Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
BỘ MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Tiểu luận
BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT – TRUNG 1991
(Nỗ lực từ phía Việt Nam)
Sinh viên thực hiện:
Trần Minh Ngân _ A33
Ths. Nguyễn Vũ Tùng
Giáo viên hướng dẫn:
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2009
- 1 -
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
MỤC LỤC
TÓM TẮT BÀI VIẾT……………………………………………………………...2
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………....3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………....4
I. Hoàn cảnh lịch sử…………………………………………………………...4
1. Tình hình thế giới và khu vực………………………………………….4
2. Tình hình trong nước…………………………………………………...5
a. Hoàn cảnh đất nước trước đổi mới…………………………………….5
a. Công cuộc đổi mới……………….………………………………….…...5
II. Nỗ lực từ phía Việt Nam……………………………………………………7
1. Cải thiện quan hệ với Trung Quốc…………………………………….7
a. Quan hệ ấm dần lên với riêng Trung Quốc……………………………7
b. Thay đổi tư duy trong quan hệ với nhiều quốc gia có liên quan……...8
2. Rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Lào và Campuchia ……..……10
III. Tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc……….11
IV. Những thành tựu đạt được sau bình thường hóa quan hệ…………….12
PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………………..15
- 2 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………...16
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
TÓM TẮT BÀI VIẾT
Bài viết của tôi được chia ra làm 4 phần: Phần I sẽ phân tích bối cảnh lịch sử
trên thế giới nói chung và trong nước nói riêng tác động đến thái độ của Việt Nam
trong quan hệ với Trung Hoa; Phần II làm rõ những nỗ lực của Việt Nam nhằm xóa
bỏ rào cản bình thường hóa quan hệ hai nước; Phần III khái quát tiến trình bình
thường hóa quan hệ Việt – Trung và Phần cuối điểm qua những thành tựu đạt được
sau khi quan hệ song phương tốt đẹp trở lại.
Trong phần I, tôi tập trung vào tình hình thế giới, khu vực, xu thế đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại giao đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao
lưu kinh tế, hợp tác tập thể và tình hình nước nhà với nhiều khó khăn từ sau chiến
thắng màu xuân năm 1975 đến trước đổi mới 1986.
Sang phần II, bài viết sẽ làm rõ 2 ý trọng tâm: (1) Việc Việt Nam thay đổi
chính sách đối ngoại với Trung Quốc; (2) Việt Nam nhanh chóng rút quân khỏi
Campuchia và Lào. Đặc biệt, ý (1) được cụ thể bởi Chính sách cải thiện quan hệ với
Trung Quốc của Việt Nam sau đổi mới và Chính sách với các nước, nhóm nước có
liên quan (Mỹ, ASEAN, Liên Xô và Đông Âu).
Phần III, tôi khái quát quá trình đàm phán nhằm đi đến bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc của Đảng và Nhà nước Việt Nam với những dấu mốc cơ bản
nhất.
Phần IV, cũng là phần cuối cùng trong nội dung chính của tiểu luận, tôi
dành để điểm qua những thành tựu đáng ghi nhận trong mối quan hệ với Trung Hoa
trong giai đoạn mới – giai đoạn sau bình thường hóa quan hệ.
Xuất phát từ hạn chế về mặt kiến thức, đặc biệt là kiến thức chuyên sâu nên
nội dung tiểu luận không thể tránh khỏi còn nhiều thiếu sót, kính mong thầy cô đưa
- 3 -
ra nhiều nhận xét giúp hoàn thiện bài viết này.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
Mối quan hệ bang giao Việt Nam – Trung Quốc được hình thành từ xa xưa, trải qua
hàng ngàn năm tồn tại, có lúc thăng, lúc trầm. Thời kỳ phong kiến, có giai đoạn
Việt Nam là quốc gia độc lập bên cạnh Trung Quốc, lại có lúc Việt Nam là thuộc
địa, nằm dưới sự cai trị của những vương triều hùng mạnh Trung Hoa. Trong công
cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc thời hiện đại, Trung Quốc trở thành người bạn, người
đồng chí lớn của Việt Nam. Đảng, chính phủ, nhân dân Trung Quốc ủng hộ Việt
Nam nhiệt tình về cả vật chất và tình thần giúp nhân dân Việt Nam chiến thắng hai
kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Sau khi Việt Nam giành độc lập,
thống nhất đất nước, bắt tay vào công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh,
xây dựng lại đất nước song song với nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng vừa đạt
được, hướng lên chủ nghĩa xã hội, đáng lẽ, đây phải là giai đoạn thích hợp để hai
nước mở ra trang mới tốt đẹp hơn trong quan hệ Việt – Trung, song do những hiểu
lầm và hạn chế từ cả hai phía, quan hệ hai nước bước vào giai đoạn căng thẳng,
thậm chí có xung đột nóng ở khu vực biên giới mà đỉnh cao là chiến tranh Biên giới
Việt – Trung 1979. Căng thẳng trong quan hệ hai nước vẫn tiếp diễn trong khoảng
thời gian dài sau chiến tranh biên giới bất chấp những nỗ lực đàm phán, nối lại quan
hệ của hai bên. Phải đến giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, những dấu hiệu ấm lên
trong quan hệ Việt – Trung mới xuất hiện. Giai đoạn đặc biệt này trong quan hệ hai
nước đã tốn không ít giấy mực của các học giả trong cũng như ngoài nước xung
quanh những câu hỏi: Tại sao sau đại thắng mùa xuân 1975, quan hệ hai nước lại đi
theo hướng xung đột thay vì hợp tác? Liệu hai quốc gia có bỏ qua những cơ hội
thiết thực nhằm nối lại quan hệ tốt đẹp? Trên hết, thắc mắc lớn nhất nổi lên vẫn là
hai nước đã làm gì để thúc đẩy mối quan hệ song phương trở lại bình thường. Trong
phạm vi bài tiểu luận này, tôi tập trung phân tích hai trong số rất nhiều động thái
tích cực từ phía Việt Nam nhằm thúc đẩy nhanh nhất có thể quá trình bình thường
hóa quan hệ với nước láng giềng Trung Quốc, đó là: Những thay đổi trong chính
sách đối ngoại với Trung Quốc sau đổi mới và việc Việt Nam tích cực rút quân khỏi
Lào và Campuchia đồng thời tìm giải pháp chính trị giải quyết triệt để vấn đề
- 4 -
Campuchia theo hướng tốt nhất cho lợi ích của dân tộc này.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử
1. Tình hình thế giới và khu vực
Giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, tốc độ phát triển nhanh chưa từng có trong
lịch sử của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ kết hợp với dấu hiệu chấm dứt
của chiến tranh Lạnh tác động mạnh mẽ làm thay đổi cục diện quan hệ quốc tế từ đó
về sau.
Cách mạng khoa học – kỹ thuật phát triển như vũ bão, sức mạnh của nó lan
tỏa đến tất cả các quốc gia trên thế giới làm thay đổi nhận thức xưa cũ về sức mạnh
quốc gia. Đến thời điểm này, trong các yếu tố hình thành nên sức mạnh quốc gia,
kinh tế chiếm vị trí nòng cốt chứ không phải là tiềm lực quốc phòng. Cách mạng
khoa học kỹ thuật phát triển khiến cho lực lượng sản xuất trở nên tiến bộ, cùng với
đó là quá trình phân công lao động xã hội ngày càng tinh vi, xuất hiện các quá trình
khu vực hóa, toàn cầu hóa sâu rộng, cuốn các quốc gia, không phân biệt lớn hay
nhỏ, mạnh hay yếu vào guồng quay của nó. Các nước không thể giữ mãi nếp tư duy
kinh tế đã lỗi thời mà buộc phải tiến hành từng bước quá trình cải tổ nhằm thích ứng
kịp với tốc độ phát triển của nhân loại. Đưa mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu,
mỗi quốc gia nhất thiết phải điều chỉnh chiến lược, chính sách của mình, dồn toàn
lực thúc đẩy nền kinh tế tiến nhanh, mạnh, có sức ảnh hưởng lớn, song song với
việc giảm chạy đua vũ trang, cắt giảm chi phí quốc phòng, giảm cam kết quân sự ở
bên ngoài. Các mâu thuẫn trong quan hệ với các nước, các cam kết có tính chất
nhằm lôi kéo lực lượng được dàn xếp, các quốc gia đều có xu thế tránh đối đầu mà
thiện chí hợp tác, cải thiện các mối quan hệ song phương, đa phương. Xu thế “đối
đầu” giữa hai cực trong chiến tranh Lạnh dần được thay thế bởi xu thế “ đối thoại”.
Hoạt động đối ngoại của các nước tập trung vào việc thắt chặt, mở rộng quan hệ
thay vì chống phá, đả kích hay tập hợp lực lượng dựa trên ý thức hệ. Tiêu biểu cho
bước chuyển này là mối quan hệ ấm dần lên giữa hai cực của chiến tranh Lạnh là
- 5 -
Mỹ và Liên Xô. Trong Đại hội VI, Đảng ta nhận định: “… việc Liên Xô và Hoa Kỳ
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
ngồi vào bàn đàm phán ở cấp cao làm cho hình thái đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình giữa hai hệ thống xã hội đối lập được củng cố và phát triển”1.
2. Tình hình trong nước
b. Hoàn cảnh đất nước trước đổi mới
• Kinh tế, chính trị và xã hội khủng hoảng trầm trọng
Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam tiến hành xây dựng một hệ thống kinh tế trong đó: Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển, các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên, Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc
dân theo kế hoạch thống nhất, hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định
hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương
trợ Kinh tế từ năm 1978. Một khoảng thời gian dài từ 1975 đến 1985 đi theo hướng
khép kín, quan liêu, bao cấp đã khiến nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế - xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt và lên tới 774,7% năm 1986.
Nền kinh tế bị cấm vận, chính trị bị cô lập, đời sống nhân dân khó khăn, túng thiếu,
nghèo khổ, lòng tin của dân chúng giảm sút, xã hội xuất hiện nhiều tệ nạn như quan
liêu, tham nhũng, tham ô…
• Đối ngoại dậm chân tại chỗ
Trong khi đó, Việt Nam có quan hệ không mấy tốt đẹp với nhiều nước trong
đó có cả nước có tiềm lực kinh tế hàng đầu là Mỹ và đặc biệt với nước láng giềng
Trung Quốc. Sau thất bại ở chiến trường Việt Nam, Mỹ luôn tìm mọi cách chống
phá, làm “Việt Nam bị chảy máu”. Trung Quốc lại luôn cho Việt Nam là cái gai
trong mắt, lăm le cho ta “bài học thứ hai”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) của Đảng Cộng sản nhận định
“đất nước ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”2. Trước những nguy cơ ấy chúng ta nhận thức sâu
sắc cần tiến hành đổi mới toàn diện.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 36. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội V, Tập I, tr. 35.
- 6 -
c. Công cuộc đổi mới
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
• Đổi mới toàn diện
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, khu vực và thực trạng đất nước, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986)
khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem
hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3. Chúng ta tiếp tục đặt lên hàng đầu mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội với
việc xác định “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt nền kinh tế – xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”4. Đảng ta mạnh dạn đổi mới chính sách kinh tế: xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khuyến khích thành phần kinh tế tiểu tư sản
hàng hóa, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức…; đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ quan liêu, bao cấp, kinh tế kế hoạch, đóng cửa không
thông thương quốc tế…
• Đổi mới Chính sách đối ngoại
Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa VI (tháng 7/1986) chủ trương chuyển
từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhấn mạnh: “Ra sức kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông
Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tranh
thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc…”5.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (20/5/1988) khẳng định: “với một
nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, tr. 37. 4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, tr. 42. 5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, tr. 99.
- 7 -
thành công chủ nghĩa xã hội hơn”.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
Nhận xét:
Thế giới bước vào giai đoạn hòa bình vì mục tiêu phát triển, Việt Nam nhận
thức về sự tụt hậu của mình về nhiều mặt. Chính vì thế, chúng ta đã tiến hành cải
cách sâu rộng để bắt kịp xu thế thời đại và phát triển đất nước xứng với tiềm năng.
Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đổi mới toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực trong đó chú trọng vào công tác ngoại giao, quan hệ quốc tế. Ngoại
giao lúc này không còn nhằm tập hợp lực lượng dựa trên ý thức hệ xã hội chủ nghĩa
mà đi vào mở rộng quan hệ đa phương, song phương tốt đẹp, tạo môi trường thuận
lợi cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc trở thành yêu cầu chiến lược của ta. Muốn vươn cao, vươn xa,
chúng ta nhất thiết phải gây dựng lại và gìn giữ cho được tình hữu nghị tốt đẹp với
quốc gia láng giềng hùng mạnh vốn đã có quan hệ truyền thống lâu đời như Trung
Hoa.
Chính trong giai đoạn này, Trung Quốc cũng tiến hành những cải tổ và đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ. Thiết lập lại mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc
chúng ta vừa tạo được môi trường quốc tế ổn định để tập trung phát triển, tranh thủ
được sự giúp đỡ của bạn để đẩy nhanh nền kinh tế đất nước, đồng thời tạo tiền đề để
mở rộng quan hệ với những quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
II. Nỗ lực từ phía Việt Nam dẫn tới bình thường hóa quan hệ Việt – Trung
1. Cải thiện quan hệ với Trung Quốc
a. Quan hệ ấm dần lên với riêng Trung Quốc
Hai tháng sau chiến tranh Biên giới Việt – Trung 1979, ngày 18/4/1979,
ngay từ phiên họp đầu tiên tại Hà Nội, đại biểu Việt Nam đã đưa ra đề nghị về
“Những nguyên tắc và nội dung chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong
quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Đến vòng đàm phán thứ hai tại Bắc Kinh
ngày 28/6/1979, ta lại đưa ra quan điểm hết sức tích cực xung quanh các bất đồng
giữa hai nước như hoạt động quân sự xung quan biên giới hay vấn đề “chống bá
- 8 -
quyền”. Tuy nhiên, tại thời điểm này, Trung Quốc chưa thực sự có mong muốn cải
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
thiện quan hệ với ta vì những mưu toan riêng có lợi cho mình nên đã đơn phương
đình chỉ vòng ba không đàm phán. Tiến trình bình thường hóa bị ngưng trệ.
Với thiện chí hàn gắn lại quan hệ với Trung Quốc, rút kinh nghiệm từ những
thất bại kể trên, Đảng và Nhà nước ta tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại với
Trung Hoa. Tại Đại hội Đảng VI (15 – 18/12/1986), chúng ta chính thức tuyên bố
“Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước”6. Nghị quyết Đại hội VI nêu rõ: “Trên tinh
thần bình đẳng, bảo đảm độc lập, chủ quyền và tôn trọng lẫn nhau, sẵn sàng đàm
phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, bình
thường hóa quan hệ và khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, vì lợi ích của nhân
dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”.
Những thay đổi trong chính sách được đưa vào thực tiễn thông qua các hoạt
động đối ngoại tích cực không ngừng nghỉ: Việt Nam chủ động sửa lời nói đầu
trong Hiến pháp 1980, bỏ đoạn chống Trung Quốc, coi Trung Quốc là một nước xã
hội chủ nghĩa và là nước láng giềng lớn. Ngày 15/7/1988, Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch đề nghị với Trung Quốc một loạt các biện pháp nhằm chấm dứt
căng thẳng trong quan hệ hai nước như chấm dứt các hoạt động vũ trang chống
nhau ở biên giới đất liền và hải đảo, không bên nào đóng quân trên các điểm cao
dọc biên giới hai nước, giãn quân cách xa biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho dân
vùng biên giới qua lại thăm hỏi họ hàng; chấm dứt tuyên truyền chống nhau và đề
nghị đàm phán bất cứ cấp nào, kể cả cấp cao, bất cứ lúc nào và ở đâu, bí mật hay
công khai. Việt Nam đã đơn phương thực hiện đề nghị ngày 15/7/1988, mở cửa
khẩu cho nhân dân qua lại; giảm nội dung chống Trung Quốc trong các hoạt động
tuyên truyền, gửi điện mừng Quốc khánh Trung Quốc (01/10/1988). Đặc biệt,
chúng ta đã xử lý tỉnh táo trước việc Trung Quốc đánh chiếm một số đảo ở Trường
Sa, tháng 3/1988, không để vấn đề này cản trở quá trình cải thiện quan hệ, bình
thường hóa quan hệ hai nước.
b. Thay đổi tư duy trong quan hệ với nhiều quốc gia có liên quan
- 9 -
• Với Hoa Kỳ 6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng VI., tr. 107.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
Trong giai đoạn này, Trung Quốc và Hoa Kỳ có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau,
hợp tác cùng chống ảnh hưởng của Liên Xô nên việc bình thường hóa quan hệ với
Mỹ vừa giúp ta từng bước thoát khỏi thế bị bao vây cấm vận của nước này, vừa tạo
ra những tác động tích cực trong tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc. Từ giữa năm 1986, ta chuyển từ chủ trương đối đầu sang đối thoại, đấu tranh
trong cùng tồn tại hòa bình với Hoa Kỳ. Văn kiện Đại hội Đảng VI khẳng định:
“Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ, giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến
tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á”7.
• Với ASEAN
Giai đoạn từ 1975 đến trước 1986, quan hệ giữa Đông Dương và ASEAN nói
chung và giữa Việt Nam và ASEAN nói riêng nhìn chung không mấy thân thiện
thậm chí là dè chừng, thiếu tin tưởng lẫn nhau. Bước sang giai đoạn đổi mới, nhận
thức được tính cấp thiết, tầm quan trọng của việc cải thiện quan hệ với các nước còn
lại trong khu vực Đông Nam Á trong việc thực hiện một trong những mục tiêu
chiến lược của ta là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc cũng như mở rộng
quan hệ quốc tế để phát triển, Việt Nam đã tiến hành những hành động thiết thực
xóa bỏ những hiểu lầm giữa Việt Nam và ASEAN.
Đại hội VI khẳng định “chúng ta mong muốn cùng các nước trong khu vực
thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”8.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm trước tăng cường liên minh
Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN. Ngược lại, chúng ta khẳng định
không đối lập nhóm ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia xã hội chủ nghĩa với nhóm
các nước ASEAN tư bản chủ nghĩa. Hội nghị ba Ngoại trưởng Đông Dương Việt
Nam – Lào – Campuchia trở thành cơ chế nói lên tiếng nói chung của ba nước.
Quan hệ Việt Nam – ASEAN kể từ đây dần bước vào giai đoạn tốt đẹp.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng VI., tr. 108. 8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng VI., tr. 108.
- 10 -
• Với Liên Xô và Đông Âu
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
Từ lâu, Trung Quốc luôn có tham vọng thay thế Liên Xô, trở thành “anh cả”,
lãnh đạo các nước thế giới thứ ba nên luôn có những hành động nhằm tập hợp lực
lượng đối trọng với Liên Xô. Việc Việt Nam có quan hệ chiến lược mật thiết với
Liên Xô và các nước Đông Âu, coi quan hệ với Liên Xô là “hòn đá tảng” trong
chính sách đối ngoại của ta đã trở thành rào cản lớn khiến Trung Quốc chần chừ
không muốn tái thiết quan hệ hữu nghị hai nước. Nhận thức được thực tế bất lợi
này, đồng thời xuất phát từ lợi ích quốc gia Việt Nam trong giai đoạn mới, chúng ta
đã tiến hành điều chỉnh và đổi mới quan hệ với Liên Xô và Đông Âu. Sự hợp tác
giữa ta và Liên Xô cũng như Đông Âu giảm về nhiều mặt đặc biệt là về mặt quân
sự. Điều này một lần nữa làm giảm quan ngại từ phía Trung Quốc.
2. Rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Lào và Campuchia
Trong giai đoạn này, Trung Quốc mong muốn mở rộng ảnh hưởng của mình
ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đặt nhiều quan tâm đến hai nước còn lại trên
bán đảo Đông Dương là Lào và Campuchia. Chính vì vậy, Đảng và Chính phủ
Trung Quốc luôn dùng việc quân tình nguyện Việt Nam vẫn còn hiện diện trên đất
Lào và đặc biệt là Campuchia để gây sức ép cho ta trong đàm phán bình thường hóa
quan hệ bất chấp việc Việt Nam đã nhiều lần giải thích với thế giới rằng Việt Nam
sẽ rút hết quân khỏi Campuchia khi sự đe dọa của Trung Quốc đối với lãnh thổ Việt
Nam, việc sử dụng lãnh thổ Thái Lan để chống Cộng hòa Nhân dân Campuchia
chấm dứt và bọn diệt chủng Pôl Pốt bị loại trừ. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ
Thạch cũng đã chủ động đề nghị Việt Nam và Trung Quốc đàm phán bí mật trên cơ
sở đề nghị của hai bên, thảo luận và giải quyết thật sự các vấn đề thực chất trong
quan hệ hai nước song Trung Quốc chỉ trả lời: Việt Nam hãy cam kết rút hết quân
không điều kiện và có hành động thực tế.
Nắm bắt tình hình một cách nhanh nhạy, chúng ta nhanh chóng đưa ra chủ
chương rút quân khỏi Campuchia, vừa giảm sức ép về mặt quân sự (ràng buộc trách
nhiệm bên ngoài) để tập trung phát triển kinh tế, vừa xóa bỏ cái cớ mà Trung Quốc
luôn đem ra để từ chối bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Nghị quyết Đại hội
- 11 -
VI nêu rõ: “Chính phủ ta chủ chương tiếp tục rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
Campuchia, đồng thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để đi tới giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia”9.
Tháng 7/1982 chúng ta đã rút một số quân tình nguyện khỏi Campuchia. Tại
Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương họp ở Viêng – chăn (Lào) ngày 23/02/1983,
Việt Nam tuyên bố hàng năm sẽ rút một số quan tình nguyện khỏi Campuchia.
Ngày 12/8/1985, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Đông Dương nêu lập
trường 5 điểm làm khung cho một giải pháp chính trị toàn bộ về hòa bình, ổn định ở
Đông Nam Á và vấn đề Campuchia, Việt Nam sẽ tiếp tục rút quân tình nguyện dần
hàng năm và sẽ rút hết vào đầu năm 1990 hoặc có thể sớm hơn.
Ngày 06/01/1989, chúng ta tuyên bố rút hết quân tình nguyện tại Campuchia
vào tháng 9/1989 nếu có giải pháp chính trị hợp lý cho vấn đề Campuchia.
Ngày 05/4/1989, Việt Nam tiến thêm một bước, ra tuyên bố sẽ rút hết quân
khỏi Campuchia vào tháng 9/1989 dù có hay không có giải pháp.
Trên thực tế, Việt Nam đã rút hết quân tình nguyện khỏi Campuchia ngày
26/9/1989 trước thời hạn đưa ra.
Trước đó, quân tình nguyện của Việt Nam tại Lào đã được rút hết từ trong
năm 1988.
Việc chúng ta nhanh chóng rút quan khỏi Lào và đặc biệt là Campuchia
mang ý nghĩa quan trọng, nó làm thay đổi tính chất của vấn đề Campuchia, tước vũ
khí quan trọng nhất mà Trung Quốc sử dụng để làm chậm quá trình bình thường
hóa, tạo môi trường thuận lợi để mở rộng quan hệ hai nước và với thế giới.
III. Tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Những nỗ lực từ phía Việt Nam đã nhận được sự hưởng ứng của Trung
Quốc. Hai bên bắt đầu tiến hành từng bước bình thường hóa quan hệ.
Tháng 01/1990, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng tuyên bố tại
Singapore: Trung Quốc hy vọng cuối cùng sẽ bình thường hóa quan hệ với Việt
Nam và thảo luận các vấn đề như vấn đề Nam Sa (tức Trường Sa). Ngày 13/8/1990,
- 12 -
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười công khai hoan nghênh tuyên bố trên của 9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng VI., tr. 108.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
Thủ tướng Lý Bằng và khẳng định Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc và giải quyết các vấn đề giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình.
Trong hai ngày 03 và 04/9/1990, lãnh đạo cấp cao hai nước đã gặp nhau
không chính thức tại Thành Đô (Tứ Xuyên, Trung Quốc) trao đổi ý kiến về các vấn
đề hai bên cùng quan tâm. Cuộc gặp này thực chất đã là bình thường hóa quan hệ
hai nước và khôi phục tình hữu nghị truyền thống lâu đời giữa nhân dân hai nước.
Sau cuộc gặp cấp cao không chính thức Thành Đô, ta đã cử một số đoàn cấp
cao sang Trung Quốc nhằm tăng cường hiểu biết, cải thiện bầu không khí chuẩn bị
cho bình thường hóa quan hệ. Tháng 3/1991, Thủ tướng Lý Bằng tuyên bố “quan hệ
Việt – Trung đã tan băng” và ngày 05/8/1991, hai bên tiến hành đàm phán ở cấp
Thứ trưởng Ngoại giao về bình thường hóa quan hệ hai nước và mặt quốc tế của
vấn đề Campuchia.
Thượng tuần tháng 9/1991, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm thăm
chính thức Trung Quốc chuẩn bị cho cuộc gặp chính thức đầu tiên giữa lãnh đạo cấp
cao hai nước.
Từ ngày 01 đến 04/12/1991, Tổng bí thư Đảng Đỗ Mười và Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt sang thăm chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Trung Hoa. Hai bên đã ra thông cáo chung và ký kết một số Hiệp định.
Thông cáo chung khẳng định quan hệ hai nước đã được bình thường hóa và
sẽ phát triển trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hòa bình. Quan hệ giữa hai Đảng
cũng được phục hồi trên các nguyên tắc độc lập, tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
IV. Những thành tựu đạt được sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ
Kể từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hữu nghị và
hợp tác Việt – Trung phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực,
đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
• Quan hệ chính trị
Kể từ sau chuyến thăm chính thức Trung Quốc có tính lịch sử của đoàn đại
- 13 -
biểu cấp cao nước ta do Tổng bí thư Đảng Đỗ Mười dẫn đầu cuối năm 1991, hàng
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
năm hai bên đều trao đổi trên 100 đoàn ở cấp lãnh đạo các bộ, ngành và địa phương,
đoàn thể quần chúng, góp phần tăng cường hiểu biết và mở rộng hợp tác giữa hai
nước. Hai bên đã ký kết nhiều Hiệp định (tính đến năm 2007, hai nước đã ký 54 hiệp định và 59 văn kiện hợp tác khác10) đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu
dài giữa hai nước.
Việt Nam công nhận Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa là Chính phủ
hợp pháp duy nhất, đại diện cho toàn Trung Quốc. Đài Loan là bộ phận không tách
rời của Trung Quốc. Việt Nam chỉ phát triển quan hệ phi chính phủ với Đài Loan.
Thái độ đúng đắn từ phía ta được phía bạn nhiệt liệt hoan nghênh. Có thể nói đây là
một chiến lược ngoại giao khôn khéo của ta trong quan hệ với Trung Hoa.
• Quan hệ kinh tế
Quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc là một phần quan trọng trong chính
sách của cả hai quốc gia. Ngay sau khi quan hệ hai nước trở lại bình thường, quan
hệ kinh tế thương mại hai chiều đã có những bước đột phá đáng kể. Để thúc đẩy
quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư song phương tương xứng với quan hệ chính
trị, hai bên thành lập Ủy ban Hợp tác kinh tế – thương mại Việt – Trung năm 1994.
Hiện nay, Trung Quốc trở thành bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam. Kim
ngạch buôn bán giữa hai nước tăng nhanh qua các năm. Trung Quốc cũng trở thành
nhà đầu tư lớn tại Việt Nam.
• Những vấn đề do lịch sử để lại
Những vấn đề do lịch sử để lại chủ yếu liên quan tới biên giới lãnh thổ trên
đất liền và trên biển Đông. Đây là những vấn đề quan trọng không chỉ liên quan tới
quan hệ Việt Nam – Trung Hoa mà còn liên quan tới quan hệ với các đối tác khác
như Philipine, Maylaisia, Brunei, Đài Loan. Bên cạnh đó là những vấn đề mới nảy
sinh.
Trước tình hình tương đối phức tạp và nhạy cảm, chính sách từ phía Việt
Nam là rất rõ ràng. Trong Văn kiện Đại hội Đảng VII (1991), Đảng ta chủ trương:
10 http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns060822083813/
- 14 -
“Giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước bằng con đường thương lượng…”.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
Sau khi bình thường hoá quan hệ, năm 1993, hai bên đã ký Thoả thuận về
các nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ và các cuộc đàm
phán về 3 vấn đề biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên biển
(Biển Đông) chính thức bắt đầu.
Từ đó, các vấn đề truyền thống cũng như mới nảy sinh đều được hai quốc gia
tích cực giải quyết trên nguyên tắc ngoại giao, thương lượng, đàm phán, tránh xung
đột trực tiếp và đạt được không ít thành tựu đáng ghi nhận.
• Các lĩnh vực khác
Trong những năm qua, quan hệ trao đổi, hợp tác giữa ta với Trung Quốc
trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá - thể thao được đẩy mạnh. Hai bên trao
đổi các đoàn biểu diễn nghệ thuật, tổ chức nhiều cuộc giao lưu văn hoá, thể thao
- 15 -
góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước nước.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
PHẦN KẾT LUẬN
Đi sâu nghiên cứu những nỗ lực từ phía Việt Nam nhằm gây dựng lại mối
quan hệ chiến lược với Trung Quốc, chúng ta thấy được tư duy tiến bộ, đường lối
chỉ đạo đúng đắn mà Đảng và Nhà nước ta xác định kể từ năm 1986. Nếu không có
những biến chuyển trong tư duy cũng như hành động mà cụ thể là việc Việt Nam
chủ động thay đổi chính sách đối ngoại với Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Trung
Hoa từ hướng đối đầu sang đối thoại và nhanh chóng rút quân tình nguyện Việt
Nam khỏi lãnh thổ hai nước Đông Dương anh em là Lào và Campuchia nhưng vẫn
kiên trì hợp tác cùng tìm kiếm giải pháp chính trị phù hợp nhất cho vấn đề của cả
hai nước, chắc chắn không thể có cuộc gặp gỡ cấp cao giữa ta và Trung Quốc để
bình thường hóa quan hệ sau một giai đoạn căng thẳng kéo dài.
Việc bình thường hóa thành công quan hệ với một trong những cường quốc
của thế giới như Trung Quốc mở đường cho Việt Nam vững bước hơn trên con
đường tạo lập thêm nhiều mối quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế. Công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà cũng có thêm nhiều thuận lợi xuất
phát từ môi trường quốc tế ổn định ở cả trong khu vực và trên thế giới cũng như từ
sự giúp đỡ của Trung Quốc và nhiều nước bạn mà Việt Nam có mối quan hệ sau
này. Có thể nói, đây là thành công bước đầu rất đáng khích lệ của ngoại giao Việt
Nam thời kỳ đổi mới.
Quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước ngày một đơm
hoa kết trái, hòa vào xu thế chung của thế giới. Trách nhiệm duy trì và phát huy tình
hữu nghị hai nước đặt lên vai những người làm công tác đối ngoại. Chúng ta phải
kiên trì cho được nguyên tắc giải quyết mọi bất đồng bằng con đường ngoại giao để
quan hệ song phương không rơi trở lại vào thời kỳ căng thẳng. Song song với phát
triển quan hệ chúng ta luôn cần giữ vững độc lập tự chủ, tránh phụ thuộc trong mối
quan hệ nhạy cảm với nước lớn như Trung Quốc.
Tiềm năng phát triển của mối quan hệ Việt - Trung là rất lớn, với sự cố gắng
chung của cả hai bên, mối quan hệ đó sẽ không ngừng được củng cố và phát triển
tốt đẹp hơn trong thế kỷ XXI, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai
- 16 -
nước, vì hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Trần Minh Ngân _ A33 _ Chính sách Đối ngoại Việt Nam
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ths. Vũ Đòan Kết, Chính sách đối ngoại Việt Nam tài liệu tham khảo và
phục vụ giảng dạy, Tập II 1975-2006, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội,
2007.
2. Ts. Vũ Dương Huân, Chính sách Đối ngoại Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
đổi mới (1945-2000), NXB Chính Trị Quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
NXB Sự thật, Hà Nội, 1987
4. Lưu Văn Lợi – 50 năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, tập 2: Ngoại giao
Việt Nam 1975 – 1995, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1998.
5. Nguyễn Đình Bin (chủ biên) – Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
6. Th.s Bùi Thanh Sơn, Năm mươi năm quan hệ Việt – Trung, Học viện Quan
hệ quốc tế, Hà Nội, 2000.
7. PGS., Ts. Nguyễn Xuân Sơn, Quan hệ Việt – Trung qua những giai đoạn
lịch sử, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2000.
8. Đoàn Ngọc Cảnh, Tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt – Trung chủ
trương nhất quán của Đảng ta, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2000.
9. Đào Ngọc Vinh, Tình hình hợp tác kinh tế thương mại Việt – Trung 1991 –
1999 và triển vọng, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2000.
10. Ts. Nguyễn Quang Thư, Quan hệ hữu nghị và hợp tác Hà nội – Bắc Kinh,
- 17 -
Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2000.