VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HOAN
THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8. 38. 01. 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Lan Chi
HÀ NỘI, NĂM 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
T R Ầ N T H
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Ị
H O A N
TRẦN THỊ HOAN
THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
L U Ậ T H Ì N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H Ì N H S Ự
Hà Nội, năm 2021
K H Ó A X
HÀ NỘI - năm
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ,
giúp đỡ từ người hướng dẫn là TS. Lê Lan Chi. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào trước đây. Những nhận xét, đánh giá cũng như số liệu
của các tác giả, cơ quan tổ chức khác đã được trích dẫn và thể hiện trong phần tài
liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày 08 tháng 3 năm 2021
Tác giả luận văn
Trần Thị Hoan
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
CQĐT : Cơ quan điều tra
TTHS : Tố tụng hình sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
BLHS : Bộ luật hình sự
NCTN : Người chưa thành niên
QCN : Quyền con người
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN
THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................. 6 1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 6
1.1.2 Đặc điểm thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội……………………………………………………………………………………...15 1.1.3. Mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội ..................................................................................................................... 19
1.2. Cơ sở quy định thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội .......................................................................................................... 20
1.3. Một số mô hình tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trên thế giới ..................................................................................................... 23 1.3.1. Mô hình tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp
luật quốc tế....................................................................................................... 23 1.3.2. Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Pháp ........ 31 1.3.3. Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Nga ............... 32 1.3.4. Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Hoa
Kỳ…. ............................................................................................................. ...26
Tiểu kết chương 1…………………………………………………………………....34 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH BẮC
NINH ............................................................................................................... 28
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thủ tục tố
tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................... 28 2.1.1. Quy định về phạm vi chủ thể được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện .... 28 2.1.2. Quy định về nguyên tắc tiến hành tố tụng ............................................... 36 2.1.3. Quy định về đối tượng chứng minh ........................................................ 37 2.1.4.Quy định về người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng ............... 40 2.1.5. Quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế .... 41
2.1.6. Quy định về thủ tục tố tụng ..................................................................... 45
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục
thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 40 2.2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh và các yếu tố tác
động đến việc người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................... 408 2.2.2. Kết quả đạt được trong áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................. 50 2.2.3. Những hạn chế, tồn tại trong thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và nguyên nhân .................................................... 58
Tiểu kết chương 2……………………………………………………………………62 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI ........................................................................................... 63
3.1. Giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 ................................................................................................................. 58 3.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện pháp luật ................................... 70
3.2.1. Tăng cường năng lực chuyên môn của hệ thống cán bộ tư pháp ............. 70 3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và hướng dẫn thực hiện thủ
tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................... 72 3.2.3. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát và Tòa án,
các cơ quan, tổ chức khác ................................................................................ 74 3.2.4. Tăng cường các thiết chế nhà trường, gia đình và xã hội ....................... 74
Tiểu kết chương 3……………………………………………………………………75 KẾT LUẬN.................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………..78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người dưới 18 tuổi là một đối tượng đặc biệt của quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Ở lứa tuổi này, người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lí,
mức độ nhận thức cũng như kinh nghiệm sống còn hạn chế, khả năng tự kiềm chế
chưa cao. Do đó, người dưới 18 tuổi thường dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào
những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật
và tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các quyết định, hành vi tố
tụng cũng như các xử sự mà các cơ quan tư pháp hình sự áp dụng đối với họ, nếu
không bảo đảm tính thân thiện, có khả năng gây ra những tổn thương nghiêm trọng
cho người dưới 18 tuổi và tác động tiêu cực tới quá trình phục hồi nhân cách và
giáo dục, cải tạo họ. Với những đặc thù đó, thủ tục tố tụng hình sự đối với người
dưới 18 tuổi cần có những quy định riêng, khác biệt so với thủ tục áp dụng cho người
trên 18 tuổi, thể hiện tính thân thiện, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi. Việc đặt ra thủ
tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi có ý nghĩa quan trọng: vừa bảo vệ trật
tự, an toàn xã hội, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, vừa thể hiện
trách nhiệm xã hội của nhà nước trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ em và thế hệ trẻ,
giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành người có ích cho xã hội.
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và các văn bản pháp luật khác
đã có nhiều quy định về thủ tục tố tụng có liên quan đến người dưới 18 tuổi, trong
đó có những quy định thể hiện yếu tố tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn nhiều điểm
chưa đáp ứng được yêu cầu thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, một số
quy định vẫn còn mang tính hình thức, chưa sát với thực tế. Thực tiễn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở tỉnh Bắc Ninh cũng như
các địa phương khác cho thấy tình hình tội phạm, số vụ, số người dưới 18 tuổi
phạm tội vẫn diễn biến theo chiều hướng phức tạp, với những đặc thù riêng trong
quá trình giải quyết vụ án. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã cố gắng vận dụng linh
hoạt những quy định của pháp luật trong các điều kiện, khả năng hiện có để bảo
1
đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đảm bảo tố tụng thân thiện
do đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ, hiểu biết khoa
học giáo dục người dưới 18 tuổi còn yếu, cơ sở vật chất chưa bảo đảm. Điều này đặt ra
nhiều rào cản, nhiều vấn đề cần giải quyết trong đó có việc đánh giá hiệu quả của các
quy định tố tụng hình sự để hoạt động tố tụng thực sự trở nên thân thiện.
Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người đặc biệt là quyền của
người dưới 18 tuổi, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải đổi
mới theo hướng bảo đảm tính thân thiện một cách thực chất, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Từ cải cách đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa vấn đề thủ tục tố tụng
thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và
pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng
cho việc tác giả quyết định chọn đề tài "Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới
18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước khi tác giả thực hiện đề tài này, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
các vấn đề về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi dưới góc độ luật tố tụng
hình sự được công bố, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
- Công trình dưới dạng luận án, luận văn:
Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam, Vũ Thị
Thu Uyên (2015), Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện
nay, Hoàng Minh Đức (2016), Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
Huỳnh Thị Kim Ánh (2020), Chính sách pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
- Công trình dưới dạng bài viết khoa học tạp chí chuyên ngành:
“Một số điểm mới của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”, Trần Thị Thu Hiên, Nguyễn Phương Anh (2016), Tạp chí Tòa án nhân dân (tháng 10/2016).
2
“Thủ tục xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi tại Tòa án gia đình và người chưa thành niên của một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Nguyễn Phương Thảo (2017), Tạp chí Nhà nước và pháp luật (05).
Nguyễn Hải Ninh (2019), “Pháp luật tố tụng hình sự với việc bảo đảm quyền
con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (08);
Nguyễn Thị Khánh Ngọc (2020), “Sự cần thiết phải nhân rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên ở Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân (01).
Phan Thị Thanh Mai (2020), “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng với người dưới 18 tuổi”, Tạp chí Khoa học kiểm sát (02).
Ngoài ra, các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật trên cả nước đều đề cập đến các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội; Viện Đại học Mở Hà Nội (2015), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Tái bản lần thứ hai), Nxb. Tư pháp, Hà Nội,.… Một số sách bình luận khoa học về BLTTHS cũng đề cập đến thủ tục này…
Các công trình trên ở các mức độ khác nhau đã làm rõ vấn đề lí luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định về các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo BLTTHS năm 2015 và tiếp cận đối tượng nghiên cứu về mặt thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng thân thiện đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và những
vấn đề thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh, luận văn tìm ra những bất cập và
vướng mắc trong quá trình thực hiện để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Các nhiệm vụ cần giải quyết của luận văn:
- Xây dựng khái niệm về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18
tuổi phạm tội; chỉ ra những đặc điểm cơ bản, mục đích của thủ tục tố tụng thân
thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và cơ sở quy định thủ tục này. Để thực
hiện nhiệm vụ này, luận văn cũng cần tham khảo một số mô hình tố tụng trên thế
giới để đối chiếu, so sánh và tham khảo cho Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá tính thân thiện trong các quy định chung về thủ tục tố
3
tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
đánh giá thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh để làm sáng tỏ những ưu điểm và hạn
chế của luật thực định cũng như của thực tiễn và chỉ ra nguyên nhân của những hạn
chế đó.
- Trên cơ sở các nghiên cứu trên, luận văn cần đề xuất các giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự, theo quy định của luật tố tụng hình sự, họ có các tư cách tố tụng của người bị tố giác, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Luận văn cũng nghiên cứu thủ tục tố tụng thân thiện trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong sự so sánh với thủ tục tố tung chung, với thông lệ tư pháp người chưa thành niên và với thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng
thân thiện áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được thực hiện trong hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; các hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong 05 năm trở lại đây (từ
năm 2016 đến năm 2020) khi giải quyết những vụ án có người phạm tội là người dưới
18 tuổi.
Luận văn không nghiên cứu thực tiễn thực hiện trong quân đội nhân dân,
không nghiên cứu giai đoạn thi hành án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, tinh thần cải cách tư pháp, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận văn sử dụng phương
pháp nghiên cứu của chuyên ngành Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự.. với các
phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ bản chất của thủ tục tố tụng thân
4
thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn
thạc sĩ luật học về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
đặc biệt theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và những văn bản
pháp luật có liên quan. Những điểm mới của luận văn là:
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái
niệm, đặc điểm, mục đích, cơ sở thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, tìm hiểu thực trạng của quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật tại tỉnh Bắc Ninh làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa
học về pháp luật tố tụng hình sự.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện thủ tục tố
tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, luận văn đã chỉ ra được những
điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình
sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Trên cơ sở đánh giá thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng thân thiện đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại Bắc Ninh, luận văn đã phân tích những nguyên
nhân và đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
thủ tục tố tụng thân thiện và thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng
5
thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1.1. Người dưới 18 tuổi phạm tội
Trước đây trong hệ thống pháp luật Việt Nam và khoa học pháp lý, khái
niệm người chưa thành niên (NCTN) được sử dụng nhiều hơn. Đến thời điểm Bộ
luật hình sự (BLHS) năm 2015 được ban hành, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm
tội được đưa ra để thay thế khái niệm người chưa thành niên. Thuật ngữ này được
nhận thức khác nhau, tùy theo góc độ, lĩnh vực.
Theo nhà tâm lý học G.Stanley Hall, thời kỳ chưa thành niên là thời kỳ quá
độ tuổi trẻ em chuyển lên người lớn và là thời kỳ gắn liền với những xung đột, xáo
trộn tâm trạng, nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hoặc đang
trưởng thành [13].
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc (LHQ) về áp dụng pháp luật
với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) không đưa ra khái niệm về NCTN mà chỉ đưa ra
thuật ngữ “người ít tuổi”. Theo Quy tắc số 2.1 mục a của Quy tắc Bắc Kinh thì
“Người chưa thành niên là người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét
xử vì phạm pháp theo phương thức khác với xét xử người lớn” [21]. Quy tắc của LHQ
về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày
14/12/1990, có ghi nhận tại Quy tắc số 11 mục a rằng, NCTN là người dưới 18 tuổi,
giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước
quyền tự do của NCTN.
Ở Việt Nam, theo Từ điển tiếng Việt, NCTN được hiểu như sau: “Người chưa
thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần
cũng như chưa có đầy đủ về quyền và nghĩa vụ công dân” [53, tr.114]. Định nghĩa này
đã chỉ rõ, NCTN là người chưa hoàn thiện cả về thể lực, trí lực lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét khái niệm NCTN theo Từ điển tiếng Việt thì rất
khó xác định phạm vi đối tượng cụ thể trong cơ cấu dân số là NCTN. Theo đó, yếu
6
tố để xác định đối tượng là NCTN hoàn toàn phụ thuộc vào dấu hiệu sự phát triển về
tâm sinh lý, nhận thức. Dấu hiệu này được xác định bởi yếu tố định tính, còn yếu tố
định lượng (có thể coi độ tuổi là yếu tố định lượng) chưa được xác định. Nếu tiếp cận
khái niệm NCTN trên phương diện pháp lý, pháp luật Việt Nam hiện hành, độ tuổi của
NCTN đã được thống nhất trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân
sự, Bộ luật lao động, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp
luật khác.
Như vậy về độ tuổi, NCTN là người chưa đủ 18 tuổi. Có thể nhận thấy một
số điểm khác biệt của người dưới 18 tuổi so với người thành niên: (i) NCTN là
người chưa phát triển đẩy đủ về thể chất. Điểm khác biệt này là do nhân tố sinh
học; (ii) người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về trí tuệ và tâm lý,
sinh lý. Quá trình sinh học, trí tuệ của nhóm đối tượng này phát triển song song với
sự phát triển về thể chất.
Người dưới 18 tuổi chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi của
người dưới 18 tuổi là ranh giới để phân biệt họ với người thành niên. Theo đó
người chưa đủ 18 tuổi là người chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.
Suy ra, người chưa thành niên hay người dưới 18 tuổi là người chưa phát
triển toàn diện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp
lý như người đủ 18 tuổi trở lên (đã thành niên).
Điều 40 (1) Công ước quyền trẻ em đề cập đến người chưa thành niên phạm
tội là trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Điều 37 còn đề cập đến khái
niệm trẻ em bị tước tự do. Khái niệm này có thể được hiểu (tương đương với) là
NCTN phạm tội bị tước tự do. Ngoài các khái niệm trên, một thuật ngữ khác cũng
thường được sử dụng bởi một số cơ quan nhân quyền LHQ và tổ chức quốc tế
khác, đó là trẻ em làm trái pháp luật, NCTN vi phạm pháp luật. Theo UNICEF,
NCTN làm trái với pháp luật là những người dưới 18 tuổi phải làm việc với hệ
thống tư pháp do bị nghi ngờ hay bị cáo buộc là phạm tội. Cũng có quan điểm cho
rằng, NCTN vi phạm pháp luật hay làm trái pháp luật được hiểu là “những người
dưới 18 tuổi đã thực hiện, hoặc bị tố cáo là đã thực hiện một hành vi vi phạm pháp
luật (hành chính hoặc hình sự)” [63]. Như vậy, khái niệm NCTN vi phạm pháp luật
có nội hàm rộng hơn khái niệm NCTN phạm tội, do vi phạm pháp luật không có
7
nghĩa chỉ bao gồm pháp luật hình sự, và không có nghĩa trong mọi trường hợp sẽ
dẫn đến hậu quả là NCTN bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xác định là phạm
tội như với trường hợp NCTN phạm tội.
Trong luật hình sự và tố tụng hình sự ở Việt Nam, NCTN phạm tội là thuật
ngữ được sử dụng nhiều. Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 có một chương riêng
(chương X): Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 cũng đề cập đến khái niệm người chưa thành
niên phạm tội trong nhiều quy định của Chương XXXII (Thủ tục tố tụng với người
chưa thành niên). BLTTHS năm 2015 tiếp nối những quy định về NCTN trước đây,
nhưng thay đổi bằng việc quy định về khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội. Thực
chất khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội không thay đổi về nội hàm so với quy
định về NCTN phạm tội so với trước kia. Tuy nhiên, việc xác định luôn giới hạn độ
tuổi trong khái niệm này góp phần dễ dàng hơn cho việc áp dụng cũng như không
cần các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, người phạm tội là “người có đủ dấu hiệu
của chủ thể của tội phạm đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội
phạm” [52, tr.311]. Người phạm tội có thể đã hoặc chưa thành niên - trong đó NCTN
phạm tội là một bộ phận đặc biệt của người phạm tội nói chung, ranh giới ngăn cách
NCTN phạm tội và người thành niên phạm tội là 18 tuổi tròn [67, tr.341]. Người từ đủ
18 tuổi trở lên thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm, họ
được xem là những người đã thành niên phạm tội, còn người chưa đủ 18 tuổi mà
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì sẽ được xem là
NCTN phạm tội.
Theo Điều 12 BLHS 2015, người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bao gồm những
người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Luật hình sự quy định cụ thể, một
người nếu chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc một người
từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
một số tội phạm theo quy định của BLHS.
Tuy nhiên, có một số vấn đề lý luận cần làm rõ khi đề cập tới khái niệm
người dưới 18 tuổi phạm tội. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội thường được
dùng cả trong tố tụng hình sự (TTHS). Tuy nhiên, về mặt lý luận, khái niệm người
dưới 18 tuổi phạm tội không đồng nhất với khái niệm người dưới 18 tuổi bị buộc
8
tội do: thứ nhất, có trường hợp phạm tội khi dưới 18 tuổi nhưng khi khởi tố vụ án,
khởi động tiến trình tố tụng, họ đã trên 18 tuổi; thứ hai, phạm tội là từ chỉ trạng thái bị
coi là có tội sau khi bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, còn trước khi bản án kết tội
đã có hiệu lực pháp luật, họ vẫn chưa bị coi là có tội mà chỉ coi là người bị buộc tội.
Nhưng trong thực tiễn tư pháp hình sự, cũng như trong các văn bản pháp luật TTHS,
khái niệm người phạm tội cũng thường được sử dụng để chỉ đối tượng người bị
buộc tội và trở thành một tập quán ngôn ngữ pháp lý. Vì thế, khái niệm người dưới
18 tuổi phạm tội cũng được sử dụng trong TTHS với hàm ý chỉ người dưới 18 tuổi
bị buộc tội.
1.1.1.2. Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Thủ tục tố tụng là cách thức, trình tự, là nghi thức tiến hành xem xét một vụ
việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo các qui định của
pháp luật [65, tr.729]. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thủ tục tố tụng không
chỉ là cách thức, trình tự, là nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải
quyết một vụ án mà là một hệ thống các yếu tố liên quan để triển khai, vận hành
các cách thức, trình tự, nghi thức đó. Các yếu tố này liên quan như các thiết chế (cơ
quan tiến hành tố tụng với con người, cơ sở vật chất…), người tham gia tố tụng,
các nguyên tắc, chính sách và quy định (thể chế) để xác định tổng thể căn cứ, thẩm
quyền, đối tượng, cách thức, trình tự thực hiện theo quy định của pháp luật.
Việc giải quyết các vụ án hình sự được quy định áp dụng cho thủ tục TTHS.
Tuỳ theo quan niệm và tiêu chí phân đoạn mà thủ tục TTHS được chia thành các
giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thi hành án, giám
đốc thẩm và tái thẩm hay khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hay khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử… Bên cạnh những thủ tục TTHS được thiết kế nhằm giải
quyết chung đối với các vụ án hình sự thông thường, còn có những thủ tục TTHS
đặc biệt chỉ áp dụng cho một số đối tượng đặc biệt. Ví dụ: thủ tục áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh, thủ tục rút gọn, thủ tục khiếu nại, tố cáo trong TTHS...
Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng là một trong những loại thủ tục đặc
biệt của TTHS, hoặc tại một số quốc gia trên thế giới, được quy định theo một luật
riêng về tư pháp người dưới 18 tuổi. Mặc dù qui định rất nhiều các thủ tục để giải
quyết vụ án hình sự mà người bị bắt, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nhưng
BLTTHS hiện hành lại không qui định về khái niệm thủ tục tố tụng đối với người
9
dưới 18 tuổi, cho nên trên thực tế đã có nhiều cách hiểu khác nhau về thủ tục này.
Việc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được thực hiện
theo một thủ tục đặc biệt. Các quy định này nhằm mục đích đưa ra những hình thức
giải quyết vụ án sao cho phù hợp với các đặc điểm tâm, sinh lý của người dưới 18
tuổi phạm tội, nhằm xác định đúng đắn, toàn diện sự thật khách quan của vụ án và
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Ngoài ra, các quy định này còn nhằm kết hợp hài hoà giữa các biện
pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục, tạo ra những điều kiện cần thiết để người
dưới 18 tuổi sửa chữa sai lầm, sớm trở thành người có ích cho xã hội.
Từ sự phân tích các đặc điểm trên về người dưới 18 tuổi phạm tội và thủ tục
tố tụng áp dụng đối với họ, có thể đưa ra khái niệm thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là những thủ tục bao gồm
thủ tục riêng, thủ tục chung không trái thủ tục riêng cần thực hiện khi tiến hành giải
quyết vụ án mà người phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm giải
quyết đúng đắn, khách quan vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong các
hoạt động tố tụng hình sự.
1.1.1.3. Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội
Hiện nay các quốc gia trên thế giới đã xây dựng nhiều văn bản pháp luật bảo
vệ các quyền của con người, đặc biệt là đối với người dưới 18 tuổi, trong đó phải
kể đến các văn kiện quốc tế dành riêng cho người dưới 18 tuổi như Công ước về
quyền trẻ em; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người
dưới 18 tuổi (gọi tắt là Hướng dẫn Riyadh); Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên
hợp quốc về áp dụng pháp luật với người dưới 18 tuổi (gọi tắt là Quy tắc Bắc
Kinh); Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người dưới 18 tuổi bị tước quyền tự
do. Các văn kiện pháp lý này đã tạo ra những chuẩn mực tối thiểu nhằm bảo đảm
các quyền của người dưới 18 tuổi khi vi phạm pháp luật. Các văn bản này đã đưa ra
các nguyên tắc về tư pháp thân thiện với người dưới 18 tuổi.
Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và người dưới 18 tuổi
luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm. Trong mọi hoạt động của cơ quan,
tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến người dưới 18 tuổi thì lợi ích của trẻ em
được quan tâm hàng đầu, đây là nguyên tắc xuyên suốt trong chính sách, pháp luật
10
của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (trong đó có trẻ em) được thể hiện rất
đầy đủ trong BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đối với hệ thống tư pháp thân thiện với người dưới 18 tuổi một trong những
nguyên tắc quan trọng nhất là “Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được
thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi tòa án, các
nhà chức trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em
phải là mối quan tâm hàng đầu”. Quy tắc Bắc Kinh cũng nêu rõ nguyên tắc
này “Các thủ tục tố tụng phải nhằm bảo đảm những lợi ích cao nhất của người dưới
18 tuổi và được tiến hành trong một bầu không khí hiểu biết, cho phép người dưới
18 tuổi được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến”.
Đối với Việt Nam: Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được xác định như sau:
- Phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi trong việc xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội;
Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong hệ thống tư pháp người dưới 18
tuổi có ý nghĩa trong việc áp dụng các thủ tục đối với người dưới 18 tuổi vi phạm
pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng thủ tục tư pháp đối với trẻ em phải
bình đẳng, không có sự phân biệt dựa trên bất cứ yếu tố nào: chủng tộc, màu da,
giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ, địa vị xuất thân… Nguyên tắc này được ghi nhận tại
Điều 2 Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Quy tắc Bắc Kinh “Các Quy tắc
tiêu chuẩn tối thiểu dưới đây phải được áp dụng một cách không thiên vị đối với
người phạm tội chưa thành niên, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc xã hội
hoặc dân tộc, tài sản, dòng dõi hoặc các mối tương quan khác”.
Thực tiễn cho thấy trong TTHS nói chung và TTHS với trẻ em nói riêng chưa
phát hiện sự phân biệt đối xử, do đó, nguyên tắc này đã được ghi nhận và thực hiện tại
Việt Nam.
Xét về góc độ luật thực định, hiện nay Việt Nam đang tiến hành xây dựng hệ
thống pháp luật về tư pháp hình sự thân thiện với người dưới 18 tuổi. Trong đó có
11
yếu tố xây dựng được thủ tục TTHS thân thiện với người dưới 18 tuổi. Điều này
nhằm đáp ứng quy định Điều 40 Công ước quốc tế về quyền trẻ em yêu cầu các
quốc gia phải thúc đẩy việc hình thành các đạo luật quy định trình tự thủ tục, các cơ
quan và tổ chức riêng cho trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay thừa nhận là đã vi phạm
pháp luật hình sự. Một số nguyên tắc bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi vi
phạm pháp luật cũng được đề cập như nguyên tắc giả định vô tội cho tới khi chứng
minh đã phạm tội theo pháp luật, được giúp đỡ về pháp lý hoặc những giúp đỡ
thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày sự bảo vệ của mình… Bình luận chung số
10 của Công ước cũng khuyến nghị việc thiết lập tòa án người dưới 18 tuổi với tư
cách là một thiết chế độc lập hoặc như là một phần của hệ thống tòa án hiện có.
Đến nay, Việt Nam đã thành lập Tòa Gia đình và Người dưới 18 tuổi tại tất
cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc quy định cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân
dân và việc thành lập Tòa chuyên trách này là đỉnh cao của hệ thống tư pháp Việt
Nam nhằm bảo vệ trẻ em. Việc thành lập Tòa chuyên trách về gia đình và người
dưới 18 tuổi đã chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm
quyền trẻ em, đặc biệt là trẻ em trong hoạt động tư pháp, thông qua việc xây dựng
một hệ thống tư pháp trẻ em toàn diện mà Tòa Gia đình và Người dưới 18 tuổi là
trung tâm, với sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức có liên
quan. Như vậy, có thể rút ra khái niệm thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18
tuổi phạm tội như sau:
Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội là thủ tục đặc
biệt của tố tụng hình sự áp dụng đối với người bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tham gia tố tụng với các tư cách của người bị tố giác,
bị buộc tội, được tiến hành trên cơ sở nguyên tắc chú trọng việc giáo dục, giúp đỡ
người dưới 18 tuổi phạm tội phát triển lành mạnh, các đối xử, quyết định và hành
vi tố tụng phải xuất phát từ nhu cầu, lợi ích và phù hợp với các đặc điểm tâm sinh
lý của người dưới 18 tuổi.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Thứ nhất, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị kết án dưới 18 tuổi xuất phát từ việc lấy lợi ích của người dưới 18 tuổi
12
phạm tội làm trung tâm, tôn trọng, thấu hiểu, giảm thiểu các tổn thương do TTHS
có thể gây ra và giúp họ phát triển lành mạnh, hoà nhập và trở thành công dân có
ích cho xã hội. Đây là hạt nhân cơ bản tạo nên đặc trưng của thủ tục tố tụng này.
Điều này xuất phát từ chính sách hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội,
mục đích lấy người dưới 18 tuổi phạm tội làm trung tâm, trong đó đòi hỏi các thủ
tục tố tụng phải đảm bảo lợi ích cao nhất của người dưới 18 tuổi. Cách tiếp cận này
dẫn đến việc BLTTHS cũng như các văn bản thể hiện CSHS và tố tụng với người
dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo các yếu tố như:
Việc thực hiện các thủ tục tố tụng phải đảm bảo sự tôn trọng, thấu hiểu, cho
phép người dưới 18 tuổi được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến của mình trong tiến
trình giải quyết vụ án. Hoạt động TTHS cần phải tôn trọng QCN cơ bản của người
dưới 18 tuổi, đặc biệt là tôn trọng quyền tự do bày tỏ ý kiến của người dưới 18 tuổi,
tôn trọng suy nghĩ của người dưới 18 tuổi, tôn trọng các quyền riêng tư của họ.
Bên cạnh đó các thủ tục tố tụng tiến hành đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội cần phải đảm bảo yêu cầu thấu hiểu khi đặt ra mục đích quan trọng là xác định
được nguyên nhân và điều kiện phạm tội của người dưới 18 tuổi, xác định hoàn
cảnh sinh sống, hoàn cảnh giáo dục, đặc điểm tâm sinh lý của họ. Từ đó trong quá
trình tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải được đào tạo, có kinh nghiệm
trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, đồng
thời phải đảm bảo sự nhẹ nhàng, đặt mục tiêu hàng đầu là giáo dục, cải tạo đối với
người dưới 18 tuổi.
Ngoài ra, thủ tục này còn cần phải đảm bảo yếu tố cho phép người dưới 18
tuổi được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến: khích lệ khai báo, hợp tác để thu thập lời
khai, chứng cứ: tránh nguy cơ người dưới 18 tuổi do căng thẳng, thậm chí hoảng
loạn từ đó né tránh, sợ hãi hay chống đối lại cơ quan tiến hành tố tụng, thậm chí
chống đối xã hội. Điều này cũng mang lại kết quả là hoạt động tố tụng thân thiện
với người dưới 18 tuổi cần giảm thiểu các tổn thương do TTHS có thể gây ra: cân
nhắc việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp điều
tra mang tính cưỡng chế chỉ trong trường hợp cần thiết; Rút ngắn thời gian của các
giai đoạn tố tụng cũng như tính công khai của các hoạt động tố tụng; Loại trừ các
ngôn ngữ, cử chỉ thái độ có thể gây tổn thương tâm lý cho người dưới 18 tuổi. Giúp họ
phát triển lành mạnh, hoà nhập và trở thành công dân có ích cho xã hội: quan tâm đến
13
các nhu cầu cá nhân trong quá trình tố tụng, khích lệ, động viên kịp thời, can thiệp
sớm nếu người dưới 18 tuổi có các dấu hiệu sang chấn tâm lí; Phân tích, giảng giải,
giáo dục theo cách thức phù hợp để họ có nhận thức đúng đắn và có quyết tâm thay
đổi, hướng thiện.
Cuối cùng, thân thiện là đặc tính nổi bật của thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi, tính thân thiện liên quan đến các thuộc tính khác, đặt ra các thuộc tính
khác của thủ tục tố tụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi như: (i)giản lược thủ
tục và thời gian tố tụng; (ii) giảm thiểu tính cưỡng chế của các biện pháp tố
tụng;(iii) bảo mật thông tin; (iv) bảo đảm sự có mặt của người bào chữa và người
đại diện…; (v) thái độ gần gũi, lắng nghe, thấu hiểu của người tiến hành tố tụng và
những người khác làm việc với người phạm tội dưới 18 tuổi trong quá trình tố tụng.
Thứ hai, đối tượng áp dụng của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới
18 tuổi phạm tội mà theo các tư cách người tham gia tố tụng của luật TTHS, là
người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi.
Theo BLTTHS năm 2015 thì người bị tố giác là người bị người tố giác thực
hiện hoạt động tố giác trước cơ quan được giao giải quyết đơn tố giác tội phạm.
Cũng theo BLTTHS thì người bị tố giác chưa phải là người bị buộc tội. Mà người
bị buộc tội được hiểu gồm các nhóm gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Như vậy, trong trường hợp người bị tố giác là người dưới 18 tuổi thì họ cũng đã bắt
đầu cần được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với họ. Bởi lẽ, nhóm chủ thể
này cũng có những đặc điểm nhất định về tâm lý, sinh lý và quyền mà khi bị áp
dụng các biện pháp tố tụng nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc, họ hoàn toàn
có thể bị tác động tiêu cực từ các biện pháp tố tụng đó.
Nhóm thứ 2 cần phải được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới
18 tuổi đó là người bị bắt, bị tạm giữ là người dưới 18 tuổi. Như vậy, mặc dù chưa
bị khởi tố về hình sự, nhưng người bị tạm giữ là người dưới 18 tuổi cũng đã bị áp dụng
các thủ tục TTHS đặc biệt, nổi bật đó là biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Do đó, đối
tượng này cũng cần phải được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18
tuổi.
Nhóm thứ 3, là bị can và bị cáo là người dưới 18 tuổi. Bị can là người đã bị
khởi tố về hình sự, còn bị cáo là người đã có quyết định của Toà án đưa ra xét xử
14
đối với họ. Điều này có thể thấy, đây là hai nhóm đối tượng chủ yếu của thủ tục tố
tụng thân thiên với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các thủ tục thân thiện đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu diễn ra đối với các chủ thể trong giai đoạn
này.
Bên cạnh đó cũng cần phân biệt khái niệm thủ tục tố tụng thân thiện với
người dưới 18 tuổi phạm tội với thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi
nói chung. Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi được áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi nói chung bao gồm người bị buộc tội dưới 18 tuổi và người bị
hại dưới 18 tuổi. Ngoài ra nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thủ tục thân thiện trong
TTHS còn bao gồm cả NCTN được miễn TNHS và áp dụng các biện pháp giám sát
giáo dục, thủ tục và quá trình áp dụng các biện pháp giám sát giáo dục cũng phải
mang tính thân thiện.
Thứ ba, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gắn
liền với các chế độ đối với NCTN về điều kiện ăn ở, sinh hoạt, khám chữa bệnh…
trong môi trường giam giữ, mặc dù chế độ đối với NCTN về điều kiện ăn ở, sinh
hoạt, khám chữa bệnh… trong môi trường giam giữ thuộc đối tượng điều chỉnh của
luật thi hành tạm giữ, tạm giam mà không phải luật TTHS.
Thứ tư, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ
đặt ra với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà cả đối với cán bộ nhà
tạm giữ, trại tạm giam, giám định viên, phiên dịch viên, người bào chữa. Ngoài ra,
trong thủ tục này còn có thể có sự hỗ trợ của chuyên gia tâm lý, cán bộ xã hội…
Thứ năm, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được áp dụng theo các quy định đặc biệt nhưng có liên quan chặt chẽ với các quy
định chung.
Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là thủ tục đặc
biệt nhưng không tách riêng, độc lập với thủ tục chung mà còn mối quan hệ gắn bó,
không thể tách rời thủ tục chung. Bởi lẽ, về cơ bản, các thủ tục tố tụng thân thiện
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng được thực hiện trên cơ sở các thủ tục
chung, chỉ có một vài điểm đặc trưng làm nên sự khác biệt [41, tr.19].
Thứ sáu, các thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi được ghi nhận
trong hệ thống pháp luật Việt Nam phải phù hợp, tương thích với các quy định của
15
pháp luật quốc tế về tư pháp người dưới 18 tuổi.
Hệ thống tư pháp chưa thành niên của các quốc gia luôn có những chuẩn
mực nhất định, điều này phù hợp với xu thế chung trên toàn thế giới cũng như phù
hợp với yêu cầu bảo đảm QCN của nhóm đối tượng này. Điều này cũng xuất phát
từ việc cộng đồng quốc tế trong những năm vừa qua luôn quan tâm xây dựng một
hệ thống các quy tắc, chuẩn mực chung cho toàn nhân loại về tư pháp người dưới
18 tuổi. Điều này đã được ghi nhận trong Công ước của Liên hiệp quốc về quyền
trẻ em (1989), Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hiệp quốc về tư pháp NCTN
(1985), Hướng dẫn phòng, chống tội phạm ở NCTN (1990), Quy tắc về bảo vệ
NCTN bị tước đoạt quyền tự do (1990), Hướng dẫn của Liên hiệp quốc về các vấn
đề tư pháp liên quan tới nạn nhân và nhân chứng trẻ em (2005)...
Việt Nam cũng không nằm ngoài các quy tắc, chuẩn mực đó. Do đó, hệ thống
tư pháp thân thiện với người dưới 18 tuổi cần phải đảm bảo tuân thủ các quy định của
pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam cũng
đã tích cực tham gia đầy đủ các công ước quốc tế về đảm bảo quyền của trẻ em, đặc
biệt trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Từ đó, hệ thống TTHS thân thiện với người dưới
18 tuổi phạm tội cũng đã được hoàn thiện ở mức độ nhất định.
1.1.3. Mục đích của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được đặt ra
để phù hợp với các đặc điểm tâm, sinh lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị kết án là người dưới 18 tuổi, nhằm xác định đúng đắn, toàn diện sự thật
khách quan của vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của họ trước
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thủ tục tố tụng thân thiện kết hợp hài
hòa giữa các biện pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục, tạo ra những điều kiện
cần thiết để người dưới 18 tuổi sửa chữa sai lầm, sớm trở thành người có ích cho xã
hội [41, tr.19]. Nói cách khác việc ban hành và thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm tăng cường việc bảo vệ quyền và tự do
của người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như các lợi ích hợp pháp của Nhà nước và
xã hội bằng pháp luật TTHS, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Cụ thể:
Thứ nhất, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được
16
thiết kế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Xét về góc độ tâm, sinh lý thì người dưới 18 tuổi phạm tội có những đặc
điểm nhất định dẫn tới nguy cơ dễ bị tổn thương trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự hơn so với người đã thành niên. Do đó, người dưới 18 tuổi phạm tội khi
thực hiện các thủ tục tố tụng đối với họ phải đảm bảo tính thân thiện. Tính thân
thiện của thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thể hiện ở việc các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải đảm bảo tối đa QCN, quyền công dân
cũng như những lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Thủ tục tố tụng thân
thiện với người dưới 18 tuổi nhấn mạnh đến phương thức đối xử của các cơ quan
tiến hành tố tụng với người dưới 18 tuổi theo hướng tôn trọng danh dự, nhân
phẩm cho đối tượng đặc biệt này. Trong thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới
18 tuổi phạm tội, việc đặt ra trách nhiệm, nghĩa vụ đối xử của các cơ quan tiến
hành tố tụng chính là phương thức bảo đảm cho các quyền của người dưới 18
tuổi. Những tiêu chí nêu trên thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi
phạm tội xuất phát từ nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em: “Mọi trẻ bị cáo buộc,
buộc tội hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp
với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức
đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các QCN và quyền tự do cơ bản của người
khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự
tái hòa nhập cộng đồng” (Điều 40 Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em).
Trong TTHS, người bị buộc tội nói chung là những đối tượng bị các cơ quan
tiến hành buộc tội ở các mức độ khác nhau, trong các giai đoạn tố tụng khác nhau.
Pháp luật TTHS qui định cho họ những quyền để tự bảo vệ mình hoặc nhờ người
bảo vệ mình trước sự buộc tội đó. Đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
phạm tội thì cần phải có những cơ chế hữu hiệu hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các em, bởi vì họ là những người chưa thể tự mình bảo vệ trước sự buộc
tội của các cơ quan tiến hành tố tụng. Người dưới 18 tuổi phạm tội dù đang là
người bị buộc tội thì họ cũng cần được đối xử theo cách thức phù hợp với đặc điểm
lứa tuổi, tâm sinh lý của họ trên tinh thần tôn trọng nhân cách, phẩm giá và các
quyền tự do của các em cũng như khơi dậy lòng tôn trọng của các em đối với các
QCN nhằm mục đích giáo dục, thúc đẩy sự tái hoà nhập cộng đồng của các em,
tránh cho các em những mặc cảm với mọi người, xã hội. Chính vì vậy, các qui định
17
về bắt, tạm giữ, tạm giam, các qui định về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự đều dựa trên nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Việc pháp luật TTHS qui định Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán khi tiến hành tố tụng phải là người có hiểu biết về tâm lý
học, khoa học giáo dục cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm của người dưới
18 tuổi là một bảo đảm cần thiết cho quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18
tuổi. Chỉ khi có sự hiểu biết sâu sắc về đối tượng được bảo vệ thì những người tiến
hành tố tụng mới có thể làm tốt được công tác bảo vệ [3]. Việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng được pháp luật TTHS qui
định một cách chặt chẽ và chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết. Để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp người dưới 18 tuổi, pháp luật TTHS qui định bắt buộc
phải có người bào chữa trong các vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi phạm tội. Việc có người bào chữa trong các vụ án loại này không
những giúp cho người dưới 18 tuổi được bảo vệ về mặt pháp lý mà còn giúp cho
các cơ quan tiến hành tố tụng có thể giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ. Bên cạnh sự tham gia bắt buộc của người bào chữa, pháp luật
TTHS còn qui định sự có mặt của đại diện gia đình, nhà trường hoặc các tổ chức xã
hội. Qui định này cũng tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thể đánh
giá được đầy đủ, toàn diện về bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi để xử lý vụ án
sao cho đúng đắn. Hơn nữa, sự có mặt của họ sẽ có tác dụng tốt trong việc bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, giúp người dưới 18 tuổi
nhận ra được những sai lầm, thấy được sự quan tâm của cộng đồng đối với các em
để có thái độ tích cực trong việc sửa chữa sai lầm đó.
Thứ hai, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được
qui định nhằm giải quyết vụ án mà người dưới 18 tuổi phạm tội một cách chính xác
và khách quan.
Quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ có thể đạt
được trên cơ sở vụ án đó được giải quyết một cách chính xác và khách quan. Để
đảm bảo vụ án hình sự nói chung và vụ án mà người dưới 18 tuổi phạm tội nói
riêng được giải quyết một cách khách quan, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác
định nội dung vụ án đúng với các tình tiết của vụ án như thực tế đã diễn ra trên cơ
sở các chứng cứ đã thu thập được, không được định kiến, suy diễn theo ý chí chủ
18
quan của những người tiến hành tố tụng. Chẳng hạn, BLTTHS năm 2015 đã qui
định các thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các qui định về
phạm vi áp dụng, về đối tượng chứng minh, về áp dụng biện pháp ngăn chặn và
giám sát, về người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, về xét xử, thi hành án
hình sự… đối với người dưới 18 tuổi là cơ sở giúp các cơ quan tiến hành tố tụng
phân biệt rõ các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các thủ tục
tố tụng đối với người trên 18 tuổi có đủ năng lực hành vi dân sự, để họ xác định
được rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình, hạn chế được các vi phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, tạo điều kiện cho họ hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng chính xác các thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự, BLTTHS năm 2015 qui định rõ về phạm vi áp dụng thủ tục đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội phải được áp dụng theo các qui định của Chương
XXVIII, đồng thời theo những qui định khác của BLTTHS nhưng không được trái
với những qui định của Chương XXVIII. Do đó, trước khi quyết định có áp dụng
hay không áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt, các cơ quan và người tiến hành tố tụng
phải xem xét toàn diện, khách quan và đầy đủ về sự cần thiết có phải áp dụng các
thủ tục đó hay không. Khi áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, các cơ quan và người tiến hành tố tụng luôn phải chú ý xem đã áp dụng
đầy đủ và chính xác các thủ tục đó chưa.
Thứ ba, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được
qui định nhằm kết hợp hài hoà giữa các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng
chế tố tụng trong đó chú trọng hơn biện pháp giáo dục, thuyết phục, giúp người
dưới 18 tuổi phạm tội sớm nhận thức được những sai lầm, giáo dục tốt để trở thành
người lương thiện và có ích cho xã hội.
Luật TTHS là phương tiện quan trọng để giáo dục công dân nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật và tôn trọng qui tắc của cuộc sống XHCN. Các qui phạm pháp
luật TTHS là căn cứ để người tiến hành tố tụng ý thức rõ phạm vi, mức độ quyền
hạn của mình; giúp cho những người tham gia tố tụng nhận thức rõ các quyền và
nghĩa vụ tố tụng để họ có thể bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ. Luật TTHS còn
qui định những biện pháp có ý nghĩa khuyến khích, động viên những người tham
gia tố tụng thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức pháp luật cho họ. Trên
19
cơ sở những mục đích chung đó của luật TTHS, việc qui định thủ tục tố tụng thân
thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật TTHS cũng nhằm mục đích
giáo dục, thuyết phục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi nhận thức được sai lầm, học tập
tốt để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong những trường hợp cần
thiết khi không thể áp dụng được các biện pháp khác. Các thủ tục tố tụng được qui
định sao cho người dưới 18 tuổi phạm tội khi tham gia tố tụng luôn được đối xử
một cách công bằng, được tạo cơ hội và hướng dẫn để họ tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Để giúp người dưới 18 tuổi nhận thức được điều này, BLTTHS
đã qui định Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi tiến hành tố tụng phải là
những người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, cũng
như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người dưới 18 tuổi.
1.2. Cơ sở quy định thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Thứ nhất, căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của người phạm tội
Xuất phát từ đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội là những người còn non
nớt về thể chất và tinh thần, song họ là một bộ phận của thế hệ chủ nhân tương lai của
đất nước nên cần được quan tâm chăm sóc đặc biệt. Trong lứa tuổi của mình, việc
phạm sai lầm của những người dưới 18 tuổi là hoàn toàn dễ hiểu vì họ chưa phát triển
đầy đủ cả về thể chất và nhân cách, cho nên việc đấu tranh phòng chống tội phạm ở
người dưới 18 tuổi cũng cần có căn cứ trên cơ sở đặc điểm tâm lý người dưới 18 tuổi
[1, tr.57].
Dựa trên cơ sở của pháp luật hình sự, lứa tuổi này có thể phân thành hai
nhóm, mỗi nhóm có những đặc điểm riêng. Nhóm thứ nhất từ 14 tuổi tròn đến dưới
16 tuổi, với đặc điểm là vừa vượt qua giai đoạn trẻ con, gần gia đình và sống phụ
thuộc hầu như hoàn toàn vào gia đình.
Ở lứa tuổi này, người dưới 18 tuổi đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ
về thể lực và tâm sinh lý. Khả năng phát triển cụ thể của từng người có thể khác
nhau, song nhìn chung đây là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi trẻ con sang tuổi người
lớn, không còn thụ động với vai trò của người được dạy dỗ nhưng lại chưa hẳn là
người lớn. Theo xu hướng chung sự vươn lên vị trí độc lập của người dưới 18 tuổi
diễn ra rất tự phát. Họ muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc với người lớn bằng nhiều
20
cách khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của từng người. Lứa tuổi dưới 18
thường rất linh hoạt, nhạy cảm và hiếu động, ảo tưởng, vì vậy ranh giới giữa cái
đúng - sai thường dễ lẫn lộn. Về mặt động cơ hành vi của người dưới 18 tuổi là
loại hành vi dễ chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, bắt chước nhưng chưa
có khả năng tự kiềm chế và đánh giá vấn đề xảy ra một cách toàn diện. Tựu chung
lại, ở ranh giới giữa trẻ em và người lớn, con người thường tồn tại những diễn biến
tâm lý phức tạp. Ở giai đoạn này, nhân cách con người chưa ổn định, mọi hành vi
cũng như động cơ dễ chịu sự tác động từ môi trường bên ngoài. Quá trình
hình thành tính cách và phẩm chất cá nhân phụ thuộc vào thân nhân của họ. Môi
trường giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội cũng là yếu tố chi phối có tính
quyết định. Nếu sống trong môi trường lành mạnh, người dưới 18 tuổi sẽ có điều
kiện phát triển toàn diện để trở thành một công dân có ích. Nhưng ngược lại, ở một
môi trường sống phức tạp, lộn xộn thì sự ảnh hưởng xấu đến tâm lý trẻ em là một
điều không thể tránh khỏi. Chính bởi sự phát triển chưa đầy đủ về phẩm chất và tinh
thần mà pháp luật dành cho người dưới 18 tuổi một sự quan tâm, bảo vệ đặc biệt. Các
chế định đều lấy giáo dục, thuyết phục làm biện pháp chính điều chỉnh hành vi của
họ. Đây là một trong những nhân tố chi phối đến quá trình hoạch định, xây dựng
chính sách pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm tội phạm học về nhân thân người phạm tội và
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Đặc điểm tội phạm của người phạm tội dưới 18 tuổi cho thấy nhóm đối
tượng này thường không nhận được sự quan tâm đầy đủ, đúng cách của gia đình,
nhà trường và xã hội. Nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt như cha mẹ ly hôn, gia đình
ly tán, bỏ học, lang thang cơ nhỡ, đã từng bị bóc lột hoặc lạm dụng. Người phạm
tội dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội thường không được tính toán, dự mưu
một cách kỹ càng và chu đáo. Hay nói cách khác họ không có ý định thực hiện
hành vi phạm tội từ trước mà thường bị rủ rê, lôi kéo hoặc kích động. Điều này
xuất phát từ trạng thái tâm lý không kiên định, dễ bị tác động hoặc lôi kéo của họ.
Từ đó các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng cần đảm bảo tính phù
hợp, thủ tục hướng đến việc tác động, hậu thuẫn cho việc khai thác thông tin của
người dưới 18 tuổi một cách thuận lợi và dễ dàng nhất.
Điều này tác động đến đảm bảo cho hiệu quả thực hiện các thủ tục tố tụng
21
đối với người dưới 18 tuổi phải đảm bảo tính khách quan, trung thực.
Thứ ba, xuất phát từ khả năng chịu tổn thương do các thủ tục và biện pháp
tố tụng nghiêm trọng hơn so với người trưởng thành
Thực tế cho thấy người dưới 18 tuổi phạm tội là nhóm chủ thể đặc biệt so
với người đã thành niên vì họ đang ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi còn hạn chế, đôi khi còn bị tác động mạnh mẽ của những điều
kiện bên ngoài. Do vậy, thủ tục tố tụng thân thiện của Nhà nước ta đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội luôn quán triệt và thực hiện chính sách hình sự trong từng
giai đoạn TTHS, việc thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện nhằm quán triệt định
hướng khoan hồng và giáo dục, thuyết phục, chủ yếu hướng đến giáo dục và giúp
đỡ họ sửa chữa những sai lầm, tạo điều kiện cho họ phát triển ành mạnh để trở
thành những công dân có ích cho xã hội.
Đặc điểm tâm sinh lý này của người dưới 18 tuổi dẫn đến khả năng chịu những
tổn thương do việc áp dụng các biện pháp và thủ tục tố tụng của các cơ quan tiến
hành tố tụng là thấp hơn so với người đã thành niên. Hay nói cách khác, cùng một
biện pháp tác động ví dụ tạm giam, nhưng người dưới 18 tuổi phạm tội chịu những
hậu quả, tác động nghiêm trọng hơn. Đặc biệt, tâm lý học đã xác định, các tổn thương
tâm lý hình thành ở giai đoạn này có thể kéo dài, để lại hậu quả dai dẳng cho người
dưới mắc phải trong suốt quãng đời sau này của người đó. Do đó, điều cần thiết là
phải đảm bảo việc áp dụng các thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi, ngăn
chặn và xoá bỏ những biện pháp tác động gây hại cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ tư, xuất phát từ khả năng giáo dục, giúp đỡ họ phát triển lành mạnh
ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
Chính vì vậy, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
luôn là vấn đề được quan tâm thực hiện trong đời sống pháp luật TTHS nước ta.
Định hướng ưu tiên cho khoan hồng trong mối quan hệ với nghiêm trị, ưu
tiên cho giáo dục, thuyết phục trong mối quan hệ với cưỡng chế khi xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội. Như vậy, định hướng giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi
không chỉ được thực hiện trong quá trình thi hành án, sau khi bản án được tuyên mà
còn cần được tiến hành áp dụng ngay từ khi người dưới 18 tuổi đang bị áp dụng các
thủ tục tố tụng như khởi tố, điều tra, áp dụng biện pháp tạm giam và tại phiên toà.
22
Mục đích giáo dục của các hoạt động TTHS đã được khoa học pháp lý xác định và
coi trọng. Trong vụ án có người dưới 18 tuổi thì hoạt động này càng thể hiện vai trò
quan trọng của mình.
Thứ năm, xuất phát từ chính sách đối với trẻ em nói chung và người dưới 18
tuổi nói riêng của cộng đồng quốc tế cũng như của các quốc gia, đặc biệt là chính
sách đối với người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật.
Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có một số dấu
hiệu đặc trưng chung của chính sách pháp luật, chính sách hình sự (ý chí của Nhà
nước và mệnh lệnh quyền lực, tính chất liên kết và chính thức, tính hệ thống, tính nền
tảng, tính quan niệm tổng thể…). Đồng thời, thủ tục tố tụng thân thiện đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội luôn mang trong mình tính đặc thù gắn với đối tượng cụ thể (đặc
thù về lứa tuổi, về đặc điểm tâm sinh lý, nhận thức…). thủ tục tố tụng thân thiện đối
với người dưới 18 tuổi là hoạt động hướng đến việc nâng cao chất lượng của đời sống
pháp luật của xã hội, hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung và pháp luật TTHS đối với
người dưới 18 phạm tội nói riêng, hướng đến sự thay đổi tiến bộ của hệ thống pháp
luật TTHS.
Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế về pháp luật, thì việc xây dựng và
áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải tiếp cận
các chuẩn mực quốc tế về tư pháp người dưới 18 tuổi. Hiện nay trên thực tế các văn
bản pháp lý quốc tế đã có rất nhiều quy định cụ thể về việc áp dụng thủ tục khác
biệt mang tính nhân đạo, văn minh và thân thiện với người dưới 18 tuổi. Do đó,
việc áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội mang lại
cái nhìn cởi mở, thiện cảm hơn đối với hoạt động tư pháp của Việt Nam trong mắt
bạn bè quốc tế, đưa chuẩn mực pháp luật TTHS của Việt Nam được tiếp cận, và
hoà nhập với quốc tế.
1.3. Một số mô hình tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trên thế giới
1.3.1. Mô hình tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
23
pháp luật quốc tế
“Tất cả mọi người đều bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán… Tuy
nhiên, các phán quyết trong các vụ án dân sự hoặc hình sự phải được công bố, trừ
trường hợp lợi ích của người vị thành niên đòi hỏi cần àm khác…” (Điều 14).
Khoản 1 Điều 40 đưa ra 4 chuẩn mực về đối xử với trẻ em phạm tội, đó là:
Đối xử theo hình thức phù hợp với việc cổ vũ phẩm cách và phẩm giá của trẻ em về
nhân cách và phẩm giá vốn có; Tăng cường lòng tôn trọng của đứa trẻ đối với các
QCN và các quyền tự do cơ bản của người khác; Phù hợp với lứa tuổi của trẻ em;
Thúc đẩy sự tái hòa nhập và vai trò của trẻ em trong xã hội.
1.3.2. Thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Pháp
Tố tụng hình sự thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Pháp được
quy định bởi Luật N45-174 ngày 02/02/1945 về tội phạm vị thành viên. Luật quy
định rằng việc giáo dục (tái hòa nhập xã hội) một thiếu niên phạm tội quan trọng
hơn các biện pháp trừng phạt hình sự và công nhận quyền của người dưới 18 tuổi
phạm tội được giáo dục. Theo luật này, nhà làm luật cho rằng một người phạm tội
dưới 18 tuổi, không nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, và nhiệm vụ của nhà
nước là để giúp đỡ, để hướng dẫn người đó đi đúng hướng và giúp người đó phục
hồi như một công dân bình thường. Các nguyên tắc cơ bản của thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi bao gồm: Ưu tiên các biện pháp giáo dục trước khi áp dụng
hình phạt, biện pháp trừng phạt. Nắm vững tâm lý, đặc điểm cá nhân (nhân thân)
người phạm tội dưới 18 tuổi. Một thẩm phán chỉ đưa ra phán quyết với điều kiện
nghiên cứu sâu, kỹ lưỡng về danh tính của một người phạm tội dưới 18 tuổi, và
“nghiên cứu xã hội” về người phạm tội dưới 18 tuổi được coi là điều kiện bắt buộc
trong hồ sơ về vụ án hình sự. Theo đó, thẩm phán có thể tự thực hiện một nghiên
cứu như vậy, nhưng phần lớn các trường hợp thẩm phán sẽ hướng dẫn cho các nhân
viên (quan chức) quản chế, thông qua sự trợ giúp của các nhà tâm lý học, bác sĩ
tâm thần và các chuyên gia giáo dục [40, tr.122-123]. Xây dựng các thẩm phán
chuyên biệt chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến người phạm tội dưới 18 tuổi
[40, tr.122-123].
Ở Pháp, khi một người dưới 18 tuổi phạm tội thì vụ án sẽ do tòa án dành cho
trẻ vị thành viên thụ lý. Tòa án với bồi thẩm đoàn sẽ xem xét các trường hợp người
vị thành niên từ 16 đến 18 tuổi phạm tội, cũng như các trường hợp người đồng
24
phạm là người thành niên phạm tội cùng với người dưới 18 tuổi. Phiên tòa xét xử vị
thành niên ở Pháp, có ba giai đoạn: tòa án dành cho trẻ em, tòa án xét xử
(tribunaol) và tòa án có bồi thẩm đoàn. Thẩm phán tòa án dành cho trẻ em không
được phép áp dụng hình phạt hình sự đối với trẻ vị thành niên, mà chỉ có thể đưa
tiến trình tiếp theo cho vụ án đang được xem xét, chuyển vụ án tòa án xét xử người
phạm tội vị thành niên. Ngoài ra, sự giám sát đối với các bị cáo vị thành niên được
giao cho các quan chức cảnh sát tư pháp đặc biệt. Thẩm phán điều tra, với sự đồng
ý của công tố viên, có thể cho phép trẻ vị thành niên ở cùng với gia đình hoặc đưa
người đó vào cơ sở giáo dục đặc biệt. Riêng đối với các trường hợp trẻ vị thành
niên dưới 12 tuổi thì thành lập các hội đồng giám hộ. Các hội đồng này thuộc hệ
thống tư pháp dân sự chịu trách nhiệm đối với hành vi của người dưới 18 tuổi vi
phạm pháp luật dưới 12 tuổi. Ở Pháp phân định từng mức độ tuổi và phạm vi thẩm
quyền của các tòa án, cũng như các cơ quan nhà nước đối với hành vi vi phạm của
trẻ vị thành niên [1, tr.68-69].
1.3.3. Thủ tục tố tụng hình sự thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
ở Nga
Quá trình giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 17 tuổi phạm
tội được quy định tại Chương 50, Phần thứ 4 Bộ luật TTHS Liên bang Nga về thủ
tục tố tụng đặc biệt năm 2001 (từ Điều 420 đến Điều 432) với tên gọi “Thủ tục tố
tụng đối với vụ án hình sự về NCTN”. Trong đó, quy định về hình thức điều tra sơ
bộ, biện pháp cưỡng chế, căn cứ và cơ chế để chấm dứt truy tố hình sự đối với trẻ
chưa thành niên; quy định các cơ sở pháp lý cho việc bắt buộc thu thập các thông tin
về đặc điểm của NCTN, quy định thủ tục của người đại diện hợp pháp của trẻ chưa
thành niên [1, tr.66-67] …
Tuy nhiên, qua nhiều năm Bộ luật TTHS của Liên bang Nga cũng đã bộc lộ
những lỗ hổng trong quy định TTHS đối với trẻ chưa thành niên như vấn đề liên
quan tới khởi tố vụ án hình sự, áp dụng biện pháp cưỡng chế TTHS, sự tham gia
của nhà giáo và nhà tâm lý học trong việc tiến hành các hoạt động điều tra và tư
pháp hình sự, sự tham gia của người đại diện theo pháp luật của NCTN phạm tội
trong quá trình tố tụng (chưa xác định được ai có thể tham gia với tư cách là người
đại diện hợp pháp của NCTN, về trình tự thủ tục lấy lời khai của họ, thủ tục thay
đổi người đại diện hợp pháp.....) [23]. Chính vì vậy, đòi hỏi phải xây dựng thủ tục
25
tố tụng thân thiện đối với NCTN hoàn chỉnh.
Chính sách TTHS đối với NCTN ở Nga hiện nay xác định mục đích của
TTHS đối với NCTN và hệ thống các nguyên tắc cụ thể của tư pháp hình sự đối với
NCTN. Theo đó, các hướng chính của chính sách TTHS đối với NCTN ở Liên
bang Nga hiện nay bao gồm: Tổ chức hệ thống tư pháp hình sự đối với NCTN tập
trung vào việc giảm tội phạm vị thành niên; Cải thiện pháp luật TTHS, thiết lập
chặt chẽ và liên tục giữa các tiêu chuẩn của pháp luật hình sự và TTHS; Phân tích
các vấn đề của thực tiễn thực thi pháp luật liên quan đến việc thực hiện TTHS đối
với NCTN và xác định hướng hoàn thiện. Đào tạo và đào tạo lại nhân sự chuyên
nghiệp cho hệ thống tư pháp hình sự đối với NCTN phạm tội, trang bị kiến thức pháp
lý với mục đích hình thành một thái độ tích cực đối với việc tạo ra hệ thống TTHS đặc
biệt dành cho NCTN phạm tội [12, tr.179].
1.3.4. Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Hoa Kỳ
Lý do để đưa tất cả những đối tượng trẻ em này vào phạm vi tài phán của
một hệ thống Toà chuyên biệt dựa trên quan điểm nhìn nhận tất cả những trẻ em đó
là những đối tượng có nguy cơ cao, dễ bị tổn hại do độ tuổi và hoàn cảnh của các
em nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để bảo vệ, chăm sóc và hướng dẫn
các em [46].
Mặc dù, như định nghĩa ban đầu thì quyền tài phán của mô hình Toà án
người dưới 18 tuổi này bao gồm 3 nhóm thanh thiếu niên có nguy cơ cao như kể
trên, nhưng thực tế cho tới những năm 1970, hầu hết các vụ án mà Toà án NCTN
xử lý là những vụ việc NCTN bị cáo buộc có những hành vi sai trái, cả hành vi
phạm tội lẫn những hành vi không mang tính chất tội phạm như bỏ nhà hoặc trốn
26
học.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 của luận văn, học viên phân tích một số vấn đề lý luận về
thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nội dung của
chương 1 gồm:
Thứ nhất khái niệm thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tôi, đây
là những thủ tục tố tụng được quy định nhằm đảm bảo sự thân thiện trong quá trình
tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, một đối tượng đặc biệt cần được quan
tâm trong hệ thống pháp luật. Thủ tục tố tụng thân thiện có những đặc điểm chung
giống mới những đặc điểm của thủ tục tố tụng nói chung và thủ tục áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi nói riêng.
Thứ hai, cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng thân thiện đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, cũng như đặc
điểm về CSHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ ba, tham khảo mô hình một số nước trên thế giới ta có thể thấy các mô
hình tố tụng trong pháp luật quốc tế, cũng như của Pháp, Nga và Hoa Kỳ cho thấy
các nước đều cho thấy có những đặc điểm riêng của thủ tục đối với người dưới 18
27
tuổi theo hướng thân thiện, vì lợi ích tốt nhất của nhóm đối tượng này.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH BẮC NINH
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thủ
tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
BLTTHS 2015 là một bước phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam trên
nhiều khía cạnh, trong đó có việc tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng đối với NCTN
đã được quy định trong BLTTHS 2003. Về thuật ngữ, BLTTHS năm 2015 không
chỉ đặt ra thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi mà còn bao gồm thủ
tục tố tụng đối với người làm chứng, bị hại… dưới 18 tuổi và cũng không đặt tên
thủ tục này là thủ tục tố tụng thân thiện, tính thân thiện được thể hiện qua các tiêu
chí mà chúng tôi đã phân tích trong chương 1, thể hiện được nguyên tắc “nhằm bảo
đảm những lợi ích cao nhất của người dưới 18 tuổi”, tôn trọng, thấu hiểu, cho phép
người dưới 18 tuổi được tham gia và tự do bày tỏ ý kiến, giảm thiểu các tổn thương
do TTHS có thể gây ra. Các đặc tính này của một thủ tục tố tụng thân thiện được
thể hiện qua các quy định cụ thể dưới đây.
2.1.1. Quy định về phạm vi chủ thể được áp dụng thủ tục tố tụng thân
thiện
28
Một trong những điểm mới nhất của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi là đã mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Nếu như trước đây, thủ tục tố tụng đặc biệt chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội thì BLTTHS năm 2015 hiện hành quy định thủ tục tố tụng đặc biệt áp dụng cho người dưới 18 tuổi (bao gồm cả người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng) (Điều 413). BLTTHS năm 2015 cùng với việc mở rộng phạm vi chủ thể được áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt đã quy định rõ nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi là phải bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi (Khoản 1 Điều 414). Đối chiếu với quy định tại Điều 413 BLTTHS năm 2015 thì phạm vi chủ thể được áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện là người bị buộc tội, bị hại và người làm chứng dưới 18 tuổi, trong đó các quy định phần lớn áp dụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, nghiên cứu quy định tại Chương XXXVIII BLTTHS năm 2015 về phạm vi chủ thể áp dụng thủ tục thân thiện có thể thấy sự chưa thống nhất giữa các quy định của BLTTHS năm 2015. Khoản 1 Điều 413 BLTTHS năm 2015 quy định phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt là đối với người bị buộc tội (bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), nhưng tại Điều 419 BLTTHS lại quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người dưới 18 tuổi; Điều 421 BLTTHS quy định về việc lấy lời khai người dưới 18 tuổi bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Như vậy, về phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thiếu vắng trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người dưới 18 tuổi phạm tội.
2.1.2 Quy định về nguyên tắc tiến hành tố tụng
- Bảo đảm giữ không cho ai khác ngoài chính người dưới 18 tuổi biết được
- Quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi phải được
29
Để bảo đảm tính đồng bộ, tương thích giữa BLTTHS của Việt Nam với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, đồng bộ với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, Điều 414 BLTTHS đã quy định 7 nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Đề ra các nguyên tắc này trong BLTTHS nhằm thể hiện quan điểm, chính sách nhân đạo của Nhà nước, vốn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm khắc, tạo điều kiện tối đa bảo vệ quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự. nhằm thể hiện quan điểm, chính sách nhân đạo của Nhà nước, tạo điều kiện tối đa bảo vệ quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự, vốn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm khắc. Khi tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi, cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải bảo đảm nguyên tắc tiến hành tố tụng như sau: - Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp; bảo đảm lợi ích tốt nhất, bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi. bí mật cá nhân của mình; - Bảo đảm nhà trường, đoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt là những người đại diện của người dưới 18 tuổi có quyền tham gia tố tụng. tôn trọng;
- Quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi được
- Các nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
đảm bảo; tội được đảm bảo; tố tụng. Quy định về nguyên tắc tiến hành tố tụng có tính chất định hướng cho toàn bộ hoạt động tố tụng của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi, đồng thời định hướng cho các quy định về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Ví dụ: để cụ thể hóa quy định về việc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện cho người dưới 18 tuổi, Điều 420 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về “Việc tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức”; để cụ thể hóa quy định bảo đảm quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi phạm tội, Điều 422 BLTTHS năm 2015 quy định về “Bào chữa”…Những quy định này thể hiện rõ tính thân thiện trong thủ tục tố tụng, phù hợp với yêu cầu về nguyên tắc tiến hành tố tụng nói riêng và chính sách hình sự của Nhà nước ta nói chung, phù hợp với thông lệ của luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với riêng chủ thể là người phạm tội dưới 18 tuổi thì còn một số điểm bất cập nhất định. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 414 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc tiến hành tố tụng là phải “Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi”, nhưng không quy định cụ thể về yêu cầu giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi được thực hiện trong những giai đoạn tố tụng nào. Trong trường hợp cần bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai được quy định tại Điều 25 BLTTHS năm 2015. Có thể thấy, BLTTHS năm 2015 chỉ đề cập đến việc cho phép xét xử kín (trong giai đoạn xét xử) để đảm bảo bí mật đời tư của người phạm tội dưới 18 tuổi, nhưng việc quy định tuyên án công khai ở mức độ như thế nào thì BLTTHS năm 2015 chưa quy định cụ thể. Mặt khác, trong các giai đoạn trước như giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố…. việc đảm bảo giữ bí mật đời tư của người dưới 18 tuổi có đặt ra hay không, cũng chưa được quy định cụ thể.
- Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia
2.1.3 Quy định về đối tượng chứng minh
Đối với vụ án hình sự mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi thì ngoài những vấn đề cần phải chứng minh như những vụ án thông thường
30
khác được quy định tại Điều 85 BLTTHS như đã nêu trên còn phải chứng minh
những tình tiết theo quy định tại Điều 416 BLTTHS năm 2015. Ðiều kiện sinh sống
và giáo dục. Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội. Sở dĩ BLTTHS năm
2015 quy định như vậy là do những đặc điểm riêng liên quan đến yêu cầu giải
quyết vụ án mà có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là người dưới 18 tuổi, các cơ quan tiến hành tố tụng ngoài việc phải thu thập chứng
cứ theo quy định chung của BLTTHS năm 2015 còn bắt buộc phải chứng minh các
tình tiết quy định tại Điều 416. Bởi vì, những tình tiết trên không những góp phần
giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ mà nó còn góp phần
giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội trở thành những công dân có ích cho
xã hội, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống người dưới 18 tuổi phạm tội
có hiệu quả. Có thể thấy, các quy định này đã có những tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn
so với các quy định trước đây của BLTTHS năm 2003. Điều này đảm bảo thủ tục tố
tụng thân thiện được thực sự áp dụng trong tất cả các vụ án có người dưới 18 tuổi là
người phạm tội. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, các quy định này vẫn còn
những điểm hạn chế nhất định như chưa đặt ra yêu cầu chứng minh quan trọng
trong vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội đó là chứng minh khả năng giáo dục cải
tạo của người dưới 18 tuổi.
31
Bên cạnh đó, theo quy định của BLTTHS thì trong vụ án người phạm tội dưới 18 tuổi phải chứng minh độ tuổi của người đó. Chính vì vậy, đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ngoài những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự thì điều đáng quan tâm hiện nay là vấn đề xác định tuổi của người dưới 18 tuổi. Nhưng để xác định thế nào cho đúng tuổi khi họ phạm tội là rất quan trọng và rất khó, để từ đó buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự. Muốn xác định tuổi của họ như thế nào cho đúng thì phải căn cứ vào giấy khai sinh, bản khai lý lịch có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc theo lời khai của cha mẹ, các giấy tờ khác. Điều 417 BLTTHS năm 215 quy định cách xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi: (1) Việc tiến hành xác định tuổi của người bị buộc tội và người bị hại dưới 18 tuổi trong vụ án hình sự là do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự thực hiện theo quy định của pháp luật, tiến hành mọi biện pháp để xác định được ngày, tháng, năm sinh của họ, như căn cứ vào giấy chứng sinh, giấy khai sinh, giấy chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, sổ hộ khẩu và hộ chiếu cùng các tài liệu giấy tờ khác phải được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. (2) Khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thấy các loại giấy tờ tài liệu có mâu thuẫn về ngày, tháng, năm sinh, có nghi ngờ về độ tuổi mà đã áp dụng hết các biện pháp vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội và người bị hại thì được xác định theo 1 trong các trường hợp sau:
- Lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh trong tường hợp xác định
được tháng nhưng không xác định được ngày, tháng thì.
- lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh
Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì.
- Trường hợp xác định được nửa năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. Nếu không xác định được năm thì tiến hành giám định để xác định năm sinh.
Về cơ bản cách xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi bảo đảm phù hợp với nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội. Phải căn cứ vào Điều 417 BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi khi xác định độ tuổi của người bị buộc tội, bị hại. Đây là cơ sở áp dụng chính sách về trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tuy nhiên, quá trình áp dụng trong thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập trong việc xác định tuổi theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo đối với những vụ án hình sự. Ví dụ như vụ án về hiếp dâm có bị hại cần xác định tuổi theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo. Giả sử khi đó cần xác định bị hại là người trên hay dưới 16 tuổi mà áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo thì việc xác định tuổi theo quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015 là việc bất lợi cho bị can, bị cáo chứ không phải có lợi. Do vậy, BLTTHS năm 2015 cần hoàn thiện vấn đề này để bảo đảm nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo và bảo đảm quyền của bị hại.
2.1.4. Quy định về người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
Để các hoạt động tố tụng trong những vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi diễn ra có hiệu quả, trước hết những người tiến hành tố
tụng phải có kiến thức về tâm lí học nói chung và tâm lí của người dưới 18 tuổi nói
riêng. Trên cơ sở đó, người tiến hành tố tụng mới có thể xác định được hướng tiếp
32
cận và tác động tâm lí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Vấn đề này đã được nhấn mạnh tại Quy tắc Bắc Kinh như sau: "Để hoàn thành
chức năng của mình một cách tốt nhất cần được hướng dẫn và đào tạo một cách đặc
biệt; ở những thành phố lớn, cần thành lập những đơn vị cơ sở đặc biệt chuyên giải
quyết những trường hợp liên quan tới người dưới 18 tuổi, các nhân viên cảnh sát,
những người thường xuyên hoặc chuyên giải quyết những vấn đề liên quan tới
người dưới 18 tuổi hay những người được giao làm công việc ngăn chặn phạm
pháp ở người dưới 18 tuổi " [20]. Quy định của BLTTHS Việt Nam là phù hợp với
Quy tắc Bắc Kinh. Trong BLTTHS năm 2015 lại không bắt buộc Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán phải là người được đào tạo hoặc có chuyên môn về tâm
lí học, về khoa học giáo dục người dưới 18 tuổi. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử
bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi bị ảnh hưởng không nhỏ bởi điều này.
Khoản 1 Điều 423 quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải
có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh
nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi, tiêu chuẩn đối với người tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi bắt buộc phải là
người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan
đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối
với người dưới 18 tuổi (Điều 415).
Về người tham gia tố tụng, pháp luật TTHS quy định bắt buộc phải có người
bào chữa, người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy cô giáo, đại diện nhà trường,
Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh
hoạt (Điều 291; Điều 420; Điều 423). Cụ thể: Điều 291 quy định: Người bào chữa
cho bị cáo dưới 18 tuổi được mời hay được chỉ định đều phải có mặt tại phiên toà.
Nếu người bào chữa vắng mặt thì phiên toà phải được hoãn; Khoản 1 Điều 423 quy
định: “Phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại diện của
bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt, trừ trường
hợp những người này vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan; Điều 420 quy định: Người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy
giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người
dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng
theo quyết định của CQĐT, VKS, Tòa án. Việc lấy lời khai, hỏi cung người dưới
33
18 tuổi; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép,
sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án
sau khi kết thúc điều tra được quy định đối với người đại diện của người dưới 18
tuổi.
Như vậy, việc quy định người tiến hành tố tụng trong vụ án có người dưới
18 tuổi cần phải được đào tạo, cũng như có kinh nghiệm trong việc tiến hành tố
tụng đối với các vụ án này và việc quy định bắt buộc phải có người đại diện, ,người
bào chữa…trong vụ án có người dưới 18 tuổi cho thấy quy định của BLTTHS Việt
Nam đã tiếp cận phù hợp với yêu cầu của các văn bản pháp lý quốc tế điển hình
như Quy chế Bắc Kinh. Tuy nhiên, ngoài những người tiến hành tố tụng như điều
tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm nhân
dân, thẩm tra viên cần phải có kinh nghiệm trong việc tiến hành tố tụng đối với vụ
án người dưới 18 tuổi thì trên thực tế những người thực hiện các hoạt động có liên
quan đến thủ tục tố tụng như người giám định, người phiên dịch, đặc biệt là cán bộ
quản giáo, trại tạm giam, nhà tạm giữ cũng là những đối tượng tiếp xúc, làm việc
rất nhiều đối với người dưới 18 tuổi. Do đó, việc BLTTHS chưa đưa các nhóm đối
tượng này vào trong nhóm cần yêu cầu kinh nghiệm làm việc với người dưới 18
tuổi là một hạn chế của luật.
2.1.5. Quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế
Bộ luật TTHS quy định ưu tiên áp dụng biện pháp giám sát, biện pháp ngăn
chặn không tước quyền tự do và chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi thật sự cần thiết hoặc khi biện pháp
giám sát, biện pháp ngăn chặn khác không có hiệu quả. Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện
của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng (khoản 1 Điều 48).
Các căn cứ, điều kiện nhằm hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 419 Bộ luật TTHS
2015, đó là:
- Trong trường hợp thật cần thiết mới áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện
34
pháp áp giải. Khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện
pháp ngăn chặn khác không hiệu quả thì mới áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam.
Quy định thời hạn tạm giam người dưới 18 tuổi chỉ bằng 2/3 đối với người từ đủ 18
tuổi trở lên.
- Quy định rõ ràng các căn cứ, điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn
giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam như:Chỉ có thể bị tạm giữ
trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội phạm quy định tại
khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 nếu có căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn
cấp…; có thể bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về
tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu có căn
cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã và các căn cứ tạm giam quy định tại các điều luật cụ thể trong Bộ luật
TTHS 2015; bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít
nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm thì cũng có thể bị bắt,
tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy
nã.
Theo quy định của Điều 419 và các quy định khác thì căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu
thỏa mãn hai điều kiện: Tội phạm phải được quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm
2015 và có một trong các căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt để tạm giam nếu đảm bảo
điều kiện: thứ nhất, phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc
biệt nghiêm trọng, thứ hai, có một trong các căn cứ xác định người đó thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119
BLTTHS.
Cũng có thể tạm giam đối với trường hợp bị can, bị cáo đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn
và bị bắt theo quyết định truy nã.
Ngoài những điều kiện chung khi áp dụng, cơ quan hoặc người có thẩm
35
quyền còn phải căn cứ vào nội dung quy định tại Điều 419 dành cho người dưới 18
tuổi. Cụ thể chỉ áp dụng trong trường hợp thật cần thiết; áp dụng khi việc áp dụng
biện pháp giám sát và biện pháp ngăn chặn trước đó không có hiệu quả và phải xem
xét sự phân hóa độ tuổi cũng như loại tội phạm mà họ thực hiện.
Tuy nhiên, qua việc xác định các căn cứ để áp dụng cho từng biện pháp cụ
thể đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cho thấy, tại Khoản 1 Điều 419 luật chưa
quy định rõ như thế nào là “trường hợp cần thiết” hay “áp dụng biện pháp giám
sát… không hiệu quả” nên đây sẽ là khó khăn, không thống nhất và dễ dẫn tới tình
trạng lạm dụng trong quá trình áp dụng. Vì vậy cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về
những vấn đề này.
Về thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn, so với quy định của BLTTHS
năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 cơ bản kế thừa, sửa đổi, bổ sung các nội dung
phù hợp hơn với tình hình thực tế đồng thời tạo được tính thống nhất trong quá
trình hiểu và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi. Cụ thể,
tại khoản 5 Điều 419 quy định: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, người ra lệnh giữ, lệnh hoặc người
ra quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi phải thông báo cho gia
đình người đại diện của họ biết”. Theo quy định này thì thời gian phải thông báo
cho gia đình, người đại điện của người dưới 18 tuổi khi bị bắt, tạm giữ tạm giam
là “trong thời hạn 24 giờ” chứ không phải “sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam” như
trước đây tại khoản 3 Điều 303 BLTTHS năm 2003. Điều này đảm bảo quyền lợi
cho người dưới 18 tuổi khi bị áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, hạn chế
trường hợp giam giữ người một cách tùy tiện, trái pháp luật của cơ quan hoặc
người tiến hành tố tụng.
Về việc quy định thời hạn tạm giam, với lý do để bảo vệ tốt hơn QCN,
quyền công dân, đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi và để phù hợp với yêu cầu xây
dựng nền tư pháp văn minh tiến bộ, thời hạn tạm giam để điều tra đối với người
dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 173 và Điều 419 BLTTHS năm 2015 với nhiều
thay đổi, bổ sung. Thời hạn tạm giam đã rút ngắn thời hạn gia hạn tạm giam 01
tháng đối với tội nghiêm trọng; 02 tháng đối với tội rất nghiêm trọng được quy
định cụ thể tại Điều 173 Bộ luật TTHS. BLTTHS năm 2015 cho phép gia hạn tạm
36
giam đến khi kết thúc điều tra nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm
quyền gia hạn tạm giam trong trường hợp này chỉ thuộc về Viện trưởng
VKSNDTC.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, BLTTHS năm 2015 quy định áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 419 là rất khó thực hiện đối
với những trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt quả tang người
dưới 18 tuổi phạm tội. Bởi tại thời điểm giữ người trong trường hợp khẩn cấp, ở
một số trường hợp rất khó xác định tuổi của người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp do thời gian tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp rất ngắn, trong khi
người bị giữ có thể không hợp tác hoặc người tiến hành giữ người trong trường hợp
khẩn cấp hạn chế về năng lực…
Đối với trường hợp bắt người phạm tội quả tang khi người đó đang thực hiện
tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì
bất kỳ người nào cũng có quyền bắt (Điều 111 BLTTHS) – với quy định như vậy
rất khó cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cụ thể là người tiến hành bắt
người phạm tội quả tang, vì tại thời điểm bắt không thể xác định chính xác tuổi của
người phạm tội là dưới 18 tuổi. Bởi vậy, cần nghiên cứu để sửa đổi quy định này.
Ngoài ra, riêng đối với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, thực tiễn
xét xử cho thấy, trong vụ án có nhiều bị can, bị cáo, mà có cả bị can, bị cáo là người đủ
18 tuổi trở lên và bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi thì việc tính thời hạn điều tra, truy
tố, xét xử, thời hạn tạm giam trong trường hợp này như thế nào? Hoặc vụ án có nhiều bị
can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nhưng phạm vào các tội có khung hình phạt khác nhau
thì khả năng áp dụng biện pháp tạm giam đối với từng bị cáo như thế nào? Vấn đề này
cũng chưa được BLTTHS năm 2015 cũng quy định rõ.
2.1.6. Quy định về thủ tục tố tụng
2.1.6.1. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố
Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố trong những vụ án mà bị can là người
dưới 18 tuổi cũng được tiến hành theo thủ tục chung mà BLTTHS năm 2015 đã quy
định nhưng khi tiến hành các hoạt động tố tụng nói trên cần phải chú ý những điểm
sau đây: thứ nhất, chỉ ra quyết định khởi tố bị can khi người đó đã đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự theo Điều 12 BLHS; thứ hai, trong trường hợp đã có quyết định khởi tố
bị can là người dưới 18 tuổi thì khi áp dụng các biện pháp điều tra đối với họ nên có
37
mặt đại diện gia đình bị can, bị cáo, thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác.
Điều 421 Bộ luật TTHS 2015 quy định thủ tục lấy lời khai, hỏi cung, đối
chất người dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm các thủ tục lấy lời khai người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm
chứng; hỏi cung bị can; đối chất người dưới 18 tuổi được đúng quy định pháp luật,
tránh bị xâm hại, cụ thể như sau:
+ Khi lấy lời khai, hỏi cung người dưới 18 tuổi thì phải thông báo trước thời
gian, địa điểm cho người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ biết (Khoản 1 Điều 421). Việc lấy lời khai người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải có mặt
người bào chữa hoặc đại diện của họ (Khoản 2 Điều 421). Người bào chữa, người
đại diện có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can là người dưới 18 tuổi nếu
được điều tra viên, kiểm sát viên đồng ý. Người bào chữa, người đại diện có thể hỏi
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can sau
mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc (Khoản 3 Điều 421).
(Khoản 3 Điều 421).
+ Trừ trường hợp lấy lời khai trong vụ án có nhiều tình tiết phức tạp; hỏi
cung bị can phạm tội có tổ chức; để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn;
ngăn chặn người khác phạm tội; để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc
vật chứng khác của vụ án; hoặc vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì thủ tục lấy lời
khai mới được quy định là 2 giờ.
+ Chỉ tiến hành đối chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với bị can, bị cáo
để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong trường hợp nếu không đối chất thì không
thể giải quyết được vụ án (Khoản 6 Điều 421).
Hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can là hỏi
cung. Đối với bị can chưa thành niên thì hoạt động điều tra này đòi hỏi Điều tra
viên, Kiểm sát viên phải là người có những hiểu biết cần thiết về đặc điểm tâm sinh
lý của các em. Sự có mặt của đại diện gia đình bị can là người gần gũi với bị can,
hiểu được tâm lý, thái độ xử sự của họ nên sẽ giúp đỡ cán bộ điều tra tạo được mối
quan hệ tin cậy, gần gũi, tín nhiệm đối với bị can, làm cho bị can không còn cảm
thấy lo sợ, hoảng hốt và có thể khai báo những tình tiết có liên quan đến vụ án. Bên
38
cạnh đó, thông qua đại diện gia đình, cán bộ hỏi cung sẽ nắm bắt được điều kiện
sinh sống, giáo dục; nguyên nhân, điều kiện phạm tội của bị can là người dưới 18
tuổi, từ đó có những biện pháp điều tra thích hợp.
2.1.6.2. Trong giai đoạn xét xử
Xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng được tiến hành theo
thủ tục chung, nhưng khi tiến hành xét xử cần phải tuân thủ những quy định sau đây:
Một là, khi tiến hành xét xử tại phiên toà phải có mặt đại diện của gia đình bị
cáo, đại diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội nơi bị cáo sinh sống học tập. Như
vậy, sự tham gia của đại diện gia đình bị cáo, đại diện nhà trường hoặc tổ chức xã
hội là bắt buộc. Sự tham gia của các chủ thể này sẽ giúp cho TA hiểu rõ hơn về
nhân thân bị cáo và áp dụng biện pháp xử lí phù hợp nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo.
Tuy nhiên, có trường hợp không xác minh được lý lịch của bị cáo là người dưới 18
tuổi thì việc áp dụng quy định trên BLTTHS như thế nào? Hiện nay Thông tư
02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của TAND tối cao quy định chi tiết việc xét
xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền
của Tòa gia đình và người dưới 18 tuổi, quy định:
Quy định rõ: Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người dưới 18 tuổi lao động,
sinh hoạt; Người đại diện của người dưới 18 tuổi; Đại diện nhà trường nơi người
dưới 18 tuổi học tập phải có mặt tại phiên tòa theo quyết định của Tòa án. Trường
hợp những người được quy định tại khoản 1 Điều này vắng mặt lần thứ nhất hoặc
vắng mặt lần thứ hai vì lý do bất khả kháng, do trở ngại khách quan thì Tòa án phải
hoãn phiên tòa. Trường hợp những người quy định tại khoản 1 Điều này vắng mặt
lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan nhưng
để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể hoãn
phiên tòa.
Hai là, Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân hoặc
cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc là giáo viên. Sự tham gia
thành viên Hội đồng xét xử với tư cách là Hội thẩm nhân dân của giáo viên hoặc
cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một quy định bắt buộc nhằm giúp
Hội đồng xét xử hiểu rõ thêm về tâm lí, khả năng nhận thức của bị cáo là người dưới
18 tuổi. Bởi vì thầy, cô giáo cũng như cán bộ Đoàn thanh niên vừa là người quản lí
giáo dục vừa là những nhà tâm lí sư phạm từ đó có hướng thẩm vấn, giáo dục bị cáo
39
tại phiên toà, đồng thời có thể xác định chính xác việc áp dụng hình phạt để giáo dục
người đó trở thành công dân có ích cho xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của
Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi như vậy nên một số văn bản
pháp luật khi hướng dẫn áp dụng BLTTHS đã đề cập tới vấn đề này.
Ba là, trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết định việc xử kín đối với
vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi. Trong trường hợp cần giữ thuần phong mỹ tục
của dân tộc, cần giữ bí mật Nhà nước hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu
chính đáng của họ thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai. Tuy nhiên,
đối với những vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi thì ngoài những điều kiện kể trên,
tuỳ thuộc vào nội dung tội phạm mà người dưới 18 tuổi đã thực hiện, khi thấy cần thiết
phải giữ bí mật đời tư của người dưới 18 tuổi, của gia đình họ, hoặc khi thấy không
nên để những người khác biết về diễn biến hành vi phạm tội của họ, hoặc theo yêu cầu
của gia đình hay bản thân người dưới 18 tuổi... thì Tòa án có thể quyết định việc xét xử
kín để tránh gây ảnh hưởng xấu đối với người dưới 18 tuổi và đảm bảo yêu cầu giáo
dục người dưới 18 tuổi phạm tội.
Như vậy, thủ tục tố tụng trong các giai đoạn tố tụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội đã có những điểm khác biệt, đảm bảo yếu tố thân thiện với người
dưới 18 tuổi. Đặc biệt hiện nay ở giai đoạn xét xử, Toà án các cấp đã thực hiện mô
hình phòng xét xử thân thiện với người dưới 18 tuổi. Điều này đảm bảo hoạt động
xét xử đối với nhóm đối tượng là người dưới 18 tuổi thực sự là thân thiện, khác biệt
so với các đối tượng đã thành niên.
Ngoài ra có thể thấy nhiều thủ tục tố tụng như thủ tục lấy lời khai, hỏi cung đối
với người dưới 18 tuổi được BLTTHS quy định về việc có sự xuất hiện của người giám
hộ hoặc cha mẹ của họ, thời gian lấy lời khai, hỏi cung không được quá 2 giờ làm việc
góp phần quan trọng vào đảm bảo tính thân thiện trong thủ tục tố tụng này.
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ
tục thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh và các yếu tố
tác động đến việc người dưới 18 tuổi phạm tội
Vị trí địa lý của tỉnh Bắc Ninh nằm trong phạm vi từ 20o 58’ đến 21o 16’ vĩ
độ Bắc và 105o 54’ đến 106o 19’ kinh độ Đông. Năm 2020, dân số Bắc Ninh là
40
1.154.800 người. Bắc Ninh cũng là một tỉnh có mật độ dân số đông trong cả nước.
Hiện nay, Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính, hiện Bắc Ninh có 126 đơn vị
hành chính cấp xã, trong đó có 97 xã, 23 phường và 6 thị trấn.
Về nguồn nhân lực, nguồn lao động của tỉnh Bắc Ninh tương đối trẻ với hơn
700.000 người đang trong độ tuổi lao động; lực lượng lao động đã qua đào tạo
chiếm 20,4%, có khả năng tiếp cận nhanh chóng các công nghệ hiện đại.
Mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường còn lỏng lẻo dẫn đến con bỏ học,
chơi bời hư hỏng mà bố mẹ không biết, nhiều gia đình bố mẹ còn quá tập trung vào
làm kinh tế mà không quan tâm đến việc học tập của con cái dẫn đến các em quen
với lối sống không có sự kèm cặp của gia đình, bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo nên dẫn
đến bị dụ dỗ tham gia vào những hành vi không lành mạnh.
2.2.2. Kết quả đạt được trong áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Tòa gia đình và người chưa thành niên trực thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Ninh được thành lập theo Quyết định số: 1863/QĐ-TCCB ngày 20/11/2019 về việc
tổ chức các tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao.
Phân tích các số liệu về tình hình tội phạm dưới 18 tuổi trong thời gian gần
đây thì thấy đáng báo động về số trẻ em phạm tội đang có xu hướng gia tăng và trẻ
hóa. Các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội tham gia có xu hướng tăng cả ở cấp
huyện và và cấp tỉnh. Nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, do các bị cáo đang ở độ
tuổi dưới 18 tuổi một mình hay cùng đồng bọn cũng là những người dưới 18 tuổi
gây ra.
Qua việc nghiên cứu, điều tra, xem xét số liệu thực tế về tình hình tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có thể thấy được diễn
biến tình hình tội phạm là người dưới 18 tuổi trong thời gian từ năm 2016 đến 2020
xảy ra như sau:
Thứ nhất, về số vụ án, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong vụ án hình
sự được thể hiện cụ thể trong bảng thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội giai đoạn
2016 – 2020.
Bảng 2.1. Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội giai đoạn 2016 – 2020
41
Tổng số khởi Trong đó người dưới 18 tuổi phạm tội
Bị khởi tố Tỷ lệ (%) Truy tố Xét xử tố
Năm Vụ án Bị can Vụ Bị Vụ án Bị can Bị can Bị cáo
(1) (2) án (3) can (3)/(1) (4)/(2) Vụ án Vụ án
(4)
2016 10.021 11.359 364 385 3,63 3,38 359 376 357 373
2017 11.552 13.862 451 473 3,9 3,41 442 460 440 457
2018 12.736 13.581 460 484 3,61 3,56 451 473 449 471
20139 12.011 13.142 372 397 3,1 3,02 361 382 359 378
2020 11.278 12.109 311 323 2,75 2,66 300 307 296 302
(Nguồn: Biểu thống kê kết quả người dưới 18 tuổi phạm tội - Phòng thống kê VKSND tỉnh Bắc Ninh)
Tổng số 57.598 64.053 1.958 2.062 3,39 3,21 1.913 1.998 1.901 1.981
Theo số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2016 đến năm 2020 toàn tỉnhkhởi tố
tổng số 57.598 vụ/64.053 bị can. Trong đó có 1.958 vụ/ 2.062 bị can là người dưới
18 tuổi (chiếm tỉ lệ 3,39% tổng số vụ án và 3,21% bị can). Riêng năm 2016 có 364
vụ/385 bị can là người dưới 18 tuổi (chiếm tỉ lệ 3,36% tổng số vụ án và 3,38% tổng
số bị can bị khởi tố), con số này tăng dần cho đến năm 2018 (3,61% vụ án và
3,56% bị can) và đến năm 2020 chỉ còn 2,75% số vụ án và 2,66% số bị can, giảm
0,86% số vụ án và 0,9 % số bị can so với năm 2018 - là năm có số người dưới 18
tuổi phạm tội cao nhất.
Tiếp theo, trong 1.958 vụ án/ 2.062 bị can là người dưới 18 tuổi bị khởi tố có
1.913 vụ/ 1.998 bị can bị VKS truy tố chuyển Tòa án chiếm 97,7% vụ án và 96,8%
số bị can trong tổng số vụ án, bị can có đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội bị
khởi tố và có 1.901 vụ/ 1.981 bị cáo Tòa án đưa ra xét xử chiếm 97,1% số vụ án và
96,1% số bị cáo so với tổng số vụ án, bị can có người dưới 18 tuổi bị khởi tố. Số người
dưới 18 tuổi phạm tội không đưa ra xét xử chiếm 3,9% (81 đối tượng) có thể là do
chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hoặc ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội
ít nghiêm trọng theo quy định tại Điều 12 BLHS hoặc được đình chỉ điều tra.
Thông qua số liệu của bảng thống kê cho thấy có tín hiệu đáng mừng vì số
lượng người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố, truy tố, xét xử giảm nhẹ trong năm
2019 và năm 2020. Nguyên nhân một phần cũng chính từ hiệu quả của công tác xét
xử đã có tác dụng trong công tác phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy
42
nhiên, có một thực tế là mặc dù số lượng người dưới 18 tuổi phạm tội những năm
gần đây có giảm, song tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội lại cao
hơn. Khi thực hiện hành vi phạm tội các đối tượng là người dưới 18 tuổi đã có sự
chuẩn bị về công cụ phương tiện và thủ đoạn tinh vi do vậy hậu quả gây ra rất
nghiêm trọng, nhiều vụ án có đối tượng phạm tội là nữ nhưng có hành vi phạm tội
quyết liệt, gây bức xúc trong nhân dân và dư luận xấu trong xã hội.
Thứ hai, về độ tuổi và nhóm tội mà các bị cáo là người dưới 18 tuổi thực
hiện: Theo báo cáo thống kê của VKSND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm
2020 trên địa bàn tỉnh có số người dưới 18 tuổi bị khởi tố chủ yếu trong độ tuổi từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi, điều này được thể hiện rõ qua bảng thống kê độ tuổi người
dưới 18 tuổi bị khởi tố giai đoạn 2016 – 2020.
Bảng 2.2. Thống kê độ tuổi người dưới 18 tuổi bị khởi tố giai đoạn 2016 – 2020
Tổng số người Nhóm tuổi
dưới 18 tuổi Từ đủ 14 tuổi Từ đủ 16 tuổi
Năm bị khởi tố (1) đến dưới 16 Tỷ lệ % đến dưới 18 Tỷ lệ %
(2)/(1) tuổi tuổi (3)/(1)
(2) (3)
29 385 356 92,47 7,53 2016
36 473 437 92,39 7,61 2017
33 484 451 93,19 6,81 2018
22 397 375 94,46 5,54 2019
21 323 302 93,5 6,50 2020
(Nguồn: Biểu kết quả thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội - Phòng thống kê VKSND tỉnh Bắc Ninh)
6,83 Tổng 2062 141 1921 93,17
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy, số lượng người dưới 18 tuổi bị khởi tố trong
độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm 93,17% (1.921 bị can) cao hơn rất nhiều so
với số lượng người dưới 18 tuổi bị khởi tố trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ chiếm 6,83% (141 bị can). Như vậy, đối tượng người dưới 18 tuổi phạm tội
43
chủ yếu là diễn ra ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Đây là độ tuổi có sự
thay đổi mạnh mẽ về tâm sinh lý, là giai đoạn chuyển tiếp trở thành người thành
niên nên rất dễ phạm tội.
Việc xác định chính xác độ tuổi là căn cứ quan trọng để áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với người dưới 18 tuổi. Nhiều trường hợp chỉ cần lệch một ngày, một
tháng thì việc xác định trách nhiệm hình sự trở nên khác nhau. Có trường hợp đối
tượng đã cố ý thay đổi tuổi để trốn tránh không phải chịu trách nhiệm hình sự. Các
loại giấy tờ thường dùng để xác minh độ tuổi như giấy khai sinh, bản khai lý lịch
có sự xác nhận của chính quyền địa phương, lời khai của cha, mẹ nhiều khi mâu
thuẫn nhau. Sự mâu thuẫn này là xuất phát từ rất nhiều yếu tố. Nhiều trường hợp
cha mẹ khai tăng tuổi hoặc giảm tuổi cho con được đi học sớm hoặc học muộn hơn
so với tuổi thực của con hoặc vì lý do nào đó muốn thay đổi ngày, giờ sinh của con.
Thậm chí có trường hợp một người có hai giấy khai sinh gốc nhưng ngày, tháng,
năm sinh lại khác nhau. Cũng có trường hợp như những trẻ em sống lang thang
đường phố không có nơi cư trú rõ ràng, không có giấy khai sinh thì việc xác định
tuổi gặp khó khăn, thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào lời khai
của bị can, bị cáo và do đó thiếu tính chính xác khi đánh giá độ tuổi của bị can, bị
cáo cũng như làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc giải quyết vụ án hình sự.
Về cơ cấu nhóm tội, thống kê của VKSND tỉnh Bắc Ninh cho thầy hầu hết
các tội phạm do đối tượng là người dưới 18 tuổi thực hiện tập trung nhiều ở các tội
như “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Cố ý gây thương tích”, tội “Trộm cắp tài
sản, “Cướp tài sản”, “Giết người”, “Cướp giật tài sản” thuộc vào các nhóm tội “Ma
túy”, “Sở hữu”, “Trị an”.
Cụ thể về cơ cấu nhóm tội được thể hiện qua bảng thống kê người dưới 18
tuổi bị khởi tố phân theo nhóm tội giai đoạn 2016 – 2020.
Bảng 2.3. Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố phân theo nhóm tội
giai đoạn 2016 – 2020
44
Tổng số CÁC NHÓM TỘI
Nghĩa người
An Hoạt vụ, dưới 18
ninh Ma Sở hữu Kinh Tham Chức Trị an động trách tuổi bị
quốc túy (4) tế (5) nhũng vụ (8) tư nhiệm Năm khởi tố
gia (2) (3) (6) khác pháp của (1)
(7) (9) quân
nhân
(10)
132 385 2016 47 206
145 473 2017 43 285
101 484 2018 36 347
117 397 2019 31 249
58 323 2020 27 238
Tổng 2.062 184 1.325 553
số
(Nguồn: Biểu thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội - Phòng thống kê VKSND tỉnh Bắc Ninh)
Qua bảng số liệu trên cho thấy: Loại tội mà người dưới 18 tuổi thực hiện nhiều
nhất chính là các tội về sở hữu là 1.325 bị can chiếm tới 64,25% (4)/(1), phần lớn
đó là những tội về trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản... Tiếp đó là tội
về trị an là 553 bị can chiếm 26,81% (8)/(1) như cố ý gây thương tích, giết người,
gây rối trật tự công cộng và cuối cùng là các tội về ma túy là 184 bị can chiếm 8,9%
(3)/(1). Đối với những tội khác như an ninh quốc gia, tham nhũng, kinh tế thì không
có người dưới 18 tuổi nào bị khởi tố. Điều này thể hiện được đặc trưng của tội
phạm người dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu là để thỏa mãn các
nhu cầu về vật chất trước mắt hoặc để thể hiện cái tôi của bản thân.
Qua khảo sát tại tỉnh Bắc Ninh của tác giả luận văn cho thấy, việc xác định
điều kiện sinh sống, giáo dục và nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội của
người dưới 18 tuổi phạm tội thì cơ quan, người THTT chưa chú trọng, vẫn còn tình
trạng nhận xét chung và cảm tính như “xem xét nhân thân của bị cáo tốt”, “bị cáo
có nhân thân tốt”, “bị cáo có nhân thân xấu”… mà không chỉ rõ cụ thể những đặc
45
điểm để đánh giá “tốt - xấu”.
Về sự tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức: Qua khảo sát
cho thấy, việc tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức, nhất là khi
tham gia các hoạt động điều tra của CQĐT còn chưa được chú trọng. Bởi vì hiện
nay luật chưa quy định rõ việc tham gia của đại diện nhà trường, tổ chức đoàn thể
trong quá trình tố tụng với vai trò cụ thể của này là gì, trong khi đó sự tham gia này
là không bắt buộc. Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-
TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 21/8/2018 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội về phối hợp thực
hiện một số quy định của Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi và Điều 421 Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn chưa quy định rõ về việc đảm bảo
tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức trong trường hợp khẩn cấp
và thời hạn phải thông báo trước. Theo quy định, trong trường hợp cần đảm bảo sự
có mặt người đại diện, nhà trường, tổ chức khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung thì cơ
quan THTT phải thông báo trước và có thể thông báo trực tiếp hoặc qua điện thoại,
phương tiện điện tử khác nhưng thời hạn là bao lâu, nhất là trong trường hợp khẩn
cấp (giữ người trong trường hợp khẩn cấp là 12 giờ cần lấy lời khai nhưng liệu
những người đó có thể có mặt để cơ quan THTT thực hiện lấy lời khai).
Hơn nữa, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không có nơi cư trú ổn định, việc
xác định gia đình hoặc người đại diện, nhà trường… theo quy định của luật là một thách
thức. Để gia đình, bạn bè, nhà trường không biết được hành vi phạm tội của mình họ
thường khai báo tên, gia đình và nơi cư trú không chính xác. Mặt khác, trong thực tiễn
có nhiều trường hợp, người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi đăng ký thường trú một nơi
nhưng sinh sống một nơi (có tạm trú hoặc không có đăng ký tạm trú) dẫn đến trường
hợp Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ đăng ký thường trú hay nơi tạm trú thực tế là nơi có
trách nhiệm cử người đại diện cho họ, hoặc khi có tranh chấp việc cử người giám hộ thì
Tòa án nơi nào có thẩm quyền chỉ định người giám hộ, trình tự thủ tục như thế nào.
Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan THTT trong việc thực hiện nghĩa vụ
thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội ngay
sau khi họ bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ.
Bên cạnh đó, người nhận nuôi người bị buộc tội dưới 18 tuổi nhưng không
46
đăng ký nhận con nuôi theo quy định của pháp luật thì có được làm người giám hộ
đương nhiên hay không để tham gia tố tụng với với tư cách người đại diện của
người bị buộc tội.
Về quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi: Trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn thực hiện hoạt động bào chữa trong vụ án hình sự nói chung và trong
vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cho
thấy, trong thời gian qua, nhìn chung các cơ quan THTT đã thực hiện nghiêm chỉnh
các quy định của pháp luật trong đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, tạo điều kiện cho người
đại diện hợp pháp của họ có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa.
Theo thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh thì trong các vụ án người dưới 18 tuổi
phạm tội, trong giai đoạn có 1099 bị cáo có người bào bào chữa theo dạng chỉ định
chiếm tỉ lệ 53% tổng số bị cáo là người dưới 18 tuổi), còn lại có 653 bị cáo được
gia đình thuê luật sư bào chữa chiếm tỉ lệ 32%, số còn lại 288 từ chối luật sư bào
chữa theo chỉ định. Đặc biệt hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh chỉ có 29 công ty
luật, văn phong luật sư và chi nhánh văn phòng luật sư với 55 luật sư hành nghề.
Như vậy số lượng luật sư như trên là quá ít so với yêu cầu đảm bảo quyền bào chữa
cho các bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế:
Bộ luật TTHS năm 2015 đã có nhiều thay đổi trong quy định về việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội dưới 18
tuổi. Thay đổi này theo hướng hạn chế tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội
dưới 18 tuổi nhằm bảo vệ tối đa nhóm đối tượng này, nhưng vẫn bảo đảm giải
quyết được vụ án hình sự.
+ Tình hình áp dụng biện pháp bắt người:
Có thể phân loại biện pháp bắt người dưới 18 tuổi phạm tội thành 3 nhóm:
nhóm 1 là bắt bị can, bị cáo để tạm giam; nhóm 2 là bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp và nhóm bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
+ Tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ:
Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp (bắt khẩn cấp trước đây) hoặc phạm tội quả tang để CQĐT có
47
đủ thời gian kiểm tra, xác minh những thông tin về tội phạm cũng như những tình
tiết khác để quyết định khởi tố vụ án, trả tự do hay áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác.
+ Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam:
Hiện nay theo thống kê của VKSND tỉnh Bắc Ninh thì trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh thì có 31% số bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp tạm
giam. Việc tạm giam chủ yếu là do bắt bị can để tạm giam, còn số đối tượng được
chuyển từ tạm giữ lên để tạm giam hoặc do thay đổi biện pháp ngăn chặn khác
thường ít hơn. Mặt khác, qua nghiên cứu cho thấy tình trạng vi phạm thời hạn tạm
giam đã được chấn chỉnh.
- Trong hoạt động xét xử:
Hiện nay, cùng với kế hoạch kiện toàn tổ chức và hoạt động của TAND tối
cao, thì TAND tỉnh Bắc Ninh đã thành lập Toà án gia đình và người dưới 18 tuổi
vào năm 2018. Điều này đảm bảo triển khai mô hình xét xử thân thiện với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên thực tế ở địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Hiện nay tại Toà án tỉnh Bắc Ninh, mô hình phòng xét xử thân thiện được
thiết kế và vận hành đã loại bỏ sự sợ hãi, căng thẳng của người dưới 18 tuổi, tránh
trường hợp do sợ hãi mà họ khai không đúng, gây bất lợi cho mình. Từ đó giải
quyết nhanh chóng vụ việc, đúng người đúng tội, đề cao mục đích giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã
hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm ở lứa tuổi chưa thành niên thay vì
một hình ảnh nghiêm khắc về sự trừng phạt đối với hành vi phạm tội tương tự do
người đã thành niên gây ra.
Từ khi được thành lập cho đến nay, Tòa Gia đình và NCTN tỉnh Bắc Ninh
đã xây dựng và dần hoàn thiện mô hình xét xử thân thiện đối với người dưới 18
tuổi để phát huy ý nghĩa thực tiễn của mô hình xét xử này, cụ thể như sau:
+ Về cơ sở vật chất: Đã xây dựng phòng chức năng Giám sát tâm lý, hình thức
phòng xét xử các vụ án được đổi mới theo hướng thân thiện với người dưới 18 tuổi về
cách sắp xếp chỗ ngồi của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố
tụng; Đã bố trí bàn khai báo theo đúng tinh thần thân thiện với người dưới 18 tuổi.
+ Về nhân sự: Thành phần Hội đồng xét xử được tuyển chọn đảm bảo về năng
lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, được bồi dưỡng, tập huấn các kiến thức về tâm
48
sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội, kiến thức xã hội… bảo đảm thực hiện tốt
nhiệm vụ; Thành phần Hội đồng xét xử vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội
phải có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên.
+ Về hình thức tổ chức phiên tòa xét xử bảo đảm ít tác động đến tâm lý và
sự phát triển của người dưới 18 tuổi và tôn trọng bí mật đời tư của họ: Không còng
tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình xét xử tại Tòa án,
trừ trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do cố ý hoặc có
việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối, gây mất trật tự tại phiên toà. Phương
thức xét hỏi bị cáo là người dưới 18 tuổi phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển
của bị cáo. Xét xử kín các vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội gây ra để tạo thuận
lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ; Không tiến hành xét xử lưu động
vụ án do người dưới 18 tuổi gây ra, trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp
luật và phòng ngừa tội phạm.
2.2.3. Những hạn chế, tồn tại trong thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và nguyên nhân
2.2.3.1. Những hạn chế, tồn tại trong thực hiện thủ tục thân thiện đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện thủ tục tố tụng thân
thiện với người dưới 18 tuổi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn bộc lộ những hạn
chế, thiếu sót nhất định:
Thứ nhất, quy định pháp luật về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
vẫn còn tản mạn và khiếm khuyết. Hiện vẫn chưa có một đạo luật về tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội riêng biệt và đặc thù. Việc phòng ngừa, xử lý, giáo
dục, phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng đối với người dưới 18 tuổi được thực hiện
thông qua một loạt các luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư và các chương trình,
chính sách khác nhau. Trong thập kỷ vừa qua, các đạo luật cơ bản liên quan đến tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi đều lần lượt được sửa đổi, bổ sung, nhưng lại không
theo một định hướng chiến lược nên chưa hỗ trợ, bổ sung đầy đủ được cho nhau để
tạo thành một khung pháp lý hoàn chỉnh điều chỉnh cả quá trình phòng ngừa, xử lý,
giáo dục, phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ hai, về mặt kỹ thuật lập pháp, nhiều quy định pháp luật TTHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, thiếu chặt chẽ như:
49
thiếu thống nhất trong quy định về phạm vi chủ thể được áp dụng thủ tục tố tụng
thân thiện; quy định về nguyên tắc tiến hành tố tụng còn chưa chặt chẽ; còn chưa
quy định về tiêu chuẩn của một số chủ thể làm việc với người dưới 18 tuổi (người
giám định, người phiên dịch….); quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt
người dưới 18 tuổi phạm tội còn chưa phù hợp với thực tiễn….
Thứ ba, việc thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi đối với
người dưới 18 tuổi ở một số nơi, một số lúc còn chưa đảm bảo mục tiêu, nội dung đã
đề ra. Cụ thể:
Tỷ lệ áp dụng biện pháp ngăn chặn tước tự do vẫn còn cao so với tỷ lệ áp
dụng biện pháp giám sát, không tước tự do. Tỷ lệ áp dụng tạm giam chiếm đến
35% so với các biện pháp giám sát, không tước tự do. Thời hạn tạm giam đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội đã được giảm đáng kể theo quy định của Bộ luật
TTHS 2015, mặc dù vậy vẫn còn rất dài. Thủ tục thông báo về việc bắt, tạm giữ,
tạm giam cho người đại diện của người bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
bắt, tạm giữ, tạm giam là người dưới 18 tuổi được quy định trái với các nguyên tắc
xử lý của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (như đã
phân tích ở trên).
Vẫn còn tình trạng người THTT chưa thân thiện trong thái độ, cách ứng xử
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Tình trạng không có sự có mặt của người đại diện, nhà trường, người bào
chữa trong các hoạt động tố tụng vẫn còn xảy ra, thậm chí có những trường hợp
không có mặt của những người này cho đến khi hết giai đoạn điều tra.
Mô hình tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng thân thiện đối với người dưới 18
tuổi phạm tội đã được quan tâm, triển khai nhưng chưa đồng bộ, còn chậm và đôi khi
còn mang tính hình thức. Thậm chí, mô hình này còn chưa được chú trọng ở những
giai đoạn tiền xét xử.
2.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong thực hiện thủ tục tố
tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi phạm tội
Có rất nhiều lý do dẫn đến thủ tục tố tụng thân thiện với người dưới 18 tuổi
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chưa hoàn thiện, trong đó có nguyên nhân
khách quan và chủ quan, cụ thể:
Một là, do pháp luật TTHS chưa thực sự toàn diện, hoạt động xây dựng pháp
50
luật chưa có tầm nhìn tổng thể, chiến lược. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, sau
khi ban hành BLHS, Bộ luật TTHS, Luật Tổ chức CQĐT hình sự và Luật Tạm giữ,
tạm giam năm 2015 phải dừng hiệu lực thi hành để rà soát, chỉnh sửa các sai sót về
cả nội dung và hình thức là một trong những khía cạnh thể hiện rõ nét của việc
chưa có một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, trong đó có pháp
luật TTHS. Sau khi có điều chỉnh, Bộ luật TTHS đã được triển khai thi hành
nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế. Trong phạm vi liên
quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015
cũng đã có những điểm trống, chưa rõ ràng, thiếu chính xác, thậm chí có trường
hợp đi ngược lại với những tiến bộ đã được ghi nhận trong Bộ luật TTHS năm 2003
(như đã phân tích trên) càng khẳng định rõ về việc thiếu chiến lược toàn diện, tổng
thể, tầm nhìn trong xây dựng pháp luật TTHS ở Việt Nam.
Hai là, cơ sở vật chất và các dịch vụ thiếu yếu phục vụ cho giáo dục, giám
sát, phục hồi, tái hòa nhập cho người dưới 18 tuổi còn thiếu, chất lượng chưa cao.
Mô hình tố tụng thân thiện đòi hỏi phải có hệ thống đồng bộ các dịch vụ giáo dục,
phục hồi tại cộng đồng như tham vấn, giáo dục kỹ năng sống, dạy nghề, chương
trình giáo dục dạy nghề chưa đa dạng… để đảm bảo hỗ trợ người dưới 18 tuổi khắc
phục các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, tái hòa nhập cộng đồng.
Ba là, việc đào tạo, nâng cao trình độ của cán bộ pháp luật và công tác
nghiên cứu lý luận về pháp luật, việc thống kê, báo cáo, phân tích số liệu về người
dưới 18 tuổi phạm tội còn chưa được thực hiện đầy đủ, hệ thống, chưa theo kịp với
đòi hỏi của thực tiễn. Mặc dù, công tác tập huấn, nâng cao năng lực để triển khai
thi hành hiệu quả các văn bản pháp luật mới cũng được đẩy mạnh, đặc biệt thông
qua việc sử dụng công nghệ thông tin để tổ chức các cuộc tập huấn trực tuyến trên
phạm vi toàn quốc, điển hình như ngày 17/4/2019, VKSNDTC tổ chức hội nghị trực
tuyến trong toàn ngành kiểm sát để triển khai thực hiện các Thông tư liên tịch hướng
dẫn thi hành BLTTHS, trong đó có Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSND tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và Bộ Lao động, Thương binh và xã hội về phối
hợp thực hiện quy định của Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi. Tuy nhiên, qua phân tích trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu, luận văn
cũng cho thấy hiện còn thiếu nghiên cứu sâu rộng về các yếu tố dẫn đến vi phạm pháp
51
luật hình sự của người dưới 18 tuổi và những biện pháp có hiệu quả nhất để giáo dục,
phục hồi, ngăn ngừa tái phạm nhằm hỗ trợ cho công tác hoạch định thủ tục tố tụng
thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bốn là, việc tổ chức thi hành pháp luật TTHS trên thực tế ở các địa phương
còn chưa thống nhất. Mặc dù công tác thi hành pháp luật đã được chú trọng và đẩy
mạnh hơn, điển hình như Chính phủ đã ban hành một đề án của quốc gia về đổi mới
và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật (Quyết định 242/QĐ-TThg ngày 26/2/2018
của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định 59/2012/NĐ-CP trong đó Bộ Tư pháp được giao
trách nhiệm chủ trì công tác theo dõi thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước, theo dõi
thi hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý liên ngành, có nhiều khó
khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành… Tuy nhiên, trên thực tế việc áp
dụng pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn còn xảy ra tình trạng
theo “án lệ”, cảm tính, tùy tiện, kinh nghiệm của người có thẩm quyền THTT.
Năm là, ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và
nhân dân còn nhiều hạn chế và thiếu đội ngũ chuyên trách, thiếu chính sách đối với
đội ngũ cán bộ để giải quyết các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện. Hiện nay
Việt Nam chưa có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp được đào tạo và hưởng thù
lao để có trách nhiệm hỗ trợ, phục hồi cho người dưới 18 tuổi phạm tội tại cộng
đồng. Bên cạnh đó, ngoài việc hình thành Tòa Gia đình và NCTN thì ở các CQĐT,
VKSND, luật sư thì vẫn chưa có các cán bộ chuyên trách được trang bị các kiến
thức và kỹ năng cần thiết để làm việc có hiệu quả với người dưới 18 tuổi phạm tội.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong chương 2 của luận văn, học viên phân tích về quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội và thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh.
Những quy định về thủ tục tố tụng thân thiện được thể hiện thông qua quy
định về đối tượng chứng minh trong vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội; quy
định về chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong vụ án người dưới 18 tuổi phạm
tội; quy định về những biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế trong vụ án người dưới 18
tuổi phạm tội; thủ tục tố tụng trong vụ án hình sự; về thủ tục thực hiện các biện
52
pháp giám sát giáo dục đối với người dưới 18 tuổi dược miễn trách nhiệm hình sự.
Về thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy, tình hình tội phạm do
người dưới 18 tuổi phạm tội ở Bắc Ninh có xu hướng gia tăng. Trong những năm
vừa qua, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tích cực, chủ
động thực hiện đầy đủ quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
53
tội. Tuy nhiên, trên thực tế điều này vẫn còn những hạn chế, và tồn tại nhất định.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN THỦ TỤC TỐ TỤNG THÂN THIỆN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
3.1. Giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi được thể hiện chủ yếu
thông qua các quy định pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các
quy định của pháp luật cần thể hiện nhằm hướng tới việc đảm bảo các nguyên tắc
chủ đạo sau đây trong toàn bộ hệ thống tư pháp đối với người dưới 18 tuổi, từ
phòng ngừa, xử lý, giáo dục, phục hồi đến tái hòa nhập cộng đồng: Nguyên tắc bảo
đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi; Xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội một
cách thân thiện; Áp dụng tối đa các biện pháp xử lý chuyển hướng; Phục hồi và tái
hòa nhập là mục tiêu chính; Tước đoạt và hạn chế tự do chỉ là giải pháp sau cùng;
Phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và cơ quan bảo vệ trẻ em.
Cần cân nhắc một cách thận trọng để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chính
sách đồng thời trong mối quan hệ thống nhất với hệ thống chính sách khác của Nhà
nước góp phần củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước. Đảm bảo rà soát các
quy định có liên quan, phân tích tình hình tội phạm và thực tiễn công tác điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án.
Trên cơ sở phân tích những hạn chế, tồn tại trong quy định về thủ tục thân
thiện với người dưới 18 tuổi tác giả xin đề xuất chỉnh sửa, bổ sung một số quy định
có liên quan đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, như sau:
Một là, Phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
Với quy định này, chủ thể được áp dụng thủ tục tố tụng gồm người bị buộc
tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) (Điều 4 BLTTHS), người bị hại,
người làm chứng dưới 18 tuổi. Nhưng tại Điều 419 BLTTHS lại quy định áp dụng
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp là người dưới 18 tuổi; Điều 421 BLTTHS quy định về việc lấy lời khai
người dưới 18 tuổi bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Như vậy, về phạm vi áp dụng
thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thiếu vắng trường hợp người
54
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người dưới 18 tuổi phạm tội. Để bảo đảm quyền
của người dưới 18 tuổi khi tham gia TTHS, về phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi cần bổ sung trường hợp nêu trên. Trên cơ sở đó, tác giả đề
xuất sửa đổi quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 về giải thích
từ ngữ liên quan đến thuật ngữ “người bị buộc tội” như sau:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ 1…. a)… b)… c)…. d)… đ) Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
…..” Hai là, nguyên tắc tiến hành tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Trong quy định về nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi,
quy định về việc giữ bí mật đời tư của người dưới 18 tuổi còn rất chung chung. Quy
định này chưa đủ để bảo đảm sự riêng tư của người dưới 18 tuổi theo hướng dẫn của
Quy tắc Bắc kinh, trong khi đó Quy tắc Bắc Kinh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
không tiết lộ danh tính của người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm ngăn ngừa sự miệt thị và
cản trở quá trình phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng của họ. Vì vậy, tác giả đề xuất
bổ sung vào khoản 2 Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015 nội dung sau:
“Điều 414. Nguyên tắc tiến hành tố tụng
1…
2. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi trong mọi giai đoạn
của quá trình tố tụng.
3….”
Ba là, về chủ thể tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
BLTTHS chưa quy định cụ thể hay giải thích như thế nào là “người có kinh
nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi” và “có hiểu
biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”. Việc
chưa quy định cụ thể hay giải thích những vấn đề trên sẽ khiến cho nhiều địa
55
phương, nhiều người có những cách hiểu, cách áp dụng vào thực tiễn khác nhau,
không bảo đảm được tính đồng bộ, thống nhất. Cụ thể, người có kinh nghiệm điều
tra cũng có thể hiểu là người học qua trung cấp, đã trải qua kinh nghiệm điều tra
một số vụ án. Tuy nhiên, với những người như vậy khi tiếp nhận, giải quyết vụ
việc, vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi liệu có bảo đảm quyền và trình tự thủ
tục của người dưới 18 tuổi hay không? Bên cạnh đó, thế nào là người có hiểu biết
cần thiết về tâm lý, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi thì BLTTHS năm
2015 cũng chưa quy định cụ thể. Vì nếu cán bộ điều tra chưa qua đào tạo về tâm lý
học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi thì có được tham gia tiếp nhận
giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi hay không? Vì vậy, cần
phải có văn bản hướng dẫn quy định của BLTTHS năm 2015 về “người có kinh
nghiệm” và “có hiểu biết cần thiết” khi tiến hành thủ tục tố tụng đối với người dưới
18 tuổi.
Bên cạnh đó, như tại chương 2 chúng tôi đã phân tích, BLTTHS hiện nay
chưa có quy định bắt buộc những người tham gia tố tụng khác như người phiên
dịch, người giám định (đặc biệt là người giám định trong các vụ án xâm hại tình
dục trẻ em), cán bộ trại tạm giam, nhà tạm giữ cần phải có kinh nghiệm, kỹ năng về
làm việc với người dưới 18 tuổi. Do đó, theo chúng tôi, để đảm bảo thủ tục tố tụng
thân thiện đối với người dưới 18 tuổi nói chung và người phạm tội dưới 18 tuổi nói
riêng, BLTTHS cần sửa đổi quy định về điều kiện của chủ thể làm việc với người
dưới 18 tuổi phải có kinh nghiệm, sự hiểu biết không những bao gồm những người
tiến hành tố tụng mà còn cần cả những đối tượng nêu trên. Do đó, tác giả đề xuất
sửa đổi quy định tại Điều 415 BLTTHS năm 2015 quy định người tiến hành tố
tụng, người giám định, cán bộ trại giam… phải là người có kinh nghiệm, đã được
đào tạo về tâm lý học.
Bốn là, về cách xác định tuổi của người dưới 18 tuổi
BLTTHS năm 2015 đã kế thừa và phát huy những quy định tiến bộ của
BLTTHS năm 2003 với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung, trong đó đã quy
định cụ thể về việc: “Xác định độ tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18
tuổi” bởi nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xử lý, giải quyết vụ án hình sự,
đồng thời cũng là cơ sở pháp lý vững chắc để xác định việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong những trường hợp nhất định. Cụ thể, Điều
56
417 BLTTHS năm 215 quy định cách xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị
hại là người dưới 18 tuổi tương đối đầy đủ, nhưng chưa bao quát hết được các
trường hợp phát sinh khi xác định độ tuổi theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.
Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội cũng như bị hại trong
một số trường hợp, tác giả đề xuất sửa đổi Điều 417 BLTTHS năm 2015 theo
hướng là:
- Lấy ngày giữa tháng của tháng giữa trong quý đó làm ngày, tháng sinh
trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì.
- Lấy ngày giữa tháng của tháng giữa trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh
trong trường hợp xác định được nửa năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì.
- Lấy ngày giữa trong tháng của tháng giữa trong năm đó làm ngày, tháng
sinh trong trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng
thì. Tiến hành giám định để xác định năm sinh nếu không xác định được năm.
Năm là, về áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với
người dưới 18 tuổi
Thực tế cho thấy, BLTTHS năm 2015 quy định áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 419 là rất khó thực hiện đối với
những trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã
người dưới 18 tuổi phạm tội. Bởi tại thời điểm giữ người trong trường hợp khẩn
cấp và bắt quả tang, bắt truy nã, rất khó xác định tuổi của người bị giữ, bị bắt do
thời gian tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp rất ngắn và việc bắt quả
tang cũng như bắt truy nã diễn ra ngay lập tức, trong khi người bị giữ có thể không
hợp tác hoặc người tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp hạn chế về năng
lực…Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi khoản 2, khoản 3 Điều 419 BLTTHS năm
2015 theo hướng loại trừ việc hạn chế bắt quả tang, bắt truy nã, giữ người trong
trường hợp khẩn cấp với người dưới 18 tuổi, cụ thể như sau:
“Điều 419. Áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
1…
2. Nếu có căn cứ quy định tại các điều 113 và 117, các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều
119 của Bộ luật này thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt tạm giam, tạm giữ, tạm
giam về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật hình sự.
3. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt tạm giam, tạm giữ, tạm
57
giam về tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng nếu có căn cứ quy định tại các điều 113 và 117, các điểm a, b, c, d và đ khoản
2 Điều 119 của Bộ luật này…”
Bên cạnh việc sửa đổi quy định tại Điều 419 BLTTHS năm 2015 như trên, tác giả cũng đề xuất cần phải có văn bản hướng dẫn quy định của BLTTHS năm 2015 về việc tính thời hạn khởi tố, điều tra, truy tố trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo, mà trong đó có bị can, bị cáo là người đủ 18 tuổi trở lên và bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi; hoặc việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nhưng phạm vào các tội có khung hình phạt khác nhau theo hướng đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Sáu là, về trình tự tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội
Về thời hạn điều tra vụ án hình sự: Bộ luật TTHS 2015 quy định thời hạn
tạm giam người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối
với người đủ 18 tuổi trở lên. Nguyên tắc THTT đối với người dưới 18 tuổi phải
được đảm bảo nhanh chóng, kịp thời nhưng lại quy định thời hạn tiến hành các giai
đoạn tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thì không có sự khác biệt so với thủ tục
đối với người đủ 18 tuổi trở lên.
Theo quy định của Chương XXVIII, đồng thời theo những quy định khác
của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương XXVIII Mặt khác, theo
quy định tại Ðiều 413 của Bộ luật TTHS năm 2015 thì thủ tục tố tụng đối với người
bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi được áp dụng theo
quy định của Chương XXVIII, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này
không trái với những quy định của Chương XXVIII.. Theo đó, thời hạn giải quyết
vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng vẫn được áp dụng theo quy
định tại Điều 277 của Bộ luật TTHS năm 2015, nên việc xác định thời hạn tạm
giam đối với người dưới 18 tuổi căn cứ vào quy định tại các điều 277, 278 và 419
BLTTHS năm 2015. Như vậy, thời hạn giải quyết vụ án hình sự có người dưới 18
tuổi tham gia tố tụng vẫn áp dụng theo quy định tại Điều 277 của BLTTHS, nhưng
thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi chỉ bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối
với người trên 18 tuổi. Dẫn đến sự không đồng bộ trong việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với nhóm người này. Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi BLTTHS 2015
theo hướng bổ sung quy định về thời hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với
người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng 2/3 thời hạn tương ứng áp dụng với vụ
58
án hình sự của người đủ 18 tuổi trở lên.
Bảy là, về việc đảm bảo quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi phạm tội
Nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất và tôn trọng quyền bào chữa của người dưới
18 tuổi ở mức cao nhất, tác giả đề xuất sửa đổi các quy định tại Điều 77, Điều 291
và Điều 422 Bộ luật TTHS 2015 về việc từ chối, thay đổi người bào chữa như sau:
+ Khoản 1 Điều 77: Bỏ đoạn “trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1
Điều 76 của Bộ luật này” nhằm đảm bảo sự thống nhất trong các quy định của
pháp luật kiên quan đến việc thay đổi người bào chữa đối với người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 422 Bộ luật TTHS năm 2015.
+ Khoản 3 Điều 77 Khoản 3: thay từ “hoặc” bằng từ “và”. Cụ thể quy định
trường hợp từ chối người bào chữa thì sẽ chỉ định người thân thích, đại diện nhà
trường, đoàn thanh nên tham gia tố tụng và chấm dứt việc bào chữa.
+ Khoản 2 Điều 291: thay từ “hoặc” bằng từ “và”. Quy định xét xử vắng
mặt người bào chữa khi người bào chữa vắng mặt không có lý do và có sự đồng ý
của bị cáo, người đại diện của bị cáo. Nhằm đảm bảo quyền bào chữa và được bào
chữa của bị cáo là người dưới 18 tuổi theo tiêu chuẩn quốc tế, theo tác giả, nhất
thiết cần phải có sự đồng ý sự vắng mặt của cả hai loại người tham gia tố tụng đó là
bị cáo và người đại diện của bị cáo.
+ Khoản 3 Điều 77: bổ sung thêm quy định “Việc từ chối người bào chữa
được thực hiện không quá 02 lần” để vừa đảm bảo quyền của người dưới 18 tuổi
vừa đảm bảo trình tự, thời hạn giải quyết vụ án.
+ Khoản 1 Điều 422: bỏ từ “hoặc”, cụ thể: “Người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa”. Quy định như trên sẽ dễ
dẫn đến sự hiểu lầm là người bị buộc tội không được nhờ người bào chữa nếu tự
mình bào chữa.
+ Tại Điều 420, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định về việc tham gia tố
tụng của người đại diện, nhà trường và tổ chức. Cần sửa đổi, quy định rõ trường
hợp khi cơ quan THTT đã tìm kiếm và xác minh không tìm được người đại diện thì
ai sẽ là người tham gia, chứng kiến tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện
trong trường hợp bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi phạm tội.
+ Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BQP-BLĐTBXH ngày 21/8/2018 của VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
59
Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội về phối hợp thực
hiện một số quy định của Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi và Điều 421 Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn chưa quy định rõ về việc đảm bảo
tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức trong trường hợp khẩn cấp
và thời hạn phải thông báo trước. Theo quy định, trong trường hợp cần đảm bảo sự
có mặt người đại diện, nhà trường, tổ chức khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung thì
cơ quan THTT phải thông báo trước và có thể thông báo trực tiếp hoặc qua điện
thoại, phương tiện điện tử khác nhưng thời hạn là bao lâu, nhất là trong trường hợp
khẩn cấp (giữ người trong trường hợp khẩn cấp là 12 giờ cần lấy lời khai nhưng
liệu những người đó có thể có mặt để cơ quan THTT thực hiện lấy lời khai). Theo
tác giả cần phải quy định trong thời hạn tối đa 6 giờ thì cơ quan THTT cần thông
báo cho người đại diện, nhà trường, tổ chức của người dưới 18 tuổi, nếu họ không
tham dự được hoạt động tố tụng thì phải có mặt của nhân viên xã hội.
Tám là, cần ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thủ tục tố tụng
thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Một điểm bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2015 về trình tự, thủ
tục khởi tố, điều tra, truy tố đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là còn thiếu vắng
nhiều quy định mang tính thân thiện. Có những hoạt động khác được tiến hành
không chỉ có hoạt động lấy lời khai với sự tham gia của bị can nên đòi hỏi phải có
những quy định riêng phù hợp với đặc điểm về thể chất, tâm lý, khả năng nhận thức
của người dưới 18 tuổi. Nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 về trình tự,
thủ tục tố tụng trong vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu tập trung vào
giai đoạn xét xử. Biểu hiện của tính thân thiện trong hoạt động tố tụng thể hiện rõ
nét qua các quy định về thủ tục xét xử là chính. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, vi
phạm của cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phần
lớn tập trung ở giai đoạn trước xét xử. Vì vậy, điều cần thiết hiện nay là các cơ
quan quản lý như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, VKSNDTC nên nghiên cứu xây
dựng và ban hành văn bản hướng chi tiết về trình tự, thủ tục điều tra thân thiện đối
với người dưới 18 tuổi để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho
người dưới 18 tuổi theo đúng tinh thần mà BLTTHS năm 2015 đã quy định.
3.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện pháp luật
60
3.2.1. Tăng cường năng lực chuyên môn của hệ thống cán bộ tư pháp
Thứ nhất, trước mắt cần rà soát, đánh giá, bố trí sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, lựa
chọn các cán bộ có phẩm chất đạo đức, có trình độ năng lực và trách nhiệm thực hiện
các hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện các cơ
quan THTT cần có sự chuyên môn hóa về tổ chức cũng như về nguồn nhân lực để
giải quyết các vụ án. Không bố trí những cán bộ không đủ điều kiện, năng lực phẩm
chất đạo đức thiếu tinh thần trách nhiệm thực hiện công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Việc bổ nhiệm các chức danh của cán bộ phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật và phẩm chất đạo đức, trước hết ưu tiên bổ nhiệm
những người có trình độ đại học trở lên, có phẩm chất đạo đức, năng lực đã qua các lớp
về nghiệp vụ điều tra, kiểm sát, xét xử, được đào tạo về tâm lý học; phải lựa chọn
những cán bộ có kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, năng lực công tác, có
trình độ lãnh đạo, có trách nhiệm với công việc, có uy tín trong cộng đồng dân cư nơi
họ cư trú để bổ nhiệm các chức danh đảm bảo khi được bổ nhiệm sẽ có đủ điều kiện để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, cần đào tạo đối với những người tiến hành tố tụng, đảm bảo họ có
kinh nghiệm, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người
dưới 18 tuổi, do đó những người tiến hành tố tụng phải thường xuyên được bồi
dưỡng kiến thức về người dưới 18 tuổi bởi các chuyên gia tâm lý học về người
dưới 18 tuổi đồng thời cũng cập nhật văn bản pháp luật, những kiến thức về tố
tụng, có tinh thần trách nhiệm cao khi tiến hành tố tụng những vụ án hình sự có
người dưới 18 tuổi, kể cả những cảnh sát hỗ trợ tư pháp để hoàn thành tốt nhiệm vụ
điều tra, truy tố, xét xử có bản án nghiêm minh đúng pháp luật. Có như vậy mới
bảo đảm không vi phạm tố tụng, mạnh dạn đề xuất những gì có lợi mà đúng quy
định pháp luật đối với dưới người 18 tuổi khi phạm tội. Cụ thể:
+ Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn về khởi tố, điều tra vụ án và
biện pháp ngăn chặn có người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật
TTHS năm 2015, cần phải đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy
cho Điều tra viên và lãnh đạo. Trong quá trình công tác, luôn tuân thủ nguyên tắc
“Trọng chứng cứ, tôn trọng sự thật khách quan”, phải biết kiềm chế, mềm mỏng và
thận trọng trong xử lý công việc đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
+ Đối với Kiểm sát viên kỹ năng thực hành quyền công tố cần được quan tâm
61
bồi dưỡng thường xuyên, nhất là kỹ năng tranh luận và đối đáp tại phiên tòa, nắm
vững mục đích tranh luận và đối đáp nhưng phải thân thiện khi vụ án có người dưới 18
tuổi phạm tội. Phải rèn luyện tác phong làm việc, giữ vững bản lĩnh chính trị, bản lĩnh
nghề nghiệp, tuyệt đối không thành kiến, áp đặt ý chí chủ quan, luôn cẩn thận, tận tụy
trong công việc không chủ quan, lơ là, phán đoán sự việc một cách duy ý chí.
+ Tòa án là “trung tâm của hoạt động tư pháp”, thể chế hóa yêu cầu đã được
đặt ra tại Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị, đó là quy định tiêu chuẩn cao
hơn đối với Thẩm phán, những người quyết định nền tư pháp. Công tác đào tạo và bồi
dưỡng nghiệp cho Thẩm phán phải luôn đổi mới và tăng cường, hình thức phong phú,
toàn diện. Kết hợp đào trong nước với đào tạo nước ngoài đồng thời bồi dưỡng kiến
xã hội về tâm lý người dưới 18 tuổi nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử luôn được
chú trọng. Thẩm phán vừa “hồng”, vừa “chuyên”; bản lĩnh, ngang tầm nhiệm vụ.
Việc tuyển dụng cán bộ, công chức Tòa án được thực hiện thông qua thi tuyển, cán
bộ được tuyển dụng làm Thư ký Tòa án – nguồn cán bộ để bổ nhiệm đội ngũ Thẩm
phán cho Toà án các cấp - phải có bằng cử nhân luật hệ chính quy. Thủ tục xem xét
và bổ nhiệm Thẩm phán và cán bộ có chức danh tư pháp của Tòa án nhân dân được
đổi mới, tiến hành kịp thời, bảo đảm các tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức phẩm chất
và chuyên môn nghiệp vụ.
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và hướng dẫn
thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Với phương châm vì mục tiêu nhân đạo và vì lợi ích tốt nhất cho người dưới 18
tuổi, đảm bảo yêu cầu thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lứa
tuổi chưa thành niên thì thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được hoạch định cho từng giai đoạn phát triển của đất nước, của xã hội. Tuy nhiên, sẽ
là vô nghĩa, nếu chính sách ấy không được tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện
trong thực tiễn góp phần duy trì trật tự và sự phát triển ổn định của các quan hệ xã hội.
Muốn vậy, khi tiến hành công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
đối với đối tượng đòi hỏi phải nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ đặc điểm về
nhận thức pháp luật, ý thức pháp luật, kỹ giảng giải quyết các tình huống thực tế
theo pháp luật của nhóm đối tượng này. Từ thực tiễn nêu trên cho thấy sự cần thiết
phải tiến hành thường xuyên, liên tục hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
chính sách pháp luật nói chung và chính sách pháp luật TTHS đối với người dưới
62
18 tuổi phạm tội nói riêng cho các đối tượng mà chính sách ấy tác động đến ở nước
ta hiện nay nhằm từng bước hình thành, làm sâu sắc và mở rộng hệ thống tri thức
pháp luật cho công dân, hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật cũng như
lòng tin pháp lý, từ đó nảy sinh tình cảm tôn trọng pháp luật, thói quen xử sự theo
quy định pháp luật. Đồng thời chú ý một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách pháp luật TTHS
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ
hiểu, thiết thực; tiến hành kịp thời, có trọng tâm; đa dạng các hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ
biến, giáo dục pháp luật và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc,
chú trọng các hình thức tuyên truyền thông qua đoàn thanh niên, hội phụ nữ, cộng
đồng dân cư, thông qua nhà trường. Đồng thời, phải phát huy hiệu quả mối quan hệ
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội trong quá trình tổ chức
các hoạt động này. Đặc biệt những hoạt động này cần được lồng ghép thực hiện
trong các chương trình, chiến lược, đề án hiện hành, cần tuyên truyền rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng đối với các hành vi đang bị xã hội lên án, các
vấn nạn trong xã hội như nạn buôn bán người, hiếp dâm, xâm hại tình dục trẻ em...
Thứ hai, trong nhà trường cũng cần xây dựng lại nội dung giáo dục đối với
người dưới 18 tuổi sao cho phù hợp, cần tuyên truyền ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ.
Ngoài ra cũng cần lồng ghép trong các chương trình học của học sinh vào các bộ
môn kỹ năng sống trong nhà trường nhằm giáo dục các em ứng phó với các tình
huống nguy hiểm cụ thể.
Thứ ba, cần xây dựng một diễn đàn phù hợp cho các em để các em có thể
bày tỏ những suy nghĩ, cảm xúc của mình. Ngoài ra cũng cần tuyên truyền, phổ
biến đối với ông, bà, bố, mẹ, người thân trong gia đình về tâm sinh lý của các em,
phổ biến chính sách pháp luật để gia đình có thể hiểu và có cách cư xử phù hợp với
các em hơn.
Thứ tư, nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên từ mầm nom
đến trung học phổ thông, tạo các khung giờ phát sóng phù hợp để các em có thể dễ
dàng tiếp cận với thông tin, với chính sách pháp luật. Tạo sân chơi phù hợp cho các
em, đồng thời cũng cần có chế tài nghiêm khắc xử lý với các hành vi sử dụng lao
63
động là trẻ em. Cần xây dựng mỗi một trường có một chuyên gia tâm lý học có thể
tư vấn trực tiếp cho các em, ngoài ra cũng cần đưa thêm bộ môn giáo dục về cơ thể
người để các em có thể hiểu biết hơn về bản thân mình.
3.2.3. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa CQĐT, VKSND và Tòa án, các cơ
quan, tổ chức khác
Cần tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức xã hội, các đoàn thể và gia
đình trong hoạt động phòng ngừa tội phạm. Đặc biệt cần xây dựng quy chế phối
hợp giữa các cơ quan, đoàn thể với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tin báo,
tố giác tình hình vi phạm pháp luật đối với người dưới 18 tuổi, từ đó có biện pháp
ngăn chặn hạn chế tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra. Cần tổ chức tuyên truyền
pháp luật với lứa tuổi chưa thành niên trong các trường học, trong cộng đồng dân
cư, trong những cơ sở giáo dục nghề nghiệp để các em nắm rõ các quy định của
nhà nước về hình sự.
3.2.4. Tăng cường các thiết chế nhà trường, gia đình và xã hội
Người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà
trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và
sinh hoạt chỉ có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định
của CQĐT, VKS, Tòa án. Đây là một hạn chế bời nếu các cơ quan tiến hành tố
tụng không yêu cầu tham gia thì những người trên không được tham gia tố tụng. Do
đó cần quy định cụ thể là những người trên đương nhiên được tham gia tố tụng
ngay từ khi người dưới 18 tuổi bị tạm giữ thì mới đảm bảo quyền lợi cũng như bảo
đảm tâm lý của người dưới 18 tuổi, giúp giải quyết vụ án được khách quan.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong chương 3 của luận văn, học viên nghiên cứu, đề xuất về một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ nhất, chương 3 đề xuất các giải pháp hoàn thiện một số quy định của
BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như
64
hoàn thiện quy định về các vấn đề phải chứng minh trong TTHS; hoàn thiện quy
định về điều kiện của người tham gia tố tụng vụ án dưới 18 tuổi; hoàn thiện quy
định về các biện pháp điều tra, biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi.
Thứ hại, các giải pháp về tổ chức và thực hiện pháp luật liên quan đến đối
tượng là người dưới 18 tuổi như: Tăng cường năng lực chuyên môn của hệ thống
cán bộ tư pháp; Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và hướng
dẫn thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Xây
dựng cơ chế phối hợp giữa CQĐT, VKSND và Tòa án, các cơ quan, tổ chức khác;
Tăng cường các thiết chế nhà trường, gia đình và xã hội.
KẾT LUẬN
1. Thủ tục TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một lĩnh vực hoạt
động rất phức tạp và có liên quan nhiều đến đời sống xã hội, đặc biệt liên quan
nhiều tới QCN, quyền tự do, dân chủ của người dưới 18 tuổi. Với mục đích đảm
bảo cho hoạt động TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đúng pháp luật, thân
thiện và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều các Nghị quyết và các văn bản pháp luật quy định chi tiết cho hoạt
động này.
2. Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về TTHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu
về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội dưới góc độ là
luận văn thạc sĩ luật học, đặc biệt theo BLTTHS năm 2015 và ngay cả kết quả của
các công trình trên cũng cho thấy, nhiều nội dung liên quan đến TTHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội còn chưa có sự thống nhất về nhận thức, thậm chí chưa
có sự thống nhất ngay cả những nội dung cơ bản của thủ tục tố tụng thân thiện đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội
Trong chương một của luận văn, tác giả đã cố gắng giải quyết một cách có
hệ thống những nội dung cơ bản của thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới
18 tuổi phạm tội như: khái niệm, đặc điểm, mục đích và cơ sở của việc quy định
thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đặc biệt, trong luận
65
văn, tác giả có tham khảo việc các quy định của một số nước trên thế giới.
Trương chương hai, qua nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam hiện hành về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
tác giả luận văn nhận thấy, BLTTHS năm 2015 đã thể hiện bước phát triển mới
trong lĩnh vực lập pháp, đã giải quyết được một cách khoa học nhiều vấn đề cơ bản
của TTHS, trong đó có vấn đề thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, một số quy phạm của luật TTHS hiện
hành còn có những bất cập, thiếu tính đồng bộ và đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng mặc dù BLTTHS năm 2015 đã có hiệu lực từ ngày
01/01/2018 nhưng có quy định về thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, còn phải dựa vào rất nhiều văn bản dưới luật (thông tư của Bộ Công
an; thông tư liên tịch; nghị định...). Đây là một trong những lý do dẫn đến tình
trạng thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn
nhiều bất cập, hạn chế.
Bên cạnh đó, việc phân tích tình hình thực tiễn thực hiện thủ tục tố tụng thân
thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2015 đến năm 2020 trên địa bản
tỉnh Bắc Ninh đã giúp đưa ra những nguyên nhân gây nên tồn tại trong thực hiện
thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Dựa vào những
nguyên nhân của hạn chế này, luận văn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; trong đó,
có các giải pháp về hoàn thiện pháp luật; giải pháp về tổ chức thi hành pháp luật
(đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật; tăng cường nâng cao ý thức, trách nhiệm và trình
độ của cán bộ điều tra, kiểm sát, tòa án; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các
cơ quan và các cá nhân, tổ chức có liên quan đến thủ tục tố tụng thân thiện đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội...). Tác giả luận văn hy vọng những đề xuất này sẽ
được tiếp tục nghiên cứu, xem xét và giải quyết để khắc phục những hạn chế của
BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan hiện hành, tạo cơ sở
pháp lý thuận lợi cho hoạt động thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng và công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
66
chung đạt hiệu quả cao./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Thị Kim Ánh (2020), Chính sách pháp luật TTHS Việt Nam đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niêntheo pháp
luật TTHS Việt Nam, Trần Hưng Bình (2013), Luận án tiến sĩ Luật học – Học viện
khoa học xã hội, Hà Nội
3. Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), "Tư pháp hình sự đối với người chưa
thành niên- những khía cạnh pháp lý hình sự, TTHS, tội phạm học và so sánh luật
học” (Phần 1 - Những khía cạnh pháp lý hình sự), Tòa án nhân dân, (20/10).
4. Lê Cảm (2012), Một số vấn đề cấp bách của khoa học pháp lý Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Lê Huỳnh Tấn Duy (2014), Mô hình tư pháp người chưa thành niên theo
định hướng của Liên hợp quốc, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 5/2014.
6. Võ Thị Kim Dung, Lê Thị Thùy Dương (2015), Một số góp ý về thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên trong Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi), Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2015.
7. Trần Văn Dũng (2008), Về một số chế định pháp lý liên quan đến người
chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự và luật TTHS Cộng hoà Pháp, Tạp chí
TAND, Số 19/2008.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác Tư pháp trong thời
gian tới, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
11. Hoàng Minh Đức (2016), CSHS đối với người chưa thành niênphạm tội
ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học – Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Е.Л. Вороновой (2002), Робинсон, Э. Введение во французскую
67
ювенальную юстицию// Программа и материалы Международного научно-
практического семинара ―Правосудие в отношении несовершеннолетних:
зарубежный и российский опыт‖, Р/н/Д.: Экспертное бюро. 179
13. John W.Santrock (2004), Tìm hiểu thế giới của tuổi vị thành niên
(người dịch: Trần Thị Hương Lan), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
14. Phan Trung Hoài (2007), Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của người
chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2007.
15. Trần Thị Thu Hiền, Nguyễn Phương Anh (2016), Một số điểm mới của
Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (kỳ 1), Tạp
chí Tòa án nhân dân, Số 20/2016.
16. Trần Thị Thu Hiền, Nguyễn Phương Anh (2016), Một số điểm mới của
Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (kỳ 2), Tạp
chí Tòa án nhân dân, Số 21/ 2016.
17. Phạm Văn Hùng (2008), Hệ thống điều tra thân thiện với người chưa
thành niên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 20/2008
18. Học viện tư pháp (2014), Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hình sự,
Nxb. Lao Động, Hà Nội.
19. Liên Hợp quốc, Những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp quốc,
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/02/1990.
20. Liên hợp quốc (1998), Quy tắc Bắc Kinh về Quy tắc tối thiểu về áp
dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi
21. Liên Hợp quốc (1985), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp quốc
về áp dụng pháp luật với người dưới 18 tuổi (Quy tắc Bắc Kinh), Tài liệu tập huấn.
22. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật TTHS
Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
23. Markovichev E.B.(2014), Эволюция производства по уголовным
делам в отношении несовершеннолетних: от Устава уголовного
судопроизводства до уголовно-процессуального кодекса РФ, Актуальные
проблемы российского права.
24. Trần Hoài Nam, Tường An (2010), Toà án gia đình và người chưa
thành niên: các mô hình trên thế giới và việc nghiên cứu thành lập ở Việt Nam, Tạp
68
chí Nghiên cứu lập pháp, Số 7/2010.
25. Lê Thị Nga (2014), Cần xây dựng môi trường tố tụng thân thiện đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 4/2014.
26. Đức Nguyên (1999), Công tác kiểm sát hình sự cần quan tâm các biện
pháp TTHS với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Kiểm sát, Số 6/1999.
27. Hồ Trọng Ngũ (2002), Một số vấn đề cơ bản về CSHS dưới ánh sáng Nghị
quyết Đại học IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Hải Ninh (2009), Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên, Tạp chí Luật học, Số 11/2009.
29. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên trong Luật TTHS Việt Nam, Đỗ Thị Phượng (2008), Luận án tiến sĩ Luật
học, Hà Nội.
30. Đỗ Ngọc Quang (2007), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (Giáo trình
dùng cho hệ cao học luật Chuyên ngành Tội phạm học và điều tra tội phạm), Học
viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
31. Quốc hội (1999), BLHS, Hà Nội.
32. Quốc hội (2003), BLTTHS, Hà Nội.
33. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
34. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
35. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức VKSND, Hà Nội.
36. Quốc hội (2015), BLTTHS, Hà Nội.
37. Quốc hội (2015), BLHS, Hà Nội.
38. Quốc hội (2015), Luật tổ chức điều tra hình sự, Hà Nội.
39. Quốc hội (2015), Luật trẻ em, Hà Nội.
40. Patrice Saceda (2001), Introduction à la justice des mineurs, CNFE-
PJJ, Vaucresson. Pg.122-123
41. Đỗ Thị Phượng (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi trong Luật TTHS Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật
học, Hà Nội, tr. 19.
42. Trần Quang Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con ngưười trong luật hình sự,
luật TTHS Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội tr.155
43. Lê Minh Thắng (2012), Bảo đảm quyền của người chưa thành
69
niêntrong TTHS ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
44. Trần Thị Minh Thư (2014), Xử lý chuyển hướng đối với người chưa
thành niên phạm tội theo pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật Việt
Nam, Tạp chí Kiểm sát, Số 9/2014.
45. Nguyễn Ngọc Thương (2006), Thủ tục TTHS đối với những vụ án do
người dưới 18 tuổi thực hiện- Lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.tr.40
46. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Đề án thành lập Tòa Gia đình và người
chưa thành niên, Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.
47. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2007), “Một số vấn đề cần chú ý khi truy cứu trách
nhiệm hình sự người có hành vi phạm tội đối với người dưới 18 tuổi”, Tạp chí
Kiểm sát (6), Hà Nội.tr.22
48. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2013), Thủ tục tố tụng thân thiện đối với bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 3/2013.
49. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong TTHS Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, thành phố Hồ
Chí Minh.
50. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình Luật TTHS Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
51. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
52. Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ
luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
53. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
54. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và
pháp luật Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. TAND tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016, Bắc
Ninh
57. TAND tỉnh Bắc Ninh (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017, Bắc
70
Ninh
58. TAND tỉnh Bắc Ninh (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, Bắc
Ninh
59. TAND tỉnh Bắc Ninh (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2019, Bắc
Ninh
60. TAND tỉnh Bắc Ninh (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm 2020, Bắc
Ninh
61. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1995), Tội phạm học, luật hình sự và luật
TTHS Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Vũ Thị Thu Uyên (2015), Pháp luật về quyền của người chưa thành
niênphạm tội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội
63. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF (2005), Giải quyết
vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi, Tài liệu tập huấn.
64. VKSND tỉnh Bắc Ninh (2020), Thống kê công tác tư pháp hình sự
người dưới 18 tuổi giai đoạn 2016-2020, Bắc Ninh
65. Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (2005), Từ điển luật học, Nxb. Từ
điển bách khoa – Nxb. Tư pháp, Hà Nội
66. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học
BLTTHS năm 2003, NXB Tư pháp, Hà Nội.
67. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2002), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
68. Võ Khánh Vinh (2014), Trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên phạm tội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội.
69. Võ Khánh Vinh (2017), Quan niệm tổng thể về chính sách xây dựng
pháp luật ở Việt Nam, Tạp chí Nguồn nhân lực, số 9 và số 10/2017.
70. Võ Khánh Vinh (2019), Chính sách pháp luật thi hành án hình sự:
Những vấn đề lý luận, Tạp chí Nguồn nhân lực, số chuyên đề 01 (5/2019).
71. Võ Khánh Vinh (2020), Chính sách pháp luật, Giáo trình sau đại học,
Học viện Khoa học xã hội, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2008), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học
71
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.