Thrombocytopenia

(Thiếu Phiến Huyết Nhỏ)

Đây dĩ nhiên cũng là một chuyện rất dài trong hematology, nhưng bây

giờ chỉ nói đến, một cách thực tiễn:

(1) ý nghiã cuả thrombocytopenia trên trại bệnh hay tại phòng khám

bệnh

(2) sau đó mới nói tới thiếu phiến huyết nhỏ (thrombocytopenia) trong

bnhân hiện đang chữa bằng chemotherapy.

(1) Thiếu phiến huyết nhỏ: các vấn đề nên lưu ý hàng ngày:

Sau đây, chỉ là tóm lược những kinh nghiệm thực tiễn cho nên không

nêu các tham khảo trong literature về máụ. Những tham khảo này ở đâu

cũng tìm thấy được, nêu ra bằng thừa . Nhưng điểm quan trọng nhất: đây là

những kinh nghiệm, và kiến thức trong nhiều năm. Lắm khi để trả lời một

câu hỏi thôi, phải tốn rất nhiều thì giờ lùng kiếm. Xin cho một thí dụ: chẳng

hạn, khi được trại bệnh báo cáo là serum Potassium của bnhân rất cao, đến

mức nguy hiểm. Ai cũng rõ là nếu Potassium lên quá cao hay xuống quá

thấp, thì có thể đưa đế arrhythmia, rồi tim ngưng đập... Một y sĩ mới vào nội

trú có lẽ đã hoảng sợ với báo cáo đó, nhưng đối với một y sĩ đã đọc rộng và

có kinh nghiệm - sau khi đã nghe qua chuyện, xét hồ sơ thuốc, khám bnhân,

nhìn EKG...thì ông hay bà ta sẽ "chỉ" cho: "Bảo laboratory làm lại test này

ngay đi, có lẽ hemolyzed - tán máu- thôi, cho nên lab đo sai". Và quả nhiên,

lấy máu lại, không bị hemolyzed, serum Potassium "normal".

Lượng platelet trong máu, thường nhớ thuộc lòng ở xứ này là 150-350

/mm3 (nói tắt 150 nghìn - 350 nghìn platelet/mm3 máu), nhưng cũng có

những con số khác đáng nhớ: duới 50 nghìn/mm3 thì có thể bị chảy máu vì

trauma ("traumatic bleeding"), và đến dưới 15 nghìn /mm3 thì có thể tự

nhiên chảy máu (nontraumatic, hoặc "spontaneous bleeding"). Vì thế dưới

15 nghìn là mức emergency (có literature dùng dưới 20 nghìn, thay vì dưới

15 nghìn), và phải tìm cách giải thích tức thì tại sao platelet lại xuống thấp,

và có khi phải truyền platelet (trừ truờng hợp ITP - IMMUNE

Thrombocytopenic Purpura (literature cổ xưa, trước 1980 chẳng hạn, gọi là

IDIOPATHIC Thrombocytopenic Purpura), platelet có thể xuống rất thấp -

single digit: 2,3 (tức là nói tắt 2 nghìn, 3 nghìn/mm3: trong ITP thì

management về chảy máu hơi khác: có nghĩa là truyền platelet có khi không

hiệu quả lắm - vì pletelet bị chết ngay sau khi truyền - dù rằng lắm lúc khẩn

cấp qúa, vẫn phải truyền) . Và đa số các hematologists đều phải lấy tủy

xương tức thì (để đi tìm megakaryocytes: tế bào mẹ của platelet trong tủy

xương, và xem các tb máu mẹ khác), trước khi quyết định chưã trị.

Nói tóm lại: 150-350 (nghìn) /mm3: bình thuờng; dưới 50 nghìn

/mm3: bắt đầu lo; dưới 15 nghìn: không ngồi yên được nữa.

Khi một loại tb máu ngoại biên xuống thấp (ta đang nói platelet

xuống, nhưng áp dụng cho cả tb máu trắng và đỏ): thì phải xét xem có phải

TÂT CẢ các tb máu đều xuống, hay chỉ có platelet xuống mà thôi, (còn các

tb kia đều bình thường?). Nếu tất cả đều xuống (pancytopenic) thì chắc phải

có một nguyên cớ nào suppressed toàn tủy xuơng: và việc lấy tủy trở thành

một emergencỵ. Và rồi dĩ nhiên, cũng như mọi chuyện, phải xét danh sách

thuốc bnhân đang và đã dùng.

Khi bnhân đang chảy máu , thì ngoài việc nhìn platelet còn phải nhìn

hai yếu tố khác nữa: sự toàn vẹn (integrity) của mạch máu và các yếu tố

đông máu (coagulation factors) và làm các thử nghiệm để xem xét sự toàn

vẹn của thác đông máu (coagulation cascade) theo lối bên trong (intrinsic

pathway) và bên ngoài (extrinsic pathway): tức là các tests Prothrombin time

(PT) và Partial Thromboplastin Time (PTT). Lắm khi tại Intensive Care

Unit, vấn đề trở nên rắc rối hơn: Platelet xuống, Protime kéo dài

(prolonged), PTT cũng kéo dài (prolonged): mấy trường hợp này thường đã

khá nguy kịch: và hematologists sẽ đi tìm DIC (Disseminated Intravascular

Coagulation). Việc định bệnh và chữa trị DIC hoàn toàn ra ngoài tầm cuả bài

này.

Trên đây là những điểm quan trọng nên nhớ (ở Mỹ gọi là "pearls" -

những viên ngọc trên trại bệnh).

NTM

Bài vừa gửi đi nói tổng quát về thiếu phiến huyết nhỏ

(thrombocytopenia), bây giờ nói về thrombocytopenia ở những bnhân

đang chữa bằng chemotherapy.

Một cách nói trong oncology hematology về ung thư, là chia ung thư

ra hai nhóm: (1) solid tumors (2) leukemias.

Nhóm solid tumors tức là ung thư phổi, vú, prostate, thận, hòn dái,

buồng trứng, tử cung, ung thư tb sắc tố đen (melanoma), etc… Ung thư não

thì cũng trong nhóm solid tumors đấy nhưng đặc tính hơi khác, cho nên nói

đến solid tumors thì người ta hay "quên" não đi, nhưng chỉ nhớ đến những

ung thư nói trên thôị. Nói thế, vì các ung thư khác có thể "chạy" lên não, chứ

ung thư ở não không "chạy" đi chỗ khác, và ta cũng biết là các chất

chemotherapy cho vào tĩnh mạch thường không thể lên não được vì blood

brain barrier (một màng chắn sinh học - biologic - chứ không phải một màng

chắn cơ thể hoặc vật lý - anatomic or physical). (Note: đây là môt màng chắn

biologic (có lẽ ở tầm mức sinh học tế bào) khiến chemotherapy không thể

"thấm" vào mô ở não được, chính vì thế các chất chemotherapy có thể "giết"

được solid tumors ở ngoài não, chứ những chất đó không có hiệu quả với

ung thư trong não).

Còn nhóm leukemias thì chia ra làm nhiều thứ, tùy nguồn gốc của nó -

Riêng ung thư máu dính líu đến platelet thì thường gọi là "essential

thrombocythemia" (chả ai gọi là "thromboleukemia" cả, dù có muốn viết thế

thì cũng không ai cãi đuợc, vì chính ung thư tế bào máu đỏ gọi là

erythroleukemia - chữ erythroleukemia rõ ràng là lằng nhằng: erythro- : đỏ ;

leuko- trắng), nhưng đã quen miệng rồi, không bỏ được, vả lại

erythroleukemia cực kỳ hiếm). Cho nên các ung thư máu đều gọi là

"leukemia" ráo trọi ... Chứ thật ra đúng theo từ ngữ, leukemia chỉ để ám chỉ

các ung thư máu thuộc dòng giống (lineages) neutrophils, lymphocytes,

monocytes, etc…

Vậy xin nhắc lại: "essential thrombocythemia" có nghĩa là một ung

thư (neoplastic process), tức là một "malignant process", chứ không còn là

"benign" nữa... Thường Essential thrombocytopenia tiến rất chậm, và có thể

chữa "từ từ" được ...Còn chữ Thrombocytosis để chỉ bất cứ một tiến trình

nào làm tăng platelet lên, dù rằng thường có ý nghiã "lành" (benign) hay vì

phản ứng (reactive thrombocytosis - như khi thiếu sắt nặng). Nhưng trong

giai đoạn đầu của Essential thrombocythemia, thì lắm khi rất khó biết lành

hay dữ, chỉ có thời gian rồi sẽ biết; ngay cả flow cytometry rồi có khi vẫn

lầm...

Tại sao phải nói (1) solid tumors (2) leukemias. Bởi vì trong cả hai

loại bnhân này, khi cho họ chemotherapy, mà nếu họ bị thrombocytopenia

thì phải nghĩ khác nhau, vì cơ chế khác nhau, và ý nghĩa cũng khác nhau -

đưa tới hành động cũng phải khác nhau.

Thrombocytopenia trong khi chữa bằng chemotherapy cho những

solid tumors: thường là chính vì chemotherapy cuả mình đang dùng, hay vì

tủy xương đã quá kiệt quệ vì chemotherapy qúa lâu dài: thuờng thì thấy

leukopenia trước đã - leukopenia có thể xảy ra ngay với chu kỳ đầu tiên cuả

chemotherapy - tức là ngày 7-ngày 15 (nadir count) cuả ngay chu kỳ đầu

tiên - và những chu kỳ sau đó)... rồi thường thì sau đó (vài tháng nữa) mới

bắt đầu thấy thiếu máu đỏ (anemia) - và rồi sau đó nưã mới thấy

thrombocytopenia: tốn có khi 6 th'ang một năm mới thấy (ngoại trừ các

thuốc như nitrosureas: độc tức thì vào platelet ở tuần thứ 6 - 8). Vì thế nếu

thấy thombocytopenia "không đúng lúc" ở solid tumors thì phải nghi ngờ có

cái gì sai hỏng - Ngay cả khi ung thư solid tumors đã xâm nhập vào tủy,

cũng ít khi thấy thrombocytopenia.

Còn trong những bnhân với leukemia hay myelodysplasia mà trong

khi cho chemotherapy mà thấy thrombocytopenia, thì thường có ý nghiã như

sau

(1) chính chemotherapy đã gây ra biến chứng, và thrombocytopenia

này xảy ra ngay tức thì, chứ chả cần phải chờ đến vài tháng - nếu thế, những

chu kỳ sau phải giảm liều chemotherapy, (2) có gì sai hỏng ngay chính ở

bệnh trạng nguyên thủy: tức là ung thư máu hay myelodysplasia nay đã

chống lại (uncontrollable by) chemotherapy: trường hợp đó thì chỉ có môt.

cách: lấy lại tủy xương, gửi đi flow cytometry và cytogenetics thì mới rõ

được...

Đó là nói chung chung về thrombocytopenias trong trường hợp chữa

solid tumors và leukemias, myelodysplasia...Dĩ nhiên những bnhân này cũng

có những cơ chế khác khiến cho bị thiếu phiến huyết (thrombocytopenia)

như những bnhân không bị ung thư (hypersplenism chẳng hạn ) -

(hypersplenism là một diagnosis có khi rất khó xác quyết).

Xin lỗi đã phải trả lời dài dòng, vì vấn đề rất phức tạp - cho nên rất

"sợ" phải trả lời những câu hỏi cá biệt về medicine qua thư từ, vì tốn rất

nhiều thì giờ để giải thích (và rồi lắm khi vẫn trật - vì không đủ dữ kiện để

xét đóan), mà mỗi case môt. khác. Mà viết ngăn hơn thì rất dễ bị hiểu lầm.

Tốt nhất là bnhân nên hỏi thẳng hematologist/oncologist của mình, và

nếu cần thì 2nd, 3rd opinions (note 1).

NTM

(note 1) tôi có bnhân đi hỏi 5 ý kiến cuả 5 hematologists khác nhau -

kể cả hematologist thứ nhì là một giáo sư trưởng khu Máu ở một teaching

hospital ở Boston. Ông này là cháu ruột gọi bnhân bằng dì, nhưng bà dì này

vẫn không tin, đi hỏi thêm 3 hematologists sau đó nữa: cả 5 hematologists

đều đồng ý với nhau về diagnosis (có lẽ chính vì thế mà bà bnhân không tin,

bà ấy muốn nghe một ý kiến hoàn toàn khác chăng !!!).

Ngược lại hiện nay tôi đang có vài bnhân, mà expert opinions hơi

khác nhau (không ai rõ xác quyết là bệnh gì), nhưng phải chữa, không chờ

đợi được. Có 2 bnhân, mà ý kiến lúc đầu hoàn toàn khác hẳn nhau...

Chắc chắn các y sĩ đều có kinh nghiệm tương tự như trên.

Note: đây là môt màng chắn biologic (có lẽ ở tầm mức sinh học tế

bào) khiến chemotherapy không thể "thấm" vào mô ở não được, chính vì thế

các chất chemotherapy có thể "giết" được solid tumors ở ngoài não, chứ

những chất đó không có hiệu quả với ung thư trong não.