VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH NHƯ TRƯỚC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ

LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Chính sách công

Mã số : 8 34 04 02 Ngành : Quản lý kinh tế

Mã số : 8 34 04 10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐÀO THỊ ÁI THI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. HOÀNG DƯƠNG VIỆT ANH

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng

Ngãi” là kết quả của quá trình nghiên cứu và khảo sát, đánh giá việc thực hiện

chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Cùng với sự hướng dẫn tận tình của

PGS.TS. Đào Thị Ái Thi. Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong

luận văn Thạc sĩ Chính sách công về đề tài này là hoàn toàn trung thực, khách

quan và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Đinh Như Trước

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ ……………………………………………. .…………….7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số ........................................................................................7

1.2. Các tiêu chí để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số ................................................................................14

1.3. Các hoạt động thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số ................................................................................22

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ...................................................29

CHƯƠNG 2: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI . Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác

định.

2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, xã hội vùng dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây

…………………………………………………………………………………….L

ỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác

định.

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, QUẢNG NGÃI HIỆN NAY …………………………………………………………………………………….60

3.1. Thực hiện chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số ................................................................................60

3.2. Đổi mới việc thực hiện chính sách công tác đề bạt, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người uy tín .....................................64

3.3. Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số ...............................................................................................65

3.4. Đổi mới cách thức thực hiện chính sách khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức

…………………………………………………………………………………….67

3.5. Tăng cường thực hiện chính sách kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện

công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số .......................68

3.6. Thực hiện đúng đắn chế độ chính sách ưu đãi đối với cán bộ cấp xã người dân

tộc thiểu số ................................................................................................................69

KẾT LUẬN ..............................................................................................................72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu Tên bảng Trang

Số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc 2.1

36

thiểu số theo vị trí công tác từ năm 2015 - 2018

Số lượng và cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

2.2

37

dân tộc thiểu số theo giới tính năm 2018

Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

2.3

38

thiểu số phân theo độ tuổi năm 2018

Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

2.4

39

thiểu số theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ năm 2018

Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

2.5 tộc thiểu số đạt chuẩn theo trình độ lý luận chính trị,

40

quản lý Nhà nước, tin học từ năm 2015 - 2018

Kết quả đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

2.6

42

người dân tộc thiểu số từ năm 2015 - 2018

Thực hiện chính sách phát triển của Nhân dân về uy tín

trong công tác và năng lực tổ chức quản lý công việc của 2.7

43

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số

Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

2.8

45

là người dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2018

Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên về sự phù hợp

2.9 giữa trình độ, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

48

là người dân tộc thiểu số đối với các vị trí đang đảm nhận

Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên đối với đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số về

phẩm chất, đạo đức, lối sống; tiến độ và kết quả thực hiện 2.10

49

công việc được giao; thái độ phục vụ Nhân dân; ý thức tự

rèn luyện bồi dưỡng bản thân

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài

Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2013 và Luật tổ

chức chính quyền địa phương năm 2015, xác định chính quyền cấp xã có chức năng

bảo đảm việc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước. Những quyết định của Nhà nước và chính quyền các cấp khi ban

hành, triển khai thực hiện phải đảm bảo phát huy mọi khả năng và tiềm năng của

địa phương trên các phương diện như chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh,

quốc phòng, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân và

làm tròn nghĩa vụ của địa phương với Nhà nước.

Nhiệm vụ chính quyền cấp xã được Luật tổ chức chính quyền địa phương

năm 2015 quy định. Sự vững mạnh của chính quyền cấp xã là nền tảng cho sự vững

mạnh của hệ thống chính quyền trong cả nước và ngược lại. Mục tiêu của công

nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, có cơ

sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù

hợp với trình độ Thực hiện chính sách phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống

vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước

mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có một vai trò rất quan trọng, là lực

lượng nòng cốt để điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức chính quyền cấp xã ở

vùng cao, miền núi, nơi có đông người dân tộc thiểu số đang sinh sống. Vì thế, cán

bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số là nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết

định sự thành bại của cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Hồ Chí Minh từng khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,

“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Xuất phát từ quá

trình đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc thực hiện chính sách

phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có ý

nghĩa quan trọng tới sự phát triển bền vững của huyện Sơn Tây nói riêng.

1

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng thấm nhuần và quan

tâm, chăm lo công tác cán bộ, Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có

phẩm chất, năng lực nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới nói riêng. Nghị

quyết Trung ương 3 Khóa VIII về chiến lược cán bộ nêu rõ “Cán bộ là nhân tố

quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác thực hiện

chính sách phát triển Đảng”.

Những năm qua huyện Sơn Tây đã được chú trọng thực hiện chính sách phát

triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, tạo ra sự

chuyển biến nhất định, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện nhà phát triển.

Tuy nhiên, công tác cán bộ nói chung và việc Thực hiện chính sách phát triển đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây nói

riêng vẫn còn nhiều hạn chế.

Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIX khẳng định:

tiếp tục Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, đặc biệt Thực hiện chính

sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số trẻ, có

năng lực trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện thắng

lợi các mục tiêu nhiệm kỳ 2015 - 2020 và những năm tiếp theo trở thành nhiệm vụ

cấp thiết; Đại hội Đảng bộ huyện Sơn Tây lần thứ XII, nhiệm kỳ 2015 – 2020 lại

tiếp tục khẳng định điều này. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn đề tài “Thực hiện

chính sách Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi” để làm Luận văn

thạc sĩ của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu luận văn

Quan điểm nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, của Đảng về vai trò, vị trí người cán bộ cách mạng, yêu cầu đào tạo, thực

hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số, tìm hiểu những bài học kinh nghiệm về việc thực hiện chính sách phát

triển nhân tài của dân tộc. Từ đó xác định các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh

2

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Luận văn có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả như:

Nguyễn Thị Tuyết Mai (2007), với đề tài nghiên cứu khoa học “Nâng cao năng lực

tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng)”; Nguyễn

Minh Đường (2013), với đề tài “Đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh mới”; Trần Duy Hưng với đề tài “Đào

tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã và việc sử dụng sau đào tạo nguồn tại Thành

phố Hồ Chí Minh”.

Luận văn có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu để đưa ra những tiêu

chuẩn để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số phù hợp với xu thế phát triển nói chung và phù hợp với điều

kiện, đặc trưng của huyện Sơn Tây.

Công tác thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số nói chung, cũng như sự vận dụng lý luận vào tình

hình thực tiễn đều là những công trình, sản phẩm có giá trị, có ý nghĩa về mặt lý

luận và thực tiễn, là cơ sở để kế thừa cho việc nghiên cứu sau này. Tuy nhiên, trong

xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thì vấn đề thực hiện chính sách phát triển đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số vẫn hết sức cấp thiết. Hiện

nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề thực hiện chính sách phát

triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây,

tỉnh Quảng Ngãi. Việc chọn nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa trong lý luận, thực

tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị cấp xã tại

huyện Sơn Tây hiện tại và về sau.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn

Việc nghiên cứu luận văn để làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng thực hiện

chính sách phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số, nhằm đề xuất một những giải pháp thực hiện chính sách phát triển đội ngũ

3

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh

Quảng Ngãi.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Khảo sát, phân tích việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tìm ra những ưu điểm,

những nguyên nhân hạn chế làm kìm hãm việc thực hiện chính sách phát triển cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng

Ngãi ở mức độ thấp nhất.

- Đề xuất một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Phạm vi đối tượng: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển chức vụ,

chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số (gồm các chức vụ

và các chức danh được quy định tại điểm a, b, c khoản 1, Điều 3 của Nghị định số

92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 và được sửa đổi, bổ sung năm 2013; luận văn không

nghiên cứu chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, vì chức danh này do đồng chí

Bí thư hoặc Phó Bí thư kiêm nhiệm)

- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến tháng 12 năm 2018.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Đề tài áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng để tiếp cận

và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề thực hiện chính sách phát triển đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số.

4

5.2. Phương pháp thu thập thông tin

Phương pháp thống kê: Số liệu thống kê thu thập được phân loại theo nhóm

nội dung; số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.

Phương pháp so sánh: Thực hiện phương pháp so sánh để thu thập thông tin

về điều kiện cần và đủ về vấn đề thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số.

Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích nội dung tài liệu để thu thập, thống kê,

so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, nhằm làm rõ nội dung cơ

bản của đề tài luận văn, bảo đảm tính khoa học và logic giữa các vấn đề được nêu ra.

Ngoài ra luận văn cũng kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan

đến nội dung đề tài nhằm làm rõ những vấn đề chính của luận văn.

6. Những đóng góp về khoa học, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần khái quát và làm rõ thêm cơ sở lý luận

về thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, đồng thời tìm ra những bất cập, hạn

chế, những yếu tố ảnh hưởng đến sự việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh

Quảng Ngãi, những vấn đề đang đặt ra và những quan điểm, giải pháp bảo đảm để

thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây trong hình hiện nay.

Luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung lý luận về việc thực hiện chính sách

phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, góp

phần đẩy mạnh cải cách nền hành chính Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong

tổng kết thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây nói riêng.

5

7. Kết cấu luận văn

Phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, luận văn còn có:

Chương 1: Cở sở lý luận về việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Đề xuất một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, tỉnh

Quảng Ngãi.

6

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm cán bộ

Cán bộ là một khái niệm được phổ biến nhiều quốc gia trên thế giới để chỉ

những người được bầu, bổ nhiệm trong cơ quan Đảng và Nhà nước, do tính chất đặc

thù của mỗi quốc gia, khái niệm cán bộ của các nước không đồng nhất. Một số nước

khác có quan niệm rộng hơn, cán bộ không chỉ bao gồm những người thực hiện trực

tiếp các hoạt động quản lý Nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc

trong các cơ quan có tính chất công cộng.

Tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 158/2007/NĐ-CP quy định danh mục các vị

trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi với cán bộ, công chức, viên chức như

sau: “Cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý” là người được

bầu cử hoặc được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm và giữ chức vụ có thời hạn trong cơ

quan Đảng, Nhà nước và được hưởng phụ cấp lãnh đạo. Cán bộ là những người

điều hành quyền lực Nhà nước, được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự

điều chỉnh của Hiến Pháp, Luật cán bộ, công chức năm 2008 được sửa đổi, bổ sung

năm 2013.

1.1.1.2. Khái niệm lãnh đạo

Lãnh đạo là quá trình hoạt động của người mang tính định hướng, gây ảnh

hưởng, tạo dựng niềm tin, thuyết phục người khác để họ đồng thuận trong việc thực

hiện đường lối, chủ trương hướng tới mục tiêu cụ thể nào đó. Người lãnh đạo có cái

nhìn tổng quát hơn, hướng đến mục tiêu dài hạn, chú trọng vào các vấn đề trao đổi,

giao tiếp, thúc đẩy, tạo động lực và thu hút nguồn nhân lực thực hiện mục tiêu đã

định hướng.

7

1.1.1.3. Khái niệm quản lý

Quản lý là việc thực hiện các chức năng, quy trình, quy định trong khuôn

khổ các thể chế được xác định như kế hoạch hóa, tổ chức, điều phối, kiểm soát các

hoạt động để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Người quản lý làm cho nhân viên

phải phục tùng, tuân thủ do thẩm quyền từ vị trí của họ có được.

1.1.1.4. Khái niệm người dân tộc thiểu số

Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số ( có

số ít hơn với dân tộc Kinh) trên phạm vi lãnh thổ nước Việt Nam, được quy định Tại

khoản 2 Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.

1.1.1.5. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số, là những người dân

tộc ít người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng

Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức

chính trị - xã hội được quy định Tại Điều 4, Khoản 3 Luật cán bộ, cán bộ năm 2008.

Cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã theo Điểm a; b; c, Khoản 2, Điều 61

của Luật cán bộ, công chức 2008, quy định các chức danh sau đây:

a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;

b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân;

c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân;

Như vậy, người dân tộc thiểu số làm việc Nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh

tại Khoản 3 Điều 4 và Điểm a; b; c Khoản 2 Điều 61 của Luật cán bộ, công chức năm

2008, là cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số.

1.1.2. Đặc điểm dân tộc thiểu số, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số

1.1.2.1. Đặc điểm dân tộc thiểu số

Người dân tộc thiểu số là những tộc người luôn đoàn kết gắn bó mật thiết với

nhau theo dòng tộc, sống theo làng, bản, họ có tiếng nói và phong tục tập quán riêng

biệt, sống chủ yếu bằng nghề lao động chân tay, sản xuất tự cung, tự cấp, phương

thức canh tác chủ đạo làm nương, rẫy và canh tác theo thói quen, cuộc sống nghèo

8

nàn, lạc hậu, thiếu thốn về vật chất, tinh thần so với người đa số, thiếu tính toán hợp

lý và mất cân đối giữa thu và chi, ít được cập nhật kiến thức về khoa học. Về trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình đọ nhận thứ tiếp nhận, ứng dụng khoa học, kỹ

thuật họ là những người tiếp cận muộn hơn so với dân tộc đa số

1.1.2.2. Đặc điểm của cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là những người dân

tộc ít người, họ trưởng thành về thể chất, về mặt xã hội, họ được bầu hoặc bổ nhiệm

giữ một chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan Đảng, chính quyền cấp xã, là

những người tự làm chủ được hành vi, thái độ của mình và tự chịu trách nhiệm

trước pháp luật với tư cách là một công dân. Đồng thời họ trưởng thành về mặt xã

hội được biểu hiện ở giá trị sản phẩm lao động được xã hội công nhận, thể hiện ở

cuộc sống riêng tư, họ có đủ điều kiện hành vi trước pháp luật, có vị thế trong xã

hội, đang giữ chức vụ hoặc trách nhiệm nhất định trong hệ thống hành chính cấp xã

để lãnh đạo, điều hành quyền lực của Nhà nước quản lý xã hội ở cấp xã. Tuy nhiên,

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số năng lực công tác còn hạn

chế, trình độ chuyên môn chưa được chuẩn hóa do việc tiếp cận muộn hơn so với

dân tộc đa số.

1.1.3. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số

1.1.3.1. Vai trò

Hoạt động lãnh đạo, quản lý tạo nên sức mạnh tập thể trên cơ sở thống nhất

ý chí và hành động.

Mỗi cộng đồng dân cư trên địa bàn xã dù có khác biệt với nhau trên nhiều

phương diện, nhiều lĩnh vực, nhưng họ đều có những lợi ích chung như môi trường,

trật tự trị an, cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, trường học, nước sinh hoạt, cơ sở vật

chất, đời sống tinh thần,… Nếu không có cấp lãnh đạo, quản lý cơ sở họ sẽ khó

thống nhất về ý chí và hành động về mục tiêu cuộc sống tốt hơn. Cấp xã là nơi hỗ

trợ trực tiếp cho người dân khi họ gặp khó khăn, hoạn nạn, là nơi tạo điều kiện cho

9

người dân tham gia vào hệ thống chính trị của quốc gia nói chung, hệ thống chính

trị ở cở nói riêng.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là đầu mối để triển khai, thực hiện chính

sách chung có hiệu quả cho Nhân dân, là nơi phản ánh nguyện vọng, nhu cầu của

của Nhân dân với cấp trên để được hỗ trợ, giải quyết.

Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững

của cả hệ thống chính trị

Nhờ có hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở mà hoạt động của người dân và các

tổ chức đóng quân trên địa bàn mới đi vào nề nếp, kỷ cương, giảm nhẹ nhiệm vụ quản

lý, giám sát của cấp trên. Sự hoạt động chuyên nghiệp, linh hoạt và tận tâm của cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở sẽ làm tăng uy tín của cả hệ thống chính trị. Nếu hoạt động

lãnh đạo, quản lý ở cơ sở yếu kém sẽ làm cho cả hệ thống chính trị cấp xã không bền

vững, làm phai nhạt niềm tin của quần chúng vào cả hệ thống chính trị.

1.1.3.2. Chức năng

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là những người làm

công tác chỉ đạo, lãnh đạo, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước, thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý về lĩnh vực công tác

được phân công và thực hiện các nhiệm vụ khác do cấp trên giao; trực tiếp tiếp xúc,

lắng nghe ý kiến của Nhân dân, giải trình với Nhân dân, thực hiện chức năng lãnh đạo

công tác Đảng, quản lý Nhà nước theo đúng chính sách và thẩm quyền được giao.

1.1.3.3. Nhiệm vụ

Nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số được

quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV như sau:

* Bí thư, Phó Bí thư Đảng Ủy, Chi ủy, Thường trực đảng ủy xã, phường, thị trấn:

Chức trách: Là cán bộ chuyên trách công tác đảng ở Đảng bộ, chi bộ (nơi

chưa thành lập Đảng bộ) xã, phường, thị trấn, có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt

động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ, cùng tập thể đảng ủy, chi

ủy lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện chủ

10

trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn xã,

phường, thị trấn.

Nhiệm vụ của Bí thư:

Nắm vững Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết và chỉ thị của cấp trên, chức năng, nhiệm vụ

của đảng bộ, chi bộ cấp mình; nắm vững nhiệm vụ trọng tâm, giải quyết có hiệu quả

công việc đột xuất; nắm chắc, nắm sát tình hình đảng bộ, tổ chức đảng trực thuộc và

Nhân dân trên địa bàn; chịu trách nhiệm chủ yếu về các mặt công tác của đảng bộ.

Điều hành các cuộc họp Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, chỉ đạo và tổ chức

chỉ đạo thực hiện các nghị quyết đề ra.

Trong lãnh đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ đạo các hoạt

động, giữ vai trò trung tâm đoàn kết, lãnh đạo toàn diện đối với các tổ chức trong hệ

thống chính trị cấp xã.

Lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của của

đảng bộ cấp trên, của Ban Thường vụ Đảng ủy, Ban Chấp hành đảng bộ.

Nhiệm vụ của Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy:

Giúp Bí thư đảng ủy chuẩn bị nội dung các cuộc họp và dự thảo nghị quyết

của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ về các mặt công tác của đảng bộ.

Tổ chức thông tin tình hình và chủ trương của Ban chấp hành, Ban thường

vụ cho các Ủy viên Ban chấp hành và tổ chức đảng trực thuộc.

Tổ chức kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên, của

Ban Chấp hành và Ban Thường vụ đảng ủy.

Tiêu chuẩn cụ thể:

Tuổi đời: Không được hơn 45 tuổi khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.

Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.

Lý luận chính trị: Phải có trình độ Trung cấp hoặc Cao cấp.

Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng và đô thị có trình độ trung

cấp chuyên môn trở lên, ở khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên

môn (tương đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải

11

có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Phải có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ

công tác phát triển Đảng, quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế.

* Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân

Chức trách: Là cán bộ, công chức của Hội đồng nhân dân cấp xã, chịu trách

nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo đảm Thực hiện

chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn xã.

Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:

Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân là người tham mưu trực tiếp cho Chủ tịch

Hội đồng nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ, chịu sự phân công cụ thể và thay mặt

Chủ tịch Hội đồng nhân dân giải quyết công việc khi được Chủ tịch Hội đồng nhân

dân ủy quyền.

Tiêu chuẩn Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:

Quy định vệ độ tuổi của Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã do Chủ tịch

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với từng địa phương, nhưng nếu tham

gia lần đầu phải đảm bảo làm việc được hai nhiệm kỳ.

Học vấn: Phải tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp 3).

Lý luận chính trị: Đối với khu vực miền núi (đặc biệt khó khăn) phải có

chứng chỉ lý luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.

Chuyên môn, nghiệp vụ: Với khu vực miền núi phải có chứng chỉ bồi dưỡng

tương đương trình độ sơ cấp và cao hơn nữa. Chuyên môn bồi dưỡng phải phù hợp

với từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Đã qua lớp bồi dưỡng quản lý

Nhà nước, quản lý kinh tế và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân

Chức trách: Là cán bộ, công chúc lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã, chịu

trách nhiệm trong việc điều hành hoạt động của Ủy ban nhân dân, trực tiếp điều

hành, quản lý các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn xã.

Nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân:

12

Lãnh đạo các thành viên của Ủy ban nhân dân thực hiện các nhiệm vụ theo

từng lĩnh vực công chức:

Chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra đối công chức thực hiện nhiệm vụ, thực hiện

chính sách, pháp luật của cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết

định của Ủy ban nhân dân xã.

Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp xã, tham gia quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể Ủy ban nhân dân.

Áp dụng các biện pháp cải tiến cách làm việc, quản lý, điều hành bộ máy

hành chính cấp xã hoạt động có hiệu quả.

Đấu tranh chống biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, công chức trong bộ máy

chính quyền cấp xã, thực hiện việc tiếp công dân, giải quyết kiến nghị, phản ánh,

khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật; giải quyết và trả lời đầy đủ các kiến

nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã.

Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của trưởng thôn, công an viên quy

định của pháp luật.

Chịu trách nhiệm báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ đối với Hội đồng nhân

dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Triệu tập và chủ trì phiên họp của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Thực hiện chính sách khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức theo sự phân

cấp quản lý quản lý Nhà nước. Bãi bỏ hoặc đình chỉ quy định trái pháp luật của

trưởng thôn.

Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân:

Tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối công của Ủy ban nhân

dân do Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công và ủy nhiệm khi Chủ tịch Ủy ban nhân

dân đi vắng, như khối công việc (khối kinh tế; tài chính; khối văn hoá - xã hội...).

Tiêu chuẩn đối với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân:

Tuổi đời: Tuổi đời của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Phó chủ tịch Ủy ban

nhân dân do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với tình hình đặc

13

điểm của địa phương nhưng tuổi tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai

nhiệm kỳ.

Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.

Chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với khu vực đồng

bằng, khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương trình độ

sơ cấp trở lên.

Chuyên môn, nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đối với

miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn (tương đương trình độ sơ cấp

trở lên), nếu giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên.

Chuyên môn phải phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng loại hình đơn vị

hành chính cấp xã và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hành chính Nhà nước,

quản lý kinh tế.

1.2. Các tiêu chí để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

Đề tài nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có khả năng giải quyết những vấn đề thuộc

các lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong tình hình mới.

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu

số được dựa trên tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ cấp xã, là những quy định cụ thể các

yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức…theo những tiêu chí nhất định đối

với từng chức danh riêng biệt.

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, trí tuệ, khoa học,

chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực, luôn gắn bó

với tập thể, với cộng đồng và khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.

Trong thời kỳ công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã ngày càng cao, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người

dân tộc thiểu số không những có trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn, mà còn phải

gương mẫu, đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, có tinh thần kỷ luật cao, có tư duy

14

khoa học, lý luận sắc bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn gắn bó với

tập thể, với cộng đồng, có kỹ năng tốt trong việc kết hợp tri thức khoa học, kinh

nghiệm, kỹ năng thực tiễn một cách nhạy bén, linh hoạt, đồng thời luôn chấp hành

nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số ngoài những yếu tố nêu trên còn phụ thuộc vào cơ cấu tỷ lệ hợp lý giữa

các độ tuổi, giới tính giữa nam và nữ.

Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không tồn tại một

cách biệt lập mà phải đặt trong một chỉnh thể thống nhất của cả đội ngũ cán bộ cấp

xã. Vì thế, quan điểm thực hiện chính sách phát triển đội cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa

phát triển từng cán bộ lãnh đạo, quản lý với phát triển của cả đội ngũ cán bộ cấp xã.

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số là chỉ tiêu tổng hợp sự phát triển của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã, thể hiện qua phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, kỹ năng

công tác, hiệu quả thực nhiệm vụ được phân công, cũng như cơ cấu hợp lý về độ

tuổi, về ngạch, bậc và số lượng.

1.2.1. Tiêu chí về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là điều cần thiết trong thực hiện các nhiệm

vụ của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trình độ là mức độ về sự hiểu biết, về kỹ năng

được xác định hoặc Thực hiện chính sách phát triển theo tiêu chuẩn nhất định nào

đó thể hiện ở văn bằng, chứng chỉ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số có được thông qua quá trình phấn đấu, học tập và rèn luyện.

Về trình độ năng lực.

Năng lực cũng là yếu tố rất quan trọng, năng lực quyết định hiệu quả công

việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số. Năng lực là

phẩm chất tâm lý phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, nó được

hình thành từng mỗi cá nhân trong quá trình đào tạo, giáo dục, hoạt động thực tiễn, rèn

luyện. Năng lực được thể hiện là những người làm việc ít tốn sức lực, ít thời gian, ít

15

của cải mà kết quả mang lại rất tốt. Việc phát hiện ra năng lực phải căn cứ vào

những dấu hiệu như sự hứng thú đối với công việc, sự dễ dàng tiếp thu kỹ năng

nghề nghiệp, hiệu suất lao động. Năng lực thường bao gồm những tố chất cơ bản về

đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ Nhân dân, về trình độ kiến thức pháp luật,

kinh tế, văn hóa, xã hội, sự am hiểu và nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật xử

lý thông tin, giải quyết tốt các vấn đề đặt ra trong quản lý Nhà nước một cách khoa

học, minh bạch, dứt khoát, hợp lòng dân và không trái pháp luật. Vì vậy, việc nâng

cao hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã người dân tộc thiểu số là vấn đề quan trọng và cấp thiết trong mục tiêu Thực

hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số như hiện nay.

Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ.

Năng lực quyết định sự thành công trong công việc với mục đích cuối cùng

là hiệu quả, được thể hiện ở các mặt trình độ văn hóa, kiến thức quản lý Nhà nước,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Trình độ văn hóa là sự tiếp thu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng chủ trương,

chính sách thực hiện.

Trình độ quản lý hành chính Nhà nước tác động lên các quan hệ xã hội, là

thủ pháp những nhà quản lý thường sử dụng trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ

của mình để giải quyết các vụ việc xảy ra cụ thể trong cuộc sống. Hoạt động quản

mang tính khoa học, nghệ thuật. Để thực hiện tốt các hoạt động quản lý đòi hỏi đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần phải được đào tạo,

bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước thì mới có được những kỹ

năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao có hiệu quả.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là trình độ được đào tạo ở các lĩnh vực khác

nhau theo cấp độ khác nhau được trang bị cho người học theo các chuyên ngành

nhất định, được thể hiện qua hệ thống bằng cấp. Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp

16

giải quyết những tình huống phát sinh, nếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số không có chuyên môn, nghiệp vụ, chỉ làm theo kinh nghiệm

hoặc giải quyết mang tính chắp vá, tùy tiện thì hiệu quả sẽ không cao, thậm chí còn

mắc sai phạm nghiêm trọng.

1.2.2. Tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống

Về phẩm chất đạo đức

Phẩm chất rất quan trọng đối với đội ngũ đội ngũ cán bộ cấp xã, cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số muốn xác lập được uy tín của bản thân

đối Nhân dân, trước hết phải có phẩm chất đạo đức tốt. Trong bối cảnh hiện nay,

trình độ dân trí ngày một nâng cao, cộng với sự đòi hỏi quy luật phát triển của xã

hội, thì đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải có

chuyên môn, nghiệp vụ cơ bản. Bên cạnh đó công tác quản lý xã hội cũng đòi hỏi

người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải tạo lập cho mình

một uy tín đối với Nhân dân.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải luôn luôn gương

mẫu, có lối sống lành mạnh, không tham nhũng, vụ lợi cá nhân, sống bê tha, cần có

tinh thần chống tham nhũng, tận tụy phục vụ Nhân dân, tôn trọng Nhân dân, quan

hệ gần gũi, mật thiết với quần chúng Nhân dân, sâu sát với công việc, không quan

liêu cửa quyền, gây phiền hà cho Nhân dân, tác phong làm việc phải khoa học, dân

chủ, nói đi đôi với làm, làm nhiều hơn nói, đồng thời tiếp thu, lắng nghe ý kiến của

mọi người.

Yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải cao hơn so với người khác bởi vì cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là công bộc của dân. Đây là tiêu chuẩn

hàng đầu và được xem là đương nhiên phải có, nếu thiếu phẩm chất đạo đức, dù có

tài năng kiệt xuất cũng không thể là công bộc của dân được.

Về phẩm chất chính trị

Phẩm chất chính trị là yếu tố đầu tiên, là điều kiện, là giá trị và tính chất tốt

đẹp đối với mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Để trở thành những người

17

cán bộ có năng lực trước hết phải là người có phẩm chất chính trị và được biểu

hiện ở sự tin tưởng tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn,

kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, không dao động trước những khó khăn thử thách, có biện pháp đưa chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống

của Nhân dân. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có phẩm

chất chính trị tốt phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chỉ thị, nghị quyết của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh, kiên quyết chống lại suy

nghĩ, biểu hiện sai trái trong đời sống xã hội, trái ngược với chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phẩm chất chính trị của người cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã còn được biểu hiện thông qua làm việc với tinh thần trách

nhiệm, hiệu quả công việc, có tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động trong

công việc, có ý chí cầu tiến, ham học hỏi, có thái độ tận tụy phục vụ Nhân dân,

tinh thần trách nhiệm đối với đời sống Nhân dân.

1.2.3. Tiêu chí về uy tín trong công tác

Uy tín là sự tín nhiệm, mến phục của mọi người và được phản ánh về phẩm

chất, năng lực của một cá nhân nên nó quyết định uy tín. Người cán bộ phải phải là

người giỏi về chuyên môn, đạo đức tốt, sống gần gũi, hòa nhã, luôn lo sự nghiệp

chung nhưng vẫn không quên trách nhiệm, tình cảm của mình với người thân.

Người cán bộ có uy tín sẽ làm cho người dưới quyền không chỉ phục tùng thậm chí

họ còn tự giác phục tùng với niềm tin mãnh liệt.

Vì uy tín là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố thuộc về sự nỗ lực chủ quan

của một người trên cả hai mặt phẩm chất và năng lực:

Sự gương mẫu về phẩm chất đạo đức, có lối sống trong sạch, tận tụy, khiêm

tốn, “mình vì mọi người”, sự thấu hiểu và chia sẻ.

Có học thức cao, năng lực lãnh đạo và quản lý giỏi, tầm hiểu biết sâu rộng về

chính trị, trình độ nhận thức, vốn sống; có sự đổi mới và khả năng thích nghi, khát

vọng và hoài bão.

18

Có tinh thần trách nhiệm, có năng lực tổ chức, thể hiện ở chỗ hoàn thành

xuất sắc chức vụ mà mình đảm trách. Nắm vững kỹ năng lãnh đạo, ứng xử có văn

hóa, có quan hệ đúng đắn với những người đồng nghiệp hoặc có quan hệ trực tiếp

với mình, biết tự kiểm soát, tự kiềm chế. Tóm lại, người cán bộ lãnh đạo quản lý đòi

hỏi phải hội tụ đủ cả ba yếu tố: Tâm, Tầm và Tài.

Sự phấn đấu rèn luyện của mỗi cá nhân sẽ tạo nên uy tín, bởi thế đối với người

cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải giành lấy uy tín tuyệt đối trong tập thể bằng chính tài

năng, nghị lực thực tế của mình, không phải bằng danh hiệu, chức vụ hoặc bằng thủ

đoạn và tiểu xảo. Nhân dân chỉ yêu quý những cán bộ có tư cách đạo đức tốt. Muốn

hướng dẫn họ, mình phải là người tiên phong đi đầu.

Uy tín chưa hẳn đã tỉ lệ thuận với chức vụ. Chức vụ chỉ là điều kiện khách

quan để củng cố và nâng cao uy tín, còn uy tín là cái quyết định sự tồn tại của chức

vụ. Nếu uy tín mất đi thì theo quy luật chức vụ cũng sẽ mất theo, chức vụ và uy tín

có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể hiểu như là mối quan hệ giữa hình thức và

nội dung, chức vụ là hình thức, còn uy tín là nội dung.

Có thể khẳng định, uy tín là do phẩm chất và năng lực của cá nhân quyết

định và được thể hiện ở các yếu tố như khả năng tổ chức và chuyên môn giỏi; dám

nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và kiên định trong công việc; có quan hệ bình

đẳng, tính tập thể và phát huy được sức mạnh tổng hợp; gương mẫu đi đầu trong

mọi công tác; gần gũi, dân chủ, cởi mở với mọi người; tính chiến đấu, tự phê bình

và phê bình, sửa chữa khuyết điểm, không tranh công, đỗ lỗi.

Người có uy tín còn là người biết lắng nghe, kể cả những lời nói trái, không

tự ái, sĩ diện, thành kiến, có bản lĩnh, dũng cảm, kiên cường, bảo vệ người ngay

thẳng, trung thực, đấu tranh với những hành vi sai trái, những biểu hiện cơ hội, thực

dụng, không nịnh bợ và cũng không thích ai nịnh bợ mình.

Để xây dựng được uy tín đã khó, nhưng phấn đấu để giữ vững và nâng cao

uy tín lại càng khó hơn, vì trong mỗi cán bộ đều có cái tốt, cái xấu, uy tín thật là cái

tốt, uy tín giả là cái xấu. Bởi vậy, đòi hỏi người cán bộ phải có ý chí và nghị lực rất

19

cao, người ở cương vị càng cao cần phải hết sức chăm lo giữ gìn uy tín, vì uy tín

không chỉ là uy tín cá nhân mà còn liên quan đến uy tín chung của tập thể.

1.2.4. Tiêu chí thực hiện hiệu quả công việc được giao

Kỹ năng giải quyết công việc

Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh

vực nào đó vào thực tế, kỹ năng công việc luôn luôn gắn với một hoạt động cụ thể ở

một lĩnh vực cụ thể nhất định như kỹ năng thẩm định, kỹ năng chỉ đạo, lãnh đạo, kỹ

năng phối hợp,... chính là quá trình tư duy kết hợp với việc tích lũy kinh nghiệm

học tập, bồi dưỡng, rèn luyện, công tác.

Kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để thực hiện chính sách phát

triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số khi thực thi nhiệm vụ

nhất định. Tuy nhiên, có những kỹ năng không thể thiếu đối với cán bộ lãnh đạo,

quản lý phụ thuộc vào tính chất công việc mà họ đảm nhận, việc phân chia kỹ năng

nghề nghiệp thành các nhóm là cơ sở để xác định nội dung bồi dưỡng kỹ năng cho

các nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số khác nhau, căn cứ

vào kết quả các kỹ năng hướng đến thì kỹ năng nghề nghiệp đối với cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có thể chia thành các nhóm sau:

Kỹ năng đề xuất, ban hành, thực hiện, kiểm tra, thu thập, tổng hợp, phân tích,

triển khai quyết định, kỹ năng phối hợp, kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội.

Nhóm kỹ năng quan hệ, giao tiếp, làm việc nhóm, lắng nghe, thuyết

phục, tiếp dân.

Nhóm kỹ năng tác nghiệp cá nhân như viết báo cáo, bố trí lịch công tác, lắng

nghe, thuyết trình.

Tất cả các kỹ năng nêu trên đều chịu ảnh hưởng bởi trình độ chuyên môn, khả

năng và kinh nghiệm công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình thi

hành công vụ. Đây là nội dung phức tạp trong quá trình thực hiện chính sách phát

triển cán bộ lãnh đạo, quản lý, dễ gây nhầm lẫn với trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Vì vậy, khi thực hiện chính sách phát triển theo tiêu chí này cần xác định các kỹ năng

tốt phục vụ cho hoạt động, các kỹ năng chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu, các kỹ

20

năng cần thiết mà cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số chưa có, các

kỹ năng không cần thiết mà họ có.

Thực hiện chính sách phát triển dịch vụ công là kết quả hoạt động hiệu quả

lãnh đạo, quản lý và được biểu hiện đối với xã hội thông qua sự hài lòng, niềm tin

của người dân đối với Đảng, Nhà nước được xác định thông qua các lĩnh vực kinh

tế, văn hóa, xã hội hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phụ thuộc vào các yếu tố:

Một là, năng lực lãnh đạo, quản lý, kiến thức, kỹ năng và thái độ của họ đối

với công việc.

Hai là, phụ thuộc vào tổ chức và môi trường của tổ chức, đó là tính chất

công việc, môi trường làm việc, điều kiện làm việc.

Ba là, sự động viên, khuyến khích của của cấp trên, tạo động lực cho họ về

chế độ, chính sách đãi ngộ và cơ hội thăng tiến. Như vậy, muốn thực hiện chính

sách phát triển dịch vụ công thì phải chú trọng cải thiện từ năng lực làm việc, đến

môi trường làm việc của cơ quan hành chính, cũng như cách thức tổ chức công

việc và chế độ, chính sách nhằm động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số hăng say, nhiệt tình làm việc đạt hiệu

quả cao.

Tóm lại: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có

phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có trình độ năng lực và có khả năng vận

dụng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách có hiệu quả

thì mới góp phần nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân tại địa

phương, góp phần phát triển xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1.2.5. Tiêu chí về năng lực tổ chức, quản lý

Năng lực là khả năng của một người được thể hiện qua việc xử lý tình huống,

thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó. Hiểu cách khác năng lực là khả năng phát

triển, vận dụng tiềm lực của con người như kiến thức, kỹ năng, thái độ và các phẩm

chất khác để đạt được các mục tiêu cụ thể trong các điều kiện xác định.

21

Năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không

phải là bất biến, năng lực chỉ được phát triển trong mọi hoàn cảnh, mọi môi

trường. Ở mỗi thời điểm khác nhau thì năng lực được thể hiện, phát huy tác dụng

cũng khác nhau. Vì năng lực luôn gắn liền với mục đích thực hiện chính sách phát

triển của tổ chức ở mỗi lĩnh vực, điều kiện cụ thể. Năng lực tổ chức quản lý bao

gồm khả năng động viên và giải quyết các công việc, đó là khả năng tổ chức và

phối hợp các hoạt động của các nhân viên, đồng nghiệp, khả năng làm việc và đưa

tổ chức tới mục tiêu, biết dự đoán, lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, điều hành, phối

hợp công việc và kiểm soát công việc. Đây là năng lực đặc biệt cần thiết và quan

trọng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số, vì năng lực

thường được xem xét khi đề bạt, bổ nhiệm. Cách nhận biết người có năng lực, tổ

chức quản lý tốt có thể dựa vào những tiêu chuẩn mang tính định tính:

Biết mình nhất, nghĩa là biết mình qua nhận xét của người khác; biết người,

nghĩa là biết nhìn nhận con người đúng với thực chất của họ và biết phát triển họ; có

khả năng tiếp cận với những người khác, biết tập hợp những người khác nhau vào

một tập thể theo nguyên tắc bổ sung cho nhau, biết giao việc cho người khác và

kiểm tra việc thực hiện của họ; tháo vác, sáng kiến trong mọi tình huống, có những

giải pháp sáng tạo; quyết đoán dám ra quyết định và dám chịu trách nhiệm.

1.3. Các hoạt động thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

1.3.1. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số

Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số nói riêng là việc làm thường xuyên và quan

trọng, đây là quy trình được thực hiện hàng năm. Quy hoạch tốt, đảm bảo tính khoa

học và phù hợp với thực tế khách quan thì sẽ góp phần thúc đẩy việc thực hiện

chính sách phát triển về mọi mặt trong công tác cán bộ, ngược lại sẽ gây lãng phí,

thậm chí dẫn đến sai lầm.

22

Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là quá

trình thực hiện đồng bộ các quy trình, chủ trương, biện pháp nhằm tạo nguồn để

Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ cấp xã, là việc bố trí, lập kế hoạch

trong dài hạn, là sự sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc

thiểu số đang làm việc trong các cơ quan hoặc nguồn dự bị nhằm đảm bảo chủ động

nguồn nhân lực cho xây dựng, lấp chỗ trống trong các cơ quan hoặc thay thế đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đương nhiệm, nhằm bảo

đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời gian tương lai nhất định.

Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là

việc lập dự án dự phòng và dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số theo một ý định chung với một trình tự hợp lý

trong một thời gian nhất định để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng, luân chuyển, bố trí, đề bạt hoặc giới thiệu cán bộ cấp xã ứng cử các chức

danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã người dân tộc thiểu số được xác định là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa

quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực

công tác, Thực hiện chính sách phát triển và hiệu quả làm việc của cán bộ cấp xã,

hướng tới mục tiêu sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn.

Đào tạo, bồi dưỡng là quá trình trang bị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số những kiến thức, kỹ năng cần thiết, trước hết là những kiến

thức về pháp luật của Nhà nước, phương thức quản lý và các quy trình trong chỉ

đạo, điều hành, phương pháp, kinh nghiệm quản lý, trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt

động theo chương trình quy định cho ngạch cán bộ cấp xã.

Chính sách đào tạo của Nhà nước ta từng nhấn mạnh “Đào tạo, bồi dưỡng

theo vị trí việc làm nhằm trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần

thiết để làm tốt công việc được giao”, được nêu tại Nghị định số 18/2010/NĐ-CP

ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc

thiểu số là nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ công

23

vụ, góp phần Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số có đủ năng lực lãnh đạo, quản lý xã hội tốt.

Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay trở thành

những người cán bộ lãnh đạo, quản lý có đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến

thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cao, năng động và sáng tạo đáp ứng yêu cầu

trong tình hình mới là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số phải là công bộc của dân, hết lòng vì Nhân dân phục vụ, việc

nâng cao trình độ chính trị, thấm nhuần các chủ trương của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước, trung thành với chế độ, tận tụy với công việc, đáp ứng yêu

cầu của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý Nhà nước là việc

cần phải thực hiện. Tuy nhiên, để đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số có thể tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thì chính sách

đào tạo, bồi dưỡng của Nhà nước có vai trò tác động rất quan trọng, việc tổ chức

đào tạo, bồi dưỡng phụ thuộc vào các vấn đề như hệ thống các cơ sở đào tạo,

chương trình, giáo trình, đội ngũ giảng viên, chế độ cho người học như tiền hỗ trợ

đi học, học phí, thời gian học, cơ chế đảm bảo sau đào tạo để tránh lãng phí.

1.3.2. Công tác sử dụng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số

Việc sử dụng, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số phải xuất phát từ nhiều yếu tố như chức năng, nhiệm vụ, công việc của từng

cơ quan, đơn vị. Những căn cứ quan trọng để bố trí, sử dụng cán bộ là yêu cầu của

công vụ và điều kiện nhân lực hiện có của cấp xã, việc bố trí, sử dụng cán bộ phải

dựa vào những định hướng có tính nguyên tắc:

Thứ nhất, phải có tiền đề và quy hoạch cán bộ.

Thứ hai, phải căn cứ vào mục tiêu hoạt động lãnh đạo, quản lý.

Tuân thủ nguyên tắc khách quan, vô tư và công bằng khi thực hiện chính sách

của Nhà nước, đây là căn cứ quan trọng để thực hiện chính sách Thực hiện chính sách

phát triển cán bộ.

24

Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ phù hợp, thống nhất đối với cán bộ trong hệ

thống chính trị cơ sở cấp xã, có chế độ phụ cấp và chính sách hỗ trợ kinh phí đối với

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã đang công tác ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên

giới, hải đảo có nhiều khó khăn và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như

Nghị định số 167/2011/NĐ-CP đã thực hiện. Tiến hành thực hiện đúng và kịp thời

các chính sách đối với đội ngũ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số, như thu hút,

đãi ngộ nhân tài, khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, tuyển dụng sinh viên tốt

nghiệp đại học về công tác tại xã như Quyết định số 600/2010/QĐ-CP,... Kịp thời

động viên cán bộ nhiệt tình công tác, gắn bó với địa phương, đoàn kết, thống nhất

trong đội ngũ cán bộ, ngăn chặn những tiêu cực.

Bổ nhiệm phải dựa vào công tác quy hoạch cán bộ; quá trình đề bạt, bổ nhiệm

phải coi trọng việc lấy phiếu tín nhiệm theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, bảo

đảm những người tham gia bỏ phiếu phải là những người biết việc, hiểu người, tránh

bè phái, cục bộ, định kiến, hẹp hòi, thiếu tính xây dựng. Trước khi lấy phiếu tín

nhiệm, cán bộ được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động

của mình. Người đứng đầu phải có ý thức trách nhiệm, công tâm, khách quan, phải vì

lợi ích chung và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng ý kiến

của tập thể. Có quy chế phối hợp giữa người đứng đầu với cấp ủy, cán bộ lãnh đạo cơ

quan đơn vị; nếu không chỉ đạo thực hiện tốt, sẽ dẫn đến cục bộ, bè phái, độc đoán,

mất dân chủ, chạy quyền, chạy chức trong đề bạt và bổ nhiệm cán bộ; bổ nhiệm phải

dựa vào yêu cầu công việc và nguồn nhân lực hiện có, đúng người, đúng việc.

Cơ chế bố trí, phân công công tác

Trong quá trình thực hiện chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần chú ý đến việc bố trí đúng cán bộ, đây là một

trong những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp

xã. Việc sắp xếp đúng người, đúng việc sẽ phát huy tinh thần hăng say làm việc,

năng lực, sở trường, kỹ năng công việc, khuyến khích tinh thần học tập và nâng cao

trình độ chuyên môn, góp phần cho sự thành công chung trong việc lãnh đạo, quản

lý ở cấp xã. Vì vậy, công tác phân công, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp có ảnh

25

hưởng rất lớn đối với việc thực hiện chính sách phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII)

nhấn mạnh việc bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý như sau:

Bố trí phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường, điều đó có

nghĩa là khi bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xem xét cả hai yếu tố khách

quan và chủ quan (tiêu chuẩn cán bộ và phẩm chất, năng lực, nguyện vọng...).

Đề bạt, cân nhắc phải đúng lúc, đúng người, đúng việc, ngược lại việc bố trí,

đề bạt không đúng có thể dẫn đến thừa, thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã một

cách giả tạo, công việc kém phát triển, tiềm lực không được phát huy.

Chú ý kết hợp hài hòa về chế độ chính sách tiền lương và các đãi ngộ khác,

thưởng, phạt rõ ràng, công bằng, kịp thời, phải căn cứ vào hiệu quả công tác của cán

bộ. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến

vấn đề thực hiện chính sách phát triển cán bộ, đã nêu lên 6 yêu cầu “ Phải biết rõ

cán bộ; Phải cất nhắc cán bộ cho đúng; Phải khéo dùng cán bộ; Phải phân phối cán

bộ cho đúng; Phải giúp cán bộ cho đúng và phải giữ gìn cán bộ”. Chủ tịch Hồ Chí

Minh cũng đã vạch ra ba chứng bệnh do cách Thực hiện chính sách phát triển cán

bộ sai lầm: “Mục đích khéo dùng cán bộ cốt để thực hành đầy đủ chính sách của

Đảng và Chính phủ”. Để “Khéo dùng” cán bộ, Bác Hồ yêu cầu phải thực hiện

những điểm sau:

Theo Bác, cán bộ không nói không phải họ không có gì để nói mà vì không

dám nói, họ sợ “Khiến cho cán bộ có gan nói, có gan đề ra ý kiến”.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý không phải mọi người đều có năng lực, có tài bộ lãnh

đạo khéo như nhau. Người lãnh đạo giỏi là biết nhìn nhận, tin cán bộ cấp dưới, dám

giao nhiệm vụ cho họ, từ đó tạo được niềm tin cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm

việc mạnh mẽ hơn.

Bác còn yêu cầu, nếu ý kiến cấp dưới không đúng thì nên dùng thái độ thân

thiết, giải thích cho họ hiểu “Không nên tự tôn tự đại mà phải nghe, phải hỏi ý kiến

của cấp dưới”.

26

1.3.3. Nhiệm vụ của cấp xã trong việc thực hiện chính sách phát triển đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là hoạt động

công vụ được thực hiện dựa trên cơ sở thực tiễn công tác của người công chức và

yêu cầu nhiệm vụ được cơ quan, đơn vị đề ra đối với công chức đó. Nếu quy trình

thực hiện chính sách công tác cán bộ chính xác, hiệu quả trong việc chọn người, xếp

vị trí việc làm được chính xác sẽ tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số phát huy được sở trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,

đồng thời không bỏ sót nhân lực tốt, chọn nhầm nhân lực kém. Nếu thực hiện chính

sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không đúng

thì không những bố trí, sử dụng không đúng mà quan trọng hơn là mai một dần

động lực phát triển, làm thui chột những tài năng, xói mòn niềm tin của Nhân dân,

ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp xã.

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số để làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, kết quả thực hiện được giao. Kết quả thực hiện là căn cứ để bố trí, bổ

nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách cán bộ của

Nhà nước.

Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì việc thực hiện chính sách phát

triển cán bộ, công chức phải dựa vào các nội dung sau:

Việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước, việc thể hiện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm

việc, năng lực công tác, tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ, tinh thần trách

nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; có thái độ phục vụ Nhân dân tốt của cán bộ lãnh

đạo, quản lý.

Việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người

dân tộc thiểu số được thực hiện hàng năm, trước khi bổ nhiệm, quy hoạch, điều

động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết thúc thời gian luân chuyển, biệt phái. Khi thực

hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số

27

phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, tính lịch sử, cụ thể của từng xã, trên cơ sở

tự phê bình và phê bình, nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai rõ ràng đối với cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số được đánh giá, xếp loại. Đảm

tính khách quan, phát huy tính tập thể và cá nhân, lấy kết quả, hiệu quả hoàn thành

nhiệm vụ làm thước đo chính trong việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh

đạo, lãnh đạo cấp xã.

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số được coi là tiền đề quan trọng nhất nhưng vẫn là khâu khó và yếu nhất,

khó nhất là Thực hiện chính sách phát triển cái “tâm” cái “tầm” và bản lĩnh chính trị

của người cán bộ cấp xã.

1.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số

Kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm nắm chắc thông tin diễn

biến tư tưởng, tiến trình tiến hành công việc, giúp cho cơ quan cấp trên phát hiện

những vấn đề nảy sinh, kịp thời uốn nắn sửa chữa những sai sót, hạn chế sự lãng phí

nguồn nhân lực, kiểm tra, giám sát để thực hiện chính sách phát triển năng lực của

từng cán bộ, từ đó có hướng bố trí công việc phù hợp hoặc sắp xếp, đề bạt cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số hợp lý. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có năng lực kém, kịp thời đáp ứng

công việc. Kiểm tra để phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết

điểm, loại trừ những người thiếu năng lực thoái hóa, biến chất và ngăn chặn kẻ xấu

lợi dụng chống phá tổ chức hệ thống chính trị ở cơ sở. Kết quả kiểm tra là cơ sở

khách quan để điều chỉnh và tác động, làm cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người

dân tộc thiểu số luôn hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc. Ngoài ra tiếp tục tăng

cường thay thế những cán bộ yếu kém, ở những nơi phát sinh điểm nóng, mất đoàn

kết nội bộ, mọi phong trào yếu, kém. Qua đó vận dụng hình thức thưởng, phạt

nghiêm minh, ngăn chặn những tiêu cực, phát huy nhân tố tích cực, tạo dựng lòng tin

của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

28

1.3.5. Các bước thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số

Bước 1: Thực hiện chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,

nghệp vụ, lý luận chính trị.

Bước 2: Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số

Bước 3: Thực hiện chính sách đề bạt, sắp xếp, bố trí đúng sở trường, chuyên

môn, nghiệp vụ và năng lực công tác.

Bước 4: Thực hiện chính sách quản lý, theo dõi cán bộ thực hiện công vụ.

Bước 5: Thực hiện chính sách kiểm tra, giám sát trong thực hiện nhiệm vụ

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

1.4.1. Các nhân tố khách quan

Chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số, là hệ thống chung của cán bộ, công chức cấp xã do các quy định

của Nhà nước ban hành bao gồm: Các quy định về ưu đãi, hỗ trợ kinh phí thu hút

nhân tài, các quy định nhằm tạo điều kiện để cán bộ, công chức có điều kiện học

tập, câng cao trình độ, điều kiện bảo đảm môi trường làm việc thuận lợi, từng bước

hiện đại hóa công sở, nhà công vụ, trang thiết bị làm việc trong công sở, phương

tiện để thi hành công việc; bảo đảm sự quan tâm, hỗ trợ về vật chất khi cán bộ, công

chức gặp rủi ro trong công việc, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

Chế độ, chính sách là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách

phát triển của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số. Vì chế độ, chính

sách là do con người tạo ra và nó tác động mạnh mẽ đến hoạt động của con người, chế

độ, chính sách hợp lý sẽ là động lực thúc đẩy tích cực về tài năng, sáng tạo, nhiệt tình,

trách nhiệm của mỗi người, nhưng nó cũng có thể kìm hãm hoạt động, làm thui chột tài

năng, sáng tạo của cán bộ nếu chính sách không hợp lý. Vì vậy, việc thực hiện chính

sách phát triển của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải gắn liền

với đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách. Tiền lương là yếu tố quan trọng nhất, nó ảnh

29

hưởng trực tiếp đến quyền lợi cán bộ, công chức, trêm mọi phương diện vật chất để

thực thi công việc, đồng thời cũng là sự đãi ngộ, là yếu tố ràng buộc họ với công việc.

Khen thưởng, kỷ luật, Luật cán bộ, công chức năm 2008

Sự ổn định của hệ thống chính trị cấp xã chủ yếu là do hiệu suất và hiệu quả

lãnh đạo, quản lý của can bộ cấp xã. Tuy nhiên với đặc điểm là hoạt động bằng ngân

sách Nhà nước, ràng buộc chặt chẽ về chế độ chức nghiệp, nên dễ nảy sinh sự trì

trệ, thiếu sáng tạo trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chính vì thế công tác thi

đua, khen thưởng là công cụ trực tiếp tác động đến động lực làm việc của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.

Một số hệ thống văn bản về công tác thi đua, khen thưởng của Nhà nước ta

như Luật thi đua khen thưởng, Nghị định số 42/2010/NĐ-CP, ngày 15 tháng 4 năm

2010 của Chính phủ Hướng dẫn thi hành Luật thi đua, khen thưởng, Thông tư số

02/2011/TT - BNV ngày 24 tháng 01 năm 2011 của Bộ nội vụ về tiêu chuẩn khen

thưởng,…đặc biệt trong những năm gần đây không ngừng được hoàn thiện, giải

quyết được những vướng mắc trong thực tế phong trào thi đua ở các đơn vị, địa

phương, cán bộ có thành tích thì được khen thưởng theo quy định của Luật thi đua

khen thưởng. Cán bộ có thành tích xuất sắc, có công trạng được nâng lương trước

thời hạn, ưu tiên khi xem xét bổ nhiệm chức vụ cao hơn.

Việc xử lý cán bộ, công chức, viên chức mắc sai phạm trong quá trình thi

hành công vụ, thực hiện quy chế làm việc, thực hiện công việc được giao là yếu tố

không thể thiếu trong việc duy trì nề nếp làm việc, kỷ cương trật tự xã hội. Vì vậy,

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2011

về việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức nhằm hệ thống hóa lại các quy định

chung liên quan đến việc xem xét xử lý kỷ luật cán bộ, công chức. Tại Điều 3, Nghị

định số 34/2011/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2011 quy định việc xử lý kỷ luật cán

bộ, công chức được áp dụng trong các trường hợp sau đây:

Vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp của cán bộ

công chức trong thi hành công vụ; những việc cán bộ, công chức không được làm

quy định tại Luật cán bộ công chức; vi phạm pháp luật bị Tòa án kết án bằng bản án

30

có hiệu lực pháp luật; vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng;

thực hành tiết kiệm, lãng phí; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các

quy định khác của pháp luật liên quan đến cán bộ nhưng chưa đến mức bị truy cứu

trách nhiệm hình sự.

1.4.2. Các nhân tố chủ quan

Trách nhiệm trong công tác là việc cán bộ lãnh đạo, quản lý phải làm trong

lãnh đạo, quản lý, nó mang tính chất chính trị, là việc cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã người dân tộc thiểu số tự ý thức về quyền lợi, nhiệm vụ được phân công. Trách

nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả hoạt động công vụ, kết quả và trách

nhiệm công vụ tạo nên hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ của cấp xã.

Ý thức tổ chức kỷ luật của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu

số thể hiện qua việc chấp hành và Thực hiện chính sách phát triển có hiệu quả thời

giờ làm việc theo quy định của pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan, đơn vị, tổ

chức; không làm việc riêng, không đi muộn về sớm, không chơi games trong giờ làm

việc; không sử dụng các chất có nồng độ cồn trong giờ hành chính, phải có mặt đúng

giờ tại công sở theo giờ hành chính hoặc theo quy định cụ thể của cơ quan, tổ chức,

đơn vị.

Tiểu kết chương 1

Tóm lại, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là nhân tố quyết định sự

Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cấp xã là nơi hỗ trợ

trực tiếp khi người dân gặp khó khăn, hoạn nạn, là nơi thuận lợi để tạo điều kiện cho

người dân tham gia vào hệ thống chính trị, là đầu mối để triển khai, thực hiện chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có hiệu quả, là nơi để người

dân phản ánh nguyện vọng, nhu cầu cấp thiết với cấp trên để được hỗ trợ, giải quyết.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là những người am

hiểu về phong tục, tập quán nơi họ đang sống, đồng thời cũng là người trực tiếp

tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

ăn sâu trong mọi tầng lớp Nhân dân, là người trực tiếp lắng nghe ý kiến của Nhân

31

dân, giải trình với Nhân dân, thực hiện chức năng lãnh đạo công tác Đảng, quản lý

Nhà nước theo đúng chính sách và thẩm quyền được giao.

32

Chương 2

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, xã hội vùng dân tộc thiểu số tại

huyện Sơn Tây

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Sơn Tây là huyện miền núi, thuộc diện một trong 62 huyện nghèo của cả

nước, nằm trên Tỉnh lộ 623, cách thành phố Quảng Ngãi 85 km ở phía Tây Nam của

tỉnh Quảng Ngãi. Với ranh giới hành chính như sau:

Phía Đông giáp huyện: Xã Sơn Thượng, huyện Sơn Hà (Quảng Ngãi)

Phía Tây giáp huyện: Đăk Nên, huyện Kon PLong (Kon Tum)

Phía Nam giáp huyện: Xã Ngọc Tem, huyện Kon PLong (Kon Tum)

Phía Bắc giáp huyện: Xã Trà Vân, huyện Nam Trà My (Quảng Nam).

Huyện được chia làm 09 đơn vị hành chính cấp xã, có 42 thôn, 135 khu

dân cư. Tổng số hộ 5.348, với tổng dân số 20.445 người, số khẩu người đồng

bào dân tộc thiểu số chiếm 97%; toàn huyện hộ nghèo chiếm tỷ lệ 49,48% và

cận nghèo 7,8%.

Diện tích tự nhiên của huyện là 38.149,23 ha, trong đó đất sản xuất nông,

lâm nghiệp là 18.425 ha, chiếm 48,29% so với tổng diện tích đất của cả huyện; còn

lại 19.724,23 ha là đất rừng phòng hộ của 03 loại rừng (rừng trồng; tự nhiên, rừng

sản xuất).

2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội

Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội của huyện đã phát

triển rõ nét, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức trung bình, cơ cấu kinh tế đã có

những bước chuyển biến tích cực, đời sống của Nhân dân từng bước được cải

thiện. Trong lộ trình thực hiện chính sách phát triển nông thôn mới, Sơn Tây là

một trong những huyện nghèo đứng thứ 12/13 các huyện của tỉnh Quảng Ngãi.

33

Các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục luôn được quan tâm phát triển sâu

rộng, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, xóa nghèo được thực

hiện kịp thời. Đời sống đại bộ phận người dân được cải thiện; các gia đình chính

sách, gia đình có công với cách mạng đều được quan tâm, chăm lo và giả quyết

chế độ kịp thời.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2015 đạt 0,7%/năm, GDP bình quân đầu

người của huyện đạt khoảng 15 triệu đồng/người. Cơ cấu các ngành kinh tế

chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành dịch vụ và lâm nghiệp tăng, tỷ

trọng ngành nông nghiệp giảm. Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân trong

huyện được cải thiện và nâng lên, trong giai đoạn từ năm 2015 - 2018, thu nhập

bình quân đầu người của dân cư tăng lên gấp 1,6 lần, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ

60,5% năm 2015 xuống còn 49,48% tháng 12 năm 2018. Chủ trương của Đảng,

chính sách, chương trình mục tiêu quốc gia về Thực hiện chính sách phát triển các

lĩnh vực kinh tế - xã hội được thực hiện đạt kết quả tích cực như việc thực hiện

phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, kiên cố hóa phòng học các cấp đạt 80%, giảm

tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 35,6%, giáo dục và đào tạo, y tế, chăm sóc

sức khỏe Nhân dân, an sinh xã hội, văn hóa, thể dục thể thao, thông tin truyền

thông đều đạt được kết quả nhất định.

Hệ thống đường giao thông, điện lưới, thủy lợi, trường học, nhà sinh hoạt

cộng đồng được nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc sản

xuất, sinh hoạt theo nhu cầu. Một số công trình hạ tầng như đường trục chính, hạ

tầng khu dân cư đang được triển khai xây dựng, là cơ sở thuận lợi tạo điều kiện

cho sự Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong giai đoạn

tiếp theo.

Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện, cùng với sự chỉ

đạo, điều hành quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tham mưu của các

ban, ngành, sự đồng lòng của Nhân dân trong triển khai thực hiện kế hoạch Thực

hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Sơn Tây đã và đang có những bước

Thực hiện chính sách phát triển vượt bậc, đạt được các thành tựu quan trọng về

34

kinh tế - văn hoá - xã hội, đời sống Nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên,

bên cạnh những mặt đã đạt được thì không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế do

tác động của mặt trái cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo, trình độ dân trí

tại các xã. Tất cả những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện có ảnh

hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã. Những yếu tố đó cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải không ngừng nâng cao phẩm chất đạo

đức, chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng thực thi trong lãnh đạo,

quản lý.

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số 100% có phẩm

chất chính trị, đạo đức tốt, trung thành với lý tưởng, kiên định với mục tiêu sự

nghiệp đổi mới của Đảng, có lối sống giản dị, trong sáng, am hiểu và gần gũi và tâm

huyết với đời sống Nhân dân.

Được sự quan tâm của các cấp ủy đảng từ tỉnh đến xã, công tác thực hiện

chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

trong thời gian gần đây, đặc biệt là nhiệm kỳ 2015 - 2020 ngày càng đổi mới hơn,

đảm bảo khách quan, dân chủ, chặt chẽ và đúng quy trình, đã từng bước được

chuẩn hóa. Việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, bố

trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thực hiện dân chủ, nề

nếp hơn, đã nâng cao trình độ cả về chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý kinh tế,

quản lý xã hội. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số

từng bước nâng cao về bản lĩnh chính trị vững vàng, đoàn kết giữ vững phẩm chất

cách mạng, đã từng bước chuẩn hóa về số lượng và chất lượng, luôn tin tưởng vào

đường lối đổi mới của Đảng, đã góp phần quan trọng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo,

tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, thúc đẩy chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an

35

ninh, thực hiện chính sách phát triển tổ chức cơ sở Đảng và hệ thống chính trị của

địa phương vững mạnh.

2.2.1. Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây

Bảng 2.1. Số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số theo vị trí công tác từ năm 2015 - 2018

DTTS

DTTS

DTTS

DTTS

TT Chức danh đảm nhiệm 2015 Cấp xã 2016 Cấp xã 2017 Cấp xã 2018 Cấp xã

1 Bí thư Đảng ủy 9 6 9 6 9 5 9

5 8 7 1 3 Phó Bí thư Đảng ủy Phó Chủ tịch HĐND Chủ tich Ủy ban nhân dân Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân

2 3 4 5 Tổng cộng 9 9 9 9 45 8 5 2 3 24 9 9 9 9 45 7 7 1 3 24 9 9 9 9 45 8 7 1 3 45 9 9 9 9 45 24

(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây )

Qua Bảng 2.1 cho thấy số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý người cấp xã

người dân tộc thiểu số để đáp ứng tốt nhu cầu quản lý là chưa phù hợp, cơ bản

đầy đủ theo từng chức danh. Trong đó, một số chức danh có số lượng cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được phân bổ nhiều như Phó

Bí thư Đảng ủy đã phản ánh chưa đúng thực tế, số lượng cán bộ lãnh đạo, quản

lý là người dân tộc thiểu số không biến động qua các năm. Năm 2015 số lượng

cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số là 24 thì đến năm 2018 số

lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý người cấp xã là người dân tộc thiểu số cũng 24

người, tỷ lệ không tăng so với năm 2015. Chức danh có số lượng cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được phân bổ ít nhất là Chủ tich

Ủy ban Nhân dân, năm 2015 là 02 người đến năm 2018 chỉ còn 01 người, giảm

01 người.

36

Bảng 2.2. Số lượng và cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số theo giới tính năm 2018

Số lượng (người)

TT Chức danh Cấp xã DTTS

Nam %

Nữ %

Nam %

Nữ %

1 Bí thư Đảng ủy 9 20 0 5 11,1 0 0 0

2 Phó Bí thư Đảng ủy 8 17,8 2,2 8 17,8 1 0 0

3 Phó Chủ tịch HĐND 8 17,8 2,2 7 15,6 1 0 0

4 Chủ tich UBND 9 20 0 1 2,2 0 0 0

5 Phó Chủ tịch UBND 9 20 0 3 6,6 0 0 0

2 0 0 Tổng cộng 45 95,6 4,4 24 53,3

(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây)

Qua bảng 2.2 cho thấy, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số là nam giới cụ thể có 24 người, chiếm tỷ lệ 53,3% trong tổng cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã hiện có. Chức danh Bí thư chiếm tỷ lệ 11,1%, Phó

Bí thư chiếm tỷ lệ 17,8%; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân chiếm tỷ lệ 15,6%;

Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân chiếm tỷ lệ 6,6%. Chức danh có sự tham gia

của nam giới thấp nhất là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân chiếm tỷ lệ 2,2%. Đây là

tỷ lệ không hợp lý, không hài hòa giới tính cũng như chuyên môn từng đối

tượng.

37

Bảng 2.3. Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số phân theo độ tuổi năm 2018

Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số phân theo độ tuổi (người) TT Độ tuổi

Cấp xã Tỷ lệ % DTTS Tỷ lệ %

2 31

3 46

Tổng số 45 100 24 53,3

(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây )

Qua Bảng 2.3 ta thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số trên địa bàn huyện độ tuổi 31

Điều đó cho thấy cơ cấu về độ tuổi của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số cơ bản hợp lý, vừa đảm bảo tính cơ cấu, vừa đảm bảo được

yêu cầu công việc, vừa có tính kế thừa.

Nhìn chung, độ tuổi của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số đa số còn trẻ phản ánh đúng xu thế của tình hình thực tế hiện nay và

phù hợp với chức danh quy định.

2.2.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây

2.2.2.1. Về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác

Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018, trình độ chuyên môn của đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số của huyện Sơn Tây đã

được nâng lên đáng kể. Thực hiện theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, một số chức

danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đã được ưu tiên cho

đi đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ.

38

Bảng 2.4. Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ năm 2018

Cấp xã DTTS TT Trình độ chuyên môn Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ %

1 Đại học 22 48,9 6 13,3

2 Cao đẳng 3 6,7 0 0

3 Trung cấp 20 44,4 18 40

Tổng 45 100 24 53,3

(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây ) Từ kết quả Bảng 2.4 cho thấy, số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn đại học là 13,3%, trung cấp là

40%. Có được sự thay đổi trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số trong giai đoạn 2015 - 2018 như trên là được sự

quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện theo Quyết định số

493/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, ban hành kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 -

2020; Quyết định số 481/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của Ủy ban nhân

dân tỉnh Quảng Ngãi về chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

công chức, viên chức; sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn và sự tạo điều kiện của các cấp

trong quá trình đi học.

Đến thời điểm năm 2018, theo quy định tiêu chuẩn tại Quyết định số

04/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn cụ thể

đối với cán bộ cấp xã, phường, thị trấn thì số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã người dân tộc thiểu số đều đạt tiêu chuẩn theo quy định. Tuy nhiên, không có

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn

sau đại học qua các năm từ năm 2015 đến năm 2018 là một vấn đề còn hạn chế

trên địa bàn huyện. Hiện nay huyện Sơn Tây đang phấn đấu xóa nghèo, yêu cầu

39

về trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số cần phải ngày càng được nâng cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu Thực

hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Để ngày càng nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, đòi hỏi phải có sự

nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị cấp huyện, sự quan tâm hỗ trợ của tỉnh và

sự phấn đấu cố gắng của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số trong việc học tập bồi dưỡng kiến thức để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày

càng cao của nền hành chính cơ sở, của sự Thực hiện chính sách phát triển kinh

tế - xã hội trên địa bàn huyện.

2.2.2.2. Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống

Bảng 2.5. Thực trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số đạt chuẩn theo trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà nước,

tin học từ năm 2015 - 2018

TT 2016 2017 2018 2015

CC TC %

CC TC %

CC TC % CC TC %

2

9

2

4

16 44,4

11

3

13

12

1

24,4 6,7

3

28,9 15,6

7

35,6 26,7

16

35,6

2 Tiêu chuẩn Lý luận chính trị Quản lý Nhà nước

6,7

3 Tin học

A 3

15,6

A 7

28,9

A 13

A 24

53,3

(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây )

Qua số liệu Bảng 2.5 ta thấy, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số có trình độ lý luận chính trị đạt chuẩn (trung cấp trở lên) từ năm

2015 đến năm 2018 chiếm từ 24,4% tăng lên 44,4%, chứng chỉ quản lý Nhà nước

chiếm từ 6,7% tăng lên 35,6%, trình độ tin học chứng chỉ A chiếm từ 6,7% tăng lên

53,3% tổng số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.

Trong thời gian tới ngoài những người này cần phải có thêm các vị trí cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số khác tham gia học tập, cố gắng đạt

chuẩn về lý luận chính trị từ trung cấp trở lên để đáp ứng nhu cầu công việc ngày

càng cao trong thời gian tới.

40

Từ đó việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số có năng lực, được đào tạo đạt chuẩn, đảm bảo kế

cận trong thời gian tới. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu

số đạt chuẩn về trình độ quản lý Nhà nước vẫn còn thấp, trong giai đoạn này là 16

người, chiếm 35,6%. Việc bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước rất quan trọng đối

với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số, bởi vì khi Thực hiện

chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thì

phải trải qua lớp bồi dưỡng kỹ năng quản lý Nhà nước để làm quen với công việc sẽ

đảm nhiệm trong hệ thống chính trị cơ sở ở địa phương, đồng thời tích lũy các kỹ

năng để đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính. Tuy nhiên, huyện Sơn Tây muốn

phấn đấu thoát nghèo thì đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số cần phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà

nước, tin học để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu công việc được giao.

Về phẩm chất chính trị

Với 24 cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đều là đảng

viên, chiếm tỷ lệ 53,3% tổng số 45 cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.

Về đạo đức lối sống

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số là một trong

những lực lượng nòng cốt, là đầu mối để người dân tiếp cận, phản ánh tâm tư,

nguyện vọng chính đáng đến với hệ thống chính trị của huyện. Vì vậy, yêu cầu đòi

hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phải có phẩm

chất đạo đức, lối sống tốt và được thể hiện ở thái độ cần kiệm, liêm chính, chí công

vô tư, nhiệt tình với công việc, tận tụy với Nhân dân, có ý thức tổ chức kỷ luật trong

công tác tốt, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với quần chúng và được

Nhân dân tín nhiệm.

2.2.2.3. Thực hiện chính sách đánh giá hiệu quả công việc được giao

Trên cơ sở hướng dẫn đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, đảng viên hàng

năm của cấp trên và hướng dẫn của Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây, địa phương

các xã hàng năm đã tổ chức hội nghị đánh giá, phân loại đối với đội ngũ cán bộ cấp

41

xã và tổng hợp kết quả phân loại gửi lên cấp huyện và đề nghị Ban Thường vụ

Huyện ủy công nhận cán bộ cấp xã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao (với

các mức đánh giá: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ; hoàn

thành nhiệm vụ nhưng năng lực còn hạn chế; không hoàn thành nhiệm vụ).

Bảng 2.6. Kết quả đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số từ năm 2015 - 2018

Kết quả đánh giá, phân loại

Năm Cấp xã DTTS Số lượng đánh giá, phân loại HTXSNV HTT HT HTXSNV HTT HT

2015 45 15 13 17 10 9 5

2016 45 20 12 13 15 6 3

2017 45 21 16 8 14 8 2

2018 45 23 15 7 15 7 2

(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy )

Qua bảng 2.6 cho thấy kết quả đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã người dân tộc thiểu số hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2018 là 15 người,

tăng 05 người so với năm 2015, hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2018 là 07 người, giảm

02 người so với năm 2015; hoàn thành nhiệm vụ/hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn

chế về năng lực giảm từ 5 người năm 2015 xuống còn 2 người năm 2018. Số cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân

huyện tặng giấy khen năm 2015 là 10 người, năm 2016 là 15 người, năm 2017 là 14

người, năm 2018 là 15 người

42

2.2.2.4. Về uy tín trong công tác và năng lực tổ chức quản lý

Bảng 2.7. Thực hiện chính sách phát triển của Nhân dân về uy tín trong

công tác và năng lực tổ chức quản lý công việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

Cấp xã DTTS

TT Tiêu chí Tốt Khá TB Tốt Khá TB Rất tốt Rất tốt

1 14 16 10 5 12 4 2 6

2 16 15 9 5 10 4 2 8 Thái độ trách nhiệm, uy tín trong công việc Năng lực tổ chức quản lý công việc

(Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra thu thập)

Về uy tín trong công tác: Trong tổng 24 phiếu thì có 06 phiếu lựa chọn

phương án rất tốt, 12 phiếu lựa chọn phương án tốt, 4 phiếu lựa chọn phương án

khá. Số phiếu lựa chọn phương án trung bình là 2 phiếu.

Tỷ lệ này cho thấy thái độ trách nhiệm, uy tín trong công việc của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn chưa cao, chưa lấy

được lòng tin của dân, uy tín trong công tác còn thấp. Cần tiếp tục thực hiện nhiều

giải pháp đồng bộ để nâng cao uy tín trong công việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.

Về năng lực tổ chức, quản lý công việc bảng số liệu trên cho thấy, số phiếu lựa

chọn phương án rất tốt là 08 phiếu, có 10 phiếu lựa chọn phương án tốt, 04 phiếu lựa

chọn phương án khá, 02 phiếu lựa chọn phương án trung bình. Điều này cho thấy cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có khả năng tổ chức quản lý công

việc khá cao. Tuy nhiên, vẫn có 02 phiếu lựa chọn phương án trung bình, phản ánh

vẫn còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tổ chức chưa

tốt, quản lý công việc chưa khoa học, hiệu quả công việc chưa cao.

Qua kết quả thu thập trên, có thể thấy số phiếu lựa chọn phương án trung

bình chiếm tỷ lệ thấp, phản ánh khả năng tổ chức quản lý tốt của cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây, cần tiếp tục phát huy

43

nâng cao khả năng tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.

Nhìn chung, việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Sơn Tây từng bước được củng

cố và kiện toàn, các chức danh được sắp xếp ổn định và phát huy tác dụng. Hoạt

động quản lý, điều hành của cấp xã tiến bộ rõ rệt, thái độ phục vụ Nhân dân ngày

càng tốt hơn, chế độ chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số được cải thiện từng bước theo hướng đổi mới, nhất là trong công

tác đào tạo có sự ưu ái hơn.

Qua quy hoạch và thực hiện chính sách phát triển cho thấy cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đã được đào tạo cơ bản và có hệ thống, tuy

nhiên về mặt quản lý Nhà nước chưa được đào tạo nên ảnh hưởng đến năng lực

công tác và chưa theo kịp để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Một số cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có kinh nghiệm công tác, trình độ

học vấn và chuyên môn không đồng đều, còn thiếu và yếu về nhiều mặt. Nhiều

người vừa phải thực hiện công tác lãnh đạo, quản lý, vừa phải theo học nâng cao và

bồi dưỡng nghiệp vụ để đạt chuẩn. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số còn thiếu sáng tạo trong vận dụng đường lối, nghị quyết của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước để xây dựng nhiệm vụ chính trị của địa phương,

nên chưa có những giải pháp mang tính đột phá trong thực hiện chính sách phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Từ thực trạng Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp xã người dân tộc thiểu số của huyện hiện nay, đặt ra chương trình đào tạo, bồi

dưỡng trong những năm tiếp theo để nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ này đáp

ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, ngoài việc cấp ủy các cấp quy hoạch cử cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đi học các chương trình về

chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý Nhà nước...thì bản thân đội ngũ

này cần chủ động và xác định rõ việc học tập nâng cao trình độ mọi mặt là yếu tố

rất quan trọng.

44

2.2.3. Các hoạt động thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây

Trong những năm qua, Ban Thường vụ Huyện ủy Sơn Tây luôn quan tâm

Thực hiện chính sách phát triển bộ máy hệ thống chính trị cơ sở, nhằm thực hiện tốt

các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Đến

nay, hệ thống tổ chức chính trị cơ sở (cấp xã) đã đi vào nền nếp và ổn định; các cơ

sở đã tổ chức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, kinh tế - xã

hội phát triển, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong việc tham gia quản lý

Nhà nước và giải quyết những vấn đề bức xúc trong dân. Các biện pháp cụ thể mà

huyện Sơn Tây đã thực hiện trong thời gian qua là:

2.2.3.1. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số của huyện Sơn Tây trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực và

từng bước đi vào nề nếp, ổn định. Quyết định số 493/QĐ-UBND ngày 31/3/2016 của

Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 - 2020, hàng năm Ủy ban nhân

dân huyện Sơn Tây đã phối hợp với các Phòng, ban của các Sở trong trong tỉnh mở

các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp trong lãnh đạo,

quản lý cho cán bộ cấp xã. Qua đó đã nâng cao kiến thức về quản lý Nhà nước, kiến

thức về chuyên môn nghiệp vụ trong thực hiện nhiệm vụ.

Bảng 2.8. Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2018

Số học viên tham gia TT Lớp đào tạo, bồi dưỡng

1 Bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp trong lãnh đạo, quản lý 2 Bồi dưỡng kiến thức QLNN lãnh đạo, quản lý Cấp xã 36 29 DTTS 16 13

(Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Tây )

45

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn những hạn chế cần khắc

phục đó là:

Công tác quy hoạch, đào tạo để Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đảm bảo cơ cấu, chức danh chưa

thực sự gắn với phát triển. Số lượt cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số được cử đi đào tạo, bồi dưỡng tuy khá nhiều nhưng số người nợ tiêu chuẩn

về nghiệp vụ quản lý Nhà nước vẫn còn không ít.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng nhiều trùng lặp, nặng tính khái quát, chung

chung, nặng lý thuyết, thiếu đúc kết, kinh nghiệm thực tiễn, chưa chú trọng đào tạo

kỹ năng thực thi nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, chưa đạt được kỹ năng cần thiết cho

từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý.

2.2.3.2. Thực hiện chính sách đề bạt, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số

Đề bạt, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số là

một trong những nội dung quan trọng quyết định sự tương lai của huyện Sơn Tây.

Trong những năm gần đây, huyện Sơn Tây đã thực hiện chặt chẽ theo quy

trình nhằm hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong quá trình đề bạt, bố trí, Thực

hiện chính sách phát triển cán bộ.

Các tiêu chuẩn đề bạt, bố trí, phải xuất phát trên cơ sở yêu cầu tiêu chuẩn

chức danh đảm nhận, phải bám sát yêu cầu của tổ chức và bám sát định hướng

chung của công tác tổ chức cán bộ, là trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

người dân tộc thiểu số, có trình độ đáp ứng yêu cầu của của quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đề bạt, bố trí, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải

chú ý đến nhân tài, cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng cho việc hỗ trợ

kinh phí người giỏi.

Từ năm 2015 đến nay số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số đề bạt, bố trí trên địa bàn huyện đều có trình độ trung cấp trở lên

46

và trẻ tuổi, điều này phản ánh tính năng động, ham học hỏi của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện, dần thay thế

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ yếu

kém, trì trệ.

2.2.3.3. Thực hiện chính sách quản lý cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số

Theo thống kê năm 2018 tổng số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số 24 người. Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc

thiểu số tại huyện Sơn Tây được bố trí đều cơ bản đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù

hợp với sở trường, năng lực, phẩm chất, nguyện vọng.

Chỉ còn một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ chuyên môn còn hạn

chế, chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với công việc

được giao.

Trong giai đoạn từ năm 2015 - 2018, huyện Sơn Tây đã thực hiện chính

sách phát triển chặt chẽ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số,

nhằm lựa chọn những cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ chưa đạt chuẩn để cử đi

đào tạo.

Đồng thời sắp xếp vị trí phù hợp với trình độ chuyên môn, đây là cơ sở để

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số luôn hoàn thành tốt nhiệm

vụ được giao.

Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo huyện Sơn Tây luôn quan tâm chỉ đạo tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát để có những chính sách khen thưởng, kỷ luật từ đó nâng

cao hiệu quả làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

trong huyện.

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại việc cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số có trình độ chuyên môn chưa phù hợp với vị trí công tác và yêu cầu

thực tiễn của công việc nên hiệu quả công việc chưa cao.

47

Bảng 2.9. Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên về sự phù hợp

giữa trình độ, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số đối với các vị trí đang đảm nhận

Ý kiến đánh giá

Cấp xã DTTS

SL SL SL SL TT

Phù hợp

Bình thường

Phù hợp

Bình thường

% % % % % %

SL Không phù hợp SL Không phù hợp

5

22,2

11,1

40

18

4

30

66,7

4,4

1 Công việc đang đảm nhận phù hợp với năng lực 8,9 10

2

2 Công việc đang đảm nhận phù hợp với chuyên ngành đào tạo 4

4

31,1

26,7

13,3

8,9

12

14

6

29

64,4

8,9

(Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra thu thập)

Thông qua việc lấy ý kiến của cán bộ lãnh đạo của huyện tại bảng 2.9 về sự

phù hợp giữa trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số đối với vị trí đang đảm nhận, có thể nhận thấy một số vị trí

chưa thực sự phù hợp với trình độ, năng lực chuyên môn, mức độ phù hợp là 18,

chiếm tỷ lệ 40%; bình thường là 04, chiếm tỷ lệ 8,9%, không phù hợp là 02, chiếm tỷ

lệ 4,4%.

Thực hiện chính sách phát triển về công việc đang đảm nhận phù hợp với

chuyên ngành đào tạo thấp, mức độ phù hợp là 14, chiếm tỷ lệ 31,1%; bình thường

06, chiếm 13,3%; không phù hợp là 4, chiếm tỷ lệ 8,9%.

Qua kết quả thu thập được, có thể thấy vẫn có một số cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn và năng lực chưa thật sự

phù hợp với ví trí công việc đang đảm nhiệm. Đây là hệ quả trước đây để lại, một số

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn

không đáp ứng được yêu cầu công việc, năng lực cá nhân không phù hợp với đặc

điểm công việc.

Kết quả thu thập được tương đối chính xác, do quy định về số lượng và cơ cấu

nên một cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phải có hiểu biết trên

nhiều lĩnh vực, đồng thời phải có hiểu biết nhất định về đặc điểm của địa phương.

48

Vì vậy, để đảm bảo phù hợp với công việc, ngoài nỗ lực học hỏi tự nâng cao

trình độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số, cần thiết phải có kế

hoạch đào tạo bổ sung kiến thức chuyên môn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số, từ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công việc.

2.2.3.4. Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số

Việc đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu

số thực hiện theo quy định của Luật cán bộ, công chức và Nghị định số

112/2011/NĐ-CP. Qua tổng hợp báo cáo kết quả Thực hiện chính sách phát triển

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số từ năm 2015 đến năm

2018, thì đa phần hoàn thành tốt nhiệm vụ, vẫn còn một số ít hoàn thành nhiệm vụ

có mặt còn hạn chế, không có cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu

số không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách phát triển cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số còn mang nặng tính hình thức.

Bảng 2.10. Thực hiện chính sách phát triển của cấp trên đối với đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số về phẩm chất, đạo

đức, lối sống; tiến độ và kết quả thực hiện công việc được giao; thái độ phục vụ

Nhân dân; ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng bản thân

Ý kiến đánh giá

SL %

SL

%

SL %

SL %

Cấp xã DTTS TT Nội dung Tốt Khá Tốt Khá

44,4

4

8,9

0

0

Trung bình SL % Trung bình SL %

40

4

8,9

2

4,5

28 62,2 15 33,3 2 4,5 20 1

100

0

0

0

0

25 55,6 16 35,5 4 8,9 18 2

44,4

2

4,5

2

4,5

40 88,9 3 6,6 2 4,5 24 3 Phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao Thái độ phục vụ Nhân dân

4 Cán bộ có ý 36 80 5 11,1 4 8,9 20

49

tự

rèn thức bồi luyện dưỡng chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ

(Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra thu thập)

Thông qua việc lấy ý kiến của cán bộ lãnh đạo cấp trên tại bảng 2.10 về việc

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số trên các tiêu chí phẩm chất, đạo đức, lối sống; tiến độ và kết quả thực hiện

công việc được giao; thái độ phục vụ Nhân dân; ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng bản

thân, có thể thấy sự Thực hiện chính sách phát triển cấp trên đối với đội ngũ này

khá tốt.

Đối với phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc có 44,4% ý

kiến cho là tốt; 8,9% ý kiến cho là khá.

Đối với tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao có 40% ý kiến cho

là tốt; 8,9% ý kiến cho là khá, 4,5% ý kiến cho là trung bình.

Đối với thái độ phục vụ Nhân dân có 100% ý kiến cho là tốt.

Đối với Thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số có ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao

nghiệp vụ có 44,4% ý kiến cho là tốt; 4,5% ý kiến cho là khá, 4,5% ý kiến cho là

trung bình.

Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số qua 4 tiêu chí

trên là khá tốt trong giải quyết công việc, phẩm chất đạo đức, thái độ trách nhiệm và

ý thức tự rèn luyện để vươn lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tác phong làm việc, ý thức tự rèn luyện bồi dưỡng

chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ, tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao

chiếm 4,5% ở mức trung bình. Đây là một bộ phận thiểu số tuy nhiên lại gây ảnh

hưởng trực tiếp đến uy tín, hình ảnh của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số với Nhân dân, làm giảm sự tin tưởng của Nhân dân đối với hệ thống

chính trị cơ sở. Do đó, cần nâng cao trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

50

là người dân tộc thiểu số trong việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ đảm tính

dân chủ, khách quan để có các biện pháp kỷ luật phù hợp, nâng cao uy tín và sự tin

tưởng của Nhân dân.

2.2.3.5. Thực hiện chính sách kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số trong thực hiện nhiệm vụ

Trong những năm qua, cán bộ lãnh đạo huyện Sơn Tây tăng cường công tác

kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các cơ quan hệ thống chính trị cơ sở. Chấn

chỉnh phong cách làm việc, khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Tập trung củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch,

vững mạnh, đảm bảo đầy đủ chế độ, chính sách để cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

yên tâm công tác có hiệu quả. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, năng lực, thực hiện hiệu quả chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý.

Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện thường xuyên, chưa

nắm bắt được tình hình thực tế tại địa phương, vẫn còn tình trạng nể nang trong quá

trình kiểm tra. Thái độ phục vụ Nhân dân chưa đúng mực, thực hiện các nhiệm vụ, yêu

cầu công việc chưa đảm bảo theo yêu cầu,…Do đó, công tác kiểm tra, giám sát cần

thực hiện khách quan, trên tinh thần trách nhiệm, góp ý để đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ngày càng hoàn thiện hơn nữa.

2.2.4. Những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện chính

sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

2.2.4.1. Ưu điểm

Về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác

Hoạt động lãnh đạo, quản lý là công việc phức tạp, đòi hỏi người cán bộ lãnh

đạo, quản lý phải có năng lực, phải biến những kiến thức đã học thành thực tiễn và

Thực hiện chính sách phát triển thành những kỹ năng của bản thân. Nhìn chung đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây đã có

năng lực và những kỹ năng cơ bản trong việc thiết lập các mục tiêu, tổ chức thực hiện

các công việc của cơ quan, đơn vị theo chức năng nhiệm vụ được phân công. Về cơ

51

bản đội ngũ này đang dần nâng cao năng lực và rèn luyện các kỹ năng cần thiết trong

ứng xử, giao tiếp, có sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, có trách nhiệm với công việc

được giao, có thái độ đúng đắn trong quá trình lãnh đạo, quản lý, có thái độ ân cần, hòa

nhã, có thái độ tích cực, tự giác, kỷ luật cao, không gây sách nhiễu, phiền hà trong lãnh

đạo, quản lý. Phần lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu

số biết vận dụng kiến thức chuyên môn được đào tạo, vận dụng các văn bản, quy định

của Nhà nước trong xử lý công việc và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công

việc hàng ngày.

Về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống

Phần lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

tại huyện Sơn Tây có phẩm chất chính trị, đạo đức các mạng, tinh thần yêu nước

sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình

trong chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà

nước. Đồng thời chấp hành tốt sự phân công, điều động, luân chuyển của tổ

chức, có lối sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt nội quy,

quy chế của cơ quan, không sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với các cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc, đảm bảo các hoạt động

lãnh đạo, quản lý minh bạch, công khai, giữ vững phẩm chất đạo đức công vụ,

đáp ứng được yêu cầu cơ bản trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Thực hiện chính sách hiệu quả thực hiện công việc được giao

Việc thực hiện chính sách phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây nhìn chung những năm gần đây đã

có sự chuyển biến tích cực, có sự nâng cao chất lượng trên các mặt phẩm chất lý

luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng công tác….Thực hiện chính sách phát

triển tương đối phù hợp với sự phát triển của xã hội, bước đầu đáp ứng với yêu cầu

của cơ chế quản lý mới.

Thực hiện chính sách về uy tín trong công tác và năng lực tổ chức, quản lý

52

Qua khảo sát về uy tín trong công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây thì đa số gây dựng được uy tín trong

công việc, với đồng nghiệp và người dân, là cơ sở để thực hiện chính sách phát triển

vững chắc lòng tin của Nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước. Năng lực tổ chức, quản lý khá tốt, đa số đã chủ động trong

công tác, quản lý công việc khoa học hơn, công nghệ thông tin được áp dụng vào

công việc, năng suất, hiệu quả công việc được nâng cao. Những năm qua, trình độ

chuyên môn, năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số được nâng lên, chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của địa phương trong việc tạo điều

kiện thuận lợi để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân

tộc thiểu số. Điều này nói lên sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số đã vươn lên để tiếp thu những cái mới. Hiện nay đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đã được đưa đi đào tạo chuyên

môn, nghiệp vụ 100%.

Về chế độ, chính sách đối với cán bộ cấp xã nói chung và cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nói riêng đã được cải thiện và đổi mới.

Thực hiện theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định 92/2009/NĐ-CP của

Chính phủ sửa đổi năm 2013, quy định chế độ, chính sách của cán bộ, công chức

cấp xã được áp dụng chung đối với cán bộ, công chức Nhà nước, đã tạo tâm lý yên

tâm ổn định công tác đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số.

Những năm qua, được sự quan tâm của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã

chỉ đạo và lập kế hoạch chặt chẽ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng. Hàng năm, đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi

dưỡng các lĩnh vực như Lý luận Chính trị, quản lý hành chính Nhà nước, chuyên

môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc.... Bên cạnh đó, công tác quản lý, Thực hiện chính

sách phát triển của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ngày

càng được chú trọng hơn, do đó sự Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số ngày càng được nâng lên so với

trước đây.

53

2.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Hạn chế về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trẻ, trong

độ tuổi từ 31 đến 45 tuổi tuy năng động, nhiệt tình nhưng thiếu kinh nghiệm thực

tiễn, tinh thần học hỏi chưa cao nên trong công tác lãnh đạo, quản lý còn nhiều thiếu

sót, xử lý công việc chưa chính xác, làm mất nhiều thời gian, gây ra nhiều khâu trì

trệ, còn số đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên 50

tuổi thì có nhiều kinh nghiệm trong công tác, tuy nhiên đội ngũ này lại có một sức ỳ

khá lớn, chậm tiếp thu những kiến thức chuyên môn mới, làm việc một cách máy

móc, thiếu sáng tạo, thao tác chậm, không biết khai thác các phần mềm công nghệ

thông tin, không biết ứng dụng công nghệ tin học trong công việc nên chưa đáp ứng

được yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính hiện nay. Vì vậy xét về năng lực

chuyên môn và kỹ năng công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây là chưa cao.

Hạn chế về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đa phần đều

có trách nhiệm với công việc, có phẩm chất tốt, có lối sống lành mạnh, chấp hành tốt

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên,

vẫn còn một số ít yếu kém về phẩm chất, đạo đức, chưa gương mẫu trong việc thực

hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số khi

triển khai thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao còn chậm, chưa chủ động trong việc

thực thi nhiệm vụ, chưa làm hết trách nhiệm, ỷ lại vào cấp trên, vẫn còn tình trạng

chờ văn bản giao việc hoặc đôn đốc mới triển khai thực hiện, công tác tham mưu

cho lãnh đạo cấp trên còn kém, hiệu quả chưa cao, việc chỉ đạo phối hợp giữa các

cấp, các bộ phận chưa chặt chẽ.

Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn vi phạm

nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, chưa chấp hành tốt các quy định và hương

ước của nơi cư trú, sa sút về phẩm chất, đạo đức, tham gia vào các tệ nạn xã hội như

54

đánh bạc, lô đề, cá độ bóng đá, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ trước

những yêu cầu bức xúc chính đáng của Nhân dân.

Hạn chế về trình độ đào tạo, chuyên môn, nghiệp vụ

Việc đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chưa được chú trọng, nội dung

đào tạo còn trùng lặp, mang nặng tính lý thuyết, ít có tính thực tiễn. Công tác Thực

hiện chính sách phát triển kết quả đào tạo chưa đầy đủ và khách quan, mang tính hình

thức, mang nặng về bằng cấp, mang tính thủ tục, hoàn thiện hồ sơ, hình thức đào tạo

ít mang lại hiệu quả trong công việc. Trong khi đó có một số sinh viên là người dân

tộc thiểu số đã tốt nghiệp đại học chính quy ở các trường đại học vẫn không xin được

việc làm. Điều này tạo nên sự bất bình đẳng trong công tác đào tạo, thực hiện chính

sách phát triển cán bộ là người dân tộc thiểu số như hiện nay.

Kiến thức về pháp luật, về quản lý Nhà nước còn thiếu, số lượng cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có bằng cấp về công nghệ thông tin

ngày càng tăng cao và tăng cả về chủng loại bằng, chứng chỉ nhưng thực tế việc áp

dụng vào công việc còn rất hạn chế.

Hạn chế về hiệu quả thực hiện công việc được giao

Xét về số lượng và cơ cấu có nhiều mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số phát triển chưa đồng đều, chưa ngang tầm với đòi

hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tinh thần trách

nhiệm, phong cách làm việc còn yếu và chậm đổi mới, iện tượng lãng phí thời gian,

đi muộn về sớm, làm việc riêng trong giờ hành chính như đọc mạng, tán

chuyện,…vẫn chưa được khắc phục và đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thực

thi công việc. Thậm chí có một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã lợi dụng chức

năng, nhiệm vụ để trục lợi cá nhân, gây bất bình và giảm lòng tin của Nhân dân, lề

lối làm việc tùy tiện, theo thói quen, tình cảm.

Do trình độ nhận thức các mặt còn hạn chế, kiến thức chuyên môn yếu, thiếu

kinh nghiệm công tác nên khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin chậm; khả năng

nắm và truyền đạt đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật

Nhà nước vào quần chúng Nhân dân còn bị hạn chế, nên hiệu quả công tác chưa

55

cao, còn thiếu khả năng để hoàn thành nhiệm vụ một cách sáng tạo. Một số cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số còn kiêm nhiệm chức danh khác,

hạn chế đến việc giải quyết nhiệm vụ chính của chức danh phụ trách, đảm nhiệm.

Nguyên nhân khách quan của hạn chế

Thứ nhất, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và chậm đổi mới, chế tài chưa chặt

chẽ và nghiêm minh, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công việc hiện tại, yêu cầu của

quá trình hội nhập và công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, môi trường làm việc còn mang tính khép kín, bó hẹp tại địa phương

nên đã vô hình tạo ra rào cản để phát huy hết khả năng, khó tạo ra tính năng động

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số. Cơ sở vật chất trang bị

cho đội ngũ này chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ ba, quá trình hội nhập quốc tế làm ảnh hưởng tới sự thay đổi chức năng,

nhiệm vụ, tiêu chuẩn đối với người thực hiện công việc, tạo ra khoảng cách giữa

yêu cầu công việc và năng lực hiện có xu hướng ngày càng cách xa.

Thứ tư, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, giá cả leo thang dẫn đến đời

sống gặp nhiều khó khăn, thu nhập từ lương không đảm bảo được cuộc sống, hầu

hết phải tìm nguồn thu nhập khác từ bên ngoài, mặc dù trong những năm gần đây

chính sách tiền lương cũng đã có thay đổi có thêm 25% công vụ, tuy nhiên chế độ

tiền lương vẫn chưa tương xứng với nhiệm vụ, để đội ngũ này yên tâm, chuyên cần

với công việc ở vị trí công tác của mình. Công tác đề bạt, bố trí, Thực hiện chính

sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số vẫn còn

một số điểm hạn chế thông qua hình thức bầu hoặc chỉ định, cơ cấu của cấp trên

theo hướng lấy ý chí cá nhân áp đặt đại diện cho tập thể để thực hiện, công tác đào

tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua vẫn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Việc đào tạo, bồi dưỡng tuy đã có những cải tiến về nội dung, chương

trình, nhưng vẫn còn nặng về lý thuyết, việc rèn luyện các kỹ năng thực hành

còn ít, vẫn còn tình trạng đề bạt, bố trí không đúng với chuyên môn, sở trường

thế mạnh của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu.

56

Thứ năm, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số được coi là quan trọng và cần thiết, nhưng làm chỉ là hình thức, chưa coi đây là

việc làm thường xuyên, trực tiếp và là trách nhiệm của mình. Khi lựa chọn cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số kế cận chưa đi sâu nghiên cứu phát hiện

những năng khiếu, sở trường để đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp, chưa xem xét đánh

giá, điều chỉnh, bổ sung kịp thời danh sách cán bộ dự bị, chưa dựa vào chức danh quy

hoạch để xác định con người. Trong quá trình làm quy hoạch còn giản đơn, hình thức,

quy hoạch chưa gắn với thực trạng và nhu cầu thực tế nên hiệu quả quy hoạch không

cao. Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số được đề bạt từ nguồn quy hoạch thấp, cán

bộ người dân tộc thiểu số sau khi được đưa vào diện quy hoạch chưa được cấp ủy thực

sự quan tâm giúp đỡ, đào tạo và bảo vệ khi có những thông tin sai lệch.

Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nhìn

chung chưa xác định được cơ cấu độ tuổi, chuyên môn, chưa gắn với quy hoạch

tổng thế, chiến lược Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược

Thực hiện chính sách phát triển con người. Việc tiến hành quy hoạch chưa có

cơ sở khoa học vì chưa Thực hiện chính sách phát triển được cơ cấu chức danh

tiêu chuẩn.

Thứ sáu, công tác thanh tra, kiểm tra cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là cần thiết

trong quá trình hoạt động nhằm tăng cường chức năng pháp chế, răn đe cán bộ, hướng

người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số thực sự trở thành người

công bộc của Nhân dân, trung thành với Đảng, tận tụy với Nhân dân. Thanh tra, kiểm

tra giúp phát hiện mặt xấu, mặt tốt của chủ trương, chính sách, ngăn chặn khuyết điểm,

biểu dương ưu điểm của cán bộ cấp xã. Tuy nhiên, công tác thanh tra chưa được quan

tâm đúng mức, không được làm thường xuyên, thiếu nghiêm túc, còn nể nang, xuê xoa.

Quy chế làm việc của các đơn vị thực hiện một cách tùy tiện, chính sự lỏng lẻo trong

quản lý đối với việc thực hiện quy chế làm việc, chế độ trách nhiệm dẫn đến thái độ, ý

thức phục vụ Nhân dân, ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây còn hạn chế, làm ảnh hưởng đến hiệu quả

công tác trong quá trình lãnh đạo, quản lý.

57

Thứ bảy, mặc dù chính sách đã có đổi mới, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều

bất cập. Chính sách tiền lương chưa thực sự là đòn bẩy khuyến khích cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số hoàn thành nhiệm vụ, đạt hiệu quả công

tác cao, vấn đề lợi ích nhóm vẫn còn xuất hiện, điều này có thể là do nguyên nhân

xuất phát từ việc thu nhập quá thấp, không đảm bảo cuộc sống, nhiều cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã tìm nguồn thu nhập ở bên ngoài là chính. Những cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có tri thức có phát huy được hay

không còn phụ thuộc vào việc bố trí, phát triển, trong đó vấn đề Thực hiện chính

sách phát triển cán bộ đúng là vấn đề then chốt. Chế độ chính sách không khuyến

khích, hỗ trợ được người tài, năng động, sáng tạo, người làm việc có hiệu quả, vẫn

còn chủ nghĩa bình quân, cào bằng.

Công tác khen thưởng thiếu khoa học, mang bệnh thành tích, khen tràn lan,

chưa thực sự trở thành động lực khuyến khích phấn đấu vươn lên của đội ngũ cán

bộ. Mặt khác, khen tràn lan sẽ làm mất công bằng ghi nhận công lao đóng góp của

đội ngũ cán bộ xứng đáng được khen, dẫn đến làm mất ý chí phấn đấu của họ.

Công tác kỷ luật là quá trình áp dụng pháp luật mà đối tượng hướng tới là con

người trong đơn vị, nên hoạt động này cần chính xác, rõ ràng và minh bạch, kết quả

của một quyết định kỷ luật phải đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của

pháp luật. Nhìn chung, công tác xử lý kỷ luật vẫn còn lung túng trong việc áp dụng các

văn bản pháp luật để thực hiện trình tự, thủ tục kỷ luật. Thủ tục hành chính trong công

tác xử lý kỷ luật chưa được quy định rõ, bên cạnh đó hành vi vi phạm của cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã rất tinh vi nên khó phát hiện, nếu phát hiện cũng khó xử lý.

Tiểu kết chương 2

Việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây đã và đang là nhân tố quyết định sự

phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Về chuyên môn cơ bản đảm bảo theo quy định, tuy nhiên vẫn còn một số cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu

công việc; điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc hạn chế; công tác đề bạt,

58

bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số còn bị chi phối bởi các

quan hệ gia đình, họ hàng, bạn bè thân hữu và các động cơ cá nhân khác nên thường

chỉ định theo hướng lấy ý chí cá nhân áp đặt cho tập thể để thực hiện; chính sách ưu

đãi còn nhiều bất cập; công tác khen thưởng chậm đổi mới, mang bệnh thành tích,

khen thưởng tràn lan, chưa thực sự trở thành động lực khuyến khích sự phấn đấu

vươn lên của đội ngũ cán bộ; công tác xử lý kỷ luật vẫn còn lung túng trong việc áp

dụng các văn bản pháp luật để thực hiện trình tự, thủ tục kỷ luật.

59

Chương 3

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, QUẢNG NGÃI HIỆN NAY

Để thực hiện tốt chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây giai đoạn 2019 – 2025, Ban Thường

vụ Huyện ủy cần tập tiếp tục quan tâm hơn nữa việc thực hiện chính sách phát triển

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, nhằm nâng cao

kiến thức cần thiết về công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước, phương pháp và kỹ

năng quản lý hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành

đạt hiệu quả cao nhất. Cơ cấu đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về

cơ cấu, đạt tiêu chuẩn, có năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ chính trị và gắn với việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã.

Bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ, đủ nguồn cán bộ là người

dân tộc thiểu số thay thế cán bộ chủ chốt cấp xã ở mỗi nhiệm kỳ tiếp theo và làm

nguồn cán bộ cho cấp huyện.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một

số các giải pháp chủ yếu sau đây:

3.1. Thực hiện chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là yếu tố quan trọng trong việc phát

triển, xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh. Muốn phát triển, xây

dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh thì phải thực hiện chính sách phát

triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số có đủ năng lực và

phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi

xướng và định hướng.

Thực tế đã chứng minh rằng, những địa phương nào có chính quyền cấp xã

vững mạnh là do có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã mạnh, những địa phương

có điểm nóng về chính trị, đơn thư khiếu nại, tố cáo nhiều thì nguyên nhân đầu tiên bắt

60

đầu việc làm yếu kém từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Tây tuy đã được củng cố,

chọn lọc, song so với yêu cầu nhiệm vụ mới như hiện nay thì việc xây dựng và thực

hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số vẫn chưa

đồng đều. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện hiện nay là rất

cấp bách. Cấp xã là nơi tổ chức thực hiện mọi chủ trương của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước thành hiện thực, mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của Nhân

dân; uy tín của Đảng, Nhà nước được nâng cao hay không phụ thuộc một phần rất lớn

vào phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã nói

chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số nói riêng. Chính

vì vậy, đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số sa sút

về phẩm chất đạo đức, yếu kém về năng lực mà không thể khắc phục, sửa chữa được

thì không bố trí đi học, đi đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Trước mắt phải thực

hiện chính sách phát triển thật tốt số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số hiện có, vì đội ngũ này số có phẩm chất, năng lực tốt không phải là sản phẩm

tự nhiên mà là sản phẩm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ của bản

thân họ, đó là quá trình tự tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số phải gắn chặt với quy hoạch cán bộ, đồng thời phải thực hiện

chính sách phát triển tiêu chuẩn cán bộ phù hợp đối với từng chức danh, trên cơ sở

đó để người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số có hướng

phấn đấu. Muốn thực hiện chính sách phát triển có hiệu quả công tác quy hoạch cán

bộ lãnh đạo, quản lý cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Thứ nhất, cần quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, cán bộ,

đảng viên và Nhân dân về vai trò quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ.

Thứ hai, phải phát huy dân chủ trong toàn bộ quy trình quy hoạch.

Thứ ba, phải đảm bảo tính khả thi, khoa học trong công tác quy hoạch.

61

Thứ tư, thực hiện đồng bộ các khâu khác trong công tác cán bộ cấp mình.

Thứ năm, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc nhằm thực hiện tốt công tác quy

hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, đưa công tác này đi vào nền nếp.

Thứ sáu, triển khai và thực hiện ngay công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp chiến lược, đồng thời thực hiện kế hoạch luân chuyển, điều động, đào

tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách và trưởng thành qua thực tiễn.

Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý được thông báo công khai trong cấp ủy,

đơn vị và cá nhân cán bộ được quy hoạch biết. Việc lựa chọn cán bộ đưa vào quy

hoạch phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của từng vị trí, chức danh cho phù hợp

các tiểu chuẩn cán bộ.

Bên cạnh đó cũng cần đổi mới nội dung và phương pháp để nâng cao việc

thực hiện chính sách phát triển nguồn quy hoạch cán bộ. Phải chú trọng tạo nguồn

cán bộ cho quy hoạch, bao gồm cả việc hỗ trợ kinh phí nhân tài, việc tiếp nhận, đề

bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp

xã, khắc phục tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch cán bộ, hiện tượng cục bộ, khép kín

trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số phải đứng

trên tổng thể của huyện, phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện

từ năm 2025 trở về sau. Nguồn quy hoạch mới phải có độ tuổi trẻ hơn cán bộ đương

chức, cấp dưới phải trẻ hơn cấp trên. Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số phải được tiến hành, rà soát hàng năm sau Đại hội nhiệm kỳ.

Đào tạo, bồi dưỡng là một trong những giải pháp có ý nghĩa quyết định trong

việc xây dựng và thực hiện chính sách phát triển công tác cán bộ. Để nâng cao chất

lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng huyện Sơn Tây đã ưu tiên bố trí kinh

phí phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng năm 2018 lên tới 600.000.000 (sáu trăm

triệu đồng). Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đã được cải tiến phù hợp với nhu cầu thực

thực tế của từng xã. Hàng năm cấp ủy đảng và chính quyền cấp xã đưa công tác quy

hoạch thành nhiệm vụ thường xuyên, có tổng kết, tìm nguyên nhân và đưa ra giải

pháp thích hợp. Việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số

đưa vào quy hoạch phải thận trọng, kỹ lưỡng, dân chủ, công khai, minh bạch trên cơ

62

sở giới thiệu của cơ quan, đơn vị. Trước mắt, để đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần phải thực hiện đồng bộ các

giải pháp sau:

Xây dựng chương trình, chu kỳ sát hạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số để Thực hiện chính sách phát triển năng lực cán bộ, (chu kỳ

có thể từ 3 đến 5 năm).

Xác định số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

theo ngạch từng xã để xem xét bổ nhiệm lại cho phù hợp.

Quy định lại các loại văn bằng, chứng chỉ cho từng chức danh cho phù hợp

với điều kiện chung của huyện.

Định hướng đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, các kỹ năng lãnh đạo,

quản lý, tránh tình trạng hợp thức hóa bằng cấp để đạt được tiêu chuẩn chức danh

và ngạch bậc.

Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã theo yêu cầu tăng cường chất

lượng, tinh giản biên chế hành chính, đáp ứng yêu cầu chiến lược thực hiện chính sách

phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2020 - 2025, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các chức

danh cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số, giữa các độ tuổi, giới tính, lĩnh

vực công tác; khắc phục tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.

Trong đào tạo, bồi dưỡng cũng phải tính đến yếu tố xây dựng chương trình đào tạo, bồi

dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, cần quan tâm đến

các đặc điểm, thế mạnh riêng của từng xã, từng đối tượng chức danh. Hằng năm, Ban

Tổ chức Huyện ủy phải xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ, chứ không hạn chế theo chỉ

tiêu từ trên quy định như hiện nay.

Để chủ động hòa nhập có hiệu quả nhất, nhanh nhất, sớm thoát ra khỏi thực

trạng chậm phát triển, tụt hậu so với các huyện bạn trong tỉnh, cần phải có một đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn,

năng động, sáng tạo để tác động trực tiếp quá trình chuyển đổi này, nhằm khai thác

triệt để các yếu tố tiềm năng tiềm ẩn ở huyện hiện nay. Do đó, cần có môi trường

63

thuận lợi để đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số nâng

cao trình độ, được hỗ trợ về mặt vật chất để có sự yên tâm về mặt tinh thần.

Trên cơ sở đổi mới và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phải

đồng hành nâng cao mặt bằng dân trí. Thực tiễn chứng minh, mọi chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm chỉnh, đạt hiệu

quả hay không ngoài việc phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp xã mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí.

3.2. Đổi mới việc thực hiện chính sách công tác đề bạt, bố trí cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người uy tín

Công tác đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã có ý nghĩa quan trọng nhằm hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

người dân tộc thiểu số có đủ phẩm chất, năng lực, xứng đáng là công bộc của Nhân

dân, đáp ứng yêu cầu của địa phương. Trên thực tế công tác đề bạt, bố trí, thực hiện

chính sách phát triển là một lĩnh vực khá phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến lợi ích của

nhiều người, nên không tránh khỏi những nhược điểm. Việc đề bạt, bố trí, thực hiện

chính sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số tại

huyện Sơn Tây trong những năm qua bên cạnh kết quả đã đạt được về số lượng và các

điều kiện, tiêu chuẩn phù hợp với cơ cấu các chức danh ở các xã, còn không ít nhược

điểm là việc thực hiện chính sách phát triển và xây dựng kế hoạch đề bạt, bố trí chưa

phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, chưa bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, khách quan,...(đây

cũng là thực trạng chung ở nhiều địa phương của tỉnh Quảng Ngãi hiện nay). Những

nhược điểm trên có nguyên nhân chủ yếu do việc đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách

phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã chưa hoàn thiện, nhận thức của cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp trên về nguyên tắc của đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển

còn hạn chế, các biểu hiện tiêu cực trong đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển

còn chưa được khắc phục, vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý Nhà nước đối

với cấp xã chưa đáp ứng được yêu cầu,...

Hiện nay, số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã cơ bản đảm bảo về số

lượng theo quy định. Tuy nhiên, trong những năm tới sẽ cần bổ sung thêm do có

64

một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số đến tuổi nghỉ

hưu. Vì vậy, cần tiến hành xây dựng đề án đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát

triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số để bổ sung vào các

chức danh còn thiếu. Đây là khâu quan trọng trong quá trình quản lý, lựa chọn nhân

sự, tác động lớn đến các công tác cán bộ. Vì thế, để lựa chọn được người thích hợp

với công việc, phát huy được năng lực cần làm tốt những nội dung

Thực hiện chính sách phát triển và xây dựng tiêu chuẩn đề bạt, bố trí phải phù

hơp với tình hình thực tế của từng địa phương, phải căn cứ vào nhu cầu, vị trí, cơ cấu

và tiêu chuẩn, không nên cứng nhắc theo tiêu chuẩn đã quy định cụ thể của từng chức

danh (tùy việc mà chọn người và tùy người mà xếp việc) cần mở rộng thêm điều

kiện, tiêu chuẩn đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển đối với các xã.

Thay đổi hình thức đề bạt, bố trí, thực hiện chính sách phát triển cán bộ từ

cách lấy phiếu tín nhiệm sang hình thức thi tuyển, phỏng vấn cán bộ để bảo đảm

tính khách quan, công bằng, nâng cao chất lượng, lựa chọn được những người có

trình độ, năng lực để tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cấp xã bảo đảm tính

cạnh tranh trong đề bạt, bố trí cán bộ.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật về đề bạt, bố trí, Thực hiện chính

sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.

Cần tiến hành kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh

các trường hợp không đảm bảo các quy định của pháp luật về đề bạt, bố trí, thực

hiện chính sách phát triển cán bộ cấp xã.

3.3. Thực hiện chính sách đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số

3.3.1. Đẩy mạnh việc đánh giá phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số

Thực hiện chính sách phân loại và đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã

là khâu quan trọng đầu tiên của công tác tổ chức, đồng thời đó cũng là việc làm

thường xuyên khi thực hiện các khâu khác nhau như quy hoạch, bố trí, đề bạt, bầu,

bổ nhiệm, đào tạo, khen thưởng và kỷ luật cán bộ, công chức.

65

Ở khâu quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số phải

dựa trên sự phân loại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã đương chức một cách

rõ ràng, nhằm nắm chắc thực lực và làm cơ sở cho việc sắp xếp, bố trí hay đào tạo lại,

bổ sung cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số. Do đó, muốn quy hoạch tốt

phải Thực hiện chính sách phát triển đúng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân

tộc thiểu số.

Việc bố trí công việc sau khi phân loại, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số, phân thành các loại như sau:

Loại làm tốt, xuất sắc nhiệm vụ, có thể thực hiện nhiệm vụ cao hơn thì

khi xây dựng quy hoạch cần đưa vào diện dự bị cho các chức danh trên chức

danh đương nhiệm.

Loại hoàn thành nhiệm vụ, độ tuổi còn phù hợp thì giữ nguyên vị trí

trong quy hoạch mới.

Loại phải thay thế, chuyển đổi công tác vì nhiều lý do như đến tuổi hưu

khi hết kỳ kế hoạch, sức khoẻ yếu hoặc phẩm chất, năng lực không đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ.

Loại được chọn cử đi đào tạo, bồi dưỡng để có thể đảm nhiệm chức danh

khác nhau, cao hơn (hiện tại năng lực chưa đáp ứng với chức danh đó); loại phải

đào tạo lại hoặc bồi dưỡng nâng cao do phẩm chất và năng lực hiện tại chưa đáp

ứng yêu cầu công tác.

3.3.2. Khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện chính sách phát triển

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số .

Từ những hạn chế trong công tác thực hiện chính sách phát triển cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, trong thời gian tới huyện Sơn Tây cần

tập trung vào các nội dung sau để khắc phục những hạn chế:

Thứ nhất, tập trung vào đặc tính, phẩm chất đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số đó như thế nào, có trung thành hay không.

Thứ hai, tập trung vào hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người

dân tộc thiểu số, như ý thức chấp hành kỷ luật, thực hiện các quy định của tổ chức.

66

Thứ ba, tập trung vào kết quả thực hiện công việc như số lượng, chất lượng

công việc được giao.

Thực hiện chính sách phát triển và xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống

chức danh, tiêu chuẩn theo ngạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã phù hợp với thực

tiễn và yêu cầu của từng đối tượng; hoàn thiện pháp luật về đánh giá, xếp loại, xây

dựng và ban hành quy chế theo hướng lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ

được giao, khối lượng, tiến độ và hiệu quả công việc, ý thức trách nhiệm đối với

công việc để làm căn cứ đánh giá, xếp loại lãnh đạo, quản lý cấp xã.

3.4. Đổi mới cách thức thực hiện chính sách khen thưởng, kỷ luật cán

bộ, công chức

Mục đích khen thưởng, kỷ luật là nhằm tạo động lực để cán bộ phấn đấu

hoàn thành nhiệm vụ, nhằm động viên kịp thời, xứng đáng với thành tích họ đã đạt

được. Vì vậy cần quy định cụ thể các hình thức khen thưởng tương ứng với thành

tích đạt được đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số

có công trạng đã đạt thành tích xuất sắc trong lĩnh vực quản lý, điều hành, cần khen

thưởng bằng nhiều hình thức theo quy định của Luật, kèm theo đó là những phần

thưởng vật chất nhất định xứng đáng với công sức họ đã lao động, cống hiến. Đồng

thời cần được xét nâng bậc lương trước thời hạn, ưu tiên khi xem xét giữ các vị trí

khác cao hơn vị trí đương nhiệm.

Việc khen thưởng kịp thời không những có tác dụng biểu dương người đã có

thành tích, khuyến khích họ tiếp tục phấn đấu mà còn trở thành động lực thúc đẩy

những người khác noi gương, phấn đấu theo. Cần đưa công tác thi đua khen thưởng

vào nền nếp, thực chất, thực sự là một nguồn lực tinh thần mạnh mẽ trong chính

sách đãi ngộ cán bộ, công chức, chú trọng các hình thức khen thưởng, khen thưởng

kịp thời thỏa đáng những cán bộ có thành tích, cống hiến xuất sắc để động viên,

khích lệ sự cống hiến của họ nhằm thúc đẩy cán bộ cấp xã nâng cao hiệu quả công

tác. Tuy nhiên, cũng cần khắc phục “bệnh thành tích”, hình thức, lãng phí. Khen

thưởng phải đi đôi với phê bình và kỷ luật, cần phải quy định rõ những chế tài

nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm pháp luật, ngăn ngừa việc xảy ra vi phạm kỷ

67

luật, là việc làm kể cả người cán bộ, Nhà nước và Nhân dân đều không mong muốn,

nếu để xảy ra thì vừa phải xử lý cán bộ, vừa làm ảnh hưởng đến uy tín của hệ thống

chính trị cấp xã. Khi xử lý kỷ luật cán bộ, công chức cần phải chính xác, rõ ràng,

minh bạch, kết quả của một quyết định kỷ luật phải thỏa mãn với hành vi của người

vi phạm và phù hợp với quy định của pháp luật.

3.5. Tăng cường thực hiện chính sách kiểm tra, thanh tra, giám sát việc

thực hiện công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Cấp xã là gần gũi Nhân dân

nhất, là nền tảng của hành chính, cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều

xong xuôi. Thế mà vì hẹp hòi, bao biện, không biết phân công, vì dân chưa biết

lựa chọn để cử những người có năng lực, vì cấp trên không biết cân nhắc, giúp

đỡ, đốc thúc, kiểm tra, huấn luyện, thành thử phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu

năng lực, kém tinh thần”. Thực tiễn thời gian qua tại huyện Sơn Tây cho thấy,

những sai phạm của một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu

số, nếu không được kiểm tra, uốn nắn kịp thời sẽ tạo cơ hội cho những sai lầm lớn

hơn dẫn đến mất lòng tin trong Nhân dân, uy tín của Đảng, của Nhà nước đối với

Nhân dân bị giảm sút, có trường hợp phải kỷ luật gián chức, cảnh cáo. Vì vậy, công

tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người

dân tộc thiểu số phải được tiến hành thường xuyên, không chờ khi có vi phạm

nghiêm trọng mới kiểm tra xử lý kỷ luật. Thực hiện Quy định 217; 218 của Bộ

Chính trị về công tác giám sat, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng

chính quyền theo tinh thần thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành

công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán

bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.

Để bảo đảm thực hiện tốt ba điểm đó, cần thiết phải thanh tra, kiểm tra, giám

sát, quản lý đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, và

xem đó là điều kiện bảo đảm việc thực thi nhiệm vụ một cách tích cực, đúng đắn, để

tạo cho họ thực sự vừa hồng, vừa chuyên. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp

68

bảo đảm việc chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong thực thi nhiệm vụ công vụ.

Lãnh đạo, quản lý thống nhất là bảo đảm cho hoạt động cấp xã được nhất quán,

nhịp nhàng, có trật tự và hướng tới tính hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, công tác

giám sát, thanh tra cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã chưa được quan tâm đúng mức,

chưa thực sự có hiệu quả, còn biểu hiện nể nang, hình thức, nên cần có những giải

pháp sau:

Thứ nhất, cần có quy định cụ thể hơn về thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, để bảo đảm cho quá trình lãnh đạo, quản lý thực

hiện nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật, có hiệu quả cao. Thông qua

thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho cấp trên biết được cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã là người dân tộc thiểu số thực hiện công việc được giao đến đâu, có đúng

hay không, có gì sai sót không. Nếu có sai phạm thì có hướng để chỉ đạo, uốn nắn

kịp thời. Qua thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số nhận thấy được ưu điểm, nhược điểm bản thân để có hướng

điều chỉnh cho đúng, không vi phạm pháp luật.

Thứ hai, muốn thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát phải sử công cụ, đó là

pháp luật. Việc xây dựng và ban hành những quy định rõ ràng về thẩm quyền và cơ

chế bảo đảm thực thi thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, giám sát của Đảng và Nhà

nước, việc thực thi quyền khiếu nại, tố cáo một cách thuận lợi; đồng thời phải quy

định rõ trách nhiệm về những sai phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ gây ra

bằng các quy định kỷ luật cụ thể.

Thứ ba, để cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số thực sự

hướng tới phục vụ Nhân dân, cần phải có các quy định về kiểm tra thường xuyên và

định kỳ, kết quả kiểm tra phải được công bố công khai, làm cơ sở để xét nâng bậc

lương, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và xét hưởng.

3.6. Thực hiện đúng đắn chế độ chính sách ưu đãi đối với cán bộ cấp xã

người dân tộc thiểu số

Hệ thống chính sách là công cụ điều tiết năng lực lãnh đạo của cán bộ trong

quản lý xã hội. Hệ thống chính sách tốt sẽ tạo động lực cho sự phát triển đối với

69

công tác cán bộ, nếu chính sách không tốt nó làm kìm hãm, triệt tiêu, cản trở sự

phát triển công tác cán bộ. Trong công tác thực hiện chính sách phát triển đội ngũ

lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số nên có hệ thống chính sách đúng,

hợp lý sẽ khuyến khích được tính tích cực, sự hăng hái, cố gắng yên tâm với công

việc, nâng cao tính trách nhiệm, phát huy được sáng tạo, thu hút được nhân tài, làm

cho nội bộ đoàn kết nhất trí cao, mọi người đồng tâm hiệp lực. Ngược lại, nếu hệ

thống chính sách không hợp lý sẽ tạo ra tâm trạng chán nản, triệt tiêu tính tích cực,

kìm hãm sự sáng tạo, nảy sinh nhiều tiêu cực, nội bộ mất đoàn kết, có thể đưa đẩy

hàng loạt cán bộ lãnh đạo, quản lý đến chỗ sai lầm. Bởi vậy, muốn thực hiện chính

sách phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số cần phải có

giải pháp đổi mới, cần phải hoàn thiện hệ thống chính sách cụ thể. Sự đổi mới, hoàn

thiện hệ thống chính sách hiện nay đòi hỏi phải đảm bảo yêu sau:

Phải quán triệt, thể hiện được những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính

sách của Nhà nước; đảm bảo quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi càng lớn,

trách nhiệm càng cao.

Hệ thống chính sách phải đảm bảo công bằng, có tính kích thích, khuyến

khích tài năng sáng tạo, có sức lôi cuốn, hấp dẫn để mọi người phấn đấu vươn lên,

cụ thể trên phương diện vật chất, tinh thần, chính trị, xã hội và nhân đạo, nhưng

phải phù hợp với địa phương, không thoát ly, xa rời điều kiện kinh tế của của huyện

Sơn Tây, để cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số thực sự yên tâm làm việc, chuyên

tâm thì tiền lương phải là nguồn thu nhập chính và chủ yếu, đảm bảo đủ sống, có

mức sống trên mức trung bình của xã hội. Việc cải cách mức phụ cấp hỗ trợ phải

nhằm kích thích sự phấn đấu vươn lên, làm cho cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu

số luôn tu dưỡng, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ.

3.6.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện chính sách

phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

Trong giai đoạn hiện nay huyện Sơn Tây nổi lên một số vấn đề cần quan tâm

và chú ý sau đây:

70

Cùng với việc đẩy mạnh việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước, Huyện ủy phải chú trọng thực hiện chính sách phát triển các phương án,

biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, công tác tổ chức cán bộ, để các cấp ủy cấp xã

vận dụng khi thực hiện nhiệm vụ.

Cần tổng kết về thực hiện chính sách phát triển cán bộ một cách thường xuyên,

thông qua đó phát hiện những nhân tố mới, những cách làm mới trong công tác cán bộ,

Thực hiện chính sách phát triển thực lực cán bộ và công tác cán bộ, một mặt vừa tìm ra

nguyên nhân, khâu quan trọng của vướng mắc, khó khăn trong công tác cán bộ của

từng xã để có giải pháp tháo gỡ, khắc phục khó khăn, phát huy những thành quả đạt

được. Ngoài ra, tiến hành kiểm tra phẩm chất, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp xã người dân tộc thiểu số, nêu gương người tốt việc tốt, uốn nắn những thiếu sót

trong công tác cán bộ, ngăn chặn những biểu hiện thoái hóa, biến chất của cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số.

Kịp thời điều động, chuyển đổi vị trí công tác đối với những cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số không có năng lực, năng lực quá yếu hoặc có

vi phạm; điều động, luân chuyển, tăng cường cho cấp xã những cán bộ lãnh đạo,

quản lý là người dân tộc thiểu số có uy tín từ các ban, ngành của huyện. Nơi nào

mất đoàn kết nội bộ kéo dài thì phải tiến hành điều tra làm rõ nguyên nhân, trách

nhiệm của mỗi cá nhân để sớm giải quyết dứt điểm, kịp thời tham mưu cấp có thẩm

quyền chỉ đạo khắc phục.

Cần phải tăng cường sự lãnh đạo tập thể về công tác cán bộ, vì quyết định

vấn đề cán bộ có ý nghĩa quan trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và ảnh

hưởng trực tiếp đến vận mệnh chính trị của từng cá nhân, đồng thời phải đề cao tính

chịu trách nhiệm của cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý.

71

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Nghiên cứu đề tài, bản thân rút ra được kinh nghiệm và kết luận sau đây:

1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số đang là

nhân tố quyết định sự công trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã

hội của huyện Sơn Tây.

2. Số lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số

về chuyên môn cơ bản đảm bảo theo quy định, tuy nhiên về trình độ chuyên môn

nghiệp vụ vẫn còn hạn chế, một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân

tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.

3. Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc còn hạn chế, đặc biệt là các

phương tiện máy móc phục vụ cho công tác còn thiếu, làm ảnh hưởng trực tiếp đến

hiệu quả công tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số.

4. Để thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là

người dân tộc thiểu số trong thời gian đến, cần giải quyết nhiều vấn đề vừa cấp bách,

vừa cơ bản như: Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới công tác đề bạt, bố

trí, đổi mới công tác khen thưởng, kỷ luật; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra,

giám sát việc thực hiện công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã; xây dựng và thực

hiện đúng đắn chế độ chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã; tăng cường

hơn nữa sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ, thực hiện tốt chính sách

phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã người dân tộc thiểu số.

5. Với tiềm năng con người và tài nguyên hiện tại của huyện nếu đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được đào tạo, bố trí hợp lý,

việc thực hiện chính sách phát triển sẽ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp

phần thúc đẩy quá trình đưa huyện Sơn Tây sớm thoát khỏi huyện nghèo.

2. Kiến nghị

Ngoài các giải pháp trên, để thực hiện tốt chính sách phát triển nguồn nhân lực

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số, bản thân xin kiến nghị những

nội dung sau:

72

* Đối với chính phủ:

Đề nghị Chính phủ xây dựng chính sách đặc thù với cán bộ, công chức cấp

xã là người dân tộc thiểu số đang công tác tại xã.

Kiên quyết đầu ra đề giải quyết số cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay không

đủ điều kiện để đào tạo chuẩn hóa, do trình độ năng lực hạn chế, tuổi cao...như

chính sách tinh giảm biên chế theo Nghị định 108/2007/NĐ-CP của Chính phủ, hiện

được điều chỉnh, bổ sung theo Nghị định 113/2018/NĐ-CP của Chính phủ đang

thực hiện đối với cán bộ không đủ điều kiện tái cử hoặc sức khỏe yếu, năng lực hạn

chế, vì thực tế hiện nay số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc

thiểu số thuộc diện này ở huyện vẫn còn nhưng chưa có cách giải quyết.

* Đối với tỉnh Quảng Ngãi

Đề nghị với Tỉnh ủy, HĐND, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng chính sách đặc

thù với cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số đang công tác tại xã

thuộc xã loại II về chế độ đào tạo, chế độ ưu đãi trong công tác,..

Tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện cho Trường chính trị tỉnh mở lớp trung cấp,

phối hợp với Học viện Chính trị khu vực III đào tạo chính trị nhằm tạo điều kiện

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số được học tập nâng cao

trình độ; không phân biệt việc đào tạo chuyên môn chính quy hay tại chức để quy

hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, phát triển, mà phải căn cứ vào năng lực thực tế của

người đó. Đề nghị triển khai quyết liệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng

Ngãi lần thứ XIX về chương trình trọng tâm thực hiện chính sách phát triển nguồn

nhân lực.

73

[

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo Huyện ủy về công tác cán bộ qua các năm (2015, 2016,2017, 2018);

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh (1946), Sửa đổi lề lối làm việc;

3. Học viện hành chính quốc gia (2005), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực

trong cơ quan hành chính nhà nước, Nhà xuất bản đại học Quốc gia, Hà Nội;

4. Lê Quang Thạch (2013), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức chuyên môn

các xã, thị trấn huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh

tế;

5. Nghị định 113/2018/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định

108/2014/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 20/11/2014 về tinh giản biên chế;

6. Nghị định 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 về quy định chế độ trách nhiệm đối

với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm

vụ, công vụ;

7. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc;

8. Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 về công chức xã, phường, thị

trấn;

9. Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi

dưỡng công chức;

10. Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2011 về việc xử lý kỷ luật

đối với công chức;

11. Nghị định số 42/2010/NĐ-CP, ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy

định chi tiết một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng;

12. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 và được sửa đổi, bổ sung năm

2013;

13. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Sơn Tây lần thứ XII, nhiệm kỳ 2015 – 2020;

14. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIX nhiệm kỳ 2015 -

2020;

15. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VIII về chiến lược cán bộ;

16. Nguyễn Kim Diện (2007), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính

tỉnh Hải Dương, Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế;

17. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong

điều kiện mới, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;

18. Quốc hội ( 2013), Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

19. Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức;

20. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương;

21. Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ về việc ban

hành tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;

22. Quyết định số 457/2008/QĐ-UBND, ngày 26/12/2008 của Ủy ban nhân tỉnh

Quảng Ngãi ban hành quy định chế độ chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công

chức, viên chức lãnh đạo quản lý của tỉnh được điều động, luân chuyển;

23. Quyết định số 481/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của Ủy ban nhân tỉnh

Quảng Ngãi ban hành quy định chế độ hỗ trợ đối với cán bộ, công chức trên

địa bàn tỉnh được cử đi đào tạo trong và ngoài nước;

24. Quyết định số 493/QĐ-UBND ngày 31/3/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi, ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên

chức tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 - 2020;

25. Thang Văn Phúc - Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

26. Thông tư số 02/2011/TT-BNV ngày 24 tháng 01 năm 2011 của Bộ nội vụ về

tiêu chuẩn khen thưởng;