1
!
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam có dân số đô thị lớn thứ sáu trong khu vực Đông Á [25]. Tốc
độ đô thị hóa tại Việt Nam đang diễn ra một cách nhanh chóng, với dự
báo mỗi năm thêm một triệu cư dân đô thị mới. Tính đến hết ngày
4/12/2018, cả nước có 819 đô thị, bao gồm: 2 đô thị loại đặc biệt là Hà
Nội và Thành phố (ThP) Hồ Chí Minh, 19 đô thị loại I, 26 đô thị loại II,
46 đô thị loại III, 83 đô thị loại IV, 645 đô thị loại V. Ước tính đến năm
2020, dân số đô thị khoảng 44 triệu người, chiếm 45% dân số đô thị cả
nước, năm 2025, tổng số đô thị cả nước khoảng 1000 đô thị, trong đó,
đô thị từ loại I đến đặc biệt là 17 đô thị, đô thị loại II là 20 đô thị; đô thị
loại III là 81 đô thị; đô thị loại IV là 122 đô thị còn lại là các đô thị loại
V[30].
Trong khi đó hệ thống thoát nước (HTTN) và vệ sinh đô thị ở nước ta
với cơ sở vật chất kỹ thuật không đảm bảo về số lượng và chất lượng
nên phạm vi phục vụ rất hạn chế. Hệ thống cống thoát nước mới chỉ đáp
ứng 50-60% dân số đô thị ở các thành phố lớn và 30-40% ở các thành
phố vừa và nhỏ. Số lượng các nhà máy xử lý nước thải (NMXLNT) đã
xây dựng rất ít và hoạt động không hiệu quả nên lượng nước thải đô thị
xử lý đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường không đáng kể. Theo Hội Cấp
thoát nước Việt Nam (2019), 37/63 địa phương có NMXLNT và 5 địa
phương đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải (NMXLNT) sinh hoạt
tập trung [16]. Tuy nhiên, phần lớn, các NMXLNT đang hoạt động dưới
50% công suất thiết kế và xây dựng. Thậm chí có NMXLNT đã xây
xong nhưng đến nay vẫn không có nước thải để xử lý. Một trong những
nguyên nhân của sự bất cập này là các dự án thoát nước và xử lý nước
thải (XLNT) tập trung có chung các khó khăn trong lựa chọn công nghệ
và đấu nối nước thải [11].
Hiện nay, ở các đô thị Việt Nam, doanh thu từ các hoạt động nước thải
được tạo ra bằng cách áp dụng một khoản phần trăm thu phí đối trên tất
cả khách hàng tiêu thụ nước dựa vào Nghị Định 154/2016/NĐ-CP hoặc
giá dịch vụ thoát nước theo Nghị Định 80/2014/NĐ-CP. Theo Nghị định
154/2016/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường quy định phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải sinh hoạt là 10% giá nước sạch là không đáp
ứng được nhu cầu quản lý và vận hành HTTN. Cũng đã có một số đô thị
hiện đã áp dụng giá dịch vụ thoát nước theo Nghị Định 80/2014/NĐ-CP
để huy động sự đóng góp của người sử dụng dịch vụ, giảm áp lực cho
ngân sách Nhà nước. Mức giá dịch vụ thoát nước các đô thị đang áp
dụng cho hộ gia đình cao hơn mức phí môi trường và dao động từ