1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đánh giá thực trạng thiếu dinh dưỡng của trẻ em tại cộng đồng luôn

luôn là một đòi hỏi thiết yếu của các hoạt động can thiệp dinh dưỡng, giúp

định hướng các hành động trong các giai đoạn tiếp theo [11], [43].

Trong vòng hai thập kỷ qua, xu hướng chuyển dịch theo chiều hướng

tích cực về phát triển cũng như tình trạng dinh dưỡng của trẻ em tại cộng

đồng ngày càng rõ rệt, đặc biệt ở các nước đang phát triển [12], [15].

Ở Việt Nam, từ những năm 80, các vấn đề dinh dưỡng đã được theo dõi

qua các cuộc điều tra toàn quốc và cho thấy tỷ lệ thiếu dinh dưỡng trẻ em mặc

dù có giảm đi so với trước đây nhưng vẫn ở mức đáng lo ngại. Suy dinh

dưỡng (SDD) là một trong các chỉ tiêu nhạy, đáng tin cậy phản ánh tình trạng

sức khỏe và phát triển ở trẻ em. Suy dinh dưỡng gắn liền với vấn đề sinh thái,

tình trạng phát triển kinh tế và mức độ nhận thức, hiểu biết và thực hành chăm

sóc sức khỏe. Suy dinh dưỡng ở trẻ em để lại những hậu quả nặng nề cả về

thể chất và tinh thần ở tuổi ấu thơ cũng như khi trưởng thành sau này [15],

[53].

Đánh giá thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em giúp cung cấp các thông

tin chính xác và cập nhật về thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em, đồng thời

định hướng các chính sách của các Bộ ngành có liên quan [12].

Trẻ em suy dinh dưỡng thường xuyên bị mắc bệnh và có thời gian bị

ốm kéo dài… Thiếu dinh dưỡng thúc đẩy quá trình mắc bệnh tật, đặc biệt là

bệnh sởi và một số bệnh ký sinh trùng. Tỷ lệ trẻ em tử vong do SDD đóng

góp tới: 61% trường hợp tử vong do bệnh tiêu chảy, 57% trường hợp tử vong

do bệnh sốt rét, 52% trường hợp tử vong do viêm phổi và 45% trường hợp tử

vong do bệnh sởi (Black 2005, Bryce 2007) [6], [9]. Ngược lại, suy dinh

dưỡng cũng là hậu quả của bệnh tật, như tiêu chảy, viêm đường hô hấp cấp

tính [45], [52].

2

Từ những năm đầu tiên của thập kỷ 90, các vấn đề về chăm sóc dinh

dưỡng và sức khỏe đã và đang ngày càng được Nhà nước quan tâm. Các

chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em như tiêm chủng mở rộng, các can

thiệp phòng chống suy dinh dưỡng và thiếu vi chất như phòng chống thiếu

vitamin A, thiếu sắt, thức ăn bổ sung, phát triển hệ sinh thái Vườn-Ao-

Chuồng (VAC), giáo dục dinh dưỡng, tẩy giun v.v... đã đóng góp một phần

quan trọng vào việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe cho các đối

tượng có nguy cơ cao như trẻ em và bà mẹ [43], [44].

Suy dinh dưỡng vẫn là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng nghiêm trọng,

đặc biệt ở các vùng nghèo, vùng khó khăn như tỉnh Bắc Giang...

Trên thực tế, Bắc Giang là một trong những tỉnh có tỷ lệ suy dinh dưỡng

cao. Qua đợt điều tra về tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi năm

2005 thì tỷ lệ suy dinh dưỡng của tỉnh là 25,7%. Bên cạnh những thành tựu về

kinh tế-xã hội cũng như công tác chăm sóc sức khoẻ, tỉnh Bắc Giang còn phải

đương đầu với nhiều khó khăn trở ngại, đặc biệt là tình trạng suy dinh dưỡng

trẻ em.

Để góp phần thiết thực xây dựng các giải pháp phòng chống SDD trẻ

em ở các vùng khó khăn trong giai đoạn tới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu

“Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp

can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Việt Yên - Bắc Giang, 2006-2008”

nhằm đánh giá thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em tại một huyện miền núi, mô

tả mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với khẩu phần ăn của trẻ và xác

định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với khẩu phần ăn, nhiễm ký

sinh trùng đường ruột ở trẻ từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp, góp phần

thực sự vào công cuộc phòng chống SDD trẻ em ở nước ta.

3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Mô tả thực trạng thiếu dinh dưỡng, khẩu phần ăn của trẻ; nhiễm ký sinh

trùng đường ruột và một số bệnh nhiễm khuẩn thường gặp ở trẻ em.

2. Mô tả mối liên quan giữa thực trạng thiếu dinh dưỡng với khẩu phần

ăn, nhiễm ký sinh trùng đường ruột ở trẻ.

3. Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng cộng đồng ở trẻ dưới 5 tuổi ở

huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Khẩu phần ăn nghèo nàn gây ra tình trạng SDD cao và suy dinh

dưỡng và thiếu máu dinh dưỡng có liên quan với tình trạng nhiễm ký sinh

trùng đường ruột ở trẻ em dưới 5 tuổi.

4

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em

Hậu quả tất yếu của tình trạng thiếu ăn là suy dinh dưỡng [39]. Tình

trạng thiếu ăn ảnh hưởng trước hết đến các đối tượng bị đe dọa nhất, đó là phụ

nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú và trẻ em trước tuổi học đường. Điều đó

được thể hiện qua các số đo nhân trắc của cơ thể [101]. Trong điều kiện thực

địa người ta dựa chủ yếu vào các chỉ tiêu nhân trắc dinh dưỡng gồm cân nặng

theo tuổi, chiều cao theo tuổi, cân nặng theo chiều cao, vòng cánh tay để phân

lọai tình trạng suy dinh dưỡng [101], [121], [127].

Năm 1956, Gomez - một thầy thuốc người Mexico đã dựa vào cân nặng

theo tuổi để phân loại tình trạng dinh dưỡng trẻ em. Cách phân loại của

Gomez đã xác định cân nặng của đối tượng theo phần trăm so với cân nặng

chuẩn vào quần thể tham khảo Havard. Trong một thời gian dài, cách phân

loại này đã được sử dụng như là chỉ tiêu duy nhất phân loại suy dinh dưỡng ở

cộng đồng [22].

Năm 1966, Jelliffe - người đã có công đưa ra khái niệm suy dinh

dưỡng protein - năng lượng, tức là đã nhấn mạnh đến vai trò năng lượng ăn

vào đối với bệnh sinh suy dinh dưỡng - cũng đã đưa ra cách phân loại dựa

vào quần thể Havard. Sau đó còn có các đóng góp của các tác giả khác như

Welcome dựa vào triệu trứng lâm sàng bổ sung và của Waterlow đưa ra chỉ

tiêu chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao nhằm phân biệt suy dinh

dưỡng cấp tính mới xảy ra hay đã trường diễn [213], [214], [216]. Cách phân

loại của Waterlow dựa vào quần thể tham khảo NCHS. Mặc dù quần thể tham

khảo NCHS chưa thể được coi là lý tưởng nhưng để có được quần thể tham

khảo tốt không phải là dễ dàng [217]. Vào thời điểm thập kỷ những năm 70,

5

80 của thế kỷ XX, quần thể tham khảo NCHS đáp ứng được các tiêu chuẩn

cần thiết và được sử dụng rộng rãi trên thế giới nên rất thuận tiện cho việc so

sánh quốc tế [141]. Năm 1980, Tổ chức Y tế thế giới khuyến nghị cách phân

loại tình trạng dinh dưỡng theo các điểm ngưỡng dưới hai độ lệch chuẩn (-

2SD) so với quần thể NCHS. Đối với suy dinh dưỡng theo chỉ tiêu cân nặng

theo tuổi có 3 mức độ: suy dinh dưỡng độ 1 (vừa), suy dinh dưỡng độ 2

(nặng), suy dinh dưỡng độ 3 (rất nặng) theo các mức tương ứng là từ -2SD

đến -3SD, từ -3SD đến -4SD và dưới -4SD. Đối với suy dinh dưỡng chiều cao

theo tuổi (SDD kéo dài hoặc thuộc về quá khứ) thường lấy điểm ngưỡng dưới

-2SD (thể vừa) và -3SD (thể nặng) so với quần thể NCHS. Đối với SDD cân

nặng theo chiều cao (thiếu dinh dưỡng hiện tại) thường lấy điểm ngưỡng dưới

-2SD [141]. Những biến đổi về phát triển nhân trắc dinh dưỡng xảy ra trong

một vài thập kỷ qua đã cho thấy quần thể tham khảo này không còn thích hợp

cho việc theo dõi tình trạng dinh dưỡng của mọi nhóm dân tộc khác nhau

[161].

Đến năm 2005, nhận thấy quần thể NCHS chỉ gồm trẻ em Mỹ da trắng

không đủ tính đại diện cao nên Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã tiến hành xây

dựng Chuẩn WHO 2005 tập hợp số liệu của bảy quốc gia từ các châu lục khác

nhau theo mức đại diện dân số với điều kiện trẻ được nuôi dưỡng hoàn toàn

bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu và những trẻ này sống ở địa phương có độ cao

dưới 1.500 m so với mặt nước biển, đồng thời môi trường sống không có khói

thuốc lá và được nuôi dưỡng tốt. WHO sau đó đã khuyến nghị toàn thể các

nước thành viên sử dụng chuẩn WHO và Việt Nam cũng đã sử dụng chuẩn

này. Cách phân loại SDD tương tự như với chuẩn NCHS nhưng thay vì dùng

SD thì nay sử dụng Zscore-SD.

Người ta coi những trẻ sinh đủ tháng có cân nặng lúc đẻ dưới 2.500g là

những trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai (SDDBT). Về nguyên nhân, thường do

6

trong thời gian mang thai, người mẹ không được ăn uống đầy đủ, làm việc và

nghỉ ngơi không hợp lý hoặc bị ốm đau bệnh tật. Thường các bà mẹ có mức

tăng cân ở cuối thai kì thấp, dưới 6kg, chắc chắn là bào thai đã bị SDD, khi

sinh ra cân nặng của trẻ sẽ rất thấp.

SDD bào thai là thể suy dinh dưỡng sớm nhất. Ở những trẻ này, các cơ

quan như da, cơ, xương, não, gan, thận... đều bị ảnh hưởng mà điều dễ nhận

thấy nhất là trẻ sinh ra nhẹ cân. Hậu quả của tình trạng này tuỳ thuộc vào giai

đoạn bào thai bị SDD, chế độ nuôi dưỡng trẻ sau khi chào đời. SDD xảy ra ở

3 tháng cuối của thai kì làm cho bộ não chậm phát triển, sau này trẻ sẽ kém

thông minh. Trẻ bị SDD bào thai khi chào đời dễ bị hạ thân nhiệt, hạ đường

máu gây rối loạn nhịp thở, hạ canxi máu gây co giật. Nếu được nuôi dưỡng

đúng, trẻ sẽ phát triển bình thường và đạt mức cân nặng như những trẻ khác

sau 2-3 tháng. Ngược lại, nuôi dưỡng không tốt, trẻ tiếp tục bị SDD, trẻ ốm

đau, quặt quẹo, còi cọc, chậm phát triển trí tuệ, kém thông minh. Theo Tổ

chức Y tế thế giới (WHO), có đến 1/3 số trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2.500g

bị chết trong năm đầu đời.

7

Hình 1.1: Dinh dưỡng theo chu kì vòng đời

1.2. Xu hướng về tỷ lệ thiếu dinh dưỡng trên thế giới

Theo Tổ chức Y tế thế giới, hiện nay trên phạm vi toàn thế giới có

khoảng 165 triệu trẻ em dưới 5 tuổi - chủ yếu tập trung ở các nước đang phát

triển - bị suy dinh dưỡng [227], [12]. Đồng thời, người ta quan sát thấy hơn

một nửa số trường hợp tử vong trẻ em có liên quan đến suy dinh dưỡng. Bên

cạnh đó, những hậu quả ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh thần do

8

suy dinh dưỡng gây ra có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của

từng quốc gia [1].

Cũng theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới [227], hiện nay tỷ lệ suy

dinh dưỡng theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi ở trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước

đang phát triển có xu hướng giảm đi. Từ năm 1975 đến 1995, tỷ lệ này giảm

từ 42,6% xuống còn 34,6%, từ năm 1995 đến năm 2010 tỷ lệ giảm xuống còn

khoảng 25%. Suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm dần đi được quan sát

thấy ở tất cả các vùng trên thế giới. Mức giảm suy dinh dưỡng ở khu vực châu

Á mạnh hơn so với các vùng khác và có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì tỷ lệ trẻ

em suy dinh dưỡng cao nhất cùng với số lượng dân số tập trung đông nhất. Có

ít nhất 2/3 số trẻ em bị suy dinh dưỡng sống ở châu Á và dù tính theo chỉ tiêu

cân nặng theo tuổi hoặc cân nặng theo chiều cao thì một nửa số trẻ em suy

dinh dưỡng trên thế giới sống ở 8 nước Nam Á [73], [132], [157].

9

Bảng 1.1. Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi các

khu vực của các nước đang phát triển từ 1975-2010 [200].

Khu vực Năm 1975 Năm 1990 Năm 1995 Năm 2010

% Triệu % Triệu % Triệu % Triệu

Châu Phi 30,4 22,9 27,3 31,6 27,0 34,8 28,5 24,8

Châu Mỹ la tinh 15,6 7,5 11,5 6,4 10,8 6,0 8,0 5,4

Châu Á 47,8 164,6 154,6 40,0 158,6 24,0 88,3 41,3

Các nước chậm 42,6 195,6 34,6 199,8 33,6 105,9 35,8 193,4

phát triển

Tòan thế giới 34,6 198,6 - - 26,0 167,0 31,3 195,8

Mức giảm trong 5 năm về tỷ lệ SDD protein-năng % giảm trong 5

lượng ở các nước đang phát triển năm tới để đạt

mục tiêu

1975- 1980- 1985- 1990- 1995- 2010-2015

Giai đoạn 1980 1985 1990 1995 2010

Mức giảm (%) 5,2 6,2 5,5 3,4 3,2 4,3

1.3. Xu hướng của thực trạng SDD trẻ em ở Việt Nam.

Tỷ lệ SDD trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi qua các cuộc điều tra quốc gia

cho thấy [35], [42]:

10

Bảng 1.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam qua các

cuộc điều tra quốc gia [35], [42]

Thời gian SDD CN/T (%) SDD CC/T (%)

Thời kỳ 1981-1985 51,5 60,9

Năm 1994 44,9 46,9

Năm 2000 33,8 36,5

Năm 2010 17,5 29,3

Biểu đồ 1.2. Xu hướng thực trạng SDD của trẻ em ở Việt Nam

Qua các số liệu trên cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam

đang giảm đi.

Trong thời gian gần đây, cùng với những thành tựu bước đầu của một

nền kinh tế đang trên đà đổi mới và những nỗ lực của các chương trình dinh

dưỡng và sức khỏe, nhiều nghiên cứu cắt ngang tại các thời điểm khác nhau

11

cho thấy mức giảm khá nhanh về tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt các

vùng thành phố và đồng bằng. Tuy vậy, suy dinh dưỡng protein - năng lượng

ở trẻ em vẫn còn là một thách thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và

phát triển ở nước ta. Từ sau năm 1990, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta

đã giảm đi rõ rệt, tốc độ giảm nhanh đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay,

suy dinh dưỡng vẫn còn cao, đặc biệt là tỷ lệ thấp còi và sự chênh lệch về tỷ

lệ suy dinh dưỡng theo địa lý là rất đáng kể [39]. Bên cạnh đó, thiếu vitamin

A tiền lâm sàng, thiếu máu do thiếu sắt vẫn còn là thách thức dinh dưỡng lớn,

nhất là ở các vùng nghèo, vùng khó khăn [43], [44].

1.4. Nguyên nhân của suy dinh dưỡng trẻ em

Suy dinh dưỡng protein - năng lượng (PEM) là kết quả của một quá

trình thiếu hụt dinh dưỡng trong một thời gian dài dẫn đến thiếu hụt tổng

lượng calo kèm theo thiếu hụt protein [48], [49], [62], nhất là thiếu hụt các

axit amin thiết yếu. Quá trình đó vừa tác động đến sự tăng trưởng thể lực của

trẻ, vừa ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện các chức phận cấu tạo tế bào, mô

cũng như chức năng sinh lý khác của trẻ.

1.4.1. Suy dinh dưỡng protein năng lượng

Suy dinh dưỡng do thiếu protein năng lượng được coi là vấn đề dinh

dưỡng chủ yếu của các nước đang phát triển như châu Phi, châu Á, Nam Mỹ,

khu vực Trung Đông [95]. Trong đó, các nước thuộc châu Phi có tỷ lệ suy

dinh dưỡng cao nhất. Đó là những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến

tranh và thiên tai kéo dài, sản xuất đình trệ, nhất là sản xuất nông nghiệp kém

phát triển. Trình độ dân trí thấp và sinh đẻ thiếu kế hoạch là những nguyên

nhân tiềm tàng dẫn đến tỷ lệ suy dinh dưỡng protein năng lượng cao. Bảng

1.1 ở trên đã cho hình ảnh tổng quát về tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng trẻ em theo

chỉ tiêu cân nặng theo tuổi theo khu vực được UNICEF và WHO thống kê

đến hết năm 2010.

12

1.4.2. Khẩu phần và chất lượng bữa ăn không đảm bảo

Đặc điểm sinh lý học và nhu cầu năng lượng của trẻ em trong độ tuổi

ăn bổ sung.

Lứa tuổi ăn bổ sung (hay còn gọi là ăn sam, ăn dặm...) là một giai đoạn

phát triển rất quan trọng của cơ thể. Về hình thức đây là giai đoạn chuyển tiếp

từ bú mẹ hoàn toàn đến cai sữa. Về mặt sinh lý học, lứa tuổi này đảm đương

những chức năng phát triển hệ thống căn bản như hệ miễn dịch, hệ thần kinh

[21]. Các cơ quan và tổ chức mô, não bộ, bộ xương, trí tuệ và thể lực, chức

năng sinh lý… ở trẻ em được hình thành chủ yếu trong thời gian đến 3 tuối

(Marberly G) [78]. Giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng ở lứa tuối này sẽ làm cho

trẻ tiếp tục phát triển bình thường như thời kỳ còn bú mẹ, tạo đà cho cả quá

trình phát triển về sau, góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em nói chung.

Theo bảng Nhu cầu năng lượng của Viện Dinh dưỡng khuyến nghị cho

người Việt Nam, trong đó có nêu rõ khẩu phần cho trẻ em thì nhất thiết cần

chú ý tỷ lệ hợp lý (tính bằng %) Protit/ Lipid/ Gluxit bước đầu là 12/18/70,

tiến tới 14/20/66 [10] (Bảng 1.3).

Bảng 1.3. Giá trị năng lượng và nhu cầu Protein khuyến nghị cho trẻ em

dưới 10 tuổi [10]

Tuổi Nhu cầu năng lượng (Kcal) Nhu cầu Protein (g) *

Dưới 6 tháng 620 21

Từ 6-12 tháng 820 23

Từ 1-3 tuổi 1300 28

Từ 4-6 tuổi 1600 36

Từ 7-9 tuổi 1800 40

*. Trong đó Protein động vật phải chiếm từ 25-30%.

Đối với nhu cầu chất khoáng và vitamin, tài liệu cũng đã tính toán và

đưa ra mức nhu cầu khuyến nghị như sau (Bảng 1.4).

13

Bảng 1.4. Nhu cầu chất khoáng và vitamin khuyến nghị cho trẻ em [11]:

Vitamin (mcg)

Chất khoáng (mcg)

Tuổi Can-xi Fe A B1 B2 PP C

Dưới 6 tháng 300 10 325 0,3 0,3 5 30

Từ 6-12 tháng 500 11 350 0,4 0,5 5,4 30

Từ 1-3 tuổi 500 6 400 0,8 0,8 9 35

Do ở nước ta, trẻ em chưa có tập quán (hoặc điều kiện) ăn sữa và các

loại thức ăn nhân tạo dành cho trẻ nhỏ, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu dinh

dưỡng đối với trẻ ở lứa tuổi này, đặc biệt là trẻ ở nông thôn, chủ yếu là bột

gạo. Thực tế đó tạo nên mâu thuẫn lớn giữa nhu cầu và giải pháp, giữa một

bên là bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh với một bên là nguồn thực phẩm

không giàu năng lượng.

Có thể lấy lứa tuổi 6-12 tháng là những trẻ đã quen ăn bột, có nhu cầu

năng lượng 820 Kcal/ngày làm đại diện cho nhóm trẻ ăn bột. Đây cũng là

nhóm trẻ vẫn tiếp tục bú mẹ và bắt đầu ăn sam để tiến tới độc lập với sữa mẹ.

Thử tính phần ăn sam cung cấp tương ứng 1/2 hoặc 2/3 nhu cầu nói trên, với

giá trị năng lượng của bột gạo khoảng 350 Kcal/100g, thì mỗi ngày trẻ phải

tiêu thụ từ 120 đến 170 gam bột khô. Với những trẻ không bú sữa mẹ thì phải

ăn đến 240 gam bột khô mỗi ngày mới đủ nhu cầu năng lượng. Quả là một

khẩu phần quá lớn đối với một đứa trẻ còn nhỏ. Đây cũng chính là một

nguyên nhân quan trọng và phổ biến gây ra tỷ lệ suy dinh dưỡng protein -

năng lượng cao ở lứa tuổi này.

Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, hệ thống

nhà trẻ hoàn chỉnh ở giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng

xã hội chủ nghĩa thì không còn khó khăn cho hoạt động truyền thông giáo dục

dinh dưỡng, nhu cầu thức ăn chế biến sẵn càng trở nên bức xúc.

14

Việc giải đáp nhu cầu đó đòi hỏi những giải pháp cụ thể và phù hợp với

điều kiện kinh tế xã hội của từng đối tượng trong đó trẻ em nông thôn là một

đối tượng phổ biến.

Giải quyết nhu cầu năng lượng cho đối tượng này còn phải tính đến

tiềm năng sẵn có trên địa bàn và khả năng kinh tế của từng hộ gia đình, đó là

khả năng tự cung tự cấp từ mô hình VAC, mức thu nhập thấp của một bộ

phận quan trọng các gia đình nông thôn thuộc nhóm hộ đói nghèo (chiếm tỷ lệ

khoảng trên 30%).

1.4.3. An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo

An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo là yếu tố quan trọng

dẫn đến thiếu lương thực về số lượng và chất lượng - bao gồm thiếu năng

lượng, protein và vi chất dinh dưỡng [117], [94], [47].

Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo đói ở các vùng sâu, vùng xa và vùng khó khăn

còn cao. Đó chính là nguyên nhân tiềm tàng đe dọa tình trạng thiếu dinh

dưỡng cá thể. Ngoài ra mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố phụ thuộc vào khả

năng tiếp cận thực phẩm ở từng hộ gia đình mà cụ thể là phụ thuộc rất nhiều

vào kiến thức dinh dưỡng của từng cá thể, từng gia đình và phong tục tập

quán kiêng khem của từng nhóm dân tộc.

Nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng ngay ở khu vực đồng bằng Bắc bộ và

Trung du cho thấy chưa xác lập được an ninh lương thực hộ gia đình. Tình

trạng thiếu ăn ở một số địa phương còn phổ biến: Vào lúc giáp hạt, năm 1996

có 97,2% số hộ gia đình ở tỉnh Quảng Bình thiếu ăn với số tháng thiếu ăn cao

nhất là 8 tháng/năm [17]. Tổng Điều tra Dinh dưỡng toàn quốc năm 2010 gần

đây cũng cho thấy vẫn còn từ 10-25% số hộ thiếu đói lương thực vào thời

điểm giáp hạt [26], [28].

Tình trạng mất an ninh thực phẩm theo mùa là một vấn đề rất đáng

quan tâm. Đây vẫn còn là một tồn tại khá phổ biến; ở những hộ nghèo, có

15

33% gia đình thiếu ăn trước thời vụ và 19% gia đình trong tình trạng thiếu ăn

sau thu hoạch [28].

1.4.4. Thực hành dinh dưỡng kém

Thực hành dinh dưỡng kém liên quan đến sự mất cân đối trong bữa ăn

và sự lựa chọn ưu tiên hợp lý cho đối tượng là trẻ em và người mẹ mang thai

[69], [80]. Ngay cả khi một hộ gia đình đảm bảo được an ninh lương thực vẫn

có thể thiếu lương thực thực phẩm đối với cá thể, nhất là các cá thể có nguy

cơ cao như trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ mang thai… mà nguyên nhân chủ yếu

là do thực hành dinh dưỡng. Hai yếu tố nhạy cảm nhất trong thực hành dinh

dưỡng ở trẻ em là sữa mẹ và chế độ ăn bổ sung.

a) Vấn đề sữa mẹ:

Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên của trẻ em. Ngoài việc cung cấp chất

dinh dưỡng hợp lý về số lượng, sữa mẹ được đảm bảo sự cân đối lý tưởng

giữa các chất dinh dưỡng và là nguồn cung cấp các chất globulin miễn dịch từ

thức ăn duy nhất của đứa trẻ (Hanson, Lars A.et.al) [64]. Hàm lượng và tỷ lệ

các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ của phụ nữ Việt Nam tương đương với các

nước khác (Bùi Thị Nhu Thuận, [38]). Tuy nhiên, phần lớn trẻ em, đặc biệt là

ở các nước kém phát triển và đang phát triển, thời gian bú sữa mẹ chưa được

đảm bảo, nhất là thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn (De Zoysa, I., M.Rea and

J.Martines, 1991)[54].

16

Bảng 1.5. Tình hình bú sữa mẹ ở các khu vực trên thế giới và Việt Nam

(Viện Dinh dưỡng) [93]

Năm Tỷ lệ nuôi con Tỷ lệ nuôi con

bằng sữa mẹ bằng sữa mẹ hoàn

toàn 6 tháng đầu

2009 87,3% 22,4% Chung các nước

đang phát triển –

Trong đó:

2009 89,7% Châu Á 29,6 %

2009 96,2 % Châu Phi 32,7%

Khu vực cận Sahara 2009 27,3%

–châu Phi

Khu vực Nam Á 2009 87,4 % 22,1%

Một số quốc gia:

81,5 % 2009 Brunei 28,1%

88,7 % 2008 Indonesia 17,8 %

96,8 % 2009 Nhật Bản 46,7 %

92 % 2005 Singapore 49,6%

93,5% 2009 19,6 % Việt Nam

(Số liệu giám sát

dinh dưỡng của

Viện Dinh dưỡng -

Bộ Y tế)

Rõ ràng tình hình nuôi con bằng sữa mẹ là vấn đề đang quan tâm vì có

ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, trong khi tỷ lệ nuôi con

bằng sữa mẹ hoàn toàn ở nước ta vẫn còn quá thấp.

17

b) Vấn đề số bữa ăn và chất lượng ăn bổ sung:

Chất lượng chế độ ăn bổ sung liên quan đến số bữa ăn và dạng thức ăn

được sử dụng. Các dạng thức ăn phổ biến ở nông thôn hiện nay là bột gạo,

cháo, cơm nhai.

+ Về số lượng bữa ăn, chế độ chăm sóc ưu tiên không được chú trọng dẫn

đến số bữa ăn không đảm bảo và không đúng bữa đang còn tồn tại phổ

biến. Hiện nay ở nông thôn, hệ thống nhà trẻ không còn nên việc chăm

sóc trẻ được ủy thác cho người già hoặc trẻ vị thành niên. Những người

này hầu như hoàn toàn không có kiến thức dinh dưỡng. Chính vì với

chế độ chăm sóc như vậy nên dạng thức ăn được sử dụng cũng rất tùy

tiện. Có một bộ phận lớn (45%) trẻ dưới 8 tháng tuổi được cho ăn bằng

cháo nấu một lần ăn cả ngày. Đây là dạng thức ăn rất nghèo năng lượng

nhưng lại rất phổ biến ở nông thôn [34]. Nghiên cứu tại tỉnh Bắc Giang

của Viện Dinh dưỡng cho thấy chỉ có 52% trẻ được ăn bột gạo, còn lại

là ăn cháo hoặc cơm nhai [39].

+ Về chất lượng bữa ăn, tập quán nuôi dạy trẻ tùy tiện vẫn còn tồn tại khá

phổ biến ở nhiều vùng miền và có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ suy

dinh dưỡng chung trong cộng đồng. Ngày nay, trình độ dân trí đã thay

đổi đáng kể so với những thập niên trước, nhiều tập quán xấu đã được

loại trừ nhưng vấn đề cân đối bữa ăn cũng đang là tồn tại khá phổ biến.

+ Tần suất sử dụng thức ăn giầu năng lượng và giữ vai trò sinh học quan

trọng không cao; Số liệu giám sát tại tỉnh Bắc Giang của Viện Dinh

dưỡng cho thấy có 28,6% không sử dụng protein động vật; 24,2%

không sử dụng dầu mỡ; 22,5% không sử dụng rau xanh [24], [37].

+ Tập quán ăn kiêng, nguyên nhân đầu tiên là các bà mẹ không dám cho

trẻ nhỏ ăn thêm dầu mỡ, rau xanh vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, bà mẹ

không có thời gian để chế biến cẩn thận từng bữa ăn cho trẻ. Nguyên

18

nhân thứ ba là do nghèo đói, không có tiền để mua thực phẩm thường

xuyên cho trẻ.

1.4.5. Trình độ văn hóa thấp và thiếu kiến thức dinh dưỡng gây ảnh hưởng

quan trọng đến chất lượng nuôi trẻ

Nhiều tập quán ăn uống không có lợi như ăn kiêng (kiêng dầu mỡ, cá,

rau xanh…) còn duy trì; không biết tận dụng nguồn thức ăn giầu dinh dưỡng

sẵn có như đậu, vừng, lạc…bán trứng gà, hoa quả để mua thực phẩm chế biến

sẵn; không cho ăn đủ bữa, không thực hành bữa ăn cân đối…

1.4.6. Thiếu vitamin và khoáng chất

Bên cạnh suy dinh dưỡng do thiếu Protein và năng lượng, khoa học

ngày nay đã thừa nhận kết quả tăng trưởng nghèo nàn ở trẻ em còn có thể do

mất cân đối các yếu tố vi lượng (như sắt, kẽm, iod- Mendoza, 1996 [82]),

vitamin (như thiếu vitamin A) hoặc một số axit béo thiết yếu và một số loại

khoáng chất khác (UNICEF, 1998), [12], [78], [73], [62].

Vi chất dinh dưỡng cần thiết cho mọi lứa tuổi, song nó ảnh hưởng rõ rệt

trên những cơ thể đang phát triển nhanh như phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh và

trẻ còn bú. Hầu hết các vitamin (nhóm B, vitamin A, vitamin C...) được hấp

thu chủ yếu qua thức ăn. Chỉ có vitamin D được tổng hợp ở da dưới ánh nắng

mặt trời trực tiếp.

Từ nhiều năm trước đây, người ta đã nhận thấy vai trò của các vi chất

dinh dưỡng và càng ngày người ta lại càng tập trung nghiên cứu về mối liên

quan giữa thiếu vi chất dinh dưỡng đối với tình trạng suy dinh dưỡng. Do đó,

nhiều nghiên cứu tập trung vào việc xác định xem thiếu vi chất dinh dưỡng

loại nào cản trở quá trình phát triển và quan trọng hơn là cần xác định suy

dinh dưỡng xảy ra do thiếu một hay thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng xảy ra

đồng thời.

19

Theo Engle, mô hình nguyên nhân SDD của Quỹ nhi đồng Liên hợp

quốc (UNICEF) đã được phổ biến khá rộng rãi hoặc mô hình gần đây về

Chăm sóc Ban đầu - Care Initiative đều tập trung vào vai trò chăm sóc dinh

dưỡng sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Trong các mô hình trên người ta không rút ra

được các yếu tố nguyên nhân của tình trạng suy dinh dưỡng [63], [64].

1.4.7. Vai trò của bệnh tật

Bệnh tật được coi là một trong hai nguyên nhân trực tiếp gây suy dinh

dưỡng ở trẻ em. Năm 1995, ở các nước đang phát triển có 55% trẻ em tử vong

do các bệnh nhiễm trùng có liên quan đến suy dinh dưỡng, dẫn đầu là bệnh

nhiểm khuẩn hô hấp cấp tính - ARI (19%), tiêu chảy (19%), sởi (7%)

(C.Murray,1996) [83], [55] (UNICEF, 1995).

1.4.8. Dịch vụ y tế, nước sạch và vệ sinh môi trường liên quan đến bệnh tật.

Một yếu tố quan trọng của nền y tế tốt là dịch vụ y tế phải đa dạng và

chất lượng tốt. Các điểm cung cấp dịch vụ phải gần với khu dân cư. Theo

đánh giá của UNDP, có tới 30-50% dân cư ở 35 quốc gia nghèo nhất không

được cung cấp dịch vụ y tế. Nước sạch và vệ sinh môi trường là những yếu tố

liên quan đến các bệnh truyền nhiễm (UNDP, 1997 [100]). Năm 2000, chỉ có

khoảng 3,2 tỷ người được cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. Ở nông

thôn, chỉ có khoảng 18% dân cư được cung cấp nước sạch [101].

Từ năm 1990, Chiến lược dinh dưỡng của UNICEF đã phát triển quan

niệm về cấu trúc của nguyên nhân gây rối loạn dinh dưỡng theo những

nguyên lý trên. Sự phân tích đó đã được ứng dụng ở mức độ quốc gia, vùng

và phân vùng để trợ giúp cho các kế hoạch hành động cải thiện dinh dưỡng

đạt hiệu quả. Nó phục vụ cho việc lượng giá và phân tích những nguyên nhân

của vấn đề dinh dưỡng và hỗ trợ lựa chọn những vấn đề thích đáng nhất các

hoạt động phòng, chống suy dinh dưỡng.

Tình trạng dinh dưỡng trẻ em

Khẩu phần của trẻ em

Tình trạng sức khỏe của trẻ em

Nguyên nhân trực tiếp

An ninh LTTP hộ gia đình

Chăm sóc bà mẹ và trẻ em

Môi trường sức khỏe &và dịch vụ y tế

Nguồn lực cho chăm sóc

Nguồn lực cho sức khỏe

- Cung cấp nước

Nguồn lực cho an ninh lương thực thực phẩm - Sản xuất lương

sạch

- Kiểm soát nguồn lực và tự quyết của người chăm sóc trẻ

thực, thực phẩm

- Vệ sinh đầy đủ - Có chăm sóc y

tế - An

toàn môi

trường

- Tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của người chăm sóc trẻ

- Thu nhập - Quà

- Kiến thức và niềm tin của người chăm sóc

20

Cấu trúc chính trị-xã hội và kinh tế

Môi trường văn hoá - xã hội

Nguyên nhân cơ bản

Các nguồn tiềm năng: môi trường, công nghệ, con người

Nguồn: IFPRI: Overcoming Child Malnutrition in Developing Countries: Past achievements and future choices; 2/2000, trang 5

Đ Ó I N G H È O N G U Y Ê N N H Â N T I Ề M T À N G

Mô hHình 1.23. Mô hình nguyên nhân SDD của UNICEF

21

Đối với nước ta, mức giảm SDD không đồng đều giữa các vùng. Các

vùng tập trung dân cư đông hiện nay tỷ lệ SDD còn cao: Đồng bằng sông

Hồng 14,6%; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 19,8%; Đồng bằng sông

Cửu long 16,8% (Nguồn: Viện Dinh dưỡng - Tình hình dinh dưỡng Việt Nam

năm 2009-2010, tháng 4/2011). Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc thực hiện có

hiệu quả các hoạt động chăm sóc trẻ em và bà mẹ không đồng đều và khó có

thể có những tiến bộ nhanh trong một thời gian ngắn. Bên cạnh đó, những

thách thức không nhỏ về tăng trưởng kinh tế trong 5 năm tới đã và đang đặt ra

đồng thời khả năng có thể có những diễn biến bất lợi về thời tiết, thiên tai.

Tóm lại: Nghèo đói chính là nguyên nhân cơ bản của suy dinh dưỡng

và mối quan hệ giữa nghèo đói và suy dinh dưỡng giống như một vòng tròn

luẩn quẩn. Tình trạng dinh dưỡng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các

cơ hội tìm kiếm thu nhập. Bên cạnh nghèo đói, các yếu tố khác cũng quan

trọng. Những yếu tố này bao gồm chế độ ăn không cân đối, khẩu phần ăn

thiếu về số lượng và mất cân đối về chất lượng, thực hành chế biến thực phẩm

kém, mất an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, không có hoặc thiếu khả năng

tiếp cận nước sạch, điều kiện vệ sinh kém và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ

không đầy đủ. Suy dinh dưỡng trẻ em còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố

quan trọng khác, đặc biệt là những yếu tố liên quan đến việc sử dụng nguồn

lực trong hộ gia đình như thời gian và kiến thức của người chịu trách nhiệm

chính trong việc chăm sóc trẻ - thường là người mẹ.

1.4.9. Tình trạng nhiễm giun và tình trạng dinh dưỡng

Nhiễm ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun tóc, giun móc là

một vấn đề sức khỏe cộng đồng ở các nước đang phát triển do điều kiện vệ

sinh môi trường không đảm bảo. Nhiễm giun là nguyên nhân làm cho trẻ chán

ăn, giảm hấp thu các chất dinh dưỡng, thiếu máu, và gây ảnh hưởng đến tình

trạng dinh dưỡng của trẻ. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột với cường độ cao

22

và trong một thời gian dài có thể gây suy dinh dưỡng như thấp còi và nhẹ cân,

và ở những trường hợp nặng có thể gây tử vong (Stoltzfus, và CS, 1997;

Hadidjaja, và CS, 1998; World Bank, 2003).

Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng trẻ em bị nhiễm giun là một

trong các nguyên nhân gây suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống nhiễm giun

tốt sẽ góp phần phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong nhà trường cũng

như tại cộng đồng ngày một tốt hơn làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng đến năm

2020 còn dưới 12,5%, trong nhà trường giảm 2 đến 3% so với đầu năm.

a. Tình hình nhiễm giun trên thế giới:

Hiện nay bệnh giun vẫn còn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, nhất

là các nước ở các vùng nhiệt đới như Châu Phi, Châu Á và một số nước Châu

Âu. Ở Việt Nam, bệnh giun lưu hành khá cao.

Trên thế giới có khoảng 1,4 tỷ người đang bị nhiễm giun, trong đó trẻ

em dưới 5 tuổi là 69,5%, các nước phát triển tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ em dưới 5

tuổi là 10%, các nước đang phát triển có nơi lên đến 90%. Ở Châu Phi trẻ em

bị nhiễm giun 93,7%, Trung Quốc có số người bị nhiễm giun là 358 triệu trẻ

em dưới 5 tuổi chiếm tỷ lệ 37,8%, Ấn Độ với số người bị nhiễm giun là gần

319 triệu, trẻ em dưới 5 tuổi là 42,1% (theo Thống kê của Tổ chức Y tế thế

giới, 1995).

Nhiễm giun đường ruột rất phổ biến ở trẻ em tại các nước đang phát

triển, đặc biệt là các nước trong vùng nhiệt đới do khí hậu nóng ẩm, tập quán

ăn uống, vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường kém.

Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, điều kiện khí hậu, tập quán sinh

hoạt cũng như vệ sinh môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển và lây nhiễm

giun. Người dân chưa có thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh

chiếm tỉ lệ trên 82%, người dân còn dùng phân tươi để bón rau nên tỉ lệ nhiễm

giun ở trẻ em rất cao khoảng 80% (đặc biệt trẻ em vùng nông thôn). Tỉ lệ

23

nhiễm giun ở trẻ em khác nhau tuỳ từng vùng, từng khu vực, tuỳ theo điều

kiện phát triển kinh tế của xã hội. Ở các nước phát triển, tỉ lệ nhiễm giun ở trẻ

em dưới 5 tuổi là 10%, trong khi đó ở các nước đang phát triển thì tỷ lệ này có

nơi lên đến trên 90% .

b. Tình hình nhiễm giun ở Việt Nam

Theo số liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, trẻ em dưới 2 tuổi bị

nhiễm giun rất thấp 17,6%, trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tỉ lệ nhiễm giun đũa là

84,5%, giun kim 52,3%, giun móc 9,2%. Trong thực tế trẻ em tuổi mầm non

bị nhiễm giun sẽ biếng ăn, mất ngủ, thiếu máu, suy dinh dưỡng. Các nhà

nghiên cứu đã cho thấy các biến chứng của bệnh giun như sau: viêm hoại tử

ruột non, tiêu đàm máu, tiêu chảy cấp và mạn, xuất huyết tiêu hoá, giun chui

ống mật, nhiễm trùng đường tiểu…làm ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh

dưỡng trẻ em, sức khoẻ và sự phát triển về thể lực và phát triển trí tuệ của trẻ.

Theo số liệu điều tra gần đây của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn

trùng Trung ương, bệnh giun truyền qua đất ở nước ta vẫn còn khá phổ biến.

Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 33,9 triệu người (chiếm khoảng 44,4%); giun tóc là

17,6 triệu người (chiếm khoảng 23,1%) và 21,8 triệu người nhiễm giun móc

(28,6%).

Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất phân bố rộng rãi trên cả nước, với các

tỷ lệ nhiễm khác nhau. Ở miền Bắc, nhiễm giun đũa từ 50-95%, giun tóc là

28-89%, giun móc từ 3-67%; Ở miền Trung tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc,

giun móc tương ứng là 12,5-70,5%, 12,7-47% và 36,7-69%; nhưng ở miền

Nam tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc tương ứng là 10-60%, 0,5-1,7%

và 47-68%.

Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm giun ở học sinh tiểu học đã giảm nhưng tỷ lệ

tái nhiễm tương đối cao. Chẳng hạn, tại tỉnh Thừa Thiên Huế, tỷ lệ nhiễm

24

giun trước khi can thiệp là 70%, sau can thiệp 2 tuần là hơn 24% và sau 6

tháng thì đã gần như trở lại với tỷ lệ ban đầu.

Tỷ lệ nhiễm giun tại các tỉnh như Yên Bái, Sơn La, Thanh Hóa…đều

ở mức trên 50%. Tại Hà Nội, tỷ lệ này cũng lên đến gần 20%.

c. Mối liên quan giữa nhiễm giun và tình trạng thiếu máu

Trẻ em dưới 60 tháng tuổi bị thiếu máu có nhiều nguyên nhân, trong

đó nhiễm giun đường ruột là một nguyên nhân cần được quan tâm. Nhiễm

giun gây nên chán ăn, hấp thu kém, tiêu hóa kém, viêm mạn tính ống tiêu hóa,

cạnh tranh sử dụng và làm tăng mất các chất dinh dưỡng: protein, lipid,

vitamin A... Lâu dài, giun làm thiếu máu. Thiếu máu nặng sẽ ảnh hưởng đến

quá trình phát triển cả về thể chất và sự phát triển tinh thần của trẻ [24], [37].

Với phụ nữ trưởng thành và phụ nữ ở độ tuổi sinh sản, nhiễm giun ảnh

hưởng tới thời kỳ mang thai, gây thiếu máu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe

của con cái họ, có thể gây đẻ non, trẻ thiếu cân, tử vong mẹ và tử vong sơ

sinh. Trẻ bị nhiễm giun sẽ bị rối loạn tiêu hóa, cản trở quá trình hấp thu chất

dinh dưỡng. Lâu ngày có thể khiến trẻ bị thiếu máu, sức đề kháng kém, dễ

mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

Thiếu máu là một trong những vấn đề mang ý nghĩa sức khỏe cộng

đồng phổ biến nhất ở các nước đang phát triển. Các đối tượng có nguy cơ bị

thiếu máu cao nhất là trẻ em và phụ nữ có thai. Thiếu máu gây ảnh hưởng đến

sự phát triển trí tuệ, sự tăng trưởng, nó làm giảm khả năng họat động thể lực

và tăng nguy cơ mắc bệnh (Nestel và Davidsson, 2002). Thiếu máu có thể do

nguyên nhân như: thiếu dinh dưỡng, mắc các bệnh nhiễm trùng và do mất

máu. Thiếu sắt là nguyên nhân chính của gần 50% các trường hợp thiếu máu

(Staubli, và CS, 2001). Thiếu một số các vi chất dinh dưỡng khác như vitamin

A, một số vitamin nhóm B (B6, B12, riboflavin, và acid folic) cũng có thể gây

thiếu máu (Allen, 2002). Nguy cơ thiếu máu cũng tăng ở những đối tượng

25

mắc các bệnh ký sinh trùng như sốt rét, ký sinh trùng đường ruột (Brooker, và

CS, 1999).

Nhiễm giun là nguyên nhân quan trọng gây thiếu máu (Stoltzfus, và

CS, 1997). Nhiễm ký sinh trùng đường ruột là bệnh thường gặp ở trẻ em tại

các nước đang phát triển. Một nghiên cứu triển vọng trên trẻ em ở Bangladesh

cho thấy tiêu chảy ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao và tăng cân, mặc dù

nhiễm khuẩn hô hấp không gây ảnh hưởng tương tự (Torres AM, và CS,

2000).

1.5. Các số đo nhân trắc trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng

Nhân trắc học dinh dưỡng là đo các kích thước và cấu trúc cơ thể để

đánh giá tình trạng dinh dưỡng (TTDD). Phương pháp nhân trắc học có

những ưu điểm là đơn giản, an toàn và có thể điều tra trên một mẫu lớn. Trang

thiết bị không đắt, dễ vận chuyển. Có thể khai thác đánh giá được các dấu

hiệu về TTDD trong quá khứ và xác định được mức độ suy dinh dưỡng. Tuy

nhiên phương pháp nhân trắc học cũng có một nhược điểm như: không đánh

giá được sự thay đổi về TTDD trong giai đoạn ngắn hoặc không nhạy để xác

định các thiếu hụt dinh dưỡng đặc hiệu.

Quá trình phát triển là kết quả tổng hợp của các yếu tố di truyền và môi

trường bên ngoài, trong đó yếu tố dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng. Nhiều

nghiên cứu gần đây cho thấy dinh dưỡng hầu như giữ vai trò chi phối chính

trong sự phát triển của trẻ em, ít nhất đến 5 tuổi. Vì vậy, thu thập các kích

thước nhân trắc là rất quan trọng trong các cuộc điều tra dinh dưỡng. Có thể

chia ra nhóm kích thước nhân trắc sau đây:

a) Khối lượng cơ thể, biểu hiện bằng cân nặng.

b) Các kích thước về độ dài, đặc hiệu là chiều dài nằm, chiều cao đứng.

c) Cấu trúc cơ thể và các dự trữ về năng lượng và protein, thông qua

các mô mềm bề mặt: Lớp mỡ dưới da và cơ...

26

Một số kích thước sau đây thường được dùng trong các cuộc điều tra dinh

dưỡng tại cộng đồng hiện nay:

Tuổi Kích thước

Từ 0 đến 1 tuổi Cân nặng

Chiều dài nằm

Từ 1 đến dưới 5 tuổi Cân nặng

Chiều dài nằm (dưới 24 tháng)

Chiều cao đứng (từ 24 tháng trở lên)

Đo bề dày nếp gấp da

Vòng cánh tay

1.5.1. Các số đo nhân trắc

a) Cân nặng: là số đo thường dùng nhất. Cân phải được đặt ở vị trí ổn định

và bằng phẳng, chỉnh cân về vị trí cân bằng ở số 0. Hàng ngày phải kiểm tra

cân 2 lần bằng cách dùng quả cân chuẩn (hoặc vật tương đương, ví dụ một

can nước 5 kg) để kiểm soát độ chính xác và độ nhạy của cân. Kiểm tra thăng

bằng của cân.

Nên cân vào buổi sáng, khi đối tượng mới ngủ dậy, sau khi đã đi đại,

tiểu tiện và chưa ăn uống gì. Hoặc cân vào những giờ thống nhất trong những

điều kiện tương tự (trước bữa ăn, trước giờ lao động). Với người lớn: nam

giới khi cân chỉ mặc quần đùi, cởi trần, không đi giày dép, nữ giới mặc quần

áo gọn nhất và phải trừ bớt cân nặng trung bình của quần áo khi tính kết quả.

Với trẻ em: mặc quần áo tối thiểu, mùa đông thì cởi áo khoác, áo len và trừ

cân nặng của quần áo. Trường hợp trẻ quấy khóc, khó thực hiện thì có thể

cân mẹ của trẻ rồi cân mẹ bế cả con, sau đó trừ ngay để lấy cân nặng thực

tế của trẻ.

27

Đối tượng đứng giữa bàn cân, không cử động, mắt nhìn thẳng, trọng

lượng dồn đều vào hai chân. Kết quả cân được ghi theo đơn vị kilogam (kg)

với 1 số lẻ (0,0 kg) hoặc 2 số lẻ (0,00 kg) tùy theo loại cân có độ nhạy 10g

hoặc 100g.

b) Chiều cao

Đo chiều dài nằm: là kỹ thuật được thực hiện khi trẻ dưới 24 tháng

tuổi. Để thước nằm trên mặt phẳng nằm ngang. Đặt trẻ nằm ngửa, người phụ

đo giữ đầu trẻ, để mắt trẻ nhìn thẳng lên trần nhà. Mảnh gỗ chỉ số 0 của thước

áp sát đỉnh đầu. Người đo ấn thẳng đầu gối và đưa mảnh gỗ di động áp sát

gót, khi gót chân sát mặt phẳng nằm ngang và bàn chân thẳng đứng thì đọc

kết quả. Kết quả được ghi theo đơn vị cm với 1 số lẻ (0,0cm).

Đo chiều cao đứng: đối với trẻ từ 24 tháng tuổi trở lên và người lớn.

Đối tượng bỏ guốc dép, đi chân không, đứng quay lưng vào thước đo. Lưu ý

cố định thước đo theo chiều thẳng đứng. Gót chân, mông, vai và đầu theo một

đường thẳng áp sát vào thước đo đứng, mắt nhìn thẳng ra phía trước theo

đường thẳng nằm ngang, hai tay bỏ thõng theo hai bên mình. Dùng ê-ke hoặc

mảnh gỗ có góc vuông áp sát một cạnh vào đỉnh đầu đối tượng và một cạnh

vào thước đo. Kết quả được ghi theo đơn vị xen-ti-met (cm) với 1 số lẻ

(0,0cm).

c) Đo chu vi vòng cánh tay (MUAC):

Sự phát triển kém hoặc suy mòn các cơ là những biểu hiện chính của

suy dinh dưỡng thiếu protein - năng lượng, nhất là trẻ bé. Ở người lớn và

người trưởng thành, khối lượng cơ lại tỷ lệ với sự tăng vận động của một

nhóm cơ nào đó. Trong thực hành dinh dưỡng, đánh giá khối lượng cơ thường

được thông qua vòng đo trực tiếp các chi.

Vòng đo thường dùng nhất là vòng đo cánh tay trái, tư thế bỏ thõng tự

nhiên. Dùng thước mềm, không chun giãn với độ chính xác 0,1cm. Vòng đo

28

đi qua điểm giữa cánh tay tính từ mỏm cùng xương vai đến mỏm trên lồi cầu

xương cánh tay. Xác định điểm giữa cánh tay, trước hết cần xác định mỏm

cùng vai, sau đó gập khủyu tay vuông góc, xác định mỏm trên lồi cầu xương

cánh tay. Đặt vị trí số 0 của thước đo vào mỏm cùng xương vai, kéo thẳng

thước đo đến mỏm trên lồi cầu xương cánh tay, đánh dấu điểm giữa cánh tay.

Duỗi thẳng cánh tay của đối tượng, vòng thước đo quanh điểm giữa cánh tay,

mặt số của thước đo hướng lên trên, áp sát thước đo vào cánh tay của đối

tượng, đảm bảo sao cho thước đo có độ căng vừa phải không quá chặt, hoặc

quá lỏng, đọc kết quả chính xác đến 0,1cm.

d) Nếp gấp da (Bề dày lớp mỡ dưới da):

Người ta thường chọn nơi đo ở những chỗ có nhiều mỡ nhất như mặt

sau cánh tay, mạng sườn trên mào chậu, góc dưới xương vai, cạnh rốn… Chỗ

đo hay dùng nhất ở mặt sau cánh tay hay còn gọi là nếp gấp da trên cơ tam

đầu: đo ở tay trái, tư thế thõng tự nhiên, véo da ở mặt điểm giữa sau cánh tay

cho sát tới lớp cân cơ nông và dùng compa đặc hiệu đo ở bề dày của lớp da

véo lên. Như vậy, kết quả đo được bằng hai lần bề dày lớp da và lớp mỡ dưới

da vùng đó. Kết quả được đọc với đơn vị mi-li-met (mm). Khi đo, bề mặt của

compa song song với trục cánh tay.

Khi đo nếp gấp da dưới xương vai, người kỹ thuật viên cần lần theo cột

sống để xác định bờ xương vai và góc dưới. Ở người béo, nên quặt tay nhẹ ra

phía sau sẽ xác định dễ dàng hơn.

Loại compa hay sử dụng nhất là loại compa Harpenden, hai đầu compa là hai mặt phẳng, tiết diện 1cm2. Có một áp lực kế gắn vào compa, đảm bảo

khi compa kẹp vào da bao giờ cũng có một áp lực không đổi khoảng 10 – 20g/mm2.

e) Vòng bụng, vòng thắt lưng, vòng mông:

29

Đối tượng đứng thẳng, tư thế thoải mái, tay buông thõng, thở bình

thường, đo lúc đói. Vòng bụng thường đo qua rốn, thước đo ở trên mặt phẳng

ngang. Vòng thắt lưng là vòng bé nhất ở bụng đi qua điểm giữa bờ dưới

xương sườn và đỉnh mào chậu trên mặt phẳng nằm ngang. Vòng mông là

vòng lớn nhất đi qua mông. Đối tượng ở tư thế trên, mặc quần lót, vòng đo ở

mặt phẳng nằm ngang. Đo ở mức chính xác 0,1cm. Người ta tính tỷ số vòng

thắt lưng và vòng mông để đánh giá mức phân bố tổ chức mỡ dưới da và mỡ

trong ổ bụng, tỷ số này tăng theo tuổi và tình trạng thừa cân.

1.5.2. Nhận định kết quả

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em từ sơ sinh đến dưới 60 tháng

tuổi:

Hiện nay, người ta nhận định tình trạng dinh dưỡng trẻ em chủ yếu dựa

vào 3 chỉ tiêu: cân nặng/tuổi (CN/T), chiều cao/tuổi (CC/T), và cân

nặng/chiều cao (CN/CC).

Muốn nhận định các kết quả về nhân trắc, cần phải chọn một quần thể

tham chiếu (reference population) để so sánh. Không nên coi quần thể tham

chiếu là chuẩn (standard) nghĩa là mục tiêu mong muốn, mà chỉ là cơ sở đưa

ra các nhận định thuận tiện cho các so sánh trong nước và quốc tế. Do nhận

thấy ở trẻ em dưới 5 tuổi được nuôi dưỡng hợp lý và điều kiện sống hợp vệ

sinh thì khả năng lớn không khác nhau theo chủng tộc, Tổ chức Y tế thế giới

năm 1985 đã chọn Quần thể tham khảo NCHS của Hoa Kỳ làm quần thể tham

chiếu để so sánh đánh giá TTDD của trẻ em. Từ 1997, Tổ chức Y tế thế giới

(WHO) đã xây dựng một quần thể tham chiếu mới với các số liệu được tổng

hợp từ các châu lục khác nhau. Tiêu chuẩn mới này của WHO đã được áp

dụng ở Việt Nam từ năm 2006.

Người ta sử dụng các giới hạn ‘ngưỡng’ (cut - off point) theo các cách

như sau :

30

- Theo phân bố thống kê, thường lấy -2SD của số trung bình làm giới

hạn ngưỡng. Từ đó người ta tính được tỷ lệ ở dưới hoặc trên các ngưỡng đó.

- Theo độ lệch chuẩn (Zscore hay SDscore):

Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể

tham chiếu

Zscore hay SDscore =

Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu

Cách biểu hiện theo tỷ lệ % dưới giới hạn ngưỡng cho một kết luận

tổng quát nhưng để so sánh hiệu quả các can thiệp thì cách so sánh số trung

bình (± SD) hoặc số trung bình của Zscore tỏ ra thích hợp hơn.

- Theo Xentin : Nhiều khi người ta sắp xếp các kích thước nhân trắc

theo xentin so với quần thể tham chiếu. Ở mốc 3 xentin (nghĩa là có 3% số trẻ

dưới mốc này) gần tương đương với -2SD (chính xác là -1,881SD), nên dưới

mốc này có thể xếp vào loại thiếu dinh dưỡng. Thường các bảng xentin lấy

mốc 3 và 97 xentin để phân loại tình trạng dinh dưỡng.

Khi áp dụng các chỉ tiêu nhân trắc để nhận định tình trạng dinh dưỡng,

cần chú ý rằng chỉ tiêu thích hợp nhất để đánh giá tình trạng dinh dưỡng cấp

tính là cân nặng theo chiều cao, do đó nên sử dụng trong các đánh giá nhanh

sau thiên tai, các can thiệp ngắn hạn. Chiều cao theo tuổi lại là chỉ tiêu thích

hợp nhất để đánh giá tác động dài hạn, nghĩa là để theo dõi ảnh hưởng của các

thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội.

Chỉ tiêu cân nặng theo tuổi là một chỉ tiêu chung không mang giá trị

đặc hiệu như hai chỉ tiêu trên. Người ta không phủ nhận giá trị tương đối của

nó, nhưng trong các cuộc điều tra dinh dưỡng, việc thu thập cả cân nặng,

chiều cao và tuổi là cần thiết để tính ra các chỉ tiêu trên. Đồng thời, bên cạnh

tính các tỷ lệ dưới một ‘ngưỡng’ nào đó, nên tính số trung bình (hoặc trung

31

bình Zscore) cùng với độ lệch chuẩn để các nhận định được toàn diện hơn,

nhất là khi có ý định so sánh.

Cân nặng theo tuổi: đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất. Cân

nặng của trẻ được so sánh với cân nặng của trẻ cùng tuổi, cùng giới của chuẩn

WHO, lấy điểm ngưỡng dưới 2Zscores được coi là SDD thể thiếu cân. Cụ thể

thang phân loại TTDD như sau:

Từ dưới -2 Zscores đến -3 Zscores: Suy dinh dưỡng vừa (độ I)

Từ dưới -3 Zscores đến -4 Zscores: Suy dinh dưỡng nặng (độ II)

Từ dưới -4 Zscores: Suy dinh dưỡng rất nặng (độ III)

Từ -2 Zscores đến +2 Zscores: Bình thường

Trên +2 Zscores: Thừa cân. Đây là ngưỡng để sàng lọc. Còn để xác

định béo phì cần phải đo bề dày lớp mỡ dưới da và sử dụng chỉ

tiêu cân nặng theo chiều cao

Phân loại TTDD bằng chỉ tiêu cân nặng theo tuổi có nhược điểm là

không phân biệt được suy dinh dưỡng cấp hay mạn tính.

Chiều cao theo tuổi: Chiều cao của trẻ được so sánh với trẻ cùng tuổi,

cùng giới của chuẩn WHO. Thang phân loại như sau:

Từ -2 Zscores trở lên: Bình thường

Từ dưới -2 Zscores đến -3 Zscores: Suy dinh dưỡng độ I (thấp còi

độ I)

Dưới -3 Zscores: Suy dinh dưỡng độ II (thấp còi độ II)

Chỉ tiêu chiều cao/tuổi thấp (dưới -2Zscores) phản ánh tình trạng thiếu

dinh dưỡng kéo dài hoặc SDD trong quá khứ làm đứa trẻ bị SDD thể thấp còi

(thấp hơn so với chiều cao có thể đạt được của trẻ cùng tuổi cùng giới).

Cân nặng theo chiều cao: Cân nặng/chiều cao thấp so với điểm

ngưỡng là dưới -2 Zscores theo chuẩn WHO phản ánh SDD ở thời điểm hiện

32

tại, mới xảy ra làm đứa trẻ ngừng lên cân hay tụt cân bị SDD thể gầy còm

(SDD cấp tính). Các điểm ngưỡng giống 2 chỉ tiêu trên:

Từ -2 Zscores đến dưới +2 Zscores: Bình thường

Từ dưới -2 Zscores đến -3 Zscores: Suy dinh dưỡng cấp vừa (gầy

còm độ I)

Dưới -3 Zscores: Suy dinh dưỡng cấp nặng (gầy còm độ II)

Trên +2 Zscores là trẻ có biểu hiện thừa cân. Để chẩn đoán béo phì

ở nhóm tuổi này cần kết hợp với đo dự trữ mỡ.

Khi cả hai chỉ tiêu chiều cao/tuổi và cân nặng/chiều cao đều thấp hơn

điểm ngưỡng (-2 Zscores) đề nghị thì đứa trẻ đó bị SDD thể phối hợp (mạn

tính và cấp tính), vừa gầy còm vừa thấp còi.

MUAC: theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2006, chủ

yếu dùng để làm sàng lọc tìm SDD cấp tính trên cộng đồng vì phương pháp

đơn giản và có chung một điểm ngưỡng mà không phụ thuộc vào tuổi của trẻ.

Trẻ được coi là suy dinh dưỡng cấp tính nặng khi MUAC <11,5cm (tương

đương < -3 Zscores Cân nặng/chiều cao với quần thể tham khảo của WHO).

Trẻ được coi là suy dinh dưỡng cấp tính vừa khi MUAC ≥11,5cm - <12,5cm

(tương đương ≥-3 Zscores -< -2 Zscores cân nặng/chiều cao với chuẩn của

WHO).

1.6. Các can thiệp dinh dưỡng tại cộng đồng

1.6.1. Những nguyên tắc cơ bản của xây dựng chương trình can thiệp

dinh dưỡng cộng đồng

Hỗ trợ và khuyến khích tham gia của cộng đồng và xã hội

Cộng đồng tham gia tích cực vào chương trình can thiệp sẽ tăng cường

khả năng tự giải quyết vấn đề về dinh dưỡng và sức khoẻ khác còn tồn tại

trong cộng đồng. Quá trình đó còn đảm bảo cho chương trình áp dụng những

biện pháp, những kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của cộng đồng

33

và tạo điều kiện để người dân ở nhóm có nguy cơ tiếp cận được với dịch vụ

và hoạt động của chương trình can thiệp.

Lồng ghép chương trình can thiệp dinh dưỡng với phát triển cộng đồng

Đã có nhiều bằng chứng chỉ ra suy dinh dưỡng gây ra bởi nhiều nguyên

nhân và các nguyên nhân đó phối hợp với nhau như thiếu thực phẩm, thiếu

kiến thức chăm sóc dinh dưỡng và sức khoẻ, thiếu dịch vụ chăm sóc y tế, và

giáo dục, sản xuất nông nghiệp kém, vệ sinh môi trường, phụ nữ lao động

nặng và thu nhập thấp.

Chính vì vậy những chương trình can thiệp dinh dưỡng thành công cần

phải có sự tham gia của nhiều ngành. Các chương trình can thiệp dinh dưỡng

không chỉ tập trung vào giải quyết tình trạng thiếu dinh dưỡng ở phụ nữ mà

cùng với nó phải giải quyết cả lao động, việc làm và chăm sóc y tế cho đối

tượng này. Chính vì vậy những chương trình can thiệp theo hướng lồng ghép

ở nhiều nước đã có những thành công nhất định.

1.6.2. Các bước tiến hành xây dựng chương trình can thiệp dinh dưỡng

Xác định những vấn đề dinh dưỡng và những yếu tố liên quan

Cần mô tả được hoàn cảnh thực tế và các điều kiện và các yếu tố liên

quan với vấn đề dinh dưỡng. Phân tích từ những nguyên nhân trực tiếp của

vấn đề dinh dưỡng và sau đó lần lượt tới những nguyên nhân tiếp theo để xây

dựng mô hình nguyên nhân. Từ đó tìm ra mối tương tác giữa các yếu tố, tìm

ra những cụm nguyên nhân dẫn đến tình trạng các vấn đề dinh dưỡng ở cộng

đồng.

Xây dựng mục tiêu của chương trình can thiệp dinh dưỡng

Mục tiêu của chương trình dinh dưỡng là kết quả cần đạt được để cải

thiện vấn đề dinh dưỡng trong từng giai đoạn hoạt động. Dựa trên vấn đề còn

tồn tại và tình hình thực tế của địa phương, cũng như căn cứ vào những hiểu

34

biết về giá thành hiệu quả của các chương trình can thiệp... mà người lập kế

hoạch có thể đưa ra mục tiêu chương trình can thiệp.

Lựa chọn các can thiệp dinh dưỡng

Những vấn đề dinh dưỡng được xác định rõ ràng, những mục tiêu được

đưa ra chính xác và các biện pháp can thiệp được phân tích cân nhắc đầy đủ

để xây dựng chương trình can thiệp hiệu quả cao nhất.

Những quyết định cần cân nhắc những điểm sau:

- Xem xét những thay đổi nào có thể xảy ra khi tiến hành can thiệp.

- Lựa chọn những thay đổi.

- Những kết quả nào có thể đạt được trong thời gian trước mắt, thời gian trung

hạn và thời gian lâu dài.

Để lựa chọn biện pháp can thiệp thích hợp thì những tiêu chuẩn sau đây

cần được xem xét và cân nhắc:

Tính hợp lý: chúng ta cần cân nhắc biện pháp can thiệp đã hợp lý với

vấn đề dinh dưỡng của cộng đồng không, có thích hợp với mức độ của vấn

đề, với sự cấp bách của tình hình, có thích hợp với các điều kiện của cộng

đồng kể cả điều kiện quản lý chương trình, trình độ của người dân.

Tính đặc hiệu: can thiệp dinh dưỡng cần đặc hiệu. Đặc hiệu cho vấn đề

dinh dưỡng và đối tượng can thiệp nhằm đạt được kết quả cao nhất. Những

giải pháp can thiệp trực tiếp, ví dụ như bổ sung viên nang vitamin A, bổ sung

thực phẩm cho trẻ, hoặc các chương trình phòng chống bệnh tật thường là

những giải pháp đặc hiệu ảnh hưởng tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ, tuy

nhiên nếu chỉ triển khai đơn thuần chương trình bổ sung, tính duy trì và bền

vững có thể lại không cao. Những giải pháp can thiệp về kinh tế, môi trường,

văn hoá xã hội thường ít đặc hiệu hơn. Tuỳ từng trường hợp cụ thể của địa

phương, theo từng giai đoạn của can thiệp mà lựa chọn giải pháp thích hợp

nhất.

35

Tính khả thi: để có thể đảm bảo tính khả thi của chương trình can thiệp,

cần phân tích, đánh giá cụ thể tình hình thực tế về nguồn nhân lực, vật lực

cũng như điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán và địa lý của địa bàn định can

thiệp. Những giải pháp có tính khả thi cao sẽ được ưu tiên lựa chọn.

Dễ chọn đối tượng: một dự án can thiệp muốn thành công thì đối tượng

phải dễ tiếp cận về mặt địa lý, dễ chọn được đúng đối tượng và có khả năng

tiếp xúc được đối tượng.

Sự quan tâm, tham gia và chấp nhận của cộng đồng: để đảm bảo sự

thành công của chương trình can thiệp, vấn đề can thiệp cần phải được

cộng đồng quan tâm, cộng đồng tham gia trong khâu phân tích tình hình,

lựa chọn giải pháp can thiệp, triển khai, quản lý, theo dõi giám sát và đánh

giá hoạt động của chương trình can thiệp. Những giải pháp can thiệp được

cộng đồng chấp nhận thì có tính ưu tiên cao hơn.

Tính bền vững: tính bền vững phản ánh khả năng địa phương tự duy trì

hoạt động của chương trình khi dự án đã kết thúc, người dân tiếp tục tự giác

duy trì những hành vi có lợi cho sức khoẻ... Một chương trình có thể duy trì

được lâu dài thường chỉ khi năng lực của cán bộ địa phương tham gia chương

trình được nâng cao, cần có sự cam kết của địa phương và cần có sự tham gia

của người dân.

Dễ đánh giá: khi thực hiện chương trình can thiệp dinh dưỡng cần cân

nhắc cả điều kiện theo dõi, giám sát, đánh giá, đảm bảo chương trình thực

hiện đúng mục tiêu.

Giá thành: nếu các chương trình can thiệp có cùng hiệu lực, chương

trình nào có giá thành thấp hơn thì thường được ưu tiên hơn.

1.6.3. Các chương trình can thiệp dinh dưỡng

Những can thiệp về thực phẩm

36

Mục tiêu của chương trình can thiệp thực phẩm nhằm đảm bảo cho mọi

đối tượng có được chế độ dinh dưỡng đủ về số lượng và chất lượng, để người

dân có sức khoẻ tốt. Các chương trình can thiệp nhằm đảm bảo an ninh thực

phẩm với mong muốn đảm bảo cho mọi người dân có sẵn lương thực thực

phẩm ở mọi nơi và mọi thời điểm. Chính vì vậy mà những yếu tố ảnh hưởng

của thực phẩm liên quan với chính sách thực phẩm, đến tiêu thụ, sức mua của

người tiêu dùng.

Những can thiệp về dinh dưỡng

Bổ sung các chất dinh dưỡng

Các chất dinh dưỡng được sản xuất dưới dạng thuốc, sử dụng trong

các chương trình ngắn hạn, nhằm bổ sung cho những đối tượng có nguy cơ

bị thiếu hụt cao và thường ở những nơi mà tình trạng thiếu vi chất dinh

dưỡng ở tỷ lệ cao, có ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng. Biện pháp này nhằm cải

thiện nhanh tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở cộng đồng đối với những

nhóm đối tượng có nguy cơ được xác định rõ.

Những chương trình bổ sung các chất dinh dưỡng đã được thực hiện là

bổ sung viên nang vitamin A, viên nang iod, viên sắt, vitamin K... ở nước ta,

chương trình bổ sung viên nang vitamin A liều cao cho trẻ nhỏ, phụ nữ ngay

sau sinh, bổ sung viên sắt cho phụ nữ có thai đã thu được những thành công

khả quan.

Chương trình thức ăn bổ sung

Chương trình thức ăn bổ sung thường cung cấp hay hỗ trợ bữa ăn hoặc

thực phẩm với giá thấp hay miễn phí cho các nhóm đối tượng có nguy cơ cao

với các mục tiêu sau: Để cải thiện tốc độ phát triển, tình trạng dinh dưỡng và

sức khoẻ nói chung; Để tăng sức đề kháng với nhiễm trùng cho nhóm có nguy

cơ cao, đặc biệt là ở các hộ gia đình có thu nhập thấp.

37

Chương trình dinh dưỡng tập trung vào các đối tượng trẻ em trước tuổi

đến trường, phụ nữ có thai, bà mẹ cho con bú, những người có nguy cơ cao bị

thiếu dinh dưỡng. Các đối tượng này nhận thức ăn bổ sung trong giai đoạn

nhất định và giáo dục dinh dưỡng trong thời điểm đó đóng vai trò rất quan

trọng.

Chương trình thức ăn bổ sung thường được đưa vào bữa ăn trưa hay

bữa ăn giữa ca hay bữa ăn thường xuyên. Các chương trình này chú ý tới

những khu vực bị thiên tai, mất mùa và cả những khu vực công nghiệp mà

người công nhân ít việc hoặc thất nghiệp.

Thực phẩm sử dụng trong chương trình bổ sung dinh dưỡng có thể là

có nguồn gốc từ địa phương thường được cộng đồng chấp nhận và nguồn thực

phẩm tiếp tục được sử dụng ngay cả khi chương trình kết thúc hoặc mang từ

nơi khác đến hoặc các thực phẩm nhập khẩu có thể rất nhiều loại từ sữa gầy,

các loại bột mì, gạo, bột đậu... Điều thuận lợi là các thực phẩm nhập khẩu có

giá trị dinh dưỡng cao nhưng chương trình sẽ có thể tạo nên sự phụ thuộc của

cộng đồng vào nguồn thực phẩm không sẵn có và ảnh hưởng tới tính duy trì

bền vững của chương trình.

Chương trình thức ăn bổ sung thường được lồng ghép với những hoạt

động của trạm y tế, trường học, các tổ chức phụ nữ và luôn khuyến khích

tham gia của cha mẹ, các thành viên cộng đồng tham gia vào việc chuẩn bị

bữa ăn bổ sung cho trẻ. Nơi thực hiện đảm bảo yêu cầu chuẩn bị thức ăn sạch,

thuận tiện và tổ chức được việc giáo dục sức khoẻ.

Chương trình phục hồi dinh dưỡng

Chương trình phục hồi suy dinh dưỡng nhằm cải thiện tình trạng dinh

dưỡng của trẻ và cung cấp cho bà mẹ và những người nuôi dưỡng trẻ kiến

thức kỹ năng cần thiết để duy trì và cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ ở

hộ gia đình. Trước đây việc điều trị và phục hồi dinh dưỡng cho trẻ thường ở

38

bệnh viện, ngày nay việc đó chỉ thực hiện khi thấy thật cần thiết đối với trẻ

ốm nặng, còn phần lớn là ở hộ gia đình hiệu quả cao hơn để tránh lây nhiễm

chéo cho trẻ.

Tăng cường các chất dinh dưỡng vào thực phẩm

Tăng cường các chất vào thực phẩm là đưa thêm các chất dinh dưỡng,

nhằm duy trì hay cải thiện chất lượng thực phẩm. Tăng cường các chất dinh

dưỡng vào thực phẩm có một vị trí quan trọng trong chiến lược phòng chống

thiếu vi chất dinh dưỡng như thiếu iod, vitamin A, sắt... Biện pháp tăng cường

các chất dinh dưỡng có những ưu điểm về giá thành thấp và có sự tham gia

của người tiêu dùng trong quá trình theo dõi và kiểm soát.

Tăng cường các chất dinh dưỡng đã thành công như chương trình tăng

cường iod vào muối. Một số chương trình tăng cường vitamin A vào một số

thực phẩm như margarin, sữa, đường, mì chính cũng đã có những thử nghiệm

ở một số nước. Sắt cũng đã được tăng cường vào các loại bột, bánh qui và mì

sợi. Hiện nay đang có những nghiên cứu hiệu quả của việc tăng cường sắt vào

đường, nước chấm đã có những hiệu quả đáng khuyến khích.

Một số vitamin như thiamin, riboflavin, niacin được bổ sung vào bột,

một số chất dinh dưỡng khác như vitamin D, vitamin C, calci cũng thường

được đưa vào bột, các loại bánh hoặc dầu, nước quả tuy nhiên phần lớn các

biện pháp tăng cường các chất dinh dưỡng này dẫn đến giá thành sản phẩm

đắt hơn.

Các chương trình giáo dục dinh dưỡng

Giáo dục dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong tất cả các loại biện

pháp can thiệp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi ở bất kì

cộng đồng nào. Áp dụng các tiến bộ khoa học dinh dưỡng diễn ra hàng ngày

trong cuộc sống của người dân, nó liên quan đến điều kiện kinh tế, xã hội và

39

các giá trị văn hoá của thực phẩm, cũng như quan niệm của người dân về lựa

chọn thực phẩm để có sức khoẻ tốt.

Đối với giáo dục dinh dưỡng cộng đồng nhằm thay đổi các hành vi liên

quan đến dinh dưỡng, tạo lập hành vi mới, người cán bộ dinh dưỡng cần lưu ý

việc khuyến khích cộng đồng thay đổi các tập tục chưa hợp lý. Để làm được

điều đó phải chuyển tải những thông tin mới về dinh dưỡng, tạo ra được động

lực thúc đẩy cộng đồng thay đổi các tập quán dinh dưỡng chưa hợp lý. Quá

trình giáo dục tập trung vào bảo vệ và tạo nên tình trạng dinh dưỡng tốt hơn

và tập trung vào các hoạt động chăm sóc dinh dưỡng. Giáo dục dinh dưỡng là

quá trình liên tục theo chu kỳ vòng đời với việc bổ sung liên tục những hiểu

biết mới.

Lồng ghép can thiệp dinh dưỡng với các chương trình y tế

Các chương trình lồng ghép tập trung những cố gắng phối hợp những

chương trình can thiệp dinh dưỡng với các chương trình y tế, nước sạch, vệ

sinh môi trường và kế hoạch hoá gia đình.

Lồng ghép can thiệp dinh dưỡng với các chương trình y tế nhằm cung

cấp được dịch vụ chăm sóc sức khoẻ toàn diện có hiệu quả cao hơn. Lồng

ghép các hoạt động của các chương trình y tế với can thiệp dinh dưỡng là một

trong những nguyên lý của chăm sóc sức khoẻ ban đầu.

Phối hợp chương trình can thiệp dinh dưỡng với các hoạt động của các

chương trình phúc lợi khác sẽ làm tăng sức mạnh của chương trình can thiệp

dinh dưỡng đồng thời sẽ nâng hiệu quả của các chương trình phúc lợi.

Lồng ghép được thể hiện ở mục tiêu và sự phối hợp ở từng hoạt động

đồng thời với chương trình y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, nước sạch và vệ

sinh môi trường. Từ những phối hợp đó sẽ tạo ra được những động lực cho cả

cộng đồng chăm sóc sức khoẻ và dinh dưỡng cho các đối tượng có nguy cơ

cao thiếu dinh dưỡng. Kết quả phối hợp sẽ thể hiện trong việc cải thiện tình

40

trạng dinh dưỡng như sử dụng nước sạch sẽ giảm nguy cơ nhiễm bệnh đường

tiêu hoá và nhiễm trùng. Tác động phối hợp với chương trình dân số và chăm

sóc phụ nữ cũng mang lại nhiều điều kiện thuận lợi trong khi thực hiện can

thiệp dinh dưỡng, cải thiện tình trạng thiếu dinh dưỡng ở phụ nữ như vấn đề

thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu thiếu vi chất.

Ở nước ta đã có những chương trình can thiệp dinh dưỡng thành công,

nhất là dự án thức ăn bổ sung 1984 - 1989 cho bà mẹ và trẻ em suy dinh

dưỡng với các thực phẩm như gạo, đường, dầu ăn cho các tỉnh thường xuyên

bị bão lụt đe doạ. Tiếp theo là dự án can thiệp bổ sung thực phẩm phối hợp

với chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, các chương trình can thiệp phòng chống

thiếu vitamin A và bệnh khô mắt đã được quốc tế đánh giá cao, đã làm giảm

tỷ lệ thiếu vitamin A thể lâm sàng xuống dưới ngưỡng vấn đề sức khoẻ cộng

đồng của Tổ chức Y tế thế giới. Các chương trình giáo dục dinh dưỡng cũng

được triển khai khá hiệu quả, các chương trình VAC tăng nguồn thực phẩm,

chương trình phòng chống thiếu máu, phòng chống suy dinh dưỡng đã và

đang phát huy hiệu quả của nó. Các chương trình can thiệp dinh dưỡng ở

nước ta đã rút ra được những kinh nghiệm giúp cho việc xây dựng chiến lược

dinh dưỡng quốc gia trong giai đoạn tới 2001-2010, một chiến lược tổng hợp,

lồng ghép để cải thiện tình trạng dinh dưỡng của nhân dân ta.

41

CHƯƠNG 2

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được tiến hành theo giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Nghiên cứu cắt ngang mô tả

- Giai đoạn 2: Nghiên cứu can thiệp dựa vào cộng đồng có đối

chứng

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng tham gia nghiên cứu cắt ngang

- Trẻ em dưới 5 tuổi (từ 0 - 59 tháng tuổi).

- Chủ hộ gia đình và cha mẹ của trẻ.

- Đang sống tại 03 xã nói trên thuộc địa bàn nghiên cứu.

- Gia đình tự nguyện đồng ý cho trẻ tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng tham gia nghiên cứu can thiệp

- Trẻ em từ 24 - 59 tháng tuổi tại thời điểm điều tra ban đầu.

- Đang sống tại 03 xã thuộc địa bàn nghiên cứu.

- Gia đình tự nguyện đồng ý cho trẻ tham gia nghiên cứu can thiệp và

tuân thủ các hoạt động can thiệp.

Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng tham gia nghiên cứu can thiệp:

- Trẻ bị thiếu máu nặng (Hb < 70g/L).

- Trẻ mắc các dị tật bẩm sinh như sứt môi, hở hàm ếch, rối loạn tâm

thần, vận động…

- Trẻ mắc các bệnh mãn tính hoặc nhiễm trùng nặng.

2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu:

- Nghiên cứu được tiến hành tại 03 xã (Bích Sơn, Nghĩa Trung và Vân

Trung) thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Thời gian: 03 năm, bắt đầu từ năm 2006 đến năm 2008

42

Giới thiệu chung về địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

Hình 2.1. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại huyện Việt Yên - Tỉnh Bắc Giang. Việt

Yên là một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ), phía Nam giáp tỉnh

Bắc Ninh, phía Tây giáp huyện Hiệp Hòa, phía Đông giáp huyện Yên Dũng,

phía Bắc giáp huyện Tân Yên và thành phố Bắc Giang. Huyện Việt Yên có

diện tích 170,2 km2, dân số gồm 158.324 người với mật độ dân số 930

người/km2. Tốc độ phát triển kinh tế GDP của huyện là 53%. Tại huyện Việt

Yên, thu nhập bình quân đầu người/năm 2010 là 12 triệu đồng/người/năm.

2.3. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả, có phân tích các biến số thông qua

điều tra cộng đồng: mô tả dịch tễ bệnh SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi, theo địa

điểm và thời gian, xét nghiệm máu và xét nghiệm nhiễm giun.

43

Cuộc điều tra tiến hành tại cấp hộ gia đình bao gồm phỏng vấn chủ hộ

gia đình, bố mẹ của trẻ em dưới 5 tuổi trong hộ gia đình và đo nhân trắc dinh

dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi và bố mẹ của trẻ. Đồng thời, xét nghiệm máu và xét

nghiệm nhiễm giun trẻ em được nghiên cứu.

Nghiên cứu can thiệp: nghiên cứu thử nghiệm can thiệp tại cộng

đồng có nhóm đối chứng và đánh giá trước, sau can thiệp.

Sau khi tiến hành nghiên cứu cắt ngang đánh giá tình trạng dinh dưỡng, chúng

tôi tiến hành một nghiên cứu can thiệp dựa vào kết quả điều tra cắt ngang để

lựa chọn nhóm nghiên cứu và nhóm chứng với các đặc điểm tương đồng về

tình trạng dinh dưỡng, tình trạng thiếu máu và nhiễm giun.

2.4. Cỡ mẫu:

2.4.1. Cỡ mẫu nghiên cứu cắt ngang

* Cỡ mẫu điều tra tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu, nhiễm ký sinh trùng

đường ruột:

Số lượng trẻ em cần điều tra cho mỗi nghiên cứu về tình trạng dinh

dưỡng, thiếu máu, nhiễm ký sinh trùng đường ruột ở một tỉnh tính theo công

thức sau [1]: n = Z2 * p * (1-p)/ e2

Trong đó:

n: Số trẻ em cần điều tra

Z: Độ tin cậy đòi hỏi là 95%; Z=1,96

p: Tỷ lệ trẻ bệnh (tỷ lệ trẻ SDD; thiếu máu; hoặc nhiễm KST đường

ruột)

e: Sai số cho phép, chọn ngưỡng 5%.

Kết quả tính số trẻ em cần điều tra cho mỗi nội dung nghiên cứu ở mỗi

điểm nghiên cứu theo bảng 2.6.

44

Bảng 2.1. Nội dung nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chậm

tăng trưởng trong nghiên cứu.

Nội dung điều tra

Tài liệu tham khảo

Cỡ mẫu tối

Cỡ mẫu

thiểu

/điểm nghiên

cứu

Tình trạng dinh dưỡng

SDD cân nặng theo tuổi TTDD TE Việt 377 400

Nam năm 2010

SDD chiều cao theo tuổi TTDDTE Việt 308 400

Nam năm 2010

SDD cân nặng/chiều cao TTDDTE Việt 308 400

Nam năm 2010

Tình trạng thiếu máu Hà Huy Khôi và 100 100

CS, năm 2006

Lê Nguyễn Bảo 100 100 Tình trạng nhiễm ký sinh

Khanh và CS, năm trùng đường ruột:

2001

* Cỡ mẫu điều tra khẩu phần cá thể:

Áp dụng công thức:

t2 * 2 * N

n = --------------------

e2 * N + t2 * 2

Trong đó:

n: cỡ mẫu

t : phân vị chuẩn (thường = 2 ở xác xuất 0,954)

: độ lệch chuẩn của năng lượng ước tính 300 Kcal

45

e: sai số cho phép (chọn e = 100 Kcal)

N: tổng số trẻ của trường (khoảng 600 trẻ/trường)

Số trẻ cần điều tra khẩu phần cá thể của một điểm nghiên cứu là: 58

Số trẻ cần điều tra khẩu phần của ba điểm nghiên cứu là: 174.

Tiến trình lấy mẫu

Lựa chọn 3 xã tham gia vào điều tra, vậy tổng số trẻ cần điều tra tại 3

điểm nghiên cứu như sau:

 Mẫu điều tra tình trạng dinh dưỡng: 1.200 trẻ

 Điều tra tình trạng thiếu máu: 300 trẻ

 Điều tra tình trạng nhiễm ký sinh trùng đường ruột: 300 trẻ

 Điều tra khẩu phần: 174 trẻ

Chọn xã: Chọn ngẫu nhiên 3 xã thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc

Giang. Chính quyền địa phương và nhà trường ủng hộ việc thực hiện nghiên

cứu. Không có các chương trình phòng chống thiếu máu và tẩy giun cho trẻ

em.

Chọn đối tượng: áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống

dựa trên nền mẫu là danh sách tòan bộ trẻ em dưới 5 tuổi tại xã.

Tại mỗi xã, lập danh sách trẻ dưới 5 tuổi. Từ danh sách này chọn mẫu

hệ thống lấy 400 trẻ cho điều tra tình trạng dinh dưỡng. Trong số 400 trẻ này,

chọn mẫu hệ thống lấy 100 trẻ cho điều tra thiếu máu và nhiễm ký sinh trùng

đường ruột và 58 trẻ cho điều tra khẩu phần.

2.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu can thiệp:

Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc kiểm định sự khác nhau

N=

2s2 (d1-d2)2

giữa 2 trung bình quan sát trước và sau can thiệp [10]

Trong đó:

46

+ s: độ lệch chuẩn về hàm lượng Hb huyết thanh trước và sau can

thiệp. Trong nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng năm 2009 thì s = 7,3 g/L [17].

+ α: Mức ý nghĩa thống kê, là xác suất phạm phải sai lầm loại 1, chọn

α:= 0,05, ứng với độ tin cậy là 95%.

+ β: xác suất của việc phạm phải sai lầm loại 2, chọn β = 0,1.

+ Z(α , β ) = 10,5 (tra bảng ứng với α = 0,05 và β = 0,1).

+ d1 -d2: sự chênh lệch về hàm lượng Hb huyết thanh trung bình

giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng, theo nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng

thì d1 - d2: = 4 g/L [17].

Như vậy, cỡ mẫu cần thiết cho mỗi nhóm là 70 trẻ nhóm 2 - 5 tuổi.

Dự phòng 20% bỏ cuộc, ta có cỡ mẫu nghiên cứu là 84 trẻ cho mỗi nhóm.

Chọn mẫu và phân nhóm nghiên cứu can thiệp:

Sau khi tiến hành nghiên cứu cắt ngang đánh giá tình trạng dinh dưỡng

theo các nội dung và các chỉ số đánh giá theo bảng 2.1 ở trên, chúng tôi tiến

hành một nghiên cứu can thiệp. Trình tự các bước chọn mẫu và phân nhóm

nghiên cứu can thiệp như sau:

Chọn đối tượng vào nghiên cứu can thiệp: dựa vào kết quả điều tra cắt

ngang tại 3 xã để lựa chọn trẻ em vào các nhóm nghiên cứu và nhóm chứng.

Mỗi nhóm chọn 84 trẻ 24-59 tháng đáp ứng đủ các tiêu chí lựa chọn trẻ vào

nghiên cứu với các đặc điểm tương đồng về điều kiện kinh tế, mức sống, tình

trạng dinh dưỡng, tình trạng thiếu máu và nhiễm giun.

Phân nhóm nghiên cứu: Việc phân nhóm nghiên cứu dựa trên đơn vị

xã. Nghiên cứu được chia làm 2 nhóm:

- Nhóm chứng: Trẻ tham gia nghiên cứu được ăn bổ sung sữa đặc

có đường.

- Nhóm nghiên cứu: Trẻ tham gia nghiên cứu được ăn bổ sung sữa

có bổ sung vi chất dinh dưỡng và tẩy giun.

47

Trước khi can thiệp, các đối tượng trong diện lựa chọn được thông báo

về mục đích, yêu cầu, nội dung và giải thích các thắc mắc để tự nguyện tham

gia. Tất cả các trường hợp thiếu máu nặng (Hb < 70g/dl) trong cuộc điều tra

đều được cho uống viên sắt theo phác đồ điều trị của Bộ Y tế và sau đó loại ra

khỏi nhóm nghiên cứu. Các trường hợp thiếu máu nặng trong 6 tháng nghiên

cứu cũng được điều trị và loại ra khỏi nhóm nghiên cứu đồng thời thông báo

y tế cơ sở theo dõi tiếp.

Hai nhóm trẻ nghiên cứu và đối chứng được uống sữa hàng ngày 200

ml, nhóm nghiên cứu (NNC) sữa được tăng cường 4,1 mg sắt, 450 IU vitamin

A và 4,6 mg kẽm cùng một số vi chất khác như vitamin nhóm B, vitamin C

và tẩy giun định kỳ 6 tháng/lần có giám sát. Đây là liều bổ sung hàng ngày

nằm trong mức quy định của Bộ Y tế. Nhóm chứng (NC) được sử dụng 200

ml sữa bò thông thường, không được bổ sung sắt, và các vi chất khác. Liều

lượng và thời gian dùng giống như ở nhóm can thiệp. Ngoài ra, cả nhóm can

thiệp và nhóm chứng đều được sử dụng các dịch vụ y tế khác sẵn có ở địa

phương (như uống vitamin A, khám chữa bệnh bình thường…) và duy trì chế

độ ăn hằng ngày bình thường.

Thời gian can thiệp là 6 tháng. Hoạt động can thiệp được tiến hành theo

phương pháp “mù đơn”.

Tổ chức nghiên cứu can thiệp

Tập huấn cho điều tra viên: Các điều tra viên được tập huấn về mục

đích nghiên cứu, các chỉ số, số liệu thu thập tại thời điểm điều tra ban đầu và

điều tra đánh giá.

Lựa chọn cộng tác viên tham gia nghiên cứu: Tại mỗi thôn, chọn các

cộng tác viên (nhiệt tình và có trách nhiệm) tham gia nghiên cứu. Mỗi cộng

tác viên sẽ phụ trách theo dõi 15 trẻ trong thôn. Cộng tác viên sẽ được tập

huấn về cách phân phối, theo dõi uống sữa, ghi chép sổ theo dõi phân phát và

48

uống sữa hàng tuần. Cộng tác viên tham gia nghiên cứu can thiệp sẽ phát sữa

hàng tuần cho trẻ em trong nhóm can thiệp, hướng dẫn người nuôi trẻ cho trẻ

uống sữa và ghi chép tình hình sử dụng sữa theo biểu mẫu đã được thiết kế

sẵn hàng tuần trong 6 tháng can thiệp. Cộng tác viên sẽ đến thăm hộ gia đình

hàng tuần theo dõi và ghi chép tình hình sử dụng sữa vào sổ theo dõi. Cộng

tác viên sẽ hướng dẫn cha mẹ/ người nuôi dưỡng trẻ cho trẻ uống sữa theo

hướng dẫn và sữa chỉ được sử dụng cho trẻ uống. Cộng tác viên sẽ tư vấn

cho cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ đến trạm y tế nếu trẻ bị tiêu chảy, sốt

hoặc nhiễm khuẩn hô hấp…

Cấp phát và theo dõi uống sữa:

Sữa được cung cấp xuống xã 2 tháng một lần và được giữ tại trạm y tế

xã. Hàng tuần cộng tác viên sẽ đến trạm y tế để nhận sữa phát cho trẻ. Trẻ sẽ

được phát sữa vào một ngày nhất định trong tuần với số lượng 7 hộp. Mỗi

ngày, trẻ sẽ được uống một hộp vào một giờ nhất định.

Cộng tác viên trực tiếp phát sữa cho trẻ 1 tuần một lần theo danh sách

quy định thuộc diện quản lý.

Trong thời gian 6 tháng, cộng tác viên sẽ đến thăm hộ gia đình 2 tuần

một lần, ghi chép vào sổ theo dõi tình hình uống sữa của trẻ.

Các bà mẹ được hướng dẫn cho trẻ uống sữa hàng ngày vào thời gian

nhất định trong ngày.

Giám sát triển khai nghiên cứu can thiệp: Nghiên cứu sinh chịu trách

nhiệm giám sát quá trình triển khai can thiệp cùng sự hỗ trợ của cán bộ Viện

Vệ sinh Dịch tễ trung ương có kinh nghiệm trong triển khai các nghiên cứu

can thiệp tại cộng đồng. Hoạt động giám sát triển khai nghiên cứu can thiệp

tại cộng đồng được thực hiện thường xuyên, liên tục hàng tuần trong tháng

đầu triển khai và sau đó là mỗi tháng một lần. Giám sát viên sẽ họp với cộng

tác viên và kiểm tra việc ghi chép phân phối sữa và theo dõi sử dụng sản

49

phẩm. Giám sát viên cùng cộng tác viên giải quyết các khó khăn vướng mắc

trong quá trình triển khai. Mỗi đợt giám sát, giám sát viên và cộng tác viên sẽ

đi thăm 5 hộ gia đình, phỏng vấn cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ và kiểm

tra lại các thông tin đã được ghi chép trong sổ theo dõi. Nếu thông tin không

khớp trong sổ theo dõi, giám sát viên và cộng tác viên sẽ thảo luận và điều

chỉnh thông tin theo thực tế.

Điều tra ban đầu và điều tra đánh giá: Toàn bộ trẻ em tham gia nghiên

cứu can thiệp sẽ được điều tra để thu thập thông tin chung về nhân khẩu học,

đánh giá tình trạng dinh dưỡng, định lượng nồng độ Hb máu, ferritin trong

huyết thanh tại địa bàn nghiên cứu. Điều tra sẽ được tiến hành tại thời điểm

ban đầu trước khi bắt đầu can thiệp và điều tra đánh giá tại thời điểm kết thúc

can thiệp.

2.5. Các kỹ thuật thu thập số liệu và một số tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số

A. Điều tra cắt ngang: Áp dụng phối hợp các phương pháp định tính và định

lượng.

2.5.1. Phỏng vấn chủ hộ và bà mẹ tại hộ gia đình dựa vào bộ câu hỏi thiết

kế sẵn:

Để thu thập về các chỉ số về điều kiện sống, nhân khẩu, diện tích, thu

nhập cũng như thông tin về chăm sóc dinh dưỡng bà mẹ và trẻ em, quá trình

mang thai, tiền sử dinh dưỡng, bệnh tật theo như bảng 2.1.

Số liệu được thu thập thông qua phỏng vấn tại gia đình, chủ yếu là

phỏng vấn bà mẹ. Nghiên cứu đảm bảo an toàn cho các thành viên tham gia

và được Khoa Đào tạo Sau đại học - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương thông

qua. Phiếu điều tra gồm 3 nhóm biến chính, cụ thể gồm: a) các biến về kinh tế

xã hội như năm đi học của bố mẹ, bố có ở nhà và có việc làm không, tình

trạng việc làm của chủ hộ và thu nhập gia đình theo đầu người; b) các biến về

môi trường trực tiếp tác động đến trẻ bao gồm nhà ở (nguyên vật liệu và tình

50

trạng nhà ở) và các biến về gia đình như cỡ hộ gia đình, người nuôi dưỡng trẻ

chính, tuổi của mẹ khi sinh trẻ, thứ tự sinh, sinh đôi sinh ba, khoảng cách

sinh; và c) các biến về cá nhân trẻ như tuổi, giới, tình trạng sức khoẻ lúc sinh

(cân nặng sơ sinh và tuổi thai) và thời gian nằm viện trong năm tuổi đầu tiên

và năm tuổi thứ hai của trẻ.

Chiều cao và chiều dài của trẻ được đo theo đúng hướng dẫn của

WHO, trẻ thấp còi là trẻ có chỉ số chiều cao theo tuổi nhỏ hơn -2 Zscore theo

quần thể tham khảo NCHS [185]. Nghiên cứu sử dụng hồi quy logistic không

điều kiện để ước lượng tỉ suất chênh cho thấp còi. Các biến được chọn dựa

vào mô hình lý thuyết trình bày ở trên. Mô hình này nhấn mạnh tầm quan

trọng ở cấp xã hội, các biến ở cấp thấp hơn dần dần được đưa vào mô hình.

Mô hình đầu tiên phân tích ảnh hưởng của các biến kinh tế xã hội và không có

các biến ở cấp thấp hơn. Những biến có liên quan đến thấp còi (p < 0,01)

được giữ lại trong các mô hình tiếp theo. Mô hình thứ hai bao gồm các biến

về môi trường liên quan trực tiếp đến trẻ, cố định các biến kinh tế ở mô hình

đầu tiên. Những biến môi trường không có liên quan đến thấp còi (p ≥ 0,10)

không được đưa vào mô hình tiếp theo. Mô hình thứ ba đưa thêm các biến về

cá nhân trẻ, cố định các biến kinh tế xã hội và môi trường nói trên. Những

biến về cá nhân trẻ không liên quan đến thấp còi bị loại ra khỏi mô hình cuối

cùng.

Trong mô hình thứ 3, giới tính và tuổi là các biến đại diện ảnh hưởng

đến tăng trưởng của trẻ bởi vì những biến này không chịu ảnh hưởng của các

biến xã hội và môi trường.

2.5.2. Kỹ thuật điều tra khẩu phần ăn của trẻ em bằng phương pháp tường

thuật 24 giờ qua

Các thông tin thu thập bao gồm:

- Số bữa ăn trong ngày, có phân biệt bữa chính, bữa phụ và phân phối

51

bữa ăn.

- Số lượng các thực phẩm (kể cả đồ uống) được đối tượng tiêu thụ

trong khoảng thời gian 24 giờ qua.

- Sử dụng cách hỏi ghi tất cả các thực phẩm (kể cả đồ uống) được tiêu

thụ trong 24 giờ kể từ thời điểm phỏng vấn trở về trước.

a) Điều tra khẩu phần:

Đánh giá mức tiêu thụ lương thực - thực phẩm: Áp dụng phương pháp

hỏi ghi ngày hôm qua kết hợp cân kiểm tra. Ngày điều tra là các ngày trong

tuần kể cả những ngày mà bữa ăn có thể được cải thiện hơn bình thường (Chủ

Nhật, ngày nghỉ...). Các ngày ăn uống đặc biệt như ma chay, cưới xin, lễ hội

không điều tra. Người điều tra hỏi, cân lại và ghi toàn bộ các lương thực thực

phẩm (bao gồm các bữa ăn ở tại gia đình và ngoài gia đình) mà trẻ sử dụng

một cách chính xác theo 6 khoảng thời gian trong ngày như sau:

- Bữa sáng (Bữa 1) : Từ khi thức dây đến ăn xong bữa sáng.

- Bữa thêm (Bữa 2): Từ sau bữa sáng đến trước bữa trưa.

- Bữa trưa (Bữa 3): Bữa ăn chính, giữa của ngày.

- Bữa thêm (Bữa 4): Từ sau bữa trưa đến trước khi ăn bữa tối.

- Bữa tối (Bữa 5): Bữa ăn chính, vào buổi tối .

- Bữa thêm (Bữa 6): Từ sau bữa tối đến trước khi thức dậy của

ngày hôm sau.

Kết quả tính ra mức tiêu thụ lương thực thực phẩm, giá trị dinh dưỡng

của khẩu phần cho bình quân đầu người/ngày bằng cách dùng “Bảng thành

phần dinh dưỡng thực phẩm Việt Nam năm 2007”. Từ đó đánh giá được mức

đáp ứng nhu cầu theo nhu cầu khuyến nghị cho người Việt Nam của Viện

Dinh dưỡng.

52

Điều tra viên giải thích kỹ mục đích điều tra cho đối tượng để tránh

thay đổi cách ăn thường ngày cũng như nói không chính xác về bữa ăn ngày

hôm qua của trẻ.

Điều tra khẩu phần của đối tượng bằng phương pháp nhớ lại 24 giờ qua Các

thông tin thu thập bao gồm:

- Số bữa ăn trong ngày, có phân biệt bữa chính, bữa phụ và phân phối

bữa ăn.

- Số lượng các thực phẩm (kể cả đồ uống) được đối tượng tiêu thụ

trong khoảng thời gian 24 giờ qua.

- Sử dụng cách hỏi ghi tất cả các thực phẩm (kể cả đồ uống) được tiêu

thụ trong 24 giờ kể từ thời điểm phỏng vấn trở về trước.

- Ghi chép các hoạt động của đối tượng trong 24 giờ qua.

b) Chỉ tiêu đánh giá khẩu phần trẻ dưới 5 tuổi bao gồm :

- Năng lượng trung bình của trẻ.

- Các giá trị dinh dưỡng của khẩu phần.

- Cân đối khẩu phần.

- Tính phù hợp của khẩu phần cho trẻ ăn bổ sung so với khuyến cáo của

WHO.

2.5.3. Điều tra nhân trắc:

Các thông tin về nhân trắc học được thu thập bằng cách tính tuổi của

trẻ, cân, đo trẻ và ghi vào phiếu điều tra thực trạng dinh dưỡng của trẻ tại thời

điểm nghiên cứu.

- Cách tính tuổi: Tuổi của trẻ được tính bằng cách lấy ngày tháng điều

tra trừ đi ngày tháng năm sinh của trẻ, và phân loại theo WHO 1995 [4]. Ví

dụ trẻ dưới 5 tuổi được tính từ ngày trẻ được sinh ra cho tới 59 tháng 29 ngày.

- Xác định cân nặng: Dùng cân điện tử AND (độ chính xác 100g). Cân

được kiểm tra và chỉnh trước khi sử dụng. Sau đó cứ cân được khoảng 10 trẻ

53

lại kiểm tra và chỉnh cân một lần. Trẻ mặc quần áo mỏng, bỏ guốc dép và

ngồi hoặc nằm cân đối, đúng trọng tâm của cân. Ngay khi cân ổn định, đọc và

ghi số đo của cân với đơn vị là kg và một số lẻ sau dấu phẩy, ví dụ: 10,5 kg.

- Xác định chiều cao: Dùng thước Microtoise để đo chiều dài nằm của

trẻ (với trẻ dưới 24 tháng tuổi) và chiều cao đứng (với trẻ trên 24 tháng tuổi).

Trẻ nằm thẳng hoặc đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, đỉnh đầu chạm vào vị trí 0

cm. Toàn thân trẻ đảm bảo 5 điểm chạm lên bề mặt thước: chẩm, xương bả

vai, mông, bắp chân và gót chân. Kết quả được ghi với đơn vị là xen-ti-mét

(cm) và một số lẻ sau dấu phẩy, ví dụ 70,5 cm.

+ Tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số nhân trắc dinh dưỡng:

Sử dụng các số đo nhân trắc như tháng tuổi, cân nặng, chiều cao của trẻ

và phân loại theo WHO 2005[4] với các chỉ số: cân nặng theo tuổi (CN/T),

chiều cao theo tuổi (CC/T) và cân nặng theo chiều cao (CN/CC). Hiện nay,

người ta nhận định tình trạng dinh dưỡng trẻ em chủ yếu dựa vào 3 chỉ tiêu:

cân nặng/tuổi (CN/T), chiều cao/tuổi (CC/T), và cân nặng/chiều cao

(CN/CC).

Muốn nhận định các kết quả về nhân trắc, cần phải chọn một quần thể

tham chiếu( reference population) để so sánh. Không nên coi quần thể tham

chiếu là chuẩn (standard) nghĩa là mục tiêu mong muốn , mà chỉ là cơ sở đưa

ra các nhận định thuận tiện cho các so sánh trong nước và quốc tế. Do nhận

thấy ở trẻ em dưới 5 tuổi được nuôi dưỡng hợp lý và điều kiện sống hợp vệ

sinh thì khả năng lớn không khác nhau theo chủng tộc, Tổ chức Y tế thế giới

năm 1985 đã chọn Quần thể tham khảo NCHS của Hoa Kỳ làm quần thể tham

chiếu để so sánh đánh giá TTDD của trẻ em. Từ năm 1997, Tổ chức Y tế thế

giới (WHO) đã xây dựng một quần thể tham chiếu mới với các số liệu được

tổng hợp từ các châu lục khác nhau. Tiêu chuẩn mới này của WHO đã được

áp dụng ở Việt Nam từ năm 2006.

54

+ Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dựa vào các chỉ số nhân

trắc:

 Chỉ số cân nặng theo tuổi (CN/T): Sử dụng chỉ tiêu cân nặng so với tuổi

và quần thể tham khảo WHO 2005 [4] để đánh giá:

- Bình thường: CN/T từ -2 Zscores đến +2 Zscores

- SDD (thể nhẹ cân), CN/T<-2 Zscores; trong đó:

+ SDD độ 1: từ -2 đến -3 Zscores

+ SDD độ 2: từ -3 đến -4 Zscores

+ SDD độ 3: <-4 Zscores

 Chỉ số chiều cao theo tuổi (CC/T): Sử dụng chỉ tiêu chiều cao so với

tuổi (CC/T) và quần thể tham khảo WHO 2005 [4] để đánh giá:

- Bình thường: CC/T từ -2 Zscores đến +2 Zscores.

- SDD (thể thấp còi), CC/T<-2 Zscores; trong đó:

+ SDD độ 1: từ <-2 đến -3 Zscores

+ SDD độ 2: <-3 Zscores

 Chỉ số cân nặng theo chiều cao (CN/CC): Sử dụng chỉ tiêu cân nặng so

với chiều cao (CN/CC) và quần thể tham khảo WHO 2005 [4] để đánh

giá:

- Thừa cân: CN/CC> +2 Zscores

- Bình thường: CN/CC từ -2 Zscores đến +2 Zscores

- SDD (thể gầy còm), CN/CC<-2 Zscores

Hiện nay, người ta nhận định tình trạng dinh dưỡng trẻ em chủ yếu dựa

vào 3 chỉ tiêu: cân nặng/tuổi (CN/T), chiều cao/tuổi (CC/T), và cân

nặng/chiều cao (CN/CC).

Muốn nhận định các kết quả về nhân trắc, cần phải chọn một quần thể

tham chiếu( reference population) để so sánh. Không nên coi quần thể tham

chiếu là chuẩn (standard) nghĩa là mục tiêu mong muốn , mà chỉ là cơ sở đưa

55

ra các nhận định thuận tiện cho các so sánh trong nước và quốc tế. Do nhận

thấy ở trẻ em dưới 5 tuổi được nuôi dưỡng hợp lý và điều kiện sống hợp vệ

sinh thì khả năng lớn không khác nhau theo chủng tộc, Tổ chức Y tế thế giới

năm 1985 đã chọn Quần thể tham khảo NCHS của Hoa Kỳ làm quần thể tham

chiếu để so sánh đánh giá TTDD của trẻ em. Từ năm 1997, Tổ chức Y tế thế

giới (WHO) đã xây dựng một quần thể tham chiếu mới với các số liệu được

tổng hợp từ các châu lục khác nhau. Tiêu chuẩn mới này của WHO đã được

áp dụng ở Việt Nam từ năm 2006.

Người ta sử dụng các giới hạn ‘ngưỡng’ (cut - off point) theo các cách

như sau:

- Theo phân bố thống kê, thường lấy -2 SD của số trung bình làm giới

hạn ngưỡng. Từ đó người ta tính được tỷ lệ ở dưới hoặc trên các ngưỡng đó.

- Theo độ lệch chuẩn ( Z score hay SD score) :

Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể tham chiếu

Zscore hay SDscore =

Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu

Cách biểu hiện theo tỷ lệ % dưới giới hạn ngưỡng cho một kết luận

tổng quát nhưng để so sánh hiệu quả các can thiệp thì cách so sánh số trung

bình (± SD) hoặc số trung bình của Zscore tỏ ra thích hợp hơn.

2.5.4. Kỹ thuật đánh giá thiếu máu:

Xét nghiệm Hemoglobin bằng máy HemoCue áp dụng phương pháp

Cyanmethemoglobin. Mức độ thiếu máu đánh giá theo chỉ số Hemoglobin

theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới. Trẻ em dưới 5 tuổi được chẩn đoán

thiếu máu khi nồng độ Hemoglobin trong máu < 110 g/L (WHO, 2001) [227].

Tổ chức Y tế Thế giới phân chia thiếu máu theo 3 mức độ:

Thiếu máu nhẹ (Hb từ 90 - < 110 g/l)

Thiếu máu vừa (Hb từ 70 - < 90 g/l)

56

Thiếu máu nặng ( Hb < 70 g/l)

Phân loại tình trạng thiếu máu của Tổ chức Y tế thế giới (2001) về ý

nghĩa sức khoẻ cộng đồng: Khi tỷ lệ thiếu máu từ 5 - 20% thuộc mức nhẹ về ý

nghĩa sức khoẻ cộng đồng; từ 20 - <40% thuộc mức trung bình; ≥ 40% thuộc

mức nặng về ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng [227].

2.5.5. Đánh giá tình hình mắc một số bệnh nhiễm khuẩn

Khám lâm sàng để xác định tình trạng mắc một số bệnh nhiễm khuẩn

(hô hấp, tiêu chảy, và các bệnh nhiễm trùng khác như viêm da, đau mắt) của

trẻ. Định nghĩa và phân loại tiêu chảy và viêm hô hấp cấp ở trẻ em dưới 5

tuổi: (theo tiêu chuẩn chuẩn đoán của Tổ chức Y tế thế giới).

Tiêu chảy: Là đi ngoài phân lỏng hoặc có máu và đi từ 3 lần trở lên

trong một ngày. Một đợt tiêu chảy là giai đoạn bắt đầu từ khi tiêu chảy từ 3

lần trở lên trong một ngày cho đến ngày cuối cùng còn tiêu chảy từ 3 lần trở

lên và phải được kế tiếp 2 ngày đi ngoài phân bình thường, nếu sau hai ngày

đi ngoài phân bình thường trẻ bị tiêu chảy lại thì đó là khởi đầu của một đợt

tiêu chảy mới.

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp: Trẻ được chuẩn đoán bị nhiễm khuẩn hô hấp

cấp khi có các biểu hiện ho hoặc nhịp thở trên 50 lần/phút. Nếu các biểu hiện

đó hết trong hai ngày liên tục thì được coi như chấm dứt một đợt nhiễm khuẩn

hô hấp. Triệu chứng sốt được ghi nhận khi cha, mẹ hay người chăm sóc trẻ

thông báo là trẻ bị sốt trong tuần qua, ngày qua và được cán bộ giám sát thấy

thân nhiệt của trẻ cao hơn 37 độ C.

2.5.6. Kỹ thuật đánh giá tình trạng nhiễm ký sinh trùng đường ruột

Điều tra tình trạng nhiễm ký sinh trùng đường ruột được tiến hành bằng

phương pháp Kato-Katz [225].

B. Nghiên cứu can thiệp:

Trong nghiên cứu can thiệp, sử dụng các kỹ thuật thu thập số liệu và

57

một số chỉ tiêu đánh giá các chỉ số như sau:

Kỹ thuật phỏng vấn chủ hộ và bà mẹ tại hộ gia đình tương tự như đã

mô tả trong điều tra cắt ngang (mục 2.5.1).

Điều tra nhân trắc: Thông tin về nhân trắc học của trẻ được thu thập

tại thời điểm ban đầu (trước khi can thiệp) và kết thúc nghiên cứu can thiệp

(sau 6 tháng can thiệp). Thu thập số liệu về cân nặng, chiều cao, tuổi của trẻ,

và cách đánh giá các chỉ số nhân trắc dinh dưỡng như đã mô tả ở phần 2.5.3.

Kỹ thuật đánh giá thiếu máu và dự trữ sắt của cơ thể:

Toàn bộ trẻ tham gia nghiên cứu sẽ được lấy mẫu máu xét nghiệm tại

thời điểm điều tra ban đầu (trước can thiệp) và sau 6 tháng (kết thúc can

thiệp). Trẻ sẽ được lấy mẫu máu tĩnh mạch để xét nghiệm 2 chỉ số

Hemoglobin máu và ferritin huyết thanh. Trẻ em ở hai nhóm nghiên cứu sẽ

được lấy máu ven 2 lần, mỗi lần lấy 3 ml máu tĩnh mạch vào buổi sáng từ 8-

10 giờ. Sau khi lấy máu, mẫu máu được bảo quản trong hộp lạnh, ly tâm sau

3 giờ, tốc độ 3.000 vòng/phút. Xét nghiệm ferritin được thực hiện tại labo Vi

chất của Viện Dinh dưỡng.

Hemoglobin (Hb) máu: Ngay sau khi lấy mẫu máu, máu toàn phần

được cho vào ống mao dẫn để định lượng Hb. Nồng độ Hb trong máu được

định lượng bằng phương pháp Cyanmethemoglobin. Cường độ màu được đo

tại bước sóng 540 nm tỷ lệ với nồng độ hemoglobin. Đánh giá tình trạng thiếu

máu theo hướng dẫn của WHO (2001): trẻ em dưới 5 tuổi được coi là thiếu

máu khi nồng độ Hb < 110 g/L [227].

Ferritin huyết thanh: Nồng độ ferritin trong huyết thanh được phân tích dựa

vào phương pháp ELISA. Đánh giá tình trạng sắt cạn kiệt theo hướng dẫn của

WHO, 2001. Trẻ được coi là dự trữ sắt cạn kiệt khi nồng độ ferritin trong

huyết thanh < 12 μg/L [227].

58

2.6. Các phương pháp phân tích, xử lý thống kê:

Số liệu sau khi thu thập sẽ được làm sạch, kiểm tra, nhập số liệu và sử

lý bằng chương trình EPI-INFO 6.0 và SPSS 11.5. Trước khi sử dụng các

phép thống kê, các biến số được kiểm định về phân bố chuẩn. Các kết quả sẽ

được trình bày theo các số trung bình, tỷ lệ %, tỷ suất chênh (OR). Các số liệu

sẽ được kiểm tra và phân tích theo các thuật thống kê y học thông thường (T

test: so sánh sự khác biệt của 2 số trung bình; 2 test: so sánh sự khác biệt các

tỷ lệ), cụ thể:

Số liệu khẩu phần được nạp vào máy tính bằng phần mềm ACCESS viết

cho khẩu phần. Phần mềm mới đã được chuẩn hoá với dữ liệu (database) là bảng

thành phần dinh dưỡng thực phẩm Việt Nam năm 2007.

Phần mềm SPSS và STATA sẽ được sử dụng để lập bảng và tính toán

thống kê.

2.6.1. Phương pháp phân tích số liệu trong nghiên cứu cắt ngang mô tả

Phân tích thống kê mô tả: Trung bình, độ lệch chuẩn (SD), sai số chuẩn

(SE), khoảng tin cậy 95% (CI 95%).

 Phương pháp hiệu chỉnh kết quả do phương pháp chọn mẫu chùm

- Kết quả tính toán thống kê sẽ phải được hiệu chỉnh kết quả ước

lượng đại diện cho vùng và quốc gia bằng quyền số của từng đơn

vị chọn mẫu.

- Khoảng tin cậy và sai số chuẩn sẽ được hiệu chỉnh theo quyền số

và thiết kế chọn chùm và tầng.

 Các test thống kê được áp dụng:

- Test T cho các số trung bình.

- Test 2 cho các tỷ lệ và số tuyệt đối.

- Test Mann Whitney cho các biến số không phân bố chuẩn.

- Test ANOVA cho so sánh từ 3 số trung bình trở lên.

59

2.6.2. Phân tích số liệu nghiên cứu can thiệp:

 So sánh giá trị trung bình của cân nặng, chiều cao, Zscores trung bình

giữa hai nhóm nghiên cứu.

 Tính tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thấp còi, gầy còm của hai nhóm

nghiên cứu.

Các test thống kê đã được sử dụng trong phân tích số liệu cùa nghiên

cứu can thiệp:

T test ghép cặp: để so sánh hai giá trị trung bình của hai nhóm nghiên

cứu trước và sau can thiệp. Chỉ so sánh ghép cặp với những giá trị đủ số liệu

trước và sau nghiên cứu. Các chỉ số dùng để so sánh ghép cặp là chiều cao

đứng, Zscores CN/T, CC/T, CN/CC, nồng độ hemoglobin máu, nồng độ

ferritin huyết thanh tại thời điểm trước và sau can thiệp.

T test độc lập: để so sánh giá trị trung bình giữa hai nhóm nghiên cứu

tại cùng thời điểm (trước can thiệp hoặc sau can thiệp). Các chỉ số dùng để so

sánh ghép cặp là chiều cao đứng, Zscores CN/T, CC/T, CN/CC, nồng độ

hemoglobin, nồng độ ferritin tại cùng thời điểm. Do mức ferritin huyết thanh

dao động tương đối nhiều nên được logarit hoá trước khi so sánh để chuyển

thành dạng phân bố chuẩn để tính toán sau đó lại chuyển về trị số tuyệt đối

bằng cách đối logarit khi trình bày kết quả (anti Ln).

2.7. Kiểm tra chất lượng số liệu thu thập

Nhằm đảm bảo chất lượng số liệu điều tra, trưởng nhóm có trách nhiệm

phải kiểm tra tất cả các số liệu của các mẫu phiếu điều tra trong ngày, nếu

phát hiện các số liệu bất thường, phiếu sẽ được gửi trả lại điều tra viên để

điều tra viên kiểm tra lại tính xác thực của số liệu.

Đối tượng nghiên cứu là trẻ em dưới 5 tuổi, nhằm tránh các thông tin

mà các bà mẹ không nhớ/quên do thời gian không ngắn kể từ khi sinh cháu (5

năm) đối với hộ gia đình có từ 2 con trở lên thì các thông tin như: thời gian

60

khám thai của bà mẹ; chế độ ăn, chế độ làm việc, uống viên sắt, uống vitamin

A của bà mẹ trong khi mang thai, thời gian cho trẻ bú ngay sau khi sinh, thời

gian cho trẻ bú mẹ hoàn toàn, thời gian cho trẻ bú mẹ ... được thu thập đối với

trẻ sinh gần nhất thời điểm tiến hành điều tra thực địa trong hộ gia đình.

Các số liệu nhân trắc: được các điều tra viên cố định cân, đo với việc

sử dụng cùng loại cân, cùng loại thước và trẻ được cân, đo trong cùng một

thời gian (từ 8:00 đến 10:00 sáng). Sử dụng các loại cân, thước đo với kỹ

thuật chuẩn, tuân theo phương thức thường quy và thống nhất phương pháp

điều tra đã được tập huấn cho điều tra viên nhằm loại trừ khả năng sai số do

điều tra viên hoặc do dụng cụ cân, đo.

Nhằm đảm bảo chất lượng số liệu điều tra, trưởng nhóm có trách nhiệm

phải kiểm tra tất cả các số liệu của các mẫu phiếu điều tra trong ngày, nếu

phát hiện các số liệu bất thường, phiếu sẽ được gửi trả lại điều tra viên để

điều tra viên kiểm tra lại tính xác thực của số liệu.

Số liệu được làm sạch trước khi nhập vào máy tính.

2.8. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu:

Trẻ em, cha mẹ và chính quyền địa phương được thông báo đầy đủ về

mục đích và nội dung nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu có quyền từ chối

tham gia nghiên cứu ở bất kỳ thời điểm nào.

Các dụng cụ xét nghiệm đảm bảo vô trùng, chỉ sử dụng một lần. Những

trẻ thiếu máu (có nồng độ hemoglobin<70g/L) được chuyển điều trị theo phác

đồ. Trẻ em suy dinh dưỡng được cho uống viên đa vi chất và tư vấn dinh

dưỡng.

Đề cương được Hội đồng khoa học Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương

thông qua.

61

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng suy dinh dưỡng của trẻ em

3.1.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu:

Tổng số có 1.200 trẻ dưới 5 tuổi (từ 0-59 tháng tuổi) thuộc 03 xã của

huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và các bà mẹ của trẻ đã được điều tra để thực

hiện nghiên cứu. Độ tuổi trung bình tính chung của tất cả trẻ tham gia điều tra

nghiên cứu là 20,4 tháng tuổi (95% CI=20,35± 2,92).

3.1.2. Kết quả đánh giá tình trạng dinh dưỡng của các đối tượng

a) Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi (từ 0-59 tháng tuổi) ở 3

xã nghiên cứu thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

Bảng 3.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (từ 0-59 tháng tuổi)

tại huyện Việt Yên

SDD cân SDD chiều SDD cân nặng/

nặng/tuổi (%)* cao/tuổi (%)* chiều cao (%)*

Số trẻ cân đo 1200 1200 1200

Độ I 19,6 23,0 9,2

(CI=95%) (CI: 16,1-23,1) (CI: 20,1-25,9) (CI: 6,2-12,2)

Độ II 4,4 11,7

(CI=95%) (CI: 2,8- 6,00) (CI: 9,4-13,1)

Độ III 0,6

(CI=95%) (CI: 0,4-0,8)

Tổng số SDD: 24,6 34,7 9,2

(CI=95%): (CI: 21,7-27,5) (CI: 31,8-37,6) (CI: 7,9-10,5)

*. Chuẩn tăng trưởng trẻ em dưới 5 tuổi của Tổ chức Y tế thế giới 2005.

35

11.7

30

0.6

25

4.4

20

15

23

19.6

10

9.2

5

0

SDD cân nặng/tuổi (%) SDD chiều cao/tuổi (%) SDD cân nặng/cao (%)

Độ I Độ II Độ III

62

Hình 3.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi

Bảng 3.1 cho thấy, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi mắc suy dinh dưỡng các thể

cân nặng/tuổi, chiều cao/tuổi và cân nặng/chiều cao còn ở mức cao theo phân

loại của Tổ chức Y tế thế giới (lần lượt là 24,6%, 34,7% và 9,2% chung cho

cả 03 xã).

Bảng 3.2. Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở 3 xã nghiên

cứu so với số liệu của tỉnh Bắc Giang năm 2007

Số liệu của năm 2007 SDD nhẹ cân SDD thấp còi SDD gầy còm

Tỉnh Bắc Giang 23,9 36,2 8,1

(Viện Dinh Dưỡng-2007) (CI: 21,9-25,9) (CI: 34,3-38,1) (CI: 7,4-8,8)

3 xã của huyện Việt Yên 24,6 34,7 9,2

* Số liệu Viện Dinh dưỡng năm 2007 trong Niên giám Thống kê Y tế 2008.

năm 2007 (CI: 21,7-27,5) (CI: 31,8-37,6) (CI: 7,9-10,5)

63

Tình trạng SDD của trẻ em dưới 5 tuổi ở 3 xã của huyện Việt Yên vẫn

còn ở mức cao tương tự như các tỷ lệ đó tính chung cho toàn tỉnh Bắc Giang

năm 2007.

b) Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi phân theo xã tại 03 xã

của huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

Bảng 3.3. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi phân theo xã

Thể loại SDD Địa bàn nghiên cứu

theo các chỉ tiêu Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

nhân trắc dinh Sơn Trung Trung (n=1.200)

dưỡng (n=400) (n=400) (n=400)

CI 95%

(20,1-23,5)

(21,9- 27,5)

(24,5-28,9)

(21,7-27,5)

Cân nặng/tuổi (%) 21,8 24,7 26,7 24,6

CI 95%

(32,1-42,6)

(24,1-33,3)

(34,1-43,4)

(31,8-37,6)

Chiều cao/tuổi (%) 37,5 28,7 38,9 34,5

(7,8-10,6)

(6,9-10,9)

(7,7- 10,3)

(7,9-10,5)

CI 95%

Cân nặng/cao (%) 9,4 8,9 9 9,4

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi phân theo xã

64

Bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng các thể cân nặng/tuổi,

chiều cao/tuổi và cân nặng/chiều cao có sự dao động ở cả 03 xã được điều tra,

tuy không khác biệt so với số liệu chung của 3 xã và mức độ dao động này về

tỷ lệ nhẹ cân và tỷ lệ gầy còm ở cả 3 xã không khác biệt nhau (CI 95%) thì

suy dinh dưỡng thấp còi cho thấy ở xã SDD thấp nhất và cao nhất có khác

biệt có ý nghĩa thống kê (CI 95% và p<0,5).

c) Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi:

Bảng 3.4. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi ở 3 xã

Địa bàn nghiên cứu

Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

Tỷ lệ thiếu máu Sơn Trung Trung (n=300)

(n=100) (n=100) (n=100)

Tỷ lệ và CI 95% 28,1 ± 3,4 23,7 ± 3,6 34,4 ± 4,1 28,7 ± 3,5

theo xã

Bảng 3.4 cho thấy tỉ lệ thiếu máu trên trẻ đều ở mức trung bình theo

phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (2001).

3.1.3. Kết quả về khẩu phần ăn của trẻ:

 Gạo: là loại lương thực chính, mức tiêu thụ trung bình là 191,6 g/trẻ/ngày;

mức tiêu thụ nhiều nhất là 215,3 g/trẻ/ngày. Mức tiêu thụ lương thực khác

trung bình 19 g/trẻ/ngày trong đó ngô, khoai chiếm phần lớn.

 Khi xem xét mức tiêu thụ gạo theo tình trạng dinh dưỡng cho thấy gạo

được các trẻ SDD thể thấp còi tiêu thụ nhiều nhất (201g/ngày). Mức tiêu

thụ này không khác nhau giữa trẻ bị SDD thể nhẹ cân và trẻ không bị thiếu

cân nặng so với tuổi.

210

201,4

200

192,20

191,40

189,2

190

) øy a g n / g ( uï h t

eâu

i t

öùc M

180

170

160

Không nhẹ cân

SDD nhẹ cân

Không thấp còi

SDD thấp còi

TTDD

65

Hình 3.3: Mức tiêu thụ gạo theo tình trạng dinh dưỡng (g/trẻ/ngày)

Mức tiêu thụ gạo của trẻ ở nhóm tuổi 25-35 tháng là 172g/ngày, nhóm

220.00

202

ø

200.00

192

) y a g n / / g (

ï

o a g

ï

180.00

172

â

160.00

u h t u e i t c öù M

140.00

Chung

24-35 tháng 36-59 tháng

36-59 tháng là 202g/ngày (hình 3.3).

Hình 3.4: Mức tiêu thụ gạo theo nhóm tuổi (g/trẻ/ngày)

66

Bảng 3.5. Tiêu thụ lương thực, thực phẩm bình quân đầu trẻ

STT Tên lương thực-thực phẩm Mức ăn: gam/trẻ/ngày

Gạo 1 215,3± 85,4

Lương thực khác 2 19,6±12,2

Khoai củ 3 5,6±3,4

Đậu, đỗ 4 10,3±6,2

Đậu phụ 5 5,1±2,8

Lạc, vừng 6 0,8±0,4

Rau thân, hoa, lá 7 53,9±26,5

Rau củ, quả, hạt 8 11,4±6,9

9 Quả chín 56,6±26,7

10 Dầu, mỡ 3,6±2,4

11 Thịt các loại 42,2±16,4

12 Trứng 15,9±10,2

13 Sữa các loại 143,5±165

14 Cá 42,07

15 Hải sản khác 10,0±6,8

16 Đồ hộp/ chế biến sẵn 0,1±0,12

Các loại đậu hạt tiêu thụ trung bình 10g/ngày. Đậu phụ, một nguồn protid

tốt, giá rẻ nhưng chưa được chú trọng đưa vào trong bữa ăn trẻ (5,11 g/ngày).

Mức tiêu thụ các thức ăn động vật (không kể sữa) đạt 110g/trẻ/ngày, lượng

thức ăn động vật chủ yếu là do tiêu thụ thịt (42,2g/trẻ/ngày), cá (42 g/ngày) và

trứng (15,9g/trẻ/ngày).

Sữa được trẻ 2-5 tuổi tiêu thụ 143,5 ml/ngày. Lượng Protid cung cấp 17%

năng lượng của khẩu phần và số lượng Protid nhìn chung đã đáp ứng được

nhu cầu khuyến nghị.

67

Mức tiêu thụ dầu, mỡ đạt trung bình 3,6 g/ ngày.

Bảng 3.6: Giá trị dinh dưỡng của khẩu phần

Thành phần Số lượng

Năng lượng (Kcal) 1.193±356

Protit (g)

+ Tổng số 49,6±24

+ Động vật 27,2±16

Lipit (g)

+ Tổng số 25,2±12

Chất dinh dưỡng

Ca (mg) 461,8±165

P (mg) 676,9±152

Fe (mg) 7,1±2

Zn (mg) 6,2±4

Vitamin A (mcg) 192±112

Vitamin B1(mg) 1,4±0,8

Vitamin B2 (mg) 1,2±0,6

Vitamin PP (mg) 9,0±3,8

Vitamin C (mg) 45,5±12

Bio. Iron (mg) 0,9±0,6

Tỷ lệ năng lượng chất béo trong khẩu phần trung bình ở mức 25%, đạt

nhu cầu khuyến nghị về tính cân đối của khẩu phần đối với trẻ nhóm tuổi này,

trong đó nếu năng lượng do chất béo cung cấp ở mức ≤ 20% làm cho khẩu

phần có xu hướng mất cân đối nghiêm trọng và nhất là không đảm bảo nguồn

acid béo cần thiết cho tăng trưởng và phát triển não bộ của trẻ. Sắt chỉ đạt

59% nhu cầu đề nghị cho trẻ em điều tra.

68

Bảng 3.7. Mức đáp ứng nhu cầu khuyến nghị khẩu phần ăn

của trẻ 24-59 tháng

Mức đáp ứng n = 349

Năng lượng (%) 93

Vitamin A (%) 86

Vitamin B1(%) 96

Vitamin B2 (%) 113

Vitamin PP(%) 93

Vitamin C (%) 63

Canxi (%) 94

Bảng 3.7 cho thấy mức đáp ứng nhu cầu khuyến nghị khẩu phần trẻ thì

cao nhất đối với nhóm năng lượng, vitamin B1, vitamin B2, canxi… nhưng

lại rất thấp đối với nhóm vitamin C.

Bảng 3.8. Mức đáp ứng nhu cầu khuyến nghị của khẩu phần ăn của trẻ

24-59 tháng tuổi theo thể loại SDD của đối tượng

Nhóm tuổi

Mức đáp ứng 24-35 tháng 36-59 tháng

n = 125 n = 224

Năng lượng (%) 98 91

Vitamin A (%) 88 85

Vitamin B1(%) 109 89

Vitamin B2 (%) 138 99

Vitamin PP(%) 101 89

Vitamin C (%) 63 63

Sắt (%) 56 87

69

Số liệu ở Bảng 3.8 cho thấy khi nhu cầu về protein được thỏa mãn

không có nghĩa là khẩu phần đã đủ về số lượng các chất dinh dưỡng khác và

cân đối về chất lượng, đặc biệt là đối với các vi chất dinh dưỡng. Cải thiện

tầm vóc người Việt là một mục tiêu đầy thách thức khi mức đáp ứng NCKN

về sắt của khẩu phần trẻ 24-35 tháng tuổi chỉ ở mức 56% và 87% đối với NCKN

về sắt của khẩu phần ăn của trẻ thuộc nhóm 36-59 tháng tuổi.

Bảng 3.9. Mức đáp ứng nhu cầu khuyến nghị của khẩu phần ăn

của trẻ 24-59 tháng tuổi theo thể loại suy dinh dưỡng của đối tượng

SDD thấp còi SDD nhẹ cân

Mức đáp ứng n = 672 n = 528

Năng lượng (%) 79 83

Vitamin B1(%) 70 72

Vitamin B2 (%) 72 75

Vitamin C (%) 47 57

Sắt (%) 60 62

Vitamin A (%) 55 49

Vitamin PP(%) 75 72

Canxi (%) 93 88

Khẩu phần của trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, nhẹ cân đều không đáp ứng

mức NCKN về các chất dinh dưỡng cho sự phát triển tối ưu của cơ thể. Mức

70

đáp ứng NCKN về các chất dinh dưỡng ở trẻ thấp còi thấp hơn so với trẻ suy

dinh dưỡng thể nhẹ cân. Mức thiếu hụt khá trầm trọng đối với một số vi chất

dinh dưỡng như vitamin A, sắt, vitamin C (mức đáp ứng từ 47% đối với

vitamin C ở trẻ thấp còi đến 62% đối với sắt ở trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân.

3.1.4. Kiến thức và thực hành dinh dưỡng cho trẻ

a) Kết quả về kiến thức chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ

Bảng 3.10. Tỷ lệ bà mẹ được tập huấn về dinh dưỡng trẻ em

Tỷ lệ phần trăm

Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng

Nội dung Sơn Trung Trung cộng

(n=346) (n=357) (n=392) (n=1095)

Được tập huấn về chế độ ăn 82,8 89,7 68,5 80,4

cho trẻ em

Được cán bộ y tế đào tạo 8,3 4,5 11,5 7,6

Biết qua radio 68,8 93,2 68,9 79,7

Được cộng tác viên dinh 33,3 40,9 24,6 34,0

dưỡng đào tạo

Biết qua đài địa phương 27,1 30,7 26,2 28,4

Biết qua tivi 50,0 26,1 42,6 37,1

Biết qua sách, báo và tạp 35,4 19,3 27,9 25,9

chí

Qua bảng 3.10 nêu trên, phần trăm bà mẹ đã được đào tạo qua các lớp

hoặc các khóa tập huấn thực hành về dinh dưỡng cho trẻ em khá cao, khoảng

80,4%. Tỷ lệ này cao nhất ở xã Vân Trung với 89,7% và thấp nhất là ở xã

Nghĩa Trung với tỷ lệ 68,5%.

71

Bảng 3.11. Nhận thức về dinh dưỡng của các bà mẹ

Tỷ lệ phần trăm

Nhận thức của bà Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

mẹ về Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

50,0 44,6 37,1 43,3 Vai trò của

Vitamin

Ảnh hưởng của 62,9 62,0 55,7 60,0

giun tới sức khỏe

Tuy chưa được một nửa số bà mẹ hiểu về vai trò của vitamin với sức

khỏe trẻ em (43,3%), nhưng có tới 60% bà mẹ đều hiểu rằng giun sán ảnh

hưởng tới sức khỏe của trẻ nhỏ.

Bảng 3.12. Hiểu biết của các bà mẹ về nguyên nhân dẫn đến

thiếu máu ở trẻ

Tỷ lệ phần trăm

Nguyên nhân dẫn Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

đến thiếu máu ở Sơn Trung Trung (n = 1.200)

trẻ (n = 400) (n= 400) (n= 400)

Do thiếu dinh 60,9 58,4 48,9 51,1

dưỡng

Do nhiễm ký sinh 10,9 8,9 7,8 9,0

trùng đường ruột

Do sự phát triển 10,9 13,9 8,9 11,4

của bào thai

72

Hiểu biết về thiếu máu còn rất hạn chế, chỉ có khoảng một nửa các bà

mẹ được hỏi biết một trong những nguyên nhân gây thiếu máu là thiếu dinh

dưỡng (51,1%), dưới 10% biết rằng thiếu máu là do nhiễm ký sinh trùng

đường ruột (ảnh hưởng của giun, sán…) và chỉ khoảng 11,4% có biết nguyên

nhân dẫn đến thiếu máu ở trẻ là do sự phát triển của bào thai.

Bảng 3.13: Nhận thức của bà mẹ về các nhóm thực phẩm chính

Nhóm thực phẩm Tỷ lệ phần trăm

chính Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

59,4 57,4 64,4 60,4 Carbohydrate

71,9 83,2 84,0 80,8 Protein

48,4 34,7 35,6 38,4 Lipid

62,5 63,4 65,6 63,3 Vitamin và chất

khoáng

Hầu hết bà mẹ (80,8%) đều hiểu biết về vai trò của Protein (thịt, cá,

trứng, sữa…) trong sự phát triển cơ thể của trẻ. Tuy nhiên, chỉ có 60,4% hiểu

biết về vai trò của chất tinh bột (gạo, bột mỳ…). Phần trăm các bà mẹ được

hỏi lại có tỷ lệ rất thấp về sự hiểu biết về vai trò của chất béo, chỉ có khoảng

38,4%.

73

b) Thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ

Bảng 3.14. Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú mẹ ngay sau đẻ

Tỷ lệ phần trăm

Thời gian mẹ cho Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

trẻ bú sau khi đẻ Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

< ½ giờ 53,3 59,0 54,2 56,0

< 1 giờ 26,7 21,0 22,9 23,0

< 3 giờ 20,0 20,0 22,9 21,0

Hơn một nửa các bà mẹ (56,0%) các bà mẹ được hỏi đều cho trẻ bú mẹ

ngay trong nửa giờ đầu sau khi đẻ. 100% trẻ mới sinh đều được mẹ cho bú

ngay trong vòng 03 giờ sau đẻ.

Hầu hết các bà mẹ đều thể hiện sự hiểu biết của mình về ích lợi của

việc nuôi con bằng sữa mẹ. Thông điệp “Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ

sinh và trẻ nhỏ” đã được 98,4% bà mẹ được hỏi biết đến và luôn nhớ.

Có 72,5% bà mẹ biết cách “tô màu bát bột” cho trẻ, tỷ lệ này cao nhất

là ở xã Vân Trung với 79% bà mẹ được hỏi và thấp nhất là ở xã Bích Sơn với

60% với chỉ tiêu này.

Bảng 3.15 : Tỷ lệ sử dụng biểu đồ theo dõi tăng trưởng cho trẻ

Người giữ biểu đồ theo Tỷ lệ phần trăm

Tổng cộng

dõi sự phát triển của trẻ Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa

(n = 1.200)

Sơn Trung Trung

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

Cộng tác viên dinh dưỡng 27,0 48,0 31,5 37,1

Gia đình của trẻ 11,3 10,0 4,5 8,4

Không chỗ nào 59,7 42,0 64,0 54,2

74

Chỉ có khoảng 50% số trẻ em dưới 2 tuổi được theo dõi sự tăng trưởng

thông qua biểu đồ tăng trưởng của trẻ. Bảng trên cũng chỉ rõ rằng chủ yếu

cộng tác viện dinh dưỡng đã giữ và theo dõi sự phát triển của trẻ qua biểu đồ

tăng trưởng với 37,1%, chỉ có 8,4% biểu đồ của trẻ được gia đình giữ và theo

dõi.

Các bà mẹ ở huyện Việt Yên rất thường xuyên liên hệ với cộng tác

viên dinh dưỡng với tỷ lệ 84,2% để trao đổi về các vấn đề liên quan tới chăm

sóc dinh dưỡng cũng như các vấn đề có liên quan tới sức khỏe của trẻ.

3.1.5. Chăm sóc dinh dưỡng khi mang thai

Bảng 3.16. Khẩu phần ăn của bà mẹ trong suốt quá trình thai kỳ

Tỷ lệ phần trăm

Nội dung Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

Ăn ít hơn bình thường 12,9 6,9 6,7 8,3

Ăn bình thường 33,9 45,5 43,3 41,1

Ăn nhiều hơn bình thường 53,2 47,5 48,9 49,4

Chỉ có khoảng một nửa các bà mẹ được hỏi có chế độ ăn nhiều hơn

bình thường trong suốt quá trình mang thai, nửa còn lại vẫn có thói quen ăn ít

hơn bình thường với tỷ lệ khoảng 41,1% hoặc thậm chí còn có 8,3% bà mẹ

được hỏi đã thực hiện chế độ ăn kiêng.

75

Bảng 3.17. Chế độ làm việc của bà mẹ trong quá trình mang thai

Tỷ lệ phần trăm

Chế độ làm việc của bà Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

mẹ Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

Làm việc ít hơn bình 43,5 40,6 39,3 40,9

thường

Làm việc bình thường 53,2 57,4 59,6 57,1

Làm việc nhiều hơn bình 3,2 1,0 1,1 1,6

thường

Hầu hết các bà mẹ ở huyện Việt Yên được hỏi đều làm nghề nông vì

vậy họ vẫn phải làm việc với cường độ không giảm trong suốt quá trình mang

thai. Kết quả ở bảng 3.23 cho thấy chỉ có 40,9% bà mẹ mang thai giảm cường

độ làm việc, trong khi 57,1% bà mẹ được hỏi giữ chế độ làm việc bình

thường như chưa mang thai.

Bảng 3.18. Theo dõi việc uống viên sắt trong suốt quá trình mang thai và

uống vitamin A trong vòng 01 tháng sau đẻ

Tỷ lệ phần trăm

Nội dung theo Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

dõi Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

Uống viên sắt 79,0 97,0 94,3 91,6

Uống vitamin A 45,2 63,4 39,1 50,4

76

Ở huyện Việt Yên, 91,6% các bà mẹ mang thai đều thực hiện việc uống

viên sắt trong suốt quá trình mang thai. Chỉ có 50,4% bà mẹ uống vitamin A

sau đẻ.

3.2. Tình trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp, tiêu chảy và nhiễm ký sinh

trùng đường ruột ở trẻ em

3.2.1. Tình hình nhiễm khuẩn hô hấp cấp

Bảng 3.19: Tình hình sốt và ho của trẻ trong vòng 3 tháng gần đây

Tỷ lệ phần trăm

Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

Tình hình Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

54,7 51,5 57,8 54,5 Sốt

76,6 64,4 81,1 73,3 Ho

Tỷ lệ trẻ mắc sốt tương đối cao, có đến hơn một nửa (54,5%) số trẻ ở 3

xã nghiên cứu mắc sốt trong vòng 3 tháng gần đây.

3.2.2. Tỷ lệ nhiễm khuẩn tiêu hoá

Bảng 3.20: Tình trạng trẻ em bị tiêu chảy trong vòng 3 tháng qua

Tỷ lệ phần trăm

Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

Tình hình Sơn Trung Trung (n = 1.200)

(n = 400) (n= 400) (n= 400)

Trẻ em bị tiêu 34,4 33,7 41,1 36,5

chảy

77

Trên 36% trẻ em đã mắc tiêu chảy trong vòng 03 tháng qua, đó hoàn

toàn là tỷ lệ cao trẻ em bị tiêu chảy trong vòng 03 tháng qua khi so sánh với

cùng chỉ số đó ở khu vực Bắc Bộ.

30

25

20

15

10

5

0

1

2

3

4

5

SDD thấp còi

Nhiễm giun

3.2.3. Tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ dưới 5 tuổi thuộc huyện Việt Yên

Hình 3.5. Tỷ lệ nhiễm giun cao ở nhóm hộ gia đình có trẻ SDD cao

3.2.4. Xử lý khi trẻ mắc bệnh

Bảng 3.21: Tình hình điều trị sốt/ho

Tỷ lệ phần trăm

Tình hình điều trị

Tổng cộng (n = 1.200)

Có điều trị Xã Bích Sơn (n = 400) 84,4 Xã Vân Trung (n= 400) 64,4 Xã Nghĩa Trung (n= 400) 84,4 76,5

Tự điều trị 13,0 6,2 5,3 7,7

Người khác điều trị cho 18,5 16,9 21,1 19,0

Do cán bộ y tế điều trị 83,3 93,8 82,9 86,7

78

Các triệu chứng của sốt, ho được các bà mẹ coi là dấu hiệu thường diễn

ra trong suốt 5 năm gần đây ở khu vực điều tra thực địa. Khi trẻ có dấu hiệu

hô hấp cấp, đa số các bà mẹ (86,7%) đều mang con họ tới các cơ sở y tế, chỉ

có 7,7% bà mẹ tự đi mua thuốc ở hiệu thuốc hoặc ngoài chợ để về tự điều trị

cho trẻ. Tỷ lệ cao bà mẹ đã mang con họ tới các cơ sở y tế khi chúng mắc ốm,

có dấu hiệu sốt hoặc ho tương đồng ở cả 3 xã nghiên cứu. Có sự khác biệt về

việc các bà mẹ tự điều trị cho con mình, cao nhất ở xã Bích Sơn (13,0%) và

thấp nhất ở xã Ngĩa Trung (5,3%).

3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ

3.3.1. Các yếu tố về kinh tế - xã hội

Bảng 3.22. Đặc điểm chung của các hộ gia đình được điều tra

Tỷ lệ phần trăm

Đặc điểm đối tượng

Xã Bích Sơn (n=64) 57,8 Xã Vân Trung (n=101) 81,2 Xã Nghĩa Trung (n=90) 73,3 Tổng cộng (n=255) 72,5 Mẹ là nông dân

54,7 79,6 56,8 65,2 Bố là nông dân

Các thiết bị gia dụng của

hộ gia đình:

Radio 34,4 26,7 37,8 32,5

Cassette 18,8 5,0 17,8 12,9

VCD/DVD 48,4 34,7 62,2 47,8

Tivi 87,5 84,2 92,2 87,8

Xe đạp 95,3 92,1 88,9 91,8

Xe máy 75,0 58,4 67,8 65,9

Ô-tô/Máy nông nghiệp 3,1 1,0 0.0 1,2

Máy tính 4,7 1,0 2,2 2,4

79

Biểu đồ 3.6. Đặc điểm chung của các hộ gia đình được điều tra

Đa số các bà mẹ được hỏi đều làm ruộng, chiếm tới tỷ lệ là 72,5%,

trong đó tỷ lệ phần trăm bà mẹ là nông dân thấp nhất ở xã Bích Sơn và tỷ lệ

đó cao nhất ở xã Vân Trung. Đề cập đến nghề nghiệp của các ông bố, xu

hướng nghề nông cũng là phổ biến và tương tự như nghề nghiệp của các bà

mẹ được hỏi ở địa bàn nghiên cứu.

Hầu hết các gia đình đều có tivi, tỷ lệ này là 87,8%, và có khoảng một

phần ba số hộ gia đình đều có radio. Phương tiện đi lại thông dụng và phổ

80

biến nhất là xe đạp, chiếm khoảng 91,8% và có khoảng 65,9% số hộ gia đình

có xe máy.

3.3.2. Liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng, nhiễm giun và tỷ lệ thiếu máu

ở trẻ dưới 5 tuổi

Bảng 3.23. Tình trạng nhiễm giun và thiếu máu ở trẻ

Tỷ lệ phần trăm

Xã Bích Xã Vân Xã Nghĩa Tổng cộng

Tình trạng Sơn Trung Trung

(n=104) (n=103) (n=101) (n=308)

Nhiễm giun* 39,0 26,7 39,3 35,0

Thiếu máu 28,1 23,7 34,4 28,7

*Tỷ lệ nhiễm giun được cộng chung cho 3 loại giun đũa, giun tóc và giun

móc

Biểu đồ 3.7. Tình trạng nhiễm giun và thiếu máu ở trẻ

81

Có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm KST đường ruột giữa các địa phương

tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ nhiễm KST đường ruột của trẻ em ở xã Bích Sơn

(39%) và Nghĩa Trung (39,3%) cao hơn ở xã Vân Trung (26,7%) một cách có

ý nghĩa thống kê (p<0,05, 2 test). Tỷ lệ nhiễm giun đường ruột không đồng

đều giữa các loại giun. Tỷ lệ nhiễm giun đũa chung là 32,2% và giun tóc là

2,8%. Không có trẻ em bị nhiễm giun móc. Trong số những trẻ bị nhiễm giun,

có 98,1% chỉ nhiễm một loại giun đường ruột (nhiễm đơn), 1,9% trẻ nhiễm

phối hợp 2 loại giun và không có trẻ nhiễm cả ba loại giun. Có 65% trẻ không

nhiễm bất kỳ loại giun nào.

Tỷ lệ thiếu máu (Hb < 110g/l) chung của trẻ em tại các điểm điều tra ở

3 xã là 28,7%. Thiếu máu chủ yếu ở mức độ nhẹ, có 27,4% trẻ em tại các

điểm điều tra ở huyện Việt Yên là thiếu máu nhẹ, 1,3% thiếu máu ở mức độ

vừa, không có trẻ em bị thiếu máu nặng. Tỷ lệ trẻ em thiếu máu ở xã Nghĩa

Trung (34,4%) cao hơn xã Vân Trung (23,7%) một cách có ý nghĩa thống kê

(p<0,05, 2 test).

3.3.3. Liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng trẻ em với điều kiện kinh tế -

xã hội của cha mẹ.

Các yếu tố được giả định là có liên quan tới tình trạng suy dinh dưỡng

thể nhẹ cân, chỉ có nghề nghiệp của cha mẹ trẻ chỉ ra một cách rõ ràng có liên

quan tới tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ thể nhẹ cân. Các yếu tố khác như:

gia đình kiểm tra định kỳ sức khỏe của trẻ, các chỉ số về tình trạng kinh tế -

xã hội của các gia đình đã không chỉ ra các dấu hiệu thống kê có ý nghĩa.

82

Bảng 3.24: Quan hệ giữa tình trạng dinh dưỡng trẻ em với điều kiện

kinh tế - xã hội của cha mẹ

Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân (%) Nghề nghiệp của cha mẹ

Mẹ (n=224) Cha (n=214) trẻ

Nông dân 29,9 32,4

Thợ thủ công 13,5 13,5

Công nhân có tay nghề cao 6,3 7,1

Tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân 24,6 25,1

Giá trị p (b/t)* <0,05 <0,01

* ANOVA test, so sánh giữa các nhóm nghề nghiệp

Biểu đồ 3.8. Một số yếu tố bố mẹ với SDD nhẹ cân

Sự kết hợp với các yếu tố giả định như: nghề nghiệp của cha hoặc mẹ

trẻ, kiểm tra định kỳ sức khỏe của trẻ, tài sản của gia đình ở mô hình đã điều

chỉnh thì không chỉ ra các dấu hiệu có ý nghĩa thống kê cùng với xem xét sự

phù hợp của mô hình, (p = 0.89) sử dụng mô hình của Homer và Lemeshow.

83

Bảng 3.25. Tần suất ốm do các bệnh thông thường của trẻ

suy dinh dưỡng thể nhẹ cân

% của trẻ suy dinh % của trẻ suy dinh dưỡng thể

Ốm thông dưỡng thể nhẹ cân (mô nhẹ cân (mô hình đã điều

thường hình chưa điều chỉnh)* chỉnh)*

Có ốm Không Giá trị B Đã điều chỉnh OR

Sốt 20,0% 28,0% -0,65 0,52

Ho 27,0% 18,0% +0,96 2,6**

Tiêu chảy 18,5% 28,5% -0,50 0,6

* Tỷ lệ phần trăm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân trong số các trẻ có mắc ốm và

không mắc ốm.

** Độ nhạy là p<0,05

Bảng 3.25 cho ta thấy tần suất ốm do các bệnh thông thường của trẻ

suy dinh dưỡng thể nhẹ cân. Ở mô hình chưa điều chỉnh, trẻ suy dinh dưỡng

thể nhẹ cân mắc ốm thông thường có sự khác biệt hơn hẳn so với nhóm trẻ

mắc ốm và không mắc ốm thông thường. Tuy nhiên, chỉ có tình trạng ho mới

chỉ rõ ảnh hưởng tới nhóm trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân. Trẻ mắc ho trong

vòng 03 tháng xuất hiện nhiều hơn 2,6 lần so với các bệnh thông thường còn

lại.

84

3.4. Hiệu quả can thiệp dinh dưỡng cộng đồng.

Do thời gian can thiệp ngắn nên nghiên cứu này chỉ xem xét mức thay

đổi của trung bình WAZscores và HAZscores như sau:

Tại thời điểm trước can thiệp, trung bình chỉ số cân nặng theo tuổi,

(WAZscore) chiều cao theo tuổi (HAZscore), hàm lượng Hb trung bình,

hàm lượng ferritin huyết thanh trung bình ở nhóm can thiệp và nhóm

chứng là tương đương nhau (p>0,05).

Bảng 3.26. Tình trạng dinh dưỡng trước khi can thiệp

Nhóm can thiệp X Nhóm chứng X ± δ p

± δ (n = 81) (n = 162)

Chỉ tiêu Trước Sau can Trước Sau can

can thiệp thiệp can

thiệp thiệp

Trung bình - 1,548 ± - 1,314 ± - 1,656 ± - 1,676 ± >0,05

WAZscore 1,561 0,887 0,885 0,920

p <0,05 p >0,05

Trung bình - 1,552 ± - 1,265 ± - 1,785 ± - 1,734 ± >0,05

HAZscore 1,590 0,900 1,037 0,977

p <0,05 p >0,05

Ở nhóm can thiệp, trung bình chỉ số cân nặng theo tuổi (WAZscore)

sau can thiệp là - 1,314 ± 0,887, khác biệt so với trước can thiệp (p<0,05).

Ở nhóm chứng, trung bình chỉ số cân nặng theo tuổi (WAZscore) sau

can thiệp là - 1,676 ± 0,920, không khác biệt so với trước can thiệp (p>0,05).

Ở nhóm can thiệp, trung bình chỉ số chiều cao theo tuổi (HAZscore)

sau can thiệp là -1,265 ± 0,900, khác biệt so với trước can thiệp (p<0,05).

85

Ở nhóm chứng, trung bình chỉ số chiều cao theo tuổi (HAZscore) sau can

thiệp là -1,734 ± 0,977, không khác biệt so với trước can thiệp (p>0,05).

Bảng 3.27. Thay đổi nồng độ Hb trước và sau can thiệp.

Nhóm can thiệp X ± δ Nhóm chứng X ± δ p

Nội dung (n = 81) (n = 162)

Hb trung 11,360 ± 12,937 ± 11,554 ± 11,840 ± >0,05

bình 1,192 1,834 1,346 1,282

(g/dL) p <0,01 p >0,05

Thay đổi 1,577 ± 1,714 0,285 ± 1,383 0,001

về Hb

trung bình

Ferritin 50,680 ± 66,235 ± 44,812 ± 47,701 ± >0,05

trung bình 34,862 42,479 29,352 33,574

(µg/L) p <0,05 p >0,05

Thay đổi 15,555 ± 28,372 2,889 ± 21,880 0,001

về Ferritin

Đối với chỉ số Hb, ở nhóm can thiệp, hàm lượng trung bình Hb đã tăng

từ 11,360 ±1,192 g/dL trước can thiệp lên 12,937±1,834 g/dL sau can thiệp

(p<0,001), tăng trung bình 1,577 ± 1,714 g/dL. Sự gia tăng hàm lượng trung

bình Hb khác nhau có ý nghĩa giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng với

p<0,001.

Ở nhóm chứng, hàm lượng trung bình Hb sau can thiệp là 11,840±

1,282 g/dl, không khác biệt so với trước can thiệp (p>0,05).

Đối với chỉ số ferritin huyết thanh, ở nhóm có can thiệp, hàm lượng

trung bình ferritin huyết thanh đã tăng từ 50,680 ± 34,862 µg/L trước can

thiệp lên 66,235 ± 42,479 µg/L sau can thiệp (p<0,05), tăng trung bình

86

15,555± 28,372 µg/L. Sự gia tăng hàm lượng trung bình ferritin huyết thanh

khác nhau có ý nghĩa giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng với p<0,01.

Ở nhóm chứng, hàm lượng trung bình Ferritin huyết thanh sau can

thiệp là 47,701 ± 33,574 µg/L, không khác biệt so với trước can thiệp

(p>0,05).

87

CHƯƠNG 4

BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần ăn trẻ em tại địa phương

nghiên cứu

4.1.1. Phân bố tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng và thiếu máu

Dựa vào khuyến nghị phân loại mức SDD trẻ em của Tiểu ban chuyên

viên Dinh dưỡng thuộc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì tỷ lệ SDD trẻ em ở

các vùng nghiên cứu (bảng 3.9) được sắp xếp vào các mức độ theo bảng.

Theo cách phân mức đã được WHO dựa vào đó thì tỷ lệ SDD nhẹ cân

của cả 3 xã thuộc mức cao, SDD thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi thuộc hai xã

Bích Sơn và Nghĩa Trung thuộc mức cao, riêng xã Vân Trung thuộc mức thấp

còi trung bình và ở cả 3 xã, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng gày còm ở mức trung

bình. So sánh trên các khoảng tin cậy CI=95% cho thấy suy dinh dưỡng trẻ

em dưới 5 tuổi của các xã nghiên cứu không có sự khác biệt đáng kể. Kết quả

về tỷ lệ suy dinh dưỡng theo các chỉ tiêu nhân trắc cân nặng theo tuổi, chiều

cao theo tuổi và cả cân nặng theo chiều cao ở trên không khác biệt so với tỷ lệ

SDD trẻ em dưới 5 tuổi năm 2007 tại tỉnh Bắc Giang (bảng 3.2). Sự khác biệt

không lớn và không có ý nghĩa thống kê về các tỷ lệ suy dinh dưỡng so trên

khoảng tin cậy CI=95%.

Nhìn chung, các thể cân nặng/tuổi đều nằm ở mức cao theo phân loại

của Tổ chức Y tế thế giới (>20%). Tỷ lệ SDD chiều cao/tuổi cũng ở mức cao

theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới là 2 xã Bích Sơn và Nghĩa Trung

(>30%), trong khi tỷ lệ SDD thấp còi ở xã Vân Trung thuộc mức trung bình

(trong khoảng >20% đến <30%). Các tỷ lệ SDD gầy còm ở cả 3 xã thuộc mức

trung bình (5-9,9%).

Bảng 3.4 trình bày tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em 3 xã nghiên cứu, ở xã Bích

88

Sơn là 28,1% ± 3,4; ở xã Vân Trung là 23,7% ± 3,6 và ở xã Nghĩa Trung

28,7% ± 3,5. Như vậy ở cả ba xã, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu máu cũng

tương tự và không có sự khác biệt nhau.

Các bảng 3.7 và 3.8 cho thấy rõ về khẩu phần ăn thực tế của trẻ em

được nghiên cứu.

Theo quan sát của chúng tôi thì những gia đình tiêu thụ gạo ở mức cao

thường là những hộ gia đình có cơ cấu bữa ăn đơn điệu, ngoài cơm ra chỉ có

rau và nước chấm, đôi khi có thêm cá khô, tép… Bữa ăn như vậy thiếu các

chất dinh dưỡng, đặc biệt là vi chất dinh dưỡng. Điều này cũng phù hợp với

nhiều nghiên cứu của các tác giả Phạm Thúy Hòa, Hà Việt Hòa [26].

Chúng tôi xem xét mức đáp ứng nhu cầu về một số chất dinh dưỡng

theo 2 nhóm tháng tuổi cho thấy: nhìn chung, khẩu phần ăn của trẻ ở nhóm

tuổi nhỏ (từ 24-35 tháng) có mức đáp ứng nhu cầu khuyến nghị cao hơn so

với khẩu phần ăn của trẻ ở nhóm tuổi lớn hơn (từ 36-59 tháng). Khi trẻ ở độ

tuổi lớn hơn thì sự quan tâm nuôi dưỡng của gia đình dành cho trẻ cũng ít

hơn. Điều này có thể là do hạn chế về thời gian, do quan niệm chưa đúng mức

của gia đình về sự chăm sóc cần thiết trong giai đoạn này, thậm chí có trẻ đã

có em…Rõ ràng sự sụt giảm về khả năng đáp ứng nhu cầu các chất dinh

dưỡng làm cho tình trạng thiếu dinh dưỡng của trẻ tiếp tục duy trì ở mức cao

sau 3 tuổi và ảnh hưởng tới tầm vóc của trẻ sau này. Riêng mức đáp ứng nhu

cầu sắt của khẩu phần ăn của nhóm trẻ 24-35 tháng tuổi chỉ đạt 56% NCKN

thấp hơn so với khẩu phần ăn của nhóm trẻ 36-59 tháng tuổi (đạt 87%

NCKN).

Rau xanh cũng đã được các bậc phụ huynh sử dụng trong bữa ăn của

trẻ, mức tiêu thụ trung bình ở mức 54 g/ngày. Phải chăng hiểu biết về việc sử

dụng rau xanh trong bữa ăn cho trẻ của các bà mẹ của vùng miền núi chưa

đầy đủ. Vì cần chú ý tăng cường chất xơ trong khẩu phần ăn của trẻ để giúp

89

trẻ hấp thu các chất dinh dưỡng tốt hơn, ăn ngon miệng hơn và nhất là phòng

chống táo bón cho trẻ.

Mức năng lượng bình quân đạt trung bình 1.158 Kcal/trẻ/ngày, đáp ứng

được 97% nhu cầu khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng.

Lượng protit tổng số của khẩu phần trung bình đạt 49g/ngày chiếm

17% năng lượng của khẩu phần và đã đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị của

Viện Dinh dưỡng. Tỷ lệ protit động vật chiếm 56% protit tổng số so với khẩu

phần của hộ gia đình chỉ có 33% protein nguồn động vật. Như vậy bữa ăn của

trẻ đã được quan tâm và ưu tiên hơn.

Vì vậy các giải pháp phòng chống thiếu máu ở trẻ em cần được quan

tâm, đặc biệt chú ý đến đối tượng trẻ ở độ tuổi nhỏ hơn - nhóm tuổi có nguy

cơ cao hơn. Việc bổ sung sắt vào thức ăn cho trẻ nhỏ thực sự là một giải pháp

quan trọng và cấp bách.

Khẩu phần của trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, nhẹ cân đều không đáp

ứng mức NCKN về các chất dinh dưỡng cho sự phát triển tối ưu của cơ thể

(trừ nhu cầu về protein). Mức đáp ứng NCKN về các chất dinh dưỡng ở trẻ

thấp còi thấp hơn so với trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân. Mức thiếu hụt khá

trầm trọng đối với một số vi chất dinh dưỡng như vitamin A, sắt, vitamin C

(mức đáp ứng từ 47% đối với vitamin C ở trẻ thấp còi đến 62% đối với sắt ở

trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân). Khi nhu cầu về protein được thỏa mãn không

có nghĩa là khẩu phần đã đủ về số lượng các chất dinh dưỡng khác và cân đối

về chất lượng, đặc biệt là đối với các vi chất dinh dưỡng. Cải thiện tầm vóc

người Việt Nam là một mục tiêu đầy thách thức khi mức đáp ứng NCKN về

sắt của khẩu phần ăn của trẻ 24-59 tháng chỉ ở mức 76% và 86% đối với NCKN

về vitamin A.

4.1.2. Kiến thức dinh dưỡng của bà mẹ

Các bảng 3.10 và 3.11 cho thấy về kiến thức dinh dưỡng của người mẹ

90

có con dưới 5 tuổi ở địa phương nghiên cứu.

Các bà mẹ đã có được các thông tin truyền thông về chăm sóc dinh

dưỡng trẻ em từ các kênh phương tiện thông tin đại chúng khác nhau, đa số bà

mẹ có được thông tin về chăm sóc dinh dưỡng trẻ em qua radio với 79,7% bà

mẹ được hỏi, tiếp đó 37,1% bà mẹ nhận được các thông tin trên qua tivi, và

với tỷ lệ không nhỏ 38,4% bà mẹ biết cách chăm sóc dinh dưỡng cho con

mình qua đài phát thanh, truyền hình địa phương.

Truyền thông trực tiếp về chăm sóc dinh dưỡng trẻ em cho các bà mẹ

được các cộng tác viên dinh dưỡng thực hiện, chiếm 34%, trong đó giáo dục

truyền miệng được các cán bộ y tế thực hiện (trong suốt quá trình kiểm tra

thai kỳ) thì lại không nhiều (7,6%).

Truyền thông giáo dục chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ qua việc các bà

mẹ ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đọc sách, báo, tạp chí chiếm tỷ lệ

khiêm tốn, chỉ có 25,9%. Điều này chứng tỏ các bà mẹ ở nông thôn hoặc chưa

có thói quen đọc sách, hoặc chưa có điều kiện tiếp cận với các loại hình

truyền thông này. Kết quả này bộc lộ cho thấy nó cũng tương tự như kết quả

của cuộc điều tra “Tình trạng dinh dưỡng trẻ em năm 2004”. Điều đó chỉ ra

rằng vẫn còn một hạn chế trong chế độ chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ và cần

phải tăng cường đó là kiến thức của các bà mẹ cần được giáo dục, tuyên

truyền về vai trò của chất béo cũng như nhóm thực phẩm này mang lại lượng

calo cao nhất trong khẩu phần ăn của trẻ.

Từ số liệu ở bảng trên cho thấy rất cần thiết phải tăng cường sự tuyên

truyền giáo dục về dinh dưỡng cho trẻ ở các bà mẹ hoặc cho người nuôi

dưỡng trẻ, đặc biệt là đối với các đối tượng này thuộc huyện Việt Yên. Thông

tin truyền thông về dinh dưỡng để giúp các bà mẹ hiểu đủ và đúng về vai trò

của các nhóm thực phẩm, đặc biệt là nhóm thực phẩm chất béo.

Hiểu biết về thiếu máu ở trẻ em chỉ có một nửa các bà mẹ được hỏi biết

91

một trong những nguyên nhân gây thiếu máu là thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là

chỉ có dưới 10% các bà mẹ được hỏi biết rằng thiếu máu là do nhiễm ký sinh

trùng đường ruột (ảnh hưởng của giun, sán…).

Do ngân sách hạn chế nên biểu đồ theo dõi sự phát triển của trẻ em

được phân phối không đủ theo nhu cầu từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện và

tuyến xã. Chỉ có khoảng một nửa số trẻ em dưới 2 tuổi được theo dõi sự tăng

trưởng thông qua biểu đồ tăng trưởng của trẻ trong đó chủ yếu do cộng tác

viện dinh dưỡng đã giữ và theo dõi sự phát triển của trẻ qua biểu đồ tăng

trưởng mà biểu đồ tăng trưởng của trẻ không được gia đình giữ và theo dõi.

Như vậy, cần phải tăng cường truyền thông để các gia đình có quyền lợi và

nghĩa vụ trong việc cất giữ biểu đồ tăng trưởng để theo dõi sự phát triển của

con em mình trong suốt quá trình phát triển nhằm dễ can thiệp hơn khi phát

hiện có vấn đề trong sự phát triển của trẻ. Việc này rất có lợi cho các gia đình

trong việc qua theo dõi thường xuyên này giúp họ biết tình trạng sức khỏe

cũng như tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ rất

quan trọng và cần được cập nhật, theo dõi để có can thiệp kịp thời.

Vấn đề chăm sóc dinh dưỡng ngay từ đầu cho bà mẹ mang thai vẫn là

vấn đề còn tồn tại cần xem xét để nâng cao chất lượng giáo dục truyền thông.

Chỉ có khoảng một nửa các bà mẹ được hỏi có chế độ ăn nhiều hơn bình

thường trong suốt quá trình mang thai, nửa còn lại vẫn có thói quen ăn ít hơn

bình thường thậm chí còn có bà mẹ vẫn thực hiện chế độ ăn kiêng trong thời

gian mang thai.

Ở huyện Việt Yên, đa số các bà mẹ mang thai đều thực hiện việc uống

viên sắt trong suốt quá trình mang thai. Viên sắt được cán bộ y tế phát miễn

phí cho các bà mẹ mang thai tại trạm y tế xã. Tuy nhiên, qua kết quả của các

cuộc thảo luận nhóm, các bà mẹ mang thai đã không uống viên sắt thường

xuyên do đã xảy ra phản ứng phụ của việc dùng thuốc như (có cảm giác buồn

92

nôn, táo bón). Chỉ có khoảng một nửa số bà mẹ uống vitamin A sau đẻ, có thể

là do đa số bà mẹ mang thai ở huyện Việt Yên đều đẻ ở bệnh viện huyện, nơi

mà Chương trình phát viên vitamin A miễn phí từ Dự án Phòng chống suy

dinh dưỡng trẻ em chưa bao phủ, đặc biệt là ở khoa sơ sinh của bệnh viện

huyện.

4.1.3. Tình hình nhiễm giun ở trẻ em dưới 5 tuổi vùng nghiên cứu.

Mức nhiễm giun của trẻ em dưới 5 tuổi ở 3 xã có tỷ lệ chung là 35%

(Bảng 3.29). Nhiễm giun có liên quan rõ rệt đến suy dinh dưỡng và thiếu máu

(Bảng 3.32).

Bảng 3.23 và hình 3.5 cho thấy mức nhiễm giun của 3 xã với tỷ lệ

chung là 28,7%. Nhiễm giun có liên quan rõ rệt đến tình trạng suy dinh dưỡng

và thiếu máu như đã nêu. Bảng trên cho thấy rõ nhiễm giun có liên quan chặt

chẽ đến suy dinh dưỡng trẻ em, đồng thời chỉ rõ nhiễm giun có liên quan đến

thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ em vùng được nghiên cứu.

Khi xem xét các yếu tố nguy cơ gây ra tình trạng nhiễm giun bằng cách

sử dụng OR điều chỉnh (nhằm tránh nhiễu) thì thấy rõ các yếu tố vệ sinh cá

nhân như rửa tay bằng xà phòng, các tập quán vệ sinh có liên quan đến nhiễm

giun. Đồng thời yếu tố liên quan tới bà mẹ và gia đình của trẻ như trình độ

văn hóa của bà mẹ, nhà nền đất… cũng có liên quan chặt chẽ như chỉ điểm

tình trạng vệ sinh kém là nguyên nhân của tình trạng nhiễm ký sinh trùng

đường ruột ở trẻ em.

Kết quả phân tích đơn biến cũng chỉ rõ các yếu tố nhiễm giun, thiếu

máu dinh dưỡng, trẻ bị ốm trên 160 ngày/năm có ý nghĩa thống kê rõ rệt với

suy dinh dưỡng trẻ em vùng được nghiên cứu.

4.2. Một số chỉ tiêu bệnh tật trước khi can thiệp dinh dưỡng

Qua điều tra 308 trẻ em thuộc các vùng nông thôn ở 3 xã thuộc huyện

Việt Yên, tỉnh Bắc Giang chúng tôi thấy thiếu máu, nhiễm ký sinh trùng

93

đường ruột, nhiễm khuẩn hô cấp cấp tính và tiêu chảy là các vấn đề sức khoẻ

chủ yếu của trẻ em ở các vùng điều tra. Các yếu tố về nhiễm giun liên quan

một cách có ý nghĩa đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em trong nghiên cứu.

Bên cạnh đó, thiếu máu cũng liên quan chặt chẽ đến tình trạng nhiễm ký sinh

trùng đường ruột.

Khi quan sát tình trạng thiếu máu trong nghiên cứu này chúng tôi

thấy: tỷ lệ thiếu máu (Hemoglobin < 110g/l) của trẻ em tại 3 điểm điều tra là

28,7% xếp ở mức trung bình về YNSKCĐ (> 20%). Thiếu máu có sự dao

động theo địa điểm nghiên cứu: tỷ lệ thiếu máu ở xã Nghĩa Trung là 34,4%,

Bích Sơn là 28,1% và Vân Trung là 23,7% (Bảng 3.23).

Kết quả này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn

Văn Nhiên và CS, 2008 điều tra trên trẻ 12-72 tháng tuổi ở huyện Định Hoá,

tỉnh Thái Nguyên và thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn

Thanh Hà (2010) (40,9%) trên trẻ suy dinh dưỡng thấp còi. Kết quả này tương

tự như kết quả về tỷ lệ thiếu máu chung của trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam

(29,2%) của tác giả Nguyễn Xuân Ninh (2010) và Nguyễn Công khẩn và CS,

2007 điều tra ở trẻ em dưới 5 tuổi ở 4 vùng sinh thái của Việt Nam năm 2001.

Khi so sánh với số liệu điều tra ở trẻ em của các nước khác thì tỷ lệ trẻ

thiếu máu trong nghiên cứu này tương tự của Thái Lan (Emorn và cộng sự,

2006), nhưng thấp hơn so với kết quả nghiên cứu trên trẻ em ở In-đô-nê-sia,

Nepal.

Thiếu máu gây ảnh hưởng xấu tới phát triển thể lực và giảm khả năng

học tập. Thiếu máu có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Thiếu một số vi chất

dinh dưỡng như sắt, vitamin A, các vitamin nhóm B như B6, B12, riboflavin,

và acid folic cũng góp phần gây nên thiếu máu [46]. Một số các bệnh nhiễm

KST như sốt rét, KST đường ruột cũng là nguyên nhân gây ra thiếu máu. Kết

quả nghiên cứu trên trẻ em ở một số vùng nghèo của Việt Nam của tác giả

94

Nguyễn Xuân Ninh và CS, 2009 cho thấy tỷ lệ sắt huyết thanh thấp là 22,3%,

như vậy thiếu sắt là một vấn đề mang ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng ở mức độ

nặng (20-25%) theo phân loại của WHO (2001) [227] và thiếu vitamin A tiền

lâm sàng (retinol huyết thanh <0,7 mol/l) là 14,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ thiếu

máu và nguyên nhân thiếu máu ở trẻ em Việt Nam dao động theo từng vùng.

Nhiễm KST đường ruột ở trẻ em cũng có thể là một trong những

nguyên nhân gây nên thiếu máu ở trẻ em lứa tuổi này. Bảng 3.23 trình bày

mối liên quan giữa nhiễm KST đường ruột và thiếu máu cho thấy nhóm trẻ

nhiễm KST đường ruột có nguy cơ thiếu máu cao gấp 2,27 lần nhóm trẻ

không thiếu máu và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương tự

kết quả nghiên cứu của Lê Thị Hương (1999) nghiên cứu trên trẻ em tại 2

trường nội và ngoại thành Hà Nội, Nguyễn Công Khanh và CS (1995) nghiên

cứu trên trẻ em Hà Nội và Hà Tây [14], [17], [19], [25]. Kết quả nghiên cứu

của Beasley và CS cũng cho thấy có mối liên quan giữa nhiễm KST đường

ruột với thiếu máu [62].

Như vậy, can thiệp phòng chống thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi sẽ

thành công khi kiểm soát được tình trạng thiếu đa vi chất và là căn nguyên

gây ra thiếu máu.

Có mối liên quan giữa NKHH cấp với suy dinh dưỡng trẻ em. Trẻ bị

NKHH cấp có nguy cơ bị SDD cao gấp 3,7 lần với những trẻ bình thường.

Trẻ thường xuyên ốm (trên 160 ngày/năm) làm tăng nguy cơ thiếu dinh

dưỡng lên 3,6 lần (Bảng 3.25). Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của

Torres và CS nghiên cứu trên trẻ em ở Banglades cho thấy trẻ bị ốm ảnh

hưởng đến tăng cân [193].

Kết quả trình bày cho thấy nhóm trẻ bị NKHH cấp (ho…) có nguy cơ

nhẹ cân và chiều cao thấp cao gấp 2,6 lần nhóm trẻ không bị NKHH cấp và sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05 2 test). Kết quả này cũng tương tự kết

95

luận của tác giả Stoltzfus, và CS (1997) cho thấy có mối liên quan giữa nhiễm

khuẩn với suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi [186].

Giun đũa, giun móc, và giun tóc là những loại giun truyền qua đất phổ

biến ở những vùng nhiệt đới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Ở Việt

Nam, do điều kiện kinh tế xã hội và vệ sinh môi trường còn chưa tốt nên có tỷ

lệ nhiễm KST đường ruột cao dẫu rằng trẻ em ở lứa tuổi này được tẩy giun

theo chương trình của Dự án Phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em. Nhiễm

KST đường ruột gây tác hại thầm lặng và lâu dài tới sức khoẻ trẻ em như suy

dinh dưỡng, chậm phát triển về thể chất và trí tuệ ở trẻ em, gây thiếu máu ở

trẻ em [2], [17], [27], [120].

Nhiễm KST đường ruột gây ra ăn uống không ngon miệng, kém ăn,

giảm hấp thu hoặc mất các chất dinh dưỡng. Nhiễm giun móc có thể gây ra

mất máu, gây chảy máu và gây ức chế hấp thu sắt ở tá tràng. Giun đũa có thể

gây ức chế hấp thu protid, lactose, chất béo, vitamin A làm ảnh hưởng tới sức

khoẻ trẻ em đặc biệt ở những trẻ SDD [74]. Do vậy, tẩy giun sẽ làm cải thiện

tình trạng dinh dưỡng của trẻ.

Khi quan sát tình trạng nhiễm KST đường ruột của trẻ em trong

nghiên cứu này chúng tôi thấy (Bảng 3.29): có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm

KST đường ruột giữa các địa phương tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ nhiễm KST

đường ruột của các nhóm trẻ em ở xã Nghĩa Trung (39,3%) và Bích Sơn

(39%) cao hơn ở Vân trung (26,7%). Tỷ lệ nhiễm KST đường ruột chung

trong nghiên cứu này là 35%.

Khi so sánh với các nghiên cứu đã công bố của các tác giả khác, tỷ lệ

và mức độ nhiễm KST đường ruột trong nghiên cứu này thấp hơn kết quả

nghiên cứu trên trẻ em tiểu học vùng nông thôn miền Bắc của tác giả Lê

Nguyễn Bảo Khanh và CS nghiên cứu tại tỉnh Hà Nam (2001), Đỗ Thị Hoà và

96

CS (2000), Đỗ Kim Liên và CS (2006), Nguyễn Duy Toàn (2000) [5], [7],

[17], [27].

Tỷ lệ nhiễm KST đường ruột trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn

so với các nghiên cứu đã công bố do nguyên nhân phần lớn số trẻ em đã được

tẩy giun trong 6 tháng qua. Cha mẹ trẻ cũng đã nhận thức được tác hại và sự

lưu hành của nhiễm KST đường ruột ở trẻ em lứa tuổi này thông qua các kênh

truyền thông giáo dục tại địa phương. Tỷ lệ nhiễm giun thấp có thể do người

dân ở đây ít có thói quen dùng phân tươi bón ruộng; và 6 tháng trước đó trẻ

em ở đây cũng đã được Dự án Phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em tẩy giun

cho trẻ em.

Tỷ lệ trẻ mắc NKHH cấp cách thời điểm điều tra 3 tháng của cả 3

nhóm trẻ ở 3 xã trong nghiên cứu này là 73,3% (Bảng 3.25). Tỷ lệ trẻ mắc

tiêu chảy cách thời điểm điều tra 3 tháng là 36,5%. Tỷ lệ NKHH và tiêu chảy

của trẻ em trong nghiên cứu này tương tự với kết quả của tác giả Cao Thu

Hương và CS (2003) nghiên cứu trên trẻ em ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên [2].

Nguyên nhân mắc tiêu chảy chủ yếu là do yếu tố môi trường, nơi có

điều kiện vệ sinh kém, thiếu nước sạch và vệ sinh thực phẩm. Gần đây vai trò

của vi chất dinh dưỡng đối với tình trạng miễn dịch và nhiễm trùng ngày càng

được quan tâm. Ví dụ thiếu kẽm làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng.

Bổ sung kẽm làm giảm nguy cơ mắc tiêu chảy và NKHH [121]. Thiếu

vitamin A tiền lâm sàng làm tăng mức độ trầm trọng của một số bệnh nhiễm

trùng đặc biệt là tiêu chảy cũng như bệnh sởi và làm tăng nguy cơ tử vong.

Thiếu vitamin A tiền lâm sàng có thể gây giảm sức đề kháng đối với nhiễm

trùng do ức chế chức năng miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể [185]. Tuy

nhiên, số liệu về ảnh hưởng của thiếu vi chất tới tình hình mắc các bệnh

nhiễm trùng còn chưa đầy đủ.

97

4.3. Hiệu quả can thiệp

4.3.1. Tình trạng dinh dưỡng

Các quan sát dịch tễ học ở các nước đang phát triển và cả các nước

công nghiệp phát triển đều cho thấy những người bị suy dinh dưỡng bào thai

trước kia có nguy cơ cao hơn với các loại bệnh trường diễn (bệnh về chuyển

hoá). Từ đó, người ta đã đặt ra giả thuyết “các bệnh có nguồn gốc từ suy dinh

dưỡng bào thai”.

Trong những năm tháng đầu tiên sau khi ra đời, những trẻ đã bị kém

phát triển trong thời kỳ bào thai nếu lại bị nhiễm khuẩn kéo dài hoặc không

được nuôi dưỡng tốt như không được cho ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng - đặc

biệt là năng lượng, protein, vitamin A, kẽm, sắt càng làm cho tình trạng kém

phát triển trở nên nặng thêm. Trẻ có cân nặng theo tuổi thấp thường hay bị

bệnh như tiêu chảy và viêm phổi. Người ta cũng đã thấy có mối liên quan

thuận chiều giữa mức suy dinh dưỡng nặng và tỷ lệ tử vong trẻ em. Riêng

trong năm 1995, ước tính có đến 11,6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang

phát triển bị tử vong vì tất cả các nguyên nhân khác nhau thì có 6,3 triệu ca

(chiếm 54%) bị suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi thấp. Hầu hết các ca trẻ

em tử vong đó đều có liên quan với suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi thấp.

Về chỉ tiêu chiều cao theo chỉ số HAZ-scores trung bình: Tại thời điểm

trước can thiệp (TCT) và sau can thiệp (SCT), chiều cao cải thiện rõ rệt ở

nhóm can thiệp so với nhóm chứng. Chiều cao trung bình tính theo

HAZscores ở nhóm can thiệp là - 1,552 ± 1,590, sau can thiệp tăng lên - 1,265

± 0,900 (p<0,05). Tích luỹ sau 6 tháng, mức tăng chiều cao ở trẻ thể hiện khá

rõ ràng. Tuy nhiên, do can thiệp ngắn hạn nên chúng tôi không thể tính ra tỷ

lệ SDD thấp còi hay chiều cao trung bình mà chỉ quan sát theo HAZscores

trung bình.

98

Trong khi đó, cùng thời gian ở nhóm chứng không thay đổi về HAZ

scores trung bình (theo HAZscores trung bình TCT là - 1,785 ± 1,037 và

SCT là - 1,734 ± 0,977 – với p>0,05).

Về các chỉ số cân nặng Zscore: Zscore WAZ đều cải thiện tốt hơn ở

nhóm can thiệp so với nhóm chứng sau 6 tháng can thiệp. Ở nhóm can thiệp

chỉ số Zscore WAZ tăng từ - 1,558 ± 1,561 lên - 1,314 ± 0,887 (p<0,05);

trong khi đó ở nhóm chứng các trị số Zscore WAZ trước và sau can thiệp là -

1,656 ± 0,885 và - 1,676 ± 0,920 (p>0,5). Các kết quả này phù hợp với

nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa, Lê Thị Hương tại Hà Nội [4], [8], [17] và

Migasena tại miền Bắc Thái Lan [146].

Tương tự, các chỉ số nhân trắc như cân nặng và chiều cao trung bình

của nhóm trẻ được bổ sung sữa đa vi chất cũng tăng so với nhóm chứng và

nhóm bổ sung sữa đơn thuần trên học sinh tiểu học sau 6 tháng can thiệp [4].

Nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa và cộng sự, khi cho trẻ em tiểu học ăn bánh bích

quy có bổ sung sắt và vitamin A cũng giảm đáng kể tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp

còi ở nhóm can thiệp từ 33,9% sau 3 tháng là 26,6% và sau 6 tháng là 19,6%

[8].

Cơ chế tác động của vitamin và khoáng chất trong việc cải thiện tình

trạng nhân trắc của trẻ có thể được giải thích như sau: Hầu hết các vitamin và

khoáng chất đều tham gia vào hầu hết quá trình chuyển hoá trong cơ thể, ảnh

hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình tăng trưởng của cơ thể. Những

tác động trực tiếp đến tăng cân nặng và chiều cao của trẻ là do khi cơ thể

được bổ sung vi chất dinh dưỡng đã giúp cho cải thiện nồng độ vitamin và

khoáng chất trong huyết thanh. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy kẽm có

tác dụng kích thích tăng trưởng ở trẻ nhờ tác dụng trung gian làm tăng hóc

môn tăng trưởng (Insulin-like growth factor 1, IGF-1) giống insulin trong máu

[230]. Các tác động gián tiếp của bổ sung là kích thích sự ngon miệng và làm

99

trẻ tiêu thụ thức ăn nhiều hơn, vì vậy năng lượng ăn vào và protein được cung

cấp nhiều hơn và mức độ hấp thu cũng tăng lên. Mặt khác, sự có mặt của các

vi chất khác được bổ sung trong sữa như vitamin C, vitamin B1, B2... là

những vitamin có thể giúp trẻ ăn ngon miệng. Một số tác giả khác cũng cho

rằng, các vi chất dinh dưỡng bổ sung làm tăng cường miễn dịch giúp giảm

mắc các bệnh nhiễm trùng. Cả hai cơ chế trực tiếp và gián tiếp của bổ sung vi

chất đều là tác dụng có lợi giúp cho quá trình tăng trưởng của trẻ.

4.3.2. Tình trạng thiếu máu

Khái niệm và tiêu chuẩn xác định thiếu máu, thiếu sắt

Thiếu máu là sự thiếu hụt lượng hemoglobin (huyết cầu tố hay Hb)

trong hệ tuần hoàn. Do vậy, nếu như cho rằng thiếu máu được thể hiện thông

qua sự thiếu hụt số lượng hồng cầu là sự phản ánh không đầy đủ. Theo định

nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới, thiếu máu xảy ra khi lượng huyết cầu tố lưu

hành của một cá thể thấp hơn lượng huyết cầu tố của một người khoẻ mạnh

cùng giới, cùng tuổi và sống trong cùng điều kiện môi trường.

Ở cộng đồng thường sử dụng phương pháp Cyamethemoglobin định

lượng Hb trong máu để xác định tình trạng thiếu máu.

Thiếu máu dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý khi hàm lượng

hemoglobin trong máu xuống thấp hơn bình thường do thiếu một hay nhiều

chất dinh dưỡng nào đó trong quá trình tạo máu bất kể lý do gì (phần lớn là

thiếu sắt, ngoài ra có thể có là acid folic và vitamin B12). Cũng theo Tổ chức

Y tế thế giới, có thể đánh giá tình trạng thiếu máu trên cộng đồng dựa vào tỷ

lệ thiếu máu.

100

Bảng 4.1. Ngưỡng ý nghĩa sức khỏe cộng đồng (YNSKCĐ) dựa vào tỷ lệ

thiếu máu

Mức YNSKCĐ Tỷ lệ thiếu máu (%)

Nặng  40

Trung bình 20,0 - 39,9

Nhẹ 5 - 19,9

Bình thường  4,9

Nguyên nhân thiếu máu dinh dưỡng

Có bốn (04) nguyên nhân thường gây ra thiếu máu, gồm:

+ Do sự cung cấp chất sắt thiếu thường bởi do khẩu phần ăn thiếu vi

chất sắt hoặc có giá trị sinh học thấp;

+ Do nhu cầu sắt cao thường gặp ở nữ giới tuổi sinh đẻ, đặc biệt là khi

có thai và trẻ nhỏ;

+ Do nhiễm ký sinh trùng đường ruột, đặt biệt là giun móc;

+ Do cơ thể kém thấp thu sắt thường do các bệnh về đường tiêu hoá, do

tình trạng sức khoẻ.

Nhiều nguyên nhân gây thiếu máu có thể cùng tồn tại trên một cá thể,

góp phần gây nên tình trạng thiếu máu trầm trọng hơn [46]. Thiếu máu dinh

dưỡng là loại thiếu máu phổ biến nhất và cần các biện pháp can thiệp về sức

khoẻ cộng đồng.

Đánh giá tình trạng thiếu máu

Hàm lượng Hemoglobin thay đổi theo tuổi, giới, tình trạng sinh lý, độ cao

so với mặt biển, nhưng ít khác nhau theo chủng tộc. Do vậy, năm 2001 Tổ chức

Y tế thế giới đã đề nghị mức hàm lượng Hb trong máu được coi là thiếu máu khi

ở dưới các ngưỡng theo từng đối tượng [227].

101

Bảng 4.2. Ngưỡng Hemoglobin để xác định thiếu máu

theo Tổ chức Y tế thế giới

Nhóm tuổi Ngưỡng hemoglobin (g/L)

Trẻ em: Từ 6 tháng đến 59 tháng < 110

Từ 5 đến 11 tuổi < 115

Từ 12 - 14 tuổi < 120

Phụ nữ: Không có thai < 120

Phụ nữ có thai < 110

Nam giới trưởng thành < 130

Đánh giá mức độ thiếu máu dựa vào hàm lượng Hb.

Bảng 4.3. Xác định mức độ thiếu máu dựa vào hàm lượng Hb

Mức độ thiếu máu Hàm lượng Hb (g/l)

< 70 Nặng

70 ≤ Hb < 100 Trung bình

100 ≤ Hb < 120 Nhẹ

Thiếu máu là giai đoạn cuối cùng của tình trạng thiếu sắt. Hàm lượng

Hb trong máu thấp biểu hiện tình trạng thiếu máu ngoại vi. Thiếu máu thường

chỉ phát hiện được khi kết hợp với tình trạng thiếu sắt nặng. Chẩn đoán thiếu

máu, thiếu sắt trong giai đoạn sớm dựa vào nồng độ Ferritin huyết thanh.

Định lượng Ferritin huyết thanh (SF) bằng phương pháp hấp thụ miễn dịch

gắn enzym, còn gọi là phương pháp ELISA với chuẩn Ferritin huyết thanh.

Thay đổi nồng độ Hb và Ferritin

Thiếu máu là giai đoạn cuối cùng của tình trạng thiếu sắt. Hàm lượng

Hb trong máu thấp biểu hiện tình trạng thiếu máu ngoại vi. Thiếu máu thường

chỉ phát hiện được khi kết hợp với tình trạng thiếu sắt nặng. Trong nghiên cứu

102

của chúng tôi, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thiếu máu

và nồng độ Hb trong máu trước can thiệp ở cả hai nhóm can thiệp và nhóm

chứng. Sau can thiệp, kết quả nhiên cứu cho thấy ở nhóm can thiệp, hàm

lượng trung bình Hb đã tăng từ 11,36 ± 1,192 g/dL trước can thiệp lên 12,94

± 1,83 g/dL sau can thiệp (p < 0,001), tăng trung bình 1,58 ± 1,71 g/dL. Sự

gia tăng hàm lượng trung bình Hb khác nhau có ý nghĩa giữa nhóm can thiệp

và nhóm chứng với p < 0,001. Ở nhóm chứng, hàm lượng trung bình Hb sau

can thiệp là 11,84 ± 1,28 g/dl, không khác biệt so với trước can thiệp (p >

0,05).

Như vậy có thể kết luận bổ sung sữa có tăng cường đa vi chất có tác

dụng cải thiện các chỉ số thiếu máu và cải thiện tình trạng sắt cho trẻ em. Kết

quả này cũng tương tự như kết quả của nhiều nghiên cứu ở Việt Nam cũng

như một số nước khác trên thế giới trong đó sử dụng can thiệp có bổ sung vi

chất dưới các dạng khác nhau cho trẻ em ở các nhóm tuổi khác nhau.

Một số nghiên cứu đã sử dụng bổ sung thực phẩm có tăng cường một vi

chất như sắt, hoặc vitamin A hoặc kẽm đã cho thấy có sự cải thiện về tình

trạng nhân trắc của trẻ như cân nặng và chiều cao, tuy nhiên kết quả chưa

thống nhất. Nghiên cứu của Cao Thu Hương và CS sử dụng bột giàu năng

lượng và vi chất cho trẻ em 5-8 tháng tuổi ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên (2004).

Kết quả cho thấy, sau 6 tháng can thiệp, nhóm nghiên cứu có các chỉ số sinh

hoá (Hb: +6,2 g/L; Ferritin: +8,8 µmg/L) và mức tăng cân nặng và chiều cao

cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng. Nghiên cứu của Đỗ Thị Hoà và CS

(1999) khi cho trẻ ăn bánh quy bổ sung vitamin A và sắt cũng làm giảm tỷ lệ

SDD thấp còi một cách có ý nghĩa ở nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng.

Bánh quy bổ sung vi chất cũng làm tăng nồng độ Hb và ferritin huyết thanh ở

nhóm nghiên cứu lên tương ứng là 1,77 g/dL và 29,8 µmg/L, cao hơn nột

cách có ý nghĩa so với nhóm chứng. Tương tự, nghiên cứu của tác giả Nguyễn

103

Thanh Hà (2010) bổ sung kẽm và sprinkles đa vi chất cho trẻ em SDD thấp

còi 6 - 36 tháng tuổi cũng có hiệu quả tích cực trong việc cải thiện các chỉ số

hoá sinh và nhân trắc. Trong 6 tháng, nồng độ Hb tăng nhiều nhất ở nhóm

sprinkles (+ 8,33 g/L).

Tóm lại, trẻ em 2 - 5 tuổi bổ sung sữa có bổ sung đa vi chất dinh dưỡng

đã cải thiện được mức Hb và tình trạng sắt.

104

HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI

Do phạm vi nghiên cứu tại huyện miền núi với số nhân lực hạn chế (để

tránh các sai số, tác giả chỉ sử dụng một đội điều tra duy nhất), nên thời gian

nghiên cứu kéo dài. Nội dung tiến hành nghiên cứu chủ yếu chỉ tập trung vào

tình trạng dinh dưỡng, kinh tế xã hội và cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và tình

trạng nhiễm giun để có thể đề ra các biện pháp khả thi nhằm giảm suy dinh

dưỡng và không đi sâu vào các vấn đề về thiếu vi chất dinh dưỡng - là những

vấn đề đã được khá nhiều nghiên cứu trước đây tập trung vào.

Nghiên cứu cũng không đánh giá hiệu quả của can thiệp còn kéo dài

bao lâu sau khi ngừng can thiệp và tác động như thế nào đến quá trình tăng

trưởng và phát triển của trẻ; Nếu can thiệp trong thời gian dài hơn thì hiệu quả

can thiệp như thế nào? Tính bền vững của can thiệp ra sao? Cải thiện tình

trạng sức khoẻ và trí lực của trẻ như thế nào?.... Đây cũng là những gợi ý cho

các nghiên cứu tiếp theo.

105

KẾT LUẬN

Qua kết quả điều tra tình hình thực trạng dinh dưỡng trẻ em tại 3 xã của

huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang và tiến hành can thiệp giảm suy dinh dưỡng

thông qua các cách tiếp cận đa dạng bổ sung vi chất, tẩy giun và giáo dục dinh

dưỡng cho các kết luận sau:

1. Về thực trạng tình hình dinh dưỡng và các yếu tố liên quan

- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng các thể cân nặng/tuổi, chiều

cao/tuổi và cân nặng/chiều cao còn ở mức cao theo phân loại của Tổ chức Y

tế thế giới (lần lượt là 24,6%, 34,7% và 9,2% chung cho cả 03 xã).

- Tỉ lệ thiếu máu suy dinh dưỡng trên trẻ em đều ở mức trung bình theo

phân loại của Tổ chức Y tế thế giới. Chung 3 xã là 28,7%.

- Cơ cấu bữa ăn trẻ em tương đối đơn điệu, ngoài cơm ra chỉ có rau và

nước chấm, đôi khi có thêm cá khô, tép… Bữa ăn như vậy thiếu các chất dinh

dưỡng, đặc biệt là vi chất dinh dưỡng.

- Hiểu biết về thiếu máu còn rất hạn chế, chỉ có khoảng một nửa các bà

mẹ được hỏi biết một trong những nguyên nhân gây thiếu máu là thiếu dinh

dưỡng,

- Mức nhiễm giun của 3 xã với tỷ lệ chung là 28,7%. Nhiễm giun có

liên quan rõ rệt đến suy dinh dưỡng và thiếu máu.

- Chăm sóc dinh dưỡng của phụ nữ trong thời gian mang thai còn chưa

đầy đủ. Có 41,1% phụ nữ mang thai ăn như bình thường trong quá trình mang

thai. Có 8,3% số bà mẹ ăn ít hơn bình thường trong thời gian mang thai.

- Phụ nữ mang thai uống bổ sung viên sắt chưa đều và chỉ có 40,4% bà

mẹ uống vitamin A trong vòng 1 tháng đầu sau khi sinh.

106

2. Hiệu quả can thiệp dinh dưỡng

- Chỉ tiêu chiều cao theo chỉ số HAZ-scores trung bình tăng lên có ý

nghĩa thống kê. Tương tự, Z-score WAZ đều cải thiện tốt hơn ở nhóm can

thiệp so với nhóm chứng sau 6 tháng can thiệp.

- Sau can thiệp, nhóm can thiệp, hàm lượng trung bình Hb đã tăng từ

11,36 ±1,192 g/dL trước can thiệp lên 12,94±1,83 g/dL sau can thiệp

(p<0,001), tăng trung bình 1,58 ± 1,71 g/dL. Sự gia tăng hàm lượng Hb trung

bình khác nhau có ý nghĩa giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng với p<0,001.

Như vậy có thể kết luận bổ sung sữa có tăng cường đa vi chất có tác dụng cải

thiện các chỉ số thiếu máu và cải thiện tình trạng sắt cho trẻ em.

107

KIẾN NGHỊ

1. Nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành trong phòng chống các bệnh

suy dinh dưỡng, thiếu máu, và bệnh nhiễm ký sinh trùng đường ruột qua tăng

cường công tác truyền thông, giáo dục sức khoẻ, phòng chống suy dinh dưỡng

tại cộng đồng.

2. Phối hợp, lồng ghép chương trình phòng chống suy dinh dưỡng,

nhiễm ký sinh trùng đường ruột với các chương trình y tế, chương trình dinh

dưỡng, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ

em....

3. Mô hình can thiệp bổ sung sữa có tăng cường đa vi chất dinh dưỡng

hàng ngày kết hợp với tẩy giun và tư vấn dinh dưỡng tại hộ gia đình nên được

mở rộng áp dụng trong phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em trong giai đoạn

tới.

4. Cần có các nghiên cứu tiếp theo về bổ sung thực phẩm có tăng cường

vi chất dinh dưỡng trong thời gian can thiệp dài để chứng minh hiệu quả trong

việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khoẻ cho trẻ em và tính bền vững

của can thiệp.

108

DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ ĐĂNG

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Xuân Ninh, Trương Hồng Sơn, Nguyễn Thị Ngọc Bảo, Lê

Danh Tuyên (2010), “Thiếu máu dinh dưỡng, thiếu vitamine A tiền

lâm sàng ở trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi”, Tạp chí Y học dự phòng, Tập

XX, số 8 (116), tr. 5-12.

2. Nguyễn Thị Ngọc Bảo, Trịnh Quân Huấn, Nguyễn Thị Lan Anh

(2011), “Nhận thức của bà mẹ về chế độ chăm sóc dinh dưỡng và tình

trạng dinh dưỡng của con dưới 5 tuổi tại huyện Việt Yên - tỉnh Bắc

Giang”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 383, tháng 7, số 2/2011, tr.25 - 28.

3. Nguyễn Thị Ngọc Bảo, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Danh Tuyên

(2011), “Mối liên quan giữa suy dinh dưỡng và thiếu máu với nhiễm

giun ở trẻ em dưới 5 tuổi tại 3 xã thuộc huyện Việt Yên - tỉnh Bắc

Giang”, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXI, số 7 (125), tr. 132-139.

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Y tế (2004), Thống kê Y tế năm 2004, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

2. Bộ Y tế - Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương (2006), Hội nghị tổng kết công tác phòng chống sốt rét và giun sán 2001 - 2005, triển khai kế hoạch 2006 - 2010”, Hà Nôi, tr 28-36.

3. Cao Thu Hương, Nguyễn Xuân Ninh, Hoàng Khải Lập, Phạm Văn Hoan, Nguyễn Văn Nhiên, và CS (2003), “Tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu vitamin A và một số yếu tố liên quan ở trẻ em 5 - 8 tháng tuổi thuộc huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 9, tr 62-69.

4. Đỗ Kim Liên, Bùi Thị Nhung, Nguyễn Văn Khang, Đỗ Vân Anh, Lê Thị Hợp, Nguyễn Công Khẩn (2006), Hiệu quả của uống sữa và sữa giàu đa vi chất lên tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng của học sinh tiểu học, Hội thảo khoa học: Cải thiện Dinh dưỡng và gia tăng tăng trưởng ở người Việt Nam, tr 85-100.

5. Đỗ Thị Kim Liên, Nguyễn Xuân Ninh, Nghiêm Nguyệt Thu, Đào Tố Quyên, Nguyễn Thị Lan Anh, và CS (2000), Diễn biến tình hình thể lực của học sinh một số trường tiểu học Hà Nội từ 1995 - 1998, Một số công trình nghiên cứu về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 77-85.

6. Đỗ Thị Hòa, Lê thị Hương, Đỗ Mạnh Cường, Trần Hoàng Tùng (2000), “Tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của học sinh 2 trường tiểu học ngọai thành Hà Nội”, Tạp chí Y học thực hành, số 6, tr 45-50.

7. Đỗ Thị Hòa, Hà Huy Khôi (2000), “Một số nhận xét về tình trạng thiếu máu của học sinh tiểu học Đông Mỹ, Thanh Trì, Hà Nội 2 năm 1997 và 1999”, Tạp chí Y học Thực hành, số 5 (381), tr 49-51.

8. Đỗ Thị Hòa (2001), Nghiên cứu hiệu quả sinh học của một lọai thực phẩm được tăng cường vi chất dinh dưỡng (vitamin A và sắt) đối với học sinh trường tiểu học, Luận án Tiến sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

9. Hà Huy Khôi (2004), Đánh giá một số yếu tố dinh dưỡng có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và các giải pháp can thiệp, Báo cáo tổng

110

kết khoa học kỹ thuật đề tài cấp Nhà nước, mã số KC 10.05, Bộ Y tế, Viện Dinh dưỡng, tr 94-99.

10. Hà Huy Khôi (1997), Phương pháp dịch tễ học dinh dưỡng, Nhà xuất

bản Y học, Hà Nội.

11. Hà Huy Khôi (1985), “Lý luận dinh dưỡng cân đối và ứng dụng thực hành”, Tạp chí Y học thực hành, Tổng Hội Y Dược Việt Nam, số 2/1985.

12. Hà Huy Khôi (2001), Dinh dưỡng trong thời kỳ chuyển tiếp, Nhà xuất

bản Y học, Hà Nội, 2001.

13. Hà Huy Khôi (1997), Phương pháp dịch tễ học dinh dưỡng, Nhà xuất

bản Y học, Hà Nội.

14. Hà Huy Khôi (2004), Đánh giá một số yếu tố dinh dưỡng có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và các giải pháp can thiệp, Báo cáo tổng kết khoa học kỹ thuật đề tài cấp Nhà nước, mã số KC 10.05, Bộ Y tế, Viện Dinh dưỡng, tr 94-99.

15. Lê Danh Tuyên (1999), Đặc điểm dịch tễ học của suy dinh dưỡng thể

thấp còi ở các vùng sinh thái nước ta, Luận án Tiến sĩ Y học.

16. Lê Bạch Mai, Hà Huy Khôi, Nguyễn Công Khẩn, Trần Thành Đô, Vũ Quỳnh Hoa, Hồ Thu Mai, Nguyễn Thị Lạng và cộng sự (2002), “Một số nhận xét về tình hình tiêu thụ lương thực thực phẩm của nhân dân Việt Nam năm 2000”, Tạp chí Y học Thực hành, số 2, tr 2-5.

17. Lê Nguyễn Bảo Khanh, Trương Hồng Sơn, Nguyễn Quang Dũng, Nguyễn Duy Toàn (2001), Hiệu quả của tẩy giun định kỳ 6 tháng một lần lên sự phát triển thể lực và trí lực của học sinh tiểu học, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, KH-11.09.07A. 200.

18. Lê Thi Hợp, Nguyễn Thị Lạng và CS (2006), Xu hướng tăng trưởng về thể lực và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ sơ sinh đến 17 tuổi-nghiên cứu chiều dọc tại Hà Nội, Hội thảo KH: Cải thiện Dinh dưỡng và gia tăng tăng trưởng ở người Việt Nam, 26/2/2006, tr 15.

19. Lê Thị Hương (1999), Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ em hai trường tiểu học Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ dinh dưỡng cộng đồng, trường Đại học Y Hà Nội.

20. Lê Thị Hải, Phan Thị Kim, Trần Ngọc Hà, Nguyễn Thanh Hà, Hoàng Thế Yết (2000), "Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ bệnh béo phì ở học sinh 6-11 tuổi tại hai trường tiểu học nội thành Hà Nội", Một số công trình

111

nghiên cứu về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 279-293.

21. Lại Đức Trường (2004), Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố nguy cơ suy dinh dưỡng ở học sinh tiểu học huyện Khoái Châu, Luận văn Thạc sỹ Y tế công cộng.

22. Lê Danh Tuyên, Nguyễn Công Khẩn, Phạm Văn Hoan, Trần Xuân Ngọc, Trương Hồng Sơn (2005), Tiến triển suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi từ năm 1990-2004, Hội nghị khoa học Viện Dinh dưỡng.

23. Mai Văn Quang (1998), Đánh giá tác động của chương trình ăn trưa tại một số trường tiểu học ở TP. Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Dinh dưỡng cộng đồng.

24. Nguyễn Công Khẩn, Hà Huy Khôi (2000), Triển vọng và các thách thức với vấn đề giảm suy dinh dưỡng trẻ em trong những năm tới, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 29 - 43.

25. Nguyễn Công Khanh và cộng sự (1995), Thiếu máu ở trẻ em tuổi học đường qua nghiên cứu một số trường ở Hà Nội và Hà Tây, Kỷ yếu công trình Viện Bảo vệ sức khoẻ trẻ em, Hà Nội.

26. Nguyễn Chí Tâm, Nguyễn Công Khẩn, Nguyễn Xuân Ninh, Phạm Vân Thuý, Hà Huy Khôi, Trần Thành Đô (2002), “Tình hình thiếu máu dinh dưỡng ở Việt Nam qua điều tra đại diện ở các vùng sinh thái trong toàn quốc năm 2000”, Tạp chí Y học thực hành, (7, 427), tr 2-5.

27. Nguyễn Duy Toàn (2000), Các bệnh giun sán chủ yếu hiện nay ở Việt Nam và các hoạt động phòng chống giun sán của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng, Thông tin Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, ISBN 0868-3735, Số 3, tr 64-69.

28. Trần Thị Huân (2002), Hiệu quả bổ sung bánh qui có tăng cường đa vi chất trong cải thiện tình trạng dinh dường của học sinh 6-9 tuổi tại một trường tiểu học, Luận văn Thạc sỹ dinh dưỡng cộng đồng, trường Đại học Y Hà Nội.

29. Trần Văn Lạc (1998), Báo cáo họat động phòng chống giun sán và giun chỉ bạch huyết tỉnh Nam Định. Hội thảo quốc gia phòng chống các bệnh giun sán 1998 - 2000 và đến 2005, Hà Nội 7-8/7/19.

30. Tổng cục Thống kê (2006), Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam

(VLSS), Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

112

31. Tổng cục Thống kê (2008), Kết quả điều tra kinh tế hộ gia đình năm

2008, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

32. Tổng cục Thống kê (2001), Mức sống trong thời kỳ kinh tế đổi mới, Nhà

xuất bản Thống kê, Hà Nội, tr 73 - 88.

33. Tổng cục Thống kê (2008), Khảo sát mức sống dân cư Việt nam (VLSS),

Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

34. Từ Giấy, Bùi Thị Nhu Thuận, Hà Huy Khôi (1984), Xây dựng cơ cấu

bữa ăn. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 194-195.

35. Từ Giấy và cộng sự (1990), Tổng điều tra dinh dưỡng 1987 – 1989,

Chương trình nghiên cứu khoa học, 64D, Viện Dinh Dưỡng.

36. UNDP, Tổng cục Thống kê (2001), Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh

tế Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

37. Viện Dinh Dưỡng (2001), Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng 2001 –

2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

38. Viện Dinh dưỡng (2000), Tình hình thiếu máu dinh dưỡng ở Việt Nam qua điều tra đại diện cho các vùng sinh thái trong toàn quốc năm 2000, Hà Nội.

39. Viện Dinh dưỡng (1990), Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học và các biện pháp phòng chống một số bệnh thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, 64-D-02-01, Hà Nội.

40. Viện Dinh dưỡng (2009), Tổng cục Thống kê, Tình trạng dinh dưỡng trẻ

em và bà mẹ năm 2008, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

41. Viện Dinh dưỡng (2010), Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dinh dưỡng

2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

42. Viện Dinh dưỡng (2008), Tổng cục Thống kê, Tình trạng dinh dưỡng trẻ

em và bà mẹ năm 2008, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

43. Viện Dinh dưỡng (1998), Nghiên cứu các biện pháp chiến lược nhằm cải thiện dinh dưỡng và đảm bảo Vệ sinh an toàn thực phẩm, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, KH -11 - 09, Hà Nội.

44. Viện Dinh dưỡng (2001), Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng 2001-

2010, Nhà xuất bản Y học Hà Nội.

113

Tiếng Anh

45. ACC/SCN (2009), Second Report on the World Nutrition Situation, Global and Regional Results, United Nations Administrative Committee on Coordination/Subcommittee on Nutrition Geneva Switzerland.

46. Allen LH (2002), Iron Supplements: Scientific Issues Concerning Efficacy and Implications for Research and Programs J. Nutr. 132:813S- 819S.

47. ACC/SCN (2009), Update on the World nutrition situation, Geneva:

United Nations.

48. ACC/SCN (2008), Update on the World nutrition situation, Geneva:

United Nations.

49. ACC/SCN (1997), Third world report on the nutrition situation,

Geneva: United Nations.

50. ACC/SCN (2000), Fourth report on the world nutritionsituation,

Geneva: ACC/SCN in collaboration with IFPRI.

51. Alderman.H; J.Behrman; V.Lavy. and R. Menon (1997), Child nutrition, child health, and school enrollment, Policy Research Working Paper 1700, Washington, D.C.: World Bank.

52. Amigo H, et al (2001), “Growth deficits in Chilean school children”,

Journal of Nutrition, 131: 251-254.

53. Alderman.H, S.Appleton, L.Haddad, L.Song and Y.Yohannes (2000), Links between Nations Administrative Committee on income growth and reductions in malnutrition, World Bank and IFPRI, Washington, D.C.

54. Ash DM, et al (1999), “Effect of a micronutrient fortified beverage on anaemia and tunting in Tanzanian school children”, FASEB Journal 13:A207.

55. Allen.L. and S.Gillespie (2000), Options for interventions to improve human nutrition: A review of efficacy and effectivenes, Paper prepared for the Asian Development Bank, IFPRI,Washington, D.C.

56. Anand S. and Ravallion M (1993), “Human development in poor countries: On the role of private incomes and public services”, Journal of Economic Perspectives, 7, 1, pp.133 - 150.

114

57. Appleton. S. and L. Song (1999), Income and human development at the household level: Evidence from 6 countries, Background paper for World Development Report 2000/01, Economics Department, University of Bath, U.K.

58. Barro FC, Huttly SRA, Victora CG, Kirkwood B, Vaughan JP (1992), Comparison of the causes and consequences of prematurity and intrauterine growth retacdation: a longitudinal study in Southern Brazil, Pediatric, 90, pp. 238 - 44.

59. Beaton G.H.; Ghassemin H (1982), “Supplementary feeding programs for young children in developing countries”, Am. J. Clin, Nutr, 35, pp. 864 - 916.

60. Behrman J. R. and Deolalikar A.B (1998), Health and nutrition. In Handbook of development economics, l. 3. Chenery H. and Srinivasan T. N. Amsterdam: North - Holland.

61. Beverley A. Carlson. and Tessa M. Wardlaw (1998), A global, Regional and Country Assessment of Child Malnutrition, Staff Working paper, 7.

62. Beasley NMR, et al (1999), The impact of population level deworming on the heamoglobin levels of school children in Tanga, Tanzania, Tropical Medicine and International Health 4: 744-750.

63. Brown K H, Peerson JM, Rivera J, and Allen LH (2002), Effect of supplemental zinc on the growth and serum zinc concentrations of prepubertal children: a meta-analysis of randomized controlled trials1–3 Am J Clin Nutr, (75), 1062 - 1071.

64. Bloss E; Wainaina F; Bailey RC (2004), Prevalence and predictors of underweight, stunting, and wasting among children aged 5 and under in western Kenya. J Trop Pediatr, (50,5), pp 260 - 70.

65. Bridget Fenn; Saul S Morris; Chris Frost (2001), Do childhood growth indicators in developing countries cluster? Implications for intervention strategies. Public Health Nutrition, (7), pp. 829 - 834. 66. Brooke O; Wheeler E.F (1976), High energy feeding in protein - energy

malnutrition. Arch. Dis. Child, (51), pp. 968 - 977.

67. Brown L (1996), “The potential impact of AIDS on population and economic growth rates”, 2020 Vision Food, Agriculture, and the

115

Environment Discussion Paper No. 15. Washington, D.C.: International Food Policy Research Institute.

68. Caldwell J.C (1993), Health transition: the cultural social and behavioural determinants of health in the third world. Social Science, Med, (36), pp. 128-135.

69. Cameron ME. and Van Staveren W A (1988), Manual on for Food Consumption Studies, Oxford Medical

Methodology Publications, pp. 33 - 35.

70. Carter J.P; Grivetti L.E; Davis J.T; Nasiff S; Mansour A; Mousa W.A; Atta A.E; Patwardhan V.N; Abd I - Mon im - M Abdou I.A; Darby W.J (1969), Growth and sexual development of adolescent Egyptian village boys, Effects of zinc iron and placebo supplementation, Am. J. Clin, Nutrition (22), pp. 59 - 78.

71. Cavan K.R; Gibson R.S; Grazioso C.F; Isalgue A.M; Ruz M. and Solomons N.W (1993), Growth and body composition of periurban Guatemalan children in relation to zinc status: a longitudinal zinc intervention trial, Am. J. Clin. Nutrition (57), pp. 344 -352.

72. Clarke G.R.G (1992), More Evidence on Income Distribution and

Growth, World Bank Washington DC.

73. Colwell JA; Le Danh Tuyen; Nguyen Dinh Chung (2002), Poverty and malnutrition: Analysis of the 1992/93 and 1997/98, Vietnam living standards surveys. Food Security Unit, FAO, Hanoi.

74. Crompton DWT, Nesheim MC (2002). Nutritional impact of intestinal helminthiasis during the human life cycle, Annu.Rev, Nutrition, 22, 35- 59.

75. De Onis M; C. Monteiro; J. Akreu; G. Clugston (1993), “The worldwide magnitude of Protein - Energy malnutrition”, An overview from WHO Global Database on Child Growth, WHO Bulletin, 71, pp. 30 - 31.

76. De Onis M; Blossner M (1997), World Health Organization: Global Database on Child Growth and Malnutrition, WHO/NUT/97.4, Programme of Nutrition WHO Geneva Switzerland.

116

77. De Onis M; Blossner M.; Villar J (1997), “Levels and patterns of intrauterine growth retardation in developing countries”, Eur. J. Clin. Nutr, 52,1, pp. 5 -15.

78. De Onis M; Blossner M; Borghi E; Morris R; Frongillo EA (2004), “Methodology for estimating regional and global trends of child malnutrition”, International Nutrition Journal Epidemiology.

79. Deaton A

surveys: A (1997), The analysis of household microeconometric approach to development policy, Baltimore, Md.: Johns Hopkins University Press.

80. Dreze J. and Sen A; eds (1989), “Hunger and public action”, New York:

Oxford Univesty Press.

81. El Obeid A; Jensen H. H; Johnson S. R. and Smith L.C (2000), “Forthcoming, The geography and causality of food insecurity in developing countries”, “In Food security: New solution for the 21st century”, U.S.A: Iowa State University Press.

82. Engle P; L Hotsk. L; Armstrong H. The Care Initiative (1997), Assessment Analysis and Action to Improve Care for Nutrition, United Nations Children’s Fund Nutrition Section New York.

83. Engle P; Menon P; Haddad L (1997), Care and Nutrition: Concepts Institute International Food Policy Research

and Measurement, Washington DC.

84. Engle P; Menon P. and Haddad L (1999), Care and nutrition: Concepts and measurement, World Development, 27, 8, pp. 1309 - 1337. 85. Engstrom EM; Anjos LA (1999), Deficitious estatural not criancas brasileiras: relaces com condicioses socioambientaise estado nutritional materno, Cad Saude Public; 15, 559-567.

86. Falkner F; Holzgreve W; Schloo R.H (1994), “Prenatal influences on postnatal growth: overview and pointers for needed research”, European Journal of Clinical Nutrition, 48, 1, pp S15 - S24.

87. Farnum C; Wilsman N.J (1998), “Growth plate cellular function”, In: Skeletal Growth and Development: Clinical Issues and Basic Science Advances (Buckwalter J. Ehrlich M. Sandell L. & Trippel S. eds), pp. 203-223.

117

88. FAO (1990), Conducting small scale nutrition surveys, Rome, pp.15 -

20.

89. FAO (2010), The sixth World food survey, Rome. 90. FAO (2010), State of food insecurity in the world, Rome. 91. Fenn B; Morris SS; Frost C (2004), “Do childhood growth indicators in developing countries cluster? Implications for intervention strategies”, Public Health Nutr, 7, pp.829 - 34.

92. Foster Z; Byron E; Reyes - Garcia V; Huanca T; Vadez V; Apaza L; Perez E; Tanner S; Gutierrez Y; Sandstrom B; Yakhedts A; Osborn C; Godoy RA; Leonard. WR (2004), “Physical growth and nutritional status of Tsimane' Amerindian children of lowland Bolivia”, American Journal of Physical Anthropology.

93. Frankenberger T. R (1996), “Measuring household livelihood security: An approach for reducing absolute poverty”, Food Forum 34. Washington, D. C.: Food Aid Management.

94. Frongillo E.A. Jr. and Hanson K.M.P (1995), “Determinants of variability among nations in child growth”, Ann. Human Biol, 22, pp. 395 - 411.

95. Frongillo E.A. Jr (1996), The Effects of Timing and Type of Complementary Foods on Post - Natal Growth, Report submitted to the Nutrition Units Division of Food and Nutrition World Health Organization, Division of Nutritional Sciences Cornell University Ithaca New York.

96. Frongillo E.A. Jr; de Onis M; Hanson K.M.P (1997), Socioeconomic and demographic factors are associated with worldwide patterns of stunting and wasting, J. Nutr., 127, pp 2302 - 2309.

97. Frongillo EAJ (1999), “Causes and etiology of stunting”, American

Society for Nutritional Sciences Journal of Nutrition (129), pp 529-530.

98. Garza C; Onis M (1999), “A new international growth reference for

young children”, Am J Clin Nutr., 70 Suppl, pp169S - 72S.

99. Ge Keyou; Zhai Fenggying; Yan Huaicbeng et al (1995), The dietary and nutritional status of Chinese population in 1990’s, Acta Nutrimenta Sinica, 6, pp123 - 134.

118

100. Gershoff S.N; McGandy R.B (1988), “Nondasuta A. and Tantiwongse P. Nutrition studies in Thailand: effects of calories nutrient supplements and health interventions on growth of preschool Thai village children”, Am. J. Clin. Nutr, 48, pp 1214 - 1228.

101. Gibson S.R (1990), “Principle of Nutritional Assessment”, Oxford

University Press, pp 21 - 22.

15, United Nations Administrative Committee

102. Gillespie S; Mason J; Martorell R. How Nutrition Improves, ACC/SCN State of the Art (1996), Series Nutrition Policy Discussion Paper on Coordination/Sub - Committe on nutrition Geneva Switzerland.

103. Glewwe. P. and H. Jacoby (1995), An economic analysis of delayed primary school enrollment in a low income country: The role of childhood nutrition, Review of Economics and Statistics, 77, 1, pp 156 - 169.

104. Golden M.H.N (1990), “The Role of Individual Nutrient Deficiencies in Growth Retardation of children as Exemplified by Zinc and Protein”, Nestle Nutrition Workshop Series, Raven Press - NewYork, 14, pp 143 - 144.

105. Gopalan C (1990), Childhood malnutrition in South East Asia, Concepts and strategies for control, H.K.A Visser and J.C. Bindels, Child nutrition in South East Asia, Kluwer Academic Publishers, pp 3 - 20.

106. Gopalan C (1990), “Stunting: Significance and Implication for Published Health Policy”, Nestle Nutrition Workshop Series, Raven Press - NewYork, 14, pp 28 - 29.

107. Gorstein J; Sullivan K; Yip R; de Onis M; Trowbridge F; Fajans P. and Clugston G (1990), Issues in the assessment of nutritional status using anthropometry, Bull, WHO (72), pp 273 - 283.

108. Grantham - McGregor SM (1999), Fernald LC, The effects of health and nutrition on cognitive and behavioural development in children in the first three years of life, Part 2: Infections and micronutrient deficiencies: iodine, iron and zinc, Food Nutr Bull, 20, pp 76 - 99. 109. Gross R.S; Satroamidjojo; Schultink W (1995), Guidlines for

Research Proposals, pp 17 - 18.

119

110. Haaga J; Kenrick C; Test K. and Mason J (1985), An estimate of the prevalence of child malnutrition in developing countries, World Health State, 38, pp 331 - 347.

111. Haddad L; Hoddinott J; and Alderman H (1997), “Intrahousehold resource allocation in developing countries: Models, methods, and policy”, Baltimore, Md.: Johns Hopkins University Press for the International Food Policy Research Institute.

112. Haddad L; Webb P. and Slack A (1997), Trouble down on the farm: What role for agriculture in meeting "food needs" in the next 20 years? International Food Policy Research Institute, Washington, D. C.

113. Haddad L. and Oshaug A (1998), How does the human rights perspective help to shape the food and nutrition policy research agenda? Food Policy, 23, 5, pp 329 - 346.

114. Hamill PV; Drizd TA; Johnson CL; Reed RB; Roche AF (1977), NCHS growth curves for children birth 18 years, United States. Vital Health Stat, 11, pp 165, 1 - 74.

115. Hansen - Smith F.M; Picou D; Golden M.H.N (2001), “Growth of muscle fibers during recovery from severe malnutrition in Jamaican infants”, Br. J. Nutr, 41, pp 275 - 282.

116. Hoddinott J (1997), Water, health, and income: A review, Food Consumption and Nutrition Division Discussion, International Food Policy Research Institute, Washington, D. C, 25.

117. Hop Le Thi (1995), Longitudinal Observation of Physical Growth of Vietnamese Children from birth to 10 years in Vietnam conditions, Research Report Master of Science in Nutrition, Jakarta.

118. Horton. S (1999), Opportunities for investments in nutrition in low- for RETA 5671, Manila:Asian

income Asia, Paper prepared Development Bank.

119. Howson C. P; Harrison P. F., Hotra D. and Law M., eds (1996), In her lifetime: Female morbidity and mortality in Sub-Saharan Africa, Washington, D. C.: Board on International Health, Institute of Medicine. 120. Hadidjaja P, Bonang E, Suyardi M.A, Alisah S. Abidin N., Ismid IS, and Margono SS (1998), “The effect of intervention methods on nutritional status and cognitive function of primary school children

120

infected with Ascaris lumbricoides Am”, J. Trop. Med. Hyg., 59(5), pp 791-795.

121. Hotz C and Brown KH (2004), “Overview of zinc nutrition”, Food and

Nutrition Bulletin, (25, 1, supplement 2), S99-129.

122. International Conference on Nutrition (1992), Caring for the socio - economically deprived and nutritionally vulnerable, Major Issues for Nutrition Strategies, Theme Paper No. 3. ICN/92/INF/7, Rome: Food and Agriculture Organization of the United Nations and the World Health Organization.

123. Isham J., Narayan D; and Pritchett L (1995), Does participation improve performance? Establishing causality with subjective data, World Bank Economic Review, 9, 2, pp 175 - 200.

124. James W.P.T., Schofied E.C (1990), Human Energy Requirements,

Oxford Medical Publication, pp105 - 112.

125. Jenicek. M., Demirjian. A., Dubuc. M.B (1968), Tendance seuculaire

de la croissance infantile au Canada, C.R. Acad. Sci, 258, 259.

126. Jonsson U (1995), “Towards an improved strategy for nutrition

surveillance”, Food Nutr. Bull, 16, pp 102 - 111.

127. Jayatissa R., MM Gunathilake (2003), Prevalence of anaemia among schoolchildren of Srilanka, 2001-02, Abstract, INACG meeting, Monacco.

128. Keller. W (1990), “The Epidemiology of Stunting”, Nestle Nutrition

Workshop Series, Raven Press - NewYork, 14, pp 17 - 18 - 19.

129. Khan Nguyen Cong (2003), “Nutrition intervention programmes in Vietnam: scaling - up and challenges”, SCN News, ISSN 1564 - 3743, 26.

130. Khoi Ha Huy (1990), Protein - energy nutritional status of rural people

in some regions of Vietnam, Prace IZZ No. 53, Warsaw.

131. Kishor S. and Neitzel K (1996), The status of women: Indicators for twenty-five countries. Demographic and Health Surveys Comparative Studies 21, Calverton, Md.: Macro International, Inc.

132. Kolsteren P (1996), “The determinants of stunting: Can we regard the linear growth performance as a continuum of fetal development”, Asia Pacific Jour. Of Cli. Nutrition, 2, pp 58 - 60.

121

133. Kossmann J; Nestel P; Herrera MG; El -Amin A; Fawzi WW (2000), infections: a prospective study of Undernutrition and childhood childhood infections in relation to growth in the Sudan, Acta Paediatr., 89, pp 1122 - 8.

134. Kuezmarski RJ; Ogden CL; Grummer-Stawn LM; Flegal KM; Guo SS; Wei RL et al (1992), CDC growth charts: United States, Adv Data, 8, pp 1- 27.

135. Lampl M., Veldhuis J.D., Johnson M.L (1992), Saltation and statis: a

model of human growth, Science of Washington DC, 258, pp 801 - 803.

136. Lima M; Figueira F; Ebrahim GJ (1990), “Malnutrition among children of adolescent mothers in a squatter community of Recife”, Brazil. J Trop Pediatr, 36, pp 14-9.

137. Lin WS et all (1992), Secular change in the Growth and development of

Han children in China, Annals of Human Biology, 19, 3, pp 260 - 263.

138. Lee WTK, Leung SSF, Wang S (1994), Double-blind controlled Ca in children trial and bone mineral accretion

supplementation accustomed to a low calcium diet, (60), pp 744-750.

139. Martorell R; Mendoza F; Castillo R (1990), “Poverty and Stature in Childre”, Nestle Nutrition Workshop Series, Raven Press - NewYork, 14, pp 57 - 60.

140. Martorell R., Rivera J., Kaplowitz H (1992), Consequences of stunting in early childhood for adult body size in rural Guatemala, Annnls of Human Biology (48), pp 85 - 92.

141. Martorell R; Rivera J; Kaplowitz H. and Pollit E (1992), Long term consequences of growth retardation during early childhood, Proceedings of Vlth International Congress of Auxiology, Elsevier Science Publishers B. V. New York NY, pp 143 - 149.

142. Martorell R; Keller Khan L; Shroeder D.G (1994), “Reversibility of from developing findings in children

stunting: epidemiological countries”, European Journal of Clinical Nutrition, (48, 1), pp 45 - 57.

143. Martorell R; Ramakrishnan U; Schroeder D. G; Melgar P. and Neufeld L (1998), “Intrauterine growth retardation, body size, body composition, and physical performance in adolescence”, European Journal of Clinical Nutrition, (51,1), pp S43 - S53.

122

144. Mendez MA; Adair LS (1999), “Severity and timing of stunting in the first two years of life affect performance on cognitive tests in late childhood”, J Nutr, 129, pp 155 - 62.

145. Messer E., Cohen J. and D'Costa J (1998), Food from peace: Breaking the links between hunger and conflict, 2020 Vision Food, Agriculture, and the Environment Discussion Paper No. 24. Washington, D. C.: International Food Policy Research Institute.

146. Migasena P; Thurnham D.I; Jintakanon K. and Pongpaew P (1972), “Anemia in Thai children: the effect of iron supplement on haemoglobin and growth”, Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health, (3), pp 255 - 261.

147. Ministério da Saúde (2000), Política nacional de alimentaçãoe nutrição, Brasília: Secretaria de Políticasde Saúde, Instituto Nacional de Alimentaçãoe Nutrição.

148. Ministry of Health of R.S Vietnam (1991), Report on Re-entry and

analyze the general nutrition survey data, World Bank.

149. Mohiuddin Y (1996), Country rankings by the status of women index, Paper presented at the 1996 conference of the International Association for Feminist Economics.

150. Monteiro CA (1988), Saúde e nutrição das crianças de São Paulo, São

Paulo: Editora Hucitec/Edusp.

151. Mendez MA & Adair LS (1999), “Severity and timing of stunting in the first two years of life affect performance on cognitive tests in late childhood”, Journal of Nutrition, (129), pp 1555-1562.

152. Mueller W.H (1982), “The genetics of size ad shape in children and adults. In Human Growth”, Plemun Press, New York, (3), pp 245. 153. National Institute of Nutrition (1991), Monographs 1980 - 1990, Ha

Noi Medical Publishing.

154. NIN/UNICEF/HKI (1994), Vietnam Xerophthalmia Free, Report of the

National Vitamin A survey, Hanoi.

155. NIN-UNICEF report. Vietnam (1995), Xerophthalmia Free: National Vitamin A deficiency and protein - energy malnutrition prevalence survey.

123

156. NIN-UNICEF (1998), National Protein Energy Malnutrition Survey

Vietnam.

157. Olinto MTA; Victora CG; Barros F; Tomasi E

(1993), Determinantesda desnutrição infantil em uma populaçãode baixa renda: um modelo de análise hierarquizado.Cad Saúde Pública; (9), Suppl:14- 27.

158. Oshaug A; Eide W. B. and Eide A (1994), Human rights: A normative basis for food and nutrition - relevant policies. Food Policy, (19, 6), pp 491 - 516.

159. Osmani S.R. The Abraham Horwitz lecture (1997), Poverty and nutrition in South Asia, In Nutrition and Poverty: Papers from the ACC/SCN 24th Session Symposium, Kathmandu, Nutrition Policy Paper No. 16. Geneva: United Nations Administrative Committee on Coordination - Sub - Committee on Nutrition.

160. Pattanee Winichagoon; Yongout Kachondham; Kraisid Tontisirin (1992), Integrating Food and Nutrition into Development, UNICEF, INMU.

161. Pauli.HG (1983), Training in research methodology: a review and proposals, Advisory Committee on Medical Research, 25th Session, Geneva, pp. 10 -13.

162. Pelletier D. L; Frongillo E. A; Schroeder D. G. and Habicht J. P (1995), The effects of malnutrition on child mortality in developing countries, Bulletin of the World Health Organization, (73, 4), pp 443 - 448.

163. Pritchett L. and Summers (1996), L. H. Journal of Human Resources,

(31, 4), pp 841 -868.

164. PCD (1998), Partnership for Child Development, The anthropometric status of school children in five countries in the Partnership for Child Development, Proceedings of the Nutrition Society, (57), pp 149-158. 165. Quisumbing A; Brown L; Feldstein H. S; Haddad L. and Pena C (1995), Women: The key to food security, Food Policy Report, Washington, D. C.: International Food Policy Research Institute.

124

166. Ramakrishnan U; Manjrekar R; Rivera J; Gonzales - Cassio R. and Martorell R (1999), Micronutrients and pregnancy outcomes: A review of the literature, Nutrition Research, (19,1), pp 103 - 159.

167. Ramalingaswami V; Jonsson U. and Rohde J (1996), The Asian

enigma. Progress of Nations, New Work: UNICEF.

168. Ravallion M. and Chen S (1997), What can new survey data tell us about recent changes in distribution and poverty? World Bank Economic Review, (11, 2), pp 357 - 382.

169. Rivera - Dommarco J; Gonzlez - Cossio T; Flores M; Hernndez - Avila M; Lezana M.A; Salmenpera L; Perheentupa J; Siimes M.A (1985), Exclusively breast fed healthy infants grow slower than reference infants. Pediatr. Res, (19), pp 307 - 312.

170. Roemer M. and Gugerty M. K (1997), Does economic growth reduce poverty? CAER II, Discussion Paper No4, Cambridge Mass.: Harvard Institute for International Development.

171. Rosado J.L (1999), Separate and Joint Effects of Micronutrient Deficiencies on Linear Growth, American Society for Nutritional Sciences, pp S531 - S533.

172. Rosegrant M. W; Agcaoili - Sombilla M. and Perez N. D (1995), Global food projections to 2020: Implications for investment, 2020 Vision Food, Agriculture, and the Environment Discussion Paper No. 5. Washington, D. C.: International Food Policy Research Institute.

173. Ryan J. E. (1995), The comparative survey of freedom: 1994 - 1995 survey methodology, In Freedom in the world: The annual survey of political rights and civil liberties 1994-1995. Md., U.S.A, University Press of America.

174. SEAMIC, Health Statistics (2003), pp 117-126. 175. Secretaria Municipal de Saúde de Porto Alegre (2003), Dados sobre o Sistema de Informação sobre Nascidos Vivos - SINASC 2001, Porto Alegre: Equipe de Informação/Coordenadoria Geral de Vigilância em Saúde, Secretaria Municipal de Saúde de Porto Alegre, 2002, Submitted on 31/Jan/2003, Final version resubmitted on 23/Oct/2003, Approved on 10/Nov/2003.

125

176. Sen A (1981), “Poverty and famines: An essay on entitlement and

deprivation”, Oxford: Clarendon Press.

177. Sen A (1998), “Mortality as an indicator of economic success and

failure”, Economic Journal, (28), pp 1 - 25.

178. Scrimshaw N.S; Taylor C.E; Gordon J.E (1968), Interaction of Infection, Monograph series 57, World Health

Nutrition and Organization Geneva Switzerland.

179. SCN (1997), Stunting and young child development. In: Third Report on the World Nutrition Situation, United Nations Administrative Committee on Coordination/Sub-Committe on Nutrition Geneva Switzerland.

180. Smith L. C. and Chavas J. P (1997), “Commercialization and the balance of wormen's dualroles in non - income - pooling West African households”, American Journal of Agricultural Economics, (79, 2), pp 589 - 594.

181. Smith L.C(1998), Macroeconomic adjustment and the balance of bargaining power in rural West African households, Paper presented at the American Agricultural Economics Association 'Annual Meetings. 182. Smith L. C. and Haddad L (2000), Explaining chold malnutrition in developing countries: A cross-country analysis, IFPRI Research Report 111, Washington, D. C.: International Food Policy Research Institute. 183. Sarraf Z, Goldberg D, Shahbazi M, Arbuckle K, Salehi M (2005), in rural Iran, Br J Nutr,

Nutritional status of schoolchildren Sep;94(3):390-6.

184. Sawaya AL, et al (1998), “Mild stunting is associated with higher susceptibility to the effects of high fat diets: studies in a shantytown population in Sao Paulo, Brazil”, Journal of Nutrition, (128), pp 415- 419.

185. Stephensen CB (2001), Vitamin A, infection, and immune function,

Annu Rev Nutr., (21), pp 167-92.

186. Stoltzfus RJ, et al (1997), Hookworm control as a strategy to prevent

iron deficiency, Nutrition Reviews, 55(6), pp 223-233.

187. Subbarao K. and Raney L (1995), Social gains from female education: A cross-national study, Economic Development and Cultural Change, (44, 1), pp 105 -128.

126

188. Tanner J.M (1962), Growth et adolescence, 2d ed Oxford Blackwell. 189. Tanner J.M (1979), A Concise History of Growth Studies from Buffon to Boas. In: Human Growth, Tindall pub, London, (3), pp 561 - 576. 190. Tanner J.M., Hayashi T., Preece M.A., Cameron N (1982), Increase in length of leg relative to trunk in Japanese children and adults from 1957 to 1977: comparison with British and with Japanese Americans, Ann. Hum. Biol, (9), pp 411 - 440.

191. Tomkins A., Watson F (1989), Malnutrition and Infection: A Review United Nations Administrative Committee on Coordination/Sub- Committe on Nutrition, Geneva Switzerland.

192. Ta Thi Tuyet Mai, Nguyen Thi Kim Hung, Masanobu Kawakami, Mari Kawase and Nguyen van Chuyen (2003), Micronutrient status of primary school girls in rural and urban areas of South Vietnam, Asia Pacific J Clin Nutr;12 (2), pp 178-185.

193. Torres AM, et al (2000), “Associations of diarrhoea and upper respiratory infections with weight and height gains in Bangladeshi children aged 5 to 11 years”, Bulletin of the World Health Organization, (78), pp 1316-1323.

194. UNDP (1997), Human development report 1997, New York: Oxford

University Press.

195. UNESCO (United Nations Educational, Scientific, and Cultural database, UNESCO-STAT

(1998), Organization) .

196. UNICEF (1990), Strategy for improved nutrition of children and women

in developing countries, New York.

197. UNICEF (1992), Second Report on the World Nutrition Situation,

NewYork, 1.

198. UNICEF (1997), The state of the world’s children, Oxford University

Press.

199. UNICEF (1998), The state of the world's children, New York. 200. UNICEF (2001), The state of the world’s children 2001, Oxford: Oxford

University Press.

201. United Nations - Nation Unies - ACC/SCN (1994), Update on the

nutrition situation.

127

202. United Nations (1998), World population prospects: The 1998

revisions, New York.

203. Universidade Luterana (2004), Determinants of growth retardation in Southern Brazil, ARTIGO ARTICLE 1182 Cad, Rio de Janeiro, (20,5), pp1182 - 1190.

204. Van Wieringgen J.C (1979), Secular Growth Changes, In: Human

Growth, Tindall pub, London, (2), pp 445 - 470.

205. Victora CG; Vaughan P; Kirkwood B; Martines JC; Barcelos L (1986), “Risk factors for malnutrition in Brazilian children: the role of social and environmental variables”, Bull World Health Organization, (64), pp 299 - 309.

206. Victora CG; Barros FC; Kirkwood B; Vaughan JP (1990), “Pneumonia, diarrhea, and growth in the first 4 of life: a longitudinal study of 5914 urban Brazilian children”, Am J Clin Nutrition, (52), pp 391- 6.

207. Victora C. G (1992), “The association between wasting and stuning: An international perspective”, Journal of Nutrition, (122), pp 1105 - 1110. 208. Victora CG, Fuchs S, Flôres JA, Fonseca W, Kirkwood B (1994), Risk factors for pneumonia among children in a Brazilian metropolitan area, Pediatrics, (93), pp 977 - 85.

209. Walker SP; Grantham - McGregor SM; Powell CA; Chang SM (2000), Effects of growth restriction in early childhood on growth, IQ and cognition at age 11-12 years and the benefits of nutritional supplementation and psychosocial stimulation, J Pediat, (137), pp 36 - 41.

210. Walker SP; Chang SM; Powell CA (2001), Psychosocial consequences of early childhood growth retardation, In: Martorell R, Hashcke F, eds. Nutrition and growth, Nestle Nutrition Workshop series, Pediatric Program vol 47, Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins, pp 241 – 54.

211. Walravens P.A. and Hambidge K.M (1976), “Growth of infants fed a zinc supplemented formula”, Am. J. Clin. Nutr, (26), pp 1114 - 1120.

128

212. Walravens P.A; Krebs N.F. and Hambidge K.M (1983), “Linear growth of low income preschool children receiving a zinc supplement”, Am. J. Clin. Nutr, (38), pp 195 - 201.

213. Waterlow J.C. et all (1977), “The presentation and use of height and weight data for comparing the nutritional status of groups of children under the age of 10 years”, Bull Wld. Hlth. Org, (55), pp 489.

214. Waterlow J.C (1990), Observation on the Natural History of Stunting, Nestle Nutrition Workshop Series. Raven Press - NewYork, (14), pp 4 - 6.

215. Waterlow J.C (1994), “Causes and Mechanisms of Linear Growth Retardation, Proceedings of an I/D/E/C/G. Workshop held in London January 15 – 18”, Eur. J. Clin. Nutr, (48), pp S1 - S216.

216. WHO (1983), Measuring change in Nutritional Status, Geneva. 217. WHO (1995), Nutrition: Highlights of recent activities of World

Declaration and Plan of Action for Nutrition, Geneva, pp 3 - 4.

218. WHO (1996), Water supply and sanitation sector monitoring report

1996. WHO/EOS/96 (15), Geneva.

219. WHO (2000), Preventing and managing the Global epidemic Obesity,

Geneva Technical Report Series 894.

220. WHO (2003), Global database on child growth and malnutrition, on (accessed

http://www.who.int/nutgrowthdb/intro-text.htm 16/Jun/2003).

221. WHO (2009), Global database on child growth and malnutrition, WHO,

Geneva.

222. World Bank (1986), Poverty and hunger: Issues and options for food

security in developing countries, Washington, D.C.

223. World Bank (2007), World development indicators on CD-ROM,

Washington, D.C.

224. WHO (1987), Prevention and control of intestinal parasitic infections,

Report of a WHO expert Committee. WHO, Geneva.

225. WHO, Ash LR, Orihel TC, and Savioli L (1994), Bench aids for the

diagnose of intestinal parasites.

129

226. WHO (1995), Physical status: the use and

interpretation of anthropometry. Report of WHO expert committee, WHO, Geneva, Switzerland.

227. WHO/UNICEF/UNU (2001), Iron deficiency anemia, assessments, prevention and control: a guide for programme managers, Geneva, Switzerland: WHO (WHO/NHD/01.3).

228. World Bank (2002), School age children: Their Nutrition and Health,

SCN News No 25.

229. Yongout Kachondham; Pattanee Winichagoon; Kraisid Tontisirin (1992), Nutrition and health in Thailland: Trends and actions, Institute of Nutrition, Mahidol University.

230. King JC. Et al (1998), “Zinc requirement and zinc intakes of breast-fed infants. Complementary feeding of young children in developing countries: a review of current scientìic knowledge”, Am J. Clin. Nutr, 43. pp. 288-92.

1

2

3

4

1