Thuốc điều trị nấm bàn chân

Nấm bàn chân là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng nhiễm nấm ở vùng bàn chân và

các kẽ ngón chân. Đây là tình trạng nhiễm nấm ngoài da thường gặp nhất ở nhiều

nơi trên thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và một số vùng của châu Phi,

châu Âu. Ước tính, 70% số người trên thế giới có ít nhất 1 lần bị nhiễm nấm bàn

chân trong thời gian sống.

Nguyên nhân

Nguyên nhân chủ yếu gây nấm bàn chân là các chủng nấm Trichophyton rubrum,

Trichophyton mentagrophytes và Epidermophyton floccosum, trong đó, Trichophyton

rubrum là nguyên nhân thường gặp nhất trên toàn thế giới. Một số nguyên nhân khác ít

gặp hơn là các loại nấm Trichophyton tonsurans (ở trẻ em), Scytalidium dimidiatum,

Scytalidium hyalinum và các chủng Candida. Các loại nấm này xâm nhập vào lớp sừng

trên bề mặt da bằng cách tiết ra các men keratinase có khả năng tiêu chất sừng. Ngoài ra,

chúng còn có chứa các chất có khả năng ức chế đáp ứng miễn dịch của cơ thể và giảm sự

sinh sản của các tế bào sừng, gây tình trạng nhiễm trùng mạn tính. Da bàn chân không có

tuyến bã cũng là một yếu tố góp phần làm tăng nguy cơ nhiễm nấm ở bàn chân vì các

chất bã có tác dụng ức chế sự phát triển của các loại vi sinh vật gây bệnh. Da bàn chân bị

trầy xước, tăng tiết mồ hôi chân, thường xuyên mang giày kín trong môi trường nóng ẩm

hoặc chân bị ngâm nước kéo dài cũng là những yếu tố thuận lợi cho sự xâm nhập của

nấm.

Biểu hiện của bệnh

Nấm kẽ chân.

Nấm bàn chân có thể xảy ra ở 1 hoặc cả 2 chân, biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào vùng

da bị nhiễm nấm và loại nấm gây bệnh. Viêm kẽ là dạng tổn thương đặc trưng của nấm

bàn chân, biểu hiện với các đám ban đỏ, nứt kẽ, tiết dịch ẩm ướt và đóng vảy tiết ở kẽ

chân, thường gặp nhất là kẽ giữa các ngón 3, 4 và 5. Bệnh nhân có ngứa nhiều, đôi khi

tổn thương có thể lan xuống mặt gan chân, hiếm khi lan lên mu chân. Bội nhiễm vi khuẩn

cũng thường xảy ra sau nhiễm nấm làm tổn thương trở nên trầm trọng hơn và bệnh nhân

có thể đau nhức. Ở gan bàn chân và mu chân, bệnh thường biểu hiện với các đám ban đỏ

hình vòng cung, đường kính 1 - 5 cm, đóng vảy, ranh giới của tổn thương khá rõ, bờ gồ

cao với các mụn nước hoặc vảy da, vùng da ở giữa thường có màu sắc tương đối bình

thường. Bệnh nhân thường có ngứa ít hoặc không ngứa, tổn thương có xu hướng bong

vảy mạn tính. Viêm và nổi mụn nước cũng là một dạng tổn thương có thể gặp của nấm

bàn chân. Trong thể này, bệnh nhân có nổi các mụn nước hoặc bọng nước trong hoặc có

mủ, gây ngứa và đau, thường ở mu chân và phía trước của gan bàn chân, sau khi vỡ để lại

vảy tiết và ban đỏ dai dẳng. Loét là thể nặng nhất của nấm bàn chân, thường gặp ở những

bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch hoặc mắc bệnh tiểu đường.

Phòng bệnh và điều trị

Nấm bàn chân cần được điều trị với các thuốc chống nấm tại chỗ hoặc toàn thân hoặc

phối hợp cả hai. Các thuốc chống nấm tại chỗ có thể được dùng trong 1 - 6 tuần, tùy từng

loại thuốc và loại tổn thương. Những bệnh nhân với tổn thương dày sừng mạn tính ở gan

bàn chân nên được dùng thuốc chống nấm tại chỗ ở cả mặt dưới và mặt bên của bàn

chân. Ngoài ra, với dạng tổn thương này, việc dùng các thuốc chống nấm đơn thuần

thường không hiệu quả, cần phối hợp thêm các thuốc có tác dụng bạt sừng như salicylic

acid. Các trường hợp nấm kẽ chân cũng nên được bôi thuốc chống nấm ở tại vùng tổn

thương và cả gan bàn chân để đề phòng khả năng lan rộng của tổn thương. Các thuốc

chống nấm đường toàn thân thường được sử dụng trong những thể nặng như thể có bọng

nước, trợt loét, những trường hợp có kết hợp với nấm ở nơi khác hoặc ở những bệnh nhân

có tiểu đường, suy giảm miễn dịch. Trong quá trình điều trị nấm bàn chân, khi triệu

chứng mới thuyên giảm, nếu người bệnh đột ngột ngưng dùng thuốc có thể làm bệnh

nặng trở lại. Do đó, người bệnh nên được kê đơn một số lượng thuốc đủ lớn để có thể

dùng đủ lộ trình điều trị và phải được hướng dẫn để đảm bảo sự tuân thủ điều trị.

Các thuốc chống nấm tại chỗ: Các dẫn xuất nhóm imidazole có hiệu quả rất tốt trong điều

trị nấm bàn chân, đặc biệt là nấm kẽ chân do chúng có khả năng chống lại hầu hết các

loại nấm gây bệnh, một số loại trong đó còn có tác dụng diệt khuẩn (như econazole). Các

thuốc thường được sử dụng trong nhóm này là clotrimazole cream 1% (thoa 2 - 3 lần mỗi

ngày trong 2 - 6 tuần, không nên dùng cho trẻ em), econazole cream 1% (thoa 1 - 2 lần

mỗi ngày trong 4 tuần), ketoconazole cream 1% (thoa 1 -2 lần mỗi ngày trong 2 - 4 tuần),

miconazole dung dịch 2% (dùng 2 lần mỗi ngày trong 2 - 6 tuần), oxiconazole cream 1%

(thoa 2 lần mỗi ngày trong 4 tuần), Sertaconazole nitrate cream (thoa 2 lần mỗi ngày

trong 4 tuần, không dùng ở trẻ dưới 12 tuổi)... Terbinafine cũng là một hoạt chất được ưa

dùng do khả năng diệt nấm mạnh, có thể hiệu quả sau 1 tuần điều trị. Thuốc được dùng

tại chỗ 2 lần mỗi ngày trong 1 - 4 tuần, không nên dùng ở trẻ dưới 12 tuổi.

Các thuốc chống nấm đường uống: thường sử dụng nhất là itraconazole, terbubafine,

fluconazole.

Bên cạnh việc dùng thuốc, người bệnh cũng cần lưu ý tránh tạo các điều kiện thuận lợi

cho sự phát triển của nấm như hạn chế đi giày kín, thường xuyên giặt là quần áo và tất

chân...

BS. Nguyễn Hữu Trường

(BV Bạch Mai)