VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ THÚY VÂN

THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ

NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN

BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ THÚY VÂN

THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ

NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN

BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn, kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa được

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trịnh Thị Thúy Vân

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI

DƯỚI 18 TUỔI ............................................................................................. 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối

với bị cáo là người dưới 18 tuổi...................................................................... 7

1.2 Nguyên tắc tiến hành tố tụng khi xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18

tuổi ............................................................................................................... 17

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về thủ tục xét

xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi đến trước khi ban hành bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 ................................................................................. 23

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO

LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI ĐỊA

BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM ..................................... 29

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi ........................................ 29

2.2. Thực tiễn thi hành quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối

với bị cáo là người dưới 18 tuổi tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

giai đoạn từ năm 2014 – 2019 ...................................................................... 33

Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ

NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ............................................................................ 51

3.1 Yêu cầu .................................................................................................. 51

3.2 Giải pháp ................................................................................................ 53

KẾT LUẬN ................................................................................................. 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 68

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật Hình sự

BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT Cơ quan điều tra

CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng

TAND Tòa án nhân dân

THTT Tiến hành tố tụng

TNHS Trách nhiệm hình sự

TTHS Tố tụng hình sự

HĐXX Hội đồng xét xử

VAHS Vụ án hình sự

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội tại thị xã 2.1. 30 Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2019

Số liệu thống kê cơ cấu tội phạm do người dưới 18

2.2. tuổi thực hiện tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh 31

Quảng Nam

Người dưới 18 tuổi phạm tội tại địa bàn thị xã Điện

2.3. Bàn, tỉnh Quảng Nam theo nhóm tuổi 31

Số liệu án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện

2.4. trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai 33

đoạn 2014-2019

Hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi

2.5. phạm tội trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng 35

Nam giai đoạn 2014-2019

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thị xã Điện Bàn là đơn vị hành chính phía Bắc tỉnh Quảng Nam là nơi

tiếp giáp với hai thành phố Đà Nẵng và Hội An, nơi có khu công nghiệp lớn

nhất nhì của tỉnh Quảng Nam. Trong những năm gần đây, kinh tế địa phương

phát triển, nhiều Công ty, Nhà máy mọc lên, dân số Điện Bàn đón thêm một

lượng lớn dân nhập cư từ các nơi về làm việc tại Khu công công nghiệp nên

tình hình xã hội ngày càng phức tạp, các loại tội phạm ngày càng nhiều và đa

dạng hơn, trong đó đặc biệt quan tâm là đối tượng phạm tội dưới 18 tuổi ngày

càng nhiều, gia tăng về tính chất cũng như mức độ nguy hiểm. Trước tình

hình trên, thị xã Điện Bàn nói riêng và cả nước nói chung vẫn từng ngày

chung tay góp sức cho việc giải quyết vấn đề về người dưới 18 tuổi phạm

tội, đây là việc làm cần thiết để giữ nghiêm ổn định chính trị và trật tự an

toàn xã hội.

Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta có quan điểm nhân đạo, nhân

văn khi giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó, vấn đề

không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó, mà

điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động

phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra.

Xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đó, việc áp dụng pháp luật tố

tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của nước ta không chỉ nhằm

mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe những hành vi lệch lạc mà còn giúp các

em thấy được sai lầm của mình để tự giác sửa chữa những sai lầm đó cùng

với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội để sau này thành người có

ích cho xã hội. Chính vì lẽ trên nên khi xây dựng luật các nhà làm luật cũng

đã dành một chương riêng gọi là thủ tục đặc biệt quy định tại Chương XXVIII

Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.

2

Như vậy, có thể khẳng định rằng trong các hoạt động tố tụng đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội cần tuân thủ đúng nguyên tắc tiến hành tố tụng,

bảo đảm thủ tục tố tụng dành cho người dưới 18 tuổi phải gần gũi, thân

thiện, và nhất là phải phù hợp với tâm sinh lý, khả năng nhận thức, tư duy

của người dưới 18 tuổi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp tối ưu dành cho

họ. Bên cạnh đó những người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới

18 tuổi phải là người đã được đào tạo có kinh nghiệm, có hiểu biết cần thiết

về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi và một trong

các hoạt động đảm bảo theo nguyên tắc trên thì hoạt động xét sơ thẩm vụ án

có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội được quan tâm chú trọng. Đây là

một hoạt động có ý nghĩa, tác động rất lớn đến tâm sinh lý của người dưới

18 tuổi.

Thực tiễn xét xử tại TAND thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam bên cạnh

những kết quả đạt được thì cũng còn không ít những khó khăn, vướng mắc,

đặc biệt là liên quan đến công tác áp dụng pháp luật đối với người dưới 18

tuổi. Những khó khăn đó ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cũng chưa

được công trình nào nghiên cứu để có biện pháp khắc phục.

Vì vậy để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện về thủ tục tố tụng tại phiên

tòa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bản thân đang là Thẩm phán trực tiếp

giải quyết, xét xử các vụ án, trong đó có không ít vụ mà bị cáo là người dưới

18 tuổi phạm tội nên cũng có nhiều những trăn trở trong việc áp dụng pháp

luật từ những quy định trên giấy đến thực tiễn, vẫn chưa truyền tải được hết ý

nghĩa nhân văn từ quy định pháp luật vận dụng vào thực tế cho người dưới 18

tuổi được hưởng nên tôi lựa chọn đề tài: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thị xã Điện Bàn,

tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học và cũng nhằm nghiên cứu

để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho mình khi giải quyết vụ án có đối tượng tội

phạm là người dưới 18 tuổi.

3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Kể từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm

2017) ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 trong đó có những quy

định mới về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì có rất

nhiều những công trình khoa học, những bài viết nghiên cứu liên quan về lĩnh

vực trên như:

- “Pháp luật tố tụng hình sự với việc bảo đảm quyền con người của

người bị buộc tội dưới 18 tuổi” của TS Nguyễn Hải Ninh, Khoa pháp luật

hình sự, Đại học luật Hà Nội đăng trên Nghiên cứu lập pháp số 08(384)-2019.

- Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2018 (Học viện khoa học xã hội) của

tác giả Dương Ngọc Lữ “Thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo dưới 18 tuổi

từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh”.

- Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2018 (Học viện khoa học xã hội) của

tác giả Bùi Thị Dung “Thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18

tuổi từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”

- Luận văn thạc sĩ luật học 2014, Đại học quốc gia Hà Nội của tác giả

Đỗ Xuân Hồng “Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên theo luật tố

tụng hình sự Việt Nam.

Như vậy, nghiên cứu về vấn đề thủ tục tố tụng đối với người chưa

thành niên phạm tội nhận được nhiều sự quan tâm. Các công trình nghiên cứu,

đề tài khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị về mặt lý luận cũng

như thực tiễn. Tuy nhiên, liên quan đến việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối

với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam thì chưa có một công trình nghiên cứu nào. Do đó, đề tài này

không trùng với bất kỳ đề tài hoặc công trình nghiên cứu nào đã được công

bố.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

4

Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn tại Tòa

án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; từ đó đề xuất những giải pháp

tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử đối với những bị cáo là người

dưới 18 tuổi trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với những mục đích nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra và phải

giải quyết đối với đề tài này bao gồm:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận như: Khái niệm thủ tục xét xử đối

với người dưới 18 tuổi; đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi.

- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt

Nam về thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.

- Phân tích, đánh giá việc áp dụng những quy định pháp luật vào thực

tiễn xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi tại thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam; những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn

chế, từ đó đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng

xét xử.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Về đối tượng: Luận văn nghiên cứu về các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi và thực

tiễn áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

- Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về thủ tục xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội,

+ Phạm vi về không gian: Luận Văn nghiên cứu thực tiễn vụ án hình sự

đối với người dưới 18 tuổi tại Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn.

+ Phạm vi về thời gian: Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2019 là phạm

vi nghiên cứu về không gian, thời gian của luận văn.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,

tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật cùng với các quan điểm chỉ

đạo của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội

phạm và xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Trong quá trình

thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương

pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, thống kê để từ đó nhận xét,

đánh giá những kết quả đạt được, những nguyên nhân hạn chế và đề xuất một

số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về thủ tục xét xử đối với bị cáo là người

dưới 18 tuổi.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa góp thêm một phần lý luận về

quy định thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi cho khoa

học Luật TTHS.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng là tài liệu tham khảo cần thiết trong

việc nghiên cứu, phục vụ cho công tác giảng dạy pháp luật và những người

làm công tác thực tiễn, xét xử đối với các vụ án mà bị cáo là người dưới 18

tuổi.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,

luận văn được kết cấu thành ba chương như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi;

Chương 2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục

xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng

tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam;

6

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.

7

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi

1.1.1. Khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người

dưới 18 tuổi

Có thể khẳng định, ở xã hội nào thì con người cũng là trung tâm của

các hoạt động xã hội. Do đó, quyền con người là vấn đề được các nhà nước

quan tâm. Đặc biệt, ở chế độ xã hội chủ nghĩa thì quyền con người luôn được

chú trọng bảo đảm. Chính vì vậy mà việc xem con người vừa là mục tiêu, vừa

là động lực cho sự phát triển đất nước là vấn đề xuyên suốt trong đường lối,

chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Trong đó người dưới 18 tuổi là

nền tảng của sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước, tương lai của dân tộc. Đó

là lý do tại sao Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội (bổ sung năm 2011) đã khẳng định rất rõ ràng: “…Chú trọng cải

thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục

và bảo vệ trẻ em…”[]. Như vậy, người dưới 18 tuổi được Nhà nước tạo mọi

điều kiện thích hợp để phát triển toàn diện, trong đó tất yếu bao gồm cả bảo

vệ các quyền con người của người dưới 18 tuổi khỏi các hành vi xâm phạm.

Vấn đề này cũng được quy định trong đạo luật gốc của Việt Nam, theo

đó Điều 37 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận rằng: “Trẻ em được Nhà nước, gia

đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề

về trẻ em”[]. Cụ thể hóa nội dung của Hiến pháp, Điều 5 Luật trẻ em năm

2016 khẳng định: “...Không phân biệt đối xử với trẻ em. Bảo đảm lợi ích tốt

nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em. Tôn trọng, lắng

nghe, xem xét, phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em...”[]. Như vậy, Nhà

8

nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các quyền con người của trẻ em, người

dưới 18 tuổi.

Ở góc độ hình sự, người dưới 18 tuổi là đối tượng thuộc nhóm dễ tổn

thương trong quan hệ pháp luật hình sự. Do đó, các chính sách của nước ta

đều tập trung hướng đến việc bảo đảm quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi

trong hoạt động tố tụng, trong trường hợp tham gia tố tụng hoặc ngay cả khi

họ là chủ thể phạm tội. Chính sách hình sự nhân văn đối với người dưới 18

tuổi được cụ thể trong các văn bản pháp lý chuyên ngành, trong đó có Bộ luật

Tố tụng hình sự. Bộ luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để các quyền cơ bản

của người dưới 18 tuổi được ghi nhận; đặc biệt, các cơ quan tiến hành tố tụng

với tư cách là người thực thi công vụ có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm các

quyền đó được thực hiện một cách minh bạch, chính xác. Qua đó, vừa bảo vệ

các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trước các hành vi xâm

hại, vừa bảo đảm hoạt động tố tụng diễn ra khách quan, việc xử lý tội phạm

công minh, tăng cường tính phòng ngừa, giáo dục tội phạm, nhất là tội phạm

là người dưới 18 tuổi để họ có điều kiện cải tạo, sửa chữa sai lầm.

Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về người dưới 18 tuổi. Theo

Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em (The United Nation Convention on the

Rights of the Child - CRC) đã định nghĩa “trẻ em” là bất kỳ người nào dưới

18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia có quy định khác.

Ở Việt Nam, theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1992

(sửa đổi 2004) quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Theo Bộ luật Dân sự,

Luật Hôn nhân và gia đình đều quy định người chưa đủ 18 tuổi là người chưa

thành niên.

Theo pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự trước khi ban hành BLHS năm

2015 quy định người chưa thành niên phạm tội là người trong độ tuổi từ đủ 14

đến dưới 18 tuổi. Cụ thể, theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số

9

01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 thì

người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất và tâm

thần. Thông tư liên tịch nêu rất rõ người dưới 18 tuổi thuộc đối tượng dễ bị

tổn thương, nhất là trong trường hợp họ tham gia tố tụng hình sự. Chính vì

vậy, họ cần được bảo vệ theo đúng lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu

cá nhân khi tham gia các quan hệ tố tụng hình sự. Đó là lý do mà BLHS năm

2015 (tại Chương XII) và BLTTHS năm 2015 (tại Chương XXVIII) quy định

các đường lối, thủ tục xử lý đặc biệt đối với chủ thể là người dưới 18 tuổi.

Vậy, xem xét một cách tổng quát thì khái niệm trẻ em và người chưa

thành niên tham gia vào hoạt động tố tụng của pháp luật Việt Nam hiện nay là

có sự phù hợp với nhau và độ tuổi là dưới 18 tuổi. Quy định này cũng hoàn

toàn phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền tư pháp đối với trẻ em.

- Về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi:

Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự

bắt buộc trong các vụ án hình sự. Việc đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

đối với người dưới 18 tuổi theo như những phân tích về khái niệm người dưới

18 tuổi phạm tội trên thì đây thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và cần

sự bảo vệ đặc biệt cho nhóm đối tượng này, được quy định trong luật quốc tế

và luật pháp của tất cả quốc gia. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa

những điểm tiến bộ trong các Bộ luật trước đây, phù hợp với luật pháp quốc

tế, xây dựng thủ tục tố tụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại

Chương XXVIII. Quy định thủ tục riêng này bảo đảm tuân thủ quy định tại

Khoản 3 Điều 40 Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989 cũng như các

Công ước khác về quyền con người mà Việt Nam tham gia.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo

một trật tự quy định để tiến hành một công việc có tính chất hình thức” [35,

tr.781]. Còn “Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của

10

các Tòa án [21, tr.576]. Có nghĩa là, xét xử là hoạt động đánh giá bản

chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán quyết chính xác, khách quan

và toàn diện về bản chất, mức độ trái pháp luật của vụ việc đó. Vì lẽ đó, hoạt

động đánh giá này phải được xem xét kỹ lưỡng qua nhiều mức độ, góc độ

khác nhau. Đó là lý do BLTTHS quy định các thủ tục xét xử khác nhau như:

sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

Theo Từ điển luật học, “Sơ thẩm là lần đầu tiên đưa một vụ án ra xét

xử tại một tòa án có thẩm quyền” [21, tr.434]. Như vậy, về bản chất, xét xử

sơ thẩm là hoạt động xem xét, phán quyết lần đầu của cơ quan có thẩm quyền

xét xử. Nội dung này cũng được quy định rất rõ tại Khoản 1 Điều 27

BLTTHS năm 2015. Theo đó, ở Việt Nam “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

được bảo đảm”, trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm (lần đầu) của Tòa án

bị kháng cáo, kháng nghị thì thủ tục xem xét phúc thẩm (lần thứ hai) sẽ được

tiến hành. Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng

nghị trong thời hạn do BLTTHS quy định thì có hiệu lực pháp luật.

Như vậy, xét xử sơ thẩm có thể hiểu là việc xét xử lần đầu do Toà án có

thẩm quyền tiến hành việc xem xét, phán quyết vụ việc cụ thể. Trong tố tụng

hình sự, đó là quá trình chuẩn bị và đưa vụ án hình sự ra xem xét, xử lý công

khai bằng một phiên tòa. Tại đó, các chứng cứ của Cơ quan điều tra, sự cáo

buộc của Viện kiểm sát, ý kiến của người bị buộc tội, người làm chứng, người

có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa,… được trình bày để Hội

đồng xét xử có điều kiện theo dõi, đánh giá và đưa ra phán quyết khách quan.

Có quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử một vụ

án hình sự ở cấp thấp nhất. Có thể thấy quan điểm này đã phần nào nêu bật

được bản chất của sơ thẩm là việc xét xử cấp đầu tiên. Tuy nhiên, cần lưu ý

rằng, quan điểm này phần nào đã hạ thấp giá trị pháp lý của việc xét xử sơ

thẩm. Việc xem xét sơ thẩm là giai đoạn xét xử lần đầu song nếu bản án,

11

quyết định của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì nó có hiệu lực

pháp luật và tất yếu phải được thi hành. Đó là điều mà các bản án, quyết định

ở các cấp xem xét khác cũng có chứ không riêng gì ở xét xử sơ thẩm. Cũng có

quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất của Tòa án

[30]. Qua nghiên cứu các văn bản pháp lý liên quan đến chức năng xét xử, tác

giả thấy rằng Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử tại nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc xét xử lần thứ nhất được tiến hành ở các cấp

Tòa án (cấp huyện, cấp tỉnh). Việc xét xử có thể được tiến hành ở cấp sơ

thẩm, nhưng nếu bị kháng cáo, kháng nghị thì có thể được xem xét tiếp ở thủ

tục phúc thẩm, thậm chí trường hợp xảy ra các sai sót về định tội danh, áp

dụng hình phạt,… thì bản án, quyết định của Tòa án có thể bị hủy và yêu cầu

cấp sơ thẩm xét xử lại. Như vậy, cần khẳng định xét xử sơ thẩm là hoạt động

xem xét vụ án hình sự của Tòa án cấp thứ nhất và kết quả của việc xem xét đó

là bản án, quyết định liên quan đến việc có tội hay không có tội, hình phạt

hoặc biện pháp tư pháp được áp dụng là gì.

Với tư cách là biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của

Nhà nước, pháp luật hình sự vẫn dành sự quan tâm với người dưới 18 tuổi.

Theo đó, pháp luật hình sự thực định có sự điều chỉnh đặc biệt dành riêng cho

người tham gia tố tụng hình sự, ngay cả khi họ là người phạm tội. Cụ thể hơn,

Chương XXVIII BLTTHS năm 2015 quy định thủ tục tố tụng đối với người

dưới 18 tuổi. Bên cạnh đó, Điều 413 BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn về

thủ tục tố tụng hình sự cho người 18 tuổi bao gồm: Người bị buộc tội, bị hại

và người làm chứng. Theo đó, người dưới 18 tuổi được ưu tiên hơn từ việc áp

dụng biện pháp ngăn chặn, về điều kiện của người tiến hành tố tụng, về sự

tham gia của gia đình, xã hội vào các giai đoạn cho đến khi thi hành án. Đơn

cử như việc áp dụng biện pháp giao cho gia đình giám sát người dưới 18 tuổi

thay vì áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc. Hay như

12

một số hoạt động tiến hành tố tụng trong vụ án có người dưới 18 tuổi tham

gia đòi hỏi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải những hiểu biết nhất

định về người dưới 18 tuổi và được cấp chứng chỉ, chứng nhận về vấn đề này.

Các quy định này xuyên suốt trong quá trình tố tụng hình sự, trong đó thể

hiện tập trung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Điều này thể hiện

tính nhân đạo, nhân văn của Nhà nước ta ngay từ khi có người dưới 18 tuổi

tham gia quan hệ pháp lý mà ở đó, cơ quan xét xử là Tòa án sẽ xem xét, đánh

giá hành vi của người bị buộc tội bất kỳ là có tội hay không có tội, quyết định

đến số phận của những thực thể trong xã hội. Đặc biệt, khi người dưới 18 tuổi

lại chính là người bị buộc tội thì những quy trình tố tụng thân thiện sẽ là chỗ

dựa vững chắc để họ yên tâm tham gia tố tụng, tự mình hoặc nhờ người khác

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Qua đó, nhận thức thêm về

pháp luật nói chung, về pháp luật hình sự nói riêng và gần gũi nhất là quyền

và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng hình sự ở một tư cách cụ thể được BLTTHS

quy định.

Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi như sau: Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi là việc Tòa án tiến hành các

thủ tục chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của pháp

luật để xác định bị cáo là người dưới 18 tuổi có phạm tội hay không và áp

dụng hình phạt cũng như biện pháp tư pháp đối với họ nếu họ phạm tội.

1.1.2. Đặc điểm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người

dưới 18 tuổi

Xuất phát từ tính nhân đạo của chính sách Nhà nước Việt Nam nói

chung và chính sách pháp luật hình sự nói riêng, thủ tục xét xử vụ án hình sự

đối với người 18 tuổi phạm tội có những đặc điểm riêng có. Chính vì điều đó,

thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội là thủ tục

13

đặc biệt và được quy định thành một chương riêng của BLTTHS. Theo đó,

người tiến hành tố tụng khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là

người dưới 18 tuổi phải tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh. Các hoạt động tố

tụng, áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phải đều phải được xem

xét kỹ lưỡng và hướng đến việc tạo ra môi trường thân thiện, gần gũi mà

trong đó người dưới 18 tuổi đủ điều kiện để yên tâm thực hiện các quyền và

nghĩa vụ pháp lý của mình.

Đặc điểm về chủ thể: Trên cơ sở các đặc điểm tâm sinh lý, khả năng và

trình độ nhận thức xã hội, nhận thức pháp luật của người dưới 18 tuổi, pháp

luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp dụng riêng đối với những trường

hợp mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Theo đó, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng mà cụ thể là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm khi

tham gia xét xử vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi thì đòi hỏi phải có hiểu

biết nhất định về người dưới 18 tuổi. Họ cần phải nắm bắt các kiến thức, kinh

nghiệm về tâm lý, đặc điểm nhận thức của người dưới 18 tuổi để có thể vận

dụng các biện pháp nghiệp vụ, đưa ra các quyết định tố tụng phù hợp. Nhất là

Thẩm phán, họ là người đưa ra các phán quyết liên quan đến số phận pháp lý

của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, thì hơn ai hết, họ phải am hiểu

sâu sắc về người dưới 18 tuổi từ đó mới có thể đưa ra được các quyết định

chính xác, phù hợp.

Đặc điểm về thủ tục xét xử:

Người dưới 18 tuổi có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý, đòi hỏi thủ

tục xét xử được áp dụng đối với họ phải thân thiện, tạo cho bị cáo sự yên tâm

khi tham gia tố tụng. Đó cũng là lý do mà khoản 1 Điều 414 BLTTHS năm

2015 quy định nguyên tắc THTT là phải bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện,

phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của

người dưới 18 tuổi. Qua đó, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người

14

dưới 18 tuổi và hướng đến bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi

[31]. Môi trường tố tụng thân thiện, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người bị

buộc tội là người dưới 18 tuổi tự nhận thức để thực hiện đầy đủ các quyền,

nghĩa vụ của mình.

Thủ tục TTHS thân thiện còn thể hiện qua việc pháp luật quy định theo

hướng hạn chế thấp nhất việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp

cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi. Nói cách khác, chỉ khi thật cần thiết thì

các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn mang tính nghiêm khắc mới được áp

dụng đối với người dưới 18 tuổi. Đơn cử như trước khi muốn áp dụng biện

pháp tạm giam thì các biện pháp ngăn chặn khác phải được cân nhắc, xem xét

để ưu tiên áp dụng. Khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-

VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 quy định rất

cụ thể về việc trước khi quyết định áp dụng biện pháp mang tính cưỡng chế

cao như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam người

dưới 18 tuổi, người, cơ quan THTT nhất định phải xem xét kỹ lưỡng việc áp

dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế thấp hơn nhưng vẫn bảo đảm bảo

hiệu quả của hoạt động tố tụng như cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất

cảnh; giám sát tại gia đình. Không những vậy, Thông tư liên tịch còn quy

định ngay cả khi áp dụng tạm giam bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi mà có

đủ căn cứ để xem xét áp dụng bảo lĩnh hoặc biện pháp đặt tiền để bảo đảm thì

người, cơ quan THTT cần áp dụng các biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để

bảo đảm thay thế cho biện pháp tạm giam.

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, môi trường xét xử thân thiện không chỉ

giúp HĐXX thuận tiện trong công tác điều hành, xét xử mà bản thân bị cáo là

người dưới 18 tuổi cũng phát huy tối đa quyền đưa ra ý kiến, tài liệu, đồ vật;

quyền tự bào chữa,... Qua đó, đảm bảo cho hoạt động bình thường của TTHS,

tạo tiền đề để HĐXX đưa ra phán quyết công minh, chính xác và thể hiện hết

được chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm

15

tội là người dưới 18 tuổi. Đó cũng chính là yêu cầu được khoản 1 Điều 91

BLHS năm 2015 ghi nhận đầy đủ. Theo đó, trong công tác xử lý người dưới

18 tuổi phạm tội phải hướng đến việc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới

18 tuổi; mặt khác phải giúp đỡ cho họ sữa chữa sai lầm, phát triển toàn diện.

Việc xử lý người dưới 18 tuổi hướng tới việc bảo đảm lợi ích tốt nhất của

người dưới 18 tuổi là quy định hoàn toàn mới của BLHS năm 2015. Hiện nay

chưa có văn bản nào hướng dẫn như thế nào là lợi ích tốt nhất nhưng đó được

hiểu là lợi ích tối ưu mà người, cơ quan THTT phải bảo đảm và nỗ lực hướng

đến. Mặt khác, xét đến cùng thì pháp luật hình sự được hình thành và áp dụng

thì cũng vì con người. Do đó, phát huy tối ưu mục đích của hình phạt là

phòng ngừa và giáo dục người phạm tội. Là đối tượng có sự hạn chế nhất định

về lứa tuổi, nhận thức thì tất yếu người dưới 18 tuổi phải càng được tạo điều

kiện hơn để tự nhận ra sai lầm và cải tạo thành người có ích cho xã hội. Và đó

cũng là những gì xã hội hướng tới, những điều mà người làm công tác áp

dụng pháp luật hình sự cần phải lưu tâm, suy xét kỹ lưỡng.

1.1.3. Ý nghĩa thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới

18 tuổi

Có thể thấy, với các đặc điểm đạc biệt về tâm sinh lý, người dưới 18

tuổi là đối tượng rất nhạy cảm. Do đó, khi rơi vào tình huống pháp lý bất lợi,

đối tượng này rất dễ bị tác động, nhất là tác động từ các quyết định, hành vi tố

tụng hình sự. Chính vì thế thủ tục tố tụng nói chung và thủ tục xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi cần phải tạo được sự niềm tin của

người dưới 18 tuổi đối với pháp luật, với CQTHTT để họ chủ động, tích cực

trong các hoạt động TTHS, đảm bảo cho việc xét xử diễn ra thuận lợi, đạt

được mục đích cuối cùng của hình phạt là vì con người. Và kết quả của bản

án chính là kết tinh của các quá trình tố tụng. Do đó, bản án phải cho thấy

được kết quả điều tra, truy tố, xét xử người dưới 18 tuổi là có căn cứ, đúng

16

quy định pháp luật song vẫn luôn mở đường cho người dưới 18 tuổi nhận thức

sai lầm của bản thân và thay đổi để hướng thiện, hòa nhập lại với xã hội. Nói

khác đi, bản án phải vừa có “lý” vừa có “tình” trong đó. Một bản án được ban

hành phải có đủ cả hai yếu tố đó thì mới đảm bảo được ý nghĩa của hình phạt.

Nó không đơn thuần là quyết định một hình phạt hoặc một biện pháp tác động

lên người dưới 18 tuổi phạm tội mà nó phải giúp bản thân người dưới 18 tuổi

phạm tội và những người khác ý thức được sự công minh của pháp luật, để từ

đó mà điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với pháp luật, không làm

ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội.

Việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự mà đặc biệt là ở giai đoạn

xét xử đối với người phạm tội dứoi 18 tuổi bao giờ cũng gây nên các xung đột

các lợi ích. Một là, sự xung đột lợi ích giữa một bên là số đông (xã hội) mà

đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước và nhân dân trao

quyền với bên kia là lợi ích của bị cáo dưới 18 tuổi bị tình nghi là đã thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo đó, bên phía các cơ quan tiến hành

tố tụng với quyền lực, vật chất là Nhà nước trao cho, cùng với đó là sự ủng hộ

từ xã hội đang chiếm thế “thượng phong” so với bên kia là bị cáo dưới 18 tuổi

với trình độ, nhận thức còn hạn chế. Hai là, CQTHTT mà cụ thể là Tòa án

được Nhà nước trao cho quyền năng rất lớn và riêng có là phán xử hành vi

của bị cáo là có tội hay không có tội. Do đó, việc lạm quyền là hoàn toàn có

thể xảy ra trong trường hợp này. Tất nhiên đi liền với hoạt động xét xử của

Tòa án thì lúc nào cũng được kiểm sát bởi Viện kiểm sát. Tuy nhiên, ở một

chừng mực nào đó, quyền xét xử lại độc lập và phụ thuộc vào nhận thức và

trách nhiệm của người Thẩm phán. BLHS luôn có một “độ rộng” trong các

khung hình phạt mà Thẩm phán có thể áp dụng. Sự tùy nghi của Thẩm phán

nếu đúng, khách quan thì không sao nhưng nếu chỉ cần một sự thiếu khách

quan trong đó thì quyền của người dưới 18 tuổi rất dễ bị xâm hại. Chính vì

17

vậy, để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của chủ thể đặc biệt – người dưới 18

tuổi mà cao hơn là quyền con người của người bị buộc tội, sự khách quan,

thận trọng của người áp dụng pháp luật hình sự cần phải được coi trọng.

Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã thể hiện rất rõ trẻ em

là người còn hạn chế về thể chất và trí tuệ, do đó cần được bảo vệ, ngay cả về

mặt pháp lý [42]. Với quan điểm nhất quán về quyền của người dưới 18 tuổi,

Nhà nước Việt Nam đã thể chế hóa nhiều nội dung quan trong trong Công

ước quốc tế về quyền trẻ em sao cho phù hợp với điều kiện của đất nước.

Trong đó đáng ghi nhận là việc chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất

là pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi. Thiên hướng hoàn thiện là tạo

mọi điều kiện để giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi.

Tóm lại, việc quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội thành một chương riêng biệt trong BLTTHS có ý nghĩa rất lớn trong

việc đảm bảo tối ưu các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dưới

18 tuổi để từ đó đưa các quyết định, phán quyết đúng đắn nhất đối với họ, tạo

điều kiện thuận lợi để họ thích nghi, phát triển bình thường ngay cả khi rơi

vào “vòng quay THHS”.

1.2. Nguyên tắc tiến hành tố tụng khi xét xử sơ thẩm đối với người

dưới 18 tuổi

Nguyên tắc là những điều cốt lõi được định sẵn và nhất thiết phải tuân

tuân thủ khi thực hiện một công việc cụ thể []. Như vậy, nguyên tắc THTT là

những điều được định sẵn mà người, CQTHTT phải tôn trọng và tuân thủ

chặt chẽ. Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015 đã chỉ ra rất rõ khi tiến hành giải

quyết vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi, trong đó có người bị buộc tội dưới

18 tuổi, phải tuân theo đầy đủ các nguyên tắc sau đây:

- Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, sao cho phù hợp với lứa tuổi, tâm

lý, mức độ trưởng thành cũng như trình độ nhận thức của người dưới 18 tuổi.

18

Bảo đảm tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia tố tụng của người

dưới 18 tuổi. Và đặc biệt, phải bảo đảm lợi ích tốt nhất dành cho người dưới

18 tuổi.

- Bảo đảm giữ bí mật cá nhân, bí mật riêng tư của người dưới 18 tuổi.

- Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới

18 tuổi. Bảo đảm sự tham gia của Ðoàn thanh niên, Nhà trường, người có

kinh nghiệm và hiểu biết về tâm lý nơi người dưới 18 tuổi học tập, công tác.

- Tôn trọng và bảo đảm quyền được trình bày ý kiến của người dưới 18

tuổi. Đây là quyền quan trọng giúp người dưới 18 tuổi chủ động bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình một cách chủ động, tích cực.

- Bảo đảm quyền bào chữa và quyền được trợ giúp pháp lý của người

dưới 18 tuổi.

- Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của BLHS đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội, phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam.

- Bảo đảm giải quyết kịp thời, chính xác các vụ án liên quan đến người

dưới 18 tuổi.

Các nguyên tắc này đã đặt người dưới 18 tuổi vào vị trí đặc biệt của

TTHS. Các hoạt động tố tụng liên quan, nhất là xét xử vụ án hình sự phải chú

ý đến các điều kiện, yếu tố có thể tác động đến người dưới 18 tuổi. Các

nguyên tắc này được xây dựng dựa trên đặc điểm đặc biệt về tâm sinh lý của

người dưới 18 tuổi. Nhưng ở góc độ nào đó, phải nhìn nhận lại, các hành vi

nguy hiểm cho xã hội do người dưới 18 tuổi thực hiện có phần trách nhiệm từ

phía nhà trường, gia đình và xã hội. Chính vì vậy, sự xem xét, cân nhắc các

yếu tố tác động làm người dưới 18 tuổi phạm tội cũng phải tính đến lỗi từ các

chủ thể khác trong xã hội, nhất là các chủ thể liên quan đến nuôi dưỡng, giáo

dục người dưới 18 tuổi.

19

Sự cấp tiến trong các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam còn thể

hiện ở góc độ, vốn dĩ các tội phạm sinh ra là đi ngược lại lợi ích chung của xã

hội, phương hại đến các điều kiện tồn tại của xã hội đó. Nhưng việc Nhà nước

áp dụng các biện pháp để ngăn chặn, phòng ngừa gây bất lợi cho chủ thể thực

hiện tội phạm cũng có chừng mực và có sự phân hóa áp dụng. Đối với người

dưới 18 tuổi, các sự kiện pháp lý bất lợi gây ảnh hưởng rất lớn đến sự hình

thành nhân cách, phát triển tư duy, thể lực. Do đó, các biện pháp mang tính

quyền tính quyền lực nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm khắc cần phải

được áp dụng linh hoạt, mềm dẻo. Để đảm bảo để điều đó được thực hiện,

BLTTHS đã quy định các nguyên tắc mà người, CQTHTT bắt buộc phải thực

hiện một cách nghiêm chỉnh. Thậm chí ngay cả trường hợp áp dụng Quy

phạm pháp luật tùy nghi thì các nguyên tắc này cũng tác động để sự “tùy

nghi” nằm trong giới hạn cho phép. Suy cho cùng, tất cả các hoạt động TTHS

từ điều tra, truy tố, xét xử hay thậm chí là thi hành án hình sự đối với người

dưới 18 tuổi đến cuối cùng cũng là để giáo dục, cải tạo họ. Chính vì vậy, xử

lý người dưới 18 tuổi không đơn thuần là áp dụng một hình phạt, một biện

pháp tư pháp mà phải tạo được môi trường, điều kiện và cơ hội để họ nhận

thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội để tự cải tạo, phát triển lành mạnh và

toàn diện, trở thành người tốt hay chí ít là người vô hại trong xã hội.

Bảo đảm thủ tục tố tụng “thân thiện”, sao cho phù hợp với tâm lý, khả

năng nhận thức của người dưới 18 tuổi là nguyên tắc trước tiên mà CQTHTT

cần phải tuân theo. Nguyên tắc này là nguyên tắc mang tính bao trùm, có sự

tác động và chi phối rõ rệt đối với các nguyên tắc khác. Đây cũng là nguyên

tắc cụ thể hóa và tiệm cận với quy định tại Điều 40 Công ước quốc tế về

quyền trẻ em của Liên Hợp quốc.

Đường lối, chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhất

thiết phải căn cứ vào độ tuổi. Độ tuổi khác nhau thể hiện các biểu hiện khác

20

nhau về tư duy, sinh lý. Cũng có những trường hợp đặc biệt, độ tuổi không có

sự tương thích về nhận thức, nhưng ở góc độ chung nhất, ở độ tuổi nhất định

thì yêu cầu của pháp luật về hành vi của mỗi người cũng khác nhau. Đó là lý

do pháp luật hình sự luôn có sự phân biệt đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới

16 tuổi, hoặc dưới 18 tuổi,.... Không chỉ dừng lại ở độ tuổi mà thủ tục xét xử

vụ án hính sự cần căn cứ vào khả năng nhận thức, ý thức chủ quan của người

dưới 18 tuổi về hành vi mang tính chất gây nguy hiểm cho xã hội, nguyên

nhân và điều kiện nào đã đưa họ đến con đường phạm tội. Nhận thức không

có phân cấp bậc, và mỗi người có thể có những nhận thức, đánh giá khác nhau

về một sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, trong tình huống pháp lý cụ thể, pháp

luật hình sự đòi hỏi những quy tắc chuẩn mực cơ bản nhất. Lúc đó, người áp

dụng pháp luật nhìn nhận ý thức, nhận thức của người dưới 18 tuổi không

phải chỉ ở độ tuổi mà chính là hành vi biểu hiện bên ngoài thế giới khách

quan của họ.

Người dưới 18 tuổi là còn chưa hoàn thiện về nhiều mặt, các yếu tố tâm

sinh lý, khả năng nhận thức, tư duy, đặc biệt là kinh nghiệm sống còn hạn

chế. Do đó nguyên nhân và điều kiện chính dẫn đến người dưới 18 tuổi phạm

tội là luôn tiềm ẩn trong chính môi trường sống của người dưới 18 tuổi. Việc

áp dụng pháp luật hình sự không phải là nhằm vào người dưới 18 tuổi phạm

tội mà là điều chỉnh hành vi của họ không xung đột với xã hội, giải quyết mối

quan hệ giữa cá nhân với gia đình, xã hội.

Khi người dưới 18 tuổi bị buộc tội, việc xét xử đối với họ thật sự là

biện pháp “chốt chặn” sau cùng. Bởi lẽ pháp luật luôn mở đường từ việc ưu

tiên áp dụng các biện pháp khác ngoài hình sự như hòa giải dân sự, xử phạt

hành chính,.... Khi phải xét xử người dưới 18 tuổi, người, CQTHTT phải tạo

ra sự gần gũi, thân thiện để chính bản thân người dưới 18 tuổi bị buộc tội

21

cũng như người dưới 18 tuổi ngoài xã hội nhận thức được tội phạm đã thực

hiện là sai trái, cần phải điều chỉnh hành vi.

Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18

tuổi, người am hiểu, thân thuộc với người dưới 18 tuổi là nguyên tắc quan

trọng trong THTT đối với người dưới 18 tuổi. Từ đặc điểm đặc biệt về tâm

sinh lý, sự phát triển của người dưới 18 tuổi thì khi tham gia TTHS họ rơi vào

tình thế bất lợi. Và việc bảo đảm sự tham gia của người đại diện, gia đình, nhà

trường, Đoàn thanh niên, người hiểu biết về người dưới 18 tuổi là điều kiện

thuận lợi để người dưới 18 tuổi yên tâm, tự tin tham gia các tình huống pháp

lý hình sự.

Người dưới 18 tuổi là chủ thể đặc biệt cần được bảo vệ. Ở góc độ

người bị buộc tội, chúng ta nhìn thấy người dưới 18 tuổi còn nhiều thiếu sót,

hạn chế về tinh thần, thể chất phải đứng trước nguy cơ “vướng vào vòng lao

lý” thì họ càng cần được bảo vệ. Với người dưới 18 tuổi, thay vì đang trong

điều kiện vui chơi, học tập thì họ phải đối mặt với các tình huống tố tụng, thì

tâm lý của họ sẽ không tránh khỏi lo lắng, bối rối. Chính điều đó phần nào đã

làm giảm tính chủ động trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của

người dưới 18 tuổi. Do vậy, bảo đảm sự có mặt của người đại diện của người

dưới 18 tuổi trong TTHS nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự nói riêng là yêu cầu cần thiết, đòi hỏi người, cơ quan THTT phải thực

hiện đầy đủ, chính xác.

Nguyên tắc “Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi”

chính là nguyên tắc quan trong trong việc bảo đảm quyền của người dưới 18

tuổi đặc biệt là người dưới 18 tuổi bị buộc tội. Điều 25 Bộ luật TTHS năm

2015 quy định việc xét xử công khai bằng một phiên tòa hình sự. Tuy nhiên,

quy định này cũng quy định rất rõ trường hợp vì bảo vệ bí mật Nhà nước, giữ

gìn thuần phong, mỹ tục; bảo mật đời tư và đặc biệt là bảo vệ người dưới 18

22

tuổi thì Tòa án có thể xét xử kín, tuyên án công khai. Như vậy, BLTTHS Việt

Nam đã rất tiến bộ khi ghi nhận quyền riêng tư của người dưới 18 tuổi. Đối

tượng người dưới 18 tuổi rất nhạy cảm, do đó quyền giữ bí mật cá nhân là yêu

cầu không thể thiếu khi tiến hành áp dụng các bất lợi pháp lý hình sự đối với

người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên thì quyền này chỉ được quy định ở giai đoạn

xét xử là chưa thỏa đáng, vì quyền của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi

rất dễ bị xâm hại ngay từ giai đoạn điều tra. Nghiên cứu Điều 177 BLTTHS

năm 2015, chỉ có quy định về giữ bí mật điều tra, “nếu tiết lộ ra sẽ gây bất lợi

cho quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, bảo đảm an toàn cho người tham

gia tố tụng” chưa có sự ghi nhận cụ thể nào về việc giữ bí mật đời tư của

người dưới 18 tuổi [31]. Nội dung “Bảo vệ sự riêng tư” của người người dưới

18 tuổi đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận từ rất lâu. năm 1985, Các Quy

tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về hoạt động tư pháp đối với người

vị thành niên đã đánh dấu sự ghi nhận quyền riêng từ của người chưa thành

niên với giá trị phổ quát toàn thế giới. Theo đó, việc bảo vệ người chưa thành

niên khỏi những tác động bất lợi có thể có do các phương tiện thông tin đại

chúng là yêu cầu quan trọng mà các quốc gia, dân tộc phải ưu tiên thực hiện.

Năm 1990, Các quy tắc của Liên Hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên

bị tước tự do (Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990) lại tiếp tục khẳng định và

mở rộng quyền bí mật cá nhân của người chưa thành niên. Theo đó, quyền

riêng tư của người chưa thành niên phát sinh từ khi họ bị pháp luật áp dụng

các biện pháp hạn chế, tước bỏ tự do. Các cơ quan tư pháp đối với người chưa

thành niên cần nêu cao các quyền cùng sự an toàn của người chưa thành niên,

đồng thời nâng cao sức khỏe về thể chất và tinh thần của họ. Thậm chí, khi áp

dụng hình phạt, thì hình phạt tù người chưa thành niên nên “được sử dụng

như là biện pháp cuối cùng”.[]

Tuy nhiên tại Việt Nam, báo chí lại thường đăng tải các bài viết và hình

ảnh về người bị buộc tội dưới 18 tuổi. Có không ít các trường hợp trong đó

23

hình ảnh được cơ quan THTT cung cấp hoặc cho phép. [] Đây là các vi phạm

quyền bí mật riêng tư của người dưới 18 tuổi. Quyền này cần phải được bảo

đảm, cho đến khi người dưới 18 tuổi đã bị kết án, Tòa án vẫn không được

phép đăng tải bản án lên cổng thông tin điện tử của ngành.[] Đây là nguyên

tắc bất di bất dịch mà Tòa án và các CQTHTT khác phải tôn trọng và thực thi

nghiêm chỉnh.

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về thủ tục xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi đến trước khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

1.1.1. Giai đoạn từ trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988

Trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Nhà nước ta đã có

nhiều quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong đó đáng kể là Sắc

lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy định dân luật. Sắc lệnh

chưa đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi nhưng quy định rất rõ thế nào là

người vị thành niên. Theo đó, Điều 7 của Sắc lệnh quy định người vị thành

niên là người chưa đủ 18 tuổi, tức là dưới 18 tuổi. Và đến tuổi thành niên thì

họ có quyền rất cơ bản đó là quyền tự lập. Bên cạnh đó, trước thực trạng tệ

nạn xã hội, Quyết định số 217-TTg ngày 18/12/1967 của Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành về việc tổ chức lại các trường giáo dục thiếu niên hư, trong

đó nhấn mạnh thiếu niên là nguồn lực của đất nước, do đó thiếu niên hư phải

được giáo dục để phát triển có định hướng. Đặc biệt, Quyết định số 217- TTg-

NC ngày 18/12/1967 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định rất rõ về xét xử

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự và xét

xử tại Tòa án đối với người dưới 18 tuổi khi cần thiết. Đáng chú ý, trẻ em

dưới 14 tuổi không đưa ra xét xử. Đây là quy định dù đã cũ nhưng thể hiện tư

duy cấp tiến, thể hiện tinh thần nhân văn của Nhà nước ta đối với trẻ em,

những mầm non của đất nước. Người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi trường hợp

vi phạm pháp luật nếu xét thấy cần thiết thì mới đưa ra xét xử nhưng cần cân

24

nhắc đến việc tuổi còn trẻ. Quyết định cũng nhấn mạnh, đối với người từ đủ

14 tuổi đến 16 tuổi chỉ tiến hành xét xử khi nhóm người này phạm tội mang

tính chất nghiêm trọng (Mục 5, tiết 2, chương II).

Không những vậy, Hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/2/1967 của Tòa án

nhân dân tối cao đã quy định chi tiết vấn đề áp dụng biện pháp tư pháp thay

thế cho hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là cơ sở pháp

lý quan trọng nhằm hướng thiện, giáo dục người chưa thành niên. Theo đó,

quá trình xét xử, người áp dụng pháp luật phải xem xét đến trình độ, nhận

thức có phần hạn chế từ người dưới 18 tuổi để áp dụng cho họ mức án thỏa

đáng. Cụ thể trong hoạt động xét xử, cần xem xét kỹ lưỡng và áp dụng pháp

luật theo hướng cân nhắc về nhận thức non trẻ của người chưa thành niên, qua

đó thấy được họ chưa nhận biết đầy đủ, chính xác về tính nguy hiểm của hành

vi phạm tội. Từ đó mà việc áp dụng hình phạt với họ nên ở mức bằng một

phần hai đối với người lớn tuổi (người đã thành niên).

Như vậy, trước khi BLTTHS năm 1988 được ban hành thì việc áp dụng

pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi đã được quan tâm, nhất là trong

quá trình xét xử, áp dụng hình phạt. Điều này thể hiện rất rõ bản chất nhân

đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tư duy lập pháp cấp tiến của Việt Nam.

Các quy định dù đã lâu nhưng đã xem xét, đánh giá đến các yếu tố riêng có

của người dưới 18 tuổi để có các biện pháp tác động hình sự phù hợp khi họ

phạm tội. Đảm bảo xét xử đúng đắn, góp phần lớn vào việc giáo dục, cải tạo

người dưới 18 tuổi phạm tội, giúp họ nhận ra và sữa chữa lỗi lầm, sớm trở lại

với đời sống xã hội. Mặt khác, việc xét xử đúng còn có tác dụng răn đe,

phòng ngừa chung đối với mọi đối tượng trong xã hội chứ không riêng gì

người dưới 18 tuổi.

1.1.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến trước

khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

25

Khi đất nước đã thống nhất, Nhà nước có nhiều điều kiện hơn trong

công tác lập pháp, chấn chỉnh kỷ cương. Đó là điều kiện thuận lợi để ban

hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Sự ra đời của BLTTHS năm 1988 đã

đánh dấu bước tiến quan trọng của lập pháp Việt Nam trong việc ghi nhận các

thủ thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội. Bộ luật này

đã dành 10 Điều (từ Điều 271 đến Điều 280) để quy định các thủ tục điều tra,

truy tố và xét xử đối với người chưa thành niên. Trong đó đáng lưu ý là Điều

luật 277 BLTTHS năm 1988 quy định rất cụ thể về thủ tục xét xử đối với

người chưa thành niên:

“1. Thành phần Hội đồng xét xử phải có một hội thẩm nhân dân là giáo

viên hoặc là cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Toà án có thể

quyết định xét xử kín nếu cần thiết.

2. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối

với bị cáo thì Toà án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp quy định

tại Điều 60 Bộ luật hình sự.”

Như vậy, BLTTHS năm 1988 nâng các quy định pháp luật thời kỳ

trước lên một bậc mới. Trong đó đã thể hiện rất rõ đường hướng xử lý người

chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai

lầm, hướng thiện và sớm trở về với đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự vận động

không ngừng của các yếu tố xã hội đã cho thấy BLTTHS năm 1988 có nhiều

điểm không còn phù hợp, đó là lý do ban hành BLTTHS mới vào năm 2003.

1.1.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến trước

khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời đã pháp điển hóa nhiều quy

định của BLTTHS năm 1988. Trong đó, từ Điều 301 đến Điều 310 thuộc

Chương XXXII Phần thứ bảy của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định

rất rõ về thủ tục đặc biệt chỉ được áp dụng đối với người chưa thành niên

26

phạm tội. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2003 cũng nhấn mạnh ngoài các quy

định này, bị cáo là người chưa thành niên còn được áp dụng theo các quy định

khác của BLTTHS, nhưng tất yếu phải không trái với các quy định tại

Chương XXXII. Như vậy để thấy được qua từng thời kỳ thì quy định về thủ

tục tố tụng nói chung và thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người

dưới 18 tuổi ngày càng được Nhà nước ta chú trọng ghi nhận và bảo đảm. Khi

xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi, bên cạnh việc tuân thủ

chặt chẽ các quy định chung của BLTTHS Thẩm phán cần chú ý đến các thủ

tục đặc biệt dành riêng cho người dưới 18 tuổi. Bởi vì chỉ cần vi phạm một

trong những quy định đó thì coi như quá trình xét xử có vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng, rất dễ dẫn đến việc bị Tòa án cấp trên hủy bản án để xét

xử lại. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện BLTTHS cũng còn bộc lộ một số

hạn chế làm cho việc điều tra, truy tố, xét xử nhiều khi không phù hợp với

thực tiễn.

Để đáp ứng được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 08-

NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của

công tác tư pháp trong thời gian tới, trên cơ sở tổng kết việc thực hiện

BLTTHS năm 2003 đến nay thấy có những vướng mắc, hạn chế nổi lên trong

thủ tục xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi nên cần có những bổ sung,

thay đổi những quy định chưa phù hợp với thực tiễn, khắc phục những hạn

chế tồn tại và phát huy những ưu điểm để góp phần vào công cuộc phòng

chống tội phạm có hiệu quả, nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Năm 2013, Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua

tại kỳ họp thứ 6 với những thay đổi quan trọng. Trong đó đáng kể là sự ghi

nhận, tôn trọng của Đảng, Nhà nước ta liên quan đến vấn đề quyền con người,

quyền công dân, trong đó đặc biệt quan tâm đến quyền của người dưới 18

27

tuổi. Theo đó, Tòa án nhân dân tiến hành hoạt động xét xử công khai. Nhưng

trong trường hợp đặc biệt, xuất phát từ việc bảo vệ người chưa thành niên,

Tòa án nhân dân có thể quyết định việc xét xử kín (Điều 103 Hiến pháp năm

2013). []

Tuy vậy, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những

vướng mắc, bất cập đã đặt ra yêu cầu cần sửa đổi, thay thế kịp thời để phù

hợp với sự vận động của xã hội. Đó là lý do Quốc hội khóa XIII đã thông qua

BLTTHS năm 2015. Trong đó đã quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án

hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Chương XXVIII với 18 Điều,

từ Điều 413 đến Điều 430. Trên cơ sở kế thừa những những quy định còn phù

hợp của BLTTHS năm 2003, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập

đặt ra của thực tiễn, BLTTHS năm 2015 đã tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm

quốc tế để vận dụng phù hợp vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

28

Tiểu kết Chương 1

Tại Chương 1, tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm thủ tục xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Phân tích, làm rõ các

nguyên tắc THTT đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Luận giải về tầm quan

trọng, ý nghĩa của việc quy định thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với

bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Bên cạnh đó, tác giả cũng khái quát lịch sử hình thành và phát triển các

quy định của pháp luật về thủ tục xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi,

qua đó chỉ ra các điểm hạn chế cũng như cấp tiến của pháp luật thực định qua

từng thời kỳ. Điều đó có ý nghĩa tạo ra cơ sở khoa học để đề xuất, tìm ra các

giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử đối

với bị cáo là người dưới 18 tuổi ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

29

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời với nhiều sự thay đổi về thủ

tục xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Dựa trên cơ sở kế thừa các

quy định của BLTTHS năm 2003, trong điều kiện phát triển về thể chất, nhận

thức của đối tượng người dưới 18 tuổi hiện nay, các quy định của BLTTHS

hiện hành đã hướng đến gần hơn với nền TTHS thân thiện, tiệm cận hơn với

các Công ước quốc tế về trẻ em, về quyền con người của người bị buộc tội mà

trong đó nhóm dễ bị thương có người dưới 18 tuổi. BLHS và BLTTHS năm

2015 ra đời với nhiều những thay đổi đáng kể trong lập pháp hình sự. Hai bộ

luật thể hiện tính cấp tiến và đồng bộ khi thống nhất dùng thuật ngữ “người

dưới 18 tuổi” thay cho “người chưa thành niên”. Theo đó, khái niệm người

dưới 18 tuổi khoa học và chính xác hơn, tránh những nhận thức sai lầm của

người áp dụng pháp luật.

Cũng như BLTTHS năm 2003, BLTTHS hiện hành dành hẳn một

chương riêng để quy định “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”. Với

tổng cộng 18 Điều (từ Điều 413 đến Điều 430), BLTTHS năm 2015 đã quy

định rất chặt chẽ, cụ thể các thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người

dưới 18 tuổi.

Thứ nhất, cụ thể hơn quy định về xác định tuổi của người bị buộc tội và

bị hại. Người buộc tội và bị hại là hai “gương mặt tương phản” trong quan hệ

TTHS vì lợi ích, quan điểm của họ đối lập nhau. Nhưng xuất phát từ sự công

bằng, bình đẳng trước pháp luật, cả người bị buộc tội đều được bảo vệ quyền

30

của mình [14, tr. 188]. Việc xác định tuổi của họ cũng dựa trên nguyên tắc có

lợi nhưng cũng không làm phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên

kia.

Việc xác định tuổi được BLTTHS năm 2015 quy định rất chi tiết.

Trường hợp biết được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày

cuối cùng của tháng đó là ngày sinh. Còn trong trường hợp xác định được quý

nhưng không biết cụ thể ngày tháng nào thì lấy ngày cuối của tháng cuối cùng

trong quý đó để xác định thời gian sinh. Hay trong trường hợp xác định được

nửa của năm nhưng không biết chính xác ngày, tháng thì lấy ngày cuối của

tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm căn cứ xác định thời gian sinh. Trong

trường hợp xác định được năm nhưng không biết chính xác ngày, tháng thì

lấy ngày cuối của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh (Khoản

2 Điều 417 BLTTHS). Bên cạnh đó, trong mọi trường hợp nếu không xác

định được năm sinh để làm căn cứ xác định tuổi thì phải sử dụng đến phương

pháp khoa học đó là giám định (Khoản 3 Điều 417 BLTTHS). Quy định này

giúp Tòa án xác định đúng tuổi của bị cáo khi không có giấy khai sinh gốc.

Thứ hai, quy định về việc áp dụng biện pháp giám sát đối với người bị

buộc tội. Nhằm đảm bảo việc áp dụng biện pháp giám sát người chưa thành

niên phạm tội có hiệu quả, đúng pháp luật, BLTTHS năm 2015 không những

đã minh bạch, xác định rõ ràng trách nhiệm của người, cơ quan THTT mà còn

làm rõ trách nhiệm của chính người đại diện của người dưới 18 tuổi phạm tội.

Theo đó, người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có các hành vi gây cản trở

hoạt động TTHS như: có dấu hiệu bỏ trốn, bỏ trốn; mua chuộc, cưỡng ép hoặc

xúi giục người tham gia tố tụng khai báo gian dối, cung cấp thông tin sai sự

thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ của vụ án, tẩu tán tài sản; đe dọa, trả thù

người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của

những người này,.... Trách nhiệm của người giám sát là phải kịp thời thông

31

báo và phối hợp với cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh

ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tố tụng (Khoản 2 Điều 418).

Thứ ba, BLTTHS năm 2015 đã quy định rất chặt chẽ việc áp dụng biện

pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Theo đó, Điều 419 BLTTHS năm quy định rất rõ chỉ áp dụng các biện pháp

ngăn chặn, áp giải với người dưới 18 tuổi khi xét thấy cần thiết. Các biện

pháp mang tính nghiêm khắc như tạm giữ, tạm giam chỉ được tính đến sau khi

đã xem xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp khác như cấm đi khỏi nơi cư trú,

giao cho gia đình giám sát nhưng không đủ điều kiện hoặc thiếu tính hiệu quả.

Các quy định này đều hướng đến việc hạn chế tối đa việc áp dụng các biện

pháp mang tính nghiêm khắc, tạo điều kiện thuận lợi cho người dưới 18 tuổi

vừa tham gia TTHS nhưng không mất đi hoặc bị hạn chế quá nhiều các quyền

cơ bản khác.

Thứ tư, về sự tham gia TTHS của người đại diện cho người dưới 18

tuổi, nhà trường, Đoàn thanh niên, tổ chức, cá nhân liên quan nơi người dưới

18 tuổi học tập, công tác. So với BLTTHS năm 2003, Điều 420 BLTTHS

năm 2015 đã chi tiết hóa hơn các quyền khi tham gia tố tụng của người đại

diện, nhà trường, tổ chức của người dưới 18 tuổi. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý

để người đại diện, các cá nhân, tổ chức có những mối quan hệ, hiểu biết về

người dưới 18 tuổi có điều kiện tham gia các hoạt động TTHS, góp phần nâng

cao hiệu quả hoạt động tố tụng, bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích chính đáng

của người dưới 18 tuổi. Đặc biệt, những người này tạo động lực cho người

dưới 18 tuổi có thêm niềm tin khi tham gia các quan hệ TTHS, dễ thích ứng

với các điều kiện pháp lý khác nhau, từ đó cũng tự chủ hơn trong việc thực

hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Thứ năm, về quyền bào chữa: Có thể nói, quyền bào chữa là chìa khóa

quan trọng giúp cho người dưới 18 tuổi tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ

quyền lợi cho bản thân. Nhằm đảm bảo sự cụ thể, chặt chẽ về thủ tục, trình tự

32

bào chữa đối với người dưới 18 tuổi, Điều 422 BLTTHS năm 2015 quy định

khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị buộc tội, người dưới 18 tuổi có

quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho

mình. Mặt khác, người đại diện của người dưới 18 tuổi tự mình bào chữa cho

người dưới 18 tuổi, hoặc có thể lựa chọn người bào chữa cho người dưới 18

tuổi. Như vậy, quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi được thực hiện kể cả

đối với người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Và đặc biệt, ngay cả

khi người dưới 18 tuổi không có người bào chữa, hay người đại diện của họ

cũng không chọn được người bào chữa thì pháp luật TTHS quy định các cơ

quan THTT có thẩm quyền phải chỉ định người bào chữa nhằm bảo đmả

quyền bào chữa cho người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.

Thứ sáu, Điều 423 BLTTHS năm 2015 quy định rất rõ về thủ tục xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó,

BLTTHS đã quy định rõ hơn về thành phần tham gia Hội đồng xét xử để đảm

bảo một phiên tòa thân thiện, phù hợp với người dưới 18 tuổi. Mặt khác, luật

cho phép xử kín nếu cần thiết vì nhu cầu bảo vệ người dưới 18 tuổi. Bên cạnh

đó, các cơ quan THTT phải bảo đảm sự có mặt của các thành phần thân

thuộc, quen biết, am hiểu về người dưới 18 tuổi như gia đình, nhà trường,...

để hỗ trợ, giúp đỡ cho người dưới 18 tuổi phạm tội, nhất là khi họ ở thế bất

lợi tại phiên tòa xét xử. Các thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa cũng thể

hiện sự thân thiện, Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi

được trình bày ý kiến, nguyện vọng liên quan đến các tình tiết có trong vụ án,

các tình tiết khác. Điều này có ý nghĩa quan trọng để bị cáo là người dưới 18

tuổi chủ động các tình huống, nhận thức và tự bảo vệ được quyền lợi của

mình, tham gia phiên tòa một cách thoải mái, tích cực. Thủ tục xét xử sơ thẩm

hình sự đặc biệt dành cho người dưới 18 tuổi còn thể hiện qua việc khi áp

dụng các hình phạt, các biện pháp khác thì Hội đồng xét xử nhất thiết phải ưu

tiên các hình phạt, biện pháp mang tính giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo là

33

người dưới 18 tuổi ăn năn hối cải, tự thân muốn cải tạo, muốn hướng thiện.

Có như vậy thì việc áp dụng hình phạt mới phát huy hiệu lực, mục đích của

hình phạt mới đạt đến được.

BLHS và BLTTHS năm 2015 đã bổ sung, sửa đổi nhiều nội dung liên

quan đến bảo đảm quyền con người, quyền công dân, có nhiều sự quan tâm

đặc biệt dành cho nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội, trong đó có

người dưới 18 tuổi. Những đường lối, chính sách quan trọng của Đảng, Nhà

nước ta về việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng giáo dục họ,

giúp họ nhận ra sai lầm để cải tạo thành công dân có ích cho xã hội đã được

cụ thể hóa vào hai bộ luật này. Có thể thấy, các quy định đều có điểm chung

là hướng đến lợi ích tối ưu nhất dành cho người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên,

trong hai bộ luật vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập, vướng mắc cần phải nhận

diện và khắc phục, sửa đổi kịp thời. Một là, Điều 12 BLHS năm 2015 quy

định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định phải chịu trách nhiệm

hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng là chưa hợp lý. Bên cạnh đó, các thủ tục liên quan khi đại diện của

người dưới 18 tuổi có yêu cầu; hay như trường hợp người đại diện từ chối

tham gia, bất hợp tác; trường hợp người dưới 18 tuổi là trẻ mồ côi không có ai

thân thích cũng là các vấn đề cần được tính đến và cụ thể hóa.

2.2. Thực tiễn thi hành quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2014 – 2019

2.2.1. Tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có bị cáo là người

dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai

đoạn từ 2014 – 2019

Điện Bàn là địa bàn có tình hình chính trị, an ninh, xã hội hết sức phức

tạp. Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội trong những năm gần đây đã

làm thay đổi hoàn toàn diện mạo nhưng cũng đưa đến không ít thách thức cho

34

thị xã Điện Bàn. Trong đó, tội phạm trên địa bàn có xu hướng gia tăng cả về

số lượng cũng như tích chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội là một thách thức

vô cùng lớn. Đặc biệt, đối tượng phạm tội là người dưới 18 tuổi đang có biểu

hiện tăng dần. Điều này thể hiện rõ nét qua các số liệu thống kê sau:

Bảng 2.1. Số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2019

Số bị cáo đã xét xử Năm Tỷ lệ % Số bị cáo là người dưới 18 tuổi

130 2014 10 7,7

98 2015 11 15,3

142 2016 18 11,2

132 2017 14 10,6

172 2018 16 9,3

188 2019 20 10,6

862 Tổng 89 9,3

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án nhân dân thị xã Điện

Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2019).

Nhìn vào bảng số liệu trên, tỉ lệ bị cáo là người dưới 18 tuổi so với tổng

số bị cáo đã xét xử tại địa bàn Điện Bàn giai đoạn 2014-2019 chiếm tỷ lệ

đáng kể (khoảng 9,3%). Số bị cáo là người dưới 18 tuổi bị đưa ra xét xử có sự

biến thiên nhưng có thể thấy xu hướng chính là tăng qua các năm. Đặc biệt,

giai đoạn 2015-2016, 2018-2019 có sự gia tăng rất rõ rệt. Giai đoạn 2015-

2016, 2018-2019 là các thời kỳ “chuyển mình” về kinh tế, xã hội tại Điện

Bàn. Theo đó, quá trình công nghiệp hóa tại địa phương được thúc đẩy, xúc

tiến mạnh mẽ, bên cạnh đó thì các tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy,... trên địa

bàn diễn biến phức tạp.

35

Người dưới 18 tuổi là nhóm đối tượng đang có sự phát triển, thay đổi

nhiều về tâm sinh lý, nhận thức. Hành vi của nhóm người này có sự phân hóa

nhưng vẫn có sự định hình nhất định. Tại địa bàn thị xã Điện Bàn, các tội

phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện có cơ cấu như sau:

Bảng 2.2. Số liệu thống kê cơ cấu tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Năm Hiếp dâm

Trộm cắp tài sản 4 4 3 2 7 5 Cướp tài sản 1 2 3 4 4 4 Cố ý gây thương tích 4 4 12 4 2 7 1 1 0 4 3 4

25 18 33 13 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng số

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án nhân dân thị xã Điện

Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2019).

Như vậy, tội phạm do người dưới 18 tuổi tại thị xã Điện Bàn thực hiện

có tính đa dạng. Ở góc độ xem xét thực tiễn phạm tội của đối tượng này qua

số liệu xét xử của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, do đó vẫn còn các loại tội

phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên. Thực tiễn cho thấy,

tội phạm người chưa thành niên thực hiện ở Điện Bàn phổ biến nhất là “Cố ý

gây thương tích” và “Trộm cắp tài sản” với số lượng bị cáo bị xét xử lần lượt

là 33 và 25 người. Bên cạnh đó, dù có số lượng bị cáo thấp hơn nhưng “Cướp

tài sản” và “Hiếp dâm” cũng là các tội phạm có tính nguy hại lớn, gây nhiều

bức xúc trong dư luận xã hội.

Bảng 2.3. Người dưới 18 tuổi phạm tội tại địa bàn thị xã Điện Bàn,

tỉnh Quảng Nam theo nhóm tuổi

36

Từ đủ 16 tuổi đến dưới Tổng người Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi 18 tuổi Năm dưới 18 tuổi

phạm tội Tổng Tỷ lệ % Tổng Tỷ lệ %

2014 5 5 50 50 10

2015 4 7 63,6 36,4 11

2016 6 12 66,7 33,3 18

2017 4 10 71,4 28,6 14

2018 7 9 56,2 43,8 16

2019 6 14 70 30 20

Tổng 32 57 64 36 89

(Nguồn: Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam)

Có thể thấy, người dưới 18 tuổi phạm tội tại thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam có sự phân hóa rất rõ về cơ cấu tuổi, nhưng phạm vi dao dộng là

từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Trong số đó, độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18

tuổi có xu hướng phạm tội nhiều hơn, chiếm hơn một nửa tổng số người phạm

tội là người dưới 18 tuổi (57/89 người), đạt tỷ lệ lên đến 64%. Lứa tuổi từ đủ

14 đến dưới 16 tuổi chiếm tỷ lệ cũng khá cao trong tổng số người phạm tội là

người dưới 18 tuổi, đạt 36%. Như vậy, ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì

xu hướng phạm tội lại lớn hơn. Ở từng độ tuổi thì người chưa thành niên lại

có sự phát triển về tâm sinh lý, nhận thức. Tuy nhiên, có lẽ độ tuổi từ đủ 16

tuổi đến dưới 18 tuổi thì sự va chạm với xã hội diễn ra nhiều hơn, cùng với đó

là mong muốn thể hiện mình hơn đã làm các chuyển biến về tâm lý, sinh lý

diễn ra mạnh mẽ hơn, dễ phạm tội hơn.

37

2.2.2. Kết quả áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo

là người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng

Nam giai đoạn từ 2014 – 2019

Từ năm 2014 đến năm 2019, mặc dù tình hình trật tự xã hội trên địa

bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhìn chung ổn định, nhưng tình hình tội

phạm lại có xu hướng tăng, trong đó đáng chú ý là đối tượng người dưới 18

tuổi có xu hướng phạm tội phức tạp. Tuy vậy, việc xét xử VAHS có bị cáo là

người dưới 18 tuổi tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã thể hiện

sự nỗ lực từ phía các CQTHTT. Đa phần các vụ án do người dưới 18 tuổi

thực hiện đều được xét xử theo đúng quy định pháp luật. Từ năm 2014 đến

năm 2019, trên toàn địa bàn thị xã Điện Bàn đã thụ lý tổng cộng 83 vụ án có

bị cáo là người dưới 18 tuổi với tổng cộng 102 bị cáo. Trong đó, đã đưa ra xét

xử 76 vụ án (tỷ lệ 91,6%) với 89 bị cáo là người dưới 18 tuổi (chiếm tỷ lệ

87,3 %).

Bảng 2.4. Số liệu án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa

bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ 2014-2019

Năm Số vụ án, bị cáo đã Đã xét xử Tỷ lệ (%)

thụ lý xét xử

Số vụ Bị cáo Số vụ Bị cáo Số vụ Bị cáo

2014 12 12 83,3 83,3 10 10

2015 9 11 100 100 9 11

2016 17 20 88,2 90 15 18

2017 12 14 100 100 12 14

38

12018 15 23 13 86,7 69,6 16

2019 18 22 17 94,4 90,9 20

Tổng 83 102 76 91,6 87,3 89

(Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân thị xã Điện Bàn)

Các Thẩm phán TAND thị xã Điện Bàn đã có kinh nghiệm xét xử nhiều

năm, trong đó các Thẩm phán được phân công xét xử các vụ án có người bị

buộc tội là người dưới 18 tuổi đều đã qua các lớp tập huấn về kỹ năng xét xử

các VAHS có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng. Do đó, họ có đầy đủ kiến

thức cũng như kỹ năng, đảm bảo việc xét xử người dưới 18 tuổi khách quan,

toàn diện.

Về áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, TAND thị xã

Điện Bàn cũng cân nhắc áp dụng các biện pháp phù hợp nhất và tuân thủ chặt

chẽ các quy định của BLTTHS, đặc biệt là hạn chế thấp nhất việc áp dụng

biện pháp tạm giam. Mặt khác, nhận thức về ý nghĩa việc quy định biện pháp

giám sát đối với người dưới 18 tuổi, các Thẩm phán TAND thị xã Điện Bàn

luôn ưu tiên áp dụng biện pháp này nếu đủ điều kiện theo luật định. Cụ thể, từ

năm 2014 đến năm 2019, trong tổng số 120 bị cáo/83 vụ án đã được TAND

thị xã Điện Bàn thụ lý giải quyết, thì chỉ có 15 bị cáo (12%) trong số đó bị áp

dụng biện pháp tạm giam. Việc tạm giam có căn cứ theo đúng Điều 119

BLTTHS, 15 trường hợp này phạm tội có tính nguy hiểm cho xã hội cao,

manh động, và đáng chú ý là các bị cáo có dấu hiệu bỏ trốn hoặc cản trở hoạt

động TTHS. Còn 105 bị cáo được áp dụng các biện pháp khác, trong đó có

đến 92 bị cáo (87,6%) được giám sát tại gia đình [32].

Bên cạnh đó, TAND thị xã Điện Bàn còn đảm bảo 100% người đại

diện, thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản

39

Hồ Chí Minh của người dưới 18 tuổi được mời đến phiên tòa. Đó là cơ sở

quan trọng để bản thân người dưới 18 tuổi yên tâm tham gia phiên tòa, cũng

là để HĐXX có nhìn toàn diện hơn về đời sống vật chất, tinh thần của bị cáo.

Về đường lối xử lý, Tòa án nhân dân Điện Bàn luôn đảm bảo việc giải

quyết các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội theo đúng quy định của

BLHS, BLTTHS. Cụ thể hơn phải hướng đến việc bảo đảm tối ưu lợi ích của

người dưới 18 tuổi, không để các quyền cơ bản chưa bị luật hạn chế hoặc tước

bỏ đối với họ được thực thi đầy đủ, chính xác. Trách nhiệm hình sự đối với

người dưới 18 tuổi chỉ đặt ra khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu chính trị tại địa

phương và yêu cầu phòng, chống tội phạm để giữ gìn trật tự trị an xã hội.

Việc xét xử tuân thủ chặt chẽ các thủ tục do BLTTHS quy định dành riêng

cho người dưới 18 tuổi. Trong đó đặc biệt lưu ý việc áp dụng hình phạt luôn

có sự xem xét, chiếu cố đến nhân thân, đặc điểm tâm sinh lý và các yếu tố

khác sao cho các hình phạt, biện pháp được áp dụng có tác dụng giáo dục

người phạm tội là chủ yếu, hướng người dưới 18 tuổi đến ý thức tự giáo dục,

điều thiện. Điều này thể hiện rất rõ ràng, sinh động qua bảng số liệu sau đây:

Bảng 2.5. Hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2019

Năm Cảnh cáo Phạt tiền Án treo Tù giam

Số bị cáo là người dưới 18 tuổi Cải tạo không giam giữ Miễn TNHS hoặc miễn hình phạt Đưa vào trường giáo dưỡng; giáo dục tại xã, phường

1 4 2014 1 1 1 1 1 10

1 3 2015 2 2 1 0 2 11

2 3 2016 4 2 1 2 4 18

40

2017 2 1 3 2 4 2 0 14

2018 3 2 5 2 2 2 0 16

2019 2 4 3 2 5 4 0 20

89 11 21 14 13 16 11 3 Tổng

(Nguồn: Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn)

Như vậy, có thể thấy biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc giáo

dục tại xã, phường là biện pháp được ưu tiện sử dụng tại thị xã Điện Bàn (21

bị cáo), tiếp đến là biện pháp cải tạo không giam giữ (16 bị cáo). Sở dĩ hai

biện pháp này được áp dụng nhiều như vậy là do tính chất hành vi mà các bị

cáo là người dưới 18 tuổi đã thực hiện. Đáng chú ý, các trường hợp về miễn

TNHS, miễn hình phạt luôn có, thậm chí năm 2019 có đến 4 trường hợp. Mặt

khác, tù giam hầu như không được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi (trừ

năm 2014, 2016). Đặc biệt, biện pháp án treo có xu hướng được áp dụng

nhiều dần qua các năm. Điều này phụ thuộc vào tính chất hành vi, đặc điểm

nhân thân của người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng còn phải kể đến sự mạnh

dạn từ phía người áp dụng pháp luật tại Tòa án thị xã Điện Bàn.

Sự tích cực từ phía CQTHTT thị xã Điện Bàn còn thể hiện qua việc xét

xử kín. Mặc dù không phải bị hại trong vụ án mà là chủ thể thực hiện hành vi

“Hiếp dâm”. Song xét về lứa tuổi, tâm sinh lý, đề nghị từ chính người dưới

18 tuổi, gia đình của họ và phía bị hại, TAND thị xã Điện Bàn đã xét xử kín

01 vụ/03 bị cáo trong vụ án “Hiếp dâm” nói trên. Mục đích xét xử kín là để

đảm bảo tính riêng tư cho các bị cáo là người dưới 18 tuổi, cũng là đảm bảo

lợi ích của chính bị hại trong vụ án.

Quá trình xét xử, nhận thấy Thẩm phán đã có xem xét thấu đáo về điều

kiện, hoàn cảnh sống của người dưới 18 tuổi. Hầu hết các bản án của TAND

41

thị xã Điện Bàn đều phân tích, đánh giá rất rõ về điều kiện sinh hoạt, học tập,

sinh sống của người dưới 18 tuổi. Từ đó chỉ ra được nguyên nhân và điều

kiện phạm tội của người dưới 18 tuổi mà trong đó xã hội có một phần trách

nhiệm. Nghiên cứu thực tiễn xét xử tại TAND thị xã Điện Bàn, tình trạng

người đã thành niên xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn đang tồn tại,

thậm chí là diễn biến phức tạp. Trong tổng số 76 vụ án có người dưới 18 tuổi

phạm tội đã bị xét xử, có đến 30 vụ án (chiếm 39,5%) trong đó có sự xúi giục,

tác động của người đã thành niên [32]. Như vậy, do hạn chế về nhận thức,

người dưới 18 tuổi rất dễ bị người đã thành niên lôi kéo, kích động, xúi giục

thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chính người dưới 18 tuổi cũng

không thể lường hết được sự nguy hiểm đó đến mức nào.

Ngay từ giai đoạn điều tra, quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi đã

được CQTHTT đảm bảo. Trợ giúp viên pháp lý đã phát huy được vai trò của

người bào chữa trong việc ổn định tâm lý của người dưới 18 tuổi khi họ

vướng vào vòng quay TTHS. Không những thế, Trợ giúp viên pháp lý, có

trường hợp là Luật sư bào chữa đã giúp người bị buộc tội là người dưới 18

tuổi nhận thức pháp luật, nhận thức hành vi mình gây ra để từ đó họ tự chủ

động trong việc thực hiện các yêu cầu của pháp luật, CQTHTT và tự bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt, quyền trình bày ý kiến và tự bào

chữa tại phiên tòa đã được HĐXX đảm bảo cho người dưới 18 tuổi thực hiện.

Một số trường hợp Thẩm phán còn giải thích các quyền, nghĩa vụ cho bị cáo

là người dưới 18 tuổi để họ có điều kiện thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó một

cách minh bạch, chính xác.

2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân

2.2.3.1. Những hạn chế

Thực tiễn xét xử tại TAND thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cho thấy,

những vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi thường là những vụ án

42

không phức tạp. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi

được quy định tương đối cụ thể, rõ ràng, thuận tiện cho việc áp dụng. Do đó,

quá trình xét xử các vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội tại thị xã

Điện Bàn không gặp nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, hoạt động áp dụng pháp luật đối với bị cáo là người dưới 18

tuổi, nhất là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã bộc lộ nhiều hạn

chế, vướng mắc. Về yếu tố pháp luật, Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày

12/4/2016 của Tòa án nhân dân tối cao đã quy định về phiên tòa hình sự xét

xử bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đối với các phiên tòa có cả bị cáo

là người dưới 18 tuổi lẫn bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên thì lại chưa có

hướng dẫn cụ thể.

Mặt khác, Hội đồng tư vấn giải quyết các vụ án hình sự có người dưới

18 tuổi phạm tội dường như chỉ là quy định trên mặt giấy tờ. Bởi lẽ quy định

này hầu như chưa được triển khai thực hiện trên thực tế. Điều này xuất phát từ

nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là vì chưa có

quy chế phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã

hội liên quan. Chính vì vậy việc thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng trong

việc xét xử người dưới 18 tuổi chưa được đảm bảo.

Thành phần Hội đồng xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng

là vấn đề còn vướng mắc, hạn chế. BLTTHS năm 2015 quy định trong thành

phần Hội đồng xét xử bắt buộc phải có một Hội thẩm, mà Hội thẩm này hoặc

là giáo viên, hoặc là cán bộ thuộc Đoàn thanh niên. Nhưng cần lưu ý rằng, để

trở thành thành phần Hội đồng xét xử bắt buộc người này phải được Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc giới thiệu và được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu làm

Hội thẩm; song song với đó họ còn phải là người hành nghề giáo viên hoặc

làm công tác Đoàn, là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

43

Trong khi đó, luật không quy định việc tại thời điểm thành lập HĐXX,

Hội thẩm đủ điều kiện nói trên nhưng đến thời điểm xét xử không còn đáp

ứng các điều kiện thì có phải thay đổi thành phần HĐXX hay không. Và nếu

Hội thẩm đó không còn là cán bộ Đoàn hoặc giáo viên thì có xem đó là vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì thành phần HĐXX không đảm bảo theo

quy định hay không. Đó là câu hỏi mà thực tiễn tại thị xã Điện Bàn đã đặt ra.

Có trường hợp người được bầu làm Hội thẩm làm giáo viên hoặc cán bộ Đoàn

nhưng thời gian sau đó họ chuyển nghề hoặc không còn làm công tác Đoàn

nữa. Tuy vậy, họ vẫn là Hội thẩm và họ tham gia thành phần xét xử vụ án

hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ thực trạng đó dẫn đến Hội thẩm

không còn là người am hiểu về tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội, ở

góc độ nào đó điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của người dưới 18 tuổi

phạm tội. Đó là chưa kể đến, một số cán bộ Đoàn có tuổi đời rất trẻ. BLTTHS

không có quy định về độ tuổi nhất định của cán bộ Đoàn. Như vậy, không có

căn cứ nào chắc chắn họ là người am hiểu sâu sắc về người dưới 18 tuổi.

Một vấn đề khó khăn nữa là xác định, đánh giá tâm lý, ý chí chủ quan

của người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc đánh giá hành vi, nhận thức để phân

hóa trách nhiệm hình sự, lượng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là vấn đề

phức tạp. Bởi lẽ, sự phát triển nhận thức, ý thức của mỗi con người không

giống nhau, các biểu hiện ra bên ngoài dựa trên độ tuổi chỉ là hiện tượng chứ

không phải bản chất của người dưới 18 tuổi. Bên cạnh đó, nhân sinh quan, thế

giới quan của người dưới 18 tuổi cũng rất khác nhau. Đó là chưa kể đến các

đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi giai đoạn “dậy thì” có sự dao

động, biến thiên rất lớn, rất khó xác định. Như vậy, công việc khó khăn này

được đặt lên vai người Thẩm phán, Hội thẩm. Điều đó đặt ra yêu cầu là người

Thẩm phán, Hội thẩm phải có sự thấu đáo trong việc nhìn nhận, đánh giá sự

việc phạm tội của người dưới 18 tuổi sao cho khách quan, toàn diện và phải

44

không được định kiến. Có như vậy việc phân hóa trách nhiệm hình sự, quyết

định hình phạt đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi mới chính xác được. Mặt

khác, cũng phải nhìn nhận rằng trong ngành Tòa án và những cơ quan hữu

quan trong việc xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi chưa có điều kiện để tập

huấn chuyên sâu để hiểu về tâm lý của người dưới 18 tuổi.

Việc bảo đảm người đại diện của bị cáo có mặt tại phiên toà xét xử sơ

thẩm đối với bị cáo là dưới 18 tuổi phạm tội cũng còn nhiều bất cập. Theo

quy định tại Điều 136 BLDS năm 2015 thì cha, mẹ là đại diện theo pháp luật

cho con là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, có nhóm

quan điểm cho rằng đại diện gia đình theo quy định của BLTTHS là khái

niệm rộng hơn, đó là bao gồm một trong tất cả những người trong gia đình đã

thành niên như: cha, mẹ, ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị của bị cáo. Tức là

người đã thành niên có huyết thống với bị cáo dưới 18 tuổi thì được coi là đại

diện gia đình. Thực tiễn cho thấy, quan điểm này hiện đang được áp dụng

phổ biến trong quá trình xử lý vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội.

Mặt khác, có ý kiến cho rằng đại diện gia đình của bị cáo dưới 18 tuổi bao

hàm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của người

này. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử tại TAND thị xã Điện Bàn vì đặt lợi ích của

người dưới 18 tuổi phạm tội lên hàng đầu nên đại diện gia đình thường là

người có quan hệ huyết thống (như nhóm quan điểm thứ nhất). Điều này là

hợp lý, bởi lẽ nhiều người dưới 18 tuổi thậm chí sống trong các gia đình

khiếm khuyết hoặc không có người thân thích. Tuy vậy, đây là vấn đề cần

được thống nhất để thuận lợi cho việc xác định đại diện và tạo mọi điều kiện

đảm bảo lợi ích chính đáng của người dưới 18 tuổi.

Trong giai đoạn điều tra, thực tiễn thị xã Điện Bàn cho thấy Cơ quan

điều tra đều chấp nhận những người thân khác ngoài cha mẹ của bị cáo là

người dưới 18 tuổi làm đại diện gia đình. Việc Tòa án đồng thuận với vấn đề

45

này là đi ngược với hướng dẫn từ TAND tối cao []. Tuy nhiên quan điểm của

TAND tối cao được thể hiện dưới dạng giải đáp nghiệp vụ, thực chất các

TAND các cấp đều tham khảo, vận dụng nội dung này sao cho phù hợp với

đặc điểm vụ án, tình hình địa phương. Tuy nhiên hướng dẫn này vẫn chưa

được trật tự hóa lên thành văn bản quy phạm pháp luật để bắt buộc áp dụng.

Do đó, vẫn rất nhiều Tòa án chấp nhận đại diện gia đình là người thân khác

ngoài cha mẹ của bị cáo là người dưới 18 tuổi. Một số Tòa khác lại không

chấp nhận và không mời những người này. Vậy điều đó có ảnh hưởng đến lợi

ích chính đáng của bị cáo không khi khoản 3 Điều 423 BLTTHS năm 2015

quy định rất rõ: “Phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi phải có mặt

người đại diện của bị cáo…”. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 đã có sự thay

thế về thuật ngữ pháp lý, “người đại diện” là cụm từ thay thế cho thuật ngữ

“đại diện gia đình” trước đây. Khái niệm “người đại diện” trong BLTTHS

năm 2015 hẹp hơn khái niệm “đại diện gia đình”, bởi lẽ “người đại diện” chỉ

bao gồm cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật, hoặc người giám hộ của

bị cáo là người dưới 18 tuổi. Như vậy, người đại diện theo ủy quyền của

người đại diện theo pháp luật không có tư cách tham gia TTHS. Sự tham gia

của đại diện gia đình bị cáo là người dưới 18 tuổi là vấn đề quan trọng giúp bị

cáo yên tâm khi xét xử, chủ động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Nghiên cứu Công văn 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của TAND

tối cao có hướng dẫn về việc không phải lúc nào phiên tòa cũng phải có mặt

đại diện gia đình của bị cáo là người dưới 18 tuổi nếu không xác minh được

lý lịch. Tuy nhiên hướng dẫn này đã bỏ sót trường hợp xác định được lý lịch

của bị cáo, nhưng gia đình bị cáo gặp các trở ngại về địa lý nên không thể

giao được giấy triệu tập hoặc liên hệ được. Thực tế tại thị xã Điện Bàn, có vụ

án Cơ quan điều tra bỏ qua thủ tục này vì gia đình của bị cáo là người dưới 18

tuổi ở xa, không thể liên lạc được. Đến giai đoạn xét xử, Tòa án chỉ có thể gửi

46

giấy triệu tập theo đường bưu điện nhưng có trường hợp gia đình bị cáo

không nhận được hoặc nhận được nhưng quá trễ, thậm chí là họ đã di chuyển

đi nơi khác nên giấy triệu tập bị trả về. Chính vì vậy mà có vụ án đến ngày xét

xử không có mặt đại diện gia đình, Thẩm phán Chủ tọa phải hoãn phiên tòa

theo quy định. Điều này không chỉ tạo tâm lý lo lắng cho bị cáo mà còn khiến

bị cáo bị kéo dài thời gian xét xử, ảnh hưởng đến tinh thần, sức khỏe của

người dưới 18 tuổi. Có trường hợp Tòa án vận dụng linh hoạt bằng cách đề

nghị Đoàn thanh niên cử người để tham gia tố tụng với tư cách đại diện cho

gia đình bị cáo là người dưới 18 tuổi để đảm bảo cho việc xét xử. Điều này là

vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy việc xét xử đảm bảo tính nhanh

chóng, kịp thời nhưng thiếu toàn diện, thiếu khách quan và có thể xâm phạm

đến quyền hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Đó là những vấn đề cần được

nghiên cứu và có hướng dẫn áp dụng cho phù hợp, thống nhất.

Về vấn đề đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo là người dưới 18 tuổi

cũng gặp không ít khó khăn. Trong BLTTHS năm 2003 có quy định về việc

Chánh án quyết định cấp giấy chứng nhận bào chữa. Quy định này chưa tính

đến rất nhiều trường hợp người bào chữa tham gia TTHS với vai trò là cộng

tác viên trung tâm trợ giúp pháp lý và vẫn yêu cầu Tòa án cấp lại giấy chứng

nhận bào chữa sau khi đã có giấy chứng nhận bào chữa do Cơ quan điều tra

cấp. Sỡ dĩ có yêu cầu này là họ đã tuân thủ chặt chẽ quy định của BLTTHS

năm 2003. Nhưng Khoản 3 Điều 39 Luật trợ giúp pháp lý lại quy định giấy

chứng nhận của Trợ giúp viên pháp lý (trừ trường hợp bị thu hồi) thì có hiệu

lực trong toàn quá trình tố tụng. Do đó quy định như trên là chưa phù hợp với

thực tiễn và mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật. Đặc biệt là gây khó khăn cho

quá trình bào chữa, tiếp xúc với bị cáo là người dưới 18 tuổi. BLTTHS năm

2015 đã khắc phục vấn đề nói trên. BLTTHS này đã quy định người bào chữa

chỉ cần làm thủ tục đăng ký bào chữa. Điều này đã đơn giản hóa thủ tục xác

47

nhận tư cách tham gia tố tụng của người bào chữa, tạo điều kiện cho người

bào chữa tiếp xúc và thực hiện việc bào chữa cho bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Tuy nhiên, vẫn có trường hợp cấp Giấy chứng nhận người bào chữa theo quy

định của BLTTHS năm 2003, CQTHTT vẫn yêu cầu việc cấp giấy chứng bào

chữa, gây khó khăn cho công tác xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Về việc áp dụng quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự và

án treo: BLHS năm 1999 quy định người chưa thành niên có thể được miễn

trách nhiệm hình sự trong trường hợp người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc

nghiêm trọng, hậu quả không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, hiểu

thế nào là gây hậu quả không lớn thì không có căn cứ xác định. Đặc biệt trong

các cấu thành tội phạm mang tính định tính về hậu quả, thiệt hại thì vấn đề

này càng khó xác định. Hơn nữa, thiệt hại về vật chất còn có cơ sở định

lượng, vậy, các thiệt hại về tinh thần thì dường như không thể xác định cụ thể

được. Chính vì vậy, việc áp dụng các quy định có lợi này trên thực tế cũng ít

khi được cân nhắc áp dụng.

Về vấn đề áp dụng biện pháp án treo, không có ưu tiên nào cho người

dưới 18 tuổi phạm tội là thiếu sót. Có thể thấy, án treo là chế định nhân đạo

tiến bộ của Nhà nước ta. Đó là con đường để những người phạm tội cải tạo

ngay trong thực tiễn xã hội. Điều 65 BLHS năm 2015 và mục 6 Nghị quyết

01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

đã quy định rất chi tiết về án treo và hướng dẫn các biện pháp thi hành. Tuy

nhiên, không có bất kì một điều khoản nào trong đó đề cập đến người 18 tuổi

dù rằng đối tượng này là chủ thể đặc biệt trong quan hệ hình sự, TTHS.

Mặt khác, quy định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan nơi nào để

giám sát, giáo dục trong trường hợp họ được hưởng án treo lại còn những

điểm bất cập. Điều 65 BLHS năm 2015 quy định giao người được hưởng án

treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, công tác hoặc chính quyền địa

48

phương nơi người đó “thường trú” để thực hiện việc giáo dục, giám sát, giúp

đỡ. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 hiện nay dùng thuật ngữ nơi “cư trú” thay vì

“thường trú”. Có thể thấy giữa hai bộ luật đã không có sự phù hợp với nhau.

Theo quy định tại Điều 40 BLDS năm 2015, nơi cư trú là nơi người đó

thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống. Vậy giao người dưới 18 tuổi

cho chính quyền nơi bị cáo có hộ khẩu thường trú hay nơi họ đang sinh sống,

làm việc để giám sát, giáo dục. Đây là vấn đề mà nhiều Thẩm phán còn đang

vướng mắc, cần được giải đáp, hướng dẫn kịp thời. Đó là cơ sở quan trọng để

áp dụng pháp luật chính xác, đảm bảo cải tạo, giáo dục có hiệu quả người

dưới 18 tuổi trong trường hợp cho họ hưởng án treo. Đó là chưa kể đến quy

định tại Điều 41 BLDS năm 2015: “Nơi cư trú của người chưa thành niên là

nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ

có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú

của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống; Người

chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu

được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.” Thực tế ở thị xã Điện Bàn,

không ít trường hợp cha, mẹ người dưới 18 tuổi không sống cùng con là

người dưới 18 tuổi và có nhiều người dưới 18 tuổi có tên trong hộ khẩu gia

đình nhưng không chung sống thường xuyên với cha mẹ. Chính điều đó đã

làm việc áp dụng pháp luật trong các trường hợp này thiếu thống nhất.

2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất, nguyên nhân từ sự hạn chế của pháp luật. Có thể thấy, các

hạn chế về pháp luật quy định thủ tục xét xử sơ thẩm đối với những vụ án mà

bị cáo là người dưới 18 tuổi đã gây khó khăn, cản trở không ít cho người

THTT. Các quy định trong BLTTHS năm 2015 tuy đã có những sửa đổi, bổ

sung mang tính cụ thể hơn, tiến bộ hơn BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, một

số nguyên tắc cơ bản trong đó chưa phản ảnh đầy đủ, chính xác tư tưởng, định

49

hướng về cải cách tư pháp của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi, chưa

tiệm cận với các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kệt hoặc phê

duyệt. Bên cạnh đó, một số nguyên tắc trong BLTTHS còn bất cập, chưa rõ

ràng gây khó khăn, vướng mắc cho việc áp dụng. Bên cạnh đó, quá trình áp

dụng BLTTHS năm 2015 đã cho thấy khó khăn trong việc xem xét áp dụng

các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế, biện pháp tư pháp,… sao cho bảo đảm

lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi. Một số người THTT còn những nhận

thức, đánh giá chưa toàn diện về các thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18

tuổi trong TTHS dẫn đến các hành vi, quyết định tố tụng có lúc có nơi chưa

chính xác, chưa thân thiện với người dưới 18 tuổi.

Thứ hai, nguyên nhân từ người áp dụng. Hiện nay, đội ngũ Thẩm phán

được chú trọng phát triển cả về số lượng, năng lực. Tuy nhiên, vẫn có một số

Thẩm phán chưa đủ năng lực để nhận thức và áp dụng chính xác pháp luật.

Đó là chưa kể đến vẫn có tình trạng định kiến trong áp dụng pháp luật TTHS.

Từ đó gây ảnh hưởng đến đối tượng áp dụng, đặc biệt là đối với người chưa

đủ 18 tuổi thì việc áp dụng sai lầm pháp luật rất có thể ảnh hưởng đến tâm lý,

sức khỏe khiến họ chịu bất lợi trong quá trình tố tụng.

Đối với các vụ án mà người phạm tội là người dưới 18 tuổi thì trình độ

của những người tham gia THTT là vấn đề cần được quan tâm. Trong khi

pháp luật đặt ra các yêu cầu về hiểu biết khi giải quyết vụ án hình sự có người

dưới 18 tuổi tham gia song thực tế các quy định này vẫn chưa được nghiêm

túc thực hiện. Điều này dẫn đến hiệu quả hoạt động TTHS đối với người dưới

18 tuổi chưa đạt được hiệu quả trong việc tạo ra môi trường thân thiện, xem

xét đầy đủ khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Tòa gia đình mặc dù đã

được xây dựng, hoạt động có hiệu quả tại thành phố Hồ Chí Minh song chưa

được nhân rộng do yêu cầu về nhân lực, tài chính chưa đầy đủ.

50

Tiểu kết Chương 2

Xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi bảo

đảm đúng quy định pháp luật là điều không hề đơn giản. Thực tiễn xét xử tại

Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn về cơ bản đã thực hiện đúng đường lối của

Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác thụ lý, giải quyết các

vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội tương đối đầy đủ, toàn diện.

Việc phân hóa trách nhiệm hình sự và phán quyết hình phạt đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội đã có sự xem xét, đánh giá các đặc điểm nhân thân của

người dưới 18 tuổi, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cho xã hội, hoàn

cảnh, điều kiện phạm tội. Đáng kể đến là các biện pháp tác động, hình phạt

đều hướng đến mục đích giáo dục, cải tạo, giúp người dưới 18 tuổi sớm nhận

ra lỗi lầm, cải tạo và trơ thành người có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận bên cạnh những kết quả đạt được nêu

trên, thực tiễn áp xét xử tại thị xã Điện Bàn vẫn còn gặp phải những khó khăn,

tồn tại những hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử vụ án hình sự có

người dưới 18 tuổi phạm tội. Đáng chú ý nhất là công tác phối hợp giữa các

cơ quan chưa đảm bảo, vẫn còn tình trạng áp dụng pháp luật chưa đúng với

quy định pháp luật, có Thẩm phán còn định kiến với người phạm tội,… Các

hạn chế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, tác giả đã phân tích luận

giải vì sao có các tồn tại, hạn chế như vậy. Qua đó tạo tiền đề để đề xuất, kiến

nghị một số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự có người

dưới 18 tuổi phạm tội tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong chương 3

của đề tài.

51

Chương 3. YÊU CẦU GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG THỦ

TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ

NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI

3.1 Yêu cầu bảo đảm thi hành đúng thủ tucjxest xử sơ thẩm vụ án

hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi

3.1.1. Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thái phát triển cao của Nhà nước mà

ở đó, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ pháp luật một cách

nghiêm chỉnh, triệt để. Các đặc trưng cơ bản của pháp chế XHCN là tôn trọng

tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm tính đồng bộ của pháp chế trên

phạm vi toàn quốc; các cơ quan xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật

hoạt động một cách chủ động và có hiệu quả; không tách rời giữa pháp chế với

văn hóa pháp lý. Nhà nước pháp quyền có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc

bảo đảm, bảo vệ và phát triển quyền con người, trong đó có quyền của bị cáo là

người dưới 18 tuổi .

Người dưới 18 tuổi là đối tượng rất được chú trọng bảo vệ quyền ở các

nước trên thế giới. Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bảo đảm quyền của

người dưới 18 tuổi bằng việc ghi nhận các quyền của họ vào trong các văn

bản quy phạm pháp luật, trong đó có BLTTHS. Các quy định liên quan đến

người dưới 18 tuổi ngày càng được mở rộng hơn và tiệm cận với tinh thần về

quyền con người được các nước trên thế giới công nhận. Điều này cho thấy

Việt Nam đã chú trọng hơn về quyền con người, mà đặc biệt là quyền của

thành phần dễ bị tổn thương trong TTHS. Nâng cao chất lượng xét xử sơ

thẩm VAHS có bị cáo là người dưới 18 tuổi là yêu cầu tất yếu của xã hội, là

yêu cầu khách quan của pháp chế XHCN.

3.1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp

Sự vận động không ngừng của thực tiễn xã hội đã kéo theo nhiều đòi hỏi

52

về sự cải cách trong nhiều lĩnh vực, trong đó có tư pháp hình sự. Nhận thức

sâu sắc vấn đề đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số

49-NQ/TW với những yêu cầu cải cách tư pháp của Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay. Trong đó Nghị quyết Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của

Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “đề

cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm

tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo

không giam giữ…” Như vậy, Nghị quyết đã đề ra những yêu cầu cải cách tư

pháp trong việc xây dựng nền tư pháp hướng thiện đối với người phạm tội

nhưng đối với với người dưới 18 tuổi phạm tội thì các yêu cầu đó còn trở nên

bức thiết hơn bao giờ hết.

Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp đề ra trong Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/6/2005, chất lượng công tác điều tra, truy

tố, xét xử các VAHS có bị cáo là người dưới 18 tuổi đã có những chuyển biến

tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, các yêu cầu cải

cách tư pháp còn chưa được thực hiện, bỏ ngõ. Đặc biệt, quyền của người

dưới 18 tuổi vẫn chưa được đảm bảo thực hiện. Điều này đặt ra yêu cầu xây

dựng một nền tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, thân thiện, phù hợp với

người phạm tội dưới 18 tuổi.

3.1.3. Yêu cầu của phòng ngừa tội phạm

Hiện nay, đi liền với sự phát triển về kinh tế, chính trị và xã hội là sự gia

tăng tội phạm về cả số lượng, tính chất. Các loại tội phạm phi truyền thống

phát sinh ngày càng nhiều và có diễn biến vô cùng phức tạp. Điều đó đòi hỏi

hệ thống pháp lý điều chỉnh phải được hoàn thiện, cập nhật liên tục để đủ chặt

và mạnh xử lý cũng như phòng ngừa tội phạm.

Nhưng cũng cần lưu ý rằng, phòng ngừa tội phạm không đơn thuần chỉ

từ góc độ quản lý của nhà cầm quyền mà nó còn phải mở rộng ra ở góc độ của

mỗi cá nhân trong xã hội đó, mỗi tế bào của xã hội có sự phòng ngừa tội

53

phạm đó mới chính là sự phòng ngừa tốt nhất. Tất nhiên, nhiều cá nhân, nhiều

tổ chức cùng tham gia thì sức phòng ngừa càng trở nên mạnh mẽ. Cùng với

đó, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật là điều kiện

tiên quyết để công tác phòng ngừa tội phạm đạt được hiệu quả. Ở phạm vi

nhỏ hơn, chú trọng giáo dục, cải tạo người phạm tội là người dưới 18 tuổi để

giúp họ hướng thiện, trở thành người có ích cũng là yêu cầu quan trọng trong

việc phòng ngừa tội phạm.

3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành đúng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi”.

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và tăng cường

hướng dẫn thống nhất về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội

Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về người dưới 18 tuổi phạm tội

nói riêng cũng như pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của nước ta

nói chung là yêu cầu cấp thiết đối với lập pháp nước ta hiện nay. Có thể nói,

pháp luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành về cơ bản đã cụ thể hóa các

chính sách nhân đạo khi xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Tuy nhiên, vẫn có một số quy định của BLTTHS hiện hành không được thực

thi một cách hiệu quả vì thiếu các hướng dẫn cụ thể. Ở góc độ nghiên cứu

pháp luật tố tụng hình sự về người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả có những

kiến nghị, đề xuất như sau:

Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi:

Thứ nhất, cần phải thu hẹp phạm vi chịu trách nhiệm của người từ đủ

14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong BLHS. Bởi lẽ, nhóm đối tượng này phải chịu

trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng là quá rộng trong khi bản thân họ chưa thể nhận thức đầy

54

đủ, chính xác về pháp luật, kiến thức xã hội, sự nguy hiểm của tội phạm. Đó

là điều chưa hợp lý và cần phải xem xét lại. Mặt khác, người từ đủ 14 đến

dưới 16 tuổi tự mình thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc

biệt nghiêm trọng trên thực tế cũng thuộc các trường hợp hạn hữu. Các đối

tượng này chủ yếu thực hiện các tội phạm xâm phạm sở hữu, sức khỏe người

khác. Phần lớn trong đó người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện tội

phạm do bị đối tượng đã thành niên xúi giục, lôi kéo, cưỡng ép,... Cũng chính

vì vậy việc xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vượt

quá mức “cần thiết” và có phần nghiêm khắc, chưa tạo điều kiện được cho họ

sửa chữa sai lầm. Đó là điều mà các nhà làm luật phải cân nhắc kỹ lưỡng khi

áp trách nhiệm hình sự cho đối tượng này. BLHS cần giới hạn một số tội mà

người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà trên thực tế nhóm này có xu hướng

phạm phải. Cần phải quy định rõ những tội danh cụ thể thuộc một số nhóm tội

phạm mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự như:

nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe; các tội phạm xâm phạm trật tự công

cộng; tội phạm sở hữu… để đảm bảo tính đúng đắn, minh bạch trong quá

trình xử lý.

Thứ hai, cần phải cụ thể hóa hơn về nguyên tắc xử lý đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội. Có thể thấy, Bộ luật hình sự 2015 đã có những sửa đối

bổ sung hợp lý hơn so với BLHS trước đó. Trong đó phải kể đến việc khẳng

định nguyên tắc sau khi đã xem xét toàn diện, đầy đủ về khả năng áp dụng

các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 37 của Công ước về Quyền trẻ

em thì mới tính đến hình phạt mang tính nghiêm khắc đối với người dưới 18

tuổi, nhất là hình phạt tù. Tuy nhiên, khoản 6 Điều 91 BLHS lại quy định

chưa rõ ràng: “Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi

phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18

tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Có thể

55

hiểu như thế nào là “...thời hạn thích hợp ngắn nhất”? Đây là quy định mang

tính nhân đạo nhưng cần phải được hướng dẫn để thống nhất trong việc áp

dụng, tránh sự áp dụng tùy tiện nhưng lại không có căn cứ để xác định việc áp

dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là thích hợp chưa. Do đó, kiến nghị

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn nội dung này để

TAND các cấp thực hiện xét xử, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi

thống nhất, phù hợp với chính sách pháp luật hình sự Việt Nam.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống chế tài áp dụng đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội là yêu cầu của thực tiễn và quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam.

Xuất phát từ chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta, cần quy định các

chế tài áp dụng theo hướng tăng cường áp dụng các biện pháp không hạn chế

hoặc tước tự do. Đồng thời cần nghiên cứu bổ sung các hình phạt dành riêng

cho người dưới 18 tuổi như lao động công ích, tù tại nhà,… sao cho phù hợp

với điều kiện kinh tế, xã hội tại địa phương cũng như đất nước. Đặc biệt, cần

phải lưu ý hoàn thiện các cơ sở pháp lý cụ thể về xử lý chuyển hướng đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội, xử lý bằng con đường khác không phải là hình

sự. Làm được như vậy, lợi ích của người dưới 18 tuổi mới thật sự được đảm

bảo, mục đích cải tạo, phòng ngừa của hình phạt mới thật sự được phát huy.

Thứ tư, cần phải quy định một cách rõ ràng, minh bạch hơn theo hướng

tạo điều kiện cho người đại diện của người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng.

Theo đó, khoản 1 Điều 420 BLTTHS năm 2015 cần mở rộng theo hướng

người đại diện cho người dưới 18 tuổi có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng

theo quyết định của cơ quan THTT và họ cũng phải có quyền yêu cầu tham

gia trong trường hợp cơ quan THTT không quyết định (tất nhiên việc đưa họ

vào diện người đại diện phải được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

quyết định). Bởi lẽ nếu theo quy định hiện hành thì người đại diện của người

dưới 18 tuổi, thầy, cô giáo, nhà trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi

56

người dưới 18 tuổi học tập, công tác chỉ có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ

tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan THTT. Điều này vô hình trung

đã hạn chế khả năng tham gia tố tụng của họ dù họ là đối tượng phù hợp để

hỗ trợ cho người dưới 18 tuổi. Do vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung nội

dung nói trên như sau: “Khi người dưới 18 tuổi có yêu cầu hoặc xét thấy cần

thiết, Tòa án có thể mời người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy giáo, cô

giáo, đại diện của nhà trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới

18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt tham gia phiên tòa”.

Bên cạnh đó, cần tăng cường hướng dẫn triển khai áp dụng các quy

định pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội:

Thứ nhất, BLTTHS nhất thiết phải giải thích thuật ngữ “bị cáo là người

dưới 18 tuổi” để đảm bảo tính thống nhất khi áp dụng các thủ tục đặc biệt

trong việc xét xử đối với người dưới 18 tuổi theo quy định tại Chương

XXVIII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Dưới góc độ nghiên cứu lý luận và

thực tiễn xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi tại Điện Bàn, tác giả mạnh dạn

đưa ra kiến nghị bổ sung nội dung giải thích từ ngữ như sau: “Bị cáo là người

dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã thực hiện tội phạm và

bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử theo quy định của Bộ luật này”.

Thứ hai, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cần tiếp tục phải

hoàn thiện thủ tục nhằm đảo bảo đại diện các cơ quan, tổ chức tham gia trong

các hoạt động giám sát, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và xét xử

tại phiên tòa đối với người dưới 18 tuổi khi có yêu cầu. Đặc biệt, trường hợp

cố tình vắng mặt hoặc từ chối tham gia; trường hợp người dưới 18 tuổi không

có cha mẹ, không có người thân thích, không có nơi cư trú rõ ràng… thì các

vấn đề này nhất thiết cần phải bổ sung hoàn thiện.

Thứ ba, từ thực tiễn thi hành Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-

VKSTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 cho thấy, nhiều

57

quy định của Thông tư chưa phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn cho cơ quan

tham gia bảo vệ quyền cho người dưới 18 tuổi và không tương thích với Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Trẻ em năm 2016. Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 đã quy định một số nội dung liên quan đến thủ tục xét xử

người dưới 18 tuôit nhưng chưa rõ. Do đó, cần hướng dẫn thêm về khái niệm

như thế nào là người có kinh nghiệm hiểu biết cần thiết về người dưới 18 tuổi,

có phải trải qua lớp tập huấn gì không, có cần cấp chứng nhận, chứng chỉ gì

không,…

Mặt khác, để nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có

người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật có

liên quan:

Thứ nhất, cần thiết phải ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể

quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, chính

quyền địa phương trong công tác theo dõi, giám sát, giáo dục người dưới 18

tuổi đang chấp hành án. Bên cạnh đó, cần phải đặc biệt quan tâm, giúp đỡ và

điều chỉnh người người dưới 18 tuổi đang chấp hành các quyết định hành

chính. Trong đó, cần có quy định xác định rõ nhiệm vụ quản lý, theo dõi, giúp

đỡ và giáo dục người dưới 18 tuổi của công an địa phương, tổ dân phố, thôn

và các đoàn thể tại cơ sở,… Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để

các cá nhân, cơ quan, tổ chức tình nguyện nhận trách nhiệm giúp đỡ, giáo dục

đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác.

Cũng cần lưu ý quy định cụ thể hơn về chế độ quản lý đối với các đối

tượng là người dưới 18 tuổi đang thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ,

án treo, những người chấp hành xong hình phạt tù. Giai đoạn đưa người dưới

18 tuổi đã chấp hành xong bản án, quyết định của Tòa án hòa nhập lại cộng

đồng xã hội là công tác quan trọng. Tất cả các việc làm của CQTHTT ở điều

tra, truy tố và xét xử sẽ không có ý nghĩa gì nếu người phạm tội là người dưới

58

18 tuổi chưa nhận ra lỗi lầm và tự nguyện thay đổi. Đặc biệt, khi mang “vết

sẹo” trong nhân thân là án tích, tiền sự thì dư luận, sự xa lánh từ bạn bè, người

thân và xã hội là điều thường thấy. Việc chúng ta cần làm là làm sao để người

dưới 18 tuổi trở về xã hội với sự lương thiện và niềm tin vào cuộc sống. Và

hơn hết, môi trường xã hội có sự nhìn nhận đúng đắn về người dưới 18 tuổi

để giúp đỡ, tạo điều kiện cho họ phát triển bình thường.

Để làm được điều đó, cần phải xác định rõ cơ quan đầu mối, chịu trách

nhiệm chính giữa các cơ quan hữu quan trong giám sát, cải tạo người dưới 18

tuổi phạm tội. Đặc biệt là mối quan hệ tương hỗ giữa Tòa án, trại giam,

trường giáo dưỡng phải phát huy được hiệu quả hoạt động cải tạo người phạm

tội. Một vấn đề nữa, mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và các cơ

quan THTT phải gắn kết hơn nữa, phải trên tinh thần trách nhiệm cao và vì

mục đích chung là bảo vệ pháp chế, bảo vệ người dưới 18 tuổi. Thực tiễn

Điện Bàn có trường hợp áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú với bị cáo là

người dưới 18 tuổi để quản lý, theo dõi nhằm đảm bảo cho hoạt động xet xử

nhưng chính quyền xã nơi bị cáo cư trú lại từ chối hợp tác vì lý do “sợ bị cáo

bỏ trốn”. Điều này đã gây khó khăn cho công tác THTT đối với bị cáo là

người dưới 18 tuổi. Chính vì vậy, TAND Điện Bàn đã ký một số quy chế phối

hợp với chính quyền xã, phường, thị trấn trên địa bàn, đảm bảo cho hoạt động

tố tụng được thông suốt, đúng quy định pháp luật. Qua đó góp phần bảo vệ

quyền lợi của các bị cáo nói chung và bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng.

Đây là giải pháp đặc thù tại Điện Bàn, nếu có điều kiện các TAND khác cũng

nên thực hiện để phục vụ đắc lực cho hoạt động TTHS.

Thứ hai, đối với người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo

dưỡng, nếu trước đó họ có bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian bị giam giữ phải

được trừ vào thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Nội

59

dung này cần phải được quy định để áp dụng thống nhất, đảm bảo quyền và

lợi ích hợp pháp của bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Bên cạnh đó, cần thiết phải tăng cường hướng dẫn thực hiện thủ tục xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi. Căn cứ vào thực trạng,

nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện,

qua đó nâng cao hiệu quả công tác của các CQTHTT trong đó có ngành Tòa

án nói chung và Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn nói riêng trong công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Qua đó, bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực thi công bằng pháp luật, nhưng cũng đảm bảo

quyền lợi chính đáng của đối tượng đặc biệt là người dưới 18 tuổi phạm tội,

thể hiện tính nhan đạo, khoan hồng của pháp luật Việt Nam.

3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ của người làm công tác xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi

Trong những năm qua, các cơ quan THTT Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát và Tòa án đã có nhiều nỗ lực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm nói chung, tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng. Đáng

chú ý, công tác xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội là vấn đề tiềm ẩn nhiều khó khăn, vướng mắc. Do đó, đội ngũ cán bộ làm

công tác xét xử cần có năng lực chuyên môn, khả năng, trình độ nhận thức và

áp dụng pháp luật phải cao. Đối với các vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi

phạm tội thì nhất thiết phải có kinh nghiệm, hiểu biết về người dưới 18 tuổi,

có các kỹ năng cơ bản về việc xét xử đối với đối tượng đặc biệt này.

Áp dụng pháp luật là công tác quan trọng trong hoạt động TTHS, đặc

biệt với cơ quan xét xử thì điều đó càng trở nên quan trọng. Có xét xử đúng

mới có điều kiện phát huy tính giáo dục, cải tạo của biện pháp tác động, giúp

người phạm tội là người dưới 18 tuổi tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của

mình sao cho phù hợp với yêu cầu của xã hội và trở thành người có ích cho xã

60

hộik hay chí ít là người vô hại cho xã hội. Xét xử đúng còn có tác dụng nâng

cao tính phòng ngừa, đảm bảo các đối tượng khác hiểu được và chấp hành

nghiêm chỉnh pháp luật. Nhìn ở góc độ nào đó, ở Việt Nam có lúc có nơi còn

vì phòng ngừa chung mà nhằm vào cái riêng. Đó là hiện tượng Thẩm phán vì

để nâng cao tính phòng ngừa xã hội mà phán xử một hình phạt nghiêm khắc

có phần hơi quá so với hành vi. Mặc dù BLHS luôn tạo ra những độ rộng

trong khung hình phạt áp dụng, nhưng thiết nghĩ Thẩm phán chỉ nên áp dụng

hình phạt ở mức vừa và đủ. Có như vậy, bản án được tuyên mới thấu tình đạt

lý và phát huy hết hiệu lực của nó.

Thời gian tới, ngành Tòa án cần làm tốt các chức năng nhiệm vụ xét xử

đối với những vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội, đó là:

Tòa án nhân dân tối cao có thể tổ chức các hội nghị, hội thảo liên quan

đến việc giải quyết vụ án hình sự có bị cáo là người người dưới 18 tuổi, đặc

biệt là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Trong đó các vấn đề về thủ tục tố tụng,

áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp tư pháp, quyết định hình phạt, các

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ,.. là các yếu tố cần được xem xét, cân nhắc kỹ

lưỡng. Một vấn đề cần lưu ý nữa là, hình phạt tù có thời hạn đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội được Tòa án áp dụng khi các hình phạt khác đã được

tính đến. Đặc biệt, việc có hay không áp dụng án treo cần phải được xem xét

để ưu tiên áp dụng nếu bảo đảm các điều kiện luật định. Việc áp dụng các

hình phạt, biện pháp tư pháp đúng đắn sẽ giúp người phạm tội là người dưới

18 tuổi có điều kiện, cơ hội cải tạo, trở về với đời sống xã hội. Ngược lại, nếu

việc áp dụng thiếu khách quan, chính xác thì toàn bộ các hoạt động của Nhà

nước từ điều tra, truy tố, xét xử, thậm chí đến cả khi thi hành án đều trở nên

vô nghĩa.

Thời gian qua, thực trạng án phạt tù được áp dụng đối với người dưới

18 tuổi là quá nhiều, điều đó đang cho thấy Tòa án đang có thiên hướng “quá

61

an toàn” khi áp dụng hình phạt. Trong khi đó, các biện pháp tư pháp như giáo

dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng lại ít được Tòa án

áp dụng. Điều này phần nào phản ánh thực trạng áp dụng pháp luật chưa triệt

để, chưa bảo đảm lợi ích tối ưu của người dưới 18 tuổi. Mặt khác, việc xử lý

người phạm tội là người dưới 18 tuổi là trong trường hợp cần thiết, các cơ

quan THTT, nhất là Tòa án cần đi sâu tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện

phát sinh tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ở địa bàn mình quản lý.

Để từ đó có các biện pháp phòng ngừa căn nguyên, đó mới là giải pháp hữu

hiệu để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dưới 18 tuổi.

Cùng với đó, nâng cao năng lực, chất lượng của người THTT có người

dưới 18 tuổi là bị cáo nhất thiết phải được quan tâm hơn nữa. Trong khi đó,

pháp luật yêu cầu sự am hiểu về người dưới 18 tuổi, thì bản thân những người

có thẩm quyền THTT phải tự mình tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu về tâm

lý, khoa học giáo dục liên quan đến người dưới 18 tuổi để hình thành các kiến

thức, kỹ năng cần thiết cho hoạt động TTHS. Tòa án nhân dân tối cao cần tổ

chức các lớp tập huấn chuyên sâu và mời các cán bộ giảng dạy chuyên ngành

tâm lý, khoa học giáo dục người dưới 18 tuổi để các cán bộ của mình có thêm

điều kiện tiếp cận, nâng cao hiểu biết về người dưới 18 tuổi.

Không chỉ vậy, bên cạnh việc xét xử đúng, Tòa án còn phải kiểm tra,

theo dõi việc thực hiện giám sát, giáo dục của địa phương, gia đình, nhà

trường. Một mặt là kiểm tra các quyết định của Tòa án với người dưới 18 tuổi

đã được thực hiện đúng, đầy đủ hay chưa. Mặt khác kịp thời phát hiện các sai

sót trong quản lý, thậm chí là vi phạm quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi

để có các kiến nghị, biện pháp phù hợp, thể hiện hết tinh thần trách nhiệm, sự

quan tâm của Tòa án với người dưới 18 tuổi.

3.2.3. Cần nhanh chóng xây dựng Tòa gia đình và người chưa

thành niên trong hệ thống Tòa án nhân dân các cấp

62

Có thể nói, Tòa gia đình và người dưới 18 tuổi được hình thành trong tổ

chức bộ máy của TAND trong giai đoạn hiện nay là bước ngoặt cải cách tư

pháp ở Việt Nam. Điều đó không chỉ thể hiện sự nhân văn, tiến bộ trong tư

duy lập pháp mà nó còn là cơ sở quan trọng để áp dụng rộng rãi loại hình này

trên phạm vi toàn quốc. Đảm bảo quyền, lợi ích của người dưới 18 tuổi, để họ

có thêm điều kiện thay đổi và điều chỉnh hành vi của mình. Tòa gia đình như

là minh chứng cho chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà bảo

vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội

nói riêng. Mặt khác, Tòa gia đình cũng là sự hiện thực hóa nguyên tắc về việc

xét xử kín đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Khoản 3

Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

Theo Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21/1/2016 của Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức Tòa gia đình và người

chưa thành niên. Mặc dù vậy, tại Việt Nam, Tòa gia đình và người chưa thành

niên chỉ bước đầu được tổ chức tại các Tòa án cấp cao và một tòa gia đình và

người chưa thành niên duy nhất tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Từng đó là chưa đủ để đảm bảo quyền lợi của tất cả người dưới 18 tuổi phạm

tội, vì lẽ con người luôn phải công bằng trước pháp luật. Cố nhiên do điều

kiện kinh tế, xã hội nên mới có sự hạn chế. Tác gải nhận thấy, Tòa gia đình là

mô hình tư pháp lý tưởng trên nhiều phương diện, là thiết chế hữu hiệu bảo vệ

cho người dưới 18 tuổi tại Việt Nam. Chính vì vậy, không có lý do gì chúng

ta lại không tổ chức mô hình này trên phạm vi cả nước.

Cần phải thấy rằng, thành lập Tòa án gia đình và người dưới 18 tuổi sẽ

có những điểm ưu việt sau đây:

Một là, đòi hỏi công tác xây dựng đội ngũ chuyên trách, trong đó có

Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư bảo vệ cho trẻ em, những

người có hiểu biết, chuyên môn về tâm lý, đặc điểm người dưới 18 tuổi vi

63

phạm pháp luật và các thủ tục pháp lý cần áp dụng khi xử lý các vi phạm do

người dưới 18 tuổi thực hiện.

Hai là, các cơ quan chức năng chuyên trách về người dưới 18 tuổi sẽ có

kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để đưa ra các lựa chọn xử lý theo hướng

phù hợp nhất đối với người dưới 18 tuổi.

Ba là, tạo cơ sở quan trọng để người dưới 18 tuổi chủ động bảo vệ

quyền, lợi ích chính đáng của mình.

Để mô hình nói trên hoạt động hiệu quả, cần phải nghiên cứu, xây dựng

văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của

Tòa gia đình và người dưới 18 tuổi trong việc xét xử các vụ án hình sự có

người dưới 18 tuổi phạm tội.

3.2.4. Các giải pháp khác

Công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật là

trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong việc phát hiện các vi

phạm của người dưới 18 tuổi thì càng cần có sự phối hợp giữa các cơ quan

chức năng, tổ chức xã hội và công dân. Do đó, việc xây dựng các quy chế

phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án

hình sự,… và các cơ quan hữu quan là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Hoạt động

của người dưới 18 tuổi rất đa dạng và ở nhiều không gian, thời gian. Vì vậy,

để có sự theo dõi, điều chỉnh các hành vi xử xử của người dưới 18 tuổi đòi hỏi

các cơ quan, cá nhân liên quan phải có sự thống nhất, phối hợp hoạt động.

Trong đó, hoạt động tố giác, tin báo về tội phạm là hoạt động quan trọng cần

thiết phải có sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan để từ dó phát hiện, ngăn

chặn, xử lý các vi phạm pháp luật, tội phạm mà người dưới 18 tuổi có thể

thực hiện từ xa, từ sớm.

64

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cho

người dân nói chung và người dưới 18 tuổi nói riêng cần được chú trọng thực

hiện. Theo đó, các hoạt động như tuyên truyền, nói chuyện pháp luật cần

được mở rộng tại môi trường học tập. Để từ đó, đa số người dưới 18 tuổi có

điều kiện được tiếp xúc với các kiến thức, kỹ năng pháp luật, thậm chí là hình

thành văn hóa pháp lý. Sự trang bị các kiến thức pháp luật còn giúp cho người

dưới 18 tuổi nhận diện được các đối tượng lôi kéo, dụ dỗ họ vào con đường

phạm tội, tránh xa các tệ nạn xã hội có thể khiến con người phạm tội. Mặt

khác, các kỹ năng pháp lý phần nào giúp người dưới 18 tuổi chủ động hơn

trong các tình huống pháp lý đơn thuần, cũng có thể là các sự kiện pháp lý

trong TTHS. Đó là tiền đề để họ có thể chủ động bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của mình trong các quan hệ pháp luật nói chung và trong quan hệ pháp

luật hình sự, TTHS nói riêng.

65

Tiểu kết Chương 3

Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã có những quy định riêng về thủ tục tố

tụng đối với những vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, nhưng

thực tiễn áp dụng vẫn còn có nhiều sai sót cần khắc phục. Qua đó, chúng ta

cần phải tập trung nghiên cứu và hoàn thiện hơn các quy định về trình tự, thủ

tục tố tụng trong xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi, các

quy định về người tham gia tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố

tụng... ngoài việc nghiên cứu các quy định của pháp luật để áp dụng chính xác

trong công tác xét xử, ngành Tòa án cần tổ chức hội nghị chuyên đề hướng

dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử các vụ án có bị cáo là

người dưới 18 tuổi, Tòa án cần phối hợp với Cơ quan điều tra và Viện kiểm

sát trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Tùy theo tính chất và mức

độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà có hình thức xử phạt nghiêm minh

theo đúng pháp luật, răn đe, giáo dục đối với tội phạm do người dưới 18

tuổi thực hiện. Cùng với việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Tòa

án phải phát hiện thiếu sót hoặc những hành vi vi phạm khác trong quản lý

người dưới 18 tuồi của gia đình, nhà trường và xã hội... là nguyên nhân, điều

kiện phát sinh tội phạm, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng ngừa và

chống tội phạm.

66

KẾT LUẬN

Người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt được các ngành nghiên cứu

pháp lý, các chuyên gia và nhà thực tiễn pháp luật trên thế giới quan tâm.

Trong TTHS, người dưới 18 tuổi là đối tượng dễ bị xâm phạm quyền và lợi

ích hợp pháp. Bản thân người dưới 18 tuổi có các đặc điểm riêng về tâm sinh

lý, nhận thức còn hạn chế. Do đó, người dưới 18 tuổi không thể tự mình ý

thức và chủ động bảo vệ các quyền lợi chính đáng của bản thân được. Do đó,

đề tài của tác giả là để làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về người dưới 18

tuổi phạm tội, các quy định pháp luật hiện hành về xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Các quy định pháp luật hính sự về người dưới 18 tuổi vẫn còn những

hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến hoạt động của CQTHTT và lợi ích của

người dưới 18 tuổi. Từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, tác giả đã

đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật cũng như xét xử sơ thẩm vụ án có

người dưới 18 tuổi phạm tội. Qua đó cho thấy các yêu cầu từ lập pháp, yêu

cầu của thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải có các giải pháp hoàn thiện pháp luật

về người dưới 18 tuổi phạm tội, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ THTT,

tăng cường hoạt động phối hợp cũng như tuyên truyền, giáo dục pháp luật,

thành lập Tòa gia đình và người dưới 18 tuổi. Có như vậy, chúng ta mới nâng

cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm

tội, qua đó tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhưng đồng thời cũng thể

hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, bảo đảm quyền

con người của người dưới 18 tuổi. Nhưng điều cần lưu ý nhất là, chúng ta làm

tất cả các quy trình từ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án thì cuối cùng

cũng phải giúp đỡ, cải tạo người phạm tội là người dưới 18 tuổi và phát huy

67

tính phòng ngừa chung đối với tội phạm. Con người xây dựng nên pháp luật,

pháp luật được sinh ra để quản lý xã hội nhưng việc áp dụng nó cuối cùng

cũng là vì con người.

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Kết luận số 79-KL/TW về Đề

án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan Điều

tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam

(2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.

3. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam

(2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020.

4. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam

(2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020. 6. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển

Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

5. Chính phủ (2000), Nghị định 62/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 quy

định về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, Hà Nội.

6. Chính phủ (2000), Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000

quy định về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, Hà Nội.

7. Đặng Thanh Sơn (2008), Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa

thành niên, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 20), tr. 6-15.

8. Đinh Văn Quế (1998), Về hình thức và thủ tục xét xử của phiên tòa

hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 3), tr. 37-40.

9. Đinh Xuân Nam (2008), Thực trạng và giải pháp phòng, chống vi

phạm pháp luật của người chưa thành niên, tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số

20), tr.15-16.

69

10. Đỗ Xuân Hồng (2014), Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành

niên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội. 72

11. Hoàng Thị Minh Sơn (2014), Hoàn thiện các quy định của pháp

luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả bào chữa đối với người chưa

thành niên, Tạp chí Khoa học kiểm sát-Trường Đại học kiểm sát, (số 01), tr.

33.

12. Hội đồng thẩm phán-TANDTC (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-

HĐTP ngày 05-11-2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ

ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

13. Hội đồng thầm phán-TANDTC (2005), Nghị quyết số 05/2005/NQ-

HĐTP ngày 08-12-2005 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ

tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự.

14. Larin A.M (1996), “Bảo vệ quyền con người và công dân trong

TTHS”, Matxcơva.

15. Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), Tư pháp hình sự đối với người

chưa thành niên – Những khía cạnh pháp lý hình sự, Tố tụng hình sự, Tội

phạm học và so sánh luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 27), tr.32 – 40. 71

16. Lê Duẩn (1976), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm

quyền làm chủ của nhân dân, Nxb sự thật, Hà Nội.

17. Lê Thị Nga (2007), Hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự đối với

người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 24), tr. 44-

45.

18. Lê Vũ Huy (2010), Đảm bảo quyền con người của người chưa

thành niên phạm tội bằng các quy định về hình phạt trong luật hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ luật học.

19. Lương Duy (1993), Những vi phạm tố tụng đối với người chưa

thành niên phạm tội, Đặc san pháp luật.

20. Nguyễn Hữu Kỳ (2014), Miễn, giảm trách nhiệm hình sự đối với

70

người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học Viện Khoa

học Xã hội.

21. Nguyễn Hữu Quỳnh (Chủ biên) (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ

điển bách khoa.

22. Nguyễn Thu Huyền (2006), Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo

là người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ

luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

23. Nguyễn Văn Cảnh (2009), Bàn về hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên

phạm tội, Kỷ yếu tọa đàm “Bảo vệ người chưa thành niên dưới góc độ luật

hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam,Trung tâm nhân quyền-Khoa luật

hình sự- trường Đại học Luật Hà Nội.

24. Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền Hiến định về xã hội của công

dân Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

25. Nguyễn Văn Hoàn (2008), Tái hòa nhập cộng đồng đối với người

chưa thành niên vi phạm pháp luật, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 20),

tr.39.

26. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

27. Quốc hội (2009), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ

sung 2009.

28. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm

2013.

29. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.

30. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 2015.

31. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

32. Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn (2019), Báo cáo thống kê về thụ

lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên từ

năm 2010 đến năm 2019, Quảng Nam.

71

33. Trần Hưng Bình (2013), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến

sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.

34. Trần Văn Dũng (2000), Quyết định hình phạt trong trường hợp

người chưa thành niên phạm nhiều tội, Tạp chí Luật học, (số 5), tr. 14-16.

35. Trung tâm từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

36. Trường Đại học Luật Hà nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình

sự, NXB. Tư pháp, Hà nội.

37. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao – Bộ

Công an – Bộ Tư pháp – Bộ lao động thương binh và xã hội (2011), Thông tư

liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về việc

hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS năm 2003 đối với người

tham gia tố tụng là người chưa thành niên, Hà Nội.

38. VKSNDTC (2012), Báo cáo tổng kết thực tiễn 08 năm thi hành Bộ

luật TTHS năm 2003 và đề xuất sửa đổi, bổ sung.

39. Võ Khánh Vinh (2002), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần

chung. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

40. Võ Khánh Vinh chủ biên (2004), Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

41. Vụ pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao (2016),

Việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên trong hệ thống tòa án

nhân dân hiện nay, Hội nghị sơ kết 06 tháng hoạt động của Tòa gia đình và

người chưa thanh niên - Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.