Thuốc chống trầm cảm

và thuốc chống động

kinh

(SKDS) - Đau mạn tính gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của

người bệnh và luôn là một thách thức trong thực hành lâm sàng. Những năm

gần đây, việc nghiên cứu về đau mạn tính đã đạt được nhiều thành tựu to

lớn, trong đó, đặc biệt là sự phát triển và áp dụng điều trị với các thuốc

chống trầm cảm và chống động kinh thế hệ mới.

Theo cơ chế, cảm giác đau ở con người được chia làm 3 nhóm là đau do cảm

nhận (gây ra do chấn thương hoặc viêm các mô tế bào trong cơ thể), đau do

nguồn gốc thần kinh và đau do yếu tố tâm lý. Đau do cảm nhận thường được

điều trị tốt với các thuốc có tác dụng chống viêm giảm đau, trong khi đó, đau

do yếu tố thần kinh thường đòi hỏi điều trị với những thuốc có tác động trên

các chất dẫn truyền thần kinh (như thuốc chống trầm cảm, chống động

kinh...) hoặc các dẫn xuất thuốc phiện trong những trường hợp đau nặng.

Hiệu quả giảm đau của các thuốc chống trầm cảm và chống động kinh có sự

khác biệt rõ rệt giữa các trường hợp đau do nguồn gốc thần kinh và đau do

các nguồn gốc khác.

Thuốc chống trầm cảm 3 vòng có tác dụng tốt với

chứng đau cột sống thắt lưng.

Thuốc chống trầm cảm

Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng như amitriptyline, nortriptyline và

desipramine trong điều trị đau mạn tính do nguồn gốc thần kinh và

những nguyên nhân khác đã được khẳng định qua nhiều nghiên cứu

khác nhau, trong đó, hiệu quả của amitriptyline và chất chuyển hóa của

nó, nortriptyline, được ghi nhận rõ rệt nhất. Khá nhiều bệnh lý đau

mạn tính không do nguyên nhân thần kinh, như chứng đau xơ cơ

(fibromyalgia) và đau cột sống thắt lưng, có đáp ứng tốt với các thuốc

chống trầm cảm 3 vòng.

Tác dụng giảm đau của các thuốc này rõ ràng độc lập với tác dụng

chống trầm cảm của chúng vì nhiều bệnh nhân đau nhưng không có

trầm cảm vẫn đáp ứng tốt với thuốc. Hiệu quả giảm đau của thuốc đạt

được ra ở liều thấp hơn so với liều điều trị chống trầm cảm thông

thường, ví dụ, với amitriptyline là 25-100mg hàng ngày. Các thuốc

chống trầm cảm khác không thuộc nhóm 3 vòng như bupropion,

venlafaxine, duloxetine cũng có tác dụng giảm đau ở các mức độ khác

nhau đối với các trường hợp đau do nguồn gốc thần kinh.

Thuốc chống động kinh

Đối với các thuốc chống động kinh thế hệ 1, carbamazepine có hiệu quả

khá rõ rệt trong điều trị đau thần kinh sinh ba, hiệu quả kém hơn đối

với đau thần kinh sau zona và bệnh lý thần kinh do tiểu đường. Trong

số các thuốc chống động kinh thế hệ hai, gabapentin là thuốc được ghi

nhận rõ rệt nhất về tính hiệu quả trong điều trị đau do nguồn gốc thần

kinh. Với liều cao, gabapentin được chứng minh là có tác dụng vượt trội

so với giả dược trong điều trị các trường hợp đau do tiểu đường và đau

sau zona, tuy nhiên, tác dụng này đã không được thể hiện với liều thông

thường của thuốc (900mg hàng ngày).

Đối với các hội chứng đau có một phần nguyên nhân thần kinh (như

đau kéo dài sau phẫu thuật), hiệu quả giảm đau của thuốc là không rõ

rệt. Pregabalin cũng là một thuốc chống động kinh thế hệ mới được

chứng minh là có hiệu quả đối với nhiều bệnh lý đau mạn tính như

chứng đau xơ cơ (fibromyalgia), chấn thương tủy sống, đau thần kinh

sau zona, bệnh lý thần kinh do tiểu đường. Pregabaline là thuốc chống

động kinh duy nhất có tác dụng đối với chứng đau xơ cơ. Lamotrigine

cũng có ít nhiều tác dụng trong điều trị đau thần kinh sinh ba, bệnh lý

thần kinh liên quan với HIV và đau sau đột quỵ. Thuốc này không hiệu

quả với các trường hợp đau nặng, dai dẳng và thường gây các phản ứng

phụ ngoài da.

Các nghiên cứu so sánh cho thấy, hiệu quả giảm đau đối với các trường

hợp đau do nguồn gốc thần kinh của các thuốc chống trầm cảm và

chống động kinh là tương đương nhau trên lâm sàng, tuy nhiên, chúng

khác nhau về mức độ an toàn và khả năng dung nạp thuốc. Theo ước

tính từ một nghiên cứu gần đây, cứ 2,6 trường hợp đau do nguồn gốc

thần kinh được điều trị với các thuốc chống trầm cảm 3 vòng thì có 1

trường hợp có đáp ứng rõ rệt, con số này với các thuốc ức chế tái hấp

thu serotonin chọn lọc (như fluoxetine, paroxetine), thuốc chống động

kinh thế hệ cũ (như phenytoin, carbamazepine) và gabapentin lần lượt

là 6,7; 2,5 và 4,1.

Do hiệu quả điều trị là tương đương giữa hai nhóm thuốc này nên sự

lựa chọn điều trị ban đầu cần dựa chủ yếu vào mức độ an toàn, chống

chỉ định và giá thành của thuốc cũng như các bệnh lý mắc kèm của

người bệnh. Ví dụ, các bệnh nhân có biểu hiện lo lắng, trầm cảm, mất

ngủ nên được lựa chọn điều trị với các thuốc chống trầm cảm 3 vòng.

Tuy nhiên, các bệnh nhân có bệnh tim mạch hoặc glôcôm góc đóng lại

không nên được điều trị với nhóm thuốc này. Ngay cả khi điều trị thành

công thì cũng chỉ giảm được 30-50% cảm giác đau, do đó, có thể phải

cân nhắc việc phối hợp thuốc điều trị.