ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y – DƯỢC
NGUYỄN THỊ ÁNH
THỰC TRẠNG MANG GEN BETA THALASSEMIA VÀ KIẾN THỨC THÁI ĐỘ THỰC HÀNH DỰ PHÒNG BỆNH Ở PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ, 15-49 TUỔI, CÓ CHỒNG HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
CHUYÊN NGÀNH: Y HỌC DỰ PHÒNG MÃ SỐ: 60.72.01.63
THÁI NGUYÊN - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
NGUYỄN THỊ ÁNH
THỰC TRẠNG MANG GEN BETA THALASSEMIA VÀ KIẾN THỨC THÁI ĐỘ THỰC HÀNH DỰ PHÒNG BỆNH Ở PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ, 15-49 TUỔI, CÓ CHỒNG HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Y HỌC DỰ PHÒNG Mã số: 60.72.01.63
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM KHẢI HOÀN
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi cùng nhóm
nghiên cứu. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 09 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Ánh
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới PGS.TS Đàm Khải Hoàn – Bộ môn Y học cộng đồng – Trường Đại học
Y Dược Thái Nguyên, là người thầy đã tận tình hướng dẫn, tạo mọi điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo (bộ phận
Sau đại học), Bộ môn Y học cộng đồng, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác để tôi yên tâm học tập và hoàn
thành được khóa học này.
Qua đây, tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo đã giảng dạy,
truyền đạt cho tôi những kiến thực mới và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin được được tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng –
Phó hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Thái nguyên, ThS Nguyễn Kiều Giang –
Giám đốc Trung tâm Huyết học và Truyền máu bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên, Ban Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Chợ Mới, cán bộ
Trạm Y tế xã Tân Sơn, xã Nông Hạ, xã Như Cố huyện Chợ Mới đã tạo điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu để
hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi tới gia đình, bạn bè, người thân lòng biết ơn sâu
sắc. Những người luôn luôn ở bên, ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 09 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Ánh
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ...................................................................................................... i
Lời cảm ơn ........................................................................................................ ii
Mục lục ...........................................................................................................iii
Danh mục chữ viết tắt ...................................................................................... iv
Danh mục các bảng ........................................................................................... v
Danh mục các hình ........................................................................................... vi
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN ............................................................................... 3
1.1. Thực trạng mang gen beta Thalasemia và đặc điểm một số chỉ số huyết
học ở người mang gen bệnh. ............................................................................. 3
1.1.1. Khái quát về bệnh Thalassemia, beta Thalassemia ................................. 3
1.1.2. Thực trạng mang gen beta Thalasemia trên thế giới ............................... 6
1.1.3. Thực trạng mang gen beta Thalasemia tại Việt Nam ............................. 7
1.1.4. Đặc điểm một số chỉ số huyết học ở người mang gen beta Thalassemia.. 9
1.2. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia.. 11
1.2.1. Một số khái niệm về hành vi sức khỏe.................................................. 11
1.2.2. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
trên thế giới ..................................................................................................... 13
1.2.3. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
tại Việt Nam .................................................................................................... 17
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 20
2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 21
2.2. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................ 21
2.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................... 22
2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 22
2.5. Biến số, chỉ số nghiên cứu ....................................................................... 23
2.6. Tiêu chuẩn đo lường, phân loại và đánh giá ........................................... 27
2.7. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................... 30
2.8. Phương pháp xử lý số liệu ........................................................................ 31
2.9. Khống chế sai số ...................................................................................... 31
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu ...................................................................... 32
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 33
3.1. Đặc điểm chung của phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng huyện
Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn ................................................................................... 33
3.2. Thực trạng mang gen beta Thalassemia và đặc điểm một số chỉ số huyết
học ở phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng ...................................... 36
3.3. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia ở
phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng ................................................ 41
Chương 4. BÀN LUẬN ................................................................................. 46
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ............................................. 46
4.2. Tỷ lệ mang gen beta Thalassemia và đặc điểm một số chỉ số huyết học ở
phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn ............... 48
4.3. Kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia ở phụ nữ dân
tộc thiểu số, 15-49 tuổi huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn ................................. 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................ 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 65
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 75
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
cs. : cộng sự
DTTS : Dân tộc thiểu số
ĐTV : Điều tra viên
ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu
Hb : Huyết sắc tố
(Hemoglobin)
MCV : Thể tích trung bình một hồng cầu
(Mean corpuscular volume)
MCH : Số lượng huyết sắc tố trung bình trong một hồng cầu
(Mean corpuscular hemoglobin)
MCHC : Nồng độ huyết sắc tố trung bình trong một hồng cầu
(Mean corpuscular hemoglobin concentration)
HBA1, HBA2 : Ký hiệu 2 gen nằm trên nhiễm sắc thể thứ 16
RBC : Số lượng hồng cầu
(Red blood cell)
RDW : Hình thái kích thước hồng cầu
(Red cell Distribution Width)
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TTGDSK : Truyền thông giáo dục sức khỏe
TMTM : Thiếu máu tan máu
TTHHTM : Trung tâm huyết học và truyền máu
WHO : Tổ chức Y tế thế giới
(World Health Organization)
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1 Ước tính tỷ lệ lưu hành bệnh Thalassemia trên thế giới 7
Bảng 1.2 Tình hình mang gen bệnh beta Thalassemia tại Việt Nam 8
Bảng 2.1 Biến số, định nghĩa, phân loại biến số nghiên cứu 23
Bảng 3.1 Đặc điểm về độ tuổi và dân tộc của đối tượng nghiên cứu 34
Bảng 3.2 Đặc điểm trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu 34
Bảng 3.3 Đặc điểm nghề nghiệp và điều kiện kinh tế của đối tượng 34 nghiên cứu
Bảng 3.4 Đặc điểm về tuổi kết hôn của đối tượng nghiên cứu 35
Bảng 3.5 Đặc điểm quan hệ huyết thống giữa cặp vợ chồng và tình 36 trạng di trú của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.6 Nguồn thông tin về phòng chống bệnh Thalassemia 36
Bảng 3.7 Phân bố tần số mang gen beta Thalassemia theo dân tộc 37
Bảng 3.8 Phân bố số lượng hồng cầu, kích thước hồng cầu trung bình 38 (RBC, RDW) theo tỷ lệ mang gen beta Thalassemia
Bảng 3.9 Phân bố nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC) 38 theo tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia
Bảng 3.10 Phân bố thể tích trung bình hồng cầu (MCV) theo tỷ lệ mang 39 gen bệnh beta Thalassemia
Bảng 3.11 Phân bố số lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCH) 39 theo tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia
Bảng 3.12 Phân bố tình trạng thiếu máu theo số lượng hồng cầu và tỷ lệ 40 mang gen bệnh beta Thalassemia
v
Bảng 3.13 Phân bố tình trạng thiếu máu theo nồng độ hemoglobin và tỷ 41 lệ mang gen bệnh beta Thalassemia
Bảng 3.14 Kiến thức dự phòng bệnh Thalassaemia của đối tượng nghiên cứu 42
Bảng 3.15 Thái độ dự phòng bệnh Thalassemia của đối tượng nghiên cứu 44
Bảng 3.16 Thực hành dự phòng bệnh Thalassemia của đối tượng nghiên cứu 45
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1 Bản đồ hành chính huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 21
Hình 2.2 Sơ đồ thiết kế nghiên cứu cắt ngang 22
Hình 2.3 Sơ đồ xác định thứ bậc của quan hệ huyết thống 29
Hình 3.1 Biểu đồ tỷ lệ thiếu máu chung theo nồng độ hemoglobin 40 của đối tượng nghiên cứu
Hình 3.2 Biểu đồ phân bố tình trạng thiếu máu theo nồng độ 41 hemoglobin và tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia
Hình 3.3 Biểu đồ kiến thức chung về dự phòng bệnh Thalassemia 42 của đối tượng nghiên cứu
Hình 3.4 Biểu đồ thái độ chung về dự phòng bệnh Thalassemia 43 của đối tượng nghiên cứu
Hình 3.5 Biểu đồ thực hành chung về dự phòng bệnh Thalassemia 45 của đối tượng nghiên cứu
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu tan máu (Thalassemia) không phải là bệnh mới, bệnh hiếm mà
là bệnh lý tan máu di truyền phổ biến nhất ở nước ta cũng như trên thế giới
[29]. Tùy theo sự thiếu hụt tổng hợp ở mạch alpha, beta hay ở cả hai mạch mà
gọi là alpha Thalassemia, beta Thalassemia hay alpha-beta Thalassemia [1].
Trong nhóm bệnh này thì beta Thalassemia là bệnh phổ biến. Điều trị
bệnh Thalassemia nói chung và beta Thalassemia nói riêng đang là một bài
toán phức tạp và là một thách thức cho ngành y khoa toàn cầu, đặc biệt là các
thể nặng: 86,79% bệnh nhân Thalassemia bị chậm phát triển chiều cao và
90,57% chậm phát triển về cân nặng, bệnh thể nặng có thể khiến một đứa trẻ
chết trước 3 tuổi nếu không được điều trị [21], [36], [57], [63].
Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới, liên quan chặt chẽ với nguồn gốc dân
tộc và có tính địa dư rõ rệt [62]. Theo liên đoàn Thalassemia quốc tế, có tới
70 triệu người mang gen beta Thalassemia trên thế giới, riêng khu vực Châu
Á là 60 triệu người [29]. Ở Việt Nam, tỷ lệ người dân mắc bệnh phân bố
trong cả nước, khác nhau tùy từng địa phương, từng nhóm dân tộc, đặc biệt
là ở đối tượng người dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc tỷ lệ mang gen bệnh
rất cao: Mường (25,0%), Tày (12,0%), Nùng (10,7%) [5], [16], [33]. Đây
chính là nhóm đối tượng có nguy cơ cao truyền gen bệnh sang thế hệ sau và
một trong các yếu tố quyết định đến việc trẻ sinh ra có bị mắc bệnh
Thalassemia thể nặng hay không phụ thuộc vào hành vi dự phòng bệnh của
nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, hành vi dự phòng bệnh Thalassemia trong
cộng đồng và y tế còn thấp. Nghiên cứu của Ngô Mạnh Quân chỉ có 10,2%
đối tượng đến đăng ký kết hôn ở quận Hoàn Kiếm có kiến thức đầy đủ về
bệnh. Theo Nguyễn Kiều Giang có 11,0% đối tượng đạt mức độ kiến thức khá
2
tốt về dự phòng bệnh Thalassemia, 3% đối tượng đã làm xét nghiệm tự nguyện
sàng lọc bệnh trước khi kết hôn hoặc khi mang thai [5], [27].
Huyện Chợ Mới nằm ở phía Nam tỉnh Bắc Kạn, với dân dân số 36.747
người, toàn huyện có 7 dân tộc anh em sinh sống: Kinh (20%), Tày (56,9%),
Dao (17,0%), còn lại là các dân tộc Nùng, Mông, Hoa, Sán Chay. Với đặc thù
là một huyện người dân tộc thiểu số chiếm chủ yếu, trình độ dân trí thấp, điều
kiện kinh tế còn hạn chế, ít có biến động dân số. Đó là những điều kiện thuận
lợi cho bệnh beta Thalassemia lan rộng trong cộng đồng. Việc sàng lọc phát
hiện người mang gen bệnh và mô tả kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng
bệnh của người dân để hạn chế phát sinh các thể nặng trong cộng đồng người
dân các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt ở nhóm đối tượng phụ nữ độ tuổi
sinh đẻ là rất cần thiết. Do đó câu hỏi chúng tôi đặt ra: Tỷ lệ mang gen bệnh
beta Thalassemia ở phụ nữ dân tộc thiểu số, độ tuổi sinh đẻ, có chồng tại
huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn hiện nay là bao nhiêu? Kiến thức, thái độ, thực
hành dự phòng bệnh của nhóm phụ nữ này như thế nào? Để trả lời hai câu hỏi
trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng mang gen beta
Thalassemia và kiến thức thái độ thực hành dự phòng bệnh ở phụ nữ dân
tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn” với mục
tiêu như sau:
1. Xác định tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia và mô tả đặc điểm
một số chỉ số huyết học ở phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng huyện
Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn năm 2016.
2. Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
ở phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.
3
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Thực trạng mang gen beta Thalasemia và đặc điểm một số chỉ số
huyết học ở người mang gen bệnh
1.1.1. Khái quát về bệnh Thalassemia, beta Thalassemia
1.1.1.1. Thalassemia
Thalassemia là nhóm bệnh máu di truyền bẩm sinh có đặc điểm chung
là gây tan máu thường xuyên dẫn đến thiếu máu mạn tính. Bệnh gặp cả ở
nam và nữ.
Trong máu có ba loại tế bào là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cẩu. Mỗi tế
bào máu đều có đời sống nhất định và thường xuyên được thay thế. Hồng cầu
là tế bào màu đỏ, trong hồng cầu có chứa huyết sắc tố có chức năng vận
chuyển oxy từ phổi đến các cơ quan trong cơ thể. Trung bình mỗi ngày có
khoảng gần 1% lượng hồng cầu già của cơ thể chết đi (gọi là tan máu sinh lý)
và tương ứng có một lượng hồng cầu mới được sinh ra từ tủy xương.
Thiếu máu là tình trạng giảm huyết sắc tố dưới mức bình thường, biểu
hiện dễ nhận thấy là da xanh, niêm mạc nhợt. Thiếu máu do nhiều nguyên
nhân như do dinh dưỡng, mất máu (xuất huyết, rong kinh...), do tan máu...
Tan máu là tình trạng hồng cầu vỡ quá nhanh, quá nhiều so với mức sinh
lý bình thường. Khi tan máu nhiều hoặc kéo dài, tuỷ xương không sản xuất
kịp hồng cầu mới để bù đắp, cơ thể sẽ bị thiếu máu [29].
1.1.1.2. Beta Thalassemia
Bệnh này do thiếu hụt sự tổng hợp chuỗi beta globin, gây thừa tương đối
chuỗi alpha globin trong phân tử hemoglobin. Tùy theo chuỗi beta tổng hợp
được ít hay không tổng hợp được mà phân ra β+ Thalassemia hay β0
Thalassemia. Biểu hiện lâm sàng và huyết học của beta Thalassemia rất khác
nhau tùy thuộc thể bệnh di truyền đồng hợp tử hay dị hợp tử.
4
* Cơ sở di truyền của beta Thalassemia
Những đột biến trong đoạn ADN (acid deoxyribonucleic) làm mất
hoặc giảm chức năng tổng hợp chuỗi beta globulin của gen beta globulin
gây nên hội chứng beta Thalassemia.
Các đột biến ở gen beta thường là những đột biến điểm: mất một
hoặc vài gốc bazơ, thêm một gốc bazơ vào một điểm nào đó hoặc thay thế
một gốc bazơ này bằng một gốc khác.
Các loại đột biến do mất hoặc thêm vài gốc bazơ gây nên lệch
khung di truyền và làm mất hoàn toàn chức năng của gen beta gây β0
Thalassemia. Một số đột biến ở vị trí nối exon hoặc xung quanh vị trí này
có thể gây nên sai lạc trong vị trí này và làm mất chức năng hoàn toàn gen
beta globin. Còn những đột biến không làm mất hoàn toàn chức năng của
gen beta (như đột biến ở vùng Promotor) gây β+ Thalassemia.
* Lâm sàng
Bệnh beta Thalassemia biểu hiện lâm sàng được chia thành 3 thế chính:
- Thể nặng (major): còn gọi là bệnh Cooley, là thể đồng hợp tử.
Kiểu gen: β0/ β0, β+/ β+, β+/ β0.
Bệnh thường xuất hiện sớm trong những năm đầu của cuộc sống và
tiến triển nặng dần lên. Bệnh nhân có thiếu máu, tan máu mạn tính mức độ
nặng hemoglobin (Hb) giảm (Hb<60 g/1) với các triệu chứng thiếu máu, lách
to, gan to, da bị nhiễm sắc tố, biến dạng xương, chậm phát triển thể chất.
- Thế nhẹ (minor): còn gọi là thể dị hợp tử.
Kiểu gen: β0/β, β+/β.
Là một thể bệnh tương đối nhẹ, nói chung không có biểu hiện lâm
sàng, cơ thể phát triển bình thường không có biến dạng xương, thiếu máu
thường nhẹ (Hb: 90-110 g/1).
- Thể trung gian: Có thể là đồng hợp tử, dị hợp tử hay thể phối hợp.
5
Kiểu gen: β0/β0, β+/β+, β+/β0, β0/βE, β+/βE, β0/β, β+/β, (δβ)0/β, (δβ)0/(δβ)0.
Thể này có thiếu máu vừa hoặc nhẹ (Hb: 70-80g/1), bệnh tiến triến
chậm và nhẹ, thường kèm theo vàng da, gan, lách to. Bệnh nhân không có
thay đổi về thể trạng, chỉ bị thiếu máu mức độ trung bình và đôi khi mới
cần truyền máu hoặc không cần truyền [29].
* Chẩn đoán bệnh beta Thalassemia
Cách phân loại của D. J. Weatherall, Franklin, Suthat Fucharoen và
Winichagoon được sử dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay. Tiêu chuẩn
chẩn đoán bệnh như sau [70]:
Beta Thalassemia thể nặng (maior): Thiếu máu tan máu mạn tính,
xảy ra sớm, Hb thường dưới 60g/l, cần phải truyền máu nhiều lần. Lâm
sàng có thiếu máu, vàng da, lách to, bilirubin gián tiếp tăng, có nhiều hồng
cầu lưới và nguyên hồng cầu ở máu ngoại vi.
Beta Thalassemia đồng hợp tử: HbF tăng cao từ 10-90%, thể tích
trung bình hồng cầu (MCV) giảm, hồng cầu nhược sắc, hồng cầu có nhân,
hồng cầu hình bia, hồng cầu biến dạng. Cả 2 bố mẹ đều mang gen beta
Thalassemia.
Beta Thalassemia phối hợp với HbE hay thể dị hợp tử kép (beta
Thalassemia/HbE): biểu hiện giống beta Thalassemia đồng hợp tử nhưng
nhẹ hơn. Trên điện di thấy HbF tăng cao, kèm theo có nhiều HbE. Trong 2
bố mẹ thì một mang gen beta Thalassemia, một mang gen HbE.
Beta Thalassemia thể nhẹ (minor): không có biểu hiện thiếu máu tan
máu rõ trên lâm sàng, nồng độ Hb bình thường hoặc gần bình thường, phát
hiện được khi nghiên cứu phả hệ hoặc nghiên cứu sàng lọc trên cộng đồng.
Beta Thalassemia dị hợp tử: HbA2 tăng trên 3,5%, có thể phối hợp
HbF nhưng HbF không vượt quá 10% Hb toàn phần, MCV giảm, có ít
nhất một trong hai bố mẹ mang gen beta Thalassemia.
6
1.1.2. Thực trạng mang gen beta Thalasemia trên thế giới
Bệnh Thalassemia được biết đến đầu tiên ở vùng Địa Trung Hải sau đó
phổ biến ở hầu hết các quốc gia như: Bắc Phi, Trung Đông, Ấn Độ, Nam
Trung Quốc và Đông Nam Á. Ngày nay, do sự di dân bệnh Thalassemia ngày
càng gia tăng và trở lên phổ biến trên toàn thế giới. Bệnh thực sự tạo ra gánh
nặng bệnh tật ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế
chậm hoặc đang phát triển. Trong nhóm bệnh Thalassemia, beta Thalassemia
là bệnh phổ biến. Điều trị bệnh Thalassemia nói chung và beta thalassemia
nói riêng đang là một bài toán phức tạp và là một thách thức cho ngành y
khoa toàn cầu, đặc biệt là các thể nặng: 86,79% bệnh nhân Thalassemia bị
chậm phát triển chiều cao và 90,57% chậm phát triển về cân nặng, bệnh thể
nặng có thể khiến một đứa trẻ chết trước 3 tuổi nếu không được điều trị [21],
[36], [57], [63].
Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới, liên quan chặt chẽ với nguồn gốc
dân tộc. Bệnh phân bố khắp toàn cầu song có tính địa dư rõ rệt, từ Địa Trung
Hải qua Trung Đông, một phần của Ấn Độ, Pakistan tới Đông Nam Á và Bắc
Phi. Bệnh cũng xảy ra ở phía Nam Liên Xô cũ và Trung Quốc. Tần suất mắc
beta Thalassemia ở Sardinia tới 38,0%, phía Bắc Italia là 20,0%. Nghiên cứu
ở Pakistan cũng cho thấy rằng beta Thalassemia là rối loạn di truyền phổ biến
nhất với tỷ lệ mang gen 5,0-8,0% [62], [64], [72].
Theo liên đoàn Thalassemia quốc tế, có tới 70 triệu người mang gen beta
thalassemia trên thế giới chiếm tỷ lệ rất lớn, riêng khu vực Châu Á là 60 triệu người
mang gen bệnh [29]. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) có 20,7% dân số thế giới
mang gen thalassemia [36].
7
Bảng 1.1. Ước tính tỷ lệ lưu hành mang gen bệnh Thalassemia
trên thế giới [36]
Dân số (triệu người) Mang gen bệnh Thalassemia Khu vực
586 Châu Phi 41,2
853 Châu Mỹ 4,8
573 Trung Đông 19,0
879 Châu Âu 2,3
1564 Đông Nam Á 44,6
1761 Tây Thái Bình Dương 10,3
6217 Thế giới 20,7
Ở khu vực Đông Nam Á tỷ lệ mang gen beta thalassemia cũng phổ biến,
dao động từ 1-10%. Ở Bắc Thái Lan có tỷ lệ mang gen 5-8%, Lào 3-9%,
Indonesia 6-10%, Myanmar 4,3%. Điều đáng lưu ý là nhóm dân tộc thiểu số ở
nhiều nước có tỷ lệ mắc cao. Bệnh beta Thalassemia xuất hiện ở hầu hết các
chủng tộc và tình trạng đồng hợp tử gặp cả ở những người của bộ tộc thuần
chủng [32], [42], [72].
1.1.3. Thực trạng mang gen beta Thalasemia tại Việt Nam
Beta Thalassemia là bệnh huyết sắc tố di truyền phổ biến ở Việt Nam
[3], [22], [64]. Tỷ lệ người mắc bệnh phân bố trong cả nước, khác nhau tùy
từng địa phương, từng nhóm dân tộc, đặc biệt là ở nhóm dân tộc ít người tỷ lệ
mang gen bệnh chiếm tỷ lệ khá cao [2]. Dưới đây là bảng tóm tắt tỷ lệ mang
gen bệnh beta Thalassemia trong nghiên cứu của một số tác giả trước đây:
8
Bảng 1.2. Tình hình mang gen bệnh beta Thalassemia tại Việt Nam
Tác giả Dân tộc Đối tượng nghiên cứu Tỷ lệ mang gen
Miền Bắc
Kinh 401 1,49
Nguyễn Công Khanh và cs. [16] Tày 119 11,0
Mường 40 25,0
Bùi Văn Viên [34] Mường 266 20,6
Vũ Thị Bích Vân [33] 307 10,7 Nùng, Mông
Hoàng Văn Ngọc [24] Tày 245 9,8
Nguyễn Kiều Giang và cs. [5] Tày 300 12,0
Miền Trung
Lê Xuân Chất [33] Kinh 35 2,55
Pako 228 8,33 Nguyễn Đắc Lai [20] Vân kiều 78 2,56
Nguyễn Văn Hòa và cs. [44] DTTS 298 0,67
Nguyễn Văn Hòa và cs. [45] 410 1,2
Sirivara Siridamrongvatana và cs. [68] 399 1,6
Êđê 588 0,3 Trần Thị Thúy Minh [22] M’mông 561 0,2
Phạm Thị Thùy Hoa và cs. [13] 1663 3,7
132 6,8 Nguyễn Trí Nghĩa, Trần Thị Minh Diễm [23] Pakô, Vân Kiều
Miền Nam
Kinh 4847 0,7 Sean O’Riordan và cs. [67] Dao 126 4,6
Nguyễn Khắc Hân Hoan [14] Kinh 44.439 0,52
9
Qua kết quả tổng hợp trên dễ dàng nhận thấy tỷ lệ mang gen beta
Thalassemia ở Việt Nam có sự dao động rất lớn, cao nhất là 25,0%. Trong đó,
tập trung chủ yếu ở nhóm dân tộc thiểu số ở miền Bắc: Tày (12,0%), Mường
(25,0%), Nùng (10,7%) [5], [16], [33].
Ở người mang gen bệnh phần lớn bình thường và không có biểu hiện
triệu chứng lâm sàng. Đa số các đối tượng này không có hành vi xét nghiệm
tự nguyện để sàng lọc. Đây là trở ngại lớn cho công tác dự phòng bệnh trong
phát hiện và kiểm soát người mang gen bệnh. Hậu quả là khi hai người mang
gen bệnh kết hôn với nhau, con của họ sẽ có 25% không bị di truyền gen
bệnh, 50% mang gen bệnh và 25% có biểu hiện lâm sàng của hội chứng tan
máu bẩm sinh. Do đó, việc sàng lọc phát hiện người mang gen bệnh là việc
hết sức quan trọng trong công tác dự phòng bệnh Thalassemia thể nặng trong
cộng đồng.
1.1.4. Đặc điểm một số chỉ số huyết học ở người mang gen beta Thalassemia
Các nghiên cứu huyết học trong bệnh Thalassemia có vai trò quyết định
chẩn đoán bệnh.
* Nghiên cứu về hồng cầu:
- Lượng Hemoglobin (Hb) trong thể dị hợp tử đa số là bình thường
hoặc gần bình thường (90-110g/1), còn thể đồng hợp tử và thể phối hợp đều
giảm rõ rệt (Hb<60g/1) [70]. Có sự không tương xứng giữa giảm số lượng
hồng cầu và giảm lượng Hb chứng tỏ hồng cầu nhược sắc rõ. Nhiều nghiên
cứu đã đi đến kết luận cho thấy hồng cầu trong bệnh Thalassemia vừa nhỏ,
vừa nhược sắc điều này được thể hiện bằng chỉ số: Lượng Hb trung bình hồng
cầu giảm (MCH<28pg) và thể tích trung bình hồng cầu giảm (MCV<85fl)
[56], [66], [67]. Theo tác giả Run D. và cộng sự khi nghiên cứu mối liên quan
giữa hồng cầu nhỏ và các dạng đột biến ở các cá thể dị hợp tử mang gen đột
10
biến beta cho thấy: MCH trong khoảng 17-28,6pg, còn MCV trong khoảng
56,3–87,3fl [66].
Giá trị MCH tương đương MCV nhưng MCH có độ nhạy kém hơn.
MCV của thể dị hợp tử beta Thalassemia là tham số có giá trị để có kế hoạch
mang tính chiến lược trong nghiên cứu cộng đồng và có thể sử dụng để chẩn
đoán trước sinh, đồng thời còn có thể giúp cho điều trị và phòng biến chứng
sớm [41], [66].
- Hình thái hồng cầu: ở thể đồng hợp tử các tác giả đều thấy hồng cầu
biến dạng nặng, to nhỏ không đều, nhiều hồng cầu mỏng, hồng cầu mảnh, hình
bia, hình giọt nước, hồng cầu bắt màu không đều. Do lượng Hb chứa trong
hồng cầu ít nên có nhiều hồng cầu mỏng, sức bền thẩm thấu hồng cầu tăng. Ở
thể dị hợp tử, các biến đổi về hồng cầu cũng tương tự như thể đồng hợp tử
nhưng mức độ không trầm trọng, vì thế chỉ có hiện tượng thiếu máu nhẹ [3].
- Trong tủy xương: Các chuỗi alpha thừa cũng kết tủa xuống tất cả các
tế bào trong suốt quá trình trưởng thành của dòng hồng cầu làm cho hồng cầu
non chết trước khi trưởng thành, đó là dấu hiệu báo trước của sự phá hủy
hồng cầu và sinh hồng cầu kém hiệu quả [55].
Các nghiên cứu về hồng cầu trên đối tượng mắc bệnh beta Thalassemia
ở người Việt Nam cho thấy có sự biến đổi lớn về hồng cầu trong beta
Thalassemia như hồng cầu nhược sắc, hemoglobin trung bình hồng cầu dưới
28pg, nhiều hồng cầu nhỏ, thể tích trung bình hồng cầu dưới 85fl, hồng cầu
biến dạng nặng, sức bền thẩm thấu hồng cầu tăng, đời sống hồng cầu ngắn và
tăng sinh hồng cầu không hiệu quả. Sự biến đổi này nặng nề ở thể đồng hợp
tử và thể phối hợp, nhẹ hơn ở thể dị hợp [18], [24], [33].
* Nghiên cứu về thành phần Hb
Một tiêu chuẩn đóng vai trò quyết định trong chẩn đoán bệnh beta
Thalassemia là điện di huyết sắc tố. Trong bệnh beta Thalassemia, chuỗi beta
11
giảm hoặc không tổng hợp được sẽ làm cơ thể tăng cường tổng hợp chuỗi
khác để bù.
Ở thể đồng hợp tử, lượng HbF tăng rất cao (10-90%), HbA1 giảm nặng
hoặc không có, còn HbA2 thì đa số ở giới hạn bình thường, có thể thấp hoặc
cao trong khoảng từ 3,7-7,7% [3].
Ở thể dị hợp tử có đủ 3 thành phần Hb, đó là HbA2 tăng (>3,5% đến
<10%), HbF đa số ở mức thấp, thường là 0% (dạng vết) đến 3%, đôi khi tới 5%
nhưng không quá 10%. Còn HbA1 thì giảm nhẹ (90-96%) [16], [17], [46].
Các công trình nghiên cứu về lâm sàng và huyết học ở người bệnh
Thalassemia cho thấy có sự biểu hiện không thuần nhất: Thể đồng hợp tử hoặc
thể phối hợp beta Thalassemia/HbE là thể nặng, biểu hiện thiếu máu tan máu
nặng mạn tính và sớm trên lâm sàng, nhiễm sắt và biến dạng xương. Còn thể dị
hợp hầu hết là thể nhẹ, biểu hiện thiếu máu tan máu không rõ. Thể trung gian
có thể là thể dị hợp tử hay đồng hợp tử, biểu hiện thiếu máu tan máu chậm
[15], [16], [26]. Việc mô tả đặc điểm một số chỉ số huyết học của đối tượng
mang gen bệnh beta Thalassemia có ý nghĩa lớn trong việc định hướng làm xét
nghiệm sàng lọc mang gen bệnh trên lâm sàng và đặc biệt là ở cộng đồng.
1.2. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
1.2.1. Một số khái niệm về hành vi sức khỏe
* Khái niệm hành vi
Hành vi của con người là “là một hành động hay nhiều hành động phức
tạp trước một sự việc, hiện tượng mà các hành động này lại chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan” [11], [19].
* Khái niệm về hành vi sức khỏe
Hành vi sức khỏe là “hành vi của con người có ảnh hưởng tốt hoặc xấu
đến sức khỏe của chính bản thân họ, của những người xung quanh và của
cộng đồng” [11], [19].
12
* Phân loại hành vi sức khỏe: Theo ảnh hưởng của hành vi đến sức
khỏe, có hai loại hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe đó là hành vi có lợi cho sức
khỏe và hành vi có hại cho sức khỏe [11], [19].
Hành vi có lợi cho sức khỏe là các hành vi lành mạnh được người dân
thực hành để phòng chống bệnh tật, tai nạn, bảo vệ và nâng cao sức khỏe hay
các hành động mà một người thực hiện để làm cho họ hoặc những người khác
khỏe mạnh và phòng các bệnh tật. Ví dụ như: tập thể dục, dinh dưỡng hợp lý,
nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn sam đúng… Nhiệm vụ của cán bộ y tế là
giới thiệu, khuyến khích, động viên, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để
mọi người dân thay đổi lối sống không lành mạnh, thực hành các hành vi lành
mạnh nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe.
Hành vi có hại cho sức khỏe: là các hành vi có nguy cơ hoặc có tác
động xấu đến sức khỏe do một cá nhân, một nhóm người hay có thể cả một
cộng đồng thực hành. Một số hành vi có hại cho sức khỏe do cá nhân và cộng
đồng thực hành đã lâu và có thể trở thành những thói quen, phong tục tập
quán gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nhiều người. Trên thực tế còn tồn
tại nhiều hành vi có hại cho sức khỏe ở các cộng đồng khác nhau. Có thể kể
đến nhiều hành vi có hại cho sức khỏe như: một số nơi sử dụng phân tươi bón
ruộng, không ăn chín uống chín, hút thuốc lá, lạm dụng và nghiện rượu, ăn
kiêng không cần thiết ở phụ nữ có thai và khi nuôi con nhỏ… Để giúp người
dân thay đổi các hành vi có hại cho sức khỏe đòi hỏi cán bộ y tế phải tìm hiểu
kỹ nguyên nhân vì sao người dân lại thực hiện hành vi này, từ đó có biện
pháp thích hợp, kiên trì thực hiện truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK)
và giới thiệu các hành vi lành mạnh để người dân thực hành.
Bên cạnh những hành vi có lợi và có hại cho sức khỏe, chúng ta còn
thấy một số cá nhân hay cộng đồng thực hành các hành vi không có lợi cũng
không có hại cho sức khỏe như: một số bà mẹ deo vòng bạc cho trẻ để tránh
13
gió, tránh bệnh, các gia đình thường lập bàn thờ tổ tiên trong nhà… Với các
loại hành vi trung gian này thì không cần phải tác động để loại bỏ, đôi khi cần
chú ý khai thác những khía cạnh có lợi của các hành vi này đối với sức khỏe,
ví dụ hướng dẫn các bà mẹ theo dõi độ chặt, lỏng của vòng cổ tay, cổ chân
của trẻ để đánh giá tình trạng tăng trưởng của trẻ.
Như vậy, mục đích của truyền thông giáo dục sức khỏe là giúp cho cá
nhân và cộng đồng hiểu rõ và loại bỏ các hành vi có hại cho sức khỏe và thực
hành các hành vi có lợi cho sức khỏe. Khuyến khích thực hành các hành vi
lành mạnh có thể ngăn ngừa được nhiều bệnh tật như bác sỹ Hiroshi Nakajima
tổng giám đốc của Tổ chức Y tế thế giới đã phát biểu: “Chúng ta phải nhận
thấy hầu hết các vấn đề sức khỏe chủ yếu trên thế giới và những trường hợp
chết non có thể phòng được qua những thay đổi về hành vi của con người với
giá thấp. Chúng ta cần phải biết các kỹ thuật giải quyết như thế nào, nhưng các
kỹ thuật đó phải biến thành hành động có hiệu quả tại cộng đồng”. Tuy nhiên,
mỗi hành vi sức khỏe lại là biểu hiện của các yếu tố cấu thành nên nó, đó là
Kiến thức, thái độ, thực hành (hay kỹ năng) của người đó trong một hoàn cảnh
và tình huống cụ thể nào đó. Để giúp cho cá nhân và cộng đồng hiểu rõ và loại
bỏ được hành vi có hại cho sức khỏe và thực hành hành vi nào đó có lợi cho
sức khỏe thì trước hết người làm giáo dục sức khỏe cần phải biết rõ các yếu tố
cấu thành nên hành vi đó, hay cụ thể hơn là cần phải biết mức độ kiến thức,
thái độ và thực hành về vấn đề cần được giáo dục sức khỏe như thế nào để lựa
chọn phương pháp, nội dung giáo dục cho phù hợp [11], [19].
1.2.2. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
trên thế giới
Trong nhiều nghiên cứu cho kết quả kiến thức, thái độ, thực hành dự
phòng bệnh Thalassemia của người dân trong cộng đồng còn hạn chế. Kiến
thức của đối tượng về bệnh Thalassemia qua nghiên cứu được tiến hành trên
14
đối tượng tình nguyện kết hôn với người mang gen Thalassemia của tác giả
Tahmineh Karimzaei và cộng sự năm 2015, chỉ có 38% đối tượng có kiến
thức tốt về bệnh Thalassemia [71]. Theo Surangrhut Pauisri M. D., Piyamas
Saksiriwuttho M. D. năm 2011 nghiên cứu trên đối tượng phụ nữ mang thai
có nguy cơ cao sau khi được tư vấn di truyền tại bệnh viện cho kết quả:
57,1% đối tượng có kiến thức đầy đủ về bệnh Thalassemia [69]. Nghiên cứu
trên đối tượng sinh viên Y khoa của tác giả Julius Broto Dewanto và cộng sự
năm 2015 cho thấy chỉ có 21,1% sinh viên Y năm thứ nhất có kiến thức tốt về
bệnh Thalassemia [47]. Nghiên cứu khác được thực hiện trên 380 đối tượng
được lựa chọn ngẫu nhiên từ các trường đại học không thuộc nhóm Y Dược
tại Pakistan năm 2013, có 54,0% đối tượng đã từng được nghe về bệnh
Thalassemia [59]. Việc thiếu kiến thức về bệnh thiếu máu dẫn đến nhầm lẫn
chung trong sự khác biệt giữa mang gen bệnh và bị bệnh Thalassemia [51].
Ngay cả nghiên cứu được tiến hành trên bệnh nhân đang điều trị bệnh
Thalassemia chỉ ra rằng 39% bệnh nhân có thông tin nghèo nàn về
thalassemia; 32,5% có ít thông tin và 28,5% có thông tin đáp ứng yêu cầu
(Kourorian Z. và cs., 2014) [50]. Nghiên cứu của Ishaq F. năm 2012 trên đối
tượng là bố mẹ của bệnh nhân cho thấy có 44,6% biết rằng bệnh thalassemia
là một rối loạn di truyền, 33% đã nghe về xét nghiệm sàng lọc có thể phát
hiện trường hợp mang gen bệnh Thalassemia [40]. Trong số 764 bệnh nhân
tham gia nghiên cứu của tác giả Karimi M., Johari S., Cohan N. năm 2011, có
25,9% đối tượng không biết rằng sàng lọc trước khi sinh có thể phòng ngừa
bệnh [48]. Nghiên cứu kiến thức về bệnh của 172 cặp vợ chồng có con điều
trị bệnh Thalassemia được tiến hành ở Pakistan, 60% đối tượng có tổng điểm
kiến thức ở mức khá tốt [54]. Nghiên cứu của Ghazanfari năm 2010, chỉ có
36,0% bố mẹ bệnh nhân có kiến thức đầy đủ về bệnh Thalassemia [43].
Nghiên cứu trên 115 cha mẹ của bệnh nhân mang gen Thalassemia của tác giả
15
Fouzia tại Pakistan năm 2009, chỉ có 44,6% đối tượng biết rằng Thalassemia
là một rối loạn di truyền [40]. Các tác giả Khin Ei Han, Aung Myo Han,
Thein Thein Myint năm 1992 nghiên cứu trên đối tượng là bố mẹ những đứa
trẻ đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện ở Myanma cho thấy chỉ có 18-28%
đối tượng biết đến bệnh Thalassemia là một rối loạn di truyền [49]. Các đối
tượng là bệnh nhân, người nhà bệnh nhân đáng lẽ sẽ là nhóm đối tượng có
kiến thức tốt về bệnh, nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng bệnh và
là nguồn nhân lực tuyên truyền về bệnh rất tốt trong cộng đồng, đặc biệt là
tuyên truyền cho chính những người thân trong gia đình. Tuy nhiên, qua một
số nghiên cứu trên cho thấy rằng kiến thức của bệnh nhân và người nhà bệnh
nhân về bệnh Thalassemia vẫn còn hạn chế. Do đó, cần có các giải pháp can
thiệp hiệu quả để cung cấp kiến thức về bệnh cho nhóm đối tượng này.
Thái độ của đối tượng liên quan với kiến thức, kiến thức kém về căn
bệnh này dẫn đến thái độ về bệnh Thalassemia chưa tích cực [50]. Nghiên
cứu của Surangrhut Pauisri, Piyamas Saksiriwuttho, Thawalwong Ratanasiri
năm 2011 trên đối tượng phụ nữ mang thai có nguy cơ cao sau khi được tư
vấn di truyền tại bệnh viện: 85,7% có thái độ tốt đối với bệnh, 88% đồng ý
chấp nhận chấm dứt thai kỳ nếu thai nhi bị ảnh hưởng [69]. Đa số những
người tham gia (84,5%) tin rằng sàng lọc máu là cần thiết. Tuy vậy, khoảng
một phần ba (30,5%) số người tham gia cho biết họ không ủng hộ việc thử
nghiệm sàng lọc máu phát hiện bệnh [61]. Trong nghiên cứu của Mirza tại
Pakistan năm 2013, có 54,9% đối tượng mong muốn việc thực hiện sàng lọc
trước kết hôn được thực hiện bắt buộc [59]. Nghiên cứu trên đối tượng sinh
viên Y khoa của tác giả Julius Broto Dewanto và cộng sự năm 2015, chỉ có 67
sinh viên (38,3%) đồng ý thực hiện xét nghiệm sàng lọc xác định tình trạng
bệnh của họ sau khi điền vào bảng câu hỏi [60].
16
Kiến thức về bệnh thấp và thái độ chưa tích cực dẫn đến việc điều trị
bệnh là không thường xuyên và không theo chỉ dẫn của bác sỹ [50]. Nghiên
cứu của Amin Shokravi F. năm 2016 trên đối tượng học sinh trung học cho
thấy thực hành phòng chống bệnh Thalassemia ở đối tượng này chỉ đạt 8,69
điểm/100 điểm [35]. Nghiên cứu của Li Ping Wong, Elizabeth George và Jin-
Ai Mary Anne Tan năm 2011 ở nhóm đối tượng đa chủng tộc cho thấy mặc
dù phần lớn đối tượng bày tỏ thái độ khá tích cực đối với sàng lọc cho bệnh
thiếu máu (90,6% cho rằng cần xét nghiệm sàng lọc bệnh trước kết hôn,
34,7% cho rằng cặp đôi mang gen Thalassemia không nên kết hôn với nhau)
nhưng chỉ có 13,6% số người tham gia đã kết hôn trả lời rằng họ từng xét
nghiệm sàng lọc bệnh Thalassemia [52]. Nghiên cứu thực hiện trên đối tượng
sinh viên Y đa Khoa của tác giả Mudiyanse R. M. năm 2015 cho thấy tới
89,9% sinh viên năm nhất và 83,5% năm cuối của học sinh không biết tình
trạng Thalassemia của họ [47]. Nghiên cứu của Rudra S. năm 2016 cho kết
quả trong số 200 phụ huynh của trẻ mắc bệnh Thalassemia chỉ có 5% phụ
huynh đã từng được sàng lọc bệnh trước sinh [65].
Một số nghiên cứu cho thấy giới tính, độ tuổi, tình trạng hôn nhân,
trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và việc được tiếp nhận thông tin truyền
thông giáo dục sức khỏe về bệnh có liên quan đến hành vi dự phòng bệnh
Thalassemia [35], [39], [61]. Có mối liên quan giữa điều kiện kinh tế, trình độ
học vấn và nghề nghiệp với mức độ kiến thức về bệnh [57].
Nghiên cứu của Amin Shokravi F., Eisapareh K. và Karami K. năm
2016 cho thấy số điểm kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh
Thalassemia ở học sinh nữ tăng lên rõ rệt sau khi can thiệp bằng truyền thông
giáo dục sức khỏe: Kiến thức từ 12,85 điểm tăng lên 17,1 điểm; thái độ từ
36,83 điểm lên 40,35 điểm, thực hành từ 8,69 lên 9,52 điểm [35].
17
Nghiên cứu của Mehrnoosh Kosaryan ở Iran năm 2014 cho kết quả
không có mối liên quan giữa giới tính, nghề nghiệp với kiến thức về bệnh
Thalassemia. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những cặp vợ chồng có kiến thức tốt
thì thực hành dự phòng bệnh cũng tốt hơn [58]. Không có mối liên quan giữa
giới tính, độ tuổi, kinh tế với việc sẵn sàng để thực hiện sàng lọc phát hiện
bệnh trước hôn nhân [61].
1.2.3. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
tại Việt Nam
Điều đáng lưu ý trong nhiều nghiên cứu ở nước ta đã chỉ ra rằng mặc dù
tỷ lệ mắc bệnh khá cao nhưng nhận thức về bệnh trong cộng đồng và y tế ở
nước ta còn rất thấp. Ngô Mạnh Quân nghiên cứu trên nhóm người đăng ký kết
hôn tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ đối tượng có kiến thức đầy đủ về bệnh là 10,2%;
21,4% đối tượng đã từng nghe về bệnh. Cũng theo nghiên cứu của Nguyễn Thị
Thu Hà và Ngô Mạnh Quân trên 371 sinh viên đại học ở Hà Nội cho kết quả có
27,8% đối tượng đã từng được nghe về bệnh Thalassemia. Trong đó, tỷ lệ có
kiến thức đầy đủ về bệnh là 7,8%. Theo nghiên cứu gần đây nhất của Nguyễn
Kiều Giang chỉ có 11,0% đối tượng phụ nữ dân tộc Tày tại Thái Nguyên có
kiến thức khá tốt về bệnh Thalassemia. Phần lớn đối tượng không nhận ra nguy
cơ mang gen gen bệnh, trên 50% số được hỏi không biết rằng bệnh có khả
năng di truyền từ ông bà sang con cháu và trên 2/3 số người không biết rằng
khi anh, chị, em họ của mình có bệnh thì bản thân mình cũng có nguy cơ mang
gen bệnh [5], [7], [27].
Một số nghiên cứu về hiểu biết của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân về
bệnh Thalassemia cho thấy mức độ hiểu biết của nhóm này cao hơn so với nhóm
quần thể ở cộng đồng. Tuy nhiên, kiến thức chung về bệnh của nhóm đối tượng
này vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà, 65,9% đối tượng có
kiến thức đầy đủ về bệnh, trong đó nhóm bệnh nhân có kiến thức đầy đủ là 72,0%
18
cao hơn nhóm bố mẹ bệnh nhân (52,9%) [9]. Thực trạng trên cho thấy công tác
truyền thông giáo dục sức khỏe về dự phòng Thalassemia và số người biết đến
bệnh còn rất hạn chế, đặc biệt ở nhóm đối tượng là phụ nữ dân tộc thiểu số ở độ
tuổi sinh đẻ.
Cách nhìn nhận vấn đề hay quan điểm của đối tượng về một vấn đề sức
khỏe được thể hiện qua thái độ của đối tượng về vấn đề sức khỏe đó. Thái độ
rất quan trọng đối với hành vi của con người, thay đổi thái độ có tính quyết
định đến thành công của chuyển đổi hành vi [19]. Tuy nhiên, kết quả khảo sát
gần đây của một số tác giả cho thấy phần lớn đối tượng trong cộng đồng chưa
nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng chống bệnh Thalassemia.
Nghiên cứu của Nguyễn Kiều Giang cho kết quả chỉ có 15,3% đối tượng có
thái độ tốt về vấn đề phòng bệnh Thalassemia, trên 60% đối tượng cho rằng
nếu bố mẹ không có biểu hiện thiếu máu thì không cần làm xét nghiệm chẩn
đoán bệnh Thalassemia cho con [5]. Kết quả nghiên cứu của Ngô Mạnh Quân
trên đối tượng sinh viên đại học ở Hà Nội có 51,9% đối tượng e ngại không
làm xét nghiệm máu chẩn đoán bệnh do cảm thấy mình hoàn toàn khỏe mạnh,
22,1% đối tượng ngại không làm xét nghiệm vì sợ biết mình mang gen bệnh.
Tuy nhiên, có tới 91,1% đối tượng mong muốn được biết thêm những thông tin
về bệnh Thalassemia và có 52,6% đối tượng cho biết họ sẽ đi xét nghiệm xem
mình có bị bệnh hay không nếu trong gia đình có người bị bệnh hoặc mang gen
bệnh Thalassemia [7]. Nghiên cứu trên đối tượng đến đăng ký kết hôn tại Hà
Nội của tác giả Ngô Mạnh Quân có 58,0% đối tượng sẽ cùng vợ/chồng sắp
cưới đi làm xét nghiệm máu phát hiện bệnh nếu trong gia đình vợ/chồng sắp
cưới có người bị bệnh Thalassemia; 18,5% đối tượng có thái độ thờ ơ, không
quan tâm khi trong gia đình vợ/chồng sắp cưới có người bị bệnh Thalassemia
[27]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà trên đối tượng là bệnh nhân và bố
mẹ của bệnh nhân tan máu bẩm sinh tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung
19
ương có 73,5% đối tượng cho rằng các thành viên khác trong gia đình bệnh
nhân cần xét nghiệm sàng lọc bệnh Thalassemia, 58% cho rằng người khỏe
mạnh cần xét nghiệm trước kết hôn để biết mình có mang gen bệnh
Thalassemia hay không. Kết quả cho thấy đối tượng là bệnh nhân và người nhà
bệnh nhân có thái độ phòng bệnh tích cực hơn nhóm đối tượng là người dân
trong cộng đồng và các cặp đôi trước kết hôn. Điều này có thể giải thích do
nhóm đối tượng này có thể đã được tư vấn, đã được tiếp cận các hoạt động
truyền thông về bệnh Thalassemia tại bệnh viện trong quá trình điều trị và
chăm sóc người bệnh. Ngoài ra, do họ là bệnh nhân và có người thân đang
mang bệnh nên họ nhận thức được sự cần thiết của việc phòng và điều trị bệnh.
Việc thiếu kiến thức về bệnh và thái độ chưa tích cực của hầu hết các đối
tượng về phòng bệnh Thalassemia trong nghiên cứu của nhiều tác giả là minh
chứng cho việc dẫn tới thực hành dự phòng bệnh của các đối tượng này chưa
được thực hiện tốt. Theo Nguyễn Kiều Giang chỉ có 9/300 người (3%) đã làm
xét nghiệm tự nguyện sàng lọc bệnh trước khi kết hôn hoặc khi mang thai; có
12,4% đã từng tư vấn cho người thân làm xét nghiệm sàng lọc bệnh; 29,2% số
đối tượng chủ động tìm kiếm thông tin về bệnh, 23,4% đã từng chia sẻ kiến
thức của mình về bệnh với người khác. Nghiên cứu trên đối tượng đến đăng ký
kết hôn tại Hà Nội của tác giả Ngô Mạnh Quân cũng cho kết quả tương tự: chỉ
có 18,5% đối tượng nghiên cứu đã từng tìm hiểu thông tin về bệnh; 12,3% đối
tượng đã từng trao đổi thông tin về bệnh này với người khác. Tỷ lệ thực hành
tốt về phòng bệnh Thalassemia ở đối tượng sinh viên đại học theo nghiên cứu
của Ngô Mạnh Quân và Nguyễn Thị Thu Hà là chưa cao, chỉ có 13,1% đối
tượng đã từng tìm hiểu thông tin về bệnh [5], [7], [27].
Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy hầu hết các đối tượng còn khá bị
động trong việc tự nguyện sàng lọc phát hiện bệnh, tìm hiểu thông tin, theo dõi
và chăm sóc sức khỏe của chính bản thân mình, cho người thân trong gia đình
20
và cho cộng đồng nơi mình sinh sống. Do đó, nghiên cứu này chúng tôi thực
hiện với mong muốn có cái nhìn cụ thể hơn về mức độ kiến thức, thái độ, thực
hành dự phòng bệnh Thalassemia của phụ nữ dân tộc thiểu số, độ tuổi sinh đẻ
đã có chồng tại huyện Chợ Mới để từ đó lựa chọn phương pháp giáo dục giúp
đối tượng và người dân trong cộng đồng thực hiện được các hành vi lành
mạnh nhằm phát hiện sớm người mang gen bệnh góp phần dự phòng bệnh
Thalassemia thể nặng trong cộng đồng.
21
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Phụ nữ dân tộc thiểu số, trong độ tuổi sinh đẻ từ 15- 49 tuổi, có chồng,
tình nguyện tham gia nghiên cứu.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn [32]
Gồm 03 xã nghiên cứu là xã Tân Sơn, xã Nông Hạ, xã Như Cố
Huyện Chợ Mới nằm ở phía Nam tỉnh Bắc Kạn, huyện có diện tích 606
km² và dân số 36.747 người, huyện gồm 1 thị trấn và 15 xã, toàn huyện có 7
22
dân tộc anh em sinh sống là Kinh (20%), Tày (56,9%), Dao (17,0%), còn lại
là các dân tộc Nùng, Mông, Hoa, Sán Chay.
2.3. Thời gian nghiên cứu
Tháng 03 năm 2016 đến tháng 11 năm 2017
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế nghiên cứu cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)
Phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS)
trong độ tuổi 15-49, huyện Chợ Mới.
Phỏng vấn phụ nữ DTTS, 15-49
Lấy 2ml máu phụ nữ DTTS, 15-49
- Thu thập thông tin dịch tễ học,
- Sàng lọc người mang gen bằng điện
kiến thức, thái độ, thực hành dự
di huyết sắc tố, xét nghiệm tổng phân
phòng bệnh Thalassemia.
tích tế bào máu ngoại vi.
Xác định
- Tỷ lệ mang gen beta Thalassemia và mô tả đặc
điểm một số chỉ số huyết học của ĐTNC
- Kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh
Thalasssemia của ĐTNC
Hình 2.2. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu cắt ngang
23
2.4.2. Phương pháp chọn mẫu
Qua điều tra sơ bộ tại 03 khu vực đại diện cho ba vùng địa lý thuộc
huyện Chợ Mới: Vùng trung tâm (xã Nông Hạ), vùng xa trung tâm về phía Bắc
(xã Tân Sơn), vùng xa trung tâm về phía Nam (xã Như Cố), chúng tôi thống kê
được hơn 2000 phụ nữ dân tộc thiểu số, trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi), có
chồng. Tuy nhiên, việc lấy mẫu mẫu, xét nghiệm tại cộng đồng đã gặp rất
nhiều khó khăn. Nếu tính cỡ mẫu theo công thức (p=0,12 – Tỷ lệ mang gen
Thalassemia tại cộng đồng các dân tộc ít người dao động xung quanh 12%) thì
sẽ được cỡ mẫu bằng khoảng trên dưới 600 người. Khi thăm dò, chúng tôi ghi
nhận tỷ lệ đồng ý cho xét nghiệm máu chỉ khoảng 40%. Do vậy chúng tôi nhận
thấy việc huy động toàn bộ 2000 phụ nữ đi khám là không khả thi.
Để khắc phục vấn đề này chúng tôi mời toàn bộ những phụ nữ dân tộc
thiểu số, độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi), có chồng ở tại các khu vực, xóm, bản
thuộc địa điểm nghiên cứu tới tham gia nghiên cứu. Cuối cùng chúng tôi thu
được kết quả là 260 phụ nữ đồng ý lấy máu xét nghiệm đầy đủ và cũng tham
gia phỏng vấn đầy đủ. Số còn lại hoặc chỉ đồng ý lấy máu xét nghiệm, hoặc chỉ
đồng ý tham gia phỏng vấn. Các đối tượng không đủ điều kiện nghiên cứu đã
được chúng tôi loại bỏ khỏi mẫu nghiên cứu.
2.5. Biến số, chỉ số nghiên cứu
2.5.1. Biến số nghiên cứu
Bảng 2.1. Biến số, định nghĩa, phân loại biến số nghiên cứu
Biến số Định nghĩa biến số Loại biến số Phương pháp thu thập/công cụ
I. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Liên tục Hỏi/Phiếu hỏi Tuổi Tuổi của đối tượng nghiên cứu (tính theo năm dương lịch)
Danh mục Hỏi/Phiếu hỏi Dân tộc Phân loại theo xác định của chính quyền đại phương
24
Thứ hạng Hỏi/Phiếu hỏi Trình độ học vấn
Trình độ học vấn đã đạt được của một người là lớp học cao nhất đã hoàn thành trong hệ thống giáo dục quốc dân mà người đó đã theo học
Thứ hạng Hỏi/Phiếu hỏi Kinh tế hộ gia đình Điều kiện kinh tế hộ gia đình áp dụng theo chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2016-2020
Hỏi/Phiếu hỏi Tình trạng kết hôn cận huyết Tình trạng kết hôn có họ hàng trực hệ trong phạm vi 3 đời Danh mục
II. Tỷ lệ mang gen beta Thalassemia và một số chỉ số huyết học
Nhị phân Mang gen beta Thalassemia Khi đối tượng được chẩn đoán mang gen beta Thalassemia qua kết quả điện di huyết sắc tố Xét nghiệm điện di Hb/Máy điện di Capyllarys II - Sebia - France
RBC Là số lượng hồng cầu có trong Liên tục (Số lượng hồng cầu) một đơn vị máu [4]
RDW Chỉ số đo sự thay đổi của
(Phân bố hình thái kích thước và hình dạng hồng Liên tục
kích thước hồng cầu) cầu [4]
Hb Chỉ số đo nồng độ huyết sắc tố Liên tục (Huyết sắc tố) trong máu [4]
MCV Là chỉ số đánh giá về thể tích (Thể tích trung bình Liên tục trung bình của một hồng cầu [4] hồng cầu)
MCH Là chỉ số được dùng để xác (Số lượng huyết sắc định hàm lượng Hb bên trong Liên tục tố trung bình hồng hồng cầu [4] Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi/Máy Celtax F– Nihon Koden- Japan cầu)
25
MCHC Là tỷ lệ giữa hemoglobin và (Nồng độ Hb trung Liên tục hematocrit [4] bình hồng cầu)
Thiếu máu là sự giảm khả
năng vận chuyển oxy của máu
Thiếu máu do giảm số lượng hồng cầu Nhị phân Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi/Máy Celtax F– Nihon Koden- Japan
hoặc giảm số lượng Hb trong
máu hoặc cả hai [4]
III. Kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
Hiểu biết của đối tượng về: khái
niệm bệnh, cơ chế di truyền Nhị phân Hỏi/Phiếu hỏi bệnh, hậu quả, cách phát hiện và
điều trị bệnh Kiến thức
Mức độ kiến thức của đối Đánh giá theo tượng về dự phòng bệnh Thứ hạng thang điểm Thalassemia
Nhận thức của đối tượng về
tầm quan trọng của việc dự
phòng bệnh: xét nghiệm bệnh Thứ hạng Hỏi/Phiếu hỏi Thái độ trước khi kết hôn, kết hôn cùng
huyết thống tăng nguy cơ mắc
bệnh ...
Mức độ thái độ của đối tượng Đánh giá theo Thứ hạng về dự phòng bệnh Thalassemia thang điểm
Các hành động của đối tượng
Thực hành về dự phòng bệnh: chủ động Nhị phân Hỏi/Phiếu hỏi
làm xét nghiệm phát hiện
26
bệnh; chủ động tìm kiếm kiến
thức về bệnh; chia sẻ kiến thức
về bệnh với người khác; tư
vấn, khuyên bảo người khác đi
làm xét nghiệm phát hiện bệnh
...
Mức độ thực hành dự phòng Đánh giá theo bệnh Thalassemia của đối Thứ hạng thang điểm tượng nghiên cứu
2.5.2. Chỉ số nghiên cứu
* Nhóm chỉ số về đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
- Đặc điểm độ tuổi và dân tộc của đối tượng nghiên cứu.
- Đặc điểm trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu.
- Đặc điểm nghề nghiệp và điều kiện kinh tế của đối tượng nghiên cứu.
- Đặc điểm tuổi kết hôn của đối tượng nghiên cứu.
- Đặc điểm quan hệ huyết thống giữa vợ và chồng.
- Tình trạng di trú của đối tượng nghiên cứu.
- Nguồn thông tin được tiếp nhận về dự phòng bệnh Thalassemia của
đối tượng nghiên cứu.
* Nhóm chỉ số về tỷ lệ mang gen beta Thalassemia và đặc điểm một số
chỉ số huyết học của đối tượng nghiên cứu
- Tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia theo dân tộc.
- Số lượng hồng cầu, kích thước hồng cầu trung bình (RBC, RDW)
theo tỷ lệ mang gen beta Thalassemia.
- Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC) theo tỷ lệ mang
gen beta Thalassemia.
27
- Số lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCH) theo tỷ lệ mang
gen beta Thalassemia.
- Thể tích trung bình hồng cầu (MCV) theo tỷ lệ mang gen bệnh.
- Tình trạng thiếu máu theo nồng độ hemoglobin và tỷ lệ mang gen bệnh.
- Tình trạng thiếu máu theo số lượng hồng cầu và tỷ lệ mang gen bệnh.
* Nhóm chỉ số về kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh
Thalassemia của đối tượng nghiên cứu
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS có kiến thức về dự phòng bệnh Thalassemia ở các
mức tốt, trung bình, kém.
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS có thái độ về dự phòng bệnh Thalassemia ở các
mức tốt, trung bình, kém.
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS có thực hành dự phòng bệnh Thalassemia ở các
mức tốt, trung bình, kém.
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS chủ động làm xét nghiệm phát hiện bệnh
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS chủ động tìm kiếm kiến thức về bệnh.
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS chia sẻ kiến thức về bệnh với người khác.
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS tư vấn, khuyên bảo người khác đi làm xét nghiệm
phát hiện bệnh.
2.6. Tiêu chuẩn đo lường, phân loại và đánh giá
2.6.1. Phân loại một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
- Điều kiện kinh tế: áp dụng chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2016-2020 [28].
Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng
trên 700.000đ đến 1.000.000đ.
Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 900.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
28
Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng
trên 900.000đ đến 1.300.000đ.
Hộ có mức sống trung bình ở nông thôn là hộ có thu nhập bình quân
đầu người/tháng trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng.
Hộ có mức sống trung bình ở thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu
người/tháng trên 1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng.
- Tình trạng kết hôn cận huyết: Tình trạng kết hôn có họ hàng trực hệ
trong phạm vi 3 đời (xác định dựa vào sơ đồ hình 2.3):
Hình 2.3. Sơ đồ xác định thứ bậc của quan hệ huyết thống
2.6.2. Đo lường một số chỉ số huyết học [25] và tiêu chuẩn xác định mang
gen beta Thalassemia [2], [70]
- Số lượng hồng cầu (RBC) bình thường: 3,9-5,4T/l
- Phân bố kích thước hồng cầu (RDW) bình thường: 11-14%.
- Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC) bình thường:
300-360g/l.
- Số lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCH) bình thường: 27-32pg.
- Thể tích trung bình hồng cầu (MCV) bình thường: 85-95fl.
- Đánh giá thiếu máu:
29
+ Thiếu máu: Khi Hb<120g/dl hoặc/và RBC<3,9T/l.
+ Bình thường: Khi Hb≥120g/dl hoặc/và RBC≥3,9T/l.
- Tiêu chuẩn xác định mang gen beta Thalassemia qua kết quả điện di
huyết sắc tố:
+ Bình thường khi: HbA1 (86-98%); HbA2<3,5% hoặc HbF<1%.
+ Bất thường (Mang gen beta Thalassemia): HbA2>3,5% hoặc/và
HbF>1%.
2.6.3. Đánh giá kiến thức dự phòng bệnh Thalassemia của phụ nữ dân tộc
thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng
Để đánh giá kiến thức chung về dự phòng bệnh Thalassemia sử dụng 14
câu hỏi (q13-24 và q33, q34). Mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, trả lời sai hoặc
không biết được 0 điểm. Tổng điểm của 14 câu hỏi phần kiến thức là 39 điểm và
được đánh giá ở 3 mức độ (kém, trung bình, tốt) theo phân loại của Bloom [37]:
Phần trăm Giải thích
< 60% (<23 điểm) Kém
60 - 79% (23-30 điểm) Trung bình
≥ 80% (≥31 điểm) Tốt
2.6.4. Đánh giá thái độ dự phòng bệnh Thalassemia của phụ nữ dân tộc
thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng
Thái độ chung về dự phòng bệnh Thalassemia được đánh giá bởi 8 câu
hỏi (q25 – q32). Mỗi câu hỏi được đánh giá theo thang điểm Likert (1 - Rất đồng
ý, 2 - Đồng ý, 3 - Không rõ ràng, 4 - Không đồng ý, 5 - Rất không đồng ý). Các
câu hỏi q25, q26, q28, q29, q30, q32 được cho điểm như sau: Rất đồng ý (5
điểm), Đồng ý (4 điểm), Không rõ ràng (3 điểm), Không đồng ý (2 điểm), Rất
không đồng ý (1 điểm). Các câu hỏi q27, q31 được cho điểm như sau: Rất đồng
ý (1 điểm), Đồng ý (2 điểm), Không rõ ràng (3 điểm), Không đồng ý (4 điểm),
Rất không đồng ý (5 điểm). Tính tổng điểm của 8 câu hỏi phần thái độ là 40
30
điểm và được đánh giá ở 3 mức độ (kém, trung bình, tốt) theo phân loại của
Bloom [37] như sau:
Phần trăm Giải thích
< 60% (<24 điểm) Kém
60 - 79% (24-31 điểm) Trung bình
≥ 80% (≥32 điểm) Tốt
2.6.5. Đánh giá thực hành dự phòng bệnh Thalassemia của phụ nữ dân tộc
thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng
Để đánh giá thực hành dự phòng bệnh Thalassemia sử dụng 6 câu hỏi (từ
q35-40). Mỗi câu trả lời đúng nhất được 5 điểm, câu trả lời sai hoặc không trả lời
được 0 điểm. Tính tổng điểm của 6 câu hỏi phần thực hành là 30 điểm và được
đánh giá ở 3 mức độ (kém, trung bình, tốt) theo phân loại của Bloom [37]:
Phần trăm Giải thích
< 60% (<18 điểm) Kém
60 - 79% (18-23 điểm) Trung bình
≥ 80% (≥24 điểm) Tốt
2.7. Phương pháp thu thập số liệu
* Thu thập số liệu xác định tỷ lệ mang gen beta Thalassemia và một số
chỉ số huyết học của đối tượng nghiên cứu:
- Lấy 2 ml máu tĩnh mạch cánh tay được lấy từ đối tượng nghiên cứu.
Các mẫu máu được chống đông bằng EDTA (Ethylen Diamin Tetra Acetat)
và bảo quản bằng đá lạnh trong các hộp chuyên dụng và vận chuyển ngay về
Trung Tâm Huyết học và Truyền máu (TTHHTM), Bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên trong vòng 8h sau lấy máu. Lấy máu được thực hiện bởi
các kỹ thuật viên tại TTHHTM bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
Các mẫu máu trên sẽ được thực hiện kỹ thuật xét nghiệm: tổng phân tích máu
ngoại vi và điện di huyết sắc tố.
31
- Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi: thực hiên trên máy Celtax F–
Nihon Koden - Japan tại Trung tâm huyết học truyền máu Thái Nguyên (nội
kiểm hàng ngày và ngoại kiểm tại Trung tâm kiểm chuẩn chất lượng xét
nghiệm Đại học Y Hà Nội).
- Xét nghiệm điện di huyết sắc tố: thực hiện trên máy điện di Capyllarys
II - Sebia - France tại Trung tâm Huyết học truyền máu Thái Nguyên.
* Thu thập số liệu về kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh
Thalassemia: Phỏng vấn trực tiếp với đối tượng nghiên cứu theo bộ công cụ
đã được soạn sẵn (Phụ lục 1).
2.8. Phương pháp xử lý số liệu
So sánh các chỉ số theo phương pháp thống kê y học, sử dụng test
thống kê χ2 (khi bình phương) cho so sánh sự khác biệt tỷ lệ giữa các nhóm và
test t-Student cho so sánh giá trị trung bình.
Số liệu được nhập trên phần mềm EPIDATA và được xử lý theo thuật
toán thống kê trên phần mềm SPSS bản 20.
2.9. Khống chế sai số
Hạn chế các yếu tố gây nhiễu do kỹ thuật thu thập thông tin: các cán bộ
tham gia nghiên cứu là giảng viên và sinh viên lớp bác sỹ Y học dự phòng
năm thứ 6, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, là những người có kinh
nghiệm nghiên cứu dịch tễ học; bác sỹ, kỹ thuật viên TTHHTM Thái Nguyên
có kiến thức và kỹ thuật thuần thục.
Tập huấn và thống nhất công cụ nghiên cứu trước khi tiến hành điều tra.
Điều tra viên được tập huấn kỹ thuật trước khi điều tra và được giám sát chặt chẽ.
Thực hiện các kỹ thuật xét nghiệm máu, điện di huyết sắc tố được tiến
hành trên cùng một loại máy tương ứng. Các loại máy và dụng cụ xét nghiệm
có sai số (pipet) đều được kiểm định sai số theo các thủ tục nội kiểm và ngoại
kiểm của nhà sản xuất.
32
Các số liệu được làm sạch ngay tại cộng đồng và kiểm tra lại trước khi
vào số liệu. Dùng test kiểm định thích hợp trong quá trình xử lý số liệu.
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự chấp thuận của Bộ Giáo dục và Đào tạo (phê duyệt
đề tài cấp Bộ) và Hội đồng khoa học đánh giá Đề cương thạc sỹ trường Đại
học Y Dược Thái Nguyên (Thông qua đề cương Thạc sỹ).
Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được thông báo, giải thích rõ về
nghiên cứu và họ được quyền quyết định tham gia vào nghiên cứu cũng như
bỏ cuộc mà không cần thủ tục pháp lý ràng buộc nào. Các xét nghiệm máu
cho đối tượng tham gia nghiên cứu được chi trả bằng kinh phí nghiên cứu.
Các số liệu đều được mã hoá và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu
khoa học.
33
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.1. Đặc điểm về độ tuổi và dân tộc của đối tượng nghiên cứu (n = 260)
Biến số Số lượng Tỷ lệ (%)
<18 0 0,0
18-25 39 15,0 Tuổi 26-35 147 56,5
>35 74 28,5
Dao 150 57,7
Dân tộc Tày 84 32,3
DTTS khác 26 10,0
Nhìn vào bảng trên cho ta thấy đối tượng nghiên cứu có độ tuổi từ 26-35
chiếm tỷ lệ cao nhất (56,5%). Phụ nữ dân tộc Dao chiếm phần lớn (57,7%).
Bảng 3.2. Đặc điểm trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu (n =260)
Trình độ học vấn Số lượng Tỷ lệ %
Mù chữ 6,5 17
Biết đọc, biết viết 10,8 28
Tiểu học 20,8 54
THCS 39,2 102
THPT 22,7 59
Phụ nữ có trình độ học vấn ở mức Trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất
(39,2%), tiếp đến là trình độ Trung học phổ thông (22,7%). Tuy nhiên, vẫn
còn 6,5% số phụ nữ không biết chữ.
34
Bảng 3.3. Đặc điểm nghề nghiệp và điều kiện kinh tế
của đối tượng nghiên cứu (n=260)
Biến số Số lượng Tỷ lệ (%)
Làm ruộng 238 91,5
Cán bộ viên chức 7 2,7 Nghề nghiệp của vợ 2 0,8 Công nhân
13 5,0 Nghề khác
232 89,2 Làm ruộng
Cán bộ viên chức 6 2,3 Nghề nghiệp của chồng 8 3,1 Công nhân
14 5,4 Nghề khác
97 37,3 Nghèo
Điều kiện kinh tế Cận nghèo 124 47,7
39 15,0 Đủ ăn
Nghề nghiệp của phụ nữ là nghề làm ruộng chiếm đại đa số (91,5%),
nghề nghiệp của chồng cũng phần lớn là làm ruộng (89,2%). Điều kiện kinh
tế hộ gia đình chủ yếu là nghèo (37,3%) và cận nghèo (47,7%).
Bảng 3.4. Đặc điểm về tuổi kết hôn của đối tượng nghiên cứu (n =260)
Tuổi kết hôn Số lượng Tỷ lệ (%)
76 29,2 <18
173 66,5 18-25 Vợ
11 4,2 >25
33 12,7 <20
217 83,5 20-35 Chồng
10 3,8 >35
35
Tuổi kết hôn của phụ nữ từ 18-25 chiếm tỷ lệ cao nhất (66,5%), số
phụ nữ kết hôn ở độ tuổi dưới 18 (29,2%). Tuổi kết hôn của chồng chủ yếu
từ 20-35 (83,5%), dưới 20 chiếm 12,7%.
Bảng 3.5. Đặc điểm về quan hệ huyết thống giữa cặp vợ chồng và
tình trạng di trú của đối tượng nghiên cứu (n =260)
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %
Có 8 3,1 Quan hệ huyết thống
giữa vợ và chồng Không 252 96,9
Hai vợ chồng cùng xã 80 30,8
Hai vợ chồng khác xã 99 38,1 Tình trạng di trú của
vợ chồng trước khi kết hôn Hai vợ chồng khác huyện 32 12,3
Hai vợ chồng khác tỉnh 49 18,8
Số cặp vợ chồng có quan hệ họ hàng chiếm 3,1%. Tình trạng di trú của
hai vợ chồng ở khác xã chiếm tỷ lệ cao nhất (38,1%), tiếp đến có 30,8% cặp
vợ chồng ở cùng xã.
Bảng 3.6. Nguồn thông tin về dự phòng bệnh Thalassemia (n =260)
Nguồn thông tin Số lượng Tỷ lệ (%)
Có 13 5,0 Nghe nói về bệnh Thalassemia
trong 1 năm trở lại đây Không 247 95,0
Cán bộ Y tế 3 15,4
Đài/báo/tivi/internet 8 61,5
Qua các nguồn Hàng xóm, bạn bè 1 7,7
Họ hàng 1 7,7
Nguồn khác 0 0,0
Có 250 96,2 Việc TTGDSK về dự phòng
bệnh Thalassemia là cần thiết Không 10 3,8
36
Nguyên nhân gây bệnh 202 77,7
Thalassemia
Hậu quả của bệnh 174 66,9
Thalassemia Loại thông tin cần được nghe Xử trí khi bị bệnh 183 70,4
Thalassemia
Cách dự phòng bệnh 220 84,6
Thalassemia
Số phụ nữ được nghe nói về bệnh Thalassemia trong một năm trở lại đây
chiếm 5,0%. Thông tin phụ nữ nhận được chủ yếu từ phương tiện thông tin
đại chúng (76,9%). Số phụ nữ cho rằng việc TTGDSK về dự phòng bệnh
Thalassemia là cần thiết chiếm 96,2%. Trong đó, cách dự phòng bệnh
Thalassemia được phụ nữ chọn là thông tin cần được nghe truyền thông nhiều
nhất (84,6%).
3.2. Thực trạng mang gen beta Thalassemia và đặc điểm một số chỉ số
huyết học ở phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng
Bảng 3.7. Phân bố tần số mang gen beta Thalassemia theo dân tộc (n =260)
Có Không Mang gen Tổng p (test χ2) Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Dân tộc lượng (%) lượng (%)
Dao 15 135 90,0 150 10,0
Tày 12 72 85,7 84 14,3 >0,05 DTTS khác 4 22 84,6 26 15,4
Tổng 31 229 88,1 260 11,9
Tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia chung của các nhóm dân tộc là
11,9% (Dao: 10,0%; Tày: 14,3%; Dân tộc thiểu số khác: 15,4%). Sự khác biệt
37
về tỷ lệ mang gen bệnh giữa các nhóm dân tôc này là không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
Bảng 3.8. Phân bố số lượng hồng cầu, kích thước hồng cầu trung bình
(RBC, RDW) theo tỷ lệ mang gen beta Thalassemia (n =260)
Chỉ số RBC (T/l) RDW (%)
Mang gen Bình thường: 3,9–5,4T/l Bình thường: 11-14%
5,39 ± 0,78 14,18 ± 2,15 Có (n=31) (n=31)
4,65 ± 0,48 12,4 ± 1,27 Không (n = 229) (n = 229)
p (test t) p<0,01 p<0,01
Số lượng hồng cầu trung bình ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh và không
mang gen bệnh đều nằm trong giới hạn bình thường. Trong đó, số lượng hồng
cầu trung bình ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh (5,39±0,78T/l) cao hơn nhóm
phụ nữ không mang gen bệnh (4,65±0,48T/l). Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,01).
Phân bố kích thước hồng cầu trung bình ở nhóm mang gen bệnh
(14,18±2,15%) cao hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (12,4±1,27%).
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Bảng 3.9. Phân bố nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC)
theo tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia (n =260)
MCHC (g/l) <300 ≥300 Trung bình
Mang gen 300-360 Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Có 22 71,0 9 29,0 294,90 ± 10,20
Không 19 8.3 210 91.7 312,84 ± 8,71
p p(test χ2) <0,01 p(test t) <0,01
38
Nhóm phụ nữ mang gen bệnh có MCHC ở mức <300 g/l chiếm tỷ lệ
71,0% cao hơn nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (8,3%). Sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu ở nhóm phụ nữ mang gen
bệnh (294,90±10,20g/l) thấp hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh
(312,84±8,71g/l). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Bảng 3.10. Phân bố thể tích trung bình hồng cầu (MCV)
theo tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia (n =260)
<80 ≥80 MCV (fl) Trung bình
Mang gen 85-95 Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Có 31 100,0 0 0,0 67,11 ± 7,22
Không 27 11,8 202 88,2 86,39 ± 8,19
p p (test χ2) <0,01 p(test t) <0,01
Nhóm phụ nữ mang gen bệnh có MCV ở mức thấp dưới 80fl chiếm
100%, tỷ lệ này cao hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (11,8%). Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Thể tích trung bình hồng cầu ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh là
67,11±7,22fl thấp hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh có thể tích trung
bình hồng cầu là 86,39±8,19fl. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Bảng 3.11. Phân bố số lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCH)
theo tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia (n =260)
<27 ≥27 MCH (pg) Trung bình
Mang gen 27-32 Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
31 100,0 0 0,0 19,87 ± 2,54 Có
74 32,3 155 67,7 27,15 ± 2,71 Không
p(test χ2) <0,01 p(test t) <0,01 p
39
Giá trị MCH <27pg ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh (100%) cao hơn ở
nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (32,3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,01).
Số lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu ở nhóm phụ nữ mang gen
bệnh là 19,87±2,54 pg thấp hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh có số
lượng huyết sắc tố trung bình là 27,15±2,71 pg. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,01).
Bảng 3.12. Phân bố tình trạng thiếu máu
theo số lượng hồng cầu và tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia (n =260)
Thiếu máu Có (RBC<3,9T/l) Không (RBC≥3,9T/l)
Tổng p (test χ2) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Mang gen
2 6,5 29 93,5 31 Có
p>0,05 6 2,6 223 97,4 229 Không
8 3,1 252 96,9 260 Tổng
Tình trạng thiếu máu ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh tính theo số lượng
hồng cầu là 3,1%. Không có sự khác biệt giữa tỷ lệ thiếu máu theo số lượng
29,4
35,4
70,6
64,6
Mang gen
Không mang gen
Thiếu máu
Bình thường
hồng cầu ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh và không mang gen bệnh (p>0,05).
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ thiếu máu chung theo nồng độ hemoglobin của đối tượng nghiên cứu
40
Nhìn vào biểu đồ cho thấy có 35,4% phụ nữ có biểu hiện thiếu máu.
Trong tổng số phụ nữ thiếu máu, có 29,4% thuộc nhóm phụ nữ mang gen
bệnh, còn lại 70,6% thuộc nhóm phụ nữ không mang gen bệnh.
Bảng 3.13. Phân bố tình trạng thiếu máu theo nồng độ hemoglobin
và tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia (n =260)
Thiếu máu Có (Hb<120g/dl) Không (Hb≥120g/dl) Tổng p (test χ2) Mang gen Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Có 27 87,1 4 12,9 31
Không 65 28,4 164 71,6 229 p<0,01
Tổng 92 35,4 168 64,6 260
Nhìn vào bảng trên cho ta thấy nhóm phụ nữ mang gen bệnh có thiếu
máu là 87,1% cao hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (28,4%). Sự
100
87,1
90
80
71,6
70
60
50
40
28,4
30
20
12,9
10
0
Mang gen
Không mang gen
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Bình thường Thiếu máu
Hình 3.2. Biểu đồ phân bố tình trạng thiếu máu
theo nồng độ hemoglobin và tỷ lệ mang gen bệnh beta Thalassemia (n =260)
41
3.3. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh
Thalassemia ở phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng
Hình 3.3. Biểu đồ kiến thức chung về dự phòng bệnh Thalassemia của đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về dự phòng bệnh Thalassemia ở mức kém chiếm tỷ lệ cao nhất (55,4%); tiếp đến có 33,8% phụ nữ có mức độ kiến thức trung bình, chỉ có 10,8% phụ nữ có kiến thức tốt về dự phòng bệnh Thalassemia
Bảng 3.14. Kiến thức dự phòng bệnh Thalassemia của đối tượng nghiên cứu (n=260)
Số lượng Tỷ lệ (%)
162 62,3
161 61,9
184 70,8
130 50,0
47 18,1
Kiến thức dự phòng bệnh Bệnh Thalassemia là bệnh di truyền từ bố mẹ sang con cái Bố hoặc mẹ bị bệnh Thalassemia thì con của họ có khả năng bị mắc bệnh Bố và mẹ bị bệnh Thalassemia thì con của họ có khả năng bị mắc bệnh Ông hoặc bà, nội hoặc ngoại bị bệnh Thalassemia thì cháu có khả năng bị bệnh Anh, em họ của một người mắc bệnh Thalassemia thì người đó có khả năng mắc bệnh Cần làm xét nghiệm máu để phát hiện bệnh Thalassemia Cần làm xét nghiệm các loại huyết sắc tố để phát hiện bệnh Cần làm xét nghiệm tìm đột biến gen để phát hiện bệnh 212 66 60 81,5 25,4 23,1
42
Tỷ lệ phụ nữ biết cần làm xét nghiệm máu để phát hiện bệnh
Thalassemia chiếm tỷ lệ cao nhất (81,5%); tiếp đó 70,8% phụ nữ có hiểu biết
là bố và mẹ bị bệnh Thalassemia thì con của họ có khả năng bị mắc bệnh. Tuy
nhiên, chỉ có 18,1% phụ nữ biết rằng anh, em họ của một người mắc bệnh
Thalassemia thì người đó có khả năng mắc bệnh; 25,4% phụ nữ biết là cần
làm xét nghiệm các loại huyết sắc tố để phát hiện bệnh.
13,5 7,7
78,8
Trung bình Kém Tốt
Hình 3.4. Biểu đồ thái độ chung về dự phòng bệnh Thalassemia
của đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ phụ nữ có thái độ chung về dự phòng bệnh Thalassemia ở mức
trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất (78,8%), có 13,5% phụ nữ có thái độ tốt và
7,7% phụ nữ có thái độ kém về dự phòng bệnh Thalassemia.
43
Bảng 3.15. Thái độ dự phòng bệnh Thalassemia
của đối tượng nghiên cứu (n=260)
Thái độ dự phòng bệnh Số lượng Tỉ lệ (%)
Số phụ nữ cho rằng bệnh Thalassemia là một bệnh 177 68,1 gây suy giảm giống nòi
Số phụ nữ cho rằng các cặp vợ chồng kết hôn cùng
huyết thống thì con của họ có khả năng mắc bệnh 156 60,0 cao hơn cặp vợ chồng kết hôn không cùng huyết
thống
Số phụ nữ cho rằng bệnh hiện nay chưa thể điều trị 51 19,6 khỏi hoàn toàn
Số phụ nữ cho rằng nếu người bố và mẹ bình thường
thì không cần phải làm chẩn đoán bệnh Thalassemia 79 30,4
cho con
Số phụ nữ cho rằng các cặp đôi nên đi xét nghiệm để 161 61,9 phát hiện bệnh trước khi kết hôn
Bảng 3.15 cho ta thấy có 68,1% phụ nữ cho rằng bệnh Thalassemia là
một bệnh gây suy giảm giống nòi; 61,9% phụ nữ cho rằng các cặp đôi nên đi
xét nghiệm để phát hiện bệnh trước khi kết hôn; 30,4% phụ nữ cho rằng nếu
người bố và mẹ bình thường thì không cần phải làm chẩn đoán bệnh
Thalassemia cho con.
44
Thực hành
5,8
1,9
92,3
Trung bình Kém Tốt
Hình 3.5. Biểu đồ thực hành chung về dự phòng bệnh Thalassemia
của đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ phụ nữ có thực hành dự phòng bệnh Thalassemia ở mức kém
chiếm tỷ lệ cao nhất (92,3%); chỉ có 7,8% phụ nữ có thực hành dự phòng
bệnh Thalassemia ở mức trung bình, tốt.
Bảng 3.16. Thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
của đối tượng nghiên cứu (n=260)
Hành động dự phòng bệnh Số lượng Tỉ lệ (%)
Có 3 1.2 Tự nguyện xét nghiệm phát hiện
bệnh Thalassemia Không 257 98,8
Trước khi kết hôn 1
Khi đang mang thai 0 Thời điểm xét nghiệm Trước khi sinh con đầu 1
Trước khi sinh con thứ 2 1
Tư vấn cho người thân làm xét nghiệm phát hiện bệnh 10 3,8
Chủ động tìm kiếm các thông tin về bệnh 31 11,9
Chia sẻ kiến thức về bệnh với người khác 25 9,6
45
Kết quả bảng 3.16 cho thấy có 3 trường hợp tự nguyện xét nghiệm phát
hiện bệnh Thalassemia trước khi kết hôn và trước khi sinh con. Tỷ lệ phụ nữ
đã từng tư vấn cho người thân làm xét nghiệm phát hiện bệnh chiếm 3,8%;
11,9% phụ nữ chủ động tìm kiếm các thông tin về bệnh.
46
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng mang gen bệnh beta Thalassemia và kiến
thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh ở phụ nữ dân tộc thiểu số, độ tuổi sinh
đẻ, có chồng tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn được thực hiện dựa trên các cá
thể có mặt trong quần thể vào thời điểm nghiên cứu nhằm tìm ra tần số lưu hành
gen bệnh và mức độ kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
của nhóm phụ nữ này. Nghiên cứu với thiết kế cắt ngang trong thời gian không
quá dài, không có di biến dân cư đáng kể. Do vậy càng làm giảm những yếu tố
gây nhiễu ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu.
Về nhóm tuổi tham gia nghiên cứu cho thấy phụ nữ tham gia nghiên
cứu có độ tuổi từ 26-35 chiếm tỷ lệ cao nhất (56,5%) (bảng 3.1). Đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi là phụ nữ độ tuổi sinh đẻ và hầu hết đã có một con.
Do đó, phần lớn phụ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi từ 26-35.
Tại Chợ Mới các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn chủ yếu là dân tộc Tày,
dân tộc Dao. Vậy nên trong nghiên cứu của chúng tôi gặp hầu hết là phụ nữ
dân tộc Dao (57,7%) và Tày (32,3%).
Số phụ nữ có trình độ học vấn ở mức dưới tiểu học chiếm tỷ lệ khá cao
(38,1%), vẫn còn 6,5% số phụ nữ không biết chữ (bảng 3.2). Do điều kiện
kinh tế khó khăn, vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình chưa được coi
trọng đúng mức nên người phụ nữ chưa có điều kiện thuận lợi để học tập.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nghề nghiệp của phụ nữ là nghề làm
ruộng chiếm đại đa số (91,5%), nghề nghiệp của chồng cũng phần lớn là làm
ruộng (89,2%). Điều kiện kinh tế hộ gia đình chủ yếu là nghèo (37,3%) và
cận nghèo (47,7%) (bảng 3.3). Địa bàn nghiên cứu của chúng tôi là vùng
nông thôn nên nhận thấy nghề làm ruộng chiếm đa số là phù hợp. Những đối
47
tượng thuộc diện nghèo thường khó có điều kiện chăm sóc sức khoẻ một cách
đầy đủ và cũng khó có điều kiện tiếp cận với những dịch vụ y tế có chất lượng
nên thường dễ mắc bệnh hơn. Đồng thời những đối tượng thuộc diện nghèo
thường ít có điều kiện tiếp cận với các nguồn thông tin nên thường thiếu kiến
thức, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng bệnh, những yếu tố
này sẽ góp phần làm cho họ có những hành vi dự phòng bệnh chưa được tốt.
Về độ tuổi kết hôn, trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ tảo
hôn ở phụ nữ dân tộc thiểu số huyện Chợ Mới chiếm tỷ lệ khá cao (29,2%), tỷ
lệ tảo hôn ở nam giới chiếm 12,7% (bảng 3.4). Đây là vấn đề không mới, mặc
dù ở nước ta đã giảm đáng kể tỷ lệ đói nghèo, nâng cao dân trí song tỷ lệ tảo
hôn vẫn chưa có xu hướng giảm. Địa bàn huyện Chợ Mới có tỷ lệ tảo hôn cao
đồng nghĩa với việc có chỉ số phát triển con người thấp. Kết hôn sớm có
nhiều nguy cơ khiến những người phụ nữ này sẽ trở thành nạn nhân của bạo
lực gia đình, không có điều kiện chăm sóc sức khỏe cho bản thân. Đây là một
vấn đề cần có giải pháp can thiệp thích hợp.
Nghiên cứu của chúng tôi về tình trạng di trú của các cặp vợ chồng cho
thấy có 30,8% cặp vợ chồng ở cùng xã, gần 70% số cặp vợ chồng kết hôn
trong cùng huyện. Trình độ dân trí thấp, nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng, ít
có điều kiện giao lưu với người dân ở các địa phương khác ngoài khu vực
sống. Do đó, việc chọn bạn ở cùng địa phương, cùng nơi sinh sống để kết hôn
chiếm tỷ lệ cao. Tình trạng di trú của đối tượng có thể ảnh hưởng lớn tới tần
suất lưu hành gen bệnh Thalassemia, điều này dẫn đến làm tăng tần suất xuất
hiện trường hợp mang gen bệnh thể nặng trong cộng đồng. Do đó việc nâng
cao trình độ dân trí, phát triển kinh tế hộ gia đình của người dân trong cộng
đồng là hết sức quan trọng tạo cơ hội cho người dân, đặc biệt là đối tượng
thanh thiếu niên có thể giao lưu, trao đổi, học tập với các đối tượng ngoài khu
vực sinh sống. Khi đó tình trạng di trú của đối tượng được mở rộng hơn góp
48
phần hạn chế tình trạng kết hôn cận huyết, kết hôn giữa đối tượng cùng sống
trong khu vực có tỷ lệ lưu hành gen bệnh cao, góp phần giảm thiểu nguy cơ
kết hợp gen bệnh tạo thành thể nặng trong cộng đồng dân cư đó.
Thực tế cho thấy, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân
huyện Chợ Mới còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, công tác truyền thông giáo
dục sức khỏe khi triển khai cần nắm rõ tính chất công việc, trình độ học vấn
và điều kiện kinh tế của từng nhóm đối tượng để xây dựng kế hoạch truyền
thông phù hợp, đặc biệt là bố trí thời gian truyền thông phù hơpk để tránh ảnh
hưởng đến thời gian lao động, sản xuất của người dân. Trong một số nghiên
cứu trước ở trong và ngoài nước cho thấy trình độ học vấn có liên quan đến
nhận thức và khả năng tiếp cận các thông tin về dự phòng bệnh Thalassemia.
Cho nên việc xây dựng nội dung giáo dục truyền thông cần phải phù hợp để
người dân có thể tiếp nhận thông tin hiệu quả nhất.
4.2. Tỷ lệ mang gen beta Thalassemia và đặc điểm một số chỉ số huyết
học ở phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng tại huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn
4.2.1. Tỷ lệ lưu hành gen bệnh beta Thalassemia
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ mang gen bệnh beta
Thalassemia chung của các dân tộc là 11,9% (bảng 3.7). Tỷ lệ mang gen bệnh
ở phụ nữ dân tộc thiểu số độ tuổi sinh đẻ tại huyện Chợ Mới là tương đối cao.
Sự khác biệt về tỷ lệ mang gen bệnh giữa các nhóm dân tôc này là không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
nghiên cứu của một số tác giả: Nguyễn Kiều Giang tỷ lệ mang gen ở dân tộc
Tày là 12,0%; Vũ Thị Bích Vân cho kết quả tỷ lệ mang gen ở dân tộc Nùng
và H’Mông là 10,74%; Hoàng Văn Ngọc ở dân tộc Tày là 9,8%. Tuy nhiên,
kết quả của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của một số tác giả trên đối
tượng dân tộc Kinh ở Hà Nội (1,49%), dân tộc Kinh ở miền Nam (0,7%),
49
cũng như dân tộc Kinh ở Miền Trung (2,55%) [6], [16], [24], [33], [67]. Kết
quả này cũng phù hợp với nhận xét của một số tác giả rằng bệnh phổ biến ở
dân tộc ít người [62].
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt (p>0,05) về
tỷ lệ mang gen bệnh giữa các nhóm dân tôc (Dao: 10,0%; Tày: 14,3%; Dân
tộc thiểu số khác: 15,4%). Như vậy, tần suất mang gen beta Thalassemia của
các dân tộc trong nghiên cứu của chúng tôi là như nhau.
Đông Nam Á là nơi có tỷ lệ lưu hành bệnh beta Thalassemia cao (từ
1-10%). Tỷ lệ lưu hành gen bệnh beta Thalassemia ở phụ nữ dân tộc thiểu
số trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong giới hạn lưu hành beta
Thalassemia ở Việt Nam và trong khu vực: Tỷ lệ lưu hành bệnh beta
Thalassemia ở Lào theo tác giả Fucharoen S. là 9,0%, theo Nguyễn Công
Khanh nghiên cứu ở Việt Nam là 1-25%, Vũ Thị Bích Vân (10,74%), Hoàng
Văn Ngọc (9,6-9,8%) [16], [24], [32], [33] [42], [72].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ mang gen beta Thalassemia của
đối tượng là khá cao (11,9%). Tuy nhiên, tỷ lệ mang gen bệnh Thalassemia
trên đối tượng này có thể được dự báo còn có thể cao hơn do trong nghiên
cứu của chúng tôi với nguồn kinh phí còn hạn hẹp nên chúng tôi chỉ có thể
tiến hành xét nghiệm sàng lọc dựa trên điện di huyết sắc tố mà chưa có điều
kiện áp dụng kỹ thuật sinh học phân tử xác định đột biến gen, điều này có thể
làm bỏ sót một số đột biến đặc biệt, đột biến trên gen HbA1 và HbA2 (gen
nằm trên nhiễm sắc thể số 16). Do đó, cần áp dụng kỹ thuật sinh học phân tử
để phát hiện được các đột biến đặc biệt có thể bị bỏ sót trong các nghiên cứu
tiếp theo, nhất là ở nhóm đối tượng có MCV<80fl và MCH<27pg mà xét
nghiệm điện di huyết sắc tố không phát hiện có mang gen bệnh Thalassemia.
50
4.2.2. Đặc điểm một số chỉ số huyết học ở phụ nữ dân tộc thiểu số, độ tuổi
15-49, có chồng huyện Chợ Mới
4.2.2.1. Số lượng hồng cầu, kích thước hồng cầu trung bình (RBC, RDW)
Về số lượng hồng cầu trung bình ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh và
không mang gen bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi đều nằm trong giới hạn
bình thường (bảng 3.8). Trong đó, số lượng hồng cầu trung bình ở nhóm phụ
nữ mang gen bệnh (5,39±0,78T/l) cao hơn nhóm phụ nữ không mang gen
bệnh (4,65±0,48T/l). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Vũ Thị Bích Vân ở dân
tộc Nùng, Mông và Hoàng Văn Ngọc ở dân tộc Tày [24], [33]. Kết quả này
cũng phù hợp với kết luận của tác giả Anthony S. F. và cộng sự rằng trong
bệnh beta Thalassemia thể dị hợp tử số lượng hồng cầu thường cao [1]. Có
thể đây là sự tăng số lượng hồng cầu bù trừ trước tình trạng thiếu máu nhược
sắc do những khuyết thiếu của beta globin ở người mang gen bệnh. Chính vì
vậy mà các biểu hiện lâm sàng của người mang gen bệnh beta Thalassemia
thể dị hợp tử thường rất nghèo nàn, các dấu hiệu về rối loạn phát triển thể
chất, biến dạng xương sọ, gan to, lách to thường hiếm khi gặp.
Về phân bố kích thước hồng cầu trung bình ở nhóm phụ nữ mang gen
bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi có sự tăng nhẹ. Trong đó, phân bố kích
thước hồng cầu trung bình ở nhóm mang gen bệnh (14,18±2,15%) cao hơn ở
nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (12,4±1,27%). Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,01) (bảng 3.8). Phân bố kích thước hồng cầu tăng trong bệnh beta
Thalassemia, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Dương Bá Trực
(14,6±1,0%) [31]. Kết quả của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác giả
Lương Trung Hiếu (18,8±4,6%) [12]. Kết quả này có sự khác biệt có thể do đối
tượng nghiên cứu của tác giả Lương Trung Hiếu trên bệnh nhân beta
Thalassemia thể đồng hợp tử đang điều trị tại bệnh viện nên phân bố kích thước
51
hồng cầu ở nhóm đối tượng này có sự thay đổi rõ rệt hơn. Phân bố kích thước
hồng cầu tăng chứng tỏ hồng cầu có kích thước không đều. Tuy nhiên, để chứng
minh sự biến đổi về hình dáng hồng cầu rõ rệt hơn cần làm thêm xét nghiệm
quan sát hình dáng, kích thước hồng cầu dưới kính hiển vi quang học [31].
4.2.2.2. Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC)
Kết quả bảng 3.9 cho thấy nhóm phụ nữ mang gen bệnh có nồng độ
huyết sắc tố trung bình hồng cầu ở mức dưới 300g/l chiếm tỷ lệ 71,0% cao
hơn nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (8,3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,01). Đồng thời kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ huyết sắc
tố trung bình hồng cầu ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh (294,90±10,20g/l) thấp
hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (312,84±8,71g/l). Sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Tuy nhiên, kết quả MCHC ở đây chỉ giảm nhẹ.
Kết quả này tương tự với kết quả của một số tác giả trước như: Nguyễn Công
Khanh, Bạch Quốc Tuyên, Vũ Thị Bích Vân và Hoàng Văn Ngọc rằng đây là
yếu tố tốt để chẩn đoán phân biệt với biểu hiện hồng cầu nhược sắc trong
bệnh thiếu máu thiếu sắt rất phổ biến ở nước ta (trong thiếu máu thiếu sắt giá
trị MCHC giảm rất nặng) [18], [24], [30], [33].
4.2.2.3. Thể tích trung bình hồng cầu (MCV)
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả nhóm phụ nữ mang gen
bệnh beta Thalassemia có thể tích trung bình hồng cầu giảm rõ rệt. Qua kết quả
bảng 3.10 cho chúng tôi nhận thấy thể tích trung bình hồng cầu ở nhóm phụ nữ
mang gen bệnh giảm còn (67,11±7,22fl) thấp hơn ở nhóm phụ nữ không mang
gen bệnh (86,39±8,19fl). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Giá trị
MCV giảm cho thấy hồng cầu ở đây nhỏ hơn bình thường. Kết quả này cũng
phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả: Vũ Thị Bích Vân (77,6±11,4fl),
Hoàng Văn Ngọc (74,31±11,99fl), Trần Thị Thúy Minh (71,5±8,0fl), Nguyễn
Thị Thu Hà (71,56±3,63fl) [8], [12], [22], [24], [33].
52
Trong bệnh beta Thalassemia do sự thiếu hụt chuỗi beta làm ảnh
hưởng tới sự tổng hợp hemoglobin, hồng cầu chứa ít hemoglobin dẫn đến áp
lực keo trong hồng cầu giảm và lượng dịch trong hồng cầu cũng giảm tương
ứng, điều đó làm cho thể tích trung bình hồng cầu nhỏ. MCV nhỏ là một đặc
điểm đáng chú ý trong việc phát hiện người mang gen bệnh beta Thalassemia
trong lâm sàng và cộng đồng.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của chúng tôi còn cho thấy 100% phụ nữ
mang gen bệnh có MCV ở mức dưới 80fl, tỷ lệ này cao hơn ở nhóm phụ nữ
không mang gen bệnh (11,8%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p<0,01) (bảng 3.10). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả
và nhận định của Vũ Thị Bích Vân và Hoàng Văn Ngọc cho rằng MCV là
một chỉ số nếu được khảo cứu toàn diện, rộng rãi thì sẽ cho ta những giải
pháp mang tính chiến lược về vấn đề phòng ngừa, chẩn đoán bệnh
Thalassemia trong cộng đồng [24], [33].
4.2.2.4. Số lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCH)
Về số lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu ở nhóm phụ nữ mang gen
bệnh chỉ giảm còn (19,87±2,54 pg) thấp hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen
bệnh (27,15±2,71pg). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01) (bảng
3.11). Số lượng huyết sắc tố trung bình giảm chứng tỏ hồng cầu nhược sắc. Kết
quả này cũng phù hợp với nhận xét của các tác giả: Nguyễn Công Khanh,
Hoàng Văn Ngọc, Vũ Thị Bích Vân, Lương Trung Hiếu [6], [8], [24], [33].
Cũng như giá trị MCV, tỷ lệ phụ nữ có MCH<27pg chiếm 100%, cao
hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (32,3%). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p<0,01) (bảng 3.11). Giá trị của hai chỉ số MCH và MCV
trong nghiên cứu này phù hợp với kết luận của một số tác giả rằng hầu hết
người mang gen beta Thalassemia có chỉ số MCH<27pg, MCV<80fl [8],
[12], [24], [33].
53
Hai chỉ số của hồng cầu là MCV và MCH đều giảm rõ rệt qua kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hồng cầu trong bệnh beta Thalsemia là hồng
cầu nhỏ, nhược sắc. Đây là hai trong nhiều chỉ số của xét nghiệm tế bào máu
ngoại vi, là xét nghiệm thường quy trong tất cả các labo xét nghiệm tại bệnh
viện tuyến huyện trở lên và ở hầu hết các trung tâm y tế khu vực. Trong bệnh
beta Thalassemia, đột biến làm giảm tổng hợp hoặc không tổng hợp chuỗi beta
nên dẫn tới giảm hoặc không tổng hợp hemoglobin dẫn đến thiếu máu. Bên
cạnh đó làm giảm thể tích trung bình hồng cầu (hồng cầu nhỏ) và giảm số
lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (hồng cầu nhược sắc). Ghi nhận trong
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với ghi nhận của các tác giả khi nghiên cứu
về đặc điểm hồng cầu của bệnh Thalassemia. Ghi nhận này của chúng tôi càng
khẳng định thêm rằng hai giá trị MCV và MCH là chỉ số đáng được chú ý
trong việc phát hiện người mang gen bệnh Thalassemia trên lâm sàng và trong
cộng đồng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết luận đề xuất tiêu
chí sàng lọc bệnh Thalassemia khi người bệnh có chỉ số MCV<80fl,
MCH<27pg của một số tác giả trong khu vực như: Ma ESK ở Trung Quốc,
Chan ở Hồng Công, Wibhasiri ở Thái Lan [38], [53], [73].
4.2.2.5. Tình trạng thiếu máu
Khi phân loại thiếu máu theo nồng độ hemoglobin ở hai nhóm phụ nữ
cho thấy nhóm phụ nữ mang gen bệnh có tỷ lệ thiếu máu chiếm tới 87,1%,
trong khi đó ở nhóm trẻ không mang gen bệnh chỉ chiếm 28,4%. Sự khác biệt
này là có ý nghĩa thống kê (p<0,01) (bảng 3.13). Tuy nhiên, khi phân loại theo
số lượng hồng cầu thì thấy tỷ lệ thiếu máu ở nhóm trẻ mang gen bệnh chỉ là
6,5%, đồng thời không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thiếu
máu theo cách phân loại này ở hai nhóm phụ nữ mang gen bệnh và không
mang gen bệnh (bảng 3.12). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
nghiên cứu của Vũ Thị Bích Vân, Hoàng Văn Ngọc, Nguyễn Công Khanh
54
[17], [24], [33]. Nghiên cứu của các tác giả này đều cho thấy có sự không
tương xứng giữa tỷ lệ thiếu máu theo số lượng hồng cầu và thiếu máu theo
nồng độ hemoglobin. Tỷ lệ thiếu máu theo nồng độ hemoglobin cao hơn đáng
kể so với tỷ lệ thiếu máu theo số lượng hồng cầu ở hai nhóm đối tượng. Điều
này phần nào nói lên tình trạng nhược sắc của hồng cầu ở bệnh này. Kết quả
này chứng tỏ muốn đánh giá chính xác mức độ thiếu máu nên dựa vào lượng
hemoglobin hơn là dựa vào số lượng hồng cầu nhất là trong bệnh beta
Thalassemia. Nhận xét của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Vũ Thị
Bích Vân, Nguyễn Công Khanh và Hoàng Văn Ngọc cũng cho rằng nên dựa
vào lượng hemoglobin để xác định mức độ thiếu máu hơn là dựa vào số lượng
hồng cầu [17], [24], [33].
Như vậy, để đánh giá thiếu máu nếu chỉ xét nghiệm số lượng hồng cầu
hoặc chỉ xét nghiệm số lượng hemoglobin thì chưa đủ cơ sở khẳng định thiếu
máu. Điều này cũng cho chúng ta một khuyến cáo rằng ở các tuyến xét nghiệm
cơ sở, tốt nhất để đánh giá thiếu máu bao giờ cũng cần hai chỉ số song song
nhau là số lượng hồng cầu và định lượng hemoglobin. Sử dụng hai chỉ số này
ngoài việc hướng dẫn đánh giá lâm sàng, điều trị chung nó còn cho gợi ý
hướng tới chẩn đoán thiếu máu tan máu do beta Thalassemia trong những
trường hợp cần thiết.
Sự giảm lượng hemoglobin trong bệnh beta Thalassemia còn lưu ý
người thầy thuốc lâm sàng rằng cần có chẩn đoán phân biệt giữa thiếu máu
tan máu do beta Thalassemia với thiếu máu do thiếu dinh dưỡng (đặc biệt là
thiếu máu do thiếu sắt). Vì thiếu máu dinh dưỡng cũng xuất hiện các dấu hiệu
thiếu máu trên lâm sàng và xét nghiệm có hemoglobin giảm.
Nghiên cứu của chúng tôi còn cho kết quả tỷ lệ thiếu máu chung theo
nồng độ hemoglobin của phụ nữ dân tộc thiểu số, độ tuổi sinh đẻ, có chồng
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn là 35,4%. Trong tổng số phụ nữ có thiếu máu,
55
có 29,4% thuộc nhóm phụ nữ mang gen bệnh, còn lại 70,6% thuộc nhóm phụ
nữ không mang gen bệnh (biểu đồ 3.1). Dễ dàng nhận thấy trong nghiên cứu
của chúng tôi có 70,6% phụ nữ không mang gen bệnh nhưng có biểu hiện
thiếu máu. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu còn hạn chế nên chúng tôi chưa
tiến hành nghiên cứu sâu hơn để tìm nguyên nhân gây thiếu máu trên nhóm
phụ nữ này. Do vậy, việc tiến hành nghiên cứu tiếp theo nhằm xác định
nguyên nhân gây thiếu máu ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh có biểu
hiện thiếu máu hoặc tư vấn trực tiếp cho nhóm đối tượng này tự đi làm xét
nghiệm phát hiện bệnh là công việc cấp thiết ở cộng đồng. Bởi lẽ nhóm đối
tượng này đang ở độ tuổi sinh đẻ, tình trạng thiếu máu nếu không được coi
trọng sẽ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện thiên chức của người phụ nữ, có
thể để lại hậu quả nghiêm trọng đối với sản phụ và thai nhi, đồng thời ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống của nhóm đối tượng này.
Qua nghiên cứu sàng lọc 260 phụ nữ dân tộc thiểu số, đang ở độ tuổi
sinh đẻ chúng tôi phát hiện được 31 trường hợp (chiếm 11,9%) mang gen
bệnh beta Thalassemia. Những dấu hiệu cận lâm sàng như: số lượng hồng cầu
tăng, hemoglobin giảm, MCV<80fl, MCH<27pg rất có giá trị trong chẩn đoán
bệnh beta Thalassemia ở cộng đồng. Các đối tượng này vẫn đang sống và lao
động bình thường trong cộng đồng, chọ chỉ được chẩn đoán bệnh khi được
làm xét nghiệm điện di huyết sắc tố. Nhưng nếu hai người cùng mang gen
bệnh ở thể dị hợp tử kết hôn với nhau sẽ có nguy cơ cao sinh ra trẻ mang
mang bệnh beta Thalasemia thể đồng hợp tử là bệnh thiếu máu tan máu mạn
tính nặng gây hậu quả nghiêm trọng cho gia đình và cho cả cộng đồng. Do
vậy, việc sàng lọc cho người dân trong cộng đồng, đặc biệt là người chồng có
vợ được chẩn đoán mang gen bệnh, những người có quan hệ huyết thống với
người mang gen bệnh để có cơ sở tư vấn di truyền góp phần hạn chế sinh ra
các thể nặng trong cộng đồng là công việc hết sức cấp thiết. Ngoài ra, cần
56
phải tiến hành tư vấn di truyền học về bệnh Thalassemia cho người dân, đặc
biệt là cho phụ nữ đang ở độ tuổi sinh đẻ này. Bởi lẽ những đối tượng này có
khả năng sẽ được chỉ định điều trị sắt lâu ngày, nhất là đối với phụ nữ trong
thời kỳ mang thai do ấn tượng nhầm là họ bị thiếu máu do thiếu hụt sắt.
Những người này có thể dần dần phát triển nhiễm sắt có ý nghĩa về lâm sàng.
Do đó, việc xác định được người mang gen và tiến hành tư vấn rất có ý nghĩa
để ngăn chặn được liệu pháp điều trị không thích hợp này.
4.3. Kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia ở phụ
nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
Để dự phòng bệnh Thalassemia, công tác sàng lọc người lành mang
gen bệnh là rất quan trọng. Do đặc điểm người mang gen bệnh Thalassemia
đa số là khỏe mạnh, nếu kiến thức hạn chế, không biết mình có nguy cơ,
người dân sẽ không có hành vi chủ động xét nghiệm sàng lọc. Nghiên cứu của
chúng tôi cho kết quả tỷ lệ phụ nữ mang gen bệnh chiếm khá cao 11,9%. Tuy
nhiên, thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh Thalassemia
của nhóm đối tượng này còn rất hạn chế.
Kết quả hình 3.3 cho thấy kiến thức về dự phòng bệnh Thalassemia của
đối tượng này lại rất thấp, chỉ có 10,8% phụ nữ có kiến thức tốt về dự phòng
bệnh Thalassemia. Kết quả này phù hợp với nhận định của một số tác giả rằng
tỷ lệ mắc bệnh trong cộng đồng cao nhưng nhận thức về bệnh trong cộng đồng
còn rất thấp. Nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Kiều Giang, Ngô Mạnh Quân
đều cho kết quả tương tự, tỷ lệ phụ nữ dân tộc Dao có kiến thức khá tốt về
bệnh Thalassemi là 11,0%; trong nhóm người đến đăng ký kết hôn ở Hà Nội
chỉ có 10,2% đối tượng có kiến thức đầy đủ về bệnh [5], [27].
Điều này có thể lý giải do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là phụ
nữ dân tộc thiểu số, sinh sống ở khu vực miền núi, có trình độ học vấn thấp,
38,1% phụ nữ có trình độ học vấn ở mức tiểu học trở xuống. Theo kết quả
57
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà kết luận rằng có mối liên quan chặt chẽ
giữa trình độ học vấn và kiến thức dự phòng bệnh Thalassemia của đối tượng
nghiên cứu [9]. Thêm vào đó, đối tượng nghiên nghiên cứu của chúng tôi
thuộc lao động chính trong gia đình, 91,5% là nghề làm ruộng, kinh tế hộ gia
đình chủ yếu là nghèo và cận nghèo chiếm 85% (bảng 3.3). Các yếu tố này có
thể tác động tới việc tìm hiểu các kiến thức về dự phòng bệnh trong đó có dự
phòng bệnh Thalassemia của đối tượng nghiên cứu. Hiểu rõ điều này sẽ giúp
nhà quản lý xây dựng chương trình truyền thông tập trung hơn vào nhóm đối
tượng có trình độ dân trí thấp, điều kiện kinh tế khó khăn để nâng cao kiến
thức của họ về bệnh Thalassemia. Đối với chính quyền địa phương cần có
những giải pháp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao trình độ dân trí,
đặc biệt là ở nhóm đối tượng phụ nữ độ tuổi sinh đẻ để giúp họ có điều kiện
chăm sóc sức khoẻ, thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng chống bệnh
tật, trong đó có dự phòng bệnh Thalassemia.
Kết quả nghiến cứu về mức độ kiến thức của đối tượng về dự phòng
bệnh Thalassemia trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của
một số tác giả trên nhóm đối tượng là bệnh nhân và người nhà bệnh nhân
trong một số nghiên cứu trước ở trong và ngoài nước. Nghiên cứu của
Nguyễn Thị Thu Hà, có 65,9% đối tượng có kiến thức đầy đủ về bệnh, trong
đó nhóm bệnh nhân có kiến thức đầy đủ là 72,0% cao hơn nhóm bố mẹ bệnh
nhân (52,9%) [9]. Nghiên cứu của Ishaq F. và cộng sự trên đối tượng là bố mẹ
của bệnh nhân cho thấy có 44,6% biết rằng bệnh Thalassemia là một rối loạn
di truyền [40]. Điều này có thể giải thích do nhóm đối tượng là bệnh nhân và
người nhà bệnh nhân có thể họ đã được tư vấn, đã được tiếp cận các hoạt
động truyền thông về bệnh Thalassemia tại viện trong quá trình điều trị và
chăm sóc người bệnh cho nên kiến thức của nhóm đối tượng này về dự phòng
bệnh Thalassemia cao hơn ở nhóm phụ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi.
58
Trong nhóm kiến thức về dự phòng bệnh Thalassemia thì kiến thức về
nguy cơ và các thông tin về xét nghiệm phát hiện bệnh được cho là có ảnh
hưởng trực tiếp tới việc quyết định làm xét nghiệm phát hiện bệnh
Thalassemia. Với đặc thù của bệnh Thalaseemia, những người thuộc nhóm
dân tộc thiểu số, sinh sống nhiều đời ở trong vùng có sốt rét lưu hành, người
có người thân trong gia đình bị bệnh Thalassemia thì được xác định là nhóm
có nguy cơ và cần làm sàng lọc trước hôn nhân hoặc trước sinh. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của chúng tôi, phần lớn những đối tượng không nhận ra
nguy cơ mang gen bệnh của họ. Đa số phụ nữ có hiểu biết là bố và mẹ bị
bệnh Thalassemia thì con của họ có khả năng bị mắc (70,8%) nhưng chỉ có
18,1% phụ nữ biết rằng anh, em họ của một người mắc bệnh Thalassemia thì
người đó có khả năng mắc bệnh; 25,4% phụ nữ biết là cần làm xét nghiệm
các loại huyết sắc tố để phát hiện bệnh (bảng 3.14). Nghiên cứu của chúng
tôi cho kết quả tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Kiều Giang trên đối
tượng phụ nữ dân tộc Tày tại Định Hóa, Thái Nguyên kết luận rằng “Phần
lớn đối tượng không nhận ra nguy cơ mang gen gen bệnh, trên 50% số được
hỏi không biết rằng bệnh có khả năng di truyền từ ông bà sang con cháu và
trên 2/3 số người không biết rằng khi anh, chị, em họ của mình có bệnh thì
bản thân mình cũng có nguy cơ mang gen bệnh” [5].
Thực trạng trên cho thấy công tác truyền thông giáo dục sức khỏe về
dự phòng bệnh Thalassemia và số người biết đến bệnh còn rất hạn chế, đặc
biệt ở nhóm đối tượng là phụ nữ dân tộc thiểu số, độ tuổi sinh đẻ. Từ thực
trạng này cho thấy huyện Chợ Mới rất cần có một chương trình truyền thông
giáo dục sức khỏe về dự phòng bệnh Thalassemia nhằm nâng cao sức khỏe
cho người dân, nếu nguồn lực chương trình có hạn, cần tập trung truyền
thông cho người có huyết thống với phụ nữ mang gen bệnh này ý thức tự đi
sàng lọc phát hiện bệnh.
59
Cách nhìn nhận vấn đề hay quan điểm của đối tượng về một vấn đề sức
khỏe được thể hiện qua thái độ của đối tượng đối với vấn đề sức khỏe đó.
Thái độ rất quan trọng đối với hành vi của con người, thay đổi thái độ có tính
quyết định đến thành công của chuyển đổi hành vi [19]. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 13,5% phụ nữ có thái độ chung tốt về dự
phòng bệnh Thalassemia, đa số đối tượng có thái độ dự phòng bệnh ở mức
trung bình 78,8% (hình 3.4). Trong đó, có 61,9% phụ nữ cho rằng các cặp đôi
nên đi xét nghiệm phát hiện bệnh trước khi kết hôn. Bên cạnh đó, có 30,4%
phụ nữ cho rằng nếu người bố và mẹ khỏe mạnh thì không cần phải làm chẩn
đoán bệnh Thalassemia cho con (bảng 3.15). Đây là quan điểm sai lầm vì
trường hợp cặp vợ chồng khỏe mạnh bình thường nhưng mang gen bệnh họ
vẫn có 75% truyền bệnh cho con, trong đó có 25% biểu hiện bệnh
Thalassemia ở thể nặng.
Theo mô hình các yếu tố quyết định sức khỏe của Lalonde năm 1974
và cũng theo mô hình này của Dahlgren và Whitehead năm 1995 đều chỉ ra
rằng hành vi, phong cách sống là một trong bốn nhóm yếu tố quyết định tới
sức khỏe của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Trong nghiên cứu này, hành vi dự
phòng bệnh Thalassemia của đối tượng nghiên cứu được đánh giá bằng việc
đã hoặc chưa từng thực hiện các hành động dự phòng cụ thể. Trong đó, tự
nguyện làm xét nghiệm và tư vấn cho người thân đi làm xét nghiệm phát hiện
bệnh là hai hành vi có giá trị cao trong dự phòng bệnh Thalassemia. Từ hoạt
động này, người bệnh hoặc người mang gen bệnh sẽ được phát hiện và được
tư vấn di truyền. Qua kết quả hình 3.16 cho thấy tỷ lệ phụ nữ có thực hành dự
phòng bệnh Thalassemia ở mức trung bình, tốt chiếm tỷ lệ rất thấp (7,7%).
Trong đó, chỉ có 3 trong 260 trường hợp tự nguyện xét nghiệm phát hiện bệnh
Thalassemia trước khi kết hôn và trước khi sinh con. Tỷ lệ phụ nữ đã từng tư
vấn cho người thân làm xét nghiệm phát hiện bệnh chiếm 3,8%; 11,9% phụ
60
nữ chủ động tìm kiếm các thông tin về bệnh. Kết quả nghiên cứu này phù hợp
với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Kiều Giang trên đối tượng phụ nữ dân tộc
Tày huyện Định Hóa kết luận rằng chỉ có 3% đối tượng tự nguyện phát hiện
bệnh Thalassemia [5]. Việc thiếu kiến thức về bệnh và thái độ chưa tích cực
của hầu hết các đối tượng về dự phòng bệnh Thalassemia trong nghiên cứu
của chúng tôi là minh chứng cho việc dẫn tới thực hành dự phòng bệnh của
các đối tượng này chưa được tốt. Thực hành dự phòng bệnh Thalassemia của
phụ nữ độ tuổi sinh đẻ chưa tốt, cùng với độ tuổi tảo hôn ở nhóm đối tượng
cao (29,2%) đây có thể là yếu tố tác động lớn đến sự lưu hành gen bệnh
Thalassemia và góp phần tăng nguy cơ xuất hiện trường hợp mang bệnh thể
nặng ở người dân tộc thiểu số sống ở miền núi.
Kết quả nghiên cứu về thông tin liên quan đến truyền thông giáo dục sức
khỏe mà đối tượng được tiếp nhận cho thấy tỷ lệ phụ nữ được nghe nói về bệnh
Thalassemia trong một năm trở lại đây chỉ chiếm 5,0% (kết quả bảng 3.6). Kết
quả nghiên cứu này thấp hơn so với một số tác giả khác như: tác giả Ngô Mạnh
Quân nghiên cứu trên đối tượng người đến đăng ký kết hôn tại quận Hoàn Kiếm
cho thấy có 21,4% đối tượng nghiên cứu đã từng nghe nói về bệnh [27], nghiên
cứu của Nguyễn Thị Thu Hà trên đối tượng sinh viên Đại học ở Hà Nội cho kết
quả 27,8% đối tượng đã từng nghe nói về bệnh Thalassemia [7]. Số phụ nữ được
nghe nói về bệnh chiếm tỷ lệ thấp có thể được lý giải do đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi là nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số, là nhóm có thu nhập thấp, địa bàn cư
trú ở miền núi, việc tiếp cận với dịch vụ y tế và thông tin về bệnh tật nói chung,
trong đó có bệnh Thalassemia còn rất hạn chế. Kết quả này cũng phản ánh phần
nào công tác truyền thông giáo dục sức khỏe về dự phòng bệnh Thalassemia ở
tuyến y tế cơ sở hiện nay vẫn chưa được quan tâm.
Kết quả bảng 3.6 cũng cho thấy số phụ nữ cho rằng việc TTGDSK về
dự phòng bệnh Thalassemia là cần thiết chiếm 96,2%. Trong nhóm đối tượng
61
nhận được thông tin về bệnh Thalassemia từ cán bộ y tế chỉ chiếm 15,4%. Kết
quả này một lần nữa phản ánh cán bộ y tế ở huyện Chợ Mới chưa thực sự
quan tâm đến công tác dự phòng bệnh Thalassemia trong cộng đồng của
mình. Do đó, ngành y tế cấp trên cần có kế hoạch và hoạt động can thiệp
nhằm trang bị kiến thức về bệnh Thalassemia cho cán bộ y tế tuyến cơ sở để
họ đủ khả năng sàng lọc và TTGDSK về bệnh cho người dân trong cộng
đồng, đặc biệt là nhóm đối tượng là thanh thiếu niên và phụ nữ độ tuổi sinh đẻ
để họ được tư vấn tiền hôn nhân và tư vấn trước sinh.
Do phạm vi nghiên cứu còn hạn chế nên trong nghiên cứu này chúng
tôi chưa mô tả được các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành dự
phòng bệnh Thalassemia của đối tượng nghiên cứu. Điều này đòi hỏi cần có
thêm các nghiên cứu khác tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này để từ đó đề xuất
các giải pháp can thiệp nhằm nâng cao hiệu quả dự phòng bệnh Thalassemia
cho nhóm đối tượng sống trong vùng có nguy cơ cao.
62
KẾT LUẬN
1) Tỷ lệ mang gen beta Thalassemia và đặc điểm một số chỉ số huyết học
ở phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn:
- Tỷ lệ mang gen beta Thalassemia là 11,9%.
- Chỉ số huyết học ở nhóm phụ nữ mang gen bệnh có sự khác biệt so
với nhóm phụ nữ không mang gen về RBC, RDW, MCHC, MCH, MCV.
Trong đó, 100% phụ nữ mang gen bệnh có MCV<80fl, MCH<27pg.
- Tỷ lệ phụ nữ bị thiếu máu là 35,4%. Thiếu máu ở nhóm phụ nữ mang
gen bệnh chiếm 87,1% cao hơn ở nhóm phụ nữ không mang gen bệnh (28,4%).
2) Kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng bệnh Thalassemia ở phụ
nữ dân tộc thiểu số, 15-49 tuổi, có chồng huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn:
- Tỷ lệ phụ nữ có kiến thức tốt về dự phòng bệnh Thalassemia là 10,8%.
- Tỷ lệ phụ nữ có thái độ tốt về dự phòng bệnh Thalassemia là 13,5%.
- Có 3/260 phụ nữ tự nguyện xét nghiệm phát hiện bệnh Thalassemia
trước khi kết hôn và trước khi sinh con. Tỷ lệ phụ nữ đã từng tư vấn cho
người thân làm xét nghiệm phát hiện bệnh chiếm 3,8%; 11,9% phụ nữ chủ
động tìm kiếm các thông tin về bệnh; 9,6% phụ nữ đã từng chia sẻ kiến thức
về bệnh với người khác.
63
KHUYẾN NGHỊ
1) Tuyến y tế cơ sở cần tiến hành:
- Sàng lọc bệnh cho người chồng có vợ mang gen bệnh beta Thalassemia
nhằm giảm nguy cơ sinh ra trẻ mang bệnh thể nặng.
- Nghiên cứu xác định nguyên nhân gây thiếu máu ở nhóm phụ nữ
không mang gen bệnh có biểu hiện thiếu máu hoặc tư vấn trực tiếp cho nhóm
đối tượng này tự đi làm xét nghiệm phát hiện bệnh.
- Sử dụng hai chỉ số hồng cầu là MCV<80fl, MCH<27pg làm xét
nghiệm sàng lọc, hướng dẫn cho điện di Hb khi điều tra ở cộng đồng.
2) Các tỉnh ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số cần có một chương trình
truyền thông GDSK tại các địa phương về dự phòng bệnh Thalassemia nhằm
nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh cho người dân, nếu
nguồn lực chương trình có hạn, cần tập trung truyền thông cho người mang
gen bệnh và người có huyết thống với phụ nữ mang gen bệnh này ý thức tự đi
sàng lọc phát hiện bệnh.
64
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Nguyễn Thị Ánh, Đàm Khải Hoàn, Nguyễn Huy Hoàng, Nguyễn Tiến
Dũng, Nguyễn Kiều Giang (2017), “Thực trạng mang gen bệnh beta Thalassemia
và đặc điểm một số chỉ số huyết học ở phụ nữ dân tộc thiểu số tuổi 15-49 tại
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn”, Tạp chí y học dự phòng, Tập 27, Số 10.
65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Anthony S. F., Kurt. J. I., Jean D. W., Joseph B. M. (2004), Các nguyên lý
y học nội khoa Harrison, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 521-524.
2. Bộ Y tế (2014), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh Hemophilia và
bệnh Thalassemia, Hà Nội.
3. Bộ Y tế (1975), Hằng số sinh học người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
4. Phạm Thị Minh Đức (2017), Sinh Lý học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
5. Nguyễn Kiều Giang, Nguyễn Tiến Dũng, Hoàng Khải Lập (2016), “Thực
trạng kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh Tan máu bẩm sinh ở
phụ nữ dân tộc Tày tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Y
học Việt Nam, Tập 448, tr. 76-84.
6. Nguyễn Kiều Giang, Nguyễn Tiến Dũng, Hoàng Khải Lập, Bùi Thị Thu
Hương (2016), “Thực trạng mang gen bệnh tan máu bẩm sinh ở phụ nữ
dân tộc Tày tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Y học Việt
Nam, Tập 448, tr. 13-20.
7. Nguyễn Thị Thu Hà, Ngô Mạnh Quân, Cù Thị Lan Anh, Triệu Thị Biển và
cs. (2012), “Khảo sát nhận thức, thái độ, thực hành về phòng bệnh Tan
máu bẩm sinh tại một trường đại học ở Hà Nội”, Tạp chí Y học Việt
Nam, Tập 423, tr. 323-327.
8. Nguyễn Thị Thu Hà, Ngô Mạnh Quân, Vũ Hải Toàn và cs. (2016), “Đặc
điểm một số chỉ số huyết học ở người mang gen bệnh Thalassemia đến
tư vấn tại Viện huyết học - Truyền máu Trung ương”, Tạp chí Y học
Việt Nam, Tập 448, tr. 169-176.
9. Nguyễn Thị Thu Hà (2014), “Khảo sát hiểu biết, thái độ, thực hành về tan
máu bẩm sinh ở bệnh nhân và bố mẹ của bệnh nhi tan máu bẩm sinh tại
66
Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương”, Tạp chí Y học Việt Nam,
Tập 243, tr. 387-392.
10. Đỗ Hàm, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Minh Tuấn (2014), Tiếp cận nghiên
cứu khoa học, Giáo trình sau đại học, Nhà xuất bản Đại học Thái
Nguyên, tr. 61-62.
11. Nguyễn Văn Hiến, Nguyễn Duy Luật, Vũ Khắc Lương (2007), Giáo dục
và nâng cao sức khỏe”, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 35-43.
12. Lương Trung Hiếu 2012, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
bệnh nhân Thalassemia trưởng thành tại bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Dược
Thái Nguyên.
13. Phạm Thị Thùy Hoa, Nguyễn Duy Thăng, Lê Ngọc Phúc, Bùi Thị Thu
Thanh và cs. (2016), “Nhận xét về đặc điểm đột biến gen Thalassemia
ở phụ nữ mang thai tại tỉnh Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Y học Việt Nam,
Tập 448, tr. 43-52.
14. Nguyễn Khắc Hân Hoan 2013, Nghiên cứu tầm soát và chẩn đoán trước
sinh bệnh alpha và beta Thalassemia, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Nguyễn Công Khanh (2004), Huyết học lâm sàng Nhi khoa, Nhà xuất bản
Y học, Hà Nội, tr. 124-132.
16. Nguyễn Công Khanh, Dương Bá Trực, Lý Tuyết Minh, Lương Công Sĩ
(1987), “Sự lưu hành bệnh sắc tố ở một số người dân tộc miền Bắc”,
Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 4, tr. 9-15.
17. Nguyễn Công Khanh (1993), “Tần số bệnh Hemoglobin ở Việt Nam”,
Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 174, Số 8, tr. 11-16.
18. Nguyễn Công Khanh (1995), “Beta-Thalassemia”, Tạp chí Y học thực
hành, tr. 85-87.
67
19. Klaus Krickeberg (2014), Giáo dục sức khỏe (Health education), Nhà
xuất bản Y học Hà Nội, Hà Nội.
20. Nguyễn Đắc Lai, Lê Thị Sửu, Nguyễn Thái Quý, Bạch Quốc Tuyên
(1985), "Bước đầu tìm hiểu sự lưu hành bệnh huyết sắc tố ở một số dân
tộc ít người miền Bắc và miền Trung Việt nam", Tạp chí Y học Việt
Nam, Tập 4, tr. 16-24.
21. Bùi Ngọc Lan 1995, Bước đầu nghiên cứu sự phát triển thể chất của bệnh
beta Thalasemia thể nặng và thể kết hợp beta Thalasemia/HbE, Luận
văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
22. Trần Thị Thúy Minh 2015, Tỷ lệ mắc và kiểu hình gen bệnh alpha, beta
Thalassemia ở trẻ em dân tộc Ê Đê và M’Nông tỉnh Đắk Lắk, Luận án
tiến sỹ Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
23. Nguyễn Trí Nghĩa, Trần Thị Minh Diễm (2016), “Tỷ lệ rối loạn
Hemoglobin di truyền ở bệnh nhân thiếu máu nhược sắc người dân tộc
Vân Kiều, Pakô tại bệnh viện Đa khoa Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị”,
Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 448, tr. 28-35.
24. Hoàng Văn Ngọc 2007, Nghiên cứu thực trạng bệnh beta Thalassemia và
một số yếu tố liên quan ở trẻ em dân tộc Tày và Dao tại huyện Định
Hoá, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y
Dược – Đại học Thái Nguyên.
25. Đỗ Trung Phấn, Bùi Thị Mai An, Nguyễn Thị Minh An, Phạm Tuấn
Dương, Trương Công Duẩn (2014), Bài giảng Huyết học – Truyền
máu, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 178.
26. Đỗ Trung Phấn, Phạm Quang Vinh, Ngô Quang Huy, Trương Công
Duẩn và cs. (2002), “Một số đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm bệnh
huyết sắc tố gặp tại Viện Huyết học - Truyền máu, Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học Huyết học - Truyền máu giai đoạn 1999-2001”,
68
Nhà xuất bản Y học, Hà nội, tr. 145-151.
27. Ngô Mạnh Quân, Nguyễn Thị Thu Hà, Lý Thị Hảo, Trương Thị Kim Hoa
và cs. (2012), “Khảo sát nhận thức, thái độ và thực hành về phòng bệnh
tan máu bẩm sinh của người đến đăng ký kết hôn tại quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội năm 2012”, Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 423, tr. 476-481.
28. Thủ tướng chính phủ (2015), Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg Về việc ban
hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 –
2020, Hà Nội.
29. Nguyễn Anh Trí (2012), Thalassemia, Hội tan máu bẩm sinh Việt Nam,
Nhà xuất bản Y học, tr. 6-19.
30. Bạch Quốc Tuyên, Trần Thị Thái, Bạch Khánh Hòa (1984), “Một số
nhận xét về bệnh di truyền gặp tại bệnh viện Bạch Mai trong năm
1979 - Một số công trình nghiên cứu khoa học huyết học và truyền
máu”, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
31. Dương Bá Trực, Đặng Bá Kiệt, Nguyễn Công Khanh (1989), "Tình hình
bệnh huyết sắc tố ở trẻ em Ê Đê - Kỷ yếu công trình Nhi Khoa”, Nhà
xuất bản Y học, tr. 262-265.
32. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2017), Bản đồ hành chính huyện Chợ
Mới, https://backan.gov.vn/bd/mapchomoi.htm, ngày 01/01/2017.
33. Vũ Thị Bích Vân 2001, Nghiên cứu thực trạng mang gen bệnh beta
Thalassemia ở dân tộc Nùng và Mông tại xã Tân Long, huyện Đồng
Hỷ, Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Dược –
Đại học Thái Nguyên.
34. Bùi Văn Viên 1999, Một số đặc điểm lâm sàng, huyết học bệnh
Hemoglobin E và tần suất người mang gen Hemoglobin E ở dân tộc
Mường Miền Bắc, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội.
69
TIẾNG ANH
35. Amin Shokravi F., Eisapareh K. and Karami K. B. (2016), “Effects of
media-based education on adoption of thalassemia preventive behavior
among female high school students, Sardasht, Khuzestan, Iran”, World
Journal of Pharmaceutical Research, vol. 5, no. 1, pp. 116-124.
36. Bernadette Modella, Matthew Darlisona (2008), “Global epidemiology of
haemoglobin disorders and derived service indicators”, Bulletin of the
World Health Organization, vol. 86, no. 6, pp. 480-487.
37. Bloom J. D., Englehart M. D., Furst E. J., Hill W. H., Krathwohl D. R. (1956),
Toxonomy of educational objectives: The classification of educational
goals: Hanbook I. The cognitive doman, New York, Longman.
38. Chan L. C., Ma S. K., Chan A. Y. and et al. (2001), “Should we screen
for globin gene mutations in blood samples with mean corpuscular
volume greater than 80fl in areas with a high prevalence of
Thalassemia”, Journal of Clin Pathol, vol. 54, pp. 317-320.
39. Ebrahim Miri Moghaddam, Eisa Motaharitabar, Leila Erfannia, Alireza
Dashipour, and Marziyeh Houshvar (2014), “High school knowledge
and attitudes towards Thalassemia in southeastern Iran”, Int J Hematol
Oncol Stem Cell Res, vol. 8, no. 1, pp. 24–30.
40. Fouzia I. , Abid H. , Kokab F. and et al. (2012), “Awareness among parents
of Thalassemia major patients, regaring pential dianosis and premarial
screening”, Journal of College of Physicians and Surgeons Pakistan,
vol. 22, no. 4, pp. 218-221, doi: 04.2012/jcpsp.218221.
41. Fucharoen S., Winichagon P. (1992), “Thalassemia”, Med public health,
no. 23, pp. 647-655.
70
42. Fuchroen S. (1997), “Proposal for Asean registration, Draft version 1.2”,
Asean Thalassemia Society - Thalassemis research centre, pp: 1-13.
43. Ghazanfari Z., Arab M., Forouzi M. and et al. (2010), “Knowledge level
and educationl needs of thalassemic children’s parents in Kerman”,
Iranian Journal of Critical Care Nursing, vol. 3, no. 3, pp. 99-103.
44. Hoa Van N., Kanokwan Sanchaisuriya, Kasama Wongprachum, Mau
Duyen N. and et al. (2013) “Hemoglobin constant spring is markedly
high in women of an ethnic minority group in Vietnam: A community-
based survey and hematologic features”, Blood cells Molecules and
Diseases, vol. 52, no. 4, pp. 161-165, doi: 10.1016/j.bcmd.2013.12.002.
45. Hoa Van N., Kanokwan Sanchaisuriya, Dung N., Hoa Thi Thuy P.,
Sirivara Siridamrongvatana and et al. (2013), “Thalassemia and
hemoglobinopathies in Thua Thien Hue province, central Vietnam”,
Haemoglobin Journal, vol. 37, no. 4, pp. 333-342, doi:
10.3109/03630269.2013.790829.
46. Jain D., Marwaha N., Das R., Mohanty D., Choudhary R., Agarwal S.,
Ghosh M., Ross C. and et al. (2014) "Guidelines for screening,
diagnosis and management of hemoglobinopathies" Indian J Hum
Genet; no. 2, pp. 101-119.
47. Julius Broto Dewanto (2015), “Safe mariage for Thalassemia prevention;
the gap between knowledge and practice among medical student”,
Austin Journal of Pediatrics, vol. 2, no. 2, pp. 1023.
48. Karimi M., Johari S., Cohan N. (2011), “Attitude toward prenatal
diagnosis for beta thalassemia major and medical abortion in southern
Iran”, PMC Public health, vol. 34, no. 1, pp. 49-54, doi:
10.3109/03630260903547690.
71
49. Khin Ei Han, Aung Myo Han, Thein Thein Myint (1992), “Thalassemia in
the outpatient department of the Yangon Children's hospital in Myanmar:
knowledge, attitudes and practice in relation to thalassemia”, Southeast
Asian Journal Trop Med Public Health, vol. 23, no. 2, pp. 269-272.
50. Kourorian Z., Azarkeivan A., Hajibeigi B., Oshidari A., Shirkavnd A.
(2014), “The effect of knowledge, attitude and practice on the
function of Thalassemic patients”, Iranian Journal Of Blood And
Cancer, vol. 6, no. 4, pp. 177-181.
51. Li Ping Wong, Elizabeth George, Jin Ai Mary Anne Tan (2011), “A
holistic approach to education programs in thalassemia for a multi-ethnic
population: consideration of perspectives, attitudes, and perceived
needs”, PMC Public health, vol. 2, no. 2, pp. 71-79, doi:
10.1007/s12687-011-0039-z.
52. Li Ping Wong, Elizabeth George and Jin Ai Mary Anne Tanst (2011),
“Public perceptions and attitudes toward thalassaemia: Influencing
factors in a multi-racial population”, PMC Public health, no. 11, pp.
193, doi: 10.1186/1471-2458-11-193.
53. Ma ESK, Chan AYY, Ha SY, Lau YL, Chan LC (2001), “Thalassemia
screening based on red cell indices in the Chinese”, Haematologyca
Journal, vol. 66, no. 12, pp. 1310-1311.
54. Maheen H., Malik F., Siddique B., Qidwai A. (2015), “Assessing parental
knowledge about Thalassemia in Thalassemia centre of Karachi,
Pakistan”, Journal of Genet Couns, vol. 24, no. 6, pp. 945-951, doi:
10.1007/s10897-015-9830-z.
55. Manit Nuinoon, Kwanta Kruachan, Warachaya Sengking, Dararat
Horpet, and Ubol Sungyuan (2014), “Thalassemia and Hemoglobin E
72
in southern Thai blood donors”, Advances in Hematology Journal, vol.
2014, no. 932306, pp. 6, http://dx.doi.org/10.1155/2014/932306.
56. Maria Domenica Cappellini M. D., Alan Cohen M. D., Androulla
Eleftheriou Ph. D. and et al. (2008), Guidelines for the clinical
management of Thalassemia, 2nd revised edition, Nicosia Journal,
ISBN-13: 978-9963-623-70-9.
57. Mehrafrouz Daneshian, Maryam Sharafi, Abbas Paknahad, Sedighe
Paknahad, Mohammad Pouraskar (2014), “Thalassemia as the most
prevalent blood disorder in iran a review”, Journal of current research
in science, vol. 2, no. 6, pp: 869-872.
58. Mehrnoosh Kosaryan, Koorosh Vahidshahi, Rita Siami and et al. (2009),
“Knowledge, attitude, and practice of reproductive behavior in Iranian
minor thalassemia couples”, Saudi Med J, vol. 30, no. 6, pp. 835-839.
59. Mirza A., Ghani A., Sami A., Hannan A. and et al. (2013), “Thalassemia
and premartial screening: potential for implementation of a screening
program among young people in Pakistan”, Hemoglobin Journal, vol.
37, no. 2, pp. 160-70, doi: 10.3109/03630269.2013.773260.
60. Mudiyanse R. M. (2015), “Increased knowledge of thalassemia promotes
early carrier status examination among medical students”, Universal
Medicine, vol. 34, no. 3, pp. 220-228.
61. Omar A Al-Farsi, Yahya M Al-Farsi, Ishita Gupta, Allal Ouhtit, Khalil S
Al-Farsi and Samir Al-Adawi (2014), “A study on knowledge, attitude,
and practice towards premarital carrier screening among adults
attending primary healthcare centers in a region in Oman”, PMC Public
health, no. 14, pp. 380. doi: 10.1186/1471-2458-14-380.
62. Quirolo K., Vichinsky E. (2004), "Thalassaemia Syndrome", Nelson
textbook of Pediatric, Saunders, 17th Edition, vol. 2, pp. 1630-1634.
73
63. Raja J.V., Rachchh M.A., Gokani R.H. (2012), "Recent advances in gene
therapy for thalassemia", J Pharm Bioallied Sci, vol. 4, no. 3, pp. 194-
201, doi: 10.4103/0975-7406.99020.
64. Raj Muhammad, Muhammad Shakeel, Shoaib U. Rehman (2017),
“Population-based genetic study of beta Thalassemia mutations in
Mardan division, Khyber Pakhtunkhwa province, Pakistan”,
International journal for hemoglobin research, vol. 41, no. 2, pp. 104-
109, doi: http://dx.doi.org/10.1080/03630269.2017.1330210.
65. Rudra S., Chakrabarty P., Hossain M. A., Ripon M. J., Rudra M., Mirza
T. (2016), “Awareness among parents of beta Thalassemia major
patients regarding prenatal diagnosis and premarital screening in Day
Care Centre of transfusion medicine department”, Mymensingh Med
Journal, vol. 25, no. 1, pp. 12-17.
66. Run D. and et al. (1992), “Mean corpuscular volume of Heterozygotes for
beta Thalassemia correlates with the severity of mulation”, Blood
Journal, vol. 79, no. 1, pp. 238-243.
67. Sean O’Riordan, Tran Tinh Hien, Katie Miles, Angela Allen and et al.
(2010), “Large scale screening for haemoglobin disorders in southern
Vietnam: implications for avoidance and management”, Bristish
Journal of Haematol, vol. 150, no. 3, pp. 359-364.
68. Sirivara Siridamrongvatana, Hoa Van N. , Kanokwan Sanchaisuriya,
Dung N. and et al. (2013), “Burden of anemia in relation to
Thalassemia and iron deficiency among Vietnamese pregnant women”,
Acta Haematologica, vol. 130, no. 4, pp. 281-287, doi:
10.1159/000351168.
69. Surangrhut Pauisri M. D., Piyamas Saksiriwuttho M. D. (2011),
“Thawalwong Ratanasiri MD, knowledge and attitude of pregnant
74
women at risk for having a fetus with severe Thalassemia after genetic
counseling at srinagarind hospital”, Thai Journal of Obstetrics and
Gynaecology, vol. 19, pp. 193-199.
70. Thalassemia International Federation (2000), Guidelines for the clinical
management of Thalassemia, USA, no.19, pp. 27-32.
71. Tahmineh Karimzaei, Qolamreza Masoudi, Mahnaz Shahrakipour and et
al. (2015), “Knowledge, attitude and practice of carrier Thalassemia
marriage volunteer in prevention of major Thalassemia”, Global
Journal of Health Science, vol. 7, no. 5, pp. 364-70, doi:
10.5539/gjhs.v7n5p364.
72. Weathrall D. J., Thein SL., Hesketh C., Taylor P. and et al. (1990),
“Molecular basis for dominantly inherited inclusion body beta
thalassemia”, Proc Natl Acad Sci USA, vol. 87, no. 10, pp. 3924-3928.
73. Wibhasiri Srisuwan and Thanusak Tatu (2013), “Diagnosis of
Thalassemia carriers commonly found in northern Thailand via a
combination of MCV or MCH and PCR-based methods”, Bulletin of
Chiang Mai Associated Medical Sciences, vol. 46, no. 1, pp. 22-32.
75
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU - XÁC NHẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Xin chào Chị. Tôi tên là ____________________. Tôi đến từ Trường
Đại học Y Dược Thái Nguyên. Chúng tôi đang tiến hành chương trình:
“Nghiên cứu can thiệp giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh thiếu máu tan máu cho
đồng bào dân tộc thiểu số tại Chợ Mới”. Chương trình này nhằm mục đích
giúp người dân nâng cao nhận thức về phòng bệnh thiếu máu tan máu. Để làm
được việc này, chúng tôi cần biết cộng đồng đang hiểu như thế nào về bệnh
này? Bao nhiêu người đang mang bệnh? Từ đó thực hiện các chương trình để
nâng cao hiểu biết của đồng bào về việc phòng chống căn bệnh này.
Việc thu số liệu sẽ tiến hành theo 2 bước. Trước hết, chúng tôi sẽ
phỏng vấn chị khoảng 15 đến 30 phút để tìm hiểu một số thông tin cơ bản về
bản thân chị cũng như sự hiểu biết của chị về việc dự phòng căn bệnh thiếu
máu tan máu này. Thông tin của chị cung cấp sẽ được mã hóa và chỉ phục vụ
mục đích khoa học. Nếu câu hỏi nào chưa rõ chị có quyền hỏi lại hoặc từ chối
trả lời hoặc có quyền dừng phỏng vấn bất cứ lúc nào. Tuy nhiên chúng tôi hy
vọng chị sẽ hoàn thành cuộc phỏng vấn. Sau khi phỏng vấn, các chị sẽ được
lấy 2ml máu tĩnh mạch cánh tay để làm các xét nghiệm giúp phát hiện tình
trạng thiếu máu và xác định xem có do nguyên nhân tan máu hay không. Tất
cả các xét nghiệm trên được Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên thực hiện
miễn phí, kết quả xét nghiệm sẽ được bảo mật và thông báo tới cá nhân chị.
Chị có câu hỏi nào cần giải đáp không?
Chị có đồng ý tham gia phỏng vấn và làm xét nghiệm máu không?
CÓ
KHÔNG -> Dừng phỏng vấn
Bà mẹ (ký, ghi rõ họ tên): ......................................Ngày….tháng….năm….
76
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN VỀ DỰ PHÒNG BỆNH MÃ SỐ PHIẾU:
THIẾU MÁU TAN MÁU
Đối tượng: Phụ nữ dân tộc thiểu số, 15-49, có chồng huyện Chợ Mới
Thông tin chung
ĐTV: Trước tiên tôi sẽ hỏi chị một vài thông tin cơ bản về địa chỉ, tuổi, gia đình
ĐTV hỏi và điền thông tin cho các câu hỏi mở, khoanh tròn cho các câu hỏi
một lựa chọn hoặc nhiều lựa chọn.
Xã .............................. Xóm ................................. 1. Địa chỉ Số điện thoại ..........................................................
2. Năm sinh .........................................................
3. Trình độ học vấn
Vợ: 1. Mù chữ Chồng: 1. Mù chữ
2. Biết đọc biết viết 2. Biết đọc biết viết
3. Tiểu học 3. Tiểu học
4. THCS 4. THCS
5. THPT trở lên 5. THPT trở lên
4. Dân tộc 1. Sán Dìu 3. Tày
2. Dao 4. DTTS khác (ghi rõ)…. ……………
5. Tình trạng hôn nhân
1. Đơn thân 3. Ly thân
2. Đã kết hôn và sống cùng chồng 4. Ly dị
6. Nghề nghiệp
Vợ: 1. Làm ruộng Chồng: 1. Làm ruộng
2. Cán bộ viên chức 2. Cán bộ viên chức
3. Công nhân 3. Công nhân
4. Khác (ghi rõ)…... 4. Khác (ghi rõ)….…
77
7. Tuổi kết hôn Vợ |__|__| (tuổi) Chồng |__|__| (tuổi)
8. Quan hệ họ hàng giữa vợ và chồng
1. Có 0. Không
Nếu có, ĐTV dùng sơ đồ để xác định quan hệ huyết thống giữa vợ chồng
1. Xa (>3 thế hệ ) 2. Gần (≤ 3thế hệ)
9. Tình trạng di trú của hai vợ chồng trước khi kết hôn
1. Hai vợ chồng ở cùng xã 3. Hai vợ chồng khác huyện
2. Hai vợ chồng khác xã 4. Hai vợ chồng khác tỉnh
10. Kinh tế
1. Hộ nghèo 2. Hộ không nghèo 3. Hộ cận nghèo
11. Ở địa phương của chị có tập quán kết hôn cận huyết không?
1. Có 2.Không
12. Ở địa phương chị có tập quán tảo hôn không?
1. Có 2. Không
Thông tin về kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng bệnh thiếu máu tan máu
ĐTV: Bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu (nói chuyện) một số vấn đề về bệnh TMTM
13. Chị có biết đến bệnh thiếu máu tan máu (TMTM) không? (ĐTV sử
dụng hình ảnh và gợi ý các dấu hiệu thiếu máu tan máu nếu bà mẹ không
hiểu cụm từ TMTM)
1. Có 2. Không
14. Theo chị, bệnh TMTM là bệnh gì? (ĐTV gợi ý từng phương án nếu bà
mẹ không có câu trả lời )
Di truyền từ bố mẹ sang con cái? 1. Có 2. Không 3. Không biết
Lẫy nhiễm (truyền nhiễm) 1. Có 2. Không 3. Không biết
Khác (ghi rõ) ........................................................
78
15. Theo chị, nếu người bố hoặc mẹ bị TMTM thì con của họ sinh ra có
khả năng bị mắc bệnh này hay không ? 1. Có 2. Không 3. Không biết
16. Theo chị, nếu người bố và mẹ bị TMTM thì con của họ sinh ra có khả
năng bị mắc bệnh này không ? 2. Không 1. Có 3. Không biết
17. Theo chị, nếu ông hoặc bà, nội hoặc ngoại bị TMTM thì cháu của họ
có khả năng bị mắc bệnh hay không? 1. Có 2. Không 3. Không biết
18. Theo chị, nếu cô hoặc dì, chú, bác bị TMTM thì cháu của họ có khả
năng mắc bệnh hay không? 1. Có 2. Không 3. Không biết
19. Theo chị, anh, em họ (con chú, con bác, con cô, con dì) của một người mắc bệnh TMTM thì người đó có khả năng mắc bệnh này hay không? 1. Có 3. Không biết 2. Không
20. Theo chị, người bị TMTM có những biểu hiện gì?(ĐTV đọc các phương án)
- Xanh xao 1. Có 2. Không 3. Không biết
1. Có 2. Không 3. Không biết - Chậm phát triển chiều cao, cân nặng
- Da vàng , mắt vàng 1. Có 2. Không 3. Không biết
- Biểu hiện khác: .................................................................................
21. Theo chị, một người dân khi có các biểu hiện/đặc điểm gì thì cần đi
khám để phát hiện bệnh TMTM? (ĐTV đọc các phương án sau)
Da xanh 2. Không 3. Không biết 1. Có
Chậm phát triển chiều cao, cân nặng 2. Không 3. Không biết 1. Có
Củng mạc mắt vàng 2. Không 3. Không biết 1. Có
2. Không 3. Không biết Gia đình có người bị mắc bệnh TMTM 1. Có
Ở vùng có nhiều người bị bệnh TMTM 1. Có 2. Không 3. Không biết
Khác: (ĐTV hỏi đối tượng) .........................................................
79
22. Theo chị, cần phải làm xét nghiệm gì để phát hiện bệnh TMTM?
Xét nghiệm máu 1. Có 2. Không 3. Không biết
Xét nghiệm các loại huyết sắc tố 1. Có 2. Không 3. Không biết
Xét nghiệm tìm gen đột biến 1. Có 2. Không 3. Không biết
Xét nghiệm khác: ..................................................................
23. Theo chị, bệnh TMTM được điều trị như thế nào?
1. Truyền máu 3. Cắt lách 5. Không phải điều trị gì
2. Thải sắt 4. Ghép tủy 6. Không biết
Khác :...........................................................................
24. Người mắc bệnh TMTM lâu ngày có thể bị các hậu quả (biến chứng) gì?
(ĐTV gợi ý các phương án dưới đây)
Mũi tẹt, trán dô, răng hàm trên vẩu 1. Có 2. Không 3. Không biết
Dậy thì muộn 1. Có 2. Không 3. Không biết
Chậm phát triển chiều cao, cân nặng 1. Có 2. Không 3. Không biết
Bụng to, chướng (do lách to, gan to) 1. Có 2. Không 3. Không biết
Gãy xương, loãng xương 1. Có 2. Không 3. Không biết
Mắc bệnh tim mạch 1. Có 2. Không 3. Không biết
Mắc bệnh tiểu đường 1. Có 2. Không 3. Không biết
Mắc bệnh xơ gan 1. Có 2. Không 3. Không biết
Biến chứng khác: .............................................................
ĐTV: “Hãy nêu quan điểm của chị với những phát biểu về bệnh TMTM dưới đây”
Rất Đồng Không Không Rất ko Câu hỏi đồng ý rõ đồng ý đồng ý ý
25. TMTM là một bệnh gây suy giảm giống nòi 1 3 4 5 2
26. Các cặp vợ chồng kết hôn cùng huyết thống thì con
của họ có khả năng mắc TMTM cao hơn những cặp 1 3 4 5 2
vợ chồng kết hôn không cùng huyết thống
80
27. TMTM là bệnh hiện nay có thể điều trị triệt 1 2 3 4 5 để hoàn toàn
28. TMTM gây ra nhiều hậu quả (biến chứng) 1 2 3 4 5 cho người bệnh
29. TMTM là bệnh điều trị rất tốn kém, điều trị 1 2 3 4 5 suốt đời
30. TMTM là bệnh có thể dự phòng được 1 2 3 4 5
31. Người bố và người mẹ bình thường thì không 1 2 3 4 5 cần phải làm chẩn đoán bệnh TMTM cho con
32. Các cặp đôi nên đi xét nghiệm phát hiện bệnh 1 2 3 4 5 TMTM trước khi kết hôn
33. Theo chị cần đến đâu để làm xét nghiệm phát hiện bệnh TMTM?
1. Trạm y tế xã 3. BV tuyến tỉnh/Thành phố 5. Khác: ……………
2. BV tuyến huyện 4. BV tuyến Trung ương 6. Không biết
34. Theo chị cần đến đâu để được tư vấn về bệnh TMTM?
1. Trạm y tế xã 3. BV tuyến tỉnh/Thành phố 5. Khác:..................
2. BV tuyến huyện 4. BV tuyến Trung ương 6. Không biết
35. Chị đã làm xét nghiệm tự nguyện để phát hiện bệnh TMTM bao giờ chưa?
1. Có 2. Không
1. Trước khi kết hôn
2. Khi mang thai
Nếu có, Thời điểm xét nghiệm: 3. Trước khi sinh con đầu
4. Trước khi sinh con thứ 2
5. Khác: ..............................................
1. Dương tính Kết quả xét nghiệm? 2. Âm tính
81
Chị tư vấn cho người nhà đi làm xét nghiệm phát hiện TMTM bao giờ 36. không?
1. Có 2. Không
37. Chị có chủ động tìm hiểu các thông tin về bệnh TMTM không?
1. Có 2. Không
Nếu có : Từ nguồn nào: (ghi rõ)..............................................................
38. Chị có tư vấn, chia sẻ hiểu biết về bệnh TMTM với người khác bao gi?
2. Không 1. Có
39. Lần có thai vừa rồi chị có đi khám thai không?
1. Có 2. Không Chuyển Câu 42
40. Nếu có, chị đi khám mấy lần
1. ≥3 lần 2. <3 lần
41. Trong các lần đi khám thai đó chị có xét nghiệm phát hiện TMTM bao giờ?
1. Có 2. Không
Nguồn truyền thông giáo dục sức khỏe
42. Trong vòng 1 năm qua chị có được nghe truyền thông về phòng chống bệnh
TMTM hay không?
1. Có 2. Không -> Chuyển Câu 45
43. Chị biết thông tin về TMTM từ nguồn nào?
1. CBYT 3. Hàng xóm, bạn bè 5. Nguồn khác: ……….....
2. Đài, báo, ti vi, internet 4. Họ hàng
44. Những loại thông tin nào chị được nghe?
1. Nguyên nhân gây bệnh TMTM 3. Xử trí khi bị bệnh TMTM
2. Hậu quả của bệnh TMTM 4. Cách phòng chống bệnh TMTM
5. Khác (ghi rõ)....................................................................................
82
45. Theo chị, việc truyền thông giáo dục sức khỏe về phòng chống bệnh TMTM cho
người dân cần thiết
1. Có 2. Không ->Kết thúc PV
46. Những loại thông tin nào người dân cần được nghe?
1.Nguyên nhân gây bệnh TMTM 3. Xử trí khi bị bệnh TMTM
2. Hậu quả của bệnh TMTM 4. Cách dự phòng bệnh TMTM
5. Khác (ghi rõ) ………................................................................................
Kết thúc phỏng vấn: ĐTV cảm ơn người được phỏng vấn.
Người phỏng vấn: ................................................ Ngày phỏng vấn
Người giám sát: ....................... ............................. …../…. /201…
83
THANG ĐIỂM LIKERT
2 Đồng ý
1 Rất đồng ý
3 Chưa rõ ràng
4 Không đồng ý
5 Rất không đồng ý
Bệnh thiếu máu tan máu: Da vàng sạm, mũi tẹt, trán dô, bụng to, còi cọc, hay
phải đi truyền máu, có trường hợp cắt lách.
84
Kỵ
Cụ
Cụ
Ông/bà
Ông/bà
Ông/bà
Chú/bác
Chú/bác
Bố/mẹ
Chú/bác họ
Anh/chị/em Anh/chị/em Anh/chị/em
T
Anh/chị/em ruột họ
Cháu
Cháu
Cháu
Cháu họ
Con
Chắt
Cháu
Chắt
Chắt
Chắt
Chút
Chắt
Chút
Chút
Chút
Sơ đồ xác định thứ bậc của quan hệ huyết thống
Cách xác định quan hệ huyết thống
1. Đặt tên vợ (hoặc chồng) vào ô “T”
2. Hỏi xem người chồng (hoặc vợ) quan hệ họ hàng như thế nào
3. Kết luận mối quan hệ họ hàng giữa vợ chồng
a. Nếu ở ô sẫm mầu: họ hàng gần
b. Nếu ở ô không sẫm mầu: họ hàng xa.
85
Phụ lục 2
KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM SÀNG LỌC THIẾU MÁU TAN MÁU MÃ SỐ:16036
Chương trình dự phòng thiếu máu tan máu bẩm sinh - Đại học Y Dược Thái Nguyên
Thông tin người được làm xét nghiệm
1. Họ và tên: Triệu Thị P. 3. Năm sinh: 1983
2. Địa chỉ: Xóm Khuổi Đeng 1, xã Tân Sơn,
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 4. Dân tộc: Dao
Kết quả xét nghiệm sàng lọc
5. Tổngphân tích tế bào máu Giới hạn bình thường
1.RBC 5.72 (x 1012/L) (3.8 – 5.3)
2.HB 106 (g/L) (110 - 170)
3.HCT 35.9 (%) (36 - 56)
4. WBC 8 (x 109/L) (4 - 9)
5.MCV 62.8 (fL) (80 - 100)
6.MCH 18.5 (pg) (28 - 36)
7.MCHC 295 (g/dL) (300 - 360)
8.RDW 12.2 (%) (10 – 16.5)
6. Điện di huyết sắc tố
(97 - 98) 1.HbA 91.9 (%)
(2 - 3) 2.HbA2 6.2 (%)
(0 - <1) 2.HbF 1.9 (%)
3.HbE (%) 0
4.HbCS (%) 0
5. HbH (%) 0
6. Ηb Bart’s (%) 0
86
7. Kết luận
Thiếu máu, hồng cầu nhỏ nhược sắc
Thành phần huyết sắc tố bất thường: HbA2 = 6,2 %, HbF = 1.9%
Kết luận: mang gen thiếu máu tan máu thể beta
8. Tư vấn
Cần xét nghiệm cho người chồng để đánh giá nguy cơ cho con (nếu muốn
sinh con)
Người đọc xét nghiệm: Ngày 15 tháng 12 năm 2016