
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 477 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2019
91
sớm. Mục đích đặt dẫn lưu qua cùng đồ và
sonde tiểu để theo dõi chảy máu, tổn thương
đường tiết niệu. Do kĩ thuật mổ đảm bảo an toàn
nên thời gian lưu sonde ngắn, thường rút sau 1
đến 2 ngày hậu phẫu.
Điểm nổi bật của kĩ thuật này là mức độ đau
của bệnh nhân giảm hẳn do không tổn thương
da, cân cơ như mổ mở đường bụng. Thời gian
dùng thuốc giảm đau chủ yếu trong 3 ngày đầu.
Đây là một trong những ưu điểm vượt trội của kĩ
thuật này.
Ngoài ra, so với cắt tử cung đường bụng thì
cắt tử cung đường âm đạo có thời gian bình
phục nhanh hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn,
và ít nguy cơ nhiễm trùng sau mổ hơn, nhất là
với những bệnh nhân thể trạng béo, lớp mỡ
bụng dày. Bệnh nhân trong nghiên cứu này có
thời gian nằm viện trung bình khoảng 4,21 ngày.
Đa phần bệnh nhân được về ngoại trú sau 4
ngày phẫu thuật (66,67%). Thời gian nằm viện
sau mổ trong ngiên cứu của chúng tôi thấp hơn
so với nhóm bệnh nhân được phẫu thuật nội soi
trong nghiên cứu của Nguyễn văn Lựu [5].
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 48 bệnh nhân được cắt tử
cung toàn bộ đường âm đạo cho thấy, đây là kĩ
thuật an toàn, hiệu quả, thời gian mổ ngắn,
bình phục nhanh, ít biến chứng. Tuy nhiên cần
được tiến hành ở nhóm bệnh nhân phù hợp, tại
trung tâm có nhiều kinh nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aarts JW, Nieboer TE, Johnson N, et al.
(2015) “Surgical approach to hysterectomy for
benign gynaecological disease”. Cochrane
Database Syst Rev: CD003677.
2. Bing Chen, Dong-Ping, RenJing-Xuan.
(2014). “Comparison of vaginal and abdominal
hysterectomy:A prospective non-randomized trial”.
Pak J Med Sci Jul-Aug; 30(4): 875–879.
3. Committee on Gynecologic Practice.
Committee Opinion No 701 (2017) “Choosing the
Route of Hysterectomy for Benign Disease”. Obstet
Gynecol; 129:e155.
4. Nguyễn Đức Hinh (2012), Một số kĩ thuật cắt tử
cung, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Lựu (2014) “Nghiên cứu kết quả
phẫu thuật cắt tử cung qua nội soi tại bệnh viện
198 – Bộ Công An”, Luận văn thạc sĩ y học.
Trường đại học Y Hà Nội.
6. Trần Thanh Hương (2012) “Nghiên cứu kết qủa
cắt tử cung hoàn toàn do u xơ tử cung bằng phẫu
thuật nội soi tại Bệnh viện Trung ương Quân đội
108”. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp II.
7. Wu JM, Wechter ME, Geller EJ, Nguyen TV,
Visco AG (2007) “Hysterectomy rates in the
United States”,. Obstet Gynecol ;110:1091–1095.
TIÊN LƯỢNG BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ DO HẸP ĐỘNG MẠCH NỘI SỌ VỚI
ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA TÍCH CỰC TRONG VÒNG 3 THÁNG
Phạm Nguyễn Thành Thái*, Nguyễn Huy Thắng**
TÓM TẮT26
Mở đầu: Hẹp động mạch nội sọ là một trong các
nguyên nhân của đột quỵ thiếu máu não và là cơ thế
đột quỵ phổ biến nhất hiện nay, nguy cơ đột quỵ hàng
năm từ 10 đến 20%, nguy cơ nhiều hơn ở bệnh nhân
có độ hẹp cao (70-99%), do đó cần có chiến lược
phòng ngừa đột quỵ thứ phát hiệu quả.
Mục tiêu
nghiên cứu
1.
Xác định tỉ lệ nhồi máu não tái phát của bệnh
nhân hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng với điều trị
nội khoa tích cực trong vòng 3 tháng.
2.
Tìm các yếu tố liên quan đến nhồi máu não tái
phát của bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ có triệu
chứng với điều trị nội khoa tích cực trong vòng 3 tháng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
*Nhân Dân 115
**Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Chịu trách nhiệm chính: Phạm Nguyễn Thành Thái
Email: drthanhthai115@gmail.com
Ngày nhận bài: 17.2.2019
Ngày phản biện khoa học: 2.4.2019
Ngày duyệt bài: 8.4.2019
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 256 người
bệnh hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng với điều trị
nội khoa tích cực trong vòng 3 tháng từ tháng 8/2017
đến tháng 5/2018. Kết quả: Tỉ lệ nhồi máu não tái
phát là 11,3% (29/256). Nhồi máu não tái phát có liên
quan đến nơi cư trú và đường huyết sau khi phân tích
đa biến. Kết luận: Tỉ lệ nhồi máu não tái phát còn
tương đối ở bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ mặc dù
đã được điều trị nội khoa tích cực. Do đó tất cả bệnh
nhân hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng cần có thái
độ tích cực từ phía nhân viên y tế, bệnh nhân, người
nhà bệnh nhân trong điều trị thuốc, thay đổi lối sống
Từ khóa:
Nhồi máu não tái phát, hẹp động mạch
nội sọ có triệu chứng.
SUMMARY
THE PREDITION OF STROKE PATIENTS
DUE TO INTRACRANIAL ARTERY STENOSIS
WITH INTENSIVE MEDICAL TREATMENT
Background: Intracranial artery stenosis is a
common cause of cerebral infarction. Patients with at
least 70% stenosis of a major intracranial artery had
an increased risk of recurrent stroke in the territory of
the stenosis compared with patients with 50–69%,