận văn Thạc sĩ “Xử lý thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo
mạng điện tử hiện nay” (Khảo sát báo điện tử Vietnamnet, Vnexpress và VTC
News) của tác giả Nguyễn Linh Có là công trình nghiên cứu gần sát nhất với
nội dung nghiên cứu trong Luận án này. Nguyễn Linh Có đã phân tích các
yếu tố tác động đến việc báo mạng điện tử khai thác thông tin về đời tư của
giới ca sĩ chỉ ra một số quy định về “quyền đối với bí mật thông tin đời tư”
của một số quốc gia trên thế giới, phân tích thực trạng việc xử lý thông tin về
đời tư của giới ca sĩ trên diện khảo sát là ba tờ báo mạng là Vietnmanet,
Vnexpress và VTC news, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng
thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo mạng điện tử Việt Nam. Thông qua
khảo sát thực tế, tác giả Nguyễn Linh Có đã phân tích thực trạng và làm rõ
nguyên nhân, hạn chế của việc xử lý thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo
mạng điện tử hiện nay. Tuy nhiên đúng như tên gọi của luận văn tác giả mới
chỉ tập trung phân tích vào đối tượng là ca sĩ chưa đề cập đến vấn đề đăng tải
thông tin về giới NSBD nói chung trong đó có ca sĩ trên loại hình báo điện
tử chưa phân tích và lí giải nó từ góc nhìn văn hóa Việt.
Một số các công trình khóa luận, luận văn Thạc sĩ luận án Tiến sĩ báo
chí… như: Khóa luận “Vấn đề thông tin về đời tư nghệ sĩ trên báo mạng hiện
nay” của Ngô Thị Quỳnh Hoa; Khóa luận “Thông tin văn hóa – giải trí trên
báo trực tuyến Vnexpress, Vietnamnet, VTC news” của Nguyễn Thị Hồng…
cũng đã đề cập tới vấn đề thông tin về giới NSBD trên báo chí.
30
Bên cạnh đó có khá nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đơn lẻ liên
quan tới văn hóa đại chúng và vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử.
Bài nghiên cứu “Ảnh hưởng của mạng internet tới văn hóa đại chúng”
của ThS. Hoàng Thị Thu Hà đăng trên sách Văn hóa truyền thông trong thời
kì hội nhập (NXB Thông tin và Truyền thông 2013 đã nghiên cứu những
ảnh hưởng của internet tới văn hóa đại chúng đặc biệt là tới thói quen tiếp
nhận và nhu cầu thông tin về người nổi tiếng trong các lĩnh vực âm nhạc và
phim ảnh. Tác giả cho rằng người nổi tiếng là mảnh ghép cơ bản trong bức
tranh về văn hóa đại chúng và hẳn nhiên có những tác động tới “tinh thần”
của xã hội. Nghiên cứu gợi mở những thay đổi trong vai trò của TTĐC đối
với sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại và tác giả kế thừa điều này
trong luận án của mình.
Bài nghiên cứu “Một số vấn đề về truyền thông đại chúng, văn hóa đại
chúng và văn hóa truyền thông trong kỷ nguyên Kỹ thuật số” của PGS.TS
Đặng Thị Thu Hương đăng trên sách Văn hóa truyền thông trong thời kì hội
nhập (NXB Thông tin và Truyền thông, 2013) đã hệ thống lại quan điểm của
các trường phái nghiên cứu truyền thông nổi bật trong thế kỉ XX để từ đó tìm
hiểu về mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa truyền thông đại chúng văn
hóa đại chúng và văn hóa truyền thông; về những tác động của truyền thông
đại chúng đối với công chúng từ nhận thức, hành vi cho tới lối sống; đặt vấn
đề về vai trò và trách nhiệm của TTĐC Việt Nam trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa Việt trong thời kỳ hội nhập văn hóa toàn cầu đồng thời
khẳng định không thể đánh đồng văn hóa đại chúng với khuynh hướng
thương mại hóa, tầm thường hóa và dung tục hóa nền văn hóa. Nghiên cứu
này là gợi mở về mặt lý luận cho tác giả nghiên cứu các vấn đề đặt ra trong
luận án của mình.
31
Một số bài nghiên cứu khác đã được công bố liên quan tới vấn đề văn hóa
đại chúng và thông tin về giới NSBD trên báo chí cũng của tác giả Đặng Thị Thu
Hương như: “Hallyu and its effect on young Vietnamese” (Làn sóng văn hóa
Hàn Quốc và ảnh hưởng của nó tới giới trẻ Việt Nam, Korea Herald, 2009);
“Ngoại giao văn hóa và thông tin đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế”
(Tạp chí Người làm báo 2009 …phản ánh khá đa dạng những vấn đề lý luận và
thực tiễn về văn hóa đại chúng, truyền thông đại chúng văn hóa truyền thông đại
chúng Việt Nam trong kỷ nguyên số, ảnh hưởng của truyền thông Hàn Quốc
thông qua TTĐC tác động tới giới trẻ Việt Nam…Mặc dù vậy, các bài nghiên
cứu này chưa hệ thống hóa, nghiên cứu và phân tích toàn diện hoạt động truyền
thông văn hóa Việt Nam trên báo chí Việt Nam từ góc nhìn văn hóa Việt, vì vậy
chưa đề xuất được những giải pháp mang tính chiến lược và toàn diện.
Trong bài nghiên cứu “Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền thông”
đăng trên trang www.ajc.vn ngày 20/4/2015, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái
đã từ góc nhìn văn hóa Việt hôm nay chỉ rõ những vấn đề tiêu cực (lỗi văn
hóa), những lệch chuẩn thẩm mỉ và lỗi văn hóa của BCTT trong việc truyền
thông về văn hóa. Tuy nhiên, trong giới hạn khuôn khổ một bài nghiên cứu,
tác giả mới chỉ đề cập tới việc truyền thông văn hóa Việt trên báo chí nói
chung chưa đi vào phân tích cụ thể nội dung thông tin về giới NSBD VN trên
loại hình báo điện tử [111].
“Về việc ủy thác tính giải trí cho truyền thông”, bài nghiên cứu của TS
Nguyễn Thị Thu Giang đăng trên trang cá nhân của tác giả vào năm 2011
cũng đưa ra những nhìn nhận đánh giá trước sự ngập tràn của thông tin giải
trí với những trò “câu view” mà tác giả gọi là “rẻ tiền” từ việc đăng tải thông
tin của người nổi tiếng trên mặt báo. Cho rằng có “cầu” mới có “cung” tác
giả đã đứng ở cả khía cạnh công chúng độc giả, nhà báo lẫn cả những người
được đăng tải thông tin để phân tích. Nhà báo có nhu cầu “tăng view” công
32
chúng có nhu cầu “nhìn trộm nghe lén” để thỏa mãn tò mò còn người nổi
tiếng – họ có nhu cầu được nổi tiếng hơn. Chính vì những “nhu cầu” này từ cả
ba phía mà “Từ lúc nào không biết, người Việt Nam đã chìm đắm vào một cả
một vùng biển ngập sâu của sự-giải-trí trong thời đại thông tin, nơi gần như
không thể phân định nổi đâu là gà, đâu là trứng” [37].
Cũng là TS. Nguyễn Thu Giang, trong tiểu luận “Hiện tượng người nổi
tiếng và chức năng xã hội của nó” đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc
gia Quý 3/2011, tác giả đã xem xét hiện tượng người nổi tiếng (bao gồm cả
giới NSBD trên các phương tiện TTĐC trong bối cảnh xã hội Việt Nam dưới
sự quy chiếu của lý thuyết nghiên cứu văn hóa truyền thông. Bài viết đã
khẳng định 3 chức năng xã hội của người nổi tiểng gồm: Cân bằng nhu cầu
giao tiếp của người đô thị; cung cấp sự đa dạng về căn tính văn hóa và củng
cố ý thức hệ. Từ chức năng rất giản dị trong đời sống xã hội như cân bằng
giao nhu cầu giao tiếp của người đô thị, người nổi tiếng còn củng cố ý thức hệ
cho công chúng. Tác giả lí giải sức hút của “Người nổi tiếng” trên các phương
tiện TTĐC là bởi họ gần như phi thực, vừa thực lại vừa không thực, vừa được
thần tượng hóa lại vừa bị tầm thường hóa. Chính vì sự đan xen đó trong thế
giới ảo nên công chúng luôn tò mò và thích tìm hiểu về những khoảnh khắc
đời thường, những sự cố “lộ hàng” những hành động hớ hênh, thậm chí cả
những chuyện mang tính riêng tư của người nổi tiếng. Và nhà báo – luôn sẵn
lòng săn và cung cấp những thông tin này để chiều lòng công chúng. [38].
Ngoài ra tác giả cũng tìm thấy rất nhiều những đánh giá phân tích về
vấn đề truyền thông văn hóa và thông tin về giới NSBD VN trên gần 100 bài
báo khác nhau trên báo điện tử như: “Playboy hóa báo chí?” của tác giả
Nguyên Minh đăng trên Báo Thể thao&Văn hóa số ra ngày 31/3/2011; Loạt
bài viết cũng của PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái đăng tải trên trang
www.news.zing.vn: “Không nên bênh vực Hồ Ngọc Hà” - ngày 22/2/2016,
33
“Kỳ Duyên nên trả lại vương miện bằng lòng tự trọng” - ngày 14/7/2016,
“Khi hình thể lên ngôi, nội tâm bị xem nhẹ” – ngày 30/08/2016. Những bài
viết này có dung lượng vừa phải, phân tích nguyên nhân và bản chất của
những “thảm họa thông tin” về giới NSBD VN nói riêng và thông tin về
VHNT Việt Nam nói chung đưa ra những cảnh báo hậu quả của cách đưa
thông tin như vậy và đã đề ra một số giải pháp giải quyết thực trạng mang tính
tích cực. Tuy nhiên các bài viết này chỉ mang tính gợi mở hoặc trao đổi về
một khía cạnh nhỏ của vấn đề thông tin về giới NSBD VN trên báo chí; phần
lớn đều phân tích hoặc đưa ra kết luận dựa trên hiện tượng được phản ánh chứ
chưa dựa trên nền tảng lý luận hay nghiên cứu thực nghiệm đáng tin cậy nào.
Có thể thấy, mặc dù ít nhiều đề cập tới giới NSBD tuy nhiên chưa có
bất cứ một luận án, luận văn khóa luận hay công trình nào nghiên cứu sâu vấn
đề thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt, dựa
trên cơ sở văn hóa Việt Nam để nhìn nhận và phân tích các chủ thể (nhà báo,
giới NSBD và công chúng tiếp nhận thông tin) trong quá trình thông tin.
1.3.3 Đánh giá chung tình hình nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam trên báo chí Việt Nam
Khảo cứu cho thấy, vấn đề thông tin về người nổi tiếng người của công
chúng (bao gồm cả giới NSBD trên báo chí đã được các nhà tâm lý học, xã hội
học, báo chí học quan tâm từ khá sớm. Đặc biệt, thông tin về giới NSBD VN
trên báo chí còn được đặt trong quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và báo chí Việt
Nam để nghiên cứu phân tích và đánh giá. Trong bối cảnh tiếp biến, hội nhập
văn hóa sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự bùng nổ của báo
mạng điện tử và trước thực trạng đăng tải thông tin về giới NSBD trên báo chí
đang được coi là “khủng hoảng” như hiện nay thì việc nghiên cứu vấn đề thông
tin về giới NSBD trên báo chí đặc biệt là trên báo điện tử là một nhiệm vụ cần
coi trọng. Tuy nhiên:
34
- Thông tin về giới NSBD VN trên báo chí là một đề tài nghiên cứu có
tính thời sự ở Việt Nam, nhưng vẫn chưa mang lại nhiều kết quả: Thừa nhận
việc thông tin về giới NSBD VN là một nhiệm vụ quan trọng của báo chí Việt
Nam nhưng các quy định và chế tài về việc đăng tải thông tin của giới này
trên báo chí vẫn chưa được các cơ quan chức năng quy định một cách rõ ràng,
cụ thể và chặt chẽ. Vì vậy các công trình nghiên cứu chỉ mang tính gợi mở
vấn đề mà chưa mang lại nhiều sự thay đổi thực sự về mặt thực trạng.
- Nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN trên báo chí vẫn còn phiến diện:
Các nghiên cứu hiện nay phần lớn vẫn công bố dưới dạng bài báo, sách chuyên
khảo, luận văn luận án khoa học chuyên biệt đa số vẫn nhìn từ những hiện tượng
bề nổi để phân tích, nặng suy luận và đánh giá chủ quan, mà thiếu căn cứ để đánh
giá định tính định lượng thực chứng. Do đó những kết luận đưa ra thường nhờ
vào suy luận chủ quan hơn là từ thực tiễn số liệu khảo sát. Các nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở việc đánh giá một hiện tượng chưa có tính tổng thể, mới chỉ tập trung
vào một khía cạnh nào đó của việc thông tin về giới NSBD trên báo chí hiện nay.
- Các nghiên cứu thông tin về giới NSBD VN vẫn đang tiếp tục xuất
hiện nhưng chưa tường minh, chưa sâu, chưa được đánh giá từ góc nhìn văn
hóa Việt: Cho đến nay, trong các công trình nghiên cứu, giới NSBD vẫn được
đặt trong nhóm đối tượng nghiên cứu lớn hơn người nổi tiếng người của
công chúng “ngôi sao”… . Chưa có một công trình nào đi sâu vào tìm hiểu
vấn đề thông tin về giới NSBD VN như một sinh hoạt văn hóa và tìm ra từ đó
những tiêu chí đặc thù từ góc nhìn văn hóa Việt để tiếp cận vấn đề nghiên cứu
này một cách phù hợp và thích đáng nhất. Trong bối cảnh văn hóa tiếp biến và
hội nhập với văn hóa thế giới, sự bùng nổ của báo mạng điện tử với những ưu
thế riêng biệt trong việc chuyển tải tin tức thì việc nhìn nhận vấn đề thông tin
về giới NSBD trên loại hình báo điện tử từ góc nhìn văn hóa để đưa ra những
kết quả tường minh là vấn đề cần được nghiên cứu nghiêm túc. Đặc biệt,
nhiều câu hỏi mang tính cấp bách và thời sự vẫn chưa được giải quyết như:
35
Thông tin về giới NSBD trên báo điện tử có thực sự ngày càng nhiều và trở
nên quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội? Đặc trưng loại hình giúp báo
điện tử có thế mạnh, hạn chế như thế nào trong việc thông tin về giới NSBD?
Thông tin về giới NSBD trên báo điện tử hiện nay đã thực hiện đúng chức
năng văn hóa – giải trí của báo chí hay phục vụ cho những mục đích khác?
Đâu là sự lệch chuẩn về văn hóa trong việc thông tin về giới NSBD trên báo
điện tử hiện nay? Cần đưa ra những biện pháp, quy chế nào để báo điện tử
thông tin về giới NSBD một cách có có văn hóa?
Rõ ràng, việc thông tin về giới NSBD trên báo điện tử đang đặt ra rất
nhiều những vấn đề trong tiến trình hội nhập giao thoa văn hóa của Việt Nam
với thế giới hôm nay, trong thế kỉ 21. Do đó cần có những nghiên cứu có định
lượng và định tính với từng yếu tố tham gia quá trình thông tin về giới NSBD
VN trên báo điện tử đặc biệt là nhà báo – chủ thể thông tin, để việc thông tin
về giới này có chất lượng đảm bảo nhiệm vụ truyền thông và phát triển văn
hóa Việt. Tất cả những khiếm khuyết còn tồn tại trong những công trình
nghiên cứu trước đây trong việc nghiên cứu thông tin về giới NSBD trên báo
điện tử hiện đang là một khoảng trống trong nghiên cứu khoa học, và luận án
“Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử từ góc nhìn
văn hóa Việt” sẽ cố gắng nghiên cứu và làm rõ khoảng trống đó. Trong đó
luận án nghiên cứu và hệ thống hóa lý luận về quan hệ giữa văn hóa và báo
chí, hệ giá trị văn hóa Việt Nam và góc nhìn văn hóa Việt, phân tích thực
trạng thông tin về giới NSBD VN (tập trung vào ca sĩ diễn viên người mẫu –
những đối tượng có tần suất được truyền thông lớn và ảnh hưởng mạnh mẽ tới
truyền thông cũng như công chúng trên báo điện tử thế kỉ 21 từ góc nhìn văn
hóa Việt, chỉ ra những bài học và những vấn đề cần tiếp tục giải quyết đề ra
giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN
trên báo mạng điện tử hiện nay.
36
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1 tác giả đã khái quát và phân tích những nghiên cứu về
mối quan hệ giữa một nền văn hóa Việt Nam và một nền báo chí Việt Nam.
Trong mối quan hệ đó có mối quan hệ nhỏ hơn đó là mối quan hệ giữa văn
hóa nghệ thuật Việt Nam Việt Nam và báo chí Việt Nam. Tác giả cũng tập
trung tìm hiểu một khía cạnh chuyên sâu của mối quan hệ này đó là: giới
NSBD VN và loại hình báo điện tử để phục vụ cho vấn đề nghiên cứu của
luận án.
Khảo cứu cho thấy, thông tin về giới NSBD trên báo chí không phải
là vấn đề mới mà đã phổ biến trên BCTT trên toàn thế giới. Đối với Việt
Nam, giới NSBD mà người ta vẫn thường gọi là giới showbiz theo kiểu
phương Tây) ra đời ở thời kỳ văn hóa thị trường, gắn với văn hóa đại chúng
và công nghiệp giải trí, sau này khi trở thành những nhân vật truyền thông
trên báo chí. Sự “va chạm” giữa văn hóa phương Tây và văn hóa phương
Đông đã dẫn đến rất nhiều những “hạt sạn” “thảm họa” những lỗi văn hóa
trong vấn đề truyền thông về giới NSBD VN trên báo chí Việt Nam hiện
đại hôm nay.
Ngày nay, nhu cầu giải trí của công chúng ngày càng cao báo điện tử
ra đời và phát triển mạnh mẽ, thông tin về giới NSBD VN lại càng có điều
kiện được thúc đẩy với số lượng tin bài ngày càng nhiều, nội dung thông tin
ngày càng phong phú. Cùng với sự phát triển đó những công trình nghiên cứu
thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử cũng ngày càng nhiều hơn được
quan tâm hơn tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công
trình nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống hóa từ lý luận đến thực tiễn của việc
xác lập thông tin về giới NSBD VN trên một loại hình báo mạng điện tử, và
37
thực sự soi chiếu vấn đề này từ góc nhìn văn hóa Việt. Thực tế này đặt vấn đề
nghiên cứu cho luận án nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn vấn đề thông
tin về giới NSBD VN trên báo mạng điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm, những giải pháp khắc phục hạn chế, những
lỗi văn hóa phát huy thế mạnh báo mạng điện tử trong việc thông tin về giới
NSBD VN. Bởi lẽ, thông tin về giới NSBD VN là một phần trong nhiệm vụ
thông tin văn hóa Việt Nam của báo chí Việt Nam, và chúng ta phải làm sao
để thông tin về giới này một cách có văn hóa.
38
CHƢƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT VÀ VẤN ĐỀ
THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
2.1 Văn hóa và góc nhìn văn hóa Việt
2.1.1 Khái niệm Văn hóa
Cùng với quá trình phát triển của xã hội, các học giả trên thế giới đã
đưa ra nhiều khái niệm về văn hóa. Nội hàm của khái niệm này ngày càng mở
rộng với những cách hiểu và đánh giá khác nhau liên quan đến mọi mặt đời
sống vật chất cũng như tinh thần của con người, tuy nhiên hầu như đều có
quan điểm chung khi coi văn hóa là giá trị.
Trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” (NXB VHTT, 2006), học
giả Đào Duy Anh đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là những giá trị
biểu hiện cuộc sống sinh hoạt mạnh mẽ của loài người trong cả phương diện
vật chất, tinh thần và xã hội” [2, tr.13]. (Bao gồm: kinh tế, chính trị, pháp
luật, ngôn ngữ văn học, nghệ thuật tôn giáo… .
Trên cơ sở định nghĩa của Đào Duy Anh GS. Trần Ngọc Thêm (Cơ sở
văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997) đã mở rộng, phát triển và làm rõ
hơn định nghĩa về văn hóa dựa trên những đặc trưng cơ bản của nó (tính hệ
thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử): “Văn hóa là một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội”. [116, tr.10]. Chính với cách hiểu rộng
này, văn hóa mới là đối tượng đích thực của văn hóa học.
Cũng đồng nhất với quan điểm văn hóa là giá trị, tập thể các nhà nghiên
cứu của Viện Văn hóa và Phát triển – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản
39
Việt Nam, hệ cao cấp chính trị, NXB Lý luận chính trị, 2006, tr.14) cho rằng:
“Khi các hoạt động của con người hướng đến chân, thiện, mỹ thì các hoạt
động đó sẽ tạo ra các giá trị. Nói giá trị còn là nói đến những thành tựu kết
tinh sự sáng tạo của con người trên các hoạt động hướng tới cái chân, thiện,
mỹ. Đó là các thành tựu về khoa học, về giáo dục, về nghệ thuật, về các hoạt
động kinh tế - xã hội”.
Trong luận án này, chúng tôi xin tiếp cận văn hóa là sản phẩm của loài
người, là tập hợp những giá trị sinh ra từ những ứng xử và hoạt động sáng tạo
của con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Các nhà lý luận
văn hóa cho rằng, những gì phản nhân văn chính là phản văn hóa ngược lại,
những gì thuộc về tính người đều phải được coi là văn hóa Lịch sử văn hóa
Việt Nam – truyền thống giản yếu, NXB ĐHQG HN - tr.8). Báo chí là một
sản phẩm văn hóa hoạt động báo chí là một sinh hoạt văn hóa vì vậy các
hoạt động thông tin trên báo chí cũng cần phải được lý giải từ góc nhìn văn
hóa. Điều này có nghĩa muốn xét một nền báo chí Việt Nam thì phải dựa vào
một nền văn hóa Việt Nam (hệ giá trị văn hóa Việt Nam).
2.1.2. Góc nhìn văn hóa Việt – góc nhìn từ hệ giá trị văn hóa Việt
2.1.2.1. Hệ giá trị và hệ giá trị văn hóa dân tộc
2.1.2.1.1. Hệ giá trị
Milton Rokeach trong sách The Nature of Human values (trang 14, Nxb
Collier Macmillan Publishers London, 1973 đã định nghĩa: “Hệ giá trị là một
tổ chức thông thái của các nguyên tắc và quy tắc giúp một người lựa chọn,
giải quyết mâu thuẫn và đưa ra quyết định”. Từ điển Merrian-Webster, Bách
khoa toàn thư Encarta năm 2014 (trang 12) định nghĩa “Hệ giá trị là hệ thống
các tiêu chuẩn hay chuẩn mực đạo đức được thừa nhận của một cá nhân hoặc
một cộng đồng”. Theo định những nghĩa này hệ giá trị được hiểu là hệ thống
các quy tắc ứng xử, chuẩn mực, giá trị quy ước – ràng buộc được chấp nhận
40
của một cộng cồng xã hội bất kì. Hệ thống này đóng vai trò nền tảng cho hệ
quy chiếu đối với cá nhân trong quá trình ra quyết định và mong cầu cuộc
sống có ý nghĩa.
2.1.2.1.2. Hệ giá trị văn hóa dân tộc
Từ những định nghĩa về Hệ giá trị, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã
đưa ra định nghĩa về Hệ giá trị văn hóa như sau: “Hệ giá trị văn hóa của
một dân tộc bao gồm toàn bộ những giá trị mà chủ thể của nền văn hóa
(dân tộc) đó đã tích lũy được, bao gồm rất nhiều thành tố, cả vật chất lẫn
tinh thần”. Trên thực tế, hệ giá trị của một dân tộc có thể bao gồm: giá trị
tự nhiên, giá trị văn hóa và giá trị văn minh. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu
Trần Ngọc Thêm cho rằng giá trị văn hóa là bộ phận mang tính điển hình
tiêu biểu nhất, quan trọng nhất. Nói đến “hệ giá trị dân tộc” có thể hiểu là
“hệ giá trị văn hóa” của dân tộc đó. Hệ giá trị văn hóa chứa đựng trong
mình hệ tính cách văn hóa và bản sắc văn hóa tiểu hệ cốt lõi trong hệ giá
trị văn hóa chi phối toàn bộ hệ giá trị văn hóa . Khi tiếp xúc và giao lưu với
văn hóa phương Tây hội nhập văn hóa quốc tế, hệ giá trị văn hóa Việt Nam
đã xảy ra những biến động mạnh mẽ, đối diện với rất nhiều khó khăn và “bi
kịch của sự phát triển” như Đào Duy Anh từng tiên đoán, và vì thế cần thiết
phải xây dựng những hệ giá trị định hướng cho dân tộc mình.
2.1.2.2. Hệ giá trị văn hóa Việt và góc nhìn văn hóa Việt
2.1.2.2.1. Hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống
Trên thực tế, giá trị Việt Nam truyền thống đã được nêu ra bởi rất nhiều
các học giả nước ngoài như: sách Đế quốc An Nam L‟empire d‟Annam của
Charles Gosselin (1904), Tâm lý dân tộc An Nam (Psychologie du peuple
annamite) của Paul Giran (1904), Chân dung và tính cách người An Nam
(Portraits & caracte`res Annamites) của Ch.Martin Saint Leson 1912 …; các
học giả trong nước như: sách Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh
41
(1938), Tìm hiểu tính cách dân tộc của Nguyễn Hồng Phong (1954), Giá trị
tinh thần của dân tộc Việt Nam của Trần Văn Giàu 1980 Văn hóa Việt Nam
và cách tiếp cận mới của Phan Ngọc 1994 … Trong các nghiên cứu của các
học giả trong nước, có một số giá trị được lặp đi lặp lại như: lòng yêu nước,
tinh thần lạc quan đức tính cần cù, lòng nhân ái, sự tinh tế..; và một số các
phi giá trị như: khôn vặt, gian dối, chuộng hư danh ph phiếm…được chỉ ra.
Tuy nhiên, phần lớn các giá trị và phi giá trị này được trình bày theo cách cảm
tính và khá sơ sài.
Trong sách “Cơ sở văn hóa Việt Nam” và “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền
thống đến hiện đại và con đường tương lai”, GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng, sự
hình thành và phát triển của hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống cần được
xem xét ở ba bối cảnh: không gian văn hóa chủ thể văn hóa và thời gian văn hóa.
Không gian văn hóa: Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á khí hậu
nhiệt đới gió mùa, nhiều sông ngòi và đồng bằng nên thuận lợi cho việc hình
thành và phát triển nghề lúa nước (phụ thuộc vào thiên nhiên và có tính thời vụ
cao). Do vậy, đặc điểm nổi bật nhất về bối cảnh không gian của Việt Nam là
không gian nông thôn – nông nghiệp trong suốt lịch sử phát triển [116, tr.137].
Do hình thể kéo dài theo chiều Bắc – Nam địa hình lại đa dạng, phức
tạp nên không gian văn hóa Việt Nam bị phân hóa mạnh, hình thành 3 miền
và 6 v ng văn hóa khác nhau theo cách phân chia của GS. Trần Quốc Vượng
[138, tr. 213]. Việt Nam cũng ở vào vị trí địa lý thuận lợi cho sự giao lưu văn
hóa như nhà nghiên cứu Phan Ngọc nhận xét “Việt Nam ở ngã ba đường văn
hóa”. Các văn hóa tiếp xúc với nhau thường để lại những dấu vết sâu đậm, vì
vậy, chính mối liên hệ mật thiết với Đông Nam Á và tính thống nhất trong sự
đa dạng là cơ sở tạo nên sự khu biệt cơ bản cho văn hóa Việt Nam.
Chủ thể văn hóa: Với một diện tích đất không lớn nhưng Việt Nam có
tới 54 tộc người. Tuy nhiên, do xuất phát từ một nguồn gốc chung là nhóm
42
loại hình Indonesien và có tộc người là người Việt (Kinh) chiếm tỉ lệ vượt trội
hơn hẳn (gần 90% dân số nên văn hóa Việt vẫn có tính thống nhất trong sự
đa dạng. Ngôn ngữ Việt, chuẩn phát âm tiếng Việt được chọn làm ngôn ngữ
quốc gia (quốc ngữ), chuẩn phát âm quốc gia (quốc âm) [116, tr. 31].
Khi định danh nền văn hóa nông nghiệp truyền thống của Việt Nam,
GS. Trần Quốc Vượng đã gọi đích danh là “ba hằng số”: nông dân – nông
nghiệp – nông thôn. Người nông dân Việt Nam ngàn đời làm nông nghiệp và
cư trú ở làng xã (nông thôn), ít khi di chuyển khỏi nơi cư trú nên sinh ra
những tập tục làng xã và căn tính nông dân điển hình, chi phối tính cách dân
tộc và hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống.
Thời gian văn hóa: Theo khảo cứu của các nhà nghiên cứu văn hóa,
Việt Nam có hơn 4000 năm lịch sử được chia thành 3 lớp văn hóa bản địa;
giao lưu với Trung Hoa và khu vực; giao lưu với phương Tây . Ứng với 3 lớp
văn hóa này theo GS. Trần Ngọc Thêm, hệ giá trị Việt Nam truyền thống đến
nay đã trải qua bốn lần biến động [116, tr.139]:
(1) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa bản địa Đông Nam Á sang hệ
giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa: Tam giáo Nho – Phật – Đạo ảnh
hưởng mạnh mẽ tới Việt Nam trong đó ảnh hưởng của Nho giáo là lớn nhất.
(2) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống theo phong cách
phương Đông sang hệ giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây: bắt
đầu diễn ra từ khoảng thế kỉ XVI khi các giáo sĩ Kito đi truyền đạo nhưng
chỉ thực sự chuyển biến mạnh mẽ từ đầu thế kỉ XX sau khi thực dân Pháp
xâm lược Việt Nam. Lần biến động này là sự gặp gỡ của nông thôn và thành
thị, của nông nghiệp và công nghiệp, của phương Đông và phương Tây tạo ra
những giá trị văn hóa mang tính trọng dương và tương đối hiện đại từ phương
Tây Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa) [123,
tr.49]. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã khiến người Việt Nam thay đổi
43
cấu trúc lại nền văn hóa của mình đi vào vòng quay của văn minh phương
Tây giai đoạn công nghiệp. Diện mạo văn hóa Việt Nam đã thay đổi trên các
phương diện: Thứ nhất, chữ Quốc ngữ được d ng như chữ viết của một nền
văn hóa; Thứ hai, xuất hiện các phương tiện văn hóa như nhà in máy in…ở
VN; Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản; Thứ tư là sự xuất hiện
của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới như tiểu thuyết thơ mới,
điện ảnh, kịch nói, hội họa… (Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam,
Nxb Giáo dục, 2006).
(3) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống dưới ách thực dân
sang hệ giá trị chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa xã hội chủ nghĩa: diễn ra khi
Việt Nam tiếp xúc với văn hóa xã hội chủ nghĩa thông qua đại diện là Liên Xô
thời I. V. Stalin, Trung Quốc thời Mao Trạch Đông. “Những giá trị và phi giá
trị có nguồn gốc xã hội chủ nghĩa thâm nhập và phát triển trong giai đoạn
này. Những giá trị nội sinh như: làm chủ tập thể, năm điều Bác Hồ dạy…
cũng hình thành trong giai đoạn này” – Trần Ngọc Thêm [118, tr. 139].
(4) Sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống đang trong quá
trình xã hội chủ nghĩa sang hệ giá trị thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế: bắt đầu diễn ra vào nửa cuối những năm 1980 khi công
cuộc đổi mới ở Việt Nam bắt đầu – Trần Ngọc Thêm [118, tr.140]. Cùng với
quá trình toàn cầu hóa với những thành tựu vượt bậc về viễn thông và công
nghệ thông tin, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây tiếp tục được bổ sung và
làm dày thêm. Tuy nhiên lúc này sự Tây hóa đã đa tuyến qua các ngả như:
Liên Xô Đông Âu Nhật Bản, Mỹ… Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam nhìn
từ mẫu người văn hóa) [123, tr.50]. Đây cũng là lúc hệ giá trị văn hóa Việt
Nam bước vào giai đoạn biến động mạnh mẽ và dữ dội nhất.
Từ việc xem xét chủ thể văn hóa không gian văn hóa, thời gian văn hóa
và theo cách nhìn của phương pháp dịch lý – hệ thống – ngoại hình, GS. Trần
Ngọc Thêm đã chỉ ra năm giá trị cốt lõi nhất tạo nên những đặc trưng gốc của
44
bản sắc văn hóa Việt Nam truyền thống là: 1) Tính cộng đồng làng xã, 2) Tính
ưa hài hòa, 3) Tính trọng âm, 4) Tính chủ toàn, 5) Tính linh hoạt. Đây là
những đặc trưng mà theo Trần Ngọc Thêm là cần và đủ để nhận diện và khu
biệt văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác [117, tr.153]. So với các công
trình đi trước, những nghiên cứu về hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống
của GS. Trần Ngọc Thêm dường như là đầy đủ và hệ thống nhất.
2.1.2.2.2 Góc nhìn văn hóa Việt
Góc nhìn văn hóa Việt là góc nhìn được xác lập dựa trên những đặc
trưng cơ bản của hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện đại.
Trên con đường đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hệ giá trị văn hóa
Việt Nam truyền thống bị biến động mạnh với cả những giá trị phái sinh (hệ
quả) và phi giá trị (hậu quả được tạo ra. Nói như GS. Trần Ngọc Thêm thì
sống giữa những nhà máy, thành phố ở Việt Nam hiện nay vẫn là những
người nông dân khoác áo công nhân, thị dân với lối tư duy và cách sinh hoạt
tiểu nông. Chính vì vậy, không ít những đặc trưng văn hóa truyền thống trước
đây giúp Việt Nam dựng và giữ nước thì nay lại dần bộc lộ ra sự hạn chế của
mình [117, tr. 283].
+ Tính cộng đồng làng xã
Nền văn hóa gốc nông nghiệp, nghề trồng lúa nước và sự gắn kết mật
thiết giữa các thành viên cùng chung sống trong LÀNG đơn vị cư trú cơ bản
ở nông thôn) là nguồn gốc của tính cộng đồng làng xã [118, tr. 155].
Các giá trị phái sinh (hệ quả điển hình của tính cộng đồng làng xã là:
Tinh thần thập thể; Tình đoàn kết; Lòng biết ơn (với ông bà, cha mẹ, tổ tiên,
hàng xóm… ; Tính dân chủ làng xã; Tính trọng thể diện [118].
Là một trong hai đặc trưng điển hình nhất của văn hóa nông nghiệp – nông
thôn Việt Nam truyền thống, tính cộng đồng làng xã chịu biến động mạnh mẽ khi
Việt Nam bước vào giai đoạn hiện đại. Các phi giá trị (hậu quả) nảy sinh từ đặc
45
trưng này vì thế cũng rất nhiều đó là: Thói dựa dẫm, ỷ lại; Thói cào bằng, đố kị;
Bệnh hẹp hòi, ích kỉ, bè phái (nhóm lợi ích); Bệnh sĩ diện, háo danh; Bệnh thành
tích; Bệnh phong trào; Bệnh hình thức; Bệnh nói xấu sau lưng; Bệnh vô cảm,
chặt chém; Tật ham vui, thích “tám”; Bệnh triệt tiêu cá nhân.
+ Tính trọng âm:
Tính trọng âm là đặc trưng quan trọng thứ hai của bản sắc văn hóa
truyền thống bởi văn hóa Việt Nam thuộc loại hình âm tính điển hình.
Các giá trị phái sinh điển hình của tính trọng âm là: Tính ưa ổn định;
Tính hiếu hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; Tính trọng nữ; Thiên
hướng thơ ca; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách.
Trong xã hội hiện đại, những phi giá trị nảy sinh từ tính trọng âm là:
Bệnh thụ động, khép kín, bảo thủ; Bệnh chậm chạp, lề mề; Bệnh tủn mủn,
thiếu tầm nhìn; Bệnh đối phó; Bệnh thiếu bản lĩnh, tự ti, nhu nhược, yếu đuối;
Bệnh sùng ngoại; Bệnh hám lợi [118, tr. 348,349].
+ Tính ƣa hài hòa:
Đông Nam Á là nền tảng của triết lý âm dương cho nên tính ưa hài hòa
là một trong những đặc trưng của hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống.
Các giá trị phái sinh của tính ưa hài hòa bao gồm: Tính cặp đôi; Tính mực
thước; Tính ung dung; Tính vui vẻ lạc quan; Tính thiết thực. Những phi giá trị
sinh ra từ tính ưa hài hòa bao gồm: Bệnh đại khái xuề xòa; Bệnh dĩ hòa vi
quý; Bệnh nước đôi, thiếu quyết đoán; Bệnh trung bình chủ nghĩa. Ngoài ra,
GS Trần Ngọc Thêm cũng chỉ ra sự hình thành một số giá trị khi Việt Nam đi
vào giai đoạn hiện đại đó là: Dương tính hóa và sự quyết liệt.
+ Tính chủ toàn và tính linh hoạt:
Tính chủ toàn được sinh ra khi nghề trồng lúa nước phụ thuộc lớn vào
thiên nhiên đòi hỏi người nông dân phải quan tâm tới tất cả các yếu tố có ảnh
hưởng tới thành quả của mình. Các giá trị phái sinh của tính chủ toàn là: Khả
năng bao quát tốt và khả năng quan hệ tốt. Các phi giá trị sinh ra từ tính chủ
46
toàn là: Bệnh hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh chủ quan, kiêu ngạo; Bệnh sống
bằng quan hệ.
Cũng chính sự lệ thuộc cao vào thiên nhiên của nghề trồng lúa nước đã
sinh ra đặc trưng Tính linh hoạt của văn hóa Việt Nam truyền thống khi liên
tục phải điều chỉnh để phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh hay môi trường.
Các giá trị phái sinh của tính linh hoạt được GS. Trần Ngọc Thêm chỉ ra là:
Khả năng thích nghi, thích ứng; Khả năng sáng tạo, biến báo. Các phi giá trị
sản sinh ra từ tính linh hoạt là: Thói tùy tiện, cẩu tả; Bệnh thiếu ý thức pháp
luật; Thói khôn vặt, láu cá.
Để loại trừ các phi giá trị sản sinh ra từ các đặc trưng cơ bản của hệ giá
trị văn hóa Việt Nam truyền thống, thông qua cuộc điều tra diện rộng trong
công trình nghiên cứu của mình, GS. Trần Ngọc Thêm đã chọn ra 15 giá trị
tinh hoa cần bổ sung và phát triển, bao gồm: Ý thức pháp luật; Tính trung
thực, thẳng thắn; Tinh thần trách nhiệm; Bản lĩnh cá nhân; Tính chuyên
nghiệp; Tinh thần hợp tác, làm việc nhóm; Tính trọng lẽ công bằng; Tính
khoa học; Tinh thần dân chủ; Lòng trung thành; Lòng tự trọng; Tính phân
tích, rành mạch; Tính nguyên tắc; Tinh thần sẵn sàng từ chức; Tính dám mạo
hiểm. Kết hợp những giá trị truyền thống được bảo tồn và những giá trị tinh
hoa cần được bổ sung, GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng năm đặc trưng văn hóa
truyền thống có khuynh hướng biến đổi thành bốn đặc trưng mới đó là: 1)
Tính cộng đồng, xã hội; 2) Tính hài hòa thiên về dương tính; 3) Tính chủ
toàn hiện đại; 4) Tính năng động, và đây được xác định là cơ sở cho việc
xác định con đường đi đến hệ giá trị Việt Nam mới [118, tr.538].
Việt Nam đang ở vào buổi giao thời trong giao lưu hội nhập văn hóa
toàn cầu. Những hệ giá trị văn hóa truyền thống giúp điều tiết xã hội trước
đây giúp con người định hướng các sống, cách ứng xử dù không biến mất
hẳn nhưng đã không còn ph hợp với đời sống hiện đại, thậm chí nảy sinh ra
những phi giá trị. Trong khi đó những giá trị mới lại chưa được định hình. Xã
47
hội rơi vào khủng khoảng giá trị khiến con người mất niềm tin và định
hướng. Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt đang bị thách
thức bởi những làn sóng văn hóa ngoại lai, bởi logic kinh tế thị trường và
đời sống vật chất tiện nghi. Công chúng được tiếp cận nhiều thông tin
nhưng lạc lối trong xác định lý tưởng sống, không có giá trị để theo đuổi.
Trong khi đó báo điện tử khi thông tin về giới NSBD VN lại truyền bá
những xu hướng, phong cách sống mới mà có thể mâu thuẫn với những
chuẩn mực cũ. Góc nhìn văn hóa Việt mà tác giả xin đưa ra ở luận án này
là góc nhìn dựa trên các giá trị truyền thống được bảo tồn, các giá trị tinh
hoa mới được bổ sung và loại bỏ các phi giá trị sinh ra trong quá trình hội
nhập, nhằm hướng tới bốn đặc trưng cốt lõi của hệ giá trị văn hóa Việt
Nam mới mà GS. Trần Ngọc Thêm đã nghiên cứu và chỉ ra ở trên. Tác giả
sử dụng góc nhìn văn hóa Việt để soi chiếu các hiện tượng và sinh hoạt
văn hóa đang diễn ra (cụ thể trong luận án này là hoạt động thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử). Bên cạnh những kết quả tích cực thì luận
án tập trung vào việc chỉ ra các lỗi văn hóa (các phi giá trị), từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm loại bỏ các lỗi văn hóa này nâng cao chất lượng thông
tin về giới NSBD VN trên báo điện tử, góp phần thúc đẩy hoạt động truyền
thông văn hóa Việt Nam trên báo chí Việt Nam một cách có văn hóa, phù
hợp với hệ giá trị văn hóa Việt Nam mới.
2.2 Nghệ sĩ biểu diễn và nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
2.2.1 Nghệ sĩ biểu diễn
Cho tới nay, chưa có một định nghĩa chính xác và thống nhất nào về nghệ sĩ
biểu diễn.
Theo TS. Nhạc sĩ Phạm Việt Long (bài viết Danh xưng NGHỆ SĨ đang
bị "tầm thường hóa", www.giadinh.net thì danh xưng nghệ sĩ là để chỉ những
người hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật.
48
Khái niệm nghệ sĩ trong Từ điển Tiếng Việt năm 2005 (Viện Ngôn ngữ
học Việt Nam) tương tự với quan niệm của Phạm Việt Long: nghệ sĩ là người
chuyên hoạt động (sáng tác hoặc biểu diễn) trong một loại hình nghệ thuật.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt năm 2005, biểu diễn là hoạt động trình
bày tiết mục/tác phẩm nghệ thuật hay thể thao cho công chúng thưởng thức.
Còn GS. Hà Minh Đức (Một nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc)
thì cho rằng: nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện sáng tạo của nghệ sỹ trước
khán giả, là tiếng nói từ trái tim đến trái tim, từ tình cảm đến với tình cảm và
trở thành một bảo tàng sống của dân tộc.
Theo đó nghệ sĩ biểu diễn có thể được hiểu là những người biểu diễn
(trình bày) các tác phẩm nghệ thuật/tiết mục nghệ thuật (trên sân khấu, trên
màn ảnh, trên truyền hình… (khác với nghệ sĩ sáng tác – những người sáng
tạo ra các tác phẩm nghệ thuật) trước khán giả thông qua đó chuyển tải các
tác phẩm nghệ thuật tới công chúng, làm cầu nối giữa nghệ thuật và công
chúng, góp phần truyền bá lưu giữ và phát triển các tác phẩm nghệ thuật có
giá trị. Muốn biểu diễn chuyên nghiệp thì nghệ sĩ phải được đào tạo qua các
khóa học trường lớp nghệ thuật chuyên nghiệp. Thông qua hoạt động biểu
diễn, với sự cảm thụ và sáng tạo của nghệ sĩ, các tác phẩm nghệ thuật trở nên
sinh động và có sức truyền thụ tới công chúng. Có thể nói, khái niệm nghệ sĩ
gắn liền với khái niệm nghệ thuật.
Trong sách 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân, Nxb Văn học), tác
giả cho rằng căn cứ vào việc xác định xem dạng hình tượng nghệ thuật đó
được thể hiện bằng chất liệu nào mà phân biệt các loại hình nghệ thuật khác
nhau. Trên thực tế, có nhiều các sắp xếp và phân loại loại hình nghệ thuật,
nhưng cách phân chia của Hengel được nhiều người đồng tình nhất với 7 loại
hình nghệ thuật: Kiến trúc điêu khắc, hội họa, âm nhạc âm thanh thơ ngôn
ngữ), múa (tổng hợp điện ảnh (tổng hợp) (Hengel, Mỹ học, tập 2, 1999;
49
Phan Ngọc dịch NXB Văn học, tr. 29-362). Do giới hạn dung lượng của một
luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu đối tượng NSBD ở hai loại hình
nghệ thuật là âm nhạc và điện ảnh.
2.2.2 Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Thời phong kiến, chúng ta chỉ có khái niệm “nghệ nhân” – những người
gắn liền với các hoạt động biểu diễn ca múa nhạc dân gian và cung đình hoặc
một nghề thủ công mĩ nghệ với trình độ cao (theo Từ điển tiếng Việt, 2005).
Khái niệm “nghệ sĩ” xuất hiện ở thế kỉ XIX trong lớp văn hóa giao lưu với văn
hóa phương Tây. Một “cú va chạm mạnh” về văn hóa đã diễn ra khởi đầu cho
làn sóng văn minh công nghiệp đồng thời dẫn tới sự thay đổi lớn cho văn hóa
nghệ thuật Việt Nam với cả những thành tựu và những hệ lụy Đỗ Lai Thúy, Văn
hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa) [123, tr.268 – 287].
Cùng với bước chân của người Pháp, những thể loại nghệ thuật mới
như: kịch nói, tiểu thuyết, thơ mới, hội họa sơn dầu.... đã xuất hiện, hình
thành nên một lớp nghệ sĩ theo phong cách Tây hóa. Nói như Đỗ Lai Thúy thì
đây là giai đoạn mà một đằng là điểm cuối của con người tập đoàn mẫu
người điển hình của văn hóa nông thôn nông nghiệp còn đằng kia là điểm
đầu của con người cá nhân (mẫu người điển hình của văn hóa đô thị, công
nghiệp) [123, tr.268-287]. Dẫu vậy, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mỹ, lớp nghệ sĩ này hoạt động như những nhà cách mạng văn hóa và tuyên
truyền. Một mặt họ dùng những tư tưởng nghệ thuật mới để phê phán, chống
lại những tư tưởng nghệ thuật cũ; mặt khác, họ sử dụng các tác phẩm nghệ
thuật như một thứ vũ khí để chống lại chế độ thuộc địa, chống lại kẻ th cướp
nước, cổ vũ tiến bộ xã hội. Giai đoạn này, nghệ sĩ hoàn toàn không có vai trò
kinh tế hay thực hiện các chức năng kinh tế.
Phải đến khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới vào năm1986 tạo
tiền đề cho logic kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản thâm nhập, cộng
50
hưởng với ảnh hưởng của tư tưởng “bá quyền văn hóa” cultural hegemony
và nền “văn hóa đại chúng” từ Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản … tràn tới Việt
Nam thì nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam mới một lần nữa chịu biến đổi
mạnh mẽ.
Tư tưởng “Bá quyền văn hóa” được triết gia chính trị người Ý –
Antonio Gramsci (1981-1937 đưa ra từ những năm 30 của thế kỉ trước.
Trong đó Gramsci cho rằng, quân sự không phải là công cụ duy nhất để bảo
đảm quyền lực của giai cấp cầm quyền, mà còn nhiều cách thức khác hiệu quả
hơn. Việc kiểm soát quá trình sản xuất và phân phối các sản phẩm văn hóa
chính là một trong những cách thức này. Nhiều quốc gia đã tạo dựng, khai
thác văn hóa biến nó thành “sức mạnh mềm” để lan tỏa ảnh hưởng đồng thời
nâng các chính sách về chính trị, ngoại giao của mình lên một tầm cao mới,
mang tới những cơ hội “xâm lăng” và “bá quyền” về mặt kinh tế trên toàn cầu
như: Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc… Và Văn hóa đại chúng là một
“công cụ” hữu hiệu cho việc hiện thực hóa tư tưởng bá quyền văn hóa.
Văn hóa đại chúng (mass culture) hay văn hóa phổ thông (pop culture)
theo Strinati (1995) là nền văn hóa có các sản phẩm được sản xuất hàng loạt
bằng kỹ thuật công nghiệp và được đưa ra thị trường vì quyền lợi của quảng
đại người tiêu dùng. Còn theo John Hartley (Communication, cultural and
media studies: The key concepts, Routledge, 2004), văn hóa đại chúng được
hiểu là thứ văn hóa còn lại sau khi người ta đã quyết định được văn hóa tinh
hoa (elite/high culture) – loại văn hóa được gìn giữ thông qua âm nhạc, nghệ
thuật văn học và tư tưởng, chỉ do một số ít người tạo ra và cũng chỉ có một số
ít người có khả năng cảm thụ, chiêm nghiệm. Trong tiểu luận kinh điển
“Công nghiệp văn hóa: Biện chứng của thời đại khai sáng” 1947 hai đại
diện tiêu biểu của trường phái Frankfurt là Max Horkheimer và Theodor
Andorno cho rằng văn hóa đại chúng gắn liền với sự xuất hiện của công
51
nghiệp văn hóa trong đó nguyên tắc thương nghiệp thay thế cho nguyên tắc
nghệ thuật, yêu cầu thị trường thay thế cho yêu cầu tinh thần. Nói cách khác,
văn hóa đã được thương phẩm hóa được con người mua bán trao đổi, và vì
vậy chúng trở nên tầm thường, chỉ có ý nghĩa minh họa mà không có quan hệ
gì tới giá trị nghệ thuật. Văn hóa đại chúng thường thay đổi theo thị hiếu
giống như gu thời trang hay âm nhạc theo từng giai đoạn. Theo các nhà
nghiên cứu thì văn hóa đại chúng phải gắn liền với sự tồn tại của truyền
thông đại chúng (cho phép chia sẻ thông tin tới số đông công chúng và sự
tồn tại thị trường của các sản phẩm truyền thông văn hóa.
Tư tưởng Bá quyền văn hóa và làn sóng Văn hóa đại chúng lan tới Việt
Nam với sự xuất hiện của những bộ phim như “Cố lên Chiaki”, “Osin” của
Nhật hay “Mối tình đầu”, “Bác sĩ”, “Thành thật với tình yêu” của Hàn Quốc
… được phát trên sóng truyền hình quốc gia. Không lâu sau đó văn hóa Hàn
Nhật đã gần như phủ sóng khắp từ đô thị tới nông thôn Việt Nam. Kiểu tóc,
phong cách ăn mặc hay cách trang điểm…của các bạn trẻ đều từa tựa giống
với các nhân vật trong phim. Nhờ những tình tiết hấp dẫn, những cảnh quay
đẹp, họ dần yêu hơn có thiện cảm hơn con người Hàn Quốc, khung cảnh Hàn
Quốc, thậm chí là văn hóa Hàn Quốc… Tuy nhiên, nói như TS. Nguyễn Thu
Giang, văn hóa bao giờ cũng có tính tự sản tạo [37]. Những bộ phim ngoại
quốc ấy không chỉ truyền bá văn hóa cho Hàn Quốc, Nhật Bản…mà còn trở
thành một cú “hích” một sự kiện “bản lề” khiến phim ảnh, âm nhạc, thời
trang… của Việt Nam vận động, biến đổi mạnh mẽ. Từ đây hoạt động văn
hóa nghệ thuật của Việt Nam đã có sự phân tách rõ rệt. Một bộ phận kiên trì
theo đuổi nghệ thuật tinh hoa (elite), nỗ lực tạo ra các chuẩn văn hóa cho xã
hội; ngược lại, một bộ phận hướng tới văn hóa đại chúng (mass), tạo ra các
sản phẩm được sản xuất hàng loạt với mục đích thương mại, phôi thai nên nền
“Văn hóa đại chúng” mass culture ở nước ta vào thế kỉ 20.
52
Như một xu thế tất yếu, một bộ phận những người hoạt động nghệ
thuật của Việt Nam bắt đầu hướng tới việc tạo ra những sản phẩm âm nhạc,
thời trang điện ảnh mô phỏng theo phong cách Mỹ, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Nhật Bản… loại bỏ bớt tính tuyên truyền và thêm vào đó “chất” giải
trí phổ biến hướng tới nhu cầu của số đông công chúng. Những bộ phim
“Nước mắt học trò”, “Người đẹp Tây đô”, “Gái nhảy”… đã đưa Lý H ng
Diễm Hương Việt Trinh, Mỹ Duyên… trở thành hiện tượng được nhắc tới
của không ít công chúng thế hệ 7X, 8X. Tiếp sau đó Lam Trường Đan
Trường, Thanh Thảo Phương Thanh Quang Vinh… trở thành lứa ca sĩ
thần tượng đầu tiên với các sản phẩm nhạc nhẹ thị trường dễ nghe.
Cùng với việc sản xuất các sản phẩm văn hóa đại chúng là sự xuất
hiện của những nghệ sĩ biểu diễn các sản phẩm này. Giữ đúng những đặc
trưng của văn hóa đại chúng, những nghệ sĩ biểu diễn các sản phẩm văn
hóa đại chúng (còn gọi là NSBD đại chúng hay NSBD thương mại cũng
hướng tới các yếu tố thương mại thương phẩm hóa nghệ thuật theo logic
kinh tế thị trường, phục vụ đòi hỏi của thị trường/công chúng thay cho
những yêu cầu về tinh thần, dựa vào nền tảng truyền thông đại chúng để
xây dựng danh tiếng nhằm truyền tải sản phẩm tới số đông công chúng…
Điều này có nghĩa ngoài hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, giới
NSBD thương mại còn thực hiện chức năng kinh tế dịch vụ. Dần dần, với
sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa đại chúng và truyền thông đại chúng,
nền công nghiệp giải trí” showbiz Việt Nam ra đời với sự xuất hiện của
hàng loạt các công ty giải trí, các NSBD là các “sao” “người nổi tiếng”
thời thượng mà người ta thường gọi theo thuật ngữ “ngoại lai” phổ biến là
“giới Showbiz Việt” hay “giới Vbiz” song song tồn tại cùng mẫu hình
NSBD nghệ thuật/tinh hoa – những nghệ sĩ hướng tới nghệ thuật đỉnh cao,
tinh tuyển.
53
Trong xã hội hiện đại, sự tò mò và có nhu cầu tìm hiểu về thông tin về
các “ngôi sao” giải trí của công chúng Việt Nam ngày càng lớn, và không ai
khác, truyền thông đặc biệt là báo điện tử chính là chiếc cầu nối tuyệt vời
cho giới NSBD thương mại, biến họ thực sự trở thành người của công
chúng, được công chúng biết đến và giúp họ thương mại hóa các sản phẩm
nghệ thuật. Tuy nhiên, chính bởi sự lệch lạc về định hướng giá trị, sự ảnh
hưởng của các yếu tố ngoại cảnh trong thời đại toàn cầu hóa, nền kinh tế thị
trường và kỉ nguyên truyền thông xã hội số mà việc thông tin về giới NSBD
VN bên cạnh những hiệu quả tích cực cũng tồn tại rất nhiều những vấn đề
tiêu cực, những lỗi văn hóa cần điều chỉnh, khắc phục. Như trong sách “The
Korean Wave: Korean Media Go Global” (Nxb Routledge, 2013) của tác giả
Youna Kim thì các nghệ sĩ Hàn Quốc luôn cố gắng truyền tải các giá trị văn
hóa truyền thống của họ thông qua các tác phẩm nghệ thuật, các thông tin
được đăng tải trên truyền thông, thế nhưng NSBD VN cũng như các trang
báo điện tử VN dường như “bỏ quên” mất nhiệm vụ này. Bởi vậy, trong
Luận án này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề thông tin về giới nghệ
sĩ Việt Nam biểu diễn các sản phẩm văn hóa đại chúng (giới NSBD
thƣơng mại) ở hai lĩnh vực âm nhạc và điện ảnh, bởi đây là đối tượng nghệ
sĩ thường biểu diễn và xuất hiện nhiều trên truyền thông, có sức lan tỏa, thu
hút sự quan tâm của công chúng, ảnh hưởng lớn tới nhận thức và hành vi của
công chúng. Tác giả cũng chỉ lựa chọn một loại hình báo chí để nghiên cứu
đó là loại hình báo điện tử vì tính mới mẻ và hợp thời của loại hình báo chí
này đồng thời tập trung nhiều hơn vào các lỗi văn hóa trong quá trình thông
tin về giới NSBD VN của báo điện tử.
2.3 Báo chí Việt Nam và nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt Nam
Có thể nói, từ khi ra đời tới ngày nay, sự phát triển của báo chí Việt
Nam gắn liền với những biến động của lịch sử văn hóa Việt Nam, là «tấm
54
gương » phản chiếu đời sống văn hóa xã hội của Việt Nam theo cách nhìn
của mình. Những sự biến đổi trên trang báo cũng phản ánh sự biến đổi trong
đời sống văn hóa xã hội của người Việt.
Giữa văn hóa và báo chí có mối quan hệ qua lại. Báo chí là sản phẩm
văn hóa nhưng ngược lại văn hóa được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác
không chỉ bởi quan hệ giao tiếp trực tiếp giữa người với người mà còn thông
qua các mối quan hệ gián tiếp giữa con người với các phương tiện TTĐC.
Nghị quyết TW 5 khoá VII chỉ rõ: “Báo chí là công cụ tư tưởng, chính trị của
Đảng và Nhà nước, đồng thời là một sản phẩm văn hoá có tác động sâu rộng
trong quần chúng”. Trong bài nghiên cứu Truyền thông văn hóa và văn hóa
truyền thông, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái cũng khẳng định: « Nhiệm vụ
xuyên suốt nền báo chí hiện đại Việt Nam, từ khi ra đời, đương nhiên phải là
truyền thông về nền văn hóa Việt,…”.
Kể từ khi báo chí xuất hiện văn hóa Việt Nam đã được nhận diện và
truyền thông. Sinh hoạt lớn nhất của văn hóa Việt Nam là sinh hoạt nông
nghiệp với căn tính nông dân điển hình nhưng nó không vĩnh viễn tồn tại, mà
dịch chuyển dần sang nền văn hóa công nghiệp hiện đại và đô thị cùng sự
giao lưu với văn hóa phương Tây. Những cuộc giao lưu tiếp biến và biến đổi
của văn hóa Việt Nam được thể hiện rõ nét trên các tác phẩm, ấn phẩm báo
chí theo thời gian. Ngay từ tờ Gia định báo, việc truyền thông văn hóa trước
tiên là văn học đã được chú trọng. Lê Nguyễn trong bài nghiên cứu “Gia
định báo qua cuộc hành trình 140 năm” đã chỉ ra: “So với loại bài có tính
chất khoa học, loại bài có tính chất văn chương xuất hiện sớm hơn và tồn tại
lâu hơn trên chuyên mục Thứ vụ”. Qua những tác phẩm văn học trên Gia định
báo (Phú bần truyện diễn ca, truyện Phansa diễn ra Quốc ngữ…) người đọc
và người sáng tác có dịp làm quen với văn học phương Tây lối viết văn của
phương Tây. Dần dần hình thành nên ý thức và khát vọng sáng tạo đổi mới
55
văn chương nước nhà. Những tờ báo sau này ngày càng mở rộng hơn nội
dung thông tin về văn hóa đặc biệt là văn hóa nghệ thuật – một thành tố của
văn hóa đăng tải sự phát triển và biến đổi của văn hóa Việt Nam trong cuộc
giao lưu với văn hóa phương Tây.
GS. Hà Minh Đức khẳng định: «Văn hóa không tồn tại ở trạng thái
đóng kín. Cho dù phong phú nhưng nếu bị o bế, cấm vận thì không phát triển
được». [26, tr.11]. Tuy nhiên, chính sự dịch chuyển này đã dẫn tới nhiều bi
kịch xã hội mà học giả Đào Duy Anh gọi là “bi kịch của sự phát triển”. Và
toàn bộ cái bi kịch của sự phát triển này của văn hóa Việt Nam hiện đại đã
được truyền thông khá rõ trên báo chí Việt Nam. Giao lưu tiếp biến văn hóa
là một quy luật tất yếu, một nhu cầu sống còn trong sự phát triển của quốc
gia. Tuy nhiên, trong sự giao lưu ấy vừa có sự tiếp nhận, vừa có sự đồng hóa,
lại vừa có sự phản kháng. Để tiếp thu được những giá trị văn hóa mới tốt đẹp,
gìn giữ được văn hóa truyền thống dân tộc thì vai trò truyền thông văn hóa
của báo chí có tác động lớn.
Có thể nói, văn hóa có bao nhiêu vấn đề thì báo chí cũng có bấy nhiêu
vấn đề để truyền thông. Chỉ khi báo chí ra đời thì mới có sự phản ánh sinh
hoạt văn hóa theo cách của phương Tây trong những sinh hoạt ấy có sinh
hoạt về nghệ thuật. Trong các loại hình báo chí báo điện tử có vai trò ngày
càng quan trọng trong việc truyền thông văn hóa nghệ thuật Việt Nam, bởi lẽ
đây là loại hình báo chí mới mẻ, hợp thời đại với nhiều ưu thế nổi trội trong
việc lưu giữ và truyền tải thông tin; bên cạnh đó Việt Nam hiện cũng là một
trong những quốc gia có tốc độ phát triển internet nhanh và bền vững nhất
trên thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và xu hướng hội nhập văn hóa
toàn cầu đã tạo điều kiện cho mảng đề tài văn hóa nghệ thuật (một thành tố
của văn hóa đặc biệt là văn hóa giải trí và giới NSBD triển mạnh, trở thành
56
nội dung được các tòa soạn báo điện tử hiện nay quan tâm. Trên các trang báo
luôn có các chuyên mục riêng như: văn hóa giải trí văn hóa – giải trí… chủ
yếu để đưa các thông tin về cộng đồng giới nghệ sĩ các hoạt động nghệ thuật
xoay quanh họ và cả thông tin về hậu trường đời sống của họ… Thông tin về
văn hóa giải trí và giới NSBD thu hút một lượng lớn công chúng theo dõi, góp
phần mang lại nguồn doanh thu cao cho các tòa soạn báo điện tử. Tuy nhiên,
chính sự phát triển mạnh mẽ của thông tin văn hóa giải trí cùng với ưu thế
vượt trội của loại hình báo điện tử đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt
(về tốc độ cập nhật tin bài, về lượt xem của công chúng, về sức hút quảng cáo
với các doanh nghiệp… giữa các trang báo, dẫn tới tình trạng nhiễu loạn
thông tin, xuất hiện các “thảm họa” và “rác” văn hóa trên mặt báo, tạo ra
những ảnh hưởng tiêu cực và làm phương hại đến hình ảnh văn hóa Việt.
Trong bối cảnh đó báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng không chỉ có
nhiệm vụ đăng tải các thông tin về văn hóa nghệ thuật, về giới NSBD mà còn
có vai trò to lớn trong việc truyền thông về sự phát triển văn hóa Việt Nam
một cách đích đáng tiếp thu và phát triển những giá trị văn hóa ngoại lai tiến
bộ, loại bỏ những yếu tố lai căng phi văn hóa phê phán khuynh hướng xâm
lăng văn hóa trong lối sống đồng thời bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp
của dân tộc trên cơ sở nhận thức được hệ giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, từ
góc nhìn văn hóa Việt Nam để soi chiếu và phản biện.
2.4 Báo điện tử và vấn đề thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
2.4.1 Báo điện tử
Trên thế giới, trong tiếng Anh, thuật ngữ báo điện tử có nhiều cách gọi
như: Electronic Journal Online Newspaper Internet Newspaper Website
Cyber Newspaper…. Ở Việt Nam cũng có nhiều tên gọi như: báo điện tử,
báo mạng, báo online, báo trực tuyến báo internet… Cho đến nay, thuật ngữ
chính xác để định danh cho loại hình báo điện tử vẫn chưa được thống nhất
57
trên cả thế giới lẫn Việt Nam. Tuy nhiên, ở nước ta, thuật ngữ được dùng phổ
biến nhất là báo điện tử. Trong nhiều văn bản quy phạm của pháp luật của
Việt Nam cũng sử dụng thuật ngữ báo điện tử. Trong luận án này, tác giả
thống nhất sử dụng thuật ngữ báo điện tử để chỉ loại hình báo chí trên nền
tảng internet. Cả ba tờ báo Luận án lựa chọn để khảo sát (Vietnamnet.vn,
News.zing.vn Ngoisao.net đều được gọi tên chung về loại hình là báo điện
tử, nhằm phân biệt với báo in, báo phát thanh và báo truyền hình.
Theo Điều 3, luật báo chí (luật báo chí năm 1989 được sửa đổi, bổ sung
tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí
được thực hiện trên mạng thông tin máy tính”. Còn theo Từ điển tiếng Việt
(Trung tâm từ điển học Nxb Đà Nẵng 2008 thì báo điện tử là: “Loại hình
báo chí mà tin tức, tranh ảnh được hiển thị qua màn hình máy tính thông qua
kết nối trực tuyến với mạng internet, phân biệt với báo ảnh, báo hình, báo
nói, báo viết).
Dựa trên quy định của luật báo chí, những nghiên cứu đi trước và căn
cứ vào tình hình hoạt động thực tiễn của báo điện tử, tác giả luận án xây dựng
khái niệm về báo điện tử như sau: “Báo điện tử là một loại hình báo chí
được phát hành trên mạng internet dưới hình thức của một trang web, sử
dụng công nghệ truyền thông internet để hoạt động thông tin báo chí”.
Khái niệm này đã chỉ ra những đặc trưng khu biệt của loại hình báo chí
này với cách loại hình báo chí khác, và được hiểu một cách chính xác về bản
chất của loại hình báo chí này. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Khẳng định báo điện tử là một loại hình báo chí, tồn tại độc
lập và bình đẳng như mọi loại hình báo chí khác.
Thứ hai: Khẳng định báo điện tử là loại hình báo chí hiện đại, sản phẩm
từ sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ truyền
thông qua website trên nền tảng internet.
58
Thứ ba: Khẳng định những bản chất và đặc trưng riêng của loại hình báo
chí này đó là tính đa phương tiện tính tương tác cao tính tức thời, tính phi định
kỳ, khả năng truyền tải và lưu giữ thông tin không hạn chế, khả năng liên kết…
Thứ tư: Với loại hình báo chí này người làm báo và cả công chúng báo
chí đều yêu cầu phải có một trình độ kỹ thuật công nghệ thông tin nhất định.
Như thế báo điện tử trước hết vẫn phải là một loại hình báo chí, đảm
bảo những đặc trưng cơ bản cũng như mục đích hoạt động đặc thù. Tuy nhiên,
thông tin của báo điện tử vừa giống như mọi loại hình báo chí khác, thể hiện
qua chữ viết, hình ảnh tĩnh đồ họa tĩnh biểu bảng, màu sắc, bố cục (giống
báo in); âm thanh (giống phát thanh); video, hình ảnh động đồ họa động, màu
sắc (giống truyền hình), lại vừa ứng dụng nền tảng công nghệ mới, dùng
phương thức truyền thông của website trên internet để hoạt động và truyền tải
thông tin báo chí. Sự xuất hiện của báo điện tử - một loại hình báo chí hiện
đại thế kỉ XX đã làm đảo lộn nhiều khái niệm truyền thống về báo chí và xuất
bản trước đây như khái niệm tòa soạn, khái niệm định kỳ phát hành, khái
niệm phương thức phát hành.
2.4.2 Thông tin báo chí và thông tin trên báo điện tử
Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực
hiện mục đích của mình, trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Nó
là dụng cụ làm việc của nhà báo, giúp nhà báo thực hiện những công việc đa
dạng và quan trọng. Căn cứ theo phương thức thể hiện thông tin báo chí được
chia thành các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in), thông tin bằng
tiếng nói (phát thanh), thông tin bằng hình ảnh (truyền hình), thông tin trên
mạng internet đa phương tiện).
Một thông tin có giá trị phải là thông tin đầy đủ, có hệ thống qua việc
lựa chọn đúng có khoa học có phương pháp nhằm phục vụ mục tiêu nhất
định. Tức là giá trị tri thức của thông tin được chọn phản ánh trên báo chí, các
59
phương tiện thông tin đại chúng phải gắn với xã hội đương thời. Việc sử dụng
thông tin vào hoạt động TTĐC cũng như việc tiếp nhận thông tin ở mỗi người
đều không thể diễn ra một cách thụ động, mà phải có sự chủ động kiểm định,
xử lý thông tin và chịu trách nhiệm về nguồn tin.
Khả năng đa phương tiện tương tác cao phi định kỳ lưu trữ lớn và dễ
tìm kiếm thông tin giúp thông tin của báo điện tử luôn được cập nhật, phủ
sóng, dễ dàng đáp ứng mọi nhu cầu của công chúng. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu thế không thể phủ nhận, thì báo điện tử cũng phải đối diện với
nhiều sức ép đặc biệt là trong vấn đề bảo đảm an toàn và chính xác thông tin.
Tốc độ thông tin là lợi thế song cũng vô tình trở thành điểm yếu của báo điện
tử khi khâu kiểm duyệt lỏng lẻo, nhiều thông tin không chính xác được đăng
tải trên mặt báo… Thông tin trên báo điện tử cũng phải đương đầu với việc bị
“hack” làm nhiễu, làm sai lệnh do sử dụng nền tảng công nghệ internet.
Chính vì vậy, nâng cao chất lượng đảm bảo độ chính xác của thông tin là vấn
đề mà những người làm báo điện tử hiện nay phải quan tâm hàng đầu.
2.4.3 Mô hình thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
Trên thế giới, có rất nhiều mô hình thông tin được tạo ra bởi các nhà
nghiên cứu như: Harold D. Laswell Claude Shannon… Theo đó về cơ bản,
để tiến hành quá trình thông tin cần các yếu tố: nguồn (sender), thông điệp
(message), kênh (channel), người tiếp nhận (receiver), phản hồi (feedback) và
nhiễu noise . Trong đó mặc d người tiếp nhận có khả năng phản hồi nhưng
nguồn thông tin có vai trò quyết định, có khả năng áp đặt quan điểm và tư
tưởng của mình đối với người tiếp nhận thông tin.
Trong nền kinh tế bao cấp, mô hình này tương đối phù hợp khi mà cả chủ
thể thông tin (ở đây được xác định là nhà báo, tòa soạn báo và đối tượng được
thông tin (nghệ sĩ đều có vai trò và thực hiện chức năng tuyên truyền. Trong đó
chủ thể thông tin có vai trò định hướng thông tin, có khả năng áp đặt quan điểm
60
và tư tưởng của mình trong quá trình thông tin. Tuy nhiên, với sự phát triển
mạnh mẽ của internet, công chúng không còn tiếp nhận thông điệp một cách thụ
động và thiếu chọn lọc nữa. Họ muốn kiểm soát nội dung thông tin mà họ nhận
được và có khả năng tìm kiếm thông tin từ vô số nguồn khác nhau. Thuật toán
Google cùng sự cung ứng từ các công ty dịch vụ internet đã và đang làm thay
đổi một cách mạnh mẽ quy trình thiết kế và chuyển tải thông điệp tới công
chúng. Điều này làm “xô lệch” mô hình thông tin của Laswell Shannon…
khiến nó bộc lộ những điểm bất cập và thiếu đi cái nhìn toàn diện khi phân tích
tổng thể các yếu tố tham gia vào quá trình thông tin về giới NSBD.
Hình 2.1: Mô hình quy trình thông tin của Stuart Hall
Nguồn: Encoding/decoding - Stuart Hall
Nhà xã hội học người Anh - Stuart Hall đã đề nghị một mô hình thông
tin nêu bật tầm quan trọng của việc diễn giải tích cực trong phạm vi các mật
mã có liên quan (Hall 1980, tr.136 . Tương phản với các mô hình truyền
thông tin trước Hall đã trao cho cả “Người mã hóa” cũng như “người giải
mã” vai trò tạo nghĩa [189].
Hall quy các pha trong mô hình thông tin thành những khoảnh khắc
(Khoảnh khắc mã hóa, Khoảnh khắc văn bản, Khoảnh khác giải mã). Mật mã
phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp cho độc giả những nhân dạng xã
hội mà một số người có thể thừa nhận là của chính họ. Nhưng độc giả không
61
nhất thiết phải chấp nhận những mật mã như thế. Nơi những mật mã đó có
liên quan đến việc truyền thông không chia sẻ mật mã chung và địa vị xã hội
thì việc giải mã có khả năng khác biệt với ý nghĩa mong muốn của người mã
hóa. Stuart Hall nhấn mạnh vai trò của quan điểm xã hội trong việc tạo dựng và
diễn giải những văn bản truyền thông đại chúng bởi các nhóm xã hội. Hiểu một
cách nôm na điều này có nghĩa mỗi nhóm người có hạ tầng kĩ thuật, các quan
hệ sản xuất và các cơ cấu trí thức khác nhau sẽ có cách tạo thông điệp và giải
mã thông điệp khác nhau.
Hình 2.2: Mô hình hệ thống/kênh truyền thông phức hợp
Nguồn: Giáo trình Truyền thông IMC tích hợp
Trong sách “Truyền thông marketing tích hợp” IMC PGS.TS Trương
Đình Chiến đã đưa ra mô hình hệ thống/kênh truyền thông phức hợp đồng
thời chỉ ra rằng, quá trình thông tin được bắt đầu khi chủ thể gửi tin tạo ra và
mã hóa một ý tưởng như là một thông điệp và gửi nó qua một trung gian nào
đó đến người nhận tin. Người nhận được thông điệp phải giải mã nó, tạo ra
một ý tưởng mới, rồi mã hóa gửi đi một thông điệp mới. Việc thu nhận thông
tin phản hồi của người nhận có thể chuyển tới trung gian hoặc chủ thể gửi tin,
hoặc cả hai.
Trong quan điểm này, chủ thể gửi tin không chỉ là nhà báo, tòa soạn
báo mà là tất cả những đối tượng có nhu cầu và mục đích truyền đi thông
62
điệp. Thông điệp trong quy trình thông tin bị tác động và ảnh hưởng bởi mục
tiêu khác nhau của từng nguồn phát thông điệp khác nhau. Ở đây khi áp dụng
quan điểm này vào mô hình truyền thông của Hall để giải thích thông tin về
giới NSBD trên báo điện tử có phần hợp lý hơn khi mà quá trình thông tin
này không chỉ đơn thuần là sự truyền đi thông tin từ nhà báo/tòa soạn tới công
chúng nữa, mà tồn tại mối quan hệ đa chiều, phức tạp giữa nhà báo/tòa soạn -
doanh nghiệp - giới NSBD và công chúng trong xu hướng thương phẩm hóa
báo chí và các sản phẩm văn hóa nghệ thuật. Trong mối quan hệ này, nhà
báo/tòa soạn không còn giữ vị trí độc tôn trong việc định hướng và áp đặt
thông tin nữa thay vào đó mỗi chủ thể đều có thể trở thành chủ thể gửi tin với
mục tiêu của riêng mình, hoặc có thể trở thành phương tiện truyền thông
trung gian cho các chủ thể còn lại. Như thế, vai trò tạo nghĩa được trao cho cả
nhà báo, tòa soạn báo, giới NSBD và doanh nghiệp. Mỗi nhóm ở những hạ
tầng kĩ thuật, quan hệ sản xuất và cơ cấu tri thức khác nhau, tùy thuộc vào
mục tiêu truyền thông của mình mà truyền đi những thông điệp khác nhau.
Tuy nhiên do đặc tính thương phẩm hóa của văn hóa đại chúng, bị chi phối
sâu sắc bởi logic kinh tế thị trường này, nên cả nhà báo/tòa soạn/ và giới
NSBD khi tạo ra thông điệp đều hướng tới công chúng, tạo ra lợi nhuận từ
công chúng, coi lợi nhuận là mục đích quan trọng nhất, bất chấp tất cả để tối
đa hóa lợi nhuận, chính vì thế dẫn tới những “thảm họa thông tin” về giới
NSBD, khiến vấn đề thông tin về giới NSBD trở thành vấn đề “nóng” của
truyền thông hiện nay. Mô hình thông tin của Hall kết hợp với mô hình truyền
thông phức hợp của PGS.TS Trương Đình Chiến cho phép luận án có cái nhìn
toàn diện trong việc đánh giá phân tích đồng bộ các yếu tố tham gia vào quá
trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đó là: Báo điện tử, giới
NSBD, tác phẩm báo chí và công chúng.
Có thể phác thảo mô hình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
hiện nay như sau:
63
Hình 2.3: Mô hình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
2.4.4 Nghệ sĩ biểu diễn – KOLs gây ảnh hưởng trong mô hình thông tin
KOLs là từ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh “Key opinion leaders” –
những người có sức ảnh hưởng trên cộng đồng mạng được nhiều người biết
đến trên diện rộng. KOLs gồm 3 nhóm người nổi tiếng/ chuyên gia có ảnh
hưởng/công dân có ảnh hưởng trong đó “celebrity” người nổi tiếng, bao
gồm cả NSBD) là nhóm có sức ảnh hưởng lớn nhất có độ “reach” tiếp cận)
cao nhất. Nhờ kĩ năng giao tiếp đại chúng và lượng người hâm mộ đông đảo,
các bài “post” của họ thường tạo ra mức độ thảo luận và tương tác cao thậm
chí thành “trend” xu hướng) trong truyền thông, can thiệp vào quá trình
thông tin.
Trong Marketing 4.0 – moving from traditional to digital, Philip Kotler
cũng đưa ra mô hình Ozone để thể hiện sự tác động của các yếu tố bên ngoài
tới công chúng trong quá trình tiếp nhận thông tin:
64
Hình 2.4: Mô hình Ozone
Nguồn: “Marketing 4.0 – moving from traditional to digital” – Philip Kotler
Công chúng thường bị tác động bởi sự kết hợp từ sự ảnh hưởng của bản
thân, của người khác (những thông tin đến từ bạn bè, gia đình thần tượng…
và từ bên ngoài (những thông tin có chủ đích trên truyền thông đại chúng).
Trong đó theo Philip ảnh hưởng từ bên ngoài tác động tới công chúng mạnh
mẽ nhất. Cha đẻ của ngành Marketing cũng chỉ rõ, trong thời đại số 4.0,
internet và các nhân tố F (family – gia đình friends – bạn bè, famous person –
người nổi tiếng, fans – người hâm mộ… khiến cách thức, mô hình truyền tải
thông tin phải thay đổi [181, tr.85]. NSBD là các KOLs chính là một trong
những nhân tố F đó famous person – người nổi tiếng), họ tạo ra những ảnh
hưởng và chi phối mạnh mẽ tới tâm lý và quyết định của công chúng.
Một số công trình nghiên cứu truyền thông marketing về ảnh hưởng của
người nổi tiếng (bao gồm NSBD) trên truyền thông tới công chúng của Ruchi
Gupta (2015) tại Ấn Độ; Kamal Khan (2014) tại Ấn Độ và Pakistan; Nguyen
Minh Ha, Nguyen Hung Lam (2017) tại Việt Nam… đã chỉ ra được những yếu
tố của NSBD luôn tác động mạnh đến ý thức thái độ và hành vi của công
chúng đó là: sự tin tưởng (1), sự liên quan (2), nội dung thông tin (3), sự tương
tác (4), ngoại hình (5), sự nổi tiếng (6), và kiến thức chuyên môn (7).
Mặc dù là kết quả nghiên cứu ở lĩnh vực truyền thông marketing nhưng
nó góp phần lý giải sự thay đổi mạnh mẽ của mô thức thông tin về giới NSBD
trên báo điện tử hiện nay, khi không ít doanh nghiệp đã sử dụng KOLs kết hợp
với báo điện tử để truyền tải thông điệp mong muốn tới các nhóm công chúng là
khách hàng của họ. Chủ thể truyền thông trong sự dịch chuyển này không chỉ còn
65
là tòa soạn và nhà báo nữa mà là sự kết hợp giữa nhà báo, doanh nghiệp và cả
người nổi tiếng. Điều này làm rõ hơn đặc trưng thương phẩm hóa các sản phẩm
nghệ thuật của văn hóa đại chúng.
2.4.5 Thế mạnh và hạn chế trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn
Việt Nam trên báo điện tử
Không phủ nhận báo điện tử phát huy được nhiều yếu tố là thế mạnh
trong việc đăng tải thông tin về giới NSBD VN. Tuy nhiên, loại hình này
cũng không tránh được ảnh hưởng từ các yếu tố nội tại và ngoại cảnh, dẫn tới
những hạn chế về mặt chất lượng trong việc thông tin về giới NSBD VN.
Thế mạnh
Khả năng thông tin nhanh và phi định kỳ: dựa trên nền tảng internet, báo
điện tử có thể truyền thông tin với tốc độ nhanh và luôn cập nhật khiến công
chúng bị cuốn theo, cảm thấy được thỏa mãn và liên tục quan tâm tới trang tin.
Nội dung thông tin không bị giới hạn bởi dung lượng, hình thức thể hiện
đa phương tiện: Mỗi ngày, một trang báo điện tử có thể xuất bản hàng chục,
hàng trăm tin bài ảnh video clip…. Đây là điều mà báo in, phát thanh hay
truyền hình không thể làm được. Nhờ khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố chữ
viết, hình ảnh âm thanh đồ họa, hình khối… sức hấp dẫn của các bài báo điện
tử cũng lớn hơn giúp công chúng dễ hiểu và dễ tiếp nhận thông tin hơn.
Thông tin dễ dàng được tìm kiếm và chia sẻ: Dựa vào khả năng liên
kết, tạo các siêu liên kết hyperlink, những thông tin trên báo mạng điện tử có
sức lan tỏa mạnh mẽ và nhanh chóng. Công chúng có khả năng tiếp cận thông
tin ở mọi lúc mọi nơi chỉ cần thông qua một thiết bị có kết nối internet. Bên
cạnh đó nhờ khả năng lưu trữ, tạo tệp dữ liệu online của báo điện tử mà
những nội dung được đăng tải trước đó không bị mất đi công chúng có thễ dễ
dàng tìm kiếm thông tin mình cần và dễ dàng chia sẻ nó cho người khác.
Tính tương tác cho phép công chúng dễ dàng phản hồi thông tin, bàn
luận và tạo lập các diễn đàn trao đổi: Tính tương tác thể hiện rõ trong việc
66
rất nhiều các phản hồi (comment) của độc giả được đăng tải ngay phía dưới
tác phẩm và theo dòng sự kiện. Không chỉ bày tỏ ý kiến một chiều về tác
phẩm, công chúng còn có thể c ng trao đổi, thảo luận qua lại với nhau, với
tòa soạn. Cũng nhờ môi trường thông tin mang tính tương tác cao này nhiều
trang báo điện tử đã tổ chức các diễn đàn không giới hạn số lượng công chúng
tham gia, nhiều trang còn thu hút hàng triệu độc giả đóng góp ý kiến, bàn
luận, tạo thành dư luận xã hội.
Đội ngũ phóng viên được đào tạo, tiếp cận với công nghệ làm báo mới:
Các phóng viên, biên tập viên các báo điện tử hiện nay liên tục được đào tạo
và trải nghiệm các phương thức làm báo mới, hiện đại: từ việc thu thập tin
tức, xử lý dữ liệu cho tới hình thức thể hiện tin bài. Xuất hiện nhiều hình thức
TPBC mới như: bài chuyên sâu long-form story), VR (Virtual Reality),
Livestream, gói tin tức Package news … Nhờ đó nhiều sản phẩm mới, có
tính sáng tạo cao ra đời giúp cho thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
ngày càng hấp dẫn, dễ tiếp nhận. Bên cạnh đó các phương tiện kĩ thuật hiện
đại như go pro các phần mềm hỗ trợ xây dựng các sản phẩm báo chí…
cũng được cập nhật, áp dụng, giúp tăng cường tốc độ thực hiện cũng như cải
thiện chất lượng tin bài.
Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa đại chúng và công nghiệp giải trí ở
Việt Nam giúp cho đời sống và các hoạt động văn hóa nghệ thuật của giới
nghệ sĩ biểu diễn trở nên phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết, góp phần
làm cho nguồn đề tài và nội dung các bài viết, các tác phẩm báo chí trở nên
dồi dào đa chiều đa màu sắc, hấp dẫn và thỏa mãn công chúng nhiều hơn.
Hạn chế
Chạy đua trong sản xuất thông tin giữa các trang báo: Nhiều trang báo
chạy theo tiêu chí nóng, nhanh của thông tin mà bỏ qua yêu cầu về mức độ chính
xác của thông tin, bỏ qua những khâu quan trọng trong kiểm chứng thông tin.
Nhiều thông tin vì thế mà sai lệch, ảnh hưởng tới không chỉ uy tín của tờ báo mà
67
còn tác động tiêu cực tới nghệ sĩ và công chúng. Nhiều nghệ sĩ biểu diễn chịu
cảnh lao đao khi bị tung tên thất thiệt chưa được kiểm chứng trên báo điện tử.
Thậm chí, có những thông tin gây hoang mang trong dư luận tác động xấu tới
công chúng.
Xuất hiện nhiều thông tin phản cảm khi thông tin về giới NSBD Việt:
Chính việc chạy đua trong khai thác thông tin cũng như sự quá đà trong cách
thức thể hiện đã khiến rất nhiều thông tin về giới NSBD Việt trở thành những
thông tin câu khách phản cảm, đi ngược với thuần phong mỹ tục văn hóa Việt
Nam làm phương hại tới hình ảnh văn hóa dân tộc, tạo ra cái nhìn lệch lạc,
không trung thực và thiếu toàn diện về cả hai ngành văn hóa là Báo chí truyền
thông và Nghệ thuật biểu diễn.
Thiếu tính định hướng: Tình trạng báo điện tử bị thương mại hóa ngày
càng nghiêm trọng. Việc đăng tải thông tin, hình ảnh giật gân, câu khách, thiếu
văn hóa thiếu nhân văn phản giáo dục, thiếu trách nhiệm với xã hội và độc giả
ngày càng phổ biến. Chỉ vì phục vụ thị hiếu của một bộ phận bạn đọc mà mất đi
tính định hướng xã hội định hướng dư luận của báo chí.
Chưa tạo được bản sắc riêng khi thông tin về giới NSBD VN: Việc
chạy đua sản xuất thông tin, cạnh tranh độc giả khiến nhiều trang báo không
giữ được tôn chỉ, mục đích của mình đồng thời xuất hiện hiện tượng thông
tin trên các trang báo khá tương đồng nhau. Vào một thời điểm, chỉ cần đọc
một trang báo điện tử công chúng đã nắm được một cách cơ bản thông tin về
giới NSBD VN và các hoạt động của họ xuất hiện trên các tờ báo khác. Hiện
tượng “xào” bài ngày càng tinh vi khiến các trang báo khó khăn trong việc
bảo vệ bản quyền tác phẩm báo chí đồng thời khiến các trang báo điện tử trở
thành những phiên bản na ná của nhau.
Dễ tạo dư luận gây ảnh hưởng tiêu cực: Nếu thông tin về giới NSBD
(những KOLs có khả năng dẫn dắt hành vi của công chúng) là những thông tin
tích cực thì việc thông tin lan tỏa nhanh sẽ tạo ra những hiệu ứng tích cực.
68
Nhưng ngược lại, nếu đó là thông tin tiêu cực, phản cảm, nó sẽ gây ra những hệ
quả tiêu cực, thậm chí tạo nên một dư luận xấu ảnh hưởng tới cả những nghệ sĩ
được đưa thông tin nói riêng và tới đời sống cộng đồng nói chung.
Tính ảo của môi trường internet: các chủ thể tham gia phản hồi đóng
góp ý kiến... với các tác phẩm đăng trên báo điện tử có thể không thật, không
phản ánh được chính xác nhu cầu của CCTC về mặt hàm lượng và nội dung
thông tin, dẫn tới những sai lầm trong việc định hướng thông tin của tòa soạn.
Trở thành “công cụ” truyền thông của giới NSBD khi họ cố tình tạo
“scandal” để hút báo chí, hút sự chú ý của công chúng đánh bóng tên tuổi.
2.4.6 Những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thông tin về giới NSBD VN
trên báo điện tử
+ Toàn cầu hóa truyền thông và mạng xã hội:
“Toàn cầu hóa” vừa được coi là nguyên nhân phát triển của truyền thông
đại chúng đương đại, vừa là một trong những kết quả của nó [28, tr.88]. Một
trong những biểu hiện của “toàn cầu hóa truyền thông” là công nghệ truyền
thông số. “Công nghệ truyền thông số tạo điều kiện giúp việc sản xuất và phát
hành sản phẩm truyền thông ngày một nhanh chóng, dễ dàng, đồng thời khiến
việc quản lý báo chí truyền thông trở nên khó khăn hơn bao giờ hết” - PGS.TS
Đặng Thị Thu Hương [58, tr.91].
MXH đã và đang có ảnh hưởng lớn đến đời sống báo chí tại Việt Nam
nói chung và hoạt động thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử nói
riêng, từ việc phát hiện đề tài, nắm bắt xu hướng khai thác thông tin đến cả
việc kiểm chứng thông tin, xử lý tin tức. Mạng xã hội cũng làm thay đổi hành
vi của công chúng. Từ chỗ chỉ là người tiếp nhận thông tin một cách bị động,
nay họ trở thành người chủ động tham gia sản xuất, cung cấp và chia sẻ thông
tin đem lại những thách thức lớn cho các tòa soạn và các nhà báo. Chính
mạng xã hội đã làm thay đổi “môi trường sinh thái” của các loại hình truyền
thông hiện nay trong đó có báo điện tử.
69
Ở một mức độ nào đó sự tác động của công nghệ truyền thông số làm
thay đổi cách thức làm báo đặc biệt khi mỗi công dân giờ đây đều có thể trở
thành một người đưa tin qua các hình thức được gọi là “báo chí công dân”
citizen media đang nở rộ trên các mạng xã hội. Nhưng với báo điện tử dòng
chính thống mainstream theo đuổi và cạnh tranh theo hướng đó không phải
là điều đơn giản bởi một toà soạn có đồ sộ đến mấy cũng không thể nào cạnh
tranh được với một mạng xã hội hoặc một trang web có hàng trăm nghìn
hàng triệu, thậm chí đến hàng tỷ người d ng và tham gia tương tác như
Facebook hay Twitter.
Các phương tiện truyền thông mới được coi là “quyền lực thứ 5” có
sức mạnh to lớn vượt ra ngoài các biện pháp quản lý hành chính hay kĩ thuật
của một quốc gia cụ thể [58 tr.92]. Điều này tạo ra áp lực lớn cho các trang
báo điện tử chính thống khi họ phải chạy đua việc sản xuất tin bài cũng như
tạo ra sức hút cho tin bài để cạnh tranh với các mạng xã hội, dẫn đến thông tin
được sản xuất vội vàng không được kiểm chứng, sụt giảm về chất lượng, gây
ảnh hưởng tiêu cực tới chính người nghệ sĩ và cả công chúng tiếp nhận.
+ Toàn cầu hóa về văn hóa
Xu hướng này giúp cho văn hóa các dân tộc phong phú đa dạng hơn
nhưng ngược lại cũng chịu những sự mất mát, thui chột khi không thể cạnh tranh
với làn sóng văn hóa ngoại lai. Việt Nam nằm ở vị trí thuận tiện cho việc giao
lưu văn hóa và đang chịu ảnh hưởng sâu sắc của các dòng văn hóa ngoại lai tới
từ Mỹ, châu Âu, và cả châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… . Nhờ toàn
cầu hóa văn hóa nói chung và các hoạt động nghệ thuật biểu diễn của chúng ta
trở nên đa dạng phong phú hơn. Nhưng cũng chính toàn cầu hóa đã khiến các hệ
giá trị văn hóa dân tộc truyền thống đang bị xô lệch, lung lay, mất đi định hướng.
Cả nghệ sĩ biểu diễn lẫn công chúng tiếp nhận đều tiếp thu những làn sóng văn
hóa ngoại lai rất nhanh, dẫn đến việc truyền thông về giới NSBD VN trên báo
điện tử cũng phải cập nhật “xu hướng” nhanh để có thể đáp ứng và thu hút được
70
công chúng. Mà những “xu hướng” ấy không phải cái nào cũng ph hợp, thậm
chí đi ngược lại các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nói cách khác, việc
chạy theo “xu hướng” văn hóa ảnh hưởng không nhỏ tới định hướng thông tin
cũng như chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.
+ Áp lực lớn từ nền kinh tế thị trƣờng
Các tòa soạn báo điện tử khi thực hiện tự chủ tài chính đều chịu áp lực
lớn. Cơ chế tự chủ tài chính tác động tới chất lượng, nội dung thông tin trên báo
chí nói chung và thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử nói riêng ở cả khía
cạnh tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực: để nâng cao khả năng cạnh tranh và sức hút đối với công
chúng các trang báo điện tử không ngừng cải tiến nội dung và hình thức của các
TPBC; ra đời nhiều chuyên trang, chuyên mục giải trí mới với nội dung gần gũi
thông tin đặc sắc nhằm phục vụ nhóm công chúng mục tiêu đáp ứng nhu cầu của họ.
Tuy nhiên, tự chủ tài chính cũng tạo ra sức ép lớn tới các tòa soạn báo
điện tử và tạo ra các tác động tiêu cực tới chất lượng thông tin. Mặc dù mục đích
là hướng tới một nền báo chí chuyên nghiệp nhưng tự chủ tài chính lại tạo ra xu
hướng “thương mại hóa báo chí”. Hiện nay, nguồn thu của các tòa soạn báo điện
tử phụ thuộc lớn vào các hợp đồng quảng cáo, tài trợ, tuy nhiên nguồn thu này
đang đối diện với sự cạnh tranh lớn từ mạng xã hội. Hầu hết các tòa soạn báo
điện tử đều phải mưu tính các giải pháp phát triển kinh doanh, chấp nhận các
điều kiện kiếm tiền không trong sáng áp định mức lượt xem để tính nhuận bút
cho phóng viên, dồn áp lực tài chính lên phóng viên… Do đó chất lượng thông
tin về giới NSBD VN ít nhiều bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực.
2.5 Tiêu chí đánh giá chất lƣợng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt
Mục tiêu chung của báo chí là thông tin vì sự phát triển của nhân loại.
Báo điện tử và thông tin về giới NSBD VN không nằm ngoài mục tiêu này.
71
PGS.TS Nguyễn Văn Dững trong sách Báo chí truyền thông hiện đại
[23 tr.91] đã đưa ra mô hình cơ chế tác động của báo chí (hình 2.5). Theo mô
hình này, tác phẩm báo chí nằm ở bước thứ 3 trong quá trình hoạt động của cơ
chế đó là thông điệp (sản phẩm truyền thông). Thông qua các kênh truyền
thông (báo in, báo mạng...) các tác phẩm báo chí tác động trực tiếp vào ý thức
quần chúng bằng các nội dung và thông tin (công chúng tự lựa chọn). Quá
trình báo chí tác động tới công chúng mà PGS.TS Nguyễn Văn Dững đưa ra
có thể tóm tắt như sau: Hiểu câu chuyện, vấn đề -> bắt chước, làm theo hoặc
lên án, tẩy chay quyết định nhận thức và hành vi của công chúng.
Hình 2.5: Mô hình cơ chế tác động của báo chí
Nhận thức chính trị
Ý thức quần chúng
Kênh truyền thông
Sản phẩm truyền thông
Chủ thế truyền thông
Thực tiễn các sự kiện, vấn đề
Thực tiễn các sự kiện, vấn đề
Hiểu biết tri thức tổng hợp
Hiệu lực
Hiệu quả
Nguồn: PGS.TS Nguyễn Văn Dững, sách Báo chí truyền thông hiện đại
Còn theo sách Truyền thông đại chúng của tác giả Tạ Ngọc Tấn, hiệu
quả xã hội của TTĐC thể hiện ở 3 mức độ: 1) Hiệu quả tiếp nhận: đây là cấp
độ thấp nhất, thể hiện sự đánh giá về số lượng, cách thức tiếp cận và chấp
nhận nguồn tin từ công chúng; 2) Hiệu ứng xã hội: là những biểu hiện của xã
hội (phản ứng tâm lý, cách ứng xử, hành vi cụ thể và dư luận xã hội) hình
thành do sự tác động của thông tin từ các phương tiện TTĐC; 3 Hiệu quả
thực tế: là tiêu chí cao nhất trong việc đánh giá hiệu quả xã hội của TTĐC.
Đó là những thay đổi, vận động thực tế của đời sống xã hội dưới tác động của
TTĐC. Với tư cách là một phương tiện TTĐC báo điện tử cũng phải dựa trên
những tiêu chí này để đánh giá hiệu quả và chất lượng thông tin.
72
Như vậy sự tác động của thông tin và phản hồi của công chúng là một
trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng thông tin của báo chí
nói chung và báo điện tử nói riêng. Trong đó tần suất độ phủ thông tin lượt
đọc tin bài được cho là mức độ thấp nhất; sự thay đổi trong cảm xúc, nhận
thức dư luận xã hội, từ đó dẫn tới những thay đổi trong hành vi ứng xử của
công chúng là mức độ cao hơn.
Trong quá trình hội nhập văn hóa toàn cầu ngày càng sâu rộng, bên
cạnh việc học hỏi các phương thức làm báo hiện đại, tiếp xúc với những lý
thuyết truyền thông mới trên thế giới, việc vận dụng các phương thức và lý
thuyết này vào Việt Nam cũng phải đề cao yếu tố phù hợp và tương thích với
văn hóa Việt. Văn hóa giống như một người dẫn đường cho quá trình giao lưu
và hội nhập ở nhiều khía cạnh khác nhau trong đó có hoạt động báo chí. Báo
chí đặc biệt là loại hình báo chí hiện đại, có sức lan tỏa như báo điện tử) có
vai trò quan trọng trong việc truyền thông văn hóa Việt, gạn đục khơi trong
giữ gìn bản sắc văn hóa Việt dưới sự “dẫn đường” của hệ giá trị văn hóa dân
tộc Việt. Chính vì vậy, bên cạnh các cơ chế tác động thông tin tới công chúng,
việc xây dựng những tiêu chí nhằm soi chiếu, đánh giá chất lượng thông tin
về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt là điều cần thiết.
Trong bài viết Văn hóa truyền thông và truyền thông có văn hóa đăng
trên Kỷ yếu Văn hóa truyền thông thời kỳ hội nhập (Nxb Thông tin và truyền
thông 2013 GS. Hà Minh Đức đã chỉ ra các nguyên tắc của văn hóa truyền
thông trong thời kỳ hiện đại như sau: Văn hóa truyền thông phải góp phần bảo
vệ quyền lợi thiêng liêng của dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc; Văn hóa
truyền thông phải đề cao những giá trị nhân văn của truyền thống văn hóa
Việt Nam trong quá khứ và hiện tại; Truyền thông văn hóa phải đảm bảo tính
trung thực, không bịa đặt; Văn hóa truyền thông phải tránh khuynh hướng
thực dụng thương mại hóa; Cần nâng cao phê phán cái tiêu cực, cái xấu trong
lĩnh vực văn hóa [26, tr11-23].
73
Dựa trên cơ chế tác động của báo chí, các nguyên tắc của văn hóa truyền
thông trong thời kỳ hiện đại mà các nhà nghiên cứu trước đã đưa ra như phân
tích ở trên; dựa trên đặc thù riêng biệt của loại hình báo điện tử; và dựa trên góc
nhìn văn hóa Việt xuất phát từ hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống (với cả
những giá trị phái sinh và phi giá trị) cùng mục tiêu xây dựng hệ giá trị văn hóa
Việt Nam mới mà GS.Trần Ngọc Thêm đã nghiên cứu đề xuất (Tính cộng
đồng, xã hội; Tính hài hòa thiên về dương tính; Tính chủ toàn hiện đại; Tính
năng động), tác giả luận án xin được đưa ra các tiêu chí đánh giá thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt như sau:
2.5.1 Nhóm tiêu chí về nội dung, hình thức thông tin
Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải đảm
bảo nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt, góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa
dân tộc: Văn hóa Việt Nam có bản sắc riêng mà mỗi ở mỗi chặng đường lịch
sử, các hiện tượng văn hóa đều có giá trị riêng. Báo chí nói chung và báo điện
tử nói riêng cần tiếp nhận những cái hay, cái mới của thế giới nhưng cũng
cần đề cao những giá trị nhân văn của truyền thống văn hóa Việt trong quá
khứ và hiện tại, phê phán khuynh hướng xâm lăng văn hóa kể cả trong lối
sống của nghệ sĩ, trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bảo vệ những giá trị
văn hóa tốt đẹp của dân tộc đúng với phương châm Nghị quyết của Đảng đề
ra tại Đại hội VIII là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải tránh
khuynh hướng thực dụng, thương mại hóa: Mặc d văn hóa đại chúng và
công nghiệp giải trí phát triển ngày càng mạnh mẽ, xu hướng thương mại
hóa các sản phẩm nghệ thuật và thông tin báo chí do ảnh hưởng của logic
kinh tế thị trường là khó tránh khỏi, tuy nhiên văn hóa nói chung và văn hóa
nghệ thuật nói riêng thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, thuộc về phạm
trù ý thức tinh thần của xã hội, khác biệt với những hoạt động sản xuất hàng
74
hóa vật chất, dịch vụ khác trong đời sống thường ngày. Không thể biến hoạt
động thông tin về văn hóa nghệ thuật (bao gồm thông tin về giới NSBD)
thành thực dụng tầm thường vì lợi ích kinh tế làm méo mó đi bản sắc văn
hóa dân tộc Việt.
Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải phản
ánh những phẩm chất tốt đẹp của họ; đồng thời phê phán cái tiêu cực, cái
xấu, thói vọng ngoại thái quá, đi ngược thuần phong mỹ tục của họ dựa trên
tinh thần phản biện, xây dựng: Nguyên Thứ trưởng Bộ TT&TT Đỗ Quý Doãn
nhận định: “Thông tin về giới NSBD trên báo điện tử như một con dao hai
lưỡi. Sử dụng tốt thì rất hữu hiệu. Nhưng nếu có sai sót, vi phạm thì cũng tạo
ra những hệ lụy vô cùng kinh khủng” PVS 02 . Với chức năng giáo dục văn
hóa - thẩm mỹ và chức năng giải trí của báo chí, thông tin về giới NSBD
thường gắn liền với các sự kiện văn hóa nghệ thuật, có tính giải trí cao, thu
hút đông đảo công chúng quan tâm. NSBD là thần tượng, hình mẫu cuộc sống
của rất nhiều công chúng. Lối sống đạo đức… của họ có khả năng ảnh hưởng
tới công chúng đặc biệt khi được khuếch trương trên báo điện tử. Những
phẩm chất tốt đẹp của NSBD trên báo chí có khả năng động viên, khích lệ,
giáo dục, bồi đắp cho công chúng những lối sống và tư duy tích cực; góp phần
đẩy l i thói hư tật xấu đi ngược với thuần phong mỹ tục của xã hội. Tuy
nhiên, những hình ảnh, lối sống tiêu cực của NSBD nếu xuất hiện tràn lan trên
báo chí sẽ gây hậu quả khôn lường tác động xấu tới công chúng, làm suy
giảm các giá trị văn hóa hóa tốt đẹp. Chính vì vậy báo chí cũng cần mạnh mẽ
phê phán những hình ảnh tiêu cực của NSBD VN trong quá trình hội nhập
văn hóa toàn cầu nhầm gìn giữ và phát huy những chuẩn mực và giá trị văn
hóa dân tộc Việt, phản biện lại những yếu tố tiêu cực làm suy giảm những giá
trị văn hóa truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên, báo chí khen hay chê đều
phải đúng người đúng việc, và phải dựa trên tinh thần xây dựng để kích thích
những nét hay nét đẹp và giảm thiểu những hiện tượng tiêu cực.
75
Nội dung các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN phải hướng
tới sự nhân văn, tôn trọng con người, phù hợp truyền thống trọng tình trọng
lý trong ứng xử của người Việt với nhau: Trong Quy định đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo Việt Nam, điều 3 nêu rõ: “Nhà báo đưa thông tin
phải đảm bảo chính xác, trung thực, khách quan, không đưa những thông tin
gây ra hiểu lầm hoặc bị móp méo. Không đăng tin đồn khi chưa được kiểm
chứng. Không được viện cớ vì lợi ích chính đáng của công chúng để đưa tin
giật gân, câu khách” [100, tr. 709]. Tại điều 8 trong bản Phác thảo Quy tắc
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam nêu rõ: “Cho dù mối quan tâm
của công chúng cũng không được sử dụng ngôn ngữ thấp kém hay công kích,
tấn công người khác một cách ác ý” [100, tr. 67]. Như vậy, xét cả từ góc độv
văn hóa truyền thống lẫn các điều luật quy định của luật pháp, các tòa soạn
báo cũng như các nhà báo phải chịu trách nhiệm trước thông tin mình đưa ra
tôn trọng danh dự và cuộc sống riêng của mọi người trong đó có giới
NSBD), tuyệt đối không được sử dụng ngôn ngữ thiếu chuẩn mực đề cập tới
những vấn đề nhạy cảm không được kiểm chứng, gây hại cho tư duy và tư
tưởng của công chúng làm méo mó đi hình ảnh văn hóa dân tộc.
Hình thức thông tin về giới NSBD VN phải thể hiện theo đặc thù của báo
điện tử, phù hợp với môi trường truyền thông online và thói quen của công
chúng, đảm bảo phù hợp văn hóa Việt: Báo điện tử cần thỏa mãn yêu cầu về
trình bày trên giao diện, gắn liền với đặc trưng thiết kế của báo điện tử (số ký tự
trên tiêu đề, diện tích ảnh dung lượng ảnh độ dài nội dung, màu sắc chữ đồ
họa...), vừa đảm bảo tính thẩm mĩ vừa thuận tiện cho người đọc trong việc đọc
và tiếp nhận thông tin. Ngoài ra, các yếu tố: chữ viết, âm thanh, video, hình
ảnh... cũng cần chuẩn chỉnh, nâng tầm văn hóa đọc được kết hợp hài hòa, hợp lý
giúp tăng khả năng biểu đạt thông điệp tăng sự hấp dẫn và lan tỏa thông điệp
của trang báo. Tránh vì mục đích thu hút người đọc mà đăng tải những hình ảnh
và giật tiêu đề phản cảm, không phù hợp với văn hóa Việt truyền thống.
76
2.5.2 Nhóm tiêu chí về nhận thức, năng lực của người làm báo
Các tòa soạn báo cần có định hướng rõ ràng trong việc thông tin về
giới NSBD VN, phù hợp với nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt: Trong quá
trình thông tin về giới NSBD VN, các tòa soạn báo cần xác định rõ ràng đây
là hoạt động thông tin nhằm thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt.
Từ đó có những chiến lược định hướng thông tin rõ ràng, loại bỏ những thông
tin mang những giá trị phi văn hóa và tăng cường thực hiện những thông tin
truyền tải các giá trị phái sinh của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Nhà báo thực hiện viết tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN
cần thể hiện được tố chất văn hóa: Báo chí là sản phẩm văn hóa thông tin về
giới NSBD VN là một hoạt động thông tin văn hóa nghệ thuật do đó đòi hỏi
nhà báo phải có văn hóa phải coi hoạt động tác nghiệp của mình là hoạt động
văn hóa. Văn hóa của nhà báo thể hiện ở thái độ của họ với dân tộc, với đạo
đức nghề nghiệp, với nhiệm vụ truyền thông và giữ gìn văn hóa Việt, với đối
tượng mình đưa tin nghệ sĩ biểu diễn), với công chúng và với các quy ước
ứng xử với cộng đồng của người Việt, không vì áp lực kinh tế mà quên mất đi
vai trò của mình, trở thành công cụ của NSBD và doanh nghiệp, suy giảm tinh
thần và đạo đức của người làm báo. Nhà báo khi viết bài cũng cần nhận thức
rõ kiến thức chuyên môn lĩnh vực mình viết (ở đây là văn hóa nghệ thuật và
nghệ sĩ tránh viết và đưa ra những nhận định sai lầm. Như vậy, nhà báo khi
viết về văn hóa văn hóa nghệ thuật nói chung và về giới NSBD nói riêng cần
đảm báo: có chuyên môn nghiệp vụ có đạo đức nghề nghiệp và luôn đặt công
chúng lên hàng đầu khi viết bài.
2.5.3 Nhóm tiêu chí về phản hồi và đánh giá của công chúng
Đánh giá các tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN dựa trên số
lượng lượt xem, lượt thích, lượt bình luận, chia sẻ của công chúng: Tiêu chí
này phản ánh mức độ thu hút và độ phủ của thông tin tới công chúng.
77
Đánh giá tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN dựa trên phản
ứng và đánh giá của công chúng: Thông tin là một quá trình hai chiều, phản
hồi của công chúng cho biết hiệu quả truyền thông. Thái độ và phản ứng của
công chúng khi tiếp nhận thông tin về giới NSBD VN trên các trang báo điện
tử phản ánh mức độ tạo dư luận xã hội của thông tin; mức độ tác động tới
nhận thức cũng như thay đổi thái độ hành vi, thị hiếu thẩm mĩ của công chúng
khi tiếp nhận thông tin; cũng đồng thời là một trong những thước đo quan
trọng phản ánh hiệu quả của báo điện tử trong nhiệm vụ truyền thông văn hóa
Việt Nam với thông tin về giới NSBD VN tới công chúng.
Đánh giá tác phẩm báo chí thông tin về giới NSBD VN dựa trên nhận
thức và trình độ văn hóa của công chúng khi tiếp nhận thông tin: Nhận thức
và trình độ văn hóa của công chúng tốt đồng nghĩa với việc họ sẽ tạo ra những
phản ứng đối với tác phẩm báo chí và đối tượng được thông tin trong tác
phẩm báo chí (NSBD VN) một cách tích cực đúng đắn, mang tính xây dựng,
góp phần giúp người làm báo và cả NSBD điều chỉnh những sai sót, khắc
phục hạn chế
78
Chương 2 của luận án đã hệ thống hóa các khái niệm về: văn hóa báo
Tiểu kết Chƣơng 2
điện tử thông tin trên báo điện tử.. đặc biệt là xây dựng khung lý thuyết cơ
bản về hệ giá trị văn hóa dân tộc Việt và góc nhìn văn hóa Việt, về giới
NSBD và giới NSBD VN, cũng như mô hình thông tin về giới này trên báo
điện tử. Chương 2 của luận án cũng xây dựng được các tiêu chí đánh giá
thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử. Hệ thống lý thuyết này chính là
cơ sở khoa học cho việc nhìn nhận và phân tích thực trạng vấn đề thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử trong phạm vi khảo sát của luận án.
Báo chí vừa là một sản phẩm thông tin - truyền thông của nền văn hóa
vừa là một sinh hoạt văn hóa. Sự phát triển của báo chí không thể tách rời
khỏi môi trường văn hóa xã hội, mối quan hệ giữa báo chí và văn hóa là mối
quan hệ cộng sinh. Bởi vậy, phải từ góc nhìn văn hóa giải mã được các hiện
tượng xã hội, các yếu tố tham gia vào quá trình truyền thông, từ đó mới có thể
tạo ra được những tác phẩm báo chí hay có tính nhân văn.
Báo điện tử là một loại hình báo chí hiện đại, hình thành dựa trên nền
tảng công nghệ thông tin hiện đại. Với đặc trưng riêng báo điện tử có ưu thế
lớn trong việc truyền tải thông tin nói chung, thông tin VHNT (bao gồm cả giới
NSBD nói riêng đáp ứng tối đa nhu cầu hưởng thụ thông tin giải trí của công
chúng, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần cho họ. Tuy nhiên,
chính những ưu điểm vượt trội ấy cũng tạo ra những ảnh hưởng, hệ lụy tiêu cực
trong quá trình đăng tải thông tin của báo điện tử. Bên cạnh những thông tin
VHNT cần thiết (các sản phẩm mới các chương trình biểu diễn, chân dung
những nghệ sĩ biểu diễn xuất sắc... cũng xuất hiện nhiều thông tin phản cảm,
thậm chí là “thảm họa” tạo ra luồng dư luận xấu, gây ảnh hưởng tiêu cực tới cả
NSBD lẫn công chúng tiếp nhận thông tin, làm mất đi niềm tin của độc giả, làm
phương hại tới hình ảnh văn hóa dân tộc. Những thông tin phản cảm này là
79
biểu hiện sự nghèo nàn của báo chí trong cách thức thông tin cũng như biểu
hiệu cho sự xuống cấp về đạo đức báo chí, thiếu đi tính văn hóa trong hoạt
động báo chí nói chung và trong nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt nói riêng.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, thông tin báo chí về giới NSBD là rác nhiều
hơn là văn hóa. Điều này không phải không thuyết phục nhưng nó chưa đầy
đủ, và cần những nghiên cứu chỉ ra những kết quả rõ ràng hơn.
Dựa trên khung lý thuyết của chương 2 trong chương 3 của Luận án,
tác giả sẽ nghiên cứu thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên 3 trang báo
điện tử: Vietnamnet.vn News.zing.vn và Ngoisao.net trong 3 năm 2014
2015, 2016, từ các yếu tố đa chiều đó là: báo điện tử, giới NSBD VN, tác
phẩm báo chí (nội dung thông tin), và công chúng độc giả, khán, thính giả).
Luận án sẽ soi chiếu thực trạng này qua góc nhìn văn hóa Việt, xem xét ở trên
cả hai phương diện tích cực và hạn chế, từ đó kì vọng đưa ra được những giải
pháp phù hợp, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD
VN trên báo điện tử.
80
CHƢƠNG 3:
THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN
VIỆT NAM TRÊN VIETNAMNET.VN, NEWS.ZING.VN,
NGOISAO.NET TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VIỆT
Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử khi trở thành vấn đề
nghiên cứu của luận án đã được tác giả nhìn nhận, phân tích ở cả cả hai mặt
tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, vấn đề tiêu cực hiện lên rõ ràng hơn trở thành
một vấn đề nóng một hiện thực truyền thông hiện hữu trong thực tế khiến cả
xã hội phải quan tâm tìm cách giải quyết. Bởi vậy, tác giả chọn góc nhìn phê
phán trên tinh thần phản biện xã hội để tập trung nhiều hơn vào việc phân tích,
đánh giá những vấn đề tiêu cực, những lỗi văn hóa trong thực trạng thông tin
về giới NSBD VN trên báo điện tử.
Như đã đề cập trong Chương 1 và Chương 2 về giới hạn phạm vi đối
tượng nghiên cứu, luận án sẽ chỉ tập trung nghiên cứu thông tin về giới NSBD
ở hai loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại là âm nhạc và điện ảnh.
3.1 Khái quát báo điện tử là đối tƣợng đƣợc khảo sát
3.1.1 Báo điện tử VietNamNet (VNN) và chuyên mục “Giải trí”
Báo điện tử VietNamNet (tên miền: www.Vietnamnet.vn) là hệ thống
thông tin trực tuyến đầu tiên ở Việt Nam, lên mạng từ năm 1997 trực thuộc
Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC. Ngày 23/01/2003, VietNamNet
chính thức được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp giấy phép trở thành báo mạng
điện tử và trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông từ ngày 17/06/2008. Với
phương châm hoạt động “đi đầu hay bị loại?” không nằm ngoài xu hướng
“thị trường hóa” đang ngày càng lan rộng, VNN liên tục cập nhật tin tức thời
sự ở mọi lĩnh vực trong cuộc sống, trong đó văn hóa giải trí cũng là một mảng
thông tin quan trọng được tờ báo điện tử này hướng đến.
81
Trước đây chuyên mục Văn hóa của VNN được cho là phiên bản trung
hòa giữa các yếu tố giải trí và hàn lâm được giới chuyên môn đánh giá cao
đăng tải nhiều bài viết phân tích sâu sắc nhưng cũng không ít thông tin giải trí
thường ngày. Tuy nhiên, cùng với xu hướng cạnh tranh của “thị trường” tờ
báo này đã đổi tên chuyên mục từ Văn hóa thành Giải trí với nhiều chuyên
mục thứ cấp: Thế giới sao, Thời trang, Nhạc, Phim – Truyền hình, Sách, Di
sản, Mỹ thuật – Sân khấu, liên tục cập nhật những tin bài mang tính “lá cải”.
Đến nay, VNN vẫn là một trong những báo điện tử lớn nhất, là “món ăn tinh
thần” cho đông đảo công chúng Việt Nam. Ngày 15/02/2017, theo Alexa,
VietNamNet đứng thứ 35 tại Việt Nam và 3876 trên thế giới.
3.1.2 Ngoisao.net (Ngoisao) và chuyên mục Bên lề, Hậu trường, Phong cách
Trang www.ngoisao.net ra mắt vào ngày 20/4/2004 với tiêu chí trở
thành trang tin có tính giải trí cao. Những chuyên mục của trang tin đều thể
hiện rõ tiêu chí này: Hậu trường, Thể thao, Chơi blog, Làm đẹp, Trắc nghiệm,
Trò chơi... Thông tin về kinh tế, chính trị, giáo dục... hoàn toàn không có chỗ
trong Ngoisao.
Là trang đầu tiên khai thác mạnh về hậu trường của làng giải trí trong
nước và quốc tế, thời điểm ra mắt Ngoisao đã tạo ra một làn gió mới cho báo
điện tử Việt Nam nói riêng và báo chí Việt Nam nói chung. Ngoisao giống
như một thế giới thông tin về NSBD, cung cấp cho độc giả tất cả những thông
tin về chuyện nghề, chuyện hậu trường, chuyện ăn mặc, thậm chí là chuyện
“thâm cung bí sử” của họ. Một ngày Ngoisao thường cập nhật khoảng 30-40
tin bài mới, tốc độ cập nhật nhanh vào buổi sáng và chậm dần đều vào buổi
chiều. Mặc dù gây được sự chú ý thu hút lượng truy cập cao với nhờ những
thông tin về giới NSBD... nhưng Ngoisao cũng là trang tin bị gắn liền với
những đánh giá: “lá cải”, “xàm”, “nhảm”, “lẩu thập cẩm”....
Sau 12 năm trải qua không ít thăng trầm, hiện Ngoisao có gần 270 triệu
lượt truy cập mỗi tháng thu hút đông đảo độc giả trẻ tuổi 75% độc giả
82
Ngoisao nằm trong độ tuổi từ 18 đến 35). Theo xếp hạng của Alexa ngày
2/3/2017, Ngoisao.net xếp thứ 73 Việt Nam và thứ 6380 thế giới.
3.1.3 Báo điện tử News.zing.vn (Zingnews) và chuyên mục Giải trí, Âm
nhạc, Phim ảnh, Thời trang
Trong ba tờ báo được sử dụng làm đối tượng khảo sát, Zing news (Báo
Tri Thức Trực Tuyến) là tờ báo điện tử non trẻ nhất. Tuy nhiên, những gì mà
Zingnews làm được lại khiến các trang báo ra đời trước phải kinh ngạc.
Tháng 8/2007, VNG cho ra mắt trang điện tử Zing.vn với Zing MP3
(trang nghe nhạc trực tuyến) và Zing Chat (trang trò chuyện trực tuyến). Chỉ
hơn nửa năm sau tháng 1 2008 Zingnews ra mắt với mục đích cung cấp
thêm một sân chơi hấp dẫn cho giới trẻ và “phủ sóng” toàn bộ các hoạt động
thông tin giải trí cho lứa tuổi teen. Sau 7 tháng hoạt động Zingnews đã góp
phần đưa Zing.vn trở thành trang website được truy cập nhiều nhất tại Việt
Nam theo bảng xếp hạng của Alexa.
Chạy theo xu hướng câu “view” gây sốc để có được lượt truy cập
“khủng” Zing news vướng phải không ít lùm xùm về tin bài. Website này
từng bị phạt 37.5 triệu đồng vì thực hiện các nội dung không đúng với giấy
phép đăng kí; bị phản đối khi viết tin mà không có nguồn thông tin đăng các
bài viết, ảnh có nội dung tuyên truyền mê tín dị đoan phá hoại thuần phong
mỹ tục….Năm 2010 Zingnews bắt đầu một bước tiến mới về mặt thông tin
khi tổ chức lại nhân sự, xây dựng bộ máy BTV, PV chuyên nghiệp. Không
chỉ hướng về mảng giải trí, Zingnews còn tập trung vào thông tin lĩnh vực xã
hội, pháp luật và tin tức thời sự. Ba năm sau Zingnews đã được công chúng
nhìn nhận đánh giá bằng con mắt khác - một kênh thông tin thời sự, xã hội,
giải trí phong phú.
Tháng 6/2013, Zingnews chính thức trở thành Báo điện tử của Hội xuất
bản Việt Nam với lượng người đọc tăng lên nhanh chóng mỗi ngày, trở thành
một trong những trang báo điện tử có lượt truy cập cao nhất Việt Nam.
83
Mặc dù có những thay đổi mạnh mẽ nhưng giải trí vẫn là nội dung
chiếm ưu thế của Zingnews. Với các chuyên mục Giải trí, Âm nhạc, Phim
ảnh, thời trang sao, Zingnews gần như phủ sóng tất cả các thông tin thuộc
lĩnh vực giải trí, đáp ứng nhu cầu cầu mang tính “khuynh hướng” “thời
thượng” của giới trẻ. Tới nay, nhắc đến Zingnews, công chúng vẫn liên tưởng
tới trang báo điện tử thiên về thông tin giải trí hơn là các thông tin thời sự,
chính trị, kinh tế. Theo xếp hạng của Alexa vào ngày 2/3/2017, Zingnews
đứng thứ 9 ở Việt Nam và thứ 620 trên thế giới.
3.2 Khảo sát thực trạng việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
trên Vietnamnet.vn, News.zing.vn và Ngoisao.net từ góc nhìn văn hóa Việt
Để có cái nhìn toàn diện cho thực trạng thông tin về giới NSBD VN
trên báo điện tử từ góc nhìn văn hóa Việt, tác giả không chỉ khảo sát tần
suất, nội dung, hình thức của thông tin mà còn khảo sát cả các nhân tố
chính tham gia vào quá trình thông tin này đó là: báo điện tử (Tổng biên
tập, ban biên tập, biên tập viên phóng viên…), giới NSBD VN, công
chúng tiếp nhận; cũng như mối quan hệ và cách ứng xử giữa các nhân tố
này. Chu trình khảo sát sẽ bắt đầu từ việc nghiên cứu thực tế nhu cầu thông
tin của công chúng; tiếp đó là nghiên cứu hiện trạng thông tin về giới
NSBD VN trên báo điện tử (tần suất, nội dung, hình thức), hoạt động thực
hiện thông tin về giới NSBD VN (mối quan hệ và ứng xử giữa các chủ thể
tham gia vào quá trình thông tin) và cuối cùng là nghiên cứu phản ứng của
công chúng đối với thông tin về giới NSBD VN. Chu trình nghiên cứu này
nhằm lý giải cả nguồn gốc, hiện trạng và hiệu quả của thực trạng thông tin
về giới NSBD VN trên báo điện tử. Toàn bộ quá trình nghiên cứu này được
soi chiếu từ góc nhìn văn hóa Việt và được đánh giá bởi các tiêu chí đã đề
ra trong chương 2 của luận án.
84
3.2.1 Nhu cầu của công chúng đối với thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn
Việt Nam
Phỏng vấn Anket 531 người ở cả thành thị và nông thôn về nhu cầu
thông tin về giới NSBD VN, kết quả thu được như sau: Có tới 252 người bày
tỏ thái độ quan tâm tới thông tin về NSBD VN trên báo điện tử (chiếm 47%);
213 người bày tỏ thái độ bình thường (chiếm 40% ; trong khi đó chỉ có 66
người bày tỏ thái độ không quan tâm (chiếm khoảng 13%). Kết quả cho thấy,
có một lượng lớn công chúng truy cập (CCTC) có nhu cầu thông tin về giới
NSBD VN.
Trong 252 người bày tỏ thái độ quan tâm tới thông tin về giới NSBD
VN có 147 người thích đọc các thông tin về scandal; tiếp đến là phát ngôn táo
bạo gây sốc 138 người); thời trang, tài sản 135 người ; Đời tư tình cảm, hôn
nhân 117 người); Bài phân tích đánh giá sâu các chương trình sản phẩm
nghệ thuật 114 người); giới thiệu các chương trình biểu diễn, sản phẩm nghệ
thuật, chân dung nghệ sĩ 108 người). (Bảng 1 – phụ lục 1). Như vậy, các
thông tin về hậu trường đời sống có sức hút lớn hơn so với các thông tin về
tài năng hoạt động hay sản phẩm nghệ thuật của NSBD.
Kết quả phỏng vấn Anket chỉ ra: trong số 252 người bày tỏ thái độ quan
tâm tới thông tin về giới NSBD VN, chỉ có 75 người là giới tính nam (chiếm
28 5 % trong khi đó có tới 180 người là nữ (chiếm 71,5%). Trong số 66
người bày tỏ thái độ không quan tâm tới thông tin về giới NSBD VN thì có
tới 41 người là nam (chiếm tới 62,1%), trong khi chỉ có 25 người là nữ (chiếm
37 9% . Như vậy có thể cho rằng công chúng nữ thường có nhu cầu tìm hiểu
thông tin về giới NSBD VN hơn là công chúng nam.
Khảo sát cũng cho thấy sự khác biệt về mức độ quan tâm tới thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử theo độ tuổi: công chúng trẻ (15 – 40 tuổi) –
những người có khả năng tiếp cận với công nghệ mới, sử dụng các thiết bị điện
85
tử thông minh máy tính điện thoại di động... để đọc tin tức - là đối tượng
chính quan tâm tới thông tin về giới NSBD, chiếm tới 51,2 %; trong khi chỉ có
14,3% công chúng trên 60 tuổi để ý tới lĩnh vực thông tin này. Một điều đáng
lưu ý là có tới 52,3% số lượng công chúng nhóm tuổi 15-40 là “fan” (công
chúng hâm mộ) của một NSBD nào đó có nhu cầu tìm hiểu và đọc mọi tin
bài về nghệ sĩ mà mình ngưỡng mộ nhằm thu hẹp khoảng cách giữa mình và
thần tượng.
Bảng 3.1: Khảo sát mức độ quan tâm của công chúng tới thông tin về giới NSBD
VN theo độ tuổi
Đơn vị: %
Nguồn: Kết quả phỏng vấn Anket
Từ kết quả khảo sát có thể kết luận: Công chúng Việt Nam có nhu cầu
lớn thông tin về giới NSBD VN; Họ thường quan tâm tới thông tin hậu
trường, đời sống của NSBD VN; Nữ giới độ tuổi từ 15 đến 40 là đối tượng
công chúng chính quan tâm tới thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.
Công chúng đang sống trong bầu khí quyển của văn hóa đại chúng và kết
nối internet. Áp lực cuộc sống càng cao, nhu cầu thông tin giải trí của họ càng
nhiều. Thế giới của NSBD có những sự khác lạ, mà ở chừng mực nhất định nào
đấy đủ khiến cho công chúng cảm thấy phấn khích và thư giãn. Học giả người
Anh – Richard Dyer (1979 – 1986) trong các lý thuyết của mình đã cho rằng
các “ngôi sao” bao gồm giới NSBD) luôn khoác trên mình sự hào nhoáng,
rực rỡ, lộng lẫy đầy lôi cuốn, nó giống như chiếc cầu nối dẫn tới một thế giới
long lanh phiêu lưu đầy phấn khích chứ không mòn mỏi, áp lực như cuộc
86
đời thực và điều này khơi dậy sự khao khát ngưỡng mộ và muốn tìm hiểu,
muốn tiếp cận của công chúng. Báo chí chính là phương tiện nối liền công
chúng với nghệ sĩ mà nói như nguyên Cục trưởng Cục Báo chí (Bộ TT&TT)
Hoàng Hữu Lượng trong bài báo Nghệ sĩ – truyền thông và công chúng cùng
giữ gìn môi trường văn hóa thì: “Dân ta chủ yếu “tiếp xúc” với nghệ sĩ qua
các phương tiện truyền thông, chứ việc đến rạp càng ngày càng hiếm”.
Với căn tính nông dân trong đặc trưng tính cộng đồng làng xã điển
hình, công chúng Việt Nam luôn tò mò muốn biết về đời tư của người nổi
tiếng, xem họ ăn gì mặc gì đi đâu có mâu thuẫn với ai, có phát ngôn nào
đáng chú ý, cuộc đời riêng tư có sự kiện nào xảy ra... hay không. Như TS.
Nguyễn Thu Giang đã phân tích trong bài nghiên cứu “Về việc ủy thác tính
giải trí cho truyền thông” thì ở Việt Nam, vào thời kỳ tiền văn hóa đại chúng,
các cá nhân định vị sự tồn tại xã hội của mình bằng cách trò chuyện với hàng
xóm, họ hàng, con cháu. Nhờ mối giao kết ấy mà họ thuộc cùng một cộng
đồng thông tin, cùng biết chung một chuyện xảy ra trong làng, ví dụ cô gái
nào đó chưa chồng mà chửa. Nhưng bước chân người Pháp đã mang tới
những ảnh hưởng mạnh mẽ từ phương Tây đặc biệt là lối sống đô thị.
TTĐC là một trong những đặc trưng cơ bản của lối sống đô thị và
người đô thị thì không có cách nào thoát khỏi việc bị chế định bởi truyền
thông. Ở đô thị căn tính nông dân của người Việt vẫn tồn tại nhưng môi
trường sống thì đã khác, từ cộng đồng làng xã chuyển sang cộng đồng xã hội.
Họ vẫn thích tụ tập, bàn tán về một cá nhân nào đó nhưng thay vì nói chuyện
về một nhân vật trong làng, thì họ dồn sự quan tâm vào những đối tượng mà
ai cũng biết, chẳng hạn như những NSBD và những câu chuyện về NSBD
được đăng tải trên mặt báo. Nhìn từ góc độ nghiên cứu truyền thông, cái nhu
cầu “nhìn trộm”, “nghe lén” của con người được nối dài và đạt tới một phẩm
cấp mới nhờ vào phương tiện TTĐC” - TS. Nguyễn Thu Giang [109]. Bởi
87
tính công cộng, những thông tin về NSBD thường dễ tìm, dễ chia sẻ, dễ trao
đổi hơn là thông tin về hàng xóm, bạn bè hay đồng nghiệp. TS. Nguyễn Thu
Giang cho rằng: công chúng luôn tò mò những người nổi tiếng là phi thường
hay “giống chúng ta”? Họ xứng đáng thành công hay chỉ là gặp may mắn nhất
thời? Họ có đáng để chúng ta học hỏi không hay họ là đối tượng để ta bàn tán,
chế nhạo và chê bôi? [37] Bên cạnh đó việc thần tượng những NSBD nổi tiếng
cũng khiến công chúng muốn tìm hiểu hơn về họ. Giao lưu văn hóa không chỉ
khiến nền công nghiệp giải trí Việt Nam phát triển với một thế hệ những NSBD
mang tính thương mại, mà còn dẫn tới sự xuất hiện của nhóm công chúng hâm
mộ fan . Đây là những nguồi ủng hộ, yêu quý nồng nhiệt một “ngôi sao” nào
đó thường là ca sĩ, diễn viên, ban nhạc… . Như nhà văn B i Việt Thắng đã
nhận định: “Công chúng rất cần những thông tin của người mình mến mộ,
thậm chí là si mê với ý nghĩa là những “fan cuồng”” PVS 08 . Và truyền
thông giúp họ phần nào thỏa mãn được sự tò mò cũng như lòng ái mộ của
mình. Thế nhưng thời đại số khiến cho không phải thông tin nào về NSBD
cũng “hot” cũng thu hút sự quan tâm của công chúng. Nhà báo Hoàng Nhật
Mai cho rằng: “Thông tin nào phải thực sự gây ấn tượng, gây xúc động mạnh
mẽ thì mới khiến công chúng quan tâm, bàn tán. Và những chuyện hậu trường,
scandal, khoe của...lại là những chuyện làm được việc này” PVS 07 .
3.2.2 Tần suất xuất bản, nội dung, hình thức thể hiện thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
3.2.2.1 Tần suất xuất bản thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Thống kê tỉ lệ tin bài về giới NSBD trong 3 năm 2014-2106) trên
chuyên mục Văn hóa/giải trí của VNN; Giải trí – Âm nhạc – Phim ảnh – Thời
trang của Zingnews; và Hậu trường – Thời trang của Ngoisao dễ dàng nhận
thấy: tỉ lệ tin bài về giới NSBD VN áp đảo tỉ lệ các tin bài khác trong lĩnh vực
văn hóa giải trí ở cả ba trang báo, chiếm trên 70%.
88
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ tin bài về giới NSBD VN trong mục văn hóa – giải trí
100%
80%
60%
40%
20%
0%
VNN
Zingnews
Ngoisao
NSBD VN
Khác
Nguồn: PV cung cấp, Google Analysis
Thông tin về giới NSBD VN cũng được các báo điện tử cập nhật với
tần suất lớn. Trung bình tần suất xuất bản hàng ngày tin bài về giới NSBD
VN là: VNN (10,5 - 11,3 tin bài), Zingnews (25,1 - 29,2 tin bài), Ngoisao
(25,4 - 26 tin bài). Zingnews mặc dù tuổi đời còn khá trẻ so với Ngoisao
nhưng tần suất tin bài về NSBD VN lại cao hơn hẳn vào năm 2014 khi xuất
bản 29.2 tin bài/ngày (Ngoisao: 25,4 tin bài/ngày).
Biểu đồ 3.2: Tần suất tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Nguồn: PV cung cấp
89
Kết quả này cho thấy: thông tin về giới NSBD VN là nội dung được
các báo điện tử quan tâm và sản xuất với dung lượng lớn nhằm đáp ứng nhu
cầu của công chúng đặc biệt công chúng là giới nữ trẻ tuổi, có sự ngưỡng mộ
nhất định đối với các “ngôi sao” giải trí), thu hút công chúng, từ đó tạo ra
năng lực cạnh tranh và thúc đẩy doanh thu cho tòa soạn.
3.2.2.2 Nội dung thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
+ Thông tin hậu trường chiếm dung lượng lớn: Khảo sát ngẫu nhiên
300 tin bài về giới NSBD VN đăng tải trên VNN, Zingnews và Ngoisao, kết
quả như sau:
Bảng 3.2: Thống kê nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Đề tài về giới NSBD rất phong phú đa dạng, có nhiều vấn đề khác
nhau để các báo lựa chọn khai thác. Tuy nhiên các báo điện tử thường chọn
những thông tin nóng được công chúng quan tâm như: chuyện đời tư tình
cảm, chuyện khoe của, chuyện phát ngôn, chuyện ăn mặc... của nghệ sĩ. Chỉ
xấp xỉ 10% tin bài đề cập tới hoạt động nghệ thuật của NSBD VN, trong khi
đó khoảng 90% thông tin liên quan tới hậu trường đời sống của họ. Trong bài
PVS 04, Nhà báo Phạm Thu Hà (TBT tạp chí Đẹp) khẳng định: “So với thông
tin về các sản phẩm và kế hoạch mới của NSBD thì yếu tố cuộc sống đời
thường, riêng tư của họ được các báo điện tử khai thác nhiều hơn nhằm thu
hút công chúng”.
90
Khảo sát lượt xem một số tin bài về danh ca Khánh Ly cho thấy, ngay
cả một nghệ sĩ tinh hoa không đề cao tính thương mại như Khánh Ly thì
những thông tin về hoạt động nghệ thuật cũng có lượt xem thấp hơn rất nhiều
so với thông tin về hậu trường đời sống, hôn nhân, tình cảm gia đình của nữ
nghệ sĩ. Điều này phần nào lý giải vì sao các tòa soạn lại ưu ái dành không
gian cho thông tin hậu trường hơn là thông tin về hoạt động nghệ thuật của
NSBD. Ảnh hưởng của thương mại hóa dẫn tới việc báo chí bị “lá cải” hóa
như nhà báo Hoàng Nhật Mai khẳng định: “Những thông tin đời tư, scandal…
của nghệ sĩ tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại đánh trúng vào sự hiếu kì
của công chúng, vì vậy bao giờ cũng ăn khách nhất” PVS 07 .
Bảng 3.3: Khảo sát lƣợt xem tin bài về Khánh Ly
Nguồn: NCS tổng hợp, PV cung cấp
+ Thông tin về hôn nhân, gia đình, tình cảm của NSBD VN: là nội
dung được khai thác nhiều nhất, chiếm khoảng 30-40% tin bài lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật ở cả VNN, Zingnews và Ngoisao. Tuy nhiên theo thống kê từ 300
tin bài ở 3 trang báo được khảo sát, chỉ xấp xỉ 20% thông tin về hôn nhân, gia
đình của NSBD VN là viết về những mối tình đẹp của nghệ sĩ về hôn nhân gia
đình hậu thuẫn cho nghệ sĩ trong công việc như thế nào, về những câu chuyện
có thể trở thành tấm gương, xây dựng giá trị văn hóa gia đình cho công chúng
Việt; Trong khi có tới gần 80% thông tin khai thác những chuyện như: tình tay
ba, ly hôn ồn ào, chân dài yêu đại gia, tranh giành quyền nuôi con, phim giả
tình thật... của các nghệ sĩ. Đây đều là những thông tin phản cảm, gây ảnh hưởng
xấu tới nhận thức, lối sống và nề nếp văn hóa gia đình của công chúng…
91
Đơn cử như chuyện tình cảm của Hồ Ngọc Hà. Trong năm 2016 những
chuyện về Hồ Ngọc Hà và chồng cũ Cường đô la xuất hiện trong 21 bài viết
trên Ngoisao, 23 bài viết trên Zingnews và 13 bài viết trên VNN; chuyện tình
tay ba của cô với đại gia kim cương Châu Đăng Khoa còn “hot” hơn khi mà
chỉ trong sáu tháng (từ tháng 5/2016 tới tháng 11 2016 trên VNN đã có 11
bài viết, trên Zingnews là 17 bài, và trên Ngoisao là 18 bài. Đa số bài viết đều
khai thác nội dung riêng tư của Hồ Ngọc Hà mang tính “ngồi lê đôi mách”
không có giá trị thông tin báo chí hay thẩm mĩ nghệ thuật cho công chúng, ví
dụ như: “Hồ Ngọc Hà bị vợ đại gia Chu Đăng Khoa đá xéo chuyện cầu hôn”
trên Zingnews ngày 10/08/2016, “Vợ Chu Đăng Khoa lên tiếng sau khi chồng
lộ ảnh hẹn hò Hà Hồ ở Mỹ” trên Ngoisao ngày 26/11/2016… Hay mối tình
của người mẫu, diễn viên Ngọc Trinh với tỉ phú Hoàng Kiều cũng được nhà
báo khai thác một cách triệt để nhằm câu kéo công chúng. Chỉ trong tháng
12/2016, trên Ngoisao có 21 bài viết về mối tình chân dài đại gia này (trong
đó có 5 tin bài xuất bản dưới dạng clip), như “Ngọc trinh ôm chặt bạn trai 72
tuổi ở Nhật” (17/12/2016), Ngọc Trinh được cháu gái Hoàng Kiều gọi là “bà
nội” (18/12/2016), hay “Ngọc Trinh khoe ảnh nắm tay bạn trai khi vừa đến
Mỹ” 14 12 2016 .... Dường như nhất cử nhất động của Ngọc Trinh cùng bạn
trai đều trở thành “đề tài báo chí”. Rồi chuyện ca sĩ Lam Trường kết hôn lần
2 nghi án tình đồng tính giữa Quang Vinh và Lý Quý Khánh, tình tay ba Trấn
Thành – Hariwon – Tiến Đạt, chuyện chia tay của Trương Ngọc Ánh và Kim
Lý... những thông tư riêng tư, không hàm chứa tính báo chí hay truyền tải các
giá trị văn hóa từ giới NSBD VN phủ kín giao diện các trang báo.
Nhà báo viết những tác phẩm như vậy đang bộc lộ những phi giá trị từ
đặc trưng “cộng đồng làng xã” trong xã hội hiện đại. Họ giống như người
thích buôn chuyện, chặt chém, thích phán xét tới mức vô cảm. Càng những
chuyện đời tư thầm kín mà nghệ sĩ muốn giấu đi hoặc nên giấu đi muốn giữ
92
lại cho riêng mình (hoặc nên giữ lại cho riêng mình) thì báo chí càng khai
thác đăng tải; họ quên mất (hoặc cố tình quên mất) giá trị và vai trò nhà văn
hóa của mình khi cung cấp thông tin.
+ Thông tin về thời trang, tài sản của NSBD VN: Nghệ sĩ mặc gì, mặc
như thế nào có nhà đẹp, xe sang, cuộc sống sung túc hay không luôn là
những thông tin khiến công chúng tò mò, quan tâm và vì vậy thường có lượng
lượt xem khá cao.
Hiện nay, phần lớn các báo điện tử đều dành dung lượng nhất định,
thậm chí mở chuyên mục riêng về thời trang của giới NSBD. Trên Zingnews,
VNN và Ngoisao đều có những bài viết giới thiệu những phong cách thời
trang ấn tượng hoặc tệ hại trong một giai đoạn, một sự kiện nào đó của giới
NSBD, chẳng hạn như: “Hồ Ngọc Hà áp đảo sao Việt về phong cách thời
trang” đăng ngày 17 10 2016 “Sao Việt diện Street style sành mốt xuống phố
tuần qua” đăng ngày 24 7 2016.... trên Zingnews; “Những sao Việt hiếm hoi
mặc đẹp như mỹ nhân thế giới” đăng ngày 25 09 2014 “Sao xấu của showbiz
Việt tuần qua” đăng ngày 9 5 2016... trên VNN. Trên Ngoisao có riêng
chuyên mục Sao Việt mặc đẹp và Sao Việt mặc xấu hàng tuần. Những bài viết
này góp phầp giúp công chúng có thêm góc nhìn về NSBD VN, giới thiệu
những phong cách thời trang đẹp đồng thời phê phán những phong cách thời
trang phản cảm của nghệ sĩ.
Tuy nhiên, nhiều trang báo hiện nay khai thác quá sâu vào chuyện ăn
mặc của NSBD VN không nhằm mục tiêu phản biện, phê phán cái tiêu cực
mà nhằm mục đích kích thích sự tò mò của công chúng, khiến công chúng
“click” vào đọc thông tin.
Rất nhiều những bài viết đăng tải thông tin về các diễn viên, ca sỹ trên
các trang báo điện tử hiện nay sử dụng ngôn từ phản cảm (nóng bỏng, hở bạo,
nhức mắt… hình ảnh gợi cảm quá mức, khoe tối đa sự sexy của nghệ sĩ,
93
thậm chí nhiều hình ảnh lộ nội y của nghệ sĩ cũng không được trang báo làm
mờ hay che chắn, chẳng hạn như: “Maya nóng bỏng khi diện áo tắm” ngày
18/7/2016, “Ngọc Trinh phanh áo tạo dáng nóng bỏng” ngày 20/07/2016,
Hương Giang idol mặc hở bạo dự họp báo 1/12/2016… trên Ngoisao.
Ảnh 3.1: Hình ảnh Ngọc Trinh và Hƣơng Giang idol trên báo Ngoisao.net
(Nguồn: Ngoisao.net)
Giao lưu văn hóa tạo điều kiện cho NSBD VN tiếp thu nhiều hơn
những phong cách thời trang mới, hiện đại, phóng khoáng. Tuy nhiên không ít
trong số họ bộc lộ sự sính ngoại thái quá, buông thả trong việc lựa chọn trang
phục khoe cơ thể quá đà mà quên mất những giá trị truyền thống trong việc
mặc của người Việt như sự mực thước, hài hòa, gợi cảm nhưng kín đáo, nền
nã… Thế nhưng khi thông tin về vấn đề thời trang của giới NSBD VN, báo
chí lại thiếu đi sự chắt lọc định hướng mang tính văn hóa. Thậm chí, trong vỏ
bọc lên án những phong cách ăn mặc phản cảm ấy lại là sự kích thích để có
được nhiều hơn những lượt xem của công chúng, thể hiện ở cả ngôn từ và
hình ảnh được sử dụng để đăng tải trên trang báo. Thực tế, những bài viết về
thời trang gợi cảm quá đà của NSBD thường có lượt xem rất cao, ví dụ: bài
viết Ngọc Trinh khoe vũ đạo với trang phục nóng bỏng đạt xấp xỉ 1 triệu lượt
94
view, Hương Giang idol mặc hở bạo dự họp báo cũng đạt trên 700.000 lượt
view... Các trang báo điện tử dường như chỉ đang nhìn thấy cái lợi trước mắt
mà quên đi hậu quả lâu dài, bởi điều này tạo ra những tác động tiêu cực cho
văn hóa của công chúng đặc biệt là công chúng trẻ khi họ thường thần tượng
và bắt chước theo các nghệ sĩ ngôi sao. Đó là sự “sụp đổ giá trị thẩm mĩ” như
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái đã từng phải thốt lên [111].
Bên cạnh chuyện mặc thì chuyện tài sản điều kiện sống của NSBD
cũng được các trang báo mạng chú trọng khai thác. Thống kê từ VNN,
Ngoisao và Zingnews trong năm 2016 cho thấy, bình quân mỗi ngày VNN có
khoảng 0,67 bài viết để cập tới vấn đề tài sản của NSBD, ở Zingnews là 1,36
bài, và ở Ngoisao là 1,54 bài (Nguồn: PV).
Một số ít tin bài phản ánh đời sống khổ cực, chật vật với những căn nhà
tạm bợ, thiếu tiện nghi của các NSBD nghèo, nỗ lực vượt qua hoàn cảnh khó
khăn thiếu thốn vật chất để thành công trong nghệ thuật của họ, ví dụ như:
Nghệ sĩ Trần Hạnh nhận 100 triệu đồng quyên góp để sửa chữa nhà đăng
ngày 8/04/2016 trên Zingnews; Nghệ sĩ Hán Văn Tình từng day dứt vì không
nuôi nổi vợ con đăng ngày 9 9 2016 trên Ngoisao; Cuộc sống khổ cực của các
giọng ca nhí Việt đăng ngày 19/1/2015 trên VNN, Cuộc sống khốn khó khi về
già của các nghệ sĩ gạo cội đăng ngày 16 11 2014 trên VNN... Nhân vật của
những bài viết này chủ yếu là những NSBD có tài, từng ghi dấu ấn sâu đậm
trong lòng khán giả với những vai diễn, những bản nhạc khó quên, những tài
năng nghệ thuật đáng khâm phục, thế nhưng ngoài những “tài sản” vô giá
trong nghệ thuật thì họ không có gì khác, phải vật lộn với cơm áo gạo tiền,
với mưu sinh. Chính những bài viết này đã lột tả phần nào những cơ cực của
lớp nghệ sĩ sống hết mình với nghệ thuật trong vòng xoáy của văn hóa đại
chúng và nền công nghiệp giải trí giúp người đọc có cái nhìn chia sẻ về cuộc
đời phía sau ánh đèn của nghệ sĩ cũng như trân trọng những giá trị nghệ thuật
mà họ mang lại.
95
Tuy nhiên, một số lượng lớn tin bài về tài sản và điều kiện sống của
NSBD VN trên các trang báo điện tử hiện nay lại tập trung vào việc “khoe
của” lối sống xa hoa (tậu nhà sang, mua xế hộp tiền tỉ, mặc hàng hiệu đắt
tiền...) của một bộ phận NSBD nổi tiếng đặc biệt là các NSBD trẻ). Đơn cử
như bài viết “Bốn sao Việt sở hữu tủ giày siêu khủng” đăng ngày 13 8 2014
trên VNN giới thiệu những tủ giày với hàng trăm thương hiệu cao cấp giá
bạc tỉ của Trà Ngọc Hằng Dương Cẩm Luynh, Trúc Diễm Đàm Vĩnh
Hưng; Bài viết Váy hàng hiệu giá sốc của sao Việt đăng ngày 11 08 2014
trên Zingnews giới thiệu những bộ cánh đắt đỏ mà các “ngôi sao” đang sở
hữu: Lý Nhã Kỳ với những chiếc áo dài, váy dự sự kiện có giá từ 250 triệu
đồng đến 1,2 tỉ đồng; Hoa hậu Mai Phương Thúy với chiếc váy 315 triệu
đồng thương hiệu Elie Saab; những bộ đầm giá trị từ hơn một trăm triệu cho
đến vài trăm triệu từ các thương hiệu Valentino, Dior...của Ngọc Trinh...
Ngoài ra, gần như ngày nào trên các mặt báo công chúng cũng đọc được
thông tin về một nghệ sĩ nào đó mua nhà tiền tỉ, tậu xe sang, khoe túi xách,
đồng hồ, phụ kiện hàng hiệu... như: Trấn Thành đi xe sang tập Zing Music
Awards đăng ngày 10 2 2016 trên Zingnews Lý Nhã Kỳ khoe một góc của
biệt thự bạc tỉ đăng ngày 8 2 2016 trên Ngoisao, Linh Nga khoe túi xách gần
100 triệu đăng ngày 3 2 2015 trên VNN.... Đáng nói các bài viết này chỉ
phản ánh hiện tượng mà không kèm theo những phân tích hay góc nhìn phản
biện của nhà báo.
Ở một mức độ nào đó đã là nghệ sĩ là người của công chúng thì phải
mặc đẹp, phải đầu tư cho hình ảnh mỗi lần xuất hiện. Nhưng việc nghệ sĩ
khoe hàng hiệu quá đà lại là biểu hiện của những phi giá trị cần loại bỏ trong
văn hóa như: bệnh sĩ diện, hình thức, sính ngoại… Khi đăng tải quá nhiều
những thông tin khoe tài sản của nghệ sĩ mà không kèm theo những phân tích
phản biện rõ ràng thì các trang báo điện tử lại khiến công chúng dần hình
96
thành quan niệm lệch lạc, méo mó về văn hóa nghệ thuật và nghệ sĩ: cứ làm
nghệ sĩ nổi tiếng là giàu sang, nhà cao cửa rộng, xài hàng hiệu, đi xe sang
xách túi đắt tiền; công chúng dồn sự chú ý vào những giá trị vật chất ấy mà lơ
là đi những giá trị văn hóa nghệ thuật mà nghệ sĩ cần phải tạo ra.
+ Thông tin về những câu chuyện và phát ngôn gây sốc của NSBD VN:
Những góc tối của NSBD VN như: ngoại tình đạo nhái chèn ép đồng
nghiệp, sử dụng hàng nhái, phẫu thuật thẩm mĩ… là những nội dung chưa bao
giờ hết nóng trên các báo điện tử. Nếu như năm 2014 nghệ sĩ Chánh Tín vỡ
nợ, Hồ Ngọc Hà và Cường đô la tan vỡ, hoa hậu Diễm Hương trở thành “hoa
hậu nói dối” Sơn T ng MTP đạo nhạc...là những „scandal” gây chú ý trên
mặt báo; thì năm 2015 “showbiz” Việt ồn ào với mâu thuẫn của Quang Lê và
Đàm Vĩnh Hưng chỉ trích của MC Kỳ Duyên dành cho Mỹ Tâm, tranh cãi
giữa Thu Phương – Kimmese, Kiều Anh và các học trò trong cuộc thi The
Voice...; và năm 2016 là một năm báo chí dậy sóng với những “scandal” tình
– tiền chấn động: Tiến Đạt – Hariwon – Trấn Thành Trường Giang – Quế
Vân – Nhã Phương; Hồ Ngọc Hà – Chu Đăng Khoa – Vân Anh; Kỳ Hân –
Mạc Hồng Quân – Ly Kute... Bên cạnh đó những phát ngôn gây bão của
NSBD VN như: “Yêu không có tiền thì cạp đất mà ăn à?”, “Cứ mắng, cứ
chửi, cuộc đời của tôi vẫn thế”...của Ngọc Trinh “Đứng về phụ nữ mà nói:
Người phụ nữ không dùng hàng hiệu xem như không có tương lai” của Xuân
Lan “Vào nhà tôi, nếu ai chê chỗ nào, tôi đập ngay chỗ đó” của Đàm Vĩnh
Hưng “Tôi đẹp tôi phải khoe” của Mai Khôi, “Coi thường tiền là coi thường
chính mình” của Đức Hải...; hay những cuộc tranh luận nảy lửa, phát ngôn
chỉ trích nhau của các “sao” như Văn Mai Hương với Vlogger Robbey,
Quang Lê với Đàm Vĩnh Hưng Tuấn Hưng với Duy Mạnh, MC Kỳ Duyên
với Mỹ Tâm... cũng được các trang báo điện tử khai thác tối đa như một cách
thức để có được lượt xem của công chúng.
97
Những câu chuyện tranh cãi hay những phát ngôn gây xôn xao dư luận mặc
dù không phù hợp với nét văn hóa trọng sự hiếu hòa, trọng tình, kín tiếng, nhẫn
nhịn của người Á Đông nhưng lại khiến công chúng tò mò và nảy sinh nhu cầu
đọc thông tin. Nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích: “Suy nghĩ mình viết những bài
tử tế chưa chắc đã có ai đọc, trong khi những tin sến sểm vừa nhanh, vừa đỡ hại
não, lại vừa nhiều người đọc là suy nghĩ phổ biến của nhiều nhà báo hiện nay”
(PVS 07). Rất ít các tác phẩm báo chí chăm chút cho sự học con đường khởi
nghiệp, sự tiến bộ và nhất là cái căn cốt văn hóa của giới NSBD VN, bởi vậy
“thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử chưa nói được cái tinh hoa văn hóa
mà họ góp vào nền văn hóa dân tộc” – nhà phê bình Bùi Việt Thắng (PVS 08).
Việc khai thác những câu chuyện hay phát ngôn gây sốc của nghệ sĩ
thực chất rất phổ biến trên thế giới với các tờ báo “lá cải” gossip tabloid nổi
tiếng. Báo chí Việt Nam học hỏi xu hướng này trong làn sóng tiếp nhận và
giao lưu văn hóa. Tuy nhiên nhà báo Đinh Ngọc báo Lao động) cho rằng,
những gì mà báo điện tử Việt Nam đang thể hiện không phải là sự “học hỏi”
mà là sự chạy theo m quáng. “Văn hóa Việt Nam khác với văn hóa phương
Tây, với Đông Âu, hay Hàn Quốc, Nhật Bản... Có những dạng thông tin đưa
tới công chúng của họ thì được, nhưng đưa tới công chúng của Việt Nam thì
phản cảm” PVS 06 . Văn hóa thời hiện đại là không biên giới, vì thế cần có
sự chọn lọc định hướng và đó là nhiệm vụ của báo chí. Thế nhưng: “Chỉ mù
quáng chạy theo những xu hướng tức thời thì rất khó để báo chí thực hiện
được nhiệm vụ này” – Hoàng Nhật Mai (PVS 07)
3.2.2.3 Hình thức thể hiện thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng cho rằng: “Công chúng thời hiện đại sống
theo tinh thần “hiện sinh chủ nghĩa”. Họ cần cái tức thời, cái hiện hữu” (PVS
08). Bởi vậy để thu hút công chúng, thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
cần sự ngắn gọn, dễ nhìn, dễ xem, dễ tiếp nhận, nhiều ảnh ít chữ, tiêu đề hấp dẫn.
98
+ Sử dụng tiêu đề (title) trong thông tin về giới NSBD trên báo điện tử:
Phần lớn tiêu đề tin bài về giới NSBD VN trên VNN, Ngoisao và
Zingnews đều thể hiện rõ đặc thù của loại hình báo điện tử: cô đọng, ngắn gọn và
có sức hút. Dung lượng tiêu đề từ 1 5 đến 2,5 dòng, trung bình khoảng 12 chữ.
Tên đối tượng được thông tin (NSBD VN thường đặt ngay trong tiêu đề bài viết.
Khảo sát tiêu đề của 300 tin bài về giới NSBD VN đăng trên VNN
Zingnews và Ngoisao trong thời gian khảo sát, kết quả như sau: 161/300 tin bài
của VNN, 212/300 tin bài của Ngoisao và 197/300 tin bài của Zingnews sử dụng
tiêu đề có yếu tố câu “view” lượt xem) kích thích cường điệu hóa, sử dụng
ngôn từ thiếu tính chuẩn mực của báo chí, thậm chí phản cảm. Ví dụ như: Mát
mắt với loạt ảnh hở bạo của Ngọc Trinh (VNN ngày 21/6/2016), Quỳnh Chi hở
bạo đi xem The Voice (Zingnews ngày 13/7/2016), Sao Việt với mốt hở lưng táo
bạo (Ngoisao ngày 12/1/2016)... Nhiều bài đặt tiêu đề không liên quan đến nội
dung, chỉ nhằm mục đích thu hút công chúng. Ví dụ: trên VNN ngày 23/7/2015
đăng bài Sơn Tùng M-TP bị nghi ngờ về giới tính, tuy nhiên nội dung bài viết lại
giới thiệu buổi chia sẻ sản phẩm âm nhạc mới của nam ca sĩ và nghi ngờ giới
tính chỉ là câu hỏi từ một người hâm mộ. Hay ngày 4 2 2015 trên Ngoisao đăng
bài Hồ Ngọc Hà trắng tay khi làm vợ Cường đô la, tuy nhiên bài viết tập trung
công bố báo cáo tình hình quản trị năm 2014 của công ty Quốc Cường Gia Lai,
và hai dòng nội dung duy nhất đề cập tới việc Hồ Ngọc Hà “trắng tay” là: “Cả
hai mẹ con Hồ Ngọc Hà không nắm bất cứ cổ phiếu QCG nào”.
Đặt tiêu đề là một nghệ thuật, có vai trò lớn trong việc hấp dẫn độc giả.
Những tiêu đề tốt, công chúng chỉ cần đọc qua là có thể hiểu và nắm được thông
tin. Tuy nhiên, trên báo điện tử hiện nay đa phần tiêu đề nhằm mục đích câu
“view” mà không chú ý tới nội dung bài báo, rời xa giá trị thẩm mĩ. “Tôi biết ở
nhiều báo người viết bài và người đặt tiêu đề hoàn toàn...khác nhau. Họ không
viết cho nên không cảm được, không thấm được nội dung thông tin, nội dung sự
99
kiện, chỉ làm sao rút tiêu đề cho kêu, cho có người “click” vào đọc là được”
nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn nhận định (PVS 02). Nhìn về thực trạng giật
tiêu đề này, MC Hạnh Phúc cho rằng: “Tiêu đề giật gân có thể giúp nhà báo đạt
được mục đích đầu tiên: nhiều độc giả truy cập. Nhưng nhà báo và tòa soạn báo
chỉ đo đếm được lượng “view” thôi chứ không đo đếm được mức độ hài lòng
của công chúng đối với bài báo đó”. PVS 09 . Tiêu đề giật gân giống như con
dao hai lưỡi, thu hút công chúng những cũng khiến họ rời đi khi đã mất niềm tin.
+ Sử dụng ảnh trong thông tin về giới NSBD:
Ảnh đăng trên báo điện tử bao gồm: ảnh sự kiện, ảnh cá nhân nhân vật,
ảnh nhân vật tham gia sự kiện...Thời đại “one touch” (một chạm), công
chúng thích nhìn hơn thích đọc. Trong khi đó, ưu điểm lớn của báo điện tử
là không bị giới hạn dung lượng. Tin bài trên báo điện tử có thể nhiều ảnh ít
chữ, thậm chí chỉ toàn ảnh. Ảnh có thể xen kẽ văn bản, làm thành clip hay
đặt trong các box.... Khảo sát việc sử dụng ảnh trong 300 tin bài về giới
NSBD VN trên VNN, Zingnews, Ngoisao, kết quả cho thấy: Ảnh được sử
dụng với hàm lượng rất cao trong tin bài về giới NSBD VN. 100% tin bài
trên cả ba tờ báo đều sử dụng ảnh, chủ yếu là ảnh màu. Phần lớn tin bài sử
dụng 02 ảnh trở lên (trên 60%).
Bảng 3.4: Khảo sát số lƣợng ảnh trong tin bài đăng trên báo điện tử
Đơn vị: Bài
Nguồn: NCS tổng hợp
Ảnh đăng tải được lấy từ nhiều nguồn khác nhau: do nhà báo chụp, do
nhân vật (công ty giải trí, nghệ sĩ bạn bè người thân nghệ sĩ... cung cấp, do
100
khai thác trên mạng xã hội... Tuy nhiên, việc ghi nguồn và chú thích không
được thực hiện ở tất cả các ảnh. Kết quả khảo sát việc thực hiện ghi nguồn và
chú thích ảnh ở 300 tin bài về NSBD VN trên VNN, Zingnews, Ngoisao cho
thấy: chỉ có khoảng 7% ảnh của VNN được ghi nguồn và chú thích; con số
này ở Zingnews là 52% và Ngoisao là 84% (Biểu đồ 2 – phụ lục 2). Đáng chú
ý là trong số ảnh được đăng tải thì ảnh chụp nhân vật; ảnh “nóng” ảnh phản
cảm, ảnh không đáp ứng được tiêu chuẩn báo chí chiếm tỉ lệ khá cao.
Mặc dù nhiều tin bài “mang danh” là lên án nhưng khi đăng tải những
bức ảnh phản cảm, báo điện tử lại vô tình cổ xúy sự lố lăng đi ngược lại
những giá trị văn hóa truyền thống và thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
Việc không chú thích nguồn rõ ràng càng tạo điều kiện để những bức ảnh
“nóng” phản cảm được đăng tải và lan truyền mạnh mẽ hơn trên báo điện tử.
Bảng 3.5: Nội dung ảnh đăng trên các báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
+ Thể loại báo chí sử dụng trong thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn
Khảo sát 300 tin bài thông tin về NSBD trên các báo thuộc diện khảo
sát từ 2014-2016 cho thấy, 6 thể loại báo chí được sử dụng thường xuyên:
tin/tin ảnh, phản ánh tường thuật – giao lưu trực tuyến, phỏng vấn, chân
dung, tổng hợp/phân tích. Trong đó, thể loại phản ánh được sử dụng nhiều
nhất, tường thuật – giao lưu trực tuyến và tổng hợp/phân tích được sử dụng ít
nhất. Điều này chỉ ra báo điện tử tập trung vào việc cập nhật những thông tin
có tính chất bề nổi, tức thời, diễn ra trong một thời điểm nhất định nào đó của
giới NSBD VN.
101
Biểu đồ 3.3: Thể loại báo chí sử dụng trong thông tin về giới NSBD VN
Nguồn: NCS tổng hợp
Nguyên thư kí tòa soạn của tờ Dep.com.vn – NB Hoàng Nhật Mai cho
rằng nhà báo thường bị áp vào mình suy nghĩ nếu thực hiện những bài phân
tích đánh giá chuyên sâu nghiêm túc về nghệ thuật, chắc chắn phải kì công,
trong khi khả năng ít người đọc là rất cao. Vậy thì có nên làm hay không khi
mà họ sống trong cơ chế đếm “view” tính tiền? Không chỉ đơn giản hơn so
với thực hiện các bài tổng hợp phân tích, tin phản ánh còn tạo ra lợi thế trong
việc chạy đua tốc độ cập nhật cho trang báo. Những tin “hot” sốc...có thể đạt
được hàng vài trăm nghìn “view” đến hàng triệu “view”. Nhà báo Đinh Ngọc
cho rằng: “Công chúng hiện đại không có thời gian. Họ vội vã, chịu áp lực
công việc cao nên phải đọc những gì nhanh, ngắn dễ hiểu, mang tính giải trí”
(PVS 06). Tin, bài phản ánh là thể loại đáp ứng tốt nhất nhu cầu của công
chúng thế hệ “one touch” (một chạm). Tuy nhiên nhà báo Đinh Ngọc cũng
nhấn mạnh, công chúng thích những thông tin hấp dẫn, bắt mắt, ngắn gọn
không có nghĩa là họ nhạt nhẽo. Họ cũng thích và đọc có chọn lọc. “Dẫu vậy,
hầu hết các nhà báo hiện nay đều đang biến dễ hiểu thành dễ dãi. Thông tin
báo chí ngắn gọn nhưng phải chất” – Nhà báo Đinh Ngọc (PVS 06).
102
Thực tế cho thấy, những bài phỏng vấn hay, phân tích, bình luận vấn đề
có chiều sâu thì cho dù nhiều chữ lượt xem cũng vẫn rất cao. Ví dụ như bài
viết Không nên bênh vực Hồ Ngọc Hà của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái đăng
ngày 22/2/2016 trên Zingnews có hơn 300 nghìn lượt xem 181 lượt bình luận;
Nhạc Việt quá nặng về thanh nhạc của tác giả Nguyễn Phú Cương phỏng vấn
nhạc sĩ Doãn Nguyên đăng ngày 5 8 2014 trên VNN có hơn 100 nghìn lượt
xem; Điện ảnh Việt Nam 2016, thất bát thảm hại vì đâu? của tác giả Đông Bắc
đăng ngày 19 12 2016 trên Zingnews đạt hơn 250 nghìn lượt xem với gần
100 bình luận... Đây đều là những tác phẩm có chiều sâu, phân tích mổ xẻ
vấn đề và đưa ra những thông tin có tính định hướng, có giá trị về văn hóa
thẩm mĩ và tư duy cho công chúng. Nó cho thấy một điều, công chúng vẫn
“khát” và tìm đọc những bài viết sâu sắc, có chất lượng có hàm lượng văn
hóa cao. Tuy nhiên để làm được một bài viết như vậy quá khó, quá mất thời
gian so với việc làm một tin hay tin ảnh để câu “view” vậy nên phần lớn
nhà báo vẫn chọn cách dễ hơn đó là sản xuất tin, bài phản ánh thay vì mày
mò và sáng tạo ra những sản phẩm báo chí thực thụ.
3.2.3 Mối quan hệ giữa báo điện tử, giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam và
công chúng trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
3.2.3.1 Báo điện tử chạy theo thị hiếu của công chúng trong việc thông tin về
giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Kết quả khảo sát về nhu cầu của công chúng ở phần 3.2.1 đã cho thấy:
nữ giới có độ tuổi từ 18 đến 45 ở thành thị (có khả năng sử dụng công nghệ,
phù hợp với tiếp nhận thông tin online và làm việc với áp lực cao là đối
tượng công chúng chính của thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.
Những công chúng này thường xuyên hít thở trong bầu không khí văn hóa đại
chúng, muốn có sợi dây liên kết với người mình hâm mộ hoặc tò mò về đời
sống phía sau ánh đèn của những nghệ sĩ nổi tiếng. Bởi áp lực tự chủ tài
103
chính, các báo điện tử đua nhau đáp ứng nhu cầu của công chúng nhằm mục
đích thu hút họ đồng nghĩa với việc thu hút được các hợp đồng quảng cáo
mang lại doanh thu cho tòa soạn. Nhà báo Hoàng Nhật Mai cho rằng: “Mỗi
báo có một tôn chỉ riêng nhưng khi thực hiện thì mặc nhiên sẽ đi theo thị hiếu
của đám đông công chúng. Dần dần báo chí xuôi theo thị hiếu, độc giả thích
gì thị họ cung cấp cái đó” PVS số 5).
Để có thể “đua tốc độ” trong việc đáp ứng thị hiếu và giành công
chúng các báo điện tử thường:
+ Bám theo xu hƣớng thông tin và từ khóa
Khi một trang báo xuất hiện chủ đề được động đảo công chúng quan
tâm, lập tức các trang báo khác cũng khai thác nội dung xoay quanh chủ đề
này. Đó là hiện tượng bám xu hướng (trend) và từ khóa bám (key words)
được thuật toán google thiết lập cho các trang web nói chung và cho báo điện
tử nói riêng, nhằm hấp dẫn độc giả ngay lập tức về mặt trực giác.
Bảng 3.6: Khảo sát tin bài theo từ khóa trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Thử khảo sát ba nhóm từ khóa là “Ngọc Trinh + Hoàng Kiều” “Tình
tay ba Phan Thành – Midu – Thúy Vi” và “Chồng ca sĩ Thu Minh bị tố lừa
đảo” trên VNN Zingnews và Ngoisao kết quả cho thấy, những chuyện ồn ào
104
liên quan tới những NSBD nổi tiếng này đều trở thành xu hướng được các
trang báo khai thác triệt để ở nhiều góc cạnh khác nhau, từ diễn biến cho tới
hậu trường của câu chuyện. Tên NSBD và nội dung chính câu chuyện của họ
trở thành từ khóa xuất hiện trong tiêu đề các tin bài nhằm hiển thị “link” trang
báo khi công chúng tìm kiếm trên Google.
Nhà báo Hoàng Nhật Mai nhận định: “Thời hiện đại, sản phẩm báo
chí bị coi như sản phẩm hàng hóa. Khi môi trường cạnh tranh ngày càng
lớn, nhà báo buộc phải nghĩ cách tạo ra tác phẩm đủ “hot” đến mức trở
thành một làn sóng chia sẻ, ai xem cũng thích” PVS 07 . Không ít người
làm báo cho rằng, tin bài viết ra phải “gãi” đúng chỗ ngứa của độc giả, bất
chấp việc “gãi” ấy có tốt hay không. Tin bài bám theo xu hướng và từ khóa
thường kéo dài liên tục từ nửa tháng tới hơn một tháng (tùy theo mức độ
“hot” của nghệ sĩ và diễn biến của sự việc), tần suất đăng tải lớn (trung
bình khoảng 1 tin bài mỗi ngày). Nhiều tin bài được xuất bản không hàm
chứa thông tin báo chí, chỉ chú mục chạy theo xu hướng nhằm lợi dụng
thuật toán google và có được lượt xem cao từ công chúng. Thậm chí, không
ít nhà báo thay vì đi hiện trường tác nghiệp lại lên google tìm từ khóa, tìm
các sự vụ nóng của NSBD VN rồi cóp nhặt thông tin trên mạng xã hội để
viết thành tin bài.
Nhà báo Đinh Ngọc phân tích: “Vì áp lực kinh tế, quá nhiều nhà báo
chạy theo nhu cầu dễ dãi của bạn đọc mà quên mất vai trò định hướng thông
tin và truyền thông văn hóa của mình” (PVS 06). Nhà báo không đủ kiến
thức phông văn hóa và bản lĩnh rất dễ rơi vào trạng thái đuổi theo thị hiếu
của công chúng. Việc bám xu hướng và từ khóa thông tin có thể giúp tin bài
có nhiều lượt xem nhà báo được nâng nhuận bút nhưng nó cũng giống như
ánh sáng tỏa ra từ bóng đèn khiến những con thiêu thân lao vào mà bất chấp
hậu quả, bất chấp tương lai.
105
+ Sử dụng nguồn tin cóp nhặt, không kiểm soát
Nguồn tin là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định giá trị thông tin và
tạo ra uy tín, vị trí cho tờ báo. Nguồn tin cho báo chí rất đa dạng, mức độ
chính xác và uy tín của nguồn tin cũng khác nhau do đó công việc vất vả nhất
của nhà báo chính là tìm kiếm và xử lý thông tin. NSBD VN là người của
công chúng. Thông tin về họ tác động và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng và lối
sống của công chúng. Do vậy, nguồn tin về giới NSBD VN càng cần phải
được chọn lọc và cân nhắc kĩ càng.
Khảo sát 300 tin bài trên VNN, Zingnews và Ngoisao cho thấy, về mặt
bản quyền, tin bài tồn tại dưới hai dạng: 1) Tin bài thuộc bản quyền của tòa
soạn; 2) Tin bài được đăng tải lại từ các trang báo khác. Có 5 dạng nguồn tin
chính: 1) Nhà báo khai thác thông tin thực tế (tham dự sự kiện, gặp gỡ nhân
vật); 2) Do các đơn vị tổ chức sự kiện, công ty giải trí, NSBD cung cấp; 3)
Nhà báo khai thác thông tin từ mạng xã hội (trang cá nhân, diễn đàn…); 4)
Nhà báo tổng hợp hoặc đăng tải lại thông tin của các báo khác; 5) Cộng tác
viên (là các chuyên gia, các nhà nghiên cứu) gửi tin bài tới.
Biểu đồ 3.4: Nguồn tin cho thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
Nguồn: PV cung cấp + NCS tổng hợp
106
Bảng 3.7: Nguồn tin cho tin bài về giới NSBD VN trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Như vậy, 12 6% tin bài trên VNN Newzings Ngoisao được đăng lại từ
báo khác; và khoảng 87% tin bài có nguồn thông tin bản quyền của báo. Tuy
nhiên, trong 87% này thì chỉ có 22,5% tin bài do nhà báo trực tiếp khai thác
thông tin tại sự kiện và từ nhân vật; 2,7% do CTV gửi bài tới; còn lại do
NSBD, ban tổ chức sự kiện, công ty giải trí gửi thông tin tới hoặc nhà báo
khai thác trên mạng xã hội (trang cá nhân của NSBD, các diễn đàn… .
Thống kê này cho thấy số lượng tin bài mà nhà báo có thể kiểm soát
được nguồn tin rất thấp. Thông tin về giới NSBD VN trên các báo điện tử
hiện nay được cóp nhặt nhiều hơn là sáng tạo; thiếu tính khách quan khi được
cung cấp bởi chính giới NSBD VN và ê kíp (với những sự định hướng chủ
quan nhất định) thay vì nhà báo tự khai thác; thiếu sự chính xác khi lấy nguồn
tin từ mạng xã hội mà ít khi có sự kiểm chứng. Lý giải điều này, BTV Hồng
Minh (báo Ngoisao) cho rằng, tình trạng thương mại hóa khiến các tòa soạn
phải tăng tối đa nguồn thu và cắt giảm tối thiểu khoản chi bao gồm cả khoản chi
cho bộ máy nhân sự để duy trì hoạt động. Theo thống kê thời điểm tháng
12/2016, VNN chỉ có 3 PV mảng Văn hóa giải trí (sản xuất hơn 11 tin bài/ngày
về giới NSBD VN); Zingnews có 7 PV và Ngoisao có 8 PV mảng văn hóa giải
trí (sản xuất hơn 25 tin bài/ngày về giới NSBD VN). Chưa kể rất nhiều tin bài
107
khác mà PV phải thực hiện. Như vậy, mỗi PV phải sản xuất trung bình 5-6 tin
bài/ngày đồng thời phải đảm bảo số lượng lượt xem theo quy định của tòa soạn
mới được tính nhuận bút. Đó là một áp lực khủng khiếp. Bởi vậy, nhiều PV chấp
nhận lấy nguồn tin không chính thống, thiếu khách quan, thiếu sự kiểm chứng
như một giải pháp khả thi cho việc đảm bảo định mức tin bài và thu nhập.
Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng, bởi áp lực kinh tế thị trường, nhiều trang báo
điện tử hiện nay đang chạy theo thị hiếu của công chúng, thỏa mãn họ bằng những
tin bài với hàm lượng văn hóa rất thấp. Nói cách khác, những trang báo này đang
bị “chế định” bị định hướng bởi thị hiếu của công chúng. Hiện tượng này cũng
biểu hiện cho căn tính tiểu nông (vốn dĩ là một phi giá trị từ nền văn hóa gốc nông
nghiệp điển hình của Việt Nam) tồn tại trong tư duy của người làm báo, khi chỉ
nhìn thấy cái lợi trước mắt mà bỏ qua những giá trị lâu dài, bền vững.
3.2.3.2 Quan hệ tương tác giữa báo điện tử và giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
David P. Marshall Giám đốc trung tâm Nghiên cứu văn hóa và truyền
thông – Đại học Queensland, Úc) trong sách Celebrity and Power: Fame in
contemporary culture đã miêu tả: “Người nổi tiếng là một trong những cơ chế
cơ bản để xây dựng và duy trì mối liên kết giữa chủ nghĩa tư bản tiêu dùng,
dân chủ và chủ nghĩa cá nhân” [141]. Những NSBD nổi tiếng có một chức
năng tư tưởng quan trọng tác động mạnh tới cộng đồng. Chính bởi vậy,
NSBD nổi tiếng ngày nay được coi như một công cụ hiệu quả truyền tải thông
điệp và cá tính thương hiệu của các doanh nghiệp tới công chúng thông qua
báo chí. Việc thông tin về giới NSBD trên báo chí vì thế có thể chịu sự tác
động, chi phối lớn từ doanh nghiệp, khiến mô hình thông tin về NSBD trên
báo chí hoàn toàn thay đổi. Báo chí không còn là chủ thể thông tin duy nhất
nữa mà có thể trở thành trung gian phương tiện) truyền thông cho doanh
nghiệp hoặc NSBD.
108
Trong bối cảnh giao lưu hội nhập toàn cầu, việc thông tin về giới
NSBD VN trên báo điện tử không nằm ngoài xu hướng chịu sự tác động của
doanh nghiệp nói trên. Nhìn từ góc nhìn văn hóa Việt, thông tin về giới
NSBD VN trên báo điện tử vì thế trở thành hiện tượng mà nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng đó là triệu chứng của sự thay đổi văn hóa đáng lo ngại.
+ Báo điện tử trở thành công cụ tạo dựng sự nổi tiếng cho NSBD
VN khi thông tin về giới này
Nhà bình luận của Time - Richard Schickel cho rằng: “Chẳng có gì nổi
tiếng trước khi bắt đầu thế kỉ 20”. Ở đây Richard muốn nói đến vai trò của
truyền thông hiện đại trong việc tạo ra sự nổi tiếng cho những người nổi tiếng.
Chính truyền thông hiện đại đã khuếch trương sự phát triển của một ngành
công nghiệp giải trí, tạo ra những người nổi tiếng có tính thương mại cao. Ở
Việt Nam điều này cũng được thể hiện khá rõ ràng.
Khi văn hóa đại chúng và công nghiệp giải trí phát triển mạnh mẽ,
truyền thông hiện đại đặc biệt là báo điện tử) có vai trò quan trọng trong việc
gây dựng sự nổi tiếng của NSBD VN, quyết định vị trí của họ trên “thị
trường” giải trí ngày càng khốc liệt. Ngày nay, thành công của những “ngôi
sao” không chỉ được khẳng định bởi tài năng mà còn bởi mức độ nổi tiếng
(thường được đo đếm bởi chỉ số truyền thông). Bởi vậy, mục tiêu của nhiều
NSBD VN là xuất hiện trên mặt báo và được công chúng biết đến càng nhiều
càng tốt, kể cả bằng những chuyện ồn ào hay tai tiếng. Báo điện tử với những
ưu thế vượt trội trở thành công cụ đắc lực trong việc gây dựng sự nổi tiếng
của không ít NSBD VN theo cách này (Bảng 4 - phụ lục 2).
Đơn cử như “ngôi sao” gạo cội Đàm Vĩnh Hưng gắn với hàng loạt
những thông tin khoe hàng hiệu yêu đương đồng tính hay mâu thuẫn với
đồng nghiệp; Hồ Ngọc Hà là nữ hoàng thị phi với chuyện ăn mặc gợi cảm quá
109
mức, diện hàng hiệu giá “khủng” chuyện hôn nhân, ngoại tình, chuyện chèn
ép đồng nghiệp...; hay Ngọc Trinh liên tục xuất hiện trên mặt báo với hình
ảnh hở bạo yêu đại gia, phát ngôn phản cảm… Nhà báo Phạm Thu Hà cho
rằng, nổi tiếng bằng những chuyện ồn ào, tai tiếng đang trở thành trào lưu của
nhiều NSBD VN hiện đại. Có những sự cố họa vô đơn chí ập đến với NSBD,
nhưng cũng rất nhiều chuyện ồn ào lại do chính NSBD tạo ra để thu hút báo
chí và công chúng chú ý đến mình. Khảo sát thử trường hợp của Ngọc Trinh
trong năm 2015, 2016 với 100 tin bài lựa chọn ngẫu nhiên trên VNN,
Zingnews, Ngoisao. Kết quả: chỉ có 3 tin bài về cô liên quan đến hoạt động
nghệ thuật (1 bài trên VNN, 2 bài trên Zingnews và 0 bài trên Ngoisao),
chiếm chưa tới 5%; còn lại đều là chuyện yêu đương ăn mặc hở hang, dùng
hàng nhái, đôi co với đồng nghiệp.... Đáng nói nhiều tin bài trên báo điện tử
có nguồn thông tin từ chính trang cá nhân của cô (Ngọc Trinh chủ động cung
cấp chuyện ồn ào của mình).
Ảnh 3.2: Thông tin Ngọc Trinh đăng trên trang cá nhân đƣợc Zingnews khai thác
Nguồn: báo điện tử News.zing.vn
Nhiều NSBD VN sẵn sàng nổi tiếng bằng cách tạo ra những câu
chuyện gây sốc trên báo điện tử, đánh vào tử huyệt cảm xúc của công chúng.
110
Nhờ vậy, công chúng có thể sẽ chú ý và mua sản phẩm (vé xem buổi biểu
diễn, album nhạc, sách tự truyện… của nghệ sĩ đồng thời giúp nghệ sĩ giảm
bớt được sự đánh giá khắt khe của công chúng về tài năng nghệ thuật còn hạn
chế của mình. Ngọc Trinh chỉ bằng phát ngôn “Không tiền cạp đất mà ăn
à?”, “Tôi không làm gái”... hay những bộ trang phục kiệm vải, những mối
tình với đại gia...trên mặt báo đã đủ để khiến cả cộng đồng mạng chú ý tới
cô mà chẳng cần bất cứ một đêm biểu diễn thời trang đỉnh cao hay một tác
phẩm điện ảnh chất lượng nào. Nhờ chăm chỉ xuất hiện trên mặt báo với
những chuyện gây sốc đó Ngọc Trinh có được rất nhiều những hợp đồng
biểu diễn, hợp đồng đại sứ thương hiệu và mức thu nhập cao hơn hẳn so
với những diễn viên thực lực như: Kathy Uyên Th y Anh… Rồi Hariwon
sau scandal tình tay ba được nhiều trang báo điện tử đề cập tới, thậm chí
còn phát phát hành hàng loạt sản phẩm âm nhạc và trở thành cái tên sáng
giá trong các chương trình biểu diễn d người ta nghe nhạc của cô, xem cô
diễn chỉ vì tò mò chứ không phải vì thừa nhận tài năng nghệ thuật). Thực tế
cho thấy, những NSBD VN xuất hiện liên tục trên mặt báo (chỉ số truyền
thông cao) thường có giá trị thương mại (cát xê và hợp đồng quảng cáo) cao.
Trong ngành công nghiệp giải trí, nhiều khi chỉ số truyền thông và mức độ nổi
tiếng mang lại nhiều thành quả thương mại cho người nghệ sĩ hơn là khả năng
nghệ thuật của họ.
Thử so sánh trường hợp ca sĩ Giang Hồng Ngọc (quán quân X-Factor
2014, giọng hát nội lực, truyền cảm được đánh giá cao) và ca sĩ Hariwon (ca
sĩ người Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam, chất giọng yếu và mỏng) (Bảng
3.8). Kết quả như sau: Mặc dù được đánh giá cao về tài năng nghệ thuật
nhưng về mức độ nổi tiếng, giá trị thương mại và thu nhập của Giang Hồng
Ngọc lại thấp hơn Hariwon rất nhiều. Trong 1 năm Giang Hồng Ngọc chỉ
có 31 tin bài viết về cô đăng trên Zingnews, trong khi Hariwon có tới 171
111
tin bài, đồng nghĩa với việc chỉ số truyền thông của Giang Hồng Ngọc kém
xa Hariwon. Nếu Giang Hồng Ngọc có giọng hát hay và báo chí thường
khai thác về giọng hát của cô, thì Hariwon lôi kéo sự chú ý của công chúng
bằng rất nhiều scandal trên mặt báo... Chưa xét phản ứng của công chúng
như thế nào nhưng nhờ sự xuất hiện dày đặc trên mặt báo, Hariwon đã
nâng cao “giá trị” và “giá trị sử dụng” của cô trong ngành công nghiệp giải
trí, liên tục có được các “show” ca nhạc, phim điện ảnh, các sự kiện lớn
nhỏ và cả các hợp đồng quảng cáo. Điều đó cho thấy, việc xuất hiện trên
mặt báo thường xuyên có ảnh hưởng lớn tới độ “hot” và sự thành công về
mặt thương mại cho NSBD, và gần như NSBD VN nào cũng ý thức được
điều này, thậm chí xây dựng cả những chiến lược cho việc xuất hiện trên
mặt báo của mình.
Bảng 3.8: So sánh nghệ sĩ Giang Hồng Ngọc và Hariwon
Nguồn: NCS tổng hợp
112
Chuyên gia truyền thông marketing Nguyễn Quang Dũng phân tích:
“Hiện nay, NSBD VN bắt đầu nghĩ đến và có chiến lược để tạo ra sự ảnh
hưởng và những giá trị cho họ. Mà trong chiến lược đó báo chí có vai trò
quan trọng, trở thành công cụ giúp kết nối họ với doanh nghiệp, với khách
hàng” PVS 01 . Trong xã hội hiện đại, công nghiệp giải trí gắn liền với công
nghiệp danh tiếng, chiến lược tạo lập hình ảnh một “ngôi sao” gần như không
khác biệt so với tạo lập thương hiệu cho một sản phẩm hàng hóa. Kinh tế thị
trường đã sinh ra thời đại marketing, thời đại tự quảng cáo, mà ở đó nhiều
NSBD VN phải xuôi theo xu hướng thương mại hóa, phải rao bán mình để
tồn tại, phải “biểu diễn” ở khắp mọi nơi mọi lúc, kể cả trên mặt báo để thu
hút sự chú ý của đám đông và báo điện tử chính là công cụ đắc lực nhất giúp
họ thực hiện mục tiêu này. NSBD VN muốn xuất hiện trên mặt báo nhằm hai
mục đích: 1 Họ tự tạo dựng mình trở thành một thương hiệu hấp dẫn có thể
đại diện cho những thương hiệu khác; 2, Thực hiện truyền thông cá nhân để
phục vụ lợi ích cho chuyên môn nghề nghiệp cá nhân của họ. Nói cách khác,
trong môi trường truyền thông hội tụ cao, khi internet và quảng bá đa phương
tiện ngày càng phát triển thì NSBD VN như là một quá trình truyền thông
(quảng bá, quảng cáo và khuếch trương được phối hợp bởi một ngành công
nghiệp, mà ở đó các nhà đầu tư các nhà sản xuất, công ty giải trí) có khuynh
hướng xây dựng họ như những thương hiệu được “tiêu thụ” bởi khách hàng
công chúng người hâm mộ và doanh nghiệp) một cách hiệu quả. Trong quá
trình này báo điện tử có vai trò quan trọng làm tăng “giá trị sử dụng” cho
nghệ sĩ. Những nghệ sĩ như Sơn T ng M-TP, Ngọc Trinh, Tóc Tiên, Hồ Ngọc
Hà, Nhã Phương... là điển hình cho việc thương mại hóa thương hiệu cá nhân
trên mặt báo. Tuy nhiên, chuyên gia Nguyễn Quang Dũng cho rằng, nền kinh
tế thị trường khi “du nhập” vào Việt Nam vẫn tồn tại nhiều bất cập, không
phù hợp với đặc trưng văn hóa lối sống và tư duy của người dân Việt...
113
NSBD phương Tây ăn mặc phóng khoáng, tối đa hóa giá trị thương mại bản
thân là việc hết sức bình thường và dễ được chấp nhận với công chúng
phương Tây. Nhưng khi NSBD VN áp dụng những điều này lại cần phải cân
nhắc. Nhiều người mải chạy theo giá trị thương mại của bản thân mà quên
mất mình là một người làm nghệ thuật trong môi trường văn hóa Việt, và vì
thế tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với công chúng cũng như chính bản
thân mình.
Nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích: “Muốn được công chúng chú ý thì
tin bài về NSBD phải có nhiều lượt xem, bình luận và chia sẻ. Chê bai hay
khen ngợi cũng được, miễn là lượng lượt xem phải cao, phải trở thành xu
hướng thu hút sự quan tâm của đám đông. Vì vậy, nhiều NSBD VN chấp nhận
xuất hiện trên mặt báo với những câu chuyện ồn ào, phản cảm…để nhanh nổi
tiếng hơn. Đối với nhiều NSBD VN bây giờ, báo chí chính là công cụ để
biểu diễn những chiêu trò, để rao bán mình” PVS 07 . Và đáng lo ở chỗ,
nhiều trang báo điện tử vì lợi ích kinh tế lại chấp nhận thỏa hiệp với xu hướng
này khi thông tin về giới NSBD VN, tạo ra những tin bài làm méo mó chân
giá trị của văn hóa Việt. Thực tế, những phát ngôn cùng phong cách thời trang
hở hang của Ngọc Trinh, Mai Khôi, Tóc Tiên, Mai Ngô... sẽ chẳng bao giờ
phù hợp với truyền thống “cái nết đánh chết cái đẹp” “chim không kêu tiếng
rảnh rang, người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe”... được người Việt đúc kết từ
ngàn năm qua để đề cao cái duyên, nét dịu dàng ra thưa vào gửi, công dung
ngôn hạnh của người phụ nữ Việt Nam. Hay những mối quan hệ tay ba của
Hà Hồ, Trấn Thành Trường Giang Nhã Phương Hariwon...trên mặt báo sẽ
khó được chấp nhận khi người Việt Nam vẫn coi trọng những giá trị gia đình
cách ăn ở tế nhị không thích “vạch áo cho người xem lưng”.... Nhiều người
cho rằng việc những nghệ sĩ tạo ra hoặc rơi vào những tình huống trái chiều
để tạo sức hút, sự chú ý của công chúng là một cách làm PR. Nhưng xét về
114
bản chất PR không đồng nghĩa với scandal. PR là cách thức tạo dựng hình ảnh
bền vững, những hình ảnh tốt đẹp trong nhận thức của công chúng thông qua
những hoạt động mang tính tích cực. Từ hình ảnh tốt đẹp đó để tạo ra những
giá trị khác biệt được cộng đồng đánh giá cao tôn trọng chứ không phải
những thứ thỏa mãn sự hiếu kỳ cho một nhóm công chúng nhất định. Chuyên
gia Truyền thông Marketing Nguyễn Quang Dũng khẳng định đánh đồng
chuyện tai tiếng trên mặt báo là PR là thực tiễn xảy ra rất nhiều ở Việt Nam.
Có những nghệ sĩ thích tạo những chuyện gây sốc, những xung đột mang tính
nhất thời trên mặt báo để thu hút sự tò mò của công chúng. Tuy nhiên, họ sẽ
phải trả giá bởi vì hình ảnh hình thành trong nhận thức của công chúng là một
quá trình diễn biến, và sẽ rất khó để những nghệ sĩ đó thay đổi ấn tượng của
công chúng về mình sau này. Còn báo điện tử, khi chấp nhận trở thành công
cụ gây dựng sự nổi tiếng cho NSBD VN, chạy theo thị hiếu công chúng và lợi
ích kinh tế mà quên đi vai trò truyền thông cho văn hóa Việt Nam trong cuộc
giao lưu tiếp biến văn hóa toàn cầu thì hình phạt lớn nhất mà họ phải gánh
chịu đó là sự mất lòng tin và quay lưng của công chúng.
+ Báo điện tử chịu sự chi phối từ NSBD VN và doanh nghiệp trong
việc thông tin về giới NSBD VN
Thế kỉ 21 báo điện tử không còn giữ vị trí độc tôn trong việc cung cấp
thông tin trên nền tảng internet. Mạng xã hội (MXH) với Instagram, twitter,
zalo… và đặc biệt là Facebook bùng nổ ở Việt Nam đã tạo ra cạnh tranh và áp
lực lớn cho báo điện tử. Thực tế, nhiều công chúng có xu hướng tiếp cận
thông tin về giới NSBD VN thông qua trang cá nhân của họ thay vì báo điện
tử. Không ít NSBD VN vì thế trở thành KOLs với các bài viết tạo ra sức ảnh
hưởng tới hàng chục nghìn hàng trăm nghìn thậm chí hàng triệu người theo
dõi trang cá nhân của họ như: Quỳnh Anh Shyn, Chi Pu, Hồ Ngọc Hà Sơn
T ng MTP Hương Giang idol Trấn Thành…
115
Ảnh 3.3: thống kê top KOLs có bài viết ảnh hƣởng trong ngành luyện tập thể
hình (gym) trong ngày 15/5/2015
(Nguồn: www.buzzmetrics.vn)
Tham khảo thống kê top KOLs có bài viết ảnh hưởng trong ngành tập
luyện thể hình trong ngày 15/5/2015 trên trang www.buzzmetrics.vn cho thấy:
mặc dù GYM là một ngành đặc thù, tuy nhiên diễn viên Diễm My, ca sỹ -
nhạc sĩ Cát Tường, MC Trấn Thành ca sĩ Tóc Tiên lại có chỉ số tương tác cao
hơn rất nhiều so với các chuyên gia trong lĩnh vực luyện tập thể hình như
Hanna Giang Anh dược sĩ Kim Tuyến... Trong top 10 những KOLs tạo ra
những “post” có tầm ảnh hưởng nhất thì có tới 8 người là NSBD, chỉ có 2
người là thuộc nhóm chuyên gia và công chúng ảnh hưởng. Đáng nói ở đây là
các bài viết của các NSBD VN chỉ đơn thuần là chia sẻ sở thích tập gym thay
vì kiến thức kĩ năng kinh nghiệm tập gym như các chuyên gia.
Hay trong lĩnh vực nấu nướng, số liệu thống kê top KOLs có bài viết
chủ đề nấu nướng tạo được nhiều tương tác nhất trong ngày 20/8/2016 theo
www.buzzmetrics.vn thì đứng đầu danh sách là những NSBD (Lý Hải, Minh
Hà Tóc Tiên Bích Phương... các chuyên gia trong lĩnh vực này (Food
116
blogger như Esheep kitchen Phan Anh Savoury Days Linh Trang Ngòn
ngon by Dino Dino Vũ mặc dù có nhiều bài viết hướng dẫn về nấu ăn nhưng
lượng tương tác tạo được lại thấp hơn. Điều này cho thấy sức hút và tầm ảnh
hưởng của NSBD lớn như thế nào. Họ có một lượng “fan” người hâm mộ)
đông đảo, và một lượng công chúng tò mò quan tâm nhất cử nhất động của họ
cũng đông đảo không kém.
Nhờ sức hút và khả năng lan tỏa của mình, KOLs được coi là một công
cụ hiệu quả trong chiến lược Marketing của các doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp thường lựa chọn KOLs là NSBD nổi tiếng làm đại sứ thương hiệu, sử
dụng hình ành độ nổi tiếng và các bài viết trên trang cá nhân của họ để quảng
bá thương hiệu, sản phẩm tới công chúng rộng lớn (những người vốn là “fan”
hâm mộ và dễ bị định hướng bởi “ngôi sao” . “Doanh nghiệp bây giờ không
quan tâm tới nơi họ đặt quảng cáo có phải là một tờ báo chính thống hay
không, họ chỉ quan tâm có bao nhiêu độc giả tiếp cận thông điệp của họ, sản
phẩm của họ” - nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích (PVS 07). Hiện nay, trang
fanpage, trang cá nhân của nhiều NSBD VN nổi tiếng có doanh thu quảng cáo
cao hơn cả các trang báo điện tử. Các bài chia sẻ của họ thu về hàng triệu,
thậm chí hàng chục triệu lượt xem cao hơn nhiều so với bài viết trên báo điện
tử). “Nhiều NSBD VN không kiếm tiền bằng việc biểu diễn trên sân khấu mà
kiếm tiền từ các post trên mạng xã hội của họ. Điều này thậm chí khiến báo
điện tử rơi vào tình trạng thất thế trong việc hút doanh thu quảng cáo” PVS
07) – Nhà báo Hoàng Nhật Mai.
Để giải tỏa sức ép, nhiều báo điện tử thay vì thông tin khách quan (có
tính định hướng) các hoạt động văn hóa nghệ thuật đã quay sang bắt tay với
các KOLs là giới NSBD, thậm chí chịu sự áp đặt của KOLs để có được lượt
xem cao. Các trang báo thường đăng tải tin bài về NSBD VN là các KOLs và
để họ đính link bài viết lên trang cá nhân. Sự tương tác giữa NSBD và những
117
người theo dõi (followers) khiến các tin bài này nhanh chóng có được số
lượng lớn lượt xem, bình luận và chia sẻ chỉ sau một thời gian ngắn.
Theo chia sẻ của BTV Hồng Minh (trang Ngoisao), một bài viết về Hồ
Ngọc Hà có thể thu hút từ vài trăm nghìn lượt xem tới hàng triệu lượt xem.
Con số đó đủ nuôi định mức lượt “view” cho tác giả bài viết trong một tuần,
thậm chí là một tháng. Tin bài về ChiPu, Ngọc Trinh Sơn T ng M-TP, Minh
Hằng, Thanh Hằng.... cũng thu hút từ vài chục nghìn tới vài triệu lượt xem, vì
vậy những NSBD này thường trở thành nhân vật trong nhiều bài viết trên các
báo điện tử. Thậm chí, có những tin bài “lá cải” thông tin “rác” và hình ảnh
phản cảm về họ vẫn được ưu tiên đang tải trên trang chủ, bởi lý do nó có khả
năng lọt vào “top” tin bài có lượt người xem cao nhất. Nhà báo Hoàng Nhật
Mai nhận định: “Vì phụ thuộc vào việc lấy tin bài và kiếm lượt xem từ NSBD
nên rất nhiều trang báo cũng bị định hướng nội dung bởi họ” (PVS 07).
Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã không còn nhiều sự khách
quan mà gần như một sự trao đổi. Để có được lượt xem như mong muốn, các
tòa soạn báo phải chấp nhận nhượng bộ trước các ngôi sao đôi khi phải chiều
theo sự sắp đặt của họ. Nói như Graeme Turner trong cuốn Understanding
Celebrity: “Nhiều tờ báo hiện nay chấp nhận từ bỏ quyền tự do ngôn luận để
có được sự xuất hiện hay tham gia của một nghệ sĩ nổi tiếng nào đó” [158].
Bên cạnh đó hiện nay xuất hiện xu hướng “cộng tác” giữa báo điện tử
– NSBD VN và doanh nghiệp nhằm gia tăng giá trị và lợi ích cho cả ba bên.
Trong cuốn “Tiếp thị 4.0 – dịch chuyển từ truyền thống sang công nghệ số”
Philip Kotler đã mô tả hành trình khách hàng bằng mô hình 5A (aware – nhận
biết, appeal – thu hút, ask – tìm hiểu, act – hành động, và advocate - ủng hộ).
Theo đó hình ảnh và thông điệp từ NSBD trên báo chí có thể được doanh
nghiệp sử dụng để tác động vào hầu hết các khâu trong hành trình khách hàng
(công chúng). S ng bái người nổi tiếng là một hiện tượng văn hóa mà ở đó
118
người tiêu d ng có xu hướng mua và dùng sản phẩm theo lời giới thiệu, gợi ý
của thần tượng. Những tin bài, quảng cáo có sự xuất hiện của NSBD nổi tiếng
thường được đưa dưới dạng vỏ bọc là tư vấn, cho nên dễ dàng có được lòng
tin và sự ủng hộ từ công chúng, thậm chí còn khiến họ thích và chia sẻ rộng
rãi. Ví dụ như trang Ngoisao đăng bài Minh Hằng diện bikini khoe đường
cong nóng bỏng ngày 10 6 2014 trang Zingnews đăng bài Minh Hằng rạng
rỡ quay MV giữa trời nắng nóng ngày 15/06/2015.... Mặc dù tiêu đề về Minh
Hằng nhưng thực chất nội dung bài viết lại là những hình ảnh, thông tin gắn
liền với sản phẩm mà ca sĩ này làm đại diện thương hiệu - kem chống nắng
Sunplay. Bên cạnh hình ảnh Minh Hằng mặc trang phục có logo của Sunplay,
bài viết còn có những đoạn giới thiệu sản phẩm được trá hình dưới dạng chia
sẻ kinh nghiệm của nhân vật như: “Minh Hằng luôn ý thức bảo vệ làn da
mình dưới ánh nắng gay gắt. Người bạn thân thiết của Hằng là sản phẩm
Sunplay Super Block với chỉ số chống nắng cao SPF81, PA+++ cho khả
năng chống nắng mạnh” (Minh Hằng diện bikini khoe đường cong nóng bỏng
– Ngoisao). Hay cuối năm 2016 nam ca sĩ Sơn T ng M-TP, Soobin Hoàng
Sơn đã quay MV quảng cáo cho dòng sản phẩm Hunter của thương hiệu Bitis.
Cùng với việc phát hành MV Lạc trôi, Đi để trở về trên các kênh truyền
thông, hình ảnh của Sơn T ng Soobin và sản phẩm của Bitis phủ sóng liên
tục trên các trang báo điện tử, ví dụ như Soobin thay đổi phong cách với
single mới đăng ngày 29 12 2016 trên Zingnews; Hình ảnh không thấy trong
MV của Sơn Tùng đăng ngày 31 12 2016 trên VNN; Soobin Hoàng Sơn nhớ
nhà quay quắt khi quay MV mới đăng ngày 21 12 2016 trên Ngoisao... Link
các bài viết này lại được chính Sơn T ng và Soobin chia sẻ trên trang cá nhân
của mình. Kết quả, MV ca nhạc của hai nam ca sĩ tạo được hiệu ứng rộng rãi,
trở thành bản “hit” trăm triệu người xem, nâng tên tuổi Sơn T ng Soobin lên
một tầm cao mới; sản phẩm Bitis Hunter cháy hàng, trở thành một hiệu ứng
119
lan truyền tới mức giới trẻ sốt sắng đi tìm cho mình “một đôi Sơn T ng”
“một đôi Soobin”...; và Zingnews, VNN hay Ngoisao cũng có được lượt xem
cùng nguồn doanh thu không nhỏ từ những tin bài như thế.
Có thể nói, cả NSBD, doanh nghiệp và báo điện tử đều có lợi trong việc
kết hợp thực hiện hoạt động “quảng cáo trá hình” này. Có một sự liên kết
thương mại giữa các tin tức của báo điện tử và nhu cầu quảng cáo của công
nghiệp giải trí. Báo điện tử cũng là loại hình báo chí duy nhất có khả năng tham
gia vào mối liên kết này. Khi đó, việc thông tin về giới NSBD VN không đơn
thuần là quan hệ tam giác giữa báo điện tử - giới NSBD VN và công chúng nữa,
mà còn chịu sự tham gia tác động của một yếu tố khác: doanh nghiệp. Thậm chí,
theo mô hình truyền thông phức hợp của PGS. Trương Đình Chiến, trong nhiều
trường hợp, doanh nghiệp trở thành chủ thể truyền tải các thông điệp tới công
chúng thông qua công cụ trung gian là báo điện tử và NSBD. Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng đó là một triệu chứng của sự thay đổi văn hóa đáng lo ngại. “Nhiều
trang báo bây giờ thông tin về giới NSBD VN là để câu “view”, để giành công
chúng, giành doanh thu quảng cáo chứ không phải vì mục đích văn hóa, mục
đích nghệ thuật hay vì sự phát triển của NSBD” – Nhà báo Đinh Ngọc (PVS
06). Nhìn từ góc nhìn văn hóa những hiện tượng đó của báo điện tử là biểu hiện
của bệnh tủn mủn thiếu tầm nhìn, hám lợi, thói khôn vặt, láu cá, bệnh thiếu quyết
đoán…nảy sinh từ những đặc trưng của văn hóa Việt truyền thống khi Việt Nam
bước vào giai đoạn giao lưu hội nhập. Báo điện tử vì chạy theo công chúng,
chạy theo lợi nhuận mà chấp nhận đánh mất vai trò định hướng của mình, bỏ qua
nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt và màng lọc văn hóa trong sự giao lưu với
văn hóa toàn cầu, dẫn đến sự xuất hiện của rất nhiều những thảm họa, những phi
giá trị văn hóa trên mặt báo khi thông tin về giới NSBD VN, tạo tác động tiêu
cực tới xã hội. Những giá trị: giáo dục tư tưởng, thẩm mĩ…vì thế cũng ít nhiều
mà bị phôi phai đi.
120
3.2.4 Phản hồi của công chúng với thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam trên báo điện tử
3.2.4.1 Về tần suất, số lượng thông tin
Khảo sát 531 người với nội dung họ có thói quen đọc thông tin về giới
NSBD VN trên báo điện tử nào trong 3 tờ báo thuộc diện khảo sát, kết quả:
41% công chúng lựa chọn Zingnews, 39% lựa chọn Ngoisao và chỉ 20% lựa
chọn VNN (Biểu đồ 5 – Phụ lục 2). Như vậy, trang báo nào có tần suất và số
lượng thông tin lớn hơn sẽ thu hút sự quan tâm của công chúng nhiều hơn.
3.2.3.2 Về nội dung thông tin
Khảo sát cho thấy, cùng viết về một nghệ sĩ nhưng những tin bài có
tiêu đề giật gân và nội dung liên quan tới hậu trường đời sống thường có lượt
xem lượt bình luận và chia sẻ cao hơn (Bảng 2 – phụ lục 1). Như vậy, tin bài
về hậu trường đời sống của NSBD VN thực sự có khả năng thu hút sự quan
tâm từ công chúng.
Mặc dù vậy, kết quả khảo sát đánh giá hàm lượng thông tin về giới
NSBD VN trên báo điện tử lại cho thấy: đa phần công chúng đều cho rằng có
quá ít thông tin về chân dung, sản phẩm, hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ và
có quá nhiều thông tin đời tư gây ồn ào của họ.
Bảng 3.9: Đánh giá của công chúng về hàm lƣợng thông tin
giới NSBD VN trên báo điện tử
Đơn vị: Người
Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả khảo sát
121
Chỉ có 12% công chúng được khảo sát cho rằng hàm lượng thông
tin hậu trường đời sống về giới NSBD VN nhiều như hiện nay là phù
hợp, trong khi có tới 54% công chúng đánh giá không phù hợp (Biểu đồ
6 – Phục lục 2). Ngoài ra, chỉ có 7% công chúng được khảo sát cho rằng
thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay phù hợp với văn
hóa Việt truyền thống, trong khi có tới 57% đánh giá đó là không phù
hợp (Biểu đồ 7 – Phụ lục 2). Kết quả này cho thấy, công chúng bắt đầu
bị “bội thực” với những thông tin hậu trường đời sống riêng tư gây ồn ào
của NSBD VN trên mặt báo; đồng thời họ đòi hỏi nhiều hơn những
thông tin chất lượng, có giá trị VHNT, phù hợp với thuần phong mỹ tục
văn hóa Việt Nam.
3.2.3.3 Về cách đặt tiêu đề và sử dụng hình ảnh
Khảo sát ý kiến của 531 công chúng về tiêu đề và hình ảnh trong thông
tin về giới NSBD VN trên các trang báo điện tử hiện nay, kết quả như sau: Về
tiêu đề, có tới 55,4% công chúng cho rằng không phù hợp; chỉ có 5,08% đánh
giá phù hợp; Về hình ảnh, tỉ lệ công chúng đánh giá không ph hợp cũng cao
hơn hẳn tỉ lệ đánh giá ph hợp, 32,2% so với 10 2%. Đặc biệt, gần 14% công
chúng cảm thấy phản cảm với tiêu đề và hình ảnh trong thông tin về giới
NSBD VN trên báo điện tử hiện nay (Bảng 3 – Phụ lục 1).
3.2.3.4 Phản hồi của công chúng với hình ảnh của giới NSBD VN thông qua
thông tin về giới này trên báo điện tử
Hình ảnh về giới NSBD VN phản ánh một phần hình ảnh của văn hóa
nghệ thuật nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. Do đó phản hồi của công
chúng về hình ảnh giới NSBD VN phản ánh hiệu quả việc thông tin về giới này
cũng như hiệu quả nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo điện tử.
Về mức độ nhận diện: Khảo sát số lượng tin bài của NSND Đặng
Thái Sơn danh ca Khánh Ly ca sĩ Hồ Ngọc Hà người mẫu/diễn viên Ngọc
122
Trinh trên Zingnews, VNN, Ngoisao từ 2014 - 2016 cho thấy: Đặng Thái Sơn
và Khánh Ly (nghệ sĩ tinh hoa có số lượng tin bài thấp hơn rất nhiều so với
Hồ Ngọc Hà hay Ngọc Trinh (nghệ sĩ đại chúng thương mại). Ví dụ, trong
năm 2016 số lượng tin bài viết về Ngọc Trinh gấp 45 Đặng Thái Sơn gấp
10,9 lần Khánh Ly.
Bảng 3.10 Số lƣợng tin bài về NSBD VN trên báo điện tử năm 2016
Đơn vị: bài
Nguồn: NCS tổng hợp
Khảo sát về mức độ nhận diện của công chúng đối với các nghệ sĩ
trên, kết quả như sau: có 11 người không biết Đặng Thái Sơn con số
này với Khánh Ly là 9 người, với Hồ Ngọc Hà là 2 người, và với Ngọc
Trinh là 1 người. Kết quả này cho thấy, những nghệ sĩ xuất hiện nhiều
trên mặt báo sẽ được công chúng biết đến nhiều hơn. Như vậy, thông
tin trên báo điện tử có tác động lớn tới việc nhận diện được giới NSBD
VN của công chúng.
Về mức độ thiện cảm và thái độ: Ý kiến bình luận dưới mỗi tin bài về
giới NSBD VN phần nào thể hiện thái độ của công chúng đối với những
thông tin, hình ảnh và lối sống mà họ xây dựng trên mặt báo. Khảo sát ngẫu
nhiên một số tin bài về NSBD VN trên 3 trang báo thuộc diện khảo sát, kết
quả cho thấy: những tin bài về NSBD thương mại thường có lượng bình luận
comment cao hơn những tin bài về NSBD tinh hoa; tin bài khai thác thông
123
tin hậu trường, lối sống của NSBD thu hút nhiều tương tác hơn tin bài về hoạt
động nghệ thuật. Tuy nhiên, số lượng lượt xem cũng như bình luận không
phải luôn tỉ lệ thuận với thái độ phản ứng và mức độ thiện cảm mà công
chúng dành cho người nghệ sĩ.
Bảng 3.11: Phản hồi của công chúng với thông tin giới NSBD VN
trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Kết quả khảo sát chỉ ra có 3 loại phản ứng mà công chúng dành cho
NSBD VN khi tiếp nhận thông tin về họ trên báo điện tử: 1) Ủng hộ (tích
cực); 2) Phản đối (tiêu cực); 3) Ý kiến khác (trung dung hoặc đưa ra những
bình luận không liên quan). Những bài viết liên quan đến hoạt động nghệ
thuật, số lượng bình luận tích cực là chủ yếu, trong khi những bài viết khai
thác thông tin hậu trường gây sốc (ngoại tình ăn mặc hở hang, scandal...) thì
bình luận tiêu cực lại chiếm đa số. Ví dụ, bài viết “Hồ Ngọc Hà được đại gia
Chu Đăng Khoa cầu hôn trên bãi biển?” đăng trên Zingnews thu hút 207 lượt
bình luận trong đó 48 bình luận tích cực, 121 bình luận tiêu cực và 38 ý kiến
124
khác. Trong khi “Khánh Ly – nỗi ân hận của một danh ca” chỉ có 6 bình luận
nhưng 4/6 bình luận đó là tích cực.
Khảo sát đánh giá về mức độ được ưa thích và tầm ảnh hưởng của một
số NSBD VN thông qua tin bài về họ trên báo điện tử, kết quả như sau: Chỉ
có 33/498 công chúng ưa thích hoặc quan tâm tới thông tin về Đặng Thái
Sơn; trong khi đó có tới 309/527 công chúng ưa thích hoặc quan tâm tới thông
tin về Sơn T ng. Sự chênh lệch lớn về con số cho thấy sức hút của những
NSBD thương mại. Tuy nhiên, thống kê cũng cho thấy, những NSBD VN
được nhiều công chúng quan tâm, ưa thích chưa chắc đã ghi lại trong tâm trí
họ với hình ảnh tích cực; thậm chí nhiều NSBD VN bị chính người hâm mộ
đánh giá thông tin về họ đang tạo ra ảnh hưởng tiêu cực tới các chuẩn mực
văn hóa Việt tác động xấu tới cộng đồng. Đơn cử: trong 252 công chúng bày
tỏ sự ưa thích và quan tâm tới thông tin về Ngọc Trinh, chỉ có 10,7 % cho
rằng cô tạo ra ảnh hưởng tích cực tới văn hóa và cộng đồng; có tới 33.3% cho
rằng ảnh hưởng từ thông tin về cô là tiêu cực. Trong khi đó gần 85% công
chúng đánh giá thông tin về Đặng Thái Sơn và Khánh Ly tạo ra những ảnh
hưởng tích cực tới văn hóa và cộng đồng.
Bảng 3.12: Đánh giá của công chúng về ảnh hƣởng của NSBD VN
thông qua tin bài về họ trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
125
Những thống kê số liệu chỉ ra rằng, xuất hiện nhiều trên mặt báo không
đồng nghĩa với việc NSBD xây dựng được hình ảnh tích cực trong lòng công
chúng. Công chúng luôn luôn có những nhìn nhận khách quan, tự đưa ra quan
điểm của riêng mình, từ đó hình thành thái độ (tích cực hoặc tiêu cực) về
NSBD. Những thông tin hậu trường đời sống gây sốc chỉ giúp NSBD được
công chúng nhận diện, che giấu bớt những khiếm khuyến tài năng nhưng
không giúp họ nhận được phản hồi tích cực. Như vậy, cách thức và nội dung
thông tin có ảnh hưởng lớn tới thái độ và mức độ thiện cảm mà công chúng
dành cho NSBD VN; đồng nghĩa với việc ảnh hưởng lớn tới hiệu quả nhiệm
vụ truyền thông văn hóa Việt của báo điện tử.
3.3 Đánh giá chất lƣợng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên
báo điện tử
Dựa trên những tiêu chí đánh giá từ góc nhìn văn hóa Việt được xây
dựng ở chương 2 của luận án và kết quả khảo sát thực trạng việc thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử ở chương 3 có thể đánh giá chất lượng thông
tin về giới NSBD VN trên báo điện tử như sau:
3.3.1 Về thành tựu
3.3.1.1 Cung cấp thông tin phong phú về văn hóa nghệ thuật nói chung và
NSBD VN nói riêng, góp phần truyền thông và bảo vệ bản sắc văn hóa Việt
Có tới 81,7% công chúng được khảo sát tiếp cận thông tin về giới
NSBD VN thông qua báo điện tử. Điều này cho thấy báo điện tử là công cụ
có ưu thế nhất trong việc thông tin về giới NSBD VN cũng như thực hiện
nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. Nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn
khẳng định: “Báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng đã nắm rất tốt các
quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng về VHNT, chuyển tải được đời
sống VHNT VN nói chung và NSBD VN nói riêng tới đông đảo công chúng,
góp phần thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt Nam” (PVS 02).
126
Không chỉ phản ánh sự phong phú trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn
VN hiện đại, thông qua những tin bài về một lớp nghệ sĩ mới, về những tư
tưởng và sản phẩm nghệ thuật mới báo điện tử với những ưu thế dựa trên nền
tảng công nghệ đã chuyển tải những tinh hoa của nghệ thuật biểu diễn thế giới
vào Việt Nam, giúp nghệ thuật biểu diễn Việt Nam hội nhập một cách toàn
diện, mang tới sự phong phú đa dạng, muôn màu muôn vẻ cho đời sống văn
hóa nghệ thuật Việt Nam, thúc đẩy dân trí và tư duy thẩm mĩ của công chúng
phát triển. Công chúng không chỉ biết tới tuồng, chèo, cải lương quan họ,
kịch..., họ biết rõ hơn về các loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại, như:
nhạc pop, nhạc rock, nhạc hiphop, phim ngôn tình lãng mạn phim hành động;
các trào lưu thời trang thế giới: colour block, vintage... Trong sự hội nhập ấy,
báo điện tử cũng chuyển tải những thông tin nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát
huy bản sắc văn hóa nghệ thuật Việt Nam truyền thống. Ví dụ như thông qua
bài viết về DJ SlimV đăng ngày 25 9 2016 trên Ngoisao: “DJ SlimV: Mong
muốn mang âm nhạc Việt ra quốc tế” công chúng có thể hiểu hơn về nghề DJ
(một loại hình nghệ thuật du nhập từ nước ngoài). Hay câu chuyện về những
nghệ sĩ ở sân khấu Hoàng Thái Thanh trong bài viết “Phía sau những vở kịch
rơi nước mắt ở sân khấu Hoàng Thái Thanh” đăng ngày 29 07 2016 trên
VNN của Duy Tường lại giúp người đọc thấu hiểu sự nỗ lực của NSBD Việt
trong việc cứu sân khấu kịch Việt Nam, từ đó có ý thức hơn trong việc bảo
tồn nghệ thuật biểu diễn truyền thống.
3.3.1.2 Phản ánh những hình ảnh và phẩm chất tốt đẹp của NSBD VN, góp
phần xây dựng giá trị văn hóa mới; đồng thời phê phán sự phi văn hóa trong
hoạt động nghệ thuật cũng như đời sống của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
NSBD là người của công chúng, hình ảnh và lối sống của họ có ảnh
hưởng lớn tới công chúng. Với việc đưa thông tin về những NSBD VN nổi
tiếng – mối quan tâm của công chúng báo điện tử đã góp phần cổ vũ tôn
127
vinh những cống hiến lao động tài năng của họ trong hoạt động văn hóa
nghệ thuật. Không ít tấm gương về những người nghệ sĩ đam mê với nghề,
dám khẳng định cái tôi, mạnh mẽ tiếp cận với cái mới, cái tiến bộ của thế giới
trào lưu nghệ thuật mới), nỗ lực vượt qua khó khăn để thành công; những
ứng xử hỗ trợ lẫn nhau thể hiện cái tình của nghệ sĩ… là tấm gương để công
chúng điều chỉnh hành vi, tạo ra lối tư duy tích cực vươn tới các giá trị Chân –
Thiện – Mỹ cho công chúng khơi gợi nhắc nhở công chúng về những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt như: tình đoàn kết, sự bao dung, sự
nhẫn nại… giúp họ sống tốt đẹp hơn.
Bên cạnh đó báo điện tử - với nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt và
làm “màng lọc” văn hóa đã phần nào phê phán những hiện tượng tiêu cực, phi
văn hóa những biểu hiện lệch lạc, quan điểm sai trái, những góc tối tiêu cực...
của NSBD VN. Ví dụ như: “Nghệ sĩ không nên phơi bày lùm xùm tình cảm
trước dư luận” trên Zingnews ngày 6 3 2016: “Sao Việt lật lọng hay văn
hóa ứng xử kém?” đăng ngày 28/2/2014 trên VNN; “Khi nghệ sĩ có thói
quen... chửi bậy” đăng ngày 2 3 2015 trên VNN; “Ứng xử của sao Việt với
tin đồn người thứ 3” đăng ngày 14 10 2015 trên Ngoisao; “Ai đã tiếp tay
cho nghệ sĩ Việt thản nhiên chơi đùa với scandal?” đăng ngày 8 6 2016 trên
Zingnews... Những bài viết phân tích mang tính phản biện này mặc dù chỉ
chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số lượng tin bài về giới NSBD VN tuy nhiên đều
có lượt xem cũng như bình luận tương tác cao từ công chúng, ảnh hưởng
mạnh mẽ tới thái độ và hành vi của công chúng. Đơn cử như bài viết “Nghệ
sĩ không nên phơi bày lùm xùm tình cảm trước dư luận” của tác giả Nguyễn
Thị Minh Thái có hơn 900 nghìn lượt xem, 178 bình luận; bài viết “Kỳ
Duyên nên trả lại vương miện bằng lòng tự trọng” đăng trên Zingnews cũng
của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái thu hút hơn một triệu rưỡi lượt xem, 487
bình luận... Không chỉ phê bình những hạn chế, tiêu cực, những bài viết này
128
còn góp ý, xây dựng và đưa ra những giải pháp để nghệ sĩ sáng tạo được
nhiều hơn các tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng đạo đức và nghệ thuật cho
công chúng.
3.3.1.3 Mang lại sự thư giãn, giải trí, góp phần nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần cho công chúng
Khảo sát mục đích đọc thông tin về giới NSBD VN của 531 công
chúng cho thấy: 43% vì giải trí; 31% vì quan tâm tới hoạt động văn hóa nghệ
thuật, nghiên cứu về lĩnh vực này; 18% vì hâm mộ một nghệ sĩ nào đó; 8% vì
lý do khác hoặc vì không có thông tin gì khác để đọc. Như vậy, công chúng
đọc thông tin về giới NSBD VN vì mục đích giải trí chiếm tỉ lệ lớn.
Dưới áp lực công việc căng thẳng của xã hội hiện đại, đọc thông tin
về giới NSBD VN là một cách hữu hiệu để công chúng cân bằng cuộc
sống. Đặc biệt báo điện tử với những ưu thế riêng (thông tin nhanh chóng,
không giới hạn khả năng lưu trữ, hình thức thể hiện đa phương tiện: video,
hình ảnh văn bản, biểu bảng âm thanh… là loại hình báo chí đáp ứng tốt
nhất nhu cầu này của con người. Chỉ với một chiếc điện thoại thông minh
hoặc một phương tiện nghe nhìn có kết nối internet công chúng đã có thể
tự thư giãn đầu óc mình ở mọi lúc, mọi nơi mọi thời điểm. Một mặt, việc
đăng tải khá đầy đủ và phong phú các chương trình biểu diễn, ra mắt phim,
giới thiệu dự án nghệ thuật của các nghệ sĩ.... giúp công chúng nắm rõ
được thông tin và có cái nhìn tổng quan về hoạt động nghệ thuật biểu diễn
ở Việt Nam, lựa chọn được những hoạt động mà mình quan tâm. Mặt khác,
những thông tin về đời tư, gây ồn ào của NSBD VN lại giúp công chúng
được thỏa mãn sự tò mò, hiếu kỳ của mình; có thêm những câu chuyện
c ng nhau bàn tán để giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống, trong công việc
hàng ngày; đồng thời cũng là những bài học có giá trị về lối sống và văn
hóa ứng xử mà công chúng có thể tự rút ra cho mình.
129
3.3.1.4 Là cầu nối giữa nghệ sĩ/nghệ thuật với công chúng
Nhờ báo điện tử đều đặn cập nhật, cung cấp thông tin từng ngày, từng
giờ, thậm chí từng phút, nghệ sĩ được tiếp xúc với công chúng ở phạm vi
rộng, giúp công chúng có sự nhìn nhận về họ không chỉ ở khía cạnh hoạt động
nghệ thuật mà còn cả con người, cuộc sống, những mối quan hệ... Qua đó,
công chúng có cái nhìn toàn diện, thấu đáo và chia sẻ hơn về NSBD; am hiểu
sâu sắc hơn về hoạt động văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Nhờ có bài viết
“Khánh Ly: Tôi và Trịnh Công Sơn còn hơn cả tình vợ chồng” mà nữ danh ca
có thể giãi bày với công chúng của trang Ngoisao về mối quan hệ giữa mình
với cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đó không phải là tình yêu đôi lứa thông
thường như người ta vẫn thường đồn thổi mà đó là tình cảm giữa một người
cha và con gái. Hay bài viết “Ra mắt phim Vòng eo 56 của Ngọc Trinh” đã
cho thấy một Ngọc Trinh trong vai trò diễn viên, nhà sản xuất phim điện ảnh
bên cạnh một người mẫu nội y mà công chúng từng quen thuộc....
Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử cũng chính là cầu nối hữu
hiệu nhất giữa NSBD VN và công chúng, giúp nghệ sĩ đến gần hơn với công
chúng, từ đó tiếp nhận được những phản hồi của công chúng để có những
điều chỉnh phù hợp và tích cực hơn; góp phần phát triển sự nghiệp cá nhân
của người nghệ sĩ và văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
Nguyên nhân của thành tựu:
Do báo điện tử có rất nhiều ưu thế (cập nhật nhanh, không bị giới hạn
khuôn khổ, khả năng tương tác cao hình thức thể hiện đa dạng) nên rất phù
hợp để chuyển tải thông tin về giới NSBD VN, tạo ra sự tiện lợi cho công
chúng trong việc theo dõi thông tin.
Các tòa soạn báo điện tử cũng chú ý việc nâng cao chất lượng đổi mới
hình thức tin bài theo hướng hiện đại hóa thay đổi phương thức tác nghiệp
của phóng viên, biên tập viên, huy động tối đa năng lực sáng tạo, đề ra những
130
tiêu chuẩn cao hơn về nội dung tin bài để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
công chúng.
Bên cạnh đó việc xây dựng và duy trì các chuyên mục chuyên trang văn
hóa giải trí phù hợp với đối tượng công chúng mục tiêu cũng tạo ra sự quan tâm
của công chúng, duy trì sự kết nối của công chúng với tòa soạn báo điện tử.
Sự nhiệt huyết, trẻ trung của đội ngũ những người làm báo trong các
tòa soạn báo điện tử, chịu khó cập nhật các xu hướng làm báo mới, nắm bắt
nhanh trào lưu nghệ thuật đương đại đáp ứng cách làm báo hiện đại cũng là
yếu tố góp phần tạo ra thành tựu trong việc thông tin về giới NSBD VN trên
báo điện tử.
3.3.2 Về hạn chế
3.3.2.1 Hạn chế về tính nhân văn và chất lượng thông tin, thiếu tôn trọng sự
riêng tư cá nhân, đi ngược quy tắc ứng xử trọng tình của người Việt
Tính nhân văn của báo chí thể hiện ở việc cổ vũ khuyến khích cái tốt;
đấu tranh, bài trừ cái xấu; hướng con người tới những suy nghĩ hành vi lối
sống tích cực, tốt đẹp; góp phần xây dựng một xã hội có văn hóa lành mạnh.
Bởi chạy đua trong việc thu hút công chúng nên tính nhân văn trong nhiều
thông tin về giới NSBD VN trên các trang báo điện tử hiện nay bị xem nhẹ.
Bên cạnh những tác động tích cực, thông tin về giới NSBD VN trên
báo điện tử hiện nay cũng tồn tại nhiều ảnh hưởng tiêu cực trên con đường
xây dựng hệ giá trị văn hóa mới cho dân tộc Việt. Rất ít tác phẩm nhìn nhận
NSBD VN ở khía cạnh nghệ thuật mà lại chú mục nhiều hơn những chuyện
ngoài lề, gây sốc, kích thích những sự suy đồi giá trị văn hóa đạo đức trong
công chúng, làm ảnh hưởng đến tâm hồn giới trẻ, cổ vũ cho căn bệnh “sính
ngoại” chuộng hàng hiệu, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam,
khiến công chúng ảo tưởng về cuộc sống xa xỉ, hào nhoáng, nảy sinh tư tưởng
sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được nổi tiếng...
131
Nhiều tin bài không được viết tử tế không đáp ứng quy chuẩn ngôn
ngữ hay thể loại báo chí, thông tin hời hợt, thiếu chiều sâu, đôi khi chỉ là sự
cóp nhặt thông tin trên MXH. Ưu thế của báo điện tử bị tận dụng để phục vụ
những mục tiêu lợi nhuận trước mắt của người làm báo, thay vì thực hiện
nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. Nhiều bài viết viết xuyên tạc, không
được kiểm chứng, cố tình khai thác những thông tin gây sốc khiến NSBD
phải nhận không ít lời bình luận ác ý từ công chúng, ảnh hưởng đến cả sự
riêng tư của cá nhân NSBD và người thân của họ.
3.3.2.2 Chưa thực hiện tốt nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt, chưa thể hiện
được tố chất văn hóa của người làm báo
Trong Việt Nam văn hóa sử cương học giả Đào Duy Anh đã cảnh báo
về “bi kịch của sự phát triển” khi VN bước vào hội nhập văn hóa phương Tây
và báo chí có vai trò quan trọng trong nhiệm vụ giải quyết bi kịch này. Đáng
tiếc báo chí đặc biệt là báo điện tử đã chưa làm tròn vai trong nhiệm vụ
truyền thông văn hóa Việt, giải quyết bi kịch của sự phát triển. Một loạt
những bài báo với những hình ảnh phản cảm, ngôn từ thiếu sự chuẩn mực, nội
dung xa rời thuần phong mĩ tục Việt Nam...được đăng tải thu hút sự quan tâm
của số đông công chúng. Đáng nói hơn phần lớn trong số công chúng ấy lại
là giới trẻ. Thay vì nhận thức được những chân giá trị của cuộc sống, những
tinh hoa văn hóa dân tộc, thì rất nhiều bài báo đăng tải trên báo điện tử hiện
nay lại xây dựng cho công chúng trẻ một tư duy lệch lạc, phiến diện, thích
hưởng thụ hơn cống hiến, thậm chí là sa đọa.
Những loại hình NTBD truyền thống (chèo, cải lương quan họ…) và
NSBD những loại hình nghệ thuật này được đề cập quá ít trên mặt báo. Thay
vào đó là thông tin về những NSBD thương mại được cập nhật từng ngày,
từng giờ, thậm chí từng phút. Trong bài nghiên cứu Truyền thông văn hóa và
văn hóa truyền thông, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng, báo chí thay
vì truyền thông văn hóa Việt lại khiến công chúng có thêm điều kiện để tiếp
132
nhận những ảnh hưởng văn hóa ngoại lai với sự ngưỡng vọng thái quá, gây
hại cho tư duy và tư tưởng của công chúng làm méo mó đi hình ảnh văn hóa
dân tộc [111].
3.3.2.3 Báo điện tử mất dần vai trò định hướng; thông tin bị thương mại hóa
Trong cơ chế tự chủ tài chính, báo chí không đơn thuần là một loại hình
công tác, mà còn là một dịch vụ xã hội đem lại doanh thu. Trước đây thông
tin VHNT nói chung và thông tin về giới NSBD VN nói riêng được cho là
lĩnh vực “thêm thắt” như một kiểu gia vị. Nhưng hiện tại, trong cuộc chiến
cơm áo gạo tiền của các trang báo điện tử, lĩnh vực thông tin này trở nên quan
trọng, bởi nó thu hút bạn đọc, phục vụ mục đích thu hút công chúng và đem
lại doanh thu cho tòa soạn. Vì mục đích thương mại, nhà báo sẵn sàng cung
cấp bất cứ thông tin gì mà công chúng thích: scandal, ảnh nóng, ảnh lộ hàng,
chuyện tình cảm tay ba... mà không quan tâm tới hậu quả hay những ảnh
hưởng tiêu cực mà nó mang tới cho cả đối tượng được thông tin và đối tượng
tiếp nhận thông tin. Nói cách khác, vì doanh thu, báo điện tử hiện nay đang
chạy theo thị hiếu của công chúng.
Bên cạnh đó không ít trang báo điện tử chủ động bắt tay với các nghệ
sĩ thiết lập mối quan hệ với nghệ sĩ như “người nhà”, chịu sự chi phối của
doanh nghiệp trong quá trình thông tin về nghệ sĩ để có lượt xem và doanh
thu quảng cáo cao. Nhiều bài báo được viết ra nhằm mục đích lăng xê nghệ sĩ
này hoặc dìm nghệ sĩ khác. Điều này dẫn đến độ vênh của công chúng trong
nhìn nhận đánh giá cho c ng một nhân vật, cùng một sự kiện ở những trang
báo khác nhau, khiến họ hoang mang về cái gọi là sự thật. Khảo sát từ góc độ
đánh giá chủ quan của công chúng, kết quả như sau: 24% cho rằng có ít hơn
40% tin bài có sự bắt tay giữa NSBD và nhà báo, và có tới 76% tin rằng trên
40% tin bài có sự bắt tay giữa NSBD và nhà báo (Biểu đồ 8 – phụ lục 2). Điều
133
này cho thấy phần lớn công chúng không còn tin vào sự khách quan của báo
điện tử khi đăng tải thông tin về giới NSBD nữa.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Trong quá trình thông tin về giới NSBD VN, các tòa soạn báo điện tử
chưa xác định và cũng chưa đề cao nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của
mình do đó không xây dựng được những chiến lược định hướng thông tin rõ
ràng, giúp truyền tải các giá trị phái sinh của văn hóa dân tộc Việt.
Bên cạnh đó áp lực tự chủ tài chính khiến các tòa soạn báo bị thương
mại hóa, chịu sự chi phối của doanh nghiệp và NSBD VN dẫn tới mất dần vai
trò định hướng cũng như tính khách quan khi thông tin về giới NSBD VN, tạo
ra những thảm họa thông tin đi ngược với bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nhiều nhà báo có góc nhìn lệch lạc, nghiệp vụ non yếu, chạy theo thị
hiếu đám đông vì cái lợi trước mắt mà quên đi vai trò định hướng thông tin
và truyền thông văn hóa của mình. Không ít nhà báo viết về văn hóa văn hóa
nghệ thuật nhưng lại thiếu phông nền văn hóa. Ý thức chính trị, tôn trọng
pháp luật, tôn trọng quyền riêng tư nhân vật của nhà báo cũng chưa cao dễ
dãi trong khai thác tư liệu, thực hiện tin bài, ít cọ xát thực tế. Bộ phận thẩm
định cũng lỏng lẻo để lọt những thông tin thiếu trung thực, thiếu khách quan,
phản cảm, gây ảnh hưởng tới uy tín của tòa soạn nói riêng làm phương hại tới
hình ảnh văn hóa dân tộc Việt nói chung.
Hiện nay chưa có bộ môn hay trường lớp đào tạo nào dạy về cách tiếp
cận, khai thác về mảng đề tài nhạy cảm và mang tính đặc thù này.
Một trong những nguyên nhân của những tồn tại là do công tác quản lý
báo chí của các cơ quan chức năng còn bị buông lỏng, thiếu đồng bộ, kém
hiệu quả, thiếu những biện pháp cụ thể, kiên quyết để xử lý, khắc phục kịp
thời các khuyết điểm của báo điện tử khi đăng tải những tin bài làm phương
hại tới văn hóa dân tộc.
134
Khảo sát 3 báo điện tử (Vietnamnet Ngoisao.net Zingnews để phân
Tiểu kết chƣơng 3
tích thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn văn
hóa Việt là phù hợp với mục tiêu và phương pháp nghiên cứu của luận án, bởi
đây là ba trong số những trang báo có thế mạnh có lượng truy cập và sức ảnh
hưởng lớn nhất đối với công chúng.
Từ kết quả khảo sát thực tiễn, tác giả luận án mô tả, phân tích, so sánh
làm rõ thực trạng việc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử qua các
khía cạnh tham gia vào quá trình thông tin: người làm báo, giới NSBD VN,
công chúng và mối quan hệ giữa các yếu tố này. Quá trình khảo sát của luận
án đi từ nhu cầu của công chúng tới hiện trạng thông tin và phản hồi của công
chúng. Dựa trên góc nhìn văn hóa Việt các phân tích định lượng và định tính,
luận án đã cho thấy một bức tranh sinh động đa dạng nhưng cũng không kém
phần phức tạp của quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.
Sự du nhập của các “làn sóng” văn hóa ngoại lai đã khiến đời sống
nghệ thuật biểu diễn trong nước có bước phát triển mạnh mẽ trên tất cả các
lĩnh vực: âm nhạc điện ảnh, thời trang... Và báo chí đặc biệt là báo điện tử),
có nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt thúc đẩy hội nhập văn hóa quốc tế,
đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Với thực trạng tin bài
hiện nay báo điện tử đã phần nào thực hiện được nhiệm vụ và vai trò của
mình khi cung cấp thông tin phong phú về văn hóa nghệ thuật nói chung cũng
như NSBD VN nói riêng góp phần truyền thông và bảo vệ bản sắc văn hóa
Việt; Phản ánh những hình ảnh và phẩm chất tốt đẹp của NSBD VN, góp
phần xây dựng giá trị văn hóa mới đồng thời phê phán sự phi văn hóa trong
hoạt động nghệ thuật cũng như đời sống của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam;
Mang lại sự thư giãn giải trí, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
cho công chúng, Là cầu nối giữa nghệ sĩ nghệ thuật với công chúng…
135
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, áp lực
tự chủ tài chính của các tòa soạn báo cùng sự bùng nổ mạnh mẽ của MXH…
đã khiến vai trò này đang bị “lung lay” chao đảo. Vì chạy theo thị hiếu của
đám đông công chúng những người có nhu cầu lớn thông tin về giới NSBD
VN đặc biệt là thông tin hậu trường đời sống, chuyện riêng tư gây sốc của
giới này), vì mục tiêu lợi nhuận doanh thu báo điện tử dần mất đi vai trò
định hướng, chấp nhận sự chi phối, ảnh hưởng của cả NSBD VN lẫn doanh
nghiệp, từ đó dẫn tới xuất hiện không ít những thảm họa, những “lỗi” văn hóa
trong việc thông tin về giới NSBD VN, hạn chế về tính nhân văn và chất
lượng thông tin, thiếu tôn trọng sự riêng tư cá nhân đi ngược quy tắc ứng xử
trọng tình của người Việt chưa thực hiện tốt nhiệm vụ truyền thông văn hóa
Việt chưa thể hiện được tố chất văn hóa của người làm báo…
Luận án cũng chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những mặt tích cực và
hạn chế của thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay.
Đây là nền tảng để tác giả có thể đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử một cách thiết thực và
hiệu quả.
136
CHƢƠNG 4:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN
VỀ GIỚI NGHỆ SĨ BIỂU DIỄN VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
4.1 Vấn đề đặt ra trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
trên báo điện tử
4.1.1 Quá trình thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện
tử là một quá trình văn hóa
Hội nhập giao lưu văn hóa ảnh hưởng rất nhiều tới NSBD VN, từ xu
hướng biểu diễn, gu thẩm mĩ cho tới lối sống tư duy... Tuy nhiên trong sự tiếp
thu có sự sàng lọc. Cái gì tinh hoa, phù hợp sẽ đọng lại; cái gì lai căng không ph
hợp sẽ bị đẩy ra. Và trong sự sàng lọc ấy, báo chí có vai trò vô cùng quan trọng.
Mỗi tòa soạn báo điện tử khi ra đời đều hướng tới nhiệm vụ truyền
thông văn hóa Việt, gìn giữ và phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Khi báo điện tử đăng tải thông tin về giới NSBD VN, tiếp nhận phản
hồi của công chúng về những thông tin này đồng nghĩa với việc báo điện tử
đang thực hiện nhiệm vụ truyền thông những vấn đề, những lát cắt thực tiễn
của văn hóa Việt Nam. Thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện
tử thể hiện đúng bản chất là một sinh hoạt văn hóa của người Việt trong xã
hội hiện đại. Thông qua các tác phẩm báo chí cái đúng cái sai cái tiến bộ,
cái hội nhập, cái lạc hậu... của văn hóa nghệ thuật Việt Nam nói chung và
NSBD VN nói riêng đều được chỉ ra. Đó chính là quá trình mà chủ thể (con
người) tạo ra các giá trị nhằm thúc đẩy sự phát triển của văn hóa xã hội; đồng
thời cũng chính con người lại là đối tượng hưởng thụ các giá trị văn hóa đó.
Thông thường, quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
bao gồm: đưa ra vấn đề, hiện tượng của NSBD; Phân tích, lý giải vấn đề; gợi
mở những định hướng cho những hiện tượng, vấn đề; thay đổi nhận thức và
hành vi của công chúng. Quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện
137
tử có thể xuất phát từ việc đưa tin bài đơn lẻ về một NSBD nào đó cũng có
thể là tập hợp chùm bài về nhóm NSBD nhất định để nêu ra một vấn đề, hiện
tượng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Ví dụ như các trang Ngoisao VNN
Zingnews có thể đưa tin chuyện yêu đương của Ngọc Trinh với tỉ phú Hoàng
Kiều; phân tích và lý giải mối tình này ở góc độ một hiện tượng văn hóa lai
căng “chân dài cặp đại gia” “mối quan hệ tình – tiền” và có những gợi mở
cho các nghệ sĩ trẻ hiện nay lối tư duy đúng đắn trong chuyện tình cảm. Cũng
có thể xuất phát từ một loạt các ca sĩ diễn viên chỉ trích nhau trên MXH, trên
mặt báo phân tích văn hóa ứng xử xuống cấp của một bộ phận nghệ sĩ Việt,
từ đó tạo ra những tác động làm thay đổi nhận thức của công chúng và nghệ sĩ
theo định hướng của nhà báo.
Mỗi thông tin về giới NSBD VN đều có một giá trị riêng trong việc
truyền thông văn hóa Việt. Ví dụ thông tin về NSND Đặng Thái Sơn là để
truyền bá nghệ thuật tinh hoa, giới thiệu nhạc cổ điển tới công chúng..; trong
khi đó thông tin hậu trường đời sống của Sơn T ng MTP Ngọc Trinh… lại
phản ánh một hiện tượng văn hóa một lối tư duy lối sống của lớp nghệ sĩ trẻ
trong môi trường hội nhập văn hóa toàn cầu; những tác động của những hiện
tượng này tới công chúng....
4.1.2 Vấn đề đặt ra đối với báo điện tử
4.1.2.1 Trình độ nghiệp vụ của nhà báo
Những nhà báo có tâm và có tầm sẽ mang tới những bài viết có hiệu
ứng xã hội tích cực. Đáng tiếc, trong quá trình thông tin về giới NSBD VN
trên báo điện tử hiện nay nhiều nhà báo đã bỏ quên cái “tâm” và lười rèn rũa
cái “tầm” của mình.
Ca sĩ Tân Nhàn trong bài báo Nghệ sĩ và nhà báo đăng trên báo Công
an nhân dân online từng trăn trở về trình độ nghiệp vụ của nhà báo khi tác
nghiệp: “Một số bài báo khiến tôi có cảm giác như nhà báo chưa hiểu rõ
138
những gì mình viết, nhất là trong việc sử dụng những thuật ngữ chuyên
ngành. Ví dụ như có lần tôi đọc một bài báo mà tác giả viết "Cô ấy có giọng
tenor", trong khi tenor là giọng nam cao...”.
Theo nhà báo Đinh Ngọc, để tác nghiệp, nhà báo không nhất thiết phải
đi học thanh nhạc, học đạo diễn, biên kịch, phải có những hiểu biết sâu sắc về
nghệ thuật nhưng cũng nên tìm hiểu những kiến thức cơ bản để sử dụng và
viết bài cho đúng. Nếu không, nhà báo sẽ chỉ tạo ra những tác phẩm hời hợt,
không đọng lại trong lòng công chúng, thậm chí là sai. Trên thực tế, một số
lượng lớn PV, BTV yếu về cả nghiệp vụ báo chí lẫn kiến thức văn hóa nghệ
thuật. Họ không đủ bản lĩnh nghề nghiệp, nền tảng văn hóa để tác nghiệp và
định hướng cho công chúng, thiếu khả năng nhìn nhận đánh giá khách quan
vấn đề, vì thế dễ sa vào lối viết phiến diện, một chiều, chú mục vào những nội
dung dễ dãi hơn như chuyện lộ hàng, khoe của yêu đương của nghệ sĩ.
Bên cạnh đó hiện tượng nhà báo “phòng lạnh” cũng ngày càng phổ
biến. Bởi áp lực tin bài, thay vì đi thực tế tác nghiệp, nhiều nhà báo chỉ ngồi
một chỗ theo dõi MXH để lấy tin, thậm chí là “xào nấu” lại bài của báo khác
để đăng trên báo mình. Chỉ cần Ngọc Trinh, Hồ Ngọc Hà Sơn T ng MTP
Tóc Tiên... đăng tải một trạng thái trên trang cá nhân, hoặc người hâm mộ của
họ cập nhật một thông tin nào đó thì báo điện tử lập tức khai thác lại và đưa tin.
Những ngôn từ trích dẫn như: “theo thông tin từ...”, “trên trang cá nhân
của...”... được nhà báo sử dụng rất thường xuyên. Nhiều nhà báo sử dụng tư
liệu sẵn có do NSBD gửi tới, chỉnh sửa, cắt xén lại thành tin bài đăng báo mà
không qua khâu xác minh thông tin. Tin bài vì thế thiếu tính khách quan,
không chính xác, thiếu sáng tạo và chính kiến cá nhân. Rất nhiều bài báo đăng
trên các trang báo khác nhau nhưng có nội dung giống hệt nhau, kể cả dấu
chấm dấu phảy, bởi nhà báo sử dụng chung một thông cáo báo chí, một nội
dung thông tin mà các NSBD gửi tới. Rất khó để có thể tìm được những bài
139
phân tích chuyên sâu, có nội dung và đánh giá chuyên môn mang dấu ấn cá
nhân. Cách làm dễ dãi khiến nhiều nhà báo trẻ trở nên thụ động, thiếu bản
lĩnh và mờ nhạt. Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng, nhiều người làm báo hiện nay
không được đào tạo chuyên nghiệp nên không hiểu hết giá trị của nhà báo, chỉ
chạy theo thị hiếu của công chúng, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà quên
mất đi vai trò và giá trị của mình. Nhà báo cần có sự rèn luyện và trải nghiệm.
Những người cầm bút phải là người xuất sắc về mặt câu chữ và kiến thức
trong lĩnh vực mình làm, mình viết.
4.1.2.2 Đạo đức của nhà báo
Điều mà nhà báo mang tới cho tòa soạn là lượng bạn đọc, cho bản thân
nhà báo là uy tín với xã hội, còn cho công chúng là thông tin.
Đối với bất kỳ ngành nghề nào, vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng phải
được đặt lên hàng đầu, bởi đây chính là thang giá trị của việc hành nghề chân
chính. Song, với báo chí - một lĩnh vực đặc thù, thì vấn đề đạo đức lương tâm
nghề nghiệp càng cần được chú trọng. Những năm gần đây trước đòi hỏi
của nền kinh tế thị trường đã và đang xuất hiện cách làm báo rất đáng lo
ngại: chạy theo những thông tin giật gân, câu khách mà bỏ quên tính nhân
văn - "thiên chức" cao cả của báo chí. Nhiều người phải dùng từ "bất chấp"
khi nói về báo điện tử với quá nhiều những thông tin thảm họa phi văn hóa
phi giá trị xuất hiện trên trang chủ; trong khi những thông tin về hoạt động
nghệ thuật chân chính lại chiếm dung lượng khiêm tốn và thường bị khuất
lấp ở trang sau. Khảo sát 300 tin bài về giới NSBD VN trên VNN, Zingnews
và Ngoisao cho thấy: chỉ có 39% là đề cập tới những vấn đề tích cực, còn lại
hơn 60% là đề cập tới những vấn đề tiêu cực, nhạy cảm như: ăn mặc hở
hang, ngoại tình, nghệ sĩ phát ngôn gây sốc... Nhà văn Phong Điệp cho rằng
những thông tin này không mang lại tác động tích cực cho cả nghệ sĩ lẫn
người đọc (PVS 03).
140
Kinh tế thị trường là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới đạo đức của
người làm báo. Hiện nay nhiều tòa soạn báo có chính sách khuyến khích PV
tham gia vào hoạt động kinh doanh, bán báo, bán quảng cáo, thậm chí là chịu
áp định mức về quảng cáo. Ngoại trừ một vài tờ báo lớn thì hầu hết PV, BTV ở
các tờ báo nhỏ đều có thu nhập khiêm tốn, thấp so với mức phí sinh hoạt phải
trang trải mỗi ngày trong xã hội hiện đại. Trong khi đó rất nhiều các công ty
giải trí, nghệ sĩ trẻ lại sẵn sàng bỏ tiền ra để “mua” bài đăng trên báo. Vì mục
đích tài chính mà nhiều điều phản văn hóa theo ngòi bút của nhà báo xuất hiện
trên mặt báo. “Làm báo mà phải kiêm nhiệm kiếm tiền thì khó mà giữ được cái
tâm trong sáng, giữ được cái đầu lạnh và sự khách quan cần thiết trong mọi
thông tin”, nhà văn B i Việt Thắng chia sẻ (PVS 08). Thông tin về giới NSBD
VN rất đặc thù, vừa là sản phẩm giải trí nhưng lại vừa là sản phẩm văn hóa;
vừa có nhiệm vụ thu hút độc giả, mang lại nguồn thu cho tòa soạn lại vừa có
nhiệm vụ truyền thông văn hóa VN và định hướng thẩm mĩ nghệ thuật cho
công chúng Việt Nam. NSBD VN có tác động và ảnh hưởng rất lớn tới công
chúng do đó đưa thông tin về giới này như thế nào là điều mà các nhà báo phải
hết sức lưu tâm bởi điều này không chỉ đối với nghệ sĩ mà đối với cả công
chúng, giúp cho cả hai đối tượng này tốt hoặc không.
Nói về việc đưa tin một cách đạo đức, có nhiều bài học trên thế giới để
chúng ta tham khảo. Ở Nhật Bản, báo chí khai thác nhiều thông tin về giới
NSBD, tuy nhiên họ có những quy chuẩn rõ ràng về quyền khai thác thông
tin, quyền bảo vệ đời tư cá nhân tránh bôi nhọ nhân phẩm con người... Trong
khi đó ở Việt Nam, không có vùng cấm cũng như giới hạn rõ ràng trong việc
khai thác thông tin về giới NSBD. Chỉ một phát ngôn, một hành động trái với
bình thường của nghệ sĩ cũng được báo chí mổ xẻ chi tiết, không bận tâm tới
phản ứng của người đọc hay những hệ lụy mà nhân vật trong bài viết phải
gánh chịu. Bên cạnh đó, nhiều nhà báo vì tư lợi riêng mà móc nối với doanh
141
nghiệp, với NSBD bẻ cong ngòi bút, giật tiêu đề, thêm thắt những tình tiết
gây sốc, nâng tầm một nghệ sĩ này “dìm hàng” một nghệ sĩ khác. Điều này
khiến không ít nghệ sĩ cảm thấy ngần ngại, khó chịu với báo chí, còn công
chúng thì cảm thấy phản cảm.
Trong bài báo Mổ xẻ đạo đức, trách nhiệm nhà báo, TS. Chí Trung
khẳng định: “Vai trò nhà báo trong thời đại kỷ nguyên số càng lớn, vấn đề
trách nhiệm xã hội và đạo đức nhà báo càng được đặt lên hàng đầu”. Một
nhà báo có nền tảng giáo dục tốt được trang bị kiến thức tốt có môi trường
làm việc (tòa soạn) tốt sẽ sản xuất ra được những tin bài tốt. Một nhà báo có
đạo đức băng hoại nhưng ở trong một môi trường tòa soạn tốt cũng “không có
cửa” để sản xuất những tin bài “thảm họa”. Chỉ với một nhà báo có nền tảng
không tốt, tòa soạn dễ dãi, dễ bị mua chuộc thì mới dẫn đến tình trạng những
tin bài “thảm họa” về giới NSBD. Đáng tiếc trong cơ chế thị trường hiện nay
ngày càng xuất hiện nhiều hơn những nhà báo và những tòa soạn dễ dãi. Họ
ngụy biện rằng đó là tuyên truyền văn hóa mới, hội nhập văn hóa toàn cầu,
hội nhập kinh tế thị trường nhưng bản chất là mưu cầu lượt xem và doanh thu
quảng cáo tức thời, làm những điều phản văn hóa nhân danh văn hóa làm gãy
và sụp đổ những giá trị văn hóa truyền thống một nền văn hóa VN và một nền
báo chí VN, thể hiện sự vô cảm đi ngược lại tính nhân văn của báo chí. Đối
với vấn đề đạo đức của nhà báo trong việc thông tin về giới NSBD VN, trong
bài nghiên cứu “Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền thông”, PGS.TS
Nguyễn Thị Minh Thái khẳng định: “Truyền thông là chủ thể cần phải điều
chỉnh trong việc này. Truyền thông phải xác định được vai trò của mình để có
những việc làm tử tế, góp phần định hướng dư luận xã hội chứ không thể tiếp
tục nói qua nói lại theo kiểu “ngồi lê đôi mách”, “thấy người ta ăn khoai
cũng vác mai đi đào””.
142
4.1.2.3 Những tác động tới giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Sản phẩm nghệ thuật tạo ra NSBD và truyền thông (bởi chức năng định
hình nhận thức và niềm tin thông qua khuôn mẫu hình ảnh) lại tạo ra tính
cách hình tượng đặc trưng của NSBD đó. Nhìn vào thực trạng thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay, nhà báo Đinh Ngọc cho rằng, báo
điện tử khen và chê nghệ sĩ đều không đúng cách. Khen quá đà nên làm “hư”
nghệ sĩ nhưng chê lại không đúng nên dồn nghệ sĩ tới đường cùng. Điều này
làm méo mó hình ảnh nghệ sĩ trong mắt công chúng. Những cái tên như Ngọc
Trinh Angelia Phương Trinh Hương Giang idol Hariwon... là sản phẩm của
việc “tung hô” quá đà từ báo chí, hình thành lối tư duy trong công chúng: chỉ
cần sắc đẹp scandal yêu đương bát nháo, dùng hàng hiệu đắt tiền...là nổi
tiếng, là thành công mà không cần có tài năng hay tu dưỡng tài năng. Đôi khi
sự khen quá đà khen theo xu hướng cũng khiến nghệ sĩ rơi vào tình trạng
khủng hoảng mà đơn cử là trường hợp ca sĩ Hoài Lâm. Sau khi giành giải
quán quân “Gương mặt thân quen 2014” nam ca sĩ đã được tung hô trên tất
cả các mặt báo, nhanh chóng trở thành hiện tượng âm nhạc có sức hút mạnh
mẽ. Chỉ trong nửa cuối tháng 6 2014 cái tên Hoài Lâm đã xuất hiện ở 11 bài
viết đăng trên VNN 14 bài viết trên Zingnews và 16 bài viết trên Ngoisao.
Đáng nói 99% số bài viết này là dành những lời khen ngợi có cánh cho nam
ca sĩ mới nổi. Những bài báo này đưa tên tuổi của Hoài Lâm lên một tầng cao
mới nhưng vô hình cũng tạo ra những áp lực khủng khiếp cho nam ca sĩ trẻ
khi vòng hào quang quá rộng so với năng lực thực sự. Đến mức sau đó công
chúng thấy Hoài Lâm biến mất, và cuối năm 2016 trong một bài phỏng vấn,
Hoài Lâm thừa nhận, nổi tiếng quá nhanh trên truyền thông khiến nam ca sĩ
choáng ngợp. Những sản phẩm âm nhạc ra liên tiếp sau đó không đạt thành
công như tài năng báo chí từng ca ngợi khiến Hoài Lâm bị trầm cảm tới mức
phải sử dụng chất kích thích và “chạy trốn” khỏi “showbiz”.
143
Đối ngược lại với “khen” nhiều nhà báo “chê” nghệ sĩ chỉ để soi mói,
hùa theo mà không thật sự hiểu vấn đề, không dựa trên tinh thần xây dựng.
Nhiều tin bài chê Sơn T ng đạo nhạc nhưng khi diễn tả “melody” là gì lại
hoàn toàn sai. Ví dụ bài viết “Sơn Tùng bình thản giữa nghi án đạo nhạc”
đăng ngày 4 8 2016 trên Zingnews, tác giả Phương Giang phân tích: “Sáng
tác này của Sơn Tùng có nhiều nét tương đồng với các ca khúc, MV của Kpop
lẫn nhạc phương Tây”. Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng nét tương đồng đó là về
Melody điều đó không được tính là đạo nhạc. Đôi khi nhà báo không đủ kiến
thức chuyên môn để hiểu nhưng thấy báo khác chê thì mình cũng phải viết
bài để chê cho hợp xu hướng. Hậu quả là không ít NSBD rơi vào cảnh lao
đao khốn cùng. Nhạc sĩ Đỗ Quang phải tự tử vì không chịu nổi sự miệt thị
trong nghi vấn lạm dụng tình dục đồng tính với học trò xảy ra cách đây nhiều
năm. Hay Trấn Thành phải cay đắng thốt lên: “Tôi đầu hàng” khi truyền
thông và công chúng chê bai Mai Hồ - bạn gái của anh một cách nặng nề vì cô
đã có một đời chồng đã có con riêng... Cũng có thể vì áp lực đó mà Trấn
Thành sau đó đã chia tay Mai Hồ để đến với một mối tình khác với Hariwon –
một mối tình cũng bị truyền thông làm cho ồn ào không kém. Đã là NSBD thì
phải chấp nhận sự khen chê của truyền thông và công chúng, nhưng: “Báo chí
chân chính phải dựa trên sự thật để tìm ra bản chất vấn đề. Đừng khen quá
khích, cũng đừng chê quá đà” – Nhà báo Phạm Thu Hà (PVS 04).
Nhiều trang báo mải mê chạy theo xu hướng, theo từ khóa mà đánh mất
lập trường. Cùng một NSBD với một vấn đề họ đang gặp phải, hôm nay có
thể khen, mai lại buông lời chê bôi, miễn là hợp xu hướng và hợp thị hiếu
công chúng. Ví dụ c ng “sự kiện” Ngọc Trinh công bố bạn trai tỉ phú Hoàng
Kiều, trong số 76 bài viết trên cả 3 tờ VNN, Zingnews, Ngoisao thì có 34 bài
mô tả đó là mối tình hạnh phúc, còn lại 42 bài có khuynh hướng chỉ trích, lên
án. Nhà báo hoàn toàn không xác định được, rốt cục mình đang định hướng
144
công chúng theo hướng tư duy nào. Nhà báo đã phê bình thì phải vì nghệ
thuật chứ không phải vì những yếu tố cá nhân. Phê bình để người nghệ sĩ cảm
thấy họ đúng hay họ sai, từ đó có sự phấn đấu, thay đổi tích cực chứ phê bình
mà khiến cho nghệ sĩ thấy mình bị ghét, bị trù dập là thất bại. MC Hạnh Phúc
chia sẻ: “Một thông tin có thể giúp cho tờ báo bán chạy trên thị trường, giúp
người nghệ sĩ trở nên nổi tiếng hơn, nhưng cũng có thể hủy hoại cuộc đời của
một nghệ sĩ, thậm chí giết chết họ. Nhà báo nên cân nhắc điều này” PVS 09 .
4.1.2.4 Những tác động tới công chúng
Nhà văn Phong Điệp cho rằng thông tin về hậu trường, đời tư của
NSBD VN có tác dụng tức thời về lượt người xem nhưng để nói về hiệu quả
mang lại cho công chúng tác động tích cực vào nhận thức của họ thì rất hạn
chế hàm lượng rất thấp (PVS 03). Nhiều tin bài về giới NSBD VN khai thác
quá đà đời sống riêng tư với những tiêu đề, nội dung và hình ảnh không phù hợp
với thuần phong mĩ tục Việt Nam và chuẩn mực ngôn ngữ tiếng Việt, gây hại
cho cộng đồng cho người đọc. Thật khó để tin những tin bài như: Nữ ca sĩ Việt
đua nhau “lột xác” bằng hình ảnh nóng bỏng (18/8/2014 trên VNN), Hồ Ngọc
Hà mặc hở hang đi gặp người yêu cực đẹp trai (22/9/2016 trên Ngoisao), Hồ
Ngọc Hà mặc váy hở bạo trên sóng truyền hình (13/8/2016 trên Zingnews).... lại
được coi là những tác phẩm báo chí xét cả ở khía cạnh nội dung, hình thức, ngôn
ngữ hay hình ảnh. “Những tin bài như vậy thấm dần vào công chúng và gây lệch
lạc nhận thức về giá trị thẩm mĩ của họ, khiến họ mặc nhiên nghĩ rằng: NSBD
VN là như thế, là nhố nhăng, là phát ngôn gây sốc, là chân dài não ngắn... Đó là
thứ tư duy được hình thành từ những bài báo vô bổ” Phong Điệp nhấn mạnh
(PVS số 6). Trong khi NSBD VN có rất nhiều người tài năng cống hiến hết
mình cho nghệ thuật nhưng họ không thích khoe chuyện đời tư không phát
ngôn gây sốc, không làm thỏa mãn sự tò mò của công chúng nên không được
báo chí quan tâm, tin bài về họ chỉ chiếm chưa tới 10%.
145
Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng không sai khi báo điện tử khai thác thông
tin hậu trường của NSBD, bởi những thông tin này thu hút công chúng. Vấn
đề đặt ra là nhà báo cần có định hướng và tư duy thẩm mĩ khi viết những
thông tin này. Nếu viết mãi về Ngọc Trinh, Hồ Ngọc Hà… về những món đồ
hàng hiệu, những mối tình với đại gia… trong giới “showbiz” thì giới trẻ có
thể sẽ quên đi những ngôn từ chuẩn chỉ hay văn hóa đọc, và dễ dàng tiếp nhận
tư duy “không tiền cạp đất mà ăn” coi việc ăn mặc “khoe da hở thịt” là
chuyện bình thường, hay cứ làm nghệ sĩ là giàu có xa hoa...như một chuẩn
mực của đời sống. Và điều đó đi ngược lại với truyền thống Việt Nam, tạo ra
một xã hội lệch lạc. “Cùng một vấn đề, góc nhìn của nhà báo cực kì quan
trọng để mang tới cho khán giả những định hướng dư luận. Nhiều bài báo về
giới NSBD VN mới dừng lại ở việc nhà báo có một đề tài “hot”, nhưng họ
chưa nghĩ được nó tạo ra ảnh hưởng như thế nào tới công chúng. Và điều đó
thực sự nguy hiểm” – MC Hạnh Phúc (PVS 09). Những bài viết hay, những
nhà báo biết đưa thông tin có định hướng đủ tử tế và mang tới cho công
chúng những tác phẩm báo chí đáng để đọc quá ít ỏi, trong khi những thông
tin “lá cải” thông tin “rác” nhảm nhí về giới NSBD lại tràn ngập trên tất cả
các trang báo mạng.
Nhà văn Phong Điệp nhấn mạnh câu “view” chưa bao giờ là giải pháp
tốt để nuôi sống tòa soạn trong nền kinh tế thị trường; cập nhật những hình
ảnh sống sượng, khoe da hở thịt, lối sống buông thả mang danh Tây hóa của
NSBD chưa bao giờ giúp ích cho việc truyền thông văn hóa Việt Nam. Thỏa
mãn sự tò mò vô lối của công chúng không giúp tòa soạn báo xây dựng được
thương hiệu ngược lại nó làm suy giảm uy tín toàn soạn, làm hỏng một thế hệ
nhà báo và một thế hệ công chúng. Báo chí là để giữ gìn, tôn vinh những giá
trị văn hóa truyền thống; tiếp nhận sự thay đổi văn hóa một cách chọn lọc chứ
không phải là công cụ tuyên truyền những thứ phản văn hóa làm phương hại
tới tư duy và thẩm mĩ của công chúng.
146
4.1.3 Vấn đề đặt ra đối với giới nghệ sĩ biểu diễn
4.1.3.1 Nghệ sĩ biểu diễn là một sản phẩm dịch vụ đặc biệt
Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và nền công nghiệp giải trí khiến
một bộ phận giới NSBD VN có tính chất giống như một “sản phẩm dịch vụ”.
Theo chuyên gia Truyền thông Marketing Nguyễn Quang Dũng PVS số 01),
NSBD VN được coi là một sản phẩm dịch vụ khi họ có giá trị và giá trị sử
dụng. Giá trị ở đây trước hết là giá trị đối với chính họ, tức là họ có thể bán
được trao đổi được (thông qua các hợp đồng quảng cáo, hợp đồng nghệ sĩ
độc quyền được kí kết với các nhãn hàng, các công ty giải trí với những mức
giá trị khác nhau, hợp đồng biểu diễn...); giá trị sử dụng là họ cũng trở thành
một yếu tố để đáp ứng nhu cầu của những nhóm khách hàng cần đến họ (công
ty giải trí, nhãn hàng, báo chí, công chúng...). Nhiều NSBD VN hiện nay đặt
tính “hàng hóa dịch vụ” lên trên tất cả, tìm mọi cách để rao bán mình trên
truyền thông báo chí nhằm nâng giá bản thân mình. Tuy nhiên, quy trình sáng
tạo nghệ thuật hay tạo ra một NSBD khác với quy trình sản xuất sản phẩm
dịch vụ thông thường do đó NSBD VN và những sản phẩm của họ cũng là
một sản phẩm dịch vụ đặc biệt. Đối với một sản phẩm dịch vụ thông thường,
có thể tính toán được nguyên liệu lao động cần thiết, khấu hao máy móc, giá
thành, doanh thu, lợi nhuận.... Nhưng sẽ rất khó để áp dụng những chỉ tiêu
tính toán này vào NSBD. “Nguyên liệu” để tạo ra một NSBD là những giá trị
vô hình không đong đếm được đó là tài năng sự nỗ lực, khát vọng lý tưởng,
kiến thức chuyên môn... Và doanh thu, lợi nhuận nghệ sĩ mang lại cũng không
chỉ dựa trên số tiền thu về từ các hợp đồng quảng cáo, các show diễn...mà còn
được tính dựa trên nhiều nấc thang giá trị khác, ví dụ như sự nổi tiếng, danh
tiếng và tầm ảnh hưởng tới xã hội.
VHNT bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nền kinh tế thị trường, bởi sự
thương mại hóa nhưng bất chấp nền kinh tế thương mại hóa thế nào đi chăng
147
nữa thì VHNT vẫn rất đặc biệt, mang lại cho con người những giá trị vượt ra
khỏi giá trị của đồng tiền. Công chúng “tiêu thụ” một bộ phim, một show
diễn, một clip ca nhạc... không giống như tiêu thụ một cái xe máy, một cái
quạt điện hay một cái cốc xứ.... Ví dụ như Sơn T ng MTP có một đội ngũ
làm thương hiệu cá nhân rất tốt, 100% hình ảnh và hoạt động của Sơn T ng
trên truyền thông là để kiếm tiền. Nhưng một người hâm mộ thích Sơn T ng
đọc thông tin về Sơn T ng mua sản phẩm Sơn T ng làm đại diện nhãn hàng,
xem clip nhạc Sơn T ng sản xuất...không chỉ đơn thuần là “tiêu thụ” những
sản phẩm ấy, mà còn vì giá trị tinh thần mà “sản phẩm mang thương hiệu Sơn
T ng” mang lại cho họ. Ví dụ, trong bài viết “Sơn Tùng khác lạ trong MV
đầu tiên hậu chia tay Quang Huy” đăng ngày 27 12 2016 trên Zingnews độc
giả Meomun đã để lại bình luận: “Mỗi ngày đều hóng sản phẩm mới của Sếp!
Chỉ nghe nhạc của Sếp mới thấy mình có động lực”; độc giả Maiyeusky bình
luận: “Bực bội, khó chịu...Anyway, cứ nhạc của sếp vang lên là ok”... Trong
phỏng vấn Anket, có tới 112 157 người đọc thông tin về Sơn T ng MTP trên
báo điện tử vì hâm mộ nam ca sĩ. Điều này cho thấy, nhiều công chúng đến
với NSBD, tiêu thụ sản phẩm nghệ thuật của NSBD bởi NSBD ấy mang lại
cho họ những giá trị tinh thần, giúp cho họ vượt qua sự tương tác rời rạc giữa
các mối quan hệ hạt nhân trong xã hội hiện đại... Lúc đó mối quan hệ giữa
công chúng với NSBD không đơn thuần là mối quan hệ kinh tế nữa.
Cho dù nghệ thuật và kinh tế thâm nhập lẫn nhau nhưng nghệ thuật
vẫn có những chức năng xã hội riêng biệt, mà trong những hoàn cảnh đặc
biệt người ta sẵn sàng hi sinh các lợi ích kinh tế, vật chất để bảo toàn các giá
trị VHNT. Hiện nay xuất hiện nguy cơ lớn khi coi công nghiệp văn hóa giải
trí như một ngành công nghiệp đơn thuần, coi NSBD như một sản phẩm dịch
vụ thông thường, tức là “vận hành” các yếu tố này theo cơ chế thị trường, lấy
lợi nhuận làm mục tiêu cuối cùng, không xem xét tới những ảnh hưởng tinh
148
thần của nghệ sĩ cũng như những nền tảng văn hóa xã hội Việt Nam. Điều đó
dẫn đến không ít những thảm họa trong hoạt động VHNT nói chung và
NTBD nói riêng cũng như những thảm họa trên báo chí khi lăng xê những
“sản phẩm” này quá đà. Cần nhớ: mục tiêu cuối cùng của một sản phẩm dịch
vụ thông thường là tạo ra lợi nhuận. Nhưng mục tiêu cuối cùng của nghệ thuật
và những người làm nghệ thuật (bao gồm NSBD) là làm sâu sắc trải nghiệm
về sự tồn tại của con người. Và như thế, báo chí không chỉ là đối tác mà còn
phải là màng lọc định hướng cho NSBD VN trong điều kiện công nghiệp giải
trí ngày càng phát triển mạnh mẽ.
4.1.3.2 Đạo đức, ứng xử của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử và
những ảnh hưởng tới công chúng
Nguyên Thứ trưởng Bộ TT&TT Đỗ Quý Doãn khẳng định:“Một bộ phận
không nhỏ công chúng sẽ vì những ảnh hưởng của nghệ sĩ mà thay đổi gu thẩm
mĩ, đạo đức, tư duy, hành vi ứng xử...” PVS 02 . Công chúng biết đến NSBD
bởi tài năng càng hiểu rõ và ngưỡng mộ họ hơn bởi những bài viết đăng tải trên
báo chí. NSBD với những sản phẩm và lối sống tích cực sẽ mang lại những sự
lan tỏa tích cực. Ngược lại, những sản phẩm “rác” những hành vi tiêu cực của
họ sẽ khiến một bộ phận công chúng làm theo, dẫn tới những hậu quả khó lường.
Những nghệ sĩ nổi tiếng như Hồ Ngọc Hà Sơn T ng MTP Ngọc
Trinh, Trấn Thành Hoài Lâm Đàm Vĩnh Hưng... có nhiều người hâm mộ, mà
phần lớn trong số đó là giới trẻ. Những công chúng này thường coi thần tượng
là hình mẫu để theo đuổi, bắt chước; họ có khuynh hướng bênh vực, ủng hộ
thái quá, thậm chí làm theo cả những hành vi và lối sống không đúng chuẩn
mực, không phù hợp với thuần phong mĩ tục của thần tượng. Trong khi đó
không phải NSBD nào cũng được đào tạo bài bản và có phông văn hóa tốt để
ứng xử một cách đúng mực. Nhiều người mang danh “nghệ sĩ” nhờ những
chiêu trò, những sự việc phản cảm, những phát ngôn gây sốc, những bộ trang
149
phục hở hang... Họ không có ý thức để duy trì một lối sống có văn hóa cho
bản thân làm sao mang vác được nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt và tạo
ra những ảnh hưởng tích cực cho công chúng Việt?
Trong bài viết Tóc Tiên mong manh giữa ranh giới gợi cảm và phản
cảm đăng trên Zingnews ngày 24 12 2016 nữ ca sĩ đã lý giải phong cách thời
trang của mình như sau: “Đối tượng tôi nhắm tới là những khán giả trẻ,
không ngại thể hiện bản thân, sống đúng với những gì mình có”. Rõ ràng
trong tâm trí của nữ ca sĩ này hình như không có chỗ cho những người yêu
nhạc, muốn thưởng thức âm nhạc – là những người mà đáng lẽ nghề nghiệp
của cô phải hướng tới. Bởi vậy thay vì nói đến âm nhạc, nghệ thuật, phần lớn
những bài báo hay những bài phỏng vấn của Tóc Tiên đều khơi gợi lối sống
phá mọi giới hạn văn hóa trong công chúng trẻ, khiến họ suy nghĩ mặc hở
bạo, khoe thân là khẳng định cá tính chứ không phải một hành vi đi trái với
giá trị văn hóa truyền thống. Và rất nhiều NSBD VN hiện nay cũng có tư
tưởng và cách ứng xử với truyền thông, với đồng nghiệp, với công chúng, với
xã hội như Tóc Tiên. Nhiều bạn trẻ ngày nay nhìn vào những hành động khoe
hàng hiệu, khoe lối sống xa xỉ của nghệ NSBD VN và lấy cuộc sống đó làm
đích của mình. Thậm chí, nhiều ca sĩ diễn viên người mẫu trẻ cũng muốn leo
lên nấc thang danh vọng giàu sang đó bằng chiêu trò như đàn anh đàn chị
thay vì nỗ lực cống hiến cho nghệ thuật. Nghề nghiệp nào cũng cần có đạo
đức. Nhưng trong lĩnh vực VHNT đạo đức của người NSBD lại càng phải đề
cao bởi những tác động của họ tới công chúng.
4.1.3.3 Ảnh hưởng tới thuần phong mĩ tục và văn hóa truyền thống
Nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn cho rằng: “NSBD khi xuất hiện trên
báo chí, ngoài mục đích giới thiệu chuyện đời, chuyện nghề của mình thì còn
có nhiệm vụ truyền đi những thông điệp văn hóa...” PVS 02). Bởi vậy,
NSBD VN phải tự điều chỉnh mình, mỗi lần đứng trên sân khấu, mỗi cử chỉ,
150
hành vi... khi được đăng tải trên mặt báo đều phải hướng tới cái đẹp hướng
tới những giá trị văn hóa chung.
Trên thực tế, NSBD như là đại diện của một sự thay đổi đáng kể nền
văn hóa phổ biến hiện đại. Phát ngôn “Không có tiền thì cạp đất mà ăn” của
Ngọc Trinh, “Tình yêu không có lỗi” của Hồ Ngọc Hà khi là người thứ 3 xen
vào hạnh phúc gia đình người khác hay hành động khóa môi nhà sư của Đàm
Vĩnh Hưng... giống như một sự thách thức đối với giá trị và chuẩn mực của
văn hóa truyền thống. “Người nghệ sĩ mà trên mặt có những vết nhơ, tâm hồn
có những vết nhơ, trong cuộc đời có những vết nhơ, thì khi truyền tải tinh hoa
nghệ thuật đến công chúng sẽ có sự gượng ép và giảm đi giá trị” nguyên Thứ
trưởng Đỗ Quý Doãn nhấn mạnh (PVS 02). Thông điệp của các tác phẩm
nghệ thuật được truyền đi tích cực hay tiêu cực phụ thuộc lớn vào người nghệ
sĩ. Trong hội nhập, giao lưu văn hóa hiện đại, NSBD VN chịu ảnh hưởng lớn
bởi những làn sóng văn hóa ngoại lai, từ xu hướng biểu diễn tới gu thẩm mĩ
thời trang... Điểm đáng tự hào là nghệ sĩ Việt Nam tiếp thu và học hỏi rất
nhanh nhưng điểm đáng lo lắng là họ tiếp thu cả những “rác” văn hóa và
truyền lại những “rác” đó vào trong văn hóa Việt Nam thông qua báo chí.
Hội nhập văn hóa là quá trình luôn cần giai đoạn sàng lọc. Chúng ta
vẫn đang trong giai đoạn sàng lọc đó và nó dẫn tới điều mà học giả Đào Duy
Anh phỏng đoán: bi kịch của sự phát triển với rất nhiều những va đập, những
vấn đề nổi cộm xảy ra. NSBD VN cần tiếp nhận, gạn lọc văn hóa ngoại lai
thay vì học đòi và tạo ra những sự phản cảm, những tác động tiêu cực tới
những giá trị văn hóa truyền thống.
4.1.4 Vấn đề đặt ra đối với công chúng
4.1.4.1 Thị hiếu, năng lực thẩm định, hưởng thụ của công chúng
Trong ngành công nghiệp giải trí, vật trao đổi then chốt không phải là
tiền mà là công chúng. Công chúng báo điện tử là những người có điều kiện
151
và khả năng sử dụng công nghệ hiện đại, có quỹ thời gian hạn hẹp nhưng nhu
cầu thông tin lại cao; họ là đối tượng tiếp nhận tác động, hoặc chịu ảnh
hưởng tác động của thông tin do báo chí cung cấp nhưng cũng là người khởi
xướng, hỗ trợ và cung cấp thông tin đồng thời đánh giá nhận xét và kiểm
định thông tin. Sản phẩm báo chí mà công chúng tham gia càng nhiều thì uy
tín năng lực và hiệu quả truyền thông càng cao. Sự tiếp nhận của công chúng
quyết định mức nhuận bút của PV, ảnh hưởng tới doanh thu quảng cáo của
tòa soạn, bởi vậy nó chính là yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến sinh mạng của
các tờ báo điện tử. Đáng nói ở đây thị hiếu và năng lực hưởng thụ thông tin về
giới NSBD cũng như các sản phẩm nghệ thuật của một bộ phận lớn công
chúng đang có vấn đề. MC Hạnh Phúc bộc bạch: “Tại sao nhiều NSBD ngày
nay thích sử dụng những chiêu trò, những scandal, phát ngôn gây sốc để gây
sự chú ý từ người hâm mộ? Vì họ hiểu bản thân công chúng đã mang sẵn trong
mình tâm trạng hiếu kì, tò mò hoặc thích những chuyện tranh chấp đó của giới
NSBD rồi” PVS 09 . Đôi khi chính sự bàn tán của công chúng lại khiến những
câu chuyện ồn ào, những phát ngôn gây sốc của nghệ sĩ trở nên “hot” hơn. Chỉ
khi nào công chúng chán không đọc không “click” vào những tin bài lá cải,
nhảm nhí đó thì nhà báo mới thôi cung cấp những thông tin như vậy.
Tâm lý tò mò, sùng bái thái quá thần tượng của người hâm mộ đặc biệt
là giới trẻ là xu hướng trên toàn thế giới, và Việt Nam không thể tránh khỏi
xu thế này. Không thể đổ lỗi hoàn toàn cho thần tượng, cho NSBD, mà phải
có nhìn nhận đánh giá khách quan từ chính thị hiếu năng lực thưởng thức
thông tin thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Và rồi sớm hay muộn thì
công chúng sẽ phải tự điều chỉnh mình, tự điều chỉnh thị hiếu của mình để
tiếp nhận những thông tin văn hóa một cách phù hợp. Nghệ sĩ cũng cần tự
nhìn lại mình, tự căn chỉnh lối sống, hành vi và cách làm nghệ thuật nếu muốn
nhận được sự yêu mến lâu dài của công chúng.
152
4.1.4.2 Trình độ nhận thức của công chúng
Nếu cho rằng tất cả công chúng đều thích và tò mò những thông tin hậu
trường về NSBD VN thì chắc chắn là “vơ đũa cả nắm” là “vu khoát‟. Như
nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận định: “Cần có sự phân loại công chúng.
Có công chúng tinh tuyển, tinh hoa. Lại có công chúng phổ thông, bình dân.
Họ thuộc về văn hóa đại chúng. Mỗi lớp công chúng có sự lựa chọn riêng phụ
thuộc vào văn hóa, vào mỹ cảm, thậm chí vào túi tiền” PVS 08 . Công
chúng tinh tuyển, tinh hoa là những người có khả năng phát hiện cái mới ở
nghệ sĩ cũng như sản phẩm nghệ thuật, họ cũng có khả năng khen ngợi hoặc
phê phán, nhìn được quá trình sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ và đặt ra những
yêu cầu cho quá trình phát triển tiếp theo của nghệ sĩ đó... Trong khí đó công
chúng phổ thông là những người yêu nghệ thuật một cách không tự giác, họ
chỉ tiếp cận thông tin về giới NSBD, tiếp cận những sản phẩm nghệ thuật từ
nhu cầu giải trí thuần túy của bản thân, và nhiều khi họ tò mò về những
chuyện phía sau sân khấu nhiều hơn những màn biểu diễn trên sân khấu.
Đáng nói là, công chúng phổ thông chiếm... đa số, trong khi những công
chúng tinh tuyển, tinh hoa lại chỉ chiếm thiểu số. Thực tế cho thấy, rất nhiều
công chúng (phần lớn là giới trẻ) tiếp nhận những hành vi, phát ngôn của
nghệ sĩ thần tượng như lời “sấm truyền”. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng cho
rằng, hiện tượng đó phổ biến là bởi vì giới trẻ không có điểm tựa niềm tin
vững chắc, không tự tạo được cho mình màng lọc văn hóa chắc chắn giữa
luồng thông tin hổ đốn. Việc bị hạn chế không gian sinh hoạt, hạn chế giao
tiếp giữa các thành viên trong gia đình hạn chế việc chia sẻ thông tin trực tiếp
giữa các cá nhân... khiến họ đôi khi hoàn toàn phụ thuộc vào thần tượng của
mình, coi thần tượng như là nguồn sống tinh thần không thể thiếu và tìm đến
báo chí MXH để thỏa mãn nhu cầu “hiểu biết” về các “ngôi sao”. “Không thể
nói là dân trí của ta thấp. Phải nói là công chúng còn chưa được giáo dục
153
thẩm mỹ đầy đủ để tiếp nhận nghệ thuật một cách đúng đắn, có hiệu quả”.
PVS 08 . Trong khí đó đại bộ phận các trang báo điện tử và giới NSBD
VN lại dồn sự chú ý, thậm chí chạy theo công chúng phổ thông. Những
bản “hít”, những bộ phim điện ảnh ăn khách những nghệ sĩ được tôn vinh
làm “ngôi sao” đôi khi không liên quan thậm chí là trái ngược với gu
thưởng thức của công chúng tinh tuyển, với sự thẩm định của các Hội
đồng nghệ thuật. Những công chúng phổ thông ấy như Engels nhận xét
thì: “Họ có thể cũng có sự phẩm bình đánh giá tác phẩm, tác giả, song cơ
bản thì đó là sự phẩm bình đánh giá thiên về cảm tính và theo "lẽ phải
thông thường".
Như vậy, việc coi sự ngưỡng mộ của công chúng như một tiêu chí để
đánh giá giá trị của một nghệ sĩ và những sản phẩm của họ chưa chắc đã
chính xác (nhất là khi số đông công chúng là công chúng phổ thông). Và hiển
nhiên, việc báo điện tử chạy theo thị hiếu, lấy số đông công chúng làm định
hướng thực hiện tin bài về giới NSBD VN là điều đáng lo bởi nó có thể dẫn
tới những sự đảo lộn những chân giá trị trong nghệ thuật.
4.1.4.3 Ảnh hưởng của công chúng tới nghệ sĩ biểu diễn
Trong xã hội hiện đại, vai trò của công chúng ngày càng lớn hơn.
NSBD vừa là nhà sản xuất ra các sản phẩm (phim ảnh, ca khúc...), vừa là một
sản phẩm hàng hóa làm đại diện nhãn hàng đóng quảng cáo...), còn công
chúng chính là khách hàng cuối cùng tiêu thụ hình ảnh và những sản phẩm
nghệ sĩ tạo ra. Bởi vậy, nhu cầu của công chúng chính là những gì mà NSBD
hướng tới để cung cấp, thị hiếu của công chúng có khả năng ảnh hưởng và chi
phối tới những sản phẩm mà người nghệ sĩ sẽ tạo ra. Báo chí cần nhân vật để
viết tin bài, NSBD lại cần báo chí để quảng bá mình. Tuy nhiên, chung quy lại
mọi hoạt động đều hướng tới công chúng, cần công chúng, phục vụ công
chúng, chịu sự chi phối và ảnh hưởng bởi thị hiếu của công chúng.
154
Công chúng cũng hiểu được rằng mình “sở hữu” các “ngôi sao”. Không
có công chúng thì không có “ngôi sao”. Chính vì thế đám đông có thể thất
vọng và nổi giận khi phát hiện “ngôi sao” không sống đúng với kỳ vọng của
mình. Thông tin Hồ Ngọc Hà ngoại tình cùng Chu Đăng Khoa chồng Thu
Minh bị tố nợ nần... là sự “phản bội” đối với các “mẹ bỉm sữa” khi các ngôi
sao đi ra khỏi những kỳ vọng của họ. Lúc này, khả năng tương tác trực tiếp
của báo điện tử trở thành phương tiện để công chúng thể hiện sự tức giận,
phẫn nộ bằng bất cứ ngôn từ nào. Nhà báo Hoàng Nhật Mai phân tích: “Cái
bàn phím cho người ta cái quyền muốn chửi ai, chỉ trích ai cũng được. Nó
giúp một người nghệ sĩ lên hàng sao kiếm được hàng tỉ đồng cho mỗi vai
diễn, sản phẩm âm nhạc, cũng có thể không gươm không dao mà giết người
nghệ sĩ đó, khiến người ta mất hết cả cuộc đời chỉ từ cái bàn phím” PVS 07 .
Khi con người không còn sống quây quần trong một xóm làng, khi các cá thể
không còn biết mặt nhau mà vẫn giao tiếp được với nhau thì ứng xử theo kiểu
“tình làng nghĩa xóm” cũng không còn tồn tại. Người ta đề cao hơn tính cá
nhân và sẵn sàng thể hiện cảm xúc cá nhân của mình thông qua bàn phím mà
không màng tới sự tổn thương của người khác. Trên báo điện tử, biểu hiện
này càng rõ ràng.
Không ít nghệ sĩ bày tỏ nỗi buồn, phản ứng kinh ngạc tới sốc khi đọc
những bình luận về mình và đồng nghiệp trên mặt báo. Công chúng không biết
đúng biết sai, chỉ dựa vào những gì đọc được để đánh giá một người. Đó có thể
là sự gào thét tung hô thái quá cũng có thể là những lời phỉ báng chà đạp nhân
phẩm của nghệ sĩ. Nó giống như là hội chứng đám đông một người ném đá thì
những người khác cũng mạnh tay ném theo một cách bản năng cay nghiệt.
Một nghệ sĩ trong đời sống hàng ngày có những hành vi ứng xử không
văn minh thái độ thiếu văn hóa đi ngược lại truyền thống dân tộc thì công
chúng và báo chí có thể phản ứng lại, thậm chí là phê bình. Tuy nhiên, con
người nói chung và nghệ sĩ nói riêng đều có quyền riêng tư. Công chúng d
155
quan tâm tới nghệ sĩ đến mấy thì cũng chỉ có thể phê bình nghệ sĩ trên
phương diện nghệ thuật, lối sống... chứ không phải soi mói chuyện đời tư bới
móc những góc khuất thầm kín và bình luận ném đá chà đạp nhân phẩm của
họ, dồn họ tới đường cùng.
4.1.4.4 Hình thành văn hóa phản hồi của công chúng đối với thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
Chuyên gia Nguyễn Quang Dũng khẳng định: “Công chúng dù ngưỡng
mộ nghệ sĩ đến đâu cũng không hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi thông điệp hay
hình ảnh của họ. Công chúng tự có những phản ứng của riêng mình. Đó là
cái khó cho những NSBD nổi tiếng khi xây đựng hình ảnh” PVS 01 .
Phản hồi của công chúng cho thấy mức độ quan tâm lẫn thái độ và hành
vi của họ khi tiếp nhận thông tin. Nếu số lượng bình luận “like” thích
“share” chia sẻ) thể hiện sức hút của thông tin, thì nội dung của các
“comment” bình luận) lại phản ánh thái độ, phản ứng và nhận thức của công
chúng đối với các tác phẩm báo chí cũng như các đối tượng được thông tin. Ai
cũng có thể tham gia phản hồi, phản hồi cũng là một quá trình văn hóa và phản
hồi làm sao cho có văn hóa là một vấn đề cần xem xét. Trên báo điện tử, phản
hồi của công chúng được thực hiện công khai dựa trên nền tảng internet, có
tác động ngược trở lại tới tòa soạn báo và NSBD VN, giúp các đối tượng này
có những nhận định về sự tiếp nhận thái độ và hành vi của công chúng, từ đó
có những điều chỉnh nhất định. Chính bởi vậy, ứng xử văn hóa của công
chúng tham gia phản hồi đóng vai trò vô c ng quan trọng.
Khảo sát 531 công chúng về mức độ quan tâm tới các bình luận sau bài
viết trên báo điện tử, kết quả như sau: có 75 531 (14%) người không thích đọc
bình luận; 213/531 (40%) tỏ thái độ bình thường với các bình luận, và
243/531 (46%) người rất thích đọc các bình luận. Kết quả này cho thấy, phần
lớn độc giả quan tâm tới các nhận xét đánh giá của người khác về bài viết và
156
về các đối tượng được đăng tải trong bài viết đồng nghĩa với việc họ quan
tâm tới phản ứng của người khác như thế nào. Tuy nhiên, khi khảo sát về mức
độ tham gia viết bình luận sau các bài viết trên báo điện tử của CCTC thì chỉ có
12 531 công chúng thường xuyên viết bình luận, 207/531 công chúng thi thoảng
viết, và có tới 312 351 người chưa bao giờ tham gia viết bình luận. Trong số 243
người bày tỏ thái độ rất thích đọc các bình luận sau bài viết cũng chỉ có 111
người đã từng để lại bình luận của mình sau một bài viết nào đó đăng tải trên báo
điện tử. Kết quả này cho thấy công chúng thích đọc bình luận của người khác
nhưng không có nhiều người thích tự mình tham gia viết bình luận. Họ thích “soi
mói” hơn là tự mình thể hiện thái độ, trừ khi quá bức xúc hoặc hưng phấn. Như
vậy, những bình luận sau bài viết chưa chắc đã đại diện cho quan điểm của số
đông công chúng. Tuy nhiên, những con số này cũng cho thấy một thực trạng:
công chúng bắt đầu hình thành tương tác phản hồi trước mỗi thông tin thay vì
thụ động tiếp nhận. Nói cách khác văn hóa phản hồi thông tin của công chúng
với những thông tin về giới NSBD VN đang được hình thành. Tất nhiên, sự phản
hồi của công chúng phần lớn là dựa theo cảm tính mà không dựa trên những
bằng chứng cụ thể nào, thậm chí chỉ là hội chứng đám đông.
Không phủ nhận, phản hồi của công chúng góp phần tạo dư luận đưa
ra ý kiến giúp cả nhà báo lẫn nghệ sĩ có thể điều chỉnh để cung cấp những sản
phẩm phù hợp với công chúng và chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên, sẽ là phản tác
dụng nếu những phản hồi này không xuất phát từ quan điểm chân chính của
một cá nhân mà chỉ là “tát nước theo mưa” “ném đá hội đồng” lái dư luận
sang hướng một chiều, thiếu đi sự khách quan cần thiết. Khi đó hiệu ứng đám
đông không chỉ gây hại cho nhà báo và nghệ sĩ mà còn tạo ra ảnh hưởng tiêu
cực tới toàn xã hội, tới gu thẩm mĩ và văn hóa truyền thống, nhất là khi có tới
46% công chúng được hỏi cho biết họ rất thích đọc các phản hồi sau mỗi
thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử.
157
4.1.5 Vấn đề quản lý, chính sách pháp luật cho thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
Trước sự phát triển nhanh như vũ bão của báo điện tử và người sử dụng
internet các cơ quan quản lý thực sự khó khăn trong vấn đề theo dõi, giám sát
nội dung thông tin. Bởi vậy dẫn đến tình trạng tràn lan các thông tin xấu, sai
sự thật, thông tin phản cảm, thiếu tính nhân văn về giới NSBD VN. Bên cạnh
đó các chế tài pháp luật xử phạt đối với việc đăng tải thông tin sai lệch, phản
cảm về giới NSBD VN vẫn chưa rõ ràng phần lớn mới dừng lại ở việc nhắc
nhở, phạt hành chính, và mức phạt cũng chưa cao chưa đủ tính răn đe. Những
quy định giới hạn những thông tin nào được đăng tải, thông tin nào không
được đăng tải cũng không rõ ràng. Nhiều trang báo đã lợi dụng sự mập mờ,
“lách luật” khai thác quá sâu đời tư nghệ sĩ để câu lượt xem khiến các bài báo
“rác” tràn lan trên mạng, gây ảnh hưởng không nhỏ tới công chúng và cả nhân
phẩm nghệ sĩ. 84% người được phỏng vấn sâu và 72% người phỏng vấn
Anket cho rằng cần có luật riêng trong thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử để quản lý hoạt động này đề cao trách nhiệm của người làm báo trong
việc khai thác thông tin cũng như của người nghệ sĩ trong việc cung cấp thông
tin, giúp báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. 16%
người được phỏng vấn sâu và 38% người phỏng vấn Anket cho rằng không
cần thiết phải có luật riêng trong thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
bởi nó tạo nên sự chồng chéo trong việc quản lý. Nên có những quy định rõ
ràng lồng ghép trong những đạo luật riêng rẽ.
Như vậy đa số các chuyên gia và công chúng vẫn cho rằng để quản lý
tốt thông tin về giới NSBD trên báo điện tử cần có một hệ thống quy định luật
pháp rõ ràng, tránh thực trạng những thông tin “thảm họa” liên tục xuất hiện
như hiện nay.
158
4.2 Giải pháp tăng cƣờng chất lƣợng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam trên báo điện tử
Trong xu thế hội nhập văn hóa toàn cầu, nhiều vấn đề nảy sinh trong
hoạt động VHNT, trong lối sống tư duy thẩm mĩ và đạo đức của xã hội thì
vai trò “màng lọc” văn hóa khi thông tin về giới NSBD VN của báo điện tử
lại càng lớn hơn. Do vậy để tăng cường chất lượng thông tin về giới NSBD
VN trên báo điện tử, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
4.2.1 Đối với báo điện tử
4.2.1.1 Chính sách, pháp luật đối với việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn
Việt Nam trên báo điện tử
+ Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nƣớc và có luật
thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo điện tử
Đảng ta đã khẳng định:“Cơ chế vận hành nền kinh tế ở nước ta là cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch chính
sách và các công cụ khác” [125, tr.155]. Cơ chế này đòi hỏi hoạt động báo
chí, hoạt động VHNT có những chuyển đổi trong tư duy nhận thức phương
thức hành động...phù hợp với bước chuyển của nền kinh tế từ cơ chế bao cấp
ra thị trường. Đó là một thách thức lớn.
Báo chí là một hoạt động văn hóa cũng là một sản phẩm văn hóa.
Trong thời gian qua, nhận thức của Đảng Nhà nước về vai trò, nhiệm vụ
truyền thông văn hóa của báo chí có nhiều tiến bộ đổi mới song để thúc đẩy
vai trò, nhiệm vụ này mạnh mẽ, chất lượng và hiệu quả hơn thì đường lối lãnh
đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các hoạt động thông tin văn
hóa trên báo chí (bao gồm thông tin về giới NSBD VN) cần cụ thể hơn bằng
các văn bản, quyết định... mang tính thiết thực.
Thông qua việc phân tích thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên
báo điện tử hiện nay, có thể thấy việc lấy nguồn tin trên mạng xã hội, những
159
nguồn tin chưa được kiểm chứng đã dẫn đến rất nhiều bài báo nghèo nàn
thông tin, lá cải, thiếu đạo đức, thiếu tính nhân văn tính giáo dục... Hệ lụy
của nó đối với giới nghệ sĩ công chúng nói riêng và với xã hội nói chung là
không nhỏ. Bởi vậy, chính sách pháp luật và các quy định pháp lý của Nhà
nước có vai trò quan trọng trong việc đưa báo chí đi đúng hướng. Cần thiết
phải có sự luật hóa các văn bản pháp luật dựa trên sự tổng hợp, thống nhất, bổ
sung, sửa chữa những quy định hiện hành về thông tin VHNT và nghệ sĩ trên
báo chí còn phân tán ở nhiều nơi để ban hành luật riêng cho thông tin về giới
NSBD VN trên báo chí đặc biệt là trên báo điện tử - một loại hình báo chí
đặc thù). Các văn bản pháp luật này cần cụ thể hóa chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn của báo điện tử khi thông tin về VHNT nói chung và NSBD nói
riêng, quyền tự do ngôn luận, thông tin một cách khách quan đồng thời ràng
buộc trách nhiệm của các yếu tố báo điện tử, giới NSBD VN, công chúng)
trong quá trình thông tin. Cũng cần ra quy định có tính pháp lý rất cụ thể về
những nội dung báo điện tử được khai thác tránh đưa thông tin bừa bãi, phản
cảm, gây nhiễu loạn và ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội.
Chương 2 điều 38 của Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định về quyền
bí mật đời tư nhưng quy định và chế tài đối với người vi phạm thì chưa rõ
ràng cũng chưa đủ tính răn đe. Do đó nhiều tòa soạn, nhà báo hiện nay vẫn
phớt lờ quy định pháp luật khai thác và đăng thông tin phản cảm về NSBD
VN để đạt mục đích câu “view” chạy theo lợi nhuận kinh tế. Các cơ quan hữu
quan cần tăng cường công tác chỉ đạo, quản lí báo điện tử, xử lý nghiêm khắc
những trang báo đăng tải thông tin thiếu kiểm chứng, phản cảm, gây ảnh hưởng
xấu cho xã hội. Bên cạnh đó các văn bản mang tính pháp lý cũng cần quy định
và đưa ra các tiêu chí rõ ràng về chuẩn mực cho những dạng đề tài khai thác về
VHNT, về giới NSBD VN đặc biệt là những đề tài về hậu trường đời sống,
thông tin đời tư cá nhân của nghệ sĩ; làm sao đảm bảo mức độ thông tin, ngôn
ngữ, hình ảnh tính nhân văn của bài viết.
160
Chính sách quản lí của Nhà nước phải kết hợp giữa nhiều nhóm giải
pháp về hành chính quy định chế tài, tuyên truyền giáo dục... Không chỉ
bổ sung, hoàn thiện các hệ thống văn bản quy định pháp luật trong việc
thông tin về giới NSBD VN của báo chí Nhà nước cũng cần bổ sung, rà
soát và sửa đổi nhằm nâng cao tính hiệu lực hiệu quả của các văn bản pháp
luật hiện hành.
+ Nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc về
nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo chí
Thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay đến
từ nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là các
cấp lãnh đạo Đảng Nhà nước vẫn chưa đề cao một cách rõ ràng vai trò của
báo chí trong việc truyền thông văn hóa Việt. Vẫn còn tồn tại rất nhiều nhận
thức lệch lạc, coi nhẹ, không thấy được sự cần thiết của nhiệm vụ này, thậm
chí biết nhưng phớt lờ, tránh né. Tuy nhiên gần đây các cấp lãnh đạo Đảng và
Nhà nước đã chú trọng và đề cao hơn vai trò truyền thông văn hóa Việt của
báo chí. Ngoài vận động, khuyến khích các tờ báo đẩy mạnh tuyên truyền văn
hóa các cơ quan quản lý cũng có những chính sách xử lý mạnh tay hơn với
những tờ báo cố tình vi phạm.
Để báo chí phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình khi thực
hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt, các cấp lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước cần có nhận thức đầy đủ, sâu sắc và không ngừng phối hợp, tạo điều
kiện để báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ này. Tất nhiên điều này chỉ được hiện
thực hóa khi các nhà lãnh đạo và quản lý coi truyền thông văn hóa Việt là một
nhu cầu không thể thiếu để phát triển kinh tế xã hội VN trong bối cảnh hội
nhập toàn cầu mạnh mẽ, sâu rộng; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
161
+ Xử phạt mạnh tay những tòa soạn cố tình vi phạm, đăng tải
thông tin phản cảm về nghệ sĩ biểu diễn
Các cơ quan báo chí của Việt Nam trong đó có báo điện tử) hiện nay
đang nằm trong phạm vi điều chỉnh và quản lý của Luật Báo chí. Báo điện tử
trực thuộc cơ quan quản lý trực tiếp là Cục quản lý Phát thanh, Truyền hình
và Thông tin điện tử thuộc Bộ TT&TT (Cục QLPTTH&TTĐT). Cơ quan chủ
quản dựa trên luật báo chí để đưa ra những chế tài quản lý hoạt động xuất bản
của các báo mạng điện tử đưa ra những hình thức phạt khác nhau đối với
những tòa soạn báo vi phạm.
Tuy nhiên, hoạt động báo chí ở Việt Nam cho thấy Cục QLPTTH&TTĐT
chưa làm tốt trách nhiệm của mình. Không chỉ cấp phép hoạt động vô tội vạ
cho nhiều trang tin dẫn tới tình trạng mất kiểm soát cơ quan này cũng không
quản lý sát sao đưa ra những chế tài quản lý kém hiệu quả không đủ tính răn
đe đối với các cơ quan báo chí vi phạm. Các tòa soạn báo điện tử đã “không
còn biết sợ” mặc nhiên đăng tải thông tin phản cảm, mắc phải những vi phạm
có tính chất hệ thống, gây bức xúc trong công chúng và tác động tiêu cực tới
xã hội. Thực tế này dẫn tới nhu cầu bức thiết trong việc mạnh tay quản lý hoạt
động của báo mạng điện tử.
Theo các chuyên gia, phạt hành chính vẫn là biện pháp nên được áp
dụng nhiều nhất trong quản lý hoạt động báo điện tử. Theo Nghị định
02 2011 NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2011 về quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản, mức phạt hành
chính dành cho vi phạm của PV, BTV, tòa soạn báo chí chỉ ở mức từ
1.000.000 đồng đến tối đa là 40.000.000 đồng. Đây là mức phạt quá thấp. Để
hoạt động quản lý hoạt động thông tin về giới NSBD VN có hiệu quả, cần
phải nâng khung xử phạt lên gấp nhiều lần để nâng tính răn đe. Thậm chí với
những trang báo vi phạm nặng, liên tục, cần ra quyết định đóng cửa tước giấy
162
phép hoạt động. Việc này không những đảm bảo tính hiệu quả, nghiêm khắc
của luật pháp mà còn có tác dụng định hướng các trang báo điện tử hoạt động
đúng với tính chất và chức năng cần có của báo chí.
4.2.1.2 Giải pháp gắn liền với tòa soạn báo điện tử
a) Nâng cao chất lượng nhân lực của báo điện tử
+ Lãnh đạo, Ban biên tập
Đội ngũ Lãnh đạo, BBT phải là lực lượng đầu tiên không ngừng được
bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị và trình độ nghiệp vụ. Một
tác phẩm báo chí có chất lượng không chỉ dựa trên sự nỗ lực, khai thác thông
tin của PV, mà còn là sự phối hợp, chỉ đạo của cả một ekip trong đó có sự
lãnh đạo, chỉ đạo điều hành hoạt động báo chí trên tinh thần tôn trọng pháp
luật, bảo vệ quyền tự do ngôn luận và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Bởi
vậy lãnh đạo, ban biên tập tòa soạn cần nhìn nhận một cách toàn diện, khách
quan về vị trí vai trò cũng như chức năng nhiệm vụ của báo điện tử nói chung
và tòa soạn báo của mình nói riêng.
Lãnh đạo, BBT cần hiểu và nắm được hoạt động NTBD VN cũng như đời
sống của NSBD để có thể chỉ đạo các PV chọn được đề tài, khía cạnh khai thác
hợp lý, vừa đáp ứng được nhu cầu của công chúng vừa mang lại những giá trị về
chuyên môn nhân văn và giải trí. Lãnh đạo tòa soạn cũng cần tổ chức các khóa
đào tạo chuyên môn và đạo đức báo chí cho đội ngũ nhân viên nhà báo trong tòa
soạn; đưa ra những biện pháp hiệu quả trong việc kiểm soát thông tin, nguồn tin,
chất lượng thông tin; đưa ra những hình thức khích lệ cũng như xử phạt nghiêm
khắc cho PV trong quá trình tác nghiệp, tránh tình trạng sản xuất ra những sản
phẩm “lá cải” “thảm họa”.
Cần có định hướng đưa tin rõ ràng
Lãnh đạo, BBT tòa soạn cần định hướng rõ sẽ đưa thông thông tin gì về
giới NSBD VN đưa ở mức độ nào để phù hợp với tiêu chí hoạt động, nguồn
163
tài nguyên, nguồn nhân lực, sự phát triển nội tại... của báo mình. Tuy nhiên, hầu
hết các tòa soạn báo hiện tử hiện nay vẫn chạy theo những sự kiện nóng, có tính
chất câu “view” hơn là xây dựng một định hướng phát triển lâu dài. Chuyên mục
Văn hóa Giải trí, Hậu trường...của 03 trang báo điện tử thuộc phạm vi khảo sát
của Luận án này cho thấy sự tạp nham “thập cẩm” chưa tạo được bản sắc riêng.
Các bài viết có chiều sâu, chất lượng, chuyên môn cao chiếm tỉ lệ thấp, trong khi
quá nhiều bài viết chạy theo thị hiếu khán giả, phản cảm câu “view”. Thêm vào
đó lãnh đạo đứng đầu của nhiều trang báo điện tử hiện nay không phải là người
có chuyên môn về báo chí, không có phông nền về văn hóa mà chỉ làm công
việc quản lý hành chính cũng gây khó khăn trong việc xây dựng định hướng hoạt
động rõ ràng cho tòa soạn trong việc thông tin về giới NSBD VN.
Lãnh đạo, BBT cần được đào tạo liên tục, cập nhật những lý luận và thực
tiễn về báo điện tử, nhận thức rõ thế mạnh và hạn chế của báo điện tử trong việc
thông tin về giới NSBD VN để có được những định hướng phát triển nội dung
tin bài rõ ràng và chính xác. Phải sản xuất được những thông tin mà công chúng
thích theo ý của nhà báo. Nhà báo phải kiểm soát được thông tin mình đưa ra
phải mang tính phát hiện, tính phản biện, tính khác biệt, chỉ ra được vấn đề cốt
lõi để định hướng công chúng. Vai trò định hướng này của nhà báo càng trở nên
quan trọng hơn trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường.
Cần kiểm chứng thông tin, tiếp nhận phản hồi của công chúng
Áp lực thương mại hóa, giành giật công chúng khiến nhiều nhà báo, PV
phải sản xuất tin bài gấp gáp, hời hợt, gây ra nhiều sai sót về thông tin. Chưa
kể tin bài trên các trang báo điện tử hiện nay dựa trên nguồn cộng tác viên
(CTV) đông đảo – phần lớn là những người trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm
làm báo đưa tin cảm tính, khả năng chịu trách nhiệm thấp. Những bài viết về
giới NSBD VN thường được đông đảo công chúng quan tâm, những sai sót
trong bài viết dễ dẫn tới khả năng phải đối diện với pháp luật cho tòa soạn,
164
đồng thời tạo ra những hệ lụy tiêu cực tới nhân phẩm, danh dự của người
nghệ sĩ cũng như nhận thức tư duy của công chúng. Bởi vậy Lãnh đạo, BBT
của tòa soạn có trách nhiệm phải kiểm chứng, xác thực thông tin trong từng
bài viết đảm bảo tính chuẩn mực, tính chính xác của báo chí.
Với mỗi bài viết, cần yêu cầu PV, CTV cung cấp những bằng chứng để
xác thực như: email file ghi âm điện thoại liên hệ nhân vật... Với những vấn
đề nóng, có tính chất tiêu cực hoặc mới chỉ ở mức tin đồn, tòa soạn cần xác
nhận tính pháp lý tính nhân văn của thông tin trước khi đăng tải, đảm bảo
thông tin tới với độc giả nhanh nhất nhưng vẫn không làm ảnh hưởng tới cá
nhân người nghệ sĩ cũng như công chúng. Ngoài ra để đảm bảo tính khách
quan lãnh đạo tòa soạn cũng cần thiết lập đường dây nóng tiếp nhận những
phản hồi trực tiếp từ độc giả, từ NSBD VN về nội dung tin bài được đăng tải,
nhanh chóng xác thực thông tin phản hồi và đưa ra biện pháp xử lý sớm nhất.
Những thông tin sai lệch nặng cần gỡ tin bài, xin lỗi độc giả và người được đưa
tin đưa ra chế tài xử lý PV đưa tin sai... đảm bảo uy tín của trang báo cũng
như danh dự, nhân phẩm của nhân vật và sự tôn trọng đối với công chúng.
Lãnh đạo BBT cũng cần thường xuyên kiểm tra phần bình luận của độc giả
để hiểu rõ nhu cầu và đánh giá của họ, từ đó có những chính sách sản xuất tin
bài hiệu quả và hợp lý hơn.
Cần thẩm định chặt chẽ quy trình sản xuất tin bài
Quy trình từ sản xuất đến đăng tải một bài báo điện tử thường qua
nhiều lớp: PV BTV trưởng ban thư kí TBT. Quy trình này đảm bảo mang
lại những bài viết tốt nhất tới độc giả đồng thời hạn chế những sai xót về
thông tin đảm bảo tính chính xác, khách quan và chân thực. Tuy nhiên hiện
nay, vì mục đích chạy đua giành giật công chúng nên tại nhiều tòa soạn, quy
trình này không được thực hiện một cách nghiêm ngặt, bỏ qua nhiều bước
hoặc chỉ làm cho có, dẫn tới những bài viết mắc lỗi trầm trọng đưa tin sai
165
mang tính chủ quan, gây ảnh hưởng tới cả đối tượng được thông tin và đối
tượng tiếp nhận thông tin. Bên cạnh đó trong cơ chế tự chủ tài chính tự hạch
toán thu chi, không ít tòa soạn phải tinh giản nhân lực không đầu tư được một
đội ngũ PV BTV đủ tâm và tầm đôi khi PV cũng kiêm luôn BTV và thư kí
tòa soạn, vừa “đá bóng vừa thổi còi” thiếu sự minh bạch, công tâm, khách
quan. Nhiều bài viết xuất bản không đúng quy trình, mắc nhiều sạn nhưng
lãnh đạo tòa soạn vẫn nhắm mắt làm ngơ miễn cưỡng dùng. Do đó lãnh đạo,
ban biên tập cần thắt chặt hơn khâu thẩm định, thực hiện đầy đủ các bước
trong quy trình sản xuất tin bài, nghiêm khắc loại bỏ những tin bài mắc phải
sai xót để đảm bảo chất lượng trong từng bài viết được đăng tải trên mặt báo.
Xử lý nghiêm những PV cố tình sai phạm
PV là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm báo chí, truyền tải thông
tin tới độc giả. Một bài viết có chất lượng hay không phần lớn phụ thuộc vào
PV. Đối với thông tin về giới NSBD VN trong điều kiện hội nhập văn hóa
ngày càng mạnh mẽ thì vai trò của PV lại càng lớn. PV phải lựa chọn để đưa
đến độc giả những hình ảnh đẹp, giới thiệu những sản phẩm chất lượng của
người nghệ sĩ. Nói cách khác họ phải trở thành “màng lọc” đầu tiên trong
nhiệm vụ truyền thông văn hóa tới CCTC. PV cũng cần định hướng thông tin,
nâng cao gu thẩm mĩ lành mạnh, trình độ nhận thức của công chúng thông qua
việc giới thiệu các chương trình NTBD các trào lưu âm nhạc mới, các nghệ sĩ
mới, các sản phẩm chương trình nghệ thuật có chất lượng...., góp phần gìn giữ
và tuyên truyền những sản phẩm văn hóa cho dân tộc. Cần xử lý nghiêm, thậm
chí loại bỏ những PV không có đủ tâm đức với nghề, cố tình đưa những thông
tin mang tính chủ quan cá nhân sai định hướng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng
tới đối tượng được đưa tin độc giả và văn hóa Việt Nam.
Với nguồn nhân lực được đào tạo lĩnh vực báo chí tại các trường Đại
học hiện nay và nguồn CTV dồi dào trong xã hội thì không khó để tuyển dụng
166
được những PV chân chính. Đây là lợi thế để các tòa soạn thi hành chính sách
cứng rắn đối với những PV không chuyên tâm với nghề, sẵn sàng “bẻ cong
ngòi bút” vì mục đích tư lợi. Tuy nhiên cũng cần quan tâm tới chữ “tình” bên
cạnh chữ “lý” khi xử phạt PV. Có thể áp dụng các biện pháp từ nhẹ tới nặng,
cho PV cơ hội sửa chữa thay đổi nhất định. Ban đầu có thể cảnh báo sau đó
là xử lý kỉ luật và sa thải nếu tiếp tục mắc lỗi hoặc mắc lỗi nghiêm trọng.
Việc xử lý nghiêm các PV có sai phạm trong sản xuất tin bài sẽ giúp
nâng cao uy tín, kỷ cương của tòa soạn, từ đó góp phần tạo ra những tin bài có
chất lượng cao phục vụ công chúng.
+ Đội ngũ PV, BTV
Công tác đào tạo đội ngũ PV, BTV:
Bàn về công tác đào tạo đội ngũ PV, BTV báo điện tử, nguyên Thứ trưởng
Đỗ Quý Doãn khẳng định: “Đào tạo người làm báo điện tử phải khác, giáo trình
khác, phương thức khác... Quy trình làm báo điện tử khác, không thể mang tư duy
quản lý báo truyền thống vào quản lý báo điện tử” PVS 02 . Đối với lĩnh vực
VHNT, cần thiết phải có những người làm báo về VHNT một cách chuyên
nghiệp được đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về lĩnh vực này.
Trường đại học, học viện đào tạo nhân lực làm báo cũng cần có những
chương trình đào tạo chuyên sâu, riêng biệt cho người làm báo điện tử. Đặc
biệt, các môn về kĩ năng nghề nghiệp, các bài học thực tế, nâng cao tính thực
hành tác nghiệp cần phải được đẩy mạnh ngay từ trên ghế nhà trường. Việc đào
tạo tốt sẽ giúp các nhà báo tương lai hiểu rõ quyền lợi cũng như trách nhiệm
của người làm báo. Điều này đặc biệt hữu dụng khi các nhà báo bước chân vào
tác nghiệp thực sự. Các tòa soạn báo sau khi tuyển dụng nhân sự cũng cần
thường xuyên mở các lớp tập huấn trao đổi nghiệp vụ, chuyên môn nhằm nâng
cao khả năng nghề nghiệp, bổ sung kiến thức cho các PV, BTV của mình. Bài
viết “Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, PV các cơ
quan báo chí” đăng trên trang http://www.xaydungdang.org.vn nhân dịp kỉ
167
niệm 90 năm Ngày báo chí cách mạng Việt Nam đã trích dẫn Chỉ thị số 22-
CT TW “Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí,
xuất bản” trong đó nhấn mạnh: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí chủ yếu là
trong nước dưới sự chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý chặt chẽ của
Nhà nước.”. Đây là một nhiệm vụ quan trọng đã được xác định từ đại hội VII
của Đảng, càng chứng minh tính đúng đắn trong bối cảnh báo chí hiện nay.
Vấn đề chuyên môn, tác nghiệp của PV, BTV
Đảng và Nhà nước đã xác định rõ mục tiêu phương hướng phát triển
văn hóa trong các quan điểm đưa ra của mình. Người làm báo phải nắm vững
được những quan điểm, mục tiêu này. Hiện nay, trong quan niệm, nhận thức
của những người làm báo về VHNT cũng đang khác nhau. Đối với nhà báo,
nhất là nhà báo viết về VHNT thì một trong những điều quan trọng là phải
hiểu rõ đối tượng mà mình đang phản ánh lĩnh vực mình đang phản ánh. Phải
tìm hiểu đặt mình trong môi trường, bối cảnh đó để khi đưa ra một tác phẩm
báo chí thì chúng ta giống như người trong cuộc. Có như vậy thông tin mới có
những tác động tích cực đối với công chúng.
PV, BTV cũng cần chú ý hơn tới vấn đề tiếp cận và xử lý nguồn tin; xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người trong giới NSBD VN, tin tưởng và
thấu hiểu họ, từ đó có những chia sẻ khách quan và nhân văn nhất; cần chú ý vào
những nội dung thông tin cốt lõi có tính văn hóa thay vì những nội dung gây sự
tò mò, kích thích công chúng; tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa đăng
tải những thông tin lá cải, thảm họa, bất chấp những hậu quả có thể xảy ra....;
cũng cần nắm rõ pháp luật để biết giới hạn những thông tin nào được đưa những
thông tin nào không được đưa; nên sử dụng nhiều kênh ngôn ngữ thể hiện để
mang lại sự hấp dẫn sinh động cho bài viết.
Ngoài ra PV BTV cũng cần đặt lên hàng đầu quá trình kiểm chứng
thông tin. Những thông tin thiếu sự chính xác, thiếu kiểm chứng có thể dẫn
168
đến những hậu quả nghiêm trọng cho cả nhà báo, nghệ sĩ và công chúng. Và
quan trọng nhất, PV viết về giới NSBD VN thì cần phải thiết lập một nền tảng
kiến thức đủ để giải mã được nền văn hóa Việt Nam.
b) Nội dung, hình thức thông tin
+ Về nội dung
Để nâng cao hơn nữa nội dung thông tin về giới NSBD VN, theo tác
giả luận án, các tòa soạn báo điện tử cần chú trọng tới một số vấn đề sau:
- Tích cực, chủ động trong việc khai thác thông tin về giới NSBD VN.
Thay vì nhận thông tin từ nghệ sĩ công ty quản lý, cóp nhặt từ MXH, nhà báo
nên chủ động tiếp cận và khai thác thông tin trực tiếp từ nghệ sĩ một cách
khách quan nhất.
- Giảm bớt hàm lượng thông tin về hậu trường đời sống, scandal, phát
ngôn gây sốc...của giới NSBD VN. Tăng cường các nội dung về hoạt động
nghệ thuật, các bài phân tích có tính chuyên môn cao. Theo khảo sát, có
419/531 công chúng mong muốn các trang báo điện tử hiện nay tăng hàm
lượng thông tin về các show diễn, sản phẩm nghệ thuật, chân dung nghệ sĩ
phân tích đánh giá các sản phẩm nghệ thuật của giới NSBD VN. Trong khi
đó chỉ có 36 531 người mong muốn có thêm thông tin về đời tư scandal
phát ngôn ngây sốc của giới này.
- Công chúng của báo điện tử thường là người trẻ do đó cần tăng
cường những bài viết mang tính giáo dục như: hoạt động thiện nguyện, hoạt
động vì môi trường, vì cộng đồng... của giới NSBD VN, từ đó xây dựng một
thái độ sống tích cực tới công chúng trẻ (những người hâm mộ và chịu ảnh
hưởng lớn từ nghệ sĩ .
- Tránh khai thác quá sâu, khai thác những thông tin nhạy cảm vi phạm
pháp luật, ảnh hưởng tiêu cực tới danh dự, nhân phẩm của người nghệ sĩ cũng
như tư duy nhận thức của công chúng.
- Cần có KPI (chỉ tiêu đánh giá cho chất lượng từng bài viết thay vì chỉ
phụ thuộc vào lượt xem lượt chia sẻ của công chúng như hiện nay
169
+ Về hình thức
Hình thức cũng có vai trò lớn trong việc chuyển tải thông tin. Để nâng
cao chất lượng tin bài về giới NSBD VN, tác giả luận án xin đề nghị một số
giải pháp:
- Tăng cường ngôn ngữ phi văn tự nhằm bổ sung, hỗ trợ thông tin cho
những thông tin văn tự. Làm phong phú hình thức thể hiện bài viết.
- Tăng cường các thể loại: phân tích, bình luận, ký... chuyên sâu để tăng
những bài viết có chiều sâu, định hướng rõ ràng, tạo ra những tác động tích
cực tới công chúng, thu hút họ bằng chất lượng bài viết thay vì những thông
tin hời hợt, giật gân.
- Phát triển những chuyên trang về giới NSBD VN với định hướng nội
dung tốt tăng cường tính tương tác giao lưu với công chúng trong từng bài viết.
- Phát triển thông tin theo hình thức gói tin tức đa phương tiện (kết hợp
nhiều loại hình: báo viết, phát thanh, truyền hình đồ họa...) – đây là một xu
hướng thông tin đang phổ biến tại các tòa soạn báo điện tử trên toàn thế giới
hiện nay nhằm đưa tới cho công chúng các hình thức tiếp nhận thông tin đa
dạng, phong phú.
c) Đạo đức người làm báo
Đạo đức báo chí và trách nhiệm xã hội của người làm báo thời đại nào
cũng được đặt lên hàng đầu, nhất là khi hiện nay uy tín của báo chí có phần giảm
sút trong mắt công chúng. Bất cứ một vấn đề gì khi được thông tin trên báo chí,
ranh giới giữa tích cực và tiêu cực, tốt và xấu chỉ cách nhau trong tích tắc. Nghệ
sĩ là người của công chúng, dễ thu hút công chúng, có sức ảnh hưởng lớn tới
công chúng và xã hội, cho nên việc đưa thông tin về giới này càng đòi hỏi người
làm báo phải nắm rất vững những nguyên tắc cũng như đạo đức báo chí. “Thông
tin về giới NSBD nhà báo luôn phải đặt ra câu hỏi chúng ta đang giải quyết cái
gì? Nghệ sĩ được gì? Công chúng được gì? Nó chỉ là thông tin thuần túy hay nó
170
còn hàm chứa nhiệm vụ giúp công chúng nâng cao nhận thức về nghệ thuật,
nâng cao trình độ thẩm mĩ? Ranh giới giữa đúng sai, tích cực, tiêu cực khi đưa
tin mong manh lắm” nguyên thứ trưởng Đỗ Quý Doãn phân tích (PVS 02).
Khi thông tin về giới NSBD VN, báo điện tử nên khuyến khích những
hình ảnh đẹp, phê bình một cách có nhân văn những việc chưa tốt để giúp nghệ
sĩ hoàn thiện hơn. Cần lưu ý rằng nhà báo đang nói đến một đối tượng dễ bị tổn
thương có sức ảnh hưởng tới xã hội nên phải cân nhắc câu chữ, liều lượng, hình
ảnh, nội dung cho phù hợp. “Có những vấn đề không sai luật, không trái quy
định nhưng lương tâm, đạo đức và linh cảm của người làm báo lại rất quan
trọng” nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn phân tích. Sự nhạy cảm, bản lĩnh nghề
nghiệp ấy có được nhờ sự rèn luyện. Người làm báo cần tắm mình trong nền
nghệ thuật biểu diễn của nước nhà, phải sống, hiểu người nghệ sĩ thay vì phán
xét họ như một người ngồi trên cao nhìn xuống. Khi nhà báo đặt mình là người
trong cuộc c ng lăn lộn, cùng chịu những niềm vui nỗi buồn của người nghệ sĩ
rồi đặt mình vào vị trí của công chúng thì sẽ đưa tin một cách nhân văn khách
quan, và hóa giải được mọi tin bài “thảm họa” như hiện nay.
Báo điện tử không nên nhìn nghệ sĩ từ đời thường của họ, bởi tất cả
những tinh hoa tốt đẹp của họ đều bộc lộ qua tác phẩm. Báo điện tử cũng
không nên chạy theo sự tò mò của công chúng mà cần đặt câu hỏi những bài
viết của mình có nâng tầm định hướng, nâng tầm thẩm mĩ nghệ thuật cho công
chúng hay không? Nhà báo phải có tâm và tầm. Khi nhà báo tâm không sáng
thì sẽ dễ chạy theo lợi ích cá nhân, hoặc lợi ích nhóm. Thiếu tầm nhà báo sẽ rơi
vào tiểu tiết, quên đi cái lâu dài, toàn bộ. Những người “tai tiếng” sẽ không
được công chúng “nhòm ngó” nếu không có sự tiếp tay của các nhà báo kém.
Công chúng cũng sẽ ít bị “ô nhiễm” nếu ít đi nhà báo kém chưa kể là “bẩn” .
Đạo đức nghề nghiệp chính là “kim chỉ nam” cho mọi hành động, bài
viết về giới NSBD VN của nhà báo. Các tòa soạn cần thiết phải mở những lớp
171
bồi dưỡng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức cho báo chí; loại trừ tư
tưởng lạm dụng những chi tiết “hot” giật gân câu khách đang hiện hữu ngày
càng nhiều trong các nhà báo hiện đại thay vào đó là hướng tới những tin bài
mang tính nhân văn góp phần thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt.
Báo chí phải có những nguyên tắc riêng khi đưa tin về giới NSBD VN.
Những nghệ sĩ có hành động phản văn hóa phản cảm thì báo chí có quyền từ
chối, không truyền bá tới công chúng. Ngược lại, những tác phẩm nghệ thuật
hay, những đóng góp tích cực cho NTBD VN lại cần được báo chí tuyên
truyền tích cực hơn. Nhà báo cần quay lại giá trị truyền thống và cốt lõi của
báo chí đó là tính định hướng tính nhân văn và sự đồng cảm, chia sẻ của
người cầm bút với cuộc sống, với con người. Trong kỉ nguyên số, khi mà ai
cũng có thể “làm báo” có thể phán xét người khác nhân danh “báo chí” thì
nên chăng các nhà quản lý cần đặt ra một bộ tiêu chuẩn đạo đức báo chí? Bởi
khi có đạo đức nghề nghiệp thì tất cả mọi vấn đề tiêu cực đang diễn ra trong
nền báo chí Việt Nam hiện nay sẽ được giải quyết.
4.2.2 Đối với giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
4.2.2.1 Đổi mới quan điểm của Đảng, sự quản lý của nhà nước trong hoạt
động nghệ thuật và truyền thông của nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
Nghị quyết Trung ương 5 nêu rõ: “Chăm lo văn hóa là chăm lo xây
dựng, củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ
và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không có sự phát triển kinh tế xã hội
bền vững”. Như vậy, ngay từ trong Nghị quyết Trung ương 5 thì văn hóa và
kinh tế có mối quan hệ mật thiết. Trong kinh tế có văn hóa và trong văn hóa
có kinh tế. Trong thời kì hiện đại, khi ảnh hưởng của kinh tế thị trường, khi sự
du nhập văn hóa ngoại lai ngày càng mạnh mẽ thì quan điểm của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước đối vơí hoạt động VHNT và hoạt động của giới NSBD
càng trở nên cần thiết hơn.
172
Cơ chế thị trường ở mặt tích cực đã khuyến khích người nghệ sĩ tìm hiểu
thị trường và thị hiếu công chúng, sử dụng truyền thông để tiếp cận công
chúng. Cùng với đó là vai trò cá nhân, ý thức sáng tạo, ý thức cạnh tranh để tồn
tại của người nghệ sĩ cũng được đề cao. Tuy nhiên, không thể phủ nhận, ở mặt
tiêu cực nó cũng khiến nhiều nghệ sĩ Việt Nam chạy theo lợi nhuận đơn thuần,
tạo điều kiện cho việc ra đời nhiều sản phẩm và lối sống phản văn hóa tìm mọi
cách để nổi tiếng, gây ảnh hưởng tiêu cực tới công chúng và xã hội. Do đó nhà
nước cần có quan điểm gợi mở những hành lang pháp lý thuận tiện cho sự phát
triển của VHNT trong thời kỳ mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường nhưng
cũng cần có những chính sách quản lý chặt chẽ, những chế tài đủ tính răn đe
cho những nghệ sĩ đi quá giới hạn, vi phạm thuần phong mỹ tục văn hóa
truyền thống của Việt Nam. Hiện nay cả cơ chế “mở đường” lẫn cơ chế quản lý
của chúng ta vẫn còn lỏng lẻo chưa có văn bản quy định rõ ràng nên dễ tạo
điều kiện để nghệ sĩ lách luật, trở thành nguồn cho những thông tin “thảm họa”
trên báo chí như thực trạng mà Luận án đã phân tích phần trên.
4.2.2.2 Cách tiếp cận báo chí và công chúng của nghệ sĩ biểu diễn
+ Cách tiếp cận với báo chí
Trả lời cho câu hỏi có những nghệ sĩ đứng trên sân khấu rất nhiều năm
mà khán giả không chán? Và cũng có những nghệ sĩ hát rất hay mà không thể
thành sao? Nhà báo Đinh Ngọc cho rằng: “Duy tâm nói muốn thành sao phải
có số. Nhưng nói về truyền thông thì sự cố gắng là điều rất quan trọng, bởi vì
bây giờ là thời đại của công nghệ truyền thông, quảng bá hình ảnh” PVS
06 . Như vậy, cách NSBD tiếp cận với báo chí có vai trò rất lớn trong việc
quyết định họ có trở thành “sao” hay không.
Nghệ sĩ cần thiết lập mối quan hệ với nhà báo, chủ động cung cấp
thông tin cho họ về những dự án nghệ thuật, những sản phẩm nghệ thuật của
mình. Trên thực tế, báo chí có tác dụng như đòn bẩy, giúp tên tuổi của nghệ sĩ
173
đến gần với công chúng. Nhưng MC Hạnh Phúc quan niệm rằng: “Từ đòn bẩy
đó nghệ sĩ phải dùng chính năng lực, tài năng của mình để khán giả biết đến
mình rồi, họ tìm hiểu sản phẩm do mình làm ra, họ thực sự cảm thấy thoải
mái, ngưỡng mộ những sản phẩm đó. Có như vậy mới xây dựng được hình
ảnh vững chắc trong lòng công chúng” PVS 09 . Bản thân người nghệ sĩ cần
phải nâng cao chất lượng các sản phẩm nghệ thuật để phục vụ tốt cho công
chúng, trở thành những lý do chính đáng để nhà báo đăng tải tin bài về họ.
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhấn mạnh: “Nghệ sĩ mà không biết giữ gìn
hoặc coi nhẹ hình ảnh thì sẽ chẳng thể đi được đường dài trên con đường
nghệ thuật” PVS 08 .
Nghệ sĩ cũng cần định hình cho mình một hình ảnh riêng biệt trên
truyền thông để công chúng nhớ tới và không nhầm lẫn. Khi tiếp cận và
quảng bá hình ảnh của mình trên báo chí, nghệ sĩ cần xác định xem phong
cách của mình là gì mình đang hoạt động trên lĩnh vực nào thông điệp mình
muốn chuyển tải tới công chúng ra sao?.... Từ đó tất cả những chương trình
mà nghệ sĩ tham gia những sự kiện hay quảng cáo mà nghệ sĩ xuất hiện đều
phải thống nhất trong một tổng thể chung về mặt hình ảnh. Nói cách khác,
nghệ sĩ cần có một định hướng truyền thông rõ ràng. Ngay cả trên mạng xã
hội thì người nghệ sĩ cũng cần giữ gìn hình ảnh của mình bởi những phát
ngôn hay những hình ảnh đăng tải trên Facebook, Twitter đều có thể được báo
chí sử dụng và đăng tải lại như một nguồn tin, và nếu không cẩn thận có thể
làm xấu hình ảnh của nghệ sĩ trong mắt công chúng.
Chuyên gia truyền thông Marketing Nguyễn Quang Dũng cho rằng
NSBD cần có sự nhất quán trong xây dựng hình ảnh. Nếu là truyền thông cho
thương hiệu họ đại diện thì cần ý thức họ đang đại diện cho thương hiệu nào,
cần nhấn mạnh yếu tố nào? Nó có tổn hại tới hình ảnh chuyên môn không? Nếu
là xây dựng hình ảnh chuyên môn cá nhân thì cần xác định mình hướng tới đối
174
tượng công chúng nào? Hình ảnh riêng biệt mình muốn xây dựng ra sao?
Những lần mình xuất hiện trên báo chí có đóng góp như thế nào cho các
thương hiệu mà mình đại diện? Từ phong cách ăn mặc, phát ngôn, cử chỉ...của
người nghệ sĩ đều phải được định hướng rõ ràng, trở thành một nội dung, một
thông điệp nhất quán, tạo dấu ấn riêng cho người nghệ sĩ.
Đối với việc đăng tải tin bài sai, gây ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của
bản thân người nghệ sĩ cần liên hệ với báo chí trao đổi rõ nội dung thông tin
chính xác đề nghị nhà báo đính chính gỡ bỏ tin bài, thậm chí xin lỗi công
khai. Trong trường hợp nghệ sĩ bị báo chí “khui” ra những sự việc không hay
cần hết sức bình tĩnh chủ động cung cấp những thông tin chính thống cho báo
chí để giải quyết vụ việc, tránh những cách ứng xử không có văn hóa.
+ Cách tiếp cận với công chúng thông qua truyền thông
Nhà văn Pháp Alain Robbe Grillet - chủ soái của "Tiểu thuyết mới" -
từng phát biểu: "Nhà văn sẽ là kẻ suy đồi khi mà trong lúc sáng tác anh ta còn
nghĩ đến công chúng". Nghệ sĩ cần dùng những đỉnh cao nghệ thuật của sáng
tạo để chiếm lĩnh công chúng thông qua những tác phẩm của mình phải đào
tạo được công chúng thay vì chạy theo thị hiếu của họ; phải nâng cấp “thị
hiếu” của công chúng thay vì bất chấp phục vụ “thị hiếu” ấy.
Vội vàng làm nóng tên tuổi, gây sự chú ý của công chúng bằng những
chiêu trò sẽ chỉ là sự nổi tiếng nhất thời, không làm nên giá trị cho người nghệ
sĩ. Để khán giả nhớ mặt, biết tên bằng tài năng là một quá trình lâu năm cần
sự rèn rũa và nỗ lực không ngừng nghỉ từ người nghệ sĩ.
Bàn về cách tiếp cận công chúng của NSBD VN hiện nay nhà văn
Phong Điệp khẳng định: “Những nghệ sĩ tồn tại được lâu dài trong lòng công
chúng là những nghệ sĩ sạch, xuất hiện đàng hoàng trên báo chí với những dự
án nghệ thuật, những chia sẻ vể nghề nghiệp, những lao động thực sự cống
hiến cho nghệ thuật của họ. Chứ còn những nghệ sĩ mà chụp ảnh nude để
khoe thân thì tôi thấy kiểm nghiệm trong thực tế chỉ trong một thời gian rất
175
ngắn thôi họ bị công chúng quên, mà nếu nhớ thì cũng nhớ với hình ảnh rất
xấu, là một vết đen trong đánh giá của công chúng về nghệ sĩ ấy” PVS 03
4.2.3 Đối với công chúng
4.2.3.1 Nâng cao thị hiếu thông tin của công chúng
Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng thông tin về giới
NSBD trên báo điện tử hiện nay trở thành “thảm họa” xuất phát từ thị hiếu
của công chúng khi các nhà báo đua nhau chạy theo thị hiếu của đám đông
mà bất chấp hậu quả. Bởi vậy, muốn giải quyết được vấn đề “thảm họa”
thông tin cần nâng cao thị hiếu thông tin của công chúng.
Thông tin là một sản phẩm hàng hóa d là hàng hóa đặc biệt), vì thế,
các nội dung về hậu trường, scandal, phát ngôn gây sốc...của NSBD vẫn có
sức hút chứng tỏ vẫn tồn tại nhu cầu thực tế về các nội dung này ở công
chúng. Trong bài viết Văn hóa ứng xử và quan hệ nghệ sĩ – công chúng, PGS.
TS Trịnh Hòa Bình cho rằng: “Nói giáo dục được chuyện này thì có lẽ hơi
nực cười, nhưng vẫn cần trang bị kiến thức phổ quát trên diện rộng, kể cả xu
hướng thẩm định của một bộ phận đáng kể quần chúng. Bởi nếu cứ để những
yếu tố “cầu - cung” dễ dãi như thế này lan rộng thì sẽ ngày càng bộc lộ rõ sự
đi xuống của xã hội ở trong lĩnh vực văn hóa”.
Công chúng ngày nay có rất nhiều kênh để tiếp nhận thông tin, họ hoàn
toàn có quyền chủ động lựa chọn thông tin để tiếp nhận. Trong thế giới phẳng
và ngày càng mở như hiện tại, việc quản lý thông tin là việc cần nhưng rất
khó khăn. Do đó nhà báo Phạm Thu Hà đưa ra quan điểm: “Công chúng phải
thừa nhận thực tế này và tự lựa chọn các kênh cung cấp thông tin cho mình,
vì bên cạnh các kênh cung cấp thông tin nhằm câu view bất chấp mọi giá trị,
vẫn có nhiều kênh thông tin hữu ích và có sự lựa chọn kỹ càng” PVS 04 .
Những thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử hiện nay phần lớn đang
đáp ứng cho nhu cầu giải trí và sự tò mò. Tuy nhiên, bạn đọc cần có sự lựa
chọn thông minh để tiếp nhận, vì nếu không phải là bạn đọc thông minh độc
176
giả có thể dễ dàng “mắc mưu” các chiến dịch truyền thông của nghệ sĩ các
công ty giải trí, thậm chí là các trang báo điện tử.
Bàn về nhận thức và khả năng tiếp nhận thông tin của công chúng, nhà
văn B i Việt Thắng cũng đưa ra giải pháp: “Không thể có một công chúng cứ
tự nhiên nhi nhiên. Xã hội văn minh, dân trí cao, căn cốt văn hóa bền vững
(như các nước phát triển) thì công chúng cũng luôn được giáo dục đến nơi
đến chốn” PVS 08 .
4.2.3.2 Nâng cao văn hóa ứng xử của công chúng
Công chúng của báo chí luôn có khả năng tự lựa chọn và trong chừng
mực nào đó vượt thoát khỏi cái bẫy thông tin của truyền thông. Ở họ có sự
tiếp nhận chủ động và độc lập, mà ở đây được hiểu là năng lực xã hội của con
người để đưa ra những nhận định riêng biệt. Những ý kiến phản hồi của công
chúng là một trong những tiêu chí để cả NSBD và truyền thông dựa vào, từ đó
có những điều chỉnh cần thiết và hợp lý.
Chính bởi vai trò to lớn này của công chúng mà văn hóa ứng xử trước
mỗi thông tin họ tiếp nhận cần phải được kiểm soát và nâng cao. Nguyên thứ
trưởng Đỗ Quý Doãn nhấn mạnh: “Tôi nghĩ công chúng cũng phải tỉnh táo,
nâng cao trình độ, phải độ lượng để góp phần tạo ra môi trường văn hóa lành
mạnh, đừng chỉ vì một vấn đề nhỏ mà lên đồng, làm to nó lên. Phải tỏ ra mình
là một người có văn hóa hưởng thụ văn hóa, tiếp nhận văn hóa.” PVS 02 .
Trong văn hóa truyền thống Việt Nam luôn duy trì một “cơ chế tin
đồn”. Những bình luận, chia sẻ link... chính là một cách “hiện đại hóa” cơ chế
này. Rất khó để quản lý tin đồn nhưng nên chăng các cơ quan quản lý nhà
nước nên đề ra các quy tắc ứng xử bảo vệ danh dự và nhân phẩm của cá nhân
trên truyền thông và cũng nên chăng các tòa soạn báo cần thiết lập bộ lọc
“bình luận” một cách chặt chẽ tránh để những bình luận xúc phạm người
nghệ sĩ được xuất hiện sau mỗi bài viết?
177
Tiểu kết chƣơng 4:
Có thể khẳng định, thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã và
đang đạt được một số hiệu quả nhất định trong việc đáp ứng nhu cầu văn hóa
giải trí của công chúng, truyền thông văn hóa Việt tới công chúng Việt Nam và
công chúng quốc tế. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế tồn tại vừa do yếu tố
chủ quan, vừa do yếu tố khách quan mang lại. Có nhiều nhân tố tác động tới
chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử như: nhiều tòa soạn,
PV, BTV do chạy đua với thời gian, giành giật công chúng mà đưa tin vội vã,
thiếu chính xác; giới NSBD VN chủ động bắt tay với tòa soạn báo để cung cấp
những thông tin gây sốc; sự chi phối của doanh nghiệp; nhu cầu của công
chúng đối với những nội dung thông tin này vẫn còn cao; trong khi đó chưa có
một cơ chế, chính sách quản lý chặt chẽ trong việc thông tin về giới NSBD VN
trên các trang báo điện tử. Chính bởi vậy báo điện tử đang trở thành một nơi
chứa đựng “rác” của giới NSBD VN, và những thông tin “rác” này có xu
hướng ngày càng lấn át những thông tin hữu ích khác.
Từ thực tế nghiên cứu, tác giả luận án đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử gắn liền với
báo điện tử, giới NSBD VN và công chúng: 1 Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước đối với hoạt động của báo điện tử nói chung, hoạt động thông tin
về giới NSBD VN nói riêng; 2 Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
nhà báo và nghệ sĩ; 3 Nâng cao trình độ nhận thức, tiếp nhận thông tin của
công chúng; 4) Giáo dục nhận thức, ý thức trách nhiệm của cả nhà báo, nghệ
sĩ lẫn công chúng; 5) Nội dung và hình thức các bài viết thông tin về giới
NSBD VN;.... Từ lý luận và thực tiễn thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử, tác giả luận án cho rằng, các giải pháp này phù hợp với điều kiện ở
nước ta và hoàn toàn khả thi.
178
KẾT LUẬN
1. Từ kết quả nghiên cứu trong luận án có thể rút ra kết luận: Thông tin về
giới NSBD VN là một quá trình truyền thông nhằm thực hiện nhiệm vụ truyền
thông Văn hóa Việt Nam của báo chí Việt Nam trong lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn. Với tư cách là một phương tiện truyền thông, một sản phẩm văn hóa báo
chí Việt Nam có nhiệm vụ truyền thông VHNT Việt Nam. Trong đó báo điện tử
- loại hình báo chí hiện đại là một trong những phương tiện có khả năng thực
hiện nhiệm vụ này một cách hiệu quả nhất. Và thực tế chứng minh, loại hình báo
chí này đang thực hiện việc thông tin về giới NSBD VN nói riêng và thông tin
về VHNT Việt Nam nói chung có chất lượng và hiệu quả nhất định.
2. Kết quả khảo sát thông tin về giới NSBD VN trên 3 tờ báo điện tử
VNN, Ngoisao, Zingnews cho thấy một số dấu hiệu tích cực: Báo điện tử đã
phát huy ưu điểm của loại hình báo chí đa phương tiện, tận dụng lợi thế của
nền tảng internet để thực hiện hoạt động truyền thông VHNT Việt Nam nói
chung và thông tin về giới NSBD VN nói riêng một cách kịp thời. Nội dung,
hình thức thể hiện thông tin phong phú và đa dạng. Thông qua quá trình
truyền thông này báo điện tử đã thu hút được một lượng công chúng đông
đảo tham gia đọc và tìm hiểu thông tin về giới NSBD cũng như các hoạt động
VHNT của Việt Nam. Báo điện tử cũng là diễn đàn để công chúng truy cập
trao đổi, thể hiện thái độ quan điểm trước sự thay đổi của VHNT Việt Nam
trước sự du nhập của các làn sóng văn hóa ngoại lai.
3. Phân tích các quá trình thông tin về giới NSBD trong phạm vi khảo
sát cho thấy: công chúng có nhu cầu lớn về thông tin văn hóa giải trí đặc biệt
là thông tin về giới NSBD. Trong khi đó báo điện tử ngày càng tham gia vào
hoạt động truyền thông VHNT Việt Nam nói chung và thông tin về giới
NSBD VN nói riêng. Các tác phẩm báo chí ngày càng nhiều về ngôn ngữ loại
hình và được thể hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Báo điện tử ngày càng
179
thể hiện rõ vai trò và khẳng định được tầm quan trọng của mình trong việc kết
nối NSBD VN với công chúng, làm cầu nối truyền đi những thông điệp và giá
trị VHNT cả truyền thống lẫn hiện đại. Trên thực tế báo điện tử là lựa chọn
số 1 của giới NSBD VN khi muốn tiếp cận công chúng của mình. Công chúng
cũng đánh giá cao về khả năng truyền tải thông tin hấp dẫn, nhanh nhạy, kịp
thời về giới NSBD VN của báo điện tử. Khảo sát cho thấy một bộ phận lớn
công chúng tiếp nhận thông tin về NSBD VN thông qua báo điện tử, lựa chọn
báo điện tử là phương tiện truyền thông hữu hiệu nhất thỏa mãn cho nhu cầu
thông tin văn hóa giải trí của mình.
4. Khảo sát cũng cho thấy, quá trình truyền thông về giới NSBD trên
báo điện tử thể hiện có nhiều ưu thế về loại hình báo chí. Trong đó khả năng
truyền thông online, ứng dụng công nghệ web 2.0 với khả năng tương tác tức
thì gói thông tin đa phương tiện, liên kết đa chiều, thông tin cập nhật phi định
kì…trên môi trường internet được phát huy một cách tích cực. Thông qua báo
điện tử, công chúng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc tìm hiểu về
giới NSBD VN, về những hoạt động nghệ thuật cũng như những câu chuyện
bên ngoài ánh đèn sân khấu của họ xóa nhòa đi khoảng cách phi thực giữa
nghệ sĩ và công chúng mà trước khi có báo chí đặc biệt là báo điện tử) không
thể làm được. Báo điện tử cũng chính là nhân tố quan trọng trong việc tiếp
nhận và cập nhật những làn sóng văn hóa ngoại lai, những loại hình nghệ thuật
biểu diễn mới, là cầu nối để VHNT Việt Nam hội nhập với VHNT thế giới,
hình thành và phát triển nền công nghiệp giải trí thúc đẩy sự thương mại hóa,
phát triển thương hiệu cá nhân cho NSBD VN. Các kết luận 1, 2, 3 và 4 chứng
minh giả thuyết nghiên cứu thứ 1: “Thông tin về giới NSBD VN trên báo điện
tử ngày càng nhiều và là nguồn thông tin được công chúng quan tâm trong đời
sống xã hội Việt Nam hiện đại; Đặc trưng loại hình báo điện tử đã tự tạo lập
ưu thế vượt trội trong việc thông tin về giới NSBD VN” được xác nhận.
180
5. Mặc dù thông tin về giới NSBD VN đã có được những thành quả
bước đầu trên báo điện tử, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Việt Nam
có những đặc trưng văn hóa riêng biệt mà khi những làn sóng văn hóa ngoại
lai du nhập có thể dẫn đến những xung đột, những lỗi văn hóa những bi kịch
của sự phát triển nghệ thuật, nhất là nghệ thuật biểu diễn. Căn tính nông dân
chính là một rào cản lớn trong việc tiếp nhận những tinh hoa và loại bỏ những
tạp phế trong quá trình giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây. Bên cạnh
đó, khi hệ giá trị văn hóa truyền thống không còn phù hợp với xã hội hiện đại
thì cả báo điện tử NSBD VN và công chúng đều chưa xác định được những
chân giá trị mới để dựa vào làm kim chỉ nam cho cách sống, cách ứng xử, làm
việc… Các yếu tố này đều theo đuổi những xu hướng, phong cách sống mới
mà có thể mâu thuẫn với những chuẩn mực cũ dẫn đến những xung đột, bi
kịch. Trong khi đó các cơ quan chức năng lại chưa có những hệ thống chế tài
cụ thể đủ tính răn đe cho hoạt động báo chí nói chung và cho hoạt động thông
tin về giới NSBD trên báo điện tử nói riêng. Chính lý do này khiến thông tin
về giới NSBD VN trên báo điện tử thời gian qua xuất hiện rất nhiều những
“thảm họa” những “rác” văn hóa các tòa soạn chỉ chăm chăm vào việc chạy
theo thị hiếu bạn đọc, giật gân câu khách mà xem nhẹ đi nhiệm vụ định hướng
tư tưởng, truyền thông văn hóa và tìm chân giá trị mới cho văn hóa Việt của
mình. Chất lượng thông tin chủ yếu trông chờ vào ý thức tự giác, trách nhiệm
xã hội của báo điện tử, của giới NSBD VN và cộng đồng bạn đọc chứ không
có một tiêu chí hay hành lang pháp lí quy định rõ ràng. Điều này cho phép kết
luận rằng, giả thuyết nghiên cứu thứ 2: “Thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử đã phần nào thực hiện được nhiệm vụ truyền thông văn hóa, tuy nhiên
quá trình thông tin nảy sinh những phi giá trị gây ảnh hưởng tiêu cực cho văn
hóa Việt” là chính xác.
181
6. Kết quả khảo sát cho thấy: 1) Do áp lực của nền kinh tế thị trường,
các tòa soạn báo phải đối diện với việc tự chủ tài chính nên phải thương mại
hóa, phải tìm mọi cách để có được nguồn thu từ quảng cáo và PR. Chính bởi
áp lực này mà nhiều tòa soạn báo, nhiều nhà báo bất chấp tất cả, bỏ qua cả
đạo đức của người làm báo, bẻ cong ngòi bút để chạy theo khai thác và sản
xuất những tin tức “lá cải” những chuyện hậu trường đời tư, phát ngôn gây
sốc của NSBD VN để thu hút độc giả. Báo chí sẵn sàng móc nối với NSBD
VN, chịu sự chi phối của NSBD VN và doanh nghiệp, chấp nhận việc đánh
mất vai trò định hướng thông tin của mình để đổi lấy doanh thu. 2) Bởi áp lực
của nền công nghiệp giải trí, không ít NSBD VN thương mại hóa bản thân trở
thành “món hàng” có giá trị và giá trị sử dụng trên thị trường. Đối với những
nghệ sĩ này báo điện tử là công cụ quan trọng để đánh bóng tên tuổi và gây
dựng sự nổi tiếng với công chúng, thậm chí sẵn sàng trở thành “con mồi” để
báo chí khai thác những chuyện phản cảm trong đời sống của mình qua đó
tạo ra sự chú ý với công chúng, thu về những hợp đồng biểu diễn đại diện
nhãn hàng, hợp đồng quảng cáo… có giá trị. NSBD VN hiện đại chú mục vào
sự nổi tiếng trên báo chí hơn là tài năng nghệ thuật đích thực. Bên cạnh đó có
sự liên kết thương mại giữa Doanh nghiệp - giới NSBD VN và Báo điện tử
trong việc thông tin về giới NSBD VN, và thực chất đó là việc “quảng cáo trá
hình” mang lại lợi ích cho cả ba bên. Bởi sự liên kết thương mại này báo điện
tử đã không còn giữ được vai trò chủ đạo định hướng thông tin của mình,
thông tin về giới NSBD VN cũng không còn đảm bảo tính khách quan, chân
thực và giữ được những đặc điểm cần thiết của thông tin báo chí. 3) Công
chúng của báo điện tử phần lớn là những người có khả năng sử dụng các ứng
dụng công nghệ hiện đại, có khả năng tiếp nhận nhanh sự du nhập của những
làn sóng văn hóa ngoại lai. Mặc dù vậy năng lực nhận thức và trình độ
thưởng thức nghệ thuật của họ có nhiều giới hạn, chưa tự tạo cho mình được
182
một “màng lọc” văn hóa chắc chắn kiên định. Công chúng của báo điện tử
thường hay thay đổi, dễ bị chi phối, thậm chí dễ phát cuồng bởi những thị
hiếu của đám đông. Điều này tạo ra những ảnh hưởng lớn tới cả NSBD lẫn
báo chí. Những phân tích này đã khẳng định giả thuyết nghiên cứu thứ 3 là
chính xác khi cho rằng: “Áp lực kinh tế thị trường, hiện tượng thương mại hóa
báo chí khiến báo điện tử mất dần vai trò định hướng là một nguyên nhân
quan trọng dẫn tới những phi giá trị cho văn hóa Việt trong việc thông tin về
giới NSBD VN”.
7. Mặc dù quá trình thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử trong
thời gian qua còn nhiều hạn chế nhưng khi thực hiện hoạt động này báo điện
tử đã chủ động thực hiện nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt. Nếu không có
hoạt động thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử, có thể công chúng sẽ
mất đi những cơ hội để đọc những thông tin thỏa mãn nhu cầu giải trí của
mình để tiếp cận và hiểu được những loại hình nghệ thuật biểu diễn mới để
nắm bắt được thực trạng phát triển của VHNT Việt Nam trong hội nhập với
VHNT thế giới… Bên cạnh đó nhiều thông tin về giới NSBD VN trên báo
điện tử vẫn là nguồn thông tin tham khảo hữu ích cho công chúng đặc biệt là
cho các nhà nghiên cứu về VHNT Việt Nam.
8. Thực tế cho thấy các báo điện tử ngày càng coi trọng vai trò của
việc thông tin về giới NSBD VN xác định đây là lĩnh vực thông tin quan
trọng để góp phần gia tăng uy tín và thu hút công chúng. Không ít trang báo
hiện nay đã tập trung đầu tư hơn vào việc đổi mới quá trình sản xuất tin bài về
giới NSBD VN ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức. Các trang như
Zingnews VNN… đều nỗ lực mang tới cho công chúng nhiều hơn những bài
viết chất lượng, mang tính chuyên môn sâu, phân tích mổ xẻ vấn đề thấu đáo
đề cập tới những vấn đề nóng bỏng trong lĩnh vực VHNT… Tất nhiên, tỉ lệ
những bài viết chuyên sâu có tính định hướng như vậy vẫn chiếm tỉ lệ quá
183
nhỏ trong tổng số tin bài về giới NSBD VN nhưng nó chứng minh một điều
rằng: đang có sự dịch chuyển tích cực trong xu hướng khai thác thông tin về
giới NSBD VN trên báo điện tử.
9. Thực tế quá trình thông tin về giới NSBD VN cho thấy mục tiêu của
báo điện tử là tuyên truyền những giá trị VHNT truyền thống của Việt Nam
và giới thiệu những giá trị VHNT của thế giới. Phương thức để đạt được mục
tiêu này là nâng cao nhận thức và sự quản lý của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà
nước về nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo chí Việt; nâng cao năng
lực quản lý của lãnh đạo tòa soạn báo, tiếp tục đào tạo về chuyên môn và đạo
đức cho người làm báo, nâng cao ý thức về nhiệm vụ truyền thông văn hóa
Việt cho giới NSBD VN cũng như giáo dục ý thức trình độ thưởng thức nghệ
thuật của công chúng…
10. Từ kết quả nghiên cứu của luận án cho phép kết luận rằng: chính
những thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử đã tạo ra diễn đàn cho
công chúng bày tỏ, thể hiện thái độ quan điểm của mình đối với những hiện
tượng VHNT trong xã hội. Đây cũng chính là một thước đo quan trọng đánh
giá chất lượng thông tin về VHNT cũng như hiệu quả những hoạt động
VHNT của Việt Nam hiện nay. Các ý kiến có thể là tích cực hoặc tiêu cực,
đồng tình hoặc phản đối…nhưng đều là dữ liệu tham khảo quan trọng cho
việc soi chiếu thực trạng phát triển của VHNT Việt Nam cũng như hoạt động
truyền thông văn hóa Việt của báo chí Việt Nam.
11. Trong điều kiện nền tảng công nghệ ngày càng phát triển văn hóa
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với văn hóa thế giới, nhu cầu thông tin
và được thông tin của con người ngày càng cao hơn thì thông tin về giới
NSBD VN là nhu cầu tự thân của công chúng, đồng thời là điều kiện cho sự
phát triển của các tòa soạn báo điện tử. Với những thế mạnh của mình, báo
điện tử cần phát huy và thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ truyền thông văn hóa
184
Việt, từ đó góp phần thúc đẩy cho sự phát triển chung của văn hóa Việt Nam,
tìm ra những hệ giá trị văn hóa Việt Nam mới, phù hợp với xã hội hiện đại.
12. Tác giả luận án đã cố gắng thu thập tư liệu, khảo sát đo lường và
phân tích đánh giá thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn
văn hóa học, báo chí học và kinh tế học. Trong đó tác giả luận án đã tiếp cận
nghiên cứu theo hướng đi từ nghiên cứu, tổng hợp, khái quát hóa xây dựng lý
thuyết chung về văn hóa và góc nhìn văn hóa Việt, mối quan hệ giữa VHNT
Việt Nam và báo chí Việt Nam, nhiệm vụ truyền thông văn hóa Việt của báo
chí Việt Nam, thông tin trên báo điện tử và thông tin về giới NSBD VN trên
báo điện tử. Từ lý thuyết đó tác giả luận án đã soi rọi vào thực tiễn hoạt động
thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử Việt Nam giai đoạn 2014-2016.
Quy sự soi chiếu lý luận vào thực tiễn, luận án đã bước đầu đánh giá chất
lượng, hiệu quả của thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử từ góc nhìn
văn hóa Việt, chỉ ra các ưu điểm và hạn chế. Đồng thời, tác giả luận án cũng
đề xuất các giải pháp cụ thể và hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng thông tin
về giới NSBD VN trên báo chí nói chung và trên báo điện tử nói riêng trong
giai đoạn văn hóa Việt Nam hội nhập với nền văn hóa toàn cầu và sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ internet. Vẫn còn những tranh luận, mâu thuẫn
và chưa thống nhất trong cả lý luận lẫn thực tiễn về: khái niệm đặc trưng
bản chất, nhiệm vụ, kết quả… của thông tin về giới NSBD VN trên báo chí
nói chung và báo điện tử nói riêng. Do vậy, công trình nghiên cứu: Thông
tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử từ góc nhìn văn
hóa Việt mới đạt được những kết quả bước đầu. Vì thế đề tài này cần được
các công trình khoa học tiếp theo nghiên cứu với những góc độ phương
pháp tiếp cận, mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn nghiên
cứu…khác nhau.
185
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2017), Scandal và sự ảo tưởng về truyền thông
thương hiệu cá nhân, Tạp chí Người làm báo, số 397, tháng 3/2017
2. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2018), KOLs và sự sụp đổ “ngai vương” doanh
thu quảng cáo của báo điện tử Việt Nam, Tạp chí Việt Nam hội nhập, số
33, tháng 1/2018
3. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2018), Nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam và sự khúc
xạ đa chiều văn hóa Việt Nam, Tạp chí Việt Nam hội nhập, số 33, tháng
1/2018
4. Hoàng Ngọc Vinh Hạnh (2018), Thông tin về giới Vbiz trên truyền thông
đại chúng trong nền kinh tế thị trường, sách Báo chí truyền thông những
vấn đề trọng yếu Tập 1 NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Trang 253)
186
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lưu Văn An chủ biên) (2008), Truyền thông đại chúng trong hệ thống
tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển, Nxb Lý luận
chính trị
2. Đào Duy Anh 2006 Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. VHTT, Hà Nội.
3. Hoàng Anh (2001), Việc sử dụng chất liệu văn hóa trong tác phẩm báo
chí, “Ngôn ngữ và đời sống” số 7
4. Đào Tuấn Ảnh, Quan hệ văn hóa Nga-Xô viết dưới góc nhìn tiếp nhận
văn học Nga-Xô viết ở Việt Nam
5. Nguyễn Trọng Báu (1995), Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội
6. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế văn hóa xã hội,
Nxb Văn hóa thông tin
7. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, Nxb
Chính trị Quốc gia
8. Lê Thanh Bình, Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý Nhà nước và pháp
luật về báo chí, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội
9. Lê Thanh Bình (2013), Báo chí góp phần thúc đẩy văn hóa phát triển,
http://vanhien.vn/news/Bao-chi-gop-phan-thuc-day-van-hoa-phat-trien-
25245, cập nhật ngày 07/10/2013
10. Bộ môn Nhân học ĐH KHXH & NV TP. HCM Giáo trình Nhân học đại
cương
11. Nguyễn Đức Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người,
Nxb Chính trị Quốc gia
12. Vũ Minh Chi 2004 Nhân học văn hóa - con người với thiên nhiên, xã
hội và thế giới siêu nhiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
187
13. Trường Chinh Đặng Đức Siêu (1978), Sổ tay văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn hóa Hà Nội
14. Đoàn Văn Chúc 1997 Văn hóa học, Nxb Văn hóa thông tin
15. Nguyễn Linh Có (2015), Xử lý thông tin về đời tư của giới ca sĩ trên báo
mạng điện tử hiện nay (Khảo sát báo điện tử Vietnamnet, Vnexpress và
VTC News), Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền
16. Nguyễn Hạnh Dung B i Đức Thược (dịch từ E.Wanning) (1995), Sốc
văn hóa Mĩ, Nxb Chính trị Quốc gia
17. Thảo Duyên, Tuấn Phong (2017), Nghệ sĩ và báo chí,
http://vnca.cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Nghe-si-va-bao-
chi-446562/, 24/06/2017
18. Đức Dũng 2000 Viết báo như thế nào, Nxb Văn hóa thông tin
19. Bùi Tiến Dũng Đỗ Anh Đức, Nguyễn Sơn Minh 2003 Lý thuyết và
thực hành báo chí trực tuyến, Khoa Báo chí Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Hà Nội.
20. Quế Dũng 2013 Bàn về văn hóa chủ nghĩa tiêu dùng trong văn hóa
đương đại, Chuyên san Đại học Phúc Đán tháng 5 2013
21. Nguyễn Văn Dững, Hữu Thọ, Nguyễn Thị Thoa, Lê Thị Thanh Xuân
(2006), Tác phẩm báo chí, Tập II, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
22. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở Lý luận báo chí NXB Lao động
23. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2006), Truyền thông, lý thuyết và kĩ năng
cơ bản, Nxb Lý luận chính trị
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, NXB Sự thật, tr.155
25. Nguyễn Khánh Đàm 1942 Lịch trình tiến hóa sách báo Quốc ngữ
188
26. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 2013 Kỷ yếu “Văn hóa truyền
thông trong thời kỳ hội nhập”, NXB Thông tin và truyền thông
27. Hải Đăng (2011), Playboy hóa báo chí: nhu cầu &thảm họa,
thethaovanhoa.vn, 31/3/2011
28. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Báo chí những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Tập 3 NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội
29. Phạm Huy Đức (2009), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-
2020: những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị quốc gia
30. Lê Vũ Điệp (2007), Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật
thể của Việt Nam trên báo chí, Luận văn thạc sĩ
31. Phạm Văn Đồng (2006), Về văn hóa và văn học nghệ thuật, NXB Văn học,
Hà Nội
32. Phạm Văn Đồng, Nêu cao tác dụng của văn học nghệ thuật trong sự
nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bài viết
nghiên cứu
33. Mặc Giao (2004), Một cách nhìn khác về văn hóa Việt Nam, Nxb Tin
Vui
34. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ Nam kì 1865-1930, Nxb
TP.HCM
35. Đặng Hoàng Giang (2015), Bi kịch của sự hào nhoáng,
https://tuoitre.vn/bi-kich-cua-su-hao-nhoang-777384.htm, 15/07/2015
36. Huyền Giang (dịch) từ E.B. Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, Hà Nội
37. Nguyễn Thu Giang (2011), Về việc ủy thác tính giải trí cho truyền
thông, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 4, 2011
38. Nguyễn Thu Giang (2011), Hiện tượng người nổi tiếng và chức năng xã
hội của nó”, Tạp chí Khoa học Quý 3/2011
189
39. Nguyễn Thị Trường Giang (2014), Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ
bản, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật
40. Nguyễn Thị Trường Giang (dịch) (1983), Những nguyên tắc quốc tế về
đạo đức nghề báo, CLB tư vấn các tổ chức nhà báo quốc tế và khu vực
ban hành tại Paris tháng 11/1983
41. Bích Hà (2015), Chuyện bán – mua đời tư nghệ sĩ,
www.laodong.com.vn, 5/5/2015
42. Hoàng Thị Thu Hà (2014), Vài nét về ảnh hưởng của mạng internet tới
văn hóa đại chúng, Khóa luận
43. Vũ Quang Hào (2004), Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội
44. Vũ Quang Hào 2007 Ngôn ngữ báo chí, Nxb Thông Tấn, Hà Nội
45. Nguyễn Đức Hạnh (2015), Một số vấn đề xung quanh khái niệm văn hóa
truyền thông,http://luanvanaz.com/mot-so-van-de-xung-quanh-khai-
niem-van-hoa-truyen-thong.html, cập nhật ngày 30/6/2015
46. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Giáo trình Tâm lí học báo chí, Nxb Lao động,
Hà Nội
47. Phạm Thị Hằng (2008), Nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử,
Luận văn
48. Đức Hoàng (2009), Báo chí – Nghệ sĩ: Vì sự phát triển chung của cộng
đồng, Vnmedia, 21/6/2009
49. Ngô Thị Quỳnh Hoa (2008), Vấn đề thông tin về đời tư nghệ sĩ trên báo
mạng hiện nay, Khóa luận Báo chí học
50. Nguyễn Thị Hồng (2008), Thông tin văn hóa - giải trí trên báo trực
tuyển Vnexpress, Khóa luận Báo chí học
190
51. Phạm Thị Hồng (2010), Cách thức đưa tin đa phương tiện trên báo điện
tử Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền
52. Hội nhà văn 1998 Nửa thế kỉ báo Văn nghệ 1948 - 1998, Nxb Hội nhà
văn
53. Đức Huy (2015), Chống “rác văn hóa” trên báo chí,
http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Suy-ngam/748968/chong-rac-van-hoa-
tren-bao-chi, cập nhật ngày 13/4/2015
54. Thanh Huyền Vương Tâm 2016 Nghệ sĩ – truyền thông và công
chúng cùng giữ gìn môi trường văn hóa, Năng lượng mới số 534
55. Thanh Huyền Vương Tâm 2017 Văn hóa ứng xử và quan hệ nghệ sĩ –
công chúng, www.petrotimes.vn, 31/5/2017
56. Đặng Thị Thu Hương 2008 Economic Renovation and Changes in
Vietnamese Journalism after 1986, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Media:
Politics, Cultures and Futures in the Asia Pacific
57. Đặng Thị Thu Hương 2010 Một số vấn đề về truyền thông đại chúng
trong thời đại Internet, in trong cuốn Báo chí những vấn đề lý luận và
thực tiễn (tập 7 Nxb ĐHQG Hà Nội
58. Đặng Thị Thu Hương 2011 Một số vấn đề về truyền thông đại chúng,
văn hóa đại chúng và văn hóa truyền thông trong kỷ nguyên kĩ thuật số, In
trong kỷ yếu khoa học tại Hội thảo “Văn hóa truyền thông trong thời kỳ
hội nhập”
59. Đặng Thị Thu Hương 2016), Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội
60. Nguyễn Thị Thu Hương 2013 Truyền hình thực tế ở Việt Nam dưới
góc nhìn văn hóa Việt, Luận văn
191
61. Đỗ Quang Hưng 2000 Lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội,
Hà Nội
62. Phan Thành Hưng 2007 Thuật ngữ báo chí – truyền thông, Nxb
ĐHQG Hà Nội, Hà Nội
63. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb
Giáo dục
64. Vũ Ký 1996 Luận cương về văn hóa Việt Nam, Trung tâm văn hóa xã
hội Việt Nam
65. Nguyễn Lai, Việt Nam những yếu tố về ngôn ngữ và văn hóa
66. Hoàng Lãm – Nguyệt Lãng (2015), Nghệ sỹ và truyền thông: chuyện
nghề vẫn vậy , antgct.com.vn, 09/7/2015
67. Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, Nxb Đại học Quốc
gia TP. HCM
68. Vũ Bội Liên (1999), Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây phương
trong ngôn ngữ văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội
69. Khổng Loan (2012), Góc tối truyền thông – Sự tò mò sẽ dẫn chúng ta đi
đâu? http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20120626/su-
to-mo-se-dan-chung-ta-di-dau/498697.html, cập nhật ngày 26/6/2012
70. Phạm Việt Long Phí Văn Tường, PGS. Nguyễn Chí Bền (1999), Xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, Bộ Văn hóa thông tin
71. Trường Lưu 2006 Văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại, NXB
Văn hóa dân tộc
72. Hồ Chí Minh (1989), Về văn hóa nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội
73. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
74. Hồ Chí Minh (2004), Về báo chí, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
192
75. Nguyên Minh (2011), Playboy hóa báo chí?, Báo Thể thao&Văn hóa
31/3/2011
76. Mai Quỳnh Nam (1995), Dư luận xã hội - mấy vấn đề lý luận và
phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Xã hội học số 1/1995
77. Mai Quỳnh Nam (1996), Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp
chí Xã hội học số 1/1996
78. Mai Quỳnh Nam (2001), Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông
đại chúng, Tạp chí Xã hội học số 4/2001
79. Vũ Thị Ngọc Nga (2015), Báo mạng điện tử với việc đưa tin về người
nổi tiếng nhờ mạng xã hội: nghiên cứu trường hợp Lệ Rơi (Khảo sát báo
điện tử Zing.vn, Dân Việt và Tuổi trẻ online), Khóa luận tốt nghiệp ĐH
KHXH & NV
80. Đỗ Chí Nghĩa 2012 Vai trò của Báo chí trong định hướng dư luận xã
hội, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật
81. Lê Nghiêm (số tháng 11/2007), Báo điện tử - Thời cơ và thách thức, Tạp
chí Người làm báo
82. Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16-7-1998 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
83. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
84. Hữu Ngọc (2014), Lãng du trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thế giới
85. Phan Ngọc (1993), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội
86. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học
87. Phan Ngọc (2007), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên
193
88. Trương Thị Bích Ngọc (2010), Văn hóa ứng xử của các nhà báo trực
tuyến đối với thông tin văn hóa nghệ thuật (Khảo sát báo trực tuyến
Vnexpress, Vietnamnet và Vnmedia), Luận văn Thạc sĩ Báo chí học
89. Thanh Nguyên (2013), Nghệ sĩ – tư chất và tư cách,
www.vangnghequandoi, 16/10/2013
90. Lê Thị Nhã, (2010) Lao động nhà báo - Lý thuyết và kĩ năng cơ bản,
NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội
91. Nhiều tác giả (2006), Gia Định báo - tờ báo Việt ngữ đầu tiên, Nxb
ĐHQG TP.HCM
92. Nhóm PV (2015), Tạo công chúng cho nghệ thuật, www.nld.com.vn,
16/01/2015
93. Nhóm PV 2015 “Mổ xẻ” đạo đức và trách nhiệm của nhà báo,
http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20150614/mo-xe-dao-duc-trach-
nhiem-nha-bao/761394.html, 14/06/2015
94. Phác thảo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam
95. Anh Phương 2010 Nhà báo và người nổi tiếng, baophapluat.vn,
21/6/2010
96. Hoàng Hạ Lam Phương 2016 Mối quan hệ giữa báo chí và văn hóa,
www.hoanghalamphuong.wordpress.com, 29/1/2016
97. Nguyễn Quý Phương 2001 Thông tin văn hóa xã hội trên hai tờ báo
trực tuyến Vnexpress và Vasc Orient trong năm 2001, Khóa luận tốt
nghiệp
98. Nguyễn Quang (2008), Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa, Nxb
Khoa học xã hội
99. Trần Quang (2006), Xã hội học báo chí, NXB Trẻ, TP. HCM
100. Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam
194
101. Trần Thị Như Quỳnh (2014), Nghiên cứu thảm họa báo mạng trong việ
thông tin về văn hóa - nghệ thuật (khảo sát báo điện tử Vietnamnet,
Vnexpress và Dantri), Luận văn Thạc sĩ Khoa báo chí truyền thông ĐH
KHXH&VN
102. B i Hoài Sơn 2008 Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi
văn hóa xã hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội
103. Dương Xuân Sơn Đinh Văn Hường, Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận
báo chí truyền thông, Nxb. ĐHQGHN
104. Hà Văn Tấn, Về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam, Nxb ĐHQG
Hà Nội
105. Tạ Ngọc Tấn (1992, 1993, 1999), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
106. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị Quốc gia
107. Tạ Ngọc Tấn Đinh Thị Thúy Hằng (2009), Cẩm nang đạo đức báo chí,
Bộ Thông tin và Truyền thông Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam
108. Trần Ngọc Tăng 2001 Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo
dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia
109. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam
110. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Phê bình văn học - nghệ thuật trên báo
chí, NXB ĐHQG Hà Nội
111. Nguyễn Thị Minh Thái (2015), Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền
thông, Tạp chí lý luận chính trị và truyền thông số tháng 3, 2015
112. Lê Thị Phước Thảo (2015), Hình ảnh người nổi tiếng trên báo chí và
việc hình thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Báo
chí học
195
113. Bùi Quang Thắng (2006), Tác động của những phương tiện truyền thông
mới đối với đời sống văn hóa của cư dân đô thị ở Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ - Bộ Văn hóa Thông tin
114. Nguyễn Xuân Thắng (2011), Phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa
học Xã hội Việt Nam, Viện Khoa học và Xã hội Việt Nam số 2 năm
2011.
115. Võ Minh Thần (2013), Nghệ sĩ và báo chí: bi – hài, lợi – hại
www.eva.vn, 15/6/2013
116. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục
117. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí
Minh
118. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại
và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa – văn nghệ
119. Thế giới điện ảnh (2011), Showbiz – truyền thông quá tầm thường,
http://www.baomoi.com/Showbiz-truyen-thong-qua-tam-
thuong/c/6543714.epi, cập nhật ngày 7/1/2011
120. Thể thao văn hóa 2011 loạt bài Xin đừng playboy hóa báo
chí,http://www.thethaovanhoa.vn/buixuanphai/details/c133n2011062208
4400609/playboy-hoa-bao-chi-nguy-hiem-chinh-o-su-nhap-nhem.htm,
cập nhật ngày 21/6/2011
121. Nguyễn Thị Thoa (2007), Đề cương chi tiết học phần “Nhập môn báo
mạng điện tử”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền
122. Hữu Thọ (2000), Công việc của người viết báo, NXB ĐHQG Hà Nội,
Hà Nội
123. Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam - Nhìn từ mẫu người văn hóa
196
124. Minh Thùy (2015), tBáo chí và quyền riêng tư của “người của công
chúng” nhipcauthegioi.hu, 7/6/2015.
125. Phan Thị Thanh Tịnh (2011), Lịch sử báo chí thế giới, NXB Chính trị -
Hành chính, Hà Nội
126. Huỳnh Văn Tòng 2000 Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb
Thành phố HCM
127. Lê Ngọc Trà (2001), Văn hóa Việt Nam - đặc trưng và cách tiếp cận,
Nxb Giáo dục
128. Phạm Ngọc Trung (2010), Những vấn đề văn hóa, báo chí - truyền
thông, Nxb Lao động, Hà Nội
129. Phạm Trung (2008), Ảnh hưởng của văn hóa truyền thông đối với mỹ
cảm của giới trẻ Việt Nam hiện nay, tham luận Hội thảo “Mỹ thuật Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” ĐH Mỹ thuật
130. Nguyễn Minh Tuấn (2015), Báo chí với việc bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa dân tộc, Tạp chí Lý luận chính trị
131. Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Thị Loan Anh, Văn hóa đại chúng với văn
hóa Việt Nam hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin
132. Hồ Hữu Tường (1945), Tương lai văn hóa Việt Nam, Nxb Minh Đức Hà
Nội
133. UNESCO (2002), Tuyên bố chung về tính đa dạng của văn hóa
134. Hoàng Hải Vân (2014), Báo chí, quan chức và người nổi tiếng”, Thanh
niên online (thanhnien.vn), 12/2014
135. Hoàng Vinh (1999), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa
ở nước ta Nxb Văn hóa thông tin
136. Phạm Thái Việt & Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa Việt
Nam, Nxb Văn hóa thông tin
197
137. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hóa dân tộc
138. Trần Quốc Vượng (2003), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục
Tiếng nƣớc ngoài
139. Afanaxiep (1975), “Thông tin xã hội và định hướng xã hội”, Nxb
Matxcova
140. A.L. Kroeber & Kluckhohn (1952), A critical review of concept and
definitions, Vintage Books, A Division of Random House, New York
141. Benjamin SiuJocelyn Heng (2006), Do celebrities deserve privacy?”
www.scmp.com , 11/10/2006
142. Brenda Danet – Susan C.Herring (2007), The Multilingual Internet:
Language, Culture and Communication online, Oxford University Press
Clifford Geertz (1973), The Interpretation of Cultures, New York: Basic
Books
143. Cohen, S. and Young, J. (eds) (1973), The Manufacture of News,
London: Constable
144. Daniel Broostin (1982), The Image: A Guide to Pseudo-Events in
America, New York: Athenneum
145. Daniel J.Solove (2014), www.linkdin.com, Should Celebrities have
privacy?, 17/11/2014
146. David P.Marshall (1997), Celebrity and Power: Fame in Contemprorary
Culture
147. Deena Weinstein (1991), Heavy Metal: A Cultural Sociology, Lexington
Books.
148. Deena Weinstein (2009), Heavy Metal: The Music and Its Culture,
Perseus Books Group
198
149. Douglas Keller, Media culture
150. Don Tapscott (1999), Growing up digital: The rise of the net generation,
McGraw- Hill
151. D. Strinati (1995), An introduction to Theories of Popular Culture,
Routledge
152. E.P. Prôkhôrốp, Cơ sở lý luận báo chí
153. Erik Braday and Sterve Dimeglio (2009), How much privacy do public
figures deserve?, USA Today, 3/2009
154. F. Boas (1921), Primitive Minds
155. Ferris, K. & Harris, S., (2011), Stargazing: Celebrity, fame and social
interaction, Routledge, New York
156. F.E.X Dance (1970), The “concept” of Communication. The Journal of
Communication
157. Fiske, J (2000), Introduction to Communication Sutdies, London:
Routledge
158. Gauntlett, D (1997), Video critical: children, the Environment and
Media Power, John Libbey Media, Luton
159. Gripsrud J (2002), Understanding Media Culture, London, Oxford
University Press
160. Gunther Kress (2003), Communication and Culture, New South Wales
University Press
161. Graeme Turner (2004), Understanding Celebrity
162. Hannah Arendt, The crisis in culture
163. Heilbrun, J. & Charles M.G., (2001), The economics ò Art and culture,
Cambridge University Press
164. Jamie Berkovitz (2015), Loss of Privacy the price of fame for Celebs,
articles.sun-sentinel.com ngày 14/10/2005
199
165. J. Bryant and S.Thompson (2002), Fundamental of Media Effects, 1st ed,
New York: McGraw-Hill Higher Education
166. Jame W. Carey (2009), Communication as Culture, Routledge
167. Jean Baurdrillard (2010), Simulacra and Simulation, The University of
Michigan Press
168. Jostenim Gripsrud (2002), Understanding Media Culture, Published
house Arnold, London
169. John Hartley (2004), Communication, cultural and media studies: The
key concepts, Routledge
170. John Storey (2010), Cultural theory and popular culture, and
introduction, Pearson Education
171. J. Wilson & S.L.R Wilson (1998), Mass media, Mass Culture, McGraw-
Hill, Inc
172. Kellner, Douglas (1995), Media Culture (Culture Studies; Identity and
politics; Between the modern and the postmodern), First Published
173. K.Tuner (1984), Mass Media and Popular Culture, Chicago: Science
Research
174. MacDonald, A theory of mas culture
175. Merrian-Webster Dictionary (2014)
176. Milton Rokeach (1973), The Nature of Human values, Macmillan
Publishers London
177. M.J Herkovits (1967), Les bases de I’anthropologie culturelle
178. M. McLuhan (1964), Understanding media: The extensions of Man, 1st
ed.New York: McGraw-Hill
179. Nathan Farrrell, Celebrity Journalism: navigating the Stars
180. Paula M.Poindexter Maxwell E.Mc Combs (2001), Research in Mass
Communication: A Practical Guide, Bedfford/ St.Martin, Boston
200
181. Philip Kotler (2017), Marketing 4.0 – moving from traditional to digital
182. Published house Arnold, London (2002), Jostenim Gripsrud
Understanding Media Culture, (Hiểu biết về văn hóa truyền thông).
183. Robin Barnes (2010), Outrageous Invasions: Celebrities’s Private Lives,
Media, and the Law, Oxford University Press
184. Roy Shuker (2001), Understanding popular culture, Routledge
185. Roger D.Wimmer, Joseph R. Dominick (1994), Mass Media research:
An introduction, Wadsword Publishing Company, California
186. Sara Kiesler (1997), Culture of the Internet, Lawrence Erlbaum
Associates, Mahwah, New Jersey
187. Stam, Robert (with Ella Shohat) (1994), Unthinking Eurocentrism:
Multiculturalism and the Media, Routledge
188. Stefanie Dion Jones (2010), The Price of Fame, today.uconn.edu,
20/10/2010
189. Stuart Hall (1980), Encoding/Decoding, London: Hutchinson
190. Thomas Barfield (1997), The Dictionary of Anthropoligy, Harvard
191. Williams, Raymond (1958), Culture and Society, London, Chatto and
Windus
192. Williams, Raymond (1974), Technosphere Series, London, Collins
193. White & Leslie Alvin (1949), The Science of Culture: A study of man
and civilization (Khoa học văn hóa: nghiên cứu con người và văn minh
Farrar Straus and Giroux
201
PHỤ LỤC
Nội dung
1
Trang
3
Phụ lục 1: Các bảng số liệu thực trạng thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử
7
Phụ lục 2: Các biểu đồ thực trạng thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử
18
Phụ lục 3: Phiếu phỏng vấn Anket
22
Phụ lục 4: Phiếu phỏng vấn sâu
Phụ lục 5: Tổng hợp nội dung câu hỏi – trả lời phỏng vấn sâu
202
PHỤ LỤC 1
Các bảng số liệu thực trạng thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
----------------------------------------------
2
Nội dung Trang
2
Bảng 1: Mức độ quan tâm của công chúng đối với các nội dung thông tin về giới NSBD VN
2
Bảng 2: Định lượng tiếp nhận thông tin của độc giả
Bảng 3: Đánh giá của công chúng về tiêu đề và hình ảnh
trong thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử
1
Bảng 1: Mức độ quan tâm của công chúng đối với các nội dung thông tin
về giới NSBD VN
Đơn vị: Người
Nguồn: NCS tổng hợp
Bảng 2: Định lƣợng tiếp nhận thông tin của độc giả
Nguồn: NCS tổng hợp
Bảng 3: Đánh giá của công chúng về tiêu đề và hình ảnh
trong thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử
Đơn vị: Người
Nguồn: NCS tổng hợp
2
PHỤ LỤC 2
Các biểu đồ thực trạng thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử
Trang
---------------------------------------
Nội dung
Biểu đồ 1: Tỉ lệ nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử 2016
4
Biểu đồ 2: Thực trạng ghi nguồn và chú thích ảnh trên báo điện tử
4
Biểu đồ 3: Mức độ khai thác thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử
4
Biểu đồ 4: Nội dung thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
5
Biểu đồ 5: Tỉ lệ người đọc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
5
Biểu đồ 6: Đánh giá mức độ phù hợp của thông tin hậu trường đời sống
5
giới NSBD VN trên báo điện tử
Biểu đồ 7: Mức độ phù hợp với văn hóa Việt của thông tin về giới NSBD
6
VN trên báo điện tử
Biểu đồ 8: Đánh giá của công chúng về sự móc nối giữa NSBD VN với nhà
6
báo
3
Biểu đồ 1: Tỉ lệ nội dung thông tin đăng tải trên báo điện tử 2016
Nguồn: NCS tổng hợp
Biểu đồ 2: Thực trạng ghi nguồn và chú thích ảnh trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Biểu đồ 3: Mức độ khai thác thông tin giới NSBD VN trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
4
Biểu đồ 4: Nội dung thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Biểu đồ 5: Tỉ lệ ngƣời đọc thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Biểu đồ 6: Đánh giá mức độ phù hợp của thông tin hậu trƣờng, đời sống
giới NSBD VN trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
5
Biểu đồ 7: Mức độ phù hợp với văn hóa Việt của thông tin về giới NSBD VN
trên báo điện tử
Nguồn: NCS tổng hợp
Biểu đồ 8: Đánh giá của công chúng về sự móc nối giữa NSBD VN với nhà báo
Nguồn: NCS tổng hợp
6
PHỤ LỤC 3
Nội dung phiếu phỏng vấn Anket
------------------------------
Thƣa ông/bà!
Các trang báo mạng điện tử hiện nay đăng tải rất nhiều thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam (hay còn gọi là gới showbiz Việt), và thực tế cho thấy những thông
tin này có ảnh hưởng khá lớn tới đời sống tư duy và thẩm mĩ của đông đảo công chúng.
Để có cơ sở dữ liệu tham khảo nhằm xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả
thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, giúp luồng thông tin này tạo ra những
tác động tích cực tới công chúng và xã hội, một nghiên cứu khoa học đang được
thực hiện. Tác giả công trình nghiên cứu rất mong nhận được sự giúp đỡ của ông/bà
bằng việc bớt chút thời gian trả lời phiếu điều tra này.
Tôi cam kết thông tin ông/bà cung cấp chỉ phục vụ nghiên cứu khoa học.
Trân trọng cảm ơn ông bà!
Câu 1: Ông/bà đang sống và làm việc ở khu vực nào sau đây?
o Miền Bắc
o Miền Trung
o Miền Nam
Câu 2: Tuổi của ông/bà thuộc nhóm nào dƣới đây?
o Dưới 20
o Từ 21- 30
o Từ 31-40
o Từ 41-50
o Từ 51-60
o Từ 61-70
o Trên 70
Câu 3: Giới tính của ông/bà thuộc nhóm nào dƣới đây?
o Nam
o Nữ
7
Câu 4: Trình độ học vấn (bậc học cao nhất đã xong) của ông/bà hiện ở
mức nào?
o Tiểu học
o Trung học cơ sở
o Trung học phổ thông
o Trung cấp
o Cao đẳng
o Đại học
o Trên đại học
Câu 5: Nghề nghiệp hiện tại của ông/bà thuộc nhóm nào dƣới đây?
o Nông dân
o Công nhân
o Trí thức, làm nghiên cứu khoa học
o Hoạt động nghệ thuật
o Cán bộ, công chức, viên chức
o Doanh nhân người buôn bán
o Người về hưu
Câu 6: Ông/bà có hay đọc báo trên mạng internet không?
o Không đọc
o Ít
o Bình thường
o Nhiều
o Rất nhiều
Câu7: Ông/bà đọc báo trên mạng internet bằng phƣơng tiện nào sau đây?
o Máy tính để bàn
o Máy tính xách tay
o Điện thoại di động
o Thiết bị khác
8
Câu 8: Ông/bà có quan tâm tới những thông tin về giới nghệ sĩ Việt Nam
hay không?
o Không quan tâm
o Bình thường
o Quan tâm
Câu 9: Ông/bà hay đọc thông tin về các nghệ sĩ Việt Nam (ca sĩ, diễn viên,
ngƣời mẫu…) trên báo điện tử nào nhất trong những tờ sau đây?
o Vietnamnet.vn
o Ngoisao.net
o News.zing.vn
o Thanhnien.com.vn
o Tuoitre.com.vn
Câu 10: Trong các thông tin về các nghệ sĩ Việt Nam, ông/bà quan tâm
tới loại hình thông tin nào?
1.Thông tin giới thiệu về các chƣơng trình biểu diễn văn hóa nghệ thuật,
các sản phẩm văn hóa nghệ thuật (các đêm diễn, các bài hát, bộ phim mới…),
chân dung các nghệ sĩ…?
o Không quan tâm
o Bình thường
o Quan tâm
2.Các bài phân tích, đánh giá các chƣơng trình biểu diễn, các tác phẩm
âm nhạc, truyền hình, điện ảnh, các show diễn thời trang…?
o Không quan tâm
o Bình thường
o Quan tâm
3. Thông tin về đời tƣ, tình cảm, hôn nhân, gia đình, các mối quan hệ
phức tạp… của các nghệ sĩ nổi tiếng?
o Không quan tâm
o Bình thường
o Quan tâm
9
4. Thông tin về thời trang của các nghệ sĩ nổi tiếng?
o Không quan tâm
o Bình thường
o Quan tâm
5. Thông tin về các vụ scandal (các vụ tai tiếng: ngoại tình, mặc hở, đạo
nhạc, đạo phim, đạo thiết kế, đánh ghen…) của các nghệ sĩ nổi tiếng?
o Không quan tâm
o Bình thường
o Quan tâm
6. Thông tin về các phát ngôn táo bạo, gây sốc của các nghệ sĩ nổi tiếng
trên báo chí?
o Không quan tâm
o Bình thường
o Quan tâm
Câu 11: Xin Ông/bà đánh giá hàm lƣợng các thông tin về giới nghệ sĩ
Việt Nam trên báo điện tử hiện nay?
1. Thông tin giới thiệu về các chƣơng trình biểu diễn văn hóa nghệ
thuật, các sản phẩm văn hóa nghệ thuật, chân dung các nghệ sĩ…
o Quá ít
o Ít
o Bình thường
o Nhiều
o Quá nhiều
2. Các bài phân tích, đánh giá các chƣơng trình biểu diễn, các tác phẩm
âm nhạc, truyền hình, điện ảnh, các show diễn thời trang…
o Quá ít
o Ít
o Bình thường
o Nhiều
10
o Rất nhiều
3. Thông tin về đời tƣ, tình cảm, hôn nhân, gia đình, các mối quan hệ
phức tạp… của các nghệ sĩ
o Quá ít
o Ít
o Bình thường
o Nhiều
o Quá nhiều
4. Thông tin về thời trang của các nghệ sĩ
o Quá ít
o Ít
o Bình thường
o Nhiều
o Quá nhiều
5. Thông tin về các vụ scandal (các vụ tai tiếng: ngoại tình, mặc hở, đạo
nhạc, đạo phim, đạo thiết kế, đánh ghen…) của các nghệ sĩ
o Quá ít
o Ít
o Bình thường
o Nhiều
o Quá nhiều
6. Thông tin về các phát ngôn táo bạo, gây sốc của các nghệ sĩ
o Quá ít
o Ít
o Bình thường
o Nhiều
o Quá nhiều
Câu 12: Xin Ông/bà đánh giá mức độ phù hợp của thông tin về các nghệ
sĩ Việt Nam trên báo điện tử hiện nay?
11
1. Cách đặt tít
o Không phù hợp
o Bình thường
o Phù hợp
2. Nội dung
o Không phù hợp
o Bình thường
o Phù hợp
3. Hình ảnh
o Không phù hợp
o Bình thường
o Phù hợp
Câu 13. Quan điểm của ông/bà về việc báo chí phơi bày những câu
chuyện về đời tƣ (yêu đƣơng, ngoại tình), phát ngôn gây sốc, ăn mặc hở hang,
các vụ tai tiếng…của các nghệ sĩ?
o Không phù hợp
o Bình thường
o Phù hợp
Câu 14: Xin Ông/bà cho biết cảm nhận của mình sau khi đọc những
thông tin trên báo chí về các nhóm nghệ sĩ nổi tiếng sau:
1. Nghệ sĩ dƣơng cầm Đặng Thái Sơn
o Phản cảm
o Bình thường
o Thiện cảm
2. Nghệ sĩ Khánh Ly
o Phản cảm
o Bình thường
o Thiện cảm
3. Ca sĩ Tùng Dƣơng
12
o Phản cảm
o Bình thường
o Thiện cảm
4. Ca sĩ Thanh Lam
o Phản cảm
o Bình thường
o Thiện cảm
5. Ca sĩ, diễn viên Hồ Ngọc Hà
o Phản cảm
o Bình thường
o Thiện cảm
6. Diễn viên, ngƣời mẫu Ngọc Trinh
o Phản cảm
o Bình thường
o Thiện cảm
7. Ca sĩ Sơn Tùng MTP
o Phản cảm
o Bình thường
o Thiện cảm
Câu15: Xin ông/bà cho biết lý do đọc những thông tin về các nghệ sĩ
nổi tiếng?
1. Nghệ sĩ dƣơng cầm Đặng Thái Sơn
o Tò mò, hiếu kỳ
o Giải trí
o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật
o Nghiên cứu
o Là “fan” hâm mộ
o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó
o Vì không có thông tin nào khác để đọc
13
2. Nghệ sĩ Khánh Ly
o Tò mò, hiếu kỳ
o Giải trí
o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật
o Nghiên cứu
o Là “fan” hâm mộ
o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó
o Vì không có thông tin nào khác để đọc
3. Ca sĩ Tùng Dƣơng
o Tò mò, hiếu kỳ
o Giải trí
o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật
o Nghiên cứu
o Là “fan” hâm mộ
o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó
o Vì không có thông tin nào khác để đọc
4. Ca sĩ Thanh Lam
o Tò mò, hiếu kỳ
o Giải trí
o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật
o Nghiên cứu
o Là “fan” hâm mộ
o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó
o Vì không có thông tin nào khác để đọc
5. Ca sĩ, diễn viên Hồ Ngọc Hà
o Tò mò, hiếu kỳ
o Giải trí
o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật
o Nghiên cứu
14
o Là “fan” hâm mộ
o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó
o Vì không có thông tin nào khác để đọc
6. Diễn viên, ngƣời mẫu Ngọc Trinh
o Tò mò, hiếu kỳ
o Giải trí
o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật
o Nghiên cứu
o Là “fan” hâm mộ
o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó
o Vì không có thông tin nào khác để đọc
7. Ca sĩ Sơn Tùng
o Tò mò, hiếu kỳ
o Giải trí
o Quan tâm tới hoạt động văn hóa – nghệ thuật
o Nghiên cứu
o Là “fan” hâm mộ
o Ngưỡng mộ tài năng của nghệ sĩ đó
o Vì không có thông tin nào khác để đọc
Câu 16: Theo ông/bà, những thông tin về các nghệ sĩ nổi tiếng trên báo
chí tạo ra những ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới công chúng
1. Nghệ sĩ dƣơng cầm Đặng Thái Sơn
o Tiêu cực
o Bình thường
o Tích cực
2. Nghệ sĩ Khánh Ly
o Tiêu cực
o Bình thường
o Tích cực
15
3. Ca sĩ Tùng Dƣơng
o Tiêu cực
o Bình thường
o Tích cực
4. Ca sĩ Thanh Lam
o Tiêu cực
o Bình thường
o Tích cực
5. Ca sĩ, diễn viên Hồ Ngọc Hà
o Tiêu cực
o Bình thường
o Tích cực
6. Diễn viên, ngƣời mẫu Ngọc Trinh
o Tiêu cực
o Bình thường
o Tích cực
7. Ca sĩ Sơn Tùng MTP
o Tiêu cực
o Bình thường
o Tích cực
Câu 17: Theo ông/bà, bao nhiêu % thông tin thông tin về đời tƣ (yêu
đƣơng, ngoại tình), phát ngôn gây sốc, ăn mặc hở hang, các vụ tai tiếng…của
các nghệ sĩ nổi tiếng là do tự thân các nghệ sĩ nổi tiếng này muốn gây chú ý,
đánh bóng tên tuổi?
o Ít hơn 20%
o Từ 20 – 40 %
o Từ 40 – 60%
o Từ 60 – 80%
o Trên 80%
16
Câu 18:Theo ông/bà những thông tin về các nghệ sĩ Việt Nam trên các báo
điện tử hiện nay có phù hợp và đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin của ông/bà?
o Không đáp ứng được
o Đáp ứng được
o Đáp ứng tốt
Câu 19: Nếu góp ý để nâng cao chất lƣợng tin bài về các nghệ sĩ Việt
Nam, ông/bà mong muốn sẽ tăng hàm lƣợng thông tin lĩnh vực nào?
o Giới thiệu các show diễn, các sản phẩm nghệ thuật, chân dung nghệ sĩ
o Giới thiệu các hoạt động nghệ thuật
o Phân tích đánh giá các sản phẩm nghệ thuật
o Đời tư của họ gia đình các mối quan hệ tình yêu…
o Thời trang của họ
o Scandal (những vụ tai tiếng) của họ
o Những phát ngôn đặc biệt gây “shock” của họ
Câu 20: Ông/bà có thích đọc các ý kiến độc giả ở cuối bài báo trên mạng
internet không?
o Không thích
o Bình thường
o Thích
Câu 21: Ông/bà có hay viết ý kiến của mình vào phần ý kiến độc giả ở
cuối bài báo trên mạng internet không?
o Chưa bao giờ viết
o Thỉnh thoảng viết
o Thường xuyên viết
Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của quý báu của ông/bà!
17
PHỤ LỤC 4
Phiếu phỏng vấn sâu
-------------------------
Kính thƣa Ông/ Bà!
Các trang báo mạng điện tử hiện nay đăng tải rất nhiều thông tin về giới nghệ
sĩ biểu diễn Việt Nam (hay còn gọi là gới showbiz Việt), và thực tế cho thấy những
thông tin này có ảnh hưởng khá lớn tới đời sống tư duy và thẩm mĩ của đông đảo
công chúng.
Để có cơ sở dữ liệu tham khảo nhằm xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả
thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, giúp luồng thông tin này tạo ra những
tác động tích cực tới công chúng và xã hội tôi đang thực hiện một công trình
nghiên cứu ở cấp độ Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Báo chí. Tôi trân trọng kính
mong Ông/Bà tạo điều kiện giúp đỡ bằng việc trả lời bộ câu hỏi phỏng vấn sâu, với
nội dung các câu hỏi như sau:
1. Theo ông/bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có vai trò như
thế nào trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng?
Trả lời:…
2.Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, theo ông/bà loại hình báo chí nào có thể giúp những
thông tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?
Trả lời:…
3. Theo ông/bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên
các báo điện tử thường tập trung vào những vấn đề gì?
Trả lời:…
4. Theo ông/bà, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức
hút lớn đối với công chúng như vậy?
Trả lời:…
5. Theo ông/bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam này có
hiệu quả không? (xét ở cả ba khía cạnh nhà báo, nghệ sĩ biểu diễn và công chúng)
18
Trả lời:…
6. Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút độc
giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư các mối quan hệ tình
cảm... Theo ông/bà, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có phải là
những nội dung mang tính “lá cải” “thảm họa” vi phạm đạo đức báo chí không? Vì
sao?
Trả lời:…
7. Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
nhiều khi xuất phát từ nhu cầu chủ quan từ giới này và nhà báo cũng như công chúng chỉ
như con rối trong sự điều khiển của người nổi tiếng. Ông/bà có nhận xét gì?
Trả lời:…
8. Theo ông bà có đúng là công chúng thích và tò mò những thông tin hậu
trường, bên lề ăn mặc phát ngôn đời tư scandal... của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam hơn là những thông tin về hoạt động nghệ thuật của họ?
Trả lời:…
9. Theo ông/bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được đăng tải trên các
trang báo hiện nay có bị ảnh hưởng bởi trình độ dân trí của công chúng không?
Trả lời: …
10. Nếu chia trình độ dân trí của công chúng thành 3 cấp độ: cao, thấp, trung
bình, theo ông/bà, phần lớn công chúng quan tâm tới thông tin về giới nghệ sĩ biểu
diễn thuộc cấp độ nào?
Trả lời: …
11. Ông/bà có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các báo khác?
Trả lời:…
12. Theo ông/bà, nhà báo nên xử lý như thế nào khi tiếp nhận một thông tin
về giới nghệ sĩ biểu diễn, nhất là những thông tin dễ gây “sốc” dễ có khả năng thu
hút lượng lớn công chúng, có ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm của người nghệ sĩ?
Trả lời:…
19
13. Nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được cập nhật từ
facebook cá nhân hoặc mạng xã hội. Ông/Bà có nhận xét gì về thực trạng này?
Trả lời: …
14. Theo ông/bà, giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay có phải là một sản
phẩm của giao lưu văn hóa không? Giao lưu văn hóa có ảnh hưởng như thế nào tới
hoạt động thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên các trang báo hiện nay?
Trả lời: …
15. Theo ông/bà, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn tích cực hơn và văn hóa hơn?
Trả lời: …
16.Vai trò của các chủ thể (nhà báo, nghệ sĩ công chúng như thế nào trong
quá trình tăng cường chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam theo
quan điểm của ông/bà?
Trả lời: …
Tôi cam kết thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ nghiên cứu khoa học.
Trân trọng cảm ơn Ông Bà!
20
Phục vụ đề tài luận án: “Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện
tử từ góc nhìn văn hóa Việt”
Người thực hiện: Hoàng Ngọc Vinh Hạnh
Đối tượng hỏi:
DANH SÁCH CÁC NHÂN VẬT PHỎNG VẤN SÂU
Nhà nghiên cứu báo chí, Nhà quản lý báo chí, Nhà
báo, Nghệ sĩ biểu diễn và chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác
Thời gian:
Năm 2016
Phương pháp:
Hỏi trực tiếp, ghi âm cuộc phỏng vấn
STT
Họ và tên
Cơ quan công tác
Chức vụ
1 ThS. Nguyễn Quang Dũng Đại học Kinh tế Quốc dân
Trưởng Bộ môn
2 Đỗ Quý Doãn
Bộ Thông tin & Truyền thông Nguyên Thứ trưởng
3 Phạm Thị Phong Điệp
Báo Nhân dân
Trưởng Ban
4 Phạm Thu Hà
Tạp chí Đẹp
Tổng biên tập
5 Trần Mạnh Khang
Tự do
Diễn viên, MC
6 Đinh Ngọc
Báo Lao động
Trưởng ban
7 Hoàng Nhật Mai
Tạp chí Đẹp online
Hoa hậu biển, Nguyên
Thư kí tòa soạn
8 Bùi Việt Thắng
Hội nhà văn
Nhà văn nguyên
Đại học Khoa học Xã hội và
Phó trưởng bộ môn
Nhân văn
9 Trần Hạnh Phúc
Đài truyền hình Việt Nam
MC, BTV
21
PHỤ LỤC 5
Một số kết quả trả lời phỏng vấn sâu
--------------------------------------
Trƣờng hợp PVS 01: Thạc sĩ Nguyễn Quang Dũng – Trƣởng Bộ môn
Truyền thông Marketing – Khoa Marketi – Đại học kinh tế quốc dân; Chuyên
gia tƣ vấn quản trị thƣơng hiệu
Theo anh, có sự giống và khác nhau như thế nào giữa việc truyền thông cho
một sản phẩm, một nhãn hàng bình thường với truyền thông cho một người nổi
tiếng như nghệ sĩ biểu diễn chẳng hạn?
ThS. NQD: Truyền thông cho một sản phẩm bình thường hay một người nổi
tiếng có sự giống nhau ở mục tiêu truyền thông đó là tạo ra sự thay đổi về nhận
thức tăng cường được thái độ cảm xúc tích cực của công chúng mà đối tượng
truyền thông hướng tới, từ đó thay đổi hành vi của công chúng.
Tuy nhiên, có những sự khác biệt lớn trong truyền thông cho một sản phẩm
hàng hóa thông thường và một ngưởi nổi tiếng mà ở đây đề cập đến là giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam.
Khi truyền thông cho một sản phẩm hàng hóa dịch vụ thông thường người ta
hay nhấn mạnh tới giá trị cốt lõi khác biệt của sản phẩm dịch vụ đó có thể mang lại
cho đối tượng khách hàng, hay còn gọi là lợi ích của sản phẩm. Chính lợi ích ấy là
một trong những nội dung chính để xây dựng thông điệp truyền thông. Còn truyền
thông cho nghệ sĩ biểu diễn là truyền thông cho thương hiệu cá nhân, ở đây phải
nhìn nhận từ hai góc độ: sử dụng cá nhân nghệ sĩ đó để thực hiện việc truyền thông
thương hiệu cho một sản phẩm dịch vụ, hay là truyền thông cho chính thương hiệu
của cá nhân nghệ sĩ đó.
Nếu doanh nghiệp sử dụng nghệ sĩ nổi tiếng để thực hiện truyền thông cho
sản phẩm dịch vụ của mình thì đây là cách để họ tạo ra sức hút và sự quan tâm của công chúng. Tuy nhiên khi lựa chọn nghệ sĩ làm hình ảnh đại diện, doanh nghiệp
cũng phải xem xét ở nhiều tiêu chí để lựa chọn. Ví dụ nghệ sĩ đó có ph hợp với tính cách đặc điểm của thương hiệu không; mối liên hệ, liên quan, sự tương đồng
giữa nghệ sĩ với nhóm công chúng mà sản phẩm hướng tới... Ví dụ những sản phẩm
hướng đến nông dân doanh nghiệp thường hay mời những nghệ sĩ hài gạo cội như
22
Xuân Hinh, Quyền Linh… – những người có mối tương đồng, mối đồng cảm đối với nông dân; những sản phẩm hướng tới giới trẻ thì Sơn T ng MTP Hồ Ngọc
Hà...sẽ là đối tượng nghệ sĩ mà doanh nghiệp mong muốn được hợp tác.
Ở góc độ chính cá nhân nghệ sĩ biểu diễn muốn thực hiện truyền thông về
bản thân mình thì mục tiêu của truyền thông lại hướng tới hai nội dung chính: 1) Phục vụ lợi ích cho chuyên môn nghề nghiệp của cá nhân nghệ sĩ; 2 Nghệ sĩ tự tạo
dựng họ trở thành một thương hiệu hấp dẫn có thể đại diện cho những thương hiệu
khác. Từ góc độ thứ nhất: khi truyền thông người nghệ sĩ phải tìm được những nội
dung thông điệp thể hiện được những lợi thế của họ. Có thể lợi thế đó đến từ tính
cách, ngoại hình phong thái tài năng…của họ. Những lợi thế này lại phải phù hợp và liên quan tới hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ. Ví dụ: một ca sĩ nổi tiếng về dòng nhạc dân gian thì ca sĩ đó phải định hình hình ảnh cá tính thông điệp muốn truyền
tải tới công chúng của mình theo phong cách và âm hưởng của dòng nhạc dân gian.
Thông điệp, hình ảnh của một ca sĩ hát nhạc dân gian có thể khác biệt hoàn toàn với
thông điệp và hình ảnh của một ca sĩ hát nhạc trẻ khi họ truyền thông về mình.
Tóm lại truyền thông thương hiệu cá nhân cho người nghệ sĩ phải được khai thác,
phải trở thành một nội dung, một thông điệp định vị rõ ràng, tạo ấn tượng riêng về
nghệ sĩ ph hợp với lĩnh vực mà nghệ sĩ đó hoạt động. Từ góc độ thứ hai (xây dựng
hình ảnh của nghệ sĩ biểu diễn để phục vụ cho thương mại, có thể đại diện cho
những thương hiệu khác): việc xây dựng hình ảnh nghệ sĩ phải xuất phát từ nhu cầu
doanh nghiệp cần họ. Lĩnh vực nghề nghiệp của nghệ sĩ có đóng góp được cho sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp? Cá tính của nghệ sĩ có ph hợp với sản phẩm dịch
vụ thương hiệu mà doanh nghiệp muốn quảng bá? Bản thân doanh nghiệp khi sử
dụng bất kì một nghệ sĩ nào làm đại diện thương hiệu nào thì đều cần nghiên cứu
những góc độ đó từ nghệ sĩ biểu diễn. Chính vì thế, nghệ sĩ khi thực hiện sứ mệnh
đại diện truyền thông thương hiệu cho một sản phẩm dịch vụ thì họ phải ý thức được mình đang đại diện cho thương hiệu nào, mình cần nhấn mạnh yếu tố nào? Những yếu tố hình ảnh này có tổn hại tới hình ảnh chuyên môn cá nhân nghệ sĩ
không? Và ngược lại, chuyên môn của nghệ sĩ có đóng góp như thế nào đến việc nghệ sĩ tham gia xây dựng hình ảnh cho các thương hiệu mà họ đại diện? Tóm lại, không có sự khác biệt quá lớn giữa việc nghệ sĩ xây dựng hình ảnh thương hiệu cá nhân và xây dựng hình ảnh khi làm đại diện cho thương hiệu một sản phẩm dịch vụ
nào đó. Tức là yếu tố họ định vị nghệ sĩ đó là ai nghệ sĩ đó như thế nào, nghệ sĩ đó
23
có khác biệt gì có điểm mạnh gì, gắn bó gì... phải có mối tương quan chặt chẽ tới chuyên môn của nghệ sĩ đó với hình ảnh thương hiệu mà họ đại diện. Cho nên rất
nhiều nghệ sĩ biểu diễn nổi tiếng có thể từ chối không làm đại diện cho những thương
hiệu họ thấy nó làm tổn hại, không nâng cao hình ảnh của họ. Ngược lại có nhiều
thương hiệu không sử dụng những nghệ sĩ rất nổi tiếng mà chỉ sử dụng những nghệ sĩ vừa tầm, miễn là họ tìm được ở nghệ sĩ đó mối liên hệ tương đồng.
Nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có những “scandal” hoặc tình huống trên
truyền thông không tốt, hay nói rõ ra là tiêu cực. Theo anh, đó có phải là một cách
làm PR như nhiều người vẫn nhận xét về những tình huống này?
ThS. NQD: Việc một nghệ sĩ biểu diễn thực hiện những “scandal” những tình huống trái chiều để tạo ra sức hút, sự chú ý của công chúng tới bản thân họ, thương hiệu của họ, sản phẩm của họ… tôi nghĩ nó phụ thuộc vào mấy vấn đề: phụ
thuộc vào nhận thức của nhóm công chúng mà nghệ sĩ hướng tới; phụ thuộc vào
nhận thức của chính người nghệ sĩ về vấn đề bền vững của hình ảnh, về các hoạt
động cạnh tranh trên thị trường và những yếu tố khác.
Nhưng nếu xét về bản chất thì PR không đồng nghĩa với scandal. PR là tạo
dựng hình ảnh bền vững, thông qua những hoạt động mang tính tích cực để tạo ra
những hình ảnh đẹp, những giá trị khác biệt trong nhận thức của công chúng được
công chúng đánh giá cao. Từ cái đẹp, cái giá trị đó công chúng tôn trọng và tự bị
thu hút. PR hoàn toàn không phải là tạo ra những ấn tượng và sự hiếu kì nhưng
không bền vững từ công chúng. Scandal chỉ là scandal mà thôi, và thực tế nghệ sĩ
biểu diễn tạo dựng scandal để thu hút sự chú ý của công chúng xảy ra rất nhiều ở thị
trường Việt Nam. Có những nghệ sĩ lâu ngày không được công chúng chú ý thì tạo
ra những chuyện gây sốc trong đời tư phát ngôn hành vi ứng xử… để tạo ra sức
hút nhất thời. Tuy nhiên, họ sẽ phải trả giá bởi những scandal, những chuyện gây sốc đó sẽ tạo thành những hình ảnh xấu xí trong nhận thức của công chúng về họ. Điều này có thể gây ra những tổn hại cho nghệ sĩ về sau này khi mà họ muốn thay
đổi và hướng sang xây dựng hình ảnh tích cực.
Thực tế, ở những thị trường hiện đại văn mình khi mà công nghệ hay kinh tế đều đi trước chúng ta một bước thì những scandal, tình huống gây sốc là những điều mà người nổi tiếng cố gắng tránh xa. Họ ý thức rất rõ việc xây dựng hình ảnh của bản thân mình, họ thường chọn những cách tiếp cận công chúng tích cực thay vì
24
những sự kiện mang tính thời điểm, tiêu cực. Những hiển hiện thết sức rõ ràng trong nguyên tắc của những thị trường văn minh khi tạo dựng người nổi tiếng, hay thuê
người nổi tiếng làm đại diện cho thương hiệu là những hợp đồng ghi cực kỳ rõ
những điều khoản về mặt xây dựng và bảo vệ hình ảnh. Những hình ảnh xấu của
người nghệ sĩ mà gây ảnh hưởng tiêu cực tới hình ảnh thương hiệu sẽ bị phạt rất lớn, thậm chí là cắt hợp đồng. Cho nên suy nghĩ coi tạo dựng scandal như những
chiến lược PR để xây dựng hình ảnh cá nhân chỉ xảy ra ở những nơi mà nhận thức
của công chúng về PR chưa rõ ràng. Bản thân những ngôi sao đó cũng chưa nhận
thức được việc xây dựng hình ảnh cá nhân là như thế nào? Trong bối cảnh hiện nay
thì đáng buồn, Việt Nam vẫn là một trong những cái nôi để tạo ra scandal.
Theo anh, nghệ sĩ biểu diễn có được coi là một sản phẩm hàng hóa không?
Nếu là sản phẩm hàng hóa thì nó thể hiện ở những đặc trưng nào?
ThS. NQD: Nếu nhìn từ góc độ thị trường thì nghệ sĩ có thể coi là một sản
phẩm hàng hóa. Sản phẩm là tất cả những gì có thể đáp ứng được nhu cầu, mong
muốn của khách hàng, có thể chào bán được trên thị trường thu hút được sự mua
sắm sử dụng của khách hàng. Thế thì những nghệ sĩ mà họ có khả năng tạo ra được
thu hút trên thị trường, các doanh nghiệp thấy được sự thu hút đó như là một yếu tố
giúp họ thu hút được sự quan tâm của khách hàng thì nghệ sĩ đấy được coi là một
sản phẩm dịch vụ. Họ bán sức hút và sự ảnh hưởng của mình. Trên thực tế, ở Việt
Nam đang thực hiện điều này, pháp luật không cấm. Ví dụ như Sơn T ng đại diện
cho OPPO, Hồ Ngọc Hà đại diện cho Sunsilk Tosiba…. Nếu máy móc cho rằng
sản phẩm dịch vụ phải ở dạng hữu hình thì sẽ không đúng ở trường hợp này. Và
phải quan niệm sản phẩm là tất cả những gì đáp được nhu cầu mong muốn của khách
hàng. Khách hàng ở đây có thể là tổ chức, doanh nghiệp, những thương hiệu cần
đóng góp của nghệ sĩ cần hình ảnh, sự thu hút của nghệ sĩ. Khách hàng thứ hai là khách hàng cuối cùng (khách hàng của chính những doanh nghiệp đó họ yêu thích và bị hấp dẫn, bị ảnh hưởng bởi hình ảnh của những ngôi sao. Những hình ảnh, ảnh
hưởng của nghệ sĩ là những sản phẩm dịch vụ tham gia vào việc tạo ra giá trị cho sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này là hết sức tự nhiên ở nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường mặc d được công bố nhưng nó vẫn còn bất cập, vẫn còn thiếu sự minh bạch theo tiêu chí của những nước phát triển. Điều này xuất phát từ đặc trưng văn hóa tổng hợp, lối tư duy trọng tình của người Việt Nam dẫn tới một nền kinh tế thị trường nặng căn tính nông thôn như
25
vậy. Ví dụ như đã gọi là nền kinh tế thị trường tức là nền kinh tế cạnh tranh, nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết thôi nhưng trên thực tế thì ở Việt Nam có rất nhiều
lĩnh vực bản thân nhà nước vẫn có thể can thiệp, tính minh bạch chưa rõ ràng. Điều
này tạo ra sự ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực trong đó có văn hóa nghệ thuật.
Đã là sản phẩm dịch vụ thì phải có giá trị. Vậy anh có thể giải thích giá trị
của nghệ sĩ biểu diễn là gì?
ThS. NQD: Trước hết phải xem xét giá trị đối với chính nghệ sĩ tức là họ có
thể bán được, họ có thể trao đổi được điều này trở thành một yếu tố đáp ứng nhu
cầu của những nhóm khách hàng cần đến nghệ sĩ. Giá trị đó mang lại cho nghệ sĩ
danh tiếng và sự nổi tiếng, quan trọng hơn là mang tới cho họ thu nhập. Giá trị đối với doanh nghiệp đối tượng cần sự ảnh hưởng của nghệ sĩ là nghệ sĩ đóng góp không phải những giá trị hữu hình mà là yếu tố vô hình, tham gia vào xây dựng
hình ảnh cho sản phẩm thương hiệu của doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp khi
sử dụng giá trị vô hình ấy, mua giá trị vô hình ấy của người nổi tiếng thì cuối cùng
cũng nhằm mục đích là đáp ứng nhu cầu cho khách hàng cuối cùng. Phải nhớ rằng
trong kinh doanh hiện đại, khách hàng cuối cùng mua không chỉ sản phẩm vật chất
mà họ mua cả những lợi ích tinh thần. Ví dụ người ta mua điện thoại OPPO không
chỉ bởi tính năng sử dụng của chiếc điện thoại, mà còn vì hình ảnh năng động, trẻ
trung, hoạt bát của Sơn T ng Tóc Tiên – những nghệ sĩ làm đại diện thương hiệu
cho dòng sản phẩm này. Ở rất nhiều lĩnh vực kinh doanh đặc biệt là thời trang và
mỹ phẩm thì giá trị những sản phẩm mang tính hàng hóa vật chất chỉ đóng góp 10
đến 30%, còn lại là giá trị thương hiệu tinh thần. Những giá trị tinh thần đó có sự
đóng góp cực kì lớn từ người nổi tiếng. Cho nên các nhãn hàng phải trả nhiều triệu
đô cho việc thu hút người nổi tiếng làm đại diện cho thương hiệu.
Vậy là nền kinh tế thị trường đã tạo ra những ảnh hưởng, tác động không
nhỏ tới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam?
ThS. NQD: Chắc chắn là vậy!
Ở Việt Nam khi chưa bước vào nền kinh tế thị trường thì không có khái niệm người nổi tiếng. Người nổi tiếng chỉ liên quan đến góc độ chính trị, xã hội, chưa được chuyển biến thành những mua bán trao đổi giá trị hình ảnh của họ trên thị trường. Bắt đầu từ nền kinh tế thị trường, tính từ những năm 90 thì mới xuất hiện khái niệm thế nào là người nổi tiếng. Lúc ấy người nổi tiếng mới có cơ hội để
26
tham gia vào thị trường và mới chuyển giao bán được những ảnh hưởng của mình cho các doanh nghiệp trên thị trường. Cho nên ở đây câu hỏi này liên quan đến cơ
chế quản lý của từng quốc gia văn hóa của từng quốc gia.
Việt Nam cho đến nay chưa được nhiều nước thừa nhận là nền kinh tế thị
trường, cho nên giá trị, ảnh hưởng của người nổi tiếng (bao gồm nghệ sĩ biểu diễn) ở Việt Nam chưa được đánh giá một cách đúng đắn như các nước phát triển. Còn
xét về ảnh hưởng của bối cảnh nền kinh tế đối với họ thì đương nhiên là rất lớn.
Thời xưa những diễn viên gạo cội, nổi tiếng, ngôi sao thể thao...gần như không có
thu nhập gì mang tính thị trường. Thu nhập từ thị trường phải là thu nhập từ doanh
nghiệp, mà thu nhập từ doanh nghiệp phải từ chính khách hàng. Và cầu nối đó ở thời kỳ bao cấp là không có. Cho nên cơ hội không có thì sự phát triển của nghệ sĩ biểu diễn cũng rất khó khăn. Sau mở cửa, mọi thứ đã có sự biến đổi to lớn, kể cả
văn hóa nghệ thuật. Những nghệ sĩ biểu diễn nổi tiếng bắt đầu có thể có những ảnh
hưởng tạo ra những giá trị cho họ. Ví dụ, những hiện tượng như Sơn T ng tạo được
phong cách rất riêng, những bài hát của ca sĩ này ảnh hưởng rất lớn tới giới trẻ, có
phong thái thu hút được nhiều người biết đến, vì thế tạo ra những ảnh hưởng lớn tới
cộng đồng. Đấy là giá trị thương hiệu của Sơn T ng. Cho nên cát xê của Sơn T ng
cũng cao hơn các ca sĩ khác cát xê thường đi theo giá trị ảnh hưởng của nam ca sĩ.
Khi chưa có truyền thông, nghệ sĩ được công chúng biết đến bởi tài năng và
sự truyền miệng một cách bị động (tức là nghệ sĩ không chủ động truyền đi thông
điệp của mình). Báo chí xuất hiện đặc biệt là nền kinh tế thị trường xuất hiện với
những biến đổi về văn hóa đã mang tới một bước lột xác ngoạn mục trong quan
niệm về hoạt động nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Xin cảm ơn anh!
27
Trƣờng hợp PVS 02: ông Đỗ Quý Doãn – Nguyên thứ trưởng Bộ Thông
tin và Truyền thông
Nội dung cuộc phỏng vấn:
NCS: Thưa nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn, theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn có vai trò như thế nào trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng?
Nguyên Thứ trƣởng Đỗ Quý Doãn (NTT.ĐQD): Thông tin về bất cứ giới nào trong xã hội cũng đều có những ý nghĩa nhất định tuy nhiên đối với giới nghệ sĩ biểu diễn, thông tin về họ có vai trò, vị trí và sự ảnh hưởng đặc biệt. Bởi NSBD là
người của công chúng do đó biểu hiện trong lối sống đạo đức, thẩm mĩ của họ khi
được đăng tải trên mặt báo trên các phương tiện thông tin đại chúng có sức ảnh
hưởng và lan tỏa rất lớn tác động tới những xu hướng tiếp nhận giá trị nghệ thuật,
những loại hình nghệ thuật mới, gu thẩm mĩ thậm chí ảnh hưởng tới cả đạo đức và
lối sống của công chúng.
NCS: Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, theo ông loại hình báo chí nào có thể giúp những thông
tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?
NTT.ĐQD: Trong xã hội hiện đại, theo tôi, loại hình báo chí được công
chúng quan tâm nhất, có sức lan tỏa mạnh mẽ nhất, cập nhật thông tin nhanh nhất,
và có khả năng tương tác với công chúng tốt nhất chính là báo điện tử. Đây là loại
hình báo chí có tác động lớn tới xã hội cũng là loại hình hội tụ tất cả những ưu thế
của các loại hình báo chí khác, phù hợp với xu hướng phát triển của báo chí và công
nghệ. Báo điện tử cũng là loại báo có khả năng truyền tải tốt nhất những thông tin
về giới NSBD VN tới công chúng.
NCS: Theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên
các báo điện tử thường tập trung vào những vấn đề gì?
NTT.ĐQD: Chưa có khảo sát đầy đủ, toàn diện nhưng nhờ vào việc nhiều
năm làm lãnh đạo Bộ Thông tin và truyền thông, tôi có thể khẳng định, báo chí hiện đại nói chung cũng như báo điện tử nói riêng đã nắm rất tốt các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng về văn hóa văn học và nghệ thuật, chuyển tải những nội dung này tới đông đảo công chúng, làm cầu nối giữa NSBD với công chúng. Báo chí cũng góp phần phê phán những tiêu cực phi văn hóa trong hoạt động văn
28
hóa nghệ thuật, truyền tải những tinh hoa của văn hóa nghệ thuật nhân loại du nhập vào nước ta, tiếp thu và làm cho nền văn hóa của nước ta có những bước phát triển
lớn. Trong sự hội nhập toàn diện thì văn hóa nghệ thuật cũng phải hội nhập nhưng
đồng thời báo chí cũng có nhiệm vụ phải giữ gìn, bảo tồn văn hóa nghệ thuật dân
tộc trong sự hòa nhập chung đó. Với những ưu thế riêng của mình báo điện tử càng có vai trò lớn hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
Trong thời kỳ hội nhập toàn cầu tôi cho rằng, phát triển kinh tế đã khó phát
triển văn hóa lại càng khó khăn hơn. Báo điện tử cần quan tâm đến việc đổi mới
trong việc thông tin về các hoạt động nghệ thuật để phù hợp với xu hướng thị
trường, với định hướng xã hội chủ nghĩa. Làm sao vừa khuyến khích được việc du nhập những nét văn hóa mới mẻ, hiện đại văn minh của nhân loại cũng vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam; vừa truyền đi những
thông điệp nhân văn lại vừa thương mại hóa, nuôi sống được tờ báo đó là điều
không đơn giản. Bên cạnh đó Báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng phải góp
phần giúp cơ quan quản lý, hoạch định chính sách trong quá trình tìm tòi xây dựng
để có những quyết sách phát triển văn hóa ph hợp.
Hiện nay báo điện tử đang đứng trước những thách thức rất lớn. Rõ ràng để
có doanh thu giúp tờ báo phát triển thì phải có bạn đọc, có công chúng. Muốn có
bạn đọc, có công chúng thì nội dung tờ báo đó phải hấp dẫn. Điều này dẫn tới một
cuộc cạnh tranh gay gắt trong việc cung cấp thông tin lôi kéo độc giả. Các tòa soạn
báo đều phải gồng mình lên, phải đổi mới, tìm mọi cách đáp ứng nhu cầu của công
chúng. Chính trong bối cảnh này xuất hiện một số xu hướng, hiện tượng rất đáng
quan tâm đó là tình trạng đưa những thông tin mang tính giật gân câu khách đặc
biệt trong văn hóa văn học, nghệ thuật. Chỉ cần một chi tiết, một scandal về giới
NSBD cũng có thể làm cho dư luận nóng lên. Có những việc rất bình thường nhưng muốn câu view, muốn tạo ra sức hút hoặc để cạnh tranh, nhà báo sẵn sàng rút những cái tít hoặc khai thác những chi tiết ngoài lề, không thuộc bản chất của sự kiện.
Thậm chí có những tít và bài chẳng ăn nhập gì với nhau, ví dụ Hà Hồ nói “Tôi và Cường có thể ngủ c ng giường vì con” nhưng nội dung lại không liên quan gì, chỉ cốt để cho thông tin đó trở lên “nóng”. Hay việc đi vào đời tư của những người nổi tiếng, khai thác những chuyện rất thầm kín của họ, kể cả những việc vi phạm pháp luật để thu hút độc giả cũng là điều đáng báo động. Đôi khi chỉ vì cái váy của một diễn viên nào đó cũng khiến hết tờ báo này tới trang báo nọ, dành hết bài này tới bài
29
khác để đăng tải. Nhưng trong xã hội, trong giới NSBD đâu chỉ có những việc như vậy? Những thông tin sai sự thật, hóng hớt, cóp nhặt trên mạng xã hội…đều tạo ra
những ảnh hưởng lớn tới xã hội.
Sản phẩm của nghệ sĩ là tinh hoa của xã hội, dân tộc, thậm chí là tinh hoa
của nhân loại. Người chuyển tải tinh hoa tới công chúng mà trên mặt có những vết nhơ tâm hồn có những vết nhơ trong cuộc đời có những vết nhơ thì khi chuyển
tinh hoa đến công chúng thì sẽ có sự gượng ép và giảm đi giá trị. Khi giới thiệu
thông tin về nghệ sĩ biểu diễn nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung, báo chí
chưa làm tốt trong việc góp phần xây dựng nên một hành vi văn hóa một nét đẹp
văn hóa từ đó định hướng nghệ thuật và thẩm mĩ cho công chúng.
NCS: Theo ông, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức
hút lớn đối với công chúng như vậy?
NTT.ĐQD: Đó là điều dễ hiểu! Bản thân nghệ sĩ sản phẩm của nghệ sĩ một
bài hát, bộ phim đã có sức hút với công chúng. Khi báo chí tuyên truyền, giới thiệu
thì người nghệ sĩ và tác phẩm của họ lại càng có sức ảnh hưởng và lan tỏa rộng hơn
trong xã hội.
NCS: Theo ông, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam này có
hiệu quả không?
NTT.ĐQD: Rất hiệu quả đối với tòa soạn. Yếu tố tương tác là đặc thù mà
không loại hình báo chí nào có được như báo điện tử, cho nên một nghệ sĩ biểu diễn
khi xuất hiện trên mặt báo ngay lập tức có thể thu hút hàng nghìn, thậm chí hàng vài
chục nghìn lượt đọc và bình luận. Nhờ những chỉ số này báo điện tử có thể thu về
cho mình những hợp đồng quảng cáo giá trị. Bên cạnh đó cũng nhờ những ưu thế
vượt trội của báo điện tử mà người nghệ sĩ có thể tiếp cận nhanh hơn rộng hơn với
công chúng của mình; công chúng cũng có điều kiện để cập nhật những thông tin mới nhất về nghệ sĩ mà mình thần tượng.
Tuy nhiên, trong việc thông tin về giới NSBD báo điện tử như một con dao sắc, sử dụng tốt thì rất hữu hiệu, sử dụng không tốt có thể gây hại khôn lường. Ưu thế của báo điện tử cũng chính là điều kiện dẫn tới những sai xót, vi phạm, khuyết điểm đáng lưu tâm khi đăng tải thông tin về giới NSBD. Những thông tin sai lệch, giật gân không chỉ ảnh hưởng tới hình ảnh của NSBD mà còn ảnh hưởng tới cả môi trường nghệ thuật cũng như tư duy thẩm mĩ trong việc tiếp
30
nhận những giá trị nghệ thuật của công chúng. Khái quát lại thì đó chính là ảnh hưởng tới văn hóa.
Cái gì cũng cần có thời gian báo điện tử chỉ mới ra mắt khoảng 15 năm phát
triển chỉ khoảng 10 năm trở lại đây. Sự phát triển trong một thời gian ngắn như vậy
khiến hoạt động của loại hình báo chí này tại Việt Nam vẫn mang tư duy của hoạt động báo chí truyền thống, thiếu sự điều chỉnh kịp thời.
NCS: Quan điểm của ông về ranh giới giữa văn hóa và phản văn hóa trong
việc đưa tin về giới NSBD VN của báo điện tử hiện nay?
NTT.ĐQD: Khi thông tin về bất cứ vấn đề gì, ranh giới giữa tích cực và tiêu
cực là rất mong manh. Nếu người làm báo không nắm vững nguyên tắc của hoạt động báo chí, không giữ vững đạo đức nghề nghiệp thì từ tích cực sang tiêu cực, từ tốt sang xấu chỉ cách nhau trong tích tắc.
NSBD là người của công chúng, có sức ảnh hưởng tác động rất lớn tới cộng
đồng, cho nên khi thông tin về giới này phải nắm rất vững những nguyên tắc báo chí,
nguyên tắc trong hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc biệt là phải hiểu được chúng ta
muốn truyền tải thông điệp gì, giải quyết vấn đề gì công chúng được cái gì khi đưa
thông tin về giới này? Thông tin về giới NSBD có phải chỉ là thông tin thuần túy
không hay có tính định hướng giúp công chúng nâng cao nhận thức về nghệ thuật,
nâng cao trình độ thẩm mĩ? Những câu hỏi này là chìa khóa để giúp những người làm
báo xác định được nội dung khi đăng tải thông tin về nghệ sĩ biểu diễn.
NCS: Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu
hút độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan
hệ tình cảm... Theo ông, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn có phải là
những nội dung mang tính “lá cải”, “thảm họa”, vi phạm đạo đức báo chí không?
NTT.ĐQD: Tôi nghĩ vấn đề này đến từ cả hai phía: nghệ sĩ và nhà báo.
Nghệ sĩ hay bất cứ ai cũng cần một quá trình để tự hoàn thiện mình. Không
phải ai sinh ra đã lập tức có thể tròn trịa, hoàn thiện. Nghệ sĩ trong đời thường cũng tồn tại rất nhiều vấn đề trong tính cách, lối sống, hành xử... Tuy nhiên người nghệ sĩ khi đã mang lấy nghiệp vào thân thì cũng phải tu nhân tích đức, phải biết mình là người của công chúng, nhất cử nhất động đều có bao nhiêu người nhìn vào. Người bình thường ăn hay mặc thế nào cũng ít gây chú ý nhưng người nổi tiếng một hành
31
động của họ cũng khiến rất nhiều người chú ý. Nghệ sĩ phải hiểu vị trí và vai trò của mình để luôn luôn giữ mình.
Mặt khác đối với báo chí cũng nên đưa ra những việc chưa tốt, hình ảnh
chưa đẹp để giúp nghệ sĩ và nghệ thuật hoàn thiện hơn. Nhưng phải luôn chú ý là
mình đang nói đến một đối tượng dễ bị tổn thương nhất, có sức ảnh hưởng lớn nhất, được xã hội quan tâm nhiều nhất để cân nhắc câu chữ, liều lượng, hình ảnh, sự việc
cho phù hợp. Nhưng thế nào là phù hợp? Đó cũng là điều đáng lưu tâm. Có những
vấn đề không sai luật không sai quy định nhưng lại trái với đạo đức luân thường.
Bởi vậy, trong việc đăng tải bất cứ thông tin nào lương tâm đạo đức và linh cảm
của người cầm bút rất quan trọng. Làm thế nào để có sự nhạy cảm, bản lĩnh nghề nghiệp thì cần phải rèn luyện tích lũy. Nhà báo phải chuyên nghiệp, hiểu biết, phải sống, phải tắm mình trong đời sống nghệ thuật, thấu hiểu người nghệ sĩ chứ đừng
nói như một người trên cao phán xét. Khi nhà báo ở trong cuộc c ng lăn lộn, hoạt
động với nghệ sĩ c ng chịu những niềm vui nỗi buồn như nghệ sĩ thì tự họ sẽ biết
cách phản ánh một cách đầy đủ và nhân văn. Người làm báo cần đặt mình vào vị trí
của người nghệ sĩ đặt mình vào vị trí của công chúng hâm mộ họ đặt mình là
người trong cuộc thì tôi nghĩ sẽ hóa giải được mọi vấn đề. Đừng nhìn nghệ sĩ vào
đời thường của họ, bởi tất cả những tinh hoa tốt đẹp đều bộc lộ qua tác phẩm hết.
NCS: Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam nhiều khi xuất phát từ chính giới này. Ông có nhận xét gì?
NTT.ĐQD: Hiện nay có nhiều nghệ sĩ ưa tạo ra scandal để gây chú ý. Sự
gây chú ý này không đến từ những việc làm tốt mà từ những phát ngôn gây sốc,
những hành động lố lăng người ta đi xuôi thì mình đi ngược lại. Người cầm bút phải
tỉnh táo, bản lĩnh trình độ và sự nhạy cảm để phân tích những việc làm hành động,
lời nói đó có đáng giành nhiều công sức, ngôn từ, giấy mực để thông tin đăng tải trên mặt báo không? Nhà báo phải biết phân tích bản chất của vấn đề, lí giải vì sao nó xảy ra như vậy. Nếu nhà báo dễ dãi thì tôi nghĩ chỉ là một người để cho người khác dắt
mũi.
NCS: Ông có cho rằng thực trang thông tin “thảm họa” về giới NSBD VN hiện nay một phần xuất phát từ việc công chúng thích những thông tin bên lề như vậy hơn là những thông tin nghệ thuật thuần túy?
32
NTT.ĐQD: Chúng ta không trách công chúng, bởi trong nhu cầu của công chúng có nhiều cái khác nhau. Giống như một ngày của một con người cũng có
những thời khắc khác nhau. Tuy nhiên, nếu chúng ta đáp ứng đầy đủ thông tin văn
hóa nghệ thuật với hiệu quả chất lượng tốt nhất thì công chúng cũng chẳng có thời
gian để quan tâm đến những thông tin “thảm họa”. Thực tế cho thấy đôi khi những chuyện đời tư vi phạm thuần phong mĩ tục không phải do công chúng thích mà bởi
báo chí không có những thông tin hay hơn tốt hơn những vấn đề đẹp hơn chất
lượng hơn của người nghệ sĩ để cung cấp cho họ. Nhưng thậm chí, kể cả công
chúng có tò mò những thông tin “thảm họa” như vậy thì đó cũng chỉ là thời khắc nhất
định nào thôi, và báo chí không thể chạy theo sự tò mò đó phải đặt lại vấn đề là sự tò mò đó có nâng tầm định hướng, nâng tầm thẩm mĩ nhận thức, gu nghệ thuật của công chúng lên hay không? Nếu báo chí đặt ra vấn đề như vậy thì sẽ biết được liều
lượng thông tin hậu trường như thế nào là đủ, có cần chạy theo thị hiếu của đám đông
hay không? Báo chí không đơn thuần là công cụ thông tin mà còn phải góp phần định
hướng nâng cao trình độ, thẩm mĩ cho công chúng. Đây là điều quan trọng mà người
làm báo nào cũng phải chú ý. Đừng chạy theo thị hiếu và sự tò mò của công chúng.
Đừng chỉ hớt váng mà không giải quyết được vấn đề gì cho xã hội.
NSC: Quan điểm của ông về việc báo điện tử hiện nay thích giật tít giật gân
để câu khách?
NTT.ĐQD: Tôi nghĩ đặt tít là một nghệ thuật. Một bài báo sức hấp dẫn ở cái
tít rất lớn. Bởi những tít tốt người ta không cần đọc nội dung, chỉ cần đọc tít là đã có
thể hiểu và nắm được vấn đề người viết muốn chuyển tải. Tít câu khách cũng tốt
nhưng phải phù hợp với nội dung. Ở đây đáng phê phán là những tít không ăn nhập
gì với nội dung. Hiện nay có tình trạng tít không ăn nhập với nội dung là vì ở nhiều
tòa soạn, viết bài là một người đặt tít lại là một người khác. Người rút tít bởi vậy không thể cảm được nội dung sự kiện mà rút cho đúng chỉ nhằm mục tiêu rút tít cho kêu thôi. Có những bài tít nghe rất khủng nhưng đọc nội dung chẳng có gì.
Rút tít hay, tạo sự tập trung cho công chúng là rất cần nhưng phải ăn nhập, đúng nội dung, liều lượng của bài, phù hợp với sự phát triển của các tuyến sự kiện trong bài.
NCS: Ông có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các báo
khác của các tờ báo điện tử hiện nay?
33
NTT.ĐQD: Khi báo điện tử, mạng xã hội phát triển thì tình trạng cóp nhặt thông tin là khá phổ biến. Thỉnh thoảng tôi vẫn vào mạng thấy các nhà báo kêu trời
khi tin của mình bị “xào”. Tình trạng này đã được đề cập trong các thông tư nghị
định quy định của pháp luật. Việc tuân thủ các quy định này là điều rất cần thiết,
nhưng thực tế thì nhiều trang báo trang tin điện tử không nắm đầy đủ, thậm chí phớt lờ những quy định này. Cóp nhặt thông tin linh tinh thì dẫn đến sai xót là dễ
hiểu. Chưa nói tới nội dung hành động này trước mắt là sai xót về mặt pháp luật.
Có thể nói, mạng xã hội là nơi cung cấp nguồn tin nhanh nhất, lớn nhất, phong
phú nhất, ở mọi không gian, thời gian. Khác với trước đây phóng viên phải đi thực tế,
thì hiện giờ cũng có thể lấy từ mạng xã hội. Nhưng phải hiểu mạng xã hội chỉ là nơi cung cấp nguồn tin thôi cũng phải kiểm chứng, phải xác minh rồi viết và biên tập rất cẩn thận, giống như thực hiện một quy trình viết bài hoàn chỉnh. Nếu nhà báo chỉ cóp
nhặt, xào xáo lại thông tin trên mạng xã hội để đăng bài thì đó không phải là làm báo.
NCS: Theo ông, Nhà báo nên xử lý như thế nào khi tiếp cận thông tin dễ gây
sốc, gây ảnh hưởng tới nghệ sĩ nhưng lại có khả năng thu hút công chúng?
NTT.ĐQD: Khi tôi còn làm quản lý, nhiều nghệ sĩ cũng phàn nàn về sự tắc
trách của nhiều nhà báo. Nhà báo chỉ nghe thôi mà không thẩm tra. Có rất nhiều
nguồn để kiểm tra nguồn tin nhưng nhà báo không làm. Đôi khi chỉ gác chân cao
hơn một chút có hành động trái bình thường một chút, qua báo chí lập tức trở thành
một làn sóng ảnh hưởng trực tiếp tới danh dự, cuộc sống của người nghệ sĩ đó. Tôi
nghĩ nếu như có sự trao đổi, gặp gỡ, chia sẻ thì những hiện tượng tiêu cực này không
bao giờ xảy ra. Con người nói chung hay nghệ sĩ nói riêng không phải máy móc,
cũng có lúc mệt mỏi lơ đễnh, nhà báo cần đặt nghệ sĩ giống như người thân của mình
để hiểu, chia sẻ và cảm thông với họ đừng vì chạy theo thị hiếu của công chúng,
chạy theo “view” “like”…mà v i dập người khác, thậm chí đánh mất chính mình.
NCS: Ông đánh giá gì về những ảnh hưởng của giao lưu văn hóa tới thông
tin về giới nghệ sĩ biểu diễn VN trên báo điện tử hiện nay?
NTT.ĐQD: Trong quá trình hội nhập giao lưu văn hóa chúng ta bị ảnh hưởng bởi rất nhiều thứ, từ những xu hướng biểu diễn cho tới gu thẩm mĩ gu tiếp nhận… Trước đây biểu diễn sân khấu của mình không giống như bây giờ, hiền từ hơn rất nhiều ăn mặc cũng khác. Nhưng bây giờ rõ ràng đủ các loại hình, rock, pop… Đây là những sản phẩm từ ảnh hưởng của giao lưu văn hóa.
34
Dân tộc Việt Nam tiếp thu rất nhanh. Tuy nhiên, sự tiếp thu nào cũng cần có giai đoạn sàng lọc, cái gì tinh hoa phù hợp thì nó đọng lại, cái gì nó không phù hợp
sẽ bị đẩy ra. Chúng ta vẫn đang trong giai đoạn tiếp nhận và sàng lọc nên những vấn
đề như học giả Đào Duy Anh nói là “bi kịch của sự phát triển” đang xảy ra là điều
không tránh khỏi. Tôi nghĩ trong văn hóa không nên sốt ruột. Văn hóa là những gì còn lại của những cái đã mất.
NCS: Theo ông, cách đăng tải thông tin về giới NSBD VN trên báo điện tử
hiện nay có phù hợp với thuần phong mĩ tục của người Việt?
NTT.ĐQD: Hiện nay thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo
điện tử bộc lộ rất nhiều những khuyết điểm chung trong hội nhập cũng như văn hóa. Có những thông tin tích cực, phù hợp với văn hóa truyền thống cũng có những thông tin giật gân, câu khách, làm lệch định hướng thẩm mĩ nghệ thuật…
Trong giao lưu hội nhập văn hóa nếu nhà báo am hiểu nghệ thuật, am hiểu
văn hóa và thường xuyên sinh hoạt như đội ngũ làm văn hóa nghệ thuật thì chắc
chắn thông tin của họ sẽ không bị lai căng không bị ảnh hưởng tác động với những
yếu tố tiêu cực từ văn hóa ngoại lai. Mức độ phù hợp với thuần phong mĩ tục dân
tộc của thông tin đăng tải phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh nhà báo.
NSC: Theo ông, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ
sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn, tích cực hơn và văn hóa hơn?
NTT.ĐQD: Hoạt động báo chí rất cần thiết phải có những người làm báo về
văn hóa nghệ thuật một cách chuyên nghiệp. Họ phải được đào tạo, bồi dưỡng
những kiến thức cơ bản về lĩnh vực này.
Trong các quan điểm mà Đảng và Nhà nước đưa ra cũng đã xác định rõ mục
tiêu phương hướng, nội dung về phát triển văn hóa nghệ thuật nước nhà. Nhà báo
phải nắm vững những quan điểm này. Muốn có những thông tin văn hóa nghệ thuật hay nhà báo phải nắm được thế nào là nền văn hóa tiên tiến, thế nào là nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?...
Viết về văn hóa nghệ thuật thì phải đảm bảo được yếu tố văn hóa. Một trong những điều quan trọng là nhà báo phải hiểu rõ đối tượng lĩnh vực mà mình đang phản ánh. Phải tìm hiểu, chia sẻ đặt mình trong môi trường, bối cảnh của nhân vật,
35
sự kiện để viết ra một tác phẩm báo chí giống như người trong cuộc. Có như vậy thì thông tin mới tạo ra những tác động tích cực đối với công chúng.
Tôi vẫn nhớ một nguyên tắc quan trọng trong chỉ thị 52 của Bộ Chính trị
năm 1997 sau này các nghị quyết của Đảng về báo chí đều đề cập đến đó là: coi
trọng chất lượng văn hóa của báo chí. Thông tin, sản phẩm báo chí nếu góp phần định hướng về nhận thức, thẩm mĩ văn hóa của công chúng, hướng công chúng tới
cái chân, thiện mĩ thì chắc chắn hiệu quả thông tin của báo chí sẽ cao. Bên cạnh đó
nhà báo phải không ngừng coi trọng nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Khi có đạo đức
nghề nghiệp thì tất cả mọi vấn đề sẽ được giải quyết.
Đối với nghệ sĩ biểu diễn, phải nhận thức rõ mình là người hoạt động xã hội, là người của công chúng, có sức ảnh hưởng và lan tỏa rất lớn, chính vì vậy phải luôn luôn tự hoàn thiện chính mình. Nghệ sĩ không phải là người bình thường mà là
người chuyển tải những giá trị văn hóa những tinh hoa văn hóa không chỉ là của
riêng họ mà còn là của dân tộc, của nhân loại. Cho nên thấy được sứ mệnh của
người nghệ sĩ cực kì thiêng liêng. Trước đây bác Hồ hay các nhà lãnh đạo cũng đã
có những bài nói về nghệ sĩ rất tuyệt vời, vừa xác định sự vinh quang của người
nghệ sĩ cũng xác định được trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với xã hội, công
chúng. Khi thấy trách nhiệm thì luôn luôn mọi lúc mọi nơi thể hiện được trách
nhiệm đó. Khi thấy được trách nhiệm thì không ngừng phải hoàn thiện mình, về
chuyên môn nghiệp vụ cũng như mọi mặt nhận thức, nhận thức xã hội… Chứ nghệ
sĩ không phải chỉ có việc lên hát, diễn và phát ngôn, còn lại mọi thứ có thể buông
thả… Đạo đức người nghệ sĩ cũng cần phải được nâng cao. Tất cả các quy định đã
có người nghệ sĩ cần phải nghiêm túc chấp hành đồng thời phải tự mình nghiêm
khắc với mình hơn nữa, có trách nhiệm với chính mình hơn nữa mới có thể giải
quyết được những thảm họa truyền thông.
Đối với công chúng, ngày nay có rất nhiều kênh để công chúng tiếp nhận thông tin văn hóa nghệ thuật nhưng tôi nghĩ công chúng cũng phải tỉnh táo, nâng cao trình
độ, phải độ lượng để góp phần tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh đừng chỉ vì một vấn đề nhỏ mà lên đồng, làm to nó lên. Phải tỏ ra mình là một người có văn hóa hưởng thụ văn hóa tiếp nhận văn hóa. Tất nhiên, muốn có văn hóa thì phải bồi đắp, rèn luyện, tích lũy. Có như vậy mới tạo ra được một môi trường văn hóa lành mạnh.
Trân trọng cảm ơn ông!
36
Trƣờng hợp PVS 03: Nhà văn Phong Điệp – Trƣởng Ban Tuyên truyền
lí luận – báo Nhân dân
Nội dung:
Theo chị, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn có vai trò như thế nào trong việc
đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng?
Nhà văn Phong Điệp (NV.PĐ): Trong cuộc sống nhiều áp lực, giải trí là nhu cầu quan trọng của con người. Do đó công chúng có nhu cầu cao trong việc tiếp
nhận thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn.
Theo chị, loại hình báo chí nào có thể giúp những thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?
NV.PĐ: Tôi nghĩ báo mạng đang có lợi thế nhờ khả năng cập nhật nhanh đa phương tiện, không chỉ là tin bài mà còn cả clip, rất sống động cho người xem.
Trong khi báo giấy truyền thống kể cả là báo ngày đi chăng nữa thì nó có độ trễ,
phải mất vài tiếng thậm chí là một ngày thì thông tin mới lên được mặt báo.
Rõ ràng ưu thế của báo điện tử rất rõ ràng. Những ưu thế này đang được
phóng viên mảng văn hóa giải trí khai thác rất triệt để.
Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên các báo thường
tập trung vào những vấn đề gì theo đánh giá của chị?
NV.PĐ: Khi tôi khảo sát trên báo chí trong thời gian gần đây thì thấy lượng “view” mà độc giả quan tâm nhiều là những chuyện đời tư: tình yêu phát ngôn ăn
mặc… của nghệ sĩ biểu diễn. Những thông tin thường có lượng truy cập lớn bởi nó
đánh vào sự tò mò của công chúng. Tuy nhiên ở đây đặt ra vấn đề là thông tin về
người nghệ sĩ biểu diễn ở mức nào thì là giải trí, ở mức nào thì là xâm phạm đời tư thậm chí là vi phạm pháp luật khi những thông tin đó được tiết lộ trên báo chí? Đó là câu chuyện mà những người làm báo cần phải thận trọng.
Nếu nhìn mật độ thông tin trên báo chí hiện nay thì rõ ràng chuyện đời tư được khai thác quá nhiều. Mà thông thường theo yêu cầu của báo chí thì khi một nghệ sĩ xuất hiện thường phải kèm theo những dự án nghệ thuật, các kế hoạch hoạt động nghệ thuật…của họ. Đáng nhẽ vấn đề chuyên môn của nghệ sĩ cần phải được báo chí quan tâm thay vì khai thác quá nhiều chuyện đời tư hậu trường như hiện
nay. Chuyện ăn mặc hở hang, ghen tuông, nói móc nhau trên mạng, dùng hàng hiệu… là những chuyện mà người ta nên chỉ chia sẻ trong phạm vi hẹp và cũng
37
không hẳn lúc nào những thông tin này được đăng tải trên báo chí cũng có ích cho người xem nhưng bây giờ nó đang bị lạm phát. Không thể phủ nhận, những thông
tin hậu trường, gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam cũng góp phần làm tăng
“view” nhưng qua một thời gian tăng thì “view” bắt đầu có xu hướng bão hòa và
bản thân người đọc cảm thấy mệt mỏi khi phải đối diện với quá nhiều những thông tin như thế mỗi ngày. Mở mặt báo ra có bao nhiêu thứ đáng được công chúng quan
tâm hơn thì lại không được xuất hiện với tuần suất lớn, trong khi thông tin nhảm nhí
lại phủ kín các trang báo đặc biệt là báo mạng điện tử.
Theo chị, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức hút
lớn đối với công chúng như vậy?
NV.PĐ: Vì những thông tin này đánh vào sự tò mò của công chúng. Bản thân trong mỗi chúng ta đều có sẵn sự tò mò. Khi sự tò mò được đánh thức thì
chúng ta quan tâm xem sao Việt họ thu nhập khủng thế nào ăn ở đâu chơi thế nào,
trang phục đắt tiền ra sao… Giới showbiz bao giờ cũng có hào quang ảo khi họ
thăng hoa trên sân khấu, họ được sự ngưỡng mộ của người xem. Nhưng khi rời khỏi
ánh đèn sân khấu thì họ cũng bình thường như tất cả chúng ta mà thôi. Tuy nhiên,
hào quang ảo trên sân khấu đó lại khiến công chúng có sự tò mò với họ. Tại sao
cũng là người nổi tiếng nhưng các kiến trúc sư họa sĩ thậm chí nhà văn nhà báo thì
đời tư của họ lại không được quan tâm nhiều như những nghệ sĩ diễn viên ca sĩ...?
Giới nghệ sĩ biểu diễn khi xuất hiện trên sân khấu với tần suất liên tục thì sẽ dễ dàng
thu hút sự quan tâm của công chúng, và những gì liên quan đến họ cũng dễ được
quan tâm hơn bởi vì sự tò mò, hiếu kỳ của người xem.
Chị đánh giá những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo
điện tử hiện nay có hiệu quả không?
NV.PĐ: Hiệu quả về mặt “view” thì rõ ràng là có bởi lượng truy cập của công chúng vào những trang tin điện tử có nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam thường rất cao.
Còn hiệu quả về mặt cung cấp thông tin văn hóa nghệ thuật, nâng cao thị thẩm mĩ thị hiếu và nhận thức cho công chúng thì rất thấp. Đa phần những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay mới chỉ đơn thuần là thỏa mãn sự tò mò hiếu kỳ
cho người xem còn để nói đem đến cho người xem điều gì bổ ích thì rất hạn chế. Ở
phương diện mở mang kiến thức cho độc giả thì rõ ràng không đáp ứng so với lượng truy cập thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử đạt được.
38
Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan hệ
tình cảm... Theo chị, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam vi
phạm đạo đức báo chí không? Vì sao?
NV.PĐ: Tôi nghĩ là nó vi phạm đạo đức không chỉ của báo chí, của người làm báo mà còn vi phạm cả luật pháp nữa. Nếu nghiên cứu về luật dân sự Việt Nam
thì quyền riêng tư của mỗi cá nhân đều được bảo vệ, việc sử dụng hình ảnh, thông
tin cá nhân cần phải được phép. Nhưng những điều đấy hiện nay đang bị xâm hại.
Mặc dù không nhiều nhưng đã có nghệ sĩ khi bị đưa thông tin không đúng lên mặt
báo đã khởi kiện báo chí. Điển hình như trường hợp của MC Đan Lê. Khi đưa thông tin không đúng người nghệ sĩ trước hết phải bảo vệ hình ảnh sạch của mình. Còn đối với báo chí khi đưa thông tin quá sâu về đời tư hình ảnh phản cảm của người
nổi tiếng cũng cần cân nhắc vì rất có thể phải đối mặt với pháp luật, với các án phạt.
Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
nhiều khi xuất phát từ chính giới này. Chị có nhận xét gì?
NV.PĐ: Điều đó không phải không có lý! Có những trường hợp nghệ sĩ biểu
diễn Việt Nam đồng lõa với báo chí để đưa thông tin gây sốc về họ lên mặt báo
nhằm quảng bá cho sản phẩm mới, hâm nóng tên tuổi, gây sự chú ý của độc giả. Tôi
cho rằng đó là con dao hai lưỡi với các nghệ sĩ.
Có một bộ phận nhà báo đang trở thành công cụ của giới showbiz. Nhiều
nghệ sĩ có hẳn một nhóm các nhà báo thường xuyên viết bài đăng tải trên các mặt
báo cho mình, tung lên truyền thông những thông tin nhảm nhí chỉ đơn giản để
khiến công chúng quan tâm tới mình. Tôi hiểu người nghệ sĩ một thời gian dài
không được báo chí nhắc đến thì có nguy cơ bị lãng quên. Để tránh lãng quên họ có
nhu cầu được xuất hiện trên báo chí. Nhưng xuất hiện theo cách như thế nào? Sẽ rất đáng trân trọng nếu như các nghệ sĩ xuất hiện với các dự án nghệ thuật của họ. Nhưng xuất hiện với những phát ngôn gây sốc ăn mặc phản cảm tình tay ba…xâm
hại cả quyền tự do của người khác nữa làm hình ảnh của người nghệ sĩ trở nên méo mó, bản thân những nhà báo tiếp tay cho những việc đó cũng vi phạm đạo đức trầm trọng. Rõ ràng có những nhóm nghệ sĩ – nhà báo câu kết với nhau như thế làm cho hình ảnh báo chí xấu đi trong mắt công chúng.
39
Chị có cho rằng bởi tâm lý tò mò có sẵn, công chúng hiện nay quan tâm tới những chuyện hậu trường gây sốc hơn là những dự án nghệ thuật của giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam?
NV.PĐ: Thực ra công chúng mỗi người có mối quan tâm riêng của mình.
Bản năng tò mò khiến họ thích đọc những thông tin hậu trường gây sốc của người nghệ sĩ tuy nhiên tôi cho rằng khi báo chí với quá nhiều thông tin nhảm
nhí về người nghệ sĩ sẽ khiến công chúng cảm thấy chán ngán, mệt mỏi. Điều
đấy cho thấy rằng các tòa soạn báo, nhà báo không nên vì chạy theo thị hiếu và
sự tò mò nhất thời của công chúng mà bất chấp tất cả để đưa thật nhiều thông tin
“thảm họa” lên mặt báo nhằm câu “view” nhằm duy trì vị trí thượng phong trong cuộc cạnh tranh khốc liệt về truyền thông như hiện nay. Có thể nhiều báo sẽ có lợi thế về mặt doanh thu quảng cáo thì áp dụng những chiêu trò giật tít,
tung tin thất thiệt, giật gân, gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam để câu
độc giả nhưng khi thông tin rơi vào tình trạng bão hòa, công chúng mất niềm tin
rồi thì đó lại là con dao hai lưỡi. Không phải cứ thỏa mãn sự tò mò vô lối của
công chúng mà có thể tạo dựng được thương hiệu cho tờ báo. Không có gì giúp
tờ báo phát triển bền vững hơn chính là chất lượng của những bài viết. Chất
lượng của một tờ báo là cái giúp giữ chân độc giả bền nhất, lâu nhất chứ không
phải là cái nhất thời để đáp ứng sự sốc nổi của đám đông hiếu kỳ. Nó không bền
vững. Chính những độc giả quan tâm hôm nay có thể quay lưng lại để tìm tới
những bài báo chất lượng đáp ứng nhu cầu chân chính của họ.
Tôi cũng cho rằng, những nghệ sĩ tồn tại được lâu dài trong lòng công chúng
là những nghệ sĩ sạch, xuất hiện đàng hoàng trên báo chí với những dự án nghệ
thuật, những chia sẻ vể nghề nghiệp, những lao động thực sự cống hiến cho nghệ
thuật của họ. Chứ còn những nghệ sĩ mà chụp ảnh nude để khoe thân thì tôi kiểm
nghiệm trong thực tế thấy đa số họ chỉ trong một thời gian rất ngắn thôi sẽ bị công chúng quên, mà nếu nhớ thì cũng nhớ với hình ảnh rất xấu, là một vết đen trong đánh giá của công chúng về nghệ sĩ ấy.
Chị có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn
Việt Nam từ các báo khác và từ mạng xã hội của các trang báo điện tử hiện nay?
NV.PĐ: Tôi thấy rất buồn về cái gọi là “nhà báo salon” “nhà báo bàn phím” hiện nay. Tôi không được học về báo nhưng với hai mươi năm làm báo những nguyên tắc làm báo tôi đã được thấm. Nhà báo là phải ra với đời sống, phải tiếp cận
40
với nhân vật, phải viết, phải trực tiếp tìm hiểu sự việc… Nhưng hiện nay những quy tắc đạo đức nghề nghiệp đó đang bị vi phạm một cách nặng nề. Những nhà báo chỉ
ngồi trên mạng lướt facebook đọc tin từ các báo khác và xào sáo chế biến thành
của mình như thể họ gặp nhân vật thật sự vậy. Rất nhiều nhân vật đã phải lên tiếng:
“Họ - nhà báo - có phỏng vấn, có gặp gì tôi đâu”? Đấy là một thảm họa nghề nghiệp, làm hỏng một thế hệ nhà báo và chính tờ báo có nhà báo đó đang công tác.
Theo chị, nhà báo khi tiếp nhận thông tin gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn
Việt Nam, có thể gây sốc, thu hút độc giả nhưng lại gây ảnh hưởng tới danh dự của
người nghệ sĩ đó thì nên xử lý thế nào?
NV.PĐ: Trong mọi trường hợp nên rất sáng suốt bởi một thông tin có thể sẽ giúp cho tờ báo ấy bán cháy hàng trên thị trường nhưng cũng có thể hủy hoại cuộc đời của một con người. Điều đó cần cân nhắc. Sẽ không có một đáp án chung nào
cho mỗi tình huống. Nhưng với kinh nghiệm của người làm nghề thì tôi thấy trước
mỗi tình huống như thế hãy xử lý bằng cái tâm, tấm lòng của mình đặt mình vào
hoàn cảnh của người nghệ sĩ để đừng đưa đến những hậu quả xấu cho họ. Đừng
chạy theo những cái gọi là thành tích hay lượt “view” để mang lại những sự tổn
thương cho cộng đồng hay cá nhân người nào đó. Làm báo tôi nghĩ chỉ có quy tắc
chung đó thôi chứ trong thực tiễn nó phong phú vô cùng, không có một công thức,
đáp án nào hết. Tự mỗi người phải tìm ra cách thức xử lý riêng cho mình.
Theo chị, trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam thì báo điện
tử đã làm được gì và chưa làm được gì?
NV.PĐ: Mang tới cho công chúng rất nhiều thông tin, rất nhanh, rất kịp
thời.... đó là cái mà báo chí làm được.
Nhưng tỉ lệ những bài nhảm nhí đang có chiều hướng gia tăng đó là cái
không được của báo điện tử hiện nay. Nếu mà báo chí vẫn cập nhật kịp thời hơi thở của cuộc sống và có thêm nhiều bài có chất lượng tốt thì điều đó sẽ tạo ra những ảnh hưởng rất tích cực. Người ta nói báo chí là quyền lực thứ 4 bởi những ảnh
hưởng tác động của thông tin báo chí tới đời sống xã hội. Chúng ta vẫn nói hiện nay tại sao sự vô cảm gia tăng cái ác gia tăng trong xã hội, bạo lực cũng gia tăng? Cần đặt lại ngay cho báo chí câu hỏi: những thông tin về tội phạm, tình tiết vụ án được mô tả quá chi tiết, rùng rợn khai thác quá đà quá mức. Thông tin nhiều nhưng tác hại đối với xã hội lại là tiêu cực, khiến con người mất lòng tin với cuộc
41
sống, ít nhiều tác động tới xã hội nhất là giới trẻ. Báo chí dù muốn hay không cũng có một phần trách nhiệm trong đó.
Chị có cho rằng những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay
trên báo chí cũng là kết quả từ sự giao lưu với văn hóa quốc tế?
NV.PĐ: Tôi nghĩ nó là kết quả cuộc chạy đua giữa các báo thì đúng hơn. Khi một tờ báo lập ra với mục đích chỉ để câu “view” càng nhiều “view” càng tốt thì những tít
bài và những nội dung rất sến sẽ được tòa soạn và nhà báo triệt để khai thác tận dụng.
Rất nhiều bài viết về giới showbiz được khai thác quá đà với những tít bài,
hình ảnh và nội dung vi phạm thuần phong mĩ tục, gây hại cho cộng đồng, cho
người xem. Nó thấm dần vào người xem và gây lệch lạc giá trị nhận thức thẩm mĩ của công chúng và người ta mặc nhiên nhìn nhận rằng: showbiz là như thế, là nhố nhăng là phát ngôn gây sốc, chân dài não ngắn… chỉ vì những bài báo vô bổ như vậy.
Trong khi công bằng mà nói trong giới nghệ sĩ có rất nhiều người đàng hoàng lao động
mẫn cán, cống hiến hết mình cho nghệ thuật lại không được chuyển tải tới công chúng.
Đây là lỗi của báo chí. Tại sao lại không thể làm hấp dẫn được những câu chuyện lao
động nghệ thuật chân chính này? Câu chuyện nào cũng có thể làm hấp dẫn người xem,
vấn đề là cái tài của nhà báo đến đâu người ta có muốn khai thác không? Ví dụ một
nghệ sĩ tập kịch trong hàng tháng trời cũng sẽ có nhiều câu chuyện hấp dẫn công chúng
chứ không đơn thuần là sao này mặc hở sao kia yêu đại gia…mới có thể thu hút độc
giả.
Theo chị, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn, tích cực hơn và văn hóa hơn?
NV.PĐ: Tôi nghĩ rằng đó là do nhận thức của từng nhà báo và tiêu chí của
từng cơ quan báo chí. Nếu vẫn còn những tờ báo xác định thúc phóng viên viết bài
gây sốc với khán giả để tăng “view” gây áp lực lớn cho phóng viên để chạy đua lượt “view” thì sẽ vẫn còn những công chúng mất thời gian vào những điều vô bổ đó. Các cơ quan chức năng luôn có quy định, khuyến khích báo chí lấy cái đẹp dẹp
cái xấu, hạn chế khai thác thông tin quá sâu đời tư nghệ sĩ đưa tin quá r ng rợn…nhưng nhắc nhở thì nhắc nhở, các báo vẫn mong muốn có nhiều người xem. Bản thân người làm báo không tự nhận thức, không tự thay đổi thì kể cả có đóng cửa một tờ báo nọ, rút thẻ một nhà báo kia thì tình trạng này cũng không thể chấm dứt được, vẫn là một câu chuyện rất đáng lo ngại.
Xin cảm ơn chị!
42
Trƣờng hợp PVS 04: Bà Phạm Thu Hà – Tổng biên tập báo Đẹp và Đẹp online
Nội dung:
Theo bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn có vai trò như thế nào trong việc
đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng?
Tổng biên tập Phạm Thu Hà (TBT.PTH): Tôi nghĩ phải xét ở hai phương diện. Ở phương diện cung cấp chủ động từ giới nghệ sĩ thông tin chủ yếu nhằm
quảng bá đến công chúng về các sản phẩm nghệ sĩ đang thực hiện và những kế
hoạch mới của họ (nghệ sĩ đích thực). Ở phương diện khai thác chủ động từ báo chí,
mạng xã hội: Ngoài cung cấp thông tin về các sản phẩm và kế hoạch mới của nghệ
sĩ yếu tố cuộc sống đời thường riêng tư hơn của nghệ sĩ được khai thác tối đa hơn. Đời sống nghệ sĩ với việc: ăn gì, mặc gì, sở thích thế nào, các câu chuyện tình cảm đã trở thành đề tài hàng ngày trên mặt báo, kể từ khi báo điện tử, mạng xã hội nở rộ.
Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới nghệ
sĩ biểu diễn Việt Nam, theo bà loại hình báo chí nào có thể giúp những thông tin
này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?
TBT. PTH: Loại hình báo chí mà tôi cho rằng có thể giúp thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn tiếp cận công chúng nhanh nhất là báo điện tử. Bởi lẽ đây là loại
hình báo chí có tốc độ cập nhật thông tin nhanh, phá vỡ nhiều giới hạn định kỳ và
dung lượng của báo chí truyền thống.
Theo bà, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức hút
lớn đối với công chúng như vậy?
TBT. PTH: Ngoài nhu cầu thông tin về các chương trình giải trí đời sống
riêng của nghệ sĩ được public đáp ứng sự tò mò của con người.
Theo bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
hiện nay có hiệu quả không? Ông bà có nhận xét gì về những thông tin này?
TBT. PTH: Nếu xét về tính hiệu quả với nghệ sĩ cách khai thác từ báo chí cộng với sự chủ động cung cấp thông tin hiện nay giúp nghệ sĩ tiếp ngày càng gần hơn với công chúng, giúp họ tạo dựng được các chương trình truyền thông theo ý đồ riêng một cách hiệu quả. Điều này hoàn toàn có lợi với nghệ sĩ.
43
Nếu xét về tính hiệu quả đối với bạn đọc: Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn hiện đáp ứng đủ cho nhu cầu: giải trí, tò mò của bạn đọc. Tuy nhiên, bạn đọc cần
lựa chọn thông tin để tiếp nhận, vì nếu không phải là bạn đọc thông minh độc giả
có thể dễ dàng “mắc mưu” các chiến dịch truyền thông của họ.
Trong việc đưa tin, nhiều người cho rằng ranh giới giữa văn hóa và phản
văn hóa là rất mong manh. Quan điểm của bà về vấn đề này như thế nào?
TBT. PTH: Tôi cho rằng, bạn đọc hoàn toàn có quyền chủ động lựa chọn
thông tin để tiếp nhận. Vì thế, cách bạn đọc thế nào nói về bạn như thế. Trong thế
giới phẳng và ngày càng mở hiện tại, việc quản lý thông tin là việc cần nhưng rất
khó khăn. Chúng ta phải thừa nhận thực tế này và tự lựa chọn các kênh cung cấp thông tin cho mình, vì bên cạnh các kênh cung cấp thông tin nhằm câu view bất chấp mọi giá trị, vẫn có nhiều kênh thông tin hữu ích và có sự lựa chọn kỹ càng.
Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút
độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan hệ
tình cảm... Theo bà, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên
báo điện tử có phải là những nội dung mang tính “lá cải”, “thảm họa”, vi phạm
đạo đức báo chí không? Vì sao?
TBT. PTH: Thông tin là một sản phẩm hàng hóa d là hàng hóa đặc biệt),
vì thế, các nội dung bạn liệt kê ở trên vẫn có sức hút chứng tỏ tồn tại nhu cầu thực
về các nội dung này ở công chúng.
Báo chí cung cấp nhu cầu đọc của độc giả một cách có định hướng nhưng đều
phải dựa trên sự thật. Sự thật báo chí phản ánh có thể bao gồm thứ gọi là “thảm họa”
“lá cải” nhưng nó phản ánh đời sống đang hiện hữu các vấn đề này. Tất nhiên, báo chí
chân chính phải dựa trên sự thật đó để tìm ra bản chất vấn đề phía sau các hiện trạng.
Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam nhiều khi xuất phát từ nhu cầu chủ quan từ giới này, và nhà báo cũng như công
chúng chỉ như con rối trong sự điều khiển của người nổi tiếng. Bà có nhận xét gì?
TBT. PTH: Thực tế, nhà báo luôn cần cái đầu tỉnh táo và sự nhạy bén đặc biệt, nên việc mắc lừa có thể xảy ra nhưng có thực tế, hiện nay không ít nhà báo chủ động để... mắc lừa. Điều này cũng phụ thuộc vào sự chọn lựa của cá nhân từng nhà báo và chính sách từ các tòa soạn báo.
44
Nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn được cập nhật từ facebook cá nhân
hoặc mạng xã hội. Điều này là đúng hay sai theo bà?
TBT. PTH: Báo chí có quyền khai thác thông tin, bao gồm cả các thông tin đã
được công khai. Điều này đã được ghi rõ trong luật báo chí. Bởi vậy, nghệ sĩ biểu diễn
khi đăng tải bất cứ thông tin gì lên mạng xã hội thì cần suy xét kĩ và cẩn trọng.
Xin cảm ơn bà!
Trƣờng hợp PVS 05: Diễn viên, MC Trần Mạnh Khang
Nội dung:
Theo Khang, loại hình báo chí nào giúp bạn tiếp cận công chúng nhanh nhất?
Diễn viên, MC Trần Mạnh Khang (DV – MC. TMK): Khang cho rằng
báo điện tử và truyền hình là những công cụ giúp mình tiếp cận công chúng nhanh nhất. Đây đều là những loại hình có lượng công chúng đông đảo tương tác cao nội
dung hấp dẫn… Đặc biệt là báo điện tử thì ngày càng tỏ rõ hơn thế mạnh của mình.
Khang cho rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
hiện nay thường tập trung vào khía cạnh nào?
DV-MC. TMK: Khang thấy báo chí đặc biệt là báo điện tử hiện nay thường
tập trung khai thác vào quá sâu những chuyện đời tư quan hệ tình cảm, scandal của
nghệ sĩ là chính. Những nội dung đó khán giả rất quan tâm, có cung mới có cầu. Có
những bài viết chia sẻ nhiều hơn về cuộc sống người nghệ sĩ sau ánh đèn sân khấu để
công chúng hiểu hơn đồng cảm hơn đó là điều tốt. Tuy nhiên, có những nội dung phù
hợp, có những nội dung thì chưa. Thâm chí có nhiều thông tin hơi lố, sốc và phản cảm.
Theo Khang, nghệ sĩ biểu diễn nên xử lý như thế nào khi có những thông tin
gây sốc về mình đăng trên mặt báo?
DV-MC. TMK: Nghệ sĩ khi bị đăng kĩ quá về scandal đời tư thì chẳng ai
thích cả. Nhưng đã làm nghệ sĩ thì phải xác định sẵn là mình phải luôn cần cẩn
trọng và tôn trọng khán giả. Để đến mức bị báo chí đăng tải scandal thì phải xem lại bản thân mình trước, phải có câu trả lời thực sự thỏa đáng. Hơn nữa, Khang có quan điểm, ở trong giới showbiz này đã là người nổi tiếng người của công chúng, nếu không muốn người ta biết những chuyện không hay về mình thì đừng làm.
45
Liệu những thông tin thảm họa, gây sốc về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
lại xuất phát từ chính giới này?
DV-MC. TMK: Các cụ ta thường nói không có lửa thì làm sao có khói,
nhưng thời nay thì Khang cho rằng không có lửa cũng vẫn có khói được. Khang tôn
trọng quyền thích được nổi tiếng của mỗi người. Có điều, Khang tin cái gì sớm nở thì cũng chóng tàn nếu nghệ sĩ không có thực lực, không cố gắng thì cũng sớm ra đi sớm
lụi tàn. Với nhiều nghệ sĩ họ chịu được áp lực, họ thích như thế, họ chủ động tạo ra
những tình huống gây sốc để xuất hiện trên truyền thông nhưng Mạnh Khang thì
không.
Khang đánh giá như thế nào về việc nhiều bài báo trên báo điện tử lấy lại
thông tin từ trang cá nhân của các nghệ sĩ?
DV-MC. TMK: Nhiều nghệ sĩ tin rằng nhà báo không được lấy thông tin
trên trang cá nhân vì đó là sự tôn trọng quyền riêng tư của mỗi người. Nhưng các
nhà báo cũng có lí khi đăng bởi vì đã là thông tin đăng trên mạng xã hội thì nhà báo
có quyền sử dụng, trích dẫn. Nếu nghệ sĩ không thích bị báo chí cóp nhặt thông tin
thì tốt nhất đừng có đăng. Đừng chia sẻ giống như nhử một miếng mồi thu hút
truyền thông sau đó thì tỏ ra bị tổn thương giống như mình là nạn nhân. Khang
không thích điều này!
Khang đánh giá như thế nào về những điều làm được và chưa làm được của
báo điện tử khi đăng tải về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam?
DV-MC. TMK: Có cung mới có cầu. Trong khi khán giả chỉ thích những
chuyện scandal, khoe hàng...mà nhà báo lại chịu áp lực doanh thu, quảng cáo thì họ
nhiều khi cũng không làm khác được. Có những người làm báo muốn khai thác
những mặt tích cực, công việc của nghệ sĩ một cách chân chính đàng hoàng nhưng
có thể tác phẩm của họ lại chẳng ai đọc. Như thế họ cũng không muốn viết nữa. Báo chí hiện nay có quá nhiều thông tin về scandal, phát ngôn gây sốc, lộ hàng…nhưng
thật khó để trách móc được thực tế đó khi mà kinh tế thị trường ảnh hưởng sâu sắc tới cả hoạt động báo chí lẫn văn hóa nghệ thuật. Nhưng Khang chỉ cảm thấy là nếu các báo cứ đưa mãi về những scandal, phát ngôn gây sốc…như vậy thì thực sự khiến công chúng cảm thấy mệt mỏi.
Theo Khang, trong việc đăng tải thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
trên báo điện tử, nhà báo và nghệ sĩ phải ứng xử như thế nào?
46
DV-MC. TMK: Cả hai bên cần tôn trọng lẫn nhau. Một bên cần chia sẻ thông tin cho khán giả và người đọc, một bên cũng muốn chia sẻ suy nghĩ cuộc sống của
mình cho khán giả đó là mối quan hệ tương hỗ hai chiều và rất cần sự tôn trọng lẫn
nhau.
Xin cảm ơn bạn!
Trƣờng hợp PVS 06: Nhà báo Đinh Ngọc – Trƣởng ban Văn hóa xã hội
– Báo Lao động
Nội dung:
Theo bà, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam có vai trò như thế nào
trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng?
Nhà báo Đinh Ngọc (NB.ĐN): Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới thì thông tin về giới NSBD được tất cả mọi người quan tâm. Có thể cách quan
tâm ở mỗi nơi khác nhau. Ngay ở giữa miền Nam với miền Bắc Việt Nam cũng
khác nhau. Người miền Nam họ thích nghệ sĩ nào họ sẽ lao ra để gặp để lấy thông
tin. Nhưng nghệ sĩ miền Bắc nếu công chúng thích lắm thì họ cũng chỉ nhìn từ xa,
ngó nghiêng chứ không lại gần ngay lập tức. Văn hóa về cách tiếp cận với người nổi
tiếng cũng khác nhau. Trong Nam họ không quan tâm lắm tới đời tư của nghệ sĩ. Họ
chỉ quan tâm anh đó lên phim lên sân khấu thì như thế nào? Có xinh đẹp không?
Họ dễ tính hơn. Nhưng người Bắc họ muốn biết sâu hơn đời sống nội tâm của người
nghệ sĩ. Họ muốn biết cuộc đời, thói quan, sở thích của người ta. Họ khắt khe, hay
tìm hiểu kĩ càng hơn thay vì chỉ xem những người nghệ sĩ trên sân khấu. Nhiều nhà
báo cũng chạy theo xu hướng này mà tích cực khai thác chuyện đời tư nghệ sĩ. Có
điều có thể nhiều nhà báo đã quên mất văn hóa Việt Nam khác với văn hóa phương
Tây, với Đông Âu hay Hàn Quốc, Nhật Bản... Có những dạng thông tin đưa tới
công chúng của họ thì được nhưng đưa tới công chúng của Việt Nam thì phản cảm.
Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới nghệ
sĩ biểu diễn Việt Nam, theo bà loại hình báo chí nào có thể giúp những thông tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Tại sao?
NB.ĐN: Báo điện tử là hình thức được những người làm truyền thông chú trọng nhiều nhất. Sự tiếp cận của nó lập tức, mức độ lan tỏa mặc dù không bằng mạng xã hội nhưng độ tin cậy rất cao.
47
Nhiều người cho rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên các báo trang báo điện tử thường tập trung vào những vấn đề hậu trường đời
tư, scandal..., giật gân, câu khách. Bà nghĩ sao về quan điểm này?
NB.ĐN: Một nhà báo có nền tảng giáo dục tốt được trang bị kiến thức tốt,
có môi trường xung quanh (tòa soạn báo) tốt sẽ quyết định tin bài được viết ra tốt. Một người đạo đức băng hoại nhưng ở trong một toàn báo tốt cũng sẽ không thể
viết ra được những tác phẩm “thảm họa” không có cửa cho những tác phẩm này
đăng tải. Với một nhà báo k có nền tảng tốt, tòa soạn dễ dãi, dễ bị mua chuộc thì sẽ
dẫn tới thảm họa báo chí. Thực tế là rất nhiều nhà báo bị thu thẻ hành nghề.
Tôi thấy dường như Nhà báo không còn tự coi trọng vị trí của họ vì nguyên tắc và tiêu chí tiên quyết của một người làm báo là định hướng dư luận xã hội. Nhà báo bị chạy theo bạn đọc, nuông chiều bạn đọc quá nhiều khiến cho họ không còn là
nhà báo nữa. Thực ra facebook là một cơ quan thông tấn cá nhân. Mỗi người bây
giờ đều có thể trở thành nhà báo, chuyển tải thông tin. Nhưng nhà báo thực sự thì
phải rất khó khăn để có được một cái thẻ hành nghề, và vì thế nếu những người đó
không có đủ kiến thức đủ khung văn hóa bản lĩnh nghề nghiệp để có thể định
hướng được bạn đọc thì họ sẽ luôn bị đuổi theo mong muốn của bạn đọc. Bạn đọc
muốn biết về Ngọc Trinh thì họ sẽ suốt ngày viết về Ngọc Trinh. Và một từ khóa về
Ngọc Trinh sẽ có được rất nhiều pageview khiến cho họ được nâng lương hoặc
được đánh giá đó là bài viết tốt. Mặc dù bản thân tôi làm lĩnh vực giải trí, tuy nhiên,
tôi vẫn bảo vệ quan điểm một bài viết hay thì d đó là bài về chính trị hay kinh tế
vẫn rất đông bạn đọc. Những bài báo mà thực sự phân tích, bình luận tốt mới là
những bài nâng tầm những người làm báo lên chứ không phải những tin bài giật
gân, lá cải. Ví dụ tôi viết một bài về NSND Trung Hiếu ở thời điểm anh ấy được
phong NSND. Khi đó đồng nghiệp của tôi nói sẽ chẳng ai đọc bài viết đó cả, cứ viết về Ngọc Trinh là lượng view cao nhất. Hôm đó tôi có nói với bạn ấy chị cá cược với em, chị sẽ viết về vấn đề phong tặng nghệ sĩ nhân dân bây giờ và lượng view cho
bài viết đó sẽ nằm trong “top” của ngày, và quả nhiên như vậy.
Tất nhiên nhà báo phải viết về một vấn đề nóng đang hot chứ không phải đào bới một vấn đề đã cũ và không có vấn đề gì để khai thác. Cái vấn đề để chuyển tải tới công chúng mới là quan trọng và nhà báo cần định hướng được vấn đề đi theo đúng hướng. Kể cả viết về Ngọc Trinh nhưng nếu mãi viết về vấn đề cô ấy cặp với đại gia lấy tiền, ông kia cặp với cô để đánh bóng tên tuổi… thì giới trẻ tiếp cận
48
thông tin nhanh và họ sẽ quên hết mất những ngôn từ chuẩn chỉ văn hóa đọc… Cái mà chúng ta đang đọc mỗi ngày trên báo điện tử hiện nay thì đến 99% theo tôi
không còn là báo chí nữa. Số rất ít những người cầm bút bây giờ viết ra những thứ
tử tế. Không phải cực đoan nhưng bây giờ nhà báo quá nhiều người chạy theo nhu
cầu dễ dãi của bạn đọc. Mà thực ra mọi người quên rằng nhà báo phải là người “lead” định hướng) cuộc chơi chứ không phải bạn đọc. Nhà báo cho công chúng
đọc cái gì họ sẽ đọc cái đó. Lâu nay đang bị tình trạng bạn đọc là người “lead” cầm
trịch cuộc chơi.
Theo bà, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức hút
lớn đối với công chúng như vậy?
NB.ĐN: Đã là người nổi tiếng thì thuyền to sóng cả, sẽ bị soi nhiều hơn những người khác. Từ quần áo, giày dép cho tới son môi… Người nổi trội hơn những người
khác thì bao giờ cũng được chú ý, bị xét nét và đòi hỏi cao hơn. Công chúng giống như
bố mẹ trong một gia đình. Với đứa con luôn học giỏi, một ngày bị điểm 8 họ cũng khó
chịu. Nhưng với đứa học dốt, một ngày được điểm 7 họ cũng mừng ra mặt. Công
chúng luôn đòi hỏi cao với những người nổi tiếng (mà công chúng phải bỏ tiền ra để đi
xem hay mua sản phẩm . Còn người thường thì họ quan tâm gì?
Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
nhiều khi xuất phát từ nhu cầu của công chúng. Bà có nhận xét gì?
NB.ĐN: Tôi thấy không hẳn vậy. Công chúng bây giờ thông minh vô cùng.
Nhìn thấy trẻ con hú hét khi gặp thần tượng đừng cho rằng chúng dở hơi. Ngày
mình bé cũng từng xếp hàng mấy giờ đồng hồ để được Lý Hùng, Diễm Hương kí
vào sổ đó cũng là “cuồng thần tượng. Chẳng qua cách thể hiện độ “cuồng” đó ở
mỗi thời nó có một kiểu khác nhau. Bạn đọc cũng vậy, nhu cầu mỗi thời khác nhau.
Nhu cầu cuộc sống khác nhau, nhu cầu đọc cũng khác nhau. T y từng môi trường sống để chọn lọc người đọc. Báo điện tử thường hướng tới những người ở thành phố. Mà những người ở thành phố họ không có thời gian. Họ phải đọc những gì
nhanh, ngắn dễ hiểu. Nhưng dễ hiểu không có nghĩa là dễ dãi. Mà các nhà báo hiện nay hầu hết đang biến dễ hiểu thành dễ dãi.
Công chúng hiện nay không chỉ thích thông tin đời tư sốc, sex, sến, scandal…của nghệ sĩ biểu diễn. Họ quan tâm hết nhưng họ lười, họ bận, họ muốn xem một chùm ảnh thay vì phải đọc. Đó là nhu cầu bạn đọc thay đổi nhưng bản thân
49
nhà báo lại không chịu thay đổi. Viết thông tin ngắn nhưng hay súc tích họ vẫn đọc. Công chúng bây giờ là thế hệ “one touch” vậy nên người làm báo phải viết
ngắn thôi nhưng phải “chất” cập nhật. Công chúng bây giờ có nhiều sự chọn lựa,
hay, hấp dẫn bắt mắt thì mới thu hút được họ. Nhưng không phải họ nhạt nhẽo, họ
cũng thích có chọn lọc.
Phải làm được cái người ta thích theo ý mình. Nhà báo phải kiểm soát được
thông tin mình đưa ra. Báo chí phải mang tính phát hiện, phải mang tính khác biệt,
phải đưa ra được vấn đề cốt lõi
Theo bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
hiện nay có hiệu quả không?
NB.ĐN: Bây giờ thông tin đang bị nhiễu loạn. Người làm báo khi viết về nghệ thuật, ví dụ như âm nhạc phải am hiểu về âm nhạc đủ kiến thức về âm nhạc,
có thẩm mĩ về âm nhạc để hiểu được một bản nhạc thế nào là hay, một người hát thế
nào là hay… thì mới có thể viết về âm nhạc. Còn mù mờ thì sẽ thường xuyên viết sai.
Nói Sơn T ng là đạo nhạc trong khi bản thân mình không biết thế nào là đạo nhạc thì
chỉ là ăn theo nói leo và võ đoán không phải báo chí. Nghe giống giống đó là Medody.
Những người đi học ở Nga về chẳng hạn thì sáng tác của họ đều mang âm hưởng giai
điệu nhạc của Nga. Melody giống nhau là hết sức bình thường. Chỉ khi nào bản hòa âm
phối khí giống thì mới gọi là ăn cắp. Nhưng nhiều nhà báo không hiểu điều này vẫn
viết về đạo nhạc, về âm nhạc. Hoặc viết bài về điện ảnh thì phải hiểu về điện ảnh, có
thể phân tích về điện ảnh, lý giải được chứ không thể cứ nói mà không hiểu. Mọi người
hay cho mình quyền phán xét nhưng nhiệm vụ chính của nhà báo là đưa tin chứ không
phải phán xét, bình luận. Bình luận là nhiệm vụ của chuyên gia. Vậy thì nhà báo phải
phỏng vấn chuyên gia nếu họ không có đủ kiến thức.
NB.ĐN: Điều đầu tiên mà nhà báo mang tới cho tòa soạn là lượng bạn đọc, cho mình là uy tín với xã hội còn cho công chúng là thông tin. Nhưng phải đưa thông tin chuẩn. Đó là điều các nhà báo phải lưu tâm. Nó rất quan trọng, giúp cho
xã hội tốt hay không tốt.
Bà có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các trang báo
khác và mạng xã hội?
50
NB.ĐN: Báo chí bây giờ có quy định về cop lại tin bài. Phải có sự liên kết mới lấy được bài của nhau để đăng lại. Những báo đúng là báo thì muốn lấy tin bài
đăng lại phải xin phép đàng hoàng.
Đối với mạng xã hội, nhà báo không cần xin phép vì về nguyên tắc, khi viết
trên mạng xã hội thì tức là nghệ sĩ đã “public” thông tin tức là nhà báo được quyền lấy lại. Các nghệ sĩ Việt Nam mỗi khi bị nhà báo khai thác thông tin mình viết trên
mạng xã hội thường phản ứng rằng phải xin phép tôi mới được lấy đó là họ chưa
hiểu rõ vấn đề. Lấy thông tin trên mạng xã hội để đăng tải không sai, tuy nhiên cách
nhà báo cắt ghép chuyện này với chuyện kia, suy diễn từ thông tin trên mạng xã hội
để thành thông tin chính thống đăng trên mặt báo thì là nhà báo sai. Ví dụ Hồ Ngọc Hà đăng ảnh tét vào mông con trai cô lên mạng xã hội thì nhà báo suy diễn Hồ Ngọc Hà muốn ám chỉ điều này điều kia thì là sai. Nhà báo quên mất mình là người
đưa tin mà lại đi bình luận. Nhà báo không được phép bình luận. Nhà báo chỉ dùng
sự hiểu biết của mình để nhìn nhận vấn đề chứ không phải tự ý bình luận. Trên thế
giới không có nhà báo nào chê Jenifer Lopes biết nhảy không biết hát… Britney hát
không hay… mà phải là chuyên gia này nói, chuyên gia kia phân tích.
Nhiều người cho rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay
đang bị “lá cải hóa” theo cách làm báo giải trí của phương Tây, bà nghĩ sao?
NB.ĐN: Thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam mà báo điện tử đang
đăng tải hiện nay không phải là thông tin “lá cải”. Lá cải làm không dễ chút nào,
càng khó khi muốn gây sốc cho bạn đọc. Thông tin sai sự thật thì không được gọi là
lá cải. Thông tin thô bỉ vô văn hóa cũng không được gọi là lá cải. Lá cải được tính
là những thông tin mang tính chất đọc cho vui đọc xong rồi quên. Mà thông tin
thảm họa về giới Showbiz Việt hiện nay đa phần là những thông tin không đúng
thông tin sai sự thật để gây sốc chứ không phải thông tin lá cải đọc xong rồi thôi.
Từng là người quản lý truyền thông cho nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam nổi tiếng, theo bà, liệu thông tin “thảm họa” về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được cho rằng đôi
khi xuất phát từ chính giới này khi họ muốn gây chú ý với công chúng?
NB.ĐN: Tôi vẫn cho rằng, những thông tin thảm họa về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam chỉ là con sâu làm rầu nồi canh mà thôi. Báo chí Việt Nam vẫn là nền báo chí sạch, không bị chi phối quá nhiều bởi tiền. Một nghệ sĩ khi cho một nhà báo tiền mà nghệ sĩ đó không đủ tốt thì các nhà báo khác cũng không theo. Ở Việt
51
Nam có tiền mà không có thực lực thì cũng chẳng là ai cả. Nghệ sĩ cũng vậy, có tiền mà không hát hay đàn giỏi, không có thực lực thì không bao giờ có vị trí trong lòng
công chúng, không bao giờ tồn tại được. Đó chính là cái riêng biệt của văn hóa nghệ
thuật so với những loại hình khác, của sản phẩm hàng hóa nghệ sĩ so với các sản
phẩm hàng hóa khác trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong thời mà người ta gọi là “công nghiệp giải trí”.
Cuộc sống là một dòng chảy không ngừng. Nghệ sĩ cũng vậy. Cũng sẽ phải
theo dòng chảy đó. Chúng ta nên tiếp nhận văn hóa nhưng đừng tạo ra sự phản cảm.
Có những người tại sao họ đứng được trên sân khấu rất nhiều năm mà khán
giả không chán? Và cũng phải đặt lại câu hỏi tại sao có những người hát rất hay mà không thể thành sao? Duy tâm nói muốn thành sao phải có số. Nhưng nói về truyền thông thì sự cố gắng là điều rất quan trọng, bởi vì bây giờ là thời đại của công nghệ
truyền thông, quảng bá hình ảnh người nghệ sĩ cũng phải biết cách làm sao quảng
bá hình ảnh của mình một cách hiệu quả nhất.
Theo bà, trong việc thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, báo điện tử
đã làm được gì và chưa làm được gì?
NB.ĐN: Điều mà báo chí chưa làm được nhất là làm hư nghệ sĩ. Trong nghệ
thuật có câu rất hay là “khen cho đến chết”. Báo chí chê không đúng khen lại quá
đà nên làm hư nghệ sĩ. Báo chí Việt Nam cũng hơi khắc nghiệt với nghệ sĩ dễ làm
tổn thương người nghệ sĩ. Một cô gái đẹp thì đừng bắt cô ấy thông minh, một cô
thông minh đừng bắt cô ấy đẹp.
Điều làm được là vẫn có những bài viết, những nhà báo biết bình luận đúng sâu
và mang tính phân tích cho người làm nghề, vẫn mang tới cho công chúng những bài
báo rất hay đáng để đọc đủ tử tế và mang tính định hướng cho nghệ sĩ lẫn công chúng.
Theo bà, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử có hiệu quả hơn, tích cực hơn và văn hóa hơn?
NB.ĐN: Phải nâng cao trình độ nhà báo. Hiện nay có rất nhiều người làm báo nhưng không phải nhà báo. Có rất nhiều bạn bị chạy theo pageview mà quên mất vai trò của nhà báo. Nhiều người cũng không được đào tạo một cách chuyên nghiệp, chính vì vậy, họ không hiểu hết giá trị của nhà báo. Ngôn ngữ báo chí hiện nay rất hạn chế. Lâu lắm rồi không thấy những Xuân Ba, Lê Thọ Bình… những người có
52
khả năng định vị bài báo bằng tên của họ nữa. Làm báo giống như phi công tính bằng giờ bay. Viết càng lâu, càng nhiều thì càng hay, không thể giống như những
nghề khác viết một cái là hay luôn. Cần có sự rèn luyện và trải nghiệm. Những người
cầm bút phải là người xuất sắc về mặt câu chữ và kiến thức trong lĩnh vực mình làm,
mình viết.
Trân trọng cảm ơn bà!
Trƣờng hợp PVS 07: Nhà báo Hoàng Nhật Mai – Hoa hậu biển Việt Nam 1999, nguyên Thƣ kí toàn soạn tờ Deponline, Emdep online…; nguyên
Giám đốc kênh VTC Hdvip…
Nội dung:
Theo chị thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn trên báo chí có vai trò như thế
nào trong việc đáp ứng nhu cầu của công chúng?
Nhà báo Hoàng Nhật Mai (NB.HNM): Tôi cho rằng thông tin về giới nghệ
sĩ biểu diễn trên báo chí có vai trò quan trọng, giúp cung cấp thông tin và định
hướng dư luận, thậm chí hình thành nhân cách công chúng. Chỉ có điều mô hình và
cách thức hoạt động đã thay đổi nhiều so với trước đây.
Theo chị, loại hình báo chí nào có khả năng đăng tải thông tin về giới nghệ
sĩ biểu diễn nhanh nhất?
NB.HNM: Chắc chắn là báo điện tử. Tuy nhiên hiện nay báo chí, kể cả báo điện
tử đã dần đánh mất vai trò của mình cho mạng xã hội. Nhiều người nổi tiếng thậm chí đã
tự làm kênh truyền thông cho mình mà không cần báo chí. Tôi cho rằng báo chí đang
dần trở nên lép vế trong lĩnh vực truyền thông. Một thực tế thấy rõ là rất nhiều trang báo
điện tử hiện nay cũng đang chuyển sang dạng liên kết với mạng xã hội.
Theo chị, khi thông tin về giới nghễ sĩ biểu diễn Việt Nam, các trang báo
điện tử thường tập trung đề cập những nội dung nào?
NB.HNM: Mỗi báo có một tôn chỉ riêng nhưng khi làm nghề thực tế thì mặc nhiên sẽ đi theo thị hiếu của công chúng. Mà thị hiếu lại được tạo ra bởi nhiều kịch bản khác nhau và rất dễ bị định hướng. Mảng giải trí là mảng dễ bị định hướng và lôi kéo.
Ban đầu các tòa soạn luôn đưa ra lí tưởng định hướng chung là hướng giới trẻ và công chúng tới những điều lành mạnh. Nhưng khi làm thì áp lực thương mại,
53
mặc nhiên sẽ hướng họ tới điều dễ nhìn thấy nhất: lượt view của công chúng. Dần dần họ xuôi theo theo thị hiếu độc giả thích đọc cái gì nhà báo viết cái đó. Đây là
thực trạng mà theo tôi chiếm đa số trong hoạt động báo chí lĩnh vực văn hóa giải trí
hiện nay. Những thông tin như đời tư scandal hoặc những thứ tưởng như vô
thưởng vô phạt đánh vào sự hiếu kì của công chúng thì bao giờ cũng ăn khách nhất.
Chị đánh giá thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử
hiện nay có hiệu quả hay không?
NB.HNM: Bây giờ báo điện tử chịu sự cạnh tranh trực tiếp và khốc liệt từ
mạng xã hội. Nhiều trang mạng xã hội như Yeah1 Yan…không phải là báo điện tử
nhưng họ vẫn thực hiện chức năng như báo điện tử và có một lượng công chúng cực kì đông đảo, thậm chí lượng “view” “comment” còn cao hơn nhiều tờ báo điện tử. Chính vì sự cạnh tranh này mà hoạt động báo chí hiện nay rất “loạn”. Những người
làm báo lĩnh vực thông tin giải trí nhiều khi không còn giữ được vai trò định hướng
của mình. Nhiều nhà báo dường như chỉ tự định danh cho mình là nhà báo thôi, còn
về bản chất thì cách làm cũ của họ đã bị tụt hậu rất nhiều, bị mất độc giả. Nói như
thế để thấy rằng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử hiện
nay chưa đạt hiệu quả đúng như loại hình này phải có.
Nhiều trang báo điện tử hiện nay khai thác sâu những chuyện hậu trường,
đời tư, scandal, những tình tiết gây sốc…của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam. Theo
chị, điều này có vi phạm đạo đức báo chí?
NB.HNM: Nhiều trang báo điện tử tập trung khai thác những nội dung hậu
trường, gây sốc của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam tôi nghĩ là có lí do của nó. Một
tòa soạn báo khai thác những nội dung này thì mới có hoặc dễ có độc giả. Nếu khai
thác những vấn đề chuyên sâu thì có thể mất rất nhiều công sức nhưng khả năng
không ai đọc lại rất cao. Xã hội đưa đẩy, áp lực thương mại hóa đưa đẩy, trong khi có những người nổi tiếng sẵn sàng gây dựng hình ảnh xấu chỉ để được tiếp cận nhiều nhất với công chúng thì nó dẫn tới hiện trạng này. Ví dụ, một clip trên
youtube để nằm trong vị trí có nhiều người đề xuất nhất thì phải đáp ứng hai tiêu chí: một là phải hay, hai là phải có nhiều người xem, nhiều người comment, chửi cũng được khen cũng được. Cho nên về mặt đạo đức không ai khuyến khích báo chí khai thác những vấn đề hậu trường, gây sốc cả. Nhưng về mặt thực tế nhiều tòa soạn, nhiều nhà báo không có cách nào khác. Đôi khi chính những người nghệ sĩ
54
sẵn sàng chia sẻ và có một kịch bản truyền thông với tòa soạn báo, với nhà báo để có thể nổi tiếng bằng mọi giá. Có những nghệ sĩ có tài họ sẽ lên bằng thực tài của
mình. Nhưng có những nghệ sĩ không có tài thì họ chỉ cần thu hút sự chú ý với công
chúng, chỉ cần công chúng biết đến là đủ. Một người nghệ sĩ để có được danh tiếng
nhất định, nếu đi bằng con đường danh chính ngôn thuận chắc chắn rất là lâu, mà thực tài của bản thân thì không phải ai cũng xuất sắc. Một nghệ sĩ chân chính phải
mất bao nhiêu năm học nghề, rèn luyện thì mới thành tài để được biểu diễn, thu
thanh. Họ phải có nhà đầu tư lớn, hoặc có tài để tham gia vào rất nhiều các cuộc thi
lớn. Nhưng không phải ai cũng may mắn gặp được nhà đầu tư lớn, trong khi hàng
triệu người tham gia vào các cuộc thi tài năng cũng chỉ có một người được giải, do đó áp lực đối với nghệ sĩ biểu diễn để thành công để có một chỗ đứng là rất lớn. Do đó nghệ sĩ hoặc là có tài năng hoặc là phải tìm một người đỡ đầu, hoặc phải biến
mình thành một dị bản nào đó để gây chú ý. Họ cần phải có bệ phóng. Mà trong đó
nhiều người nghĩ rằng truyền thông là một bệ phóng hữu hiệu. Nếu cứ bình thường
thì không ai để ý nhưng nếu xảy ra những câu chuyện đánh vào tử huyệt cảm xúc
thì lại rất thu hút công chúng, rất dễ để công chúng biết tới họ.
Khai thác những thông tin thảm họa là một thực tế không thể chối bỏ. Nền
kinh tế thị trường thay đổi con người, nền công nghiệp giải trí cũng thay đổi tư duy
và quan điểm về làm nghệ thuật. Nó là trào lưu xu hướng trong sự thương mại hóa
nói chung mà người ta không tránh được. Tất nhiên, nghệ thuật luôn có sự khác biệt
và đặc trưng riêng kể cả khi bị thương mại hóa cỡ nào chăng nữa.
Không phủ nhận, có những người nghệ sĩ bị kéo vào, bị hại trong cái trào lưu
chung này, có những người bị scandal thật, có những người là tự tạo ra scandal. Tuy
nhiên rõ ràng, hiện nay làm báo là bám “trend” xu hướng). Nhiều nhà báo lên
google xem “trend” đang là gì thì phải bằng mọi giá khai thác cái “trend” đó. Ví dụ từ khóa hôm nay là “ấu dâm” thì nhà báo phải làm sao để khi công chúng tìm kiếm từ “ấu dâm” trên các trang tìm kiếm sẽ phải dẫn link tới trang báo của mình. Họ tin
đó là cách nhanh nhất để có người đọc có lượt “view” cao. Mà lượng “view” lại là yếu tố sống còn đối với một tòa soạn vì bây giờ chẳng có doanh nghiệp nào bỏ tiền mua quảng cáo mà không quan tâm tới lượt “view”.
Thuật toán của google và facebook cũng là lí do khiến mọi thứ liên quan tới truyền thông, bao gồm cả báo điện tử phải xoay chuyển theo nó. Nếu cứ làm báo theo
55
kiểu lối cũ thì chỉ có hai lí do: trang báo đó được nuôi hoặc trang báo đó chưa thức thời.
Với những gì chị vừa đề cập, thì phải chăng thương mại hóa là một trong
những nguyên nhân khiến thực trạng báo chí phải đối diện với nhiều thông tin thảm
họa về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam như hiện nay?
NB.HNM: Đúng là như vậy. Và chúng ta không thể kiểm soát được. Các tòa
báo chính thống họ vẫn nghiêm túc đi theo đường lối chủ trương hoạt động báo chí
vì họ được nuôi. Họ không cần cũng không có fanpage comment... Nhưng quay trở
lại vấn đề là có ai đọc họ không lại là câu chuyện khác.
Những thảm họa thông tin này theo chị liệu có phải là kết quả của giao lưu
văn hóa không?
NB.HNM: Thảm họa thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam một phần
đúng là hệ quả từ việc giao lưu văn hóa. Văn hóa bây giờ là không biên giới. Trong
sự giao lưu cái gì hấp dẫn nhất, dễ tiếp cận nhất thì người ta sẽ theo. Ví dụ thời
trang Hàn Quốc, phim ảnh Hàn Quốc đồ ăn Hàn Quốc... Nó có thể do chiến lược
xâm lấn văn hóa của các nước khác, họ biết cách đánh vào đúng tâm lý của công
chúng thông qua phim ảnh, âm nhạc. Giới trẻ xem những gì họ thích, và rồi họ mê
thời trang, ẩm thực Hàn Quốc, lịch sử Hàn Quốc... Còn Việt Nam, mặc dù nói phải
tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc nhưng cách truyền thông của chúng ta chưa hợp
lý, không khích lệ được công chúng cảm và yêu những nét văn hóa đó.
Chị có cho rằng công chúng Việt Nam có nhu cầu xem những thông tin sến,
sốc, sex về giới nghệ sĩ biểu diễn hơn là thông tin văn hóa nghệ thuật chính thống?
NB.HNM: Có đó là thực tế. Tâm lý hiếu kỳ là bản năng của con người.
Đứng giữa hai tin lũ lụt giết chết trâu bò ở Sapa, với tin Trấn Thành và Hari won,
người ta thường dễ đọc tin về Trấn Thành.
Đối tượng mong muốn tìm hiểu về nét đẹp trong văn hóa nghệ thuật... quá ít.
Hơn nữa, bởi con người hiện nay có quá nhiều lựa chọn nên dần dần họ bị chai lì. Lúc trước có ít thứ để đọc nên thông tin nào cũng khiến họ rất lưu tâm nhưng bây giờ mở ra có quá nhiều cái để đọc, cho nên phải có cái gì đó phải thực sự gây ấn tượng gây xúc động mạnh mẽ thì công chúng mới quan tâm đến nó. Điều này có nghĩa cảm xúc của con người ta bị chai lì theo thời cuộc. Ngày trước chỉ cần có kịch
56
thôi mọi người đã túa đi xem nhưng bây giờ một vở kịch không đủ thuyết phục thì sẽ không có khán giả bởi người ta có quá nhiều lựa chọn khác.
Văn hóa giải trí hay phim ảnh ngày nay phải đối diện với áp lực cạnh tranh
rất lớn, không có biên giới. Sản phẩm nào phải thực sự đặc sắc mới có thể tồn tại
được. Do đó khái niệm “viral” nó trở nên phổ biến nghĩa là phải tạo ra được một làn sóng chia sẻ ai xem cũng thích thì mới trở thành “hit” được.
Theo chị, trình độ dân trí có ảnh hưởng tới cách đăng tải thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo điện tử?
NB.HNM: Không! Người ta hay nghĩ như vậy nhưng công chúng là những
người tinh khôn hơn chứ không dễ bị lừa lọc hay hư hỏng bởi trào lưu. Có những thứ “virial” khủng khiếp đâu đâu người ta cũng nhắc tới nhưng chỉ một hai ngày sau nó đã bị lãng quên. Công chúng bị xoáy theo dòng xoáy của thông tin nhưng không dễ bị làm
hỏng. Nhưng tất nhiên những thông tin đó vẫn có thể gây ra những hệ lụy to lớn.
Chị nhận xét sao về tình trạng cóp nhặt tin bài từ các báo khác và các trang
mạng xã hội của báo điện tử hiện nay khi thông tin về giới NSBD VN?
NB.HNM: Bây giờ quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông rất chặt,
không phải muốn coppy là được. Có điều xu thế làm truyền thông đang ngày càng
thay đổi nhanh chóng. Phải thừa nhận thực tế, có những trang mạng xã hội làm nội
dung tốt thì không cần giấy phép nào cả, chỉ cần ngồi tổng hợp lại thông tin hay thôi
họ cũng đã có một lượng công chúng lớn. Ngoài ra, rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng tự sử
dụng trang cá nhân của mình như một trang thông tin, và sinh ra khái niệm KOL,
sinh ra xu hướng quảng cáo không bỏ tiền cho một tờ báo nữa mà bỏ tiền cho một
cá nhân. Nếu cá nhân đó là một KOL của một lĩnh vực nào đấy. . Bởi vậy nhiều tờ
báo hiện nay chọn phương thức cóp nhặt, thậm chí bắt tay với mạng xã hội, với các
KOL… để đăng tải tin bài để có độc giả. Điều này không quá khó để hiểu.
Vậy theo chị, việc các trang báo điện tử cóp nhặt thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn VN trên mạng xã hội là đúng hay sai?
NB.HNM: Theo tôi, không có khái niệm đúng sai ở đây. Đã có những văn bản rõ ràng về việc chia sẻ và cóp nhặt tin bài tuy nhiên người Việt Nam giỏi nhất là…lách luật. Báo điện tử bây giờ thậm chí còn kết hợp với các nghệ sĩ biểu diễn là
57
các KOLs (Key opinion leader – người định hướng dư luận) và các trang mạng các nhân của họ để có lượt “view” và hợp đồng quảng cáo.
Thực tế cho thấy, doanh thu quảng cáo mà nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam làm
KOLs thu được hàng tháng thậm chí còn cao hơn nhiều tòa soạn báo điện tử. Ví dụ như
Chipu, Robbey.. có thể kiếm được hàng tỷ, thậm chí hàng chục tỷ từ việc đăng tải các bài viết lên trang cá nhân. Nhiều nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam không kiếm tiền bằng việc biểu
diễn trên sân khấu mà kiếm tiền từ các post trên mạng xã hội của họ.
Các doanh nghiệp bây giờ không quan tâm nhiều tới trang báo điện tử nào đó
liệu có phải là báo chính thống hay không, họ chỉ quan tâm các bài viết đăng tải trên
báo đó có bao nhiêu người đọc, liệu có bao nhiêu công chúng có khả năng tiếp cận với thông điệp mà họ quảng cáo trên trang báo này? Do đó xu hướng kết hợp và tận dụng sức hút của nghệ sĩ biểu diễn là các KOLs để tận dụng sức hút và sự lan tỏa
của họ, từ đó có được những tin bài có lượt “view” cao là một xu hướng tất yếu.
Trên thực tế, sự kết hợp này mang lại lợi ích cho cả đôi bên: nghệ sĩ và nhà báo.
Các trang cá nhân hoặc trang mạng vệ tinh của bạn ấy thậm chí còn có lượng
người theo dõi đông đảo hơn cả các trang báo điện tử chính thống. Vậy nên, một bài viết
về Đông Nhi Sơn T ng hay Soobin Hoàng Sơn… thường có lượng “view” cực khủng,
có thể nuôi lượng “view” cả tháng cho trang báo đó. Cho nên các tòa soạn báo bây giờ
thường đi theo hướng viết hay phỏng vấn về các nghệ sĩ nổi tiếng và để các nghệ sĩ nổi
tiếng ấy chia sẻ link trên trang cá nhân hoặc các trang vệ tinh của họ. Nó gần như một sự
trao đổi tương hỗ. Không phải là sao cần báo nữa rồi mà là báo cần sao.
Theo chị, làm cách nào để có thể nâng cao chất lượng tin bài về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam trên các trang báo điện tử?
NB.HNM: Tôi cho rằng điều này phụ thuộc vào từng cá nhân làm báo, phụ
thuộc vào lòng yêu nghề, mức độ đam mê và trách nhiệm của họ.
Một bài báo bây giờ dưới 500 người đọc là không có nhuận bút. Đó là một
áp lực khủng khiếp cho người làm báo. Nếu tin bài không hay cho d đăng link lên trang cá nhân, kêu gào thảm thiết thì bạn bè cũng chỉ click vào đó một lần ủng hộ. Nhưng nếu hay, không cần kêu gọi người ta cũng tự đọc, bài viết cũng tự lan tỏa. Nhưng thế nào là hay? Hay tức là phải gãi đúng chỗ ngứa của độc giả.
58
Bây giờ người ta chỉ “share” chia sẻ) những thứ độc đáo: phim bom tấn, sức khỏe kinh nghiệm chữa bệnh gì đó thông tin gây sốc..., hoặc những cái liên quan
mật thiết tới miếng cơm manh áo của người ta người ta mới “share”.
Báo chí buộc phải thay đổi nếu muốn tồn tại.
Áp lực của tòa soạn sẽ đè nặng lên phóng viên. Suy nghĩ mình viết những bài tử tế chưa chắc đã có ai đọc, trong khi những tin sến sểm vừa nhanh, vừa đỡ hại
não, lại vừa nhiều người đọc là suy nghĩ phổ biến của rất nhiều nhà báo và tòa soạn
báo. Mỗi thành tố như thế hàng trăm tòa soạn báo như thế nó thành thực trạng
thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên báo chí nói chung và trên báo điện
tử nói riêng như hiện nay.
Chị vừa đề cập tới khía cạnh nhà báo, vậy từ khía cạnh công chúng thì sao? Công chúng có thể giúp thay đổi chất lượng tin bài về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam trên báo điện tử?
NB.HNM: Ở xã hội mà nền tảng internet phủ sóng mọi ngóc ngách, cái bàn
phím cho người ta quyền muốn chửi ai, chỉ trích ai cũng được. Chửi đổng, chửi
thẳng hay mượn gió bẻ măng làm hại người khác cũng được. Nó giúp ai đó lên hàng
sao kiếm được hàng tỉ đồng cũng có thể giết một người nghệ sĩ mà không cần
gươm hay dao khiến người ta mất hết cả cuộc đời chỉ từ cái bàn phím đó.
Sống trong xã hội hiện đại, thông tin vàng thau lẫn lộn này, công chúng cần
phải rèn luyện cho mình tinh thần lãnh cảm đối với các loại hình thông tin. Đừng
adua theo trào lưu nào hết. Gặp một vấn đề tiêu cực, hãy luôn biết đặt dấu hỏi và
đừng vội hoàn toàn tin theo cái gì cả.
Còn nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam thì sao, họ nên đối diện với truyền thông như
thế nào?
NB.HNM: Họ nên chủ động. Bây giờ các nghệ sĩ trẻ hầu như là có công ty tự quản lý hoạt động truyền thông của họ như Đông Nhi Hồ Quang Hiếu, Lý Hải,
Sơn T ng ...chẳng hạn.
Những người nổi tiếng một là im lặng hai là phân bua. Nhưng phân bua thì lại thường trở thành con mồi của dư luận, càng nhiều người nói về họ hơn khiến họ trở thành “trend” cho các báo mổ tới tan nát.
59
Thời buổi bây giờ muốn làm showbiz làm lĩnh vực giải trí thì hoặc phải tham gia cuộc thi nào đó và trở thành miếng mồi cho truyền thông, hoặc là chân
chính thì chẳng ai quan tâm. Nhưng theo trào lưu truyền thông thì nghệ sĩ phải đi
theo truyền thông đối diện với truyền thông và chấp nhận mọi kịch bản có thể xảy
ra trong truyền thông. Do đó họ cần chủ động để có thể hạn chế nhất những rủi ro và hậu quả không đáng có.
Xin cảm ơn chị!
Trƣờng hợp PVS số 08: Nhà văn Bùi Việt Thắng – Hội viên Hội Nhà văn
nguyên Phó trưởng Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại – Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn
Nội dung:
NCS: Thưa nhà văn Bùi Việt Thắng, theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu
diễn có vai trò như thế nào trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng?
Nhà văn Bùi Việt Thắng (NV.BVT): Trước đây chúng ta chưa quan tâm
đúng mức đến chức năng giải trí của văn học - nghệ thuật (chỉ chú trọng ba chức
năng chính: nhận thức - giáo dục - thẩm mỹ . Trong lĩnh vực văn chương trên các
báo chí thường có mục “chuyện văn chuyện đời” hay “phía sau tác phẩm”. Đó là
chuyện “hậu trường văn chương” hay là “bếp núc văn chương”. Những chuyện này
rất “bắt mắt” độc giả. Tôi xin nêu một ví dụ sách “Nguyễn Đình Thi – Bí mật cuộc
đời” Nhiều tác giả NXB Văn học, 2008). Phải nói ngay rằng đây là một bestt-
seller. Trong cuốn sách này có nhiều chuyện thuộc “thiên tình sử” của nhà văn
Nguyễn Đình Thi. Nhưng ấn tượng nhất là chuyện tình của Ông với nữ nhà báo
Pháp Mađơlen Riphô. Nhưng phải nói thêm là, Hội Nhà văn Việt Nam hiện có hơn
1000 hội viên mà chỉ có mỗi cuốn sách viết về “bí mật cuộc đời” của một nhà văn
nổi tiếng trên văn đàn hiện đại. Tôi nói rộng và xa ra như thế để dễ bề trở lại câu hỏi của chị.
Đúng là trên các phương tiện truyền thông hiện nay đang có cơn sốt thông tin về giới nghệ sỹ biểu diễn NSBD . Tôi nghĩ đó là một cách PR. Có gì là không tốt khi PR?! Nếu nhìn với con mắt bình thường, cởi mở thì cũng không có gì đáng quan ngại. Vì thời bây giờ cái gọi là “hữu xạ tự nhiên hương” cũng không phát huy tối đa được nếu không nhờ ngoại lực. Nên nhớ là, công chúng nghệ thuật ngày nay đã khác trước rất nhiều. Nếu chúng ta đóng cửa, xét nét, khô cứng thì những chuyện
60
“hậu trường” của giới NSBD vẫn cứ bung ra như một nhu cầu tự thân. Như người ta nói cơ chế thị trường tự nó sắp xếp điều chỉnh tất cả, không trừ nghệ thuật.
Vả lại bây giờ trong các cuộc thi các game show thôi thì như sao sa như
nấm mọc sau mưa có mục “khán giả bình chọn”. Vì thế nên công chúng cũng rất
cần những thông tin của người mình mến mộ, thậm chí là si mê với ý nghĩa là những “fan cuồng”! Thông tin về giới NSBD tôi nghĩ cũng như một thứ “gia vị”.
Nhưng phải d ng cho đúng chỗ và đúng liều lượng.
NCS: Các loại hình báo chí hiện nay thường xuyên đăng tải thông tin về giới
nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam, theo ông loại hình báo chí nào có thể giúp những thông
tin này tiếp cận công chúng nhanh nhất? Và tại sao?
NV.BVT: Thời trước chỉ có báo giấy, sau rồi có báo hình, bây giờ thì có báo điện tử (online). Lại thêm một thế giới facebook, riêng tôi thấy nó như con khủng
long thời hiện đại nó “ngoạm” rất to, rất nhanh thị phần thông tin. Báo mạng và các
trang mạng xã hội đang làm đảo lộn hành vi ứng xử của con người. Con người thời
hiện đại sống theo tinh thần “hiện sinh chủ nghĩa”. Họ cần cái tức thời, cái hiện
hữu. Họ cần chiếm đoạt thời gian (vì với đời sống hiện đại yếu tố thời gian sống
quan trọng hơn không gian sống). Thời đại internet đã tạo nên một “thế giới phẳng”.
Tất cả phơi bày ra dưới thanh thiên bạch nhật.
Nói báo điện tử lên ngôi đúng. Nhưng báo giấy cũng không vì thế mà chết
hẳn. Một số tờ như Tuổi trẻ, Công an Tp.HCM, An ninh thế giới Đang yêu Thanh
Niên Văn nghệ Công an …vẫn có số lượng phát hành lớn. Và vẫn rất bắt mắt khi
thông tin về giới NSBD. Nhưng có chừng mực có cái “ngưỡng” cần thiết. Vì thế
chúng không bị xếp vào cái gọi là “lá cải”.
NCS: Theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay trên
các báo thường tập trung vào những vấn đề gì?
NV.BVT: Thông tin về giới NSBD Việt Nam hiện nay trên báo chí , theo tôi,
thường chỉ mới chú ý “săm soi” đời tư. Tất nhiên chú mục vào chỗ đó thì chuyện mới “màu mỡ riêu cua” như cách nói của dân gian (chuyện bỏ vợ bỏ chồng, chuyện ngoai tình, chuyện tay ba tay tư chuyện đồng tính, chuyện chuyển giới và đặc biệt là các scandal . Cũng vì sức ép của cơ chế thị trường nên khi “loan tin” các báo thường giật tít (giật gân để bán báo (báo giấy để nhiều người đọc báo điện tử). Người ta gọi là “câu view”.
61
Ít báo khi thông tin về giới NSBD chăm chút cho sự học con đường khởi nghiệp, sự tiến bộ và nhất là cái căn cốt văn hóa của giới NSBD. Thậm chí là những
tấm gương vượt lên số phận. Nghĩa là thông tin báo chí về giới NSBD chưa nói
được cái tinh hoa văn hóa mà nghệ sỹ góp vào nền văn hóa dân tộc. Ở ta danh hiệu
“nghệ sỹ” đang bị lạm dụng. Nói chính xác thì chỉ mới có người hát (âm nhạc), người diễn (sân khấu điện ảnh). Nghệ sỹ là một phẩm chất cao. Nên dùng cách nói
“người biểu diễn” thì chính xác hơn. Cũng như trong lĩnh vực văn chương có sự
phân biệt “người viết văn” viết ra tác phẩm và “nhà văn” tác phẩm và tác giả
được xã hội công nhận “tác gia” nhà văn tài năng .
NCS: Theo ông, vì sao thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam lại có sức
hút lớn đối với công chúng như vậy?
NV.BVT: Nói thông tin về giới NSBD có sức hút công chúng lớn, là một
cách nói quá, có tính chất thương mại. Ngày trước nghe trên đài một ca sỹ trình bày
một bài hát hay là công chúng nghệ thuật rung động, ám ảnh (ví dụ như nghệ sỹ Tân
Nhân hát “Xa khơi” nghệ sỹ Quốc Hương hát “Hà Tây quê lụa” … . Họ không cần
biết đằng sau nghệ sỹ ấy có những chuyện gì. Chỉ biết đồng cảm và sáng tạo cùng
cái đẹp mà tác phẩm mang lại. Ngày trước tôi nghe trên đĩa nữ nghệ sỹ Nga
Pugachova hát, thấy hay và hấp dẫn ví như bài “Triệu triệu bông hồng” . Hoàn
toàn không biết bất cứ một thông tin cá nhân nào. Khi sang Liên-xô công tác vào
cuối những năm 80 của thế kỷ trước, một lần duy nhất tôi được nghe và nhìn ca sỹ
lừng danh này hát ở Sân vận động trung tâm Luznhiky Matxcơva . Người Nga gọi
Pugachova là “người đàn bà hát”. Tôi có tìm một số báo tiếng Nga để xem có thông
tin nào thuộc về đờilowsy cũng như những chuyện “giật gân” của nữ nghệ sỹ.
Nhưng đáng tiếc là gần như không có.
Nói thông tin về giới NSBD có sức hút lớn với công chúng tôi nghĩ rất có thể là vu khoát. Nếu người nghệ sỹ hát không hay, biểu diễn không giỏi thì những thông tin ấy chỉ là “ngoài lề” “phụ gia” chỉ là “đắp điếm”.
Nói công chúng cũng không nên nói chung chung. Cần có sự phân loại công chúng nghệ thuật. Có công chúng tinh tuyển, tinh hoa (thì mới nghe được nhạc giao hưởng, mới xem được tranh của các danh họa vẽ tranh trừu tượng, hoặc tranh lập thể; mới đọc được các kiệt tác của những văn hào thế giới). Lại có công chúng phổ
62
thông, bình dân. Họ thuộc về văn hóa đại chúng. Mỗi lớp công chúng có sự lựa chọn riêng phụ thuộc vào văn hóa vào mỹ cảm, thậm chí vào túi tiền.
NCS: Theo ông/bà, những thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam này có
hiệu quả không? (xét ở cả ba khía cạnh nhà báo, nghệ sĩ biểu diễn và công chúng).
NV.BVT: Hiệu quả của một công việc như chị nói, xét từ cả ba góc độ (nhà báo – NSBD - công chúng . Nhưng cần phải xem đích tới của nghệ thuật là gì? Rõ
ràng đích tới của nghệ thuật không phải là nhà báo cũng không phải là NSBD, mà
là công chúng nghệ thuật. Chân lý ấy giản dị không cần tranh luận. Nhưng vì một lí
do nào đó mà cái đích đến của nghệ thuật, bây gờ bị người ta đánh tráo.
Vì vậy hiệu quả của thông tin nghệ thuật về giới NSBD, cao hay thấp, phải nhìn từ công chúng nghệ thuật vì “khách hàng là Thượng Đế” . Đó phải là thông tin “sạch” Tín - Đạt - Nhã).
NCS: Nhiều bài viết đã khai thác quá sâu những tình tiết gây sốc, nhằm thu hút
độc giả như: ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, chuyện đời tư, các mối quan hệ tình
cảm... Theo ông, những nội dung này về giới nghệ sĩ biểu diễn có phải là những nội dung
mang tính “lá cải”, “thảm họa”, vi phạm đạo đức báo chí không? Vì sao?
NV.BVT: Đúng là “lá cải” đúng là “ thảm họa” đúng là “vi phạm đạo đức”
khi báo chí đưa thông tin về giới NSBD mà chỉ chăm chăm chuyện trang phục (kín
hay hở), phát ngôn (tự nhiên chủ nghĩa tự do vô lối, phản cảm đời tư vợ bé,
chồng hờ) và các quan hệ tình cảm phức tạp tay ba tay tư đồng tính … . Những
nghệ sỹ lớn thường không chịu tai họa truyền thông kiểu này. Đặng Thái Sơn nghệ
sỹ piano quốc tế, là một ví dụ. Những nghệ sỹ “thường thường bậc trung” muốn lên
hạng đôi khi phải ăn theo truyền thông một cách chủ động. Cái ấy người ta gọi là
“lăng –xê”.
Nếu chúng ta theo dõi truyền thông nước ngoài về giới nghệ sỹ, thấy họ rất thận trọng khi đưa tin. Dĩ nhiên không tránh khỏi đây đó “giật gân” “câu khách” ví
dụ xung quanh cuộc đời và cái chết của ca sỹ Mỹ lừng danh M. Jacson . Nhưng rất họa hoằn. Cũng bởi luật pháp ở nước họ rất nghiêm minh, nếu ai đó đưa tin “xằng bậy” có thể bị kiện ra tòa và chịu án phạt rất nặng.
63
NCS: Nhiều người cho rằng thông tin tiêu cực về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam nhiều khi xuất phát từ nhu cầu chủ quan từ giới này, và nhà báo cũng như công chúng chỉ
như con rối trong sự điều khiển của người nổi tiếng. Ông có nhận xét gì?
NV.BVT: Khi nhà báo và công chúng trở nên như con rối trong sự giật giây
của giới NSBD (nổi tiếng thì ít, tai tiếng thì nhiều thì khi đó nhà báo và công chúng đều có thể xếp vào “hạng bét” cuối). Ở ta, những nghệ sỹ nổi tiếng như Trà
Giang điện ảnh), Quốc Hương âm nhạc), Chu Thúy Quỳnh (múa), Nguyễn Tiến
Thọ (nghệ thuật tuồng), chẳng hạn nhưng không thấy họ giật dây điều khiển được
nhà báo và công chúng nghệ thuật.
Cho nên ai đó bị giật giây và bị điều khiển bới những người “nổi tiếng” hay tai tiếng?!) thì chính họ cũng phải đào tạo lại. Vì trong hàng nghìn nhà báo có nhiều nhà báo kém, thậm chí “bẩn”. Vì công chúng nghệ thuật ngày nay phức tạp hơn,
chia rẽ hơn đáng phải đào tạo lại hơn.
NCS: Theo ông, có đúng là công chúng thích và tò mò những thông tin hậu
trường, bên lề (ăn mặc, phát ngôn, đời tư, scandal...) của giới nghệ sĩ biểu diễn Việt
Nam hơn là những thông tin về hoạt động nghệ thuật của họ?
NV.BVT: Nói công chúng nghệ thuật thích và tò mò những thông tin hậu
trường về giới NSBD là “vơ đũa cả nắm” là vu khoát. Công chúng ấy chỉ là một
bộ phận thôi. Công chúng đích thực vẫn rất quan tâm về những hoạt động nghệ
thuật của giới NSBD. Mỗi nghệ sỹ có một con đường nghệ thuật và số phận riêng.
Nếu là một nghệ sỹ tài năng đích thực thì mồ hôi nước mắt họ đổ ra là không thể
tính đếm để đi đến đến đỉnh cao vinh quang nghệ thuật. Truyền thông hãy vẽ ra con
đường vinh quang và cay đắng của những nghệ sỹ lớn để công chúng có thêm
những bài học quý báu về Chân - Thiện – Mỹ. Một đặc điểm tâm lý của con người
là tính tò mò. Nhưng con người phát triển thì thay thế tò mò bằng quan tâm. Đã quan tâm thì ứng xử khác tò mò.
NCS: Theo ông, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam được đăng tải trên
các trang báo hiện nay có bị ảnh hưởng bởi trình độ dân trí của công chúng không?
NV.BVT: Vấn đề này phải nhìn từ nhiều phía. Về phía công chúng họ đang sống trong khí quyển của văn hóa đại chúng. Áp lực cuộc sống của họ ngày càng gay gắt cao độ. Vì thế yêu cầu giải trí nghệ thuật ngày càng nhiều. Đôi khi diễn ra một thực tế là những chuyện “rò rỉ” về nghệ sỹ lại được quan tâm hơn tài năng của
64
nghệ sỹ. Nếu bạn ra nước ngoài, vào một nhà hát, nghe nhạc giao hưởng hay vào một phòng tiển lãm tranh của các danh họa thì sẽ thấy, không có một “rò rỉ thông
tin” nào về nghệ sỹ tác động đến công chúng nghệ thuật. Ở các nước phát triển,
công chúng được giáo dục đầy đủ. Việt Nam là một nước đang phát triển. Tất cả
phải làm từ đầu trong đó có nghệ thuật. Không thể nói là dân trí của ta thấp. Phải nói là công chúng còn chưa được giáo dục thẩm mỹ đầy đủ để tiếp nhận nghệ thuật
một cách đúng đắn, có hiệu quả.
NCS: Nếu chia trình độ dân trí của công chúng thành 3 cấp độ: cao, thấp,
trung bình, theo ông, phần lớn công chúng quan tâm tới thông tin về giới nghệ sĩ
biểu diễn Việt Nam thuộc cấp độ nào?
NV.BVT: Thực ra chia thành ba cấp độ công chúng, về hình thức thì có vẻ đúng nhưng đôi khi trong mỗi cá nhân công chúng lại có sự “hòa âm” “pha màu”
của cả ba. Tôi lấy ví dụ, một nhà khoa học có tiếng tôi quen, rất thích nghe nhạc
giao hưởng, xem tranh trừu tượng, tranh lập thể nhưng lại cũng rất mê truyện trinh
thám và phim hành động. Vậy thì xếp ông vào cấp độ nào?
Nhưng nhìn xuyên suốt hơn thì công chúng bình dân thuộc về văn hóa đại
chúng riêng thích được tiếp cận các thông tin “lề trái” về NSBD. Nhân đây tôi đề
nghị không nên dùng khái niệm “công chúng dân trí thấp”. Nên phân ra “công
chúng tinh hoa” “công chúng bình dân” thôi. Bởi vì ngày trước có nhiều người
không biết chữ nhưng lại thuộc làu “Truyện Kiều” như là tinh hoa văn hóa Việt
Nam), và vịnh, lẩy, bói Kiều rất hay.
NCS: Ông có nhận xét gì về thực trạng cóp nhặt lại tin bài giải trí từ các báo
khác của báo điện tử hiện nay?
NV.BVT: Đây là vấn nạn hiện nay có “phổ” rất rộng. Người ta gọi là “đạo”
văn đạo chữ. Nói nhẹ nhàng như từ chị d ng là „cóp nhặt” lại tin bài giải trí từ các báo khác rồi “xào nấu” “chế biến” thành của “chính hãng” “chính chủ”. Đã thế thì
còn ai cơ quan chức năng nào kiểm soát được thông tin như tôi biết thì hiện nay ở ta có hơn 800 đơn vị báo chí). Tôi gọi đó là “truyền thông bẩn”. Nhưng mà đâu chỉ có trong lĩnh vực truyền thông về giới NSBD. Trong các trường đại học, các viện nghiên cứu, các học viên (cao học và nghiên cứu sinh đang như tằm ăn rỗi sao chép của người đi trước (từ sách, từ mạng . Đến giáo viên hướng dẫn và cả hội đồng đôi
65
khi cũng mất quyền kiểm soát. Huống hồ báo giới. Nói chung tình trạng mất kiểm soát diễn ra trên diện rộng hầu khắp các lĩnh vực.
NCS: Theo ông, nhà báo nên xử lý như thế nào khi tiếp nhận một thông tin về
giới nghệ sĩ biểu diễn, nhất là những thông tin dễ gây “sốc”, dễ có khả năng thu hút
lượng lớn công chúng, có ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm của người nghệ sĩ?
NV.BVT: Nói ra một điều “cũ như trái đất” – nhà báo phải có tâm và tầm.
Khi nhà báo tâm không sáng thì sẽ dễ chạy theo lợi ích cá nhân, hoặc lợi ích nhóm.
Từ đó sẽ dễ sa vào “câu view”. Hoặc chạy theo thời thượng. Hoặc vì tư túi. Thiếu
tầm nhà báo sẽ chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Sẽ rơi vào tiểu tiết, sẽ vì cái trước
mắt, cục bộ mà quên cái lâu dài, toàn bộ. Cần bảo vệ danh dự của những nghệ sỹ lớn chứ không phải “che chắn” họ. Tài năng cần được phát hiện nâng đỡ, bồi đắp, nhân lên. Ở ta còn quá hiếm những nhà báo có năng lực phát hiện tài năng nghệ sỹ.
Cũng dễ hiểu thôi con đường đến với nghề báo trên lĩnh vực nghệ thuật không có
sự đào tạo cụ thể đặc th căn bản ở các trường dạy nghề báo. Đôi khi nhà báo phải
tự vùng vẫy, tự cứu mình trước khi Trời cứu.
NCS: Nhiều thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn được cập nhật từ facebook cá
nhân hoặc mạng xã hội. Ông nhận xét thế nào về thực trạng này?
NV.BVT: Thông tin về giới NSBD nếu chủ yếu được khai thác từ Facebook
cá nhân hoặc mạng xã hội thường bị “nhiễu” đôi khi là “ảo”. Đó là cách làm
việc, nếu có thể nói là lười nhác của nhà báo. Chỉ nên dựa vào Facebook hay
mạng xã hội một phần nhỏ thôi. Một phần lớn phải tiếp cận đối tượng. Cũng như
trong công việc bảo vệ các VIP, thì bảo vệ tiếp cận mới quan trọng hơn cả. Nó là
vòng trong cùng, Nó là cận thân. Tôi biết ở một tòa báo nọ phóng viên rất ít cọ xát
với văn giới và đời sống văn chương. Nhưng báo họ ra đọc thấy vẫn “ngon lành”.
Nhưng ai rành nghề, sẽ thấy “bịa” là nhiều. May mắn là bịa nhưng vô hại. Nhưng nhạt, vô bổ, vô vị. Vô thưởng vô phạt. Nếu phóng viên cứ làm việc theo nếp ấy đà ấy thì làm sao phát triển được!
Ở ta nhà báo nhà văn không đi vào thực tế đời sống mà vẫn cứ viết đều là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nếu cứ như thế thì thì sự viết sẽ rơi vào hão huyền, hoang đường.
66
NCS: Theo ông, giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay có phải là một sản phẩm của giao lưu văn hóa không? Giao lưu văn hóa có ảnh hưởng như thế nào tới
hoạt động thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam trên các trang báo hiện nay?
NV.BVT: Chúng ta đang ở trong thời đại toàn cầu hóa. Hội nhập là tất yếu.
Nhưng riêng lĩnh vực văn hóa thì hội nhập lại không phải đơn giản như các lĩnh vực khác. Vì văn hóa mang bản sắc dân tộc. Vì văn hóa là sản phẩm của thung thổ rất
riêng. Nói giới NSBD Việt Nam hiện nay là “sản phẩm của giao lưu văn hóa” e
rằng quá đao to búa lớn. E rằng quá thổi phồng sự việc. E rằng quá đề cao họ. Nói
một cách khách quan và công bằng thì chúng ta đang học đòi “chạy theo” văn hóa
thế giới thì đúng hơn là giao lưu và học tập. Nhưng mà cũng chỉ học đòi được những cái người ta đã thải loại mà thôi. Có người nói quá đi Việt Nam là bãi rác của thế giới xe máy ô tô cũ thời trang cũ phim ảnh cũ sách vở cũ các lý thuyết cũ
… . Văn hóa thế giới từ châu Âu, châu Mỹ đến châu Phi dẫu có hiện đại đến mấy
nhưng cũng không rơi vào “lai căng” như ở ta. Không mất gốc như ở ta. Hãy nhìn
sang đất nước mặt trời mọc (Nhật Bản mà xem. Trông người lại ngẫm đến ta. Họ
quan tâm đến con đường nghệ thuật của nghệ sỹ. Họ quan tâm đến đóng góp vào
văn hóa dân tộc của nghệ sỹ. Họ quyết tâm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc dẫu biết
cần thiết phải hội nhập quốc tế.
NCS: Theo ông, giải pháp nào giúp cho việc đăng tải các thông tin về giới nghệ
sĩ biểu diễn Việt Nam có hiệu quả hơn, tích cực hơn và mang tính văn hóa hơn?
NV.BVT: Trước hết là trách nhiệm trực tiếp của Bộ Thông tin- Truyền
thông. Bộ 4T này như thiên hạ vẫn gọi, phải sát sườn hơn nữa để kiểm soát báo chí
trong lĩnh vực nghệ thuật. Tiếp đến, trực tiếp nhất là trách nhiệm của các “chủ bút”.
Ông “chủ bút” nào để báo chí mình quản lí vi phạm thì nên bị xử lí nghiêm. Nhưng
rốt cục thì nhà báo mới là “nhân vật chính” của câu chuyện thú vị nhưng phức tạp này. Những người “tai tiếng” sẽ không được công chúng “nhòm ngó” nếu không có sự tiếp tay của các nhà báo kém. Công chúng cũng sẽ ít bị “ô nhiễm” nếu ít đi nhà
báo kém chưa kể là “bẩn” . Cuối cùng là công chúng. Không thể có một công chúng cứ tự nhiên nhi nhiên. Xã hội văn minh dân trí cao căn cốt văn hóa bền vững như các nước phát triển thì công chúng cũng luôn được giáo dục đến nơi đến chốn. Cần nói thêm, chúng ta tấn phong danh hiệu nghệ sỹ quá ư dễ dàng, hào phóng cho người làm nghề biểu diễn (ca hát, kịch trường điện ảnh … .
67
NCS: Vai trò của các chủ thể (nhà báo, nghệ sĩ, công chúng) như thế nào trong quá trình tăng cường chất lượng thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn VN theo
quan điểm của ông?
NV.BVT: Một nền văn hóa một nền nghệ thuật phát triển cao là kết quả của
một tổng lực. Nếu có gì sai sót trong lĩnh vực chúng ta đang quan tâm và bàn luận, theo tôi, là trục trặc có tính hệ thống, là bệnh “ mãn tính”. Không nên chỉ trích một
chủ thể riêng rẽ nào. Xây dựng một nền nghệ thuật mới có khi cần thời gian hàng
trăm năm. Tâm lý sốt ruột, nóng vội diễn ra trong tất cả các lĩnh vực, không riêng gì
nghệ thuật. Nhưng nghệ thuật có quy luật đặc thù. Nó phụ thuộc vào lao động sáng
tạo cá nhân. Vì thế khi một xã hội bao gồm những cá nhân tự do phát triển và cống hiến may ra chúng ta có được những thay đổi lạc quan hơn hiện trạng bây giờ, nói riêng trong lĩnh vực nghệ thuật./.
Xin cảm ơn ông!
68
Trƣờng hợp PVS 09: MC, Diễn viên Trần Hạnh Phúc
Nội dung:
Theo anh, loại hình báo chí nào có thể giúp thông tin về giới nghệ sĩ biểu
diễn Việt Nam tiếp cận công chúng nhanh nhất? Vì sao?
MC. Trần Hạnh Phúc (MC. THP): Tôi nghĩ là báo điện tử và truyền hình. Tôi nổi tiếng nhờ truyền hình nhưng sau đó nhờ báo điện tử mà có nhiều hơn lượng
khán giả biết tới mình. Tôi dẫn chuyển động 24h. Những khán giả xem chương
trình này là những người thích tin tức thường có thói quen xem tivi vào khung giờ
đó như các bà nội trợ. Đối tượng đó thực sự không quá nhiều. Nhưng nhờ những bài
viết về mình đăng trên báo điện tử, khai thác thêm những mặt khác về cuộc sống của tôi thì tôi lại có thêm những đối tượng công chúng khác tiếp cận mình. Những khán giả không phải là khán giả truyền hình cũng biết đến tôi.
Theo anh, thông tin về giới nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam hiện nay đang tập
trung vào những nội dung, khía cạnh nào? Những nội dung này có phù hợp không,
đứng từ góc nhìn của một người nổi tiếng như anh?
MC. THP: Các báo điện tử hiện nay đưa tin về nghệ sĩ biểu diễn Việt Nam
thường có hai luồng. Một là đưa tin về chính chuyên môn của họ, ví dụ ca sĩ này
tham gia biểu diễn ở đâu đó MC Hạnh Phúc dẫn sự kiện lớn nào đó…Một hướng
nữa là khai thác những mặt khác trong cuộc sống của người nổi tiếng ngoài ánh đèn
sân khấu. Như tôi được phản hồi lại thì những bài báo mang tính chính thống hoặc
chuyên môn của nghệ sĩ thì thường lại không có lượt xem cao bằng những lĩnh vực
khác của cuộc sống. Đặc biệt gần đây báo điện tử có những cách giật tít câu “view”
rất độc, lạ thì lại càng thu hút giới trẻ cũng như khán giả đọc báo điện tử. Tất nhiên
tôi cho rằng người ta chỉ đo đếm được lượng “view” thôi chứ không tính được khán
giả có hài lòng hay không với chất lượng của bài báo đó.
Việc câu “view” của các trang báo điện tử tôi nghĩ do nhiều nguyên nhân.
Trước hết là vì báo điện tử cũng cần có quảng cáo. Thứ hai là ở một số tờ báo, phóng viên nhận nhuận bút theo lượng “view” của bài báo. “View” càng cao thì nhuận bút càng cao. Đó là cách để khuyến khích phóng viên năng động hơn nhưng cũng chính vì thế mà tòa soạn báo, nhà báo lại cần giật những tít câu “view” gây
69
sốc đôi khi không liên quan tới nội dung của bài báo, hoặc khai thác những vấn đề rời xa giá trị thẩm mĩ chỉ để thu hút độc giả.
Ở góc độ một người nổi tiếng đôi khi những bài báo câu “view” vô hại, không nói sai sai sự thật, không ảnh hưởng xấu tới công việc hay hình ảnh của bản thân mà lại giúp mình có thể tiếp cận nhiều hơn với khán giả sẽ mang tới cho tôi một
sự thích thú. Những bài báo như vậy có thể mang tới cho nghệ sĩ thêm một lượng “fan”
nào đó. Tuy nhiên có những bài báo giật những tít bài rất kêu nhưng khi đọc tôi thực
sự cảm thấy không hài lòng với nội dung và chất lượng bài báo đó. Bản thân tôi khá
khắt khe trong việc xuất hiện trên báo chí truyền thông, từ báo lớn tới báo nhỏ. Nếu có
tên của Hạnh phúc thì đều cố gắng dành thời gian truy cập xem họ viết như thế nào về
mình. Việc quản lý truyền thông của tôi cũng khá khắt khe. Kể cả có giật tít như thế
nào chăng nữa thì nội dung bài báo cũng phải chất lượng và rời xa các giá trị thẩm mĩ
đạo đức. Không thể nào một nghệ sĩ vì muốn câu “view” muốn có thêm “fan” mà bất
chấp tất cả, muốn xuất hiện, muốn để truyền thông viết về mình như thế nào cũng
được.
Nhiều người cho rằng, nhiều thông tin lá cải, sến, sốc…về giới nghệ sĩ biểu diễn hiện nay trên báo điện tử xuất phát từ chính giới này, khi họ muốn gây chú ý
hoặc hâm nóng tên tuổi, anh nghĩ sao về điều này?
MC. THP: Thực ra người nghệ sĩ nào cũng muốn tiếp cận với khán giả ngày một nhiều hơn và tôi cho rằng đó là một nhu cầu chính đáng. Ai làm trong showbiz
hoặc lĩnh vực truyền thông cũng đều mong muốn mình có khán giả, càng nhiều khán
giả càng tốt. Số lượng khán giả “fan” hâm mộ là một trong những thước đo quan trọng
để đánh giá sự thành công, mức độ nổi tiếng tài năng thậm chí là thu nhập của một
người nghệ sĩ. Nếu một người nghệ sĩ không thực sự tài năng thì chắc chắn khán giả
cũng không yêu mến cũng không thể có nhiều khán giả hâm mộ mình. Tôi cho rằng
những bài báo có tác động giống như đòn bẩy giúp những người nghệ sĩ từng có tên tuổi muốn quay trở lại, những người nghệ sĩ đang trên đà muốn đạt được thành công… Và nếu sử dụng báo chí như một kênh hỗ trợ như vậy thì tôi hoàn toàn ủng hộ. Nhưng
từ đòn bẩy đó người nghệ sĩ phải d ng chính năng lực tài năng của mình để những khán giả biết đến mình rồi họ thực sự yêu thích tài năng của mình, tôn trọng sự cống hiến của mình, họ muốn tìm hiểu hơn nữa những tác phẩm của mình, thực sự cảm thấy thoải mái và ngưỡng mộ với phần nghệ thuật của mình thì mới có thể duy trì và tồn tại
lâu bền với nghề.
70
Trong việc một người nghệ sĩ xuất hiện trên mặt báo, thực ra rất khó để phân định thế nào là đúng thế nào là sai. Mỗi một người khi muốn nổi tiếng sẽ có nhiều lựa chọn, nhiều cách khác nhau. Và không thể phủ nhận, có những người sử dụng chiêu trò để nổi tiếng nhanh, họ sẵn sàng xây dựng hình ảnh và kiếm thu nhập theo những cách hoàn toàn khác với những nghệ sĩ chân chính. Ví dụ, nhiều nghệ sĩ chỉ cần khán giả nhìn thấy hình ảnh của họ, nghe họ nói, thậm chí nghe họ chửi cũng được, miễn kích thích sự tò mò, hiếu kì của đám đông để khiến người ta “click” vào bài báo càng nhiều càng tốt. Họ tìm kiếm sự nổi tiếng và thu nhập dựa trên chính sự hiếu kì của độc giả, bằng những chiêu trò gây sốc thay vì bằng tài năng. Ở góc độ nào đó thì tôi nghĩ cũng là một cách tìm kiếm sự nổi tiếng và thu nhập thông minh. Bên cạnh đó nếu như cho rằng người nghệ sĩ sử dụng chiêu trò trên truyền thông là sai thì tôi cho rằng cũng cần phải xem lại chính những người khán giả và độc giả quyết định “click” vào những bài viết đó. Bởi vì chính những độc giả này cũng mang trong mình tâm trạng hiếu kì, tò mò hoặc thích những chuyện tranh chấp trong giới nghệ sĩ.
Nếu đã thấy scandal, phát ngôn gây sốc…trên truyền thông là một cách
thông minh thì anh đã bao giờ áp dụng?
MC. THP: Thông minh theo khía cạnh của chính họ và phụ thuộc vào lĩnh vực họ đang theo đuổi. Ví dụ những người đang nổi tiếng bằng những chiêu trò đó thì họ cũng phải tính được hình ảnh của mình được ghi dấu trong tâm trí của khán giả, của cộng đồng là gì? Là hình ảnh một nghệ sĩ hay đi giật chồng, một nghệ sĩ đa tình hay một nghệ sĩ hay gây chuyện thích khoe đồ hiệu, khoe thân…? Bản thân tôi cũng vậy cũng phải xác định xem phong cách của mình là gì lĩnh vực mình đang hoạt động là gì mình đang làm việc cho cơ quan nào hình ảnh mình hướng tới công chúng ra sao? Hiện tại tôi xác định phong cách cho mình là chính chắn, lịch sự cơ quan tôi làm là nơi phát ngôn có uy tín chương trình tôi đang làm cũng mang tính chính luận cao, vậy thì tất cả những chương trình tôi tham gia tôi đại diện nhãn hàng đóng quảng cáo hay tham gia với vai trò khách mời… cũng phải thống nhất trong tổng thể hình ảnh mình muốn gây dựng. Tôi sẽ không thể “tưng” hay d ng những scandal kiểu như: Hạnh Phúc lộ body sáu múi, Hạnh Phúc lộ chuyện tình tay ba…được. Tôi cho rằng nghệ sĩ muốn xây dựng hình ảnh thì những bài báo viết về họ phải nằm trong một con đường nhất quán, một định hướng truyền thông rõ ràng.
Theo anh, báo điện tử hiện nay có dễ dàng trở thành con rối để các nghệ sĩ
giật dây đăng bài theo ý của họ?
71
MC. THP: Chưa bao giờ tôi nghĩ báo điện tử nói riêng và truyền thông nói chung như con rối, mà đối với tôi, truyền thông thực sự là một đối tác của người nghệ
sĩ.
Các nhà báo bây giờ đều là những người khá thông minh và không dễ bị lợi dụng để làm một con rối. Trong mọi trường hợp truyền thông và nghệ sĩ nên có mối
quan hệ hợp tác, hai bên cùng có lợi.
Với những nghệ sĩ chân chính bị báo điện tử đăng lại những khoảnh khắc họ muốn giấu đi, gây ra những ảnh hưởng đối với cuộc sống và công việc của họ thì anh đánh giá sao về vấn đề đạo đức của nhà báo?
MC. THP: Đạo đức của nhà báo không phải là vấn đề một hai câu có thể nói hết. Đó là vấn đề lớn mà người ta đang nói rất nhiều khi quá nhiều bài báo điện tử chạy theo “view” và “like” mà quên mất những hệ lụy của nó tới người nghệ sĩ. Có
những bài báo có thể giết chết một người nghệ sĩ. Trên thế giới cũng có những
scandal lớn khiến người nghệ sĩ rơi vào túng quẫn, thậm chí có thể dẫn đến những
cái chết không đáng có. Ở Việt Nam cũng có những vụ việc đáng tiếc, gây rùm
beng trên báo chí. Ví dụ như diễn viên Minh Hà bị chụp khi đi c ng với Minh
Nhân. Đó là một đề tài hót thu hút công chúng và đa phần công chúng cảm thấy
phản cảm, lên tiếng chỉ trích. Nhưng nếu như nhà báo đặt mình ở tâm thế của người
nghệ sĩ nhìn ở một khía cạnh khác nhân văn hơn về tình yêu khi vượt qua được
những rào cản cuộc sống thì có thể khán giả sẽ nhìn nhận mối tình này ở một góc độ
khác. Rõ ràng cùng một vấn đề, góc nhìn của nhà báo cực kì quan trọng để mang tới
cho khán giả những định hướng dư luận điều này phụ thuộc rất lớn vào đạo đức của
người làm báo. Có những bài báo họ chỉ mới dừng lại ở việc tôi có một đề tài hay,
chưa nghĩ được nó ảnh hưởng như thế nào tới người khác thì thực sự nó nguy hiểm.
Hạnh Phúc đã bao giờ là nạn nhân của những bài báo như vậy?
MC. THP: May mắn là chưa.
Mà nếu có bị như vậy thì tôi sẽ liên lạc với tờ báo đó người viết bài trực tiếp và tòa soạn. Nếu nhà báo viết đúng sự thật thì tôi sẽ xin lỗi khán giả của mình, nếu không
sẽ yêu cầu tòa soạn và nhà báo giải thích đăng tin đính chính lại rõ ràng, thậm chí là yêu cầu gỡ bài. Báo chí có một đặc quyền cũng là nghĩa vụ là phải đưa sự thật. Đây là điều mà nghệ sĩ cần phải nắm được để bảo vệ mình trước truyền thông.
Nếu không đạt được sự hợp tác từ hai phía thì cần có sự can thiệp của pháp luật. Quan trọng hơn đối với mỗi người nghệ sĩ hãy nghĩ rằng: trong mọi tình
72
huống không hay trên truyền thông phải hết sức bình tĩnh không được nóng giận phát ngôn bừa bãi kể cả trên trang facebook cá nhân của mình.
Không biết những nghệ sĩ khác thế nào nhưng bản thân tôi, trên trang facebook của mình, mặc d đó là trang cá nhân nhưng mỗi một ngôn từ mình phát ra cũng phải để ý nó có gây ảnh hưởng tới khán giả, tới hình ảnh của mình hay
không? Có để khán giả nghĩ rằng đó là phát ngôn của một người nổi tiếng hay chỉ là
một cậu Hạnh Phúc đời thường thôi? Mình cần phải phân biệt rất rõ như thế. Khi
mình quyết định mình là người nổi tiếng thì ngay cả trang facebook cá nhân của
mình cũng phải quản lý hình ảnh rất kĩ lưỡng. Có thể đi ăn uống chơi bời nhưng
những hình ảnh đó vẫn phải lịch sự bởi nó ảnh hưởng tới định hướng hình ảnh của
mình trong mắt công chúng. Ví dụ như Hạnh Phúc rất lịch sự chỉnh chu khi làm
việc thì trên facebook không thể nào xuất hiện hình ảnh hay phát ngôn quá mức nhố
nhăng được. Công chúng sẽ đặt câu hỏi là thông tin cậu này nói trên truyền hình,
sản phẩm của cậu này có đúng như con người của cậu ấy không?
Tôi cho rằng người nghệ sĩ cần giữ hình ảnh. Hình ảnh của họ ảnh hưởng lớn tới công chúng, do vậy ngôn từ phải cẩn trọng cư xử cũng thế, không nên thích gì
làm nấy.
Nói như vậy thì nghệ sĩ có quá thiệt thòi không khi không được bộc lộ hết
những cái nổi loạn bên trong của mình?
MC. THP: Nếu một người thực sự muốn nổi loạn thì hãy lựa chọn một lĩnh vực nào đó mà có thể khiến cho bạn được nổi loạn. Còn ví dụ như tôi tôi hoàn toàn
kiểm soát được những điều đó và thấy thực sự thoải mái với hình ảnh mình xây
dựng. Tôi thoải mái với sự lựa chọn của mình.
Nếu làm chính luận mà thích nổi loạn thì họ đã đặt ra phạm vi cho bản thân rồi. Tôi nghĩ đã làm nghệ sĩ thì nổi loạn thế nào để không ảnh hưởng tới công chúng
là điều cần phải cân nhắc. Cuộc sống là những sự lựa chọn. Người ta lựa chọn cách sống như thế nào thì phải thoải mái với nó.
Ban đầu tôi cũng khá gò bó khi ngay cả facebook của mình cũng phải chú ý
từng phát ngôn, từng bức hình. Trước khi nổi tiếng mình là người tự do, thích gì làm nấy. Nhưng cũng phải xác định rằng làm người nổi tiếng là lựa chọn của mình, mình cũng phải theo lựa chọn đó. Bây giờ nhìn lại cái sự gò ép ban đầu của mình là đúng đắn, và khán giả có thể nhìn thấy một hình ảnh Hạnh Phúc đúng với những gì
tôi mong muốn thể hiện.
73
Anh đánh giá thế nào về việc nhà báo thường xuyên lấy lại thông tin được đăng tải trên trang cá nhân, mạng xã hội của người nổi tiếng để chỉnh sửa thành
bài viết đăng tải trên báo mình?
MC. THP: Có một số báo cũng sao chép bài viết và chia sẻ trên trang cá nhân của tôi nhưng họ lịch sự xin phép. Có những trường hợp không xin phép thì
đôi khi mình cũng phải chấp nhận vì khi người nghệ sĩ đã quyết định phát ngôn trên
một phương tiện truyền thông, mặc d đó là facebook cá nhân chăng nữa thì đó vẫn
là một nguồn thông tin công khai các nhà báo được phép khai thác. Cái gì đưa lên
mạng xã hội thì người khác có quyền trích dẫn và đưa lại nguồn. Bởi vậy tôi nghĩ
trước tiên người nghệ sĩ phải cẩn trọng phát ngôn hành động của mình, còn nếu mà
họ không cẩn trọng, giữ gìn, họ tùy tiện đưa bất cứ thông tin gì lên facebook mà bị
báo chí khai thác thì phải chịu thôi.
Một cách công bằng, anh có thể đánh giá những điều mà báo chí làm được
và chưa làm được khi đăng tải thông tin về giới NSBD Việt Nam?
MC. THP: Phải thừa nhận một điều báo chí là một đối tác, một công cụ để người nghệ sĩ tới gần hơn với khán giả, phản ánh đa chiều hơn về người nghệ sĩ
không chỉ về mặt chuyên môn mà còn cho khán giả hiểu hơn về chính con người
của nghệ sĩ cũng là một cách để khán giả yêu mến hơn nghệ sĩ của mình, không chỉ
bằng những tác phẩm của họ mà con người họ, cuộc sống, lối sống của họ. Đó là
những điều báo chí làm được. Nếu không nhờ có báo chí thì không biết bao giờ mọi
người mới biết được câu chuyện hay quan điểm của Hạnh Phúc bởi trên chuyển
động 24h thì Hạnh Phúc chỉ đưa tin thôi.
Còn về mặt trái thì tôi nghĩ cả nghệ sĩ và nhà báo đều nên tiết chế lại.
Theo anh, người nghệ sĩ cần ứng xử như thế nào trước báo chí?
MC. THP: Trước hết nghệ sĩ phải xác định phong cách của mình, phải theo
phong cách chung đó có sự thống nhất trong xây dựng hình ảnh. Nếu có một hình ảnh nào đó lọt ra ngoài sự thống nhất đó thì mình phải kiểm soát được có định đưa lên hay công khai không? Ví dụ, công chúng quen thuộc với Hạnh Phúc mặc vest,
lịch sự. Biết đâu năm năm tới sẽ có thêm một hình ảnh khác nhưng nó chỉ là thứ gia vị thôi để công chúng thấy là nó thú vị hơn một chút, tò mò nho nhỏ nhưng không làm biến tướng hình ảnh mình đang có.
Tôi cho rằng, với những nghệ sĩ đang trên đà xây dựng hình ảnh thì cố gắng định vị được thương hiệu mình muốn xây dựng trong lòng khán giả là gì? Định vị
74
phong cách nào để cho khán giả nhớ? Người nghệ sĩ nên tư duy và biết cách để làm thế nào cho khán giả nhớ tới mình giữa một rừng nghệ sĩ khác
Xin cám ơn anh!
75