VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH NHƯ TRƯỚC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ
LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02 Ngành : Quản lý kinh tế
Mã số : 8 34 04 10
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐÀO THỊ ÁI THI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HOÀNG DƯƠNG VIỆT ANH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, lãnh
đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng
Ngãi” là kết quả của quá trình nghiên cứu và khảo sát, đánh giá việc thực hiện
chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Cùng với sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS. Đào Thị Ái Thi. Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn Thạc sĩ Chính sách công về đề tài này là hoàn toàn trung thực, khách
quan và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Đinh Như Trước
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ ……………………………………………. .…………….7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã là người dân tộc thiểu số ........................................................................................7
1.2. Các tiêu chí để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã là người dân tộc thiểu số ................................................................................14
1.3. Các hoạt động thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã là người dân tộc thiểu số ................................................................................22
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ...................................................29
CHƯƠNG 2: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI . Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác
định.
2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, xã hội vùng dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây
…………………………………………………………………………………….L
ỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác
định.
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, QUẢNG NGÃI HIỆN NAY …………………………………………………………………………………….60
3.1. Thực hiện chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã là người dân tộc thiểu số ................................................................................60
3.2. Đổi mới việc thực hiện chính sách công tác đề bạt, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người uy tín .....................................64
3.3. Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là
người dân tộc thiểu số ...............................................................................................65
3.4. Đổi mới cách thức thực hiện chính sách khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức
…………………………………………………………………………………….67
3.5. Tăng cường thực hiện chính sách kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện
công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số .......................68
3.6. Thực hiện đúng đắn chế độ chính sách ưu đãi đối với cán bộ cấp xã người dân
tộc thiểu số ................................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu Tên bảng Trang
Số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc 2.1
36
thiểu số theo vị trí công tác từ năm 2015 - 2018
Số lượng và cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người
2.2
37
dân tộc thiểu số theo giới tính năm 2018
Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
2.3
38
thiểu số phân theo độ tuổi năm 2018
Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
2.4
39
thiểu số theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ năm 2018
Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân
2.5 tộc thiểu số đạt chuẩn theo trình độ lý luận chính trị,
40
quản lý Nhà nước, tin học từ năm 2015 - 2018
Kết quả đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
2.6
42
người dân tộc thiểu số từ năm 2015 - 2018
Thực hiện chính sách phát triển của Nhân dân về uy tín
trong công tác và năng lực tổ chức quản lý công việc của 2.7
43
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số
Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
2.8
45
là người dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2018
Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên về sự phù hợp
2.9 giữa trình độ, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
48
là người dân tộc thiểu số đối với các vị trí đang đảm nhận
Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số về
phẩm chất, đạo đức, lối sống; tiến độ và kết quả thực hiện 2.10
49
công việc được giao; thái độ phục vụ Nhân dân; ý thức tự
rèn luyện bồi dưỡng bản thân
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2013 và Luật tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015, xác định chính quyền cấp xã có chức năng
bảo đảm việc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Những quyết định của Nhà nước và chính quyền các cấp khi ban
hành, triển khai thực hiện phải đảm bảo phát huy mọi khả năng và tiềm năng của
địa phương trên các phương diện như chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh,
quốc phòng, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân và
làm tròn nghĩa vụ của địa phương với Nhà nước.
Nhiệm vụ chính quyền cấp xã được Luật tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 quy định. Sự vững mạnh của chính quyền cấp xã là nền tảng cho sự vững
mạnh của hệ thống chính quyền trong cả nước và ngược lại. Mục tiêu của công
nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, có cơ
sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ Thực hiện chính sách phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống
vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có một vai trò rất quan trọng, là lực
lượng nòng cốt để điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức chính quyền cấp xã ở
vùng cao, miền núi, nơi có đông người dân tộc thiểu số đang sinh sống. Vì thế, cán
bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số là nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết
định sự thành bại của cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Hồ Chí Minh từng khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Xuất phát từ quá
trình đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có ý
nghĩa quan trọng tới sự phát triển bền vững của huyện Sơn Tây nói riêng.
1
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng thấm nhuần và quan
tâm, chăm lo công tác cán bộ, Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có
phẩm chất, năng lực nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới nói riêng. Nghị
quyết Trung ương 3 Khóa VIII về chiến lược cán bộ nêu rõ “Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác thực hiện
chính sách phát triển Đảng”.
Những năm qua huyện Sơn Tây đã được chú trọng thực hiện chính sách phát
triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, tạo ra sự
chuyển biến nhất định, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện nhà phát triển.
Tuy nhiên, công tác cán bộ nói chung và việc Thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây nói
riêng vẫn còn nhiều hạn chế.
Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIX khẳng định:
tiếp tục Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, đặc biệt Thực hiện chính
sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số trẻ, có
năng lực trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện thắng
lợi các mục tiêu nhiệm kỳ 2015 - 2020 và những năm tiếp theo trở thành nhiệm vụ
cấp thiết; Đại hội Đảng bộ huyện Sơn Tây lần thứ XII, nhiệm kỳ 2015 – 2020 lại
tiếp tục khẳng định điều này. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn đề tài “Thực hiện
chính sách Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi” để làm Luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu luận văn
Quan điểm nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, của Đảng về vai trò, vị trí người cán bộ cách mạng, yêu cầu đào tạo, thực
hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số, tìm hiểu những bài học kinh nghiệm về việc thực hiện chính sách phát
triển nhân tài của dân tộc. Từ đó xác định các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh
2
đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Luận văn có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả như:
Nguyễn Thị Tuyết Mai (2007), với đề tài nghiên cứu khoa học “Nâng cao năng lực
tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng)”; Nguyễn
Minh Đường (2013), với đề tài “Đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh mới”; Trần Duy Hưng với đề tài “Đào
tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã và việc sử dụng sau đào tạo nguồn tại Thành
phố Hồ Chí Minh”.
Luận văn có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu để đưa ra những tiêu
chuẩn để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là
người dân tộc thiểu số phù hợp với xu thế phát triển nói chung và phù hợp với điều
kiện, đặc trưng của huyện Sơn Tây.
Công tác thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã là người dân tộc thiểu số nói chung, cũng như sự vận dụng lý luận vào tình
hình thực tiễn đều là những công trình, sản phẩm có giá trị, có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn, là cơ sở để kế thừa cho việc nghiên cứu sau này. Tuy nhiên, trong
xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thì vấn đề thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số vẫn hết sức cấp thiết. Hiện
nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề thực hiện chính sách phát
triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây,
tỉnh Quảng Ngãi. Việc chọn nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa trong lý luận, thực
tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị cấp xã tại
huyện Sơn Tây hiện tại và về sau.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn để làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng thực hiện
chính sách phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số, nhằm đề xuất một những giải pháp thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
3
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh
Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Khảo sát, phân tích việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tìm ra những ưu điểm,
những nguyên nhân hạn chế làm kìm hãm việc thực hiện chính sách phát triển cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng
Ngãi ở mức độ thấp nhất.
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Phạm vi đối tượng: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển chức vụ,
chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số (gồm các chức vụ
và các chức danh được quy định tại điểm a, b, c khoản 1, Điều 3 của Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 và được sửa đổi, bổ sung năm 2013; luận văn không
nghiên cứu chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, vì chức danh này do đồng chí
Bí thư hoặc Phó Bí thư kiêm nhiệm)
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến tháng 12 năm 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Đề tài áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng để tiếp cận
và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số.
4
5.2. Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp thống kê: Số liệu thống kê thu thập được phân loại theo nhóm
nội dung; số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.
Phương pháp so sánh: Thực hiện phương pháp so sánh để thu thập thông tin
về điều kiện cần và đủ về vấn đề thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số.
Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích nội dung tài liệu để thu thập, thống kê,
so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, nhằm làm rõ nội dung cơ
bản của đề tài luận văn, bảo đảm tính khoa học và logic giữa các vấn đề được nêu ra.
Ngoài ra luận văn cũng kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan
đến nội dung đề tài nhằm làm rõ những vấn đề chính của luận văn.
6. Những đóng góp về khoa học, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần khái quát và làm rõ thêm cơ sở lý luận
về thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, đồng thời tìm ra những bất cập, hạn
chế, những yếu tố ảnh hưởng đến sự việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh
Quảng Ngãi, những vấn đề đang đặt ra và những quan điểm, giải pháp bảo đảm để
thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân
tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây trong hình hiện nay.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung lý luận về việc thực hiện chính sách
phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, góp
phần đẩy mạnh cải cách nền hành chính Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong
tổng kết thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây nói riêng.
5
7. Kết cấu luận văn
Phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, luận văn còn có:
Chương 1: Cở sở lý luận về việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh
Quảng Ngãi.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ
Cán bộ là một khái niệm được phổ biến nhiều quốc gia trên thế giới để chỉ
những người được bầu, bổ nhiệm trong cơ quan Đảng và Nhà nước, do tính chất đặc
thù của mỗi quốc gia, khái niệm cán bộ của các nước không đồng nhất. Một số nước
khác có quan niệm rộng hơn, cán bộ không chỉ bao gồm những người thực hiện trực
tiếp các hoạt động quản lý Nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc
trong các cơ quan có tính chất công cộng.
Tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 158/2007/NĐ-CP quy định danh mục các vị
trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi với cán bộ, công chức, viên chức như
sau: “Cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý” là người được
bầu cử hoặc được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm và giữ chức vụ có thời hạn trong cơ
quan Đảng, Nhà nước và được hưởng phụ cấp lãnh đạo. Cán bộ là những người
điều hành quyền lực Nhà nước, được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự
điều chỉnh của Hiến Pháp, Luật cán bộ, công chức năm 2008 được sửa đổi, bổ sung
năm 2013.
1.1.1.2. Khái niệm lãnh đạo
Lãnh đạo là quá trình hoạt động của người mang tính định hướng, gây ảnh
hưởng, tạo dựng niềm tin, thuyết phục người khác để họ đồng thuận trong việc thực
hiện đường lối, chủ trương hướng tới mục tiêu cụ thể nào đó. Người lãnh đạo có cái
nhìn tổng quát hơn, hướng đến mục tiêu dài hạn, chú trọng vào các vấn đề trao đổi,
giao tiếp, thúc đẩy, tạo động lực và thu hút nguồn nhân lực thực hiện mục tiêu đã
định hướng.
7
1.1.1.3. Khái niệm quản lý
Quản lý là việc thực hiện các chức năng, quy trình, quy định trong khuôn
khổ các thể chế được xác định như kế hoạch hóa, tổ chức, điều phối, kiểm soát các
hoạt động để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Người quản lý làm cho nhân viên
phải phục tùng, tuân thủ do thẩm quyền từ vị trí của họ có được.
1.1.1.4. Khái niệm người dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số ( có
số ít hơn với dân tộc Kinh) trên phạm vi lãnh thổ nước Việt Nam, được quy định Tại
khoản 2 Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.
1.1.1.5. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số, là những người dân
tộc ít người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội được quy định Tại Điều 4, Khoản 3 Luật cán bộ, cán bộ năm 2008.
Cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã theo Điểm a; b; c, Khoản 2, Điều 61
của Luật cán bộ, công chức 2008, quy định các chức danh sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân;
Như vậy, người dân tộc thiểu số làm việc Nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh
tại Khoản 3 Điều 4 và Điểm a; b; c Khoản 2 Điều 61 của Luật cán bộ, công chức năm
2008, là cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số.
1.1.2. Đặc điểm dân tộc thiểu số, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân
tộc thiểu số
1.1.2.1. Đặc điểm dân tộc thiểu số
Người dân tộc thiểu số là những tộc người luôn đoàn kết gắn bó mật thiết với
nhau theo dòng tộc, sống theo làng, bản, họ có tiếng nói và phong tục tập quán riêng
biệt, sống chủ yếu bằng nghề lao động chân tay, sản xuất tự cung, tự cấp, phương
thức canh tác chủ đạo làm nương, rẫy và canh tác theo thói quen, cuộc sống nghèo
8
nàn, lạc hậu, thiếu thốn về vật chất, tinh thần so với người đa số, thiếu tính toán hợp
lý và mất cân đối giữa thu và chi, ít được cập nhật kiến thức về khoa học. Về trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình đọ nhận thứ tiếp nhận, ứng dụng khoa học, kỹ
thuật họ là những người tiếp cận muộn hơn so với dân tộc đa số
1.1.2.2. Đặc điểm của cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là những người dân
tộc ít người, họ trưởng thành về thể chất, về mặt xã hội, họ được bầu hoặc bổ nhiệm
giữ một chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan Đảng, chính quyền cấp xã, là
những người tự làm chủ được hành vi, thái độ của mình và tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật với tư cách là một công dân. Đồng thời họ trưởng thành về mặt xã
hội được biểu hiện ở giá trị sản phẩm lao động được xã hội công nhận, thể hiện ở
cuộc sống riêng tư, họ có đủ điều kiện hành vi trước pháp luật, có vị thế trong xã
hội, đang giữ chức vụ hoặc trách nhiệm nhất định trong hệ thống hành chính cấp xã
để lãnh đạo, điều hành quyền lực của Nhà nước quản lý xã hội ở cấp xã. Tuy nhiên,
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số năng lực công tác còn hạn
chế, trình độ chuyên môn chưa được chuẩn hóa do việc tiếp cận muộn hơn so với
dân tộc đa số.
1.1.3. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là
người dân tộc thiểu số
1.1.3.1. Vai trò
Hoạt động lãnh đạo, quản lý tạo nên sức mạnh tập thể trên cơ sở thống nhất
ý chí và hành động.
Mỗi cộng đồng dân cư trên địa bàn xã dù có khác biệt với nhau trên nhiều
phương diện, nhiều lĩnh vực, nhưng họ đều có những lợi ích chung như môi trường,
trật tự trị an, cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, trường học, nước sinh hoạt, cơ sở vật
chất, đời sống tinh thần,… Nếu không có cấp lãnh đạo, quản lý cơ sở họ sẽ khó
thống nhất về ý chí và hành động về mục tiêu cuộc sống tốt hơn. Cấp xã là nơi hỗ
trợ trực tiếp cho người dân khi họ gặp khó khăn, hoạn nạn, là nơi tạo điều kiện cho
9
người dân tham gia vào hệ thống chính trị của quốc gia nói chung, hệ thống chính
trị ở cở nói riêng.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là đầu mối để triển khai, thực hiện chính
sách chung có hiệu quả cho Nhân dân, là nơi phản ánh nguyện vọng, nhu cầu của
của Nhân dân với cấp trên để được hỗ trợ, giải quyết.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững
của cả hệ thống chính trị
Nhờ có hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở mà hoạt động của người dân và các
tổ chức đóng quân trên địa bàn mới đi vào nề nếp, kỷ cương, giảm nhẹ nhiệm vụ quản
lý, giám sát của cấp trên. Sự hoạt động chuyên nghiệp, linh hoạt và tận tâm của cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở sẽ làm tăng uy tín của cả hệ thống chính trị. Nếu hoạt động
lãnh đạo, quản lý ở cơ sở yếu kém sẽ làm cho cả hệ thống chính trị cấp xã không bền
vững, làm phai nhạt niềm tin của quần chúng vào cả hệ thống chính trị.
1.1.3.2. Chức năng
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là những người làm
công tác chỉ đạo, lãnh đạo, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý về lĩnh vực công tác
được phân công và thực hiện các nhiệm vụ khác do cấp trên giao; trực tiếp tiếp xúc,
lắng nghe ý kiến của Nhân dân, giải trình với Nhân dân, thực hiện chức năng lãnh đạo
công tác Đảng, quản lý Nhà nước theo đúng chính sách và thẩm quyền được giao.
1.1.3.3. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số được
quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV như sau:
* Bí thư, Phó Bí thư Đảng Ủy, Chi ủy, Thường trực đảng ủy xã, phường, thị trấn:
Chức trách: Là cán bộ chuyên trách công tác đảng ở Đảng bộ, chi bộ (nơi
chưa thành lập Đảng bộ) xã, phường, thị trấn, có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt
động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ, cùng tập thể đảng ủy, chi
ủy lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện chủ
10
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn xã,
phường, thị trấn.
Nhiệm vụ của Bí thư:
Nắm vững Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết và chỉ thị của cấp trên, chức năng, nhiệm vụ
của đảng bộ, chi bộ cấp mình; nắm vững nhiệm vụ trọng tâm, giải quyết có hiệu quả
công việc đột xuất; nắm chắc, nắm sát tình hình đảng bộ, tổ chức đảng trực thuộc và
Nhân dân trên địa bàn; chịu trách nhiệm chủ yếu về các mặt công tác của đảng bộ.
Điều hành các cuộc họp Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, chỉ đạo và tổ chức
chỉ đạo thực hiện các nghị quyết đề ra.
Trong lãnh đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ đạo các hoạt
động, giữ vai trò trung tâm đoàn kết, lãnh đạo toàn diện đối với các tổ chức trong hệ
thống chính trị cấp xã.
Lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của của
đảng bộ cấp trên, của Ban Thường vụ Đảng ủy, Ban Chấp hành đảng bộ.
Nhiệm vụ của Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy:
Giúp Bí thư đảng ủy chuẩn bị nội dung các cuộc họp và dự thảo nghị quyết
của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ về các mặt công tác của đảng bộ.
Tổ chức thông tin tình hình và chủ trương của Ban chấp hành, Ban thường
vụ cho các Ủy viên Ban chấp hành và tổ chức đảng trực thuộc.
Tổ chức kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên, của
Ban Chấp hành và Ban Thường vụ đảng ủy.
Tiêu chuẩn cụ thể:
Tuổi đời: Không được hơn 45 tuổi khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.
Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
Lý luận chính trị: Phải có trình độ Trung cấp hoặc Cao cấp.
Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng và đô thị có trình độ trung
cấp chuyên môn trở lên, ở khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn (tương đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải
11
có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Phải có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác phát triển Đảng, quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế.
* Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
Chức trách: Là cán bộ, công chức của Hội đồng nhân dân cấp xã, chịu trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo đảm Thực hiện
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn xã.
Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân là người tham mưu trực tiếp cho Chủ tịch
Hội đồng nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ, chịu sự phân công cụ thể và thay mặt
Chủ tịch Hội đồng nhân dân giải quyết công việc khi được Chủ tịch Hội đồng nhân
dân ủy quyền.
Tiêu chuẩn Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:
Quy định vệ độ tuổi của Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã do Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với từng địa phương, nhưng nếu tham
gia lần đầu phải đảm bảo làm việc được hai nhiệm kỳ.
Học vấn: Phải tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp 3).
Lý luận chính trị: Đối với khu vực miền núi (đặc biệt khó khăn) phải có
chứng chỉ lý luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
Chuyên môn, nghiệp vụ: Với khu vực miền núi phải có chứng chỉ bồi dưỡng
tương đương trình độ sơ cấp và cao hơn nữa. Chuyên môn bồi dưỡng phải phù hợp
với từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Đã qua lớp bồi dưỡng quản lý
Nhà nước, quản lý kinh tế và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Chức trách: Là cán bộ, công chúc lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã, chịu
trách nhiệm trong việc điều hành hoạt động của Ủy ban nhân dân, trực tiếp điều
hành, quản lý các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn xã.
Nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân:
12
Lãnh đạo các thành viên của Ủy ban nhân dân thực hiện các nhiệm vụ theo
từng lĩnh vực công chức:
Chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra đối công chức thực hiện nhiệm vụ, thực hiện
chính sách, pháp luật của cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết
định của Ủy ban nhân dân xã.
Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã, tham gia quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể Ủy ban nhân dân.
Áp dụng các biện pháp cải tiến cách làm việc, quản lý, điều hành bộ máy
hành chính cấp xã hoạt động có hiệu quả.
Đấu tranh chống biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, công chức trong bộ máy
chính quyền cấp xã, thực hiện việc tiếp công dân, giải quyết kiến nghị, phản ánh,
khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật; giải quyết và trả lời đầy đủ các kiến
nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã.
Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của trưởng thôn, công an viên quy
định của pháp luật.
Chịu trách nhiệm báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ đối với Hội đồng nhân
dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Triệu tập và chủ trì phiên họp của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Thực hiện chính sách khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức theo sự phân
cấp quản lý quản lý Nhà nước. Bãi bỏ hoặc đình chỉ quy định trái pháp luật của
trưởng thôn.
Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân:
Tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối công của Ủy ban nhân
dân do Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công và ủy nhiệm khi Chủ tịch Ủy ban nhân
dân đi vắng, như khối công việc (khối kinh tế; tài chính; khối văn hoá - xã hội...).
Tiêu chuẩn đối với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân:
Tuổi đời: Tuổi đời của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với tình hình đặc
13
điểm của địa phương nhưng tuổi tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai
nhiệm kỳ.
Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
Chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với khu vực đồng
bằng, khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương trình độ
sơ cấp trở lên.
Chuyên môn, nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đối với
miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn (tương đương trình độ sơ cấp
trở lên), nếu giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên.
Chuyên môn phải phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng loại hình đơn vị
hành chính cấp xã và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hành chính Nhà nước,
quản lý kinh tế.
1.2. Các tiêu chí để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
Đề tài nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có khả năng giải quyết những vấn đề thuộc
các lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong tình hình mới.
Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu
số được dựa trên tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ cấp xã, là những quy định cụ thể các
yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức…theo những tiêu chí nhất định đối
với từng chức danh riêng biệt.
Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân
tộc thiểu số là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, trí tuệ, khoa học,
chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực, luôn gắn bó
với tập thể, với cộng đồng và khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Trong thời kỳ công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã ngày càng cao, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người
dân tộc thiểu số không những có trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn, mà còn phải
gương mẫu, đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, có tinh thần kỷ luật cao, có tư duy
14
khoa học, lý luận sắc bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn gắn bó với
tập thể, với cộng đồng, có kỹ năng tốt trong việc kết hợp tri thức khoa học, kinh
nghiệm, kỹ năng thực tiễn một cách nhạy bén, linh hoạt, đồng thời luôn chấp hành
nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân
tộc thiểu số ngoài những yếu tố nêu trên còn phụ thuộc vào cơ cấu tỷ lệ hợp lý giữa
các độ tuổi, giới tính giữa nam và nữ.
Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không tồn tại một
cách biệt lập mà phải đặt trong một chỉnh thể thống nhất của cả đội ngũ cán bộ cấp
xã. Vì thế, quan điểm thực hiện chính sách phát triển đội cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã là người dân tộc thiểu số phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa
phát triển từng cán bộ lãnh đạo, quản lý với phát triển của cả đội ngũ cán bộ cấp xã.
Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân
tộc thiểu số là chỉ tiêu tổng hợp sự phát triển của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã, thể hiện qua phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, kỹ năng
công tác, hiệu quả thực nhiệm vụ được phân công, cũng như cơ cấu hợp lý về độ
tuổi, về ngạch, bậc và số lượng.
1.2.1. Tiêu chí về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là điều cần thiết trong thực hiện các nhiệm
vụ của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trình độ là mức độ về sự hiểu biết, về kỹ năng
được xác định hoặc Thực hiện chính sách phát triển theo tiêu chuẩn nhất định nào
đó thể hiện ở văn bằng, chứng chỉ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân
tộc thiểu số có được thông qua quá trình phấn đấu, học tập và rèn luyện.
Về trình độ năng lực.
Năng lực cũng là yếu tố rất quan trọng, năng lực quyết định hiệu quả công
việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số. Năng lực là
phẩm chất tâm lý phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, nó được
hình thành từng mỗi cá nhân trong quá trình đào tạo, giáo dục, hoạt động thực tiễn, rèn
luyện. Năng lực được thể hiện là những người làm việc ít tốn sức lực, ít thời gian, ít
15
của cải mà kết quả mang lại rất tốt. Việc phát hiện ra năng lực phải căn cứ vào
những dấu hiệu như sự hứng thú đối với công việc, sự dễ dàng tiếp thu kỹ năng
nghề nghiệp, hiệu suất lao động. Năng lực thường bao gồm những tố chất cơ bản về
đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ Nhân dân, về trình độ kiến thức pháp luật,
kinh tế, văn hóa, xã hội, sự am hiểu và nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật xử
lý thông tin, giải quyết tốt các vấn đề đặt ra trong quản lý Nhà nước một cách khoa
học, minh bạch, dứt khoát, hợp lòng dân và không trái pháp luật. Vì vậy, việc nâng
cao hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã người dân tộc thiểu số là vấn đề quan trọng và cấp thiết trong mục tiêu Thực
hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số như hiện nay.
Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
Năng lực quyết định sự thành công trong công việc với mục đích cuối cùng
là hiệu quả, được thể hiện ở các mặt trình độ văn hóa, kiến thức quản lý Nhà nước,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Trình độ văn hóa là sự tiếp thu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng chủ trương,
chính sách thực hiện.
Trình độ quản lý hành chính Nhà nước tác động lên các quan hệ xã hội, là
thủ pháp những nhà quản lý thường sử dụng trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ
của mình để giải quyết các vụ việc xảy ra cụ thể trong cuộc sống. Hoạt động quản
mang tính khoa học, nghệ thuật. Để thực hiện tốt các hoạt động quản lý đòi hỏi đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần phải được đào tạo,
bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước thì mới có được những kỹ
năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao có hiệu quả.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là trình độ được đào tạo ở các lĩnh vực khác
nhau theo cấp độ khác nhau được trang bị cho người học theo các chuyên ngành
nhất định, được thể hiện qua hệ thống bằng cấp. Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp
16
giải quyết những tình huống phát sinh, nếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
người dân tộc thiểu số không có chuyên môn, nghiệp vụ, chỉ làm theo kinh nghiệm
hoặc giải quyết mang tính chắp vá, tùy tiện thì hiệu quả sẽ không cao, thậm chí còn
mắc sai phạm nghiêm trọng.
1.2.2. Tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
Về phẩm chất đạo đức
Phẩm chất rất quan trọng đối với đội ngũ đội ngũ cán bộ cấp xã, cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số muốn xác lập được uy tín của bản thân
đối Nhân dân, trước hết phải có phẩm chất đạo đức tốt. Trong bối cảnh hiện nay,
trình độ dân trí ngày một nâng cao, cộng với sự đòi hỏi quy luật phát triển của xã
hội, thì đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải có
chuyên môn, nghiệp vụ cơ bản. Bên cạnh đó công tác quản lý xã hội cũng đòi hỏi
người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải tạo lập cho mình
một uy tín đối với Nhân dân.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải luôn luôn gương
mẫu, có lối sống lành mạnh, không tham nhũng, vụ lợi cá nhân, sống bê tha, cần có
tinh thần chống tham nhũng, tận tụy phục vụ Nhân dân, tôn trọng Nhân dân, quan
hệ gần gũi, mật thiết với quần chúng Nhân dân, sâu sát với công việc, không quan
liêu cửa quyền, gây phiền hà cho Nhân dân, tác phong làm việc phải khoa học, dân
chủ, nói đi đôi với làm, làm nhiều hơn nói, đồng thời tiếp thu, lắng nghe ý kiến của
mọi người.
Yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải cao hơn so với người khác bởi vì cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là công bộc của dân. Đây là tiêu chuẩn
hàng đầu và được xem là đương nhiên phải có, nếu thiếu phẩm chất đạo đức, dù có
tài năng kiệt xuất cũng không thể là công bộc của dân được.
Về phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị là yếu tố đầu tiên, là điều kiện, là giá trị và tính chất tốt
đẹp đối với mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Để trở thành những người
17
cán bộ có năng lực trước hết phải là người có phẩm chất chính trị và được biểu
hiện ở sự tin tưởng tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn,
kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, không dao động trước những khó khăn thử thách, có biện pháp đưa chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống
của Nhân dân. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có phẩm
chất chính trị tốt phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh, kiên quyết chống lại suy
nghĩ, biểu hiện sai trái trong đời sống xã hội, trái ngược với chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phẩm chất chính trị của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã còn được biểu hiện thông qua làm việc với tinh thần trách
nhiệm, hiệu quả công việc, có tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động trong
công việc, có ý chí cầu tiến, ham học hỏi, có thái độ tận tụy phục vụ Nhân dân,
tinh thần trách nhiệm đối với đời sống Nhân dân.
1.2.3. Tiêu chí về uy tín trong công tác
Uy tín là sự tín nhiệm, mến phục của mọi người và được phản ánh về phẩm
chất, năng lực của một cá nhân nên nó quyết định uy tín. Người cán bộ phải phải là
người giỏi về chuyên môn, đạo đức tốt, sống gần gũi, hòa nhã, luôn lo sự nghiệp
chung nhưng vẫn không quên trách nhiệm, tình cảm của mình với người thân.
Người cán bộ có uy tín sẽ làm cho người dưới quyền không chỉ phục tùng thậm chí
họ còn tự giác phục tùng với niềm tin mãnh liệt.
Vì uy tín là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố thuộc về sự nỗ lực chủ quan
của một người trên cả hai mặt phẩm chất và năng lực:
Sự gương mẫu về phẩm chất đạo đức, có lối sống trong sạch, tận tụy, khiêm
tốn, “mình vì mọi người”, sự thấu hiểu và chia sẻ.
Có học thức cao, năng lực lãnh đạo và quản lý giỏi, tầm hiểu biết sâu rộng về
chính trị, trình độ nhận thức, vốn sống; có sự đổi mới và khả năng thích nghi, khát
vọng và hoài bão.
18
Có tinh thần trách nhiệm, có năng lực tổ chức, thể hiện ở chỗ hoàn thành
xuất sắc chức vụ mà mình đảm trách. Nắm vững kỹ năng lãnh đạo, ứng xử có văn
hóa, có quan hệ đúng đắn với những người đồng nghiệp hoặc có quan hệ trực tiếp
với mình, biết tự kiểm soát, tự kiềm chế. Tóm lại, người cán bộ lãnh đạo quản lý đòi
hỏi phải hội tụ đủ cả ba yếu tố: Tâm, Tầm và Tài.
Sự phấn đấu rèn luyện của mỗi cá nhân sẽ tạo nên uy tín, bởi thế đối với người
cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải giành lấy uy tín tuyệt đối trong tập thể bằng chính tài
năng, nghị lực thực tế của mình, không phải bằng danh hiệu, chức vụ hoặc bằng thủ
đoạn và tiểu xảo. Nhân dân chỉ yêu quý những cán bộ có tư cách đạo đức tốt. Muốn
hướng dẫn họ, mình phải là người tiên phong đi đầu.
Uy tín chưa hẳn đã tỉ lệ thuận với chức vụ. Chức vụ chỉ là điều kiện khách
quan để củng cố và nâng cao uy tín, còn uy tín là cái quyết định sự tồn tại của chức
vụ. Nếu uy tín mất đi thì theo quy luật chức vụ cũng sẽ mất theo, chức vụ và uy tín
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể hiểu như là mối quan hệ giữa hình thức và
nội dung, chức vụ là hình thức, còn uy tín là nội dung.
Có thể khẳng định, uy tín là do phẩm chất và năng lực của cá nhân quyết
định và được thể hiện ở các yếu tố như khả năng tổ chức và chuyên môn giỏi; dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và kiên định trong công việc; có quan hệ bình
đẳng, tính tập thể và phát huy được sức mạnh tổng hợp; gương mẫu đi đầu trong
mọi công tác; gần gũi, dân chủ, cởi mở với mọi người; tính chiến đấu, tự phê bình
và phê bình, sửa chữa khuyết điểm, không tranh công, đỗ lỗi.
Người có uy tín còn là người biết lắng nghe, kể cả những lời nói trái, không
tự ái, sĩ diện, thành kiến, có bản lĩnh, dũng cảm, kiên cường, bảo vệ người ngay
thẳng, trung thực, đấu tranh với những hành vi sai trái, những biểu hiện cơ hội, thực
dụng, không nịnh bợ và cũng không thích ai nịnh bợ mình.
Để xây dựng được uy tín đã khó, nhưng phấn đấu để giữ vững và nâng cao
uy tín lại càng khó hơn, vì trong mỗi cán bộ đều có cái tốt, cái xấu, uy tín thật là cái
tốt, uy tín giả là cái xấu. Bởi vậy, đòi hỏi người cán bộ phải có ý chí và nghị lực rất
19
cao, người ở cương vị càng cao cần phải hết sức chăm lo giữ gìn uy tín, vì uy tín
không chỉ là uy tín cá nhân mà còn liên quan đến uy tín chung của tập thể.
1.2.4. Tiêu chí thực hiện hiệu quả công việc được giao
Kỹ năng giải quyết công việc
Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh
vực nào đó vào thực tế, kỹ năng công việc luôn luôn gắn với một hoạt động cụ thể ở
một lĩnh vực cụ thể nhất định như kỹ năng thẩm định, kỹ năng chỉ đạo, lãnh đạo, kỹ
năng phối hợp,... chính là quá trình tư duy kết hợp với việc tích lũy kinh nghiệm
học tập, bồi dưỡng, rèn luyện, công tác.
Kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để thực hiện chính sách phát
triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số khi thực thi nhiệm vụ
nhất định. Tuy nhiên, có những kỹ năng không thể thiếu đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý phụ thuộc vào tính chất công việc mà họ đảm nhận, việc phân chia kỹ năng
nghề nghiệp thành các nhóm là cơ sở để xác định nội dung bồi dưỡng kỹ năng cho
các nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số khác nhau, căn cứ
vào kết quả các kỹ năng hướng đến thì kỹ năng nghề nghiệp đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có thể chia thành các nhóm sau:
Kỹ năng đề xuất, ban hành, thực hiện, kiểm tra, thu thập, tổng hợp, phân tích,
triển khai quyết định, kỹ năng phối hợp, kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội.
Nhóm kỹ năng quan hệ, giao tiếp, làm việc nhóm, lắng nghe, thuyết
phục, tiếp dân.
Nhóm kỹ năng tác nghiệp cá nhân như viết báo cáo, bố trí lịch công tác, lắng
nghe, thuyết trình.
Tất cả các kỹ năng nêu trên đều chịu ảnh hưởng bởi trình độ chuyên môn, khả
năng và kinh nghiệm công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình thi
hành công vụ. Đây là nội dung phức tạp trong quá trình thực hiện chính sách phát
triển cán bộ lãnh đạo, quản lý, dễ gây nhầm lẫn với trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Vì vậy, khi thực hiện chính sách phát triển theo tiêu chí này cần xác định các kỹ năng
tốt phục vụ cho hoạt động, các kỹ năng chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu, các kỹ
20
năng cần thiết mà cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số chưa có, các
kỹ năng không cần thiết mà họ có.
Thực hiện chính sách phát triển dịch vụ công là kết quả hoạt động hiệu quả
lãnh đạo, quản lý và được biểu hiện đối với xã hội thông qua sự hài lòng, niềm tin
của người dân đối với Đảng, Nhà nước được xác định thông qua các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phụ thuộc vào các yếu tố:
Một là, năng lực lãnh đạo, quản lý, kiến thức, kỹ năng và thái độ của họ đối
với công việc.
Hai là, phụ thuộc vào tổ chức và môi trường của tổ chức, đó là tính chất
công việc, môi trường làm việc, điều kiện làm việc.
Ba là, sự động viên, khuyến khích của của cấp trên, tạo động lực cho họ về
chế độ, chính sách đãi ngộ và cơ hội thăng tiến. Như vậy, muốn thực hiện chính
sách phát triển dịch vụ công thì phải chú trọng cải thiện từ năng lực làm việc, đến
môi trường làm việc của cơ quan hành chính, cũng như cách thức tổ chức công
việc và chế độ, chính sách nhằm động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số hăng say, nhiệt tình làm việc đạt hiệu
quả cao.
Tóm lại: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có trình độ năng lực và có khả năng vận
dụng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách có hiệu quả
thì mới góp phần nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân tại địa
phương, góp phần phát triển xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.5. Tiêu chí về năng lực tổ chức, quản lý
Năng lực là khả năng của một người được thể hiện qua việc xử lý tình huống,
thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó. Hiểu cách khác năng lực là khả năng phát
triển, vận dụng tiềm lực của con người như kiến thức, kỹ năng, thái độ và các phẩm
chất khác để đạt được các mục tiêu cụ thể trong các điều kiện xác định.
21
Năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không
phải là bất biến, năng lực chỉ được phát triển trong mọi hoàn cảnh, mọi môi
trường. Ở mỗi thời điểm khác nhau thì năng lực được thể hiện, phát huy tác dụng
cũng khác nhau. Vì năng lực luôn gắn liền với mục đích thực hiện chính sách phát
triển của tổ chức ở mỗi lĩnh vực, điều kiện cụ thể. Năng lực tổ chức quản lý bao
gồm khả năng động viên và giải quyết các công việc, đó là khả năng tổ chức và
phối hợp các hoạt động của các nhân viên, đồng nghiệp, khả năng làm việc và đưa
tổ chức tới mục tiêu, biết dự đoán, lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, điều hành, phối
hợp công việc và kiểm soát công việc. Đây là năng lực đặc biệt cần thiết và quan
trọng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số, vì năng lực
thường được xem xét khi đề bạt, bổ nhiệm. Cách nhận biết người có năng lực, tổ
chức quản lý tốt có thể dựa vào những tiêu chuẩn mang tính định tính:
Biết mình nhất, nghĩa là biết mình qua nhận xét của người khác; biết người,
nghĩa là biết nhìn nhận con người đúng với thực chất của họ và biết phát triển họ; có
khả năng tiếp cận với những người khác, biết tập hợp những người khác nhau vào
một tập thể theo nguyên tắc bổ sung cho nhau, biết giao việc cho người khác và
kiểm tra việc thực hiện của họ; tháo vác, sáng kiến trong mọi tình huống, có những
giải pháp sáng tạo; quyết đoán dám ra quyết định và dám chịu trách nhiệm.
1.3. Các hoạt động thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
1.3.1. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã là người dân tộc thiểu số
Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số nói riêng là việc làm thường xuyên và quan
trọng, đây là quy trình được thực hiện hàng năm. Quy hoạch tốt, đảm bảo tính khoa
học và phù hợp với thực tế khách quan thì sẽ góp phần thúc đẩy việc thực hiện
chính sách phát triển về mọi mặt trong công tác cán bộ, ngược lại sẽ gây lãng phí,
thậm chí dẫn đến sai lầm.
22
Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là quá
trình thực hiện đồng bộ các quy trình, chủ trương, biện pháp nhằm tạo nguồn để
Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ cấp xã, là việc bố trí, lập kế hoạch
trong dài hạn, là sự sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc
thiểu số đang làm việc trong các cơ quan hoặc nguồn dự bị nhằm đảm bảo chủ động
nguồn nhân lực cho xây dựng, lấp chỗ trống trong các cơ quan hoặc thay thế đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đương nhiệm, nhằm bảo
đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời gian tương lai nhất định.
Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là
việc lập dự án dự phòng và dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số theo một ý định chung với một trình tự hợp lý
trong một thời gian nhất định để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển, bố trí, đề bạt hoặc giới thiệu cán bộ cấp xã ứng cử các chức
danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã người dân tộc thiểu số được xác định là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa
quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực
công tác, Thực hiện chính sách phát triển và hiệu quả làm việc của cán bộ cấp xã,
hướng tới mục tiêu sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn.
Đào tạo, bồi dưỡng là quá trình trang bị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
người dân tộc thiểu số những kiến thức, kỹ năng cần thiết, trước hết là những kiến
thức về pháp luật của Nhà nước, phương thức quản lý và các quy trình trong chỉ
đạo, điều hành, phương pháp, kinh nghiệm quản lý, trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt
động theo chương trình quy định cho ngạch cán bộ cấp xã.
Chính sách đào tạo của Nhà nước ta từng nhấn mạnh “Đào tạo, bồi dưỡng
theo vị trí việc làm nhằm trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần
thiết để làm tốt công việc được giao”, được nêu tại Nghị định số 18/2010/NĐ-CP
ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc
thiểu số là nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ công
23
vụ, góp phần Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
người dân tộc thiểu số có đủ năng lực lãnh đạo, quản lý xã hội tốt.
Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay trở thành
những người cán bộ lãnh đạo, quản lý có đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến
thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cao, năng động và sáng tạo đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
người dân tộc thiểu số phải là công bộc của dân, hết lòng vì Nhân dân phục vụ, việc
nâng cao trình độ chính trị, thấm nhuần các chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, trung thành với chế độ, tận tụy với công việc, đáp ứng yêu
cầu của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý Nhà nước là việc
cần phải thực hiện. Tuy nhiên, để đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân
tộc thiểu số có thể tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thì chính sách
đào tạo, bồi dưỡng của Nhà nước có vai trò tác động rất quan trọng, việc tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng phụ thuộc vào các vấn đề như hệ thống các cơ sở đào tạo,
chương trình, giáo trình, đội ngũ giảng viên, chế độ cho người học như tiền hỗ trợ
đi học, học phí, thời gian học, cơ chế đảm bảo sau đào tạo để tránh lãng phí.
1.3.2. Công tác sử dụng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người
dân tộc thiểu số
Việc sử dụng, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số phải xuất phát từ nhiều yếu tố như chức năng, nhiệm vụ, công việc của từng
cơ quan, đơn vị. Những căn cứ quan trọng để bố trí, sử dụng cán bộ là yêu cầu của
công vụ và điều kiện nhân lực hiện có của cấp xã, việc bố trí, sử dụng cán bộ phải
dựa vào những định hướng có tính nguyên tắc:
Thứ nhất, phải có tiền đề và quy hoạch cán bộ.
Thứ hai, phải căn cứ vào mục tiêu hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Tuân thủ nguyên tắc khách quan, vô tư và công bằng khi thực hiện chính sách
của Nhà nước, đây là căn cứ quan trọng để thực hiện chính sách Thực hiện chính sách
phát triển cán bộ.
24
Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ phù hợp, thống nhất đối với cán bộ trong hệ
thống chính trị cơ sở cấp xã, có chế độ phụ cấp và chính sách hỗ trợ kinh phí đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã đang công tác ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, hải đảo có nhiều khó khăn và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như
Nghị định số 167/2011/NĐ-CP đã thực hiện. Tiến hành thực hiện đúng và kịp thời
các chính sách đối với đội ngũ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số, như thu hút,
đãi ngộ nhân tài, khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, tuyển dụng sinh viên tốt
nghiệp đại học về công tác tại xã như Quyết định số 600/2010/QĐ-CP,... Kịp thời
động viên cán bộ nhiệt tình công tác, gắn bó với địa phương, đoàn kết, thống nhất
trong đội ngũ cán bộ, ngăn chặn những tiêu cực.
Bổ nhiệm phải dựa vào công tác quy hoạch cán bộ; quá trình đề bạt, bổ nhiệm
phải coi trọng việc lấy phiếu tín nhiệm theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, bảo
đảm những người tham gia bỏ phiếu phải là những người biết việc, hiểu người, tránh
bè phái, cục bộ, định kiến, hẹp hòi, thiếu tính xây dựng. Trước khi lấy phiếu tín
nhiệm, cán bộ được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động
của mình. Người đứng đầu phải có ý thức trách nhiệm, công tâm, khách quan, phải vì
lợi ích chung và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng ý kiến
của tập thể. Có quy chế phối hợp giữa người đứng đầu với cấp ủy, cán bộ lãnh đạo cơ
quan đơn vị; nếu không chỉ đạo thực hiện tốt, sẽ dẫn đến cục bộ, bè phái, độc đoán,
mất dân chủ, chạy quyền, chạy chức trong đề bạt và bổ nhiệm cán bộ; bổ nhiệm phải
dựa vào yêu cầu công việc và nguồn nhân lực hiện có, đúng người, đúng việc.
Cơ chế bố trí, phân công công tác
Trong quá trình thực hiện chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần chú ý đến việc bố trí đúng cán bộ, đây là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp
xã. Việc sắp xếp đúng người, đúng việc sẽ phát huy tinh thần hăng say làm việc,
năng lực, sở trường, kỹ năng công việc, khuyến khích tinh thần học tập và nâng cao
trình độ chuyên môn, góp phần cho sự thành công chung trong việc lãnh đạo, quản
lý ở cấp xã. Vì vậy, công tác phân công, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp có ảnh
25
hưởng rất lớn đối với việc thực hiện chính sách phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII)
nhấn mạnh việc bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý như sau:
Bố trí phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường, điều đó có
nghĩa là khi bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xem xét cả hai yếu tố khách
quan và chủ quan (tiêu chuẩn cán bộ và phẩm chất, năng lực, nguyện vọng...).
Đề bạt, cân nhắc phải đúng lúc, đúng người, đúng việc, ngược lại việc bố trí,
đề bạt không đúng có thể dẫn đến thừa, thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã một
cách giả tạo, công việc kém phát triển, tiềm lực không được phát huy.
Chú ý kết hợp hài hòa về chế độ chính sách tiền lương và các đãi ngộ khác,
thưởng, phạt rõ ràng, công bằng, kịp thời, phải căn cứ vào hiệu quả công tác của cán
bộ. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến
vấn đề thực hiện chính sách phát triển cán bộ, đã nêu lên 6 yêu cầu “ Phải biết rõ
cán bộ; Phải cất nhắc cán bộ cho đúng; Phải khéo dùng cán bộ; Phải phân phối cán
bộ cho đúng; Phải giúp cán bộ cho đúng và phải giữ gìn cán bộ”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã vạch ra ba chứng bệnh do cách Thực hiện chính sách phát triển cán
bộ sai lầm: “Mục đích khéo dùng cán bộ cốt để thực hành đầy đủ chính sách của
Đảng và Chính phủ”. Để “Khéo dùng” cán bộ, Bác Hồ yêu cầu phải thực hiện
những điểm sau:
Theo Bác, cán bộ không nói không phải họ không có gì để nói mà vì không
dám nói, họ sợ “Khiến cho cán bộ có gan nói, có gan đề ra ý kiến”.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý không phải mọi người đều có năng lực, có tài bộ lãnh
đạo khéo như nhau. Người lãnh đạo giỏi là biết nhìn nhận, tin cán bộ cấp dưới, dám
giao nhiệm vụ cho họ, từ đó tạo được niềm tin cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm
việc mạnh mẽ hơn.
Bác còn yêu cầu, nếu ý kiến cấp dưới không đúng thì nên dùng thái độ thân
thiết, giải thích cho họ hiểu “Không nên tự tôn tự đại mà phải nghe, phải hỏi ý kiến
của cấp dưới”.
26
1.3.3. Nhiệm vụ của cấp xã trong việc thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là hoạt động
công vụ được thực hiện dựa trên cơ sở thực tiễn công tác của người công chức và
yêu cầu nhiệm vụ được cơ quan, đơn vị đề ra đối với công chức đó. Nếu quy trình
thực hiện chính sách công tác cán bộ chính xác, hiệu quả trong việc chọn người, xếp
vị trí việc làm được chính xác sẽ tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
người dân tộc thiểu số phát huy được sở trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
đồng thời không bỏ sót nhân lực tốt, chọn nhầm nhân lực kém. Nếu thực hiện chính
sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không đúng
thì không những bố trí, sử dụng không đúng mà quan trọng hơn là mai một dần
động lực phát triển, làm thui chột những tài năng, xói mòn niềm tin của Nhân dân,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp xã.
Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân
tộc thiểu số để làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kết quả thực hiện được giao. Kết quả thực hiện là căn cứ để bố trí, bổ
nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách cán bộ của
Nhà nước.
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì việc thực hiện chính sách phát
triển cán bộ, công chức phải dựa vào các nội dung sau:
Việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, việc thể hiện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm
việc, năng lực công tác, tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ, tinh thần trách
nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; có thái độ phục vụ Nhân dân tốt của cán bộ lãnh
đạo, quản lý.
Việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người
dân tộc thiểu số được thực hiện hàng năm, trước khi bổ nhiệm, quy hoạch, điều
động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết thúc thời gian luân chuyển, biệt phái. Khi thực
hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số
27
phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, tính lịch sử, cụ thể của từng xã, trên cơ sở
tự phê bình và phê bình, nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai rõ ràng đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số được đánh giá, xếp loại. Đảm
tính khách quan, phát huy tính tập thể và cá nhân, lấy kết quả, hiệu quả hoàn thành
nhiệm vụ làm thước đo chính trong việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh
đạo, lãnh đạo cấp xã.
Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân
tộc thiểu số được coi là tiền đề quan trọng nhất nhưng vẫn là khâu khó và yếu nhất,
khó nhất là Thực hiện chính sách phát triển cái “tâm” cái “tầm” và bản lĩnh chính trị
của người cán bộ cấp xã.
1.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người
dân tộc thiểu số
Kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm nắm chắc thông tin diễn
biến tư tưởng, tiến trình tiến hành công việc, giúp cho cơ quan cấp trên phát hiện
những vấn đề nảy sinh, kịp thời uốn nắn sửa chữa những sai sót, hạn chế sự lãng phí
nguồn nhân lực, kiểm tra, giám sát để thực hiện chính sách phát triển năng lực của
từng cán bộ, từ đó có hướng bố trí công việc phù hợp hoặc sắp xếp, đề bạt cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số hợp lý. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có năng lực kém, kịp thời đáp ứng
công việc. Kiểm tra để phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết
điểm, loại trừ những người thiếu năng lực thoái hóa, biến chất và ngăn chặn kẻ xấu
lợi dụng chống phá tổ chức hệ thống chính trị ở cơ sở. Kết quả kiểm tra là cơ sở
khách quan để điều chỉnh và tác động, làm cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người
dân tộc thiểu số luôn hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc. Ngoài ra tiếp tục tăng
cường thay thế những cán bộ yếu kém, ở những nơi phát sinh điểm nóng, mất đoàn
kết nội bộ, mọi phong trào yếu, kém. Qua đó vận dụng hình thức thưởng, phạt
nghiêm minh, ngăn chặn những tiêu cực, phát huy nhân tố tích cực, tạo dựng lòng tin
của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
28
1.3.5. Các bước thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã là người dân tộc thiểu số
Bước 1: Thực hiện chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghệp vụ, lý luận chính trị.
Bước 2: Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã là người dân tộc thiểu số
Bước 3: Thực hiện chính sách đề bạt, sắp xếp, bố trí đúng sở trường, chuyên
môn, nghiệp vụ và năng lực công tác.
Bước 4: Thực hiện chính sách quản lý, theo dõi cán bộ thực hiện công vụ.
Bước 5: Thực hiện chính sách kiểm tra, giám sát trong thực hiện nhiệm vụ
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
1.4.1. Các nhân tố khách quan
Chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người
dân tộc thiểu số, là hệ thống chung của cán bộ, công chức cấp xã do các quy định
của Nhà nước ban hành bao gồm: Các quy định về ưu đãi, hỗ trợ kinh phí thu hút
nhân tài, các quy định nhằm tạo điều kiện để cán bộ, công chức có điều kiện học
tập, câng cao trình độ, điều kiện bảo đảm môi trường làm việc thuận lợi, từng bước
hiện đại hóa công sở, nhà công vụ, trang thiết bị làm việc trong công sở, phương
tiện để thi hành công việc; bảo đảm sự quan tâm, hỗ trợ về vật chất khi cán bộ, công
chức gặp rủi ro trong công việc, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Chế độ, chính sách là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách
phát triển của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số. Vì chế độ, chính
sách là do con người tạo ra và nó tác động mạnh mẽ đến hoạt động của con người, chế
độ, chính sách hợp lý sẽ là động lực thúc đẩy tích cực về tài năng, sáng tạo, nhiệt tình,
trách nhiệm của mỗi người, nhưng nó cũng có thể kìm hãm hoạt động, làm thui chột tài
năng, sáng tạo của cán bộ nếu chính sách không hợp lý. Vì vậy, việc thực hiện chính
sách phát triển của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải gắn liền
với đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách. Tiền lương là yếu tố quan trọng nhất, nó ảnh
29
hưởng trực tiếp đến quyền lợi cán bộ, công chức, trêm mọi phương diện vật chất để
thực thi công việc, đồng thời cũng là sự đãi ngộ, là yếu tố ràng buộc họ với công việc.
Khen thưởng, kỷ luật, Luật cán bộ, công chức năm 2008
Sự ổn định của hệ thống chính trị cấp xã chủ yếu là do hiệu suất và hiệu quả
lãnh đạo, quản lý của can bộ cấp xã. Tuy nhiên với đặc điểm là hoạt động bằng ngân
sách Nhà nước, ràng buộc chặt chẽ về chế độ chức nghiệp, nên dễ nảy sinh sự trì
trệ, thiếu sáng tạo trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chính vì thế công tác thi
đua, khen thưởng là công cụ trực tiếp tác động đến động lực làm việc của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.
Một số hệ thống văn bản về công tác thi đua, khen thưởng của Nhà nước ta
như Luật thi đua khen thưởng, Nghị định số 42/2010/NĐ-CP, ngày 15 tháng 4 năm
2010 của Chính phủ Hướng dẫn thi hành Luật thi đua, khen thưởng, Thông tư số
02/2011/TT - BNV ngày 24 tháng 01 năm 2011 của Bộ nội vụ về tiêu chuẩn khen
thưởng,…đặc biệt trong những năm gần đây không ngừng được hoàn thiện, giải
quyết được những vướng mắc trong thực tế phong trào thi đua ở các đơn vị, địa
phương, cán bộ có thành tích thì được khen thưởng theo quy định của Luật thi đua
khen thưởng. Cán bộ có thành tích xuất sắc, có công trạng được nâng lương trước
thời hạn, ưu tiên khi xem xét bổ nhiệm chức vụ cao hơn.
Việc xử lý cán bộ, công chức, viên chức mắc sai phạm trong quá trình thi
hành công vụ, thực hiện quy chế làm việc, thực hiện công việc được giao là yếu tố
không thể thiếu trong việc duy trì nề nếp làm việc, kỷ cương trật tự xã hội. Vì vậy,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2011
về việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức nhằm hệ thống hóa lại các quy định
chung liên quan đến việc xem xét xử lý kỷ luật cán bộ, công chức. Tại Điều 3, Nghị
định số 34/2011/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2011 quy định việc xử lý kỷ luật cán
bộ, công chức được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
Vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp của cán bộ
công chức trong thi hành công vụ; những việc cán bộ, công chức không được làm
quy định tại Luật cán bộ công chức; vi phạm pháp luật bị Tòa án kết án bằng bản án
30
có hiệu lực pháp luật; vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
thực hành tiết kiệm, lãng phí; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các
quy định khác của pháp luật liên quan đến cán bộ nhưng chưa đến mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
1.4.2. Các nhân tố chủ quan
Trách nhiệm trong công tác là việc cán bộ lãnh đạo, quản lý phải làm trong
lãnh đạo, quản lý, nó mang tính chất chính trị, là việc cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã người dân tộc thiểu số tự ý thức về quyền lợi, nhiệm vụ được phân công. Trách
nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả hoạt động công vụ, kết quả và trách
nhiệm công vụ tạo nên hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ của cấp xã.
Ý thức tổ chức kỷ luật của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu
số thể hiện qua việc chấp hành và Thực hiện chính sách phát triển có hiệu quả thời
giờ làm việc theo quy định của pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan, đơn vị, tổ
chức; không làm việc riêng, không đi muộn về sớm, không chơi games trong giờ làm
việc; không sử dụng các chất có nồng độ cồn trong giờ hành chính, phải có mặt đúng
giờ tại công sở theo giờ hành chính hoặc theo quy định cụ thể của cơ quan, tổ chức,
đơn vị.
Tiểu kết chương 1
Tóm lại, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là nhân tố quyết định sự
Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cấp xã là nơi hỗ trợ
trực tiếp khi người dân gặp khó khăn, hoạn nạn, là nơi thuận lợi để tạo điều kiện cho
người dân tham gia vào hệ thống chính trị, là đầu mối để triển khai, thực hiện chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có hiệu quả, là nơi để người
dân phản ánh nguyện vọng, nhu cầu cấp thiết với cấp trên để được hỗ trợ, giải quyết.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là những người am
hiểu về phong tục, tập quán nơi họ đang sống, đồng thời cũng là người trực tiếp
tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
ăn sâu trong mọi tầng lớp Nhân dân, là người trực tiếp lắng nghe ý kiến của Nhân
31
dân, giải trình với Nhân dân, thực hiện chức năng lãnh đạo công tác Đảng, quản lý
Nhà nước theo đúng chính sách và thẩm quyền được giao.
32
Chương 2
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, xã hội vùng dân tộc thiểu số tại
huyện Sơn Tây
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Sơn Tây là huyện miền núi, thuộc diện một trong 62 huyện nghèo của cả
nước, nằm trên Tỉnh lộ 623, cách thành phố Quảng Ngãi 85 km ở phía Tây Nam của
tỉnh Quảng Ngãi. Với ranh giới hành chính như sau:
Phía Đông giáp huyện: Xã Sơn Thượng, huyện Sơn Hà (Quảng Ngãi)
Phía Tây giáp huyện: Đăk Nên, huyện Kon PLong (Kon Tum)
Phía Nam giáp huyện: Xã Ngọc Tem, huyện Kon PLong (Kon Tum)
Phía Bắc giáp huyện: Xã Trà Vân, huyện Nam Trà My (Quảng Nam).
Huyện được chia làm 09 đơn vị hành chính cấp xã, có 42 thôn, 135 khu
dân cư. Tổng số hộ 5.348, với tổng dân số 20.445 người, số khẩu người đồng
bào dân tộc thiểu số chiếm 97%; toàn huyện hộ nghèo chiếm tỷ lệ 49,48% và
cận nghèo 7,8%.
Diện tích tự nhiên của huyện là 38.149,23 ha, trong đó đất sản xuất nông,
lâm nghiệp là 18.425 ha, chiếm 48,29% so với tổng diện tích đất của cả huyện; còn
lại 19.724,23 ha là đất rừng phòng hộ của 03 loại rừng (rừng trồng; tự nhiên, rừng
sản xuất).
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội của huyện đã phát
triển rõ nét, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức trung bình, cơ cấu kinh tế đã có
những bước chuyển biến tích cực, đời sống của Nhân dân từng bước được cải
thiện. Trong lộ trình thực hiện chính sách phát triển nông thôn mới, Sơn Tây là
một trong những huyện nghèo đứng thứ 12/13 các huyện của tỉnh Quảng Ngãi.
33
Các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục luôn được quan tâm phát triển sâu
rộng, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, xóa nghèo được thực
hiện kịp thời. Đời sống đại bộ phận người dân được cải thiện; các gia đình chính
sách, gia đình có công với cách mạng đều được quan tâm, chăm lo và giả quyết
chế độ kịp thời.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2015 đạt 0,7%/năm, GDP bình quân đầu
người của huyện đạt khoảng 15 triệu đồng/người. Cơ cấu các ngành kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành dịch vụ và lâm nghiệp tăng, tỷ
trọng ngành nông nghiệp giảm. Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân trong
huyện được cải thiện và nâng lên, trong giai đoạn từ năm 2015 - 2018, thu nhập
bình quân đầu người của dân cư tăng lên gấp 1,6 lần, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ
60,5% năm 2015 xuống còn 49,48% tháng 12 năm 2018. Chủ trương của Đảng,
chính sách, chương trình mục tiêu quốc gia về Thực hiện chính sách phát triển các
lĩnh vực kinh tế - xã hội được thực hiện đạt kết quả tích cực như việc thực hiện
phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, kiên cố hóa phòng học các cấp đạt 80%, giảm
tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 35,6%, giáo dục và đào tạo, y tế, chăm sóc
sức khỏe Nhân dân, an sinh xã hội, văn hóa, thể dục thể thao, thông tin truyền
thông đều đạt được kết quả nhất định.
Hệ thống đường giao thông, điện lưới, thủy lợi, trường học, nhà sinh hoạt
cộng đồng được nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc sản
xuất, sinh hoạt theo nhu cầu. Một số công trình hạ tầng như đường trục chính, hạ
tầng khu dân cư đang được triển khai xây dựng, là cơ sở thuận lợi tạo điều kiện
cho sự Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong giai đoạn
tiếp theo.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện, cùng với sự chỉ
đạo, điều hành quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tham mưu của các
ban, ngành, sự đồng lòng của Nhân dân trong triển khai thực hiện kế hoạch Thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Sơn Tây đã và đang có những bước
Thực hiện chính sách phát triển vượt bậc, đạt được các thành tựu quan trọng về
34
kinh tế - văn hoá - xã hội, đời sống Nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt đã đạt được thì không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế do
tác động của mặt trái cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo, trình độ dân trí
tại các xã. Tất cả những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã. Những yếu tố đó cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải không ngừng nâng cao phẩm chất đạo
đức, chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng thực thi trong lãnh đạo,
quản lý.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số 100% có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt, trung thành với lý tưởng, kiên định với mục tiêu sự
nghiệp đổi mới của Đảng, có lối sống giản dị, trong sáng, am hiểu và gần gũi và tâm
huyết với đời sống Nhân dân.
Được sự quan tâm của các cấp ủy đảng từ tỉnh đến xã, công tác thực hiện
chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
trong thời gian gần đây, đặc biệt là nhiệm kỳ 2015 - 2020 ngày càng đổi mới hơn,
đảm bảo khách quan, dân chủ, chặt chẽ và đúng quy trình, đã từng bước được
chuẩn hóa. Việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, bố
trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thực hiện dân chủ, nề
nếp hơn, đã nâng cao trình độ cả về chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý kinh tế,
quản lý xã hội. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số
từng bước nâng cao về bản lĩnh chính trị vững vàng, đoàn kết giữ vững phẩm chất
cách mạng, đã từng bước chuẩn hóa về số lượng và chất lượng, luôn tin tưởng vào
đường lối đổi mới của Đảng, đã góp phần quan trọng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, thúc đẩy chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
35
ninh, thực hiện chính sách phát triển tổ chức cơ sở Đảng và hệ thống chính trị của
địa phương vững mạnh.
2.2.1. Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người
dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây
Bảng 2.1. Số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số theo vị trí công tác từ năm 2015 - 2018
DTTS
DTTS
DTTS
DTTS
TT Chức danh đảm nhiệm 2015 Cấp xã 2016 Cấp xã 2017 Cấp xã 2018 Cấp xã
1 Bí thư Đảng ủy 9 6 9 6 9 5 9
5 8 7 1 3 Phó Bí thư Đảng ủy Phó Chủ tịch HĐND Chủ tich Ủy ban nhân dân Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
2 3 4 5 Tổng cộng 9 9 9 9 45 8 5 2 3 24 9 9 9 9 45 7 7 1 3 24 9 9 9 9 45 8 7 1 3 45 9 9 9 9 45 24
(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây )
Qua Bảng 2.1 cho thấy số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý người cấp xã
người dân tộc thiểu số để đáp ứng tốt nhu cầu quản lý là chưa phù hợp, cơ bản
đầy đủ theo từng chức danh. Trong đó, một số chức danh có số lượng cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được phân bổ nhiều như Phó
Bí thư Đảng ủy đã phản ánh chưa đúng thực tế, số lượng cán bộ lãnh đạo, quản
lý là người dân tộc thiểu số không biến động qua các năm. Năm 2015 số lượng
cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số là 24 thì đến năm 2018 số
lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý người cấp xã là người dân tộc thiểu số cũng 24
người, tỷ lệ không tăng so với năm 2015. Chức danh có số lượng cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được phân bổ ít nhất là Chủ tich
Ủy ban Nhân dân, năm 2015 là 02 người đến năm 2018 chỉ còn 01 người, giảm
01 người.
36
Bảng 2.2. Số lượng và cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người
dân tộc thiểu số theo giới tính năm 2018
Số lượng (người)
TT Chức danh Cấp xã DTTS
Nam %
Nữ %
Nam %
Nữ %
1 Bí thư Đảng ủy 9 20 0 5 11,1 0 0 0
2 Phó Bí thư Đảng ủy 8 17,8 2,2 8 17,8 1 0 0
3 Phó Chủ tịch HĐND 8 17,8 2,2 7 15,6 1 0 0
4 Chủ tich UBND 9 20 0 1 2,2 0 0 0
5 Phó Chủ tịch UBND 9 20 0 3 6,6 0 0 0
2 0 0 Tổng cộng 45 95,6 4,4 24 53,3
(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây)
Qua bảng 2.2 cho thấy, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân
tộc thiểu số là nam giới cụ thể có 24 người, chiếm tỷ lệ 53,3% trong tổng cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã hiện có. Chức danh Bí thư chiếm tỷ lệ 11,1%, Phó
Bí thư chiếm tỷ lệ 17,8%; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân chiếm tỷ lệ 15,6%;
Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân chiếm tỷ lệ 6,6%. Chức danh có sự tham gia
của nam giới thấp nhất là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân chiếm tỷ lệ 2,2%. Đây là
tỷ lệ không hợp lý, không hài hòa giới tính cũng như chuyên môn từng đối
tượng.
37
Bảng 2.3. Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số phân theo độ tuổi năm 2018
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc
thiểu số phân theo độ tuổi (người) TT Độ tuổi
Cấp xã Tỷ lệ % DTTS Tỷ lệ %
2 31 3 46 Tổng số 45 100 24 53,3 (Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây ) Qua Bảng 2.3 ta thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện độ tuổi 31 Điều đó cho thấy cơ cấu về độ tuổi của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số cơ bản hợp lý, vừa đảm bảo tính cơ cấu, vừa đảm bảo được yêu cầu công việc, vừa có tính kế thừa. Nhìn chung, độ tuổi của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đa số còn trẻ phản ánh đúng xu thế của tình hình thực tế hiện nay và phù hợp với chức danh quy định. 2.2.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây 2.2.2.1. Về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số của huyện Sơn Tây đã được nâng lên đáng kể. Thực hiện theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đã được ưu tiên cho đi đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ. 38 Bảng 2.4. Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ năm 2018 Cấp xã DTTS TT Trình độ chuyên môn Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % 1 Đại học 22 48,9 6 13,3 2 Cao đẳng 3 6,7 0 0 3 Trung cấp 20 44,4 18 40 Tổng 45 100 24 53,3 (Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây )
Từ kết quả Bảng 2.4 cho thấy, số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn đại học là 13,3%, trung cấp là 40%. Có được sự thay đổi trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trong giai đoạn 2015 - 2018 như trên là được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện theo Quyết định số 493/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 481/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức; sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn và sự tạo điều kiện của các cấp trong quá trình đi học. Đến thời điểm năm 2018, theo quy định tiêu chuẩn tại Quyết định số 04/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ cấp xã, phường, thị trấn thì số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đều đạt tiêu chuẩn theo quy định. Tuy nhiên, không có cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn sau đại học qua các năm từ năm 2015 đến năm 2018 là một vấn đề còn hạn chế trên địa bàn huyện. Hiện nay huyện Sơn Tây đang phấn đấu xóa nghèo, yêu cầu 39 về trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số cần phải ngày càng được nâng cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Để ngày càng nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị cấp huyện, sự quan tâm hỗ trợ của tỉnh và sự phấn đấu cố gắng của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trong việc học tập bồi dưỡng kiến thức để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền hành chính cơ sở, của sự Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. 2.2.2.2. Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống Bảng 2.5. Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn theo trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, tin học từ năm 2015 - 2018 TT 2016 2017 2018 2015 2 9 2 4 16 44,4 11 3 13 12 1 24,4
6,7 3 28,9
15,6 7 35,6
26,7 16 35,6 2 Tiêu
chuẩn
Lý luận
chính trị
Quản lý
Nhà nước 6,7 3 Tin học 53,3 (Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây ) Qua số liệu Bảng 2.5 ta thấy, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ lý luận chính trị đạt chuẩn (trung cấp trở lên) từ năm 2015 đến năm 2018 chiếm từ 24,4% tăng lên 44,4%, chứng chỉ quản lý Nhà nước chiếm từ 6,7% tăng lên 35,6%, trình độ tin học chứng chỉ A chiếm từ 6,7% tăng lên 53,3% tổng số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Trong thời gian tới ngoài những người này cần phải có thêm các vị trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số khác tham gia học tập, cố gắng đạt chuẩn về lý luận chính trị từ trung cấp trở lên để đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng cao trong thời gian tới. 40 Từ đó việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có năng lực, được đào tạo đạt chuẩn, đảm bảo kế cận trong thời gian tới. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn về trình độ quản lý Nhà nước vẫn còn thấp, trong giai đoạn này là 16 người, chiếm 35,6%. Việc bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước rất quan trọng đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số, bởi vì khi Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thì phải trải qua lớp bồi dưỡng kỹ năng quản lý Nhà nước để làm quen với công việc sẽ đảm nhiệm trong hệ thống chính trị cơ sở ở địa phương, đồng thời tích lũy các kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính. Tuy nhiên, huyện Sơn Tây muốn phấn đấu thoát nghèo thì đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số cần phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, tin học để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu công việc được giao. Về phẩm chất chính trị Với 24 cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đều là đảng viên, chiếm tỷ lệ 53,3% tổng số 45 cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Về đạo đức lối sống Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là một trong những lực lượng nòng cốt, là đầu mối để người dân tiếp cận, phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng đến với hệ thống chính trị của huyện. Vì vậy, yêu cầu đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phải có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt và được thể hiện ở thái độ cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, nhiệt tình với công việc, tận tụy với Nhân dân, có ý thức tổ chức kỷ luật trong công tác tốt, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với quần chúng và được Nhân dân tín nhiệm. 2.2.2.3. Thực hiện chính sách đánh giá hiệu quả công việc được giao Trên cơ sở hướng dẫn đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, đảng viên hàng năm của cấp trên và hướng dẫn của Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây, địa phương các xã hàng năm đã tổ chức hội nghị đánh giá, phân loại đối với đội ngũ cán bộ cấp 41 xã và tổng hợp kết quả phân loại gửi lên cấp huyện và đề nghị Ban Thường vụ Huyện ủy công nhận cán bộ cấp xã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao (với các mức đánh giá: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ; hoàn thành nhiệm vụ nhưng năng lực còn hạn chế; không hoàn thành nhiệm vụ). Bảng 2.6. Kết quả đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số từ năm 2015 - 2018 Kết quả đánh giá, phân loại Năm Cấp xã DTTS Số lượng
đánh giá,
phân loại HTXSNV HTT HT HTXSNV HTT HT 2015 45 15 13 17 10 9 5 2016 45 20 12 13 15 6 3 2017 45 21 16 8 14 8 2 2018 45 23 15 7 15 7 2 (Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy ) Qua bảng 2.6 cho thấy kết quả đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2018 là 15 người, tăng 05 người so với năm 2015, hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2018 là 07 người, giảm 02 người so với năm 2015; hoàn thành nhiệm vụ/hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực giảm từ 5 người năm 2015 xuống còn 2 người năm 2018. Số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện tặng giấy khen năm 2015 là 10 người, năm 2016 là 15 người, năm 2017 là 14 người, năm 2018 là 15 người 42 2.2.2.4. Về uy tín trong công tác và năng lực tổ chức quản lý Bảng 2.7. Thực hiện chính sách phát triển của Nhân dân về uy tín trong công tác và năng lực tổ chức quản lý công việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Cấp xã DTTS TT Tiêu chí Tốt Khá TB Tốt Khá TB Rất
tốt Rất
tốt 1 14 16 10 5 12 4 2 6 2 16 15 9 5 10 4 2 8 Thái độ trách nhiệm,
uy tín trong công việc
Năng lực tổ chức quản
lý công việc (Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra thu thập) Về uy tín trong công tác: Trong tổng 24 phiếu thì có 06 phiếu lựa chọn phương án rất tốt, 12 phiếu lựa chọn phương án tốt, 4 phiếu lựa chọn phương án khá. Số phiếu lựa chọn phương án trung bình là 2 phiếu. Tỷ lệ này cho thấy thái độ trách nhiệm, uy tín trong công việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn chưa cao, chưa lấy được lòng tin của dân, uy tín trong công tác còn thấp. Cần tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để nâng cao uy tín trong công việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện. Về năng lực tổ chức, quản lý công việc bảng số liệu trên cho thấy, số phiếu lựa chọn phương án rất tốt là 08 phiếu, có 10 phiếu lựa chọn phương án tốt, 04 phiếu lựa chọn phương án khá, 02 phiếu lựa chọn phương án trung bình. Điều này cho thấy cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có khả năng tổ chức quản lý công việc khá cao. Tuy nhiên, vẫn có 02 phiếu lựa chọn phương án trung bình, phản ánh vẫn còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tổ chức chưa tốt, quản lý công việc chưa khoa học, hiệu quả công việc chưa cao. Qua kết quả thu thập trên, có thể thấy số phiếu lựa chọn phương án trung bình chiếm tỷ lệ thấp, phản ánh khả năng tổ chức quản lý tốt của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, cần tiếp tục phát huy 43 nâng cao khả năng tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện. Nhìn chung, việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Sơn Tây từng bước được củng cố và kiện toàn, các chức danh được sắp xếp ổn định và phát huy tác dụng. Hoạt động quản lý, điều hành của cấp xã tiến bộ rõ rệt, thái độ phục vụ Nhân dân ngày càng tốt hơn, chế độ chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được cải thiện từng bước theo hướng đổi mới, nhất là trong công tác đào tạo có sự ưu ái hơn. Qua quy hoạch và thực hiện chính sách phát triển cho thấy cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đã được đào tạo cơ bản và có hệ thống, tuy nhiên về mặt quản lý Nhà nước chưa được đào tạo nên ảnh hưởng đến năng lực công tác và chưa theo kịp để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có kinh nghiệm công tác, trình độ học vấn và chuyên môn không đồng đều, còn thiếu và yếu về nhiều mặt. Nhiều người vừa phải thực hiện công tác lãnh đạo, quản lý, vừa phải theo học nâng cao và bồi dưỡng nghiệp vụ để đạt chuẩn. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn thiếu sáng tạo trong vận dụng đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để xây dựng nhiệm vụ chính trị của địa phương, nên chưa có những giải pháp mang tính đột phá trong thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Từ thực trạng Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số của huyện hiện nay, đặt ra chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong những năm tiếp theo để nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ này đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, ngoài việc cấp ủy các cấp quy hoạch cử cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đi học các chương trình về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý Nhà nước...thì bản thân đội ngũ này cần chủ động và xác định rõ việc học tập nâng cao trình độ mọi mặt là yếu tố rất quan trọng. 44 2.2.3. Các hoạt động thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây Trong những năm qua, Ban Thường vụ Huyện ủy Sơn Tây luôn quan tâm Thực hiện chính sách phát triển bộ máy hệ thống chính trị cơ sở, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Đến nay, hệ thống tổ chức chính trị cơ sở (cấp xã) đã đi vào nền nếp và ổn định; các cơ sở đã tổ chức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, kinh tế - xã hội phát triển, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước và giải quyết những vấn đề bức xúc trong dân. Các biện pháp cụ thể mà huyện Sơn Tây đã thực hiện trong thời gian qua là: 2.2.3.1. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số của huyện Sơn Tây trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực và từng bước đi vào nề nếp, ổn định. Quyết định số 493/QĐ-UBND ngày 31/3/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 - 2020, hàng năm Ủy ban nhân dân huyện Sơn Tây đã phối hợp với các Phòng, ban của các Sở trong trong tỉnh mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp trong lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp xã. Qua đó đã nâng cao kiến thức về quản lý Nhà nước, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ trong thực hiện nhiệm vụ. Bảng 2.8. Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2018 Số học viên
tham gia TT Lớp đào tạo, bồi dưỡng 1 Bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp trong lãnh đạo, quản lý
2 Bồi dưỡng kiến thức QLNN lãnh đạo, quản lý Cấp xã
36
29 DTTS
16
13 (Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây ) 45 Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn những hạn chế cần khắc phục đó là: Công tác quy hoạch, đào tạo để Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đảm bảo cơ cấu, chức danh chưa thực sự gắn với phát triển. Số lượt cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được cử đi đào tạo, bồi dưỡng tuy khá nhiều nhưng số người nợ tiêu chuẩn về nghiệp vụ quản lý Nhà nước vẫn còn không ít. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng nhiều trùng lặp, nặng tính khái quát, chung chung, nặng lý thuyết, thiếu đúc kết, kinh nghiệm thực tiễn, chưa chú trọng đào tạo kỹ năng thực thi nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, chưa đạt được kỹ năng cần thiết cho từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. 2.2.3.2. Thực hiện chính sách đề bạt, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Đề bạt, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số là một trong những nội dung quan trọng quyết định sự tương lai của huyện Sơn Tây. Trong những năm gần đây, huyện Sơn Tây đã thực hiện chặt chẽ theo quy trình nhằm hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong quá trình đề bạt, bố trí, Thực hiện chính sách phát triển cán bộ. Các tiêu chuẩn đề bạt, bố trí, phải xuất phát trên cơ sở yêu cầu tiêu chuẩn chức danh đảm nhận, phải bám sát yêu cầu của tổ chức và bám sát định hướng chung của công tác tổ chức cán bộ, là trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số, có trình độ đáp ứng yêu cầu của của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đề bạt, bố trí, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải chú ý đến nhân tài, cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng cho việc hỗ trợ kinh phí người giỏi. Từ năm 2015 đến nay số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đề bạt, bố trí trên địa bàn huyện đều có trình độ trung cấp trở lên 46 và trẻ tuổi, điều này phản ánh tính năng động, ham học hỏi của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện, dần thay thế đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ yếu kém, trì trệ. 2.2.3.3. Thực hiện chính sách quản lý cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Theo thống kê năm 2018 tổng số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số 24 người. Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây được bố trí đều cơ bản đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường, năng lực, phẩm chất, nguyện vọng. Chỉ còn một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ chuyên môn còn hạn chế, chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với công việc được giao. Trong giai đoạn từ năm 2015 - 2018, huyện Sơn Tây đã thực hiện chính sách phát triển chặt chẽ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, nhằm lựa chọn những cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ chưa đạt chuẩn để cử đi đào tạo. Đồng thời sắp xếp vị trí phù hợp với trình độ chuyên môn, đây là cơ sở để cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo huyện Sơn Tây luôn quan tâm chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để có những chính sách khen thưởng, kỷ luật từ đó nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trong huyện. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại việc cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn chưa phù hợp với vị trí công tác và yêu cầu thực tiễn của công việc nên hiệu quả công việc chưa cao. 47 Bảng 2.9. Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên về sự phù hợp giữa trình độ, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đối với các vị trí đang đảm nhận Ý kiến đánh giá Cấp xã DTTS SL SL SL SL TT Phù
hợp Bình
thường Phù
hợp Bình
thường % % % % % % SL
Không
phù
hợp SL
Không
phù
hợp 5 22,2 11,1 40 18 4 30 66,7 4,4 1 Công việc đang đảm nhận phù hợp với năng lực
8,9
10 2 4 31,1 26,7 13,3 8,9 12 14 6 29 64,4 8,9 (Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra thu thập) Thông qua việc lấy ý kiến của cán bộ lãnh đạo của huyện tại bảng 2.9 về sự phù hợp giữa trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đối với vị trí đang đảm nhận, có thể nhận thấy một số vị trí chưa thực sự phù hợp với trình độ, năng lực chuyên môn, mức độ phù hợp là 18, chiếm tỷ lệ 40%; bình thường là 04, chiếm tỷ lệ 8,9%, không phù hợp là 02, chiếm tỷ lệ 4,4%. Thực hiện chính sách phát triển về công việc đang đảm nhận phù hợp với chuyên ngành đào tạo thấp, mức độ phù hợp là 14, chiếm tỷ lệ 31,1%; bình thường 06, chiếm 13,3%; không phù hợp là 4, chiếm tỷ lệ 8,9%. Qua kết quả thu thập được, có thể thấy vẫn có một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn và năng lực chưa thật sự phù hợp với ví trí công việc đang đảm nhiệm. Đây là hệ quả trước đây để lại, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn không đáp ứng được yêu cầu công việc, năng lực cá nhân không phù hợp với đặc điểm công việc. Kết quả thu thập được tương đối chính xác, do quy định về số lượng và cơ cấu nên một cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phải có hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, đồng thời phải có hiểu biết nhất định về đặc điểm của địa phương. 48 Vì vậy, để đảm bảo phù hợp với công việc, ngoài nỗ lực học hỏi tự nâng cao trình độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số, cần thiết phải có kế hoạch đào tạo bổ sung kiến thức chuyên môn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số, từ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công việc. 2.2.3.4. Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Việc đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số thực hiện theo quy định của Luật cán bộ, công chức và Nghị định số 112/2011/NĐ-CP. Qua tổng hợp báo cáo kết quả Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số từ năm 2015 đến năm 2018, thì đa phần hoàn thành tốt nhiệm vụ, vẫn còn một số ít hoàn thành nhiệm vụ có mặt còn hạn chế, không có cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số còn mang nặng tính hình thức. Bảng 2.10. Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số về phẩm chất, đạo đức, lối sống; tiến độ và kết quả thực hiện công việc được giao; thái độ phục vụ Nhân dân; ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng bản thân Ý kiến đánh giá SL % SL % SL % SL % Cấp xã DTTS TT Nội dung Tốt Khá Tốt Khá 44,4 4 8,9 0 0 Trung
bình
SL % Trung
bình
SL % 40 4 8,9 2 4,5 28 62,2 15 33,3 2 4,5 20 1 100 0 0 0 0 25 55,6 16 35,5 4 8,9 18 2 44,4 2 4,5 2 4,5 40 88,9 3 6,6 2 4,5 24 3 Phẩm chất đạo
đức, lối sống,
tác phong và lề
lối làm việc
Tiến độ và kết
quả thực hiện
nhiệm vụ được
giao
Thái độ phục
vụ Nhân dân 4 Cán bộ có ý 36 80 5 11,1 4 8,9 20 49 tự rèn
thức
bồi
luyện
dưỡng chuyên
môn, nâng cao
nghiệp vụ (Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra thu thập) Thông qua việc lấy ý kiến của cán bộ lãnh đạo cấp trên tại bảng 2.10 về việc Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên các tiêu chí phẩm chất, đạo đức, lối sống; tiến độ và kết quả thực hiện công việc được giao; thái độ phục vụ Nhân dân; ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng bản thân, có thể thấy sự Thực hiện chính sách phát triển cấp trên đối với đội ngũ này khá tốt. Đối với phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc có 44,4% ý kiến cho là tốt; 8,9% ý kiến cho là khá. Đối với tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao có 40% ý kiến cho là tốt; 8,9% ý kiến cho là khá, 4,5% ý kiến cho là trung bình. Đối với thái độ phục vụ Nhân dân có 100% ý kiến cho là tốt. Đối với Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ có 44,4% ý kiến cho là tốt; 4,5% ý kiến cho là khá, 4,5% ý kiến cho là trung bình. Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số qua 4 tiêu chí trên là khá tốt trong giải quyết công việc, phẩm chất đạo đức, thái độ trách nhiệm và ý thức tự rèn luyện để vươn lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tác phong làm việc, ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ, tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao chiếm 4,5% ở mức trung bình. Đây là một bộ phận thiểu số tuy nhiên lại gây ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, hình ảnh của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số với Nhân dân, làm giảm sự tin tưởng của Nhân dân đối với hệ thống chính trị cơ sở. Do đó, cần nâng cao trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã 50 là người dân tộc thiểu số trong việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ đảm tính dân chủ, khách quan để có các biện pháp kỷ luật phù hợp, nâng cao uy tín và sự tin tưởng của Nhân dân. 2.2.3.5. Thực hiện chính sách kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trong thực hiện nhiệm vụ Trong những năm qua, cán bộ lãnh đạo huyện Sơn Tây tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các cơ quan hệ thống chính trị cơ sở. Chấn chỉnh phong cách làm việc, khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Tập trung củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh, đảm bảo đầy đủ chế độ, chính sách để cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã yên tâm công tác có hiệu quả. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, thực hiện hiệu quả chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện thường xuyên, chưa nắm bắt được tình hình thực tế tại địa phương, vẫn còn tình trạng nể nang trong quá trình kiểm tra. Thái độ phục vụ Nhân dân chưa đúng mực, thực hiện các nhiệm vụ, yêu cầu công việc chưa đảm bảo theo yêu cầu,…Do đó, công tác kiểm tra, giám sát cần thực hiện khách quan, trên tinh thần trách nhiệm, góp ý để đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ngày càng hoàn thiện hơn nữa. 2.2.4. Những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số 2.2.4.1. Ưu điểm Về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác Hoạt động lãnh đạo, quản lý là công việc phức tạp, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có năng lực, phải biến những kiến thức đã học thành thực tiễn và Thực hiện chính sách phát triển thành những kỹ năng của bản thân. Nhìn chung đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây đã có năng lực và những kỹ năng cơ bản trong việc thiết lập các mục tiêu, tổ chức thực hiện các công việc của cơ quan, đơn vị theo chức năng nhiệm vụ được phân công. Về cơ 51 bản đội ngũ này đang dần nâng cao năng lực và rèn luyện các kỹ năng cần thiết trong ứng xử, giao tiếp, có sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, có trách nhiệm với công việc được giao, có thái độ đúng đắn trong quá trình lãnh đạo, quản lý, có thái độ ân cần, hòa nhã, có thái độ tích cực, tự giác, kỷ luật cao, không gây sách nhiễu, phiền hà trong lãnh đạo, quản lý. Phần lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số biết vận dụng kiến thức chuyên môn được đào tạo, vận dụng các văn bản, quy định của Nhà nước trong xử lý công việc và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công việc hàng ngày. Về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống Phần lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây có phẩm chất chính trị, đạo đức các mạng, tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình trong chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước. Đồng thời chấp hành tốt sự phân công, điều động, luân chuyển của tổ chức, có lối sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt nội quy, quy chế của cơ quan, không sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc, đảm bảo các hoạt động lãnh đạo, quản lý minh bạch, công khai, giữ vững phẩm chất đạo đức công vụ, đáp ứng được yêu cầu cơ bản trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Thực hiện chính sách hiệu quả thực hiện công việc được giao Việc thực hiện chính sách phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây nhìn chung những năm gần đây đã có sự chuyển biến tích cực, có sự nâng cao chất lượng trên các mặt phẩm chất lý luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng công tác….Thực hiện chính sách phát triển tương đối phù hợp với sự phát triển của xã hội, bước đầu đáp ứng với yêu cầu của cơ chế quản lý mới. Thực hiện chính sách về uy tín trong công tác và năng lực tổ chức, quản lý 52 Qua khảo sát về uy tín trong công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây thì đa số gây dựng được uy tín trong công việc, với đồng nghiệp và người dân, là cơ sở để thực hiện chính sách phát triển vững chắc lòng tin của Nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Năng lực tổ chức, quản lý khá tốt, đa số đã chủ động trong công tác, quản lý công việc khoa học hơn, công nghệ thông tin được áp dụng vào công việc, năng suất, hiệu quả công việc được nâng cao. Những năm qua, trình độ chuyên môn, năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được nâng lên, chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của địa phương trong việc tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số. Điều này nói lên sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đã vươn lên để tiếp thu những cái mới. Hiện nay đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đã được đưa đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ 100%. Về chế độ, chính sách đối với cán bộ cấp xã nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nói riêng đã được cải thiện và đổi mới. Thực hiện theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi năm 2013, quy định chế độ, chính sách của cán bộ, công chức cấp xã được áp dụng chung đối với cán bộ, công chức Nhà nước, đã tạo tâm lý yên tâm ổn định công tác đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số. Những năm qua, được sự quan tâm của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo và lập kế hoạch chặt chẽ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng. Hàng năm, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi dưỡng các lĩnh vực như Lý luận Chính trị, quản lý hành chính Nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc.... Bên cạnh đó, công tác quản lý, Thực hiện chính sách phát triển của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ngày càng được chú trọng hơn, do đó sự Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ngày càng được nâng lên so với trước đây. 53 2.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân Hạn chế về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trẻ, trong độ tuổi từ 31 đến 45 tuổi tuy năng động, nhiệt tình nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn, tinh thần học hỏi chưa cao nên trong công tác lãnh đạo, quản lý còn nhiều thiếu sót, xử lý công việc chưa chính xác, làm mất nhiều thời gian, gây ra nhiều khâu trì trệ, còn số đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên 50 tuổi thì có nhiều kinh nghiệm trong công tác, tuy nhiên đội ngũ này lại có một sức ỳ khá lớn, chậm tiếp thu những kiến thức chuyên môn mới, làm việc một cách máy móc, thiếu sáng tạo, thao tác chậm, không biết khai thác các phần mềm công nghệ thông tin, không biết ứng dụng công nghệ tin học trong công việc nên chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính hiện nay. Vì vậy xét về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây là chưa cao. Hạn chế về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đa phần đều có trách nhiệm với công việc, có phẩm chất tốt, có lối sống lành mạnh, chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít yếu kém về phẩm chất, đạo đức, chưa gương mẫu trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số khi triển khai thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao còn chậm, chưa chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ, chưa làm hết trách nhiệm, ỷ lại vào cấp trên, vẫn còn tình trạng chờ văn bản giao việc hoặc đôn đốc mới triển khai thực hiện, công tác tham mưu cho lãnh đạo cấp trên còn kém, hiệu quả chưa cao, việc chỉ đạo phối hợp giữa các cấp, các bộ phận chưa chặt chẽ. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn vi phạm nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, chưa chấp hành tốt các quy định và hương ước của nơi cư trú, sa sút về phẩm chất, đạo đức, tham gia vào các tệ nạn xã hội như 54 đánh bạc, lô đề, cá độ bóng đá, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ trước những yêu cầu bức xúc chính đáng của Nhân dân. Hạn chế về trình độ đào tạo, chuyên môn, nghiệp vụ Việc đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chưa được chú trọng, nội dung đào tạo còn trùng lặp, mang nặng tính lý thuyết, ít có tính thực tiễn. Công tác Thực hiện chính sách phát triển kết quả đào tạo chưa đầy đủ và khách quan, mang tính hình thức, mang nặng về bằng cấp, mang tính thủ tục, hoàn thiện hồ sơ, hình thức đào tạo ít mang lại hiệu quả trong công việc. Trong khi đó có một số sinh viên là người dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp đại học chính quy ở các trường đại học vẫn không xin được việc làm. Điều này tạo nên sự bất bình đẳng trong công tác đào tạo, thực hiện chính sách phát triển cán bộ là người dân tộc thiểu số như hiện nay. Kiến thức về pháp luật, về quản lý Nhà nước còn thiếu, số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có bằng cấp về công nghệ thông tin ngày càng tăng cao và tăng cả về chủng loại bằng, chứng chỉ nhưng thực tế việc áp dụng vào công việc còn rất hạn chế. Hạn chế về hiệu quả thực hiện công việc được giao Xét về số lượng và cơ cấu có nhiều mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phát triển chưa đồng đều, chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tinh thần trách nhiệm, phong cách làm việc còn yếu và chậm đổi mới, iện tượng lãng phí thời gian, đi muộn về sớm, làm việc riêng trong giờ hành chính như đọc mạng, tán chuyện,…vẫn chưa được khắc phục và đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thực thi công việc. Thậm chí có một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã lợi dụng chức năng, nhiệm vụ để trục lợi cá nhân, gây bất bình và giảm lòng tin của Nhân dân, lề lối làm việc tùy tiện, theo thói quen, tình cảm. Do trình độ nhận thức các mặt còn hạn chế, kiến thức chuyên môn yếu, thiếu kinh nghiệm công tác nên khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin chậm; khả năng nắm và truyền đạt đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước vào quần chúng Nhân dân còn bị hạn chế, nên hiệu quả công tác chưa 55 cao, còn thiếu khả năng để hoàn thành nhiệm vụ một cách sáng tạo. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn kiêm nhiệm chức danh khác, hạn chế đến việc giải quyết nhiệm vụ chính của chức danh phụ trách, đảm nhiệm. Nguyên nhân khách quan của hạn chế Thứ nhất, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và chậm đổi mới, chế tài chưa chặt chẽ và nghiêm minh, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công việc hiện tại, yêu cầu của quá trình hội nhập và công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, môi trường làm việc còn mang tính khép kín, bó hẹp tại địa phương nên đã vô hình tạo ra rào cản để phát huy hết khả năng, khó tạo ra tính năng động cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số. Cơ sở vật chất trang bị cho đội ngũ này chưa được quan tâm đúng mức. Thứ ba, quá trình hội nhập quốc tế làm ảnh hưởng tới sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ, tiêu chuẩn đối với người thực hiện công việc, tạo ra khoảng cách giữa yêu cầu công việc và năng lực hiện có xu hướng ngày càng cách xa. Thứ tư, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, giá cả leo thang dẫn đến đời sống gặp nhiều khó khăn, thu nhập từ lương không đảm bảo được cuộc sống, hầu hết phải tìm nguồn thu nhập khác từ bên ngoài, mặc dù trong những năm gần đây chính sách tiền lương cũng đã có thay đổi có thêm 25% công vụ, tuy nhiên chế độ tiền lương vẫn chưa tương xứng với nhiệm vụ, để đội ngũ này yên tâm, chuyên cần với công việc ở vị trí công tác của mình. Công tác đề bạt, bố trí, Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số vẫn còn một số điểm hạn chế thông qua hình thức bầu hoặc chỉ định, cơ cấu của cấp trên theo hướng lấy ý chí cá nhân áp đặt đại diện cho tập thể để thực hiện, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua vẫn chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Việc đào tạo, bồi dưỡng tuy đã có những cải tiến về nội dung, chương trình, nhưng vẫn còn nặng về lý thuyết, việc rèn luyện các kỹ năng thực hành còn ít, vẫn còn tình trạng đề bạt, bố trí không đúng với chuyên môn, sở trường thế mạnh của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu. 56 Thứ năm, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được coi là quan trọng và cần thiết, nhưng làm chỉ là hình thức, chưa coi đây là việc làm thường xuyên, trực tiếp và là trách nhiệm của mình. Khi lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số kế cận chưa đi sâu nghiên cứu phát hiện những năng khiếu, sở trường để đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp, chưa xem xét đánh giá, điều chỉnh, bổ sung kịp thời danh sách cán bộ dự bị, chưa dựa vào chức danh quy hoạch để xác định con người. Trong quá trình làm quy hoạch còn giản đơn, hình thức, quy hoạch chưa gắn với thực trạng và nhu cầu thực tế nên hiệu quả quy hoạch không cao. Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số được đề bạt từ nguồn quy hoạch thấp, cán bộ người dân tộc thiểu số sau khi được đưa vào diện quy hoạch chưa được cấp ủy thực sự quan tâm giúp đỡ, đào tạo và bảo vệ khi có những thông tin sai lệch. Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nhìn chung chưa xác định được cơ cấu độ tuổi, chuyên môn, chưa gắn với quy hoạch tổng thế, chiến lược Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược Thực hiện chính sách phát triển con người. Việc tiến hành quy hoạch chưa có cơ sở khoa học vì chưa Thực hiện chính sách phát triển được cơ cấu chức danh tiêu chuẩn. Thứ sáu, công tác thanh tra, kiểm tra cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là cần thiết trong quá trình hoạt động nhằm tăng cường chức năng pháp chế, răn đe cán bộ, hướng người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số thực sự trở thành người công bộc của Nhân dân, trung thành với Đảng, tận tụy với Nhân dân. Thanh tra, kiểm tra giúp phát hiện mặt xấu, mặt tốt của chủ trương, chính sách, ngăn chặn khuyết điểm, biểu dương ưu điểm của cán bộ cấp xã. Tuy nhiên, công tác thanh tra chưa được quan tâm đúng mức, không được làm thường xuyên, thiếu nghiêm túc, còn nể nang, xuê xoa. Quy chế làm việc của các đơn vị thực hiện một cách tùy tiện, chính sự lỏng lẻo trong quản lý đối với việc thực hiện quy chế làm việc, chế độ trách nhiệm dẫn đến thái độ, ý thức phục vụ Nhân dân, ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây còn hạn chế, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác trong quá trình lãnh đạo, quản lý. 57 Thứ bảy, mặc dù chính sách đã có đổi mới, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập. Chính sách tiền lương chưa thực sự là đòn bẩy khuyến khích cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số hoàn thành nhiệm vụ, đạt hiệu quả công tác cao, vấn đề lợi ích nhóm vẫn còn xuất hiện, điều này có thể là do nguyên nhân xuất phát từ việc thu nhập quá thấp, không đảm bảo cuộc sống, nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã tìm nguồn thu nhập ở bên ngoài là chính. Những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có tri thức có phát huy được hay không còn phụ thuộc vào việc bố trí, phát triển, trong đó vấn đề Thực hiện chính sách phát triển cán bộ đúng là vấn đề then chốt. Chế độ chính sách không khuyến khích, hỗ trợ được người tài, năng động, sáng tạo, người làm việc có hiệu quả, vẫn còn chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Công tác khen thưởng thiếu khoa học, mang bệnh thành tích, khen tràn lan, chưa thực sự trở thành động lực khuyến khích phấn đấu vươn lên của đội ngũ cán bộ. Mặt khác, khen tràn lan sẽ làm mất công bằng ghi nhận công lao đóng góp của đội ngũ cán bộ xứng đáng được khen, dẫn đến làm mất ý chí phấn đấu của họ. Công tác kỷ luật là quá trình áp dụng pháp luật mà đối tượng hướng tới là con người trong đơn vị, nên hoạt động này cần chính xác, rõ ràng và minh bạch, kết quả của một quyết định kỷ luật phải đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật. Nhìn chung, công tác xử lý kỷ luật vẫn còn lung túng trong việc áp dụng các văn bản pháp luật để thực hiện trình tự, thủ tục kỷ luật. Thủ tục hành chính trong công tác xử lý kỷ luật chưa được quy định rõ, bên cạnh đó hành vi vi phạm của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã rất tinh vi nên khó phát hiện, nếu phát hiện cũng khó xử lý. Tiểu kết chương 2 Việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây đã và đang là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Về chuyên môn cơ bản đảm bảo theo quy định, tuy nhiên vẫn còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc hạn chế; công tác đề bạt, 58 bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số còn bị chi phối bởi các quan hệ gia đình, họ hàng, bạn bè thân hữu và các động cơ cá nhân khác nên thường chỉ định theo hướng lấy ý chí cá nhân áp đặt cho tập thể để thực hiện; chính sách ưu đãi còn nhiều bất cập; công tác khen thưởng chậm đổi mới, mang bệnh thành tích, khen thưởng tràn lan, chưa thực sự trở thành động lực khuyến khích sự phấn đấu vươn lên của đội ngũ cán bộ; công tác xử lý kỷ luật vẫn còn lung túng trong việc áp dụng các văn bản pháp luật để thực hiện trình tự, thủ tục kỷ luật. 59 Chương 3 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI HUYỆN SƠN TÂY, QUẢNG NGÃI HIỆN NAY Để thực hiện tốt chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây giai đoạn 2019 – 2025, Ban Thường vụ Huyện ủy cần tập tiếp tục quan tâm hơn nữa việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, nhằm nâng cao kiến thức cần thiết về công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước, phương pháp và kỹ năng quản lý hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành đạt hiệu quả cao nhất. Cơ cấu đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt tiêu chuẩn, có năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và gắn với việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã. Bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ, đủ nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số thay thế cán bộ chủ chốt cấp xã ở mỗi nhiệm kỳ tiếp theo và làm nguồn cán bộ cho cấp huyện. Để thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số các giải pháp chủ yếu sau đây: 3.1. Thực hiện chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là yếu tố quan trọng trong việc phát triển, xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh. Muốn phát triển, xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh thì phải thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và định hướng. Thực tế đã chứng minh rằng, những địa phương nào có chính quyền cấp xã vững mạnh là do có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã mạnh, những địa phương có điểm nóng về chính trị, đơn thư khiếu nại, tố cáo nhiều thì nguyên nhân đầu tiên bắt 60 đầu việc làm yếu kém từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây tuy đã được củng cố, chọn lọc, song so với yêu cầu nhiệm vụ mới như hiện nay thì việc xây dựng và thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số vẫn chưa đồng đều. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện hiện nay là rất cấp bách. Cấp xã là nơi tổ chức thực hiện mọi chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thành hiện thực, mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của Nhân dân; uy tín của Đảng, Nhà nước được nâng cao hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số nói riêng. Chính vì vậy, đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số sa sút về phẩm chất đạo đức, yếu kém về năng lực mà không thể khắc phục, sửa chữa được thì không bố trí đi học, đi đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Trước mắt phải thực hiện chính sách phát triển thật tốt số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số hiện có, vì đội ngũ này số có phẩm chất, năng lực tốt không phải là sản phẩm tự nhiên mà là sản phẩm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ của bản thân họ, đó là quá trình tự tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phải gắn chặt với quy hoạch cán bộ, đồng thời phải thực hiện chính sách phát triển tiêu chuẩn cán bộ phù hợp đối với từng chức danh, trên cơ sở đó để người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có hướng phấn đấu. Muốn thực hiện chính sách phát triển có hiệu quả công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cần thực hiện tốt các giải pháp sau: Thứ nhất, cần quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân về vai trò quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ. Thứ hai, phải phát huy dân chủ trong toàn bộ quy trình quy hoạch. Thứ ba, phải đảm bảo tính khả thi, khoa học trong công tác quy hoạch. 61 Thứ tư, thực hiện đồng bộ các khâu khác trong công tác cán bộ cấp mình. Thứ năm, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc nhằm thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, đưa công tác này đi vào nền nếp. Thứ sáu, triển khai và thực hiện ngay công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược, đồng thời thực hiện kế hoạch luân chuyển, điều động, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách và trưởng thành qua thực tiễn. Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý được thông báo công khai trong cấp ủy, đơn vị và cá nhân cán bộ được quy hoạch biết. Việc lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của từng vị trí, chức danh cho phù hợp các tiểu chuẩn cán bộ. Bên cạnh đó cũng cần đổi mới nội dung và phương pháp để nâng cao việc thực hiện chính sách phát triển nguồn quy hoạch cán bộ. Phải chú trọng tạo nguồn cán bộ cho quy hoạch, bao gồm cả việc hỗ trợ kinh phí nhân tài, việc tiếp nhận, đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã, khắc phục tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch cán bộ, hiện tượng cục bộ, khép kín trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phải đứng trên tổng thể của huyện, phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện từ năm 2025 trở về sau. Nguồn quy hoạch mới phải có độ tuổi trẻ hơn cán bộ đương chức, cấp dưới phải trẻ hơn cấp trên. Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải được tiến hành, rà soát hàng năm sau Đại hội nhiệm kỳ. Đào tạo, bồi dưỡng là một trong những giải pháp có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng và thực hiện chính sách phát triển công tác cán bộ. Để nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng huyện Sơn Tây đã ưu tiên bố trí kinh phí phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng năm 2018 lên tới 600.000.000 (sáu trăm triệu đồng). Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đã được cải tiến phù hợp với nhu cầu thực thực tế của từng xã. Hàng năm cấp ủy đảng và chính quyền cấp xã đưa công tác quy hoạch thành nhiệm vụ thường xuyên, có tổng kết, tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp thích hợp. Việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đưa vào quy hoạch phải thận trọng, kỹ lưỡng, dân chủ, công khai, minh bạch trên cơ 62 sở giới thiệu của cơ quan, đơn vị. Trước mắt, để đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Xây dựng chương trình, chu kỳ sát hạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số để Thực hiện chính sách phát triển năng lực cán bộ, (chu kỳ có thể từ 3 đến 5 năm). Xác định số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số theo ngạch từng xã để xem xét bổ nhiệm lại cho phù hợp. Quy định lại các loại văn bằng, chứng chỉ cho từng chức danh cho phù hợp với điều kiện chung của huyện. Định hướng đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, các kỹ năng lãnh đạo, quản lý, tránh tình trạng hợp thức hóa bằng cấp để đạt được tiêu chuẩn chức danh và ngạch bậc. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã theo yêu cầu tăng cường chất lượng, tinh giản biên chế hành chính, đáp ứng yêu cầu chiến lược thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2020 - 2025, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số, giữa các độ tuổi, giới tính, lĩnh vực công tác; khắc phục tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Trong đào tạo, bồi dưỡng cũng phải tính đến yếu tố xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, cần quan tâm đến các đặc điểm, thế mạnh riêng của từng xã, từng đối tượng chức danh. Hằng năm, Ban Tổ chức Huyện ủy phải xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ, chứ không hạn chế theo chỉ tiêu từ trên quy định như hiện nay. Để chủ động hòa nhập có hiệu quả nhất, nhanh nhất, sớm thoát ra khỏi thực trạng chậm phát triển, tụt hậu so với các huyện bạn trong tỉnh, cần phải có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn, năng động, sáng tạo để tác động trực tiếp quá trình chuyển đổi này, nhằm khai thác triệt để các yếu tố tiềm năng tiềm ẩn ở huyện hiện nay. Do đó, cần có môi trường 63 thuận lợi để đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số nâng cao trình độ, được hỗ trợ về mặt vật chất để có sự yên tâm về mặt tinh thần. Trên cơ sở đổi mới và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phải đồng hành nâng cao mặt bằng dân trí. Thực tiễn chứng minh, mọi chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm chỉnh, đạt hiệu quả hay không ngoài việc phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí. 3.2. Đổi mới việc thực hiện chính sách công tác đề bạt, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người uy tín Công tác đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã có ý nghĩa quan trọng nhằm hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có đủ phẩm chất, năng lực, xứng đáng là công bộc của Nhân dân, đáp ứng yêu cầu của địa phương. Trên thực tế công tác đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển là một lĩnh vực khá phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến lợi ích của nhiều người, nên không tránh khỏi những nhược điểm. Việc đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây trong những năm qua bên cạnh kết quả đã đạt được về số lượng và các điều kiện, tiêu chuẩn phù hợp với cơ cấu các chức danh ở các xã, còn không ít nhược điểm là việc thực hiện chính sách phát triển và xây dựng kế hoạch đề bạt, bố trí chưa phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, chưa bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, khách quan,...(đây cũng là thực trạng chung ở nhiều địa phương của tỉnh Quảng Ngãi hiện nay). Những nhược điểm trên có nguyên nhân chủ yếu do việc đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã chưa hoàn thiện, nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên về nguyên tắc của đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển còn hạn chế, các biểu hiện tiêu cực trong đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển còn chưa được khắc phục, vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý Nhà nước đối với cấp xã chưa đáp ứng được yêu cầu,... Hiện nay, số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã cơ bản đảm bảo về số lượng theo quy định. Tuy nhiên, trong những năm tới sẽ cần bổ sung thêm do có 64 một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đến tuổi nghỉ hưu. Vì vậy, cần tiến hành xây dựng đề án đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số để bổ sung vào các chức danh còn thiếu. Đây là khâu quan trọng trong quá trình quản lý, lựa chọn nhân sự, tác động lớn đến các công tác cán bộ. Vì thế, để lựa chọn được người thích hợp với công việc, phát huy được năng lực cần làm tốt những nội dung Thực hiện chính sách phát triển và xây dựng tiêu chuẩn đề bạt, bố trí phải phù hơp với tình hình thực tế của từng địa phương, phải căn cứ vào nhu cầu, vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn, không nên cứng nhắc theo tiêu chuẩn đã quy định cụ thể của từng chức danh (tùy việc mà chọn người và tùy người mà xếp việc) cần mở rộng thêm điều kiện, tiêu chuẩn đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển đối với các xã. Thay đổi hình thức đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ từ cách lấy phiếu tín nhiệm sang hình thức thi tuyển, phỏng vấn cán bộ để bảo đảm tính khách quan, công bằng, nâng cao chất lượng, lựa chọn được những người có trình độ, năng lực để tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cấp xã bảo đảm tính cạnh tranh trong đề bạt, bố trí cán bộ. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật về đề bạt, bố trí, Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Cần tiến hành kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp không đảm bảo các quy định của pháp luật về đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ cấp xã. 3.3. Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số 3.3.1. Đẩy mạnh việc đánh giá phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Thực hiện chính sách phân loại và đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là khâu quan trọng đầu tiên của công tác tổ chức, đồng thời đó cũng là việc làm thường xuyên khi thực hiện các khâu khác nhau như quy hoạch, bố trí, đề bạt, bầu, bổ nhiệm, đào tạo, khen thưởng và kỷ luật cán bộ, công chức. 65 Ở khâu quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải dựa trên sự phân loại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã đương chức một cách rõ ràng, nhằm nắm chắc thực lực và làm cơ sở cho việc sắp xếp, bố trí hay đào tạo lại, bổ sung cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số. Do đó, muốn quy hoạch tốt phải Thực hiện chính sách phát triển đúng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số. Việc bố trí công việc sau khi phân loại, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, phân thành các loại như sau: Loại làm tốt, xuất sắc nhiệm vụ, có thể thực hiện nhiệm vụ cao hơn thì khi xây dựng quy hoạch cần đưa vào diện dự bị cho các chức danh trên chức danh đương nhiệm. Loại hoàn thành nhiệm vụ, độ tuổi còn phù hợp thì giữ nguyên vị trí trong quy hoạch mới. Loại phải thay thế, chuyển đổi công tác vì nhiều lý do như đến tuổi hưu khi hết kỳ kế hoạch, sức khoẻ yếu hoặc phẩm chất, năng lực không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Loại được chọn cử đi đào tạo, bồi dưỡng để có thể đảm nhiệm chức danh khác nhau, cao hơn (hiện tại năng lực chưa đáp ứng với chức danh đó); loại phải đào tạo lại hoặc bồi dưỡng nâng cao do phẩm chất và năng lực hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu công tác. 3.3.2. Khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số . Từ những hạn chế trong công tác thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, trong thời gian tới huyện Sơn Tây cần tập trung vào các nội dung sau để khắc phục những hạn chế: Thứ nhất, tập trung vào đặc tính, phẩm chất đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đó như thế nào, có trung thành hay không. Thứ hai, tập trung vào hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, như ý thức chấp hành kỷ luật, thực hiện các quy định của tổ chức. 66 Thứ ba, tập trung vào kết quả thực hiện công việc như số lượng, chất lượng công việc được giao. Thực hiện chính sách phát triển và xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chức danh, tiêu chuẩn theo ngạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của từng đối tượng; hoàn thiện pháp luật về đánh giá, xếp loại, xây dựng và ban hành quy chế theo hướng lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, khối lượng, tiến độ và hiệu quả công việc, ý thức trách nhiệm đối với công việc để làm căn cứ đánh giá, xếp loại lãnh đạo, quản lý cấp xã. 3.4. Đổi mới cách thức thực hiện chính sách khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức Mục đích khen thưởng, kỷ luật là nhằm tạo động lực để cán bộ phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, nhằm động viên kịp thời, xứng đáng với thành tích họ đã đạt được. Vì vậy cần quy định cụ thể các hình thức khen thưởng tương ứng với thành tích đạt được đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có công trạng đã đạt thành tích xuất sắc trong lĩnh vực quản lý, điều hành, cần khen thưởng bằng nhiều hình thức theo quy định của Luật, kèm theo đó là những phần thưởng vật chất nhất định xứng đáng với công sức họ đã lao động, cống hiến. Đồng thời cần được xét nâng bậc lương trước thời hạn, ưu tiên khi xem xét giữ các vị trí khác cao hơn vị trí đương nhiệm. Việc khen thưởng kịp thời không những có tác dụng biểu dương người đã có thành tích, khuyến khích họ tiếp tục phấn đấu mà còn trở thành động lực thúc đẩy những người khác noi gương, phấn đấu theo. Cần đưa công tác thi đua khen thưởng vào nền nếp, thực chất, thực sự là một nguồn lực tinh thần mạnh mẽ trong chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức, chú trọng các hình thức khen thưởng, khen thưởng kịp thời thỏa đáng những cán bộ có thành tích, cống hiến xuất sắc để động viên, khích lệ sự cống hiến của họ nhằm thúc đẩy cán bộ cấp xã nâng cao hiệu quả công tác. Tuy nhiên, cũng cần khắc phục “bệnh thành tích”, hình thức, lãng phí. Khen thưởng phải đi đôi với phê bình và kỷ luật, cần phải quy định rõ những chế tài nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm pháp luật, ngăn ngừa việc xảy ra vi phạm kỷ 67 luật, là việc làm kể cả người cán bộ, Nhà nước và Nhân dân đều không mong muốn, nếu để xảy ra thì vừa phải xử lý cán bộ, vừa làm ảnh hưởng đến uy tín của hệ thống chính trị cấp xã. Khi xử lý kỷ luật cán bộ, công chức cần phải chính xác, rõ ràng, minh bạch, kết quả của một quyết định kỷ luật phải thỏa mãn với hành vi của người vi phạm và phù hợp với quy định của pháp luật. 3.5. Tăng cường thực hiện chính sách kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Cấp xã là gần gũi Nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính, cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi. Thế mà vì hẹp hòi, bao biện, không biết phân công, vì dân chưa biết lựa chọn để cử những người có năng lực, vì cấp trên không biết cân nhắc, giúp đỡ, đốc thúc, kiểm tra, huấn luyện, thành thử phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần”. Thực tiễn thời gian qua tại huyện Sơn Tây cho thấy, những sai phạm của một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, nếu không được kiểm tra, uốn nắn kịp thời sẽ tạo cơ hội cho những sai lầm lớn hơn dẫn đến mất lòng tin trong Nhân dân, uy tín của Đảng, của Nhà nước đối với Nhân dân bị giảm sút, có trường hợp phải kỷ luật gián chức, cảnh cáo. Vì vậy, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải được tiến hành thường xuyên, không chờ khi có vi phạm nghiêm trọng mới kiểm tra xử lý kỷ luật. Thực hiện Quy định 217; 218 của Bộ Chính trị về công tác giám sat, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo tinh thần thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Để bảo đảm thực hiện tốt ba điểm đó, cần thiết phải thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, và xem đó là điều kiện bảo đảm việc thực thi nhiệm vụ một cách tích cực, đúng đắn, để tạo cho họ thực sự vừa hồng, vừa chuyên. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp 68 bảo đảm việc chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong thực thi nhiệm vụ công vụ. Lãnh đạo, quản lý thống nhất là bảo đảm cho hoạt động cấp xã được nhất quán, nhịp nhàng, có trật tự và hướng tới tính hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, công tác giám sát, thanh tra cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã chưa được quan tâm đúng mức, chưa thực sự có hiệu quả, còn biểu hiện nể nang, hình thức, nên cần có những giải pháp sau: Thứ nhất, cần có quy định cụ thể hơn về thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, để bảo đảm cho quá trình lãnh đạo, quản lý thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật, có hiệu quả cao. Thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho cấp trên biết được cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thực hiện công việc được giao đến đâu, có đúng hay không, có gì sai sót không. Nếu có sai phạm thì có hướng để chỉ đạo, uốn nắn kịp thời. Qua thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nhận thấy được ưu điểm, nhược điểm bản thân để có hướng điều chỉnh cho đúng, không vi phạm pháp luật. Thứ hai, muốn thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát phải sử công cụ, đó là pháp luật. Việc xây dựng và ban hành những quy định rõ ràng về thẩm quyền và cơ chế bảo đảm thực thi thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, giám sát của Đảng và Nhà nước, việc thực thi quyền khiếu nại, tố cáo một cách thuận lợi; đồng thời phải quy định rõ trách nhiệm về những sai phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ gây ra bằng các quy định kỷ luật cụ thể. Thứ ba, để cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số thực sự hướng tới phục vụ Nhân dân, cần phải có các quy định về kiểm tra thường xuyên và định kỳ, kết quả kiểm tra phải được công bố công khai, làm cơ sở để xét nâng bậc lương, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và xét hưởng. 3.6. Thực hiện đúng đắn chế độ chính sách ưu đãi đối với cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số Hệ thống chính sách là công cụ điều tiết năng lực lãnh đạo của cán bộ trong quản lý xã hội. Hệ thống chính sách tốt sẽ tạo động lực cho sự phát triển đối với 69 công tác cán bộ, nếu chính sách không tốt nó làm kìm hãm, triệt tiêu, cản trở sự phát triển công tác cán bộ. Trong công tác thực hiện chính sách phát triển đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nên có hệ thống chính sách đúng, hợp lý sẽ khuyến khích được tính tích cực, sự hăng hái, cố gắng yên tâm với công việc, nâng cao tính trách nhiệm, phát huy được sáng tạo, thu hút được nhân tài, làm cho nội bộ đoàn kết nhất trí cao, mọi người đồng tâm hiệp lực. Ngược lại, nếu hệ thống chính sách không hợp lý sẽ tạo ra tâm trạng chán nản, triệt tiêu tính tích cực, kìm hãm sự sáng tạo, nảy sinh nhiều tiêu cực, nội bộ mất đoàn kết, có thể đưa đẩy hàng loạt cán bộ lãnh đạo, quản lý đến chỗ sai lầm. Bởi vậy, muốn thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần phải có giải pháp đổi mới, cần phải hoàn thiện hệ thống chính sách cụ thể. Sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách hiện nay đòi hỏi phải đảm bảo yêu sau: Phải quán triệt, thể hiện được những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; đảm bảo quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi càng lớn, trách nhiệm càng cao. Hệ thống chính sách phải đảm bảo công bằng, có tính kích thích, khuyến khích tài năng sáng tạo, có sức lôi cuốn, hấp dẫn để mọi người phấn đấu vươn lên, cụ thể trên phương diện vật chất, tinh thần, chính trị, xã hội và nhân đạo, nhưng phải phù hợp với địa phương, không thoát ly, xa rời điều kiện kinh tế của của huyện Sơn Tây, để cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số thực sự yên tâm làm việc, chuyên tâm thì tiền lương phải là nguồn thu nhập chính và chủ yếu, đảm bảo đủ sống, có mức sống trên mức trung bình của xã hội. Việc cải cách mức phụ cấp hỗ trợ phải nhằm kích thích sự phấn đấu vươn lên, làm cho cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số luôn tu dưỡng, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ. 3.6.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số Trong giai đoạn hiện nay huyện Sơn Tây nổi lên một số vấn đề cần quan tâm và chú ý sau đây: 70 Cùng với việc đẩy mạnh việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Huyện ủy phải chú trọng thực hiện chính sách phát triển các phương án, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, công tác tổ chức cán bộ, để các cấp ủy cấp xã vận dụng khi thực hiện nhiệm vụ. Cần tổng kết về thực hiện chính sách phát triển cán bộ một cách thường xuyên, thông qua đó phát hiện những nhân tố mới, những cách làm mới trong công tác cán bộ, Thực hiện chính sách phát triển thực lực cán bộ và công tác cán bộ, một mặt vừa tìm ra nguyên nhân, khâu quan trọng của vướng mắc, khó khăn trong công tác cán bộ của từng xã để có giải pháp tháo gỡ, khắc phục khó khăn, phát huy những thành quả đạt được. Ngoài ra, tiến hành kiểm tra phẩm chất, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số, nêu gương người tốt việc tốt, uốn nắn những thiếu sót trong công tác cán bộ, ngăn chặn những biểu hiện thoái hóa, biến chất của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số. Kịp thời điều động, chuyển đổi vị trí công tác đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không có năng lực, năng lực quá yếu hoặc có vi phạm; điều động, luân chuyển, tăng cường cho cấp xã những cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số có uy tín từ các ban, ngành của huyện. Nơi nào mất đoàn kết nội bộ kéo dài thì phải tiến hành điều tra làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của mỗi cá nhân để sớm giải quyết dứt điểm, kịp thời tham mưu cấp có thẩm quyền chỉ đạo khắc phục. Cần phải tăng cường sự lãnh đạo tập thể về công tác cán bộ, vì quyết định vấn đề cán bộ có ý nghĩa quan trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh chính trị của từng cá nhân, đồng thời phải đề cao tính chịu trách nhiệm của cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý. 71 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Nghiên cứu đề tài, bản thân rút ra được kinh nghiệm và kết luận sau đây: 1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đang là nhân tố quyết định sự công trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện Sơn Tây. 2. Số lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số về chuyên môn cơ bản đảm bảo theo quy định, tuy nhiên về trình độ chuyên môn nghiệp vụ vẫn còn hạn chế, một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. 3. Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc còn hạn chế, đặc biệt là các phương tiện máy móc phục vụ cho công tác còn thiếu, làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số. 4. Để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trong thời gian đến, cần giải quyết nhiều vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản như: Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới công tác đề bạt, bố trí, đổi mới công tác khen thưởng, kỷ luật; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã; xây dựng và thực hiện đúng đắn chế độ chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã; tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ, thực hiện tốt chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số. 5. Với tiềm năng con người và tài nguyên hiện tại của huyện nếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được đào tạo, bố trí hợp lý, việc thực hiện chính sách phát triển sẽ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần thúc đẩy quá trình đưa huyện Sơn Tây sớm thoát khỏi huyện nghèo. 2. Kiến nghị Ngoài các giải pháp trên, để thực hiện tốt chính sách phát triển nguồn nhân lực cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, bản thân xin kiến nghị những nội dung sau: 72 * Đối với chính phủ: Đề nghị Chính phủ xây dựng chính sách đặc thù với cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số đang công tác tại xã. Kiên quyết đầu ra đề giải quyết số cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay không đủ điều kiện để đào tạo chuẩn hóa, do trình độ năng lực hạn chế, tuổi cao...như chính sách tinh giảm biên chế theo Nghị định 108/2007/NĐ-CP của Chính phủ, hiện được điều chỉnh, bổ sung theo Nghị định 113/2018/NĐ-CP của Chính phủ đang thực hiện đối với cán bộ không đủ điều kiện tái cử hoặc sức khỏe yếu, năng lực hạn chế, vì thực tế hiện nay số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thuộc diện này ở huyện vẫn còn nhưng chưa có cách giải quyết. * Đối với tỉnh Quảng Ngãi Đề nghị với Tỉnh ủy, HĐND, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng chính sách đặc thù với cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số đang công tác tại xã thuộc xã loại II về chế độ đào tạo, chế độ ưu đãi trong công tác,.. Tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện cho Trường chính trị tỉnh mở lớp trung cấp, phối hợp với Học viện Chính trị khu vực III đào tạo chính trị nhằm tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được học tập nâng cao trình độ; không phân biệt việc đào tạo chuyên môn chính quy hay tại chức để quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, phát triển, mà phải căn cứ vào năng lực thực tế của người đó. Đề nghị triển khai quyết liệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIX về chương trình trọng tâm thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực. 73 [ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo Huyện ủy về công tác cán bộ qua các năm (2015, 2016,2017, 2018); 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh (1946), Sửa đổi lề lối làm việc; 3. Học viện hành chính quốc gia (2005), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước, Nhà xuất bản đại học Quốc gia, Hà Nội; 4. Lê Quang Thạch (2013), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức chuyên môn các xã, thị trấn huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế; 5. Nghị định 113/2018/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 20/11/2014 về tinh giản biên chế; 6. Nghị định 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 về quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ; 7. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc; 8. Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 về công chức xã, phường, thị trấn; 9. Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; 10. Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2011 về việc xử lý kỷ luật đối với công chức; 11. Nghị định số 42/2010/NĐ-CP, ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; 12. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 và được sửa đổi, bổ sung năm 2013; 13. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Sơn Tây lần thứ XII, nhiệm kỳ 2015 – 2020; 14. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIX nhiệm kỳ 2015 - 2020; 15. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VIII về chiến lược cán bộ; 16. Nguyễn Kim Diện (2007), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính tỉnh Hải Dương, Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế; 17. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội; 18. Quốc hội ( 2013), Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 19. Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức; 20. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương; 21. Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; 22. Quyết định số 457/2008/QĐ-UBND, ngày 26/12/2008 của Ủy ban nhân tỉnh Quảng Ngãi ban hành quy định chế độ chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo quản lý của tỉnh được điều động, luân chuyển; 23. Quyết định số 481/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của Ủy ban nhân tỉnh Quảng Ngãi ban hành quy định chế độ hỗ trợ đối với cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh được cử đi đào tạo trong và ngoài nước; 24. Quyết định số 493/QĐ-UBND ngày 31/3/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 - 2020; 25. Thang Văn Phúc - Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; 26. Thông tư số 02/2011/TT-BNV ngày 24 tháng 01 năm 2011 của Bộ nội vụ về tiêu chuẩn khen thưởng;CC TC %
CC TC %
CC TC % CC TC %
A
3
15,6
A
7
28,9
A
13
A
24
2
Công việc đang đảm nhận phù hợp với chuyên ngành đào tạo
4