Tiểu luận Một số biện pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN

Lời mở đầu

Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp

nhà nước là mộ t trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà

nước ta hiện nay. Thực tiễn hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước

ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù Doanh nghiệp nhà

nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có

nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư

chủ yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có đào tạo, cán bộ quản lý có

năng lực cũng tập trung chủ yếu trong các Doanh nghiệp nhà nước.

Các Doanh nghiệp nhà nước chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng

của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng

và nhiều ngành, lĩnh vực khác như bảo hiểm, ngân hàng… Tuy

nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song Doanh nghiệp nhà nước

vẫn chưa thực sự phát huy tốt vai trò của nòng cốt của chúng trong

việc làm cho kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số

các Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây thất thoát tài sản

của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những vụ tham nhũng điển

hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Doanh nghiệp nhà

nước. Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới

Doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành

động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng và Nhà nước

ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước càng trở nên

cấp bách khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu

vực và thế giới. Một trong những giải pháp đổi mới Doanh nghiệp

nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi

triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp nhà

nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây

15 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai

rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ

phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả mong muốn.

Mặc dù hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước được cổ

phần hoá đã chứng tỏ tác dụng to lớn của nó song thực tế số Doanh

nghiệp nhà nước được cổ phần hoá ít hơn nhiều so với yêu cầu đặt

ra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà

nước, tìm được những hạn chế của nó, để đưa ra các giải pháp nhằm

đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là việc

làm cần thiết. Đó cũng chính là lý do mà em chọn đề tài “Một số

biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong

một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn

hiện nay” làm đề tài nghiên cứu môn học Kinh tế chính trị với

mong muốn sẽ hiểu hơn về tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà

nước ở nước ta. Từ đó thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của bản

thân cần phải làm gì để góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá

Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.

Là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, với vốn kiến

thức còn hạn chế, chắc chắn bài viết của em còn nhiều sai sót. Vì

thế em rất mong được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy giáo

Nguyễn An Ninh để đề án của em được hoàn thiện hơn. Em xin

chân thành cảm ơn thầy.

nội dung

I. Cơ sở lý luận về việc cổ phân hoá một bộ phận doanh nghiệp

Nhà nước ở nước ta.

1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà

nước ở nước ta.

Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp

nhà nước.

Dưới góc độ chủ sở hữu, doanh nghiệp được gọi là Doanh

nghiệp nhà nước khi Nhà nước là chủ sở hữu. Theo mô hình chủ

nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu Nhà nước (sở hữu toàn dân) được

thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột, về mặt kinh tế nó

được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân.

Trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức

nền kinh tế có kế hoạch, hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường hỗn

loạn, mất cân đối.

Nhưng trên thực tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận

hành không tốt như mong đợi. Cơ chế kinh tế này có nhiều khuyết

tật và điều nan giải nhất là các Doanh nghiệp nhà nước hoạt động

kém hiệu quả.

ở Việt Nam, việc xoá bỏ quá vội vàng sở hữu tư nhân, thiết lập

sở hữu Nhà nước và tập thể dựa trên các biện pháp hành chính, đã

đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài.

Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện nền kinh tế

tăng trưởng nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động của các

Doanh nghiệp nhà nước có khá hơn nhưng hiệu quả vẫn rất thấp.

Bên cạnh đó việc sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả, khả năng

cạnh tranh thấp đòi hỏi các Doanh nghiệp nhà nước phải có những

đổi mới một cách căn bản. Nếu không chúng sẽ thất bại trong cạnh

tranh, trong điều kiện hội nhập hiện nay.

Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.

- Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Doanh nghiệp nhà nước nắm trong tay phần lớn những nguồn

lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực.

Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp lại sử dụng lãng phí không hiệu

quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước tương lai không

sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế

trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang

tiến triển tốt đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít

lần là tốc độ tăng trưởng cao của chúng ta có một nguyên nhân quan

trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp.

- Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các

Doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn không rõ ràng. Nhà nước không

nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của mình là bao

nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu,

tăng giảm như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì doanh

nghiệp kém hiệu quả, Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp

bao cấp trực tiếp và gián tiếp như : xoá nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu

đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ… và cuối cùng, không ai

biết Doanh nghiệp nhà nước nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi Doanh

nghiệp nhà nước. Không nên quên rằng Doanh nghiệp nhà nước là

phương tiện chứ không phải mục đích. Không thể lấy tiền của dân

chúng để nuôi một vài doanh nghiệp thua lỗ triền miên, nhưng đã

được các cơ quan chủ quản hà hơi tiếp sức hết đợt này đến đợt khác,

với lý do cố vực dậy, lý do bảo vệ người lao động. Nhưng tiền bao

cấp cho doanh nghiệp chính là thuế mà dân chúng đóng góp, trong

đó có không ít người còn sống trong cảnh đói nghèo. Nhà nước phải

là của toàn dân chứ không phải của riêng các Doanh nghiệp nhà

nước, và Nhà nước cần hành động vì lợi ích của toàn dân chứ không

phải chỉ riêng lợi ích của những người trong Doanh nghiệp nhà

nước.

- Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh

chóng. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, Doanh nghiệp nhà nước

không phải chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước

mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh của nước ngoài. Cạnh

tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà nước giữ

độc quyền cho các doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình đẳng

đòi hỏi không chỉ xoá bỏ độc quyền mà cả bao cấp.

Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thị trường đặt dấu chấm hỏi

lớn đối với các tương lai của các Doanh nghiệp nhà nước nếu chúng

không đổi mới.

Cổ phần hoá - giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối

ưu

Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là gì?

Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.

Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ

phần. Cụm từ “cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ

khi Đảng ta vận động nhân dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã

tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty hợp danh.

Vậy Cổ phần hoá là gì? “Cổ phần hoá là quá trình chuyển

Doanh nghiệp nhà nước từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà

nước thành lập doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu”.

Người chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông tự do bầu

chọn ra Hội đồng quản trị là người đại diện chính thức cho mình.

Bản chất và các hình thức Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà

nước ở nước ta.

Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là biến doanh nghiệp một

chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ tức là chuyển từ hình thức sở hữu

đơn nhất sang sở hữu chung thông qua việc chuyển một phần tài sản

của doanh nghiệp cho những người khác. Những người này trở

thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở hữu trong

doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dưới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn

tới sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của

doanh nghiệp được cổ phần hoá. Bản chất của cổ phần hoá như đã

nêu ở trên không phải cũng được hiểu đúng trong thực tiễn xây

dựng và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá. Có quan điểm đồng

nhất cổ phần hoá với tư nhân hoá hay có quan điểm cho rằng cổ

phần hoá chỉ liên quân đến Doanh nghiệp nhà nước.

Nhìn bề ngoài, cổ phần hoá là quá trình xác định lại mục tiêu

phương hướng kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ

phần. Đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, quyết định mức vốn

Nhà nước giữ cần nắm giữ và rao bán rộng rãi phần còn lại. Qua đó

làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn, xác lập cụ thể những

người tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển Doanh

nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ

đông và chuyển sang hoạt động theo Luật của doanh nghiệp.

Song để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá, cần thấy rằng trong

công ty cổ phần, trên cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều

phần, thì quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh

doanh cũng được phân ra thành những đơn vị có cơ cấu sở hữu. Sở

dĩ cổ phần hoá có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các Doanh

nghiệp nhà nước là do qua cổ phần hoá, cơ cấu sở hữu của doanh

nghiệp đã thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và

trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo,

từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ thể rõ ràng và hợp lực mới

mạnh mẽ hơn; đồng thời chuyển doanh nghiệp sang vận hành theo

cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát

rộng rãi và chặt chẽ hơn.

Cho nên, thực chất cổ phần hoá nói chung là giải pháp tài chính

và tổ chức, dực trên chế độ cổ phần nhằm đổi mới cơ chế và cơ cấu

phân chia quyền lợi và trách nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp. Cổ phần hoá theo phương thức hiện

hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu sở hữu, dẫn tới thay đổi

cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ chỗ chỉ có

Nhà nước nắm quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết

quả kinh doanh, cả quyền lợi và trách nhiệm, lợi nhuận và rủi ro cho

những người tham gia góp vốn, do đó tạo ra động lực, trách nhiệm

và hiệu quả doanh nghiệp.

Trên cơ sở mục đ ích của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước

là nhằm chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu sang doanh nghiệp

nhiều chủ sở hữu, cổ phần hoá ở nước ta bao gồm nhiều hình thức

khác nhau:

- Giữ nguyến giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu

hút thêm vốn.

- Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông. - Cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của công ty. - Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Như vậy , thực chất cổ phần hoá là làm giảm bớt vai trò trực

tiếp làm chủ sở hữu các doanh nghiệp, giảm bớt đầu tư của Nhà

nước, tăng thêm nguồn vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội

trong và ngoài nước để tạo thêm sức mạnh kinh tế cho doanh

nghiệp.

Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các Doanh nghiệp nhà nước,

vấn đề cải cách Doanh nghiệp nhà nước từ lâu là mối quan tâm của

Đảng và Nhà nước ta. Đã có nhiều giải pháp cải cách được thực

hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là trước thời điểm thực

hiện cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện

pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (Doanh nghiệp

nhà nước theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải

pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện trước năm

1990 ít mang lại hiệ u quả. Vai trò, hiệu quả của Doanh nghiệp nhà

nước hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu quả, thua

lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của Doanh

nghiệp nhà nước ở nước ta. Nhiều Doanh nghiệp nhà nước đã trở

thành bình phong cho những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế,

lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến khác nhau về những kết quả

hạn chế của các biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước đã thực

hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy dễ dàng được thừa nhận

khá rộng rãi là Doanh nghiệp nhà nước thực tế không có chủ nhân

thực sự. Nhà nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công

nhân trong Doanh nghiệp nhà nước ít quan tâm đến hiệu quả sản

xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi mình đang làm

việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi Doanh nghiệp

nhà nước đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic

ích sở hữu trong Doanh nghiệp nhà nước chính là cội nguồn của

những căn bệnh mà chúng gặp phải.

Cải cách Doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành bằng nhiều

cách khác nhau như: bán Doanh nghiệp nhà nước, cho thuê Doanh

nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý Doanh nghiệp nhà nước…

Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một trong những giải

pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước.

Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập

kỷ vừa qua cho thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh

tế nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay.

Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu được

thực hiện thí điểm thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc

thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-

1990 của Hội đồng bộ trưởng và sau đó được thực hiện với quy mô

rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại hội

Đảng lần thứ VI (1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện để cải

cách triệt để hơn đối với Doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc cổ

phần hoá chúng. Sở dĩ cổ phần hoá được coi là giải pháp triệt để vì

nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong t ổ chức

quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn đề sở

hữu. Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước khác chỉ

động chạm đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ

của của Doanh nghiệp nhà nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ

thể. Cổ phần hoá doanh nghiệp chấp nhận sự dung hoà của nhiều

thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vĩ

mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh

nghiệp nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của

chúng, điều mà trước đổi mới ít ai dám nghĩ đến chứ chưa nói là

triển khai nó.

2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước

ta.

Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách

Doanh nghiệp nhà nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải

tất cả các doanh nghiệp đều có thể đổi mới bằng phương thức này.

Có những doanh nghiệp mà Nhà nước cần duy trì 100% vốn Nhà

nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong

nền kinh tế trên các lĩnh vực sau:

- Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ,

sản xuất phương tiện phát sóng, truyền tin…

- Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân, bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực :

năng lượng, dầu khí, khai thác vàng và đá quý, xây dựng sân bay,

bến cảng, đường sắt…

- Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông,

bưu chính, viễn thông, điện, thuỷ nông…

- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua

lỗ, lãi ít hoặc gặp rất nhiều khó khăn.

Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh

tế tập thể, tư nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải

đường sắt, vận tải hàng hoá lên miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến

vùng kinh tế mới, sản xuất phương tiện cho người tàn tật, đồ chơi

cho trẻ em…

Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước

phải tổ chức các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các

hoạt động này. Có thể làm việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân

sách Nhà nước cho các doanh nghiệp thua lỗ. Trong trường hợp

này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên không thể coi đó là

bao cấp.

Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam

mà dù ở bất kỳ nước nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nước l à

một tất yếu khách quan.

Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần

phải đổi mới bằng giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận

doanh nghiệp. Bộ phận doanh nghiệp ấy là gì? Căn cứ vào tình hình

thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhà nước được chọn lựa cổ phần

hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây:

- Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ - Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100%

vốn đầu tư Nhà nước.

- Có phương án kinh doanh hiệu quả. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà

nước) cũng có thể thực hiện cổ phần hoá theo phương thức phát

hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển

sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên giá trị tài sản hiện có của doanh

nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các doanh nghiệp vừa và

nhỏ là những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ đồng trở xuống

và có số lao động dưới 1000 người, không kể số lao động làm hợp

đồng theo thời vụ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác

định giá trị tài sản hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn mà còn phù

hợp với sức mua của cán bộ công nhân viên tại nhiệm sở và trong

ngành.

3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước

Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định “Triển khai

tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước để

huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có

hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên chứ không

phải tư nhân hoá”

Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về

việc chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần

đã nêu rõ: chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần

nhằm các mục tiêu:

- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi

mới công nghệ tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng

cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước.

- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi

phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩ y doanh nghiệp kinh

doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu

nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất

nước.

Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu

của cổ phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán.

Song phải chăng huy động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục

tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc

đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở

vị trí ngang nhau.

Huy động vốn và sử d ụng có hiệu quả các nguồn vốn là một

trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công

cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện

tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là một

trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy động

vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng

kinh doanh có hiệu quả được coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc

huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp như một mục tiêu hàng

đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu giải

quyết khó khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh

nghiệp. Điều đó đến lượt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực

hiện chính mục tiêu ấy, người lao động không thấy được động lực

kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình. Trong cơ chế thị

trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với

quyền quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ

người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ

cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của

doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở

doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh một cách có

hiệu quả nhất. Hơn nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là phương tiện

thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế mà thôi. Nếu

không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy động đó cũng

không thể mang lại hiệu quả mong đợi.

Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò

làm chủ thực sự của những người sở hữu tài sản. Huy động thêm

vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là điều kiện cần thiết để tạo

thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp phụ thuộc chủ

yếu vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm.

Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một

chủ trương lớn của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ

hai Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số

doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và

thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”.

Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu

“thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần

doanh nghiệp không cần Nhà nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất,

loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỉ lệ cổ phần cho công

nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong

trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân

ngoài quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh”.

Như vậy, Nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu

khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.

4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.

- Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc

thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của

các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để

từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.

- Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều

này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhăm

thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước như

luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong

khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84 -TTg của Thủ tướng Chính

phủ về thí điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước…

Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ

để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác

định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp,

mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.

- Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức

lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi

suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư sản xuất kinh

doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi

người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các

Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá.

- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư

được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày

càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các

chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá.

- Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả

năng cạnh tranh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã

thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả của công việc trong

điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này

sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho

việc thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.

- Với luật đầu tư nước ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam góp phần tạ o

môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư bằng cổ phiếu

vào các Doanh nghiệp nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá.

- Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp

nhà nước sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến

hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc cổ phần

hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.

- Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Đó là những

khó khăn gặp phải trong thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần

hoá đã dần được khắc phục, có thể kể đến như chúng ta đã có một

thị trường chứng khoán thực sự, tuy chưa phát triển sôi động như

các nước phát triển và khu vực , nhưng đó cũng là môi trường để

thực hiện cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước hiện nay hầu

hết đều trang bị máy móc, công nghệ hiện đại, khả năng cạnh tranh

cao… do đó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này.

Bên cạnh đó tình hình chính trị q uốc gia ổn định tạo niềm tin thu

hút các nhà đầu tư nước ngoài…

Với những tiền đề như thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh

nghiệp nhà nước của chúng ta đã diễn ra như thế nào? Chúng ta đã

làm được những gì và còn hạn chế gì? Để từ đó có biện pháp thích

hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá.

II. Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.

1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.

Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế - xã

hội, Đảng ta đã có chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp

nhà nước thành công ty cổ phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị

lần thứ hai của Ban chấp hành TW khoá VII tháng 11/1991. Nghị

quyết này đã chỉ ra : “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có

điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ

phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu

đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”. Trải qua 15 năm thực

hiện đến hết năm 2005, chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ

phần trên cơ sở cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và bộ phần

Doanh nghiệp nhà nước. Kết quả thực hiện qua từng năm như sau:

Năm Số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá

1990-1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Không 02 01 03 05 07 100 250 212 204 164 532

2004 2005 753 754

Tổng 2987

Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua

những bước thăng trầm, nhưng nói chúng là theo xu hướng mỗi

ngày càng được đẩy mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong

những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm) và cho

đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do

đó số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều.

Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh

nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn

nhà nước có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu

(chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại

doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn Nhà nước tại doanh

nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ

phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành

công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%,

thương mại dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông - lâm - ngư ngiệp

chiếm 5,8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương chiếm 65,7%, bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng

công ty 91 chiếm 8,5%.

Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn

mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh

nghiệp làm ăn khá, quy mô lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể

đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà

máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực

Khánh Hoà, công ty giấy Phương Mai, công ty vận tải xăng dầu

đường thuỷ I, Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên

tới 2500 tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ

đồng trong đó vốn Nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt

nữa, đó là việc xác định giá trị cổ phần được thực hiện thông qua

đấu giá công khai trên thị trường. Ngay trong ngày đầu tiên bán đấu

giá Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với giá trung bình cao

gấp 4,89 lần mệnh giá. tính minh bạch và công khai đấu giá cổ

phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư chiến

lược, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà

mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra,

các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6%

và số vốn thu hút được từ các tổ chức đầu tư mới lên tới 450 tỷ

đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ

một Doanh nghiệp nhà nước lớn thành tổng công ty cổ phần đại

chúng.

Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, có thể nhận

thấy các chuyển biến sau:

Thứ nhất, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp

nhà nước trong một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà

nước ở hầu hết ngành, lĩnh vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn

hoá, kể cả ngân hàng thương mại, chỉ trừ loại Doanh nghiệp nhà

nước trong lĩnh vực dầu khí và an ninh quốc phòng. Thành phố Hồ

Chí Minh còn kiến nghị Ch ính Phủ cho phép cổ phần hoá một số

bệnh viện công.

Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp

nhà nước quy mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang

cả những doanh nghiệp lam ăn có lãi với quy mô lớn trong các

ngành trọng yếu của nền kinh tế (như điện lực, xi măng, viễn thông,

hàng không) với kết quả hoạt động sau ngày một tiến bộ. Tiến hành

cổ phần hoá không chỉ được thực hiện đối với từng doanh nghiệp

thành viên mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty. Đến nay đã

có Nghị quyết phê duyệt cổ phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có

các Tổng công ty thương mại - Xây dựng, Điện tử - Tin học,

Vinaconex và Bảo Việt.

Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các

nhà đầu tư, của những người trong doanh nghiệp mà còn thu h út

vốn của những người nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất

công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông, gắn bó họ với sự phát

triển của doanh nghiệp.Công ty mía đường lam Sơn và công ty mía

đường La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. ở Tổng

công ty mía đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 46%, nông dân trong

mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000

cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh

nghiệp mua 24% cổ phần. ở Tổng công ty mí đường La Ngã Nhà

nước giữ 35%, nông dân tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp

mua 25% (trong đó có 15.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía),

người lao động trong doanh nghiệp 40% cổ phần. Sau 5 năm cổ

phần hoá (từ năm 2000 đến năm 2005) nộp ngân sách tăng từ 10 tỷ

lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ tức là

20%/năm.

Thứ tư, là việc chuyển từ cổ phần hoá thưo hướng cơ bản khép

kín, nội bộ sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên

ngoài để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây được coi là sự

chuyển biến “có chất” nhất thể hiện sự thay đổi căn bản quan điểm

và chủ trương về cổ phần hoá, góp phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để

đẩy nhanh, mạnh tiến trình cải cách hệ thống Doanh nghiệp nhà

nước một cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho các thành

phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia. Trong đợt đấu giá

cổ phiếu đầu tiên của công ty sữa Việt Nam đã thu hút được các nhà

đầu tư chiến lược nước ngoài và họ đã mua tới gần 80% tổng số cổ

phần bán ra.

Thứ năm, cổ phần hoá là một xu hướng tất yếu, là giải pháp

mang tính đột phá nhằm chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước đơn sở

hữu sang đa sở hữu. Các doanh nghiệp quân đội cũng không nằm

ngoài xu hướng đó. Khi triển khai thực hiện cổ phần hoá các doanh

nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì các doanh nghiệp quân đội

vốn chưa thích nghi hoàn toàn với cơ chế thị trường, bản thân người

lao động cũng chưa sẵn sàng cho việc này, nhưng tính đến thời điểm

này, đã có 16 doanh nghiệp quân đội triển khai thực hiện cổ phần

hoá, trong đó có 9 công ty, xí nghiệp phụ thu ộc hoàn thành xong

(đạt 56% kế hoạch).

2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.

Sau 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp

nhà nước, cho đến nay đã có gần 3000 doanh nghiệp được cổ phần

hoá. Nhìn chung các doanh nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn

định và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên thực tiễn cũng chỉ ra

nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.

Việc nhận dạng đúng thực trạng và tìm biện pháp tháo gỡ tạo điều

kiện cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá phát triển tốt hơn đang

là vấn đề bức xúc hịên nay.

Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước đã nâng cao rõ rệt

hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các

chỉ tiêu chủ yếu: về vốn, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số

lượng lao động, cổ tức. Kết quả của các cuộc điều tra cho thấy:

Thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình

quân của doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%...

và cho đến nay có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra rừng có

lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 149,7%, lợi nhuận sau thuế

tăng bình quân 182,3%. Điều này cho thấy việc chuyển đổi đã có

tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ hai, đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm

đã đi vào hoạt động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp

được duy trì, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế

tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới 54,4%. Một số doanh nghiệp

có doanh thu tăng cao như công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận

chuyển: 30 lần, công ty cổ phần cơ điện lạnh: 13 lần, công ty cổ

phần Kim Đan: 11,2 lần…

Thứ ba, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh

của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng; năng suất lao động

tăng bình quân 63,9%; mức nộp ngân sách tăng bìn h quân 26,53%;

thu nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với trước khi

cổ phần hoá. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi các

Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

Thứ tư, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp phát triển sản xuất

kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động, số

lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá phát triển bình quân

tăng 6,6%. Cổ tức bình quân của các doanh nghiệp đạt 17,11% cao

hơn nhiều so với lãi suất.

Thứ năm, vốn huy động được từ việc bán cổ phiếu cũng tăng

đáng kể. Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng (năm

2001) lên 63,6 tỷ đồng (năm 2004). Đây là yếu tố đầu vào rất quan

trọng để mở rộng sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao hơn

nữa cho doanh nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người

lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội hiện

nay.

Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt

động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực

đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cán bộ quản lý và

người lao động đã thật sự gắn bó với doanh nghiệp, nhờ vậy mà

hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp cho rằng

cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh

doanh, 88% số doanh nghiệp khẳng định kết quả sản xuất của người

lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được tính toán trên cơ sở

kết quả việc làm. Thực tế có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ

phần hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của doanh

nghiệp được khai thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiện hơn

trước.

3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà

nước và nguyên nhân của chúng.

Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.

Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ

trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc

lộ nhiều hạn chế:

- Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ phần hoá còn chậm. Vốn Nhà nước trong các

Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động

vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến hành cổ phần

hoá một doanh nghiệp còn quá dài. So với đề án được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt thì số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần

hoá chưa đạt 80% , số lượng Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần

hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với

yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng

khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá Doanh

nghiệp nhà nước vào năm 2005 là chưa đạt.

Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám

sát chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp

đã cổ phần hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã

giảm được 512 ngày (năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004)

nhưng vẫn còn dài. Trong đó chia theo các giai đoạn sau:

STT Nội dung công việc Số ngày thực hiện

1 135 ngày Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp – bắt đầu định giá

2 135 ngày Bắt đầu định giá - quyết định giá trị doanh nghiệp

3 66 ngày Quyết định giá trị doanh nghiệp – phê duyệt phương án cổ phần hoá

4 24 ngày Phê duyệt phương án cổ phần hoá - bắt đầu bán cổ phần

5 38 ngày Bắt đầu bán cổ phần – hoàn thành bán cổ phần

6 15 ngày Hoàn thành bán cổ phần - đại hội cổ đông

- đăng ký kinh 7 24 ngày Đại hội cổ đông doanh

8 Tổng cộng 437 ngày

Việc cổ phần hoá các Tổng công ty diễn ra rất ì ạch. Đã có chủ

trương cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank) và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu

Long từ 2 năm nay nhưng nay mới nhỉ dừng lại ở mức chuẩn bị :

vạch lộ trình và cách thức cổ phần hoá và dự kiến đến hết năm 2007

mới có thể tiến hành Đại hội cổ đông. Cổ phần hoá Tổng công ty

Xuất khẩu xây dựng (VINACONEX) cũng nằm trong tình trạng

tương tự.

- Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về vốn. Nhưng thực tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ

phần hoá thì chỉ có 30%, Nhà nước không giữ đồng vốn nào: 29%,

Nhà nước giữ cổ phàn chi phối trên 51%. Cũng trong số gần 3000

doanh nghiệp thì Nhà nước cũng nắm lại 46,5% vốn điều lệ. Điều

này cho thấy mặc dù đã cổ phần hoá nhưng Nhà nước vẫn là cổ

đông lớn nhất, đồng thời phần lớn các công ty cổ phần được thành

lập theo cách này đang được Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Điều

đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà Nhà nước còn nắm tại các công ty

cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-

1998) tỷ lệ cổ phần mà Nhà nước nắm trong các công ty cổ phần là

28%, thì đến thời kỳ 2001-2004 tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay

bình quân là 46,5%. Một thực tế khác, cổ đông là người lao động

chỉ chiếm 15%. Cũng trong gần 3000 doanh nghiệp nói trên, chỉ có

25 doanh nghiệp có Nhà nước đầu tư nước ngoài. Theo đánh giá của

nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng.

- Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có quy mô vốn lớn và một số tổng

công ty đang cổ phần hoá, nhưng nhìn chung đại đa số các doanh

nghiệp đã cổ phần hoá đều có vốn Nhà nước quá nhỏ. Số lượng các

doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng

chiếm tới gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh nghiệp cổ phần hoá có

quy mô vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng. Điều đó dẫn đến tình trạng

về mặt số lượng Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm tới

53% tổng số Doanh nghiệp nhà nước có tại thời điểm đầu năm

2001, nhưng về vốn mới chỉ chiếm hơn 10%. Như vậy là số vốn

chưa được cổ phần hoá còn rất lớn (khoảng 270 tỷ đồng), nhưng đa

số không phát huy được hiệu quả. Số vốn này tập trung chủ yếu tại

các công ty 91 (riêng 3 tổng công t y Dỗu khí, Điện lực, Bưu chính

Viễn thông nắm giữ 113 ngàn tỷ đồng).

- Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công ty, phương pháp quản lý, lề lối làm việc tư duy quản

lý vẫn còn như Doanh nghiệp nhà nước nên hiệu quả thấp. Đa số

lãnh đạo các công ty cổ phần đều là cán bộ cũ của Doanh nghiệp

nhà nước chuyển sang, không có thêm những khuôn mặt mới với tư

cách tư duy theo lối mới để đem lại sức sống mới cho công ty cổ

phần. Việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn diều lệ tại khá nhiều công

ty cổ phần là một cái cớ để các cơ quan quản lý Nhà nước tiếp tục

can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hội

đồng quản trị không thực hiện hết chức năng của công ty cổ phần

theo luật định mà chủ yếu tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước.

Lãnh đạo công ty không đại diện cho cổ đông có sở hữu vốn lớn mà

chủ yếu Nhà nước định hướng tham gia quản lý. Những điều đó dẫn

đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần hoá nào mà Nhà nước nắm

cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước.

- Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập. Thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải

quyết chính sách cho người lao động, không lo được việc làm cho

họ. Ngược lại ở một số đơn vị làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để

giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao

động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy tỷ lệ người lao

động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi Doanh nghiệp nhà

nước chuyển sang công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng

cần phải giải quyết. Trong một số Doanh nghiệp nhà nước đã được

cổ phần hoá, đặc biệt là trong những doanh nghiệp có những lợi thế

về vị trí địa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách

mua lại những cổ phiếu mà người lao động trong doanh nghiệp đã

được mua với giá ưu đãi. Người lao động do chưa ý thức được ý

nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, đồng thời cũng

không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu, nên đã

bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều

này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân người

lao động mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích quan

trọng của cổ phần hoá là tạo động lực quản lý cho doanh nghiệp khi

người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ.

Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà

nước chủ yếu, việc cổ phần hoá còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng

đáng kể đến quá trình sắp xếp lại Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.

Vậy đâu là nguyên nhân của những hạn chế này?

Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá

trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.

Những nguyên nhân chủ yếu của quá trình thực hiện cổ phần

hoá Doanh nghiệp nhà nước có thể được giải thích bởi những

nguyên nhân chính sau đây:

Hạn chế về nhận thức

- Trong thực tế, nhiều cán bộ quản lý, nhất là lãnh đạo các Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần

hoá Doanh nghiệp nhà nước mà mình đang quản lý. Cản trở này đã

bắt nguồn từ nhận thức không đúng về cổ phần hoá. Có thể nói

rằng, đại bộ phận các cán bộ quản lý doanh nghiệp, người lao động

chưa thấy rõ được bản chất, vai trò và ưu thế của cổ phần hoá

Doanh nghiệp nhà nước đối với ự phát triển nền kinh tế, đối với cải

thiện hoàn cảnh của người lao động.Việc tuyên truyền về cổ phần

hoá chưa đạt tới mức làm cho cá n bộ, đảng viên trong các Doanh

nghiệp nhà nước hiểu đúng về cổ phần hoá, về vai trò mới của

người lao động. Vì thế, ở nhiều Doanh nghiệp nhà nước, cán bộ

công nhân viên đều không muốn doanh nghiệp của mình bị cổ phần

hoá, bản thân mình chuyển từ chế độ tuyển dụng sang chế độ hợp

đồng.

- Cổ phần hoá là giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước nên việc tiến hành hoạt động này khá nhạy cảm về chính trị. Những

giải pháp cải cách này dễ gây sự phản ứng từ khá nhiều cấn bộ,

đảng viên có tư duy trở thành “bất di, bất dịch” là chỉ có Doanh

nghiệp nhà nước, kinh tế Nhà nước mới là nền tảng của Chủ nghĩa

xã hội. Vì vậy theo họ, cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là làm

“giảm sút” về lượng vai trò của Doanh nghiệp nhà nước.

- Lợi ích cá nhân của nhiều cán bộ quản lý Doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những cản trở việc nhận thức đúng về

cổ phần hoá. Những người này lo lắng khi chuyển sang hình thức

công ty cổ phần vị trí quản lý của họ bị thay đổi và không có gì đảm

bảo chắc chắn rằng họ sẽ giữ những cương vị đó trong công ty cổ

phần được hình thành trên nền tảng doanh nghiệp mà mình đang

quản lý. Mối lo này cũng với những lợi ích khác cản trở những cán

bộ quản lý hiểu đúng tầm quan trọng của giải pháp cổ phần hoá

Doanh nghiệp nhà nước.

Hạn chế về sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước

Việc cổ phần hoá là giải pháp cơ bản, toàn diện trong sắp xếp,

đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước.

Do động chạm đến nhiều vấn đề phức tạp nên trong quá trình thực

hiện, Đảng và Nhà nước vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Thực tế cho

thấy nơi nào cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm chỉ

đạo thì mọi khó khăn lúng túng đều có thể khắc phục được. Khách

sạn Sài Gòn ban đầu chỉ có 25% công nhân viên đăng ký mua cổ

phần nhưng sau gần hai năm kiên trì giải thích, thuyết phục, khi cổ

phần hoá đã có 100% người lao động trong công ty mua cổ phần.

Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, phức tạp nên không thể tránh khỏi

những hạn chế, bất cập nhất định. Những hạn chế về chỉ đạo thực

hiện biểu hiện ở một số khía cạnh sau:

- Cơ sở pháp lý cho cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước còn chưa vững chắc . Việc ban hành các Nghị định, các Thông tư

điều chỉnh các vấn đề khác nhau của cổ phần hoá không giải quyết

được mâu thuẫn giửa các văn bản luật có liên quan đến những vấn

đề cụ thể của cổ phần hoá. Đã qua 15 năm thực hiện cổ phần hoá

song chúng ta chưa có một văn bản luật có giá trị cao, mang tính hệ

thống về cổ phần hoá. Mặc dù số lượng các văn bản về cổ phần hoá

được ban hành nhiều, nhất là các thông tư về tinh xung quanh các

Nghị định, quyết định, song số vấn đề được giải quyết trong đó

không tăng. Hơn nữa, các văn bản pháp luật đã ban hành chưa xác

định đúng loại quan hệ đột phá trong cổ phần hoá nên tính dân chủ

của các quy định là điều dễ nhận thấy trong đó.

- Môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa được độc lập. Doanh nghiệp nhà nước vẫn được nhiều ưu đãi hơn

và một số cán bộ quản lý ở các ngành vẫn coi doanh nghiệp đã cổ

phần hoá là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên còn phân biệt đối

xử. Mặt khác do luật công ty trước đây là luật Doanh nghiệp nhà

nước đều chưa xác định được một cách đầy đủ vai trò quản lý Nhà

nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn của Nhà nước gộp

trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nên mỗi

nơi vận dụng theo một nhận thức riêng. Các thông tư hướng dẫn đều

có lợi cục bộ cho doanh nghiệp, thậm chí cho một nhóm người nhất

định thì thường được ưu tiên áp dụng hơn so với các quy định pháp

luật có hiệu lựa cao hơn.

- Về công tác tổ chức: cổ phần hoá là một chính sách quốc gia của việc đổi mới, hoàn thiện thành phần kinh tế công. Việc thực

hiện cổ phần hoá cần được tổ chức chặt chẽ. Các vấn đề đã được

giải quyết, các phương án được đưa ra phải được nghiên cứu kỹ

lưỡng rút kinh nghiệm và liên tục hoàn thiện biện pháp triển khai. ở

nước ta hiện nay chưa có được một tổ chức đủ mạnh để thực hiện

nhiệm vụ này.

4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước trong giai doạn hiện

nay – mục tiêu và triển vọng.

Những phân tích nêu trên về tác động và thực trạng của cổ

phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cho thấy sự cần thiêt phải tiếp tục

tiến hành giải pháp này trong giai đoạn tới. Nếu đặt giải pháp này

trong bối cảnh hiện nay sẽ càng thấy rõ hơn tính cấp bách của vấn

đề. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa chương trình cổ phần hoá

Doanh nghiệp nhà nước bắt nguồn chủ yếu từ những nguyên nhân

sau:

- áp lực cải cách Doanh nghiệp nhà nước để tạo ra sự phát triển ổn định và bền vững hơn đang trở nên nặng nề hơn do nền

kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

- Việc đất nước ta tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ký kết và tham gia các hiệp định thương mại đa phương

và song phương. Tất cả những bước tiến sâu vào hội nhập kinh tế để

dẫn đến thị trường mở và chế độ tự do thương mại. Điều này có ý

nghia là các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tr anh để tồn tại.

Cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế.

Tính cạnh tranh thấp là điểm yếu lớn nhất của doanh nghiệp Việt

Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước.

- Tiến độ cổ phần hoá trong những năm vừa qua tuy có những bước phát triển, song so với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn

chưa đáp ứng.

Trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh

hơn nữa cải cáh Doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hoá.

Nghị quyết hội nghị TW Đảng khoá IX đã khẳng định: “Tiếp tục

đổi mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực Doanh

nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá mạnh hơn nữa…”, “Đẩy

nhanh tiến độ cổ phần hoá, mở rộng diện các Doanh nghiệp nhà

nước cần cổ phần, kể cả một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn

trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phần bón, xi

mang, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng

hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm”. Những định hướng cho tiếp

tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp

nhà nước trong đó chủ yếu là cổ phần hoá trong giai đoạn trước mắt

bao gồm:

- Thị trường hoá giá trị tài sản Doanh nghiệp nhà nước thực

hiện cổ phần hoá, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất.

- Sử dụng rộng rãi việc phát hành cổ phần ra công chúng, nhất là phải niêm yết trên thị trường chứng khoán, khắc phục tình

trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp.

- Chuyển các Doanh nghiệp nhà nước 100% vốn của Nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một

thành viên.

- Xoá bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý và khắc phục tình trạng bao cấp như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng, ưu

đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp nhà

nước. Thực hiện đầu ta vốn cho Doanh nghiệp nhà nước thông quá

các công tư đầu tư tài chính Nhà nước.

- Khẩn trương xoá bỏ đặc quyền và độc quyền không cần thiết của Doanh nghiệp nhà nước phù hợp với lộ trình chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế.

- Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước và chuyển sang hoạt độ ng theo mô hình Công ty

mẹ - công ty con trên cở sở đó hình thành các Tập đoàn kinh tế

mạnh do Tổng công ty Nhà nước làm nòng cốt.

Tóm lại, mục tiêu của chúng ta đặt ra là phải đến năm 2010 sẽ

hoàn tất quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Vậy để thực

hiện mục tiêu lớn này chúng ta cần có những biện pháp gì.

III. Một số biện pháp góp phần đẩy nhânh tiến trình cổ phần

hoá Doanh nghiệp nhà nước.

Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chắc chắn sẽ

tiếp tục diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc trong năm 2006. Tuy nhiên tốc

độ sẽ không thể như kỳ vọng của Chính Phủ cũng như công chúng

đầu tư. Luật Doanh ngiệp nhà nước mới được Quốc hội thông qua

vào tháng 11-2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006 đặt ra

thời hạn hoàn tất chuyển đổi thống nhất đối với các Doanh nghiệp

nhà nước là 4 năm. Đây quả là một thách thức, bởi lẽ 15 năm mới đi

được 1/10 chặng đường, vậy thì làm thế nào để có thể chạy nốt 9

phần chặng đường còn lại trong 4 năm.

Để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình cổ phần hoá

Doanh nghiệp nhà nước và hoàn tất quá trình này vào năm 2010,

theo dự kiến có rất nhiều công việc phải làm.

Trước hết Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính

sách cho cổ phần hoá cũng như chỉ đạo đẩy mạnh hơn, quyết liệt

hơn nữa đối với các Tổng công ty, các công ty nhà nước lớn. Bên

cạnh đó về phía các Doanh nghiệp nhà nước cũng cần phải quán

triệt nhận thức, nỗ lực quyết tâm trong việc vạch ra và thực thi lộ

trình cổ phần hoá. Lãnh đạo các Doanh nghiệp nhà nước cũng như

các Bộ, ngành chủ quản cần đứng trên quan điểm phát triển để nhận

thức rằng cổ phần hoá là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong

bối cảnh hội nhập đang đến gần. Những đặc quyền, đặc lợi cá nhân

hay cục bộ cần phải được từ bỏ. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng cần

phải lưu ý làm nhanh không có nghĩa là làm ẩu, tránh cổ phần hình

thức hoặc “bán rẻ” tài sản Nhà nước.

Cùng với việc khẩn trương đổi mói một số cơ chế chính sách

nhất là cơ chế tài chính có liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp

nhà nước. Chính phủ đã và đang triển khai các biện pháp sau đây:

Vể tổ chức chỉ đạo, về quyết định phê duyệt danh sách các

doanh nghiệp cổ phần hoá, về tập trung chỉ đạo các doanh ngiệp

trong diện. Đồng thời hướng dẫn cổ phần hoá các Bộ, các địa

phương khác nhằm triển khai đồng đều trong cả nước, về việc

nghiên cứu chuẩn bị đề án thành lập Quỹ hỗ trợ sắp xếp Doanh

nghiệp nhà nước mà trọng tâm là hỗ trợ sắp xếp việc làm bằng các

nguồn vốn trích từ vốn bán cổ phần, hỗ trợ ngân sách và huy động

vốn của nước ngoài, cụ thể:

Một là, tạo ra sân chơi bình đẳng giữa Doanh nghiệp nhà nước

và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Do đó

để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cần phải

tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước

và đầu tư nước ngoài. Đồng thời cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu

vực kinh tế quốc doanh.

Hai là, lựa chọn Doanh nghiệp nhà nước và loại hình công ty

cổ phần.

Cổ phần hoá là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay cổ đông thuộc

các thành phần kinh tế. Quá trình này đụng chạm đến vấn đề mấu

chốt trong kinh tế đó là sở hữu. Từ đó dặt ra hai vấn đề:

- Chuyển toàn bộ hay chỉ chuyển một bộ phận Doanh nghiệp

nhà nước thì là bộ phận nào?

- Tổ chức công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu

thế của hình thức này, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất.

Việc lựa chọn Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá phụ

thuộc vào quan niệm về vai trò của Doanh nghiệp nhà nước trong sự

phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Quan niệm bắt nguồn từ

mục tiêu kinh tế, chính trị được lựa chọn trình độ phát triển của nền

kinh tế, truyền thống và hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia khi tiến

hành cổ phần hoá.

Như vậy, chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ

phần không phải là mục đích tự thân, mà xuất phát từ mục tiêu kinh

tế, chính trị, xã hội do Nhà nước lựa chọn giải pháp chuyển doanh

nghiệp sang công ty cổ phần trong giai đoạn hiện nay để có thể

thực hiện ở một số doanh nghiệp mà trước hết là vì mục tiêu lợi

nhuận.

Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay, cần chủ trương cổ phần

hoá Doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển nhượ ng một phần

quyền sở hữu Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác. Trường

hợp Nhà nước ít cần can thiệp đến có thể chuyển sang công ty cổ

phần mà trong đó vốn Nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia.

Ba là, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như

miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập trong thời gian đầu của các doanh

nghiệp cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế khác tham gia

mua cổ phiếu.

Trương hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu

đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được

giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong hai năm

liên tiếp từ sau khi chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Để

duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật. Các chương

trình văn hoá, câu lạc bộ, nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho

người lao động trong công ty cổ phần. những tài sản này thuộc sở

hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự tham

gia của tổ chức Công đoàn.

Thực tế tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cho

thấy những ưu tiên trên là hợp lý, là phù hợp với thực tiến của công

tác cổ phần hoá và được sự đồng tình ủng hộ của các doanh nghiệp.

Bốn là, Nhà nước cần có sự giúp đỡ đối với các cán bộ công

nhân viên có đủ khả năng mua cổ phần ở các doanh nghiệp tiến

hành cổ phần hoá, như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn

dài. Tương tự như Nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây

là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện

trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp.

Năm là, định giá cổ phiếu v à mức độ bán cổ phần, cổ phiếu.

Chế độ tài chính thống nhất ghi mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu

chậm nhất trong vọng 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành

của doanh nghiệp cổ phần hoá. Các cơ quan tài chính phổ biến

hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện.

Sáu là, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi

về cổ phần hoá. Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh tế phát triển năng

động có hiệu quả trước hết phải có chiến lược con người, xây dựng

một đội ngũ các nhà kinh doanh nhất là đối với công ty cổ phần mới

hình thành, giám đốc điều hành giỏi là hết sức cần thiết.

Để thực hiện điều này cần phải:

- Đồng thời với việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cần có chương trình vồi dưỡng kiến thức

quản lý công ty cổ phần cho tất cả các cán bộ quản lý doanh nghiệp

nằm trong diện cổ phần hoá.

- Mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý các công ty cổ phần hoá cho tất cả các cán bộ quản lý các doanh nghiệp đã cổ

phần hoá. Về kinh phí cho các lớp bồi dưỡng này cần có sự hỗ trợ

nhất định của Nhà nước. đây là vấn đề đặc biệt quan trọng.

Bảy là, có biện pháp tuyên truyền, giải thích cho người lao

động nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quyền lợi, trách nhiệm của họ

đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Thực tiễn cho thấy rằng việc

làm cho người lao động thấy rõ được lợi ích khi doanh nghiệp cổ

phần hoá là rất quan trọng. Người lao động sẽ tự giác đồng tâm

cùng Nhà nước thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá. Nhưng quan

trọng hơn nhiều là làm cho người lao động hiểu được vị trí của họ

trong doanh nghiệp cổ phần, một môi trường mới. Người lao động

cần nhận thức được vai trò làm chủ của họ đối với doanh nghiệp,

mức độ làm chủ đến đâu, những gì họ được phép làm… tránh tình

trạng người lao động lạm dụng quyền làm chủ quá mức tạo nên sự

không ổn định trong hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá.

Kết luận

Đổi mới, sắp xếp và phát triển Doanh nghiệp nhà nước là yêu

cầu tất yếu và cần thiết. Thấy được vấn đề đó, Đảng và Nhà nước ta

đã chủ trương triển khai thực hiện trong gần 20 năm. Mặ c dù có

những thăng trầm nhưng cũng đã đem lại những kết quả đáng ghi

nhận. Việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng

các giải pháp sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hoá, giao, khoán, bán, cho

thuê doanh nghiệp, tổ chức lại các Tổng công ty và thành lập Tập

đoàn kinh tế. Trong tất cả những giải pháp này cổ phần hoá được

xem là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại Doanh

nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đã được bắt

đầu thí điểm từ năm 1990, từ đó đến nay đã 15 năm, trong 15 năm

qua chúng ta đã sắp xếp được một nửa số Doanh nghiệp nhà nước.

Và mục tiêu đặt ra là phải cổ phần hoá số còn lại trong 4 năm tới.

Đây quả là một thách thức lớn, nếu không làm được thì vai trò chủ

đạo của kinh tế Nhà nước khó được đảm bảo. Muốn làm được phải

đổi mới tư duy, phải vượt qua chính mình để có cách nhìn mới, có

một quan niệm mới về kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó,

về cổ phần hoá và cải cách Doanh nghiệp nhà nước, phải dám từ bỏ

lợi ích cục bộ để đảm bảo lợi ích toàn cục, từ bỏ “chiếc mũ bảo hộ”

của Nhà nước để tự vượt lên chính mình. Đó chính là chìa khoá

thành công trong cải cách Doanh nghiệp nhà nước.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Cơ sở lý luận và kinh

nghiệm thực tiễn

2. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

3. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước. Lý luận và thực tiễn.

4. Nghiên cứu kinh tế số 333, tháng 2/2006.

5. Phát triển kinh tế số 4/2005.

6. Thương mại số 1+2/2005.

7. Kinh tế và dự báo số 6/2005.

8. Tạp chí tài chính số 1/2006.

Mục lục

Lời nói đầu ....................................................................................... 1

Nội dung ........................................................................................... 3

I. Cơ sở lý luận về việc Cổ phần hoá một bộ phận doanh

nghiệp Nhà nước ở nước ta ............................................................. 3

1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp

Nhà nước ở nước ta ........................................................................... 3

1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và yêu cầu đổi mớ i Doanh

nghiệp Nhà nước .............................................................................. 3

1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước ........................ 3

1.3. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nước

tối ưu ................................................................................................. 5

2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước

ta ........................................................................................................ 8

3. Mục tiêu cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước 10

4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước .............. 12

II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt

Nam ................................................................................................ 15

1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta . 15

2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá18

3. Nhữ ng mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà

nước và nguyên nhân của chúng ..................................................... 20

3.1. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà

nước ................................................................................................ 20

3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá

trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ..................................... 23

4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện

nay - mục tiêu và triển vọng ............................................................ 26

III. Một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ

phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .............................................. 28

Kết luận ......................................................................................... 32

Tài liệu tham khảo ......................................................................... 33